BIEN CHUNG LUAN TRI

Học thuyết tạng phủ: Tạng can

1. Chức năng của can:

 Can là tạng phong mộc, chứa giữ được huyết hữu hình, lại có thể sơ tiết được khí vô hình. Lấy huyết làm thể, lấy khí làm dụng. Tính chủ thăng phát, thích điều đạt, cần được sơ tiết. Chí là giận, chủ việc mưu lự, tàng hồn, là gốc của sự bại cực. Trong chứa tướng hoả, thông với phong khí. Đường kinh mạch đi qua âm bộ, đến bụng  dưới, phân bố ở hai bên sườn, lên đỉnh đầu.

1.1.  Can chủ sơ tiết:

Sơ tiết là sự thư thái, thông xướng, còn gọi là sự “điều đạt”. Can khí chủ sơ tiết giúp cho khí của các tạng được vận hành dễ dàng thông suốt, thăng giáng được điều hoà. Can khí sơ tiết kém sẽ có những biểu hiện bệnh lý, đặc biệt ở tình chí và tiêu hoá:

- Về tình chí: Chí của can là giận. Can hoả thịnh thì tính nóng, dễ giận, hay cáu gắt.

- Về tiêu hoá: Sự sơ tiết của can ảnh hưởng đến sự thăng giáng của tỳ vị. Nếu can khí uất kết hay can khí hoành nghịch có thể thấy các chứng đau mạng sườn, đau thượng vị, ăn kém, ợ hơi, ợ chua, ỉa lỏng, gọi là chứng “can tỳ bất hoà”  hay “can vị bất hoà”.

1.2. Can chủ tàng huyết:

Tức là tàng trữ và điều tiết lượng huyết trong cơ thể. Lúc nghỉ ngơi nhu cầu huyết dịch ít thì huyết được tàng trữ về can. Khi hoạt động can lại bài xuất huyết dự trữ để cung cấp kịp thời cho cơ thể. Khi chức năng tàng huyết của can bị rối loạn thì sẽ ảnh hưởng đến các tạng phủ khác và sinh các chứng bệnh như:

- Can huyết hư: thì mặt vàng môi nhạt, móng không tươi, chóng mặt, tóc rụng, tay chân tê, gân thịt máu dật, gầy rộc, chất lưỡi nhợt, mạch tế.

- Can huyết ứ: thì sườn đau như đâm, dưới sườn có khối đầy.

1.3. Các chức năng khác:

- Can chủ mưu lự: Bệnh can thì hay nghĩ, hay lo xa, nghĩ vớ vẫn.

- Can là gốc của sự bại cực: can bệnh thì mệt sức không chịu được khó nhịn.

- Can tàng hồnhồn không tàng thì mất ngủ, hay mê, dễ kinh sợ.

- Trong can chứa tướng hoả: hoả nghịch lên thì đầu chướng, mặt nóng, mắt đỏ, miệng khô đắng.

- Can thông với phong khíCan dương cang lên, nhiệt nhiều huyết hư thì có thể sinh phong, xuất hiện chứng chóng mặt chân tay tê, co giật, lưỡi run.

1.4. Kinh mạch:

Theo bộ vị kinh mạch tuần hành, có thể xuất hiện các chứng đau ở đỉnh đầu, ngực sườn, bụng dưới chướng đau tràng nhạc ở cổ, nách sa hòn dái, hòn dái sưng đau.

2. Quan hệ giữa các can với các tổ chức khí quan:

Can khai khiếu ra mắt, can chủ cân, móng là phần thừa của can. Mạch xung, mạch nhâm lệ thuộc vào can. Cho nên khi can bệnh thì có những biểu hiện sau:

2.1.  Khai khiếu ra mắt:

Âm huyết hư thì mắt khô ráp, trông không rõ, mắt quáng gà. Can hoả thì mắt đỏ sưng, chảy nước mắt.

2.2. Can chủ cân:

Cân là cân mạch gồm khớp, gân, cơ...phụ trách việc vận động của cơ thể. Can huyết đầy đủ cân mạch được nuôi dưỡng thì vận động tốt. Nếu can huyết hư không nuôi dưỡng được cân thì sẽ gây chứng tê bại, chân tay run co quắp, teo cơ, cứng khớp. Móng là phần thừa của cân nên móng có bệnh phần nhiều thuộc về huyết hư. Đầu gối là chỗ tụ của cân, cân bệnh thì đầu gối co duỗi khó khăn.

2.3. Mạch xung, mạch nhâm lệ thuộc ở can:

Mạch xung là huyết hải, mạch nhâm chủ về bào thai. Can lại là tiên thiên của nữ giới, cho nên hệ thống sinh dục của nữ giới có bệnh thì phần nhiều thuộc về can.

3.   Liên hệ giữa can với các tạng phủ:

Can với đởm là biểu lý, với tâm thận là tương sinh, với tỳ phế là tương khắc. Khi can có bệnh có thể xuất hiện như sau:

3.1.  Biểu lý với đởm:

- Đởm coi về tướng hoả: Hoả nghịch thì đầu chướng, mắt đỏ, họng khô, miệng đắng, hoàng đản, mộng tình (nói chung gọi là chứng can hoả). Hoả suy thì nuốt chua, nôn mửa lợm giọng.

- Đởm chủ việc quyết đoán: hư thì đởm khiếp, hay sợ, dễ kinh, nằm không yên.

- Đởm chủ về bán biểu, bán lý: nóng rét qua lại

- Theo đường tuần hành của kinh đởm: nếu có bệnh thì 2 tai nóng, điếc đột ngột, đau 1 bên đầu, đau sườn.

3.2. Tương sinh với tâm thận:

- Thận thủy không sinh can mộc: trước có chứng thận âm hư rồi xuất hiện chứng can âm hư.

- Can mộc không sinh tâm hoả: là can khí xung tâm, hoặc can khí nhiễu tâm, có thể xuất hiện các chứng ngực đầy khí đoản, nhiệt quyết, tâm thống. Can khí hư sau xuất hiện tâm hư.

3.3. Tương khắc với tỳ phế.

- Can mộc khắc tỳ thổ: Can khí vượng thì khắc chế tỳ vị thái quá mà xuất hiện triệu chứng của tỳ vị. Can khí hư thì mộc không sợ thổ, cũng sẽ xuất hiện triệu chứng của tỳ vị, không muốn ăn bụng chướng.

- Phế kim khắc can mộc: Đó là trước thấy bệnh của phế, sau thấy chứng trạng của can. Khi can hoả vượng cũng có thể ảnh hưởng đến phế, tức là mộc hoả hình kim, mộc gõ kim kêu. Xuất hiện chứng ho khan ít đàm, mặt, mắt sườn đau, thậm chí khạc máu.

4. Các triệu chứng bệnh can đởm:

4.1. Triệu chứng bệnh của can:

Thực: đau cạnh sườn lan đến bụng dưới, nôn nước chua, mạch huyền.

Hư: chóng mặt, đau đầu, mắt khô, quáng gà, cân mạch co, móng khô, sắc mặt vàng ải, tóc rụng, mạch tế.

Nhiệt: mắt sưng đau, miệng đắng, khát nước, đau cạnh sườn, đau sinh dục ngoài, đái máu, co giật, run, mạch huyền sác.

Hàn: đau bụng dưới, trưng hà, nôn đờm dãi, mạch trầm huyền.

4.2. Chứng trạng bệnh của đởm:

Thực: cáu gắt, ngực đầy, dưới sườn đau tức, ngủ nhiều, hoàng đản.

Hư: chóng mặt, hư phiền mất ngủ được, hay thở dài, hay giật mình.

Nhiệt: ù điếc tai, miệng đắng, đau cạnh sườn, hàn nhiệt vãng lai.

Hàn: không ngủ được, chóng mặt, nôn, rêu lưỡi hoạt cáu.

Học thuyết tạng phủ: Tạng tâm

1. Chức năng của tâm:

Tâm ở trong ngực, chủ về huyết mạch, tàng giữ thần minh, coi về tướng hoả, chí là mừng, khai khiếu ra lưỡi, sự tươi tốt ở mặt, thể dịch là mồ hôi. Đường mạch bắt đầu ở giữa tâm, đi xuống liên lạc với tiểu trường, đi ra dưới nách, theo phía trong cánh tay vào lòng bày tay. Thời đại Nội kinh cho rằng, tâm đã chủ huyết mạch, lại chủ thần minh là đã đem công của tâm và đại não hợp lại là một. Đời nhà Minh, Lý Diên có nói: “Có cái tâm của huyết thịt, hình như có cái hoa sen chưa nở ở dưới phế, trên can. Có cái tâm của thần minh, thần là cái gốc của khí huyết hoá sinh ra, chủ tể vạn sự, vạn vật, hư linh không tối là như vậy”. Đem tâm chia làm 2 bộ phận là tâm huyết nhục và tâm thần minh.

1.1. Tâm chủ huyết mạch:

Tâm khí thúc đẩy huyết dịch đi trong mạch để nuôi dưỡng toàn thân. Nếu tâm khí đầy đủ huyết dịch vận hành không ngừng thì cơ thể sẽ được nuôi dưỡng tốt, sắc mặt hồng hào. Trái lại, tâm khí không đủ thì ít khí, choáng váng, hồi hộp, mạch tế nhược, kết đại. Tâm huyết hư thì sắc mặt không tươi, nhịp mạch rối loạn. Tâm huyết vận hành bị trở tắc thì ngực đau, cánh tay đau nhức tê dại. Mồ hôi là dịch của tâm, nên tâm bệnh thì nhiều mồ hôi.

1.2. Tâm tàng thần:

Tâm là nơi cư trú của thần cho nên nói “tâm tàng thần”. Tâm khí và tâm huyết đầy đủ thì tinh thần sáng suốt, tỉnh táo. Tâm huyết hư thì thần không yên sinh các chứng đánh trống ngực, hồi hộp, mất ngủ, chóng quên. Tà nhiệt xâm nhiễm làm cho thần không giữ nguyên chỗ thì hôn mê nói sảng.

1.3. Tâm coi về tướng hoả:

Trong ngũ hành tâm thuộc hoả. Tâm hoả thịnh thì tâm phiền, mất ngủ, miệng lưỡi đỏ, hoặc loét nát, sưng đau, nặng thì phát cuồng. Tâm hoả suy hoặc khi bị hàn, dương khí uất kết lại ở trong, xuất hiện các chứng đau tim, mặt xanh, khí lạnh, tay chân lạnh đến khớp.

2 .  Quan hệ giữa tâm với các tổ chức khí quan khác.

2.1. Tâm khai khiếu ở lưỡi :

Biệt lạc của kinh tâm thông ra lưỡi, khí huyết của tâm đi ra lưỡi để duy trì sự hoạt động của chất lưỡi. Trên lâm sàng xem chất lưỡi để chẩn đoán bệnh ở tâm như: Chất lưỡi đỏ là tâm nhiệt. Chất lưỡi nhợt là tâm huyết hư. Chất lưỡi xanh có điểm ứ huyết là huyết ứ trệ.

2.2. Tâm biểu hiện sự hoạt động lên mặt:

Tâm hoạt động tốt thì sắc mặt tươi nhuận có thần, tâm bệnh thì mặt nhợt không nhuận, mất thần. 

3.  Tâm liên hệ với các tạng phủ khác:

3.1. Biểu lý với tiểu trường:

Tiểu trường có nhiệm vụ phân thanh giáng trọc. Thanh là chất tinh vi của đồ ăn được hấp thu ở tiểu trường thông qua sự vận hoá của tỳ. Trọc là chất cặn bã của đồ ăn được đưa xuống đại trường và bàng quang để thải ra ngoài. Khi tiểu trường bị bệnh thì việc phân thanh gián trọc bị trở ngại gây chứng: sống phân, ỉa chảy, tiểu tiện ít. Tâm di nhiệt vào tiểu trường thì không đi tiểu tiện, tiểu tiện nhỏ từng giọt, hoặc rít, hoặc đau, đầu lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác.

3.2.  Với phế cùng ở thượng tiêu:

Quan hệ giữa tâm với phế cũng như quân với tướng. Tức là sau khi tâm bệnh có thể ảnh hưởng đến phế, xuất hiện các chứng : khí đoản, xuyễn thở, ngực tức.

3.3. Với tâm bào lạc:

Là tổ chức bên ngoài bảo vệ tâm không cho tà khí xâm nhập vào tâm. Trên lâm sàng bệnh của tâm và của tâm bào lạc có những biểu hiện tương đồng. 

3.4. Tương sinh với can tỳ:

- Mộc vượng sinh hoả: can khí quá vượng làm cho tâm hoả cang thịnh.

- Mộc không sinh hoả: Trước bệnh can huyết hư, sau bệnh tâm huyết hư.

- Hoả không sinh thổ: Tâm dương không đủ, sau đó tỳ mất kiện vận.

3.5. Tương khắc với phế  thận:

- Hoả khắc kim: Tâm hoả cang thịnh đốt phế, làm cho phế mất thanh túc, phế nhiệt lá phổi khô, xuất hiện triệu chứng  phế nhiệt.

- Thủy khắc hoả: Trước có chứng thận hàn, tiếp đó thì xuất hiện chứng tâm dương không đủ. Hoặc thận âm không đủ. Thủy hoả không giúp đỡ nhau được, làm cho tâm hoả cang thịnh, đó là thủy không giúp hoả.

4. Các triệu chứng bệnh của tâm và tiểu trường:

4.1. Triệu chứng bệnh của tâm:

Thực: bồn chồn, nói sảng, cười nhiều, phát cuồng, không ngủ.

Hư: tim đập hồi hộp, mất ngủ, hay quên.

Nhiệt: tâm phiền, nói sảng, lưỡi nứt, đỏ.

Hàn: đau tim đột ngột, chân tay lạnh, mạch trầm trì.

4.2. Chứng trạng bệnh của tiểu trường:

Thực: đau bụng xuyên xuống tinh hoàn.

Hư: đái nhiều lần, đái són, đau bụng dưới, thích xoa.

Nhiệt: đái máu, đái đỏ, đau buốt khi đái.

Hàn: đái trong dài, ỉa chảy.

Học thuyết tạng phủ: Tạng TỲ

1. Chức năng của tỳ vị:

Tỳ vị ở vùng trung tiêu, tỳ chủ việc vận hoá cơm nước, vị chủ việc thu nạp thức ăn đồ uống. Tỳ khí có tính thăng lên, vị khí có tính giáng xuống. Hai cơ quan này cũng coi về khí trung tiêu, là gốc của hậu thiên, là gốc sinh hoá ra khí huyết. Tỳ ghét thấp, thống huyết.

1.1. Tỳ chủ việc vận hoá đồ ăn và thủy thấp:

- Vận hoá đồ ăn là sự tiêu hoá, hấp thu và vận chuyển chất tinh vi của đồ ăn. Thức ăn sau khi vào vị sẽ được vị chứa đựng và làm nhừ rồi đưa xuống tiểu trường. Tại đó, chất tinh vi của đồ ăn được tỳ hấp thu và chuyển lên phế, được phế đưa vào huyết mạch để rồi tâm đẩy huyết đem đi nuôi dưỡng toàn thân. Công năng vận hoá đồ ăn của tỳ gọi là“kiện vận”. Nếu tỳ mất kiện vận thì sinh các chứng rối loạn tiêu hoá: không muốn ăn, ăn khó tiêu, bụng chướng, tiết tả, bệnh lâu không ăn uống được là khí của hậu thiên muốn tuyệt.

- Vận hoá thủy thấp: tỳ đưa nước đến các tổ chức cơ thể để nuôi dưỡng, sau đó chuyển xuống thận rồi bàng quang để bài tiết ra ngoài. Như vậy việc đại tạ của nước trong cơ thể là do sự vận hoá của tỳ phối hợp với sự túc giáng của phế và sự khí hoá của thận. Sự vận hoá thủy thấp của tỳ kém sẽ gây chứng đàm ẩm, nước tràn ra tứ chi gây chứng phù thũng, xuống đại trường gây ỉa chảy, vào khoang bụng thành cổ trướng.

1.2. Tỳ chủ thống huyết:

Thống huyết nghĩa là quản lý, khống chế huyết. Sự kiện vận đồ ăn của tỳ là nguồn gốc sinh ra khí và huyết, nhưng tỳ còn thống huyết: Tỳ khí mạnh huyết sẽ đi trong mạch và được khí đẩy đi nuôi dưỡng khắp cơ thể. Còn tỳ khí hư không thống huyết thì huyết sẽ đi ra ngoài mạch gây hiện tượng xuất huyết như tiểu huyết, thổ huyết, băng lậu huyết...

1.3. Tỳ vị coi về trung khí:

Sự kiện vận của tỳ vị là gốc của hậu thiên, là gốc sinh hoá ra khí huyết của cơ thể, nên nói tỳ vị chủ về trung khí. Trên lâm sàng, công tác chẩn đoán và điều trị bệnh đều chú trọng đến sự thịnh suy của tỳ vị. Khí của tỳ vị gọi là trung khí hay vị khí dùng để tiên lượng sự tốt hay xấu của bệnh và dự kiến kết quả công tác điều trị. Người xưa nói: “Vị khí là gốc của con người”, “còn vị khí thì sống, hết vị khí thì chết”. Lý Đông Viên nói: “Nguyên khí sung túc, đều do khí của tỳ vị không bị tổn thương. Khi khí của tỳ vị đã tổn thương thì nguyên khí cũng không đầy đủ được, các bệnh do đó mà sinh ra”. Tác gia y đời sau tuân theo thuyết ấy coi trọng biện chứng về bệnh tỳ vị

1.4. Tỳ chủ cơ nhục và tứ chi:

Tỳ đem các chất tinh vi của đồ ăn đến nuôi dưỡng cơ nhục và tứ chi, nếu tỳ khí đầy đủ thì cơ nhục rắn chắc, tứ chi linh hoạt. Trái lại, nếu tỳ khí hư thì cơ nhục mềm yếu, gây các chứng thoát vị như sa trực tràng, sa sinh dục, sa dạ dày, tứ chi mỏi yếu sức, hoặc bại liệt thân mình nặng nề.

1.5. Theo đường tuần hành của kinh lạc:

Đường kinh của tỳ bắt đầu ở chân qua gối, đùi vào bụng, liên lạc với hai bên họng, tán ra dưới lưỡi. Đường kinh có bệnh thì có thể xuất hiện các chứng cổ sưng, bụng sưng, đầu gối đau, đùi đau. Vị kinh có bệnh thấy các chứng đau đầu vùng trán đau, họng đau, răng lợi sưng đau, mũi ra máu.

2. Quan hệ giữa tỳ với các tổ chức khí quan khác:

2.1. Tỳ khai khiếu ở miệng:

Khai khiếu ở miệng là nói về sự ăn uống, khẩu vị. Tỳ mạnh thì muốn ăn, ăn ngon miệng. Tỳ hư thì chán ăn. Thấp trở ở trong thì miệng nhạt, miệng dính nhờn, lưỡi bệu, rêu dày. Thấp nhiệt chứa đọng ở trong thì miệng ngọt, miệng thối, miệng lưỡi sinh lở.

2.2. Tươi tốt ở môi:

Tỳ chủ cơ nhục, lại khai khiếu ra miệng cho nên biểu hiện sự vinh nhuận ở môi. Tỳ mạnh thì môi hồng nhuận. Tỳ hư thì môi trắng bệch, tỳ nhiệt thì môi đỏ, môi nứt.

2.3. Tỳ khí nên thăng, vị khí nên giáng:

Tỳ khí không thăng thì sinh huyễn vững, tỳ khí hãm xuống dưới thì bụng chướng, bụng dưới chướng trụy, thoát giang. Vị mất hoà giáng thì ợ hơi, nôn mửa.

2.4. Tỳ ghét thấp:

Thấp trở ở trong thì vành mắt sưng, bụng chướng tiết tả, hoàng đản, thấp đọng thành nước tràn ra da thì thành phù thũng, đọng trong cơ thể thì thành ẩm. Hễ là thấp đọng ở trong trước tiên ảnh hưởng đến tỳ. Cho nên nội kinh nói: “Những chứng thấp phù, đầy đều thuộc về tỳ”. Trên lâm sàng khi điều trị bệnh do thấp đều phải kết hợp với kiện tỳ.

3. Quan hệ giữa tỳ với các tạng phủ:

Tỳ với vị là biểu lý, với tâm phế là tương sinh, với can thận là tương khắc.

3.1. Với vị là biểu lý:

Vị chứa đựng và làm nhừ đồ ăn rồi đưa xuống tiểu trường. Tỳ và vị có quan hệ biểu lý với nhau, cùng giúp cho sự vận hoá đồ ăn, nên gọi chung là “gốc của hậu thiên”.

Sự khác nhau giữa bệnh tỳ vị, thì từ thời xưa cho rằng: “Thực thì bệnh vị, hư thì bệnh tỳ”, tức là bệnh tỳ phần nhiều là chứng hư. Lấy khí hư là gốc, lưu thấp là ngọn. Bệnh vị phần nhiều là chứng thực. Tính vị thích nhuận mà ghét táo, khí nên hoà giáng. Khi có bệnh thì chính khí nghịch, thiếu tâm là thường thấy.

3.2. Tương sinh với tâm phế:

- Hoả không sinh thổ: Trước là tâm dương hư, sau xuất hiện chứng tỳ không kiện vận

- Thổ không sinh kim: Trước là tỳ nhược, sau là phế hư.

3.3. Tương khắc với can thận:

- Mộc khắc thổ: Trước bệnh can, sau xuất hiện chứng tỳ không kiện vận.

- Thổ khắc thủy: Trước xuất hiện bệnh tỳ, sau xuất hiện thận hư.

4. Các triệu chứng bệnh của tỳ vị:

4.1. Triệu chứng bệnh của tỳ:

Thực: Khí tích, thực tích, đàm ẩm, cổ trướng, bụng đầy đau.

Hư: Sắc mặt vàng xạm, chân tay mềm yếu, mệt mỏi, đoản hơi, lòi dom, ỉa chảy.

Nhiệt: môi đỏ, chốc mép, mồm ngọt, nước dãi đặc dính, bụng đau, ỉa khẳm.

Hàn: ăn không tiêu, bụng đau, ỉa chảy, chân tay lạnh, môi lưỡi nhạt, mạch trì.

4.2. Chứng trạng bệnh của vị:

Thực: bụng đầy đau, ợ chua, hơi nặng mùi, đại tiện kết.

Hư: môi lưỡi nhạt, không muốn ăn, nôn.

Nhiệt: mồm hôi, môi đỏ, loét mồm, ăn nhiều chóng đói, uống nhiều hay khát, bụng cồn cào, lợi sưng.

Hàn: dạ dày đau âm ỉ, nôn chất trong, môi lưỡi bệch, mạch trầm trì, thích nóng.

Học thuyết tạng phủ: Tạng phế

1. Chức năng của phế:

Phế ở trong ngực, chủ việc tuyên phát, túc giáng, ngoài chủ bì mao, khai khiếu ở mũi, trên liền với cuống họng, là nguồn trên của dòng nước. Đường kinh mạch bắt đầu ở trung tiêu, từ cuống phổi đi ngang ra dưới nách, theo cánh tay ra đầu chót ngón tay cái. Cùng biểu lý với đại trường.

1.1. Phế chủ khí, chủ hô hấp:

- Phế là nơi trao đổi khí: hít thanh khí, thải trọc khí nên phế chủ hô hấp.

- Phế chủ khí vì phế có liên quan đến tông khí, tông khí được tạo thành do khí của đồ ăn từ tỳ vị đưa lên hợp với khí trời do phế đưa vào, tông khí được đưa vào tâm mạch để đẩy huyết đi toàn thân nuôi dưỡng cơ thể.

- Phế khí bình thường thì hô hấp thông, hít thở bình thường. Phế khí hư thì thở ngắn, gấp, tiếng phát ra nhỏ yếu, khí úng thì làm cho xuyễn thở, ngực tức hoặc đau, khí nghịch thì sinh ho, nặng thì đứt lạc ho ra máu.

1.2. Phế chủ tuyên phát và túc giáng:

- Tuyên phát: có nghĩa là thúc đẩy. Sự tuyên phát của phế (gọi tắt là tuyên phế) là sự thúc đẩy khí huyết, tân dịch phân bố ra toàn thân, bên trong đi vào các tạng phủ kinh lạc, ngoài đi ra bì mao cơ nhục. Nếu phế khí không tuyên sẽ gây ứ trệ và có triệu chứng tức ngực, ngạt mũi, khó thở.

- Túc giáng: là đưa phế khí đi xuống (thuận). Nếu phế khí nghịch lên trên uất tại phế sẽ có triệu chứng khó thở, ho, xuyễn tức.

1.3. Phế chủ bì mao:

Bì mao là phần ngoài, nơi ngoại tà xâm nhập vào cơ thể. Nhờ sự tuyên phát của phế mà chất dinh dưỡng được đem đến cho bì mao. Vệ khí cũng tuyên phát ra bì mao để chống đỡ ngoại tà. Vì vậy khi có bệnh ở phần biểu thường thấy xuất hiện các triệu chứng ở vệ và phế phối hợp với nhau. Diệp Quế có nói: “Vị trí phế ở cao nhất, tà tất hại phế trước”, “ôn tà vào phần trên, đầu tiên là vào phế”. Cho nên ngoại cảm tà lục dâm thường trước là phạm vào phế, nhân đó mà xuất hiện chứng ngoại cảm. Nếu phế khí hư yếu không tuyên phát ra bì mao làm da lông khô ráp, lưa thưa, dẫn tới cơ năng bảo vệ của bì mao bị giảm cho nên dễ bị cảm ngoại tà.

1.4. Phế chủ thông điều thủy đạo:

Nhờ tác dụng tuyên phát và túc giáng của phế mà nước trong cơ thể được bài tiết bằng đường mồ hôi, hơi thở, nhị tiện nhưng chủ yếu bằng đường nước tiểu. Phế khí đưa nước tiểu xuống thận, ở thận nước tiểu được khí hoá 1 phần đưa xuống bàng quang để bài tiết ra ngoài. Phế khí không tuyên thông thì tiểu tiện không lợi. Trên lâm sàng bệnh phù thũng do phong thủy (viêm cầu thận do lạnh) được chữa bằng phương pháp tuyên phế lợi niệu.

1.5. Đường kinh:

Đường kinh mạch bắt đầu ở trung tiêu, từ cuống phổi đi ngang ra dưới nách, theo cánh tay ra đầu chót ngón tay cái. Khi bị bệnh có thể xuất hiện trong khuyết bồn đau, bả vai và cánh tay đau.

2. Quan hệ của phế với các tổ chức khí quan:

Phế khai khiếu ở mũi, hầu là cùng với phế. Cho nên phế bị bệnh có biểu hiện  sau:

2.1. Phế khai khiếu ở mũi:

Mũi là nơi thở của phế. Nếu phế khí bị trở ngại như cảm ngoại tà xâm nhập thì ngạt mũi, chảy nước mũi, cánh mũi phập phồng, nước mũi thối chảy ra.

2.2. Họng là giây phổi:

Phế thông với họng, chủ tiếng nói. Phế hư thì mất tiếng, bị hàn thì họng ngứa tiếng khàn; bị nhiệt thì họng đau, họng sưng; đàm trở thì họng như kéo cưa, hen xuyễn.

3. Sự liên hệ của phế với các tạng phủ:

Phế với đại trường là biểu lý, với tỳ thận là tương sinh, với tâm can là tương khắc.

3.1. Với đại trường là biểu lý:

Đại trường có chức năng chứa đựng và bài tiết chất cặn bã của đồ ăn. Nếu phế tân không phân bố được thì đại tiện khó đi.

3.2. Tương sinh với tỳ thận:

- Thổ không sinh kim : thì trước có chứng tỳ vị hư nhược, sau xuất hiện chứng phế hư

- Kim không sinh thủy: thì trước có chứng phế hư, sau có chứng thận âm không đủ.

3.3. Tương khắc với tâm can

- Kim khắc mộc: trước có chứng phế thực, sau có chứng can khí uất trệ

- Hoả khắc kim: trước có chứng can hoả bốc lên, rồi sau xuất hiện chứng phế nhiệt, đó gọi là “mộc hoả hình kim”.

Khi phế có bệnh thường thấy nóng rét với ho xuyễn làm chủ chứng như điều 16 sách Nạn kinh nói: “Bệnh thì xuyễn ho, rét run, nóng rét, có như thế là bệnh phế, không như thế là không phải”.

4. Các triệu chứng bệnh của phế và đại trường:

4.1. Triệu chứng bệnh của phế:

Thực: Đầy tức ngực, khó thở gấp, ho đờm đặc, ho mủ.

Hư: Thở yếu, tiếng nói nhỏ, da khô, sợ lạnh, ra mồ hôi (khí hư). Hoặc triều nhiệt, đạo hãn, ho máu (âm hư).

Nhiệt: sốt cao, cánh mũi phập phồng, mắt đỏ, họng đau, ho máu.

Hàn: sợ lạnh, chảy nước mũi, ho, khó thở, đờm loãng.

4.2. Chứng trạng bệnh đại trường:

Thực: ỉa khó, đau bụng cự án, trường ung.

Hư: ỉa khó (huyết hư); lòi dom, ỉa dễ, phân tự ra (khí hư).

Nhiệt: mồm khô, lưỡi khô, phân táo kết, hậu môm nóng, phân nóng thối khẳm.

Hàn: đau bụng, sôi bụng, ỉa lỏng.

Học thuyết tạng phủ: Tạng thận

1. Chức năng của thận:   

Thận thuộc thủy, nhận lấy âm tinh của ngũ tạng lục phủ mà tàng giữ lấy, là gốc của các tạng. Lại coi về tướng hoả, thứ hoả vô hình này đi khắp các tạng phủ mà không ngừng. Cho nên là tạng của thủy hoả. Thận tàng tinh chủ việc sinh dục, là gốc của tiên thiên, là rễ của cơ thể sinh trưởng phát dục. Lại chủ việc nạp khí, thận khí thịnh thì khoẻ, thận khí suy thì bệnh. Đường kinh mạch là từ chân đi lên đùi đi suốt xương sống. Vì trong thận là tàng trữ chân âm có cả chân dương, âm dương phối nhau, thủy hoả hỗ trợ nhau, nên tàng mà không tiết. Cho nên bệnh thận phần nhiều là bệnh hư.

1.1. Thận tàng tinh, chủ sinh dục và phát dục của cơ thể:

- Tinh của tiên thiên và hậu thiên đều được tàng trữ ở thận gọi là thận tinh. Tinh biến thành khí cho nên còn có thận khí. Thận tinh còn gọi là thận âm, thận thủy, nguyên âm, chân âm. Thận khí còn gọi là thận dương, thận hoả, nguyên dương, chân dương, mệnh môn hoả.

- Thận tinh và thận khí quyết định sự phát dục và sinh dục của cơ thể từ lúc nhỏ đên lúc già, như việc mọc răng, dậy thì, sinh sản, lão suy, cho nên nói thận là gốc của tiên thiên. Sách Nội kinh nói: “Con gái 7 tuổi thì thận khí thịnh răng thay, tóc dài, 14 tuổi thì thiên quý đến mạch nhâm thông với mạch xung cho nên thấy kinh. Khi được 7 thiên quý (7x7=49 tuổi) thì mạch nhâm yếu, mạch xung kém thiên quý cạn hết nên kinh nguyệt không còn, cơ thể yếu đuối. Con trai 8 tuổi thận khí thực thì tóc tốt, thay răng; 16 tuổi thì thận khí thịnh, thiên quý đến, tinh khí đầy; 24 tuổi thận khí điều hoà, thân thể cường tráng; 64 tuổi (8 thiên quý) thì thận khí suy kém tóc rụng, răng rụng, cơ thể suy yếu”. Trẻ con sau khi sinh thể chất mềm yếu, là thuộc thận hư, là tiên thiên không đủ. Ngoài ra như nam nữ có bệnh về sinh dục như liệt dương, tinh lạnh, di tinh, hoạt tinh, hành kinh trái thường, không có con, và phát dục không tốt cũng đều là bệnh thận.

- Thận âm và thận dương nương tựa vào nhau, chế ước lẫn nhaugiữ thế quân bình âm dương. Nếu thận hư mà không có hiện tượng hàn nhiệt thì gọi là thận tinh hư hay thận khí hư. Nếu có hiện tượng hư nhiệt (nội nhiệt) là do thận âm hư hay thận thủy hư, nếu có hiện tượng ngoại hàn là do thận dương hư hay thận hoả hư.

1.2. Thận chủ khí hoá nước:

Thận khí có chức năng khí hoá nước, tức là đem nước do đồ ăn uống đưa tới tưới cho các tổ chức cơ thể và bài tiết nước ra ngoài.

Sự đại tạ nước trong cơ thể do 3 tạng đảm nhiệm: Tỳ vận hoá thủy thấp, phế thông điều thủy đạo và thận khí hoá nước. Nước vào vị được tỳ vận hoá hấp thu đưa lên phế, phế túc giáng xuống thận, thận khi hoá nước đưa các chất trong trở lại phế để đi phân bố tàn thân, đồng thời đẩy chất đục xuốn bàng quang để thải ra ngoài.

1.3. Thận chủ nạp khí:

Không khí do phế hít vào được giữ lại ở thận gọi là thận nạp khí. Nếu thận hư không nạp được phế khí thì làm phế khí nghịch lên gây chứng ho hen, khó thở. Trên lâm sàng chữa chứng ho xuyễn ở người già bằng pháp bổ thận nạp khí.

1.4. Thận coi về hai đường đại tiểu tiện (nhị tiện):

- Tiền âm là nơi bài tiết nước tiểu, bộ phận sinh dục. Thận chủ khí hoá và bài nước tiểu và sự sinh dục nên gọi thận chủ tiền âm. Thận hư hay gặp chứng đi tiểu luôn về ban đêm ở người già, đái dầm ở trẻ em, di tinh, mộng tinh ở nam giới, ra khí hư ở phụ nữ...

- Hậu âm là nơi đại tiện do tạng tỳ đảm nhiệm, nhưng tỳ dương được thận khí hoá để bài tiết phân nên còn gọi thận chủ hậu âm. Nếu thận khí hư hay gặp chứng đại tiện lỏng hoặc táo ở người già.

- Hậu âm và tiền âm là đại tiện và tiểu tiện nên thận chủ về nhị tiện.

2. Thận quan hệ với các tổ chức khí quan khác:

Thận chủ về xương, sinh tuỷ, làm đầy cho não, thận khai khiếu ở tai, tươi tốt ở tóc, eo lưng là phủ của thận:

2.1. Thận chủ xương tuỷ, thông lên não:

- Thận tàng tinh mà tinh lại sinh tuỷ, tuỷ ở trong xương để nuôi dưỡng xương cho nên gọi là thận chủ cốt sinh tuỷ. Nếu thận hư, sự phát dục của cơ thể giảm sút gây hiện tượng chậm mọc răng, xương mềm, chậm biết đi.

- Răng là phần thừa của xương, bệnh thận thì răng đau, răng khô, răng sâu.

- Tuỷ ở cột sống thông lên não, thận sinh tuỷ nên gọi là thận thông với não, không ngừng bổ sung tuỷ cho não. Nếu thận hư (thường do tiên thiên) làm não chậm phát triển gây ra hiện tượng thiểu năng trí tuệ, đần độn, kém thông minh. Não là bể của tuỷ, bể tuỷ không đủ thì đầu choáng váng vù vù, không tỉnh táo, hay quên. 

2.2. Thận khai khiếu ở tai: 

Tai là do thận tinh nuôi dưỡng. Nên thận hư thì tai vù, tai điếc. ở người già thận khí, thận tinh suy yếu hay gặp chứng ù tai, điếc.

2.3. Thận vinh nhuận ở tóc: 

Thận tàng tinh, tinh sinh huyết, tóc là phần thừa ra của huyết được huyết nuôi dưỡng vì vậy thận là căn nguyên sinh ra tóc. Sự thịnh suy của thận quan hệ mật thiết với tóc. Như bẩm sinh thận khí kém thì tóc thưa thớt, thanh niên thiên quý thịnh thì tóc tươi tốt, người già thận khí suy thì tóc bạc... vì vậy nói thận vinh nhuận ra tóc.

2.4. Eo lưng là phủ của thận:

Thận âm hư thì eo lưng mỏi đau, thận dương hư thì eo lưng sống lưng lạnh đau.

3. Thận liên quan đến các tạng phủ khác:

Thận với bàng quang là biểu lý. Tương sinh với can phế. Tương khắc với tâm tỳ.

3.1. Biểu lý với bàng quang:

Bàng quang có chức năng chứa đựng và bài tiết nước tiểu thông qua sự khí hoá và sự phối hợp với tạng thận. Thận khí không đủ, khí hoá không kịp thời thì tiểu tiện không lợi.

3.2. Thận tương sinh với can phế:

- Thủy không sinh mộc: thì trước có chứng thận âm hư, sau đó xuất hiện chứng can âm huyết không đủ gọi là chứng can thận âm hư..

- Kim không sinh thủy: Trước có chứng phế hư, sau có chứng thận hư gọi là chứng phế thận âm hư.

3.3. Thận tương khắc với tâm tỳ:

- Thủy khắc hoả: trước có chứng thận hàn, sau xuất hiện chứng tâm dương hư thành chứng tâm thận dương hư.

- Thổ khắc thủy: Trước có bệnh của tỳ. Sau xuất hiện chứng thận hư.

4. Các triệu chứng bệnh thận và bàng quang:

4.1. Triệu chứng bệnh thận:

Thực: bồn chồn, cường dương không mềm ra.

Hư: đau lưng, mỏi gối, liệt dương, ù điếc tai, di tinh, tóc bạc.

Nhiệt: đái ít, đỏ, đái máu, ỉa táo, chảy máu chân răng.

Hàn: ngũ canh tả, nằm co, sợ lạnh chi lạnh, tinh lạnh.

4.2. Chứng trạng của bàng quang:

Thực: đái khó, bụng dưới căng đau.

Hư: són đái, đái dầm.

Nhiệt: ống đái nóng, đái khó,ít, cuồng.

Hàn: nước đái trong dài và lạnh, hay hắt xì hơi.

Các hội chứng bệnh về khí

Khí là một phần cấu tạo của cơ thể, là chất căn bản duy trì sự sống của con người, có tác dụng thúc đẩy huyết và công năng tạng phủ kinh lạc hoạt động. Có 4 loại khí:

Nguyên khí: còn gọi là sinh khí, chân khí, khí của chân nguyên. Do tinh của tiên thiên sinh ra, được tàng trữ ở thận, sau này được khí của hậu thiên bổ sung không ngừng.

Tông khí: Do khí trời từ phế hợp với khí của đồ ăn thức uống do tỳ vận hoá ra mà thành. Tông khí có chức năng vận hành khí, huyết, hô hấp, tiếng nói, tay chân.

Dinh khí: còn gọi là doanh khí. Là do chất tinh vi của đồ ăn được tỳ vận hoá mà thành, đi vào mạch tạo thành một bộ phận của huyết dịch, theo huyết dịch đi toàn thân, có tác dụng sinh ra huyết và dinh dưỡng toàn thân.

Vệ khí: bắt nguồn từ tiên thiên, do dương khí của thận sinh ra, được khí của hậu thiên bổ sung. Vệ khí đi ra ngoài mạch, phân bố toàn thân, có nhiệm vụ bảo vệ cơ thể chống lại ngoại tà xâm nhập.

Sự thịnh suy của khí liên qua đến công năng hoạt động của 4 tạng Phế, Tỳ, Thận và Can:

- Phế: Chủ khí, chủ hô hấp, khí trời do phế đưa vào hợp với khí của đồ ăn thức uống do tỳ vận hoá mà tạo nên tông khí. Phế chủ tuyên phát và túc giáng, tuyên phát là thúc đẩy khí huyết tân dịch đi phân bố toàn thân, túc giáng là đưa phế khí đi xuống thận.

- Tỳ: Sự kiện vận của tỳ vị là gốc của hậu thiên, là gốc sinh hoá ra khí huyết của cơ thể, nên nói tỳ vị chủ về trung khí.

- Thận: Chủ nạp khí, khí do phế đưa xuống được nạp ở thận, nếu thận không nạp được khí làm phế khí nghịch lên gây ho, xuyễn.

- Can: chủ sơ tiết, giúp cho khí của các tạng phủ được vận hành dễ dàng, thông suốt, thăng giáng điều hoà.

Trên lâm sàng bệnh của khí thường biểu hiện với 3 hội chứng cơ bản là: Khí hư, Khí trệ và Khí nghịch.

1. Khí hư:

- Khí hư do cơ năng hoạt động của cơ thể và tạng phủ bị suy thoái, hay gặp ở người có bệnh mạn tính, người già yếu, hoặc ở thời kỳ hồi phục sau khi mắc bệnh nặng.

- Biểu hiện lâm sàng: Đoản khí, mệt mỏi, vô lực ăn kém, lưỡi nhạt, mạch hư vô lực. Có khi trương lực cơ giảm gây sa nội tạng gọi là chứng khí hư hạ hãm.

- Nguyên tắc điều trị: bổ khí, ích khí, kiện tỳ.

2. Khí trệ:

- Khí trệ là do cơ năng hoạt động của cơ thể hay một bộ phận của cơ thể bị trở ngại, thường do nguyên nhân sang chấn tinh thần, ăn uống thất điều, cảm phải ngoại tà.

- Biểu hiện lâm sàng: Đầy chướng, đau với dặc điểm: đau kèm theo chướng, chướng nhiều hơn đau, đau lúc nhiều lúc ít, vị trí không cố định, thiện án, thích xoa bóp. Tuỳ vị trí khí trệ mà có các triệu chứng tại chỗ như: ở ngực gây đau ngực vú căng, ngực sườn đầy tức; ở thượng vị gây vị quản thống, ợ hơi thì đỡ; ở ruột gây phúc thống, trung tiện thì đỡ...

- Nguyên tắc điều trị: hành khí, lý khí.

3. Khí nghịch:

- Khí nghịch hay thấy ở phế, vị, và can. Đàm và khí kết hợp làm phế khí không giáng gây nghịch lên. Vị bị hàn tích ẩm, ứ đọng đồ ăn. Can tình chí uất ức không sơ tiết được.

- Biểu hiện lâm sàng:

Phế: Ho, hen, khó thở, tức ngực.

Vị: Buồn nôn, nôn mửa, nấc, ợ hơi.

Can: Đau tức ngực sườn, đau thượng vị, lúc sốt, lúc rét.

Cần phân biệt chứng khí nghịch do thận hư không nạp được khí thuộc hư chứng, còn chứng khí nghịch trong các trường hợp trên là thực chứng.

- Nguyên tắc điều trị: giáng khí, thuận khí.

Các hội chứng bệnh về huyết

Huyết là chất hữu hình được tạo thành do chất tinh vi của thủy cốc được tỳ vị vận hoá ra, do dinh khí đi trong mạch và do tinh được tàng trữ ở thận sinh ra. Huyết được khí thúc đẩy đi trong mạch đến nuôi dưỡng toàn thân. Huyết đủ thì cơ thể khoẻ mạch.

Huyết có quan hệ mật thiết với tất cả các tạng trong cơ thể:

- Tâm: chủ huyết mạch, tâm khí thúc đẩy huyết dịch đi trong mạch để nuôi dưỡng toàn thân.

- Can: chủ tàng huyết, tức là tàng trữ và điều tiết huyết trong cơ thể.

- Tỳ: chủ thống huyết, tức là quản lý, khống chế huyết đi trong mạch. Tỳ còn sinh huyết: sự vận hoá của tỳ tạo ra chất tinh vi của thủy cốc là nguồn gốc sinh khí huyết.

- Phế: phế chủ khí, khí lại thúc đẩy huyết đi trong mạch cho nên sự hoạt động của phế cũng liên quan đến sự vận hành của huyết.

- Thận: chủ tàng tinh, tinh sinh huyết, cho nên thận cũng là nguồn gốc sinh ra huyết.

Trên lâm sàng, bệnh của huyết gồm có 4 hội chứng là: Huyết hư, Huyết ứ, Huyết nhiệt và Xuất huyết.

1. Huyết hư:

- Huyết hư do mất máu mạn tính hay cấp tính, do tỳ vị hư nhược nên sự sinh hoá ra máu bị giảm sút.

- Biểu hiện lâm sàng: sắc mặt xanh hoặc hơi vàng, môi trắng nhợt, hoa mắt chóng mặt, trống ngực, mất ngủ, tay chân tê, chất lưỡi nhạt, mạch tế hay tế sác. Trên lâm sàng, huyết hư thường đi kèm với khí hư, gọi là chứng khí huyết lưỡng hư.

- Nguyên tắc điều trị: Bổ huyết. Bổ khí huyết.

2. Huyết ứ:

- Huyết ứ là hiện tượng xung huyết tại chỗ hay xung huyết ở tạng phủ do chấn thương, viêm nhiễm, có khi do khí trệ gây nên huyết ứ.

- Biểu hiện lâm sàng: Đau tại chỗ ứ huyết, đau dữ dội, cự án, vị trí cố định, có hiện tượng sưng nóng đỏ, sắc mặt xanh tối, miệng môi tím, chất lưỡi xanh tím, có điểm huyết ứ.

- Nguyên tắc điều trị: hoạt huyết khứ ứ.

3. Huyết nhiệt:

- Do phần huyết có nhiệt hay nhiệt tà xâm nhập làm huyết đi sai đường (nhiệt bức huyết vọng hành).

- Biểu hiện lâm sàng: vật vã, miệng khô không muốn uống, người nóng, đêm nóng nhiều hơn. Chất lưỡi đỏ sẫm, mạch tế sác. Nếu nhiệt bức huyết vọng hành thì có hiện tượng xuất huyết.

- Nguyên tắc điều trị: thanh nhiệt lương huyết.

4. Xuất huyết:

- Xuất huyết do 4 nguyên nhân:

+ Huyết nhiệt, nhiệt bức huyết vọng hành.

          + Tỳ hư không thống huyết.

          + Huyết ứ gây thoát quản.

          + Do sang chấn.

- Biểu hiện lâm sàng:

          + Do huyết nhiệt: Xuất huyết đỏ tươi (máu cam, thổ huyết, đại tiện ra huyết, rong kinh...) kèm theo triệu chứng nhiệt.

          + Do tỳ hư không thống huyết: màu máu nhạt, chảy máu không ngừng, kèm theo có triệu chứng tỳ hư.

          + Do huyết ứ: máu màu tím, có máu cục, kèm theo có triệu chứng ứ huyết.

- Nguyên tắc điều trị:

          + Do huyết nhiệt: Lương huyết chỉ huyết.

          + Do tỳ hư: Kiện tỳ nhiếp huyết.

          + Do huyết ứ: Hoạt huyết chỉ huyết.

Bát cương: Biểu - Lý

Biểu - Lý là 2 cương lĩnh để xác định vị trí nông sâu của bệnh.

1. Nội dung:

1.1. Biểu chứng:

- Biểu chứng là khi bệnh mới phát, tà đang còn ở bên ngoài, ở nông, thường xuất hiện tại bì mao, gân, cơ nhục, xương khớp. YHCT gọi là phần vệ (ôn bệnh) hay kinh thái dương (lục kinh).

- Biểu hiện lâm sàng: Phát sốt, sợ lạnh, sợ gió, đau đầu, đau mình, ngạt mũi, ho. Rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù.

- Nguyên tắc điều trị: Phát tán ngoại tà, giải biểu.

1.2. Lý chứng:

- Lý là bệnh ở bên trong, ở sâu, thuộc các phủ tạng, bệnh truyền nhiễm ở giai đoạn toàn phát. YHCT gọi là phần dinh khí huyết (ôn bệnh) hay kinh dương minh (lục kinh).

- Bệnh ở lý có thể do truyền từ ngoài vào, có thể tà khí trúng ngay vào tạng phủ. Cũng có thể do tình chí (thất tình) và các nguyên nhân khác (bất nội ngoại nhân) làm rối loạn hoạt động chức năng của các tạng phủ.

Biểu hiện lâm sàng:

- Do ngoại tà truyền từ ngoài vào:

+ Do nhiệt tà thì sốt cao, khát, thích uống nước lạnh, phiền táo, nói mê, lưỡi đỏ rêu vàng, phân khô kết, nước đái đỏ ít.

+ Do hàn tà thì đau bụng, ỉa chảy, nôn do ăn thức ăn lạnh, bụng bị lạnh.

- Do nội nhân: Chức năng của các tạng phủ, khí huyết bị rối loạn.

Nguyên tắc điều trị:

- Do ngoại cảm: Dùng pháp thanh hạ.

- Do nội nhân: Tuỳ trạng thái hư thực, hàn nhiệt của bệnh để có pháp điều trị thích hợp. Tuy nhiên bệnh tạng lấy bổ làm chủ, bệnh phủ lấy thông làm chủ.

Phân biệt biểu chứng – lý chứng:

BIỂU CHỨNG

LÝ CHỨNG

Sốt kèm theo sợ lạnh

Sốt cao

Chất lưỡi nhạt

Chất lưỡi đỏ

Rêu lưỡi trắng

Rêu lưỡi vàng

Mạch phù

Mạch trầm

2. Các hiện tượng khác:

2.1. Hiện tượng bán biểu bán lý:

Là chứng bệnh mà không ở biểu cũng không ở lý mà ở giữa biểu và lý, gọi là chứng bán biểu bán lý. Theo sách “Thương hàn luận” chứng này thuộc bệnh của kinh thiếu dương.

Biểu hiện lâm sàng: Hàn nhiệt vãng lai (lúc nóng, lúc rét), ngực sườn đầy tức, miệng đắng, lợm giọng buồn nôn, hoa mắt, mạch huyền.

Nguyên tắc điều trị: Hoà giải thiếu dương.

2.2. Hiện tượng biểu lý thác tạp:

Cùng trên 1 bệnh nhân vừa có chứng biểu, vừa có chứng lý gọi là “biểu lý đồng bệnh”.

Nguyên tắc điều trị: Vừa chữa phần biểu, vừa chữa phần lý, gọi là biểu lý song giải.

Bát cương: Hàn - Nhiệt

1. Nội dung:

HÀN CHỨNG

NHIỆT CHỨNG

Thuộc âm thịnh hoặc dương hư

Thuộc âm hư hoặc dương thịnh

Lạnh, thích ấm

Sốt, sợ nóng

Không khát

Khát

Mặt xanh

Mặt đỏ

Tay chân lạnh

Tay chân nóng

Tiểu tiện trong dài

Tiểu tiện ngắn đỏ

Đại tiện lỏng

Đại tiện táo

Lưỡi nhạt, rêu trắng trơn ướt

Lưỡi đỏ, rêu vàng

Mạch trầm trì

Mạch sác

Điều trị: Ôn pháp

Điều trị: Thanh pháp

2. Các hiện tượng khác:

2.1. Hiện tượng hàn nhiệt thác tạp:

Trên 1 bệnh nhân vừa có chứng nhiệt vừa có chứng hàn. Có thể có các hình thức: biểu hàn lý nhiệt, biểu nhiệt lý hàn, tạng phủ này hàn, tạng phủ kia nhiệt.

2.2. Hiện tượng chân giả:

Là hiện tượng triệu chứng của bệnh không phù hợp với bản chất, với nguyên nhân của bệnh. Có 2 hiện tượng sau:

- Hiện tượng chân hàn giả nhiệt: Do bên trong chứng âm hàn mạnh bức dương ra ngoài, hay là sự chuyển hoá hàn cực sinh nhiệt của bệnh tật.

Biểu hiện: Người nóng, mặt đỏ miệng khát, mạch phù (giả nhiệt) nhưng lại muốn đắp chăn ấm, muốn uống nước nóng, mạch tuy phù nhưng vô lực nước tiểu trong, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng (hàn). Hoặc nôn ỉa chảy cấp không cầm được, mạch vi muốn tuyệt (chân hàn) song mặt hơi đỏ, miệng khát không muốn uống nước, phiền táo giả nhiệt)...

- Hiện tượng chân nhiệt giả hàn: Do nội nhiệt thịnh khí dương bế tắc ở trong không toả ra tứ chi được còn gọi là nhiệt quyết hay dương quyết.

Biểu hiện: Bệnh nhân nặng có chân tay giá lạng, mạch trầm (giả hàn) cùng với người nóng không sợ lạnh mà sợ nóng, mạch trầm nhưng sác có lực, khát muốn uống nước lạnh, họng khô, nước tiểu đỏ, đại tiện táo, rêu lưỡi vàng khô (chân nhiệt).

Bát cương: Hư - Thực

1. Nội dung:

1.1. Chứng hư:

- Hư là chính khí hư: gồm âm hư, dương hư, khí hư, huyết hư do tiên thiên bất túc và hậu thiên mất điều hoà gây nên. Hậu thiên mất điều hoà thể hiện ở các mặt: tiêu hoá hấp thu kém, già yếu, bị bệnh lâu, chữa sai hại chính khí, hoặc tà khí làm tổn thương chính khí.

- Biểu hiện lâm sàng chung: tinh thần uỷ mị, tim đập hồi hộp, người mệt mỏi vô lực, đau thiện án, thích xoa bóp, ăn kém, mạch tế nhược.

- Nguyên tắc điểu trị: bệnh hư thì bổ, con hư bổ mẹ.

1.2. Chứng thực:

- Tà khí thực, do ngoại tà xâm nhập vào cơ thể. Hoặc do hoạt động của tạng phủ bị rối loạn tạo nên như khí trệ, huyết ứ, đàm ẩm, thủy thấp...

- Biểu hiện lâm sàng chung: thở thô, bòn chồn, đầy chướng, đau cự án, rêu lưỡi dày cáu, mạch thực hữu lực.

- Nguyên tắc điều trị: Bệnh thực thì tả, mẹ thực tả con.

2. Các hiện tượng khác:

2.1. Hư thực thác tạp:

Là chứng hư và chứng thực cùng xuất hiện. Có các hình thức sau:

- Chứng hư thêm chứng thực: VD trên bệnh nhân ho, xuyễn do phế khí hư lấu ngày sinh đàm ẩm, thủy thấp, huyết ứ trệ gọi là chứng “hư trung hiệp thực” (trong hư có thực).

- Chứng thực thượng hạ hư: Bệnh có thắt lưng mỏi đau (hạ hư) lại có đầu mặt bốc nóng từng cơn (thượng thực) cũng gọi là chứng “hư trung hiệp thực”.

- Chứng thực thêm chứng hư: Bệnh nhân cổ trướng, ỉa đái không lợi (chứng thực) lại có người gầy ăn kém, mệt mỏi, mạch huyền tế (chứng hư), gọi là chứng “thực trung hiệp hư” (trong thực có hư).

2.2. Hiện tượng chân giả:

- Chân thực giả hư: Do nhiệt kết ở trường vị, đàm thực úng trệ làm cho kinh lạc bị trở trệ, khí huyết không đi ra ngoài được. Biểu hiện tinh thần chậm chạp, người lạnh chi lạnh, mạch trầm (giả hư), song tiếng nói to, thở thô, mạch tuy trầm nhưng hữu lực (chân thực)

- Chân hư giả thực: Chứng này do khí huyết trong nội tạng không đủ, vận hoá của tỳ kém. Biểu hiện bụng đầy, chướng đau, mạch huyền, bụng đau có lúc giảm nhẹ (giả thực), song bụng đau mà không cự án, lại thích xoa, mạch tuy huyền nhưng vô lực (chân hư).

Bát cương: Âm - Dương

Âm – dương là 2 cương lĩnh tổng quát để đánh giá xu hướng chung của bệnh, vì các hiện tượng hàn nhiệt hư thực luôn phối hợp với nhau. Sự mất thăng bằng âm dương có 2 hình thức là thiên thắng (âm thịnh, dương thịnh), và thiên suy (âm suy, dương hư, vong âm, vong dương).

1. Âm chứng và dương chứng:

Âm chứng là chứng sinh ra bởi hiện tượng âm thiên thắng, thuộc chứng thực hàn, đó là do âm thịnh sinh nội hàn.

Dương chứng là chứng sinh ra bởi hiện tượng dương thiên thắng, thuộc chứng thực nhiệt, đó là do dương thịnh sinh ngoại nhiệt.

ÂM CHỨNG

DƯƠNG CHỨNG

Người lạnh, bụng lạnh

Tay chân ấm

Tinh thần mệt mỏi

Tinh thần hiếu động

Thở nhỏ, nói nhỏ

Thở to, thô

Thích ấm, không khát

Sợ nóng, khát nước

Tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng

Tiểu tiện đỏ, đục, ít, đại tiện táo

Nằm quay vào trong

Nằm quay ra ngoài

Mặt trắng bợt

Mặt đỏ

Lưỡi nhợt

Lưỡi đỏ

Mạch trầm nhược, hoặc trầm vi

Mạch hoạt sác, hoặc phù sác có lực

Điều trị: Trừ hàn

Điều trị: Thanh nhiệt tả hoả.

2. Âm hư và dương hư:

- Âm hư phần tân dịch và huyết không đủ. Phần dương trong cơ thể nhân phần âm hư mà nổi lên sinh chứng hư nhiệt, gọi là âm hư sinh nội nhiệt.

- Dương hư do công năng trong cơ thể bị giảm sút, dương khí không ra ngoài được, phần vệ bị ảnh hưởng nên sinh chứng hư hàn, gọi là dương hư sinh ngoại hàn.

ÂM HƯ

DƯƠNG HƯ

Triều nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt, đạo hãn, họng khô, gò má đỏ, di tinh

Sợ lạnh, tay chân lạnh, sắc mặt trắng, miệng nhạt, liệt dương

Đau nhức trong xương

Đau lưng, mỏi gối

Khó ngủ, vật vã

Ngủ nhiều, li bì, mệt mỏi

Tiểu tiện ngắn đỏ, đại tiện táo

Tiểu tiện trong dài, đại tiện lỏng

Lưỡi đỏ, rêu ít

Lưỡi nhợt, rêu trắng

Mạch tế sác

Mạch nhược vô lực

Điều trị: Bổ âm, thanh hư nhiệt

Điều trị:  Ôn bổ dương

3. Vong âm, vong dương.

- Vong âm là hiện tượng do mất tân dịch quá nhiều (ra mồ hôi, ỉa chảy) mà gây ra. Vì âm và dương nương tựa nhau nên khi mất tân dịch đến giai đoạn nào đó thì âm không nuôi dưỡng được dương mà sinh chứng vong dương, còn gọi là chứng thoát dương (choáng, truỵ tim mạch).

VONG ÂM

VONG DƯƠNG

Mồ hôi nóng, mặn, không dính

Mồ hôi lạnh, nhạt, dính

Khát, thích uống nước lạnh

Không khát, thích uống nước ấm

Tay chân ấm

Tay chân lạnh

Lưỡi khô

Lưỡi nhuận

Mạch phù vô lực,  mạch xích yếu

Mạch phù sác vô lực, rồi mạch vi muốn tuyệt

Điều trị: Dưỡng âm sinh tân

Điều trị: Hồi dương cứu nghịch

   CAN

Chúng can khí uất kết và can khí hoành nghịch

1. Nguyên nhân:

- Chứng can khí uất kết là những triệu chứng vì can sơ tiết không kịp, khí cơ không thông lợi mà biểu hiện ra.

- Chứng can khí hoành nghịch là chứng do can sơ tiết thái quá, khí cơ hoành nghịch mà biểu hiện ra. Mỗi khi tình chí uất ức hoặc vì những nguyên nhân khác mà làm cho can mất tính sơ tiết thì sẽ gây nên 2 chứng này (Thuộc bệnh SNTK do Stress, các bệnh lý gan mật).

2. Chứng trạng:

Tinh thần uất ức thiếu vui, dễ giận, tính nóng, ngực sườn đầy tức hoặc chướng đau, trong họng có vướng mắc (mai hạch khí), hoặc cổ gáy nổi bướu, tràng nhạc, ăn uống kém, hay chiêm bao, dễ kinh sợ, 2 vú chướng đau, kinh nguyệt rối loạn, đau xuống bụng dưới, sườn bụng có khối cứng, mạch huyền.

- Chứng can khí uất kết: uất ức không vui, ngực sườn tức đầy.

- Chứng can khí hoành nghịch: dễ giận, 2 sườn chướng đau, hoặc đau xuống bụng dưới, hay chiêm bao, dễ kinh sợ.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Can là tạng cương tính, can mộc thăng tán thích thoải mái, nếu tình chí không thông xướng do kích thích quá độ, làm mất tính khoan khoái của can sẽ sinh ra chứng can khí uất kết. Can khí uất kết sẽ luỵ đến các tạng phủ khác như: can khí thừa tỳ, xung tâm, phạm phế. Can khí không sơ tiết, uất kết ở trong, tính khí mất điều hoà cho nên thấy uất ức, ngực sườn đầy tức, vú chướng, trong họng như hóc (mai hạch khí). Khí không điều đạt, ảnh hưởng đến trung tiêu, mộc không sợ thổ  cho nên thấy đầy hơi không muốn ăn uống. Khí uất đã lâu, ảnh hưởng đến sự vận hành của huyết và sự vận hoá cơm nước, mà sinh ra đàm ngưng huyết ứ, cho nên sinh tràng nhạc bướu cổ, ngực sườn có khối cứng. Can khí mất điều hoà, mạch xung, mạch nhâm cũng theo đó mà không hoà, nên kinh nguyệt rối loạn, hay đau bụng kinh. Can khí hoành nghịch thì thần hồn không yên, cho nên dễ giận, ngực sườn đau chạy, hay chiêm bao, dễ kinh sợ. Can khí hoành nghịch, mộc mạch thừa thổ, phạm vị, khắc tỳ nên không muốn ăn và tiêu hoá không tốt.

4. Luận trị:

- Phép điều trị: Sơ can lý khí.

- Dược vị:

Thuốc sơ can giải uất: Sài hồ.

Thuốc lý khí: Ô dược, Chỉ thực, Chỉ sác, Hương phụ, Trần bì, Uất kim, Xuyên luyện tử, Huyền hồ, Trầm hương.

- Phương dược:

* Tứ nghịch tán (Thương hàn luận):

Sài hồ

8g

Chỉ thực

8g

Cam thảo

8g

Thược dược

12g

ý nghĩa: Sài hồ để thâu tà thăng dương nhằm sơ can giải uất là quân dược; Chỉ thực để hạ khí kết hợp với Sài hồ làm khí thăng giáng điều hoà lại là thần; Thược dược để ích âm dưỡng huyết, hợp với Sài hồ để sơ can lý khí là tá; Cam thảo ích khí kiện tỳ, điều hoà các vị thuốc là sứ.

* Sài hồ sơ can tán (Cảnh Nhạc toàn thư):

Sài hồ

20g

Trần bì

20g

Thược dược

15g

Hương phụ

15g

Chỉ  sác

15g

Xuyên khung

15g

Cam thảo

  5g

Ý nghĩa: Bài này chính là bài Tứ nghịch tán để sơ can giải uất, gia Trần bì, Hương phụ làm tăng tác dụng lý khí, Xuyên khung để dưỡng can huyết.

Gia giảm:

- Can khí uất lâu ngày sinh chứng huyết mạch bế tắc, vinh khí không lưu lợi thì gia các vị hành huyết, phá huyết như: Đương quy, Đào nhân, Hồng hoa, Uất kim, Trạch lan.

- Can khí uất lâu có thể tổn thương âm huyết gây huyết dich không đủ. Can huyết không được nuôi dưỡng gây chứng huyết táo, khí uất. Gia các vị dưỡng âm sinh huyết như: Sinh địa, Sa sâm, Mạch môn, Quy thân, Kỷ tử, Xuyên luyện tử (Bài Nhất quán tiễn).

- Can khí uất phạm tỳ vị thì gia các vị kiện tỳ như Bạch truật, Bạch linh, Đảng sâm

- Can khí uất lâu có thể sinh đàm thì gia các vị trừ đàm như Bán hạ, Nam tinh.

Chứng can hỏa thượng viêm

1. Nguyên nhân:

Chứng can hoả thượng viêm là triệu chứng biểu hiện do can hoả nghịch lên. Có thể vì can khí mất sơ tiết, rồi hoả xông lên, tức là “khí hữu dư tức là hoả”. Hoặc vì giận dữ quá hại can, can khí chướng ra quá mạnh làm cho can hoả thăng lên, hoặc vì tình chí không thoả mãn, ngũ chí hoá hoả, hoặc nhiệt tà xâm vào động đến can hoả mà sinh chứng này.

2. Chứng trạng:

Mặt đỏ bừng, mắt đỏ, miệng đắng, họng khô, tai ù hoặc điếc đột ngột, đầu choáng váng, chướng đau, phát sốt, phía sườn nóng đau, phiền nóng, dễ giận, nhiều chiêm bao, ít ngủ, đại tiểu tiện bí sáp, tiểu tiện ngắn đỏ, thổ nục lạc huyết, rìa lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Can khí hữu dư chuyển hoá thành hoả. Vương Húc Cao nói: “Can khí hoả đốt nóng, du hành khắp tam tiêu, khắp trên dưới trong ngoài toàn thân đều có thể gây bệnh”. Cho nên chứng này biểu hiện có 2 phần chính: 1 là thực nhiệt, 1 là thượng xung, và thế đến gấp vội.

*   Hoả tính là bốc lên, can hoả theo đường kinh đến xương sườn cụt, rồi tiến lên quấy nhiễu thanh khiếu, đi lên đầu, mặt, tai, mắt. Cho nên vùng sườn nóng đau, phát sốt, mặt đỏ, mắt đỏ, họng khô, tai điếc, đầu choáng chướng đau.

*   Can nhiệt truyền đởm làm nước mật tràn lên cho nên miệng đắng.

*   Nhiệt quấy nhiễu thần hồn cho nên phiền giận, nhiều chiêm bao.

*  Nhiệt bức huyết vọng hành thì huyết chạy loạn cho nên thổ nục, khái huyết. Hoả có thể đốt âm hoá tân, cho nên hầu họng khô ráo, đại tiểu tiện bí kết.

4. Luận trị:

- Phép điều trị: Thanh tả can hoả.

- Phương dược: Long đởm tả can thang (Y phương tập giải).

Long đởm thảo   10g

   Sài hồ             10g

 Sinh địa               15g

Chi tử                  15g

   Hoàng cầm     15g

 Sinh cam thảo      10g

Mộc thông          15g

   Trạch tả          20g

Đương qui            5g

   Xa tiền tử        15g

Ý nghĩa: Long đởm thảo để tả thực hoả của can đởm, tả thấp nhiệt ở hạ tiêu là thần dược. Hoàng cầm, Chi tử để tả hoả là quân. Trạch tả, Mộc thông, Xa tiền tử để thanh nhiệt lợi thấp đưa ra bằng tiểu tiện, Sinh địa, Đương qui để tư âm dưỡng huyết là tá. Sài hồ dẫn thuốc vào can đởm, Cam thảo điều hoà các vị thuốc là sứ. Nếu không đỡ thì gia Hoàng liên để tả tâm (tả con).  

Chứng can dương thượng cang

1. Nguyên nhân:

Chứng can dương thượng cang là vì can thận âm hư không chế được dương, làm cho can dương phù động lên trên mà thành, phần nhiều vì âm dịch của can thận không đủ, âm không liễm được dương rồi can dương cang lên, trên thực dưới hư hoặc vì ngũ chí hoá hoả hao tân hại âm, cũng có thể làm cho âm dịch ở hạ tiêu suy thiếu, thủy không nuôi dưỡng được mộc, làm cho can dương cang lên (Thuộc bệnh Huyết áp cao, Rối loạn TKTV).

2. Chứng trạng:

Đầu mắt chướng đau, choáng váng, đầu nặng, chân nhẹ, tai ù, hoặc mặt nóng, họng khô, tâm phiền, dễ giận, ngủ ít, mắt mờ, nhiều chiêm bao, lưng gối đau mềm, lưỡi đỏ rêu ít, mạch huyền.

3. Cơ chế bệnh sinh:

*  Can thận âm dịch không đầy đủ, làm cho âm dương mất điều hoà, can dương cang thịnh không có kiềm chế, khí huyết cùng xung lên trên, cho nên sinh các chứng đầu mắt chướng đau, chóng mặt tai ù, mặt đỏ hoặc nóng bừng, họng khô.

*  Dương cang nhiễu loạn, thần chí, hồn không tàng ở trong thì tâm phiền dễ giận, ngủ ít, nhiều chiêm bao.

*  Eo lưng là phủ của thận, đầu gối là phủ của cân. Can thận âm hư thì eo lưng và đầu gối mỏi yếu.

*  Can dương cang ở trên thì trên thịnh, can thận ở dưới thiếu thì dưới hư. Trên thực dưới hư cho nên đầu nặng chân nhẹ. Lưỡi đỏ ít rêu, mạch huyền là hiện tượng can dương cang thịnh, âm dịch không đủ.

4. Luận trị:

- Phép điều trị: Tư âm tiềm dương.

- Phương dược: Lục vị địa hoàng gia giảm:

Thục địa         

Đan bì

Long cốt

Sơn dược       

Thiên ma

Chi tử

Sơn thù

Câu đằng

Hạ khô thảo

Phục linh

Thạch quyết minh

Thảo quyết minh

Trạch tả

Mẫu lệ

Cam thảo

Ý nghĩa: Bài lục vị để tư bổ can thận. Gia thêm các vị: Thiên ma, Câu đằng để bình can tức phong; Thạch quyết minh, Mẫu lệ, Long cốt để bình can tiềm dương, trọng trấn an thần; Chi tử, Hạ khô thảo, Thảo quyết minh để thanh tả can hoả; Cam thảo điều hoà các vị thuốc. Nếu đau đầu nhiều thì gia Cúc hoa, Mạn kinh tử, Cốc tinh thảo. Ngủ ít gia Bá tử nhân, Toan táo nhân.

Chứng can âm hư

1. Nguyên nhân:

Chứng can âm hư là những triệu chứng vì âm dịch của can không đủ mà biểu hiện ra. Phần nhiều vì tính khí không thoả mãn, khi uất hoá hoả, hoặc bệnh mãn tính, bệnh ôn nhiệt làm hao thương can âm sinh ra.

2. Chứng trạng:

Choáng váng, 2 mắt khô sáp, họng khô, tai ù, mặt nóng đỏ, ngũ tâm phiền nhiệt, triều nhiệt, đạo hãn, xương sườn cụt đau nóng, có khi tay chân nhu động. Lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Chứng can âm hư có triệu chứng thường thấy của chứng âm hư và triệu chứng riêng của can:

*  Chứng âm hư như hoả bốc lên thì mặt nóng bừng, hư nhiệt sinh ra ở trong thì triều nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt, hư hoả nhiễu dinh thì sinh đạo hãn, tự hãn, âm dịch suy hao không nhuận lên trên được thì họng khô, âm hư nội nhiệt thì lưỡi đỏ ít rêu.

*  Chứng can âm hư liên quan đến thận âm, không tư nhuận cho đầu mặt nên chóng mặt ù tai, 2 mắt khô sáp. Hư hoả đốt nóng can lạc cho nên xương sườn cụt đau, nóng. Can âm suy hư gân mạch mất nuôi dưỡng cho nên tay chân nhu động. Mạch huyền thuộc can, tế thuộc âm hư, sác là có nhiệt, cho nên mạch huyền tế sác là can âm bất túc, hư nhiệt đốt ở trong.

4. Luận trị:

Phép trị: Tư bổ can thận.

Phương dược:

* Kỷ cúc địa hoàng hoàn: Gồm lục vị để bổ thận thuỷ (bổ mẹ), Kỷ tử để dưỡng can, minh mục, Cúc hoa để giáng áp, chỉ đầu thống.

Phân biệt 3 chứng: Can dương thượng cang,  Can hoả bốc và Can âm hư:

- Can dương cang lên thì lấy chứng trạng cang lên là chính, như đầu mặt chướng đau, choáng váng nóng bừng kèm theo có triệu chứng âm hư ở dưới như đau lưng gối mỏi... Bệnh trình tương đối ngắn, bệnh thể tương đối chậm, triệu chứng âm hư hoả vượng, thuộc về bản hư, tiêu thực; trên thực dưới hư (hư trung hiệp thực).

- Can hoả bốc lên thì lấy triệu chứng hoả nhiệt làm chính, như mặt đỏ, mắt đỏ, miệng đắng, đại tiện bí sáp. Bệnh trình tương đối ngắn, thể bệnh tương đối cấp, triệu chứng hoả nhiệt rõ rệt, thuộc về chứng thực

- Can âm hư thường kèm với thận âm hư thì triệu chứng âm hư là chính như: đau lưng, mỏi gối, đau đầu, ù tai, kèm theo có triệu chứng nội nhiệt như triều nhiệt, đạo hãn, ngũ tâm phiền nhiệt. Bệnh trình dài, bệnh thể chậm, thuộc về hư chứng rõ rệt.

Chứng can huyết hư

1. Nguyên nhân:

Chứng can huyết hư là triệu chứng vì huyết dịch ở can hư mà gây ra, có thể vì bẩm phủ không đủ, hoặc vì tỳ vị hư nhược thiếu nguồn sinh hoá, hoặc thất tình quá độ hao tổn âm huyết, hoặc bệnh lâu hao huyết, hoặc các bệnh mất huyết tính gây ra.

2. Chứng trạng:

Sắc mặt vàng ải hoặc xanh bạc, môi mỏng sắc nhợt, mắt nhìn giảm sút hoặc tối gà, choáng váng, tâm quý, ít ngủ. Có khi tay chân tê dại, co duỗi khó khăn, tay chân run rẩy, cơ thịt máy động. Kinh ít chậm kỳ hoặc kinh bế, chất lưỡi nhợt, mạch tế. (Thuộc bệnh thiếu máu, bệnh nhãn khoa, bệnh kinh nguyệt).

3. Cơ chế bệnh sinh:

Chứng can huyết hư và chứng huyết hư trên lâm sàng biểu hiện gần giống nhau:

Huyết hư thì hình héo cho nên sắc mặt vàng ải, môi móng nhợt. Huyết thiếu không nuôi dưỡng lên ở trên thì choáng váng, lưỡi nhợt. Huyết suy không dưỡng được tâm thì tâm quý, mất ngủ. Kinh mạch không được huyết nuôi dưỡng thì tay chân tê dại, huyết không dưỡng được cân thì khớp co duỗi khó khăn. Huyết không đủ thì bể huyết không đầy cho nên kinh ít, chậm kỳ, hoặc bế kinh. Huyết không đầy đủ cho mạch thì mạch tế.

Can huyết hư thì biểu hiện: Can huyết hư thì mắt không được nuôi dưỡng nên thị lực giảm sút, nặng thì mắt thanh manh. Gân mạch mất nuôi dưỡng cho nên chân tay run, thịt máy dật, khớp khó co duỗi. Xuất hiện triệu chứng cử động không cố định, hoặc hoạt động khó khăn.

4. Luận trị:

- Phép trị: Bổ huyết dưỡng can.

- Dược vị: các vị thuốc bổ huyết như: Thục địa, A giao, Hà thủ ô, Quy thân, Bạch thược, Kỷ tử, Long nhãn, Tang thầm, Tử hà sa, Kê huyết đằng...

- Phương dược:

* Tứ vật thang (Hoà tễ cục phương):

Thục địa

Đương qui

Bạch thược

Xuyên khung

ý nghĩa: Thục địa để tư âm dưỡng huyết làm quân. Đương qui để bổ huyết dưỡng can, hoà huyết điều kinh làm thần. Bạch thược dưỡng huyết hoà âm, Xuyên khung hành khí hoạt huyết, thông xướng khí huyết là tá sứ.

Gia giảm: Kiêm khí hư gia Nhân sâm, Hoàng kỳ. Kiêm đàm huyết mà nôn gia Hồng hoa, Đào nhân. Huyết hư có hàn gia Nhục quế, Bào khương. Huyết hư có nhiệt gia Hoàng cầm, Đan bì. Muốn hành huyết thì bỏ Thược dược. Muốn chỉ huyết thì bỏ Xuyên khung.

Chứng can phong nội động

Chứng can phong nội động là chứng trạng do nội phong nhiễu động gây ra. Dựa vào nguyên nhân sinh nội phong mà chia thành 4 chứng:

- Can dương hoá phong.

- Nhiệt cực sinh phong.

- Huyết hư sinh phong.

- Âm hư động phong.

Can là tạng phong mộc, nếu can dương quá vượng, nhiệt thịnh, âm hư, huyết hư đều có thể sinh phong. Vì khác với phong ở ngoài xâm nhập vào cho nên gọi là nội phong. Tính phong giao động cho nên hay thấy chứng choáng váng ngã ra, run rẩy, co giật. Tố Vấn nói: “các chứng lay lắc choáng váng đều thuộc can” đó là chỉ vào can phong.

1. Can dương hoá phong.

1.1. Nguyên nhân:

Chứng can dương hoá phong còn gọi là chứng quyết dương hoá phong, là chỉ vào can dương cang thịnh không có kiềm chế, mà bỗng nhiên xuất hiện chứng động phong, phần nhiều vì can thận âm dịch cực hư, không tiềm tàng được can dương tiến lên mà hoá phong. (Thuộc bệnh Trúng phong - tai biến mạch máu não).

1.2. Chứng trạng:

- Trúng phong kinh lạc: choáng váng muốn ngã ra, đau đầu, gáy cứng, chân tay run, đi không vững, nói ngượng không rõ, miệng méo mắt xếch, bán thân bất toại, lưỡi đỏ, mạch huyền.

- Trúng phong tạng phủ: bỗng nhiên hôn mê không biết gì, lưỡi cứng không nói được.

+ Chứng bế: các khiếu bế lại, không đại tiểu tiện được.

+ Chứng thoát: có triệu chứng dương thoát.

1.3. Cơ chế bệnh sinh:

Chứng can dương hoá phong hay thấy ở người can thận âm dịch vốn thiếu, can dương mất sự tiềm giữ, có bệnh sử can dương thượng cang, có khi chứng can dương thượng cang không rõ, cũng có khi bỗng nhiên xuất hiện chứng này.

* Can dương hoá phong, phong dương xoáy ở trên, nên choáng váng muốn ngã ra. Khi huyết úng ở trên trở trệ huyết cực lạc cho nên đau đầu. Gân mất nuôi dưỡng thì gáy cứng, chân tay run. Phong xoáy ở trên, âm thiếu ở dưới cho nên đi không ổn định.

* Can dương cang thịnh đốt dịch thành đàm. Phong đàm trở lạc làm khí huyết vận hành không lợi cho nên miệng méo mắt xếch, bán thân bất toại. Can phong hiệp với đàm che lấp tâm khiếu, làm cho tâm thần tối tăm cho nên bỗng nhiên hôn mê ngã ra không biết gì.

* Lưỡi đỏ là âm hư nội nhiệt, mạch huyền chủ về bệnh can.

1.4. Luận trị:

· Trúng phong kinh lạc:

- Phép trị: Bình can tức phong, dưỡng huyết, thư cân.

- Dược vị:

+ Thuốc bình can tức phong: Thiên ma, Câu đằng, Bạch tật lê, Thuyền thoái, Ngô công, Toàn yết, Địa long, Cương tàm.

+ Thông kinh hoạt lạc: Tang ký sinh, Uy linh tiên, Tần giao, Đỗ trọng, Ngưu tất.

+ Thuốc trấn kinh tiềm dương: Thạch quyết minh, Long cốt, Mẫu lệ...

- Phương dược:

* Thiên ma câu đằng ẩm (Tạp bệnh chính trị tân nghĩa):

Thiên ma             9g

Thạch quyết minh   18g

    ích mẫu         9g

Câu đằng           12g

Tang ký sinh             9g

    Đỗ trọng       9g

Phục thần            9g

Hoàng cầm               9g

    Ngưu tất       12g

Dạ giao đằng      9g

Sơn chi                      9g

 (Chú ý: Thạch quyết minh cho vào sắc trước, Câu đằng cho vào sau)

Phân tích: Thiên ma, Câu đằng, Thạch quyết minh để bình can tức phong. Sơn chi, Hoàng cầm để thanh nhiệt tả hoả. ích mẫu để hoạt huyết lợi thủy. Ngưu tất để dẫn thuốc đi xuống, hợp với Đỗ trọng để bổ can thận. Tang ký sinh để thông kinh hoạt lạc. Dạ giao đằng, Phục thần để an thần định chí. Bài này để chữa cao huyết áp, liệt nửa người do trúng phong.

· Trúng phong tạng phủ thể bế chứng:

- Phép trị: Khai khiếu thông quan.

- Phương dược:

* Thông quan tán (Đan khê tâm pháp phu dư): Tạo giác bỏ hạt nướng, Tế tân, hai vị bằng nhau tán bột thổi vào mũi.

* An cung ngưu hoàng hoàn (Ôn bệnh điều biện):

Ngưu hoàng

Hoàng liên

Mai phiến

Uất kim

Hùng hoàng

Xạ hương

Tê giác

Sơn chi

Chân châu

Hoàng cầm

Chu sa

Tán bột làm hoàn

Phân tích: Ngưu hoàng, Tê giác để thanh tâm giải độc, bên trong thấu bào lạc. Hoàng cầm, Hoàng liên, Sơn chi thanh nhiệt tả hoả. Uất kim thông tâm khí để khai khiếu. Chu sa, Chân châu để chấn tâm an thần. Xạ hương, Băng phiến, Hùng hoàng để hoá đàm giải độc.

· Trúng phong tạng phủ thể thoát chứng:

- Phép trị: Hồi dương cố thoát.

- Phương dược: Sâm phụ thang (Chính thể loại yếu): Nhân sâm, Phụ tử sắc cho uống.

· Giai đoạn di chứng:

- Phép trị: Hoạt huyết khứ ứ, thông kinh hoạt lạc, bổ can thận.

2. Chứng nhiệt cực sinh phong:

2.1. Nguyên nhân:

Chứng nhiệt cực sinh phong là chỉ vào trong bệnh ngoại cảm, vì nhiệt tà cang thịnh, nhiệt truyền vào tâm bào mà động đến can phong (Thuộc bệnh sốt cao co giật).

2.2. Chứng trạng:

Sốt cao, phát cuồng, vật vã, thần mê, gáy cứng, nặng thì uốn ván, hàm răng nghiến chặt, 2 mắt trông ngược hoặc trông thẳng, co giật, sắc mặt đỏ, mạch huyền sác.

2.3. Cơ chế bệnh sinh:

Biểu hiện chủ yếu của nhiệt cực sinh phong có 3 điểm là: sốt cao, phát cuồng, vật vã, và xuất hiện với chứng can phong.

Nhiệt tà chưng bốc nóng khắp tam tiêu cho nên sốt cao. Nhiệt vào tâm bào, tâm thần mê tối thì sinh phát cuồng vật vã, thần mê. Nhiệt đốt tân dịch thì động đến can phong cho nên co giật, uốn ván, quyết lạnh, cứng gáy, biểu hiện của gân mạch co căng. Tà nhiệt vào phần vinh cho nên sắc lưỡi đỏ, mạch huyền sác là can kinh có nhiệt.

2.4. Luận trị:

- Phép trị: Thanh nhiệt trừ phong.

- Phương dược: Bạch hổ thang (Thương hàn luận) gia vị:

Bạch hổ thang gồm: Thạch cao, Tri mẫu, Cam thảo, Nghạnh mễ có tác dụng thanh nhiệt. Gia các vị trừ phong có tính hàn, bình như: Câu đằng, Thuyền thoái, Thiên ma, Cương tàm.

3. Chứng huyết hư sinh phong.

Chứng huyết hư sinh phong là chỉ vào triệu chứng động phong, vì huyết hư thì cân mạch mất nuôi dưỡng mà gây ra. (Thuộc bệnh thiếu máu, hạ đường huyết, TBMM não, Packinson).

- Biểu hiện: chân tay, cân mạch co quắp, run giật.

- Phép trị: Bổ huyết trừ phong.

4. Chứng âm hư động phong.

Chứng âm hư động phong là triệu chứng vì can thận âm dịch suy hư dẫn đến động can phong. Thời kỳ cuối của bệnh ngoại cảm, hoặc bệnh nội thương lâu ngày, đều có thể xuất hiện âm dịch suy hư mà thấy chứng này.   

 Chứng hàn trệ can mạch

1. Nguyên nhân

Chứng hàn trệ can mạch là chỉ vào triệu chứng vì hàn tà ngưng trệ ở kinh mạch của can mà sinh ra. Vì bị cảm hàn tà mà sinh bệnh, thường thấy ở chứng hàn sán trong bệnh sán khí (Viêm tinh hoàn mạn, thoát vị bìu).

2. Chứng trạng:

Bụng dưới kéo đến hòn dái lạnh đau, hoặc bìu dái thu vào, nữ thì hành kinh lạnh đau, gặp lạnh thì đau dữ dội, được ấm thì bớt đau, đồng thời xuất hiện người lạnh, chân tay lạnh, nôn mửa ra nước dãi trong, rêu lưỡi trắng trơn, mạch trầm huyền.

3. Biện chứng.

Kinh túc quyết âm can theo mé trong đùi, qua âm hộ đến bụng dưới. Hàn là âm tà, tính ngưng trệ thu vào, hàn tà vào ở can mạch, dương khí bị lấn át, khí huyết ngưng trệ, làm cho bụng dưới kéo xuống bìu dái lạnh đau, người lạnh, chân tay lạnh. Gân mạch vì hàn ngưng mà co căng cho nên bìu dái thu vào. Hàn thì khí huyết ngưng trệ, nhiệt thì khí huyết vận hành, nên đau gặp lạnh thì tăng, được ấm thì bớt. Âm hàn vào lý, thủy dịch không hoá cho nên nôn mửa ra nước trong. Âm hàn thì rêu lưỡi trắng trơn. Trầm chủ bệnh ở lý, huyền là chủ hàn lại chủ về bệnh ở can cho nên mạch trầm huyền là chủ hàn ngưng ở can mạch.

Điểm chính để chẩn đoán là: bụng dưới và âm bộ chướng lạnh đau.

4. Luận trị:

Phép trị: Noãn can tán hàn.

Dược vị: Các vị trừ hàn: Đại hồi, Tiểu hồi, Nhục quế, Phụ tử, Lệ chi hạch, Can khương, Xuyên tiêu, Thảo quả, Ngải diệp.

Phương dược:

*  Noãn can tiễn (Cảnh Nhạc toàn thư): Đương qui 9g,  Kỷ tử 9g,  Tiểu hồi 6g, Ô dược 6g (hoặc Mộc hương),  Nhục quế 6g,  Trầm hương 3g,  Phục linh 6g.

Phân tích: Quế, Hồi để ôn can tán hàn. Đương qui, Kỷ tử để ôn bổ can thận. Ô dược, Trầm hương để hành khí chỉ đau. Phục linh để thảm thấp kiện tỳ. Thêm 3 nhát gừng tươi để tán hàn hoà vị.

* Đương qui tứ nghịch thang (Thương hàn luận):

Đương qui

  9g

Quế chi              9g

Đại táo       25q

Thược dược

  9g

Tế tân                 9g

Cam thảo

  6g

Thông thảo         6g

Phân tích: Đương qui, Bạch thược để bổ huyết. Quế chi, Tế tân để ôn kinh tán hàn. Cam thảo, Đại táo để kiện tỳ ích khí. Thông thảo để thông kinh mạch. Thêm Ngô thù, Tiểu hồi, Sinh khương để ôn dương tán hàn.

Chứng can khí hư và can dương

1. Nguyên nhân:

Chứng can khí hư với chứng can dương hư là chỉ vào triệu chứng vì công năng của can giảm sút mà sinh ra, người bẩm thụ hư nhược, bệnh lâu hại khí đều có thể gây ra chứng này. Ngoài ra như can khí uất kết hoặc hoành nghịch, bệnh lâu thì hao tổn đến dương khí của can. Hoặc âm huyết của can không đủ, lâu thì âm tổn hại đến dương, cũng có thể làm cho can khí hư và can dương hư.

2. Chứng trạng:

Ngực sườn đau trống không, ưu uất, đởm khiếp, khí đoản, thần mệt, yếu sức, vùng bụng đầy tức, không muốn ăn uống, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch hư đó là can khí hư. Nếu kiêm có sợ lạnh, chân tay không ấm, âm bộ lạnh, mạch trầm vô lực thì đó là can dương hư.

3. Biện chứng :

Thiên bản thần sách Linh khu nói: “can khí hư thì sợ”; sách Thánh Huệ Phương cũng nói: “can hư thì sinh lạnh”, đủ thấy bệnh can là có dương hư hàn. Khi can khí hư thì ngoài những chứng khí hư như khí đoản, thần mệt, yếu sức, lưỡi nhợt, mạch hư ra, còn có triệu chứng của bệnh can như ngực sườn trống rỗng mà đau, đởm khiếp. Can khí hư mà phát triển thêm thì thành chứng can dương hư như sợ lạnh, chân tay không ấm, âm bộ lạnh, đều là biểu hiện dương khí không đủ, mất sự sưởi ấm. Thường cùng xuất hiện với chứng tỳ thận dương hư.

4. Luận trị:

Phép trị: Ôn bổ phần dương.

Phương dược: Bát vị địa hoàng hoàn.

Chứng can đởm thấp nhiệt

1. Nguyên nhân:

Chứng can đởm thấp nhiệt là triệu chứng vì thấp nhiệt kết tụ ở can đởm mà sinh ra, có thể vì  tà khí thấp nhiệt xâm vào, hoặc thích ăn những thứ ngon béo, hoá thấp sinh nhiệt, hoặc tỳ mất kiện vận, tụ thấp ở trong, lâu rồi hoá nhiệt (Bệnh viêm gan virus, xơ gan còn bù).

2 . Triệu chứng:

Nóng rét qua lại, miệng đắng, ngực sườn chướng đau, ăn kém, nôn mửa, bụng chướng, đại tiện hơi lỏng, hoặc đi không thông, tiểu tiện ngắn đỏ, lưỡi đỏ, rêu vàng nhờn, mạch huyền sác; hoặc mình, mắt đều vàng, xương sườn cụt đầy có khối; hoặc hòn dái sưng chướng nóng đau; hoặc đái đục, ngứa âm bộ.

3. Cơ chế bệnh sinh:

*  Tà nhiệt lưu trệ ở đởm, đởm khí vì đó mà tràn lên cho nên thấy nóng rét qua lại, miệng đắng. Thấp nhiệt kết tụ ở can đởm, can khí không được sơ tiết, khí trệ huyết ứ nên ngực sườn chướng đau hoặc có khối cứng. 

*  Tỳ mất kiện vận, vị mất hoà giáng cho nên ăn kém, nôn mửa, bụng chướng.

Thấp nhiệt chứa đọng ở trong, thấp nặng hơn nhiệt thì đại tiện hơi lỏng, nhiệt nặng hơn thấp thì đại tiện không thông suốt. Bàng quang mất việc khí hoá thì tiểu tiện ngắn đỏ. Lưỡi đỏ rêu vàng nhờn, mạch huyền sác là hiện tượng thấp nhiệt uất kết ở can đởm.

*  Sách Lâm chứng chỉ nam nói: “thấp theo hoả hoá, ứ nhiệt ở lý, đởm nhiệt, dịch tiết cùng hợp với trọc khí của vị, trên không vượt lên được, dưới không tiết xuống được, huân chứng át uất, mình mắt đều phát vàng”. Nói rõ thấp nhiệt xông đốt, thấp nhiệt không đi theo đúng đường mà tràn ra ngoài cho nên da, mắt, mặt đều vàng.

*  Can mạch đi qua vùng âm bộ, tà khí thấp nhiệt chứa ở can đởm theo đường kinh đi xuống, chạy vào hòn daí, úng tắc huyết lạc cho nên hòn dái sưng chướng nóng đau, dồn vào âm đạo thì đới trọc mùi thối, ngoài âm bộ ngứa.

Điểm chính để chẩn đoán là: ngực sườn chướng đau, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu vàng nhờn.

4. Luận trị:

- Phép trị: Thanh nhiệt trừ thấp, thoái hoàng.

- Phương dược:

* Nhân trần ngũ linh thang (Kim quỹ yếu lược):

Nhân trần          20g

  Phục linh           12g

Trạch tả           12g

Bạch truật         12g

  Trư linh               8g

Quế chi              6g

Phân tích: Phương này dựa trên cơ sở của bài Ngũ linh tán có tác dụng lý khí lợi thủy trừ thấp (Bạch truật, Quế chi để thẩm thấp kiện tỳ hoà khí. Trạch tả, Trư linh, Phục linh để lợi thuỷ trừ thấp thanh nhiệt), thêm Nhân trần để lợi đởm thoái hoàng, trị thấp nhiệt.

Chứng đởm uất đàm nhiễu

1. Nguyên nhân:

Chứng đởm uất đàm nhiễu là nói về chứng vì đàm nhiệt quấy nhiễu ở đởm, đởm không sơ tiết được mà biểu hiện ra. Chứng này vì thất tình nội thương, tình chí uất kết, khí uất hoá hoả sinh đàm, làm cho đởm mất sơ tiết gây ra (Bệnh sỏi đường mật).

2. Chứng trạng:

Choáng váng, ù tai, miệng đắng, nôn, ngực tức, sườn chướng, đởm khiếp, dễ kinh sợ, mất ngủ, nhiều chiêm bao, rêu lưỡi vàng nhờn, mạch huyền hoạt.

3. Biện chứng :

Trương Tử Hoà nói: “ Đởm là dũng cảm, kinh sợ thì đởm bị thương” đởm là phủ thanh tĩnh, đàm trọc nhiễu đởm, sơ tiết không được khí cơ không thông lợi, mất quyền quyết đoán cho nên đởm khiếp mà dễ kinh, mất ngủ, nhiều chiêm bao. Đường kinh đởm liên lạc ở đầu mặt, đàm thấp theo kinh nhiễu lên thì choáng váng, ù tai. Đàm trọc trở tắc ở trung tiêu tỳ vị, khí cơ thăng giáng thất thương cho nên sinh ra nôn mửa.

Sự sơ tiết của đởm không thực hiện, nước mật theo đó nghịch lên, cho nên miệng đắng. Khí cơ không vận, thanh dương không được phân bố cho nên ngực tức sườn  chướng. Trong có đàm nhiệt cho nên rêu lưỡi vàng nhờn, mạch huyền, hoạt.       

Điểm chính để chẩn đoán: Sợ hãi, hồi hộp, ít ngủ, rêu lưỡi vàng nhờn.

4. Luận trị:

- Phép trị: Sơ can lý khí, lợi đởm, trừ đàm.

- Phương dược:

*Tiểu sài hồ thang (Thương hàn luận) gia vị:

Sài hồ

8g

Hoàng cầm

9g

Đại táo

4 quả

Nhân sâm

6g

Bán hạ

9g

Sinh khương

3 lát

Trích cam thảo

4g

     Gia thêm: Nhân trần, Kim tiền thảo, Ô dược, Chỉ sác...

*Long đởm tả can thang (Y phương tập giải):

Long đởm thảo

12g

Uất kim

8g

Cam thảo

4g

Hoàng cầm

12g

Hoàng liên

12g

Đại hoàng

4g

Chi tử

12g

Sài hồ

16g

Mộc hương

8g

Kim ngân hoa

12g

TÂM VÀ TIỂU TRƯỜNG

Chứng tâm khí hư và tâm dương

1. Nguyên nhân:

Là triệu chứng do công năng của tạng suy giảm mà biểu hiện ra. Người bẩm phủ không đủ, người tuổi già sức yếu, bệnh lâu hoặc lao tâm quá độ đều có thể gây ra chứng này (Bệnh suy tim, rối loạn thần kinh tim, tâm phế mạn, bệnh mạch vành, thiếu máu).

2. Chứng trạng:

-Tâm khí hư: Tâm khí, chính xung, ngực tức khí đoản, ra mồ hôi, thần mệt, cử động thì mệt hơn, sắc mặt không tươi, sắc lưỡi nhợt, thể lưỡi bệu, mạch hư.

Tâm dương hư: Tim đau, sợ lạnh, chân tay lạnh, sắc mặt xanh bạc, môi tối lưỡi bệu nhợt, rêu lưỡi trắng nhuận, mạch kết đại hoặc vi tế.

3. Biện chứng :

- Tâm khí hư: thì trong tâm trống rỗng, động lên thoi thóp, cho nên thấy chứng tim hồi hộp, nặng thì chính xung. Tâm ở trong lồng ngực tâm hư khí thì tông khí trong lồng ngực vận chuyển thiếu sức cho nên ngực tức khí đoản. Mồ hôi là tâm dịch, tâm khí hư thì cơ biểu không kín chặt, cho nên dễ ra mồ hôi. Khí hư không dưỡng được thần cho nên thần mệt. Động thì hao khí làm cho tâm khí càng hư, cho nên sau khi động thì các chứng càng tăng thêm. Khí hư thì huyết không có sức vận hành, không lên tươi tốt ở mặt và ở lưỡi được cho nên sắc mặt ít tươi, lưỡi nhợt. Huyết vận hành không có lực, đường mạch trống rỗng thì mạch hư.

Điểm chính để chẩn đoán là: Tâm quí, khí đoản, thần mệt.

Tâm dương hư: thì trong ngực dương hư không vận chuyển huyết mạch ngưng tắc cho nên đau tim. Dương khí không sưởi được cho da thì sợ lạnh, không đạt ra tay chân thì tay chân lạnh, không đi lên mặt thì mặt xanh bạc. Dương hư huyết vận hành không thông lợi thì môi tối, lưỡi nhợt, mạch vi tế hoặc kết đại.

Điểm chính để chẩn đoán là: Tâm khí hư và triệu chứng ngoại hàn.

4. Luận trị:

4.1. Chứng tâm khí hư:

- Phép trị: Bổ ích tâm khí (Bổ khí dưỡng tâm).

- Phương dược:

* Sinh mạch tán (Nội khoa học):

Đảng sâm 20g         Mạch môn 20g         Ngũ vị 15g            Cam thảo (trích) 10g

* Nhân sâm dưỡng vinh thang (Hoà tễ cục phương):

Nhân sâm          12g

Đương qui          8g

Ngũ vị tử             6g

Phục linh             6g

Thục địa           12g

Trần bì                 6g

Bạch truật            8g

Bạch thược       12g

Viễn chí               8g

Cam thảo             6g

Hoàng kỳ          12g

Đại táo               12g

Xuyên khung       8g

Quế nhục            6g

Sinh khương        3g

Phân tích: Bài này gồm bài Bát trân để bổ khí bổ huyết, thêm Hoàng kỳ để ích khí cố biểu, Quế nhục để trợ dương (là bài Thập toàn đại bổ). Ngũ vị tử để cố sáp chỉ hãn, Viễn chí để an thần định chí, Trần bì để lý khí. Thêm Đại táo, Sinh khương để dẫn thuốc vào tỳ nhằm mạnh trung khí.

4.2. Chứng tâm dương hư:

          - Phép trị: Ôn thông tâm dương.

          - Phương dược:

* Quế chi cam thảo thang:

          Quế chi    +    Cam thảo   lượng bằng nhau 10g sắc uống.

Phân tích: Quế chi ôn thông tâm dương. Cam thảo ích khí bổ tỳ thông mạch.

Chứng tâm dương hư thoát

1. Nguyên nhân:

Chứng tâm dương hư thoát là chỉ vào chứng âm dương sắp lìa nhau, tâm dương vượt nhanh mà biểu hiện ra. Như Từ Linh Thái nói: “Dương khí vượt ra nhanh, âm dương lìa nhau, mồ hôi ra như dầu, sáu mạch sắp mất, chứng cấp bức xảy ra mới gọi là thoát”.

Người ta từ lúc sinh ra đến lúc tuổi già, âm dương lìa nhau trong khoảnh khắc, lìa thì chết. Bệnh tình đến ngay nặng, bệnh cấp, bệnh nguy đều có thể xuất hiện chứng này, nếu cứu chữa kịp thời cũng có thể cứu nguy thành an (sốc, truỵ mạch).

2. Chứng trạng:

Bỗng nhiên sắc mặt tối xạm, môi tím tái, mồ hôi lạnh dính như cao, chân tay quyết lạnh, tâm quý, khí đoản, thở nhỏ, thần chí hôn mê, lưỡi nhợt hoặc tím tối, mạch vi muốn tuyệt.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Tâm dương hư thoát thì dương không bám ở âm, tông khí tiết ra vội cho nên tâm quý, khí đoản, thở nhỏ. Dương khí vượt ra ngoài không có gì để giữ kín phần biểu cho nên mồ hôi ra như cao. Thần theo khí tán thì thần chí mờ tối, dương khí không đạt ra tay chân và mặt thì tay chân quyết lạnh, sắc mặt tối xạm. Dương khí thoát thì khí không vận hành cho nên môi lưỡi xanh tím, mạch vi muốn mất.

Điểm chính để chẩn đoán là: Tâm dương hư và triệu chứng vong dương.

4. Luận trị:

- Phép trị: Hồi dương cứu nghịch.

- Phương dược:

* Tứ nghịch thang (Thương hàn luận):

Sinh phụ tử       5-10g               Can khương       6-9g           Cam thảo trích    6g

* Nhân sâm tứ nghịch thang (Thương hàn luận):    Nhân sâm   3g   +   Tứ nghịch thang

* Sâm phụ thang (Chính thể loại yếu):        Nhân sâm    9g         Phụ tử     6g

Phân tích: Sinh phụ tử đi khắp 12 kinh để bổ ích mệnh môn chân hoả, ôn dương trục hàn là quân. Can khương ôn trung trừ lý hàn. Cam thảo để giải độc, hoà hoãn tác dụng mãnh liệt của Phụ Khương.  Nhân sâm để đại bổ nguyên khí.

Chứng tâm huyết hư

1. Nguyên nhân:

Chứng tâm huyết hư là triệu chứng tâm huyết không đủ, không nhu dưỡng được tâm tạng mà biểu hiện ra. Người bẩm phủ tiên thiên kém hoặc hậu thiên dụng tâm quá nhọc, hoặc mất huyết quá nhiều, hoặc bệnh lâu hao huyết đều có thể làm tâm huyết hư hao (SNCT, SNTK, thiếu máu).

2. Chứng trạng:

Sắc mặt xanh bạc hoặc vàng ải, môi lưỡi sắc nhợt, móng không có ánh sáng, tâm quý, chính xung, huyễn vựng, kiện vong, mất ngủ, nhiều chiêm bao, lưỡi nhợt, mạch tế.

3. Biện chứng :

Tâm chủ huyết, tâm huyết không đầy đủ thì trong tâm trống rỗng, lay động không yên, lúc nào cũng thế cho nên sinh chính xung, tâm quý. Huyết không nuôi dưỡng ở đầu mặt móng nên huyễn vựng, sắc mặt không tươi, môi lưỡi nhợt, móng khô. Huyết hư tâm thần mất nuôi dưỡng, không nhu dưỡng được não tuỷ cho nên hay quên, mất ngủ nhiều chiêm bao. Huyết không đầy đủ cho nên mạch tế.

Điểm chính để chẩn đoán là: chứng tâm quý thêm chứng huyết hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Dưỡng huyết an thần.

- Phương dược:

* Qui tỳ thang (Tế sinh phương):

Đảng sâm

  16g

Viễn chí

  8g

Hoàng kỳ

  12g

Táo nhân

  8g

Đương qui

  12g

Mộc hương

  6g

Bạch truật

  12g

Phục thần

12g

Cam thảo

    6g

Long nhãn

12g

Phân tích: Sâm Kỳ Truật Thảo để bổ tỳ ích khí. Quy để bổ huyết, dưỡng tâm an thần. Viễn chí, Táo nhân, Phục thần để giao tâm thận định chí an thần. Mộc hương lý khí tỉnh tỳ. Thêm Sinh khương, Đại táo để đẫn thuốc vào tỳ. Bài này đa phần các vị chữa về khí với ý nghĩa khí mạnh thì giữ được huyết, huyết tự về kinh thì bệnh sẽ khỏi. Sự vận hoá của tỳ là nguồn gốc sinh hoá để sinh khí huyết, tỳ hư thì huyết thiếu, tâm không được nuôi dưỡng mà hư thêm, bởi vậy dùng phương này bổ ích tâm tỳ, khí vượng, huyết sinh. Hải Thượng Lãn Ông nói: “Bài này chuyên chữa về hậu thiên âm huyết suy tổn, Tâm không chủ huyết, Can không tàng huyết, Tỳ không thống huyết mà sinh ra nhiều biến chứng”.

Chứng tâm âm hư

1. Nguyên nhân:

Chứng tâm âm hư là triệu chứng vì tâm âm không đủ không nhu dưỡng được tâm mà biểu hiện ra. Hễ mà suy nghĩ liên tục dương khí của ngũ chí tăng lên nhiều dễ hại âm. Hay bệnh nhiệt, bệnh lâu hao tổn âm dịch, hay âm dịch sinh thành không đủ, đều có thể sinh ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Tâm quý, chính xung, mất ngủ, nhiều chiêm bao, triều nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt, ra mồ hôi trộm, má đỏ, họng khô, lưỡi đỏ, rêu ít, mạch tế sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

- Tâm âm không đủ làm cho tâm mất sự nuôi dưỡng, tâm động không yên cho nên thấy tâm quý, chính xung. Âm không đủ thì thần không được tàng giữ  nên mất ngủ, nhiều chiêm bao.

- Âm hư thì dương cang, hư nhiệt sinh ở trong cho nên trào nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt.

- Ngủ thì dương khí vào ở âm, tâm dịch bị chưng bốc chảy ra ngoài thành mồ hôi trộm, gò má đỏ, là dương phù ở trên, họng khô là âm không tiếp lên trên, lưỡi đỏ rêu ít, mạch tế đều là phần âm không đầy đủ.

Điểm chính để chẩn đoán là: chứng tâm quý thêm chứng âm hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Tư dưỡng tâm âm, an thần định chí.

- Phương dược:

* Bá tử dưỡng tâm hoàn (Thể nhân hội biên):

Bá tử nhân      20g

Kỷ tử              16g

Huyền sâm      16g

Mạch môn      12g

Đương qui      12g

Thục địa          12g

Xương bồ       12g

Phục thần         8g

 Cam thảo         4g

Phân tích: Bá tử nhân, Phục thần để dưỡng tâm an thần. Thục địa, Huyền sâm, Mạch môn để tư âm thanh nhiệt. Đương qui, Kỷ tử để tư âm dưỡng huyết. Xương bồ để khai khiếu.

* Thiên vương bổ tâm đơn (Nhiếp sinh bí phẫu):

Sinh địa

  80g

Nhân sâm

20g

Đan sâm

20g

Huyền sâm

  20g

Bạch linh

20g

Ngũ vị tử

40g

Viễn chí

  20g

Cát cánh

20g

Đương qui

40g

Thiên môn

  40g

Mạch môn

40g

Bá tử nhân

40g

Toan táo nhân

  40g

Chu sa

Vừa đủ

          Phân tích: Sinh địa, Huyền sâm để bổ âm dưỡng huyết thanh nhiệt, làm tâm thần không bị hư hoả nhiễu động là quân. Đan sâm, Đương qui để bổ huyết, dưỡng tâm. Nhân sâm, Phục linh để ích khí ninh tâm. Bá tử nhân, Viễn chí để dưỡng tâm an thần làthần. Thiên môn, Mạch môn để tư âm thanh hư hoả. Toan táo nhân, Ngũ vị tử để thu liễm tâm khí là tá. Cát cánh đưa các vị lên trên, Chu sa dẫn các vị thuốc vào tâm và có tác dụng an thần là sứ.

Chứng tâm huyết ứ

1. Nguyên nhân:

Chứng tâm huyết ứ trệ là triệu chứng vì huyết ở trong tâm tắc trở không thông mà biểu hiện ra. Người tuổi già sức yếu, hoặc bệnh lâu chính khí hư mà làm cho ứ trở, đàm ngưng, hàn trệ, khí uất đều có thể làm cho tâm mạch không thông mà sinh ra chứng này (Bệnh mạch vành).

2. Chứng trạng :

Tâm quý, chính xung, vùng ngực đầy tức đau, đau như kim châm, đá đè, hoặc đau lên vai lưng, cánh tay, có lúc không đau, khi vận động thì đau nhiều hơn. Nặng thì tay chân không ấm, ra mồ hôi, nằm co, thích yên lặng, thở thì vướng tắc, mặt môi tím tối, chất lưỡi tím tối có ban ứ, mạch kết đại. Khi đau dữ thì đau muốn chết, thần mê, chân tay lạnh, mạch vi đè vào muốn mất.

3. Biện chứng :

Tâm huyết ứ trở thì lấy chứng đau tim là chứng chính, chứng đau này rất là dữ dội, như sách Linh Khu nói: “Đau như lấy dùi đâm vào tim”“Tay chân lạnh đến khớp, tim đau dữ dội, sáng phát, chiều chết, chiều phát, sáng chết”. Đủ thấy trình độ bệnh nặng và đau dữ dội như thế nào.

Chứng này phần nhiều do tâm dương trong không đủ, không có sức vận hành huyết dịch, làm cho đàm trọc đình tụ, âm hàn ngưng trệ, khí cơ uất trở, những bệnh lý ấy dễ làm cho tâm huyết ứ trở. Cho nên Dụ Gia Ngôn nói: “Vì đàm trọc, âm hàn, khí trệ xâm vào chỗ dương hư, thì sinh chứng hung tý tâm thống”.

Kinh thiếu âm tâm theo phía trong cánh tay, ra ở nách đi thẳng lên phế. Cho nên tâm mạch trở tắc, ứ huyết ngưng trệ thì xuất hiện các chứng vùng ngực đau như đâm, vai cánh tay đau. Dương khí không đủ, tâm mất ôn dưỡng cho nên tâm quý, chính xung. Âm thịnh dương hư, vệ không cố biểu, dương mất sưởi ấm cho nên mồ hôi ra, chân tay lạnh, nằm co, thích tĩnh. ứ huyết đọng ở trong thì thấy lưỡi có ban ứ, mặt môi tím tối. Huyết mạch ứ trở thì mạch kết đại. Âm hàn thịnh quá làm cho tâm dương mất vội, tâm thần ly tâm thì thần mê, chân tay lạnh mạch vi muốn tuyệt.

Chứng này nếu có liên quan đến đàm trọc ngưng tụ thì đau là đau là chính, có thể người bệnh thân mình bệu nặng, nhiều đàm, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch trầm hoạt, những chứng trạng có đàm trọc thịnh ở trong, nếu có liên quan đến âm hàn ngưng trệ thì đau dữ dội, đột nhiên phát ra, được ấm thì bớt đau. Người bệnh có thể thấy sợ lạnh, chân tay lạnh, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trầm trì, hoặc trầm khẩn, những chứng trạng này thuộc về hàn tà thịnh ở trong. Nếu có liên quan đến khí trệ thì đau lấy chứng đau là chính. Khi phát có liên quan đến tính tình thay đổi, người bệnh có thể là sườn chướng, mạch huyền, lưỡi hồng nhợt hoặc hồng tối.

4. Luận trị:

- Phép trị:Thông dương hoá ứ.

- Phương dược:

* Huyết phủ trục ứ thang (Y lâm cải thác):

Đào nhân        16g

Đương quy       20g

Cát cánh             6g

Hồng hoa        12g

Sinh địa            12g

Ngưu tất           12g

Xuyên khung    6g

Cam thảo           4g

Chỉ sác               8g

Phân tích: Các vị Đào nhân, Hồng hoa, Đương quy, Xuyên khung, Ngưu tất đều là các vị hoạt huyết tiêu ứ mạnh, Chỉ sác để hành khí vì khí hành thì huyết mới hành. Cát cánh để dẫn thuốc đi lên thượng tiêu, Sinh địa để tả hoả dưỡng tâm, Cam thảo điều hoà các vị thuốc. Dùng cho trường hợp   khí kết ở ngực, trong ngực tắc đầy, khí từ dưới sườn nghịch lên tâm.

* Chỉ thực cữu bạch quế chi thang  (Kim quỹ yếu lược):

Qua lâu

  12g

          Hậu phác

12g

Cữu bạch

    9g

          Chỉ thực

12g

Quế chi

    3g

Phân tích: Qua lâu để khử đàm, tán kết khai hung. Quế chi, Cữu bạch để thông dương tán kết hành khí chỉ thống, giáng nghịch. Chỉ thực, Hậu phác để lý khí tiêu bĩ tán mãn. Dùng cho trường hợp đàm trọc kết tụ, ngực đau mạnh nằm ngồi không yên

 Chứng tâm hỏa cang thịnh

1. Nguyên nhân:

Chứng tâm hoả cang thịnh là   triệu chứng do tâm hoả đốt mạnh mà gây ra, ngũ chí lục dâm hoá hoả, hoặc vì lao quyện, hoặc vì ăn uống cay nồng đều có thể sinh ra chứng này (Sốt cao trong bệnh truyền nhiễm, nhiễm trùng).

2. Chứng trạng :

Mặt đỏ, họng khô, thích uống nước, miệng lưỡi nổi nhọt lở hoặc loét, sưng đau, trong tâm phiền nóng, mất ngủ. Nước tiểu nhỏ giọt đục hoặc rít hoặc đau. Đầu lưỡi đỏ hoặc lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác. Hoặc thổ huyết, nục huyết, mửa huyết. Hoặc phát cuồng vật vả, nói sảng.

3. Cơ chế bệnh sinh:    

Tâm chủ tướng hoả, hoả thịnh chưng bốc lên trên thì mặt đỏ, hoả thịnh đốt tân dịch thì họng khô thích uống nước. Tâm hoả đốt ở trong thì tim ngực phiền nóng. Hoả nhiễu tâm thần thì thần bất an cho nên mất ngủ, nặng thì phát cuồng, vật vã, nói sảng mất. Tâm khai khiếu ra ở lưỡi, hoả nhiệt theo đường kinh bốc lên thì đầu lưỡi đỏ. Tâm hoả thịnh thì miệng lưỡi sinh nhọt lở, loét nát, sưng đau,“những chứng nhọt ngứa đau đều thuộc ở tâm”. Tâm hoả thịnh vào tiểu trường thì tiểu tiện đục rít. Tâm hoả thịnh thì huyết nhiệt vọng hành, sinh ra thổ nục tiểu tiện ra huyết. Đầu lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác đều là triệu chứng thực nhiệt.

Điểm chính để chẩn đoán là: Tâm thần bất an và các triệu chứng thực nhiệt.

4. Luận trị:

- Phép trị: Thanh tả tâm hoả.

- Phương dược:

* Tả tâm thang (Kim quỹ yếu lược):    Đại hoàng 12g    Hoàng liên 6g    Hoàng cầm 6g.

Phân tích: Bài này để chữa chứng hoả bức huyết vọng hành gây nôn máu, chảy máu cam, táo bón. Gồm các vị Đại hoàng, Hoàng liên, Hoàng cầm đều là thuốc rất đắng, rất lạnh để tả tâm hoả, giải độc, hoá thấp, tiết nhiệt. Phương này dùng Đại hoàng làm quân nhưng không phối với Mang tiêu, vì không dùng ý nghĩa tả hạ, mà lấy tính đắng hàn để tả hoả, lại phối với Hoàng liên, Hoàng cầm là những vị tả hoả ở thượng tiêu và trung tiêu.

* Đạo xích tán (Tiểu nhi dược chứng trực quyết):

Sinh địa   12g            Mộc thông      12g          Sinh cam thảo     12g

Tán mịn, mỗi lần uống 9g. Hoặc sắc với Trúc diệp uống nóng.

Phân tích: Sinh địa để lương huyết tư âm, chế tâm hoả là quân. Mộc thông để thanh nhiệt ở kinh tâm, lợi thủy thông tiểu tiện là thần. Sinh cam thảo để thanh nhiệt giải độc, điều hoà các vị thuốc là tá sứ.

Chứng đàm hỏa nhiễu tâm

1. Nguyên nhân:

Chứng đàm hoả nhiễu tâm là vì đàm hoả nhiễu loạn tâm thần, ngũ chí hoá hoả, đốt dịch thành đàm, đàm hoả thịnh ở trong hoặc ngoại cảm tà nhiệt hiệp với đàm hãm ở tâm bào đều có thể gây ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Mặt đỏ, mắt đỏ, phát sốt, tâm phiền, phát cuồng vật vã, nói sảng, lưỡi ngượng khó nói, họng có nhiều đàm, nôn ra đàm vàng đặc, lưỡi đỏ, rêu vàng nhờn, mạch hoạt sác, hoặc thấy mất ngủ tâm phiền hoặc nói năng rối loạn, cười khóc thất thường, hành vi khác thường.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Ngoại cảm tà nhiệt đốt ở trong, Diệp Quế nói: “ôn tà vào phần trên trước hết là phạm phế, truyền ngược vào tâm bào”. Tà nhiệt đốt dịch thành đàm, đàm nhiệt đóng lại ở bào lạc che mờ tâm thần cho nên thần mê vật vã phát cuồng. Thế nhiệt đốt mạnh bốc lên thì thấy mặt đỏ, mắt đỏ, phát sốt, tâm phiền. Đàm chứa đọng ở trong cho nên thấy trong họng có tiếng đàm, mửa ra đàm vàng đặc. Lưỡi là mầm của tâm, đàm nhiệt trở ở tâm khiếu thì lưỡi ngượng mà khó nói. Đàm hoả thịnh ở trong cho nên lưỡi đỏ rêu vàng nhờn, mạch hoạt sác.

Ở bệnh nội thương thì điều 20 sách Nội kinh nói: “Trùng dương thì cuồng”. Sách Tố Vấn nói: “Các chứng vật vã phát cuồng đều thuộc tâm hoả”, cho nên ngũ chí hoá hoả, đốt dịch thành đàm, nhiễu lên tâm khiếu có thể xuất hiện chứng cuồng. Đàm hoả giao kết với nhau, nhiễu loạn tâm thần, cho nên thấy mất ngủ, tâm phiền, nói rối loạn, cười khóc thất thường. Hoả thuộc dương, dương chủ động, tâm thần vì đàm mà thất thủ, cho nên hành vi trái thường, vội vã, vật vã, rối loạn.

Điểm chính để chẩn đoán có 2 ý:

 Một là hiện tượng nhiệt.

Hai là thần chí trái thường nhẹ thì mất ngủ, tâm phiền, nặng thì phát cuồng, vật vã, nói mê.

4. Luận trị:

- Phép trị: Thanh tâm giáng hoả, trừ đàm khai khiếu.

- Phương dược:

* Dịch đàm thang (Tế sinh phương) hợp với bài Tả tâm thang:

Trần bì           15g

Nam tinh         8g

Xương bồ            3g

Bán hạ           15g

Trúc nhự        2g

Đại táo                2quả

Phục linh         9g

Chỉ thực          6g

Sinh khương        3lát

Cam thảo        5g

Đảng sâm       3g

Đại hoàng

Hoàng cầm

Hoàng liên

Phân tích: Bán hạ có công năng toá thấp hoá đàm hoà trung chỉ nôn tiêu bĩ tán kết, hợp cùng Nam tinh, Trúc nhự để trừ đàm. Khí cơ không thông thì đàm ngưng, đàm ngưmg thì khí cơ lại trử trệ cho nên dùng Trần bì, Chỉ thực để lý khí hoá đàm, khí thuận thì đàm giáng, khí hoà thì đàm cũng hóa. Đàm do thấp sinh ra, thấp khứ thì đàm tiêu nên dùng Phục linh để kiện tỳ lợi thấp, Đảng sâm để ích khí kiện tỳ, Cam thảo, Đại táo, Sinh khương để kiện tỳ hoà trung. Xương bồ để khai khiếu. Tả tâm thang để thanh tả tâm hoả.

* Thang thuốc nam trừ đàm khai khiếu (Thuốc nam châm cứu Viện Đông y):

Xương bồ

  12g

       Thiên môn

16g

Đởm tinh

  12g

       Tâm sen

  8g

Chi tử

  12g

        Muồng trâu

20g

Mạch môn

  16g

        (hoặc Đại hoàng)

12g

Phân tích: Xương bồ để khai khiếu. Đởm tinh để hoá đàm. Chi tử để tả hoả. Mạch môn, Thiên môn để tư âm. Muồng trâu, Đại hoàng để thông hạ. Tâm sen để an thần.

Chứng đàm mê tâm khiếu

1. Nguyên nhân:

Chứng đàm mê tâm khiếu là chỉ về những triệu chứng vì đàm trọc che bít tâm khiếu mà biểu hiện ra. Những trường hợp có thấp trọc đọng lâu, lâu rồi hoá đàm, hoặc tình chí không thoải mái, uất mà sinh đàm, đều có thể sinh ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Bụng tức nôn mửa, họng có tiếng đàm, tinh thần lúc đờ đẫn, lúc tỉnh táo, nặng thì có khi mê man không biết gì, rêu lưỡi trắng nhờn, mạch hoạt. Hoặc tinh thần lạnh nhạt, uất ức, si ngốc, nói một mình, cử chỉ thất thường, hoặc bỗng nhiên kinh sợ thét lên mê ngã ra, trong họng có tiếng đàm, chân tay co giật. (Động kinh, tâm thần phân lập, TBMM não).

3. Cơ chế bệnh sinh:

Thấp đàm đọng ở trong, vị mất hoà giáng, vị khí nghịch lên thì tức bụng nôn mửa. Đàm theo họng lên thì trong họng có tiếng đàm kêu. Đàm mê tâm khiếu mà tinh thần mê muội, si ngốc, cử chỉ thất thường là thuộc chứng điên. Đó là loại bệnh thuộc tinh thần thất thường, phần nhiều vì tình chí không thoải mái, can khí uất kết mà thành đàm, đàm che lấp tâm khiếu mà gây ra. Đàm mê tâm khiếu mà bỗng nhiên kinh sợ thét lên hôn mê ngã ra, chân tay co giật là thuộc bệnh động kinh. Hoặc vì tiên thiên bất túc, hoặc vì bỗng nhiên gặp kinh hoảng, hoặc vì tỳ vị suy tổn, làm cho đàm dãi chứa đọng ở trong mà bỗng nhiên hôn mê ngã ra, chân tay co giật. Rêu lưỡi trắng nhờn, mạch hoạt là hiện tượng đàm trệ.

4. Luận trị:

- Phép trị: Trừ đàm khai khiếu.

- Phương dược:

* Dịch đàm thang (Tế sinh phương):

Trần bì           15g

Nam tinh         8g

Xương bồ            3g

Bán hạ           15g

Trúc nhự         2g

Đại táo                2quả

Phục linh         9g

Chỉ thực          6g

Sinh khương        3lát

Cam thảo        5g

Đảng sâm       3g

Phân tích: Bài này dựa trên cơ sở của bài Nhị trần thang (Bán hạ, Trần bì, Phục linh, Cam thảo) để trừ đàm. Thêm các vị Nam tinh, Trúc nhự để táo thấp hoá đàm, tiêu bĩ tán kết. Chỉ thực để lí khí hoá đàm. Đảng sâm, Đại táo để kiện tỳ lợi thấp. Xương bồ để khai khiếu.

* An cung ngưu hoàng hoàn (Ôn bệnh điều biện): Ngưu hoàng, Uất kim, Tê giác, Hoàng cầm, Hoàng liên, Hùng hoàng, Sơn chi, Mai phiến, Xạ hương, Chân châu, Chu sa.

Ngưu hoàng, Tê giác để thanh tâm giải độc, bên trong thấu bào lạc. Hoàng cầm, Hoàng liên, Sơn chi thanh nhiệt tả hoả. Uất kim thông tâm khí để khai khiếu. Chu sa, Chân châu để chấn tâm an thần. Xạ hương, Băng phiến, Hùng hoàng để hoá đàm giải độc.

TỲ VÀ VỊ

Chứng tỳ khí hư

1. Nguyên nhân:

Chứng tỳ khí hư là triệu chứng vì tỳ khí hư suy không vận hoá được mà biểu hiện ra. Hễ ăn uống không chừng độ, khó nhọc hại khí, bệnh lâu, chữa lầm làm tổn hại đến khí đều có thể gây ra chứng này. (Bệnh viêm dạ dày mạn, Suy nhược cơ thể, viêm đại tràng mạn).

2. Chứng trạng:

Chán ăn, ăn vào không tiêu hoá được, bụng chướng đầy, ăn vào đầy thêm, ruột sôi, tiết tả, thần mệt, yếu sức, ít khí, mình nặng, chân tay rũ rời hoặc phù thủng hoặc gầy róc, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch nhược.

3. Biện chứng :

Tỳ khí hư nhược không vận hoá thì thức ăn đọng lại không tiêu cho nên bụng đầy chướng, chán ăn, ăn vào thì tỳ khí càng nguy khốn cho nên càng chướng thêm. Khí hư thủy thấp không vận hoá đọng lại rồi tràn ra ngoài da thì mình nặng, chân tay rũ rời, mỏi mệt, phù thũng; chảy dồn vào ruột thì ruột sôi tiết tả. Tỳ chủ cơ nhục, tỳ khoẻ thì cơ nhục vinh nhuận thì hoạt động tốt, tỳ hư cơ nhục được nuôi dưỡng kém thì mệt mỏi, sức yếu, chân tay rũ rời, lâu ngày thì cơ nẽo, gầy róc. Tỳ khí hư không vận hoá thì không có nhuồn gốc sinh huyết cho nên huyết thiếu, huyết thiếu thì mạch nhược, lưỡi nhợt, rêu trắng.

Điểm chính để chẩn đoán là: chán ăn, đầy bụng, ỉa lỏng, mệt mỏi.

4. Luận trị:

- Phép trị: Kiện tỳ ích khí

- Phương dược:

* Tứ quân tử thang  (Hoà tễ cục phương):

Nhân sâm,        Phục linh,       Bạch truật,       Cam thảo.

Phân tích: Nhân sâm đại bổ nguyên khí, kiện tỳ, dưỡng vị là quân. Phục linh lợi niệu thảm thấp kiện tỳ. Bạch truật kiện tỳ táo thấp là thần. Cam thảo bổ khí, dẫn thuốc là tá sứ.

Phụ phương:

- Tứ quân thêm Trần bì thành bài Dĩ công tán, chữa tỳ vị hư kiêm khí trệ. Hay gặp ở trẻ em tiêu hoá không tốt, ăn kém, ỉa chảy.

- Bài Tứ quân thêm Trần bì, Bán hạ gọi là Lục quân tử thang chữa tỳ vị hư kiêm đàm thấp.

- Bài Tứ quân thêm Trần bì, Bán hạ, Mộc hương, Sa nhân gọi là Hương sa lục quân tử thang, chữa tỳ vị hư kiêm hàn thấp ở trung tiêu gây đầy tức, đau thượng vị, ỉa chảy, hay gặp ở bệnh viêm loét dạ dày hành tá tràng.

* Sâm linh bạch truật tán  (Hoà tễ cục phương):  

Nhân sâm

2cân

Cát cánh

1 cân  

Liên nhục

1 cân  

Bạch truật 

2 cân

Ý dĩ  

1 cân  

Bạch biển đậu

1,5 cân  

Bạch linh

2 cân

Sơn dược

2 cân  

Sa nhân  

1 cân

Cam thảo

2 cân

Tác dụng bổ khí kiện tỳ chữa tỳ vị hư gây ỉa chảy.  

* Bài thuốc nam kiện tỳ (Thuốc nam châm cứu Viện đông y):

Bố chính sâm 40g    Rễ đinh lăng lá nhỏ 40g    Rễ vú bò 40g    Củ sả 30g     ý dĩ 30g      Cam thảo15g       Trần bì 20g             Gừng khô 10g.        

Làm hoàn mật chữa tỳ vị hư có ỉa chảy.

Chứng tỳ khí hạ hãm

1. Nguyên nhân:

Chứng tỳ khí hạ hãm là những triệu chứng tỳ vị khí hư nhược không có sức nâng lên mà lại hãm xuống gây ra. Hễ là ăn uống, khó nhọc, sau khi bệnh lâu, hoặc đi tả lâu đều có thể sinh ra chứng này. Phần nhiều vì chứng tỳ khí hư phát triển thêm mà thành (Bệnh thoát vị, sa dạ dày, trĩ, lòi dom...).

2. Chứng trạng:

Chứng tỳ khí hư hạ hãm biểu hiện: huyền vựng, khí đoản, thích được thở dài, tiếng thấp, nhác nói, mình nặng, chân tay rũ rời, bụng sợ không ăn, ăn vào càng tăng, hoặc đại tiện đi lỏng, đi tướt lâu, giang môn nặng trệ xuống, nặng thì thoát giang. Hoặc tiểu tiện đi luôn, tiểu tiện nước như gạo, hoặc tử cung lòi ra. Lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch nhược.

3. Cơ chế bệnh:

Tỳ khí nên thăng thì khoẻ. Nếu tỳ khí hư nước hãm xuống, thanh dương không đưa lên thì đầu mặt xây xẩm, choáng váng, đại khí trong lồng ngực không đủ, thì khí ngắn, thích được thở dài, tiếng thấp nhác nói. Khí ở trung quản hư thì bụng sệ xuống, ăn vào càng tăng thêm. Trung khí hãm xuống, thì sự nâng lên giữ lại không được cho nên đại tiện tiết lâu, giang môn nặng tỳ, thoát giang âm đĩnh. Tỳ chủ tán tinh, tỳ khí hư hãm thì tinh vi của thức ăn không được tán ra mà chảy xuống bàng quang. Cho nên tiểu tiện đi luôn mà đục, mình nặng chân tay rũ rời, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch nhược đều là tỳ khí hư.

Điểm chính để chẩn đoán: chứng tỳ hư kiêm chứng hạ hãm.

4. Luận trị:

- Phép trị: Bổ tỳ ích khí thăng đề.

- Phương dược:

* Bổ trung ích khí thang (Tỳ vị luận):

Hoàng kỳ

  12g

Đương quy

8g

Nhân sâm

  12g

Trần bì

4g

Bạch truật

    8g

Thăng ma

6g

Cam thảo

    6g

Sài hồ

6g

Phân tích: Hoàng kỳ bổ trung ích khí, thăng dương cố biểu làm quân. Nhân sâm, Bạch truật, Cam thảo bổ khí kiện tỳ ích vị làm thần. Đương quy bổ huyết, Trần bì lý khí hoá trệ làm tá. Sài hồ, Thăng ma thăng đề dương khí là sứ vì tỳ vị khí hư không thăng phù được khiến cho khí của tạng phủ hạ hãm gây chứng sa tạng phủ, dùng Thăng ma, Sài hồ làm thăng phát dương khí ở trong tỳ thổ, Bởi vậy bài bổ trung được dùng để đặc trị các chứng sa tạng phủ. Khi dùng có thể thêm Đại táo, Sinh khương để ôn ấm tỳ vị.

Chứng tỳ không thống huyết

1. Nguyên nhân:

Chứng tỳ không thống huyết là chỉ vào triệu chứng vì khí hư nhược không thống nhiếp được huyết dịch mà sinh ra, vì khó nhọc hại tỳ, hoặc người yếu bệnh lâu làm cho tỳ khí suy tổn, đều có thể sinh ra chứng  này. (Bệnh thiếu máu, dị ứng thành mạch, chảy máu nội tạng)

2. Chứng trạng:

Với các triệu chứng xuất huyết như thổ huyết, nục huyết, lạc huyết, nữu huyết, kinh nguyệt quá nhiều, hoặc băng lậu, cơ nục, và thường kiêm có các chứng huyễn vựng, đoản khí, thần mệt, người mệt, ăn ít, bụng đầy, phân lỏng, sắc mặt trắng nhợt hoặc vàng ải, lưỡi nhợt, mạch tế.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Huyết sinh ở tỳ, tỳ khí vượng thì các kinh nhờ đó được nuôi dưỡng trưởng thành. Tỳ khí hư trăm mạch do đó mà trống rỗng. Huyết lại thống thuộc ở tỳ, cho nên huyết vận hành khắp trên dưới, hoàn toàn nhờ ở tỳ. Nếu tỳ khí hư âm dương không giữ kín được nhau, huyết dịch li kinh mà chạy loạn. Huyết nghịch lên trên tràn ra khiếu trên thì thành thổ huyết, lạc huyết, nục huyết; huyết thoát ở dưới thì thành đại tiểu tiện ra máu; huyết tràn ở ngoài thì thành cơ nục. Tỳ hư, mạch nhâm, mạch xung không giữ kín cho nên kinh nguyệt quá nhiều hoặc băng huyết, lậu huyết không chỉ.               

Huyết thoát thì sắc bạc khô mà không mượt, trong mạch trống rỗng cho nên sắc mặt xanh bạc, lưỡi nhợt, mạch tế.

Tỳ khí hư thì cơm nước khó hoá, thấp trọc sinh ở trong cho nên ăn ít, bụng chướng, phân lỏng. Khí huyết không đủ thì huyễn vựng, khí đoản, thần mệt, người mỏi.

Điểm chính để chẩn đoán là: tỳ khí hư kiêm có xuất huyết.

4. Luận trị:

- Phép trị: Ôn tỳ nhiếp huyết.

- Dược vị: các vị thuốc có tác dụng chỉ huyết: Tam thất, Bạch cập, Tông lư, Ngẫu tiết, Bồ hoàng, Trắc bách diệp, Hạn liên thảo, Tiên hạc thảo, Ô tặc cốt, Ngải cứu...

- Phương dược:

* Quy tỳ thang (Tế sinh phương): Hoàng kỳ, Nhân sâm, Long nhãn, Mộc hương, Đương quy, Bạch truật, Phục thần, Táo nhân, Cam thảo, Viễn chí, Sinh khương, Đại táo. (Xem phần tâm huyết  hư).

Phân tích: Sâm Kỳ Truật Thảo, Khương Táo để bổ tỳ ích khí. Quy để dưỡng tâm an thần. Viễn chí để giao tâm thận định chí an thần. Mộc hương lý khí tỉnh tỳ.

* Bách diệp thang: Bách diệp 12g, Can khương 12g, Lá ngải 30g.

Công dụng dẫn huyết về kinh. Chữa nôn ra huyết lâu ngày không khỏi, sắc mặt vàng bủng do tỳ hư không thống huyết.

Chứng tỳ dương hư

1. Nguyên nhân:

Chứng tỳ dương hư là những triệu chứng vì tỳ dương hư suy mà biểu hiện ra. Ăn nhiều đồ ăn lạnh, dùng quá hoặc dùng sai thuốc hàn lương đều có thể làm tổn hại đến tỳ dương; người nhiều tuổi, thận dương không đủ hoặc người bệnh lâu tổn hại đến tỳ khí, cũng có thể làm cho tỳ dương không đủ mà sinh ra chứng này (Bệnh loét dạ dày, tá tràng, viêm ĐT mạn).

2. Chứng trạng:

Người lạnh, tay chân lạnh, miệng nhạt không khát, hoặc tràn ra nước trong; bụng chướng kém ăn, ăn vào chướng đầy, bụng lạnh mà thích ăn nóng; bụng đau lâm râm, thích ấm thích xoa, phân lỏng, ngũ canh tiết tả, người mệt; mặt phù, chân tay phù thũng, lưỡi bệu nhợt, rêu trắng trơn, mạch trầm trì vô lực.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Khí thái âm thấp thổ được dương thì vận hoá. Nếu tỳ dương không đủ thì không vận bố được khí cơ. Dương khí không đạt ra tay chân thì người lạnh tay chân lạnh. Vùng bụng dương khí kém không vận hoá được thì miệng nhạt ít ăn. Dương hư sinh nội hàn, hàn ngưng khí trệ cho nên bụng chướng đau mà thích ấm thích xoa. Dương khí hư thủy dịch không hoá, tràn lên trên thì miệng nôn ra nước trong, tràn ra ngoài thì mặt phù, chân tay thũng, dồn xuống dưới thì phân lỏng. Người mệt, lưỡi bệu, rêu trắng trơn, mạch trầm trì vô lực là dương khí không đủ, hàn thủy đọng ở trong.

Điểm chính để chẩn đoán là: tỳ mất kiện vận cộng với hư hàn.

4. Luận trị:

- Phép trị: Ôn trung kiện tỳ.

- Phương dược: Lý trung thang (Thương hàn luận).

Nhân sâm   6g        Can khương   5g        Cam thảo   6g          Bạch truật    9g

Phân tích: Can khương để ôn tỳ vị khu lý hàn. Nhân sâm để đại bổ nguyên khí. Bạch truật để kiện tỳ táo thấp. Cam thảo để ích khí hoà trung. Trình Ung Thư nói: “Lý trung thực ra là biến lý dư trung tiêu dương vậy. Phàm thái dương bệnh, đau bụng, nôn mửa, ỉa chảy, bụng đầy, không ăn được, mạch trì hoãn, miệng nhạt, lưỡi trắng đều cá thể dùng phương thuốc này điều trị”. Nếu đã tỳ vị hư hàn lại thêm phong hàn vào người thì thêm Phụ tử 3g để ôn dương khu hàn .

Chứng tỳ vị thấp nhiệt

1. Nguyên nhân:

Chứng tỳ vị thấp nhiệt là những triệu chứng vì thấp nhiệt đọng lại ở trung tiêu mà gây ra. Khi ăn nhiều chất ngon béo, uống rượu hoặc bị cảm tà khí thấp nhiệt ở ngoài, thấp ủ ấp hoá nhiệt đọng lại ở tỳ vị đều có thể sinh ra chứng này (Bệnh viêm dạ dày cấp, viêm ruột cấp, viêm gan VR cấp).

 2. Chứng trạng:

Mình nóng ra mồ hôi, nôn mửa, ít ăn, bụng đầy tức, chân tay mình mảy nóng mỏi, đại tiện phân loãng, dính nhờn phải rặn, nước tiểu đỏ, hoặc mặt, mắt toàn thân phát vàng, sắc tươi như quả quýt, ngứa gãi liên tục, hoặc phát sốt dai dẳng, mồ hôi ra mà sốt không hết, lưỡi đỏ, rêu vàng trơn, mạch nhu sác hoặc hoạt sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Tà khí thấp nhiệt kết đọng ở tỳ vị, tỳ không vận hoá được thì bụng đầy tức, vị mất hoà giáng thì nôn mửa, kém ăn. Thấp nhiệt xông nấu ở trong thì nóng ra mồ hôi mà sốt không hết. Thấp bám ở da thịt chân tay thì thân mình nặng nề. Thấp nhiệt dồn xuống thì phân loãng, nhờn dính, nước tiểu đỏ. Thấp theo hoả hoá ứ nhiệt ở trong, đởm nhiệt tiết dịch ra, kết hợp với thấp trọc của tỳ vị xông đốt, át uất thẩm dầm da thịt, tràn ra ở da, cho nên đầu thân đều vàng, khắp mình sinh ngứa. Sách tạp bệnh nguyên lưu nói: “Thấp nhiệt uất chưng màu sắc thay đổi, nếu là thấp thắng thì màu vàng đen tối sạm, nhiệt thắng thì màu vàng tươi như quả quýt”. Lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác là thuộc nhiệt; rêu nhờn, mạch hoạt, mạch nhu là thuộc thấp.

Điểm chính để chẩn đoán là: cùng thấy chứng tỳ mất kiện vận và chứng thấp nhiệt.

4. Luận trị:

- Phép trị: Thanh nhiệt hoá thấp.

- Phương dược:

* Nhân trần ngũ linh tán (Kim quỹ yếu lược).

Nhân trần

  20g

              Bạch truật

12g

Phục linh

  12g

              Trạch tả

16g

Trư linh

  12g

               Quế chi

08g

Phân tích: Nhân trần để lợi thấp thoái hoàng. Bạch truật để kiện tỳ, vận hoá thủy thấp. Trạch tả, Phục linh, Trư linh để thảm thấp lợi thủy. Quế chi để thúc đẩy khí hoá của bàng quang. Bài này dùng cho thấp nhiều hơn nhiệt, phân sột sệt không tiêu.

* Liên phác ẩm (Hoắc loạn luận):

Hậu phác

  12g

              Hoàng liên

 6g

Thạch xương bồ

    6g

              Bán hạ

 6g

Đậu xị

  18g

              Sơn chi

18g

Lô căn

   40g

Phân tích: Hậu phác để hành khí hoá thấp. Hoàng liên để thanh nhiệt táo thấp. Sơn chi, Đậu xị để tuyên tà nhiệt ở trong ngực bụng trên. Xương bồ để hoá thấp. Bán hạ để hoá đờm hoà vị. Lô căn để thanh nhiệt hoá thấp hoà vị chỉ nôn. Bài này dùng cho thấp và nhiệt đều nặng, do thấp trở ngại trung tiêu, uất lại sinh nhiệt.

Chứng vị hàn

1. Nguyên nhân:

Chứng vị hàn là chỉ vào triệu chứng vì âm hàn đọng ở vị quản mà biểu hiện ra. Ăn uống đồ sống lạnh, hoặc hàn tà xâm vào vị phủ, trung dương bị phạt, hàn đọng ở vị quản đều có thể gây ra chứng này.

 2. Chứng trạng:

Vị quản đau, đến vội, đau dữ dội, gặp lạnh đau hơn, thích ấm, thích xoa, nôn mửa ra nước trong, miệng nhạt, không khát, ruột sôi ùng ục, ỉa chảy, người lạnh, chân tay lạnh; lưỡi nhợt, rêu trắng trơn, mạch trầm trì hoặc huyền.

 3. Cơ chế bệnh sinh:

Hàn thuộc âm, tính ngưng trệ, chủ co vào, hàn đọng ở vị quản, khí trệ không thông, không thông thì đau, cho nên vị quản đau. Hàn chủ thu dẫn, kinh khí bị trở, kinh mạch bị bế tắc, cho nên có khi đau dữ dội, nặng thì chân tay quyết lạnh ra mồ hôi. Hàn khí gặp nhiệt thì tản ra, khí huyết  gặp nhiệt thì lưu hành, cho nên đau được nhiệt thì bớt.

Vị khí bị tổn thương không vận hoá được cơm nước cho nên tinh vi của thức ăn hoá thành thủy ẩm. ẩm theo vị khí nghịch lên cho nên nôn mửa ra nước trong, thủy ẩm chạy vào đường ruột cho nên ruột có tiếng sôi. Hàn tà hại dương, dương khí không đầy đủ cho thân mình cho nên người lạnh tay chân lạnh. Hàn thịnh ở trong thì miệng nhạt, không khát, đại tiện lỏng, rêu lưỡi trắng, mạch trì hoặc huyền.

Điểm chính để chẩn đoán là: vị quản đau mà có hiện tượng hàn.

 4. Luận trị:

- Phép trị: Ôn vị tán hàn.

- Phương dược: Lương phụ hoàn (Lương phương tập giải)

Cao lương khương rửa bằng rượu 7 lần. Hương phụ rửa bằng dấm 7 lần. Lượng bằng nhau, tán bột làm hoàn.

Phân tích: Cao lương khương để ôn vị tán hàn. Hương phụ để lý khí, hành khí chỉ đau.

Chứng vị âm hư

1. Nguyên nhân:

Chứng vị âm hư là triệu chứng vì vị âm không đủ mà biểu hiện ra. Nếu là vị bị bệnh lâu ngày không khỏi, hoặc sau khi bị nhiệt, bệnh âm dịch suy hao, hoặc ngũ chí hoá hoả, hoặc thích ăn đồ cay nóng đều có thể sinh ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Đói mà không muốn ăn, vùng dạ dày nóng đốt, đau âm ỉ, nôn khan, nấc; bụng đầy khó chịu; miệng khô, họng khô, miệng khát muốn uống nước; tiếng tháo, khí mệt; đại tiện bí, lưỡi đỏ, ít rêu, hoặc trọc lưỡi, mạch tế sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Vị âm không đủ, vị dương cang lên, hư nhiệt sinh ở trong, vị khí mất hoà cho nên đói mà không muốn ăn, vị quản nóng đau, nê đầy khó chịu, vì thế nói tà hoả không tiêu được cơm là như vậy. Nôn khan, nấc là vị hoả nghịch lên, họng khô muốn uống nước, đại tiện bí đều là do tân dịch thiếu, tiếng nói thấp khí kém là thổ không sinh kim. Lưỡi mạch như vậy là đều thuộc hư hoả.

Điểm chính để chẩn đoán là: Đói không muốn ăn mà cùng thấy với  chứng âm hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Tư dưỡng vị âm.

- Phương dược:

* Sa sâm mạch đông thang (Ôn bệnh điều biện):

Sa sâm            12g

Tang diệp            6g

Sinh biển đậu   6g

Ngọc trúc         8g

Thiên hoa phấn   6g

Mạch môn      12g

Sinh cam thảo  4g

* Ích vị thang: Sa sâm, Mạch môn, Ngọc trúc, Sinh địa, Đường phèn

Phân tích: Sa sâm, Mạch môn, Ngọc trúc, Sinh địa, Hoa phấn, Biển đậu để tư âm dưỡng vị thanh nhiệt. Tang diệp để thanh nhiệt. Sinh cam thảo để hoà vị.

Chứng tỳ âm hư

1. Nguyên nhân:

Chứng tỳ âm hư là những triệu chứng vì tỳ âm không đủ mà biểu hiện ra. Vì ăn uống, lao quyện, ngoại cảm, nội thương đều có thể sinh ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Không đói, không ăn, ít nước dãi, họng khô, không muốn uống nước, bụng chướng, da và lòng bàn tay bàn chân nóng, người gầy róc, đại tiện bí, tiểu tiện ít, lưỡi sạch không có rêu hoặc có tróc máng, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác.

 3. Cơ chế bệnh sinh:

Cố Trùng Viên nói: “Lao quyện hại tỳ thì phần âm của tỳ bị tổn thương là phần nhiều”. Ngô Đường lại nói: “Hàn thấp phần nhiều hại phần dương của tỳ, thấp nhiệt phần nhiều hại phần âm của tỳ vị”. Cho nên ngoại cảm nội thương đều có thể làm cho tỳ âm không đủ. Ông Trần Tu Viên cho rằng tỳ là thái âm, là trưởng của tam âm, cho nên chữa âm hư lấy tỳ âm là chính. Tỳ âm đủ thì có thể tưới nhuận cho các tạng phủ, do đó có thể thấy tính quan trọng của tỳ âm. Tỳ vị đều có âm dịch, tỳ âm chủ về dinh huyết, vị âm chủ về tân dịch, cho nên tỳ âm hư phần nhiều do nội thương khí huyết mà vị âm hư thường phát sinh ở thời kỳ cuối của bệnh nhiệt tương đối rõ rệt. Tỳ chủ việc vận hoá, âm hư thì khó vận hoá, cho nên đặc điểm của tỳ âm hư là nê bụng không nghĩ đến chuyện ăn, âm dịch không đủ cho nên trên thì họng khô, nước dãi ít, dưới thì phân khô, nước tiểu ít.

Âm hư sinh nội nhiệt cho nên da thịt bừng nóng, lòng bàn tay bàn chân nóng. Hư nhiệt chưng bốc âm vinh cho nên họng khô mà không muốn uống nước. Âm thiếu thì dương không kiện vận cho nên bụng chướng. Ăn ít thì da thịt không được nuôi đủ cho nên gầy róc. Lưỡi mạch là tượng trưng của âm hư.

Điểm chính để chẩn đoán là: không đói, không ăn, cộng thêm chứng âm hư.

4. Luận trị:  Như điều trị vị âm hư.

Chứng thực trệ vị quản

1. Nguyên nhân

Chứng thực trệ vị quản là triệu chứng thức ăn đọng ở vị quản mà biểu hiện ra. Mỗi khi vì ăn uống không chừng độ, hoặc tỳ vị hư nhược không vận hoá được đều có thể gây ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Vị quản chướng đau, không thích nghe mùi thức ăn, ợ thối nuốt chua, hoặc nôn mửa ra thức ăn, mửa rồi thì chướng đau, hoặc trung tiện, ỉa lỏng, ỉa ra mùi thối nhiều; rêu lưỡi dày, mạch hoạt.

3. Cơ chế bệnh sinh:

“Ăn uống no quá, trường vị bị tổn thương”. Vì ăn uống không chừng độ, hoặc tỳ vị hư nhược. Làm cho thức ăn ngưng trệ trong dạ dày, khí của tỳ vị uất trệ thì vị quản chướng tức mà đau. Vị không hoà giáng, trọc khí nghịch lên thì không thích nghe mùi thức ăn, ợ thối, nuốt chua, nặng thì nôn mửa ra thức ăn. Nếu trọc khí đi xuống, thấp trọc sinh ở trong, có thể làm cho trung tiện, phân lỏng, ỉa ra mùi thối khẳm. Trọc khí trong vị nghịch lên ở lưỡi thì rêu vàng. Thức ăn ngưng trệ ở trong, khí thực, huyết tràn nên mạch hoạt.

Điểm chính để chẩn đoán là: vị quản chướng đau, ợ thối, nuốt chua.

4. Luận trị:

- Phép trị: Tiêu thực đạo trệ.

- Phương dược:

* Bảo hoà hoàn (Đan khê tâm pháp):

Sơn tra      180g

Phục linh    90g

Liên kiều    30g

Thần khúc  60g

Trần bì       30g

La bạc tử    30g

Bán hạ       90g

Phân tích:  Sơn tra để tiêu các thức ăn tích trệ nhất là thịt, dầu mỡ. Thần khúc để kiện tỳ, tiêu các thức ăn với rượu tích trệ. La bặc tử để hạ khí tiêu thực, chủ yếu là ngũ cốc tích lại. Bán hạ, Trần bì để hành khí hoá trệ, hoà vị chỉ nôn. Phục linh để kiện tỳ lợi thấp hoà trung chỉ tả. Liên kiều để thanh nhiệt tán kết do thực tích.

* Tứ tiên tán: Mạch nha, Sơn tra, Thần khúc, Kê nội kim.

Chứng huyết ứ vị quản

1. Nguyên nhân:

Chứng huyết ứ vị quản là những triệu chứng vì huyết ứ tích ở vị quản mà biểu hiện ra. Hễ là tỳ vị bị bệnh lâu, hoặc hàn ngưng khí trệ làm cho khí huyết ứ ở vị quản, đều có thể sinh ra chứng này (Xuất huyết dạ dày, Viêm dạ dày cấp).

2. Chứng trạng:

Vị quản đau như đâm, ấn vào thì đau thêm, chỗ đau không cho đè vào, cố định không xê dịch, ăn ít, người gầy, hoặc có nôn mửa ra huyết đen, hoặc phân màu đen, lưỡi màu tím tối, có ban ứ, mạch sáp.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Bệnh bắt đầu ở kinh, lâu rồi vào lạc, vị bệnh đã lâu, khí trệ huyết ứ, ứ huyết tích ở đường lạc của vị cho nên vị quản đau như đâm mà không cho đè tay vào. ứ huyết cản trở ở trung tiêu, cơm nước khó được tiêu mòn cho nên ăn ít, ăn ít thì không đủ nuôi da thịt cho nên gầy mòn. ứ huyết đọng lại lâu, mạch lạc bị tổn thương, huyết dịch rồi kinh, cho nên nôn huyết, tiện huyết. Khí trệ huyết ứ cho nên lưỡi tím có ban ứ.

4. Luận trị:

- Phép trị: Hoạt huyết khứ ứ, hành khí chỉ thống.

- Phương dược:

* Huyết phủ trục ứ thang.

Đương quy

  20g

              Sài hồ

 4g

Sinh địa

  12g

              Cam thảo

 4g

Đào nhân

  16g

              Cát cánh

 6g

Hồng hoa

  12g

              Xuyên khung

 6g

Chỉ sác

    8g

              Ngưu tất

12g

Cách dùng: Sắc uống hoặc làm hoàn.

* Tứ vật đào hồng:

Đào nhân

Xuyên khung

Đương quy

Hồng hoa

Bạch thược

Thục địa

Chứng phế khí hư

1. Nguyên nhân.

Chứng phế khí hư là những triệu chứng vì phế khí không đủ mà biểu hiện ra. Hễ là bệnh lâu làm cho phế hư, hoặc ho xuyễn lâu ngày tổn hao phế khí, đều có thể sinh ra chứng này (Hen PQ, Viêm PQ, Suy tim, thiểu năng hô hấp).

2. Chứng trạng:

Là ho xuyễn không có sức, khí đoản, đàm nhiều mà trong loãng tiếng nói thấp mà nhác nói, dễ bị cảm mạo, chất lưỡi nhợt, mạch hư.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Phế khí hư là biểu hiện công năng của phế bị suy giảm. Thường thấy ở các bệnh ho lâu ngày làm thương khí, nói nhiều thương khí, làm phế khí dần dần suy giảm. Ngoài ra tâm, tỳ, thận khí hư cũng dẫn đến phế khí hư.

Phế chủ bì mao cho nên phế khí hư thì không nhu nhuận được cho bì mao, làm bì mao suy yếu không đủ sức chống đỡ ngoại tà xâm vào cho nên dễ bị cảm mạo. Ho xuyễn không có sức là thuộc phế khí suy tổn. Dễ bị cảm mạo, sợ gió, tự đổ mồ hôi là do phế khí hư không bảo vệ được. ở ngoài, tấu khí không kín chặt, cho nên ngoại tà dễ xâm vào, tân dịch dễ tiết ra. Phế khí hư thì tông khí không đủ nên người mệt nhoài, ngại nói tiếng nói yếu. Phế là nguồn trên của dòng nước, lại là chỗ để trữ đàm nên phế khí hư thì dịch thủy khó hoá, tụ lại thành đàm nhiều và trong loãng. Lưỡi nhợt mạch hư đều thuộc khí hư.

Điểm chính để chẩn đoán:  ho xuyễn không có lực, khí đoản, tự hãn.

4. Luận trị:

- Phép trị: Bổ ích phế khí.

- Phương dược:

* Bảo nguyên thang (Bác ái tâm giám).

Hoàng kỳ 20g     Nhân sâm 10g     Cam thảo  5g     Nhục quế  8g   Sinh khương 1 lát.

Phân tích: Sâm, Kỳ, Thảo để bổ nguyên khí, phế khí, trung khí. Quế để ôn dương. Nếu ra mồ hôi nhiều thì thêm Mẫu lệ, Tiểu mạch. Ho nhiều thì thêm Tử uyển, Tang bạch bì.

* Ngọc bình phong tán (Thế y đặc hiệu phương):

Hoàng kỳ 60g      Bạch truật 20g      Phòng phong 20g.

Phân tích: Bài này để chữa chứng biểu hư tự hãn. Hoàng kỳ bổ khí cố biểu, Bạch truật kiện tỳ bổ trung tiêu (nguồn gốc của khí), Phòng phong chạy ra ngoài biểu giúp Hoàng kỳ ích khí ngự phong.

PHẾ VÀ ĐẠI TRƯỜNG

Chứng phế âm hư

1. Nguyên nhân:

Chứng phế âm hư là những triệu chứng vì phế âm không đủ sinh ra hư nhiệt ở trong mà biểu hiện ra. Người tiên thiên không đủ, hậu thiên ăn uống, lao quyện, tình dục không điều độ hoặc ngoại cảm lâu bệnh không khỏi, uẩn nhiệt trong phế lâu ngày, làm hao tổn phế âm đều có thể sinh ra chứng này (Lao phổi, viêm thanh quản, suy nhược cơ thể).

2. Chứng trạng:

Ho khan không có đàm, hoặc ít đàm mà dính, nặng thì trong đàm có theo ít máu, nóng hầm ở trong, sốt có cơn, ngũ tâm phiền nhiệt, gò má đỏ, ra mồ hôi trộm, họng khô ráo, người gầy dần, hoặc hơi thở ngắn gấp, tiếng nói khàn khàn, lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

“Chứng âm hư là thông thuộc ở phế”. Như ho lao, khạc ra huyết, nóng hầm ở trong, ra mồ hôi trộm, là những chứng âm hư điển hình, đều thuộc phế âm không đủ. Phế âm không đủ thì hư hoả sinh ở trong (âm hư sinh nội nhiệt), đốt dịch thành đàm, dính chặt khó khạc ra, cho nên ho khan, không có đàm hoặc đàm khó khạc ra. Âm hư hoả động, nhào đốt đã lâu, huyết lạc bị tổn thương dần mà sinh khạc ra máu. âm dịch không đủ, tân dịch không tiếp lên trên được thì họng khô. Da không được nhu dưỡng thì người gầy sắc xấu. Ho lâu hại khí, phế uất thanh tức, tinh khí đoạt ở trong, cho nên hơi thở ngắn gấp. Họng là dây nói của phế, phế âm hư tổn thì tiếng nói khàn, tức là chuông vỡ thì không kêu. Lưỡi đỏ, ít rêu mạch tế sác đều thuộc về chứng âm hư.

Phế âm không đủ, với táo tà hại phế đều có chứng ho khan, ít đàm, đàm khó khạc ra và tân dịch suy tổn. Nhưng táo tà hại phế là ngoại cảm táo khí, phần nhiều thấy ở mùa thu, xuất hiện các chứng hơi sợ rét, phát sốt. Còn phế âm không đủ là bệnh nội thương lâu ngày, kiêm có hiện tượng âm hư hoả vượng như trào nhiệt, ra mồ hôi trộm, người gầy róc. Cần nói rõ thêm, táo tà hại phế lâu ngày rồi cũng sinh chứng phế âm không đủ.

4. Luận trị:

- Phép trị: Tư dưỡng phế âm.

- Phương dược:

* Bách hợp cổ kim thang (Y phương tập giải).

Sinh địa

 12g

Đương quy

8g

Thục địa

  12g

Bạch thược

8g

Huyền sâm

  12g

Bối mẫu

4g

Mạch môn

    8g

Cát cánh

6g

Bách hợp

  12g

Cam thảo

4g

Gia giảm: - Nếu ho ra máu thì thêm: Bạch cập 8g, A giao 8g.

                  - Nếu âm hư hoả vượng thì thêm Tri mẫu, Hoàng bá.

Phân tích: Sinh địa, Thục địa để tư âm bổ thận lương huyết. Mạch môn, Bách hợp để hoá đàm chỉ ho. Huyền sâm, Tri mẫu, Hoàng bá để tư âm thanh hư hoả, lương huyết. Đương quy để dưỡng huyết nhuận táo. Bạch thược để dưỡng huyết ích âm. Bối mẫu, Cát cánh để tuyên phế chỉ ho hoá đàm. Cam thảo để điều hoà các vị thuốc. Bạch cập để khứ ứ chỉ huyết. A giao để bổ huyết.

Chứng phong hàn thúc phế

1. Nguyên nhân:                 

Chứng phong hàn thúc phế là những triệu chứng vì ngoại cảm tà khí phong hàn phế khí bị bó lại mà biểu hiện ra. Mỗi khi bị cảm tà khí phong hàn, tà khí vào phế, phế khí không tuyên phát được, thì sinh ra chứng này (Bệnh viêm đường hô hấp trên do cảm cúm).

2. Chứng trạng:

Ho đàm loãng sắc trắng, người lạnh, phát sốt, ngực tức, tịt mũi, tiếng đục, đầu thân mình đau, không có mồ hôi (biểu thực), rêu lưỡi mỏng trắng, mạch phù khẩn.

 3. Cơ chế bệnh sinh:

Bị cảm tà khí phong hàn, hàn hại đến vệ dương, biểu chặt không tiết ra, kinh khí bị uất, cho nên người rét phát sốt, đầu thân mình đau, không có mồ hôi. Nội kinh nói: “người lạnh uống đồ lạnh thì hại phế”. Tà vào phế, phế khí không thông được, thủy dịch không được phân bố, tụ thấp thành đàm, cho nên thấy ho, ngực tức, nhiều đàm. Mũi là khiếu của phế, họng là hệ của phế. Phế bị tà, thì tà xâm vào phế khiếu và phế hệ, cho nên mũi tịt, tiếng nói đục.

Điểm chính để chẩn đoán là: Ho, kiêm có biểu chứng phong hàn.

 4. Luận trị:

- Phép trị: Tuyên phế tán hàn.

- Phương dược:

* Hạnh tô tán (Ôn bệnh điều biện):

Tô diệp

Bán hạ

Phục linh

Tiền hồ

Cát cánh

Cam thảo

Sinh khương

Trần bì

Hạnh nhân

Đại táo

Chỉ xác

Mỗi vị đều nhau

* Bài thuốc nam tuyên phế tán hàn  (Thuốc nam châm cứu Viện đông y).  

Tô diệp  

12g 

Kinh giới  

8g

Lá hẹ  

12g

Sinh khương

8g  

Lá xương sông

12g

* Tam ảo thang (Hoà tễ cục phương):  

Ma hoàng

6g

Hạnh nhân

9g

Kinh giới  

6g

Tiền hồ

9g

Bối mẫu  

9g

Trần bì  

9g

Cát cánh

5g

Cam thảo

5g

Phân tích: Tô diệp, Tiền hồ, Kinh giới để giải biểu tán tà. Hạnh nhân, Cát cánh để lợi khí chỉ ho. Bán hạ, Phục linh để khử thấp hoá đàm. Chỉ sác, Trần bì để lý khí khoan hung. Sinh khương, Cam thảo, Đại táo để điều hoà dinh vệ.

Chứng hàn tà xâm vào phế

1. Nguyên nhân:

Là những triệu chứng vì hàn tà xâm vào phế mà biểu hiện ra. Mỗi khi hàn tà xâm vào phế mà chứa đọng lại ở biểu thì có thể sinh ra chứng này (Viêm đường hô hấp trên do lạnh).

2. Chứng trạng:

Ho, khí xuyễn, đàm loãng, sắc trắng, người lạnh, chân tay mát, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trì.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Hàn tà xâm vào ở phế, dương khí bị uất, phế khí nghịch lên cho nên ho khí xuyễn. Hàn thuộc âm tà ngưng dịch thành đàm, cho nên đàm loãng sắc trắng. Dương khí bị uất không đạt ra tay chân được để sưởi ấm cho cơ thể cho nên người lạnh, chân tay mát. Hàn tính âm ngưng, làm cho khí huyết vận hành không lưu lợi, huyết không lên nuôi ở lưỡi thì lưỡi nhợt rêu lưỡi trắng, đường mạch không lưu lợi thì mạch trì.

Chứng này với chứng phong hàn thúc phế đều có ho, đàm loãng sắc trắng là chủ chứng. Nhưng chứng này hoàn toàn không có biểu chứng, lại còn có các chứng khí xuyễn, chân tay mát, và ho dữ dội hơn, đột nhiên phát ra, bệnh tình kéo dài, cho nên cần có sự phân biệt với chứng phong hàn thúc phế.

4. Luận trị:

- Phép trị: Ôn phế trừ hàn, chỉ khái định xuyễn.

- Phương dược:

* Xạ can ma hoàng thang (Kim quỹ yếu lược):

Ma hoàng         6g

Bán hạ                    6g

Tử uyển               9g

Xạ can              9g

Khoản đông hoa     9g

Đại táo                4 quả

Tế tân               5g

Ngũ vị tử                5g

Sinh khương        3 lát

Phân tích: Xạ can, Tử uyển, Khoản đông hoa lợi phế khí. Ma hoàng, Tế tân, Sinh khương phát tán tà khí. Bán hạ giáng nghịch. Đại táo yên trung tiêu. Ngũ vị tử liễm phế. 

Chứng phong nhiệt phạm phế

1. Nguyên nhân:

Chứng phong nhiệt phạm phế là triệu chứng vì phong nhiệt ở ngoài xâm vào phế, vệ khí bị bệnh mà biểu hiện ra. Mỗi khi bị tà khí phong nhiệt, phế khí không tuyên thông, thì có thể xuất hiện chứng này (Cảm cúm, viêm họng cấp).

2. Chứng trạng:

Ho, đàm đặc, sắc vàng, phát sốt, hơi sợ gió lạnh, miệng khô, họng đau, mũi tắc, chảy nước mũi vàng đục, đầu lưỡi đỏ, rêu mỏng vàng, mạch phù sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Tà khí phong nhiệt vào phế, phế mất thanh túc thì sinh ho, nhiệt là dương tà, đốt dịch thành đàm, cho nên đàm đặc sắc vàng. Phế vệ bị tà, tà chính tranh nhau thì sinh phát sốt, vệ khí uất át thì hơi sợ gió lạnh. Phong nhiệt nhiễu lên, nhiệt hại tân dịch thì miệng khô, hầu họng không thông thì đau. Mũi là khiếu của phế, phế khí không tuyên thông thì mũi tịt. Phong nhiệt đốt tân thì mũi chảy nước vàng đục. Đầu lưỡi đỏ, rêu mỏng vàng là thượng tiêu có nhiệt. Mạch phù sác là ngoại cảm phong nhiệt.

Điểm chính để chẩn đoán là: Ho và có cả biểu chứng phong nhiệt.

4. Luận trị:

- Phép trị: Tuyên phế thanh nhiệt.

- Phương dược:

* Tang cúc ẩm (Ôn bệnh điều biện):

Tang diệp

8g 

Cúc hoa

3g

Hạnh nhân

6g

Liên kiều

5g

Bạc hà

3g

Cát cánh

6g

Sinh cam thảo

3g

Lô căn

6g

* Thang thuốc nam tuyên phế nhiệt (Thuốc nam châm cứu Viện đông y):

Tang diệp 12g    Rễ chanh  8g    Bạc hà  8g

Phân tích: Tang diệp, Cúc hoa, Bạc hà, Liên kiều (tân lương giải biểu) để sơ phong thanh nhiệt. Hạnh nhân, Cát cánh Rễ cây chanh để hoá đờm thanh nhiệt, chỉ khái. Cam thảo, Cát cánh để lợi họng chỉ ho. Lô căn để thanh nhiệt sinh tân chỉ khát.

Chứng nhiệt tà úng phế

1. Nguyên nhân:

Chứng nhiệt tà úng phế là những triệu chứng vì nhiệt tà úng ở trong phế mà biểu hiện ra. Mỗi khi ngoại tà nhập lý hoá nhiệt mà đọng lại trong phế, đều có thể xuất hiện chứng này.

2. Chứng trạng:

Ho, đàm dính, sắc vàng,  khí xuyễn,  thở to,  sốt cao, khát nước, nặng thì tâm phiền, cánh mũi phập phồng hoặc ngực đau, ho nôn ra mủ huyết, đàm tanh hôi, đại tiện bí kết, tiểu tiện ngắn đỏ, lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Nhiệt tà úng thịnh ở phế, phế khí nghịch lên thì ho, đốt dịch thành đàm thì đàm đặc sắc vàng, phế mất thanh túc thì úng không giáng được nên khí xuyễn thở to. Nhiệt ở trong chưng bốc thì sinh sốt cao. Nhiệt thịnh hao tân thì miệng khát. Nhiệt nhiễu tâm thần thì tâm phiền. Nếu đàm giao trở ở phế, đường khí không lợi thì khó thở, nên xuất hiện chứng cánh mũi phập phồng. Nếu hoả nhiệt thịnh ở phế lạc làm cho khí trệ huyết úng, khí huyết không được lưu lợi, nhiệt thắng thì thịt nát, phế khô thì lá phổi khô, có thể xuất hiện các chứng đau ngực, ho nhổ ra mủ huyết tanh thối đàm. Nhiệt thịnh hao tân, đại trường mất nhuận thì đại tiện bí. Nguồn sinh hoá không đủ thì tiểu tiện đỏ. Lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác đều là hiện tượng lý nhiệt.

Điểm chính để chẩn đoán là: Ho cùng xuất hiện với chứng khí xuyễn và thực nhiệt ở lý.

4. Luận trị:

- Phép trị: Thanh phế định xuyễn.

- Phương dược:

* Ma hạnh thạch cam thang  (Thương hàn luận).

          Ma hoàng   5g       Hạnh nhân 6g       Thạch cao   18g      Cam thảo  9g

Phân tích:   Ma hoàng (ôn) để thanh phế tả nhiệt tà nhằm tán phát hoả uất. Thạch cao (tân cam đại hàn) để tuyên phế thanh phế (mà không giúp nhiệt tà cũng như không lưu nó lại) nhằm bình xuyễn. Hạnh nhân để giáng phế khí, bình xuyễn. Cam thảo để ích khí hoà trung, hợp với Thạch cao để sinh tân chỉ khát.

* Định xuyễn thang (Nhiếp sinh trúng diệu phương):

Bạch quả

20g 

Cam thảo

10g

Tang bì

30g

Ma hoàng

30g

Khoản đông hoa

30g

Hoàng cầm

15g

Tô tử

20g

Hạnh nhân

15g

Bán hạ

30g

Phân tích: Ma hoàng tuyên phế tán hàn bình xuyễn. Bạch quả liễm phế định xuyễn khu đàm lại phòng Ma hoàng hoa tán phế khí. Tô tử, Hạnh nhân, Bán hạ, Khoản đông hoa hoà đàm giáng nghịch. Tang bì, Hoàng cầm thanh nhiệt tức phế. Cam thảo điều hoà các vị thuốc.  

Chứng táo tà phạm phế

1. Nguyên nhân:

Là những triệu chứng vào mùa thu bị cảm táo tà, xâm phạm vào phế mà biểu hiện ra. Mỗi khi mùa thu bị cảm táo tà, hoặc những tà khí khác làm hao tân hoá táo, đều có thể sinh ra chứng này (Cảm cúm, viêm họng).

2. Chứng trạng:

Ho khan hoặc đàm dính ít, ho khó khạc ra, nặng thì trong đàm có huyết, ngực sườn đau phát sốt, hơi sợ gió lạnh, mồ hôi ít, da và miệng mũi khô ráo, tiểu tiện ngắn đỏ, lưỡi đỏ, rêu vàng khô, mạch sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Táo nghĩa là khô ráo, không có thành phần nước. Kinh dịch có nói: “nước chảy đến thì ướt, hoả bay tới thì khô” nói rõ táo thuộc về hoả nhiệt. Đời sau đem bệnh ngoại cảm táo tà chia làm ôn táo, lương táo. Sau khi phạm phế đều là lấy khô ráo, ít mồ hôi cùng xuất hiện với triệu chứng của bệnh phế, để làm điểm chính cho việc chẩn đoán. Bệnh nhân ở mùa thu, trực tiếp bị cảm tà khí ôn táo, hoặc vì người vốn âm suy, lại bị cảm táo tà, đều có thể sinh ra chứng ôn táo. Táo tà phạm ở phần biểu, cho nên phát sốt hơi sợ gió lạnh. Táo tà xâm vào trước hết hại phế, làm cho phế không phân bổ được tân dịch. Mũi là khiếu của phế, cho nên mũi, họng khô ráo. Táo hại phế vệ và liên quan đến phế âm, cho nên mồ hôi ít, miệng khát, ho khan, ít đàm, ho mà khó ho. Táo hại phế lạc cho nên trong đàm có huyết. Táo tà hại tân, cho nên da khô ráo, tiểu tiện ngắn đỏ. Lưỡi đỏ, rêu vàng khô, mạch sác đều là táo nhiệt gây ra. Bệnh nhân sau khi bị cảm lương táo, xuất hiện triệu chứng giống như chứng bị cảm phong hàn, nhưng kiêm có chứng ho khan, ít đàm, da miệng mũi khô ráo, rêu lưỡi trắng mà khô, đó là đặc điểm của lương táo.   

4. Luận trị:

- Phép trị: Thanh phế nhuận táo.

- Phương dược:

* Thang thuốc nam thanh phế táo (Thuốc nam châm cứu Viện đông y).

          Tang bạch bì 12g,  Mạch môn 12g,   Trúc diệp 8g,  Lá hẹ  8g

* Tang hạnh thang (Ôn bệnh điều biện):

Tang diệp  3g       Hạnh nhân 5g       Sa sâm   6g      Bối mẫu 3g      Đậu xị   3g      Chi tử 3g                 Lê bì          3g.

Phân tích: Tang diệp, Tang bạch bì, Đậu xị,Trúc diệp để tuyên phế tán tà. Hạnh nhân, Lá hẹ để tuyên phế lợi khí. Bối mẫu, Lê bì, Sa sâm, Mạch môn để nhuận phế chỉ ho. Chi tử để thanh tiết nhiệt ở lồng ngực.

Chứng đại trường thấp nhiệt

1. Nguyên nhân:

Chứng đại trường thấp nhiệt là những triệu chứng vì thấp nhiệt xâm nhập vào đại trường mà biểu hiện ra. Bị ngoại cảm tà khí thấp nhiệt, hoặc vì ăn uống không chừng độ, đều có thể gây ra chứng này (Lỵ amíp mạn).

2. Chứng trạng:

Kiết lỵ ra niêm dịch mủ huyết, đi đại tiện luôn, bụng đau, mót rặn, hoặc ỉa xối, hoặc ỉa lỏng mà không thông. Phân như cháo vàng, giang môn nóng ran. Mình nóng ra nhiều mồ hôi, khát uống không nhiều. Nặng thì nôn mửa, thần mê hoặc bụng dưới đầy cứng, đè vào đau. Lưỡi đỏ, rêu vàng nhờn, mạch hoạt sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Thấp nhiệt xâm vào trong đại trường, có thể sinh ra các bệnh kiết lỵ, ỉa chảy, trường ung. Thấp nhiệt đốt nóng, nhiệt hại đến huyết lạc, thịt thối thành mủ, cho nên kiết lỵ ra thứ máu mủ niêm dịch trắng đỏ. Nhiệt bức khí trệ cho nên đau bụng, mót rặn. Thấp nhiệt dồn xuống không dẫn truyền cơm nước được, thanh trọc không phân biệt cho nên ỉa chảy như xối. Thấp trở ở đại trường, khí trệ, nhiệt đốt, đại tiện không thông lợi được.

Nhiệt tà thịnh ở trong đường ruột cho nên ỉa lỏng mà phải rặn, phân như cháo vàng, giang môn nóng ran. Nhiệt thịnh ở trong thì sinh phát sốt, nhiệt bức tân tiết ra thì ra mồ hôi. Thấp nhiệt hợp với nhau cho nên tuy khát mà không muốn uống nước, hoặc uống không nhiều. Nhiệt tà xung lên phạm vị, nhiễu tâm cho nên sinh nôn mửa, thần thức mê tối, đó là tà khí thấp nhiệt vào sâu, thuộc vào chứng lỵ cấm khẩu nặng. Nếu tà khí thấp nhiệt đọng lâu ở đại trường cùng hợp với huyết nhiệt thậm hoá mủ, thì sinh chứng trường ung, xuất hiện chứng bụng dưới đầy cứng, đè vào đau. Lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch sác, thuộc nhiệt, rêu nhờn, mạch hoạt là thấp.

Điểm chính để chẩn đoán là: đại tiện lỏng cùng với chứng thấp nhiệt.

4. Luận trị:

- Phép trị: Thanh lợi thấp nhiệt, điều hoà khí cơ.

- Phương dược:

* Thang kiết lỵ cấp  (Thuốc nam châm cứu Viện đông y):

Rau sam 50g      Cỏ sữa lá nhỏ 50g      Cỏ nhọ nồi 50g     Sắc uống.

Phân tích: Rau sam để trị huyết lỵ. Cỏ sữa lá nhỏ để trị lỵ nói chung. Cỏ nhọ nồi để chỉ huyết.

* Bạch đầu ông thang (Thương hàn luận):

Bạch đầu ông 20g      Hoàng bá 16g      Hoàng liên 12g      Trần bì 12g

Phân tích: Bạch đầu ông thanh nhiệt giải độc, lương huyết chữa lỵ có sốt là quân. Hoàng liên để thanh thấp nhiệt, làm khoẻ trường vị, Hoàng bá để thanh nhiệt ở hạ tiêu, Trần bì để thu sáp chỉ lỵ. Ba vị này giúp Bạch đầu ông thanh nhiệt giải độc, trừ thấp nhiệt chữa lỵ là thần và tá.

Chứng đại trường hư hàn

1. Nguyên nhân:

Chứng đại trường hư hàn là những triệu chứng vì dương khí ở đại trường hư suy mà biểu hiện ra, hoặc vì ăn nhiều đồ sống lạnh, bệnh lâu ngày, tả lỵ liên tục không khỏi, mà tổn hại đến dương khí đều có thể gây ra chứng này (Viêm ĐT mạn, viêm Đt co thắt, đau bụng do lạnh).

2. Chứng trạng:

Ruột sôi, bụng đau lâm râm, đại tiện lỏng loãng, không cầm được, hoặc khi đại tiện thì phần khó ra, giang môn sa xuống, hoặc sau khi đại tiện thì thoát giang. Sợ lạnh thích ấm, chân tay mình mẩy không ấm, thần mệt yếu sức, nước tiểu trong dài, rêu trắng, mạch trầm, hoặc trì.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Dương khí hư suy thì hàn thấp thịnh ở trong, dương ở đại trường không đầy đủ, không truyền đạo được, không sưởi ấm được, cho nên ruột sôi, đại tiện lỏng, không cầm được. Dương suy, tân dịch không vận hành, cặn bã không có gì thúc đẩy xuống, cho nên phân khó ra. Hàn thịnh thì huyết ngưng cho nên bụng đau lâm râm. Dương khí không đủ, không sưởi ấm được cho chân tay cơ thể, cho nên sợ lạnh, thích ấm chân tay sợ lạnh. Trung khí hư thì thần mệt không có sức. Trung khí hãm xuống thì giang môn sa xuống, hoặc khi đi đại tiện thì thoát giang. Rêu lưỡi trắng, mạch trầm, hoặc trì là hiện tượng lý có hàn.

Điểm chính để chẩn đoán là:   Đại tiện không cầm được, hoặc đại tiện kết, cùng xuất hiện với hiện tượng hàn.

4. Luận trị:

- Phép trị: ích khí nhuận trường.

- Phương dược: Bổ trung ích khí gia Ma nhân, Bá tử nhân

Chứng đại trường thiếu dịch

1. Nguyên nhân:

Chứng đại trường thiếu dịch là những triệu chứng, vì tân dịch ở trong không đủ, không nhu nhuận được đại trường mà biểu hiện ra. Những người cao tuổi vốn âm thiếu, bị bệnh nhiệt, bệnh lâu, tân dịch hao tổn, hoặc sản hậu âm huyết hư hao ở trong đều có thể gây ra chứng này (Táo bón).

2. Chứng trạng:

Đại tiện rắn, bí sáp khó đẩy ra nhiều ngày mới đại tiện một lần, miệng khô họng ráo, hơi miệng thối, bụng chướng, rêu lưỡi vàng khô, mạch tế.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Tân dịch không đủ, khí của 6 phủ không thuận lợi, đại trường không truyền đạo được, cho nên phân kết lại khó đẩy ra, bụng chướng. Vị mất hoà giáng, trọc khí nghịch lên thì miệng khô họng ráo. Rêu lưỡi vàng khô, mạch tế, đều là triệu chứng thiếu tân.

Điểm chính để chẩn đoán là: Đại tiện bí mà không có chứng thực nhiệt ở lý.

4. Luận trị:

- Phép trị: Nhuận trường thông tiện (nhuận hạ).

- Phương dược:

* Ma tử nhân hoàn (Thương hàn luận):

Ma tử nhân

50g  

Hậu phác

250g

Đại hoàng

500g

Chỉ thực

250g

Thược dược

250g

Hạnh nhân

250g

Phân tích: Ma nhân để nhuận trường thông tiện là quân. Phương này có Tiểu thừa khí thang (Đại hoàng, Chỉ thực, Hậu phác) để tả táo nhiệt tích ở đại trường nhằm hỗ trợ cho Ma nhân là thần. Hạnh nhân để giáng khí nhuận trường. Bạch thược để dưỡng âm hoà lý. Hoàn bằng mật ong để nhuận trường là tá sứ.

THẬN VÀ BÀNG QUANG

Chứng thận dương hư

1. Nguyên nhân:

Chứng thận dương hư là những triệu chứng vì thận dương hư suy mà biểu hiện ra. Là người bẩm phủ dương hư, tuổi cao, dương suy, lao quyện, dục vọng bừa bãi, bệnh lâu ngày, đều có thể sinh ra chứng này ( Bệnh lý tiết niệu, sinh dục, bệnh lý cột sống thắt lưng, viêm thần kinh toạ, lão suy..)

2. Chứng trạng:

Eo lưng, đầu gối lạnh mỏi đau, sợ lạnh, chân tay lạnh, sắc mặt tối xạm, thần mệt không có lực, lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trầm không có lực. Hoặc là dương nuy, tinh lạnh, hoạt tinh, tảo tiết tinh; nữ thì kinh nguyệt ít hoặc bế, tử cung lạnh không chửa được. Hoặc ăn ít, đại tiện lỏng, ngũ canh tiết tả. Hoặc tiểu tiện trong dài, đi tiểu đêm, són đái, sau khi đái còn những giọt không ra hết. Hoặc khắp mình phù thũng, phía dưới eo lưng càng phù hơn, đè vào lõm ngón tay, nước tiểu ít, bụng chướng, tâm quý, khí doản, ho xuyễn.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Thận dương cũng gọi là nguyên dương, là gốc của dương khí trong toàn thân, thận dương không đủ không có gì sưởi ấm cho da thịt cho nên sợ lạnh, chân tay lạnh. Eo lưng là phủ của thận, thận lại chủ về xương, thận dương hư thì không có gì để ôn dưỡng được cho eo lưng và xương, cho nên eo lưng, đầu gối lạnh mỏi đau. Thận dương suy thì mặt xuất hiện màu sắc của bản tạng cho nên xạm đen. Dương khí không đủ, tâm thần mất nuôi dưỡng cho nên thần mệt không có sức. Lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trầm vô lực đều là do thận dương hư suy.

Mệnh môn hoả suy, dương sự không động được thì dương nuy (liệt dương). Dương khí không đủ thì tinh dịch hàn lạnh, đường tinh không kín chặt được thì di tinh, hoạt tinh; mạch xung nhâm lệ thuộc vào can thận, thận dương không đủ thì xung nhâm không giữ kín được mà thấy kinh nguyệt quá nhiều, dầm dề không hết, băng huyết, rong kinh. Hoặc là khí huyết ngày càng trở tắc, bể huyết khô dần, cho nên kinh nguyệt chậm kỳ, nặng thì đóng lại, không hành kinh nữa. Hạ tiêu dương kém yếu, âm dương rối loạn, cho nên tử cung lạnh không chửa được, nếu có chửa cũng sẽ sinh lậu thai, hoạt thai tiểu sản.

Mệnh môn hoả suy không sinh được thủy, tỳ vị không kiện vận, cơm nước không hoá, cho nên ăn ít, đại tiện lỏng, nặng thì ngũ canh tả, đại tiện không rốn được. Thận dương thiếu, thủy dịch không có gì để ôn hoá chế nước, chuyển xuống dưới cho nên tiểu tiện trong dài, đêm đi tiểu nhiều lần, tiểu tiện không rốn được, đi tiểu rồi còn những giọt không hết; thủy dịch tràn ra ngoài thì khắp mình phù thũng, đọng ở bụng thì bụng chướng đầy, không muốn ăn uống. Thủy ẩm nghịch lên quấy rối tâm, hại vào phế thì tâm quý, khí đoản, ho xuyễn. Dương suy làm cho bàng quang không có khí hoá thì thủy dịch đọng lại mà sinh chứng bí đái, hoặc ít nước tiểu.

Điểm chính để chẩn đoán là: thận hư cùng với chứng dương hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Ôn bổ thận dương.

- Phương dược:

* Bát vị địa hoàng hoàn (Thận khí hoàn) (Kim quỹ yếu lược):

Phụ tử

  3g

Phục linh

09g

Nhục quế

  3g

Sơn dược

12g

Thục địa

  24g

Trạch tả

9g

Sơn thù

  12g

Đan bì

9g

Phân tích: Phụ, Quế để ôn bổ thận dương là quân. Bài lục vị để tư bổ thận âm là thần và tá (Thục địa để bổ thận âm, Sơn thù để cố tinh sáp niệu. Phục linh, Hoài sơn để kiện tỳ khiến cho hậu thiên được phát triển. Trạch tả, Đan bì để tả can hoả. Phục linh, Trạch tả còn có tác dụng lợi thủy thảm thấp).

Phụ phương:

- Bài này gia Ngưu tất, Xa tiền tử gọi là Tế sinh thận khí hoàn làm tăng tác dụng lợi niệu chữa chứng viêm thận mạn tính thể thận dương hư có phù, tiểu tiện ít.

- Bài Hữu quy hoàn gồm: Thục địa, Hoài sơn, Sơn thù, Câu kỷ, Đỗ trọng, Thỏ ty tử, Phụ tử, Nhục quế, Đương quy, Ban long. Chữa mệnh môn hoả suy: người lạnh, mệt mỏi, liệt dương...

* Viên bổ thận dương (Thuốc nam châm cứu Viện đông y):

Anh túc xác

  8g

Lộc giác sương

16g

Ba kích

  24g

Liên nhụy

4g

Hạt tơ hồng

  12g

ý dĩ

20g

Củ mài

  40g

Hạt sen (bỏ tâm)

40g

Hà thủ ô đỏ

  20g

Hà thủ ô trắng

20g

Phân tích: Lộc giác sương, Ba kích, Hạt tơ hồng, Hà thủ ô để ôn bổ thận dương , bổ ích tinh tuỷ. Hạt sen, ý dĩ, củ mài để bổ tỳ. Anh túc xác để cố tinh.

* Tứ thần hoàn (Chính trị chuẩn thằng).

Nhục đậu khấu 60g      Phá cố chỉ 120g     Ngũ vị tử   60g     Ngô thù du 30g

Phân tích: Bài này có tác dụng Ôn thận kiện tỳ, dùng để chữa thận dương hư mà có triệu chứng ngũ canh tả. Phá cố chỉ bổ mệnh môn hoả. Đậu khấu ôn tỳ thận chỉ tả. Ngô thù ôn tỳ vị trừ hàn thấp. Ngũ vị để cố sáp.

Chứng thận âm hư

1. Nguyên nhân:

Chứng thận âm hư là những chứng vì âm dịch ở thận không đầy đủ mà biểu hiện ra. Những người tiên thiên không đủ, dâm dục quá độ, ngũ chí hoá hoả, kỳ cuối của bệnh nhiệt, hoặc bị bệnh lâu, dùng thuốc chữa không đúng đều có thể gây ra chứng này (Lao phổi, đái đường, SNCT).

2. Chứng trạng:

Eo lưng đầu gối mỏi đau, đầu choáng tai vù, thần mệt sức yếu, mất ngủ hay quên, tóc rụng răng rụng, người gầy. Nam giới thì di tinh, tiết tinh, hoạt tinh, nữ giới thì kinh ít hoặc bế kinh. Gò má đỏ, họng khô, nóng trong xương, triều nhiệt, ngũ tâm phiền nhiệt, ra mồ hôi trộm, nước tiểu vàng, phân khô. Lưỡi đỏ, ít rêu mạch tế sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Chân âm bị nóng đốt, hình sắc bị giảm sút cho nên hình thể bị gầy yếu, tóc rụng, lông xơ. âm dịch tổn ở dưới, cốt tuỷ trống rỗng, cho nên eo lưng, đầu gối, xương sống, đùi mỏi đau, răng rụng. Thận thủy không đủ, thủy hoả không hỗ trợ nhau thì tâm hoả vựng lên, tâm thần không yên, cho nên thần mệt mất ngủ, ngũ tâm phiền nhiệt, ra mồ hôi trộm, bể tuỷ không đầy đủ cho nên hay quên. Hoả ở can thận không được ghìm xuống, phù dương bốc lên, thì đầu choáng váng tai vù, nóng trong xương, phát sốt. Âm dịch đã suy hao, tâm không tiếp lên trên được cho nên họng khô. Tân dịch suy ở trong, đại trường khó truyền hoá, cho nên đại tiện bí. Âm hư, tướng hoả đọng loạn, cửa tinh không giữ kín cho nên di tinh, hoạt tinh. Thận thủy ở kinh thiếu âm đã khô, bể huyết sẽ không đầy đủ, cho nên kinh bế hoặc ít. Lưỡi đỏ rêu ít, mạch tế sác là âm dịch hư thiếu, trong có hư nhiệt.

Điểm chính để chẩn đoán là: thận hư cộng với triệu chứng âm hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Tư bổ thận âm.

- Phương dược:

* Lục vị địa hoàng hoàn (Tiểu nhi dược chứng trực quyết).  

Thục địa  

320g  

Phục linh  

120g

Sơn dược  

160g  

Trạch tả

120g

Sơn thù  

160g  

Đan bì

120g  

ý nghĩa: Thục địa để tư âm trấn kinh làm quân. Sơn thù để dưỡng can nhiếp tinh; Sơn dược kiện tỳ cố tinh là thần. Trach tả thanh tả thận hoả; Đan bì thanh tả can hoả; Phục linh đạm thẩm lợi thấp làm tá sứ.

Bài lục vị gia Tri mẫu, Hoàng bá thành bài Tri bá địa hoàng hoàn có tác dụng tư âm giáng hoả mạnh hơn. Gia Kỷ tử, Cúc hoa thành bài Kỷ cúc địa hoàng hoàn chữa quáng gà, giảm thị lực do can thận âm hư. Bài Tả quy hoàn: Thục địa, Hoài sơn, Sơn thù, Ngưu tất, Thỏ ty tử, Cao ban long, Cao quy bản chữa tinh huyết của can thận đều hư.

* Viên bổ thận âm (Thuốc nam châm cứu Viện đông y):  

Lá dâu  

80g  

Lộc giác xương

120g

Ngó sen

640g  

Hoàng tinh  

640g

Vừng đen

320g

Yếm rùa  

120g  

Củ mài  

80g  

Hạt sen

640g

Hạt bí đao  

80g

Hà thủ ô

40g  

Phân tích: Hoàng tinh, Hà thủ ô, Lộc giác sương, Yếm rùa để bổ thận âm, bổ tinh tuỷ. Vừng đen, Hạt sen, Củ mài để bổ tỳ. Ngó sen, Lá dâu, Hạt bí đao để trừ nhiệt.

Chứng thận tinh không đủ

1. Nguyên nhân:

Chứng thận tinh không đủ là triệu chứng vì thận tinh không đủ, suy tổn mà biểu hiện ra. Người tiên thiên không đủ, hậu thiên mất nuôi dưỡng như ăn uống lao quyện, bệnh lâu ngày, phòng dục quá độ đều có thể gây ra chứng bệnh này.

2. Chứng trạng:

Trẻ em phát dục chậm, thóp thở kín chậm, người bé nhỏ, trí lực thấp. Xuất hiện chứng ngũ trí, ngũ nhuyễn. Nam giới tinh ít không sinh con, nữ giới kinh bế không chửa đẻ. Người lớn thì suy yếu nhanh, tóc rụng, răng rụng, tai vù, tai điếc, hay quên, hoảng hốt, trí lực giảm sút, thần mệt, suy nhược, yếu sức. Lưỡi đỏ nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch tế nhược.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Tinh tàng ở thận, thận khí mạnh hay yếu là do tinh có đầy đủ hay không. Tiên thiên không đủ, ổ tinh không đầy đủ, ngũ tạng cũng vì đó mà hư tổn. Từ đó mà khí huyết không đủ, xương tuỷ mất nuôi dưỡng, cho nên phát dục chậm, trí lực thấp và xuất hiện các chứng ngũ trí, ngũ nhuyễn. Thận tinh không đủ thì không dâm dục được, cho nên nam giới tinh ít khó sinh con, nữ giới thì kinh bế không sinh đẻ. Sự tươi tốt ra của thận là ở tóc, tinh không đủ thì tóc dễ rụng. Răng là phần thừa ra của xương, tinh không đủ thì răng lung lay, rụng sớm. Thận khai khiếu ở tai, não là bể của tuỷ, tinh thiếu thì tuỷ thiếu, cho nên có chứng tai vù, tai điếc, hay quên, hoảng hốt, trí lực giảm sút. Tinh đầy đủ thì mạnh, tinh thiếu thì mệt, cho nên thấy thần mệt, suy nhược, không có lực.

Điểm chính để chẩn đoán là: sinh trưởng, phát dục chậm, công năng sinh thực giảm sút, người lớn thì suy sụt chóng.

4. Luận trị:

- Phép trị: Bổ thận ích tinh.

- Phương dược:

*  Ích tinh linh:  

Tiên mao  

Phụ tử chế  

Ba kích thiên

Quy bản giao

Toả dương

Sơn thù nhục  

Tang thầm

Lộc giác giao  

Thục địa

Thỏ ty tử  

Cam thảo  

Sung uý tử

*  Tăng tinh linh:

Tiên mao

Phụ tử chế

Thỏ ty tử

Lộc giác giao

Ngưu tất

Tàm nga

Chứng thận khí bất cố

1. Nguyên nhân:

Chứng thận khí bất cố là những triệu chứng vì thận khí suy tổn, không cố nhiếp được mà biểu hiện  ra. Người già mà thận khí suy nhược, người trẻ mà thận khí chưa đầy đủ, hoặc dâm dục quá độ, hoặc người yếu, bệnh lâu đều có thể sinh ra chứng này (Bệnh đái đường, RL cơ vòng ở người già, suy kiệt cơ thể do trác táng quá độ ở người trẻ).

2. Chứng trạng:

Eo lưng, đầu gối mỏi đau, thần mệt, yếu sức, tiểu tiện luôn, tiểu tiện rồi mà còn giọt không hết, đêm đi tiểu nhiều lần, nặng thì són đái, mót đái không rốn được. Nam giới thì di tinh, nữ giới thì khí hư nhiều mà trong loãng, thai động dễ sảy. Lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trầm nhược.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Thận khí không đầy đủ thì thần mệt, yếu sức, eo lưng, đầu gối đau mỏi. Thận hư thì bàng quang không thu giữ được cho nên tiểu tiện đi luôn, đi tiểu đêm, són đái không rốn được. Nguyên khí ở hạ tiêu suy hao thì cửa tinh không đóng kín được cho nên hoạt tinh, tiết tinh chóng. Thận hư thì mạch xung nhâm mất điều hoà, mạch đới không kín vững cho nên khí hư ra nhiều, hay sẩy thai.

Điểm chính để chẩn đoán là: Di tinh, tiết tinh chóng, di niệu, khí hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Bổ thận cố tinh.

- Phương dược:

* Kim toả cố tinh hoàn (Y phương tập giải).  

Bạch tật lê          60g

Liên tu       60g

Khiếm thực        60g  

Mẫu lệ       30g

Long cốt            30g

Phân tích: Tật lê, Liên tu, Khiếm thực để bổ thận sáp tinh. Liên tu, Long cốt, Mẫu lệ để sáp tinh. Có thể thêm ích trí nhân, Tang phiêu tiêu để ôn thận nạp khí, ích tinh, chỉ di niệu.

* Bài thuốc nam  cố tinh sáp niệu (Thuốc nam châm cứu).

Củ mài  

40g

Khiếm thực

30g

Hà thủ ô

40g

Mẫu lệ  

30g

Phụ tử  

08g

Hạt sen

30g

Phá cố chỉ  

20g

Hạt tơ hồng

30g

Ba kích

20g

Hạt hẹ  

30g

Lộc giác sương

40g  

Phân tích: Phụ tử để ôn thận dương. Hạt tơ hồng, Lộc giác sương, Phá cố chỉ, Hà thủ ô, Hạt hẹ, Hạt sen, Ba kích để ôn thận ích tinh tuỷ. Mẫu lệ, Khiếm thực để sáp tinh.

 Chứng thận không nạp khí

1. Nguyên nhân

Chứng thận không nạp khí là những triệu chứng vì thận khí hư suy, khí không về gốc mà biểu hiện ra. Người bị bệnh lâu hại thận, phế hư ảnh hưởng đến thận đếu có thể gây ra chứng này (Hen PQ, tâm phế mạn).

2. Chứng trạng:

Eo lưng, đầu gối đau mỏi, thở ngắn, xuyễn xúc, thở ra nhiều, thở vào ít, cử động thì tăng thêm, tiếng nói thấp, khí yếu, thần mệt, mồ hôi ra, người lạnh chân tay lạnh. Lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trầm nhược. Hoặc là xuyễn dữ dội, mồ hôi ra đầm đìa, chân tay lạnh, mặt xanh, mạch phù không có gốc. Hoặc thở ngắn xuyễn xúc, mặt đỏ, tâm phiền, họng khô, lưỡi đỏ, mạch tế sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Phế chủ thở ra, thận chủ thở vào. Hễ là thở ra khó mà xuyễn là bệnh phế, thở vào khó mà xuyễn là bệnh thận. Hễ là bệnh đã lâu, ra mồ hôi nhiều, mất huyết, mệt nhọc, hại đến khí thận, khí không về gốc, cô dương không có chỗ tựa, phù lên trên đều có thể gây ra chứng này.

Thận là rễ của khí, nếu thận hư không tiếp nạp được khí, khí không về thận thì thở ra nhiều, thở vào ít, hơi thở ngắn xuyễn, xúc động thì tăng lên. Thận khí hư thì xương mất nuôi dưỡng cho nên eo lưng, đầu gối đau mỏi. Khí hư thì bảo vệ ở ngoài không kín chặt, cho nên ra mồ hôi. Khí hư hại đến dương, dương không sưởi ấm được cho nên người lạnh, chân tay lạnh, thần mệt. Phế khí hư thì tiếng nói thấp yếu. Nếu khí không về gốc, dương khí suy hư muốn thoát thì xuyễn nhiều, ra mồ hôi lạnh, chân tay lạnh, mặt xanh, mạch hư phù. Thận khí suy kém lâu thì hại âm, hoặc vốn là âm hư thì có thể khí âm cùng hư. Khí hư thì thở ngắn, xuyễn xúc. Âm hư thì hư hoả bốc lên, xuất hiện các chứng mặt đỏ, tâm phiền, họng khô, lưỡi đỏ, mạch tế sác.

Điểm chính để chẩn đoán là: thở xuyễn, kiêm có chứng phế hư, thận hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Bổ thận nạp khí.

- Phương dược:

* Nhâm sâm hồ đào (Tế sinh phương): Nhân sâm 8g, Hồ đào 5 hạt

Phân tích: Sâm bổ   nguyên khí. Hồ đào nhuận phế thu nạp thận khí.

* Nhân sâm tắc kè tán (Vệ sinh bảo giám).  

Tắc kè  

1đôi

Tang bạch bì  

60g  

Bối mẫu

60g

Cam thảo

150g  

Hạnh nhân

150g

Tri mẫu  

60g

Phục linh

60g  

Nhân sâm  

60g

Phân tích: Tắc kè bổ thận nạp khí định xuyễn. Nhân sâm bổ nguyên khí, ích tỳ khí. Phục linh kiện tỳ thẩm thấp. Tang bạch bì, Hạnh nhân lợi phế giáng nghịch. Bối mẫu thanh nhiệt nhuận phế khai uất hoá đàm. Tri mẫu vừa thanh phế nhiệt vừa tư thận nạp khí. Cam thảo bổ ích nguyên khí.

Chứng thận hư thủy thũng

1. Nguyên nhân:

Chứng thận hư thủy thũng là những triệu chứng do thận dương hư không ôn hoá thủy dịch làm cho thủy tà dềnh lên trên hoặc tràn ra cơ phu.

2. Chứng trạng:

Toàn thân phù thũng, nhất là chi dưới, có ấn lõm. Thắt lưng mỏi đau, bụng đầy chướng, đái ít hoặc có khí xuyễn, thở gấp, có tiếng khò khè. Rêu lưỡi trắng, lưỡi bệu, mạch trầm tế (Viêm cầu thận, hội chứng thận hư, suy tim).

3. Cơ chế bệnh sinh:

Thận chủ khí hoá nước, thận hư không khí hoá được nước thì nước không được đẩy xuống bàng quang để bài tiết ra ngoài cho nên đái ít. Nước không được bài tiết thì tràn da cơ nhục thành chứng thủy thũng, tràn vào bụng thì bụng chướng đầy, tràn vào phế thì có khí xuyễn, thở gấp, khò khè.

4. Luận trị:

- Phép trị: Ôn dương lợi thủy.

- Phương dược:

* Chân vũ thang (Thương hàn luận) gia giảm:  

Phục linh  

15g  

Nhục quế  

2g

Gia Đại phúc bì

12g

Bạch truật  

9g

Bạch thược

9g  

Xa tiền tử

30g  

Phụ tử

9g

Sinh khương

9g

Phân tích: Phụ tử ôn thận trợ dương. Linh kiện tỳ thẩm thấp lợi thủy. Khương ôn dương khứ hàn, hành thủy. Truật kiện tỳ táo thấp. Thược vừa lợi tiểu vừa hoãn cấp chỉ đau.   Gia Phúc bì, Xa tiền tử để tăng lợi thủy.

* Thang thuốc nam lợi thuỷ (Thuốc nam châm cứu):  

Củ mài  

16g

Đậu đen  

20g  

Tiểu hồi  

12g

Thổ phục linh  

16g  

Can khương

16g

Đậu đỏ

20g

Đại hồi  

10g

Tỳ giải

16g  

Rễ cỏ xước

12g

Mã đề

12g

Khiếm thực

16g

Nhục quế  

8g

Phân tích: Đại hồi, Can khương Nhục quế ôn dương tán hàn. Thổ phục, Tỳ giải, Mã đề lợi thủy giải độc. Đậu đỏ, Đậu đen, Củ mài bổ tâm tỳ thận. Rễ cỏ xước để bổ thận dẫn thuốc đi xuống.

Chứng bàng quang thấp nhiệt

1. Nguyên nhân:

Chứng bàng quang thấp nhiệt là những triệu chứng vì thấp nhiệt chứa đọng ở bàng quang mà biểu hiện ra. Hễ là bị cảm tà khí thấp nhiệt chứa đọng kết ở bàng quang; hoặc ăn uống không có chừng độ, thấp nhiệt sinh ở trong dồn xuống bàng quang đều có thể gây ra chứng này (Bệnh sỏi tiết niệu, viêm tiết niệu, u tiền liệt).

2. Chứng trạng:

Đi tiểu luôn, đi tiểu vội, nhỏ giọt không hết, đường đái nóng đau, nước tiểu vàng đỏ ngắn ít, hoặc mình nóng, eo lưng đau, hoặc đái ra máu, hoặc nước tiểu có cát sỏi, lưỡi đỏ, rêu vàng nhờn, mạch sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Sách Kim Quỹ nói: “Nhiệt ở hạ tiêu thì đái máu, cũng làm cho đái nhỏ giọt không thông”. Thấp nhiệt chứa đọng ở bàng quang, bàng quang khí hoá không lợi, cho nên nước tiểu ngắn đỏ, nhỏ từng giọt, có cặn đục trở tắc ở đường thông cho nên trong âm ngành nóng đau. Thấp nhiệt lan tràn ở trong thì mình nóng, lưu trệ thì eo lưng đau. Thấp nhiệt nhiều ở trong đốt hại huyết lạc cho nên đái máu. Thấp nhiệt ở hạ tiêu cùng với những thứ cặn đục có hình kết lại thành cát, cho nên đi đái có cát sỏi. Thấp nhiệt chưng bốc ở trên thì lưỡi đỏ, rêu vàng.

Điểm chính để chẩn đoán: Đái buốt, đái rắt, nước tiểu vàng.

4. Luận trị:

- Phép trị: Thanh lợi thấp nhiệt.

- Phương dược:

* Bát chính tán (Hoà tễ cục phương)

Xa tiền tử, Cù mạch, Biển súc, Hoạt thạch, Sơn chi tử, Mộc thông, Đại hoàng, Cam thảo. Làm tán uống với nước sắc Đăng tâm. Nếu dùng thang, mỗi vị 12g.

Phân tích: Mộc thông, Cù mạch, Hoạt thạch, Xa tiền tử, Biển súc lợi thủy thông lâm, thanh lợi thấp nhiệt. Sơn chi để tả nhiệt ở tam tiêu. Đại hoàng để tả nhiệt giáng hoả. Đăng tâm để dẫn nhiệt đi xuống. Cam thảo để điều hoà các vị thuốc.

* Tỳ giải phân thanh ẩm (Đan khê tâm pháp): 

Tỳ giải, Ô dược, ích trí nhân, Thạch xương bồ, Phục linh, Cam thảo.

Phân tích: Tỳ giải để thanh lý thấp trọc. ích trí nhân ôn bổ tỳ thận. Ô dược ôn hoá thận khí. Thạch xương bồ thông khiếu mà thông lợi tiểu tiện. Tác dụng chung của bài này là ôn tỳ hoá khí, khứ trọc phân thanh.

Phụ phương: Trình thị tỳ giải phân thanh ẩm: Tỳ giải, Hoàng bá, Thạch xương bồ, Phục linh, Bạch truật, Liên tâm, Đan sâm, Xa tiền tử. Trị thấp nhiệt vào bàng quang mà sinh chứng xích bạch trọc. 

CÁC HỘI CHỨNG BỆNH KHÁC

Chứng tâm tỳ lưỡng hư

1. Nguyên nhân:

Chứng tâm tỳ lưỡng hư là những triệu chứng vì tâm huyết bất túc, tỳ khí suy hư mà biểu hiện ra. Người lo nghĩ quá độ, ăn uống không chừng độ, bị mất huyết kéo dài, hoặc sau khi bị bệnh không điều bổ đều có thể gây ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Tim hồi hộp, mạch đập không đều, mất ngủ, nhiều chiêm bao, hay quên, choáng váng, ăn kém, mệt nhọc không có lực, bụng chướng, đại tiện lỏng, hoặc chảy máu da, kinh nguyệt lượng thấp sắc nhợt, nhỏ từng giọt không hết. Sắc mặt vàng ải, lưỡi non nhợt, mạch tế.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Tâm chủ huyết mà tàng thần, tỳ sinh huyết mà thống huyết. Ăn uống mất chừng độ, sau khi bị bệnh không điều bổ hoặc bệnh xuất huyết mạn tính, có thể làm cho tỳ khí hư nhược. Tỳ hư thì sinh huyết không đủ, hoặc không thống nhiếp được huyết làm cho tâm huyết mất đầy đủ. Lo nghĩ quá độ làm hao dần khí huyết của tâm cũng không thể tư dưỡng được cho tỳ thổ ở trung tiêu, nên sự vận hoá của tỳ bị thất thường. Có thể thấy nhiều nguyên nhân đều có thể sinh chứng tâm tỳ cùng hư.

Khí huyết của tâm không đầy đủ thì tâm thần mất nuôi dưỡng, nên sinh chứng tâm quý, chính xung, mất ngủ, chóng quên hoặc có nhiều chiêm bao. Tâm huyết không đủ, bể tủy không đầy đủ cho nên sinh choáng váng hay quên. Tỳ khí hư nhược không vận hoá được, cho nên ăn ít đại tiện lỏng. Khí có ở trung tiêu không thông lợi thì bụng chướng. Tay chân không được khí huyết nhu dưỡng cho nên rũ mỏi, yếu sức. Khí huyết sinh hoá không đủ, không lên nuôi dưỡng đầy đủ ở đầu mặt cho nên sắc mặt vàng ải lưỡi non nhợt. Huyết thiếu không đầy đủ ở mạch, cho nên mạch tế. Tỳ hư không thống nhiếp được huyết dịch, huyết tràn ra ở da thì da chảy máu. Mạch xung, mạch nhâm không giữ kín cho nên băng huyết, rong kinh, hoặc huyết ra từng giọt kéo dài. Nếu huyết hư, mạch xung nhâm không đầy đủ thì kinh ít sắc nhợt.

Điểm chính để chẩn đoán là: Tâm quý, mất ngủ, ăn ít và mất huyết.

4. Luận trị:

- Phép trị: Bổ ích tâm tỳ.

- Phương dược:

* Quy tỳ thang (Tế sinh phương).

Hoàng kỳ

  12g

Viễn chí

  8g

Bạch truật

  12g

Long nhãn

12g

Đảng sâm

  16g

Táo nhân

  8g

Đương qui

   12g

Phục thần

  8g

Mộc hương

    6g

Cam thảo

  6g

Phân tích: Sâm, Truật, Thảo, Khương, Táo nhân để bổ tỳ ích khí. Quy để dưỡng can nhằm sinh tâm huyết. Phục thần, Táo nhân, Long nhãn để dưỡng tâm an thần. Viễn chí để giao thông tâm thần, an tâm. Mộc hương để lý khí tỉnh tỳ.

Chứng tâm can huyết hư

1. Nguyên nhân:

Chứng tâm can huyết hư là những triệu chứng vì 2 tạng tâm và can huyết dịch không đầy đủ mà biểu hiện ra. Những nhân tố gây ra xuất huyết là có nhiều. Hoặc lo nghĩ quá độ làm cho khí huyết hao tổn, có thể sinh ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Tâm quý, hay quên, huyễn vựng, mất ngủ, nhiều chiêm bao, 2 mắt khô sáp, trông lờ mờ không rõ, chân tay, mình mẩy tê mỏi, gân mạch co quắp, sắc mặt trắng nhợt, móng không mượt, tính nóng dễ giận, nữ giới thì kinh bế, kinh ít. Lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch tế.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Tâm chủ huyết, can tàng huyết. Tâm huyết không đầy đủ, tâm thần mất nuôi dưỡng, cho nên tâm quý, hay quên, mất ngủ, nhiều chiêm bao. Âm huyết suy thiếu, can không có để tàng, gân mạch mất nuôi dưỡng cho nên chân tay mình mẩy tê mỏi, gân mạch co kéo. Móng là phần thừa của gân, can huyết hư thì móng không tươi sáng. Não không được huyết đầy đủ thì đầu choáng váng. Mắt không được huyết dồn đến thì mắt khô ráp, trông không rõ ràng. Lưỡi không được huyết lên tươi tốt thì lưỡi nhợt. Mặt không được huyết vinh dưỡng thì mặt trắng bạch không tươi. Can huyết không đủ, can mất tính điều đạt nhu hoà cho nên tính nóng vội dễ giận. Mạch xung nhâm mất đầy đủ thì con gái kinh bế hoặc kinh ít. Huyết hư không đầy đủ được cho nên mạch tế.

Điểm chính để chẩn đoán là: Tâm kiện vong, chân tay tê, tính nóng vội, cộng thêm với chứng huyết hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Bổ huyết dưỡng can an thần.

- Phương dược: Có thể dùng các bài sau:

* Nhân sâm dưỡng vinh thang.

* Quy tỳ thang : Sâm Kỳ Quy Truật Thảo, Viễn Táo Mộc Phục Long.

Chứng tâm thận dương hư

1. Nguyên nhân:

Chứng tâm thận dương hư là triệu chứng vì dương khí của 2 tạng tâm và thận không đủ mà biểu hiện ra. Người vốn là dương hư, hoặc lao quyện, nội thương, bệnh lâu không khỏi, đều có thể gây ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Tâm quý, chính xung, hơi thở ngắn gấp, đầu choáng váng, sắc mặt xạm tối, môi móng xanh tím, người lạnh, chân tay lạnh, tiểu tiện không lợi, thân phù, chân càng phù hơn. Lưỡi bệu, sắc nhợt hoặc tím, rêu trắng trơn, mạch trầm vi.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Tâm ở trên cách mạc là hoả tạng. Dương khí ở thận là căn bản của con người. Dương khí của tâm thận hỗ trợ hợp tác nhau, thì có thể sưởi ấm cho tạng phủ, tay chân, gân cốt, vận hành huyết mạch. Khi tâm thận dương hư thì thường thấy âm hàn thịnh ở trong, và những bệnh về huyết ứ, nước đọng. Tâm thận dương hư không cổ động được, hàn tuỷ ở hạ tiêu không hoá được làm cho thủy tà tràn lên, thủy khí lăng tâm thì tâm quý, chính xung. Hàn thủy bắn vào phế thì làm cho thở xuyễn gấp. Dương suy không ôn dưỡng được cơ thể, cho nên người lạnh, chân tay lạnh. Tâm thận dương hư, khí huyết không nuôi dưỡng lên đầu mặt được cho nên đầu mặt choáng váng, sắc mặt tối xạm, lưỡi bệu sắc lưỡi nhợt. Khí hư không vận được huyết mạch thì môi móng xanh tím. Dương khí hư nhược, khí hoá thất thường, thủy dịch đọng lại cho nên tiểu tiện không lợi, thủy thấp tràn ra ngoài da, thì toàn thân phù thũng. Dương hư thiếu sức vận huyết cho nên mạch trầm vi.

Điểm chính để chẩn đoán là: Tâm quý, thủy thũng cùng với chứng dương hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Ôn bổ thận dương, an tâm thần.

Chứng tâm thận bất giao

1. Nguyên nhân:

Chứng tâm thận bất giao là triệu chứng vì quan hệ giữa tâm hoả với thận thủy không nhịp nhàng mà biểu hiện ra. Trường hợp vì ngũ chí hoá hoả, tư lự quá độ, bệnh lâu hại âm, dâm dục không điều độ, đều có thể gây ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Tâm phiền, tâm quý, mất ngủ, nhiều chiêm bao, hay quên, đầu choáng, miệng khô, gò mà đỏ, nóng hầm hập trong xương, ra mồ hôi trộm, eo lưng, đầu gối mỏi đau, di tinh, lưỡi đỏ, mạch tế sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Tâm ở thượng tiêu, thận ở hạ tiêu, thận âm nhuận lên nuôi ở tâm thì tâm hoả mới không bốc lên, tâm hoả cần phải xuống giao với thận, thận thủy mới không bị lạnh. Tâm thận giao nhau gọi là thủy hoả ký tế.

Bệnh lâu hao tổn tinh huyết hoặc khó nhọc, dâm dục quá mức, thì có thể tổn hại đến thận âm, thận âm không đủ làm cho tâm dương bốc lên. Ngũ chí quá cực hoặc ngoại cảm nhiệt tà vào lý hoá nhiệt, tâm hoả bốc mạnh xuống đến thận thủy làm hại chân âm, cũng có thể làm cho tâm thận không giao, thủy hoả mất sự giúp nhau. Thận thủy không đủ không lên chế được tâm hoả làm cho tâm thần không yên, thần mất nuôi dưỡng cho nên tâm quý, tâm hiền mất ngủ nhiều chiêm bao.

Thận âm suy hư không nuôi dưỡng được xương tuỷ thì eo lưng, đầu gối đau mỏi. Thanh khiếu không được nuôi dưỡng thì choáng váng xây xẩm. Bể tuỷ trống rỗng cho nên hay quên. Âm hư ở trong âm không liễm được dương, dương hư phù ra ngoài thì gò má đỏ. Âm hư sinh nội nhiệt cho nên nóng hầm trong xương. Hư hoả bức tân dịch tiết ra ngoài, thì sinh mồ hôi trộm. Tân dịch bị tổn thương cho nên miệng khô. Hư hoả nhiễu động tinh thất cho nên di tinh. Lưỡi đỏ, mạch tế sác là chứng thuộc âm thiếu hoả vượng.

Điểm chính để chẩn đoán là: Mất ngủ và tâm hoả bốc lên, cùng xuất hiện với chứng thận âm hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Giao thông tâm thận.

- Phương dược:

* Giao thái hoàn (Nghiệm phương).

Hoàng liên 30g    Quế tâm    3g   Tán bột làm hoàn, uống 2-3g.

Phân tích: Hoàng liên để thanh tâm hoả. Quế tâm để dẫn hoả quy nguyên, giao thông tâm thận.

* Thiên vương bổ tâm đơn (Nhiếp sinh bí phẫu).

Sinh địa, Nhân sâm, Đan sâm, Huyền sâm, Bạch linh, Ngũ vị tử, Viễn chí, Cát cánh, Đương quy, Thiên môn, Mạch môn, Bá tử nhân, Toan táo nhân. Làm hoàn mật áo bằng Chu sa.

* Hoàng liên a giao thang:

Hoàng liên  6g      Hoàng cầm  6g     A giao  6g      Bạch thược  9g      Kê tử hoàng  2 quả.

Phân tích: Hoàng liên, Hoàng cầm để thanh tâm hoả. A giao, Kê tử hoàng để tư âm huyết. Bạch thược để liễm âm.

Chứng tỳ phế khí hư

1. Nguyên nhân:

Chứng tỳ phế khí hư là những triệu chứng vì khí của 2 tạng tỳ và phế hư mà biểu hiện ra. Hễ là bệnh ho xuyễn khí hư liên quan đến tỳ, hoặc vì ăn uống, làm nhọc hại tỳ, tỳ hư liên quan đến phế đều có thể sinh ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Ho lâu không khỏi, đàm nhiều loãng trắng, tiếng nói nhỏ, nhác nói, khí đoản, ít lực, cử động thì tăng thêm, sắc mặt trắng nhợt, ăn kém, bụng chướng, đại tiện lỏng, nặng thì mặt phù, chân tay phù; lưỡi nhợt rêu trắng, mạch tế.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Tỳ là nguồn sinh khí, phế là chủ của khí, ho lâu phế hư, phế mất tuyên phát, túc giáng. Phế không phân bố được tân, thủy tụ lại thấp sinh ra, tỳ khí bị khốn đốn, vì thế tỳ không kiện vận được. Nếu ăn uống không chừng độ, tổn hại đến tỳ khí, thấp trọc sinh ở trong, tỳ không tán tinh, phế cũng vì đó mà mà hư tổn. Phế tỳ khí hư, thủy tân không được phân bố, đàm thấp do đó sinh ra, trở trệ khí cơ mà sinh ra chứng này.

Phế hư thì mất sự tuyên giáng, tỳ hư thì đàm thấp sinh ra ở trong cho nên ho lâu ngày không khỏi, đàm nhiều trong loãng. Tỳ phế khí suy thì tiếng yếu, ngại nói, khí đoản, ít lực, cử động thì tăng thêm. Khí hư thì huyết không lên nuôi dưỡng ở trên cho nên sắc mặt trắng, lưỡi nhợt. Tỳ khí hư không vận hoá được cho nên ăn kém. Trung tiêu khí cơ không lưu lợi thì bụng chướng, tỳ dương không tăng thấp trọc dồn xuống cho nên đại tiện lỏng. Phế chủ điều tiết đường nước, tỳ chủ vận hoá thủy dịch, phế tỳ suy tổn thủy thấp sinh ở trong tràn ra ngoài da, cho nên mặt phù, chân tay phù. Mạch tế là hiện tượng hư.

Điểm chính để chẩn đoán là: Ho xuyễn, kém ăn, bụng chướng, đại tiện lỏng, và cùng xuất hiện chứng khí hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Bổ tỳ ích khí.

- Phương dược:

* Sâm linh bạch truật tán (Hoà tễ cục phương):

Liên nhục

Sa sâm  

Bạch biển đậu

Nhân sâm

Sơn dược  

Ý dĩ  

Cát cánh

Bạch linh  

Bạch truật

Cam thảo

Chứng can hỏa phạm phế

1. Nguyên nhân:

Chứng can hoả phạm phế là triệu chứng vì can hoả nghịch lên ở phế mà biểu hiện ra. Mỗi khi ngũ chí quá cực can hoả thịnh lên, hoặc nhiệt tà trong can nghịch lên phạm đến phế đều có thể sinh ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Ngực sườn nóng đau, nóng nảy dễ giận, phiền nhiệt miệng đắng, choáng váng mắt đỏ, ho khí nghịch khạc đàm khó ra, đàm ít mà dính đặc, nặng thì ho nôn ra máu tươi, hoặc trong đàm có máu; lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Phế chủ việc túc giáng, can chủ việc thăng phát, thăng giáng thích nghi thì khí cơ lưu lợi, nếu tình chí không toại, uất mà hoá hoả, hoặc tà nhiệt uất kết ở can kinh, làm cho khí hoả ở can kinh nghịch lên phạm phế. Mộc hoả hình kim, phế mất thanh túc, ho nghịch lên không yên mà xuất hiện chứng này. Can khí thăng giáng thái quá, mất sự điều đạt, cho nên sinh nóng nảy dễ cáu giận. Kinh túc quyết âm can đi qua ngực sườn, khí hoả đi ngang, đi ngược thì ngực sườn nóng đau. Can hoả thịnh ở trong thì sinh phiền nhiệt, hoả bốc lên phạm vào thanh khiếu thì miệng đắng, choáng váng, mắt đỏ. Can hoả đưa lên phạm vào phế, phế khí không thanh túc được, cho nên ho mà khí nghịch lên. Phế tân bị đốt, cho nên đàm ít mà dính đặc, khó khạc. Nếu hoả nhiệt tổn thương phế lạc thì khạc nôn ra máu tươi; hoặc trong đàm có máu. Lưỡi đỏ, rêu vàng, mạch huyền sác đều là hiện tượng can hoả cang thịnh.

Điểm chính để chẩn đoán là: Ngực sườn nóng đau, nóng nảy vật vã và cùng xuất hiện với chứng ho.

4. Luận trị:

- Phép trị: Thanh can tả phế.

- Phương dược:

* Tả bạch tán (Tiểu nhi dược chứng trị quyết).

Địa cốt bì 12g,   Tang bạch bì 12g,       Cam thảo 4g,    Ngạnh mễ 1nắm.

Phân tích: Tang bạch bì tả phế thanh uất nhiệt. Địa cốt bì tả phục hoả ở phế, thanh hư nhiệt. Cam thảo, Ngạnh mễ để nâng phế khí. Thêm Hoàng cầm 12g để thanh can hoả.

Chứng phế thận âm hư

1. Nguyên nhân:

Chứng phế thận âm hư là những triệu chứng vì âm dịch ở 2 tạng phế và thận không đủ mà biểu hiện ra. Mỗi khi ho lâu hại phế, phế hư liên quan đến thận, hoặc khó nhọc quá độ, thận dương suy hư, thận hư liên cấp đến phế, đều có thể sinh ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Ho đàm ít, hoặc ho ra huyết hoặc trong đàm có huyết, miệng khô họng ráo, tiếng nói khàn khàn, người gầy mòn, gò má đỏ, ra mồ hôi trộm, nóng hầm trong xương, sốt cơn, eo lưng đầu gối mỏi đau; nam giới di tinh, nữ giới kinh nguyệt bất điều; lưỡi đỏ rêu ít mạch tế sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Phế là nguồn trên của dòng nước, thận thủy là nguồn gốc của âm dịch trong toàn cơ thể, cho nên âm tân của phế thận là tư dưỡng lẫn nhau, nên gọi là “kim thủy tương sinh”. Khi ho lâu hại phế, phế hư không phân bố được tân đến cho thận, hoặc khó nhọc quá độ, thận âm suy, làm cho âm tân không tiếp lên trên được. Táo nhiệt ở trong hư hoả đốt phế, đều có thể sinh ra chứng này.

Âm hư phế khô, đốt hại tân dịch, phế mất thanh nhuận, không túc giáng được, cho nên ho khan ít đàm. Hư hoả bốc lên, phế lạc bị thương, cho nên ho ra huyết, hoặc trong đàm có huyết. Tân không tiếp lên trên thì họng khô, họng ráo. Họng là cuống của phế, mạch thận đi lên họng, cho nên phế thận âm hư thì tiếng nói khàn câm. Âm suy thì cơ nhục cũng mất đầy đủ cho nên người gầy róc. Hư hoả phù lên thì gò má đỏ, hư nhiệt bức tân tiết ra ngoài thì ra mồ hôi trộm. Âm hư sinh nội nhiệt cho nên nóng hầm trong xương và sốt có cơn. Eo lưng là phủ của thận, thận âm suy thì eo lưng đầu gối mỏi đau. Nhiệt nhiễu loạn tinh thất, thận mất sự phong tàng thì di tinh. Thận thủy không đủ thì mạch xung mạch nhâm mất điều hoà cho nên kinh nguyệt rối loạn. Lưỡi đỏ, rêu ít mạch tế là hiện tượng âm hư phát nhiệt.

Điểm chính để chẩn đoán là: Ho lâu, eo lưng mỏi, di tinh cùng với chứng âm hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Tư bổ phế thận.

- Phương dược:

* Mạch vị địa hoàng thang = Lục vị địa hoàng thêm Mạch môn, Ngũ vị tử để bổ thận âm, dưỡng phế âm, liễm phế khí.

Chứng tỳ thận dương hư

1. Nguyên nhân:

Chứng tỳ thận dương hư là những triệu chứng vì dương khí của 2 tạng tỳ thận không đủ mà biểu hiện ra. Trường hợp bệnh đã lâu hoặc thủy tà đọng lâu làm cho 2 tạng tỳ thận dương hư mà biểu hiện ra.

2. Chứng trạng:

Sắc mặt trắng nhợt, người lạnh chân tay lạnh, ít ngủ, ngại nói, tinh thần rũ rời, eo lưng, đầu gối hoặc trong bụng lạnh đau, đi tả không chỉ, hoặc tả chảy ra nước trong, hoặc ngũ canh tiết tả, hoặc mặt phù chân tay phù tiểu tiện không lợi, nặng thì phù khắp toàn thân, bụng chướng như cái trống. Lưỡi non nhợt, rêu trắng trơn, mạch trầm vô lực.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Thận là gốc của tiên thiên, tỳ là gốc của hậu thiên. Dương khí của tỳ thận cùng tương trợ lẫn nhau, có trong việc sưởi ấm cho tay chân thân mình, vận hoá tinh vi của đồ ăn, tỳ thận có tác dụng tương hợp lẫn nhau. Nếu tỳ dương hư suy, không hoá sinh được tinh vi để nuôi dưỡng đầy đủ cho thận dương, làm cho tỳ hư liên cập đến thận. Hoặc thận dương hư, hoả không sinh thổ, không ôn dưỡng được tỳ dương, làm cho thận hư liên quan đến tỳ, đều có thể làm cho dương khí của tỳ suy yếu. Sự thực là bất kỳ thận dương hay tỳ dương hư sau khi bị bệnh lâu rồi đều có thể phát triển thành chứng tỳ thận dương hư.

Tỳ dương hư không vận hoá được cơm nước, khí huyết hoá sinh không đủ, cho nên mặt trắng bạc. Dương hư không có đủ sưởi ấm cơ thể cho nên người lạnh tay chân lạnh. Tông khí không đầy đủ thì ít khí ngại nói, tinh thần rũ rời. Dương hư lạnh ở trong, kinh mạch ngưng trệ cho nên bụng dưới, eo lưng, đầu gối lạnh đau. Tỳ thận dương hư, cơm nước không được chín nát vận hoá, cho nên đi tả không chỉ, ỉa chảy ra nước và thức ăn, gần sáng đi tả. Dương hư không có hoả để vận hoá thủy thấp, tràn ra ở da thịt cho nên mặt phù, chân tay phù, hoặc khắp mình phù thũng, đọng ở trong bụng thì bụng chướng như cái trống. Thủy thấp tụ ở trong khí hoá không được thì tiểu tiện không lợi. Lưỡi non nhợt, rêu lưỡi trắng trơn, mạch trầm không có lực là hiện tượng dương hư hàn thủy chứa đọng ở trong.

Điểm chính để chẩn đoán là: Thận dương hư kèm có ỉa lỏng, ngũ canh tả.

4. Luận trị:

- Phép trị: Ôn bổ tỳ thận.

- Phương dược:

* Chân vũ thang (Thương hàn luận).

Phục linh, Bạch thược, Bạch truật,   Sinh khương, Phụ tử.

Phân tích: Phụ tử để ôn thận tỳ, bổ dương khí. Phục linh để kiện tỳ thảm thấp. Bạch truật để kiện tỳ táo thấp. Bạch thược để hoãn cấp chỉ phúc thống. Sinh khương để ôn trung tán hàn. Phương này chủ yếu dùng trong phù thũng do tỳ thận dương hư.

* Phụ tử lý trung thang hợp Tứ thần hoàn:  

Phụ tử

20g

Ngũ vị tử

20g

Can khương

20g

Bạch truật

20g

Ngô thù du

10g  

Nhục đậu khấu

20g

Cam thảo

20g

Nhân sâm

20g

Phá cố chỉ

40g  

Phân tích: Phụ tử ôn thận tỳ. Can khương ôn trung khứ hàn. Nhân sâm bổ nguyên khí. Bạch truật kiện tỳ táo thấp. Cam thảo lý khí hoà trung (chữa ỉa chảy do tỳ thận dương hư). Phá cố chỉ bổ mệnh môn hoả tích thổ. Nhục đậu để ôn tỳ thận sáp trường chỉ tả. Ngũ vị tử ôn sáp trường (chữa ngũ canh tả). Ngô thù du ôn tỳ vị trừ hàn thấp.

Chứng can tỳ bất điều

1. Nguyên nhân:

Chứng can tỳ bất điều là thứ bệnh chứng vì can không sơ tiết, tỳ không kiện vận được mà sinh ra. Trường hợp tình chí không thoả mãn, hại can bệnh liên quan đến tỳ, hoặc ăn uống, khó nhọc hại đến tỳ, bệnh liên cập đến can đều có thể gây ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Ngực sườn chướng đau, tinh thần uất ức, phiền nóng vật vã, dễ sinh tức giận, không muốn ăn, bụng đầy tức, đại tiện lỏng không phải rặn, ruột sôi trung tiện. Hoặc bụng đau đi tả, sau khi tả thì bớt đau. Rêu lưỡi trắng hoặc nhờn, mạch huyền.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Tỳ chủ việc vận hoá, nhưng tỳ khí thăng lên nhờ có can. Can chủ việc sơ tiết, làm cho khí cơ lưu lợi, cho nên có công năng hỗ trợ cho tỳ vị thăng giáng. Nếu tình chí không thoả mãn, uất ức hại can, can mất sơ tiết, tiếp đó là tỳ mất kiện vận. Hoặc ăn uống lao quyện hại tỳ, khí trệ thấp trở, rồi làm cho can uất tỳ hư, đều có thể dẫn đến can tỳ mất điều hoà. Can khí không thư thái, khí huyết vận hành bị trở cho nên ngực sườn chướng đau. Can khí uất kết, khí cơ không lưu lợi, thì tinh thần uất ức. Can mất tính điều đạt cho nên nóng nảy vội vã dễ giận. Tỳ vận không mạnh thì không muốn ăn; khí cơ uất trệ thì bụng chướng đầy tức; khí trệ thấp trở thì đại tiện lỏng và không thông, ruột sôi, trung tiện, ỉa rồi khí trệ được thông ra cho nên bụng bớt đau. Thấp thịnh thì rêu lưỡi nhờn. Can bệnh cho nên mạch huyền.

Điểm chính để chẩn đoán là: Ngực sườn chướng đau và ăn ít, bụng chướng, phân lỏng.

4. Luận trị:

- Phép trị: Hoà giải can t ỳ.

- Phương dược:

* Tiêu giao tán : Sài hồ, Đương quy, Bạch thược, Bạch truật, Bạch linh mỗi vị 40g.

Tán thành bột, mỗi lần uống 8g với nước gừng và Bạc hà. Tác dụng: Sơ can giải uất, kiện tỳ dưỡng huyết.

Phân tích: Sài hồ sơ can giải uất là quân. Quy Thược bổ huyết dưỡng can là thần. Linh Truật kiện tỳ bổ trung là tá. Gừng giúp Quy Thược điều hoà khí huyết, Bạc hà giúp Sài hồ sơ can giải uất là sứ.

* Bài thuốc nam hoà giải can tỳ (Nam dược thần hiệu): Tía tô (sấy), Chỉ sác (bỏ ruột sao), Quế chi, Lương khương (sao), Thanh bì (sao), Nga truật (sấy), Xương bồ (tẩm nước vo gạo), Hậu phác (sao nước gừng), Hương phụ mễ, Hoắc hương.

Lượng bằng nhau tán bột dùng dấm hoà với nước khuấy hồ làm viên, mỗi lần dung sắc với nước gừng làm thang.

Chứng can vị bất hòa

1. Nguyên nhân:

Chứng can vị bất hoà là những triệu chứng vì can mất sơ tiết, vị mất hoà giáng mà gây ra.

2. Chứng trạng:

Hai bên sườn và bụng chướng đau, nấc cồn cào, nuốt chua, nôn mửa, nóng tính dễ giận, hoặc uất ức khó chịu. Rêu lưỡi vàng, mạch huyền.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Can chủ việc sơ tiết, vị chủ việc thu nạp và hoà giáng. Can khí được thư thái thì vị khí được giáng. Nếu tình chí không thư thái, can khí uất kết, ngang ngược phạm vị, thì can vị không hoà, vị mất hoà giáng. Đường kinh mạch của can phân bố ở 2 bên sườn, nếu can uất khí trệ, hoành nghịch phạm vị, thì 2 sườn và bụng chướng đau. Vị mất hoà giáng thì nấc, ợ hơi, nặng thì có khi nôn mửa. Khí hữu dư tức là hoả, uất ở trong vị sinh ra nhiệt cho nên nuốt chua, cồn cào, rêu lưỡi vàng. Can mất điều đạt, khí uất không thư thái, cho nên uất ức dễ giận.

Điểm chính để chẩn đoán là: 2 sườn chướng đau & triệu chứng vị mất hoà giáng.

4. Luận trị:

- Phép trị: Sơ can hoà vị.

- Phương dược:

* Nhị trần thang hợp với Tả kim hoàn.

Trần bì, Bán hạ, Phục linh, Cam thảo, Hoàng liên, Ngô thù du.

Phân tích: Bán hạ để giáng nghịch hoà vị chỉ nôn. Trần bì lý khí táo thấp. Linh kiện tỳ thảm thấp. Hoàng liên tả hoả. Ngô thù để chế bớt tính hàn của Hoàng liên và giáng nghịch ở can, giúp can vị điều hoà. Cam thảo điều hoà các vị thuốc, nhuận phế hoà trung.

Chứng can thận âm hư

1. Nguyên nhân:

Chứng can thận âm hư là những triệu chứng vì 2 tạng can thận âm dịch không đủ mà gây ra. Người tuổi già thận suy, người bệnh lâu không khỏi, người tình chí không thoải mái, phòng thất, lao thương đều có thể gây ra chứng này.

2. Chứng trạng:

Choáng váng, tai vù, hay quên, mất ngủ, họng khô, gò má đỏ, ra mồ hôi trộm, ngũ tâm phiền nhiệt, đau 2 bên mạng sườn, eo lưng, đầu gối mỏi đau. Nam giới di tinh, nữ giới kinh ít. Lưỡi đỏ, ít rêu, mạch tế sác.

3. Cơ chế bệnh sinh:

Can thận cùng một nguồn, can tàng huyết, thận tàng tinh, âm của can thận tư sinh lẫn nhau. Can âm sung túc thì tàng ở thận, thận âm vượng thịnh thì nuôi cho can. Cho nên có thuyết can thận cùng nguồn. Khi bị bệnh can âm không đủ có thể làm cho thận âm vì đó mà thiếu, trái lại cũng như vậy.

Can thận âm dịch không đủ, không lên đầy đủ cho thanh khiếu cho nên choáng váng ù tai, bể tuỷ không đầy đủ thì sinh ra hay quên. Tâm thần mất nuôi dưỡng thì mất ngủ. Âm dịch không tiếp lên trên được thì họng khô. Âm hư sinh nội nhiệt, hư hoả phù lên thì gò má đỏ hồng, nhiệt bức dịch tiết ra thì mồ hôi trộm. Hư nhiệt thịnh ở trong thì ngũ tâm phiền nhiệt. Can âm không đủ, can mạch mất tư dưỡng cho nên 2 mạng sườn đau. Eo lưng là phủ của thận, thận âm không đủ thì eo lưng mất nuôi dưỡng cho nên eo lưng đầu gối mỏi đau. Hư hoả quấy nhiễu ở trong tinh thất thì sinh mất tinh. Mạch xung nhâm không đầy đủ thì kinh ít. Lưỡi đỏ, rêu ít, mạch tế sác đều là hiện tượng âm hư nội nhiệt, tân dịch không đủ.

Điểm chính để chẩn đoán là: Đau sườn, đau eo lưng, di tinh kèm có chứng âm hư.

4. Luận trị:

- Phép trị: Tư bổ can thận.

- Phương dược:

* Kỷ cúc địa hoàng hoàn (Y cấp).

Gồm Lục vị để tư bổ thận âm. Kỷ tử, Cúc hoa để bổ can, minh mục.

* Nhất quán tiễn (Liễu châu y thoại).  

Sa sâm  

9g

Sinh địa

18g  

Kỷ tử

15g  

Quy thân

9g

Mạch môn  

9g

Xuyên luyện tử

5g

Phân tích: Sinh địa tư âm dưỡng huyết bổ can thận. Sa sâm, Mạch môn, Quy thân, Kỷ tử tư âm dưỡng huyết sinh tân nhằm nhu can. Xuyên luyện tử để sơ can khí

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: