bieu tuong that truyen26-35

- Giáo sư Langdon ư? - Sato gọi - ông nhìn thấy ma đấy à? Ông không sao chứ?

Langdon xốc chiếc túi xách lên vai và đặt bàn tay của mình lên nó, tưởng như hành động này ít nhiều giúp anh giấu kỹ hơn cái gói hình khối hộp bên trong. Anh cảm nhận được mặt mình xám ngoét.

- Tôi… chỉ thấy lo cho Peter.

Sato nghếch mặt, liếc xéo anh.

Langdon đột nhiên cảnh giác, sự can thiệp của Sato tối nay rất có thể liên quan đến cái gói nhỏ mà Solomon tin tưởng giao cho anh.

Peter đã cảnh báo: Những kẻ rất có thế lực đang nhăm nhe đánh cắp nó. Thứ bùa này sẽ rất nguy hiểm nếu rơi vào tay kẻ ác. Langdon không lý giải nổi tại sao CIA lại cần một chiếc hộp nhỏ chứa bùa phép… hoặc cái gì tương tự bùa phép. Ordo ab chao chăng?

Sato bước lại gần hơn, đôi mắt đen đầy soi mói.

- Tôi cảm thấy ông đã phát hiện ra gì đó thì phải?

Langdon toát mồ hôi.

- Không, không hẳn.

- Ông đang toan tính gì vậy?

- Tôi chỉ… - Langdon ngập ngừng, chẳng biết nên nói thế nào.

Anh không có ý định tiết lộ về sự tồn tại của cái gói nằm trong túi mình, nhưng nếu Sato dẫn anh tới CIA thì chắc chắn cái túi sẽ bị khám xét - Thực ra… - anh bịa chuyện - tôi có một ý tưởng khác về những con số trên bàn tay Peter.

Sato không biểu lộ gì.

- Sao nào? - Bà ta liếc Anderson, lúc đó vừa quay lại sau khi đón nhóm pháp y mới tới.

Langdon nuốt khan và cúi rạp xuống bên bàn tay, băn khoăn không biết nên nói gì với họ bây giờ. Mày là một giáo viên cơ mà? Robert, ứng biến đi. Anh quan sát kỹ lần cuối bảy biểu tượng nhỏ xíu, hy vọng gợi ra được chút liên tưởng nào đó.

Chẳng ích gì. Trống rỗng.

Langdon dùng khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh duyệt lại các bộ bách khoa thư về biểu tượng trong óc mình, nhưng chỉ tìm được một điểm khả dĩ bấu víu. Nó xuất hiện với anh ngay từ đầu, nhưng xem chừng không thuyết phục lắm. Tuy nhiên, lúc này không còn nhiều thời gian cân nhắc nữa.

- Chà, - anh bắt đầu nói - dấu hiệu đầu tiên khiến một nhà ký tượng học biết rằng mình đang đi sai hướng khi giải đoán các biểu tượng và mật mã là diễn giải các biểu tượng bằng cách sứ dụng nhiều ngôn ngữ tượng hình. Chẳng hạn, khi tôi nói với quý vị câu này là của La Ma và A rập thì đó là một phân tích kém bởi vì tôi sử dụng nhiều hệ thống biểu tượng. Với chữ La Mã và chữ rung cũng y như vậy.

Sato khoanh tay và nhướng mày như muốn nói “Tiếp đi xem nào!”

- Nhìn chung, giao tiếp được thực hiện bằng một ngôn ngữ, không phải nhiều ngôn ngữ, vì thế trước bất kỳ văn bản nào, công việc đầu tiên của nhà ký tượng học là phải tìm một và chỉ một hệ thống biểu tượng nhất quán áp dụng cho toàn bộ văn bản đó.

- Giờ ông đã thấy một hệ thống duy nhất?

- Chà, vâng… à không - Kinh nghiệm về sự đăng đối của các biểu tượng hai chiều đối xứng đã dạy cho Langdon biết rằng đôi khi các biểu tượng có ý nghĩa nếu nhìn từ nhiều góc độ. Trong trường hợp này, anh nhận ra trên thực tế có một cách để quan sát cả bảy biểu tượng bằng một ngôn ngữ duy nhất - Nếu chúng ta thay đổi bàn tay một chút, ngôn ngữ sẽ trở nên nhất quán.

Lạ thay, thao tác Langdon sắp thực hiện dường như giống hệt với điều mà kẻ bắt giữ Peter gợi ý lúc gã nói ra câu ngạn ngữ Hermetic cổ xưa. Thương hạ tương liên.

Langdon rùng cả mình khi nhoài người lên, vớ lấy cái đế gỗ cắm bàn tay Peter. Nhẹ nhàng. anh xoay ngược cái đế để cho các ngón tay duỗi trỏ thẳng xuống phía dưới. Những biểu tượng trong lòng bàn tay lập tức thay đổi:

- Nhìn từ góc độ này, - Langdon nói - X-I-I-I trở thành một số La Mã có giá trị: số 13. Đồng thời, có thể diễn giải các ký tự còn lại bằng cách sử dụng bảng chữ cái La Mã: SBB - Langdon cho rằng phân tích của mình sẽ chỉ dẫn tới những cái nhún vai hời hợt, nhưng nét mặt Anderson lập tức thay đổi.

- SBB à? - viên Chỉ huy kêu lên.

Sato quay phắt về phía Anderson.

- Nếu tôi không nhầm thì nó khá giống một hệ thống đánh số quen thuộc trong Điện Capitol này.

Anderson tái mặt.

- Đúng thế.

Sato nở một nụ cười thâm hiểm và gật đầu với Anderson.

- Chỉ huy, theo tôi nào. Tôi muốn nói vài lời riêng với anh.

Khi Giám đốc Sato dẫn Chỉ huy Anderson ra khỏi tầm nghe, Langdon còn lại một mình ngơ ngác. Chuyện quái gì đang diễn ra đây vậy?

***

Chỉ huy Anderson băn khoăn không hiểu tại sao tình hình tối hôm nay lại diễn biến kỳ lạ đến thế. Bàn tay nói tới SBB13 ư? Anh ta rất ngạc nhiên vì có kẻ ngoại đạo lại nghe nói tới SBB… thậm chí rành rẽ là SBB13. Ngón tay trỏ của Peter Solomon không muốn bảo họ lên trên như lúc đầu… mà chỉ theo một hướng hoàn toàn ngược lại.

Giám đốc Sato dẫn Anderson tới một khu vực yên tĩnh gần bức tượng đồng của Thomas Jefferson.

- Chỉ huy, - bà ta hỏi - tôi tin anh biết chính xác SBB13 nằm ở chỗ nào phải không?

- Dĩ nhiên rồi.

- Anh có biết bên trong là gì không?

- Không, không thể biết nếu không xem. Tôi nghĩ nó dừng hoạt động mấy thập kỷ nay rồi.

- Chà, anh sẽ mở nó nhé!

Anderson rất khó chịu vì bị sai khiến ngay trong toà nhà do mình quản lý.

- Thưa bà, như thế rất dễ có vấn đề. Tôi sẽ phải kiểm tra bảng phân công nhiệm vụ trước đã. Bà biết đấy, hầu hết các tầng phía dưới đều là văn phòng riêng hoặc nhà kho, và quy trình an ninh rất coi trọng sự riêng tư…

- Anh sẽ mở SBB13 cho tôi, - Sato nói - hoặc tôi sẽ gọi OS và cử một đội mang theo máy phá tường tới đấy.

Anderson trợn mắt nhìn Sato một lúc lâu rồi rút bộ đàm ra, đưa lên miệng.

Anderson đây. Tôi cần ai đó mở SBB. Trong vòng năm phút nữa, cho người tới gặp tôi tại đó nhé.

Giọng trả lời nghe có vẻ lúng túng.

- Chỉ huy, xin xác nhận là anh vừa nói SBB phải không?

- Đúng. SBB. Cử ai đó tới ngay lập tức, và tôi cần đèn pin - Anderson tắt bộ đàm. Tim anh ta đập rộn lên khi Sato bước lại gần, hạ giọng thấp hơn nữa.

- Chỉ huy, thời gian rất gấp - bà ta thì thào - và tôi muốn anh đưa chúng tôi xuống SBB13 càng nhanh càng tốt.

- Vâng, thưa bà.

- Tôi cũng cần anh giúp một việc khác nữa.

Mở cửa và xông vào vẫn còn chưa đủ ư? Anderson đang ở tình thế không phản đối được, nhưng vẫn không quên chú ý rằng Sato đến nơi chỉ vài phút sau khi bàn tay của Peter xuất hiện trong Nhà tròn, và giờ đây bà ta đang tận dụng tình huống này để đòi xâm nhập khu vực riêng của Điện Capitol. Dường như tối nay bà ta đã đi quá giới hạn cho phép.

Sato ra hiệu về phía vị Giáo sư.

- Cái túi da trên vai Langdon.

Anderson liếc mắt nhìn.

- Sao cơ?

- Tôi cho rằng người của anh đã soi cái túi đó khi Langdon vào toà nhà này?

- Dĩ nhiên. Tất cả các túi đều được soi kỹ.

- Tôi muốn xem bản soi đó. Tôi muốn biết trong túi có cái gì.

Anderson nhìn chiếc túi mà Langdon đeo khư khư suốt buổi tối.

- Nhưng… hỏi thẳng ông ta thì không đơn giản hơn à?

- Yêu cầu của tôi có gì không rõ chăng?

Anderson lại rút bộ đàm ra và thông báo đề nghị của Sato. Sato cho biết địa chỉ Blackberry và yêu cầu người của anh ta gửi cho mình một bản X quang số hoá qua email ngay khi họ tìm được nó.

Anderson miễn cưỡng nghe theo.

Lúc này nhóm pháp y đang định thu lấy bàn tay để chuyển cho Cảnh sát Điện Capitol, nhưng Sato ra lệnh cho họ gửi thẳng tới đơn vị của bà ta ở Langley. Anderson quá mệt mỏi nên chẳng buồn phản đối. Anh ta đã bị cỗ xe lu Nhật Bản nhỏ xíu ấy nghiến dẹp lép rồi.

- Tôi muốn cả cái nhẫn đó nữa - Sato gọi với theo nhóm pháp y.

Kỹ thuật viên trưởng toan tranh cãi, nhưng nghĩ lại chẳng nên. Anh ta tháo cái nhẫn vàng khỏi tay Peter, đặt nó vào một túi lấy mẫu sạch sẽ và đưa cho Sato. Bà ta đút tọt nó vào túi áo khoác rồi quay về phía Langdon.

- Chúng ta đi chứ, Giáo sư. Mang theo đồ đạc của ông.

- Chúng ta đi đâu? Langdon hỏi lại.

- Cứ theo ông Anderson thôi.

Ờ, Anderson nghĩ, và theo sát tôi đấy! SBB là khu vực rất ít người ghé thăm trong Điện Capitol. Để tới đó, họ sẽ phải qua một mê cung toàn những căn buồng bé xíu và những lối đi hẹp nằm ngay bên dưới tầng hầm. Cậu con trai út của Abraham Lincoln bị lạc dưới đó và suýt bỏ mạng. Anderson bắt đầu ngờ rằng nếu Sato có ý đồ gì thì chắc Robert Langdon sẽ chịu số phận tương tựChuyên gia an ninh hệ thống Mark Zoubianis luôn tự hào rằng mình có khả năng làm nhiều công việc: Lúc này, anh ta đang ngồi trên ghế phô-tơi với một chiếc điều khiển TV, một điện thoại không dây, một máy tính xách tay, một máy PDA, và một bát Pirate’s Booty(50) to tướng. Một mắt thì để ý trận đấu của đội Redskins đã tạm tắt tiếng còn một mắt để vào chiếc máy tính, Zoubianis đang nói chuyện qua tai nghe Bluetooth với một phụ nữ đã bặt tin tức hơn một năm nay.

- Thế quái nào mà Trish Dunne lại gọi tới vào đúng buổi tối có trận đấu quyết định thế này chứ? Lại một lần nữa thể hiện sự vô lý của mình, người đồng nghiệp cũ đã chọn đúng trận đấu của đội Redskins làm thời điểm để chuyện phiếm với Zoubianis và nhờ giúp một việc. Sau một hồi chuyện trò qua loa về những ngày trước kia và nói rằng cô nhớ những lời bông đùa tuyệt vời của anh ta, Trish đi thẳng vào vấn đề chính: cô đang tìm cách xác định một địa chỉ IP ẩn, có lẽ đó là một máy chủ bảo mật thuộc khu vực Washington D.C. Máy chủ này có một văn bản nhỏ và cô muốn truy cập vào nó… hoặc ít ra thì cũng khai thác thông tin xem tài liệu thuộc về ai.

Đúng người nhưng không đúng lúc, Zoubianis bảo cô. Thế là Trish tuôn ra tràng giang đại hải những lời tán tụng, hầu hết đều là sự thật, và Zoubianis chẳng biết mình gõ một địa chỉ IP rất lạ vào máy tính tự lúc nào.

Zoubianis nhìn con số và nhận ra ngay rằng công việc không dễ dàng gì.

- Trish. IP này có định dạng hiện đại lắm. Nó được viết theo một giao thức thậm chí còn chưa trình ra công chúng. Có lẽ nó thuộc giới quân sự hoặc tình báo chính phủ.

- Quân sự à? - Trish cười - Tin em đi, em vừa lôi một tài liệu soạn lại từ máy chủ này mà, và nó không phải của quân đội.

Zoubianis kéo cửa sổ gốc của mình lên và thử truy dấu.

- Em bảo rằng truy dấu của em bị tắc à?

- Vâng. Hai lần. Cùng một bước truyền.

- Của anh cũng thế - Anh ta kéo một trình dò tìm chẩn đoán và chạy thử - Thế IP này có gì hay ho vậy?

- Em chạy một trình uỷ thác sử dụng cơ chế tìm kiếm ở IP này và thu được một tài liệu đã lọc. Em cần xem nội dung còn lại của lài liệu.

- Em sẵn sàng trả tiền, nhưng em không tài nào xác định được ai là người sở hữu IP hay làm cách nào truy cập được nó.

Zoubianis cau mày nhìn màn hình.

- Em có chắc không đấy? Anh đang chạy một trình chẩn đoán, và mã tường lửa trông… rất thâm nghiêm.

- Thế anh mới được trả nhiều tiền.

Zoubianis ngẫm nghĩ. Họ trả cho anh ta cả đống tiền để làm một việc dễ dàng.

- Hỏi một câu thôi, Trish. Tại sao em quan tâm đến vụ này thế?

Trish do dự.

- Em làm giúp một người bạn.

- Chắc phải là bạn rất đặc biệt.

- Vâng.

Zoubianis cười khan nhưng không nói gì. Tôi biết tỏng mà.

- Thế nào, - Trish lên tiếng, vẻ nôn nóng - Anh đủ khả năng xác định IP này chứ? Phải không?

- Có, anh đủ khả năng, và ờ, anh biết em đang định quay anh như quay dế đây.

- Anh sẽ mất bao lâu?

- Không lâu đâu! - Zoubianis đáp, tay vẫn gõ bàn phím - Anh có thể thâm nhập vào máy trên hệ thống của họ trong vòng mười phút. Khi nào vào được và tìm thấy gì, anh sẽ gọi lại cho em.

- Em rất cảm ơn. Thế anh vẫn ổn chứ?

Giờ cô nàng mới thèm hỏi?

- Trish, Chúa ơi, em gọi cho anh đúng buổi tối có một trận đấu quan trọng và giờ em muốn chuyện phiếm à? Thế em muốn anh thâm nhập IP này hay không đây?

- Cảm ơn anh, Mark. Em sẽ đợi anh gọi lại.

- Mười lăm phút nữa - Zoubianis gác máy, vớ lấy bát Pirate’s Booty và bật tiếng trận đấu bóng lên.

Ôi phụ nữ!

Chú thích:

(50) Pirate’s Booty là đồ ăn nhanh do công ty Robert’s American Gourmet Food sản xuất. Loại đồ ăn này chủ yếu làm từ nguyên liệu tự nhiên và pho mát thật - ND.

chuong 28

Bn họ đưa mình đi đâu không biết

Vội vã theo Anderson và Sato đi sâu vào lòng Điện Capitol, Langdon cảm thấy nhịp tim mình tăng lên theo mỗi bước chân. Họ bắt đầu hành trình qua cổng tây Nhà tròn, men xuống một cầu thang bằng đá cẩm thạch và sau đó quay ngược lại qua một ô cửa rộng để vào căn buồng nổi tiếng ngay bên dưới nền Nhà tròn.

Nhà hầm điện Capitol.

Không khí ở đây khá ngột ngạt, Langdon bắt đầu cảm thấy nỗi sợ bị mắc kẹt. Trần nhà rất thấp. ánh sáng yếu ớt toả xuống làm nổi bật bốn mươi cây cột Doric đồ sộ đỡ phần nền bằng đá rất rộng ngay phía trên đầu. Thư giãn nào Robert.

- Lối này, - Anderson lên tiếng, rảo chân ngoặt sang trái, băng qua khoảng không gian hình tròn rất rộng.

Rất may, tầng hầm đặc biệt này không có cái xác nào cả. Thay vào đó nó chỉ có vài bức tượng, một mô hình Điện Capitol, và một khu lưu trữ thấp tè cất cái bục linh cữu bằng gỗ để đặt quan tài trong các buổi tang lễ cấp nhà nước. Bọn họ hấp tấp đi qua, thậm chí không đưa mắt liếc cái la bàn cẩm thạch bốn điểm ở chính giữa nền nhà, nơi Ngọn lửa Vĩnh cửu từng cháy sáng.

Anderson dường như rất vội vã. Sato lại một lần nữa chúi đầu vào chiếc Blackberry. Langdon nghe nói dịch vụ điện thoại di động được phát triển và phổ biến khắp mọi góc của Điện Capitol để phục vụ hàng trăm cuộc gọi của chính phủ diễn ra ở đây hằng ngày.

Sau khi băng chéo qua tầng hầm, cả nhóm bước vào một phòng nghỉ sáng lờ mờ và bắt đầu đi ngoắt ngoéo qua một loạt hành lang và ngõ cụt rối tinh rối mù. Cái mê cung này có nhiều ô cửa đánh số, mỗi cửa đều mang một con số xác định. Langdon đọc các cửa trong khi đi lòng vòng theo hai người kia.

S154… S153… S152…

Anh không biết những gì đang nằm sau các cánh cửa kia, nhưng chí ít đã có một việc trở nên sáng tỏ, đó là ý nghĩa của hình xăm trên lòng bàn tay Peter Solomon. SBB13 có vẻ như là một ô cửa được đánh số ở đâu đó dưới tận cùng Điện Capitol.

- Những cánh cửa này để làm gì vậy? - Langdon hỏi, tay ép chặt túi xách vào sườn và băn khoăn tự hỏi cái gói nhỏ của Solomon liệu có tác dụng gì với cánh cửa đánh số SBB13 không.

- Văn phòng và nhà kho, - Anderson nói - Văn phòng riêng và nhà kho - anh ta bổ sung, liếc nhìn Sato.

Giám đốc OS thậm chí không rời mắt khỏi cái Blackberry của mình.

- Trông chúng nhỏ xíu. - Langdon nhận xét.

Hầu hết những căn buồng này chỉ để làm cảnh, nhưng chúng vẫn là nhóm bất động sản được săn lùng nhất ở Thủ đô. Đây là trung tâm của Điện Capitol thời kỳ đầu, Phòng họp Thượng viện cũ ở trên chúng ta hai tầng.

- Thế còn SBB13? - Langdon hỏi - Đó là văn phòng của ai?

- Chẳng của ai. SBB là khu nhà kho riêng, và tôi phải nói trước rằng tôi thắc mắc không biết…

- Chỉ huy Anderson, - Sato ngắt lời mà không hề rời mắt khỏi chiếc Blackberry - Chỉ cần đưa chúng tôi tới đó thôi.

Anderson nghiến chặt răng và im lặng dẫn họ đi qua một khu pha lẫn giữa nhà kho với mê cung. Trên phần lớn các bức tường, những tấm biển chỉ dẫn đều chỉ về cả hai phía trước và sau, rõ ràng là cố gắng định vị các khu văn phòng cụ thể trong mạng lưới hành lang nhằng nhịt này.

S142 tới S152…

ST1 tới ST70…

H1 tới H166 và HT1 tới HT67…

Langdon không chắc có thể tìm được đường ra khỏi đây một mình. Nơi này đúng là một mê cung. Từ tất cả những gì thu thập được, anh nhận ra số hiệu văn phòng bắt đầu bằng chữ S hay H là tuỳ thuộc vào việc chúng nằm ở khu vực Thượng hay Hạ viện.

Những nơi có ghi ST và HT rõ ràng là một cấp mà Anderson gọi là Cấp Bậc thang.

Vẫn chưa thấy biển đề SBB.

Cuối cùng họ cũng tới một cánh cửa bằng thép nặng nề gắn ổ khoá bằng thẻ từ.

TẦNG SB

Langdon cảm thấy họ đang tiến gần đến đích.

Anderson định lấy thẻ của mình nhưng rồi lại ngập ngừng, cảm thấy không thoải mái với yêu cầu của Sato.

- Chỉ huy, - Giám đốc OS giục - Chúng ta không có cả đêm đâu.

Anderson miễn cưỡng nhét thẻ vào. Cánh cửa thép bật mở. Anh ta đẩy hẳn nó ra, cả bọn bước qua và tiến vào một tiền sảnh. Cánh cửa nặng nề đóng lại sau lưng họ.

Langdon không rõ mình hy vọng nhìn thấy gì ở tiền sảnh này, nhưng chắc chắn nó hoàn toàn khác với khung cảnh đang hiện ra trước mắt. Anh nhìn đăm đăm vào chiếc cầu thang dẫn xuống dưới.

- Lại xuống tiếp à? - anh thốt lên, rồi ngừng lại một lúc - Còn tầng nào bên dưới tầng hầm cơ à?

- Phải, - Anderson xác nhận - SB là viết tắt của “Hầm Thượng viện”.

chuong 29

Một tiếng đồng hồ trôi qua, mới lại có ánh đèn pha rọi lên đoạn đường gom nhiều cây cối dẫn vào SMSC. Vì nhiệm vụ, người bảo vệ vặn nhỏ tiếng chiếc ti vi xách tay của mình và giấu suất ăn nhanh xuống phía dưới quầy. Chẳng đúng lúc chút nào. Đội Redskins đang kết thúc pha nỗ lực mở màn của mình, mà anh thì không muốn bỏ lỡ nó.

Khi chiếc xe hơi lại gần hơn, người bảo vệ kiểm tra tên họ ghi trong sổ trực đặt trước mặt.

Bác sĩ Christopher Abaddon.

Katherine Solomon vừa gọi để báo cho bộ phận An ninh biết khách của mình sắp tới. Người bảo vệ không biết vị bác sĩ này là ai, nhưng rõ ràng phải là một bác sĩ rất ngon lành, vì ông ta đến bằng chiếc Limousine dài màu đen. Cỗ xe sang trọng dài ngoằng dừng lại bên cạnh phòng bảo vệ, và người lái xe hạ kính cửa sổ xuống êm ru.

- Chào anh, - gã lái xe lên tiếng, đưa tay lột mũ. Anh ta có vóc dáng vạm vỡ, đầu cạo trọc lốc, cũng đang nghe trận đấu bóng trên đài - Tôi đưa bác sĩ Christopher Abaddon tới gặp bà Katherine Solomon.

Người bảo vệ gật đầu.

- Xin cho xem giấy tờ tuỳ thân.

Gã lái xe tỏ vẻ ngạc nhiên.

- Xin lỗi, bà Solomon chưa gọi trước sao?

Người bảo vệ gật đầu, lén liếc nhìn màn hình ti vi.

- Tôi vẫn phải quét và ghi lại dữ liệu của khách khứa. Rất xin lỗi, quy định mà. Tôi cần xem giấy tờ tuỳ thân của bác sĩ.

- Không sao - Gã lái xe quay về phía sau ghế ngồi của anh ta và nói bằng giọng khẽ khàng qua tấm vách ngăn cách. Trong khi đó, người bảo vệ lại lén theo dõi trận đấu. Đội Redskins giờ đã ổn định được thế trận, nên người bảo vệ chỉ mong làm xong thủ tục cho chiếc Limousine này trước khi bước vào ván mới.

Gã lái xe lại quay lên và chìa ra tấm thẻ mà rõ ràng anh ta vừa nhận lấy qua tấm vách ngăn.

Người bảo vệ cầm thẻ và nhanh chóng quét qua hệ thống của mình. Tấm bằng lái xe đăng ký ở Washington D.C., chủ nhân là Christopher Abaddon sống ở khu Kalorama Heights. Tấm ảnh cho thấy một quý ông tóc vàng điển trai mặc áo cộc tay màu xanh dương, đeo cà vạt, miệng túi cài chiếc khăn mùi xoa bằng sa tanh. Sao lại có người đeo khăn mùi xoa bỏ túi tới Bộ Phương tiện Cơ giới chứ?

Tiếng reo hò nổi lên từ ti vi, người bảo vệ ngoái lại vừa kịp lúc nhìn thấy một cầu thủ áo đỏ nhảy múa ở khu vực cuối sân, ngón tay anh ta chỉ lên trời.

- Mình bỏ lỡ rồi, - người bảo vệ rên rỉ, quay ra phía cửa sổ.

- Được - anh nói, trả thẻ cho gã lái xe - Các vị xong xuôi rồi.

Chiếc Limousine lăn bánh qua, người bảo vệ quay về với cái ti vi của mình, hy vọng sẽ được xem cảnh chiếu lại.

***

Mal’akh lái chiếc Limousine chạy theo lối đi ngoằn ngoèo mà không thể nhịn được cười. Bảo tàng bí mật của Peter thật rất dễ đột nhập. Tuyệt hơn nữa, tối nay là lần thứ hai trong vòng hai mươi tư giờ qua Mal’akh lọt được vào một trong những khu vực kín đáo của Solomon. Đêm qua, gã đã thực hiện một cuộc viếng thăm tương tự tới tư gia ông ta.

Mặc dù có một điền trang rất lớn ở Potomac, nhưng phần lớn thời gian Peter Solomon ngụ tại thành phố, trong căn hộ áp mái của mình ở Dorchester Arms. Toà nhà ông ở, cũng như hầu hết mọi khu nhà dành cho các đại gia, là một pháo đài thực sự. Tường rất cao. Cổng có bảo vệ. Khách khứa ra vào phải đăng ký. Bãi đỗ xe ngầm có bảo đảm an ninh.

Mal’akh đã lái chiếc Limousine này tới phòng bảo vệ của toà nhà, bỏ chiếc mũ khỏi cái đầu trọc lốc, và nói rành rẽ.

- Tôi chở bác sĩ Christopher Abaddon. Ông ấy là khách mời của ngài Peter Solomon - Mal’akh nói năng cứ như thể gã đang tuyên bố mình là Công tước xứ York vậy.

Người bảo vệ kiểm tra sổ ghi chép, rồi xem căn cước của Abaddon.

- Vâng, tôi biết ngài Solomon đang đợi bác sĩ Abaddon - Anh ta ấn nút và cánh cổng mở ra - Ngài Solomon ở căn hộ tầng áp mái. Mời khách của anh dùng thang máy cuối cùng bên phải. Nó chạy thẳng lên tận nơi.

- Cảm ơn anh - Mal’akh đội mũ lên và lái xe qua.

Khi vòng xe vào sâu ga ra, gã dõi tìm các máy quay an ninh. Chẳng có gì. Rõ ràng, những người sống ở đây không phải hạng đột nhập xe hơi người khác, cũng không ưa việc bị theo dõi rình mò.

Mal’akh đậu xe vào một góc tối gần thang máy, hạ vách ngăn giữa khoang lái và khoang khách, rồi trườn ra phía sau chiếc Limousine.

Khi đã yên vị, gã lột chiếc mũ lái xe của mình và đội mớ tóc giả lên.

Chỉnh chang lại áo vét và cà vạt, gã kiểm tra qua gương soi để chắc chắn rằng lớp hoá trang vẫn nguyên vẹn. Gã không được phép mạo hiểm, nhất là tối nay.

Ta đã chờ đợi việc này quá lâu rồi.

Vài giây sau, Mal’akh bước vào thang máy riêng. Thang chạy êm ru lên tận tầng trên cùng. Khi cửa mở ra, gã thấy mình ở trong một phòng chờ rất trang nhã. Vị chủ nhà của gã đã đợi sẵn.

- Bác sĩ Abaddon, xin chào.

Mal’akh nhìn vào đôi mắt xám nổi tiếng của người đàn ông và cảm thấy tim mình đập mạnh.

- Ông Solomon, tôi rất biết ơn vì ông đã dành thời gian gặp tôi.

- Kìa, xin cứ gọi tôi là Peter.

Hai người bắt tay. Khi nắm lấy bàn tay người đàn ông lớn tuổi, Mal’akh nhìn thấy chiếc nhẫn vàng Tam điểm… trên chính bàn tay đã từng cầm súng chĩa vào gã. Một giọng nói thì thầm vọng về từ dĩ vãng xa xăm. Nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông mãi mãi.

- Mời vào, - Solomon nói, dẫn Mal’akh tới một phòng khách lịch sự có những ô cửa sổ rộng nhìn ra quang cảnh tuyệt đẹp của Washington D.C.

- Tôi ngửi thấy mùi trà thì phải? - Mal’akh hỏi khi bước vào.

Solomon có vẻ rất ấn tượng.

- Cha mẹ tôi luôn tiếp khách bằng trà. Tôi cũng tiếp nối truyền thống đó - ông đưa Mal’akh vào phòng khách, bữa tiệc trà đang đợi trước lò sưởi - Kem hay đường nào?

- Đen thôi, xin cảm ơn.

Lại một lần nữa Solomon tỏ ra ấn tượng.

- Rất thanh đạm - ông rót cho cả hai mỗi người một tách trà đen - Anh nói cần thảo luận với tôi một chuyện rất nhạy cảm và chỉ có thể thảo luận riêng mà thôi.

- Cảm ơn. Tôi rất biết ơn ông đã dành thời gian.

- Anh và tôi giờ là huynh đệ trong Hội Tam điểm, người một nhà với nhau rồi. Hãy cho biết tôi giúp gì được anh.

- Trước hết, tôi muốn cảm ơn ông về vinh dự nhận cấp bậc 33 vài tháng trước. Điều này vô cùng có ý nghĩa với tôi.

- Tôi rất vui, nhưng xin nhớ những quyết định đó không phải của riêng tôi. Do Hội đồng Tối cao bầu mà.

- Dĩ nhiên rồi - Mal’akh tin chắc Peter Solomon có thể đã bỏ phiếu phủ quyết, nhưng trong Hội Tam điểm, cũng như ở tất cả những nơi khác, tiền là sức mạnh. Sau khi đạt được cấp độ 32 tại chi hội của mình, Mal’akh chỉ đợi có một tháng rồi quyên góp một khoản tiền trị giá hàng triệu đô la cho quỹ từ thiện đứng tên Đại Tổng Hội Tam điểm. Hành động tự nguyện hết sức hào phóng này, như Mal’akh tiên liệu, đủ mạnh để giúp gã nhanh chóng được mời vào đẳng cấp 33 tinh tuý. Nhưng ta vẫn chưa được biết về các bí mật.

***

Mặc dù lâu nay người ta cứ xì xầm rằng “Tất cả sẽ được tiết lộ ở cấp 33”, nhưng Mal’akh không khai thác nổi điều gì mới mẻ hay hợp với mục đích tìm kiếm của mình. Tuy vậy, gã cũng chẳng mong sẽ được nghe người ta chia sẻ bí mật. Nội bộ Hội Tam điểm càng vào sâu càng thu hẹp… hẹp đến mức dẫu vài năm nữa Mal’akh cũng chưa chắc được đặt chân vào. Nhưng gã chẳng cần. Việc nhập môn chỉ để phục vụ mục đích này. Có gì đó rất hiếm gặp đã xảy ra ngay trong Phòng Thánh lễ, và nó đã đem lại cho Mal’akh quyền năng vượt trên tất cả. Ta khéo còn phải chơi theo quy định của các người nữa.

- Ông có nhận ra rằng chúng ta đã từng gặp nhau nhiều năm về trước không? - Mal’akh nói và nhấp một ngụp trà.

Solomon lộ vẻ ngạc nhiên.

- Thật sao? Tôi không nhớ.

- Cũng đã lâu lắm rồi - Và Christopher Abaddon không phải tên thật của tôi.

- Xin lỗi. Đầu óc tôi đang già đi từng ngày. Xin nhắc lại xem tôi quen anh như thế nào nhỉ?

Mal’akh mỉm cười lần cuối với người đàn ông gã căm ghét hơn bất kỳ ai khác trên cõi đời này.

- Thật tiếc là ông không còn nhớ.

Bằng một động tác thuần thục, Mal’akh rút từ trong túi một thiết bị nhỏ xíu, giơ ra và phóng mạnh nó tới ngực ông già. Một tia chớp xanh lè nhá sáng, khẩu súng gây choáng kêu xèo xèo sắc lạnh, và một cơn đau buốt trùm lên Peter Solomon khi hàng triệu volt điện chạy qua người ông. Mắt mở lớn. Ông già gục xuống ghế, bất động. Bấy giờ Mal’akh đứng dậy, cúi nhìn người đàn ông, vẻ thèm khát như một con sư tử sắp ăn thịt con mồi bị thương của nó.

Solomon há hốc miệng, cố thở.

Mal’akh nhìn thấy nỗi sợ hãi trong mắt nạn nhân của gã và tự hỏi có bao nhiêu người từng được chứng kiến ngài Peter Solomon vĩ đại rúm ró thế này. Mal’akh tận hưởng cảnh tượng vài giây. Gã nhấp một ngụm trà, đợi cho ông già thở trở lại.

Solomon quằn quại, cố nói.

- Tạ… tại sao? - cuối cùng ông cũng bật ra thành tiếng.

- Vậy ông nghĩ sao? - Mal’akh hỏi lại.

Solomon thực sự ngơ ngác.

- Anh muốn… tiền ư?

Tiền à? Mal’akh cười phá lên và nhấp một ngụm trà nữa.

- Tôi đã tặng cho Hội Tam điểm hàng triệu đô la, tôi đâu có cần tiền - Tôi đến để lầy tri thức, và thứ đó làm cho tôi giàu có.

- Vậy thì… anh muốn gì?

- Ông nắm giữ một bí mật. Ông sẽ cho tôi biết điều đó tối nay.

Solomon cố nhấc đầu lên để có thể nhìn vào mắt Mal’akh.

- Tôi không… hiểu.

- Đừng dối trá nữa! - Mal’akh gào lớn, tiến sát lại ông già đã bị tê liệt. - Tôi biết có một thứ đang được cất giấu ở Washington này.

Đôi mắt xám của Solomon tỏ ra thách thức.

- Tôi không hiểu anh đang nói về chuyện gì!

Mal’akh nhấp một ngụm trà nữa và bỏ cái chén vào khay.

- Ông đã nói câu này với tôi mười năm về trước, vào đúng cái đêm mẹ ông chết.

Đôi mắt Solomon mở to.

- Mày…?

- Lẽ ra bà ấy đã không chết. Nếu ông đưa cho tôi thứ mà tôi muốn…

Gương mặt ông già nhăn nhúm vì đau đớn… và không sao tin nổi.

- Tôi đã cảnh cáo ông, - Mal’akh nói - nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông mãi mãi.

- Nhưng mày…

Mal’akh lao bổ tới, một lần nữa dí thật mạnh khẩu súng điện vào ngực Solomon. Lại một tia lửa xanh lè nhá lên, và Solomon hoàn toàn tê liệt.

Mal’akh bỏ khẩu súng điện vào túi và thản nhiên uống nốt chén trà. Uống xong, gã lau miệng bằng chiếc khăn tay vải lanh thêu chữ lồng và cúi nhìn nạn nhân của mình.

- Chúng ta đi nào!

Cơ thể Solomon bất động, nhưng mắt ông vẫn mở to.

Mal’akh cúi xuống và thì thầm vào tai ông già.

- Tôi sẽ đưa ông tới một nơi chỉ có sự thật mà thôi.

Không nói thêm lời nào. Mal’akh nhét chiếc khăn tay vào miệng Solomon. Sau đó, gã xốc ông già bất động lên đôi vai vạm vỡ của mình và tiến ra phía thang máy. Trên đường đi ra, gã nhặt lấy chiếc iPhone cùng chìa khoá của Solomon để trên bàn.

Tối nay, ông sẽ cho tôi biết tất cả những bí mật của ông

Mal’akh nghĩ thầm. Kể cả lý do tại sao ông để mặc tôi chết nhiều năm về trước.

chuong 30

Tầng SB.

Tầng hầm Thượng viện.

Càng đi sâu xuống, Robert Langdon càng thấy tâm lý trĩu nặng nỗi sợ không gian hẹp. Khi họ tiến vào phần nền móng nguyên thuỷ của toà nhà, không khí trớ nên đặc quánh, tựa hồ không có hệ thống thông gió. Các bức tường ở đây được xây lẫn lộn bằng đá và gạch màu vàng.

Giám đốc Sato vẫn bấm phím chiếc Blackberry suốt dọc đường đi Langdon cảm thấy đằng sau điệu bộ thận trọng kia, bà ta đang nghi ngờ điều gì đó, nhưng chính anh cũng thấy ngờ vực về bà ta.

Sato vẫn không nói cho Langdon biết bằng cách nào bà ta hay tin anh có mặt ở đây tối nay. Vấn đề an ninh quốc gia ư? Có thời anh đã phải rất nhọc nhằn mới hiểu được mối quan hệ giữa chủ nghĩa thần bí cổ đại và vấn đề an ninh quốc gia. Lại một lần nữa, anh thấy khó khăn trong việc tìm hiểu những điều liên quan đến tình huống này.

Peter Solomon tin tưởng gửi gắm mình một lá bùa… một thằng điên dối trá đã lừa mình mang nó tới Điện Capitol và muốn mình dùng nó để mở một cánh cổng bí mật… có lẽ nằm ở trong một căn phòng gọi là SBB13.

Mọi việc không được rõ ràng lắm.

Vừa theo hai người kia hối hả bước đi, Langdon vừa cố gắng gạt bỏ khỏi tâm trí mình hình ảnh hãi hùng về bàn tay có hình xăm bị biến cải thành Mật Thủ của Peter. Hình ảnh kinh khủng ấy đi kèm với tiếng ông nói: Những bí ẩn cổ xưa, Robert ạ, sinh ra nhiều huyền tích… nhưng điều đó không có nghĩa rằng bản thân chúng là hư cấu.

Mặc dù đã dành cả đời nghiên cứu về những biểu tượng và lịch sử kỳ bí. Langdon vẫn tỉnh táo phản đối mọi ý tưởng về Bí ẩn cổ xưa cũng như lời hứa hẹn phong thần phong thánh của các bí mật ấy.

Phải thừa nhận rằng, tài liệu lịch sử có chứa một bằng chứng không thể chối cãi, theo đó tri thức bí ẩn khởi nguồn từ Mật phái ở Ai Cập cổ đại rồi được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Phần lớn các ghi chép cho thấy nó rút vào bóng tối đến tận thời Phục Hưng mới tái xuất ở châu Âu, và được gửi gắm cho một nhóm khoa học gia tinh tuý Nhóm này làm việc giữa bốn bức tường của Hiệp hội Hoàng gia London - cơ sở khoa học hàng đầu châu Âu - và được mệnh danh rất khó hiểu là Đại học Vô hình.

Cái “đại học” ẩn dạng này nhanh chóng trở thành bộ tham mưu của những trí tuệ sáng láng nhất thế giới, như Isaac Newton, Francis Bacon, Robert Boyle, và cả Benjamin Franklin. Danh sách tín đồ hiện đại cũng không kém phần ấn tượng, nào là Einstein, Hawking, nào là Bohr, Celsius - những bộ óc vĩ đại đã đem lại nhiều bước nhảy vọt phi thường trong hiểu biết của nhân loại. Một số người cho rằng thành tựu tiên tiến ấy là kết quả của việc họ được tiếp xúc với tri thức cổ xưa cất giấu ngay trong Đại học Vô hình. Langdon không bao giờ tin giả thuyết này, mặc dù chắc chắn là có rất nhiều “công việc bí ẩn” diễn ra trong mấy bức tường này.

Năm 1936, cả thế giới kinh ngạc khi phát hiện ra nhiều tài liệu riêng tư cho thấy Isaac Newton rất say mê nghiên cứu thuật giả kim cổ đại và tri thức thần bí, trong số đó có một bức thư viết tay gửi cho Robert Boyle khuyến nghị ông này giữ “im lặng” về những kiến thức bí mật mà họ đã tiếp thu được. “Đừng truyền bá nó”, Newton viết, kẻo sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến thế giới”.

Cho đến giờ người ta vẫn tranh cãi về ý nghĩa của câu cảnh báo lạ lùng này.

- Giáo sư, - Sato đột ngột lên tiếng, rời mắt khỏi cái Blackberry của bà ta - mặc dù ông khăng khăng nói rằng ông không lý giải nổi tại sao mình lại ở đây tối nay, nhưng có lẽ ông phải thấy nảy ra manh mối nào đó về ý nghĩa chiếc nhẫn của Peter Solomon chứ!

- Tôi sẽ cố gắng xem sao, - Langdon đáp, tập trung trở lại.

Sato lôi cái túi đựng mẫu vật ra và đưa cho Langdon.

Cho tôi biết về những biểu tượng trên chiếc nhẫn.

Bấy giờ họ đang bước dọc một hành lang vắng vẻ. Langdon kiểm tra chiếc nhẫn quen thuộc. Mặt nhẫn có hình một con phượng hoàng hai đầu quắp một dải băng mang dòng chữ ORDO AB CHAO, trên ngực nó vẽ con số 33.

- Phượng hoàng hai đầu mang số 33 là biểu trưng cho cấp bậc cao nhất trong Hội Tam điểm - Nói cho đúng, cấp độ rất uy tín này chỉ tồn tại riêng trong Phân hội Scottish(51). Tuy nhiên, các nghi thức và tầng bậc của Hội Tam điểm là một hệ thống tôn ti trật tự rất phức tạp mà Langdon không định đi vào chi hết tối nay - Về cơ bản, cấp bậc 33 là vị trí danh dự tinh tuý dành cho một nhóm nhỏ những hội viên Tam điểm xuất chúng. Tất cả các cấp độ khác có thể đạt được bằng cách hoàn thành xong cấp độ trước đó, nhưng việc leo lên đến cấp 33 thì lại bị khống chế. Phải mời mới được vào.

- Và ông biết rõ Peter Solomon là một thành viên của giới tinh tuý?

- Dĩ nhiên. Quan hệ thành viên gần như là một bí mật.

- Và ông ấy là nhân vật cao cấp nhất?

- Hiện tại thì đúng. Peter đứng đầu Hội đồng Tối cao Cấp độ 33, một cơ quan điều hành của Phân hội Scottish ở Mỹ.

Langdon luôn thích đến thăm tổng hành dinh của họ - Thánh điện, một kiệt tác cổ điển với phần trang trí mang tính biểu trưng có thể so sánh với Nhà nguyện Rosslyn ở Scotland.

Giáo sư, ông có chú ý thấy dòng chữ khắc quanh riềm nhẫn không? Đề là “Tất cả được tiết lộ ở cấp 33”.

Langdon gật đầu.

- Đây là một chủ đề rất phổ biến trong những truyền thuyết về Hội Tam điểm.

- Theo chỗ tôi hiểu, thế nghĩa là nếu một hội viên lên tới cấp 33 cao nhất thì anh ta sẽ được tiết lộ một điều gì đó thật đặc biệt?

- Phải, truyền thuyết thì như vậy, nhưng có lẽ không đúng với thực tế. Thiên hạ cứ đồn đoán rằng chỉ một số ít có chọn lọc trong tầng lớp cao nhất của Hội Tam điểm mới được chia sẻ một bí mật lớn lao nào đó. Song tôi ngờ rằng sự thật có lẽ không kịch tính đến thế.

Peter Solomon thường nửa đùa nửa thật về sự tồn tại của một bí mật quý giá trong Hội Tam điểm, nhưng Langdon luôn cho rằng đó chỉ là một ý đồ ranh mãnh nhằm lôi kéo anh gia nhập hội này.

Tiếc thay, những sự kiện tối nay không phải là đùa, và việc Peter nài anh giữ cái gói niêm phong trong túi này không hề gợn chút nào ranh mãnh.

Langdon khổ sở nhìn cái túi nhựa có chiếc nhẫn của Peter.

- Bà Giám đốc, - anh hỏi - tôi giữ thứ này có được không?

- Để làm gì?

- Nó rất có giá trị với Peter, và tối nay tôi muốn trả lại cho ông ấy.

Nét mặt Sato đầy nghi ngại.

- Hi vọng ông tìm được cơ hội đó.

- Cảm ơn - Langdon bỏ chiếc nhẫn vào túi.

Họ tiếp tục tiến sâu hơn vào mê cung, Sato lại lên tiếng:

- Tôi hỏi câu nữa. Nhân viên của tôi nói rằng khi kiểm tra các khái niệm “cấp 33” và “cánh cổng” liên quan đến Hội Tam điểm, họ tìm thấy hàng trăm tài liệu tham khảo đề cập đến kim tự tháp. Tại sao thế?

- Điều đó không có gì lạ cả - Langdon đáp - Những người xây dựng Kim tự tháp Ai Cập là tiền nhân của thợ đá hiện đại, và kim tự tháp cùng với các chủ đề về Ai Cập, rất phổ biến trong hệ thống biểu tượng Hội Tam điểm.

- Biểu tượng gì chứ?

- Kim tự tháp thể hiện sự khai sáng. Nó là một biểu tượng kiến trúc qua đó con người cổ đại muốn chứng minh rằng họ có khả năng thoát khỏi cõi thế tục, vươn tới thiên đường, tới mặt trời vàng và cuối cùng là tới nguồn sáng tối thượng.

Sato đợi thêm một lát.

- Không còn gì khác sao?

Không còn gì khác sao? Langdon chẳng vừa mới nói đến một trong những biểu tượng tao nhã nhất lịch sử đấy thôi. Một cấu trúc mà qua nó con người nâng mình lên thế giới của thần thánh.

- Theo nhân viên của tôi - Sato tiếp tục - dường như tối nay có một mối liên hệ chặt chẽ hơn nhiều. Họ nói rằng có một truyền thuyết rất phổ biến về một kim tự tháp cụ thể ở đây, tại Washington này, một kim tự tháp liên hệ đặc biệt với Hội Tam điểm và các bí ẩn cổ xưa.

Giờ thì Langdon hiểu Sato đang nhắc đến điều gì, và anh cố gắng xua tan ý tưởng này trước khi họ lãng phí thêm thời gian.

- Tôi không lạ gì truyền thuyết đó, thưa bà Giám đốc, nhưng nó thuần tuý là sản phẩm tưởng tượng. Kim tự tháp Hội Tam điểm là một trong những huyền tích lâu đời nhất của Washington D.C., có lẽ bắt nguồn từ kim tự tháp trên Quốc ấn của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.

- Tại sao ông không đề cập đến chuyện này sớm hơn?

Langdon nhún vai.

- Bởi vì nó không có cơ sở thực tế. Như tôi đã nói, nó là một huyền tích. Một trong rất nhiều huyền tích liên quan đến Hội Tam điểm.

- Và huyền tích cụ thể này có liên hệ trực tiếp đến các Bí ẩn cổ xưa?

- Chắc chắn rồi, giống như rất nhiều huyền tích khác. Các Bí ẩn cổ xưa là nền tảng cho vô số truyền thuyết tồn tại trong lịch sử, chẳng hạn những câu chuyện về tri thức hùng mạnh nằm trong vòng bảo vệ của các Hiệp sĩ đền thánh, Hội Thập tự Hoa hồng, tổ chức Illuminati(52), nhóm Alumbrados… và còn nhiều nhiều nữa. Tất cả đều dựa trên những bí ẩn cổ xưa. Kim tự tháp Hội Tam điểm chỉ là một ví dụ.

- Tôi hiểu rồi. - Sato đáp - Nhưng thực tế thì truyền thuyết này nói gì?

Langdon ngẫm nghĩ câu hỏi đó một lát rồi mới trả lời.

- Chà, tôi không chuyên lắm về các luận thuyết hư cấu, nhưng tôi được đào tạo về thần thoại học, và hầu hết các câu chuyện đều tiến triển như thế này: Các bí mật cổ xưa - hay gọi là tri thức thất truyền của mọi thời đại - từ lâu đã được coi là kho báu quý giá nhất của nhân loại và như tất cả các kho báu, chúng được bảo vệ rất cẩn mật. Các bậc hiền nhân được khai sáng, những người hiểu được sức mạnh thật sự của vốn tri thức này, rất sợ tiềm lực kinh khủng của nó. Họ biết rằng nếu kiến thức bí mật này rơi vào tay những kẻ chưa được khai tâm thì kết quả có thể rất tai hại; như chúng ta đã nói trước đó, những công cụ hùng mạnh có thể được sử dụng cho cả việc thiện lẫn việc ác. Vì thế, để bảo vệ các Bí ẩn cổ xưa và cũng là bảo vệ nhân loại, những người đầu tiên nắm bắt được tri thức đã thành lập ra các hiệp hội bí mật. Bên trong những hội này, họ chỉ chia sẻ tri thức của họ với những thành viên được khai sáng, truyền bá tri thức đó trong vòng các trí giả mà thôi. Nhiều người tin rằng chúng ta có thể xem lại và tìm thấy những tàn dư lịch sử của những người từng nắm được các bí ẩn… trong các câu chuyện về pháp sư, phù thuỷ và đạo nhân.

- Thế còn Kim tự tháp Hội Tam điểm? - Sato hỏi - Thứ đó thì liên quan gì chứ?

- Chà, - Langdon đáp, chân rảo bước nhanh hơn để theo cho kịp - đây là chỗ mà lịch sử và truyền thuyết bắt đầu giao thoa. Theo một số tài liệu, vào thế kỷ XVI ở châu Âu, hầu như tất cả các hội kín này đều biến mất, bị tiêu diệt bởi một làn sóng khủng bố tôn giáo. Người ta nói rằng, hội viên Tam điểm là những người cuối cùng còn tồn tại và gìn giữ các bí mật cổ xưa. Cũng dễ hiểu là họ sợ rằng nếu một ngày nào đó tổ chức của họ bị xoá sổ như những tổ chức tiền thân, thì các bí mật cổ xưa sẽ bị thất truyền mãi mãi.

- Thế còn kim tự tháp? - Sato lại nhấn mạnh.

Langdon bắt đầu giải thích.

- Truyền thuyết Kim tự tháp Hội Tam điểm rất đơn giản. Nó nói rằng, để hoàn thành trách nhiệm bảo vệ vốn tri thức vĩ đại cho các thế hệ tương lai, Hội Tam điểm quyết định giấu nó vào một pháo đài - Langdon cố gắng nhớ lại các chi tiết về câu chuyện - Một lần nữa, tôi nhấn mạnh đây chỉ là truyền thuyết, nhưng rất hay được viện dẫn, Hội Tam điểm đem tri thức bí mật của họ từ Cựu Thế giới tới Tân Thế giới, tức là tới đây, nước Mỹ này, một mảnh đất mà họ hy vọng sẽ thoát khỏi chế độ tôn giáo tàn bạo, và ở đây, họ xây dựng một pháo đài bất khả xâm phạm - một kim tư tháp bí mật - được thiết kế đế bảo vệ các bí mật cố xưa cho tới khi nào tất cả nhân loại sẵn sàng tiếp nhận sức mạnh ghê gớm mà tri thức này có thể đem lại. Theo truyền thuyết Hội Tam điểm đặt trên đỉnh kim tự tháp vĩ đại của họ một khối vàng đặc sáng rực rỡ làm biểu tượng cho kho báu quý giá bên trong - cái kho tri thức co xưa có thể giúp con người phát huy hết tiềm năng của mình. Hoá thành thần thánh.

- Câu chuyện hay đấy, - Sato nói.

- Vâng. Hội Tam điểm bị chinh phục bởi tất cả các loại huyền tích kỳ cục.

- Rõ ràng ông không tin rằng có một kim tự tháp như thế tồn tại.

- Dĩ nhiên là không rồi, - Langdon đáp - Không hề có bằng chứng gì cho thấy các bậc tiền bối hội viên Tam điểm của chúng ta đã xây dựng một loại kim tự tháp nào đó ở nước Mỹ, càng không thể ở Washington D.C. này. Rất khó giấu được một kim tự tháp, đặc biệt là một cái đủ lớn để chứa được toàn bộ tri thức đã bị thất truyền của mọi thời đại.

Theo lời Langdon, truyền thuyết chẳng bao giờ giải thích chính xác xem cái gì nằm bên trong Kim Tự tháp Hội Tam điểm - dù đó là những văn bản cổ, những văn tự huyền bí, những phát kiến khoa học, hay cái gì đó bí hiểm hơn thế nữa - nhưng huyền tích thật sự nói rằng thông tin quý giá bên trong được mã hoá rất khéo léo… và chỉ ai có tâm hồn khai sáng nhất mới đủ sức thấu hiểu.

- Nhưng dù sao - Langdon tiếp - câu chuyện này rơi vào một thể loại mà giới biểu tượng học chúng tôi gọi là một “lai tạp nguyên mẫu”, một hình thức pha trộn của những huyền tích kinh điển, vay mượn thêm nhiều yếu tố từ kho tàng thần thoại đến mức nó chỉ có thể là một sản phẩm hư cấu… không thể là sự thật lịch sử được.

Khi dạy sinh viên về các lai tạp nguyên mẫu, Langdon sử dụng ví dụ là các truyện thần tiên, được kể lại qua nhiều thế hệ và phóng đại dần theo thời gian, vay mượn rất nhiều của nhau để trở thành những câu chuyện đạo lý với những yếu tố ước lệ tương tự - những thiếu nữ đồng trinh, các hoàng tử đẹp trai, những toà lâu đài bất khả xâm phạm, và những phù thuỷ hùng mạnh. Nhờ các câu chuyện thần tiên, trận chiến “thiện và ác” bám rễ trong chúng ta từ thời còn thơ ấu thông qua các câu chuyện: Merlin chống lại Morgan le Fay, Thánh George chống lại Rồng, David chống lại quái vật Goliath, Nàng Bạch Tuyết chống lại Mụ phù thuỷ, và thậm chí là Luke Skywalker chiến đấu với Darth Vader.

Họ ngoặt qua một góc tường và theo Anderson xuống một quãng cầu thang ngắn nữa, Sato gãi gãi đầu.

- Giải thích cho tôi điều này nhé. Nếu tôi không nhầm thì các kim tự tháp từng được coi là những cánh cổng bí ẩn mà qua đó, các pharaoh băng hà có thể bay lên thế giới thần linh, có phải không nhỉ?

- Đúng đấy.

Sato dừng lại đột ngột và nắm lấy tay Langdon, ngước nhìn anh với vẻ mặt nửa ngạc nhiên nửa hoài nghi.

- Kẻ bắt cóc Peter Solomon bảo ông tìm một cánh cổng bí mật, và ông không hề nghĩ rằng gã đang nói về Kim tự tháp Hội Tam điểm trong huyền tích này ư?

- Nói gì thì nói, Kim Tự tháp Hội Tam điểm chỉ là một câu chuyện thần tiên. Nó hoàn toàn do tưởng tượng mà ra.

Sato bước lại sát anh hơn, tới mức Langdon ngửi thấy cả hơi thở sặc sụa mùi thuốc lá của bà ta.

- Tôi hiểu vị trí của ông trong chuyện này, thưa Giáo sư, nhưng vì cuộc điều tra, tôi không thể loại bỏ yếu tố so sánh. Một cánh cổng dẫn tới vốn tri thức bí mật ư? Theo kẻ bắt cóc Peter Solomon, nghe chừng chỉ ông mới mở được.

- Chà, tôi khó lòng tin…

- Ông tin điều gì không quan trọng. Dù sao đi nữa, ông cũng phải thừa nhận rằng bản thân gã đó có thể đang tin chắc vào khả năng tồn tại của Kim Tự tháp Hội Tam điểm.

- Gã là một kẻ mất trí! Gã cũng có thể tin rằng SBB 13 là lối vào một kim tự tháp khổng lồ ngầm dưới lòng đất, nơi chứa đựng tri thức đã bị thất truyền của cổ nhân!

Sato đứng lặng đi, đôi mắt rực sáng.

- Rắc rối mà tôi đang phải xử lý tối nay không phải là một chuyện thần tiên, thưa Giáo sư. Nó rất thật, tôi dám quả quyết với ông như thế.

Một sự im lặng lạnh lẽo bao trùm lấy họ.

- Thưa bà? - Cuối cùng Anderson lên tiếng, ra hiệu về phía cánh cửa bảo vệ cách đó 3 mét - Chúng ta gần đến nơi rồi, nếu chúng ta đi tiếp.

Cuối cùng Sato cũng thôi không nhìn xoáy vào Langdon nữa mà ra hiệu cho Anderson tiếp tục.

Họ theo viên Chỉ huy lực lượng an ninh đi qua ô cửa để vào một lối đi hẹp. Langdon ngó quanh, hết bên trái rồi bên phải.

Thật không thể tưởng tương được.

Anh chưa bao giờ trông thấy hành lang nào dài đến thế này.

Chú thích:

(51) Phân hội Scottish là một trong vài phân hội của Hội Tam điểm. Một phân hội gồm vài cấp bậc kế tiếp nhau do những tổ chức hoặc cơ quan khác nhau của Hội Tam điểm tấn phong, hoạt động dưới sự kiểm soát của cơ quan trung ương. Cơ quan trung ương của Phân hội Scottish là Hội đồng Tối cao. Phân hội Scottish là một trong những cơ quan trực thuộc Hội Tam điểm, nơi một huynh trưởng có thể gia nhập để tiếp tục lĩnh hội những nguyên tắc của Hội. Phân hội Scottish được hình thành dựa trên những lời giáo huấn đạo đức và triết lý do hội hành nghề (craft lodge hoặc Blue Lodge) đưa ra - ND.

(52) Tổ chức Illuminati là một hội kín được sáng lập vào thế kỷ XVI bởi những người khai sáng giỏi nhất Italia, gồm các nhà vật lý, thiên văn học, toán học, nhằm chia sẻ mối quan tâm của họ về những tín điều không chính xác của nhà thờ. Tên gọi Illuminati có nghĩa là “Những người khai sáng” - ND.

chuong 31

Rời khỏi ánh đèn rực rỡ của Khối hộp và bước vào bóng tối thăm thẳm, Trish Dunne lại thấy lòng trào lên cảm giác sợ hãi quen thuộc. Bảo vệ ở cổng trước của SMSC vừa gọi vào báo vị khách của Katherine, bác sĩ Abaddon, đã đến và cần có người dẫn tới Khoang 5. Trish đề nghị được ra dẫn khách vào, chủ yếu là vì hiếu kỳ. Katherine nói rất ít về người đàn ông sắp ghé thăm họ, nên Trish cảm thấy hết sức tò mò. Rõ ràng là Peter cực kỳ tin tưởng anh ta, gia đình Solomon chưa từng mời ai tới Khối hộp cả.

Đây là trường hợp đầu tiên.

Mình hy vọng anh ta không sợ hãi màn đi bộ, Trish vừa nghĩ vừa dò dẫm qua vùng tối đen đặc. Cô háo hức muốn thấy vẻ kinh hãi của vị khách đặc biệt khi nhận ra những gì cần phải làm để tới được phòng thí nghiệm. Lần đầu luôn là lần tệ nhất.

Một năm về trước, Trish tới đây lần đầu tiên. Cô nhận lời mời làm việc của Katherine, ký hợp đồng và theo sếp mới tới SMSC để xem phòng thí nghiệm. Hai người phụ nữ đi bộ hết chiều dài của “đường phố”, đến trước một cánh cổng kim loại có dòng chữ KHOANG 5.

Mặc dù Katherine đã cố gắng chuẩn bị tinh thần cho cô gái bằng cách mô tả vị trí khá hẻo lánh của phòng thí nghiệm, nhưng Trish vẫn hết sức bất ngờ khi cửa khoang mở ra.

Trước mặt cô là một khoang tối đen trống rỗng

Katherine bước qua ngưỡng cửa, tiến vài bước vào vùng tối đặc quánh ấy, rồi ra hiệu cho Trish đi theo.

- Cứ tin tôi. Cô sẽ không bị lạc đâu.

Hình dung ra cảnh mình lần mò trong một căn phòng rộng bằng cả cái sân vận động nhưng tối đen như mực, Trish thấy toát mồ hôi.

- Chúng tôi có một hệ thống chỉ dẫn để giúp cô không lạc đường - Katherine trỏ xuống sàn - Rất thủ công thôi.

Trish nheo mắt, cố nhìn phần nền xi măng thô cứng qua bóng tối.

Cũng phải mất một lúc cô mới nhận ra nó, đúng là có một đường dẫn hẹp bằng thảm. Lớp thảm tuôn dài như một lối đi, mất hút trong bóng tối.

- Hãy nhìn bằng chính bàn chân cô - Katherine nói, xoay người cất bước - Cứ theo ngay sau tôi là được.

Thấy Katherine đã biến mất trong khoảng tối, Trish cố nén nỗi sợ hãi và bước theo. Đúng là điên rồ! Cô mới đi được vài bước trên thảm thì cánh cửa Khoang 5 sập lại phía sau, dập tắt những tia ánh sáng cuối cùng. Tim đập thình thịch, Trish tập trung hết tinh thần để cảm nhận lớp thảm dưới chân mình. Cô chỉ mới đánh bạo bước vài bước theo lớp thảm mềm thì cảm nhận được cạnh chân phải chạm vào lớp xi măng cứng lạnh. Giật mình, bản năng bảo cô dịch sang bên trái, đặt cả hai chân lên lớp thảm mềm mại.

Giọng Katherine vang lên phía trước, trong bóng tối, thanh âm gần như chìm nghỉm giữa không gian thăm thẳm tẻ ngắt này.

- Cơ thể con người rất kỳ lạ - Katherine nói - Nếu cô lấy đi của nó một giác quan, thì những giác quan khác sẽ thay thế, gần như ngay tức thì. Lúc này, nói cho đúng nghĩa thì thần kinh ở chân cô đang điều chỉnh để trở nên nhạy cảm hơn.

Đúng thật, Trish nghĩ, lại dò đường đi lần nữa.

Họ im lặng di chuyển trong một khoảng thời gian dường như đằng đẵng.

- Còn bao xa nữa? - Trish không kìm được buột hỏi.

- Chúng ta sắp đi được nửa đường rồi - Giọng Katherine giờ nghe có vẻ cách xa hơn.

Trish rảo chân bước nhanh, gắng hết sức để giữ bình tĩnh, nhưng hơi thở của bóng tối dường như sắp nuốt chửng cô. Mình chẳng nhìn thấy gì hết, dù là đặt sát trước mắt.

- Chị Katherine? Làm sao chị biết khi nào thì không phải đi nữa?

- Cô sẽ biết ngay thôi, - Katherine nói.

Đó là một năm về trước, còn bây giờ, tối nay, Trish lại một lần nữa đi trong khoảng tối, tiến theo hướng ngược lại, ra khỏi gian phòng để đón khách của sếp. Một cảm giác thay đổi đột ngột ở lớp thảm dưới chân báo cho cô biết rằng cô còn cách cửa khoảng ba thước. Trish dừng ngay lại, móc thẻ khoá ra và dò dẫm men theo tường cho tới khi tìm thấy khe khoá và nhét thẻ vào.

Cánh cửa rít lên.

Trish nheo mắt trước ánh sáng tràn tới từ hành lang SMSC.

Lại như mọi khi…

Bước dọc theo hành lang vắng ngắt, Trish nghĩ đến văn bản lọc thông tin kỳ lạ mà họ đã tìm thấy trên một nguồn bí mật. Một cánh cổng cổ xưa? Một vi trí bí mật dưới lòng đất. Cô tự hỏi liệu Mark Zoubianis có đủ may mắn truy ra xem tài liệu bí ẩn ấy nằm ở đâu không.

***

Bên trong phòng điều khiển, Katherine đứng trong màn ánh sáng dìu dịu của bức tường plasma và nhìn đăm đăm cái tài liệu bí ẩn mà họ đã tìm ra. Cô vừa tách các cụm từ chính của mình và càng lúc càng thấy chắc chắn rằng tài liệu này nói về đúng cái huyền tích mà anh trai cô từng hé lộ với bác sĩ Abaddon.

… vị trí bí mật DƯỚI LÒNG ĐẤT nơi…

đâu đó ở Washington D.C., có toạ độ…

… phát hiện ra một CÁNH CỔNG CỔ XƯA dẫn tới…

… cảnh báo rằng KIM TỰ THÁP chứa…

… giải mã BIỂU HÌNH ĐƯỢC CHẠM KHẮC này để hé mở…

Mình cần xem phần còn lại của file này. Katherine nghĩ thầm.

Katherine đăm đăm nhìn một lúc nữa rồi bấm công tắc nguồn của bức tường plasma. Cô luôn nhớ tắt màn hình rất tốn năng lượng này để không lãng phí nguồn dự trữ hydro lỏng của các tế bào nhiên liệu.

Những cụm từ khoá từ từ nhoà dần, thu hẹp thành một chấm trắng nhỏ xíu ở chính giữa bức tường, cuối cùng tắt ngấm.

Katherine quay trở lại văn phòng. Chỉ lát nữa bác sĩ Abaddon sẽ đến, và cô muốn làm cho anh ta cảm thấy thoải mái.

chuong 32

- Sắp tới nơi rồi, - Anderson dẫn Langdon và Sato đi xuống hành lang vô tận chạy suốt toàn bộ chiều dài tầng hầm phía đông của Điện Capitol - Thời Tổng thống Lincoln, nền lối này rất bẩn thỉu và nhung nhúc chuột bọ.

Langdon rất mừng là nền đã được lát gạch, anh vốn không ưa giống chuột. Cả nhóm tiếp tục đi tới, tiếng bước chân họ vang lên bập bõm, nghe rất kỳ cục trong hành lang dài. Dọc theo hành lang là những ô cửa, một số đóng kín, khá nhiều mở hé. Nhiều căn phòng ở tầng này trông như bị bỏ phế. Langdon chú ý thấy số hiệu trên các cánh cửa giảm dần, giảm đến tận cùng.

SB4… SB3… SB2… SB1…

Họ tiếp tục đi qua một cánh cửa không đánh số, nhưng Anderson dừng phắt lại khi số hiệu bắt đầu tăng.

HB1… HB2…

- Xin lỗi, - Anderson lên tiếng - Qua mất rồi. Tôi gần như chẳng bao giờ đặt chân xuống tận chỗ này.

Cả nhóm lùi lại vài thước, tới một cánh cửa kim loại cũ kỹ mà bấy giờ Langdon mới nhận thấy. Nó nằm ở điểm chính giữa hành lang - nơi phân chia Tầng hầm Thượng viện (SB) và Tầng hầm Hạ viện (HB). Thực tế cánh cửa này có đánh số, nhưng đã quá mờ, rất khó nhận ra:

SBB

- Đây rồi - Anderson nói - Sẽ có người mang chìa khoá tới ngay.

Sato cau mày và nhìn đồng hồ.

Langdon nhìn dòng chữ SBB và hỏi Anderson.

- Tại sao chỗ này lại thuộc phía Thượng viện mặc dù nó ở chính giữa?

Anderson lộ vẻ bối rối.

- Ý ông là sao?

- Nó ký hiệu là SBB, tức là bắt đầu bằng chữ S chứ không phải chữ H.

Anderson lắc đầu.

- Chữ S trong SBB không phải là viết tắt của Thượng viện. Nó…

- Chỉ huy? - tiếng một nhân viên an ninh cất lên phía xa. Anh ta hối hả băng qua hết hành lang để tới chỗ họ, giơ ra một chiếc chìa khoá - Xin lỗi anh, phải mất vài phút đấy. Chúng tôi không thể xác định được chìa khoá chính của SBB. Đây là cái dự phòng lấy từ một hộp phụ.

- Cái gốc bị mất à? - Anderson hỏi, giọng lộ rõ ngạc nhiên.

- Chắc là mất, - người kia đáp, thở hổn hển - Lâu lắm rồi có ai yêu cầu xuống đây đâu.

Anderson cầm lấy chiếc chìa khoá.

- Không có chìa phụ cho SBB13 à?

- Xin lỗi, cho đến lúc này chúng tôi vẫn không tìm thấy chìa khoá của bất kỳ phòng nào trong SBB cả. MacDonald đang tiếp tục tìm - Viên cảnh vệ rút bộ đàm và gọi - Bob? Tôi đang ở chỗ Chỉ huy. Có thêm thông tin gì về chìa khoá SBB13 chưa?

Bộ đàm của viên cảnh vệ có tiếng xột xoạt, và một giọng nói vang lên.

- Thực ra là có đấy. Lạ lắm. Kể từ khi chúng ta vi tính hoá, chưa có trường hợp nào vào đó, nhưng theo sổ đăng ký thì tất cả các phòng kho trong SBB đều đã được dọn sạch và bỏ không hơn hai mươi năm nay. Giờ chúng được ghi rõ là khu vực không sử dụng - Anh ta ngừng lại - Tất cả, chỉ trừ SBB13.

Anderson giật lấy bộ đàm.

- Chỉ huy đây. Cậu nói sao, tất cả chỉ trừ SBB13 thôi à?

- Vâng, thưa sếp - giọng kia đáp lại - tôi tìm thấy một câu chú giải viết tay cho biết SBB13 là phòng “riêng”. Đã từ lâu lắm rồi, do chính Kiến trúc sư viết và ký nháy.

Langdon biết, cụm từ Kiến trúc sư không phải để chỉ người đã thiết kế Điện Capitol mà là người điều hành toà nhà. Tương tự như viên quản lý, người được bổ nhiệm vào chức Kiến trúc sư Điện Capitol sẽ chịu trách nhiệm về tất cả mọi việc, bao gồm bảo dưỡng, tu bổ, an ninh, thuê nhân viên, và phân bổ các phòng làm việc.

- Điều lạ là - giọng trên bộ đàm nói - chú thích của Kiến trúc sư ghi rõ rằng “khu vực riêng” này dành cho Peter Solomon sử dụng.

Langdon, Sato và Anderson đưa mắt nhìn nhau thảng thốt.

- Tôi đoán, thưa sếp - giọng nói tiếp tục - ông Solomon giữ chìa khoá gốc xuống SBB cũng như mọi chìa khoá của SBB13.

Langdon không thể tin vào tai mình. Peter có hẳn một phòng riêng trong tầng hầm ĐiệnCapitol ư? Anh vốn biết Peter Solomon có nhiều bí mật, nhưng điều này thì vượt quá mọi sự hình dung.

- Tốt lắm - Anderson nói, rõ ràng là không thích thú gì - Chúng tôi hy vọng có thể tiếp cận được SBB12, cho nên cứ tìm chìa khoá phụ đi.

- Rõ, thưa sếp. Chúng tôi cũng đang xử lý bức hình số mà anh yêu cầu…

- Cảm ơn - Anderson bấm nút thoại để cắt ngang lời người kia - Tốt lắm. Khi nào xong cậu gửi ngay file đó tới điện thoại Giám đốc Sato nhé.

- Rõ, thưa sếp - Máy bộ đàm im bặt.

Anderson đưa trả bộ đàm cho anh nhân viên đang đứng đấy.

Người này rút ra một bản sao sơ đồ toà nhà và đưa cho Chỉ huy.

- Thưa sếp, SBB tô màu xám, chúng tôi đã đánh dấu X vào gian phòng SBB13 nên cũng không khó tìm lắm. Khu vực này khá nhỏ.

Anderson cảm ơn thuộc cấp của mình và dồn mọi chú ý vào bản sơ đồ.

Người cảnh vệ trẻ tuổi vội vã rời đi. Langdon ngó xem, rất ngạc nhiên trước số lượng dày đặc các căn phòng nhỏ tạo thành mê cung kỳ dị bên dưới Điện Capitol.

Anderson nghiên cứu sơ đồ một lát, gật gù đút tọt nó vào túi.

Quay về cánh cửa có dòng chữ SBB, anh ta rút chìa khoá, rồi lại do dự, vẻ ngần ngại không muốn mở ra. Langdon cũng rơi vào tâm trạng e dè tương tự, anh không biết đằng sau cánh cửa này là những gì, nhưng anh tin chắc rằng dù là gì đi nữa, một khi đã cất giấu tít dưới này thì rõ ràng Solomon muốn giữ bí mật cho nó.

Hoàn toàn bí mật.

Sato hắng giọng, và Anderson hiểu ý. Viên Chỉ huy hít một hơi thật sâu, tra chìa khoá xoay thử. Chìa khoá không nhúc nhích.

Trong khoảnh khắc, Langdon tràn trề hy vọng là không mở được.

Nhưng đến lần thử thứ hai, ổ khoá xoay, và Anderson kéo cánh cửa về phía mình.

Khi cánh cửa nặng nề kêu ken két và mở ra phía ngoài, mùi không khí ẩm mốc ùa ra khắp hành lang.

Langdon đăm đăm nhìn vào bóng tối nhưng chẳng thấy gì cả.

- Giáo sư, - Anderson cất tiếng, vừa mò công tắc vừa liếc Langdon - Về thắc mắc của ông, chữ S trong SBB không phải là Thượng viện. Nó mang nghĩa là bên dưới cơ.

- Bên dưới à? - Langdon ngơ ngác hỏi lại.

Anderson gật đầu và bật công tắc ngay mé trong cánh cửa. Ngọn đèn duy nhất soi rõ một cầu thang dốc đứng chạy sâu xuống vùng tối đen như mực.

SBB là tầng dưới tầng hầm.

Chuyên gia an ninh hệ thống Mark Zoubianis ngồi sâu hơn vào chiếc phô-tơi, mặt cau có trước những thông tin hiển thị trên màn hình máy tính.

Địa chỉ này thuộc loại chó chết gì không biết?

Những công cụ xâm nhập tốt nhất của anh ta hoàn toàn vô hiệu trong việc đột phá vào tài liệu này cũng như xác định địa chỉ IP bí ẩn của Trish. Mười phút đã trôi qua mà chương trình của Zoubianis vẫn không thể vượt qua được tường lửa của hệ thống. Hy vọng xâm nhập rất thấp. Chẳng trách họ trả mình nhiều tiền thế. Anh ta định trang bị lại công cụ và thử một cách tiếp cận khác thì điện thoại đổ chuông.

Trish, lạy Chúa, anh đã bảo anh sẽ gọi lại cơ mà. Anh ta tắt tiếng chương trình bóng bầu dục và trả lời máy.

- Tôi nghe đây?

- Anh Mark Zoubianis? - một giọng đàn ông vang lên - Ngụ tại số 357 Kingston Drive ở Washington phải không?

Zoubianis nghe rõ tiếng trao đổi lào xào xung quanh người đang nói chuyện với mình. Lại một thằng cha tiếp thị trên điện thoại đây mà? Điên chắc?

- Để tôi đoán thử xem nào, chắc tôi vừa giành giải thưởng trong tuần tại Anguilla phải không?

- Không, - người kia trả lời, giọng không mảy may đùa cợt - Đây là An ninh hệ thống của Cục Tình báo Trung ương. Chúng tôi muốn biết vì sao anh lại tìm cách xâm nhập vào một trong các cơ sở dữ liệu đặc biệt của chúng tôi?

***

Cách tầng đáy Điện Capitol ba tầng, trong không gian thoáng đãng của trung tâm khách tham quan, nhân viên an ninh Nunez đang khoá các cửa chính như anh vẫn làm vào giờ này hằng tối. Khi quay trở lại, băng qua sàn nhà bằng cẩm thạch rộng mênh mông, anh nghĩ đến gã đàn ông mặc chiếc áo choàng quân đội với những hình xăm.

Mình đã để hắn lọt vào. Nunez băn khoăn không biết ngày mai anh còn tiếp tục được làm việc không.

Khi Nunez tiến đến cầu thang máy, bỗng có tiếng đập ở cửa phía ngoài buộc anh phải quay lại nhìn. Nunez ngoái ra cửa chính. Một người Mỹ da đen đứng tuổi đang vỗ mạnh tay lên lớp kính chắn, ra hiệu xin vào.

Nunez lắc đầu và chỉ đồng hồ.

Người kia lại đập tay và bước hẳn ra chỗ sáng đèn. Ông ta mặc bộ đồ màu lam thẫm rất sang trọng, mái tóc muối tiêu cắt ngắn. Tim Nunez đập thình thình. Trời ạ. Cho dù còn ở cách xa một quãng, Nunez vẫn nhận ra người đàn ông này là ai. Anh vội vã quay lại cửa ra vào và mở khoá.

- Tôi xin lỗi, thưa ngài. Mời ngài vào ạ.

Warren Bellamy - Kiến trúc sư Điện Capitol - bước qua ngưỡng cửa và cảm ơn Nunez bằng một cái gật đầu nhã nhặn. Ông có vóc người mềm mại, dong dỏng, dáng đi thẳng, ánh nhìn xuyên thấu toát ra sự tự tin rằng mình làm chủ được mọi việc xung quanh. Bellamy giữ cương vị giám thị Điện Capitol đã suốt hai mươi lăm năm qua.

- Tôi giúp gì được ngài chăng? - Nunez hỏi.

- Có đấy cảm ơn anh - Bellamy nói với giọng rành rẽ, dứt khoát.

Tốt nghiệp ở một trong tám trường đại học danh giá nhất nước Mỹ, ông có cách diễn đạt chính xác chẳng khác gì người Anh chính gốc - Tôi được biết rằng các anh đã gặp một rắc rối tại đây tối hôm nay - ông lộ vẻ cực kỳ lo lắng.

- Vâng, thưa ngài. Đó là…

- Chỉ huy Anderson đâu?

- Ở tầng dưới cùng với Giám đốc Sato thuộc Văn phòng An ninh của CIA.

Mắt Bellamy càng mở to, lo lắng.

- CIA ở đây à?

- Vâng, thưa ngài. Giám đốc Sato xuất hiện gần như ngay sau sự cố.

- Tại sao? - Bellamy hỏi.

Nunez nhún vai. Tôi biết hỏi ai bây giờ?

Bellamy đi thẳng tới thang máy.

- Họ đâu rồi?

- Họ vừa đi xuống các tầng dưới - Nunez rảo bước theo sau.

Bellamy liếc nhìn lại với vẻ lo ngại.

- Xuống dưới à? Tại sao nhỉ?

- Tôi thật sự không biết. Tôi chỉ nghe nói thế qua bộ đàm.

Bellamy bước nhanh hơn.

- Đưa tôi tới chỗ họ ngay.

- Vâng, thưa ngài.

Hai người vội vã băng qua quãng trống, Nunez thoáng nhìn thấy một chiếc nhẫn vàng rất lớn trên ngón tay Bellamy.

Nunez rút bộ đàm ra.

- Tôi sẽ thông báo cho Chỉ huy biết ngài đang xuống.

- Không - ánh mắt Bellamy sáng quắc - Tôi không muốn thông báo trước.

Nunez đã phạm phải một vài sai lầm tối hôm nay, và anh không muốn tiếp tục phạm sai lầm bằng cách giấu Chỉ huy Anderson về sự hiện diện của Kiến trúc sư trong toà nhà.

- Thưa ngài? - anh lên tiếng, vẻ bất an - Tôi nghĩ Chỉ huy Anderson sẽ muốn…

- Anh có biết rằng chính tôi tuyển dụng Anderson không? - Bellamy nói.

Nunez gật đầu.

- Vậy thì tôi nghĩ anh ta muốn anh làm theo mong muốn của tôi.

chuong 34

rish Dunne bước vào sảnh SMSC và ngạc nhiên khi nhìn thấy vỉ khách đang đợi. Trông anh ta chẳng hề giống các ông tiến sĩ nhân chủng, đại dương, địa lý và nhiều nhà khoa học khác đã từng vào toà nhà này. Không vận đồ flannel và chẳng có vẻ gì là chúi mũi vào sách vở suốt ngày, bác sĩ Abaddon giống một nhà quý tộc hơn, với bộ đồ may đo không chê vào đâu được. Anh ta cao lớn, thân hình nở nang, gương mặt mịn màng, mái tóc vàng óng được chải chuốt rất kỹ, tạo cho Trish ấn tượng rằng anh ta quen với những thứ xa xỉ hơn là các phòng thí nghiệm.

- Bác sĩ Abaddon phải không ạ? - Trish lên tiếng và chìa tay ra.

Người đàn ông có vẻ do dự, nhưng anh ta cũng nắm lấy bàn tay mũm mĩm của Trish trong bàn tay to lớn của mình.

- Tôi xin lỗi. Thế chị là…?

- Tôi là Trish Dunne. - Trish đáp - Tôi là trợ lý của bà Katherine. Bà ấy nhờ tôi ra đón bác sĩ vào phòng thí nghiệm.

- Ồ, tôi hiểu rồi - Giờ thì người kia gật đầu - Rất vui được gặp cô, Trish. Xin lỗi, đều tại tôi nhầm lẫn. Tôi cứ đinh ninh rằng Katherine chỉ ở đây một mình tối nay - Anh ta ra hiệu về phía đại sảnh - Giờ thì xin phó thác cả cho cô. Mời cô dẫn đường.

Mặc dù người đàn ông trấn tĩnh rất nhanh nhưng Trish vẫn thoáng nhận ra vẻ thất vọng trong ánh mắt anh ta. Chợt cô thấy ngờ ngợ về động cơ giữ bí mật của sếp mình. Katherine chẳng bao giờ tâm sự với Trish về cuộc sống riêng tư, song vị khách này, dẫu trẻ hơn Katherine, nhưng hấp dẫn và ăn mặc rất chải chuốt, rõ ràng xuất thân từ cùng tầng lớp giàu sang và nhiều đặc quyền đặc lợi của chị ấy.

Chuyện bồ bịch đây chăng? Tuy nhiên, cho dù bác sĩ Abaddon có hình dung cuộc thăm viếng tối nay sẽ dẫn tới đâu thì dường như sự hiền diện của Trish cũng không nằm trong dự liệu của anh ta.

Tại chỗ kiểm tra an ninh trong tiền sảnh, nhân viên bảo vệ nhanh tay tháo tai nghe, và Trish có thể bắt được tiếng ồn ào từ trận đấu của đội bóng Redskins. Anh chàng bảo vệ hướng dẫn bác sĩ Abaddon đi qua máy dò kim loại và đưa cho gã đeo phù hiệu an ninh tạm thời.

- Đội nào đang thắng vậy? - Bác sĩ Abaddon vừa niềm nở hỏi vừa bỏ hết điện thoại, chìa khoá và một chiếc bật lửa ra khỏi túi.

- Đội Đỏ dẫn trước ba bàn, - anh bảo vệ đáp, giọng nôn nóng, tỏ rõ ý muốn xem tiếp - Một trận đấu gay cấn quá!

- Ông Solomon sẽ đến ngay bây giờ đấy. - Trish dặn anh bảo vệ - Nhờ anh dẫn ông ấy tới phòng thí nghiệm ngay khi ông ấy đến nhé!

- Vâng - Anh bảo vệ nháy mắt vẻ biết ơn khi hai người đi qua - Xin cảm ơn vì báo trước - Tôi sẽ lưu ý.

Lời nhắn của Trish không chỉ nhắc nhở anh chàng bảo vệ mà còn ngầm bảo bác sĩ Abaddon rằng Trish không phải là người duy nhất tham dự vào buổi tối riêng tư của anh ta với Katherine ở đây.

- Anh quen Katherine thế nào vậy? - Trish hỏi, liếc mắt nhìn vị khách bí ẩn.

Bác sĩ Abaddon cười khan.

- Ồ, đó là một câu chuyện dài. Chúng tôi đang cùng phối hợp với nhau một vài việc.

Hiểu rồi, Trish nghĩ. Không phải việc của tôi.

- Đây là một cơ ngơi tuyệt vời, - Abaddon lên tiếng, ngoảnh nhìn xung quanh trong khi theo Trish tiến xuống hành lang lớn - Tôi chưa đến đây bao giờ cả.

Giọng nói nhẹ nhàng của anh ta trở nên hoà nhã thêm theo mỗi bước chân, Trish nhận thấy người này đang dụng tâm để ý tất cả mọi thứ. Nhờ ánh sáng rực rỡ trong hành lang, cô nhận thấy da mặt anh ta trông không được thật cho lắm. Kỳ cục. Tuy nhiên, khi họ đi qua hành lang vắng vẻ. Trish vẫn giới thiệu sơ bộ với anh ta về mục đích và chức năng của SMSC, kể cả các khoang và những thứ chứa bên trong.

Vị khách lộ vẻ thán phục.

- Nghe như thể nơi này có một kho tàng khổng lồ gồm toàn mẫu vật vô giá. Tôi cứ tưởng phải có bảo vệ ở khắp mọi nơi.

- Không cần, - Trish nói, đưa tay trỏ dãy ống kính mắt cá chạy dài trên trần nhà - An ninh ở đây được tự động hoá. Mỗi phân của hành lang này đều được ghi hình 24 tiếng suốt 7 ngày trong tuần, và hành lang này chính là xương sống của cả toà nhà. Không thể vào được bất kỳ phòng nào từ hành lang này mà không có thẻ và số PIN.

- Một cách sử dụng máy quay rất hiệu quả.

- Tạ ơn Trời, chúng tôi chưa bao giờ bị trộm cắp cả. Vả chăng, đây không phải là bảo tàng khiến ai đó phải tới ăn cướp, nào có ai ra chợ đen để tìm mua những bông hoa đã tuyệt chủng, những chiếc thuyền độc mộc của người Inuit, hay xác những con mực khổng lồ đâu.

Bác sĩ Abaddon cười khùng khục.

- Cô nói rất đúng.

- Hiểm hoạ an ninh lớn nhất của chúng tôi là lũ gặm nhấm và côn trùng - Trish giải thích rằng người ta ngăn ngừa toà nhà khỏi sự phá hoại của côn trùng bằng cách làm lạnh toàn bộ rác thải và bằng một kết cấu kiến trúc gọi là “Tử địa”, dùng các bức tường kép vây lấy toàn bộ toà nhà như lớp vỏ bọc, tạo thành một không gian không thích hợp cho sự sống.

- Rất tuyệt vời, - Abaddon nói - Thế phòng thí nghiệm của bà Katherine và ông Peter ở đâu?

- Khoang 5 - Trish đáp - Phải đi hết lối này tới cuối hành lang.

Abaddon đột ngột dừng lại, ngoái sang phải, nhìn về phía một ô cửa sổ nhỏ.

- Chúa ơi! Cô có nhìn thấy thứ đó không?

Trish cười.

- Có đó là Khoang 3. Người ta gọi là Thuỷ trì.

- Thuỷ trì à? - Abaddon hỏi lại, áp mặt vào sát lớp kính.

- Có hơn 11.000 lít ethanol lỏng trong đó. Anh còn nhớ tôi vừa đề cập tới xác con mực khổng lồ chứ?

- Đó là con mực à? - Bác sĩ Abaddon rời ánh nhìn khỏi cửa sổ, mắt mở lớn - Nó to thật?

- Một con Architeuthis cái, - Trish nói - Nó dài hơn 12m.

Bác sĩ Abaddon rõ ràng vô cùng thích thú trước con mực và dường như không thể nào rời mắt khỏi lớp vách kính. Hình ảnh ấy khiến Trish liên tưởng tới một cậu bé con đứng ở cửa hàng bán sinh vật cảnh. ao ước được vào trong và xem một chú cún con. Năm giây sau, anh ta vẫn đăm đăm nhìn qua cửa sổ.

- Được rồi, được rồi - cuối cùng Trish đành lên tiếng, vừa cười vừa nhét thẻ và nhập mã PIN của cô - Nào. Tôi sẽ cho anh xem con mực.

Khi bước vào không gian lờ mờ của Khoang 3, Mal’akh lướt mắt dọc các bức tường để tìm máy quay an ninh. Cô trợ lý bé nhỏ mập mạp của Katherine bắt đầu huyên thuyên về mẫu vật trong phòng.

Mal’akh đâu có để tâm. Gã chẳng hứng thú với bất kỳ thứ gì ở mấy con mực khổng lồ. Mối quan tâm duy nhất của gã là dùng cái không gian kín đáo, tối tăm này để giải quyết một trở ngại ngoài dự tính.

chuong 35

Cầu thang bằng gỗ dẫn xuống tầng đáy Điện Capitol cũng dốc và nông như các cầu thang Langdon vừa đi qua. Anh thở gấp hơn, phổi như thắt lại. Không khí dưới này lạnh lẽo và ẩm ướt vô chừng. Langdon bất giác nhớ lại một dãy cầu thang tương tự mà anh đã gặp vài năm trước ở Địa Ngục môn. Nghĩa địa Vatican.

Anderson đi đầu, dẫn đường với cây đèn pin trên tay. Tiếp đến là Langdon. Sato theo sát đằng sau, bàn tay nhỏ bé của bà ta thỉnh thoảng lại thúc vào lưng anh. Mình sẽ đi càng nhanh càng tốt. Anh hít vào thật sâu, cố gắng không để tâm tới những bức tường chật hẹp hai bên. Cầu thang này vốn chẳng rộng rãi gì so với vai anh, thành thử cái túi đeo trên người cứ cọ quệt vào vách tường.

- Lẽ ra ông nên để cái túi lại trên kia - Sato góp ý.

- Không sao. - Langdon đáp, hoàn toàn không muốn cái túi rời khỏi tầm mắt mình. Anh nhớ tới gói nhỏ của Peter và chưa hình dung nổi nó liên quan thế nào với thứ gì đó ở tầng đáy này.

- Chỉ vài bước chân nữa thôi, - Anderson nói - Gần tới rồi.

Cả nhóm đi sâu hơn vào bóng tối, tách khỏi tầm ánh sáng của ngọn đèn duy nhất trên cầu thang. Khi rời chân khỏi bậc thang gỗ cuối cùng, Langdon cảm thấy sàn nhà dưới chân mình là nền đất.

Hành trình vào trung tâm Trái đất đây. Sato bước xuống sau anh.

Anderson giơ đèn lên, kiểm tra xung quanh. Tầng đáy không hẳn là một tầng nhà mà chỉ là một hành lang cực kỳ chật hẹp chạy vuông góc với cau thang. Anderson rọi đèn sang trái rồi sang phải. Langdon thấy lối đi chỉ dài khoảng 15 mét và có những cánh cửa gỗ nhỏ ở cả hai bên. Những cánh cửa sát nhau đến mức phòng ốc đằng sau chúng có lẽ không thể rộng hơn 3 mét.

Kho lưu trữ ACME(53) kết hợp với hầm mộ Domatilla(54), Langdon nghĩ thầm trong khi Anderson xem tấm sơ đồ. Cái phần nhỏ xíu mô tả tầng đáy được đánh dấu X để chỉ vị trí của SBB13. Langdon nhận thấy bố cục khu này rất giống một lăng tẩm với mười bốn ngôi mộ chạy thành hai hàng đối diện nhau, mỗi bên bảy mộ, song có một khoang bị bỏ đi để lấy chỗ bố trí cái cầu thang mà họ vừa theo xuống.

Tổng cộng là mười ba.

Anh ngờ rằng “mười ba” nhà lý luận của nước Mỹ sẽ tranh luận gay gắt nếu họ biết rằng có đúng mười ba gian phòng kho bên dưới Điện Capitol. Nhiều người cứ băn khoăn không hiểu vì sao Quốc ấn của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ có đúng 13 ngôi saio, 13 mũi tên, 13 bậc kim tự tháp, 13 đường sọc trên tấm khiên, 13 chiếc lá ô liu, 13 quả ô liu. 13 chữ cái trong dòng chữ annuit coeptis (“Người phê chuẩn nhiệm vụ của chúng ta”), 13 chữ cái trong dòng chữ e pluribus unum (“Trong rất nhiều, có một”), và nhiều nhiều nữa.

- Bị bỏ hoang hay sao ấy, - Anderson nói, rọi quầng sáng đèn vào gian phòng ngay trước mặt họ. Cánh cửa gỗ nặng nề mở toang.

Quầng sáng soi rõ một gian phòng bằng đá rất hẹp, khoảng 3 mét chiều rộng và 9 mét chiều sâu, tương tự một lối đi cụt không dẫn tới đâu cả. Gian phòng chẳng có gì ngoài vài cái thùng gỗ cũ nát và mấy mảnh giấy bọc đồ nhàu nhĩ.

Anderson rọi đèn lên tấm biển đồng gắn trên cửa. Tấm biển toàn gỉ đồng, nhưng vẫn có thể đọc được các chữ: SBB IV

- SBB Bốn, - anh ta nói.

- Thế SBB13 ở đâu? - Sato hỏi, có vài làn hơi uốn lượn toả ra từ miệng bà ta do không khí lạnh lẽo ở tầng này.

Anderson xoay ánh đèn về đầu phía nam của hành lang.

- Đằng kia.

Langdon nhìn xoáy vào lối đi hẹp và rùng mình, cảm thấy vã mồ hôi mặc dù ở đây khá lạnh.

Họ đi qua cả dãy ô cửa, tất cả các phòng trông đều giống nhau, cửa khép hờ, rõ ràng là bị bỏ phế từ lâu. Đến cuối dãy, Anderson xoay sang phải, nhấc đèn rọi thẳng vào phòng SBB13. Tuy nhiên, quầng sáng đèn pin bị chặn lại bởi cánh cửa gỗ nặng nề.

Không như các phòng khác, cửa phòng SBB13 đóng chặt.

Cánh cửa cuối cùng này trông giống hệt những cửa khác - bản lề to nặng, tay nắm bằng thép, và biển số bằng đồng đã gỉ xanh. Bảy chữ cái nằm trên biển số đúng là những chữ cái trên bàn tay Peter.

SBB XIII

Xin hãy bảo rằng cửa bị khoá đi, Langdon nhủ thầm.

Sato nói không do dự.

- Thử mở xem nào.

Viên Chỉ huy cảnh sát lộ vẻ miễn cưỡng, nhưng vẫn bước tới, nắm lấy tay nắm thép to nặng và kéo nó xuống. Tay nắm không nhúc nhích. Anh ta rọi đèn, soi rõ một ổ khoá kiểu cũ rất to.

- Thử bằng chìa chính xem, - Sato gợi ý.

Anderson xỏ chiếc chìa khoá mở cánh cửa lối vào ở phía trên, nhưng nó không vừa.

- Tôi lầm chăng, - Sato nói, giọng đầy cay nghiệt - hay lực lượng An ninh các anh không cần tiếp cận được mọi ngóc ngách của một toà nhà trong trường hợp khẩn cấp?

Anderson thở hắt ra và nhìn lại Sato.

- Thưa bà, người của tôi đang tìm chìa khoá phụ, nhưng…

- Bắn vỡ ổ khoá đi, - Sato ra lệnh, hất đầu về phía ổ khoá phía dưới tay nắm.

Mạch đập của Langdon như vọt lên.

Anderson hắng giọng, nói một cách khó khăn.

- Thưa bà, tôi đang đợi thông báo về chiếc chìa khoá phụ. Tôi chắc là phá tung lối vào thì không dễ

- Thế ngồi tù vì cản trở cuộc điều tra của CIA thì dễ hơn chăng?

Anderson có vẻ bàng hoàng. Sau một lúc lâu. anh miễn cưỡng đưa đèn cho Sato và rút súng ra.

- Đợi đã! - Langdon lên tiếng, thấy không thể cứ thờ ơ đứng ngoài được nữa - Nghĩ kỹ đi. Peter đã phải hy sinh cả một bàn tay chứ không chịu tiết lộ thứ gì đằng sau cánh cửa. Các vị có chắc rằng chúng ta cần làm thế này không? Phá khoá một cánh cửa chỉ để đáp ứng yêu cầu của một tên khủng bố.

- Ông có muốn cứu Peter Solomon không? - Sato hỏi.

- Dĩ nhiên, nhưng…

- Vậy thì tôi đề nghị ông làm đúng những gì gã bắt cóc đòi hỏi.

- Mở một cánh cổng cổ ư? Bà nghĩ đây là cánh cổng chắc?

Sato rọi đèn vào mặt Langdon.

- Thưa Giáo sư, tôi không biết nó là cái quái gì. Cho dù đây là phòng kho hay lối vào bí mật của một kim tự tháp cổ thì tôi vẫn định mở nó ra. Tôi nói thế đủ rõ chưa?

Langdon nheo mắt vì chói sáng và gật đầu.

Sato hạ đèn xuống, rọi vào ổ khoá cũ kỹ trên cánh cửa.

- Chỉ huy! Tiến hành đi.

Chừng như vẫn băn khoăn trước kế hoạch này, Anderson rút khẩu súng rất chậm, và đăm đăm nhìn nó với vẻ do dự.

- Ôi lạy Chúa! - Sato vươn bàn tay nhỏ bé giật lấy vũ khí của Anderson, đoạn nhét đèn pin vào bên tay để không của anh - Rọi đèn đi.

Cầm khẩu súng với vẻ tự tin của một người đã được huấn luyện về vũ khí. Sato lanh lẹ bật chốt an toàn, lên đạn và nhằm vào ổ khoá.

- Đợi đã!- Langdon kêu lên, nhưng đã quá muộn.

Súng nổ ba phát.

Langdon cảm giác màng nhĩ vỡ tung. Bà ta điên rồi?! Tiếng súng ở không gian chật hẹp nghe thật đinh tai nhức óc.

Anderson cũng chấn động không kém, anh ta run run rọi đèn lên cánh cửa đầy vết đạn.

Ổ khoá đã bung, phần gỗ xung quanh vỡ nát. Khoá mở, cánh cửa cũng hé ra.

Sato chĩa súng lên và ấn đầu nòng vào cửa, đẩy mạnh. Cánh cửa bật vào khoảng tối đen phía trong.

Langdon căng mắt nhìn nhưng chẳng thấy gì. Cái mùi quái quỷ gì thế nhỉ? Một mùi hôi thối khác lạ thoát ra từ bóng tối.

Anderson bước vào ô cửa và rọi đèn lên sàn, thận trọng lần theo suốt dọc chiều dài phần nền bẩn thỉu. Gian phòng này cũng dài và hẹp như những phòng khác. Tường xây bằng đá gồ ghề, làm cho căn phòng phảng phất không khí một buồng giam cổ xưa. Nhưng cái mùi đó…

- Chẳng có gì ở đây cả, - Anderson nhận xét, di chuyển quang sáng đèn xa thêm trên sàn. Cuối cùng, khi ánh sáng chạm tới cuối phòng, viên Chỉ huy nâng cao nó lên để rọi được cả bức tường xa nhất.

- Chúa ơi…! - anh ta thét.

Tất cả mọi người cùng trông theo và nhảy lùi lại.

Langdon trân trối nhìn chỗ sâu nhất của gian phòng, không sao tin nổi vào mắt mình.

Trước vẻ hãi hùng của anh, một thứ cũng đang trừng trừng nhìn lại.

Chú thích:

(53) Tập đoàn Acme hay Công ty sản xuất mọi thứ là một doanh nghiệp hư cấu tồn tại trong nhiều phim hoạt hình, nổi tiếng với những sản phẩm cực kỳ nguy hiểm và kỳ quặc thường gặp sự cố vào đúng những thời khắc tồi tệ nhất. Tên Acme mang tính châm biếm vì từ acme xuất phát từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là đỉnh cao - ND.

(54) Hầm mộ Domifilla (đặt theo tên Thánh Domitilla) là một trong những hầm mộ rất lớn và ấn tượng, chạy dài 15 km dưới lòng đất ở Rome. Đây là hệ thống hầm mộ cổ nhất và cũng là nơi duy nhất còn thấy hài cốt. Trên các lối đi còn có một bức tranh tường từ thế kỷ II mô tả Bữa tiệc ly và nhiều hiện vật giá trị khác. Cuối cùng, đây là hầm mộ duy nhất có một nhà thờ ngầm dưới đất, lối vào hầm mộ phải đi qua nhà thờ có từ thế kỷ thứ IV này - ND

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #gfgdg