Biểu tượng thất truyền c 96-115
Chương 96
Mal'akh đứng trong hành lang, xem xét toàn bộ cảnh tàn sát quanh mình.
Căn nhà ngổn ngang như một bãi chiến trường.
Robert Langdon bất tỉnh nhân sự dưới chân gã.
Katherine Solomon bị trói và nhét giẻ vào mồm trên sàn phòng ăn.
Xác nhân viên an ninh nằm co quắp gần đó, vẫn ở đúng chỗ cô đổ gục từ trên ghế xuống. Nữ nhân viên này, sốt sắng với hy vọng được sống sót, đã tuân thủ mọi yêu cầu của Mal'akh. Với một con dao kề sát cổ, cô trả lời điện thoại di động của Mal'akh, nói dối để lừa Langdon và Katherine chạy vội tới đây. Cô không có đồng nghiệp, Peter Solomon thì chắc chắn là không ổn rồi. Đợi người phụ nữ hoàn thành xong vai diễn, Mal'akh lập tức xiết cổ cô đến chết.
Để hoàn chỉnh màn đánh lừa rằng mình vắng nhà, Mal'akh bèn gọi cho Bellamy bằng hệ thống điện thoại trên một trong số các xe hơi của gã. Tôi đang trên đường, gã nói thế với Bellamy và bất kỳ ai cùng nghe với ông ta. Peter nằm trong cốp. Trên thực tế, Mal'akh chỉ lái xe từ ga ra tới sân trước, bố trí thêm vài chiếc xe của mình đỗ bừa bãi ở đó để máy nổ và bật nguyên đèn pha.
Trò lừa đảo thành công rực rỡ.
Gần như vậy.
Điều ngoài dự tính duy nhất là cái xác đẫm máu mặc quần áo đen nằm sóng sượt trong tiền sảnh với chiếc tô vít cắm ngập nơi cổ kia.
Mal'akh lục soát xác chết và bật cười khi tìm thấy một máy bộ đàm công nghệ cao cùng điện thoại di động mang phù hiệu CIA. Xem ra ngay cả bọn này cũng ý thức được sức mạnh của ta. Gã tháo pin và dùng một thanh chặn cửa bằng đồng đập nát cả hai thiết bị.
Mal'akh biết bây giờ phải hành động thật nhanh, nhất là khi CIA đã can dự vào. Gã sải bước lại chỗ Langdon. Ngài Giáo sư vẫn bất tỉnh và sẽ còn bất tỉnh một lúc nữa. Mắt Mal'akh run rẩy nhích tới kim tự tháp đá nằm trên sàn bên cạnh cái túi mở tung của Langdon.
Gã bật thở hổn hên, tim đập rộn lên.
Ta đã chờ đợi bao năm...
Gã cúi xuống nhặt Kim tự tháp Tam điểm, tay run run. Chậm rãi rà ngón tay qua dòng chữ khắc, gã cảm thấy kính sợ trước lời hứa hẹn của những ký tự ấy. Để tránh bị kích động thêm, gã thả kim tự tháp và cái chóp vào túi Langdon rồi kéo kín khoá.
Ta sẽ ráp chúng lại sớm... ở một nơi an toàn hơn.
Mal'akh thảy cái túi qua vai và thử vác Langdon lên, nhưng cơ thể săn chắc của ngài Giáo sư nặng hơn gã tưởng nhiều. Mal'akh đành phải xốc nách Langdon và kéo anh xềnh xệch trên sàn nhà. Hắn đang đi đến chỗ tàn đời, hắn sẽ không thích đâu, Mal'akh nghĩ thầm.
Trong khi gã kéo lê Langdon, chiếc ti vi đằng bếp cứ kêu ông ổng.
Đây cũng là một phần của trò lừa gạt, gã vẫn chưa kịp tắt. Lúc này chương trình đang phát hình một nhà truyền giáo bắt nhịp cho giáo đoàn tụng bài kinh "Cha của chúng con". Mal'akh tự hỏi không biết có ai trong số các khán giả mê muội của lão ta nắm được nguồn gốc bài kinh này không.
... cõi thế khác gì thiên đường... - giáo đoàn ê a.
Phải, Mal'akh nghĩ. Thượng hạ tương liên mà.
... dẫn dắt chúng con tránh xa cám dỗ...
Giúp chúng ta chế ngự sự bạc nhược của xác phàm.
giải thoát chúng con khỏi quỷ dữ... - bọn họ cầu khẩn.
Mal'akh mỉm cười. Điều đó khó đấy. Bóng tối đang lan rộng. Dù vậy gã cũng phải thừa nhận nỗ lực của họ. Những kẻ nói chuyện với các thế lực vô hình và cầu xin giúp đỡ ấy đang chết dần chết mòn trong thế giới hiện đại này.
Mal'akh lôi Langdon qua phòng khách. Giáo đoàn niệm "Amen!"
- Amon, Mal'akh đính chính. Ai Cập là cái nôi tôn giáo của các người. Thần Amon là nguyên mẫu cho Zeus... Jupiter... và tất cả các gương mặt thánh thần hiện đại. Cho đến nay, mọi tôn giáo trên trái đất đều xưng tụng biến thể tên của ngài. Men!Min!Aum!
Nhà truyền giáo trên truyền hình bắt đầu trích đọc Kinh thánh, phần mô tả tôn ti trật tự của thiên thần, quỷ sứ và yêu tinh cai quản thiên đàng địa ngục.
- Hãy giữ gìn linh hồn trước mọi thế lực ma quỷ! - lão ta cảnh báo - Nâng cao tâm hồn bằng tiếng ca! Chúa và bầy thiên thần của người sẽ lắng nghe các con!
- Đúng, Mal'akh hiểu. Nhưng quỷ sứ cũng lắng nghe đấy.
Từ lâu rồi, gã đã biết rằng bằng cách vận dụng hợp lý, người ta có thể dùng Nghệ thuật để mở cánh cổng vào thế giới tâm linh. Thế giới đó tồn tại nhiều lực lượng vô hình, dưới cả hai dạng tốt và xấu, y như con người. Lực lượng ánh sáng thì hàn gắn, bảo vệ và cố gắng đem lại trật tự cho thế giới. Ngược lại, lực lượng Bóng tối chỉ mang tới huỷ diệt và hỗn loạn.
- Nếu biết triệu hồi đúng cách, người ta có thể thuyết phục các thế lực vô hình làm theo lệnh mình và nhận về luồng sức mạnh gần như siêu nhiên. Để đổi lại việc giúp đỡ kẻ triệu hồi, các thế lực ấy đòi lễ vật: phe ánh sáng chỉ cần lời ngợi ca và xưng tụng, còn với các thế lực Bóng tối, lễ vật phải là máu tươi.
Hy sinh càng lớn, sức mạnh đạt được càng cao. Khi bắt đầu thực hành Nghệ thuật. Mal'akh chỉ dùng máu các loài động vật. Thời gian trôi qua, gã ngày càng táo tợn trong việc lựa chọn vật hi sinh. Đêm nay, ta sẽ đi bước cuối cùng.
- Hãy coi chừng! - nhà truyền giáo hô lớn, thông báo về sự Khải huyền sắp đến - Trận chiến cuối cùng của linh hồn con người sắp diễn ra!
Rất đúng, Mal'akh nghĩ, và ta sẽ trở thành chiến binh vĩ đại nhất.
Kỳ thực trận chiến này đã bắt đầu từ lâu lắm rồi. Ở Ai Cập cổ đại, những người thành thạo Nghệ thuật đều trở thành các bậc thầy vĩ đại của lịch sử, trở thành những pháp sư ánh sáng đích thực vượt hẳn trên số đông. Chẳng khác nào thần thánh trên cõi thế tục này, họ xây dựng nhiều đền thờ vĩ đại, đón nhận kẻ nhập đạo từ khắp nơi trên thế giới đổ về để cùng chia sẻ tri thức. Có thời còn nổ ra một cuộc chạy đua giữa những nhân vật xuất chúng. Chỉ trong một thời gian ngắn, loài người gần như đã nâng cao được tầm vóc của mình và vượt lên khỏi những ràng buộc phàm tục.
Đó là thời hoàng kim của Tri thức cổ xưa.
Nhưng con người, vốn chỉ là xác phàm, cũng rất dễ mắc phải những tội như láo xược, thù hận, nôn nóng và tham lam. Dần dần có kẻ làm hỏng Nghệ thuật, xuyên tạc nó và lạm dụng sức mạnh của nó để tư lợi Họ bắt đầu sử dụng hình thức nghệ thuật đã bị bóp méo này để triệu hồi những thế lực đen tối. Một Nghệ thuật khác xuất hiện... một ảnh hưởng cuốn hút, tức thời và mạnh mẽ hơn nhiều.
Đó là Nghệ thuật của ta.
đó là Công việc Vĩ đại của ta.
Chứng kiến quỷ sứ trỗi dậy và thấy rằng con người không sử dụng nguồn tri thức mới tìm thấy để phục vụ đồng loại mình, các pháp sư cùng hội đoàn bí mật của họ quyết định phải cất giấu tri thức khỏi tầm mắt của những kẻ không xứng đáng. Cuối cùng, tri thức ấy bị thất truyền trong lịch sử.
Cùng với nó là giai đoạn Đại Thoái trào của Nhân loại.
Tiếp theo là một bóng tối trường cửu.
Cho đến hôm nay, hậu nhân của các pháp sư đã xuất hiện, dò dẫm tìm kiếm ánh sáng, nỗ lực giành lại sức mạnh đã mất trong quá khứ và cố gắng kiềm chế Bóng tối. Họ là các thầy tu và nữ tu ở giáo hội, đền thờ và điện thánh của tất cả mọi tôn giáo trên thế giới. Thời gian đã xoá nhoà ký ức... tách họ khỏi quá khứ. Họ không còn biết tới nguồn cội vốn tri thức hùng mạnh của mình nữa. Khi được hỏi về bí mật thiêng liêng của tiền nhân, những người trông nom tín điều dứt khoát không thừa nhận, thậm chí còn cho là dị giáo.
Bọn chúng có quên thật không? Mal'akh tự hỏi.
Tiếng vọng của Nghệ thuật cổ đại vẫn âm vang ở mọi ngóc ngách của địa cầu, từ những tín đồ Kabbalah huyền bí thuộc Do Thái giáo đến những thầy đồng Hồi giáo. Dấu tích vẫn còn trong nhiều nghi thức bí truyền của Thiên Chúa giáo, trong lễ Ban Thánh thể, trong hệ thống các thánh, thiên than và quỷ sứ, trong thánh ca và thần chú, trong nền móng chiêm tinh của lịch thánh, trong những chiếc áo choàng tôn phong và trong lời hứa hẹn về một cuộc sống vĩnh hằng.
Thậm chí hiện nay, tu sĩ giáo hội vẫn xua đuổi các linh hồn xấu bằng cách đung đưa bình hương toả khói, rung chuông thiêng và vẩy nước thánh. Tín đồ Thiên Chúa giáo vẫn thực hiện nghệ thuật phù phép siêu nhiên, một thủ thuật đòi hỏi không chỉ năng lực xua đuổi quỷ dữ mà còn triệu hồi được chúng.
Thế mà họ vẫn chưa nhìn thấy quá khứ của họ ư?
Quá khứ bí ẩn của giáo hội thể hiện rõ ràng nhất ở chính trung tâm Toà thánh. Tại Vatican City, giữa Quảng trường St. Peter, vẫn sừng sững một trụ biểu Ai Cập đồ sộ. Được chạm khắc trước khi Jesus cất tiếng khóc chào đời đến 1300 năm, cột đá nguyên khối thiêng liêng này không có dây mơ rễ má gì với Thiên Chúa giáo hiện đại nhưng nó vẫn hiện diện ở đó, ở ngay trung tâm giáo hội của đức Ki tô. Cột mốc bằng đá ấy đang lớn tiếng đòi được lắng nghe. Một số ít hiền triết còn nhớ mọi thứ bắt nguồn từ đâu chắc chắn sẽ tìm thấy lời nhắc nhở ở đây. Giáo hội sinh ra trong lòng Bí ẩn cổ xưa và vẫn bảo lưu mọi nghi thức cùng biểu tượng của "người mẹ" ấy.
Một biểu tượng vượt trên tất cả.
Các bàn thờ, lễ phục, toà tháp, và Kinh thánh được trang trí bằng hình ảnh nổi bật của Thiên Chúa giáo - hình ảnh của một con người chấp nhận hy sinh. Thiên Chúa giáo, hơn bất kỳ tin điều nào khác, hiểu rõ sức mạnh biến cải của hy sinh. Thậm chí giờ đây, để tôn vinh sự hy sinh của Jesus, các tín đồ cũng thực hiện nhiều hình thức hy sinh sơ đẳng... nhịn ăn, ăn chay, nộp thuế thập phân.
Những lễ vật đó đều rất tầm thường. Không có máu... không thể có sự hy sinh đích thực.
- Thế lực Bóng tối vốn thèm khát hiến sinh, bằng cách đó, chúng đã bành trướng đến mức cái Thiện giờ đây phải chiến đấu để kiềm chế chúng. Chỉ ít lâu nữa, ánh sáng sẽ bị huỷ diệt hoàn toàn, và những kẻ theo đuổi bóng tối sẽ tự do thống trị đầu óc con người.
Chương 97
- Dứt khoát phải có số Tám Quảng trương Franklin - Sato kiên quyết - Hãy tìm lại đi!
Nola Kaye điều chỉnh tai nghe.
- Thưa sếp, tôi vừa kiểm tra mọi chỗ... địa chỉ đó không tồn tại ở Thủ đô.
- Nhưng tôi đang đứng trên nóc số Một Quảng trường Franklin đây thôi - Sato nói - Phải có số Tám!
Đứng trên nóc ư?
- Sếp chờ chút - Nola bắt đầu chạy lệnh tìm kiếm mới. Cô định báo cáo thượng cấp về gã hacker nhưng xem ra Sato đang lưu tâm tới vụ số Tám Quảng trường Franklin hơn, vả chăng cô cũng chưa có đủ thông tin về anh ta. Sao cái tay an ninh hệ thống chết tiệt kia còn chưa xuống?
- Ồ - Nola lên tiếng, mắt nhìn màn hình - tôi hiểu ra vấn đề rồi.
Một Quảng trường Franklin là tên của toà nhà chứ không phải địa chỉ. Địa chỉ trên thực tế là 1301 phố K.
Thông tin dường như khiến bà Giám đốc lúng túng.
- Nola, tôi không có thời gian để giải thích, nhưng kim tự tháp chỉ rất rõ là tới địa chỉ số Tám Quảng trường Franklin.
Nola ngồi thẳng dậy. Kim tự tháp chỉ tới một địa điểm cụ thể ư?
Sato tiếp tục:
Dòng chữ khắc ghi rõ: "Bí mật giấu trong Tổ Chức, Tám Quảng trường Franklin.
Nola không thể hình dung nổi.
- Một tổ chức kiểu như... Hội Tam điểm hoặc đoàn thể nào đó ư?
- Tôi cho là như vậy, - Sato trả lời.
Nola ngẫm nghĩ một lát, rồi gõ bàn phím lần nữa.
- Thưa sếp, bao nhiêu năm đã qua, có lẽ các số tên phố trên quảng trường thay đổi rồi chăng? Ý tôi là nếu kim tự tháp ra đời đã lâu như lời đồn thì rất có thể các số ở Quảng trường Franklin không còn như thời điểm xa xưa ấy nữa. Giờ tôi đang chạy một lệnh tìm kiếm không có số tám... cho... "tổ chức"... quảng trường Franklin"... và Washington D.C."... Với cách này, may ra chúng ta sẽ thu được gợi ý gì đó nếu như có... - Cô dừng lại giữa chừng. Kết quả tìm kiếm bắt đầu xuất hiện.
- Cô thu được gì thế? - Sato hỏi.
Nola đăm đăm nhìn kết quả đầu tiên trong danh sách: Đại Kim tự tháp Ai Cập tráng lệ được dùng làm hình nền trên trang chủ của một toà nhà tại Quảng trường Franklin. Toà nhà này không giống bất cứ một toà nhà nào ở quảng trường.
Thậm chí khác hẳn mọi toà nhà trong thành phố.
Nola chững lại không phải vì kiến trúc kỳ dị, mà vì phần mô tả mục đích của toà nhà. Theo trang web, dinh thự lạ lùng này được xây dựng như một điện thờ bí mật thiêng liêng, thiết kế bởi... và cho...một hội kín lâu đời.
Chương 98
Robert Langdon tỉnh lại, đầu đau như búa bổ.
Mình đang đâu thế này?
Dù ở đâu thì nơi đó cũng tối om. Tối như hũ nút và im lìm như dưới mồ.
Langdon đang nằm ngửa, hai cánh tay để xuôi bên sườn. Anh thử nhúc nhích các ngón tay ngón chân và thở phào nhẹ nhõm khi thấy chúng vẫn cử động thoải mái, không hề nhức nhối. Chuyện gì xảy ra thế nhỉ? Ngoại trừ cơn đau đầu và bóng tối thăm thẳm, xem chừng mọi thứ đều khá bình thường.
Gần như tất cả mọi thứ.
Langdon nhận ra mình đang nằm trên một mặt phẳng cứng và trơn nhẵn dị thường, giống như mặt thuỷ tinh. Lạ hơn nữa, anh cảm nhận được rằng bề mặt nhẵn thín đó đang tiếp xúc trực tiếp với da thịt anh... từ bả vai, lưng, mông, đùi, đến bụng chân. Mình đang trần truồng ư? Anh bối rối đưa tay sờ khắp người.
Lạy Chúa! Quần áo mình đi đằng quái nào mất rồi Trong bóng tối, lớp mạng nhện bắt đầu vén lên, và Langdon hồi tướng được đôi chút... những hình ảnh hãi hùng... đặc vụ CIA bị giết... gương mặt một con quái vật xăm trổ... đầu anh bị dộng mạnh xuống sàn. Các hình ảnh xuất hiện nhanh hơn... Langdon chợt nôn nao nhớ ra Katherine Solomon đang bị trói và nhét giẻ nằm trên sàn phòng ăn.
Chúa ơi!
Langdon bật dậy, trán anh nện cộp vào cái gì đó chỉ cao độ vài phân. Cơn đau thấu qua hộp sọ khiến anh đổ vật trở lại, gần như bất tỉnh Langdon choáng váng đưa hai tay lần lên phía trên, dò dẫm trong bóng tối để tìm vật cản vừa rồi và phát hiện ra một điều không tài nào lý giải nổi. Dường như trần nhà cách anh chỉ chưa đầy nửa mét. Thế là sao nhỉ? Langdon duỗi tay ra hai bên để tìm cách lăn đi, nhưng cả hai tay anh đều chạm vào vách tường.
Giờ thì mọi thứ đã rõ. Không phải phòng ốc gì hết.
Mình ở trong một cái hòm!
Langdon nắm tay lại và bắt đầu dộng thình thình trong bóng tối của cái hòm nhỏ và chật chội như quan tài. Anh hét to kêu cứu. Mỗi thời khắc trôi qua, nỗi hãi hùng lại siết chặt thêm quanh anh, chặt đến mức không tài nào chịu đựng nổi nữa.
Mình đang bị chôn sống.
Trong cơn hoảng loạn gớm ghê, Langdon dùng cả hai tay hai chân thúc ngược lên, nhưng nắp chiếc quan tài kỳ lạ không hề nhúc nhích. Hình như nó làm bằng sợi thuỷ tinh, rất nặng, kín như bưng, cách âm, không chút ánh sáng, không đường thoát.
Mình sẽ chết ngạt trong cái hòm này mất.
Langdon nghĩ đến cái giếng sâu hun hút anh ngã xuống lúc còn nhỏ, đến cái đêm hãi hùng anh lội bì bõm một mình trong bóng tối đường hầm không đáy. Chấn thương đó đã để lại vết sẹo tinh thần khiến anh luôn bị ám ảnh trước những không gian kín mít.
Đêm nay, bị chôn sống, Robert Langdon phải trải qua cơn ác mộng khủng khiếp nhất đời mình.
***
Trên sàn phòng ăn của Mal'akh, Katherine Solomon đang nằm run rẩy trong yên lặng. Sợi dây sắc lạnh quấn quanh cổ tay và mắt cá chân cô đã khứa sâu vào thịt, những cử động nhỏ nhất dường như chỉ càng làm nó siết chặt thêm lên.
Sau khi tàn nhẫn đập đầu Langdon xuống đất khiến anh bất tỉnh, gã đàn ông xăm trổ đẳy mình liền lôi tấm thân mềm oặt của anh đi, mang theo cả túi da và kim tự tháp đá, chẳng rõ đi đâu.
Tay đặc vụ đã chết. Mấy chục phút trôi qua, Katherine không nghe thấy bất cứ một âm thanh nào, cô tự hỏi liệu gã đàn ông xăm trổ và Langdon có còn ở trong nhà nữa không. Cô thử kêu cứu, nhưng mỗi lần gắng sức, nùi giẻ trong miệng lại lút sâu thêm vào khí quản.
Chợt có tiếng bước chân lan dần tới. Katherine ngoái đầu nhìn, lòng hy vọng sẽ có người đến giúp cô. Khi cái bóng kềnh càng của kẻ bắt cóc hiện ra trên ngưỡng cửa. Katherine co rúm người, sực nhớ lại cảnh gã đứng trong ngôi nhà Solomon mười năm về trước.
Hắn đã giết hại gia đình mình.
Gã đàn ông tiến tới gần. Không thấy Langdon đâu. Gã đàn ông cúi xuống, ôm vòng qua hông Katherine và thô bạo xốc cô lên vai. Sợi dây xiết chặt vào cổ tay Katherine, nùi giẻ chặn đứng mọi tiếng gào câm lặng. Gã đàn ông vác cô bước dọc hành lang về phía phòng khách, nơi họ cùng ngồi uống trà trong yên ấm hồi chiều.
Hắn đang đưa mình đi đâu?
Gã đàn ông vác Katherine băng qua phòng khách và dừng lại trước bức tranh sơn dầu lớn vẽ Ba Kiều nữ mà mấy tiếng trước cô đã say mê nhìn ngắm.
- Bà nói là thích bức vẽ này, - gã đàn ông thì thầm, môi gần như chạm vào tai Katherine - Tôi rất mừng. Có lẽ đây là thứ đẹp đẽ cuối cùng bà nhìn thấy trong đời đấy.
Nói đoạn, gã vươn người ấn cả bàn tay vào cạnh phải của khung tranh đồ sộ. Trước sự kinh ngạc của Katherine, bức tranh trở nghiêng vào tường trên một trụ trung tâm y như cánh cửa xoay. Một lối đi bí mật.
Katherine gắng giãy thoát, nhưng gã đàn ông ôm cô rất chặt, gã vác cô bước vào ô cửa. Khi bức Ba Kiều nữ xoay đóng lại phía sau họ, Katherine còn nhìn thấy lớp cách âm dày thịch đằng lưng tấm toan. Cho dù có gây ồn ở đây thì chưa chắc bên ngoài đã nghe thấy.
Phần không gian phía sau bức tranh rất chật chội, giống một hành lang hơn là một gian phòng. Gã đàn ông vác Katherine đi hết hành lang rồi đẩy một cánh cửa nặng nề dẫn sang chiếu nghỉ cầu thang nhỏ xíu. Từ đó có đường dốc hẹp đổ xuôi xuống tầng hầm khá sâu. Katherine hít một hơi để cố hét lên, nhưng nùi giẻ khiến cô tắc nghẹn.
Đường đi rất dốc và chật chội. Tường hai bên đều trát xi măng, tràn ngập một thứ ánh sáng xanh xanh như toả ra từ dưới lòng nhà. Không khí ấm áp, hăng hắc và nằng nặng một hỗn hợp nhiều mùi... mùi gắt của hoá chất, dìu dịu của hương thơm, mùi nồng của mồ hôi người, và át lên tất cả là cảm giác sợ hãi rất bản năng của động vật.
- Tôi rất ấn tượng với nghiên cứu của bà - gã đàn ông thì thào khi họ xuống đến chân đường dốc - Tôi hy vọng nghiên cứu của tôi cũng khiến bà thấy ấn tượng.
Chương 99
Đặc vụ của Turner Simkins nép mình trong bóng tối của Công viên Franklin, mắt không rời Warren Bellamy. Vẫn chưa thấy kẻ nào mắc câu, nhưng vẫn còn sớm.
Bộ đàm của Simkins kêu tít tít, anh bật máy, tưởng đâu người mình đã phát hiện được điều gì, hoá ra lại là Sato với một thông tin mới.
Nghe xong, Simkins biểu đồng tình trước mối quan ngại của Giám đốc OS.
- Bà đợi máy nhé, - anh ta nói - Để tôi tìm thử xem sao.
Simkins bò qua bụi cây đang nấp và ngoảnh ra nhìn đường vào quảng trường. Ngó nghiêng một lúc, cuối cùng anh cũng trông thấy mục tiêu.
Vớ vẩn thật!
Simkins chăm chú quan sát toà nhà ấy, trông nó giống hệt một giáo đường Hồi giáo ở Cựu Thế giới. Nép mình giữa hai công trình đồ sộ hơn hẳn, toà nhà có phần mặt tiền ốp gạch gốm sáng bóng tạo thành những đồ hình sặc sỡ phức tạp theo phong cách Moor. Bên trên ba cánh cửa đò sộ là hai tầng cửa sổ đỉnh nhọn, tưởng đâu các cung thủ Ả-rập sẽ ló ra và xối những mũi tên tẩm lửa xuống nếu chẳng may ai đó tìm cách đột nhập.
- Tôi thấy rồi, - Simkins nói.
- Có động tĩnh gì không?
- Không hề.
- Tốt. Tôi muốn anh sắp xếp lại các vị trí và theo dõi nó thật cẩn thận. Đó là Đền thánh Almas, tổng hành dinh của một giáo phẩm bí mật.
Dù đã công tác ở khu vực thủ đô một thời gian dài nhưng Simkins không hề biết đến đền thờ này hay bất kỳ tổng hành dinh giáo phẩm bí mật lâu đời nào tại Quảng trường Franklin.
- Toà nhà đó, - Sato nói - thuộc một tổ chức tên là Giáo phẩm Ả-rập Cổ đại của các Hiệp sĩ Đền thánh Thần bí.
- Tôi chưa bao giờ nghe nói đến họ cả.
- Tôi nghĩ là anh nghe rồi, - Sato nói - Họ là một phân đàn của Hội Tam điểm, phổ biến hơn với tên gọi Hiệp sĩ Đền thánh.
Simkins ném một cái nhìn hồ nghi về phía toà nhà lòe loẹt. Hiệp sĩ đền thánh? Mấy gã chuyên xây bênh viện cho trẻ em phải không nhỉ? Anh không sao hình dung nổi một tổ chức huynh đệ gồm toàn những nhà hảo tâm chuyên đội mũ đuôi seo màu đỏ và đi diễu hành lại có thể gây ra nguy hiểm gì.
Nhưng những lo ngại của Sato vẫn rất có lý.
- Thưa bà, nếu đối tượng nhận ra rằng toà nhà chính là "Tổ Chức", được nhắc đến trên Kim tự tháp thì hắn sẽ không cần địa chỉ nữa. Hắn chỉ việc phớt lờ điểm hẹn và tiến thẳng tới vị trí chính xác.
- Tôi cũng nghĩ y như thế. Theo dõi chặt lối ra vào.
- Vâng, thưa bà.
- Có tin gì từ Đặc vụ Hartmann ở Kalorama Heights chưa?
- Chưa, thưa bà. Bà đã yêu cầu cậu ấy gọi trực tiếp cho bà mà.
- Ừ nhưng chưa thấy.
Kỳ cục, Simkins nghĩ, xem đồng hồ. Thằng cha này quá hẹn rồi.
Chương 100
Robert Langdon nằm im, run bắn, trần truồng và cô độc trong bóng tối đặc quánh. Đờ đẫn vì sợ, anh không còn đập tay hay kêu gào nữa. Thay vào đó, anh nhắm mắt lại, cố gắng kiểm soát hơi thở hỗn loạn và nhịp tim nện như trống dồn của mình.
Ta đang nằm dưới trời đêm mênh mông. Anh cố gắng thuyết phục bản thân. Bên trên là cả một không gian rổng mở và thoáng đãng.
Viễn cảnh êm đềm ấy là cách duy nhất anh từng nghĩ đến để sống sót khi chui vào cái ruột chật hẹp của cỗ máy chụp cộng hưởng từ kín bưng, cùng sự hỗ trợ của một lượng thuốc an thần nhiều gấp ba mức bình thường. Tuy nhiên tối nay, viễn cảnh ấy không có tác dụng gì hết.
***
Nùi giẻ trong miệng Katherine Solomon trượt vào sâu hơn và gần như làm cô tắc thở. Đi hết đường dốc hẹp, kẻ bắt cóc vác cô xuống hành lang tầng hầm tối om. Katherine liếc thấy một gian phòng thấp thoáng ánh sáng đỏ tía rất lạ đằng cuối hành lang, nhưng họ không đi đến tận đó. Gã đàn ông dừng lại trước một gian phòng nhỏ dọc đường, mang Katherine vào trong và hạ cô xuống một chiếc ghế gỗ, trói chặt hai tay cô ra sau lưng tựa phòng hờ cô di chuyển.
Katherine cảm thấy sợi dây trên cổ tay thít sâu hơn vào thịt mình. Cơn đau kèm với nỗi hoảng sợ càng lúc càng tăng khiến cô khó thở. Nùi giẻ trong miệng tụt sâu hơn vào cổ họng, Katherine cố ọe để đẩy nó ra, mắt cô hoa lên.
Phía sau, gã đàn ông xăm trổ đóng cánh cửa duy nhất lại và bật đèn sáng. Nước mắt Katherine chảy ra giàn giụa, cô không còn phân biệt được các đồ vật ngay xung quanh mình nữa. Mọi thứ trở nên nhòe nhoẹt.
Khi mắt mờ hẳn và sắp sửa bất tỉnh đến nơi, Katherine bỗng thấy một bóng người méo mó da dẻ loang lổ xuất hiện ngay trước mặt, vươn cánh tay đầy vảy tới rút nùi giẻ khỏi miệng cô.
Katherine thở gấp, cố hít những hơi thật sâu rồi ho rũ rượi và sặc sụa khi không khí quý giá tràn vào màng phổi. Mắt rõ dần trở lại, cô nhận thấy mình đang nhìn thẳng vào mặt ác quỷ. Diện mạo ấy khó có thể gọi là mặt người, cổ, mặt và cái đầu nhẵn thín chi chít những biểu tượng xăm trổ kỳ dị. Chỉ trừ một vòng tròn nhỏ trên đỉnh đầu, còn lại mọi diện tích trên cơ thể gã đều dày đặc hình trang trí. Trên ngực gã có một con phượng hoàng hai đầu cực lớn, nó chòng chọc nhìn Katherine bằng cặp mắt trùng với hai núm vú, y như mắt kền kền đói mồi đang kiên nhẫn chờ đợi cái chết của cô.
- Há miệng ra, - gã đàn ông thì thào.
Katherine trợn mắt nhìn con quái vật với tất cả vẻ khiếp đảm. Cái gì cơ?
- Há miệng ra, - gã đàn ông nhắc lại - Nếu không tôi lại nút mớ giẻ vào mồm bà đấy.
Katherine rùng mình há miệng ra. Gã đàn ông luồn ngón tay trỏ xăm trổ to tướng của mình vào giữa hai bờ môi cô. Khi bị chạm vào lưỡi Katherine chỉ chực nôn mửa. Gã đàn ông rút ngón tay ướt nhoét ra rồi đưa lên đỉnh đầu trọc lóc. Nhắm mắt lại, gã xoa nước bọt của cô vào khoanh tròn nhỏ chưa xăm trổ.
Katherine ghê tởm ngoảnh mặt đi.
Gian phòng này rất giống một phòng nồi hơi với nhiều đường ống trên tường, những âm thanh ùng ục và những ngọn đèn huỳnh quang. Chưa kịp ghi nhận hết quang cảnh xung quanh mình, ánh mắt Katherine đã dừng sững lại ngay sàn nhà bên cạnh cô. Ở đó có một đống quần áo: áo len cổ lọ, áo khoác thể thao vải tweed, giày lười, đồng hồ Chuột Mickey.
- Chúa ơi! - Cô quay phắt lại phía con thú xăm trổ - Ngươi đã làm gì Robert?!
- Suỵt! - gã đàn ông thì thào - Nếu không hắn sẽ nghe thấy tiếng bà đấy.
Gã bước tránh sang một bên và ra hiệu về phía sau.
Không thấy Langdon đâu cả, chỉ có một chiếc hòm lớn bằng sợi thuỷ tinh màu đen, hình dáng từa tựa loại thùng nặng trịch chuyên đựng các xác chết để chuyển về hậu phương trong thời chiến. Hai cái móc to tướng khoá chặt chiếc hòm.
- Robert ở trong ư? - Katherine thảng thốt - Nhưng... anh ấy sẽ chết ngạt mất!
- Không, không hề gì, - gã đàn ông nói, đoạn trỏ một mớ đường ống trong suốt chạy dọc tường xuống dưới đáy hòm - Rồi hắn sẽ ước giá như được chết ngạt ấy chứ.
***
Trong bóng tối dày đặc, Langdon chăm chú lắng nghe những âm thanh bị chặn lại ở thế giới bên ngoài. Có tiếng nói. Anh nện cái hòm thật lực và gào to hết mức.
- Cứu! Có ai nghe thấy tôi không??
Xa xa, một giọng tắc nghẹn kêu lên.
- Robert! Chúa ơi, không! KHÔNG!
Anh biết giọng nói này. Đó là Katherine, dù đong đầy hốt hoảng thì vẫn là một âm thanh dễ chịu. Langdon hít một hơi thật sâu, định cất tiếng gọi, chợt anh dừng lại ngay vì cảm nhận một biến đổi bất ngờ phía sau gáy. Có làn hơi rất nhẹ đang toả ra từ đáy hòm. Sao lại như thế được nhỉ? Anh nằm thật im, nghe ngóng. Phải, hoàn toàn chính xác. Những sợi tóc nhỏ xíu nơi gáy anh đang rung rung trước luồng không khí chuyển động.
Theo bản năng, Langdon bắt đầu sờ dọc theo đáy hòm tìm kiếm nguồn không khí. Chỉ thoáng chốc anh đã xác định được vị trí. Có một chỗ hở nhỏ xíu. Nó gồm nhiều lỗ li ti, giống như đường thoát của bồn hoặc chậu rửa, chỉ khác là hiện đang có một luồng không khí nhè nhẹ liên tục thổi vào.
Hắn bơm không khí cho mình. Hắn không muốn mình chết ngạt
Cảm giác nhẹ nhõm của Langdon không kéo dài lâu. Một âm thanh hãi hùng vọng tới qua những lỗ li li ở đáy thoát. Đấy là tiếng òng ọc không lẫn vào đâu được của chất lỏng đang chảy... tới chỗ anh.
***
Không sao tin nổi vào mắt mình, Katherine trừng trừng nhìn cột chất lỏng trong suốt chạy xuống một trong những đường ống thông với cái hòm nhốt Langdon. Cảnh tượng trông y như màn trình diễn của ảo thuật gia.
Hắn bơm nước vào hòm ư?
Katherine cố rướn người, bất chấp những vòng dây cứa sâu quanh cổ tay mình. Lực bất tòng tâm, cô đành chứng kiến diễn biến trong tâm trạng hãi hùng. Langdon tuyệt vọng nện liên hồi, nhưng khi nước tuồn đến đáy hòm, anh dừng lại. Sau một khoảnh khắc im lặng kinh hoàng, tiếng nện lại vang lên với tất cả nỗi tuyệt vọng mới.
- Hãy thả anh ấy ra! - Katherine van nài - Xin anh! Anh không thể làm thế?
- Chết đuối là một cái chết kinh khủng, bà biết không? - Gã kia thản nhiên nói và bước vòng quanh Katherine - Trợ lý Trish của bà có thể kể cho bà nghe trải nghiệm đó.
Lời gã đàn ông lọt vào tai Katherine, nhưng cô chẳng còn tâm trí đâu để lĩnh hội.
- Hẳn bà vẫn nhớ tôi từng suýt chết đuối, - gã thì thào - Chính tại điền trang của gia đình bà ở Potomac. Anh trai bà đã bắn tôi, và tôi ngã xuống từ cây cầu của Zach, ngã xuyên qua băng.
Katherine chằm chằm nhìn gã, ánh mắt đầy căm hận. Cái buổi tối nhà ngươi giết chết mẹ ta.
- Đêm hôm ấy thần linh đã phù hộ tôi - gã nói - Và chỉ đường cho tôi trở thành một trong số họ.
Nước òng ọc chảy vào hòm, âm ấm ngay dưới đầu Langdon... hơi ấm của thân nhiệt. Chất lỏng đã dâng cao vài phân và hoàn toàn nuốt chửng phần lưng trần của anh. Khi nó bắt đầu bò tới lồng ngực, Langdon nhận ra thực tế u ám đang đến gần.
Mình sẽ chết.
Hoảng hốt, anh vung tay và lại bắt đầu nện dữ dội.
Chương 101
- Anh phải thả anh ấy ra! - Katherine nài nỉ, rồi bật khóc - Chúng tôi đã làm mọi việc anh yêu cầu?
Cô nghe rõ tiếng Langdon nện điên cuồng hơn khi nước chảy vào hòm.
Gã đàn ông xăm trổ chỉ mỉm cười.
- Bà biết điều hơn anh trai bà đấy. Tôi phải làm bao nhiêu việc để buộc Peter khai ra những bí mật của lão...
- Anh ấy đâu rồi?! - Katherine gặng hỏi - Peter ở đâu?! Cho tôi biết đi! Chúng tôi đã làm đúng những gì anh đòi hỏi. Chúng tôi giải cái kim tự tháp và...
- Không, các người không hề giải kim tự tháp. Các người toàn giở trò. Các người bưng bít thông tin và dẫn nhân viên chính phủ tới nhà này. Tôi không tưởng thưởng cách hành xử ấy.
- Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác - Katherine trả lời, cố nén nước mắt - CIA đang truy lùng anh. Họ buộc chúng tôi phải đi cùng một đặc vụ. Tôi sẽ kể cho anh mọi việc. Miễn là anh thả Robert.
Katherine nghe tiếng Langdon hét và nện cái hòm. Nhìn nước chảy qua ống, cô biết anh không còn nhiều thời gian.
Gã đàn ông xăm trổ đưa tay xoa cằm, đoạn nói rất điềm tĩnh.
- Tôi cá là cả tá đặc vụ đang đợi tôi ở Quảng trường Franklin, phải không?
Katherine lặng thinh, gã kia liền đặt bàn tay to bè lên vai cô, từ từ kéo cô về phía trước. Với hai tay vẫn bị trói chặt ở phía sau ghế, vai Katherine căng ra, đau buốt như muốn đứt rời.
- Đúng - cô thú nhận - Có nhiều đặc vụ ở Quảng trường Franklin.
Gã nọ kéo mạnh hơn.
- Địa chỉ trên chóp là gì thế?
Katherine chịu không thấu cơn đau ở cổ tay và hai vai, nhưng cô nín lặng.
- Bà nên nói với tôi lúc này, Katherine, nếu không tôi sẽ bẻ gãy tay bà và hỏi lại lần nữa.
- Tám? - Katherine há miệng vì đau - Số còn thiếu là tám! Cái chóp cho biết: "Bí mật nằm trong Tổ Chức, Tám Quảng trường Franklin". Tôi thề đấy. Tôi không biết gì thêm để nói với anh đâu. Đó là Tám Quảng trường Franklin!
Gã kia vẫn không buông vai cô.
- Tôi chỉ biết đến thế thôi - Katherine nói - Địa chỉ đấy! Thả tôi đi! Cho Robert ra khỏi cái bể đó!
- Tôi sẽ... - gã kia nói - nhưng khó khăn đây. Tôi mà tới số Tám Quảng trường Franklin thì thể nào cũng bị tóm. Cho tôi biết ở địa chỉ đó có gì?
- Tôi không biết!
- Những biểu tượng trên đế kim tự tháp thì sao? Ở mặt dưới ấy? Bà có biết ý nghĩa của chúng không?
- Biểu tượng nào ở đế? - Katherine ngơ ngác không hiểu - Phần đế làm gì có biểu tượng. Nó nhẵn thín, trống trơn.
Chẳng hề bận tâm trước những tiếng kêu cứu tắc nghẹn phát ra từ chiếc hòm như cỗ quan tài kia, gã đàn ông xăm trổ thản nhiên bước tới cái túi của Langdon lấy kim tự tháp đá. Sau đó, gã trở lại chỗ Katherine và giơ nó lên trước mắt cô cho cô nhìn rõ phần đế.
Trông thấy những biểu tượng khắc, Katherine há hốc miệng kinh ngạc.
ẢNH
Không... không thể như thế được! Đáy kim tự tháp phủ kín những hình khắc rối rắm. Chỗ đó lúc trước không có gì hết. Mình dám quả quyết như thế. Cô không hiểu ý nghĩa của những biểu tượng này. Dường như chúng liên quan đến tất cả các truyền thống bí ẩn, trong đó có nhiều loại cô thậm chí còn không nhớ nổi.
Hoàn toàn lộn xộn.
- Tôi...không hiểu ý nghĩa của nó - cô thú nhận.
- Tôi cũng vậy. May thay, chúng ta có một chuyên gia để tuỳ ý sử dụng - Gã bắt cóc liếc mắt về phía cái hòm - Ta thử hỏi ông ta nhé?
Gã mang kim tự tháp tới chỗ cái hòm.
Trong khoảnh khắc hy vọng ngắn ngủi, Katherine những tưởng gã sẽ mở khoá nắp. Thế nhưng gã thản nhiên ngồi lên nóc hòm, cúi xuống và đẩy một ô nhỏ sang bên để lộ khuôn cửa sổ bằng kính Plexiglas.
***
Ánh sáng!
Langdon che mắt, hấp háy nhìn ánh sáng từ trên tràn xuống. Khi mắt đã điều tiết, niềm, hy vọng trong anh biến thành nghi hoặc. Anh đang trông ra ngoài nhờ ô cửa sổ trên nóc hòm. Qua đó, anh trông thấy trần nhà màu trắng và một bóng đèn huỳnh quang.
Không hề báo trước, gương mặt xăm trổ đột ngột xuất hiện phía trên anh, chòng chọc nhìn xuống.
- Katherine đâu? - Langdon gào toáng - Thả ta ra!
Gã kia mỉm cười.
- Cô bạn Katherine của ông vẫn ở đây với tôi, - gã nói - Tôi có khả năng tha mạng cho cô ta, và tha mạng cho cả ông nữa. Nhưng thời gian của ông rất ngắn, vì vậy tôi đề nghị ông nên lắng nghe cẩn thận.
Dưới lớp kính, Langdon chỉ nghe tiếng được tiếng mất. Nước đã dâng cao lên nhiều, mấp mé tràn qua ngực anh.
- Ông có biết có các biểu tượng ở đế kim tự tháp không? - gã hỏi.
- Có! - Langdon gào to, vì anh đã phát hiện ra điều ấy khi kim tự tháp còn nằm lăn lóc trên sàn - Nhưng tôi không hiểu ý nghĩa của chúng. Anh cần tới số Tám Quảng trường Franklin. Câu trả lời nằm ở địa chỉ ấy? Cái chóp cho biết...
- Thưa Giáo sư, cả hai ta đều rõ CIA đang rình tôi tại đó. Tôi không định chui đầu vào bẫy. Hơn nữa, tôi không cần số phố. Trên quảng trường chỉ có duy nhất một toà nhà may ra liên quan là Đền thánh Almas - Gã ngừng lại, đăm đăm nhìn xuống Langdon - Giáo phẩm Ả-rập Cổ đại của các Hiệp sĩ Đền thánh Thần bí.
Langdon bối rối. Anh rất quen với Đền Almas, nhưng anh quên bẵng nó nằm ở Quảng trường Franklin. Hiệp sĩ đền thánh chinh là..."Tổ Chức" ư? Đền thờ của họ nằm trên một cầu thang bí mật chăng?
Sử sách không ghi chép điều gì tương tự cả, nhưng tình thế của Langdon lúc này không cho phép anh tranh luận về sử học.
- Đúng, - anh hét lên - Chắc chắn là nó. Bí mật nằm ngay trong Tổ Chức!
- Ông biết toà nhà đó thì phải?
- Biết rất rõ! - Langdon ngóc đầu để giữ cho tai cao hơn khối chất lỏng đang dâng lên rất nhanh - Tôi có thể giúp anh! Thả tôi ra!
Nghĩa là ông tin rằng ông có thể cho tôi biết mối liên hệ giữa Đền thánh Almas và biểu tượng trên đế kim tự tháp phải không?
- Đúng! Chỉ cần cho tôi nhìn các biểu tượng.
- Rất tốt! Để xem ông sẽ đi đến đâu nào.
Mau! Chất lỏng âm ấm cứ dâng cao xung quanh, Langdon rướn lên gần nắp hòm, sẵn sàng đợi gã kia mở khoá. Nào! Mau mau!
Nhưng cái nắp chẳng hề mở ra. Thay vào đó, đế kim tự tháp đột nhiên xuất hiện, lơ lửng trên ô kính Plexiglas.
Langdon trân trối ngó lên trong tâm trạng hoảng hốt.
- Tôi tin thế này đủ gần cho ông rồi chứ? - gã đàn ông giữ kim tự tháp bằng đôi bàn tay đầy hình xăm của mình - Nghĩ nhanh lên, Giáo sư! Tôi đoán ông còn chưa đầy sáu mươi giây.
Chương 102
Robert Langdon thường nghe nói rằng khi bị dồn đến đường cùng, động vật có thể phát huy sức mạnh một cách kỳ diệu. Tuy nhiên, khi anh vận hết sức bình sinh đẩy mạnh nắp hòm, vẫn chẳng có gì nhúc nhích cả. Quanh anh, chất lỏng liên tục dâng lên. Chỉ còn không quá sáu phân không gian để thở, Langdon buộc phải nhô đầu cao lên phần dưỡng khí còn lại. Lúc này mặt anh đang áp vào mặt kính Plexiglas, mặt anh chỉ cách các hình khắc rắc rối dưới đế kim tự tháp đá có vài phân.
Mình không hiểu thế này có nghĩa gì.
Sau hơn một thế kỷ bị giấu kín dưới hỗn hợp cứng gồm sáp trộn bột đá, lúc này phần hình khắc cuối cùng của Kim tự tháp Tam điểm đã hiện ra rõ rệt. Đó là một đồ hình vuông vức gồm những biểu tượng thuộc mọi truyền thống mà người ta có thể tưởng tượng được: giả kim, chiêm tinh, huy hiệu, thần thánh, pháp thuật, số học, con dấu, Hy Lạp, La tin. Gộp tất cả lại, đây là một mớ bòng bong biểu tượng, một nồi lẩu thập cẩm chữ cái thuộc về hàng chục ngôn ngữ, nền văn hoá và thời kỳ khác nhau.
Hoàn toàn lộn xộn.
ẢNH
Nhà ký tượng học Robert Langdon, dù vận dụng những cách diễn giải học thuật phóng túng nhất, cũng không thể suy luận được cách giải mã bảng biểu tượng này để cho ra một ý nghĩa gì đó. Tìm ra trật tự từ mớhỗn độn này ư? Làm gì có chuyện.
Chất lỏng bò dần qua yết hầu Langdon, nỗi sợ hãi của anh cũng ráo riết tăng theo. Anh tiếp tục nện thình thình. Ngọn tháp đá như đang trợn mắt nhìn lại anh đầy cay độc.
Trong nỗi tuyệt vọng cùng cực. Langdon gắng tập trung toàn bộ trí lực của mình vào bàn cờ biểu tượng nọ. Chúng có thể mang ý nghĩa gì nhỉ? Tiếc thay, cách sắp xếp lung tung đến mức anh không hình dung nổi nên bắt đầu từ đâu. Thậm chí chúng còn không xuất phát từ cùng một giai đoạn lịch sử!
Bên ngoài. Katherine nức nở van nài gã nọ thả Langdon. Dù cách âm. Langdon vẫn loáng loáng thoáng nghe thấy tiếng cô. Tuy đang bế tắc, nhưng mối đe doạ của cái chết dường như kích thích mọi tế bào trong cơ thể anh phải hoạt động để tìm ra một giải pháp.
Langdon cảm thấy đầu óc minh mẫn hơn bao giờ hết. Hãy suy nghĩ! Anh nhìn kỹ một lượt đồ hình, cố tìm manh mối, có thể là mẫu hình, là từ ẩn, là biểu tượng đặc biệt hay bất kỳ chi tiết gì khác, nhưng anh chỉ thấy một mớ biểu tượng chẳng liên quan gì đến nhau. Lộn xộn.
Mỗi giây trôi qua, trạng thái tê dại lại chiếm lĩnh dần cơ thể Langdon. Dường như xương thịt anh đang chuẩn bị che chắn tâm trí khỏi cơn đớn đau vì cái chết. Lúc này, nước đang mấp mé tràn vào tai anh, Langdon cố ngóc cao đầu hết mức, áp hẳn vào nóc hòm. Những hình ảnh hãi hùng bắt đầu lóe lên trước mắt anh. Một cậu bé lội bì bõm dưới đáy giếng tối om ở New England. Một người đàn ông bị mắc kẹt dưới bộ xương trong quan tài lật úp ở Rome.
Tiếng kêu khóc của Katherine nghe càng cuống quít hơn. Langdon luận ra là cô đang cố gắng phân tích phải trái với gã điên kia, cô khẩn khoản nói Langdon không thể giải mã được cái kim tự tháp nếu không tới Đền Almas.
- Rõ ràng toà nhà đó chứa phần còn thiếu của câu đố. Làm sao Robert giải mã được kim tự tháp nếu không có đủ thông tin?
Langdon rất cảm kích những nỗ lực của Katherine, nhưng anh tin chắc rằng "Tám Quảng trường Franklin", không dính dáng tới Đền thánh Almas. Mốc thời gian không khớp! Theo truyền thuyết, Kim tự tháp Tam điểm được tạo ra vào giữa thế kỷ XIX, nhiều thập kỷ trước khi các Hiệp sĩ Đền thánh xuất hiện, có lẽ còn trước cả khi quảng trường được đặt tên là Franklin. Cái chóp không thể chỉ tới một toà nhà chưa xây dựng tại một địa chỉ chưa hề tồn tại được. Cho dù "Tám Quảng trường Franklin" ám chỉ điều gì... thì nó cũng phải tồn tại vào năm 1850.
Tiếc thay. Langdon không nhìn ra manh mối nào cả.
Anh cố lục lại trí nhớ để tìm mọi sự kiện khả dĩ trùng khớp về mốc thời gian Tám Quảng trường Franklin ư? Cái gì ra đời năm 1850 nhỉ? Langdon không nghĩ ra. Chất lỏng đã chảy dần vào tai anh. Cố nén cơn sợ hãi, Langdon đăm đăm nhìn các biểu tượng trên tấm kính. Anh không hiểu mối liên hệ! Trong tâm trạng hoảng loạn đến đờ đẫn, trí não anh bắt đầu bật ra tất cả những tương quan mà nó có thể liên tưởng.
Tám Quảng trường Franklin... quảng trường - ô vuông(98)... bảng biểu tượng này là một hình vuông... thước thợ và com pa là biểu tượng của Hội Tam điểm... Các bàn thờ của Hội Tam điểm đều hình vuông... hình vuông có các góc 90 độ. Nước vẫn dâng lên, nhưng Langdon mặc kệ. Tám Franklin... tám... mỗi chiều của bảng này là tám ô vuông... Franklin", gồm tám chữ cái..., "Giáo phẩm" cũng gồm tám chữ cái... 8 là biểu tượng xoay ngang của 8 chỉ "dương vô cùng...tám là con số đại diện cho sự huỷ diệt trong môn số bí thuật...
Langdon không nghĩ ra điều gì.
Bên ngoài, Katherine vẫn đang van nài, nhưng Langdon chỉ còn nghe câu được câu mất vì nước đang lõng bõng quanh đầu anh.
- ... không thể nếu không biết... thông điệp của cái chóp rõ ràng... bí mật giấu trong...
Rồi không thấy tiếng gì nữa.
Nước tràn vào tai Langdon, chặn toàn bộ tiếng nói của Katherine.
Sự im lặng chết chóc đột ngột trùm lấy anh. Langdon nhận ra mình sắp lìa đời thật.
Bí mật giấu trong...
Những lời cuối cùng của Katherine vọng vang trong nấm mồ của anh.
Bí mật giấu trong...
Lạ thay, Langdon nhận ra trước đây mình đã nghe thấy những từ này rất nhiều lần.
Bí mật giấu... ngay bên trong...
Những Bí mật cổ xưa như đang cười nhạo anh. "Bí mật giấu ngay bên trong" là nguyên lý cốt lõi của mọi điều bí ẩn, thúc giục con người tìm kiếm Chúa trời, nhưng không phải trên thiên đường mà là ngay trong chính mình. Bí mật ẩn giấu ngay bên trong. Đó là thông điệp của tất cả các bậc thầy bí truyền vĩ đại.
Đất của Chúa nằm ngay trong chính các con, Jesus Christ dạy.
- Hãy hiểu chính mình, đó là lời Pythagoras.
Biết mình không có nghĩa mình là thần thánh. Hermes Trismegistưs nói.
Danh sách còn kéo dài...
Tất cả những lời dạy bí truyền của mọi thời đại đều cố gắng truyền tải ý tưởng duy nhất này. Bí mật ẩn giấu ngay bên trong. Thế nhưng, loài người vẫn cứ tìm kiếm thiên đường để được thấy Chúa.
Giờ đây, nhận thức này trở thành điều mỉa mai cuối cùng đối với Langdon. Trong trạng thái hai mắt nhìn thẳng lên trời như tất cả những kẻ mù quáng của lịch sự, Robert Langdon đột nhiên nhìn thấy ánh sáng.
Nó giáng xuống anh như tia chớp từ trời.
Bí mật giấu
Trong Tổ Chức
Tám Quảng trường Franklin
Chỉ trong chốc lát, anh hiểu ra.
Thông điệp trên cái chóp đột nhiên rõ như ban ngày. Suốt buổi tối ý nghĩa của nó đã hiển hiện ngay trước mắt anh. Lời dặn trên cái chóp, cũng như trên Kim tự tháp Tam điểm, là một biểu hình - một mật mã chia thành từng mảnh - một thông điệp được viết thành nhiều phần. Ý nghĩa trên chóp vàng được nguỵ trang đơn giản đến mức Langdon không ngờ rằng anh và Katherine đều không nhận ra.
Càng ngạc nhiên hơn, Langdon còn vỡ lẽ rằng thông điệp trên cái chóp thực tế tiết lộ chính xác cách giải mã bảng biểu tượng ở phần đế kim tự tháp. Nó rất đơn giản. Đúng như lời Peter Solomon nói, chóp vàng là một bùa phép uy lực có sức mạnh lập lại trật tự từ hỗn loạn.
Langdon bắt đầu nện nắp hòm và gào lên:
- Tôi biết rồi! Tôi biết rồi!
Kim tự tháp đá lập tức bị nhấc bổng đi. Thay vào đó, gương mặt xăm trổ lại xuất hiện, đường nét rùng rợn của nó đăm đăm dõi xuống qua ô cửa sổ.
- Tôi giải được rồi - Langdon hét to - Cho tôi ra!
Gã đàn ông xăm trổ máy môi. Hai tai ngập nước của Langdon không nghe rõ gì cả, nhưng mắt anh nhìn thấy môi gã tạo thành hai từ. "Nói đi".
- Tôi sẽ nói - Langdon hét lớn, nước lấp xấp mắt anh - Thả tôi ra! Tôi sẽ giải thích mọi điều. - Rất đơn giản thôi.
Môi gã đàn ông lại nhúc nhích. "Nói ngay đi... hoặc là chết".
Làn nước đã dâng hết phần khoảng trống cuối cùng, Langdon hơi ngửa đầu ra sau để giữ cho miệng mình ở trên mép nước. Khi anh làm vậy, thứ chất lỏng âm ấm tràn vào mắt anh, khiến tầm nhìn của anh nhoà đi. Cong lưng, anh áp miệng vào ô cửa sổ Plexiglas.
Tận dụng mấy giây cuối cùng còn dưỡng khí, Robert Langdon tiết lộ bí mật cách giải mã Kim tự tháp Tam điểm.
Langdon dứt lời thì chất lỏng cũng dâng đến môi anh. Theo bản năng, Langdon hít lấy hơi thở cuối cùng và ngậm chặt miệng lại. Chỉ một thoáng sau, chất lỏng đã phủ kín người anh, chạm lên đến đỉnh ngôi mộ và tràn ra qua lớp Plexiglas.
***
Hắn nghĩ ra thật, Mal'akh thừa nhận. Langdon đã nghĩ ra cách giải kim tự tháp.
Đáp án quá ư đơn giản. Quá ư rõ ràng.
Bên dưới ô cửa sổ, gương mặt ngập trong nước của Robert Langdon trừng trừng dõi vào gã với đôi mắt tuyệt vọng và khẩn khoản.
Mal'akh lắc đầu nhìn trả và rành rọt nhả từng từ.
- Cảm ơn Giáo sư. Hãy tận hưởng thế giới bên kia nhé!
Chú thích:
(98) Nguyên tác là Eight Franklin Square. Từ square vừa có nghĩa là quảng Trường, vừa có nghĩa là hình vuông - ND.
Chương 103
Là một người bơi lội rất cẩn thận. Robert Langdon thường tự hỏi cảm giác chết đuối là như thế nào. Giờ thì anh sắp trực tiếp trải nghiệm điều đó. Mặc dù có khả năng nín thở lâu hơn hầu hết mọi người, anh cũng cảm thấy cơ thể mình đang phản ứng với tình trạng thiếu dưỡng khí. Carbonic tích tụ dần trong máu kéo theo sự thúc giục bản năng phải hít vào. Không được thở! Mỗi khoảnh khắc qua đi phản xạ hít vào càng thêm dữ dội. Langdon biết rằng roi anh sẽ bị đẩy đến điểm tới hạn nín thở, đến thời khắc then chốt khiến người ta không thể cố tình nhịn hơi được nữa.
Mở nắp ra! Theo bản năng, Langdon muốn quẫy đạp, nhưng anh biết tốt hơn cả là không nên lãng phí chút dưỡng khí quý báu. Vì vậy anh chỉ đăm đăm nhìn qua làn nước phía trên mình và hy vọng. Thế giới bên ngoài giờ đây chỉ là mảng sáng lờ mờ phía trên ô cửa sổ bằng kính Plexiglas. Các cơ bắt đầu bỏng rát, Langdon biết mình đang rơi vào tình trạng giảm oxy huyết.
Đột nhiên, một gương mặt xinh đẹp và hư ảo xuất hiện, đăm đắm nhìn xuống anh. Đó là Katherine. Qua lớp chất lỏng, những đường nét dịu dàng của cô trông gần như thần tiên. Mắt họ giao nhau qua ô cửa sổ Plexiglas. Trong khoảng khắc, Langdon tưởng đâu mình được cứu sống. Katherine. Song tiếng gào hãi hùng tắc nghẹn của cô báo cho anh biết cô bị kẻ bắt cóc lôi đến đây. Con quái vật xăm trổ buộc cô phải chứng kiến bi kịch sắp xảy ra.
Katherine, xin lỗi...
Mắc kẹt dưới nước ở cái nơi tăm tối, kỳ lạ này, Langdon căng thẳng hiểu ra đây là khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời anh.
Chỉ chốc lát nữa, anh sẽ không còn tồn tại... mọi thứ anh đang... đã hoặc sẽ có... đều chấm dứt. Khi não anh chết, mọi ký ức lưu giữ trong chất xám cùng tất cả những kiến thức anh thu nạp được sẽ tan biến trong một loạt phản ứng hoá học.
Lúc này, Robert Langdon nhận ra sự vô nghĩa thực sự của mình trong vũ trụ. Anh chưa bao giờ cảm thấy bản thân cô đơn và tâm thường đến thế. Cũng may, anh còn cảm nhận được điểm tới hạn nín thở đang đến gần.
Thời khắc đó tuỳ thuộc vào anh.
Buồng phổi Langdon rục rịch muốn tống chất thải ra ngoài và khao khát được hít vào. Nhưng Langdon cố duy trì lâu hơn nữa giây phút cuối cùng của đời mình. Tuy nhiên sau đó, như một con người không còn khả năng giữ nguyên tay trên bếp lò nóng bỏng, anh đành phó mặc cho số phận.
Phản xạ đã thắng lý trí.
Môi anh hé ra.
Phổi căng lên.
Và chất lỏng tràn vào.
Cơn đau ào tới lồng ngực ghê gớm hơn Langdon tưởng tượng nhiều Chất lỏng như thiêu như đốt ồng ộc xối vào phổi anh, cảm giác đau đớn xộc thẳng lên não, Langdon tưởng chừng đầu mình bị kẹp giữa một cái ê tô. Sấm nổ ùng ùng trong tai anh, xen lẫn với tiếng thét của Katherine Solomon.
Một tia chớp nháng lên chói loà.
Rồi tối sầm.
Robert Langdon đã chết.
Chương 104
Thế là hết!
Katherine Solomon ngừng la hét. Cảnh chết đuối vừa chứng kiến khiến cô tê điếng rã rời vì choáng váng và tuyệt vọng.
Dưới ô cửa kính Plexiglas, đôi mắt đờ dại của Langdon trừng trừng nhìn qua cô vào khoảng không trống rỗng, nét mặt đông cứng đầy đớn đau và tiếc nuối. Chút không khí nhỏ nhoi cuối cùng sủi lên khỏi khuôn miệng vô hồn của anh, rồi, như đã chấp nhận từ bỏ cõi đời, vị Giáo sư Harvard từ từ chìm xuống đáy hòm và biến mất trong bóng tối.
Anh ấy chết rồi. Katherine thấy lòng tê tái.
Gã đàn ông xăm trổ cúi mình, đóng nắp ô cửa sổ lại bằng một động tác dứt khoát, che kín thi thể của Robert Langdon.
Xong xuôi, gã mỉm cười với Katherine.
- Đến lượt chúng ta chứ?
Không để Katherine kịp phản ứng, gã xốc luôn người phụ nữ đau khổ lên vai, tắt đèn và mang cô ra khỏi phòng. Chỉ bằng vài sải chân mạnh mẽ, gã đưa cô tới cuối hành lang, bước vào một không gian rộng rãi ngập tràn ánh sáng đỏ tía và phảng phất hương trầm. Gã đàn ông vác Katherine tới chiếc bàn vuông chính giữa phòng, thả phịch cô xuống. Mặt bàn cứng và khá lạnh. Bằng đá chăng? Katherine gắng trấn tĩnh lại. Bấy giờ, gã kia tháo dây trói khỏi tay và chân cô. Theo bản năng Katherine cố đạp gã ra, nhưng tay chân bị chuột rút nên không thuận theo ý cô. Gã đàn ông dùng những dải đai da to tướng trói Katherine vào bàn, dải thứ nhất vắt ngang đau gối, dải thứ hai thắt ở hông làm hai tay cô kẹp cứng bên sườn, dải cuối cùng kéo qua ức cô, ngay phía trên ngực.
Tất cả chỉ mất vài phút, lại một lần nữa Katherine không cựa quậy được. Cổ tay và mắt cá chân cô bắt đầu co bóp do máu lưu thông trở lại.
Gã đàn ông liếm đôi môi xăm trổ và thì thào.
- Há miệng ra!
Katherine nghiến chặt răng vẻ khiếp hãi.
Gã đàn ông lại giơ ngón tay trỏ và từ từ rê quanh môi người phụ nữ khiến cô nổi da gà. Katherine nghiến răng chặt hơn. Gã đàn ông cười khùng khục, đoạn dùng tay kia lần tìm một huyệt trên cổ cô và xoáy mạnh. Miệng Katherine liền há ra. Gã liền lùa ngón tay vào và khua khoắng dọc theo lưỡi khiến Katherine phát ọe, cô toan cắn mạnh, nhưng ngón tay đã rút ra. Vẫn cười nhăn nhở, gã đàn ông giơ ngón tay ướt đẫm lên trước mặt cô, rồi nhắm mắt và lại xoa chỗ nước bọt lên vòng tròn trắng trơn trên đỉnh đầu.
Xong xuôi, gã thở dài và từ từ mở mắt, quay mình rời khỏi căn phòng với vẻ thản nhiên kỳ quái.
Sự im lặng đột ngột ngập tràn, Katherine nghe rất rõ tim mình đập mạnh. Ngay phía trên cô, một loạt bóng đèn lạ lùng dường như đang chuyển từ gam đỏ tía sang son thẫm, soi tỏ phần trần rất thấp của gian phòng. Ngó thấy trần nhà, cô trợn mắt kinh ngạc. Chỗ nào cũng phủ kín hình vẽ. Bộ sưu tập dị thường ấy chừng như muốn mô tả một thiên hà. Những ngôi sao, chòm sao và hành tinh nằm lẫn lộn với các biểu tượng, sơ đồ và công thức chiêm tinh học. Có mười hai con giáp, có những mũi tên dự báo quỹ đạo hình ô van và những biểu tượng kỷ hà thể hiện các góc thăng thiên, tất cả trừng trừng nhìn xuống Katherine. Trông y như bích hoạ Nhà nguyện Sistine(99) thể hiện qua bàn tay một nhà khoa học điên rồ.
Katherine xoay đầu nhìn đi chỗ khác, nhưng bức tường bên trái cô cũng không khá khẩm hơn bao nhiêu. Sàn nhà kiểu trung cổ thắp một dãy nến chập chờn, soi lên bức tường găm kín văn bản, ảnh, và hình vẽ. Có vài tờ trông như giấy cói papyrus hoặc giấy da xé ra từ những cuốn sách cổ, một số khác trông mới hơn, nằm xen lẫn với những bức ảnh, hình vẽ, bản đồ và biểu đồ. Tất cả đều được đính lên tường một cách rất cẩn thận. Nhiều sợi dây kết thành mạng lưới ghim ngang qua chúng, liên kết chúng một cách hỗn độn rối mù.
Katherine lại ngoảnh đầu ngó sang phía khác.
Thật không may, phía này mới là cảnh tượng kinh hãi nhất.
Ngay sát phiến đá nơi cô đang bị trói là một chiếc bàn nhỏ giống kiểu bàn đựng y cụ thường gặp trong phòng mổ bệnh viện. Trên bàn bày cả loạt đồ đạc, trong số đó có một bơm tiêm, một ống chất lỏng sẫm màu... và một con dao rất lớn với cán bằng xương lưỡi bằng thép mài sáng loáng.
Lạy Chúa... hắn định làm gì mình đây?
Chú thích:
(99) Nhà nguyện Sistine là nhà nguyện nổi tiếng nhất thuộc Dinh Giáo hoàng, nơi ở chính thức của Giáo hoàng tại Vatican. Nó nổi tiếng với kiến trúc và phần trang trí dưới dạng tranh tường do những hoạ sĩ Phục hưng vĩ đại nhất thực hiện, trong đó có Michelangelo, Raphael, Bernini, và Sandro Botticelli. Dưới sự bảo trợ của Giáo hoàng Julius II, Michelangelo đã vẽ toàn bộ 1.100 m2 trần nhà nguyện trong khoảng thời gian từ 1508 đến 1512, trong đó có những kiệt tác như Ngày phán xét cuối cùng, Sáng tạo Adam - ND.
Chương 105
Chuyên gia an ninh hệ thống CIA Rick Parrish nhảy bổ vào văn phòng Nola Kaye, mang theo độc một tờ giấy.
- Làm gì mà lâu thế? - Nola hỏi. Tôi bảo anh xuống đây ngay lập tức cơ mà?
- Xin lỗi, - anh ta nói, đẩy cặp kính dày như đít chai trên sống mũi dài của mình - Tôi cố tìm thêm thông tin cho cô, nhưng...
- Cứ cho tôi xem những gì anh có là được.
Parrish đưa cho cô một bản in.
- Đây là một văn bản đã lọc thông tin, cứ xem đi, cô sẽ hiểu ngay nguyên nhân thôi.
Nola kinh ngạc lướt mắt qua trang giấy.
- Tôi vẫn cố hình dung xem một hacker truy cập vào như thế nào, - Parrish nói - nhưng hình như một con nhện đã chiếm đoạt một trong những lệnh tìm kiếm của chúng ta...
- Quên chuyện đó đi! - Nola buột miệng, ngước mắt khỏi trang giấy - CIA đang làm cái quỷ gì với một tệp tin mật nói về kim tự tháp, cổng cổ và các biểu hình chạm khắc nhỉ?
- Đó chính là điều khiến tôi mất thời gian. Tôi đã cố tìm hiểu xem tài liệu nào đang bị truy tầm, cho nên tôi dò theo đường dẫn của tệp tin - Parrish hắng giọng, ngập ngừng - Hoá ra tài liệu này nằm trong khu vực dành riêng cho... chính Giám đốc CIA.
Nola xoay lại, trợn mắt vẻ nghi hoặc. Sếp của Sato có một tệp tin về Kim tự tháp Tam điểm ư? Cô biết rằng Giám đốc đương nhiệm, cùng với nhiều lãnh đạo chóp bu khác của CIA, là hội viên Tam điểm cao cấp, nhưng cô không thể tưởng tượng nổi bất kỳ ai trong số họ lại lưu giữ các bí mật của Hội trên một máy tính CIA.
Nhưng sau đó, xét lại những gì cô vừa chứng kiến trong vòng hai mươi tư giờ qua thì chẳng có gì là không thể cả.
***
Đặc vụ Simkins nằm sấp, thu mình trong đám bụi cây ở Quảng trường Franklin, mắt dán chặt lên lối vào giữa hai hàng cột của Đền thánh Almas. Chẳng thấy gì. Không chút ánh sáng lọt ra ngoài, cũng chẳng ai tiến vào bên trong. Anh ngoảnh đầu ngó Bellamy. Ông ta đang đi đi lại lại một mình giữa công viên, trông có vẻ lạnh. Thực sự lạnh. Simkins nhận ra ông run rẩy và rùng mình.
Bộ đàm của anh rung. Đó là Sato.
- Đối tượng của chúng ta trễ hẹn bao lâu rồi? - bà hỏi.
Simkins kiểm tra đồng hồ bấm giờ.
- Hắn bảo hai mươi phút. Giờ đã gần bốn mươi phút. Nghe chừng không ổn.
- Hắn không đến, - Sato nói - Kết thúc rồi.
Simkins biết bà ta nói đúng.
- Có tin gì của Hartmann không?
Không, từ lúc đi Kalorama Heights chẳng thấy cậu ta báo cáo về.
- Tôi không sao gọi được cậu ấy.
Simkins sững người. Nếu đúng như vậy thì chắc chắn có chuyện bất ổn thật.
- Tôi vừa gọi cho nhóm hỗ trợ tác chiến, - Sato nói - họ cũng không thể tìm thấy cậu ta.
- Chết tiệt! Họ có xác định được vị trí GPS của chiếc Escalade không?
- Có. Một địa chỉ nhà riêng ở Kalorama Heights - Sato nói - Gom người của anh lại đi. Chúng ta rút thôi.
***
Sato tắt điện thoại và phóng mắt về đường chân trời của thủ đô.
Một cơn gió lạnh lẽo quất qua tấm áo khoác mỏng, khiến bà phải khoanh tay vào mình để giữ hơi ấm. Giám đốc Inoue Sato không phải là tuýp phụ nữ dễ ớn lạnh... hay sợ sệt. Nhưng lúc này, trong bà có cả hai cảm giác đó.
Chương 106
Mặc độc chiếc khố lụa, Mal'akh phóng lên lối dốc, đi qua cánh cửa thép và bước ra phòng khách qua bức tranh. Ta cần chuẩn bị thật nhanh. Gã liếc xác chết của tay đặc vụ CIA nơi tiền sảnh. Căn nhà này không còn an toàn nữa.
Một tay cầm chiếc kim tự tháp đá, Mal'akh bước thẳng tới phòng đọc sách ở tầng 1 và ngồi xuống bên chiếc máy tính xách tay. Vừa đăng nhập, gã vừa nghĩ đến Langdon ở dưới nhà và tự hỏi phải bao nhiêu ngày hoặc tuần nữa người ta mới phát hiện ra xác chết ngâm nước trong tầng hầm bí mật. Nhưng cũng chẳng có gì khác cả. Khi đó Mal'akh đã cao chạy xa bay rồi.
Langdon thực hiện vai trò của mình rất... xuất sắc.
Anh không chỉ ráp các phần của Kim tự tháp Tam điểm mà còn nghĩ ra cách giải bảng biểu tượng bí hiểm dưới đế. Thoạt nhìn, tưởng chừng không thể giải mã nổi những biểu tượng ấy... nhưng câu trả lời rất đơn giản... hiện rõ ngay trước mặt họ.
Máy tính bắt đầu hoạt động, màn hình hiển thị chính bức thư điện tử gửi đến lúc trước: tấm ảnh chụp chóp vàng phát sáng, một phần bị ngón tay của Warren Bellamy che đi.
ẢNH
Tám... quảng trường Franklin... Katherine đã cho Mal'akh biết như vậy. Cô cũng thừa nhận đám đặc vụ CIA đang phục kích ở Quảng trường, hy vọng tóm được Mal'akh và cố đoán xem cái chóp muốn ám chỉ tổ chức nào. Hội Tam điểm? Hiệp sĩ Đền thánh? Thập tự Hoa hồng?
Không phải tổ chức nào trong số đó hết!, giờ thì Mal'akh hiểu rõ như vậy. Langdon đã nhìn ra sự thật! Mười phút trước, khi chất lỏng dâng quanh mặt, vị Giáo sư Harvard đã đoán được chìa khoá để giải cái kim tự tháp.
- Ô vuông Franklin bậc tám! - anh đã hét to như vậy, vẻ khiếp hãi ngập tràn ánh mắt - Bí mật nằm ngay trong ô vuông Franklin bậc tám!
Thoạt đầu. Mal'akh không hiểu.
- Đó không phải là một địa chỉ! - Langdon hét, miệng áp chặt vào ô cửa sổ kính Plexiglas - Ô vuông Franklin bậc tám! Đó là một ma phương - Sau đó anh nhắc đến Albrecht Durer... và giải thích cách dùng mật mã đầu tiên của kim tự tháp làm manh mối phá giải mật mã cuối cùng.
Mal'akh rất quen thuộc với các ma phương, hay kameas như cách gọi của các tín đồ chủ nghĩa thần bí sơ khai. Văn bản cổ Triết học Thần bí từng mô tả tỉ mỉ sức mạnh huyền diệu của ma phương cũng như cách thức thiết kế những con dấu quyền năng dựa trên hệ thống các chữ số kỳ ảo ấy, và Langdon nói rằng chìa khoá giải mã phần đế kim tự tháp nằm trong một ma phương...
- Anh cần một ma phương mỗi chiều tám ô! - vị Giáo sư hét to, môi anh là phần cơ thể duy nhất còn nhô lên khỏi chất lỏng - Các ma phương được xếp loại theo bậc! Một hình vuông mỗi chiều ba ô là "bậc ba"! Một hình vuông mỗi chiều bốn ô là "bậc bốn!" Anh cần một hình vuông "bậc tám"!
Chất lỏng sắp sửa nhấn chìm Langdon, vị Giáo sư hít lấy hơi thở tuyệt vọng cuối cùng và hét nốt điều gì đó về một hội viên Tam điểm nổi tiếng... người sáng lập nước Mỹ... nhà khoa học, thần bí chủ nghĩa, nhà toán học, nhà phát minh... cũng là người sáng tạo ra ma phương kỳ lạ mang tên ông cho đến ngày nay.
Franklin.
Chỉ nháy mắt. Mal'akh biết Langdon đã nói đúng.
Giờ đây, nín thở đầy hi vọng, gã ngồi trên gác bên chiếc máy tính của mình, thực hiện một lệnh tìm kiếm nhanh trên web, nhận được hàng chục kết quả, chọn lấy một và bắt đầu đọc.
Ô VUÔNG FRANKLIN BẬC TÁM
Một trong những ma phương nổi tiếng nhất lịch sử là ma phương bậc tám do nhà khoa học Mỹ Benjamin Franklin công bố năm 1769. Nó nổi tiếng nhờ bao gồm cả các "phép tổng đường chéo" hoàn toàn mới mẻ. Nỗi ám ánh của Franklin với hình thức nghệ thuật thần bí này chắc chắn bắt nguồn từ niềm tin vào chiêm tinh, từ mối liên hệ cá nhân của ông với các nhà giá kim và nhà thần bí chú nghĩa nổi bật đương thời, tất cả là nền tảng cho những dự đoán công bố trong cuốn Niên giám của Richard tội nghiệp.
ẢNH
Mal'akh nghiên cứu sáng tạo nổi tiếng của Franklin, xem xét cách bố trí có một không hai các con số từ 1 đến 64, trong đó mỗi hàng, cột, và đường chéo đều cho cùng một hằng số kỳ lạ. Bí mật nằm ngay trong ô vuông Franklin bậc tám.
Mal'akh mỉm cười. Run lên vì phấn khích, gã vớ lấy kim tự tháp đá và lật nghiêng nó để xem xét phần đế.
ẢNH
Sáu mươi tư biểu tượng này cần được tổ chức lại và sắp xếp theo một trật tự khác, căn cứ theo các con số trong ma phương của Franklin. Mal'akh không thể hình dung được làm thế nào mà bảng biểu tượng hỗn độn này tạo thành ý nghĩa khi sắp xếp theo một trật tự khác, nhưng gã rất tin tưởng vào lời hứa hẹn cổ xưa.
Ordo ab chao.
Tim đập rộn lên, gã lôi ra một tờ giấy và nhanh nhẹn vẽ một bảng mỗi chiều tám ô. Sau đó, gã bắt đầu điền các biểu tượng, lần lượt từng cái một, vào vị trí theo định nghĩa mới của chúng. Gần như ngay lập tức, trước sự kinh ngạc của gã, bảng biểu tượng bắt đầu bộc lộ ý nghĩa.
Trật tự từ hỗn loạn! Giải mã xong, Mal'akh nghi hoặc nhìn đáp án trước mặt. Một hình ảnh ấn tượng đã định hình. Cái mớ lộn xộn đã được biến cải... tổ chức lại... và mặc dù Mal'akh không thể nắm được ý nghĩa của toàn bộ thông điệp nhưng gã đủ hiểu... đủ để biết chính xác bây giờ cần đi về đâu.
Kim tự tháp chỉ đường.
Bảng biểu tượng trỏ tới một trong những địa điểm bí ẩn vĩ đại của thế giới. Thật không tin nổi, đó cũng chính là nơi hoàn tất hành trình mà Mal'akh luôn mơ ước.
Đúng là số phận.
Chương 107
Mặt bàn đá lạnh ngắt dưới lưng Katherine Solomon.
Tâm trí cô tiếp tục bị giày vò vì cảnh chết đuối hãi hùng của Robert, kéo theo những liên tưởng về người anh trai. Peter cũng chết rồi chăng? Con dao kỳ lạ trên chiếc bàn gần đó khơi gợi thêm nhiều hình ảnh về số phận tương tự đang chờ đợi cô.
Thế là hết thật rồi ư?
Kỳ lạ thay, dòng suy tư đột ngột đưa Katherine quay về với nghiên cứu... về Lý trí học... và những đột phá gần đây. Tất cả đều đã chấm dứt... đã tan thành mây khói. Cô không thể chia sẻ với thế giới về những khám phá của mình được nữa. Phát kiến chấn động nhất mới diễn ra cách đây vài tháng, kết quả thu được có khả năng tái định hướng suy nghĩ của con người về cái chết. Lạ lùng thay, cô cảm thấy khuây khoả khi hồi tưởng thí nghiệm đó.
Khi còn là một thiếu nữ, Katherine Solomon thường tự hỏi liệu có cuộc sống sau khi chết không. Thiên đường có tồn tại không? Chuyện gì xảy ra khi chúng ta chết đi? Khi trưởng thành hơn, nhờ nghiên cứu khoa học, cô nhanh chóng xoá bỏ các khái niệm kỳ quái về thiên đường, địa ngục hoặc thế giới bên kia... dần dần đi đến chỗ chấp nhận rằng khái niệm "cuộc sống sau khi chết" là sự tưởng tượng, là một câu chuyện thần tiên được tạo ra để xoa dịu sự thật hãi hùng rằng chúng ta không thể nào sống mãi.
Hay chính mình tin như vậy...
Một năm trước, Katherine và anh trai cô đã thảo luận về vấn đề dai dẳng nhất trong triết học, đó là sự tồn tại của linh hồn con người, đặc biệt là liệu con người có sở hữu một loại ý thức nào đó đủ khả năng ton tại bên ngoài cơ thể hay không.
Cả hai anh em đều cho rằng rất có thể tồn tại một dạng linh hồn như vậy, hầu hết các triết lý cổ xưa cũng tán thành quan điểm của họ. Phật giáo và Bà la môn giáo đều xác nhận thuyết luân hồi, tức quá trình đầu thai của linh hồn vào một cơ thể mới sau khi chết. Những người theo trường phái Platon định nghĩa cơ thể như một "nhà tù" nơi linh hồn thoát ra, còn phái khắc kỷ gọi linh hồn là apospasma tou theu - "một phân tử của Chúa" - và tin rằng nó được Chúa triệu hồi ngay khi rời bỏ thể xác.
Katherine nhận thức được rằng sự tồn tại của linh hồn con người có lẽ là một khái niệm sẽ chẳng bao giờ chứng minh được về mặt khoa học. Việc xác nhận rằng ý thức tồn tại bên ngoài cơ thể con người sau khi chết cũng mong manh như phả ra một làn khói và hy vọng vài năm sau tìm lại được nó.
Sau cuộc thảo luận này, Katherine nảy ra một ý định lạ lùng. Anh trai cô đề cập đến cuốn Sáng thế ký, trong đó mô tả linh hồn là Neshemah - một dạng "tri thức" tinh thần hoàn toàn tách biệt với cơ thể. Katherine hiểu rằng từ tri thức ngụ ý sự hiện diện của tư duy.
Theo Lý trí học thì tư duy có khối lượng, và vì thế, linh hồn con người có thể cũng có khối lượng.
Liệu mình có cân được linh hồn một con người không?
Dĩ nhiên, ý tưởng đó là không thể... hoặc thậm chí còn rất vớ vẩn.
Nhưng ba ngày sau, Katherine đột nhiên tỉnh giấc khi đang say ngủ và ngồi bật dậy trên giường. Cô vùng dậy, phóng xe tới phòng thí nghiệm và bắt đầu thiết kế một phép thử đơn giản đến kỳ lạ... mà táo bạo đến đáng sợ.
Cô chưa rõ liệu có tác dụng không, nên quyết định giấu Peter cho đến khi công việc hoàn tất. Bốn tháng sau, cuối cùng Katherine cũng dẫn anh trai tới phòng thí nghiệm. Cô đẩy ra một thiết bị khá đồ sộ vẫn giấu kín trong nhà kho phía sau.
- Em tự thiết kế và chế tạo đấy - cô khoe khi cho Peter xem phát minh của mình - Anh có đoán được gì không? Anh trai cô chăm chú nhìn cỗ máy kỳ lạ.
- Một cái lồng ấp à?
Katherine lắc đầu cười, mặc dù đó là một phán đoán khá hợp lý. Cỗ máy thực sự trông hơi giống loại lồng ấp dành cho trẻ sơ sinh thiếu tháng thường thấy trong các bệnh viện. Tuy nhiên, cỗ máy này vừa với cả kích thước của người lớn, nó là một cái kén dài bằng nhựa trong, kín hơi, trông như một loại túi ngủ hiện đại, đặt trên một thiết bị điện tử rất lớn.
- Để xem thứ này có giúp anh đoán ra không nhé. - Katherine nói và cắm điện. Một màn hình điện tử trên cỗ máy bật sáng. Katherine bấm phím, các con số nhảy nhót một lúc rồi dừng ở:
0,0000000000 kg
- Cân à? - Peter hỏi, vẻ mặt đầy thắc mắc.
- Không phải cân thường - Katherine nhặt mẩu giấy nhỏ xíu trên chiếc bàn gần đó và nhẹ nhàng thả nó lên chốc cái kén. Các con số trên màn hình lại nhảy nhót và sau đó dừng lại ở một thông số mới.
0,0008194325 kg
- Mà là cân tiểu ly có độ chính xác cao - cô giải thích - Độ chính xác đến vài microgram.
Peter vẫn rất bối rối.
- Em chế tạo một chiếc cân chính xác cao để... cân người à?
- Chính xác - Katherine nhấc cái nắp trong suốt của cỗ máy lên - Nếu em đặt một người vào trong cái kén này và đóng nắp lại, người ấy sẽ nằm trong một hệ thống đóng kín hoàn toàn. Không gì có thể lọt vào hay lọt ra, dù là không khí, chất lỏng, hay phân tử bụi. Cũng chẳng có gì thoát được hết, dù là hơi thở, mồ hôi bay hơi hay chất dịch của cơ thể...
Peter luồn tay vào mái tóc bạc rất dày, một cử chỉ biểu lộ tâm trạng bồn chồn giống hệt Katherine.
- Hừm... rõ ràng là nằm trong đó người ta sẽ chết nhanh hơn.
Katherine gật đầu.
Khoảng sáu phút, tuỳ thuộc vào nhịp hô hấp của họ.
Peter quay sang cô.
- Anh vẫn chưa hiểu.
- Rồi anh sẽ hiểu - Katherine mỉm cười.
Để cỗ máy lại đó, cô dẫn anh trai tới phòng điều khiển, cho ông ngồi xuống trước bức tường plasma. Cô bắt đầu nhập số liệu và truy cập một loạt tệp tin video lưu trữ trong các ổ đĩa đa sao lưu toàn ảnh.
Bức tường plasma nhấp nháy sáng, chiếu ra những hình ảnh trông giống một thước phim tự quay ở nhà.
Máy quay lia ngang một phòng ngủ giản dị với chiếc giường bừa bộn, những chai thuốc, một máy thở và một màn hình theo dõi tim.
Peter băn khoăn xem đoạn phim, hướng quay di chuyển và cuối cùng dừng lại ở chiếc cân của Katherine nằm gần chính giữa phòng ngủ.
Peter mở to mắt.
- Cái gì...?
Nắp kén trong suốt mở toang, một ông già đeo mặt nạ dưỡng khí lằm bên trong. Bà vợ già của ông cùng một nhân viên tang lễ đứng cạnh đó. Ông già thở rất khó nhọc, hai mắt nhắm nghiền.
- Người nằm trong kén là một giảng viên khoa học của em ở Yale, - Katherine nói - ông ấy và em vẫn liên hệ với nhau suốt nhiều năm qua. Ông ốm rất nặng, và thường nói muốn hiến tặng cơ thể mình cho khoa học, vì thế khi em giải thích ý tưởng về thí nghiệm này, ông lập tức bằng lòng tham gia.
Peter nín lặng vì sửng sốt, tiếp tục theo dõi cảnh tượng đang diễn ra.
Lúc ấy, nhân viên tang lễ quay sang người vợ.
- Đến giờ rồi. Ông ấy đã sẵn sàng.
Bà cụ chấm chấm đôi mắt đẫm lệ và gật đau với vẻ bình tĩnh đến cương quyết.
- Vâng.
Rất nhẹ nhàng, nhân viên tang lễ tiến lại bên cái kén và gỡ mặt nạ dưỡng khí của ông cụ. Ông hơi nhúc nhích, nhưng mắt vẫn nhắm nghiền. Nhân viên tang lễ đẩy hết máy trợ thở và các thiết bị khác sang một bên, để ông cụ nằm suông trong cái khoang ở giữa phòng.
Vợ của người hấp hối tiến đến gần, cúi xuống, và nhẹ nhàng hôn lên trán chồng mình. Ông già vẫn không mở mắt, nhưng môi ông động đậy, rất khẽ khàng, thoáng hiện một nụ cười yêu thương.
Không còn mặt nạ dưỡng khí, nhịp thở của ông cụ càng trở nên khó nhọc. Phút cuối đang đến rất gần. Với nghị lực và thái độ bình tĩnh đáng nể, vợ ông chậm rãi hạ cái nắp trong suốt và và đóng kín lại đúng như Katherine đã hướng dẫn.
Peter hoảng hốt giật lui.
- Katherine, vì Chúa, sao lại như thế chứ?
- Không sao đâu, - Katherine hạ giọng - Có đủ dưỡng khí trong khoang mà.
Cô đã xem đoạn video này hàng chục lần, nhưng lần nào xem lại cũng thấy hồi hộp như nhau. Cô trỏ bàn cân bên dưới cái khoang đóng kín của người hấp hối. Thông số điện tử hiển thị:
51,4534644 kg
Đó là trọng lượng cơ thể ông ấy, - Katherine giải thích.
Nhịp thở của ông cụ trở nên gấp gáp. Peter sửng sốt nhích tới trước.
- Ông cụ bằng lòng thế mà - Katherine thì thầm - Hãy xem diễn biến tiếp theo nhé!
Bà vợ bước lùi lại, ngồi xuống giường và im lặng nhìn nhân viên lễ tang.
Trong thời gian sáu mươi giây tiếp theo, nhịp hô hấp của ông cụ rất nông và cứ dồn dập dần, rồi đột nhiên, như thê đã tự lựa chọn thời điểm từ giã cõi đời, ông ngừng thở.
Mọi chuyện chấm dứt.
Không còn gì xảy ra nữa.
Peter đợi tiếp vài giây, đoạn liếc nhìn Katherine với vẻ thắc mắc rõ rệt.
Hãy cứ đợi đi, cô nghĩ, hướng ánh mắt Peter trở lại với màn hình điện tử vẫn âm thầm toả sáng, cho biết trọng lượng của người đã khuất.
Rồi sự lạ diễn ra.
Đang lặng lẽ theo dõi. Peter thình lình nhảy lui, gần như ngã ra khỏi ghế.
- Nhưng... đó là... - ông sững sờ đưa tay che miệng - Anh không thể.
Rất hiếm khi Peter Solomon vĩ đại mất bình tĩnh đến mức không thốt lên lời. Lần đầu chứng kiến hiện tượng xảy ra, phản ứng của Katherine cũng y hệt như ông vậy.
Một lúc sau khi ông cụ qua đời, các con số trên cân đột ngột giảm xuống. Ông cụ nhẹ đi sau khi chết. Sự thay đổi về trọng lượng là rất nhỏ, nhưng vẫn đo đếm được... và các chỉ số thực sự gây chấn động.
Katherine nhớ rằng cô đã run rẩy viết vào sổ nhật ký phòng thí nghiệm: "Khi con người chết đi, dường như có một thứ "vật chất" vô hình thoát ngay ra khỏi cơ thể họ. Trọng lượng của nó là định lượng được và không hề bị ngăn cản bởi các rào cản vật lý. Tôi phải thừa nhận rằng nó di chuyển theo một chiều mà tôi chưa lý giải nổi".
Qua vẻ choáng váng trên gương mặt anh trai mình. Katherine biết rằng ông đã hiểu ý nghĩa của thí nghiệm.
- Katherine... - Peter lắp bắp, hấp háy đôi mắt xám như muốn bảo đảm rằng mình không hề nằm mơ - Anh nghĩ em vừa cân được linh hồn con người.
Tiếp đó là sự im lặng kéo dài giữa hai anh em.
Katherine cảm thấy Peter đang cố lĩnh hội những thực tế phi thường và rõ rệt. Sẽ cần thời gian. Nếu hiện tượng họ vừa mục kích phản ánh đúng bản chất sự việc - chứng tỏ linh hồn, ý thức hoặc sinh lực có thể thoát ra ngoài cơ thể - thì xem như đã có ánh sáng soi rọi vô vàn câu hỏi bí ẩn về luân hồi, ý thức vũ trụ, cảm giác cận kề cái chết, dự đoán các vì sao, thần giao cách cảm, mơ trong lúc tỉnh táo, vân vân. Trên các tạp chí y học đầy rẫy những câu chuyện về các bệnh nhân chết trên bàn mổ tự nhìn xuống và trông thấy cơ thể họ, rồi sau đó được cứu sống trở lại.
Peter im lặng. Katherine thấy lệ ông ông trong mắt ông. Cô hiểu.
Cô cũng khóc. Họ đã mất đi những người thân yêu, và với bất kỳ ai rơi vào hoàn cảnh tương tự, những tín hiệu mong manh về linh hồn bất diệt của con người sẽ mang lại cho họ đôi chút hy vọng.
Nhận ra vẻ u sầu sâu thẳm trong mắt Peter, Katherine nghĩ, Anh ấy đang nhớ đến Zachary. Bao năm qua, Peter mang bên lòng gánh nặng trách nhiệm về cái chết của con trai mình. Đã nhiều lần, ông tâm sự với Katherine rằng việc bỏ lại Zachary trong tù là sai lầm tồi tệ nhất đời ông, và ông sẽ không bao giờ tìm cách tha thứ cho bản thân.
Tiếng cửa đóng sầm khiến Katherine chú ý, và đột nhiên cô trở lại gian hầm, nằm trên chiếc bàn đá lạnh lẽo. Sau khi sập cửa sắt rõ mạnh, gã đàn ông xăm trổ lại từ đầu dốc đi xuống. Katherine nghe tiếng chân gã bước vào một trong những căn phòng dọc hành lang, lục đục một lúc bên trong, sau đó lại quay ra để tới phòng của cô. Khi gã bước vào, cô trông thấy gã đẩy theo một thứ gì đó... khá nặng nề... trên những bánh xe. Khi tất cả lọt vào vùng ánh sáng, Katherine trợn mắt nghi hoặc. Gã đàn ông xăm trổ đang đẩy một người ngồi trên xe lăn.
Về mặt trí tuệ, não bộ của Katherine nhận ngay ra người ấy. Về mặt tình cảm, tâm trí cô xáo động vì hình ảnh đang chứng kiến.
- Anh Peter đấy ư?
Cô không biết nên vui mừng vì anh trai mình vẫn còn sống... hay kinh hãi. Cơ thể của Peter bị cạo sạch sẽ. Mái tóc bạc dày dặn của ông biến sạch, lông mày cũng vậy, làn da nhẵn nhụi ánh lên như thể đã được thoa dầu. Ông khoác một chiếc áo choàng lụa màu đen. Chỗ vị trí bàn tay phải của ông giờ chỉ còn cẳng tay, quấn trong một dải băng sạch sẽ, mới tinh. Ông đau đớn nhìn cô em gái, ánh mắt đong đầy ân hận và day dứt.
- Anh Peter! - Katherine nấc lên.
Peter cố nói nhưng chỉ phát ra những tiếng ú ớ. Katherine nhận ra ông bị trói vào xe lăn và bị nhét giẻ vào miệng.
Gã đàn ông xăm trổ cúi xuống, nhẹ nhàng vỗ lớp da đầu cạo nhẵn thín của Peter.
- Tôi đã chuẩn bị cho anh trai bà một vinh dự lớn lao. Đêm nay ông ấy có một vai phải đóng.
Toàn thân Katherine cứng đờ. Không...
- Peter và tôi sẽ đi bây giờ, nhưng tôi nghĩ hai người muốn tạm biệt nhau.
- Anh định đưa anh ấy đi đâu? - Katherine yếu ớt hỏi.
Gã đàn ông mỉm cười.
- Peter và tôi phải tới ngọn núi thiêng. Đó là nơi kho báu toạ lạc. Kim tự tháp Tam điểm đã chỉ rõ địa điểm đó. Bạn của bà, Robert Langdon, rất hữu dụng.
Katherine nhìn sâu vào mắt anh trai.
- Hắn đã giết... Robert.
Nét mặt Peter rúm ró vì thống khổ, và ông lắc đầu lia lịa, cứ như thể không chịu đựng nổi nỗi đau nào nữa.
- Thôi, thôi Peter, - gã kia nói và lại xoa đầu người đàn ông - Đừng để chi tiết này phá hỏng thời khắc quan trọng. Hãy tạm biệt cô em gái nhỏ bé của ông đi. Đây là lần đoàn tụ gia đình cuối cùng của ông đấy.
Katherine cảm thấy tâm trí mình như muốn bùng nổ vì tuyệt vọng.
- Tại sao anh lại hành động như thế? - cô gào lên - Chúng tôi đã làm gì anh chứ? Cơn cớ nào khiến anh thù ghét gia đình tôi đến vậy?
Gã đàn ông xăm trổ bước lại và kề miệng sát tai cô.
- Tôi có lý do của mình, Katherine ạ - Gã bước tới bàn dụng cụ và nhấc con dao kỳ lạ lên. Gã mang nó tới chỗ Katherine và liếc lưỡi dao sáng quắc qua má cô - Đây là con dao nổi tiếng nhất trong lịch sử.
Katherine chẳng biết con dao nổi tiếng nào cả, nhưng quả thực con dao này trông rất cổ xưa và đầy hăm doạ. Lưỡi thép sắc lém.
- Đừng lo, - gã nói - Tôi không có ý định phí phạm uy lực của nó với bà đâu. Tôi để dành nó cho một sự hy sinh đáng giá hơn... tại một địa điểm thiêng liêng hơn - Gã quay sang anh trai cô - Peter, ông có nhận ra con dao này không?
Đôi mắt Peter mở to, nỗi sợ hãi pha lẫn vẻ hoài nghi.
- Phải, Peter, cổ vật này vẫn tồn tại. Tôi giành được nó với cái giá rất cao... và để dành nó cho ông. Cuối cùng thì hai ta cũng cùng nhau chấm dứt hành trình khó nhọc này.
Dứt lời, gã cẩn thận bọc lưỡi dao vào một tấm vải cùng với tất cả những món đồ khác - hương thơm, một ống chất lỏng, những tấm vải sa tanh trắng, và những lễ vật. Sau đó, gã đặt gói đồ đã bọc kỹ vào chiếc túi da của Robert Langdon cùng Kim tự tháp Tam điểm và cái chóp. Katherine tuyệt vọng nhìn lên. Gã kia kéo khoá chiếc túi của Langdon và quay sang anh trai cô, thả cái túi nặng trịch vào lòng ông.
- Mang theo thứ này nhé?
Tiếp đó, gã bước tới ngăn kéo và bắt đầu lục tìm. Katherine nghe rõ tiếng đồ vật kim loại va lanh canh. Sau đó gã đàn ông trở lại, nhấc cánh tay phải của cô và giữ chặt trong giây lát. Katherine không nhìn thấy hành động của gã, nhưng rõ ràng là Peter chứng kiến hết thảy, vì ông lại vùng vẫy dữ dội.
Đột nhiên, Katherine cảm thấy đau nhói ở khoeo tay phải, và một cảm giác âm ấm kỳ lạ chạy dọc quanh đó. Peter vẫn đang phát ra những âm thanh khổ não, tắc nghẹn và cố gắng một cách vô ích để thoát khỏi cái xe lăn nặng nề. Cảm giác tê lạnh lan khắp cánh tay và các đầu ngón tay Katherine, khi gã kia bước sang bên, cô mới hiểu tại sao anh trai mình kinh hãi đến thế. Gã đàn ông vừa cắm một cây kim tiêm vào ven Katherine như thể cô đang hiến máu vậy. Tuy nhiên, cây kim không gắn vào một đường ống. Thay vào đó, dòng máu đang chảy ra ngoài... lăn dọc khuỷu tay, cánh tay Katherine và tràn ra mặt bàn đá.
- Một chiếc đồng hồ cát bằng xương bằng thịt. - gã nói và quay sang Peter - Lát nữa, khi tôi đề nghị ông đóng vai của mình, tôi muốn ông hình dung ra cảnh Katherine... một mình chết dần trong bóng tối nơi đây.
Mặt Peter ngập đầy đau đớn.
- Cô ta còn sống được khoảng một tiếng nữa, - gã đàn ông tiếp - Nếu ông tích cực hợp tác thì tôi sẽ có đủ thời gian để cứu cô ta. Dĩ nhiên, nếu ông chống lại tôi... em gái ông sẽ chết rục ở đây.
Peter gầm rít qua mớ giẻ nhét trong miệng.
- Tôi biết, tôi biết, - gã đàn ông xăm trổ đặt tay lên vai Peter - việc này khiến ông dằn vặt. Nhưng chả nên thế. Vả chăng, đây đâu phải lần đầu tiên ông bỏ rơi một thành viên trong gia đình - Gã dừng lại, cúi thấp xuống và thì thào vào tai Peter - Dĩ nhiên, tôi đang nghĩ đến Zachary con trai ông, trong nhà tù Soganlik.
Peter cố gồng mình và phát ra một tiếng kêu tắc nghẹn nữa qua mớ giẻ trong miệng.
- Thôi đi! - Katherine thét lên.
- Tôi còn nhớ rất rõ đêm đó - gã đàn ông vừa gói ghém đồ đạc vừa chế nhạo - Tôi nghe thấy tất cả. Lão cai ngục gợi ý thả con trai ông ra, nhưng ông quyết định dạy cho Zachary một bài học... bằng cách bỏ rơi nó. Con trai của ông đã nhận được bài học của mình, phải không? - Gã mỉm cười - Sự mất mát của nó... là thành quả của tôi.
Gã rút một mảnh vải lanh và nhét sâu vào miệng Katherine.
- Chết, - gã thì thào với cô - thì nên im ắng.
Peter vùng vẫy dữ dội. Không nói thêm một lời, gã đàn ông xăm trổ đẩy xe lăn đưa Peter ra khỏi phòng, thật chậm để ông có thời gian nhìn em gái lần cuối.
Katherine và Peter trân trân ngó nhau.
Sau đó ông đi.
Katherine nghe rõ tiếng họ di chuyển lên đường dốc và qua cánh cửa kim loại. Sau đó gã đàn ông khoá cánh cửa sắt lại và tiếp tục bước qua bức tranh Ba Kiều nữ, vài phút sau, có tiếng xe hơi nổ máy.
Rồi cả toà nhà chìm vào im lặng.
Katherine nằm lại một mình trong bóng tối, máu chảy đầm đìa.
Chương 108
Tâm trí Langdon bay lượn trong một vực thẳm không đáy.
Không ánh sáng. Không âm thanh. Không cảm giác.
Chỉ có sự im ắng và trống trải vô tận.
Mềm mại.
Nhẹ hẫng.
Cơ thể đã giải thoát anh. Anh được cởi trói.
Thế giới vật chất tan biến. Thời gian không còn tồn tại.
Lúc này, Langdon chỉ đơn thuần là một ý thức... một tri giác vật vờ trong bao la vũ trụ.
Chương 109
Chiếc UH-60 cải tiến bay vè vè trên những mái nhà rộng rãi của khu Kalorama Heights, lao về phía toạ độ mà nhóm hỗ trợ cung cấp cho họ. Đặc vụ Simkins là người đầu tiên phát hiện ra chiếc Escalade màu đen đỗ bừa trên bãi cỏ phía trước một toà nhà. Cổng vào đóng chặt, bên trong tối om và im ắng.
Sato ra hiệu cho phi công hạ cánh.
Trực thăng đáp thẳng xuống bãi cỏ trước nhà, xung quanh rải rác vài chiếc xe hơi... có cả một chiếc ô tô bốn chỗ của lực lượng an ninh, đèn vẫn nhấp nháy trên nóc.
Theo sau là các đồng đội, Simkins nhảy xuống, rút vũ khí và lao nhanh lên phía hiên. Cửa lớn khoá chặt, anh khum tay che mắt nhìn qua một khung cửa sổ. Tiền sảnh tăm tối, nhưng Simkins vẫn nhận ra một thân hình nhờ nhờ trên sàn.
- Bố khỉ, - anh thì thào - Đúng Hartmann rồi.
Một trong các đặc vụ vớ lấy cái ghế đẩu ngoài hiên và ném thẳng cánh vào ô cửa sổ lồi. Tiếng kính vỡ loảng xoảng chìm lấp giữa tiếng động cơ ầm ầm của chiếc trực thăng phía sau họ, vài giây sau, tất cả đều đã ở trong nhà. Simkins lao bổ vào tiền sảnh và quỳ xuống bên Hartmann để kiếm tra mạch đập. Không thấy gì cả. Máu loang khắp mọi nơi. Sau đó, anh phát hiện ra chiếc tô vít ở họng Hartmann.
Chúa ơi. Simkins đứng lên và ra hiệu cho người của mình tiến hành lục soát toàn bộ các phòng.
Nhóm đặc vụ toả ra khắp tầng một, ánh đèn la-de loang loáng trong bóng tối của căn nhà sang trọng. Không có gì khác thường ở phòng khách hay phòng làm việc, nhưng đến phòng ăn, họ ngạc nhiên phát hiện ra một nữ nhân viên an ninh bị xiết cổ đến chết.
Simkins chẳng mấy hy vọng Robert Langdon và Katherine Solomon còn sống sót. Rõ ràng tên sát nhân tàn bạo này đã giương một cái bẫy. Hắn đã táo gan tới mức giết cả đặc vụ CIA và nhân viên an ninh có vũ trang thì xem như giáo sư và nữ khoa học gia kia chẳng còn cơ hội nào.
Rà soát xong toàn bộ tầng một và chắc chắn không có gì nguy hiểm nữa, Simkins mới phái hai đặc vụ lên gác tìm kiếm. Bản thân anh phát hiện ra trong nhà bếp một lối cầu thang dẫn xuống tầng hầm, anh bèn lần theo. Tới chân cầu thang, anh bật đèn lên. Tầng hầm khá rộng rãi và gọn ghẽ, chừng như ít khi được sử dụng. Ngoài nồi hơi, tường xi măng trơ trọi và dăm ba cái thùng. Ở đây chẳng còn gì hết. Simkins quay trở lên bếp vừa lúc người của anh từ tầng hai đi xuống. Bọn họ cùng lắc đầu.
Ngôi nhà vắng tanh.
Không có ai ở đây, và không phát giác thêm xác chết nào.
Simkins điện đàm cho Sato để báo cáo.
Khi anh ra đến tiền sảnh, Sato đã theo bậc cấp lên tới hàng hiên. Warren Bellamy thờ thẫn ngồi lại một mình trong trực thăng, bên chân là chiếc cặp vỏ titanium của Sato. Trong cặp có bộ máy tính xách tay bảo mật cao, nhờ nó giám đốc OS có thể truy cập vào hệ thống máy tính của CIA trên toàn cầu thông qua các kết nối vệ tinh mã hoá.
Lúc tối, bà đã sử dụng chính máy tính này để cho Bellamy biết một thông tin đủ khiến ông bắt tay hợp tác hoàn toàn. Simkins không biết Bellamy "nhìn" thấy gì, chỉ biết từ lúc đó vị kiến trúc sư rơi vào trạng thái hồn xiêu phách lạc.
Sato bước vào tiền sảnh, dừng lại một chút để cúi đầu nhìn xác Hartmann. Đoạn, bà ngước mắt ngó Simkins.
- Không có dấu vết gì của Langdon hay Katherine ư? Biết đâu cả Peter Solomon nữa?
Simkins lắc đầu.
- Nếu họ còn sống thì chắc hắn đã dẫn họ đi cùng - Anh có thấy chiếc máy tính nào trong nhà không?
- Có thưa bà. Đằng văn phòng.
- Cho tôi xem.
Simkins dẫn Sato ra khỏi tiền sảnh và tiến vào phòng khách. Lớp thảm sang trọng tung tóe những mảnh kính vỡ văng ra từ ô cửa sổ.
Họ đi qua một lò sưởi, một bức tranh lớn và vài giá sách để tới một cánh cửa. Văn phòng được ốp gỗ, có kê một chiếc bàn cổ và một màn hình máy tính lớn. Sato bước vòng ra sau bàn để xem màn hình, nhưng lập tức cau mày.
- Chết tiệt, - bà nói qua kẽ răng.
Simkins bước vòng lại và nhìn theo. Màn hình trống trơn.
- Có chuyện gì vậy?
Sato trỏ một cái giá trống trên bàn.
- Hắn dùng máy tính xách tay. Hắn mang đi rồi.
Simkins không hiểu.
- Hắn có thông tin mà bà muốn xem à?
- Không, - Sato đáp, giọng rất trầm trọng - Hắn có thông tin mà tôi không muốn ai xem cả.
***
Trong tầng hầm bí mật dưới cầu thang, Katherine Solomon nghe tiếng phành phạch của cánh quạt trực thăng, tiếp đến là tiếng kính vỡ loảng xoảng và tiếng giày đinh nặng nề dọc sàn nhà phía trên. Cô cố gắng kêu cứu, nhưng mảnh giẻ trong miệng đã ngăn cản, không những không thốt được một âm thanh gì, mà càng cố kêu, máu từ khuỷu tay càng chảy ra nhanh hơn.
Katherine cảm thấy ngợp thở và hơi chóng mặt.
Cô biết mình cần phải bình tĩnh. Hãy sử dụng trí tuệ, Katherine.
Cô tập trung hết tinh thần để chuyển sang trạng thái thiền định.
***
Tâm trí Robert Langdon vẫn bồng bềnh giữa khoảng không trống rỗng. Anh ngó đăm đăm vào một vùng vô tận, tìm xem có chỗ nào bấu víu không, nhưng chẳng tìm thấy gì cả.
Tối như hũ nút. Im ắng hoàn toàn. Cực kỳ thanh vắng.
Thậm chí còn không có lực hấp dẫn để anh xác định đâu là phía trên.
Cơ thể anh đã tan biến.
Chắc chết là thế này đây.
Thời gian cứ co vào, giãn ra rồi nén lại, như thể không dính dáng gì tới nơi này. Langdon khó lòng ước tính đã bao lâu rồi.
Mười giây chăng? Hay mười phút? Mười ngày?
Đột nhiên, giống hệt những vụ nổ ghê gớm xa xăm trong các thiên hà, trí nhớ bắt đầu hiện hữu, ào ạt dồn về Langdon như những đợt sóng xung kích tràn qua khoảng trống mênh mông.
Robert Langdon bắt đầu nhớ ra. Những hình ảnh xối vào anh... sống động và rối loạn. Một gương mặt phủ kín hình xăm. Một đôi tay mạnh mẽ nhấc đầu anh lên và dộng mạnh xuống sàn.
Cơn đau bùng phát... sau đó là đêm đen.
Ánh sáng xam xám.
Đau nhói.
Ký ức mong manh. Langdon bị lôi xềnh xệch, nửa mơ nửa tỉnh, xuống, xuống, xuống nữa. Kẻ bắt anh ư ử ngâm.
Verbum significatium... Verbum omnificum... Verbum perdo...
Chương 110
Giám đốc Sato đứng một mình trong phòng làm việc của Mal'akh, đợi bộ phận hình ảnh vệ tinh CIA xử lý yêu cầu của bà. Một trong những lợi thế khi công tác ở Thủ đô là độ bao phủ của vệ tinh. Biết đâu nhờ may mắn, một trong số các vệ tinh đêm nay lại tình cờ định vị đúng chỗ và thu được hình ảnh căn nhà, chưa chừng còn lưu giữ bóng dáng chiếc xe mới rời khỏi đây nửa tiếng trước.
- Xin lỗi, thưa bà, - kỹ thuật viên vệ tinh báo - Lúc tối vệ tinh không theo dõi toạ độ này. Bà có muốn yêu cầu định vị lại không?
- Không cảm ơn. Quá muộn rồi - Sato tắt máy và thở hắt ra, không biết làm cách nào để truy ra hướng đến của mục tiêu. Bà bước ra tiền sảnh các nhân viên vừa cho xác đặc vụ Hartmann vào túi và đang khiêng ra trực thăng. Sato toan hạ lệnh cho Simkins thu quân để quay về Langley, thì phát hiện anh đang bò rạp trên nền phòng khách bằng cả hai chân hai tay, trông như phát bệnh vậy.
- Anh ổn chứ?
Simkins ngước nhìn Sato, vẻ mặt rất kỳ cục.
Bà có trông thấy dấu vết này không? - Anh trỏ tay lên sàn phòng khách.
Sato bước lại gần, dõi mắt xuống lớp thảm sang trọng và lắc đầu, không phát hiện điều gì khác lạ cả.
- Quỳ hẳn xuống, - Simkins nhắc - Hãy nhìn lớp tuyết của thảm ấy.
Sato làm theo. Một lúc sau, bà đã nhận ra. Các sợi thảm tựa hồ bị ép mạnh, chúng nằm rạp xuống theo hai đường miết thẳng tựa hồ bánh xe của một thứ gì đó đã lăn ngang qua phòng.
- Tôi đang tự hỏi, - Simkins nói và trỏ tay - các vệt này dẫn đến đâu.
Sato đưa mắt dõi theo. Hai đường song song lờ mờ chạy ngang tấm thảm phòng khách rồi biến mất bên dưới một bức tranh lớn trải từ trần xuống tới tận sàn treo ngay cạnh bếp lò. Thế là thế nào nhỉ?
Simkins tiến lại phía bức tranh và cố gắng nhấc nó ra khỏi tường.
Không tài nào nhấc được.
- Nó cố định rồi, - anh đưa các ngón tay lần theo mép tranh - Xem nào, có gì đó bên dưới... - Ngón tay của anh chạm phải một cái cần nhỏ ngay chỗ mép dưới, và có gì đó khởi động.
Sato bước tới gần. Simkins đẩy mạnh khung, toàn bộ bức tranh chầm chậm xoay quanh trục tâm của nó, như một cánh cửa xoay.
Simkins nâng đèn pin lên và rọi vào khoảng không gian tối đen phía trước.
Mắt Sato nheo lại. Chúng ta đi nào.
- Ở cuối hành lang ngắn là một cánh cửa sắt nặng trịch.
***
Ký ức cuồn cuộn tràn qua vùng tối trong tâm trí Langdon rồi mau chóng tan biến. Thi thoảng, một tia chớp sáng loà lóe lên kèm theo tiếng thì thầm xa xăm kỳ quái.
Verbum significatium... Verbum omnificum... Verbum perdo...
Tiếng lầm rầm tiếp tục, nghe đều đều như đang từng một khúc thánh ca thời trung cổ.
Verbum significatium... Verbum omnificum. Những từ ấy tan loãng trong khoảng không trống trải, rồi âm thanh khác mới mẻ hơn vang vọng quanh Langdon.
Khải huyền... Franklin... Khải huyền... Verb um... Khải huyền...
Thình lình, một hồi chuông tang lễ bắt đầu ngân lên ở đâu đó xa xăm. Tiếng chuông rung mãi, rung mãi, càng lúc càng vang to. Nó gióng dả gấp gáp, như thể mong Langdon sẽ hiểu, như muốn giục trí nhớ của anh đi theo.
Chương 111
Chuông tháp đồng hô ngân nga đúng ba phút, làm rung cả ngọn chúc đài pha lê treo trên đầu Langdon. Vài chục năm trước, anh đã từng tham dự các bài giảng trong chính thính phòng mến yêu này, thính phòng tại Học viện Phillips Exeter. Hôm nay, anh đến đây để nghe một người bạn thân diễn thuyết trước đông đảo sinh viên.
Khi ánh đèn dịu xuống, Langdon kiếm một chỗ ngồi dựa vào bức tường hậu, ngay bên dưới dãy chân dung các vị hiệu trưởng.
Tiếng suỵt ra hiệu im lặng lan khắp khu vực cử toạ.
Trong bóng tối đặc quánh, một bóng người cao lớn băng ngang sân khấu và tiến đến bục diễn thuyết.
- Chào quý vị, - giọng nói không nhìn rõ mặt nhỏ nhẹ vang qua micro.
Tất cả mọi người ngồi thẳng dậy, cố căng mắt nhìn xem ai đến giảng bài cho họ.
Máy chiếu bật sáng, trưng ra một bức ảnh ngả vàng đã mờ, chụp một toà lâu đài rất ấn tượng với mặt tiền bằng sa thạch đỏ, các tháp vuông cao vút và nhiều chi tiết trang trí theo phong cách Gothic.
Bóng người kia lên tiếng.
- Ai đó cho tôi biết đây là đâu được không?
- Xứ Anh! - một giọng nữ vang lên trong bóng tối - Mặt tiền của công trình này là sự pha trộn giữa trường phái Gothic sơ khai và Roman hậu kỳ, suy ra đây là một toà lâu đài Norman đặc trưng và nó thuộc xứ Anh vào khoảng thế kỷ XII.
- Ái chà, - giọng nói không nhìn rõ mặt đáp lại - Có người biết kiến trúc của nó cơ đấy.
Những tiếng xì xầm nổi lên.
- Tiếc thay, - bóng người nói thêm - bạn chệch ba nghìn dặm và nửa thiên niên kỷ.
Cả thính phòng ồn ào.
Lúc này, máy chiếu hiển thị một bức ảnh màu hiện đại của chính toà lâu đài nọ nhưng từ góc độ khác. Các toà tháp bằng sa thạch Seneca Creek choán hết phần tiền cảnh, nhưng ở hậu cảnh, gần đến giật mình, lại sừng sững mái vòm màu trắng với những hàng cột uy nghi của Điện Capitol.
- Khoan đã! - cô gái la lên - Có một toà lâu đài Norman ở Thủ đô ư?
- Từ năm 1855. - giọng nói đáp - Là thời điểm chụp bức ảnh tiếp theo đây.
Tấm ảnh thứ ba xuất hiện: một tấm ảnh đen trắng chụp nội thất, mô tả một phòng khiêu vũ rất rộng, có mái vòm, bài trí những bộ xương động vật, các hộp trưng bày, các lọ thuỷ tinh chứa tiêu bản sinh học, các hiện vật khảo cổ, và mô hình thạch cao những loài bò sát thời tiền sử.
- Lâu đài tuyệt vời này, - giọng nói vang lên - là bảo tàng khoa học đầu tiên của nước Mỹ, là món quà của một nhà khoa học giàu có người Anh. Cũng giống các bậc tiền bối của chúng ta, ông tin rằng lãnh thổ non trẻ này sẽ trở thành mảnh đất của sự khai sáng. Ông chuyển giao một gia tài đồ sộ cho tổ tiên chúng ta và đề nghị họ dùng nó để xây dựng "một cơ sở dành cho sự phát triển và phổ biến tri thức, ngay tại trái tim tổ quốc" - Diễn giả ngừng lại một lúc lâu - Ai cho tôi biết tên của nhà khoa học hào hiệp này nào?
Từ mấy dãy ghế đầu, một giọng nói e dè cất lên:
- James Smithson phải không?
Tiếng rì rầm tán thưởng lan ra khắp đám đông.
- Đúng là Smithson, - người trên sân khấu trả lời, rồi bước hẳn ra ánh đèn, đôi mắt xám ánh lên vui vẻ - Chào tất cả. Tên tôi là Peter Solomon. Tổng thư ký Viện Smithsonian.
Sinh viên vỗ tay rào rào.
Trong bóng tối, Langdon quan sát với vẻ đầy thán phục trong khi Peter làm say lòng những tâm hồn trẻ trung kia bằng một chuyến du lịch qua ảnh để tìm hiểu về lịch sử sơ khai của Viện Smithsonian.
Chương trình bắt đầu với lâu đài Smithsonian, các phòng thí nghiệm khoa học dưới tầng hầm, các hành lang trưng bày tiêu bản, phòng triển lãm động vật nhuyễn thể, các nhà khoa học tự nhận là "những người trông nom loài giáp xác", và thậm chí cả một bức ảnh cũ về hai cư dân quen thuộc nhất của toà lâu đài - một đôi chim cú, giờ đều đã chết, được đặt tên là Diffusion (Phổ biến) và Increase (Phát triển).
Buổi trình diễn kéo dài nửa giờ kết thúc bằng bức ảnh vệ tinh rất ấn tượng về khu vực Công viên Quốc gia, nằm kế bên dãy bảo tàng Smithsonian đồ sộ.
- Như tôi đã nói lúc mới bắt đầu - Solomon kết luận - James Smithson cùng các bậc tiền bối của nước Mỹ mong muốn tổ quốc vĩ đại này trở thành mảnh đất của sự khai sáng. Tôi tin rằng đến nay họ rất tự hào. Viện Smithsonian tuyệt vời của họ sừng sững như một biểu tượng của khoa học và tri thức ở ngay trái tim nước Mỹ. Nó là món quà sống động, đang tồn tại và đang làm việc để thực hiện giấc mơ của cha ông chúng ta, giấc mơ về một đất nước được thành lập trên nguyên tắc tri thức, trí tuệ và khoa học.
Solomon tắt máy chiếu trong tiếng vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Đèn bật sáng. Hàng chục bàn tay háo hức giơ cao xin đặt câu hỏi.
Solomon trỏ một chàng trai nhỏ bé tóc đỏ ở giữa phòng.
- Thưa thầy Solomon? - chàng trai lên tiếng, giọng bối rối - Thầy nói các bậc tiền bối của chúng ta lánh xa tình trạng đàn áp tôn giáo ở châu Âu để lập nên một đất nước trên nguyên tắc của tiến bộ khoa học phải không ạ?
Hoàn toàn đúng.
- Nhưng... em có cảm tưởng các bậc tiền bối của chúng ta là những tín đồ tôn giáo rất nhiệt thành, đã lập nên nước Mỹ với tư cách là một quốc gia Thiên Chúa giáo.
Solomon mỉm cười.
- Thưa các bạn, đừng hiểu lầm ý tôi nhé. Cha ông chúng ta rất quan tâm đến tôn giáo, nhưng họ còn là những nhà thần luận nữa. Họ tin vào Chúa, song tin theo một cách phổ quát và với tư duy mở. Ý tưởng tôn giáo duy nhất họ đề xướng là tư do tôn giáo - ông nhấc micro khỏi bục diễn giải và bước ra mép sân khấu - Những người xây dựng nước Mỹ luôn mơ ước về một xã hội không tưởng được khai sáng về mặt tinh thần, trong đó tự do tư tưởng, phổ cập giáo dục, và tiến bộ khoa học sẽ thay thế cho sự mê tín tôn giáo lạc hậu và tăm tối.
Một cô gái tóc vàng ở phía sau giơ tay lên.
- Mời bạn!
- Thưa thầy, - cô gái nói, giơ cao điện thoại di động - em đã tìm thông tin về thầy trên mạng, và Wikipedia cho biết thầy là một hội viên Tam điểm chủ chốt.
Solomon giơ chiếc nhẫn Tam điểm của mình lên.
- Tôi xin xác nhận với bạn rằng thông tin đó là chính xác.
Sinh viên cười rộ.
- Vâng, - cô gái nói tiếp, vẻ do dự - thầy vừa đề cập đến "sự mê tín tôn giáo lạc hậu", em cho rằng nếu có ai phải chịu trách nhiệm về việc tuyên truyền những điều dị đoan lạc hậu... thì đó chính là Hội Tam điểm.
Solomon không hề lúng túng.
- Thế ư? Như thế nào nào?
- Dạ, em đã đọc rất nhiều về Hội Tam điểm, và em biết Hội có những nghi thức và tín điều lạ lùng. Bài viết trên mạng này thậm chí còn cho rằng Hội Tam điểm tin vào sức mạnh của một dạng tri thức kỳ bí cổ xưa có thể đưa con người đến với thế giới thần thánh.
Tất cả mọi người đều ngoảnh lại, chằm chằm nhìn cô gái như nhìn một kẻ tâm thần.
- Thực tế, cô ấy nói đúng, - Solomon can thiệp.
Đám sinh viên cùng quay lên, nhìn thẳng về phía trước, mắt mở to.
Solomon cố nén cười và hỏi cô gái:
- Trên Wiki còn thông tin nào về kho tri thức kỳ bí ấy nữa không?
Cô gái khá bối rối, nhưng vẫn đọc thành tiếng nội dung trên trang web:
- Để bảo đảm vốn tri thức hùng mạnh này không lọt vào tay những kẻ không xứng đáng, các trí giả xưa đã ghi chép kiến thức của mình dưới dạng mật mã... phủ kín chân lý đích thực của nó trong lớp vỏ ngôn ngữ ẩn dụ gồm các biểu tượng, truyền thuyết và ngụ ngôn. Ngày nay, vốn tri thức được mã hoá này vẫn ở quanh chúng ta... trá hình trong các truyền thuyết, nghệ thuật và văn bản huyền bí. Tiếc thay, con người hiện đại đã mất khả năng giải mã hệ thống biểu tượng phức tạp ấy... nên chân lý vĩ đại bị thất truyền.
Solomon vẫn chờ đợi.
- Chỉ có vậy thôi à?
Cô gái đứng lên khỏi ghế.
Thực tế còn có một đoạn nữa.
- Tôi cũng mong như vậy. Nào, hãy... nói cho chúng tôi nghe đi.
Cô gái tỏ ra do dự, nhưng cũng hắng giọng và tiếp tục.
Theo truyền thuyết, sau khi mã hoá những Bí mật cổ xưa, các hiền nhân đã để lại một chìa khoá... một khẩu lệnh để phá giải chúng. Khẩu lệnh bí ẩn này là verbum significatium, có thể vén bức màn tối tìm vào mọi Bí mật cổ xưa, đưa chúng ra với sự hiểu biết của toàn nhân loại.
Solomon mỉm cười bâng khuâng.
- A đúng rồi... verbum significatium - ông thần người nhìn mông lung một lúc, rồi lại hạ ánh mắt xuống cô gái tóc vàng - Thế giờ thì cái tuyệt vời ấy ở đâu rồi?
Cô gái lộ vẻ e ngại, rõ ràng là không muốn thách thức diễn giả khách mời. Cô đọc nốt.
- Theo truyền thuyết, verbum significatium được chôn sâu dưới lòng đất, và kiên trì chờ đợi khoảnh khắc then chốt trong lịch sử, khi nhân loại không thể tồn tại mà thiếu chân lý, kiến thức và tri thức của mọi thời đại. Rốt cuộc, đến khoảnh khắc giao thời giữa bóng tối và ánh sáng ấy, nhân loại sẽ phát hiện ra Từ khoá và tuyên bố một kỷ nguyên mới rạng ngời.
Cô gái tắt điện thoại và ngồi xuống ghế.
Im lặng kéo dài, roi một sinh viên khác giơ tay.
- Thưa thầy Solomon, thầy không tin điều đó, phải không?
Solomon mỉm cười.
- Sao lại không? Thần thoại có kể về những từ ngữ kỳ diệu lâu đời đem lại hiểu biết và sức mạnh thần thánh. Cho đến hôm nay, trẻ em vẫn hét vang "abracadabra" với hy vọng tạo ra một thứ gì đó từ hư không. Dĩ nhiên, mọi người đều quên rằng từ khoá này không phải là một món đồ chơi, nó có nguồn gốc từ A vrah Kadabra trong chủ nghĩa thần bí Aramaic cổ xưa, có nghĩ là "Ta tạo ra khi ta nói".
Im lặng.
- Nhưng thưa thầy, - chàng sinh viên nhấn mạnh - chắc chắn thầy không tin rằng chỉ đơn thuần một từ khoá... cụm verbum significatium này... cho dù chứa đựng hàm nghĩa nào, lại đủ khả năng mở ra kho tri thức cổ xưa và mang lại sự khai sáng cho toàn thế giới chứ?
Gương mặt Peter Solomon không biểu lộ điều gì.
- Các bạn chẳng nên quan tâm tới tín điều của riêng tôi. Hãy quan tâm đến lời tiên tri về sự khai sáng sắp đến, nó được phản ánh trong tất cả mọi tín điều và truyền thống triết học trên trái đất. Người Hindu gọi nó là Kỷ nguyên Krita, giới chiêm tinh gọi nó là Kỷ nguyên Bảo bình, người Do Thái mô tả nó như sự xuất hiện của Đấng Cứu thế các nhà thần trí học gọi nó là Kỷ nguyên Mới, các nhà vũ trụ học gọi nó là Sự hội tụ Hài hoà và tiên đoán cả ngày tháng cụ thể.
- Ngày 21 tháng 12 năm 2012? - ai đó nói to.
- Phải, rất gần rồi đấy... nếu các bạn tin vào toán pháp của người Maya.
Langdon phì cười, nhớ lại cách đây mười năm, Solomon đã dự đoán chính xác sự xuất hiện dồn dập những chương trình truyền hình đặc biệt cho rằng năm 2012 là năm đánh dấu sự diệt vong của Trái đất.
- Gạt bỏ yếu tố thời gian, - Solomon nói - tôi thấy thật kỳ lạ phải lưu ý rằng trong suốt tiến trình lịch sử, tất cả những triết lý khác nhau của nhân loại đều đồng quy ở một điểm: đó là sự khai sáng vĩ đại của tương lai. Trong mọi nền văn hoá, ở mọi thời đại, tại mọi nơi trên thế giới, giấc mơ của con người đều tập trung vào cùng một quan niệm, cho rằng con người sắp được giải thoát khỏi thế giới trần tục... trí tuệ nhân loại sắp biến cải theo đúng tiềm năng đích thực của chúng - ông mỉm cười - Điều gì có thể giải thích cho một sự đồng bộ về niềm tin như thế chứ?
- Chân lý - một giọng nói vang lên trong đám đông.
Solomon xoay người.
- Ai nói thế nhỉ?
Một sinh viên châu Á giơ tay. Vóc người nhỏ bé với những đường nét mềm mại cho thấy cậu là người Nepal hoặc Tây Tạng.
- Có thể có một chân lý chung nằm sẵn trong tâm hồn mỗi người. Có thể tất cả chúng ta đều mang trong mình cùng một câu chuyện, như một hằng số chung trong DNA. Chân lý này chính là sự tương đồng trong tất cả các câu chuyện của chúng ta.
Solomon tươi cười chắp hai tay vào nhau và cung kính cúi đầu trước cậu sinh viên.
- Cảm ơn bạn.
Mọi người im bặt.
- Chân lý, - Solomon quay sang cử toạ - Chân lý có quyền năng. Chúng ta hướng về những ý tưởng giống nhau, là bởi những ý tưởng ấy là sự thật... được khắc sâu trong tâm khảm chúng ta. Có lúc nghe đến chân lý, thậm chí chưa hiểu ý nghĩa, chúng ta cũng thấy nó ngân lên trong lòng mình... rung động với tri thức vô thức của mình. Chân lý đến với chúng ta không qua con đường học hỏi, mà do khơi gợi... do hồi tưởng... do nhận biết... đúng như những gì vẫn tồn tại trong chúng ta.
Cả thính phòng im phăng phắc.
Solomon duy trì không khí ấy một lúc lâu, rồi nhẹ nhàng nói:
- Tóm lại, tôi muốn lưu ý với các bạn rằng việc khai mở chân lý không bao giờ dễ dàng. Trong suốt chiều dài lịch sử, mọi thời kỳ khai sáng luôn đi kèm với bóng tối, thúc đẩy và đối kháng lẫn nhau. Đó là quy luật của tự nhiên và cân bằng. Nếu hôm nay, chúng ta nhìn thấy bóng tối lan rộng trên thế giới thì cũng cần phải nhận ra rằng có ánh sáng ngang bằng đong thời lan toả. Chúng ta đang mấp mé một thời kỳ khai sáng vĩ đại thật sự, và tất cả chúng ta - tất cả các bạn - đều có diễm phúc được trải nghiệm thời khắc lịch sử quan trọng ấy. Sau bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu kỷ nguyên... đến khoảnh khắc ngắn ngủi này, chúng ta được chọn làm nhân chứng cho quá trình phục hưng cuối cùng. Hàng thiên niên kỷ bóng tối đang lùi xa, chúng ta sẽ thấy khoa học, trí tuệ và thậm chí tôn giáo... bắt đầu hé mở chân lý.
Một tràng pháo tay nhiệt thành sắp rộ lên thì Solomon bỗng ra dấu im lặng.
- Bạn ạ! - ông trỏ cô gái tóc vàng có chiếc điện thoại di động ở dãy ghế sau - Tôi biết chúng ta bất đồng ở nhiều điểm, nhưng tôi muốn cảm ơn bạn. Niềm đam mê của bạn là chất xúc tác quan trọng cho những thay đổi mai sau. Thái độ lãnh đạm là sào huyệt của bóng tối còn nhận thức lỗi lầm chính là thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất của chúng ta. Hãy tiếp tục nghiên cứu tín điều. Nghiên cứu Kinh thánh - ông mỉm cười - Đặc biệt là những trang cuối cùng.
- Sách Khải huyền? - cô gái hỏi.
- Chính xác. Sách Khải huyền là một ví dụ sâu sắc về chân lý chung của loài người. Cuốn sách cuối cùng trong Kinh thánh kể lại câu chuyện tương đồng giữa nhiều truyền thống khác nhau. Tất cả đều đề cập đến sự khai mở tri thức vĩ đại trong tương lai.
Ai đó lên tiếng:
- Nhưng sách Khải huyền không hề nhắc tới sự diệt vong của thế giới, cũng đâu có đả động gì đến kẻ thù của Chúa, Armageddon hay trận chiến cuối cùng giữa thiện và ác?
Solomon bật cười.
- Ai ở đây đã từng nghiên cứu Hy Lạp?
Vài cánh tay giơ lên.
- Nghĩa đen của từ apocalypse là gì?
- Nó có nghĩa là, - một sinh viên phát biểu, nhưng ngừng ngay lại vẻ ngạc nhiên - Apocalypse nghĩa là "khai mở"... hoặc "tiết lộ".
Solomon gật đầu tán thành.
- Chính xác. Khải huyền theo nghĩa đen là một sự tiết lộ. Cuốn sách về sự tiết lộ trong Kinh thánh dự đoán quá trình khai mở chân lý vĩ đại và tri thức phi thường. Khải huyền không nói đến sự diệt vong của thế giới, mà là sự kết thúc của thế giới chúng ta đang biết. Lời tiên tri của Khải huyền là một trong những thông điệp tuyệt vời của Kinh thánh đã bị hiểu sai - Solomon bước ra phía trước sân khấu - Hãy tin tôi Khải huyền đang đến... và nó khác hẳn những điều người ta dạy cho các bạn bấy nay.
Trên cao, chuông bắt đầu ngân nga.
Tiếng vỗ tay dậy lên như sấm.
Chương 112
Đang chông chênh trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Katherine Solomon bỗng giật nảy mình vì dư chấn của một tiếng nổ nhức óc đinh tai.
Lát sau, mùi khói thoảng đến.
Tai cô vẫn còn ong ong.
Có tiếng nói loáng thoáng. Ở phía xa. Tiếng gọi nhau. Tiếng bước chân. Bỗng đâu hô hấp của cô thông suốt. Mảnh vải nhét miệng đã được kéo ra.
- Cô an toàn rồi, - một giọng đàn ông thì thầm - Cứ nằm yên.
Anh ta không rút ngay cây kim ra khỏi tay Katherine như cô tưởng, thay vào đó lại lớn tiếng ra lệnh:
- Mang hộp cứu thương đến đây... tiếp ngay một túi truyền dịch vào cây kim... truyền luôn dung dịch Ringer nhé... đo huyết áp cho tôi.
Sau đó anh ta bắt đầu xem xét mạch đập, thân nhiệt, hô hấp... của Katherine, và hỏi:
- Cô Solomon, kẻ làm thế này với cô... hắn đi đâu rồi?
Katherinecố cất tiếng, nhưng không sao bật thành lời.
- Cô Solomon? - người nọ lặp lại - Hắn đi đâu rồi?
Katherine gắng mở to mắt, nhưng cảm thấy mình đang chết dần.
- Chúng tôi cần biết hắn đi đâu, - người nọ thúc giục.
Katherine thì thầm ba từ, dù biết là vô tác dụng.
- Ngọn... núi... thiêng.
Giám đốc Sato bước qua cánh cửa sắt nham nhở, theo lối dốc bằng gỗ đi xuống tầng hầm bí mật. Tới chân dốc bà gặp một đặc vụ.
- Thưa giám đốc, tôi nghĩ bà muốn xem thứ này.
Sato theo chân người đặc vụ vào căn phòng nhỏ nằm bên hành lang hẹp. Căn phòng sáng trưng và trống trải, chỉ có một đống quần áo trên sàn. Sato nhận ra chiếc áo khoác và đôi giày của Robert Langdon.
Đặc vụ trỏ một cái hòm lớn trông y như quan tài ở bức tường phía xa.
Cái quái gì thế không biết?
Sato tiến về phía cái hòm, nhận ra nó gắn với một đường ống nhựa trong suốt chạy xuyên qua tường. Rất thận trọng, bà bước lại gần.
Trên mặt hòm có lắp nắp trượt. Sato cúi xuống đẩy cái nắp sang bên, một ô cửa nhỏ lộ ra.
Bà giật mình nhảy lui.
Bên dưới lớp kính Plexiglas... lập lờ khuôn mặt vô hồn của giáo sư Robert Langdon.
***
Ánh sáng.
Đang lơ lửng trong khoảng không vô định, Langdon chợt thấy quanh mình ngập đầy ánh nắng chói chang. Những tia sáng nóng sực xé tan màn tối, xuyên thẳng vào tâm trí anh.
Ánh sáng tuôn chảy khắp mọi nơi.
Từ đám mây rạng rỡ trước mặt thình lình hiện ra một bóng dáng yêu kiều. Một dung nhan... lờ mờ và nhoà nhạt... đôi mắt đăm đăm nhìn anh qua khoảng trống giữa hai bên. ánh sáng lóe lên từng chùm quanh dung nhan ấy, Langdon băn khoăn tự hỏi, diện mạo của Chúa đây chăng.
Sato chăm chú ngó xuống hòm, ngẫm nghĩ không hiểu giáo sư Langdon có biết chuyện gì đang xảy ra không. E rằng khó. Bởi mục đích chính của công nghệ này là làm con người mất phương hướng mà.
Hòm tiết chế giác quan xuất hiện vào khoảng những năm 1950 và vẫn là cách giải thoát quen thuộc đối với những nhà thí nghiệm giàu có của Kỷ nguyên Mới. "Trôi nổi", như người ta thường gọi, đem lại một trải nghiệm mang tính tiên nghiệm, một dạng hỗ trợ thiền định giúp làm lắng hoạt động của não bằng cách loại bỏ tất cả những thông tin giác quan nạp vào, từ ánh sáng, âm thanh đến cảm giác, thậm chí là trọng lực. Ở loại hòm kiểu truyền thống, người ta sẽ nằm ngửa trong dung dịch hyperbuoyant saline, giữ mặt cao hơn mặt nước để còn thở.
Tuy nhiên, những năm gần đây, người ta đã đạt được bước tiến nhảy vọt về kỹ thuật chế tạo hòm tiết chế giác quan.
Nhờ perfluorocarbon oxy hoá.
Thường được biết đến với tên gọi Thông hơi lỏng toàn diện (TLV), công nghệ mới mẻ này có tính chất phản trực giác đến mức khó tin.
Chất lỏng thở được.
Thở trong chất lỏng là một thực tế được chứng minh từ năm 1966, khi Leland C. Clark thành công trong việc giữ cho một con chuột sống sót sau vài giờ bị dìm vào dung dịch perfluorocarbon oxy hoá.
Năm 1989, công nghệ TLV xuất hiện đầy ấn tượng trong bộ phim Vực thẳm, mặc dù rất ít khán giả nhận ra rằng họ đang chứng kiến một thành tựu khoa học thật sự.
Phương pháp Thông hơi lỏng toàn diện ra đời nhờ những cố gắng của y học hiện đại nhằm giúp trẻ sơ sinh thiếu tháng hô hấp bằng cách trả chúng về với môi trường tương tự tử cung. Phổi con người phải ở trong tử cung chín tháng, nên đã quen thuộc với môi trường chất lỏng. Trước đây, perfluorocarbon quá đặc khiến việc hô hấp khá chật vật, nhưng những đột phá hiện đại làm nó gần như giống hệt nước.
Ban giám đốc Khoa học Công nghệ của CIA - mà giới tình báo thường gọi là "những thầy phù thuỷ Langley" - đã tiến hành vô vàn thí nghiệm với perfluorocarbon oxy hoá để phát triển công nghệ cho quân đội Hoa Kỳ. Các nhóm lặn sâu của hải quân thấy rằng khi thở bằng chất lỏng oxy hoá thay cho heliox hoặc trimix thông thường thì họ có khả năng lặn ở độ sâu lớn hơn mà không gặp nguy cơ tai biến do áp suất. Tương tự, NASA và lực lượng không quân thừa nhận các phi công được trang bị thiết bị thở chất lỏng thay cho bình oxy truyền thống có thể trụ vững trước các lực G(100) tốt hơn bởi chất lỏng lan toả lực G qua các cơ quan nội tạng đồng đều hơn chất khí.
Sato cũng biết nhiều người tự lập "phòng siêu thí nghiệm" để dùng thử bể Thông hơi lỏng toàn diện mà họ gọi là "những cỗ máy thiền định". Cái hòm này có lẽ được lắp đặt cho mục đích nghiên cứu riêng của chủ nhân, song đám chốt khoá nặng nề khiến bà ngờ rằng nó còn phục vụ cho những ứng dụng đen tối khác... chẳng hạn cho thẩm vấn, một kỹ thuật mà CIA khá quen thuộc.
Nhấn nước là kỹ thuật thẩm vấn đầy tai tiếng, nhưng rất hiệu quả bởi nạn nhân thật sự tin rằng mình đang chết đuối. Trong một vài hoạt động mật, người ta sử dụng loại bể tiết chế cảm giác tương tự thế này để tăng hiệu ứng lên nhiều cấp độ mới khủng khiếp hơn, khi bị dìm trong chất lỏng, nạn nhân có thể "chết đuối" theo đúng nghĩa đen. Cơn hoảng loạn đi kèm với cảm giác chết chóc khiến họ không nhận ra rằng chất lỏng mình đang hít thở sền sệt hơn nước. Khi chất lỏng tràn vào phổi, họ thường ngất đi vì sợ, và sau đó tỉnh lại trong trạng thái "bế quan".
Người ta còn trộn các chất gây tê, gây liệt, và ma tuý gây ảo giác vào chất lỏng oxy hoá ấm để khiến tù nhân có cảm giác hồn bất phụ thể. Mặc trí não phát lệnh cử động đi khắp cơ bắp, chân tay cũng không nhúc nhích được. Bản thân trạng thái "chết" đã đủ kinh hãi, nhưng trạng thái mất phương hướng bắt nguồn từ quá trình "tái sinh", cùng với sự hỗ trợ của ánh sáng mạnh, không khí lạnh, và tiếng ồn chói tai, mới thực sự gây thương tổn và đau đớn. Sau vài lần liên tục tái sinh và chết đuối, tù nhân sẽ hoảng loạn đến nỗi không rõ mình còn sống hay đã chết... và anh ta sẵn sàng cung khai mọi điều.
Sato toan đợi y tế đến để đưa Langdon ra, nhưng bà hiểu rằng không còn đủ thời gian nữa. Phải tìm xem người đàn ông này đã biết những gì.
- Tắt hết đèn đi, - bà ra lệnh - Và tìm cho tôi mấy cái chăn.
***
Mặt trời chói loà biến mất.
Gương mặt cũng biến mất.
Bóng tối trở lại, nhưng giờ Langdon nghe thấy tiếng thì thầm văng vẳng lọt qua khoảng không xa xôi hàng bao nhiêu năm ánh sáng.
Những giọng nói nghèn nghẹt... những từ ngữ rắc rối. Có cả những chấn động, cứ như thể thế giới sắp vỡ tung.
Rồi điều đó xảy ra thật: Rất đột ngột, vũ trụ bị xé toang làm đôi. Một vết nứt khổng lồ mở ra một vùng trống rỗng... tựa hồ không gian nứt ngay ở đường phân giới. Một màn sương xam xám tràn qua lỗ hổng, và Langdon nhìn thấy một cảnh tượng hãi hùng. Những bàn tay ở đâu vươn tới, tóm lấy anh, cố gắng lôi anh ra khỏi thế giới của mình.
- Không! Langdon chống cự thật lực, nhưng anh không có tay... không có nắm đấm. Hay là anh có nhỉ? Thình lình, anh cảm thấy cơ thể mình hiện ra trong tâm trí. Da thịt anh đã quay trở lại và đang bị mấy bàn tay mạnh mẽ kia tóm lấy lôi dậy. Không, xin hãy làm ơn!
Nhưng đã quá muộn.
Khi những bàn tay lôi tuột Langdon ra khỏi lỗ hổng. anh thấy ngực đau nhói, phổi như bị nhồi đầy cát. Ngạt thở quá! Bỗng dưng, anh thấy mình nằm ngửa trên một mặt phẳng cứng và lạnh chưa từng thấy. Ngực anh bị ấn xuống, liên tục, mạnh và đau. Anh đang mửa ra hơi nóng.
Tôi muốn quay trở lại!
Langdon có cảm giác mình là một đứa trẻ vừa sinh ra từ bụng mẹ.
Anh cứ co giật, ho khạc chất lỏng, ngực và cổ nhức buốt, nhức gớm ghê, họng thì bỏng rát. Người ta đang nói chuyện, cố giữ ở mức thì thầm, nhưng nghe vẫn đinh tai nhức óc. Langdon chưa nhìn rõ, chỉ thấy xung quanh toàn những hình thù câm lặng. Da anh tê dại như da chết. Ngực anh bị đè nặng hơn... sức ép. Mình ngạt thở quá!
Langdon khạc thêm một chút chất lỏng. Cơn buồn nôn trào lên, anh cố hít ngược lại. Không khí lạnh theo đó tràn đầy phổi, Langdon tưởng đâu mình là đứa trẻ sơ sinh đang hít lấy hơi thở đầu tiên. Thế giới này thật đau khổ. Anh chỉ muốn quay trở lại nơi anh vừa sinh ra.
Chẳng biết thời gian trôi qua lâu hay chóng, Langdon nhận thấy mình đang nằm nghiêng trên sàn nhà cứng, người quấn trong chăn và khăn bông. Một gương mặt quen thuộc đang nhìn xuống anh... nhưng không còn quầng sáng chói loà nào nữa. Những tiếng lầm rầm xa xăm như cầu kinh vẫn vơ vẩn trong tâm trí anh.
Verbum significatium... Verbum omnificum...
- Giáo sư Langdon, - ai đó thì thào - ông có biết mình đang ở đâu không?
Langdon yếu ớt gật đầu, và vẫn ho sù sụ.
Nhưng quan trọng là, anh bắt đầu thông suốt chuyện gì đã diễn ra tối nay.
Chú thích:
(100) Lực G của một vật là gia tốc của nó so với khi rơi tự do.
Chương 113
Quấn mình trong mớ chăn len. Langdon đứng trên đôi chân run run, chòng chọc nhìn cái bể chất lỏng mở toang. Cơ thể đã trở về với anh, mặc dù anh chẳng ước ao điều đó. Cổ họng và phổi anh bỏng rát. Thế giới nghiệt ngã và tàn bạo biết bao!
Sato vừa giải thích về loại bể tiết chế cảm giác, và nói thêm nếu bà không lôi anh ra ngoài thì anh sẽ chết đói hoặc thậm chí còn tệ hơn.
Langdon tin chắc Peter cũng đã nếm trải tình cảnh tương tự. Peter đang ở quãng giữa, lúc chập tối gã đàn ông xăm trổ có nói với anh như vậy ông ấy đang ở luyện ngục... Hamistagan. Nếu Peter phải trải qua vài lần tái sinh kiểu này thì Langdon không lấy gì làm ngạc nhiên khi ông tiết lộ cho kẻ bắt giữ mình mọi điều gã hỏi.
Sato ra hiệu cho Langdon đi cùng bà, và anh tuân theo, chậm rãi lê bước tới một sảnh hẹp, nằm sâu hơn trong cái hang ổ dị hợm chưa từng thấy này. Họ tiến vào một gian phòng vuông vức tràn ngập ánh đèn màu kỳ quái, giữa phòng kê một chiếc bàn đá. Trông thấy Katherine, mặc dù tình trạng của cô còn rất thê thảm, Langdon vẫn thở phào nhẹ nhõm.
Katherine nằm ngửa trên chiếc bàn đá, dưới sàn vương vãi toàn khăn bông đẫm máu. Một đặc vụ CIA đang giơ cao túi dịch với ống truyền nối vào tay Katherine.
Cô đang thổn thức.
- Katherine? - Langdon khó nhọc gọi.
Katherine ngoảnh đầu ra, vẻ ngơ ngác và bối rối.
- Robert đấy à? - Cô mở to mắt, thoạt tiên ngỡ ngàng và sau đó là phấn khởi - Nhưng... em nhìn thấy anh chết đuối rồi mà!
Langdon tiến lại phía bàn đá.
Katherine cố nhấc mình ngồi lên, mặc kệ ống truyền dịch và vẻ bực bội của anh chàng đặc vụ. Langdon tới bên cái bàn, Katherine vươn người ra, vòng hai tay ôm cả Langdon lẫn tấm chăn quấn của anh và siết thật chặt.
- Ơn Chúa, - cô thì thầm, hôn lên má Langdon. Rồi cô lại hôn và siết chặt anh thêm lần nữa như không tin anh tồn tại thật - Em không hiểu... làm thế nào...
Sato xen vào, giải thích về loại bể tiết chế cảm giác và perfluorocarbon oxy hoá, nhưng rõ ràng Katherine chẳng hề lắng nghe. Cô chỉ ôm Langdon thật chặt.
Rồi nhớ lại cảnh đoàn tụ hãi hùng với Peter, cô run run nói:
- Robert, anh Peter còn sống.
Cô miêu tả tình trạng sức khỏe của ông, chiếc xe lăn, con dao kỳ lạ, những lời ám chỉ một sự "hy sinh", và việc gã kia bỏ lại cô trong tình trạng chảy máu làm đồng hồ sống nhằm ép Peter phải hợp tác thật nhanh.
Langdon không đưa ra bình luận nào.
- Em có... biết họ đi... đâu không?
- Gã nói sẽ đưa anh Peter tới ngọn núi thiêng.
Langdon bứt ra và nhìn Katherine chằm chằm.
Mắt cô vẫn còn đẫm lệ.
- Gã nói đã giải mã được đồ hình dưới đáy kim tự tháp, và đáp án cho biết phải tới ngọn núi thiêng.
- Giáo sư, - Sato thúc giục - chi tiết đó có ý nghĩa gì với ông không?
Langdon lắc đầu.
- Không hề - song anh vẫn thấy le lói hy vọng - Nhưng nếu hắn có thông tin từ đáy kim tự tháp thì chúng ta cũng có thể có. Mình chỉ cho gã cách giải mà.
Sato lắc đầu.
- Kim tự tháp không còn ở đây nữa. Chúng tôi đã tìm. Hắn mang theo mình rồi.
Langdon im lặng, nhắm mắt và" cố hồi tưởng bảng biểu tượng ở đế tháp. Cái bảng ấy là một trong những hình ảnh cuối cùng anh nhìn thấy trước khi chết đuối, song chấn thương có thể xoá bỏ ký ức nằm sâu trong trí não. May lắm anh chỉ nhớ được một phần đồ hình chứ không phải tất cả, nhưng có lẽ thế cũng đủ rồi chăng?
Anh quay sang Sato và nói nhanh:
- Tôi có thể nhớ ra, nhưng tôi cần bà tìm giúp một thứ trên Internet.
Sato rút chiếc Blackberry.
- Hãy tìm kiếm cụm "ô vuông Franklin bậc tám"!
Sato sửng sốt nhìn anh, nhưng vẫn nhập các từ vào mà không hỏi han thêm.
Vì mắt vẫn mờ, đến tận lúc này Langdon mới bắt đầu quan sát không gian lạ lùng quanh mình. Anh nhận ra chiếc bàn đá mà họ đang dựa vào có rất nhiều vết máu cũ, bức tường bên phải dán toàn văn bản, ảnh, hình vẽ, bản đồ và một mạng lưới các sợi dây kết nối chúng với nhau.
Chúa ơi!
Vẫn quấn chặt mình trong tấm chăn, Langdon tiến về phía tác phẩm cắt dán lạ mắt nọ. Đính trên tường là một tập hợp thông tin kỳ cục những trang văn bản cổ, từ ma thuật tới Kinh thánh Thiên Chúa giáo, hình vẽ các biểu tượng và dấu ấn, trang in các website, ảnh vệ tinh Washington D.C. kèm theo những chú thích và dấu chấm hỏi nguệch ngoạc. Trong đó có một danh sách từ ngữ dài thượt thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau. Anh nhận ra một vài từ là thánh ngữ của Hội Tam điểm, một số khác là các từ ngữ ma thuật cổ xưa, và cả các từ trong những câu thần chú hành lễ.
Phải chăng đó là những gì hắn đang tìm kiếm?
Một từ?
Đơn giản vậy thôi ư?
Lâu nay, lý do chủ yếu khiến Langdon nghi ngờ tính xác thực của Kim tự tháp Tam điểm chính là bởi ai cũng cho rằng nó tiết lộ vị trí của những Bí mật Cổ xưa. Tiết lộ này lại liên quan đến một căn hầm khổng lồ chứa hàng ngàn hàng vạn cuốn sách không hiểu sao vẫn tồn tại được trong khi các thư viện lưu giữ chúng ngày xưa đã tuyệt tích từ lâu. Câu chuyện nghe chừng phi lý. Căn hầm nào mà lớn đến vậy? Lại nằm dưới lòng Thủ đô nước Mỹ nữa chư? Tu nhiên, nhớ đến bài giảng của Peter ở Phillips Exeter, kết hợp với danh sách từ ngữ huyền bí trên tường, Langdon chợt phát hiện một khả năng đáng chú ý khác.
Anh hoàn toàn không tin vào sức mạnh của các từ ngữ ma thuật... nhưng hiển nhiên là gã đàn ông xăm trổ kia rất tin. Langdon nhìn lướt các chú thích nguệch ngoạc, bản đồ, văn bản, bản in, cùng tất cả những sợi dây liên kết và giấy ghi nhớ.
- Thế là đủ có một chủ đề xuyên suốt ở đây.
Lạy Chúa, hắn đang tìm verbum significatium... Từ Còn Thiếu.
Langdon để cho suy nghĩ định hình, nhớ lại các phần bài giảng của Peter. Từ Còn Thiếu chính là thứ hắn đang tìm kiếm, là thứ hắn tin rằng được chôn giấu tại Washington.
Sato đến bên cạnh anh.
- Ông cần thông tin này phải không? - Bà đưa chiếc Blackberry ra.
Langdon nhìn ma trận vuông mỗi chiều tám số trên màn hình.
- Chính xác - Anh vớ lấy một mẩu giấy - Tôi mượn cái bút.
Sato đưa cho anh cây bút trong túi bà.
- Xin hãy khẩn trương lên?
***
Dưới tầng hầm, trong văn phòng Ban giám đốc Khoa học và Công nghệ, Nola Kaye nghiên cứu lại bản tài liệu tự soạn được chuyên gia an ninh hệ thống Rick Parrish mang tới. Giám đốc CIA làm quái gì với tệp tin về kim tự tháp cổ và những địa điểm ngầm nhỉ? Cô vớ điện thoại và quay số.
Sato bắt máy ngay, giọng đầy căng thẳng.
- Nola, tôi vừa định gọi cho cô.
- Tôi có thông tin mới đây - Nola báo - Chưa biết thứ này có phù hợp không, nhưng tôi vừa phát hiện ra một tài...
- Gác lại đi, cho dù nó là gì, - Sato ngắt lời - Chúng ta không còn thời gian. Mục tiêu đã tẩu thoát, và tôi có đủ lý do tin rằng hắn sắp thực hiện lời đe doạ của mình.
Nola cảm thấy ớn lạnh.
- Tin tốt lành là chúng tôi biết chính xác hắn đi đâu - Sato hít một hơi thật sâu - Tin xấu là hắn mang theo một máy tinh xách tay.
Chương 114
Cách đó chưa đầy mười dặm, Mal'akh kéo tấm chăn phủ quanh người Peter Solomon và đẩy ông băng qua bãi đỗ xe ngập ánh trăng để vào vùng bóng tối của một toà nhà đồ sộ. Công trình này có ba mươi ba cây cột ở bên ngoài... mỗi cột cao đúng ba mươi ba feet Hiện giờ quanh đây hoàn toàn vắng lặng, không ai nhìn thấy họ quay trở lại cả. Mà có cũng chẳng sao. Ai lại bận tâm nhiều về một người đàn ông cao lớn, lịch thiệp mặc áo choàng dài màu đen đưa một người tàn tật hói đầu đi dạo vào buổi tối cơ chứ.
Tới lối cửa hậu, Mal'akh đẩy Peter lại gần bảng khoá điện tử. Peter nhìn bàn phím vẻ thách thức, rõ ràng không có ý định nhập mã.
Mal'akh cười:
- Ông tưởng ông đến đây để giúp tôi vào trong à? Tôi là một huynh đệ của ông cơ mà, sao ông quên nhanh thế? - Gã vươn tay và nhập mã truy cập được phát sau lễ nhập môn lên cấp độ 33.
Cánh cửa nặng nề bật mở.
Peter gầm gừ và bắt đầu vùng vẫy trên xe lăn.
- Peter, Peter, - Mal'akh thủ thỉ - Hãy nhớ đến Katherine. Hãy hợp tác và cô ấy sẽ sống. Ông có thể cứu được cô ấy. Tôi thề đấy.
Mal'akh đẩy nạn nhân của gã vào trong và khoá cửa lại sau lưng, tim đập rộn ràng vì hi vọng. Gã đưa Peter qua vài hành lang, tới một cầu thang máy và ấn nút. Cửa mở ra. Mal'akh giật lùi vào trong, kéo theo chiếc xe lăn. Gã vươn tay và ấn nút trên cùng, cố ý để Peter nhìn rõ hành động của mình, vẻ kinh sợ cùng cực thoáng hiện trên gương mặt đau đớn của người đàn ông.
- Suỵt - Mal'akh thì thào, nhẹ nhàng xoa cái đầu nhẵn thín của Peter trong khi cửa thang máy đóng lại - ông biết đấy... bí mật là chết như thế nào mà.
***
Mình không thể nhớ được tất cả các biểu tượng!
Langdon nhắm mắt lại, cố gắng hồi tưởng vị trí chính xác của từng biểu tượng ở đáy kim tự tháp, nhưng ngay cả trí nhớ thị giác của anh cũng chưa đạt được mức độ ấy. Anh ghi lại vài biểu tượng còn nhớ được sắp xếp chúng vào vị trí tương ứng theo chỉ dẫn của ma phương Franklin.
Tuy nhiên, anh vẫn chưa phát hiện điều gì có nghĩa.
ẢNH
- Xem kìa! - Katherine hối thúc - Anh đang đi đúng đường rồi đấy.
Hàng đầu tiên đều là chữ cái Hy Lạp, suy ra các biểu tượng cùng loại được sắp xếp bên nhau!
Langdon cũng nhận ra quy tắc đó, nhưng anh không tìm được từ Hy Lạp nào phù hợp với cấu trúc chữ cái và ô trống này. Mình cần ký tự đầu tiên. Anh lại liếc nhìn ma phương, cố gắng nhớ ra chữ cái nằm ở vị trí số 1 gần góc bên trái phía dưới. Nghĩ xem nào. Anh nhắm mắt, thử hình dung đế kim tự tháp. Hàng dưới cùng... cạnh góc bên trái... chữ gì ở đó nhỉ? Nhất thời, Langdon quay trở lại cái hòm, hoảng loạn ghê gớm, đăm đăm nhìn phần đáy kim tự tháp qua ô kính Plexiglas.
Đột nhiên, anh nhìn ra. Anh mở mắt, thở dốc.
- Chữ cái đầu tiên là Ή.
Langdon quay lại đồ hình và viết chữ cái đầu tiên. Từ ngữ vẫn chưa hoàn chỉnh, nhưng anh đã thấy đủ. Anh chợt nhận ra đó là từ gì.
Ήερεδομ
Tim đập thình thịch, Langdon gõ một lệnh tìm kiếm mới vào chiếc Blackberry. Anh nhập từ tiếng Anh tương đương của từ Hy Lạp nổi tiếng kia. Kết quả đầu tiên là một mục từ bách khoa toàn thư. Anh đọc và biết rằng chính là thứ mình đang tìm.
HEREDOM dt. Một từ quan trọng trong
Hội Tam điểm "cấp cao" xuất hiện trong sách
nghi lễ của tổ chức Thập tự Hoa hồng Pháp
để chỉ một ngọn núi huyền thoại ở Scotland,
nơi đặt cơ sở Tăng hội đầu tiên. Heredom
được dịch từ Ήερεδομ trong tiếng Hy Lạp,
nguyên gốc là Hieros-domos, nghĩa là Thánh điện.
- Đúng rồi! - Langdon sửng sốt kêu lên - Đó chính là nơi họ đến.
Sato đang đọc nội dung qua vai anh, nghe vậy liền lộ vẻ ngơ ngác.
- Đến ngọn núi huyền thoại ở Scotland à?
Langdon lắc đầu.
- Không, tới một toà nhà ở ngay Washington, có tên gọi mã hoá là Heredom.
Chương 115
Thường được các huynh đệ biết đến bằng tên gọi Heredom, Thánh điện Hội Tam điểm luôn là chiếc vương miện của chi phái Scottish Rite ở Hoa Kỳ. Với phần mái hình kim tự tháp dốc tuột, toà nhà này được đặt theo tên một ngọn núi tưởng tượng ở Scotland. Tuy nhiên, Mal'akh biết rằng kho báu cất giấu tại đây hoàn toàn không phải chuyện tưởng tượng.
Chính là nơi này, gã biết như vậy. Kim tự tháp Tam điểm đã chỉ đường.
Khi chiếc thang máy cũ kỹ từ từ leo tới tầng ba, Mal'akh rút ra một mảnh giấy, trên đó vẽ đồ hình biểu tượng gã vừa sắp xếp lại nhờ sử dụng Ma phương Franklin. Tất cả các chữ cái Hy Lạp được chuyển lên hàng đầu tiên... cùng với một ký hiệu đơn giản.
ẢNH
Bức thông điệp rõ ràng tới mức không thể rõ ràng hơn được.
Ngay bên dưới Thánh điện.
Heredomâ
Từ Còn Thiếu ở đâu đó... quanh đấy.
Mặc dù Mal'akh chưa biết cụ thể làm cách nào xác định được nó, nhưng gã tự tin rằng câu trả lời nằm trong các biểu tượng còn lại của đồ hình. Thật tiện lợi là chính Peter Solomon sẽ có mặt hỗ trợ khi gã phá giải những bí mật của Kim tự tháp Tam điểm cũng như của toà nhà này. Không một ai thích hợp hơn ông. Đích thân Đại Huynh trưởng.
Peter tiếp tục vùng vẫy trên xe lăn, âm thanh tắc nghẹn bật ra qua nắm giẻ nhét trong miệng.
- Tôi biết ông lo lắng cho Katherine, - Mal'akh vỗ về - Nhưng cũng gần kết thúc rồi.
Với gã, dường như hồi kết đến thật đột ngột. Sau bao nhiêu năm đau đớn lên kế hoạch, chờ đợi và tìm kiếm... giờ đây thời khắc ấy đã đến.
Thang máy chạy chậm dần, Mal'akh cảm thấy vô cùng phấn khích.
Khoang thang máy giật mạnh và dừng lại.
Cánh cửa bằng đồng trượt mở, Mal'akh nhìn ra gian buồng rộng thênh thang trước mắt. Căn phòng hình vuông, rộng rãi, trang trí đầy những biểu tượng và ngập trong ánh trăng chiếu xuống qua mắt vòm ở đỉnh trần nhà cao vút phía trên.
Ta đã trở lại điểm xuất phát! Mal'akh nghĩ.
Phòng Thánh lễ chính là nơi Peter Solomon và các huynh đệ của ông dại dột kết nạp Mal'akh vào hàng ngũ của họ. Giờ đây, bí mật tối thượng của Hội Tam điểm, bí mật mà hầu hết các huynh đệ đều không tin là tồn tại, sắp vỡ lở hết rồi.
***
- Hắn sẽ không tìm thấy gì đâu - Langdon nói trên đường theo Sato và những người khác ngược lên lối dốc bằng gỗ để ra khỏi gian hầm. Anh vẫn thấy mất phương hướng, bước đi còn loạng choạng - Không có Từ ngữ thật sự đâu. Nó chỉ là một ẩn dụ, một biểu tượng của những Bí mật cổ xưa.
Katherine theo sau, hai đặc vụ đỡ cô leo lên dốc.
Cả nhóm thận trọng bước qua tàn tích của cánh cửa thép, qua bức tranh xoay tròn và tiến vào phòng khách. Langdon giải thích với Sato rằng Từ Còn Thiếu là một trong những biểu tượng lâu đời nhất của Hội Tam điểm, chỉ có một từ thôi, viết bằng thứ ngôn ngữ bí hiểm tới mức ngày nay không ai dịch nổi nữa. Từ ngữ ấy, cũng như chính các Bí mật, hứa hẹn tiết lộ sức mạnh tiềm ẩn bên trong cho những người đã được khai sáng đủ để giải mã nó.
- Người ta nói rằng, - Langdon kết luận - ai sở hữu và hiểu được Từ Còn Thiếu... thì những Bí mật cổ xưa sẽ trở nên sáng tỏ với người đó.
Sato liếc mắt lại.
- Ông cho rằng gã này đang tìm kiếm một từ ngữ à?
Langdon phải thừa nhận rằng giả thuyết nghe chừng phi lý nếu xét ở giá trị bề mặt, nhưng nó lại giải đáp được rất nhiều câu hỏi.
- Tôi không phải là một chuyên gia về ma thuật nghi lễ - anh đáp - nhưng theo mớ tài liệu trên các bức tường ở tầng hầm nhà hắn... tôi có thể nói rằng hắn đang hy vọng tìm ra Từ Còn Thiếu và vẽ nó lên cơ thể mình.
Sato dẫn cả nhóm về phía phòng ăn. Bên ngoài, chiếc trực thăng đang khởi động, cánh quạt phành phạch càng lúc càng to.
Langdon vẫn lẩm bẩm.
- Nếu gã này thực sự tin rằng hắn sắp mở khoá sức mạnh của những Bí mật cổ xưa thì trong tư duy của hắn, không biểu tượng nào hiệu nghiệm hơn Từ Còn Thiếu. Chắc hắn nghĩ tìm ra nó và vẽ nó lên vị trí thiêng liêng như đỉnh đầu thì coi như hắn đã được trang điểm hoàn hảo và về mặt nghi thức, đã sẵn sàng... - Anh ngừng lại, nhìn Katherine. Cô đang tái nhợt trước ý nghĩ về số phận trứng treo đầu đẳng của Peter.
- Nhưng... anh Robert, - cô yếu ớt nói, giọng phập phù trong tiếng ầm ầm của cánh quạt trực thăng - Đây là tin tốt phải không? Nếu hắn muốn vẽ Từ Còn Thiếu lên đỉnh đầu trước khi hắn hy sinh Peter thì chúng ta vẫn còn thời gian. Hắn phải tìm thấy Từ ấy rồi mới giết Peter. Nên nếu không có Từ ấy...
Các đặc vụ đỡ Katherine ngồi xuống ghế. Langdon gắng tỏ vẻ hy vọng.
- Tiếc thay, Peter vẫn tưởng em đang chảy máu đến chết. Ông ấy cho rằng cách duy nhất để cứu em là hợp tác với gã điên... giúp hắn tìm Từ Còn Thiếu.
- Vậy thì sao? - Katherine bướng bỉnh - Nếu Từ Còn Thiếu không tồn tại...
- Katherine, - Langdon nhìn sâu vào mắt cô - Nếu anh tin rằng em đang chết dần, và nếu ai đó hứa với anh rằng anh có thể cứu em bằng cách tìm ra Từ Còn Thiếu, thì anh sẽ tìm cho hắn một từ, bất kỳ từ gì, rồi sau đó cầu Chúa để hắn giữ lời hứa.
***
- Giám đốc Sato? - một đặc vụ hét to từ phòng bên - Bà nên xem thứ này!
Sato vội vã ra khỏi phòng ăn. Một đặc vụ đang đi từ phía cầu thang phòng ngủ xuống, mang theo một bộ tóc giả màu vàng. Cái quái gì thế?
- Tóc người, - anh ta nói, trao nó cho Sato - Tìm thấy trong phòng thay quần áo. Xin hãy nhìn kỹ vào.
Bộ tóc giả màu vàng nặng hơn Sato nghĩ. Phần chỏm dường như được tạo hình bằng một thứ keo đặc. Lạ là mặt bên dưới của bộ tóc có một sợi dây thò ra.
- Loại pin keo gắn vào lớp da đầu - đặc vụ giải thích - để chạy một máy quay sợi quang bé bằng đầu tăm giấu trong tóc.
- Sao cơ? - Sato sờ khắp bộ tóc, cuối cùng tìm thấy ống kính máy quay nhỏ xíu giấu kín lẩn trong phần tóc ngang trán - Đây là máy quay à?
- Máy quay video, - đặc vụ nói - Lưu trữ các đoạn phim bằng cái thẻ bán dẫn nhỏ xíu này - Anh ta chỉ vào một mẩu silicon cỡ bằng con tem dính chặt vào lớp da đầu - Có lẽ kích hoạt bằng cử động.
Lạy Chúa, Sato nghĩ thầm. Hoá ra đây là cách hăn thực hiện việc đó! Loại máy quay bí mật kiểu "bông hoa trên ve áo" này đóng vai trò then chốt trong cuộc khủng hoảng mà giám đốc OS phải đối mặt tối nay. Bà đăm đăm nhìn nó hồi lâu và trao lại cho người đặc vụ.
- Tiếp tục lục soát căn nhà - bà ra lệnh - Hễ tìm được thông tin gì về gã này thì báo cho tôi ngay. Máy tính xách tay của gã đã biến mất, và tôi muốn biết trong khi di chuyển gã định kết nối nó với thế giới bên ngoài ra sao. Hãy lục soát phòng làm việc xem có cẩm nang hướng dẫn, dây cáp hay bất kỳ thứ gì cung cấp manh mối về phần cứng của hắn không.
- Vâng, thưa bà - Anh chàng đặc vụ vội vã đi ra.
Thời gian đang cạn dần. Sato nghe rõ cánh quạt trực thăng quay ầm ầm ở tốc độ cao nhất. Bà vội vã trở lại phòng ăn, Simkins vừa dẫn Warren Bellamy từ máy bay vào và hỏi thêm thông tin về toà nhà mà họ tin là đích đến của đối tượng.
Thánh điện Hội Tam điểm.
- Cửa trước bị khoá trái - Bellamy nói, vẫn co ro trong tấm chăn và run lẩy bẩy từ lúc ở ngoài Quảng trường Franklin - Cửa sau toà nhà là lối duy nhất để các anh lọt vào. Nó có khoá điện tử, chỉ các huynh đệ biết mã PIN mới đi qua được.
- PIN là bao nhiêu? - Simkins hỏi, tay ghi chép luôn.
Bellamy ngồi xuống, trông yếu đến nỗi không đứng nổi. Ông đọc mã truy nhập của mình, hai hàm răng va vào nhau lập cập, và nói thêm:
- Địa chỉ là 1733 Phố 16. Nếu cần lái thẳng đến tận nơi và tìm chỗ đỗ thì ở sau toà nhà ấy. Phải khôn khéo một chút mới tìm được, nhưng...
- Tôi biết chính xác vị trí - Langdon lên tiếng - Tôi sẽ chỉ chỗ khi chúng ta tới đó.
Simkins lắc đầu.
- Ông không đi được, giáo sư ạ. Đây là một vụ quân sự...
- Thế quái nào mà tôi không đi được? - Langdon vặc lại - Peter đang ở đó. Toà nhà lại là một mê cung. Không có người dẫn đường, các vị sẽ mất đến mười phút để tìm được lối lên Phòng Thánh lễ!
- Anh ấy nói đúng đấy - Bellamy xác nhận - Thánh điện là một mê cung. Có thang máy, nhưng nó cũ và rất ồn, lại mở thẳng vào Phòng Thánh lễ. Nếu các vị định tiếp cận một cách lặng lẽ, thì nên dùng thang bộ.
- Các vị sẽ không tìm được lối đi đâu, - Langdon cảnh báo - Từ cửa hậu, các vị còn phải qua Sảnh Biểu chương, Sảnh Nghi thức, chiếu nghỉ giữa, Cửa chính, Cầu thang lớn...
- Được rồi, - Sato lên tiếng - ông Langdon sẽ đi cùng.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top