Chap 13

Sớm cập nhập chứ sợ để lâu không ai đọc a ~^O^~

Virtue

Author: LCypherED

Translator: WishUponAStar

Beta: Moon Kookie

Dipper hướng tới căn nhà gỗ nhỏ nằm sát cạnh nhà thờ, vừa đi vừa cẩn thận tránh những vũng nước mưa trên đường. Mặc cho ngoài trời giông bão, căn nhà gỗ, dù có hơi cũ kĩ, trông thật yên bình và thanh tịnh. Trên dãy hàng rào mắt cáo là những giàn hồng xinh đẹp, được che chắn khỏi sự khắc nghiệt của thời tiết bởi mấy cây liễu cao um tùm lá. Trên mái nhà, những giọt nước mưa cứ liên tục nhỏ xuống dãy hoa văn gỗ trang trí mái. Dipper đứng dưới hiên nhà – được trang trí tinh xảo với những bức tượng thiên thần nhỏ – và vẫy dù.

Vẫy xong, cậu mở cặp ra rồi nhét cây dù vào bên trong. Thấy mình bị ép phải ở chung với cây dù ướt, Bill trông khó chịu ra mặt, ngước lên lườm cậu một cái. Có vẻ như dù có thể nói chuyện, bằng chứng là hồi sáng nay, thì hắn ta chỉ thích làm điều đó khi ở trong Tâm trí thôi. Dipper không một chút thương cảm kéo cặp lại, mặc kệ Bill.

Cậu do dự đưa tay bấm chuông cửa. Từ trong nhà, giai điệu Westminster(1) vang lên. Nối tiếp theo nó là tiếng bước chân. Rồi với một tiếng clink nhỏ vang lên, có lẽ tiếng chốt cửa được mở, cánh cửa hé ra.

Nhưng Seraph, người mở cửa, vừa mới nhìn thấy cái mặt Dipper là ngay lập tức liền sập mạnh cửa lại.

Cậu đứng đó chớp chớp mắt, trong đầu vẫn chưa kịp hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Phải mất một lúc cậu mới nhận ra rằng chị ta vừa mới sập cửa vào mặt cậu.

Hơi bực mình, Dipper nhấn chuông cửa một lần nữa. Giai điệu Westminster lại vang lên, nhưng không có ai trả lời. Cậu nhấn chuông thêm một lần nữa. Rồi lại thêm một lần nữa. Tới lần thứ tư thì Seraph mới chịu mở (giựt thì đúng hơn) cửa ra. Với vóc dáng cao cộng với bộ váy và chiếc áo choàng đen dài, trông chị ta cứ như là một cây cột vậy(2). Một cây cột trông vô cùng bực bội.

“Cậu muốn gì.” Chị ấy cộc cằn hỏi, khoanh tay lại.

Wow, Dipper quên mất chị ta là người khó tính như thế nào. “Thật ra thì em không có tới đây để tìm chị. Em muốn gặp bà Virtue cơ.”

“Bà ấy không có nhà.” Seraph nói thẳng băng.

Sự im lặng bao trùm hai người. Đôi mắt đen của Seraph cứ nhìn xuống cậu chằm chằm, cứ như chị ta đang muốn dọa cho cậu sợ để mà bỏ về ấy. Nhưng cái bản tính cứng đầu mà Dipper đã học được ở Gravity Falls trỗi dậy, và cậu quyết định rằng mình sẽ không chịu thua.

Nhờ cái sự dũng cảm bất chợt đó mà cậu có thể mở miệng ra nói. “Thế?” Cậu hỏi. “Chị không tính cho em vào chờ à?”

Seraph nhìn cậu, trông mắt chị ta ánh lên một cảm xúc pha lẫn giữa một chút thích thú với căm ghét. Rồi chị ấy liếc nhìn cánh cửa, Dipper cá là trong đầu chỉ đang suy nghĩ là có nên đóng sập cửa vào mặt cậu thêm lần nữa không. “Dù gì thì tôi cũng đã lỡ mở cửa rồi.” Cuối cùng chị ta nói rồi đứng qua một bên để cậu đi vào.

“Cởi giày ra.” Seraph bảo, trước khi cậu kịp bước một bước vào hành lang. “Không thì cậu sẽ day bùn khắp sàn mất.”

“Wow, cảm ơn chị nha, gặp chị em cũng vui lắm.” Dipper vừa lẩm bẩm vừa tháo giày ra.

“Quên ong đi, có vẻ như Stoneface đây có nguyên một tổ vò vẽ trên vành nón ấy(3)! Giời, ngươi sẽ nghĩ là sau cái chuyện xảy ra với đám thần lùn ăn thịt kia thì mối quan hệ giữa hai ngươi sẽ tốt đẹp lên được MỘT CHÚT.” Giọng của Bill vang vọng lên trong đầu cậu, và ngay lúc đó Dipper cảm thấy khá mừng là có ai đó đứng về phía của mình, cho dù cái tên đó là một con quỷ hình tam giác.

***

Căn phòng Seraph dẫn Dipper vào trông rất sáng sủa và ấm cúng. Cậu tò mò quay đầu nhìn xung quanh. Tường được trang trí với giấy dán có họa tiết hoa đào duyên dáng màu hồng nhạt. Trong phòng còn có một chiếc lò sưởi nhỏ, ngọn lửa trong nó cháy bập bùng làm ấm không gian. Nhìn những chiếc ghế được bày xung quanh một tấm thảm lông, cậu đoán đây là phòng khách. Ở cuối phòng còn có một tủ sách được làm bằng gỗ, đáng chú ý nhất là những cuốn sách ở trên kệ, có thể thấy chúng được đọc đi đọc lại rất nhiều lần. Dipper ngửi được trong không khí có mùi gì đó ngọt ngọt, nó làm cậu nhớ tới những lần thử nghiệm làm bánh của Mabel. Thường thì kết quả là ăn được.

Seraph hất đầu về phía cái ghế sofa bọc da nằm ở giữa phòng. Hiểu ý, Dipper liền để cặp xuống sàn rồi ngồi lên ghế. Chiếc ghế êm ái tới nỗi ngồi lên nó cậu có cảm giác cứ như đang chìm vào một vòng tay ấm áp vậy.

Trong khi đó, Seraph lại ngồi xuống một cái ghế gỗ nhìn chẳng thoải mái miếng nào. Với khung cảnh ấm cúng xung quanh, trông chị ta cứ như cái bia mộ ở giữa rừng hoa vậy. Chỉ đưa tay lấy một cuốn sách trên kệ ra, bắt chéo chân, rồi bắt đầu đọc, hoàn toàn không đếm xỉa gì tới Dipper.

Và cứ thế, sự im lặng bao trùm cả hai, làm cậu bồn chồn đứng ngồi không yên. Giờ ngẫm lại mới nhớ, Seraph hình chưa có nói cho cậu biết chừng nào bà Virtue mới trở về? Lỡ như bà đến tối mới về thì sao? Cậu ngờ vực nhìn Seraph. Chị ta nhìn cũng giống cái kiểu người sẽ giở cái trò đó ra lắm.

“…Thêêêế, chị đang đọc sách gì vậy?” Cuối cùng cậu mở miệng hỏi.

Seraph không nói gì liếc nhìn cậu một cái, chỉ tay vào bìa sách. Là Oresteia(4). Được rồi.

Bầu không khí xung quanh hai người lại một lần nữa chìm vào im lặng. Tiếng động duy nhất thỉnh thoảng lại vang lên là tiếng xe chạy ở xa xa trên mặt đường ướt mưa.

“Ê! Pine Tree! Ngươi thử lấy một cuốn sách trên kệ xuống, xé trang sách ra rồi nhét vào mồm đi! Ta cá là TRÒ ĐÓ thể nào cũng sẽ làm Stoneface chịu để ý tới ngươi cho xem!”

Không, cậu sẽ không dại gì đi làm trò đó đâu. Cậu còn nhớ là Seraph đấm đau tới mức nào.

“Hoặc là ngươi thử lấy cái que cời lửa tự đâm vào ngực mình xem! Con nhỏ đó chắc sẽ không đánh ngươi nếu ngươi tự đánh mình trước!”

Chị ta dám là sẽ đánh cậu vì tội chảy máu làm bẩn thảm lắm. Nên không, cậu không làm đâu. Dipper nghĩ mình đã bị dần đủ rồi.

“Hay ngươi cũng có thể-“

Cậu mừng như điên lên khi đột nhiên nghe thấy tiếng cửa chính được mở khóa. Seraph ngẩng đầu lên, làm dấu cuốn Oresteia rồi cất nó lên kệ. Dipper nghe thấy tiếng ‘xột xoạt’ của bao ni-lông – có vẻ như bà Virtue ra ngoài để mua đồ.

“Seraph, cháu yêu, vị khách nào tới thăm chúng ta thế?” Một giọng the thé nhưng lại không hề chói tay vang lên ở hành lang. “Ta thấy có đôi giày lạ ở ngoài nhà. Cháu đã mời trà người ta chưa?” Một người đàn bà lớn tuổi – phỏng chừng là Virtue- với dáng người thấp bé bước vào phòng. Mái tóc bà bạc phơ, mắt bà sáng, xanh ngắt và trên môi bà là một nụ cười dí dỏm. Dipper chớp mắt. Cậu thấy cứ như thể là có ai đó đã lấy bản thể của một ngàn người bà dung hợp lại để tạo ra cái con người phúc hậu trước mặt cậu vậy.

Đôi mắt bà sáng lên khi nhìn thấy cậu. “Ồ, nhìn cháu trông dễ thương quá. Cháu tên gì vậy, cháu yêu?”

“Ồ, cháu tên là… ờm… Dipper Pines. Rất vui được gặp bà ạ.” Dipper giơ tay ra. Nhưng thay vì bắt tay, bà Virtue lại nựng má cậu.

“Lại còn lễ phép nữa chứ! Ta tên là Virtue Hill, nhưng cháu cứ gọi ta là Virtue. Không cần phải gọi ta bằng ba cái thứ vớ vẩn như ‘bà Hill’ gì đó đâu, cũng khỏi cần thêm ‘dạ thưa’ làm gì.” Bà Virtue buông má cậu ra. Dipper ráng kiềm lại không đưa tay xoa xoa má. Bà trông lớn tuổi mà vẫn còn mạnh phết. “Chắc cháu là bạn của Seraph phải không? Cuối cùng thì nó cũng chịu có bạn rồi.”

“Bà Virtue.” Giọng Seraph bực dọc. Chị ta đặt một khay trà xuống bàn, muốn chỉnh sửa lại sơ sót không mời trà Dipper hồi nãy. “Cậu ấy tới đây là để nói chuyện với bà.”

Mắt bà Virtue mở to ra, mặt mừng rỡ. “Nói chuyện với ta? Là chuyện gì cơ?”

“Ờm. Một người bạn của cháu nói bà biết rất nhiều truyền thuyết và thần thoại.” Dipper gãi đầu. “Nên cháu muốn hỏi bà về chúng để. Ờ. Để cho bài tập ở trường. Nếu bà không phiền?” Cậu gật đầu cảm ơn Seraph khi chị ta đặt một tách trà trước mặt cậu.

“Ôi, cứ hỏi thoải mái đi cháu!” Bà ấy nhấp một ngụm trà. “Lâu rồi ta không có dịp để nói về mấy chuyện này.”

“Vậy thì hay quá.” Dipper nhìn xuống hình ảnh phản chiếu của mình trong tách trà. Nước trà có màu hồng nhạt, vậy chắc đây chính là loại trà mà Seraph đã mời cậu uống sau cái đêm với đám Mũ Đỏ. “Cháu muốn hỏi là bà có biết sinh vật huyền bí nào liên quan tới… rắn không?”

“Rắn à?” Bà Virtue tò mò nhìn cậu. “À, ta cũng có biết kha khá. Thường thì sở trường của ta là truyền thuyết của Judeo-Christian (5), nhưng ta cũng có nhớ được vài con. Liên quan tới rắn thì có Ouroboros, Quetzalcoatl – ồ, có Medusa (6) nữa… và đương nhiên là còn có con rắn của vườn Địa Đàng (7).Tuy nhiên ta không hoàn toàn chắc nó được tính là thần thoại.”

Dipper chợt cảm thấy có một cảm giác thỏa mãn phát ra từ liên kết tâm trí của cậu với một tên ác quỷ nọ. Cậu quyết định không suy nghĩ quá nhiều về ý nghĩa của việc đó.

” Jormungand, Ophion, Nagas (8)…” Bà Virtue vừa kể vừa đếm ngón tay. “Có nhiều lắm. Cháu muốn tìm thêm thông tin về chúng cũng không khó khăn gì đâu. Thanh niên các cháu ngày nay rành mạng Internet lắm mà, phải không? Suốt ngày cứ thấy mấy đứa dán mắt vào màn hình máy tính. Ta cũng thích máy tính lắm, cơ mà ta vẫn thích cái lối sống lạc hậu của mình hơn nên không nỡ bỏ luôn việc đọc sách.” Bà tự ti chỉ tay vào giá sách.

Ờ, muốn tìm hiểu hết về những sinh vật đó dù có máy tính thì cũng chẳng biết chừng nào mới xong. Dipper vừa uống một ngụm trà vừa cân nhắc lựa chọn trong đầu mình. “Bà có biết trong những sinh vật đó có sinh vật nào liên quan tới, ờ, mưa? Hay biển không?” Cậu nói thêm, nhớ lại cái cảnh đã lóe lên trong đầu mình khi bị Thorne tấn công.

Bà hmm một tiếng. “À, ta biết chứ. Có khá nhiều thần thoại về rắn biển. Hồi nãy ta có nhắc tới Jormungand phải không? Ta tin nó là nhân vật trong thần thoại Bắc Âu – hay là Đức? Ta không nhớ rõ lắm. Ta có nhớ là trong truyền thuyết kể rằng nó quấn mình khắp thế gian và tạo ra biển cả thuở sơ khai. Ồ, nhắc tới truyền thuyết về kiến tạo, hình như ở Úc có huyền thoại về một con rắn cầu vồng (9) nặn ra hình dáng của Trái Đất và giữ không cho những hố nước bị cạn.”

Nghe cũng gần đúng với thứ mà Dipper đang tìm, nhưng cậu vẫn còn thấy có cái gì đó thiếu thiếu. “Cherie có nói với cháu là bà biết nhiều về truyền thuyết địa phương. Có sinh vật nào trong đó giống như con cháu hỏi không?”

“Cháu là bạn của Cherie à?” Bà Virtue vỗ tay. “Con bé dạo này thế nào? Lâu rồi ta không được trò chuyện với nó!”

“Bà vừa mới nói chuyện với em ấy mấy tuần trước.” Seraph cắt ngang, nét chán chường hiện lên khuôn mặt chị. “Gia đình em ấy tới thăm sau vụ bức tượng biết khóc.”

“Ồ, nhưng cái đó đâu được tính là một buổi trò chuyện đàng hoàng! Tới trà chúng ta còn không có mời nữa!”

“Cherie vẫn khỏe.” Dipper ngượng nghịu mở miệng. Ờ thì, trên cơ bản cậu đâu có nói dối. Hồi sáng này cậu có kiểm tra tin nhắn, và Cherie có nhắn nói là cô ổn, kèm theo đó là dòng ‘zờ không biết đâu là thực đâu là zả làm ơn nói cho mình là đêm qua chỉ là mơ đi’. Dipper đã nhắn lại. ‘Hông phải mơ, xin lỗi nha.’ “Dù sao thì, cậu ấy có nói với cháu là bà là người cháu nên tìm nếu muốn biết được những câu chuyện về Chapelwick và… ờ… mấy cái tương tự vậy.”

“Ồ, đó là do hồi trước ta có đảm đương chức thủ thư của Thư viện Chapelwick được khá nhiều năm.” Bà Virtue vừa nói vừa vén tóc ra sau tai, miệng cười hãnh diện. “Nhưng về câu hỏi của cháu, đáng tiếc là ta không nghĩ ra được sinh vật giống với con mà cháu miêu tả. Quanh đây không có truyền thuyết nào về rắn cả. Cơ mà trước giờ Cơ Đốc Giáo có sức ảnh hưởng rất lớn ở Chapelwick, nên cháu có thể thử tìm hiểu theo hướng đó. Hm” Bà vuốt cằm, vẻ mặt trầm tư.

“Seraph,” cuối cùng bà lên tiếng, “cháu lấy dùm ta cuốn Kinh Thánh được không? Bản của vua James ấy.”

Seraph vâng lời, lấy từ trên giá sách cao nhất một quyển sách bọc da dày cộm. Bà Virtue lấy một cặp kính từ trong ngăn tủ ra đeo rồi nhanh chóng lật quyển kinh, vừa lật vừa lẩm nhẩm mấy câu như “có phải ở phần Truyền Đạo không?” với “không, phần mình đang nghĩ tới là Châm Ngôn.”

“Để cháu tự làm cũng được-” Dipper ngập ngừng nói, nhưng bà ấy nhanh chóng đưa tay lên cắt ngang lời cậu.

“Cứ ngồi đó đi cháu yêu. Ta lúc nào cũng muốn kiểm tra lại mớ kiến thức thần học của mình. Nãy giờ ta đọc tới đâu rồi nhỉ? À, đây rồi. Cuốn sách về Job. Leviathan.”

“Leviathan?” Bill giật mình hỏi.

“Leviathan?” Dipper hỏi, liếc nhìn xuống trang sách mà bà Virtue chỉ. Nó viết về việc đánh bại một con quái vật – à khoan, con quái đó không thể bị đánh bại được. Nghe hứa hẹn ghê.

“Nó bắt nguồn từ những truyền thuyết cổ xưa về loài rắn biển. Và đương nhiên, giống như bao truyền thuyết khác, chuyện kể về Leviathan có rất, rất nhiều dị bản.” Bà Virtue gỡ cặp kính ra và gấp chúng lại. “Một số chuyện thì miêu tả Leviathan có hình dạng nửa rắn, nửa sư tử. Một số khác thì lại nói rằng nó và Miệng Địa Ngục – một cái miệng khổng lồ chuyên nuốt những kẻ tội đồ xuống Địa Ngục – là một. Tuy nhiên, ngày nay, Cơ Đốc nhân thường coi Leviathan là con quỷ của lòng đố kị.”

“Con… quỷ của lòng đố kị?” Dipper lặp lại. Chẳng phải Thorne đã…?

Cậu nhăn mặt khi đột nhiên nghe thấy tiếng Bill la hét ở trong đầu. “ĐỐ KỊ?! Cái thằng CHẾT DẪM đó! MẸ NÓ KHÔNG, đố kị vốn là của ta! Vậy ra ta mà vắng mặt thì tụi bây sẽ hành xử như vậy đó hả? Còn mấy đứa kia nữa, cái lũ SÂU BỌ NHÃI NHÉP NGU NGỐC tụi nó đã làm gì với những CỤC CƯNG QUÍ BÁU khác của ta rồi?!”

“Ừ, đúng rồi cháu. Hắn ta được coi là một trong bảy hoàng tử của địa ngục…”

“TA SẼ MOI RUỘT CÁI THẰNG KHỐN ĐÓ RA ĐEM CHIÊN LÊN, SAU ĐÓ LẤY NHAU THAI DƠI ĐỂ ĐỘN XÁC NÓ RỒI ÉP CÁI LŨ NHÃI NHÉP KIA PHẢI ĂN CHÚNG để cho tụi nó không quên rằng ai MỚI LÀ người nắm quyền!” Wow, nghe có vẻ như Bill rất là tức giận trước chuyện này. “MẸ NÓ, bảy tội lỗi là của TA! Cái thằng vảy cá đó thì biết cái gì,CÓ ĐEM ĐỐ KỊ NHÉT LÊN ĐÍT NÓ THÌ NÓ CŨNG CHẲNG BIẾT CÁI MẶT ĐỐ KỊ RA LÀM SAO ĐÂU!”

“…Nhưng đương nhiên là mỗi học giả lại có những ý kiến khác nhau về việc phân loại này. Cháu có sao không? Trong mặt mày cháu nhìn xay xẩm quá.”

“Ồ!” Dipper ngồi thẳng lưng lên một chút. Trong đầu cậu, Bill vẫn đang tiếp tục tuôn một tràng đe dọa vô cùng phong phú có liên quan đến những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể và lửa địa ngục. “Cháu không có sao. Chỉ hơi nhức đầu một chút thôi.”

Bà Virtue nhìn cậu đầy lo lắng. “Ôi, có lẽ là tại ta nói nhiều quá. Cái bà già này đúng là không biết lúc để dừng, nhỉ?” Bà cười, giật mình khi một tiếng ‘ding’ bỗng phát ra từ phòng bên. “Có vẻ như bánh đã nướng xong rồi! Sao chúng ta không tạm dừng buổi học này để ăn chút gì đó nhỉ?”

“Dạ không cần đâu.” Dipper cố từ chối. “Hồi nãy cháu có ăn rồ-”

“Vớ vẩn, tuổi cháu phải ăn nhiều mới mau lớn.” Bà vừa nói vừa đứng lên. “Ta đi lấy bánh đây, sẽ nhanh thôi!”

Rồi bà khập khiểng đi ra khỏi phòng. Ngay khi bà đã ngoài tầm tai, Seraph liền liếc Dipper một cái sắc lẹm.

“Câu hỏi của cậu. Nó có liên quan tới vụ cá chết hàng loạt ở hồ Terrace đúng không?”

Dipper nhíu mày. “Thật ra thì em cũng không chắc nữa, em vẫn còn đang điều tra. Chẳng biết vụ cá chết có liên quan tới ngay tận thế hay -”

“Nó có liên quan đến ngày tận thế.”

” Eurghhh. Biết lắm mà.” Cậu vùi mặt vào tay. “Sao em không có được cái bí ẩn nào bình thường hết vậy? Thế cái vụ này có liên quan gì tới ngày tận thế?”

“Tương truyền rằng sẽ có năm đại dịch xảy ra trước ngày tận thế. Bức tượng biết khóc chỉ là dấu hiệu đầu tiên.”

Dipper chờ chị ta giải thích thêm. Nhưng chị ấy chỉ im lặng. “Vậy… chị có biết mấy đại dịch là gì không?”

“Không.”

“Vui ghê.” Dipper xoa xoa trán. “Cơ bản là chị đoán rằng mấy con cá chết chính là, ờ, một trong những đại dịch. Nhưng mà có khi tụi nó chết đơn giản là tại cơn mưa thôi. Có thể cơn mưa khiến hồ bị mất cân bằng hóa học hay gì đó. Chỉ là một phần của tự nhiên thôi.”

“Nhìn nó,” Seraph chỉ tay về hướng cửa sổ, về cơn mưa nặng hạt đã rơi không ngớt suốt hai tuần qua, “có giống tự nhiên không.”

Ngay lúc đó, bà Virtue bước vào phòng, trên tay mang một dĩa bánh to. “Bánh việt quất!” Bà vui vẻ thông báo.

Dipper nhanh chóng được bà chia cho một phần bánh lớn. Cậu do dự dùng nỉa khều khều nó. Làm vài trái việt quất rơi ra.

“Ngươi có biết cái này làm ta nhớ tới gì không, Pine Tree?” Bill vui vẻ nói, có vẻ hắn ta đã bình tĩnh lại sau trận nổi xung hồi nãy. “TỚI MẮT CÁ ẤY! Ngươi thấy đó, có một đợt ta-“

“À! Bà Virtue này! Sao bà quen Cherie vậy?” Dipper hỏi, cố gắng hết sức lờ đi cái màn độc thoại gớm ghiếc của Bill.

Bà Virtue há miệng ra nhưng lập tức ngậm lại, nhai nuốt thật kĩ hết chỗ bánh trong miệng rồi mới trả lời. “Xin lỗi vì đã bắt cháu chờ, cháu yêu. Răng bà giờ yếu lắm, không còn như ngày xưa nữa. Mà cháu đang hỏi về Cherie phải không? Hồi con bé còn nhỏ xíu thì nó là thành viên trong hội thanh niên(10) của bà. Thiệt tình, tụi nó lớn lên mau thật.”

“Hội thanh niên?” Dipper hỏi, dừng việc xắn đống việt quất lại (đừng có nghĩ về mắt cá, đừng có nghĩ về mắt cá) “Ý bà là cái hội mà Archie và Angela từng tham gia?”

Nghe cậu nhắc đến Angela thì Seraph hơi cứng người, mắt chị ta nheo lại. Bà Virtue trông không có vẻ gì là bận tâm trước chuyện đó,bà nhai thêm mấy miếng bánh rồi mới trả lời. “Cháu cũng biết tụi nó à? Thật là trùng hợp!” Thật ra là cậu biết hết nguyên một nhóm. “Chà, nó gợi cho ta nhiều kí ức quá! Nhớ hồi đó tụi nó đáng yêu biết chừng nào trong bộ đồng phục hợp ca, mỗi chủ nhật đều xếp hàng cho buỗi lễ như mấy con vịt con.”

Nếu mà cái bộ đồng phục hợp ca đó có điểm nào giống với cái áo mà Seraph đã cho cậu mượn thì Dipper dám cá là mặc chúng chẳng có thoải mái gì đâu. Cậu có thể dễ dàng mường tượng ra cảnh Archie trong cái bộ đồng phục hợp ca lườm thườm mà mình hay gặp. “Vậy bà có phải là nhóm trưởng của nhóm họ không?”

“Ừ, phải.” Bà gật đầu. “Và Seraph đây, đứa lớn tuổi nhất nhóm, chính là nhóm phó. Cơ mà con bé không có được giỏi cho lắm. Nó với Angela tối ngày cứ trốn đi đâu đó. Thiệt tình, ta cũng chẳng biết tụi nó giở trò gì sau lưng ta nữa!”

Dipper bật một tiếng cười nhỏ. Seraph ngay lập tức ánh mắt như dao quay sang lườm cậu, tay dùng nỉa cắm mạnh vào miếng bánh của chỉ, giống như đang ám chỉ rằng cái bánh này có thể là cậu. Thấy vậy, Dipper liền cúi xuống hướng sự chú ý về cái bánh trước mặt, xắn ra ăn mấy miếng. Mà công nhận là bánh rất ngon. Vỏ bánh mỏng và giòn, nhân bánh thì lại nhiều và mềm. Cảm giác như nó muốn tan ra trong miệng cậu vậy.

“Ngon không cháu?” Bà Virtue hỏi. Dipper chỉ có thể gật đầu. “Vậy thì tốt quá. Đây, cháu ăn thêm một miếng nữa đi!”

Ăn được một lúc thì cậu chợt nhớ ra một điều. “…Khoan. Cháu tưởng Hiệu trưởng Principelle mới là nhóm trưởng mà.”

Bà Virtue chớp mắt. “À, đúng rồi, cháu là học sinh của con bé. Chuyện là hồi trước ta có nhờ nó giúp trong việc quản lí cái nhóm đó – cần phải có hơn một đôi mắt để quản cái đám nhóc suốt ngày cứ nhân lúc ta sơ ý là trèo lên cái tháp chuông!”

Dipper tự hỏi không biết ai là người bày ra cái trò đó. Không biết vì sao, nhưng hình ảnh về Dominique cứ hiện lên trong tâm trí cậu.

Bà Virtue dành quãng thời gian còn lại hồi tưởng về những kỉ niệm ngày xưa với hội thanh niên, kể cho cậu nghe những chuyện mà họ đã gặp phải. Ví dụ như cái lần trong buổi lễ Phục sinh nọ, Archie, lúc đó năm tuổi, phát hiện ra có ai đó đã ăn cắp hết số trứng sô cô la của cậu ta (“Khóc sướt mướt hết nguyên một buổi lễ, chỉ nín khi nó bị Seraph véo tai kéo ra ngoài và đưa chỗ sô cô la của con bé cho nó.”). Hay cái đợt mà Cherie và Angela trang trí nhà thờ cho bữa Giáng sinh (“Hai đứa nó đã dán dây kim tuyến lên trần nhà. Cái trần nhà đó, như hồi nãy ta đã nói, cao hai mươi mét.”). Hoặc cái lúc mà Cherie gặp ác mộng cả tuần sau khi cô ấy đọc sách Khải Huyền (“Tội nghiệp con bé, nó là người nhạy cảm. Ta đã bảo với cha mẹ nó là cuốn sách đó không phù hợp để một đứa trẻ tám tuổi đọc cho lắm.”)

Khi Dipper đã ăn hết chỗ bánh của mình, bà Virtue liền bưng từ trong bếp ra một khay bánh tart. Cậu ra sức từ chối nhưng bà ấy mặc kệ, cuối cùng cậu đành bỏ cuộc, đau lòng ngồi nhìn cái chỗ bánh tart mứt vừa mới được xếp lên dĩa của mình. Giờ thì cậu đã biết Seraph học được cái tính hiếu khách thô bạo từ ai rồi.

“Ta chẳng bao giờ thích tart hết.” Bill nói. “Tụi nó trên cơ bản là bánh pie mà không có mặt. Thành ra cái đám nhân mứt BẦY NHẦY bên trong cứ thế mà phô hết ra ngoài , nhìn cứ như VẾT THƯƠNG BỊ LO- ta rút lại lời nói hồi nãy. Tụi nó xem ra cũng không tệ lắm!”

Dipper và bà Virtue chuyển sang nói chuyện về bức tượng biết khóc. Bà than thở về số tiền phải bỏ ra để dọn dẹp cũng như sự chú ý của giới truyền thông. “Mà chúng cũng chẳng phải dạng nhà báo chân chính gì. Toàn là một lũ báo lá cải, tối ngày chõ mũi vào chuyện của người khác. Một số kẻ còn cứng đầu đến nỗi ta phải nhờ tới Seraph mới tống chúng đi được. Rồi tụi nó còn có gan dọa sẽ kiện ta nữa chứ!”

“Bác của cháu có kinh nghiệm đối phó với mấy vụ kiện tụng, có khi bác ấy sẽ giúp được bà.” Dipper vừa nói vừa cố ăn hết chỗ bánh tart còn lại.

***

Dipper ngồi phịch xuống ghế xe buýt, ngửa đầu ra thở dài, việc ăn hết chỗ bánh hồi nãy khiến cậu buồn ngủ muốn chết.Trên tay cậu ôm một hộp Tupperware chứa vô số loại bánh ngọt. Thật tình mà nói, Dipper sẽ vui hơn nhiều nếu cậu không phải nhìn thấy một miếng đồ ngọt nào nữa trong đời, nhưng bà Virtue bắt cậu nhận nó cho bằng được, ánh mắt bà lúc đó đầy kiên quyết, khiến cho cậu càng chắc chắn rằng bà ấy đóng một vai trò không nhỏ trong việc khiến cho Seraph trở thành con người như bây giờ.

Còn Thorne nữa. Buổi trò chuyện hồi nãy đã cho cậu một số manh mối để điều tra, một trong số đó là Leviathan. Ác quỷ của lòng đố kị. Chẳng phải gần đây Thorne cứ hay ghen ghét cậu một cách kì cục sao? Và cậu ta còn đang bị thế lực siêu nhiên nào đó ám nữa. Liệu có thể Leviathan chính là kẻ đã ám cậu ấy không?

“Ta sẽ móc hết mắt của hắn ra rồi xâu chúng lại.” Bill vui vẻ nói. “Ê nhóc, ngươi có thích dây chuyền không?”

…Đó là giả định chính Leviathan là kẻ đã ám Thorne. Và cũng như việc hai người bọn họ có thể đánh bại được hắn. Chẳng phải trong Kinh thánh có một câu nào đó nói rằng hắn ta là bất bại sao?

“Psssht. Ác quỷ kiểu tên đó RẤT KHOÁI tự tâng bốc bản thân mình lên, nhưng thường thì chúng chỉ chém gió thôi!” Ờ, theo kinh nghiệm của cậu thì cái đó cũng đúng. “Ta có thể nghe thấy ngươi đang nghĩ gì đấy! Trở lại chủ đề chính, ai nói là chúng ta cần ĐÁNH BẠI hắn?”

Câu nói đó thu hút sự chú ý của Dipper. Nếu không phải là đánh bại Leviathan thì bọn họ làm gì với hắn ta? Chọc hắn? Chờ cho hắn chán rồi tự bỏ đi? Ờ thì, mấy cái cách đó thật ra nghe cũng không điên lắm. Tại cơ bản đó chính là những cách mà Dipper hàng ngày dùng để đối phó với Bill.

“Yeesh, có vẻ như gan AI ĐÓ bắt đầu to ra rồi nhỉ! Nhớ là đừng cho nó to quá! Bệnh gan to thấy chữa cũng mệt lắm đấy! Về chuyện kia thì yên tâm đi, nếu con lươn trơn nhớt kia đúng là Leviathan thì chuyện này sẽ dễ giải quyết hơn RẤT NHIỀU! Ta có cách để đối phó với HẮN!” Nghe cái giọng vui tươi của Bill là có thể đoán được cái cách của hắn ta không phải dạng tốt lành gì.

Cơ mà nhỡ đó không phải là Leviathan thì sao? Bọn họ sẽ phải làm gì? Bởi vì theo cái cách mà bà Virtue nói, có vẻ như sinh vật huyền bí liên quan tới rắn có hơi bị nhiều.

Bill thở dài một hơi rõ to. “Ngươi thiệt tình là không biết đám thế lực siêu nhiên tụi ta hoạt động như thế nào phải không? Cho dù bọn ta có hùng mạnh đến đâu đi nữa, hầu hết sức mạnh của các sinh vật huyền bí đều bị giới hạn bởi lượng niềm tin mà chúng có được ở con người. Hồi trước ta có nói là bọn ta tồn tại trong khe nức tạo ra từ nhận thức hạn hẹp của con người với thế giới xung quanh chúng, nhớ không? Nếu rời khỏi lãnh địa của mình, bọn ta sẽ bị kẹt vào mấy cái khe nức không thích hợp, khiến cho sức mạnh của bọn ta bị giới hạn lại! Đương nhiên, mặt ta thì CHỖ-mẹ-nào-CŨNG-CÓ, một phần lý do khiến ta trở nên tuyệt vời như thế này!”

Được rồi, Dipper hiểu rồi. Nhưng mà cái này liên quan gì tới Leviathan? “Geez, ta sắp nói tới phần đó! Đừng có mà xoắn cả lên như nút thắt Gordian(11) thế! Đa số đứa mà bà lão kia nói ấy hả?TOÀN dân nước ngoài. Ta đố Quetzalcoatl mò tới ĐÂY được đấy! Tóm lại: con rắn mà chúng ta cần tìm phải mạnh và có liên quan tới văn hóa của nơi này, Leviathan có cả hai điều đó!”

Ờ, nhưng mà có chắc chắn là hắn không? Dipper không muốn có bất cứ sai lầm nào. “Ngươi lo lắng nhiều quá đấy, nhóc, coi chừng bị rối loạn lo âu! Ờ, đúng là cũng có khả năng con rắn của chúng ta là một truyền thuyết nào đó của người Mĩ bản địa mà bà lão kia không biết đến, hoặc là nó là dân nước ngoài nhưng kiếm được một lượng niềm tin đủ mạnh để tự triệu hồi bản thân tới đây, ta không biết! Nhưng NGƯƠI đừng có căng thẳng như vậy nữa! Lo nhiều không tốt cho da đâu!”

Rồi, rồi. Dipper dựa mình vào ghế, ngước mắt nhìn cảnh mưa rơi tầm tã bên ngoài cửa sổ. Bọn họ đang ở gần siêu thị Chapelwich, còn một trạm dừng nữa là tới nhà cậu.

Dipper giật mình khi bỗng có một cánh tay đen nhỏ thò ra ngoài cặp cậu, vươn dài ra để nhấn vào nút ‘DỪNG’. Bill đang làm trò gì thế? Khoan, có ai nhìn thấy hắn ta không? Cậu lo lắng liếc nhìn xung quanh. May thay, có vẻ như không có ai – khoan, không, có một ông già ốm yếu vừa mới gỡ cặp kính của mình ra và nheo mắt nhìn về phía cậu, miệng còn lẩm bẩm cái gì đó. Dipper cẩn thận không nhìn về phía ông ta và bước ra khỏi xe buýt.

Chết tiệt, Bill.

-Hết chương 12-

Chú thích:

(1) Giai điệu Westminster: 

(2) bản gốc là ‘a pillar’, mình nghĩ là tại Seraph đã cao còn bận nguyên bộ đồ đen nên trông chỉ cao bất thường như cây cột.

(3) nghĩa gốc là “bee in the bonnet”. Đây là một câu thành ngữ của nước ngoài, ý chỉ ai đó cứ lo lắng hay suy nghĩ nhiều về một chuyện gì đó.

(4) Oresteia: Là một bộ ba bản bi kịch cổ của Hy lạp được viết bởi Aeschylus vào thế kỉ thứ 5 trước CN. Nó nói về cái chết của Agamemnon dưới tay vợ mình là Clytemnestra, rồi về Orestes, con của Agamemnon với Clytemnestra, theo lời thần Apollo trả thù cho cha nên ra tay giết mẹ, phần cuối cùng là về thần Apollo và thần Athena giúp Orestes xóa tội giết mẹ, tránh khỏi cơn giận của của Erinyes (những nữ điểu nhân chuyên trừng phạt những người phạm tội nặng).

(5) Theo google thì từ này có nghĩa là những thứ thuộc về cả đạo Do Thái và đạo Cơ Đốc.

(6) Ouroboros: Là biểu tượng cổ hình một con rắn tự ăn đuôi của chính mình theo hình vòng tròn hoặc hình số tám nằm ngang. Nó là biểu tượng của sự vô cực và hoàn chỉnh, sự khởi đầu và kết thúc.

Quetzalcoatl: Là một vị thần rắn của Bắc Mỹ cổ đại. Là vị thần tượng trưng cho gió, không khí và học hỏi.

Medusa: Là một quái vật trong thần thoại Hy Lạp. Lúc đầu là một thiếu nữ xinh đẹp nhưng bị thần Athena nguyền thành một con quái vật có mái tóc là rắn độc và một đôi mắt hóa đá bất cứ ai nhìn vào.

(7) The serpent of Eden: là con rắn đã lừa Adam và Eva ăn trái cấm để bị đuổi khỏi vườn Địa Đàng trong Kinh Thánh.

(8) Jormungand : Quái vật của thần thoại Bắc Âu. Còn được gọi là Mãng xà Trần Gian (Midgard Serpent), là một trong ba người con của Loki. Là một con khổng lồ tới nỗi khi cuốn một vòng quanh thế giới thì nó vẫn ngậm được đuôi mình.

Ophion: Tiếng Hy lạp có nghĩa là rắn. Trong một số dị bản của thần thoại Hy Lạp, Ophion, hay còn gọi là Ophioneus, cai trị thế giới với vợ mình là nữ thần Eurynome (còn gọi là Oceanid hay “người con gái của Biển”). Nhưng sau này cả hai bị Cronus và Rhea truất ngôi.

Nagas: Là một sinh vật bắt nguồn từ Ấn Độ giáo. Thường được miêu tả có hình dáng nửa người nửa rắn.

(9) Rắn cầu vồng (Rainbow Serpent): còn được gọi là Wagyl hoặc Wuagyl,… là một đấng tạo hóa thường được nhắc đến trong nghệ thuật và tôn giáo của người bản địa Úc.

(10) Youth group.

(11) Nút thắt Gordian: một truyền thuyết liên quan tới Alexander đại đế. Nó là một nút thắt vô cùng phức tạp và khó gỡ, nhưng ai mà gỡ được nó sau này sẽ trở thành vua của Châu Á. Alexander đã gỡ nó bằng cách lấy kiếm chặt.


Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top