Lost Symbol 11-20

Chương 11

- Tại sao Peter không trả lời?

Vừa tắt máy di động, Katherine Solomon vừa băn khoăn tự hỏi.

Anh ấy ở đâu nhỉ?

Suốt ba năm qua, trong những cuộc gặp lúc 7 giờ tối Chủ nhật hằng tuần, Peter Solomon luôn là người đến trước. Những buổi gặp mặt này là một nghi thức riêng trong gia đình, giúp duy trì mối liên hệ thường xuyên giữa hai anh em, và giúp Peter cập nhật thông tin về tình hình công việc của Katherine ở phòng thí nghiệm.

Anh ấy chưa bao giờ đến muộn, Katherine nghĩ, và anh ấy luôn trả lời điện thoại. Tệ hơn nữa, cô vẫn không quyết định được là nên nói gì với Peter khi ông đến. Mình biết đề cập thế nào về điều mình phát hiện ra hôm nay?

Bước chân Katherine gõ đều đặn xuống hành lang xi măng. Hành lang này được gọi là "Đường phố" chạy xuyên suốt SMSC như một cột sống, nối liền năm khoang lưu trữ rất lớn. Bên trên, ở độ cao 12 mét là hệ thống tuần hoàn gồm nhiều ống thông gió màu cam đang lọc và lưu thông hàng nghìn mét khối không khí, nó phát ra tiếng kêu ro ro như hoà cùng nhịp đập trái tim của toà nhà.

Mọi lần đi bộ trên quãng đường dài ngót một phần tư dặm tới phòng thí nghiệm, Katherine luôn cảm thấy bình tâm trong tiếng thở của toà nhà. Song đêm nay, âm thanh này lại làm cô bất an. Những chuyện mới biết về Peter có thể khiến ai cũng phải khó chịu. Là người thân duy nhất còn lại trên đời của ông, Katherine rất phiền muộn khi nghĩ rằng anh trai đang giấu giếm mình nhiều điều bí mật.

Cho đến nay, mới chỉ có một lần Peter giữ bí mật với Katherine... một bí mật tuyệt vời cất giấu ở cuối hành lang này. Ba năm trước, ông dẫn em gái xuống đây, giới thiệu với cô về SMSC bằng cách tự hào khoe một vài hiện vật phi thường của toà nhà - mảnh thiên thạch từ sao Hoả mang số hiệu ALH-84001, cuốn nhật ký bằng hình viết tay của Sitting Bull(18), bộ sưu tập bình cau gắn sáp có chứa các tiêu bản gốc do chính Charles Darwin sưu tầm.

Khi đi ngang một cánh cửa nặng nề có ô cửa sổ nhỏ, Katherine thoáng thấy một thứ bên trong. Cô há hốc miệng.

- Kia là cái gì thế?

Peter cười và tiếp tục bước.

- Khoang 3. Nó được gọi là Thuỷ trì. Trông rất lạ lùng, phải không nào?

Nói là kinh khủng thì đúng hơn. Katherine vội vã theo sau anh trai. Toà nhà này hệt như một tinh cầu biệt lập với thế giới bên ngoài.

- Thứ anh muốn chỉ cho em xem nằm ở Khoang 5 - Peter nói, dẫn em gái xuống hành lang dài bất tận - Đây là khu vực mới nhất của bọn anh. Nó được xây dựng để chứa những hiện vật lấy từ tầng hầm Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia. Bộ sưu tập đó dự kiến được chuyển về đây trong vòng năm năm tới, tức là hiện thời Khoang 5 đang rỗng không.

Katherine trố mắt.

- Rỗng không à? Vậy thì mình đi xem làm gì?

Đôi mắt xám của Peter ánh lên vẻ láu lỉnh quen thuộc.

- Anh chợt nghĩ ra là trong lúc chưa ai sử dụng không gian này thì em có thể sử dụng.

- Em à?

- Ừ. Em nên có một phòng thí nghiệm chuyên dụng, dùng để triển khai một vài thí nghiệm lý thuyết mà em đang tiến hành suốt bao năm nay.

Katherine sửng sốt nhìn anh trai.

- Nhưng, anh Peter, những thí nghiệm đó là lý thuyết? Gần như không thể triển khai chúng trên thực tế.

- Chẳng có gì là không thể. Katherine ạ, và toà nhà này rất hoàn hảo với em. SMSC không chỉ chứa các kho báu, nó còn cung cấp phương tiện nghiên cứu khoa học tiên tiến hàng đầu thế giới. Bọn anh liên tục lấy mẫu vật từ các bộ sưu tập và kiểm tra chúng bằng những công nghệ định lượng tốt nhất có thế mua được. Mọi trang thiết bị có khả năng cần đến đều được bố trí ở đây cho em tuỳ ý sử dụng.

- Anh Peter, những trang bị cần thiết để thực hiện các thí nghiệm này...

- Đâu vào đấy cả rồi - Peter mỉm cười rạng rỡ - Phòng thí nghiệm đã hoàn thành.

Katherine dừng phắt lại.

Peter trỏ xuống hành lang dài.

- Chúng ta sẽ tới tham quan nó bây giờ.

Katherine gần như không nói lên lời.

- Anh... anh xây cho em một phòng thí nghiệm à?

- Công việc của anh mà. Viện Smithsonian được thành lập để phát triển kiến thức khoa học, là Tổng thư ký, anh phải nghiêm túc thực hiện trách nhiệm đó. Anh tin rằng những thí nghiệm em đề xuất có tiềm năng mở rộng biên giới khoa học sang một lãnh địa hoàn toàn mới mẻ - Peter ngừng lời, nhìn thẳng vào mắt em gái - Cho dù em có là em gái anh hay không thì anh cũng cảm thấy có nghĩa vụ phải ủng hộ nghiên cứu này. Những ý tưởng của em rất xuất sắc. Thế giới đáng được biết những thí nghiệm ấy đi đến đâu.

- Anh Peter, em không thể...

- Được rồi, thoải mái đi... nó là tiền riêng của anh, vả lại không ai sử dụng Khoang 5 lúc này cả. Khi làm xong những thí nghiệm của mình, em sẽ chuyển đi. Thêm nữa, Khoang 5 có một số đặc tính độc đáo rất thích hợp cho công việc của em.

Katherine chưa hình dung nổi không gian rộng lớn bỏ không kia sẽ đem lại những gì cho nghiên cứu của mình, nhưng cô cảm thấy sắp tìm ra rồi. Bấy giờ họ tới một cánh cửa thép với dòng chữ khắc đậm: KHOANG 5

Peter đưa thẻ từ qua khe, bảng phím điện tử bật sáng. Ông đưa ngón tay bấm mã truy cập, nhưng rồi dừng lại, nhướng cặp lông mày với vẻ ranh mãnh y như hồi còn là một cậu bé.

- Em dám chắc là mình đã sẵn sàng chứ?

Katherine gật đầu. Anh của em, lúc nào cũng giỏi quảng cáo.

- Lùi lại đi - Peter bấm số.

Cánh cửa thép phát tiếng kêu rè rè và mở ra.

Sau ngưỡng cửa chỉ là một màn tối đen như mực... một khoảng trống toang hoang. Có tiếng rền trống rỗng dường như vọng ra từ sâu thẳm. Katherine cảm thấy khí lạnh thốc vào mặt mình. Chẳng khác gì nhìn xuống Hẻm núi Lớn(19) vào ban đêm vậy.

- Hãy hình dung ra một nhà chứa máy bay còn trống đang đợi một phi đội Airbus - Peter nói - và em sẽ có khái niệm cơ bản.

Katherine bất giác lùi lại một bước.

- Khoang này quá rộng nên không thể sưởi ấm được, còn phòng thí nghiệm của em là một phòng bằng bọt đá núi lửa cách nhiệt, gần như một khối vuông, nằm ở góc xa nhất của khoang để bảo đảm cách biệt tối đa.

Katherine cố gắng tưởng tượng. Một cái hộp bên trong một cái hộp. Cô căng mắt nhìn vào khoảng tối đen, nhưng nó đặc quánh.

- Bao xa ạ?

- Khá xa... nhét được cả một sân bóng vào đây đấy. Phải báo trước với em rằng đi bộ tới nơi là tương đối mệt. Rất tối nữa!

Katherine ngập ngừng nhìn về phía góc phòng.

- Không có công tắc đèn à?

- Khoang 5 chưa được đấu điện.

- Nhưng... thế thì phòng thí nghiệm hoạt động sao được?

Peter nháy mắt.

- Dùng pin nhiên liệu hydrogen.

Katherine há hốc miệng.

- Anh đùa đấy à?

- Có đủ năng lượng sạch để vận hành cả một thành phố nhỏ. Tần số sóng vô tuyến ở phòng thí nghiệm của em hoàn toàn tách biệt với phần còn lại của toà nhà. Toàn bộ bề ngoài khoang này được phủ màng phản quang để bảo vệ các hiện vật bên trong khỏi bức xạ mặt trời. Tóm lại, khoang này là một môi trường khép kín, trung tính với năng lượng.

Katherine bắt đầu hiểu sự hấp dẫn của Khoang 5. Vì rất nhiều nghiên cứu của cô tập trung vào việc định lượng các trường năng lượng mới nên cần tiến hành thí nghiệm ở một nơi tách biệt các bức xạ lạ (hay còn gọi là "tạp âm trắng"), tránh cả sự gây nhiễu từ "bức xạ sóng điện não" (hay còn gọi là "bức xạ tư duy") của những người sống gần đó. Khuôn viên đại học và phòng thí nghiệm bệnh viện đều không đáp ứng được các điều kiện ấy, còn căn hầm chứa bỏ không này lại hoàn hảo tới mức không thể hoàn hảo hơn được nữa.

- Giờ chúng ta vào sâu trong và xem xét nhé - Peter cười tươi, tiến vào khoảng tối đen mịt mùng - Cứ đi theo anh là được.

Katherine ngập ngừng ở ngưỡng cửa. Đi thầm đến hơn 100 thước cơ à? Cô định gợi ý mang đèn pin, nhưng Peter đã tan biến trong bóng tối.

- Anh ơi? - Katherine gọi.

- Hãy vững tin - Peter nói vọng lại, giọng đã khá xa - Em sẽ tìm thấy lối đi. Cứ nghe anh.

Anh ấy đang đùa chắc? Katherine bước vài bước qua ngưỡng cửa, tim đập thình thịch, cố căng mắt dõi vào bóng tối. Mình chẳng nhìn thấy gì cả.

Đột nhiên, cách cửa thép rít lên và đóng sầm lại phía sau, đẩy cô vào bóng tối hoàn toàn. Không có lấy một đốm sáng nào.

- Anh Peter?!

Im lặng.

- Em sẽ tìm thấy lối đi. Cứ nghe anh.

Ngập ngừng, Katherine dò dẫm nhích lên phía trước. Vững tin ư?

Thậm chí còn không nhìn rõ bàn tay xòe ngay trước mặt. Cô tiến thẳng về phía trước, nhưng chỉ vài giây đã hoàn toàn mất phương hướng. Mình đang đi đâu không biết?

Đó là chuyện ba năm về trước.

Giờ đây, khi bước đến trước cánh cửa kim loại nặng nề. Katherine nhận ra mình đã tiến rất xa so với buổi tối đầu tiên ấy. Phòng thí nghiệm - có biệt danh là Khối vuông, một thánh điện ngay trong lòng Khoang 5 - đã trở thành mái ấm của cô. Đúng như Peter tiên đoán, Katherine tìm được đường đi trong bóng tối vào đêm hôm đó, cũng như các hôm khác sau này, nhờ hệ thống chỉ dẫn đơn giản cực kỳ khéo léo mà ông để cô tự khám phá.

Quan trọng hơn là, một lời tiên đoán nữa của Peter cũng đã trở thành hiện thực: thí nghiệm của Katherine đem lại nhiều kết quả phi thường, đặc biệt những đột phá trong sáu tháng vừa qua sẽ làm thay đổi hoàn toàn các mô thức tư duy. Hai anh em thống nhất giữ bí mật tuyệt đối cho tới khi hiểu thật rõ mọi hàm ẩn. Tuy nhiên, Katherine biết rằng một ngày gần đây cô có thể công bố vài phát kiến khoa học, những phát kiến có tính cách mạng nhất trong lịch sử loài người.

Một phòng thí nghiệm bí mật trong một bảo tàng bí mật, Katherine nghĩ thầm, tay nhét thẻ từ vào cánh cửa Khoang 5. Đợi bảng phím điện tử bật sáng, cô nhập mã PIN của mình.

Cánh cửa thép rít lên.

Tiếng rền rĩ quen thuộc vang ra kèm theo luồng khí lạnh giá thường lệ, và như mọi lần. Katherine cảm thấy mạch đập của mình bắt đầu tăng vọt.

Hành trình thường lệ kỳ lạ nhất trên trái đất.

Gắng trấn tĩnh để bắt đầu chuyến đi bộ, Katherine Solomon liếc đồng hồ đeo tay và bước vào không gian trống rỗng. Tuy nhiên, tối nay, một ý nghĩ khó chịu cứ bám riết lấy cô. Peter đang ở đâu nhỉ?

Chú thích:

(18) Sitting Bull (1831 - 1890) là tù trưởng bộ lạc da đỏ Hunkpapa Lakota. Sitting Bull Chỉ huy dân da đỏ trong cuộc chiến chống quân đội Hoa Kỳ và nổi tiếng đánh thắng trong trận Little Bighorn - ND.

19. Hẻm núi Lớn (Grand Canyon) là một khe núi dốc được tạo ra bởi sông Colorado ở bang Arizona, Hoa Kỳ, hàng triệu năm về trước, với độ dài 446 km, rộng 0,4 đến 24 km và sâu hơn 1600 mét. Nơi đây được xem như một "cuốn sách truyện vĩ đại" vì có thể quan sát được các tầng, lớp khác nhau của vỏ Trái đất hình thành trong suốt hơn 2 tỷ năm - ND.

Chương 12

Trent Anderson, chỉ huy cảnh sát Điện Capitol, phụ trách an ninh ở khu vực đầu não của Hoa Kỳ đã hơn mười năm nay. Anh là người đàn ông vạm vỡ, tóc đỏ, ngực nở, khuôn mặt rắn rỏi, có dáng dấp quân nhân nhờ kiểu đầu luôn cạo ngắn, vũ khí thường kè kè bên hông như cảnh cáo bất kỳ kẻ ngu ngốc nào dám chất vấn mức độ quyền lực của người đeo nó.

Phần lớn thời gian, Anderson có mặt trong trung tâm giám sát công nghệ cao đặt tại tầng hầm Điện Capitol để phối hợp từ xa với nhóm sĩ quan cảnh sát của mình. Ở đây, anh điều hành một đội kỹ thuật viên theo dõi các màn hình, các kết quả thông báo của máy tính và giữ liên lạc với cán bộ an ninh dưới quyền thông qua một tổng đài điện thoại.

Tối nay Điện Capitol yên ắng một cách khác thường, và Anderson rất hài lòng. Anh hy vọng xem được một chút trận đấu của đội bóng áo đỏ trên chiếc ti vi màn hình phẳng ở văn phòng mình. Song trận đấu chỉ vừa bắt đầu thì bộ đàm của anh réo vang.

- Thưa Chỉ huy?

Anderson bật rên, bấm nút hồi đáp mà mắt vẫn dán vào ti vi.

- Chúng ta có chút rắc rối ở Nhà tròn. Tôi vừa cử nhân viên tới đó rồi, nhưng tôi nghĩ Chỉ huy sẽ muốn xem qua tình hình đấy.

- Được! - Anderson bước vào trung tâm an ninh đầu não, một cơ sở hiện đại thu gọn đầy ắp những màn hình máy tính - Cậu tìm được gì thế?

Kỹ thuật viên đang chuyển một đoạn video kỹ thuật số lên màn hình.

- Máy quay ban công phía đông Nhà tròn. Hai mươi giây trước. - Anh ta cho chạy đoạn phim.

Anderson nhìn qua vai kỹ thuật viên.

Hôm nay Nhà tròn gần như vắng tanh, chỉ lác đác vài ba khách du lịch. Con mắt nhà nghề của Anderson lập tức chú ý tới một người đi một mình và di chuyển nhanh hơn hẳn những người khác. Đầu trọc lốc áo khoác kiểu quân đội màu xanh lục. Cánh tay bị thương đeo băng. Hơi tập tễnh. Dáng đi lom khom. Đang nói chuyện điện thoại.

Tiếng bước chân của gã trọc vang lên khô đanh trên loa cho tới khi đột ngột dừng lại, chính giữa Nhà tròn. Gã kết thúc cuộc trò chuyện và quỳ xuống như thể buộc dây giày. Nhưng thay vì buộc giày, gã lôi một vật ra khỏi băng đeo tay và thả nó xuống sàn. Sau đó gã đứng lên và tập tễnh tiến ra cửa phía đông.

Anderson chăm chú ngó vật thể kỳ dị mà gã kia để lại sau. Cái gì thế nhỉ? Nó cao khoảng 20 cm và dựng đứng. Anderson cúi sát màn hình hơn rồi nheo mắt nhìn. Trông giống lăm, nhưng nhất định không phải!

Bằng những bước chân vội vã, gã trọc nhanh chóng biến mất sau cánh cửa phía đông. Tiếng một cậu bé vang lên cạnh đó:

- Mẹ ơi, ông kia đánh rơi cái gì ấy.

Cậu ta tiến tới gần vật nọ, nhưng lại dừng ngay tắp lự. Bất động hồi lâu, cậu đột ngột trỏ tay và hét lên chói tai.

Ngay lập tức, viên Chỉ huy xoay người lao ra cửa, vừa chạy vừa quát to ra lệnh.

- Liên lạc với tất cả các trạm! Tìm ngay một gã trọc tay băng bó và chặn gã lại. NGAY LẬP TỨC!

Anh lao ra khỏi trung tâm an ninh, nhảy ba bậc một trên mặt cầu thang mòn vẹt. Tín hiệu an ninh cho thấy gã trọc tay băng bó rời Nhà tròn qua cổng phía đông. Do đó, lối ngắn nhất ra khỏi toà nhà sẽ dẫn gã theo hành lang đông-tây, ngay phía trước kia.

Mình có thể chặn đường hắn.

Khi lên đến bậc trên cùng và ngoặt khỏi góc tường, Anderson quan sát hành lang vắng vẻ trải dài trước mặt. Chỉ có một đôi vợ chồng già tay trong tay đi bộ thơ thẩn ở tít đầu bên kia. Gần đó là một du khách tóc vàng mặc chiếc áo phông màu lam đang đọc cuốn sách hướng dẫn và ngắm nhìn phần trần nhà đắp nổi bên ngoài phòng họp Hạ viện.

- Xin lỗi, - Anderson hỏi và chạy lại phía anh ta - Anh có thấy một người trọc đầu tay băng bó không?

Người kia rời mắt khỏi cuốn sách với vẻ mặt ngơ ngác.

- Một người trọc đầu, tay băng bó! - Anderson nhắc lại rành rẽ hơn - Anh có nhìn thấy hắn không?

Vị khách tỏ vẻ ngần ngừ, đoạn lo lắng liếc về đầu phía đông của hành lang.

- A, vâng, - anh ta nói - Tôi nghĩ hắn vừa chạy ngang qua tôi... tới lối cầu thang đằng kia - Anh ta trỏ xuống sảnh.

Anderson rút bộ đàm và quát to.

- Tất cả các trạm! Đối tượng tình nghi tiến ra lối đông nam. Tập hợp! - Anh gác máy và giật tung vũ khí ra khỏi bao, chạy về hướng được chỉ.

***

Ba mươi giây sau, tại một lối ra vắng vẻ bên mạn đông của Điện Capitol, người đàn ông tóc vàng to khỏe trong chiếc áo phông màu lam bước vào trời đêm ẩm ướt. Gã mỉm cười, tận hưởng không khí mát mẻ buổi tối.

Thay hình đổi dạng.

Quá dễ dàng.

Chỉ một phút trước, gã còn vội vàng tập tễnh ra khỏi Nhà tròn trong tấm áo khoác quân đội. Lẩn vào một hốc tường tối, gã lột nhanh áo khoác, để lộ chiếc áo phông màu lam bên trong. Trước khi bỏ lại áo khoác, gã lôi ra một mớ tóc giả màu vàng và đội lên đầu mình. Sau đó, gã đứng thẳng dậy, móc từ áo phông ra một cuốn sách hướng dẫn về Washington và bình thản rời khỏi hốc tường với dáng vẻ tinh tươm.

Thay hình đổi dạng. Đó là tài nghệ của ta.

Bằng những sải chân dài, Mal'akh tiến về phía chiếc Limousine đang chờ sẵn. Gã cong lưng, đứng thẳng lên với chiều cao gần 1m9 và vươn vai. Gã hít thật sâu đê không khí tràn vào căng phổi, cảm thấy đôi cánh phượng hoàng xăm trên ngực đang quạt rộng ra.

Giá như họ biết sức mạnh của ta. Mal'akh nghĩ, đăm đăm nhìn về phía thành phố. Đêm nay quá trình chuyển đổi của ta sẽ hoàn tất.

Mal'akh đã chơi những con bài của mình rất điệu nghệ ngay trong Điện Capitol, qua đó thể hiện sự kính nể đối với tất cả những nghi thức cổ xưa. Lời mời cổ xưa đã được gửi đi. Nếu Langdon chưa hiểu được vai trò của ông ta ở đây tối nay thì chỉ lát nữa ông ta sẽ hiểu.

Chương 13

Nhà tròn Điện Capitol - cũng như nhà thờ Thánh Peter - luôn khiến Robert Langdon ngạc nhiên. Về lý thuyết, anh vẫn biết gian phòng này lớn tới mức thừa chỗ đặt tượng Thần Tự do, nhưng chẳng hiểu sao anh vẫn cảm thấy nó rộng hơn và thiêng liêng hơn mình nghĩ nhiều, như thể có các linh hồn lẩn quất trong không trung vậy.

Tuy thế, đêm nay ở đây chỉ có sự hỗn loạn.

Các sĩ quan cảnh sát Điện Capitol vừa triển khai bao vây Nhà tròn vừa cố gắng xua đám du khách hoảng loạn tách xa khỏi bàn tay. Cậu bé con vẫn khóc. Chợt có ánh đèn sáng rực nhá lên - một khách tham quan đang chụp ảnh. Mấy nhân viên an ninh lập tức ngăn cản, giằng lấy máy ảnh và dẫn ông ta đi. Giữa tình cảnh lộn xộn ấy, Langdon như bị thôi miên, cứ vô thức len lỏi qua đám đông, nhích lại gần bàn tay.

Bàn tay phải của Peter Solomon dựng thẳng đứng, cổ tay bị chém rất ngọt gắn liền với đế gỗ nhỏ nhờ một cái xiên. Ngón giữa, ngón vô danh và ngón út gập lại, còn ngón cái và ngón trỏ duỗi hẳn ra, chỉ thẳng lên mái vòm cao vút.

- Tất cả lùi lại! - một sĩ quan hô.

Bấy giờ Langdon đã đứng khá gần, đủ để trông thấy vết máu khô chảy từ cổ tay và đông lại trên đế gỗ. Nếu chết rồi thì vết thương không thể chảy máu... tức là Peter còn sống. Langdon không biết mình nên cảm thấy nhẹ nhõm hay ghê sợ. Peter bị chặt tay khi vẫn còn sống ư? Anh sực nhớ lại bao nhiêu lần người bạn thân thiết chìa chính bàn tay này ra để bắt tay hoặc âu yếm ôm lấy mình. Túi mật như lộn lên tận cổ họng anh.

Trong khoảnh khắc, đầu óc Langdon trống rỗng, y hệt ti vi mất sóng. Rồi hình ảnh rõ nét đầu tiên bật ra đột ngột.

Một chiếc vương miện... và một ngôi sao.

Langdon cúi xuống, chăm chú nhìn đau ngón tay cái và trỏ của Peter. Những hình xăm? Thật khó tin, chắc đây là tác phẩm của chính tên quái vật đã chặt tay Peter.

Trên ngón cái là hình vương miện. Còn trên ngón trỏ là hình ngôi sao.

Không thể nào! Hai dấu hiệu nọ lập tức đánh mạnh vào cân não Langdon, biến cảnh tượng hãi hùng trước mắt anh thành một điều gì gần như phi thực. Vương miện và ngôi sao đã xuất hiện rất nhiều lần trong lịch sử, luôn luôn cùng nhau và cùng một chỗ - trên những đầu ngón tay của một bàn tay. Nó là một trong những biểu tượng thần bí và được thèm muốn nhất của thế giới cổ đại.

Mật Thủ(20).

Biểu tượng này tuyệt tích đã lâu, nhưng xưa kia, nó tượng trưng cho một lời hô hào mạnh mẽ. Langdon căng óc, cố tìm hiểu ý nghĩa của cái vật kỳ quái trước mặt mình. Kẻ nào đó dùng bàn tay Peter để tạo Mật Thủ? Thật không thể tưởng tượng nổi. Theo truyền thống, biểu tượng được khắc trên đá, gỗ hoặc thể hiện qua hình vẽ. Chăng ai lấy xương thịt con người làm Mật Thủ. Y tưởng này thật kinh tởm.

- Thưa ông? - một nhân viên an ninh lên tiếng phía sau Langdon - Xin hãy lùi lại.

Langdon hầu như không nghe thấy. Còn những hình xăm khác nữa. Mặc dù không nhìn được ba đầu ngón tay còn lại, nhưng Langdon biết chúng cũng sẽ mang những dấu hiệu đặc biệt riêng. Đó là truyền thống. Tổng cộng có năm biểu tượng. Đã mấy ngàn năm qua, những biểu tượng trên các đầu ngón tay Mật Thủ chưa bao giờ thay đổi... hàm ý của nó cũng vậy.

Bàn tay thể hiện... một lời mời.

Langdon rùng mình khi nhớ lại câu nói của gã đàn ông đã kéo anh tới đây. Thưa Giáo sư đây là lời mời đáng giá nhất đời ông đấy. Thật vậy, Mật Thủ thời xưa có vai trò như lời mời quý giá nhất trên trái đất. Nhận được biểu tượng này tức là nhận được lệnh triệu tập thiêng liêng để gia nhập một nhóm tinh tuý gồm toàn những người bảo vệ cho sự uyên thâm bí ẩn của mọi thời đại. Lời mời vừa là một vinh dự, vừa ngụ ý rằng bề trên tin tưởng anh xứng đáng nhận được sự uyên thâm ấy, và như thế, Mật Thủ chính là bàn tay của bề trên chìa ra cho kẻ nhập môn.

- Thưa ông - nhân viên an ninh nhắc lại, đồng thời đặt bàn tay rắn rỏi của anh ta lên vai Langdon - Yêu cầu ông lùi lại ngay.

- Tôi biết thứ này có ý nghĩa gì, - Langdon giãy ra - Tôi có thể giúp các anh.

- Lùi lại ngay! - người bảo vệ nói.

- Bạn tôi đang bị đe doạ. Chúng ta phải...

Những cánh tay mạnh mẽ kéo Langdon lên và lôi anh ra xa bàn tay. Langdon đành buông xuôi... lòng dạ rối bời đến nỗi không đủ sức kháng nghị. Anh đã nhận được một lời mời chính thức. Kẻ nào đó đang triệu tập anh đến mở cánh cổng huyền hoặc dẫn vào một thế giới khác - thế giới của những điều bí ẩn cổ xưa và những tri thức chưa ai hay biết.

Nhưng tất cả thật điên rồ.

Đều do ảo tưởng của một kẻ tâm thần.

Chú thích:

(20) Mật Thủ (Hand of the Mysteries - Bàn tay kỳ bí) là bàn tay mang rất nhiều biểu tượng (chìa khoá). Hình tượng này được xem như bàn tay của một triết gia chìa ra đón nhận những người bước vào thế giới của những điều bí mật. Về mặt triết học, mỗi biểu tượng trên bàn tay chính là một điều bí mật, mà nếu hiểu được chúng, con người sẽ khai mở được những "căn phòng" trong chính mình - ND.

Chương 14

Chiếc Limousine dài thượt của Mal'akh nhẹ nhàng rời xa Điện Capitol, tiến về phía đông, xuôi xuống Đại lộ Độc Lập. Một đôi nam nữ trên vỉa hè cố căng mắt nhìn qua những ô cửa sau lắp kính màu, hy vọng trông thấy yếu nhân ngồi bên trong.

Ta ở đằng trước cơ mà. Mal'akh nghĩ thầm, tự mãn cười với mình.

Gã ưa thích cái cảm giác quyền lực khi tự lái chiếc xe hơi đồ sộ này. Ở nhà còn năm chiếc xe hơi nữa, nhưng không chiếc nào đem lại điều gã cần tối nay, đó là sự đảm bảo riêng tư. Riêng tư hoàn toàn.

Những chiếc Limousine ở Washington đều được hưởng một sự miễn trừ bất thành văn. Người ta gọi chúng là toà đại sứ trên các bánh xe.

Đám cảnh sát làm việc gần đồi Capitol chẳng bao giờ dám chắc mình có thể chặn phải nhân vật thần thế cỡ nào ngồi trong một chiếc Limousine, nên đơn giản nhất là tránh voi chẳng xấu mặt nào.

Khi vượt sông Anacostia sang địa phận Maryland, Mal'akh cảm thấy lực hút của số phận đang cuốn mình tới chỗ Katherine. Nhiệm vụ thứ hai trong đêm nay đang vẫy gọi mình... một nhiệm vụ chưa bao giờ mình tưởng tượng nổi. Đêm qua, Peter Solomon đã tiết lộ điều bí mật cuối cùng, nhờ đó Mal'akh biết về sự tồn tại của một phòng thí nghiệm, nơi Katherine Solomon đang thực hiện những phép màu và đạt được nhiều bước đột phá vĩ đại tới mức đủ sức thay đổi cả thế giới, một khi chúng được công bố.

Công việc đó sẽ hé lộ bản chất thật của tất cả mọi điều.

Đã nhiều thế kỷ nay, "những bộ óc sáng láng nhất" trên trái đất đều phủ nhận khoa học cổ đại. Tự trang bị cho mình thái độ hoài nghi thiển cận, họ thường chế giễu khoa học cổ là dị đoan ngu ngốc, trong khi đó lại ngất ngây vì công nghệ mới - vốn là thứ chỉ càng kéo họ rời xa chân lý. Những đột phá của thế hệ trước luôn bị công nghệ của thế hệ sau chứng minh là sai lầm, và cứ thế tình trạng này diễn ra qua nhiều thời đại. Con người càng học hỏi thì càng nhận thấy mình chẳng hiểu biết gì hết.

Mấy nghìn năm qua, nhân loại vẫn đang dò dẫm trong bóng tối... nhưng giờ đây, sắp có một sự thay đổi, đúng như lời tiên tri. Lần mò mãi trong lịch sử, cuối cùng nhân loại cũng đến được một giao lộ.

Khoảng khắc này đã được dự đoán từ lâu, được tiên tri trong những văn bản cổ xưa, những cuốn lịch nguyên thuỷ, thậm chí trong chính các vì sao. Ngày tháng rất cụ thể, và nó sắp đến. Dẫn đường cho nó là sự bùng nổ tri thức vĩ đại... là luồng ánh sáng soi rọi bóng tối, cho nhân loại cơ hội cuối cùng để tránh xa vực thẳm và tiến vào con đường trí tuệ.

Ta đến để xua tan ánh sáng, Mal'akh nghĩ. Đây là vai trò của ta.

Số phận đã gắn gã với Peter và Katherine Solomon. Những đột phá mà Katherine thực hiện trong SMSC có nguy cơ tháo cũi xổ lồng cho tư duy tương lai, bắt đầu thời đại Khai sáng mới. Một khi cô cho công bố những khám phá đó, chúng sẽ trở thành chất xúc tác, thành nguồn cảm hứng để nhân loại phát hiện lại những tri thức đã mất, tạo ra nhiều quyền năng khó tả.

Định mệnh của Katherine là thắp lên ngọn đuốc.

Còn định mệnh của ta là dập tắt nó.

Chương 15

Katherine Solomon dò dẫm trong bóng tối mịt mùng, gắng tìm cửa ngoài của phòng thí nghiệm. Khi chạm tới cánh cửa lót chì ấy, cô ra sức kéo mạnh và lách nhanh vào tiền sảnh nhỏ xíu. Chỉ mất 90 giây để băng qua khoảng không mông lung nọ, vậy mà tim cô đập dữ dội.

Ba năm đã qua, chắc anh tưởng em quen với quãng đường đó rồi phải không? Katherine luôn cảm thấy an tâm khi thoát khỏi màn đen của Khoang 5 và bước vào không gian sáng sủa, sạch sẽ này.

"Khối vuông" là một cái hộp khổng lồ không có cửa sổ. Lưới sợi chì bọc titan trải kín từng li tường và trần nhà, y như một cái chuồng khổng lồ xây dựng bên trong hàng rào xi măng. Không gian này được chia thành nhiều ngăn khác nhau như phòng thí nghiệm, phòng điều khiển, phòng máy, phòng tắm và một thư viện nghiên cứu nhỏ... nhờ các vách ngăn bằng kính mờ Plexiglas.

Katherine nhanh nhẹn bước vào phòng thí nghiệm chính. Đây là một nơi làm việc sáng sủa và vô trùng, trang bị nhiều thiết bị định lượng tiên tiến: các máy điện não đồ, một máy femto giây(21), một bẫy quang từ, và công cụ phân tích xác suất dựa trên tiếng ồn điện tử (hay gọi đơn giản là Máy tạo Biến cố Ngẫu nhiên).

Các trang thiết bị và công nghệ phục vụ việc nghiên cứu Lý trí học tuy rất tiên tiến, song chính những phát kiến lại bí ẩn hơn hẳn đám máy móc lạnh lẽo dùng để tạo ra chúng kia. Những dữ liệu mới được nạp vào sẽ mau chóng biến nhiều phép màu và huyền thoại thành hiện thực, điều này củng cố cho hệ tư tưởng cơ bản của lý trí học, đó là: trí óc con người vẫn còn nhiều tiềm năng chưa khai phá hết.

Luận thuyết chung rất đơn giản: Chúng ta mới chỉ chạm đến bề mặt trí tuệ và năng lực tinh thần của mình mà thôi.

Thông qua thí nghiệm, một vài cơ sở như Viện Khoa học Tinh thần (IONS) tại California và Phòng Nghiên cứu những Dị thường Công nghệ Princeton (PEAR) đã khẳng định rằng suy nghĩ của con người, nếu được tập trung một cách thích hợp, có khả năng tác động và thay đổi khối lượng vật chất. Thí nghiệm của họ không phải là dạng tiểu xảo mua vui ở các phòng khách như kiểu "bẻ cong thìa", mà là những thẩm định được kiểm soát kỹ càng và đem lại cùng một kết quả phi thường: tư duy con người tương tác với thế giới vật chất, thậm chí có khả năng thay đổi tới cả lĩnh vực hạ nguyên tử, cho dù con người có biết điều đó hay không.

Ý thức bao trùm vật chất.

Năm 2001, trong những thời khắc tiếp theo sự kiện hãi hùng ngày 11 tháng 9, lĩnh vực Lý trí học đã đạt được bước tiến vượt bậc. Bốn nhà khoa học phát hiện ra rằng, khi thế giới hoảng loạn cố kết lại và cùng hướng mọi sự chú ý vào thảm kịch này trong nỗi sợ hãi chung thì kết quả của ba mươi bảy Máy tạo Biến cố Ngẫu nhiên khác nhau trên khắp thế giới đột ngột trở nên bớt ngẫu nhiên rõ rệt. Bằng cách nào đó, sự đồng nhất về trải nghiệm, sự tập hợp của hàng triệu bộ óc đã ảnh hưởng đến chức năng ngẫu nhiên hoá của những cỗ máy, hệ thống các thông tin đầu ra của chúng và tạo lập được một trật tự từ trong hỗn loạn.

Xem ra, phát hiện đáng kinh ngạc ấy trùng khớp với một tín điều xa xưa, theo đó người ta tin tưởng vào "ý thức vũ trụ" - một tập hợp to lớn những ý hướng con người mà trên thức tế có thể tương tác với thế giới vật chất. Gần đây, các nghiên cứu về thiền định và cầu nguyện tập thể cũng đem lại những kết quả tương tự trên các Máy tạo Biến cố Ngẫu nhiên, củng cố thêm nhận định của tác giả Lý trí học Lynne McTaggart: ý thức con người là một thực thể bên ngoài những giới hạn cơ thể, là một năng lượng có tổ chức cao đủ khả năng thay đổi thế giới vật chất. Katherine say mê cuốn sách Cuộc du hành vào Ý thức của McTaggart, cũng như rất quan tâm đến công trình nghiên cứu qua Web của nữ tác giả này. Tại địa chỉ themtentionexperimnent.com, McTaggart tiến hành các thực nghiệm nhằm khám phá xem ý niệm con người tác động ra sao đến thế giới. Bên cạnh đó, còn một số nghiên cứu khá cách tân, lưu hành dưới dạng văn bản, cũng khơi gợi nhiều hứng thú của Katherine.

Nền tảng này giúp Katherine tiến nhanh hơn trong công việc, giúp cô chứng minh được rằng "tập hợp tư duy" đủ sức tác động đến bất kỳ thứ gì, từ khả năng tăng trưởng của cây cối, hướng cá bơi trong bát, cách tế bào phân chia trên đĩa cấy vi khuẩn, quá trình đồng bộ hoá những hệ thống tự động tách biệt, đến các phản ứng hoá học trong cơ thể ai đó. Thậm chí ý niệm cá nhân có thể biến đổi cả cấu trúc kết tinh của một chất rắn mới hình thành. Katherine đã tạo ra những tinh thể băng đối xứng hoàn hảo bằng cách truyền suy nghĩ trìu mến vào một ly nước khi nó đóng băng. Thật kỳ diệu, trường hợp ngược lại cũng thu được kết quả tương ứng: khi Katherine truyền những suy nghĩ tiêu cực, ô nhiễm vào nước, các tinh thể băng liền hình thành dưới dạng hỗn độn, dễ đứt gãy.

Tư duy con người có thể biến đổi thế giới vật chất.

Khi tiến hành những thí nghiệm táo bạo hơn, Katherine càng thu được nhiều kết quả đáng kinh ngạc. Công việc của cô đã chứng minh rằng "ý thức bao trùm vật chất" hiển nhiên không chỉ là câu thần chú tự huyễn hoặc của Kỷ nguyên Mới. Ý thức có khả năng thay đổi trạng thái của vật chất, và quan trọng hơn, ý thức có đủ sức mạnh khuyến khích thế giới vật chất dịch chuyển theo một hướng nhất định.

Chúng ta chính là chủ nhân của vũ trụ.

Ở mức độ hạ nguyên tử, Katherine nhận thấy các hạt tồn tại hay tiêu biến hoàn toàn phụ thuộc vào việc cô có muốn quan sát chúng hay không. Nói theo một nghĩa nào đó là niềm ước mong được nhìn thấy một, hạt... đã làm hạt đó xuất hiện. Nhiều thập kỷ trước, Heisenberg từng đề cập đến thực tế này, và giờ đây nó trở thành một nguyên tắc cơ bản của khoa Lý trí học. Theo Lynne McTaggart thì: "Bằng cách này hay cách khác, ý thức sống có tác động đến việc biến khả năng thành sự thật. Yếu tố quan trọng nhất tạo ra vũ trụ của chúng ta chính là ý thức quan sát vũ trụ đó".

Chưa hết, các nghiên cứu của Katherine còn đưa đến một nhận định hết sức phi thường: nếu biết luyện tập, ta có thể tăng cường mức độ ảnh hưởng của ý thức lên thế giới vật chất, ý thức là một kỹ năng hình thành được nhờ rèn giũa. Cũng như ngồi thiền, muốn khai thác sức mạnh thật sự của "tư duy, thì phải luyện tập. Quan trọng hơn... một số người bẩm sinh thành thạo trong việc điều khiển ý thức hơn những người khác, và trước đây đã có vài người thật sự trở thành những bậc thầy.

Đó là mắt xích còn thiếu giữa khoa học hiện đại và thuyết thần bí cổ xưa.

Katherine học được điều này từ người anh trai, Peter. Vừa sực nhớ về ông, cô lại cảm thấy vô cùng lo lắng. Cô bước tới thư viện và ngó vào.

Vắng ngắt.

Thư viện là một phòng đọc nhỏ với hai chiếc ghế Morris, một bàn gỗ hai cây đèn đứng và một giá sách bằng gỗ gụ áp sát tường chất khoảng 500 cuốn sách. Sách này là do Katherine và Peter góp chung, nội dung bao gồm mọi đề tài họ yêu thích, từ vật lý hạt đến chủ nghĩa thần bí cổ xưa. Bộ sưu tập của họ đã phát triển thành một hỗn hợp dung hoà cả mới và cũ, tiên tiến và lịch sử. Hầu hết sách của Katherine mang những tựa đề như Ý thức Lượng tử Vật lý học Mới và Những Nguyên tắc của Thần kinh học. Còn sách của anh trai cô mang những cái tên khó hiểu hơn, cổ kính hơn như Kybalion(22), Zohar(23), Các bậc thầy vật lý nhảy múa(24), và một bản dịch thẻ sách của người Sumeria lấy từ Bảo tàng Anh quốc.

Peter thường nói:

- Chìa khoá cho tương lai khoa học được cất giấu trong quá khứ của chúng ta.

Là một học giả cống hiến cả đời cho lịch sử, khoa học và chủ nghĩa thần bí, Peter chính là người đầu tiên khích lệ Katherine nâng cao kiến thức ở bậc đại học bằng những hiểu biết về triết học Hermetic sơ khai. Katherine chỉ mới 19 tuổi khi Peter khơi dậy nơi cô sự quan tâm đối với mối liên hệ giữa khoa học hiện đại và chủ nghĩa thần bí cố xưa.

- Nào Kate, hãy cho anh biết - Peter đề nghị vào kỳ nghỉ năm thứ hai của Katherine - Thời buổi này sinh viên Đại học Yale - đọc gì về vật lý lý thuyết?

Katherine đứng trong thư viện bao la sách của gia đình và liệt kê danh mục sách cần đọc.

- Rất ấn tượng, - Peter nhận xét - Einstein, Bohr, và Hawking là những thiên tài hiện đại. Nhưng em đã đọc gì xa xưa hơn nữa chưa?

Katherine gãi đầu.

- Ý anh là kiểu như... Newton?

- Tiếp tục xem nào - Peter mỉm cười. Ở tuổi 27, anh đã nổi danh trong giới học thuật, và thường cùng em gái tận hưởng hình thức đối đáp giải trí rất trí tuệ này.

Còn xa xưa hơn cả Newton cơ à? Những cái tên cũ kỹ như Ptolemy, Pythagoras, và Hermes Trismegistus nảy ra trong đầu Katherine. Làm gì còn ai đọc những thứ ấy nữa.

Peter rà một ngón tay dọc theo giá sách dài toàn những bìa da nứt nẻ và hàng tập sách cũ kỹ nhuốm bụi.

- Kiến thức khoa học của người xưa cực kỳ đáng nể... vật lý hiện đại giờ đây chỉ mới bắt đầu hiểu về nó mà thôi.

- Anh Peter, - Katherine nói - anh từng kể với em rằng người Ai Cập biết về đòn bẩy và ròng rọc từ rất lâu trước thời Newton, và rằng các nhà giả kim cổ đại chẳng kém cạnh gì hoá học gia hiện đại, nhưng thế thì sao? Vật lý học ngày nay giải quyết được những khái niệm mà cổ nhân không thể tưởng tượng nổi kia.

- Chẳng hạn như...?

- Chà... chẳng hạn thuyết rối lượng tử! Các nghiên cứu hạ nguyên tử đã chứng minh rõ ràng rằng mọi vật chất có liên hệ qua lại, chúng cùng mắc vào một mạng lưới duy nhất... một dạng tổng thể vũ trụ.

- Anh định nói với em rằng người cổ đại đã từng ngồi với nhau thảo luận về thuyết rối lượng tử chắc?

- Hẳn rồi! - Peter đáp, gạt mớ tóc đen dài trước trán cho khỏi vướng mắt mình - Sự liên hệ là cốt lõi của những tín điều nguyên thuỷ. Tên gọi của nó cũng xa xưa như chính lịch sử vậy... Dharmakaya(25), Đạo Bà la môn(26). Trên thực tế, cuộc truy tìm tinh thần cổ xưa nhất của con người là nhận thức về sự ràng buộc của bản thân, để cảm nhận mối liên hệ qua lại giữa mình với tất cả mọi thứ. Con người luôn muốn trở thành "một chủ thể" cùng với vũ trụ... để đạt tới nhất thể trạng (at-one-ment). - Anh nhướng mày - Cho đến nay, người Do Thái và người Thiên Chúa giáo vẫn cố gắng "chuộc tội" (atonement)... mặc dù hầu hết chúng ta đã quên rằng chính "nhất thể trạng" mới thực sự là thứ chúng ta đang tìm kiếm.

Katherine thở dài, sực nhớ ra rằng khó lòng tranh luận được với một người quá thông thạo lịch sử.

- Được rồi, nhưng mà anh đang nói đến những thứ tổng quát. Còn em thì nói về vật lý cụ thể.

- Vậy thì cụ thể nhé - Đôi mắt tinh anh của Peter ánh lên thách thức.

- Vâng, thế những thứ đơn giản như tính phân cực, hay cân bằng dương/âm của lĩnh vực hạ nguyên tử thì sao nào? Rõ ràng, người cổ đại không hiệu...

- Từ từ đã! - Peter rút ra một văn bản phủ bụi và đập mạnh xuống bàn - Tính phân cực hiện đại chính là "thế giới kép" đã được Krishna(27) mô tả trong cuốn Bhagavad Gita(28) này từ hơn 2000 năm trước. Ở đây có hàng chục cuốn sách khác, kể cả Kybalion, nói về các hệ đôi và lực đối lập trong tự nhiên.

Katherine tỏ vẻ hoài nghi.

- Vâng, nhưng nếu bàn về phát hiện hiện đại liên quan đến hạ nguyên tử, chẳng hạn nguyên tắc bất định Heisenberg...

Khi đó ta phải xem ở đây, - Peter ngắt lời, sải bước dọc giá sách dài và rút ra một cuốn sách khác - Những quyển Kinh Vệ đà của người Hindu được gọi là Upanishads(29) - Anh đặt mạnh cuốn sách lên trên cuốn thứ nhất - Heisenberg và Schrodinger đã nghiên cứu tài liệu này và ghi rõ rằng nó giúp họ hình thành một số luận thuyết riêng.

Cuộc tranh luận còn tiếp tục vài phút nữa, chồng sách bụi bặm trên bàn càng lúc càng cao. Cuối cùng, Katherine giơ tay chịu thua.

- Được rồi! Anh đã thắng, nhưng em muốn nghiên cứu vật lý lý thuyết tiên tiến. Tương lai của khoa học! Em cho rằng Krishna hay Vyasa(30) chẳng có gì nhiều để mà đề cập tới lý thuyết siêu dây và các mô hình vũ trụ học đa chiều đâu.

- Em nói đúng. Họ không hề đả động đến - Peter ngừng lời, môi thoáng nụ cười - Khi em nêu ra lý thuyết siêu dây... - Anh tiến lại gần giá sách lần nữa - tức là em đang nhắc tới cuốn sách này- Anh lôi ra một cuốn sách bọc da to tướng và ném rất mạnh xuống bàn - Bản dịch thế kỷ XIII từ nguyên bản tiếng Syria trung cổ.

- Lý thuyết siêu dây vào thế kỷ XIII? - Katherine ngờ vực - Anh tiếp đi!

Lý thuyết siêu đây là một mô hình vũ trụ học hết sức mới mẻ. Thông qua những quan sát khoa học gần đây nhất, nó hé mở về một vũ trụ đa chiều được cấu thành không phải từ ba... mà từ mười chiều, tất cả đều tương tác như những sợi dây dao động, tương tự các dây đàn vĩ cầm cộng hưởng.

Katherine im lặng chờ đợi. Trong khi đó, anh trai cô mở sách, lướt qua phần mục lục được in rất đẹp rồi búng tay vào một chỗ gần đầu cuốn sách.

- Đọc đoạn này đi - Anh trỏ vào một trang văn bản và biểu đồ đã mờ.

Hết sức nghiêm túc, Katherine xem kỹ trang sách. Bản dịch dùng nhiều từ cổ và rất khó đọc, nhưng trước sự ngạc nhiên hoàn toàn của cô gái, quả thực lời văn và các hình vẽ mô tả một vũ trụ mười chiều với những sợi dây cộng hưởng y hệt mô hình vũ trụ theo lý thuyết siêu dây hiện đại. Vừa đọc tiếp xuống dưới, Katherine bỗng há hốc miệng và nhảy dựng lên.

- Chúa ơi, thậm chí nó còn mô tả rõ sáu chiều liên hệ với nhau thế nào và vận hành như một chỉnh thể ra sao? - Cô thảng thốt giật lui một bước - Cuốn sách này là gì vậy?

Peter cười toe toét.

- Là thứ mà anh hy vọng một ngày kia em sẽ đọc - Anh lại búng tay lên trang bìa, nhan đề gồm ba chữ in rất đẹp.

Zohar Toàn tập.

Mặc dù chưa bao giờ đọc Zohar nhưng Katherine đã nghe nói nó là tài liệu căn bản của thuyết thần bí Do Thái cổ đại, và chỉ dành cho những giáo sĩ thông thái nhất.

Cô nhìn cuốn sách.

- Vậy là xưa kia, những người theo thuyết thần bí đã biết vũ trụ của họ có mười chiều rồi ư?

- Chính xác - Peter ra hiệu về phía hình minh hoạ tên là Sephiroth(31) gồm mười vòng tròn đan xen vào nhau trên trang sách - Rõ ràng, thuật ngữ thì khó hiểu nhưng bản chất rất tiên tiến.

Katherine không biết phản ứng thế nào.

- Nhưng... tại sao sau họ không còn ai nghiên cứu vấn đề này?

Peter mỉm cười.

- Còn chứ.

- Em không hiểu.

- Katherine, chúng ta sinh ra trong một thời đại tuyệt vời. Sắp có thay đổi rồi. Loài người đang đứng ở ngưỡng cửa của một kỷ nguyên mới, họ sắp dõi mắt nhìn lại tự nhiên và những lối xưa... quay về với ý tưởng trong các cuốn sách như Zohar hay nhiều văn bản cổ khác từ khắp các nơi trên thế giới. Chân lý vững mạnh có sức hấp dẫn riêng và cuối cùng sẽ kéo người ta về với nó. Rồi một ngày kia, khoa học hiện đại sẽ nghiêm túc nghiên cứu tri thức của người xưa... đó là ngày nhân loại bắt đầu tìm thấy đáp án cho những câu hỏi lớn vẫn còn vượt quá tầm hiểu biết của mình.

Đêm ấy, Katherine háo hức đọc tập tài liệu cổ của anh trai mình và nhanh chóng hiểu rằng anh nói đúng: Người cổ đại sở hữu một tri thức khoa học phong phú. Khoa học ngày nay mới chỉ "khám phá lại" chứ chưa "phát hiện" được gì nhiều. Nhân loại đã từng thấu hiểu bản chất thật sự của vũ trụ... nhưng lại để tuột mất, và lãng quên.

Vật lý học hiện đại có thể giúp chúng ta nhớ ra! Katherine xác định sẽ dành trọn cuộc đời cho nhiệm vụ sử dụng khoa học tiên tiến để tái phát hiện những tri thức mất mát của người xưa. Điều đó không đơn thuần là cảm hứng với học thuật vẫn mang lại động lực cho cô bấy nay, mà quan trọng hơn, Katherine nhận thức được rằng thế giới cần đến những vốn hiểu biết ấy... cần hơn bao giờ hết.

Đến cuối phòng thí nghiệm, Katherine nhìn thấy chiếc áo bờ-lu trắng của anh trai treo trên móc bên cạnh áo mình. Cô rút điện thoại ra kiểm tra tin nhắn. Chẳng có gì. Một giọng nói lại vang lên trong tâm trí cô. Có thêm tìm được thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô. Một truyền thuyết sở dĩ tồn tại được nhiều thế kỷ... là có lý do cả đấy.

- Không, - Katherine nói to - Đó không thể nào là sự thật.

Đôi khi một truyền thuyết chỉ đơn giản là một truyền thuyết mà thôi.

Chú thích:

(21) Một femto giây là đơn vị thời gian tương đương 10-15 giây, tức là một phần tỷ của một phần triệu của một giây. Nếu lấy một femto giây tương đương một giây, thì một giây sẽ tương đương 420 triệu năm. Hoặc nếu một femto giây tương ứng với đường kính một sợi tóc thì một giây tương đương khoảng cách giữa Trái đất và Mặt trăng - ND.

(22) The Kybalion: Hermetic Philosophy (Kybalion: Triết học Kỳ bí) là một cuốn sách ra đời năm 1908, cô đúc những lời dạy của Hermes Trismegistus, vị thần kết hợp giữa thần Hermes của Hy Lạp và thần Thoth của Ai Cập, hai vị thần chủ về chữ viết và pháp thuật. Sách do tác giả ẩn danh tự nhận là "Ba tín đồ nhập môn" - ND.

Kybalion lần đầu được xuất bản tháng 12 năm 1912. Nội dung sách dựa trên lý thuyết thần bí cổ đại Hermeticism, nhưng cũng có rất nhiều ý tưởng và khái niệm tương đối hiện đại xuất hiện trong trào lưu Tư duy mới. Sách có 7 chương, mỗi chương nói tới một "nguyên lý" về: Tinh thần. Tương hợp, Rung chấn, Phân cực Tiết tấu, Nhân quả, và Giới tính - ND.

(23) Zohar (có nghĩa Huy hoàng hoặc Lộng lẫy) được xem là tác phẩm quan trọng nhất của Kabbalah, trường phái tư tưởng liên quan đến khía cạnh thần bí của Do Thái giáo. Đây là một bộ sách chú giải rất kỳ bí về Torah (5 cuốn sách của Moses), viết bằng tiếng Syria thời Trung cổ. Nội dung có cả phân thảo luận rất khó hiểu về bản chất của Chúa, nguồn gốc và cấu trúc của vũ trụ, bản chất của linh hồn, tội lỗi, chuộc tội, thiện và ác, và mối quan hệ giữa Chúa và con người - ND.

(24) The Dancing Wu Li Masters (Các Bậc thầy Vật lý Nhảy múa) là cuốn sách nổi tiếng của tác giả Gay Zukav viết năm 1979 về những cách diễn giải thần bí về vật lý lượng tử - ND.

(25) Dharmakaya (Pháp Thân) là khái niệm trung tâm trong Phật giáo Đại Thừa, bộ phận cấu thành thuyết Tam Thân. Pháp thân là thể tính thật sự của Phật, đồng nghĩa với Chân như, là thể của vũ trụ. Pháp thân là thể mà Phật và chúng sinh đều có chung. Pháp thân cũng chính là quy luật vận hành trong vũ trụ là giáo pháp do đức Phật truyền dạy. Pháp thân được xem chính là Phật pháp. Pháp thân được xem là thường hằng, vô tướng, nhất nguyên, là thể tính chung của các vị Phật, là dạng tồn tại thật sự của chư Phật. Có lúc người ta xem Pháp thân là thể tính của mọi sự, là Pháp giới, là Chân như, là tính Không, là Phật tính. Trong nhiều trường phái, người ta xem Pháp thân là thể trừu tượng không có nhân trạng, có trường phái khác lại xem Pháp thân hầu như có nhân trạng. Đạt trí huệ siêu việt đồng nghĩa với, sự trực chứng được Pháp thân - ND.

(26) Đạo Bà la môn (Brahman) là một khái niệm về một thánh thần tối thượng của Ấn Độ giáo. Brahman là hiện thực siêu việt không thay đổi, vô hạn, có ở khắp mọi nơi và là nền tảng linh thiêng cho tất cả vật chất, năng lượng, thời gian, không gian, các thể sống, và tất cả những gì vượt khỏi vũ trụ này - ND.

(27) Krishna là một vị thần được thờ phụng trong Ấn Độ giáo. Krishna thường được khắc hoạ như một đứa tre sơ sinh, một câu bé thổi sáo hay một hoàng tử trẻ trung đưa ra những lời chỉ dẫn - ND.

(28) Bhagavad Gita, "Bài hát của Đấng Tối Cao" hay "Chí Tôn ca" là một văn bản cổ bằng tiếng Phạn bao gồm 700 câu của bộ trường ca Mahabharata. Những câu này, sử dụng dạng thơ mỗi câu có năm âm tiết với nhiều so sánh và ẩn dụ, mang nhiều tính thơ ca. Nội dung của Bhagavad Gita là một cuộc đối thoại giữa Krishna và Arjuna diễn ra trên chiến trường Kurukshetra trước khi trận chiến bùng nổ. Để đáp lại sự bối rối của Arjuna và những nghịch lý đạo đức, Krishna giải thích cho Arjuna các nghĩa vụ của anh ta, với các ví dụ và các phép so sánh. Cuốn sách này được xem là linh thiêng bởi đa số các truyền thống Hindu - ND.

(29) Upanishads (Áo nghĩa thư hay "kinh điển với ý nghĩa uyên áo"), là loại văn bản thuộc hệ thiên khải, nghĩa là được "bề trên khai mở cho thấy" trong Ấn Độ giáo. Chúng kết thúc hoặc hoàn tất các loại thánh kinh được xếp vào Vệ đà của Ấn Độ giáo. Đây là loại thánh điển rất quan trọng của Ấn Độ giáo với nội dung giải thích, diễn giảng các bộ kinh Vệ đà, được biên tập và truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác rất nghiêm túc và trung thực - ND.

(30) Vyasa (Quảng bác tiên nhân) là một nhân vật trung tâm rất được tôn kính trong Ấn Độ giáo. Ông cũng được gọi là Veda Vyasa hay Krishna Dvaipayana. Ông được xem là người ghi chép lại bộ kinh Vệ đà và các văn bản bổ sung. Vyasa còn được coi là một trong tám vị tiên bất tử trong Ấn Độ giáo - ND.

(31) Cây Sephiroth bao gồm 10 vòng tròn, đại diện cho các con số từ 1 đến 10 và được liên kết với nhau bằng 22 kênh - 22 chữ cái Do Thái. Mười số và 22 chữ cái tạo ra con số huyền bí 32, biểu hiện cho 32 con đường đi tới Trí tuệ. Số và chữ được xem là chìa khoá mở kho tàng tri thức, vì bằng cách sắp xếp chúng theo một hệ thống bỉ mật, những điều bí ẩn của tạo hoá sẽ được hé lộ - ND.

Chương 16

Chỉ huy Trent Anderson lao bổ trở lại Nhà tròn Điện Capitol, giận sôi vì nhóm an ninh của mình thất bại. Một người trong đội đã tìm thấy dải băng đeo và chiếc áo khoác nhà binh tại một hốc tường gần cổng phía đông.

Đây là chỗ thằng khốn thoát thân!

Anderson đã phân công các nhóm xem lại đoạn video khu vực bên ngoài, nhưng đến lúc họ tìm được gì đó thì gã kia đã cao chạy xa bay từ lâu.

Lúc này, khi bước vào Nhà tròn để xem xét tình hình, Anderson nhận thấy mọi việc đã được kiểm soát khá tốt. Lực lượng an ninh khéo léo phong toả cả bốn lối vào Nhà tròn bằng phương pháp kiểm soát đám đông sẵn có. Họ sử dụng một tấm màn chắn bằng nhung, bố trí bảo vệ trực để xin lỗi khách du lịch, và treo tấm biển mang dòng chữ PHÒNG NÀY TẠM THỜI ĐÓNG CỬA ĐỂ LÀM CÔNG TÁC VỆ SINH. Cả chục nhân chứng được dồn thành một nhóm ở mé phía đông gian phòng, bị tịch thu hết điện thoại di động và máy ảnh.

Anderson không muốn để ai gửi một bức ảnh chụp dù bằng điện thoại di động tới CNN.

Trong số những nhân chứng bị giữ lại có một người đàn ông tóc đen, cao ráo, mặc áo tuýt thể thao, đang cố tách khỏi nhóm để nói chuyện với viên Chỉ huy. Bấy giờ người đó đang tranh cãi khá gay gắt với các nhân viên an ninh.

- Lát nữa tôi sẽ nói chuyện với anh ta - Anderson gọi với tới chỗ nhân viên của mình - Còn bây giờ, hãy giữ tất cả mọi người trong sảnh chính cho tới khi chúng ta xác định được thứ này.

Anderson đưa mắt về cái bàn tay vẫn đứng trơ trơ ở giữa phòng.

Lạy Chúa lòng lành. Suốt mười lăm năm làm công tác an ninh tại Điện Capitol, anh đã trông thấy vài thứ kỳ lạ. Nhưng không có thứ nào như thế này.

Phải gọi pháp y tới đây nhanh để đưa cái đó ra khỏi khu vực của mình.

Anderson tiến lại gần hơn, thấy rõ rằng phần cổ tay đầm đìa máu đã được găm vào một đế gỗ có cắm chông để làm cho bàn tay đứng thẳng được. Gỗ và thịt, anh nghĩ. Các máy dò kim loại chịu chết. Vật duy nhất bằng kim loại là một chiếc nhẫn vàng lớn mà Anderson cho rằng đã từng bị dò ở cửa kiểm soát hoặc bị kẻ tình nghi tuốt khỏi ngón tay người chết để tự đeo.

Anderson cúi thấp xuống để xem xét bàn tay. Trông nó như tay một người đàn ông trạc tuổi 60. Cái nhẫn mang một dấu hiệu trang trí nào đó với một con chim hai đầu và chữ số 33. Anderson không biết biểu tượng này. Nhưng anh chú ý nhiều hơn đến những hình xăm nhỏ xíu trên đầu ngón cái và ngón trỏ.

Một tác phẩm quái gở khốn kiếp.

- Chỉ huy? - Một nhân viên an ninh bước vội tới, giơ điện thoại ra - Cuộc gọi đích danh Chỉ huy. Tổng đài an ninh vừa nối máy.

Anderson nhìn cấp dưới như nhìn một kẻ tâm thần.

- Tôi đang dở việc ở đây, - anh quát ầm lên.

Mặt anh chàng kia tái mét. Anh ta bịt ống nói và thì thào.

- CIA gọi.

Anderson sửng sốt. CIA đã biết vụ này rồi kia à?

- Gọi từ Phòng An ninh của họ.

Anderson đờ người. Chó chết thật. Anh khó chịu nhìn chiếc điện thoại trên tay cậu nhân viên.

Trong cái đại dương mênh mông nhung nhúc những cơ quan tình báo ở Washington này, Phòng An ninh (OS) của CIA chẳng khác gì Tam giác quỷ Bermuda - một khu vực nguy hiểm và bí ẩn mà tất cả những ai hiểu biết đều tìm cách tránh xa bất cứ khi nào có thể. OS do CIA thành lập và được trao quyền gần như thanh trừng nội bộ, chỉ để phục vụ một mục đích kỳ cục là kiểm soát chính CIA. Là một phòng nội chính rất có thế lực, OS theo dõi tất cả các nhân viên CIA để phát giác những hành vi trái phép: tham ô ngân quỹ, buôn bán bí mật, đánh cắp công nghệ, và sử dụng những hình thức tra tấn trái luật, đại loại như vậy.

Họ theo dõi các tình báo viên của nước Mỹ.

Với toàn quyền điều tra mọi vấn đề an ninh quốc gia, OS có phạm vi ảnh hưởng rất mạnh và rộng. Anderson không thể đoán được tại sao họ lại quan tâm đến sự cố ở Điện Capitol, hoặc làm cách nào mà họ biết nhanh đến vậy. Người ta đồn rằng OS có tai mắt khắp mọi nới. Tất cả những gì Anderson biết là họ có đường truyền tín hiệu trực tiếp từ các máy quay an ninh ở Điện. Sự cố này không phù hợp với định hướng quản lý của OS, nhưng thời gian cuộc gọi tới cho Anderson có vẻ quá trùng khớp, không thể là vụ gì khác hơn vụ bàn tay ghê tởm?

- Chỉ huy - như giơ một chủ khoai nóng rãy, nhân viên an ninh chìa điện thoại cho Anderson - Chỉ huy cần nhận cuộc gọi ngay bây giờ. Nó là từ... - Anh ta ngừng lại và chúm môi tạo hình hai chữ: SA-TO

Anderson cau mặt lườm anh chàng kia. Cậu đùa tôi đấy chắc? Anh cảm thấy bàn tay mình bắt đầu vã mồ hôi. Sato đích thân xử lý vụ này cơ? sỏ Phòng An ninh - Giám đốc Inoue Sato - là một huyền thoại của làng tình báo. Sinh ra sau vụ Trân Châu Cảng, trong hàng rào một trại giam của Nhật ở Manzanar California và phải trải qua bao nhiêu gian nan mới sống sót nổi, Sato cực kỳ thấm thía sự kinh khủng của chiến tranh, cũng như hiểu rõ tình báo quân sự kém hiệu quả thì nguy hại ra sao. Giờ đây, ở vào một trong những địa vị quyền lực và bí mật nhất của ngành tình báo Hoa Kỳ, Sato đã chứng tỏ mình là một người yêu nước kiên định và một đối thủ đáng sợ cho bất kỳ kẻ đối lập nào. Chẳng mấy khi lộ diện nhưng rất được công chúng nể sợ, vị Giám đốc OS thường lùng sục tại những vùng nước sâu của CIA, y như loài quái thú săn mồi, chỉ trồi lên khi nào định xơi tái nạn nhân của mình.

Anderson mới diện kiến Sato có một lần, nhưng ký ức về đôi mắt đen lạnh lùng ấy khiến anh cảm thấy được trao đổi chuyện này chỉ qua điện thoại là rất may rồi.

Anderson cầm điện thoại và đưa lên miệng.

- Giám đốc Sato, - anh cố nói bằng giọng thân thiện nhất - Tôi là Chỉ huy Anderson đây. Tôi có thể giúp...

- Tôi cần nói chuyện ngay với một người đàn ông đang hiện diện trong toà nhà anh quản lý - Giọng vị Giám đốc OS rất đanh, y như tiếng sỏi chà lên bảng viết. Cuộc phẫu thuật ung thư vòm họng để lại nơi cổ Sato một vết sẹo to tướng, và làm cho giọng nói trở nên uy hiếp người nghe một cách ghê gớm - Tôi muốn anh tìm ông ta cho tôi ngay lập tức.

Có thế thôi sao? Muốn tôi gọi một ai đó à? Anderson đột nhiên cảm thấy đầy hy vọng rằng có lẽ cuộc điện đàm này là hoàn toàn ngẫu nhiên.

- Giám đốc đang tìm ai?

- Robert Langdon. Tôi tin chắc rằng ông ta đang ở trong khu nhà của anh.

Langdon à? Cái tên nghe quen quen, nhưng Anderson không tài nào xác định được. Giờ anh chỉ thắc mắc liệu Sato đã biết về vụ bàn tay chưa.

- Hiện tôi đang ở trong Nhà tròn, - Anderson phân vân - nhưng ở đây cũng có một số khách du lịch... Giám đốc chờ chút - Anh buông điện thoại xuống và gọi vọng lại phía nhóm người - Này các vị, có vị nào tên là Langdon không?

Không gian lặng đi chốc lát, rồi một giọng trầm thấp vang lên từ đám du khách.

- Có tôi là Robert Langdon.

Sato biết tất cả mọi chuyện. Anderson nghển cổ, dõi mắt nhìn người vừa lên tiếng.

Chính là người đàn ông đã cố gắng tách khỏi đám đông để đến gặp anh lúc trước. Anh ta có vẻ đang mất bình tĩnh... nhưng trông rất quen.

Anderson đưa điện thoại lên miệng.

- Vâng, ông Langdon có ở đây.

- Đưa máy cho ông ấy - Sato xẵng giọng.

Anderson thở hắt ra. Đỡ quá.

- Chờ nhé!

Anh vẫy Langdon.

Khi người đàn ông đến gần. Anderson bỗng hiểu ra tại sao tên họ anh ta lại quen quen. Mình vừa đọc một bài báo về thằng cha này. Hắn làm cái quái gì ở đây không biết.

Mặc dù Langdon cao tới 1m80 và nở nang như vận động viên, nhưng Anderson thấy anh thiếu hẳn vẻ sắc sảo hay lạnh lùng đáng ra phải có ở một nhân vật nổi tiếng vì đã thoát chết trong vụ nổ ở Vatican và vụ săn lùng tội phạm ở Paris. Trông anh ta giống một kẻ cắm cúi đọc Dostoyevsky bên lò sưởi thư viện một trường Đại học tên tuổi nào đó hơn. Thằng cha này trốn tránh cảnh sát Pháp bằng cách náu vào một đống giày thì phải?

- Ông Langdon? - Anderson lên tiếng và bước tới đón - Tôi là Chỉ huy Anderson, phụ trách an ninh ở đây. Ông có một cuộc điện thoại.

- Gọi tôi? - Đôi mắt xanh da trời của Langdon lộ vẻ lo lắng và bất ổn.

Anderson đưa điện thoại ra.

- Gọi từ Phòng An ninh CIA.

- Tôi chưa bao giờ biết đến cơ quan đó cả.

Anderson mỉm cười e ngại.

- Chà, thưa ông, thế mà họ lại biết ông đấy.

Langdon đưa điện thoại lên tai.

- A lô?

- Ông Robert Langdon phải không? - Cái giọng cay nghiệt của Giám đốc Sato oang oang vọng ra từ chiếc loa tí xíu, to đến mức Anderson cũng nghe rõ.

- Vâng - Langdon đáp.

Anderson nhích lại gần hơn để nghe xem Sato nói gì.

- Tôi là Giám đốc Inoue Sato, thưa ông Langdon. Tôi đang phải xử lý một cuộc khủng hoảng, và tôi tin ông có những thông tin may ra giúp ích cho tôi.

Langdon lộ vẻ hy vọng.

- Có liên quan đến Peter Solomon phải không? Các vị biết ông ấy ở đâu chứ?

Peter Solomon à? Anderson chịu không hiểu đầu cua tai nheo ra sao.

- Thưa Giáo sư, - Sato nhắc nhở - Lúc này tôi là người đặt câu hỏi.

- Peter Solomon đang gặp nguy hiểm, - Langdon kêu lên - Một gã điên nào đó vừa...

- Xin lỗi, - Sato ngắt lời.

Anderson co rúm người. Không hay rồi. Ngắt mạch câu hỏi của một quan chức CIA chóp bu đúng là một sai lầm mà chỉ dân thường mới mắc phải. Chắc gã Langdon này tự cho mình là khôn đây.

- Nghe cho kỹ - Sato nói - Như chúng tôi vừa nói, đất nước đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng. Người ta gợi ý cho tôi rằng ông có những thông tin ngăn chặn được cuộc khủng hoảng đó. Nào, tôi hỏi lại lần nữa. Ông nắm giữ những thông tin gì?

Langdon hoàn toàn mất phương hướng.

- Thưa Giám đốc, tôi chẳng hiểu Giám đốc đang đề cập tới chuyện gì. Bây giờ tôi chỉ quan tâm tới việc tìm Peter và...

- Không hiểu gì ư? - Sato gặng.

Anderson nhận ra Langdon bắt đầu phát cáu. Giọng vị Giáo sư lúc này nghe hung hăng tợn.

- Không hề, thưa ông. Chẳng hiểu tí nào cả.

Anderson chớp mắt. Sai lầm. Sai lầm. Sai lầm. Robert Langdon vừa mắc phải một sai lầm đắt giá trong cách ứng xử với Giám đốc Sato.

Và cũng quá muộn để sửa chữa rồi. Trước sự ngạc nhiên của Anderson, Giám đốc Sato xuất hiện ở mé bên kia Nhà Tròn, và đang tiến lại từ phía sau Langdon. Sato ngay trong toà nhà này. Anderson nín thở và chuẩn bị tinh thần xem tấn kịch sắp tới. Gã Langdon đúng là loại điếc không sợ súng.

Cái bóng lù lù của vị Giám đốc tiến lại gần hơn, điện thoại vẫn áp trên tai, đôi mắt đen như hai tia laser dính chặt vào lưng Langdon.

Langdon nắm chặt chiếc điện thoại của viên Chỉ huy cảnh sát và cảm thấy càng lúc càng thất vọng khi vị Giám đốc OS dồn ép anh.

- Tôi xin lỗi, thưa ông, - Langdon nói cộc lốc - nhưng tôi không hiểu được ý ông. Ông muốn gì ở tôi?

- Tôi muốn gì ở anh ư? - Giọng chói lói của vị Giám đốc OS vang qua chiếc điện thoại Langdon đang cầm, xóc óc và trống rỗng, như giọng một người đang hấp hối vì căn bệnh viêm họng liên cầu.

Trong khi vị Giám đốc nói, Langdon cảm thấy ai đó vỗ vào vai anh. Anh quay lại và mắt anh nhìn thẳng xuống... gương mặt của một phụ nữ Nhật Bản nhỏ thó. Bà ta có vẻ mặt dữ tợn, nước da lốm đốm, mái tóc thưa, hàm răng ám khói thuốc lá, và một vết sẹo trắng ởn dễ sợ chạy ngay qua cổ. Bàn tay xương xẩu của người phụ nữ cầm một chiếc điện thoại di động áp vào tai, và khi môi bà ta mấp máy, Langdon nghe thấy giọng nói khó chịu quen thuộc qua điện thoại di động của mình.

- Tôi muốn gì ở anh ư, thưa Giáo sư? - Bà ta bình thản gập điện thoại và đăm đăm nhìn anh - Trước hết, anh có thể thôi gọi tôi là ông được rồi.

Langdon trợn mắt nhìn, sượng trân.

- Thưa bà, tôi... xin lỗi. Tín hiệu điện thoại không tốt nên...

- Tín hiệu điện thoại rất tốt, thưa Giáo sư, - Sato gạt đi - Và tôi không đủ khoan dung để tiếp tục chịu đựng câu chuyện nhảm nhí này.

Chương 17

Giám đốc Inoue Sato chỉ cao xấp xỉ 1m50, nhưng là mẫu người đáng sợ, dễ trở nên dữ dội. Bà ta gầy trơ xương với những đường nét góc cạnh, làn da lốm đốm như đá hoa cương thô phủ địa y (hậu quả của một chứng bệnh da liễu gọi là bạch biến). Bà mặc áo khoác xanh lam nhàu nhĩ trông chẳng khác gì cái bao tải, bên trong là chiếc áo cánh cổ mở phơi ra toàn bộ vết sẹo chạy vắt ngang cổ. Theo các đồng nghiệp, hình thức làm đẹp duy nhất mà Sato chấp nhận là cạo ria mép.

Sato cai quản Phòng An ninh của CIA đã hơn mười năm. Bà có chỉ số IQ ngoại hạng và trực giác chính xác đến ghê người, hai yếu tố đó đem lại cho bà sự tự tin khiến bất kỳ ai không làm nổi những việc tưởng chừng bất khả thi đều phải khiếp sợ. Ngay cả khi nghe chẩn đoán mình bị ung thư cổ họng giai đoạn cuối, Sato cũng không gục ngã. Cuộc chiến với căn bệnh khiến bà phải rời bỏ công việc suốt một tháng, lấy đi phân nửa cơ quan thanh quản và làm trọng lượng cơ thể bà sụt mất một phần ba, nhưng bà đã quay lại văn phòng cứ như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Xem chừng Inoue Sato là người không thể bị đánh bại.

Robert Langdon ngờ rằng có lẽ anh không phải là người đầu tiên nhầm Sato là nam giới trên điện thoại, nhưng vị Giám đốc ấy vẫn nhìn xoáy vào anh bằng đôi mắt đen đầy giận dữ.

- Một lần nữa, tôi rất xin lỗi, thưa bà, - Langdon phân bua - Tôi đang cố tìm hiểu lý do mình ở đây. Có một kẻ lừa tôi tới thủ đô tối nay. Hắn ta đang bắt giữ Peter Solomon - Anh rút từ trong áo vét của mình ra bản fax - Đây là thứ hắn gửi cho tôi lúc trước. Tôi cũng đã ghi lại số đuôi của chiếc máy bay mà hắn cử tới, có lẽ các vị nên gọi cho Cục Hàng không Liên bang và truy xem...

Sato chìa bàn tay nhỏ xíu giật lấy tờ giấy và đút tọt nó vào tôi, chẳng buồn mở ra.

- Giáo sư, tôi đang tiến hành một cuộc điều tra. Từ giờ cho tới lúc ông bằng lòng cung cấp những gì tôi muốn biết, tôi khuyến cáo ông nên im lặng, trừ phi được yêu cầu mở miệng.

Rồi bà xoay sang viên Chỉ huy trưởng.

- Chỉ huy Anderson - bà lên tiếng, bước lại thật sát và nhìn xoáy vào anh bằng đôi mắt đen nhỏ xíu - liệu anh có thể cho tôi biết đang xảy ra chuyện quái gì ở đây không? Nhân viên bảo vệ đằng cồng phía đông báo với tôi rằng các anh phát hiện thấy một bàn tay người. Đúng không?

Anderson bước tránh sang bên và trỏ cái vật đang nằm chình ình giữa sàn nhà.

- Vâng, thưa bà, chỉ mới vài phút trước.

Sato thờ ơ liếc bàn tay như thể đấy chỉ là một thứ quần áo đặt sai chỗ.

- Anh không hề đả động đến nó khi tôi gọi?

- Tôi... tôi tưởng bà biết rồi.

- Đừng nói dối tôi. - Anderson xụi lơ trước ánh mắt Sato, nhưng giọng anh vẫn rất tự tin.

- Thưa bà, tình huống hiện nay vẫn trong tầm kiểm soát.

- Tôi thực sự nghi ngờ điều đó! - Sato nhận xét với vẻ tự tin không kém.

- Tổ pháp y đang trên đường tới đây. Bất kỳ kẻ nào gây ra việc này cũng sẽ để lại dấu vân tay.

Sato lộ vẻ hoài nghi.

- Tôi cho rằng một kẻ đủ khôn ngoan vượt qua trạm kiểm tra an ninh của các anh với một bàn tay người thì chắc cũng đủ thông minh để không lưu lại dấu tay nào.

Điều đó có thể đúng, nhưng tôi nắm trách nhiệm điều tra.

- Nói thật nhé, bây giờ tôi sẽ giải thoát cho anh khỏi trách nhiệm đó Tôi sẽ tiếp quản vụ việc.

Anderson cứng người.

- Đây không thuộc lãnh địa của OS thì phải?

- Rất đúng. Đây là vấn đề an ninh quốc gia.

Bàn tay của Peter... liên quan đến an ninh quốc gia cơ à?

Đầy thắc mắc, Langdon sửng sốt theo dõi cuộc đối đáp giữa hai người kia. Anh cảm thấy Sato không có chung mục tiêu cấp bách như mình là tìm kiếm Peter. Xem ra vị Giám đốc OS đang quan tâm đến một vấn đề hoàn toàn khác.

Anderson cũng lộ vẻ bối rối.

- An ninh quốc gia ư? Với tất cả lòng kính trọng, thưa bà...

- Suy cho cùng, - Sato ngắt lời - vị trí của tôi cao hơn anh. Tôi nghĩ anh nên làm đúng như tôi nói, và hãy tuân thủ mà đừng cật vấn gì.

Anderson gật đầu và nuốt khan.

- Nhưng ít nhất chúng tôi cũng cần in dấu tay để khẳng định bàn tay kia là của Peter Solomon chứ?

- Tôi xin xác nhận điều đó, - Langdon thốt lên, thấm thía một sự thật chắc chắn đến tởm lợm - Tôi nhận ra chiếc nhẫn... và bàn tay ông ấy! - Anh ngừng lại - Nhưng những hình xăm thì rất mới. Kẻ nào đó vừa xăm cho ông ấy thôi.

- Sao cơ - Lần đầu tiên kể từ lúc xuất hiện, Sato tỏ ra lúng túng - Bàn tay bị xăm ư?

Langdon gật đầu.

- Ngón cái có hình vương miện. Ngón trỏ hình ngôi sao.

Sato đeo kính lên và bước lại phía bàn tay, lượn vòng xung quanh như một con cá mập.

- Ngoài ra. - Langdon nói - mặc dù các vị không nhìn thấy ba ngón còn lại, nhưng tôi dám chắc chúng cũng có những hình xăm trên đầu ngón tay.

Sato lộ vẻ ngạc nhiên trước thông báo đó và ra dấu với Anderson.

- Chỉ huy, anh có thể xem xét mấy đầu ngón tay khác cho chúng tôi được không?

Anderson cúi xuống bên cạnh bàn tay, rất thận trọng để không chạm vào nó. Anh áp má xuống gần sát sàn nhà và ngước lên nhìn mé dưới những ngón tay bị bẻ gập.

- Ông ấy nói đúng, thưa bà. Tất cả các ngón tay đều có hình xăm, mặc dù tôi không thể nhìn rõ đó là...

- Một mặt trời, một đèn lồng và một chìa khoá, - Langdon bổ sung luôn.

Giờ thì Sato quay hẳn lại phía Langdon, đôi mắt hẹp của bà ta như đang đánh giá anh.

- Làm thế nào mà ông biết chính xác như vậy?

Langdon trợn mắt nhìn trả lại.

- Hình ảnh một bàn tay người được vẽ dấu hiệu như thế trên các đầu ngón tay là một biểu tượng rất cổ xưa. Người ta gọi nó là Mật Thủ.

Anderson đứng thẳng lên.

- Thứ này mà cũng có tên gọi à?

Langdon gật đầu.

- Nó là một trong những biểu tượng bí mật nhất của the giới cổ đại.

Sato gõ gõ lên đầu mình.

- Vậy thì tôi băn khoăn rằng nó làm quái quỷ gì ở giữa Điện Capitol chứ?

Langdon ước sao mình có thể thoát khỏi cơn ác mộng này.

- Theo truyền thống, thưa bà, nó được sử dụng như một lời mời.

- Một lời mời... cho cái gì? - Sato hỏi.

Langdon nhìn xuống những biểu tượng trên bàn tay đáng sợ của bạn mình.

- Trong nhiều thế kỷ. Mật Thủ được sử dụng như một lời triệu tập huyền bí. Về cơ bản, nó là một lời mời tiếp nhận tri thức bí mật, những tri thức được bảo vệ mà chỉ một vài nhân vật chủ chốt mới được biết.

Sato khoanh đôi tay gầy gò trước ngực và đăm đăm nhìn Langdon bằng cặp mắt đen láy.

- Chà, thưa Giáo sư, ông vừa cằn nhằn rằng không hiểu tại sao mình ở đây... nhưng đến giờ ông thể hiện rất tốt điều ngược lại đấy.

Chương 18

Katherine Solomon khoác chiếc áo bờ lu trắng và bắt đầu lộ trình thường lệ của mình - "lượn vài vòng", như anh trai cô thường nói.

Như người mẹ lo âu ghé thăm đứa con đang ngủ. Katherine thò đầu vào phòng máy. Gian buồng dùng nhiên liệu hydro đang chạy rất êm, các két sao lưu của nó đều nằm yên trên giá.

Katherine tiếp tục men theo hành lang tới phòng lưu trữ dữ liệu. Như mọi khi, hai cỗ máy đa sao lưu toàn ảnh vẫn chạy ro ro yên ổn trong khoang chứa có kiểm soát nhiệt độ. Toàn bộ công trình nghiên cứu của mình đây. Katherine nghĩ thầm, ghé mắt nhìn vào qua lớp kính siêu bền dày gần 10 cm. Khác với phiên bản cũ to bằng tủ lạnh, các thiết bị chứa dữ liệu toàn ảnh trông chỉ như thiết bị âm thanh gọn nhẹ, mỗi cái được đặt trên một bệ hình trụ.

Các ổ đọc toàn ảnh trong phòng thí nghiệm đều đồng bộ và giống hệt nhau - cùng là nguồn đĩa sao lưu để bảo vệ các bản sao công trình của Katherine. Hầu hết các phác đồ sao lưu đều chủ trương nên có một hệ thống sao chép thứ cấp ở nơi khác đề phòng trường hợp động đất hoả hoạn, hoặc bị đánh cắp, nhưng Katherine và anh trai cô nhất trí rằng giữ bí mật mới là điều tối quan trọng; một khi các dữ liệu rời khỏi toà nhà để chuyển tới máy chủ ở nơi khác thì họ không dám chắc rằng liệu chúng còn giữ được bí mật hay không.

Hài lòng vì tất cả vẫn vận hành trơn tru. Katherine quay trở lại theo lối hành lang. Khi vòng qua góc tường, cô chợt nhận ra có điều khác thường bên kia phòng thí nghiệm. Chuyện gì thế nhỉ? Một quầng sáng đang chiếu rọi tất cả các thiết bị. Katherine chạy vội vào để nhìn cho rõ, lòng rất ngạc nhiên khi thấy ánh sáng phát ra từ phía sau bức tường kính Plexiglas của phòng điều khiển.

Anh ấy ở đây. Katherine lao như bay qua phòng thí nghiệm, đến cửa phòng điều khiển và đẩy bật nó ra.

- Anh Peter! - cô kêu lên và chạy bổ vào.

Người phụ nữ to béo ngồi ở bàn máy trong phòng điều khiển nhảy bật dậy.

- Ôi lạy Chúa! Chị Katherine? Chị làm em sợ hết hồn!

Trish Dunne là chuyên gia phân tích siêu hệ thống của Katherine, cũng là người duy nhất ngoài hai anh em Solomon được phép có mặt ở đây. Cô gái tóc đỏ 26 tuổi này là một thiên tài lập mô hình dữ liệu và đã khai thác được một tài liệu mật rất đáng giá của KGB. Cô rất ít khi làm việc vào những ngày nghỉ cuối tuần, nhưng tối nay, cô bận phân tích dữ liệu trên bức tường plasma của phòng điều khiển, bức tường này là một màn hình phẳng rất lớn trông chẳng khác gì màn hình điều khiển của NASA.

- Em xin lỗi. - Trish nói - Em không biết chị cũng ở đây. Em đang cố làm cho xong trước khi chị và anh trai chị tới.

- Cô vừa nói chuyện với Peter à? Anh ấy đến muộn và không trả lời điện thoại.

Trish lắc đầu.

- Em cá là Peter vẫn đang loay hoay với chiếc iPhone mà chị mới tặng anh ấy.

Katherine rất cảm kích sự hài hước của cô bạn đồng nghiệp, và sự có mặt của Trish làm cô nảy ra một ý tưởng.

- Nói thật thì tôi rất vui vì cô ở đây tối nay. Chưa chừng cô sẽ giúp được tôi đấy cô không phiền chứ?

- Bất cứ việc gì, em tin nó sẽ hay hơn xem đấu bóng.

Katherine hít một hơi thật sâu, cố giữ cho tâm trí bình tĩnh.

- Tôi chẳng biết phải giải thích thế nào, nhưng sớm hôm nay, tôi đã nghe được một câu chuyện rất bất thường...

Trish Dunne không đoán nổi Katherine Solomon đã nghe được chuyện gì, nhưng rõ ràng câu chuyện đó khiến chị ấy không vui. Đôi mắt xám vốn luôn điềm tĩnh nay lại lộ vẻ lo âu, và chị đã phải vén tóc ra sau tai ba lần kể từ lúc bước vào phòng - một "dấu hiệu" chứng tỏ chị ấy đang bối rối, như Trish thường nói. Một nhà khoa học xuất chúng, nhưng không biết che giấu cảm xúc của mình.

- Với tôi, - Katherine nói - câu chuyện này rất hoang đường... như một chuyện cổ tích xa xưa. Nhưng... - Cô ngừng lời, lại đưa tay gạt một lọn tóc ra phía sau tai.

- Nhưng sao ạ?

Katherine thở dài.

- Nhưng hôm nay, một nguồn tin rất đáng tin cậy đã cho tôi biết rằng chuyện cổ tích đó là có thật.

- Ồ... Chị ấy muốn dẫn câu chuyện đến đâu đây?

- Tôi định trao đổi với Peter, nhưng tôi sực nghĩ, biết đâu cô sẽ giúp tôi nảy ra ý tưởng nào đó trước khi tôi hỏi anh ấy. Tôi rất muốn biết liệu câu chuyện cổ tích này đã bao giờ được chứng thực trong lịch sử chưa.

- Trong lịch sử ư?

Katherine gật đầu.

- Ở đâu đó trên thế giới, bằng một thứ ngôn ngữ nào đó, vào một thời điểm nào đó trong lịch sử.

Kỳ quặc quá, Trish thầm nghĩ, những rất có khả năng. Mười năm trước, điều này là không tưởng. Nhưng ngày nay, với Internet, với mạng toàn cầu, và với quá trình số hoá những thư viện và bảo tàng lớn trên thế giới, mục tiêu của Katherine có thể thực hiện được bằng cách sử dụng một cơ chế tìm kiếm tương đối đơn giản có trang bị một loạt mô đun dịch thuật và vài ba từ khoá được lựa chọn kỹ.

- Không thành vấn đề - Trish nói. Nhiều cuốn sách nghiên cứu trong phòng thí nghiệm có chứa những đoạn ngôn ngữ cổ xưa, khi ấy Trish phải viết nhiều mô đun dịch thuật Nhận dạng ký tự quang học (OCR) chuyên dụng để tạo văn bản tiếng Anh từ các ngôn ngữ khó hiểu. Chắc chắn cô là chuyên gia siêu hệ thống duy nhất trên thế giới lập được các mô đun dịch thuật OCR bằng tiếng Frisian(32) cổ, tiếng Maek(33) và tiếng Akkadian(34).

Các mô đun rất có tác dụng, nhưng bí quyết xây dựng một cơ chế tìm kiếm kiểu nhện hiệu quả lại phụ thuộc vào việc lựa chọn các từ khoá đúng, độc đáo nhưng không hạn chế quá mức.

Trong lúc Trish suy nghĩ, Katherine đã ghi nhanh những từ khoá thích hợp ra một băng giấy. Viết được vài từ, cô dừng lại, nghĩ ngợi và tiếp tục thêm vài từ nữa.

- Được rồi đấy, - cuối cùng cô nói và đưa băng giấy cho Trish.

Trish đọc lướt danh sách các chuỗi tìm kiếm, và mở to mắt.

Katherine đang điều tra loại cổ tích quái quỷ gì đây?

- Chị muốn em tìm kiếm tất cả các cụm từ khoá này à? - Có một từ Trish còn không nhận ra. Liệu đây có phải là tiếng Anh không? - Chị cho rằng chúng ta sẽ tìm được những từ này ở cùng một chỗ à? Chính xác cả cụm ấy?

- Cứ thử đi.

Trish định nói không thể (impossible) nhưng ở đây, những từ bắt đầu bằng chữ cái I bị cấm. Katherine coi đó là vật cản tư duy rất nguy hiểm trong một lĩnh vực thường biến những định kiến sai lầm thành hiện thực được khẳng định. Trish Dunne thật sự ngại rằng việc tìm kiếm các cụm từ khoá này sẽ rơi vào phạm trù đó.

- Mất bao lâu để có kết quả? - Katherine hỏi.

- Vài phút để viết con nhện và cho nó hoạt động. Sau đó, có lẽ mất 15 phút để nó vận hành hết hiệu suất.

- Nhanh thế à? - Katherine phấn khởi.

Trish gật đầu. Các cơ chế tìm kiếm truyền thống thường cần trọn một ngày để lướt qua toàn bộ không gian trực tuyến, tìm kiếm các văn bản mới, phân tích nội dung của chúng và cho nó vào cơ sở dữ liệu thu thập được. Nhưng Trish không viết loại nhện đó.

- Em sẽ viết một chương trình gọi là người uỷ thác, - Trish giải thích - Không hợp pháp lắm, nhưng nó rất nhanh. Thực chất đó là một chương trình ra lệnh cho các cơ chế tìm kiếm của người khác làm việc thay cho mình. Hầu hết các cơ sở dữ liệu đều có chức năng tìm kiếm tích hợp trong, chẳng hạn thư viện, bảo tàng, các trường đại học, chính phủ. Cho nên em sẽ viết một con nhện chuyên dò ra cơ chế tìm kiếm của người ta, nhập các từ khoá của chị, và yêu cầu các cơ chế ấy hoạt động. Bằng cách này, chúng ta khai thác được sức mạnh của hàng nghìn cơ chế, làm việc thống nhất.

Katherine có vẻ rất ấn tượng.

- Xử lý song song.

Một loại siêu hệ thống.

- Em sẽ gọi chị nếu em phát hiện thấy gì đó.

- Rất cảm ơn cô. Trish - Katherine vỗ nhẹ vào lưng cô gái và đi ra phía cửa - Tôi sẽ ở bên thư viện.

Trish tập trung viết chương trình. Lập trình một con nhện tìm kiếm là nhiệm vụ quá ư tầm thường so với trình độ năng lực của cô, nhưng Trish Dunne không bận tâm. Cô sẵn sàng làm bất kỳ việc gì cho Katherine Solomon. Có lúc, Trish vẫn không tin nổi số phận may mắn lại đưa cô đến nơi này.

Cưng đã đi được một chặng đường dài, cưng nhỉ!

Chỉ mới hơn một năm trước, Trish bỏ công việc của một chuyên gia phân tích siêu hệ thống tại một trong vô vàn công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao. Lúc rỗi rãi, cô nhận lập trình cho một số nơi và bắt đầu mở một blog chuyên ngành mang tên "Những ứng dụng trong phân tích siêu hệ thống máy tính" mặc dù cô nghĩ chẳng ai thèm đọc nó. Rồi một buổi tối, điện thoại của cô đổ chuông.

- Cô Trish Dunne phải không? - một giọng phụ nữ nhã nhặn hỏi thăm.

- Vâng, xin hỏi ai gọi thế ạ?

- Tôi là Katherine Solomon.

Trish gần như ngất xỉu tại chỗ. Katherine Solomon à?

- Tôi vừa đọc cuốn sách của chị, cuốn Lý trí học. Cánh cổng hiện đại đi tới tri thức cổ xưa, và tôi đã viết về cuốn đó trên blog của mình!

- Phải, tôi có biết, - người phụ nữ trả lời rất nhã nhặn - Và đó là lý do tôi gọi cho cô.

- Dĩ nhiên là thế. Trish nhận ra như vậy, cảm thấy chẳng biết nói sao.

Ngay cả những nhà khoa học xuất sắc cũng phải sử dụng Google.

- Blog của cô khiến tôi rất thích, - Katherine nói tiếp - Tôi không ngờ rằng kỹ thuật lập mô hình siêu hệ thống lại tiến xa đến vậy.

- Vâng, - Trish hồ hởi, với tâm trạng rất muốn được người khác biết đến - Mô hình dữ liệu là một công nghệ đang bùng nổ với những ứng dụng rất rộng lớn.

Hai người phụ nữ dành vài phút nói chuyện phiếm về công việc của Trish trong ngành siêu hệ thống, kinh nghiệm của cô trong việc phân tích, lập mô hình và dự đoán xu hướng của các trường dữ liệu lớn.

- Nói thực cuốn sách của chị rất cao siêu so với tôi. - Trish nói - nhưng tôi cũng đủ khả năng hiểu nó để thấy có sự giao thoa với công trình siêu hệ thống của tôi.

- Trên blog, cô nói rằng cô tin ngành lập mô hình siêu hệ thống có khả năng biến cải những nghiên cứu của lý trí học, phải không?

- Chắc chắn là như vậy. Tôi tin siêu hệ thống sẽ biến Lý trí học thành một môn khoa học thật sự.

- Khoa học thật sự à? - Giọng Katherine hơi đanh lại - Thế hiện giờ nó không phải...?

Ôi thôi hớ rồi.

- Ừm, ý tôi là Lý trí học có vẻ... huyền bí hơn.

Katherine cười.

- Không sao đâu, tôi đùa thôi. Tôi nghe nói điều đó luôn ấy mà!

Cũng phải. Trish nghĩ bụng. Thậm chí Viện Lý trí học ở California cũng mô tả lĩnh vực này bằng một thứ ngôn ngữ khó hiểu và bí ẩn, xem nó như ngành nghiên cứu về "sự tiếp cận tức thời và trực tiếp của con người đối với những kiến thức vượt xa sức mạnh lý trí và độ cảm nhận của các giác quan bình thường".

Trish được biết rằng từ lý trí xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ - nếu dịch thô là "kiến thức bên trong" hoặc "ý thức trực giác".

- Tôi rất quan tâm đến công trình siêu hệ thống của cô, - Katherine nói - và muốn xem nó liên hệ ra sao với dự án tôi đang tiến hành. Cô có sẵn lòng gặp tôi không? Tôi rất muốn được thử bộ não của cô.

Katherme Solomon muốn thử bộ não của mình ư? Chẳng khác gì bảo Maria Sharapova đi hỏi thủ thuật chơi tennis.

Ngày hôm sau, một chiếc Volvo trắng tiến vào sân nhà Trish và một người phụ nữ yểu điệu duyên dáng trong bộ đồ bò màu xanh bước ra. Trish lập tức cảm thấy mình thật hèn kém. Trời ạ, cô lẩm bẩm. Thông miinh, giàu có, mảnh mai - và chắc mình phải tin là Chúa rất lòng lành mất? Nhưng phong thái khiêm nhường của Katherine khiến Trish cảm thấy thoải mái ngay.

Hai người ngồi ở hiên sau khá rộng rãi của Trish, nhìn xuống một khuôn viên khang trang.

- Nhà cô rất đẹp, - Katherine nhận xét.

- Cảm ơn chị. Tôi gặp may khi còn học đại học, bán được bản quyền một số phần mềm do tôi viết.

- Vẫn về siêu hệ thống chứ?

- Một dạng tiền thân của siêu hệ thống. Sau vụ 11-9, chính phủ chặn và xâm nhập các trường dữ liệu lớn như thư điện tử dân sự, điện thoại di động, fax, văn bản, website để tìm kiếm các từ khoá liên quan đến những giao dịch liên lạc có tính khủng bố. Vì thế tôi viết một phần mềm cho phép họ nắm giữ trường dữ liệu theo hình thức thứ cấp khai thác từ đó một sản phẩm tình báo bổ sung - Cô mỉm cười - Điều quan trọng là phần mềm của tôi cho phép họ đo được thân nhiệt của nước Mỹ.

- Tôi không hiểu lắm?

Trish bật cười.

- A nghe hơi kỳ cục, tôi biết. Y tôi định nói là nó định lượng trạng thái tình cảm của cả nước. Nó cung cấp một loại phong vũ biểu đo ý thức chung - Trish tiếp tục giải thích việc một người có thể đánh giá được tâm trang của đất nước như thế nào bằng cách sử dụng một trường dữ liệu về thông tin liên lạc của cả nước dựa trên "mật độ xuất hiện" một số từ khoá và chỉ số tình cảm nhất định trong trường dữ liệu ấy Những thời điểm vui vẻ sẽ có ngôn ngữ vui vẻ hơn, và những thời điểm căng thẳng thì ngược lại. Chẳng hạn, trong tình huống xảy ra một vụ tấn công khủng bố, chính phủ có thể sử dụng các trường dữ liệu để đo sự thay đổi trong tâm lý nước Mỹ và đưa ra lời khuyên tốt hơn cho Tổng thống về tác động tình cảm của sự kiện ấy.

- Rất lý thú, - Katherine nhận xét, tay xoa cằm - Và cô đang tiến hành kiểm nghiệm một nhóm các cá nhân... như là một chủ thể đơn nhất.

- Chính xác. Một siêu hệ thống. Một chủ thể đơn nhất được xác định bởi số lượng hợp phần của nó. Chẳng hạn, cơ thể người gồm hàng triệu tế bào riêng lẻ, mỗi tế bào có những thuộc tính và mục đích khác nhau, nhưng có chức năng như một chủ thể đơn nhất.

Katherine hào hứng gật đầu.

- Như một đàn chim hoặc đàn cá. Chúng tôi gọi đó là hội tự hoặc ràng buộc.

Trish cảm thấy vị khách nổi tiếng này bắt đầu nhìn thấy tiềm năng ứng dụng kỹ thuật lập trình siêu hệ thống vào lĩnh vực Lý trí học của mình.

- Phần mềm của tôi, - Trish giải thích - được thiết kế để giúp các cơ quan chính phủ đánh giá tốt hơn và phản ứng phù hợp với những cuộc khủng hoảng quy mô lớn như dịch bệnh, các thảm hoạ quốc gia, khủng bố, đại loại thế - Cô ngừng lại - Dĩ nhiên, luôn có khả năng sử dụng nó theo những hướng khác... chẳng hạn là nắm bắt nhanh trạng thái tâm lý quốc gia và dự đoán kết quả một cuộc bầu cử hoặc xu hướng vận động của thị trường chứng khoán vào thời điểm mở cửa.

- Tuyệt vời!

Trish ra hiệu về phía ngôi nhà rộng rãi của mình.

- Chính phủ cũng nghĩ vậy.

Giờ thì đôi mắt xám của Katherine tập trung hết vào cô.

- Trish, cho tôi hỏi về vấn đề đạo đức do công trình của cô đặt ra nhé?

- Ý chị là gì?

- Ý tôi là phần mềm của cô rất dễ bị lợi dụng. Kẻ sở hữu nó sẽ tiếp cận được với những thông tin rất quan trọng không phải ai cũng biết. Cô không cảm thấy do dự khi tạo ra nó ư?

Trish không hề chớp mắt.

- Hoàn toàn không. Phần mềm của tôi không khác gì hơn là... một chương trình mô hình tập bay trong ngành hàng không. Một số người sử dụng sẽ thực hành bay cho các nhiệm vụ cứu trợ tới các nước chậm phát triển. Một số người lại sử dụng để tập điều khiển máy bay chở khách lao vào các toà cao ốc. Kiến thức là một công cụ, và như tất cả các công cụ, tác động của nó tuỳ thuộc vào người sử dụng.

Katherine ngả người ra sau, vẻ rất ấn tượng.

Vậy cho phép tôi hỏi cô một câu hỏi giả định.

Trish đột nhiên cảm thấy cuộc trò chuyện của họ chuyển thành một buổi phỏng vấn tuyển dụng.

Katherine cúi xuống và nhặt một hạt cát nhỏ xíu dưới bàn và giơ lên cho Trish nhìn.

- Theo tôi hiểu, - cô nói - công trình siêu hệ thống ấy giúp cô tính toán được trọng lượng của cả một bãi biển toàn cát... bằng cách cân một hạt cát.

- Vâng, về cơ bản đúng như vậy.

- Cô biết đấy, hạt cát nhỏ bé này có khối lượng. Một khối lượng rất nhỏ, nhưng vẫn là khối lượng.

Trish gật đầu.

- Và vì hạt cát này có khối lượng nên nó có trọng lực. Tất nhiên, cũng rất nhỏ, nhưng vẫn có.

- Vâng.

- Vậy thì, - Katherine nói, - nếu chúng ta có hàng nghìn tỉ hạt cát thế này và để chúng hấp dẫn nhau nhằm tạo nên... ví dụ mặt trăng đi thì trọng lực kết hợp của chúng đủ để dịch chuyển toàn bộ các đại dương và tạo ra thuỷ triều lên xuống trên hành tinh chúng ta.

Trish không hiểu rõ câu chuyện sẽ đi đến đâu, nhưng cô thấy thích thú với những điều mình đang nghe.

- Giờ chúng ta cùng giả định nhé? - Katherine nói, tay phủi hạt cát đi -Nếu tôi bảo cô rằng một suy nghĩ... tức là bất kỳ ý tưởng nhỏ nhoi nào hình thành trong tâm trí chúng ta... trên thực tế cũng có khối lượng thì sao nào? Nếu một suy nghĩ là một vật chất thật sự, một thực thể đo đếm được, với một khối lượng đo đếm được thì sẽ sao? Dĩ nhiên, đó là một khối lượng vô cùng nhỏ, nhưng vẫn cứ là khối lượng. Vậy hàm ẩn ở đây là gì?

- Nói một cách giả định ư? Chà, hàm ẩn rõ nét là... nếu một suy nghĩ cũng có khối lượng thì nó sẽ có trọng lực và có thể hút mọi vật về phía nó.

Katherine mỉm cười.

- Cô cừ lắm. Giờ ta tiến thêm một bước nhé. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu nhiều người cùng tập trung vào một suy nghĩ giống nhau? Tất cả những điều nảy ra từ những suy nghĩ đó sẽ hợp nhất lại, và khối lượng luỹ tích của suy nghĩ này bắt đầu tăng lên. Bởi vậy, trọng lực của nó cũng tăng lên.

- Đúng.

- Nghĩa là... nếu có đủ số người cùng nghĩ về một điều thì lực hấp dẫn của suy nghĩ đó trở nên hữu hình... tạo ra một lực thực sự - Katherine nháy mắt - Và có thể gây ra một ảnh hưởng đo đếm được lên thế giới vật chất của chúng ta đấy.

Chú thích:

(32) Tiếng Frisan là một nhóm ngôn ngữ tương đối gần gũi với tiếng Đức - ND.

(33) Tiếng Maek là một phương ngữ có thể đã mất, từng được sử dụng ở bán đảo Triều Tiên - ND.

(34) Akkadian là một ngôn ngữ đã mất, từng được sử dụng ở Lưỡng Hà cổ đại. Nó sử dụng hệ chữ viết hình nêm của người Sumer cổ đại. Tên gọi của ngôn ngữ này xuất phát từ tên thành phố Akkad, một trung tâm lớn của nền văn minh Lưỡng Hà - ND.

Chương 19

Giám đốc Inoue Sato đứng khoanh tay, mắt nhìn xoáy vào Langdon đầy vẻ hoài nghi trong khi phân tích những điều anh vừa nói.

- Gã nói rằng gã muốn ông mở khoá một cánh cổng cổ xưa phải không? Vậy tôi nên làm gì với câu chuyện đó đây, thưa Giáo sư?

Langdon nhún vai yếu ớt. Anh lại cảm thấy suy sụp và cố gắng không nhìn xuống bàn tay dễ sợ của bạn mình.

- Gã đã nói với tôi chính xác như vậy. Một cánh cổng cổ xưa... ẩn giấu đâu đó trong toà nhà này. Tôi bảo gã rằng tôi chẳng biết cổng kiếc nào cả.

- Nhưng tại sao hắn lại nghĩ rằng ông có thể tìm thấy nó?

- Tại gã bị điên, rõ ràng thế - Gã nói rằng Peter sẽ chỉ đường.

Langdon nhìn xuống ngón tay duỗi thẳng của Peter, và lại ngán ngẩm trước cái kiểu vặn vẹo câu chữ đầy ác ý của vị đại diện nhà chức trách. Peter sẽ chỉ đường. Langdon đưa mắt nhìn theo hướng ngón tay trỏ thẳng lên mái vòm bên trên. Một cái cổng ư? Trên đó chăng? Đúng là điên rồ.

- Gã đàn ông đã gọi cho tôi, - Langdon bảo Sato - là kẻ duy nhất biết tôi đến Điện Capitol tối nay, vì vậy bất kỳ ai thông báo cho bà rằng tôi ở đây tối nay, thì đó chính là người bà cần. Tôi thấy...

- Tôi có được thông tin từ đâu không phải là chuyện của ông, - Sato ngắt lời, giọng đanh lại - ưu tiên cao nhất của tôi lúc này là hợp tác với người đó, và tôi được biết ông là người duy nhất đủ khả năng đáp ứng những điều anh ta muốn.

- Còn ưu tiên cao nhất của tôi là tìm ra bạn tôi, - Langdon ủ rũ đáp lại.

Sato hít một hơi dài, rõ ràng sự kiên nhẫn của bà ta đang bị thách thức.

- Nếu muốn tìm thấy Solomon, chúng ta cần hành động, thưa Giáo sư bắt đầu bằng cách hợp tác với người có vẻ như biết rõ ông ấy đang ở đâu - Sato nhìn đồng hồ - Thời gian rất eo hẹp. Tôi dám khẳng định với ông rằng chúng ta bắt buộc phải nhanh chóng làm theo những đòi hỏi của người đàn ông này.

- Bằng cách nào chứ? - Langdon hỏi, vẻ ngờ vực - Bằng cách xác định và mở một cách cổng cổ xưa ư? Làm gì có cánh cổng nào, thưa Giám đốc Sato. Thằng cha đó bị tâm thần rồi.

Sato bước lại gần, chỉ cách Langdon chưa đầy nửa mét.

- Biết nói thế nào nhỉ... sáng nay gã điên của ông đã khôn khéo thao túng hai nhân vật vô cùng thông minh đấy - Bà ta nhìn thẳng vào Langdon rồi liếc về phía Anderson - Trong nghề của tôi, ai cũng hiểu rằng giữa điên rồ và thiên tài chỉ có một ranh giới rất nhỏ. Cho nên ít nhiều chúng ta cũng nên ngả mũ cúi chào gã này!

- Gã đã cắt phăng bàn tay của một con người!

- Đúng như vậy. Đó không phải là hành vi của một người lương thiện. Nhưng quan trọng hơn, thưa Giáo sư, rõ ràng gã ta tin rằng ông có thể giúp gã. Gã tìm cách đưa ông tới Washington, và chắc chắn phải có lý do gã mới làm thế chứ?

- Lý do duy nhất khiến gã nghĩ tôi mở được "cánh cổng" là bởi chính Peter đã nói với gã như vậy! - Langdon phản biện.

- Tại sao Peter Solomon lại nói thế nếu điều đó không phải sự thật?

- Tôi tin chắc Peter chẳng nói gì hết, và nếu có nói, thì đó là vì ông ấy bị ép buộc, bị rối trí... hoặc bị đe doạ.

- Phải. Người ta gọi đó là tra tấn ép cung, và hình thức ấy khá hiệu quả. Càng có lý do để ngài Solomon buột ra sự thật - Sato bình phẩm, như thể rất nhiều kinh nghiệm về thủ pháp này - Gã kia có giải thích tại sao Peter nghĩ chỉ mình ông mở được cánh cổng không?

Langdon lắc đầu.

- Thưa Giáo sư, nếu đúng như danh tiếng của ông thì ông và Peter Solomon đều cùng quan tâm đến một đề tài, đó là các bí mật, các bí quyết lịch sử, chủ nghĩa thần bí, đại loại như vậy. Trong tất cả các cuộc thảo luận với ông, Peter chưa bao giờ nhắc nhở đến một cánh cổng bí mật ở Washington D.C. ư?

Langdon không thể tin nổi mình lại phải nghe câu hỏi này từ một sĩ quan cao cấp của CIA.

- Tôi khẳng định như vậy. Peter và tôi trao đổi khá nhiều chuyện huyền bí, nhưng hãy tin tôi, tôi sẽ khuyên ông ấy đi kiểm tra lại đầu óc nếu có lần nào nói với tôi về một cánh cổng ẩn giấu đâu đấy. Đặc biệt lại là cánh cổng dẫn tới những Bí ẩn cổ xưa.

Sato ngước nhìn lên.

- Sao cơ? Người kia có nói cụ thể là cánh cổng này dẫn tới cái gì à?

- Phải, nhưng gã không cần nói thẳng ra - Langdon ra dấu về phía bàn tay - Mật Thủ là giấy mời chính thức để đi qua một cánh cống huyền diệu và nhận lấy những tri thức cổ - những tri thức mạnh mẽ có tên Bí ẩn cổ xưa... hoặc là tri thức bị lãng quên của mọi thời đại.

- Tức là ông đã nghe nói đến bí mật mà gã kia tin rằng được cất giấu ở đây.

- Rất nhiều nhà sử học nghe nói đến nó.

- Thế vì sao mà anh dám khẳng định cánh cổng đó không hề tồn tại?

- Kính thưa bà, tất cả chúng ta đều nghe nói đến Suối nguồn Tươi trẻ và Shangri-la(35), nhưng điều đó không có nghĩa là những thứ ấy tồn tại.

Máy bộ đàm của Anderson đột ngột ré lên rất to làm ngắt lời họ.

- Chỉ huy? - giọng trên máy bộ đàm gọi.

Anderson giật bộ đàm ra khỏi thắt lưng.

- Anderson đây.

- Thưa Chỉ huy, chúng tôi đã tìm kiếm xong. Ở đây không có ai khớp với mô tả. Còn mệnh lệnh gì không, thưa Chỉ huy?

Anderson liếc nhanh về phía Sato, rõ ràng là chờ đợi một lời quở trách, nhưng Giám đốc OS dường như không để tâm. Anderson bước xa khỏi chỗ Langdon và Sato, nói khẽ vào máy bộ đàm.

Sato vẫn chú tâm vào Langdon.

- Theo ông, bí mật mà gã kia tin rằng đang cất giấu ở Washington... chỉ là tưởng tượng?

Langdon gật đầu.

- Đó là một truyền thuyết rất lâu đời. Đã hàng nghìn năm rồi, từ thời tiền Công giáo, người ta đã đồn đại về bí mật của những Bí ẩn cổ xưa.

- Nhưng truyền thuyết ấy vẫn tồn tại?

- Khối tín điều vô lý hơn còn tồn tại nữa là - Langdon thường nhắc nhở sinh viên của mình rằng hầu hết các tôn giáo hiện đại đều có những câu chuyện không dễ kiểm chứng về mặt khoa học: tất cả mọi chuyện, từ Moses rẽ nước Hồng Hải... đến Joseph Smith sử dụng cặp kính thần để dịch Kinh Mormon từ những tấm vàng mà ông ấy tìm thấy ở tiểu bang New York. Việc nhiều người chấp nhận mộtý tưởng không phải là bằng chứng về giá trị của nó.

- Tôi hiểu. Vậy đích xác thì những... Bí ẩn cổ xưa này là gì?

Langdon thở hắt ra. Bà có hẳn vài tuần rảnh rỗi không?

- Nói ngắn gọn, Bí ẩn cổ xưa là một tập hợp kiến thức bí ẩn được tích luỹ từ rất lâu rồi. Người ta tin rằng khía cạnh đáng chú ý nhất của vốn kiến thức này là giúp kẻ thực hành nó tiếp cận được phần sức mạnh đang nằm im trong trí não con người. Những nhà thông thái nắm giữ được kiến thức này đã thề giữ bí mật với quần chúng bởi vì nó quá mãnh liệt và nguy hiểm cho những ai không được khai tâm.

- Nguy hiểm thế nào?

- Thông tin được giấu kín vì lý do tương tự như ta không để trẻ nhỏ nghịch diêm vậy. Nếu tích cực thì lửa sẽ đem lại ánh sáng... nhưng ở khía cạnh tiêu cực, lửa có khả năng huỷ diệt gớm ghê.

Sato gỡ cặp kính và săm soi Langdon.

- Giáo sư hãy cho tôi biết liệu ông có tin rằng kiến thức hùng mạnh đó thực sự tồn tại không?

Langdon không biết phải trả lời thế nào. Các Bí ẩn cổ xưa luôn là nghịch lý lớn nhất trong sự nghiệp học thuật của anh. Thực ra, mọi truyền thống huyền bí trên Trái đất này đều xoay quanh một ý tưởng.

- Ý tưởng ấy chấp nhận sự tồn tại của một thứ tri thức bí truyền có khả năng đem lại cho nhân loại những sức mạnh thần bí, thậm chí siêu phàm, chẳng hạn cỗ bài bói và Kinh Dịch giúp con người tiên đoán tương lai; thuật giả kim mang lại sự bất tử thông qua Hòn đá Triết học(36) huyền thoại; Wicca(37) cho phép những người thực hành nó ở cấp cao tạo ra được các loại bùa chú đầy quyền năng. Bản danh sách ấy còn kéo dài mãi.

Là một học giả, Langdon không thể phủ nhận các tư liệu lịch sử về những truyền thống này, đó là văn bản, hiện vật, và nhiều công trình nghệ thuật ám chỉ rằng người cổ đại có vốn tri thức rất cao song chỉ chia sẻ qua các huyền tích, truyền thuyết và biểu tượng, nhằm bảo đảm rằng những người được khai tâm mới đủ khả năng tiếp cận sức mạnh của vốn tri thức ấy. Tuy nhiên, là một người có tư tưởng thực tiễn và luôn biết nghi ngờ, Langdon vẫn không thực sự bị thuyết phục.

- Xin nói rằng tôi là một người hay hoài nghi - anh bảo Sato - Tôi chưa bao giờ bắt gặp thứ gì trong thế giới thực tiễn cho thấy sự hiện hữu của Bí ẩn cổ xưa, chúng chỉ là truyền thuyết, là một nguyên mẫu huyền thoại lặp đi lặp lại. Theo tôi, nếu quả thực con người sở hữu những sức mạnh kỳ diệu thì phải có bằng chứng chứ. Nhưng cho đến nay, lịch sử chưa hề ghi nhận một ai có sức mạnh siêu phàm cả.

Sato nhướng mày.

- Điều đó không hoàn toàn đúng.

Langdon do dự, nhận ra rằng với những người theo đạo, trên thực tế vẫn có tiền lệ về các vị nhân thần mà Jesus là minh chứng rõ rệt nhất.

- Phải thừa nhận rằng rất nhiều người giàu kiến thức tin tưởng vào sự tồn tại của vốn tri thức cao siêu ấy, nhưng tôi thì không tin - anh nói.

- Có phải Peter Solomon cũng thuộc số đó không? - Sato hỏi, liếc xuống bàn tay vẫn nằm trên sàn nhà.

Langdon không dám nhìn theo ánh mắt Sato.

- Peter xuất thân từ một dòng họ luôn có niềm đam mê đối với tất cả những gì cổ xưa và huyền bí.

- Phải chăng đó là một lời khẳng định? - Sato hỏi.

- Tôi có thể quả quyết với bà rằng cho dù tin vào sự tồn tại của những Bí ẩn cổ xưa. Peter cũng không khi nào tưởng đến việc tiếp cận chúng thông qua một cánh cổng ở Washington D.C. này. Ông ấy hiểu rõ những biểu tượng ẩn dụ, điều mà kẻ bắt giữ ông ấy rõ ràng mù tịt.

Sato gật đầu.

- Vậy ông tin rằng cánh cổng này là một ẩn dụ.

- Dĩ nhiên, - Langdon đáp - về mặt lý thuyết. Nó là một ẩn dụ rất quen thuộc, một cánh cổng bí ẩn mà người ta phải đi qua đó để được khai sáng. Cổng và cửa ngõ là những kiến trúc biểu tượng quen thuộc của nghi thức khai tâm. Tìm kiếm một cánh cổng theo đúng nghĩa đen chẳng khác gì cố tìm cho ra Cổng Thiên đàng.

Sato lộ vẻ trầm ngâm.

- Nhưng dường như kẻ bắt giữ Solomon tin rằng ông sẽ mở được một cánh cổng có thật?

Langdon thở hắt ra.

- Gã phạm phải một sai lầm giống như nhiều kẻ cuồng tín khác, đó là lẫn lộn giữa ẩn dụ với hiện thực.

Tương tự, các nhà giả kim ngày xưa đã lao tâm khổ tứ một cách vô ích nhằm biến chì thành vàng mà không hề nhận ra rằng quá trình này là một ẩn dụ về việc khai thác những tiềm năng đích thực của con người, giúp biến cải tư duy u tối, kém hiểu biết thành một tư duy sáng láng hơn.

Sato ra dấu về phía bàn tay.

- Nếu gã này muốn ông xác định cho gã một cánh cổng nào đó thì tại sao gã không đơn giản là hỏi ông cách tìm nó? Tại sao phải bày ra hành động điên rồ này? Tại sao lại gửi cho ông một bàn tay xăm hình?

Langdon đã tự hỏi mình đúng những câu hỏi này và vẫn chưa tìm ra câu trả lời.

- Chà, dường như kẻ mà chúng ta đang phải truy tìm, ngoài sự bất ổn về tâm thần, còn là kẻ có học vấn rất cao. Bàn tay này là bằng chứng cho thấy gã khá am hiểu về các Bí ẩn cũng như chìa khoá bí mật của chúng. Đấy là chưa kể lịch sử của căn phòng này.

- Tôi không hiểu.

- Mọi thứ gã làm tối nay đều được tiến hành theo đúng quy trình cổ xưa. Theo truyền thống. Mật Thủ là một lời mời thiêng liêng, và do đó nó phải được đưa ra ở một địa điểm thiêng liêng.

Sato nheo mắt.

- Đây là Nhà tròn của Điện Capitol, thưa Giáo sư, không phải là thánh đường dẫn tới những bí mật huyền thoại xa xưa.

- Trên thực tế, thưa bà. - Langdon đáp - tôi biết rất nhiều nhà sử học sẽ không đồng ý với bà về câu nói vừa rồi.

***

Lúc ấy, ở bên kia thành phố, Trish Dunne ngồi lọt giữa những bức tường plasma của Khối vuông. Chuẩn bị xong con nhện tìm kiếm, cô gõ năm cụm từ khoá mà Katherine đã đưa.

Chẳng đi đến đâu cả cho mà xem.

Cảm thấy không mấy lạc quan, cô cho con nhện hoạt động, bắt đầu trò chơi Đi câu cực kỳ phổ biến. Chỉ trong chớp mắt, các cụm từ liền được so sánh với mọi nội dung văn bản trên khắp thế giới... để tìm ra một trường hợp trùng khớp hoàn toàn.

Trish không khỏi thắc mắc về thực chất của câu chuyện, nhưng cô đã chấp nhận rằng làm việc với gia đình Solomon có nghĩa là không bao giờ biết hết toàn bộ mọi việc.

Chú thích:

(35) Shangri-la là một địa danh hư cấu được nói đến trong cuốn tiểu thuyết Chân trời bị mất năm 1933 của tác giả người Anh James Hilton. Trong sách, "Shangri-la" là một thung lũng huyền bí nằm ở cực phía tây của dãy núi Côn Lôn. Shangri-la trở thành đồng nghĩa với cõi thần tiên và đặc biệt là một vùng đất sung sướng vĩnh hằng không tưởng bí ẩn trên dãy Himalayan, tách biệt với thế giới bên ngoài. Trong tiểu thuyết, những người sống ở Shangri-la đều bất tử - ND.

(36) Hòn đá Triết học là một dụng cụ giả kim huyền thoại, được cho là có khả năng biến những kim loại cơ bản thành vàng. Đôi khi, người ta còn tin rằng nó chính là thứ thuốc trường sinh bất lão, rất hữu dụng để cải lão hoàn đồng và có khi còn đạt được sự bất tử - ND.

(37) Wicca là một tôn giáo dựa vào tự nhiên được phổ biến vào năm 1954 bởi một công chức hưu trí người Anh là Gerald Gardner. Đây là tôn giáo lớn nhất trong các tôn giáo không theo Cơ đốc. Các tín đồ Wiccan rất tôn sùng Trái đất cùng vị nữ thần và nam thần của mình. Quy tắc ứng xử chính của họ là cấm làm hại mọi người, kể cả bản thân, trừ một vài trường hợp tự vệ - ND.

Chương 20

Robert Langdon lén nhìn đồng hồ một cách lo lắng: 7 giờ 58 phút tối. Gương mặt cười của chú chuột Mickey cũng chẳng làm anh vui lên bao nhiêu. Mình phải đi tìm Peter. Mình đang lãng phí thời gian.

Sato đã tránh sang bên một lát để gọi điện, nhưng giờ bà ta quay trở lại chỗ Langdon.

- Thưa Giáo sư, tôi đang làm ông nhỡ việc gì đó phải không?

- Không, thưa bà, - Langdon đáp, kéo ống tay áo phủ trùm lên đồng hồ - Tôi chỉ đang rất lo lắng cho Peter.

- Tôi hiểu, nhưng tôi quả quyết rằng hiện giờ điều tốt nhất ông làm được cho bạn ông là giúp tôi tìm hiểu ý đồ của kẻ bắt giữ Peter.

Langdon không dám chắc, nhưng anh cảm thấy anh chẳng thể đi đâu được cho tới khi vị Giám đốc OS có được thông tin mà bà ta muốn.

- Ban nãy, - Sato lên tiếng - ông nói rằng Nhà Tròn này có phần thiêng liêng hợp với ý tưởng về các Bí ẩn cổ xưa?

- Vâng, thưa bà.

- Hãy giải thích cho tôi xem nào?

Langdon biết anh sẽ phải lựa chọn ngôn từ thật đơn giản. Anh đã dạy nhiều học kỳ về các biểu tượng huyền bí của Washington D.C., chỉ riêng toà nhà này thôi đã đủ liệt kê một danh sách bất tận những chi tiết tham khảo.

Quá khứ của nước Mỹ còn chứa khá nhiều bí mật

Mỗi lần Langdon giảng về biểu tượng học của nước Mỹ, đám sinh viên lại ngạc nhiên vì biết rằng ý định thực sự của các vị tiền bối lập quốc chẳng mảy may liên quan với những điều mà nhiều chính trị gia ngày nay tuyên bố.

Vận mệnh tiền định của nước Mỹ đã chìm nghỉm trong lịch sử

Thoạt đầu, các vị tiền bối sáng lập đặt tên thành phố này là "Rome", đặt tên con sông chảy qua đây là Tiber và dựng lên một thủ đô với nhiều đền thờ và thánh điện, tất cả đều được trang trí bằng hình ảnh của các vị thần vĩ đại trong lịch sử như Apollo, Minerva, Venus, Helios, Vulcan, Jupiter. Ở trung tâm thành phố, giống như nhiều thành phố cổ đại khác, họ xây dựng một cột tháp Ai Cập để làm lễ vật vĩnh cửu dâng hiến cổ nhân. Cột tháp ấy còn đồ sộ hơn cả cột tháp ở Cairo hay Alexandria, vươn tới độ cao 166,5 mét với hơn 30 tầng, thể hiện lời cảm tạ và kính trọng đối với vị cha già mà thành phố thủ đô này đang mang tên.

Washington.

Giờ đây, sau nhiều thế kỷ, bất chấp sự phân chia tôn giáo và thành bang của nước Mỹ, Nhà tròn vẫn lấp lánh những biểu tượng tôn giáo cổ xưa. Có cả tá thần thánh ở đây, nhiều hơn cả Đền Pantheon nguyên bản bên Rome. Dĩ nhiên, đền Pantheon của người La Mã đã bị cải sang Thiên Chúa giáo từ năm 609... nhưng đền Pantheon Hoa Kỳ thì chẳng bao giờ bị cải giáo cả, mọi dấu tích về lịch sử đích thực của nó vẫn nguyên vẹn như xưa.

- Có thể bà đã biết, - Langdon nói - Nhà tròn được thiết kế như vật hiến tế cho một trong những thánh điện huyền bí tôn nghiêm nhất thành Rome. Đền thờ Vesta(38).

- Như các vũ nữ ấy hả? - Xem ra Sato không tin nổi những trinh nữ canh giữ ngọn lửa lại có gì đó liên quan đến Điện Capitol ở Hoa Kỳ.

- Đền Vesta ở Rome mang hình tròn, - Langdon đáp - với một lỗ to trên sàn nhà, nơi các vũ nữ canh giữ ngọn lửa khai sáng linh thiêng. Nhiệm vụ của họ là giữ cho ngọn lửa không bao giờ tắt.

Sato nhún vai.

- Nhà tròn này quả đúng là hình tròn, nhưng tôi chẳng thấy cái lỗ nào trên sàn nhà cả.

- Không, làm gì còn nữa, nhưng có thời chính giữa căn phòng này có một cái lỗ lớn. Ở đúng vị trí bàn tay của Peter bây giờ - Langdon trỏ xuống sàn - Thực ra, bà vẫn tìm thấy trên sàn các dấu vết của hàng rào chắn bảo vệ mọi người khỏi bị ngã xuống lỗ đấy.

- Sao cơ? - Sato hỏi, chăm chú ngó sàn nhà - Tôi chưa bao giờ nghe nói đến điều đó.

- Có lẽ ông ấy nói đúng - Anderson trỏ một vòng núm sắt từng là vị trí các cọc lan can - Tôi trông thấy những thứ này đã bao lần, nhưng chẳng hiểu nổi tác dụng của chúng là gì.

Đâu phải chỉ riêng ông, Langdon nghĩ, hình dung ra hàng nghìn người, kể cả những nghị sĩ tiếng tăm, hằng ngày qua lại trung tâm Nhà tròn mà không hề biết rằng đã có thời, nếu đi như thế thì họ sẽ rơi tõm xuống Hầm ngầm Điện Capitol ngay bên dưới.

- Cái lỗ hổng trên nền bị lấp rồi - Langdon giải thích - Nhưng trước đây khách tới thăm Nhà tròn có thể nhìn thẳng xuống ngọn lửa cháy sáng ở bên dưới.

Sato quay lại.

- Lửa à? Ngay trong Điện Capitol ư?

- Giống như một ngọn đuốc khổng lồ ấy mà. Một ngọn lửa vĩnh cửu cháy sáng ở hầm ngầm ngay dưới chân chúng ta đây. Lổ hổng nhìn xuống ngọn lửa, khiến gian phòng giống một Đền thờ Vesta hiện đại. Thậm chí còn có hẳn một Vu nữ ở toà nhà này, một nhân viên liên bang gọi là Vu nữ Nhà hầm. Bà ta trông nom cho ngọn lửa cháy sáng suốt năm mươi năm trời, tới tận khi chính trị, tôn giáo và tác hại của khói khiến người ta buộc phải chấm dứt việc đốt lửa.

Cả Anderson và Sato đều tỏ ra ngạc nhiên.

- Ngày nay, thứ duy nhất gợi nhớ ngọn lửa một thời cháy sáng là chiếc la bàn hình ngôi sao bốn cánh gắn trên sàn nhà hầm, ở tầng dưới nơi họ đứng, tượng trưng cho ngọn lửa vĩnh cửu từng toả ánh sáng ra cả bốn hướng Tân Thế giới của nước Mỹ.

- Theo luận điểm của Giáo sư thì cái gã đã để bàn tay của Peter ở đây biết tất cả những tình tiết đó? - Sato chất vấn.

- Rõ ràng là như vậy, và còn biết hơn thế. Trong phòng này, có rất nhiều biểu tượng thể hiện niềm tin về những Bí ẩn cổ xưa.

- Tri thức bí mật, - Sato nói tiếp, giọng pha sự châm chọc - Kiến thức dẫn dắt con người tới những sức mạnh thần thánh, phải không?

- Vâng thưa bà.

- Nhưng điều đó không thích hợp lắm với nền tảng Thiên Chúa giáo của nước ta.

- Có lẽ thế, nhưng nó vẫn cứ đúng. Quá trình biến cải một con người thành một vị thần được gọi là phong thánh. Cho dù quý vị có biết về chủ đề biến cải người thành thần hay không thì nó vẫn là yếu tố cốt lõi trong hệ thống biểu tượng của Nhà tròn.

- Phong thánh ư? - Anderson vọt miệng, với vẻ mặt thảng thốt thừa nhận.

- Phải - Anderson làm việc ở đây. Ông ta biết rõ - Từ phong thánh (apotheosis) theo nghĩa đen là "quá trình biến cải thần thánh" quá trình một người thường trở thành thần linh. Nó xuất phát từ ngôn ngữ Hy Lạp cổ: apo là "trở thành" và theos là "thần thánh".

Anderson có vẻ rất ngạc nhiên.

- Phong thánh nghĩa là "trở thành thần" à? Vậy mà tôi không biết.

- Còn gì nữa thế? - Sato chất vấn.

- Thưa bà, - Langdon đáp - bức vẽ lớn nhất trong toà nhà này có tên Sự phong thánh của Washington, và nó mô tả rất rõ George Washington đang được biến cải thành một vị thần.

Sato tỏ vẻ không tin.

- Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì tương tự.

- Thực lòng, tôi tin chắc bà đã thấy rồi - Langdon chỉ ngón trỏ thẳng lên trên - Nó ở ngay trên đầu bà đấy.

Chú thích:

(38) Trong thần thoại La Mã. Vesta là nữ thần đồng trinh của lò sưởi, nhà và gia đình. Vesta thường được hình tượng hoá bằng ngọn lửa thiêng cháy tại các đền thờ của bà - ND.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: