bichhuyetkiem
Bích Huyết Kiếm - Hồi 1 : Đường đời gian hiểm, dân chúng đồ thán
Mặt trời sắp lặn, đàn quạ đang bay về tổ. Trên con đường cái quan nối liền Thiểm Tây với Tân Lĩnh có một thiếu niên thư sinh đang cưỡi con ngựa trắng, vừa đi vừa ngắm phong cảnh vẻ mặt rất hớn hở. Thư sinh có tuổi chưa đầy hai mươi, tay cầm roi ngựa và lẩm bẩm ngâm nga: “Cảnh mặt trời lặn đẹp biết bao, tiếc thay không còn tồn tại được lâu.”
Theo sau chàng có một tiểu đồng tuổi chừng mười ba mười bốn cỡi một con ngựa gầy còm. Trên con ngựa của y có cột một bọc sách lớn và một bó hành lý. Thằng nhỏ thấy trời sắp tối đến nơi mà công tử vẫn đi thủng thẳng, nó bèn lên tiếng thúc giục:
- Thưa công tử, nghe nói đường này không được yên lắm, nếu tối hôm nay chúng ta không đi kịp tới thị trấn ngủ trọ, lỡ gặp phải đạo tặc thì nguy to lắm đấy.
Thư sinh nọ nghe tiếng tiểu đồng nói xong tủm tỉm cười, giơ roi lên quất vào mông ngựa một cái.
Con ngựa của chàng cất vó phi chạy ngay.
Công tử họ Hầu tên là Triều Tôn biệt tự là Phương Vực, người huyện Thương Khán tỉnh Hà Nam. Năm đó là năm Sùng Tỉnh ngu niên. Hầu công tử xin phép cha mẹ ra ngoài du học. Hồi bấy giờ quan Thái giám Ngụy Trung Hiền đã bị xử trảm nhưng thiên hạ loạn lạc, đường đi không được bình yên đạo tặc nổi lên như kiến cỏ. Cha mẹ của chàng không cho phép chàng đi, nhưng chàng cứ khăng đòi đi và thưa rằng:
- Đại trượng phu phải đọc sách muôn cuốn, đi vạn dặm đường, thì đầu óc mới học hỏi nhiều và hiểu nhiều được chứ.
Thế là cha mẹ chàng đành phải cho chàng đi. Hầu công tử là người có tài và rất can đảm chàng liền đem theo Hầu Khang, một tiểu đồng vẫn hầu hạ mình. Chàng với tiểu đồng hai người cỡi hai con ngựa đi thẳng về phía Tây. Ngày hôm nay chàng vừa đi tới chân núi Chung Nam, suốt dọc đường chàng chỉ gặp những nông dân mặt vàng khè người ốm yếu và thỉnh thoảng lại còn thấy những xác của những người chết đói nằm ngổn ngang bên dọc đường nữa. Chàng còn thấy có xác chết mồm ngậm đầy cỏ xanh và đất khô. Thoạt tiên chàng còn bố thí tiền bạc cho những người nghèo đó. Nhưng sau thấy nạn nhân nhiều như vậy nên thôi. Khi tới gần chân núi, thấy cảnh sắc tuyệt đẹp chàng quên thảm trạng của lũ dân nghèo rồi cứ thế phóng ngựa vừa đi vừa thưởng thức.
Chàng thúc ngựa đi được một quãng đường, thấy sắc trí càng ngày càng tối đen trong lòng lo vô cùng chàng thúc ngựa chạy nhanh thêm. Chạy thêm được mười mấy dặm đường nữa chàng với tiểu đồng tới một thị trấn nhỏ, hai thầy trò mừng rỡ vô cùng, vội tìm khách sạn để trọ. Ngờ đâu phố xá vắng tanh. Hai thầy trò không thấy một bóng người nào hết. Đi tới trước một khách sạn thấy có tấm bảng đề “Trung Nam khách sạn.” Hầu Khang xuống ngựa lên tiếng hỏi:
- Này, Phổ ky đâu? Chưởng quầy đâu?
Y đứng chờ giây lát cũng không thấy bên trong có động tĩnh gì hết. Đang lúc ấy một luồng gió bắc thổi tới có tiếng kêu “rào rào.” Hai thầy trò Triệu tôn đều rùng mình rợn tóc gáy. Chàng vội rút thanh kiếm đeo ở trên vai xuống xông thẳng vào trong khách sạn đó liền thấy trong nhà có hai cái xác nằm ngổn ngang trên vũng máu bầm và có rất nhiều ruồi đang bay quanh hai cái xác đó mùi hôi thúi xông lên. Chàng đoán chắc hai cái xác này chết đã lâu rồi. Hầu Khanh thấy vậy la lớn một tiếng rồi chạy luôn ra ngoài cửa thềm. Triều Tôn đưa mắt nhìn bốn phía xung quanh, thấy đồ đạc bừa bãi trên mặt đất, cửa ngõ cũng đổ nát, hình như đã bị giặc vào càn quét. Hầu Khanh thấy chủ nhân mãi không ra, y lại quay trở vào tìm kiếm. Triều Tôn thấy tiểu đồng vào liền nói:
- Chúng ta đi nơi khác xem thử nào.
Ngờ đâu hai người đi khắp thị trấn thấy nhà nào cũng đều như thế cả.
Hai người còn thấy xác của những thiếu nữ loã lồ, chứng tỏ nạn nhân đã bị cường bạo hãm hiếp xong rồi lại giết luôn. Cả thị trấn đồ sộ như thế mà đâu đâu cũng chỉ có gió lạnh thổi rùng mình, mùi hôi thối nức mũi cả hai chịu không nổi cứ buồn nôn ọe luôn. Lúc này dù Triều Tôn có can đảm đến đâu cũng không dám ở lại đó nữa và vội lên ngựa chạy thẳng về phía Tây ngay.
Hai thầy trò không nói nửa lời chạy luôn một mạch mười mấy dặm đường vừa đói vừa sợ. Đang kinh hoàng và lo âu thì Hầu Khang bỗng lên tiếng nói:
- Công tử xem kìa?
Triều Tôn nhìn theo về phía tay chỉ của tiểu đồng thì từ đằng xa có ánh sáng lửa, cả mừng và nói ngay:
- Chúng ta đến đó nghỉ ngơi đi.
Hai liền rời khỏi ngỏ cái quan đi thẳng về phía có ánh lửa. Hai người càng đi càng thấy đường gồ ghề khó đi. Triều Tôn bỗng nói:
- Nếu nơi đó là ổ cướp thì thầy trò chúng ta lại dấn thân vào chỗ chết mất.
Hầu Khanh giật mình và nói:
- Nếu vậy chúng ta đừng đến nữa.
Triều Tôn thấy mây đen đã bao phủ đầy trời cơn mưa sắp tới nơi nên chàng nói tiếp:
- Chúng ta cứ lẳng lặng tới đó xem sao.
Thế rồi chàng xuống ngựa, cột ngựa vào gốc cây ở bên cạnh đường, rón rén đi tới phía có ánh sáng lửa. Khi chàng tới mới hay nơi đó là hai căn nhà lá, cả hai mới yên tâm được phần nào. Chàng đang định đi tới chỗ cửa sổ để ngó vào bên trong xem sao, ngờ đâu chàng chưa tới gần đã có một con chó to nhảy sổ tới sủa vang. Chàng vội múa lộng thanh kiếm nên con chó ấy mới không dám tới gần cứ dừng ở đó sủa.
Bỗng cánh cửa mở toang bà cụ ở bên trong bước ra, tay cầm một ngọn đèn ra, với giọng run run hỏi chàng là ai.
Triều Tôn liền đáp:
- Chúng tôi là khách qua đường định vào quí phủ xin ngủ nhờ một đêm.
Bà cụ lại tiếp:
- Vậy mời quí khách hãy vào trong nhà.
Triều Tôn đi vào trong nhà lá ấy thấy đồ đạc rất giản dị, ngoài mấy cái sập bằng đất ra thì không còn cái gì nữa. Trong nhà có một ông cụ đang ho luôn mồm, Triều Tôn bảo Hầu Khang đi dắt ngựa tới. Tiểu đồng nghỉ tới những tình cảnh thảm khốc hồi nãy sợ sệt không dám đi. Ông già liền xuống dẫn y ra bên ngoài để dắt con ngựa vào.
Bà cụ lấy một cái bánh khô ra và pha một bình nước cho hai thầy trò uống. Triều Tôn ăn sao nổi những thứ đó chàng chỉ cắn một miếng đành phải bỏ giở, lại hỏi:
- Thị trấn ở đằng kia bị bọn giặc nào đến càn quét và giết chóc thảm thiết thế lão trượng?
Ông già thở dài một hồi rồi đáp:
- Có phải là giặc cỏ gì đâu, vì giặc cướp làm gì có ác độc như thế? Đó là bọn quan binh tạo ra đấy.
Triều Tôn nghe nói giật mình kinh hãi hỏi tiếp:
- Quan binh à? Sao quan binh lại lộng hành đến thế? chúng đang tâm chém giết như vậy mà quan trên của chúng cứ để chúng làm càn như thế hay sao?
Ông già cười nhạt một tiếng rồi đáp:
- Có lẽ Triều tướng công mới đi ra bên ngoài lần đầu chắc? Cho nên tướng công mới không hiểu một tí gì như tướng quân tưởng.
- Quan binh là người biết giữ luật pháp.
Triều Tôn lại hỏi tiếp:
- Sao dân chúng không lên quan trên mà kiện chúng?
Ông già đáp:
- Kiện chúng có ích lợi gì đâu? Không kiện thì còn may ra thoát thân, bằng không cứ tự tiện nộp đơn đi kiện lại còn bị chúng cướp phá đánh đập tàn nhẫn hơn.
- Sao lại có chuyện lạ lùng như thế?
- Không những thế, người nào kiện chúng chưa thấy quan phủ phạt chúng mà mình đã ăn một trận đòn, rồi còn bị giam vào trong nhà tù nữa. Nếu mình không có tiền hối lộ thì đừng có tưởng còn sống về với vợ con.
Triều Tôn nghe ông già nói vậy lắc đầu hoài và lẩm bẩm tự nói.
Chợt cánh cửa lớn đã bị người bên ngoài đẩy gãy đổ vào và có một người lớn tiếng quát mắng:
- Sao gọi mãi không mở cửa thế?
Không đợi ông già trả lời người đó đã tát cho ông già một cái kêu đến bộp một tiếng, bà cụ liền lên tiếng:
- Thưa quan lớn… vợ chồng… chúng tôi… già nua lẩm cẩm nên… không nghe thấy các ngài gọi cửa… ngờ đâu bà già lại bị đánh.
Bà cụ bị đánh một cái tát, người nọ lại quát mắng chửi:
- Không nghe thấy mới đáng bị đánh như vậy! Mau giết gà làm cơm cho bốn người ăn đi.
Ông già vội đáp:
- Chúng tôi sắp chết đói tới nơi làm gì có gà mà giết làm cơm cho quí vị.
Hai thầy trò Triều Tôn lại nghe thấy tiếng kêu “bùm” hình như ông già lại bị đẩy ngã vậy và tiếng bà cụ khóc lóc kêu ca.
Sau lại nghe thấy một tên nữa quát bảo:
- Thôi, Lão vương buông tha cho vợ chồng chúng, ngày hôm nay chúng ta xui thật đi cả ngày mới thâu được có hai mươi mấy lạng bạc ngân thuế. Ai nấy cũng đâm bực mình hết chừng còn đem ông bà già ấy ra đánh đập làm chi?
Tên nọ nói rằng:
- Những hạng người này chúng ta không cứng rắn một chút chúng không kiêng nể đâu. Ngay như mấy mươi lượng bạc thu được đó nếu không phải đệ đánh gãy chân anh chàng nhà quê ấy thì khi nào y chịu ngoan ngoãn nộp tiền thuế cho chúng ta.
Lại một người nói với giọng khàn khàn đỡ lời:
- Nhưng người nhà quê nghèo nàn thực, con gái mươi mấy tuổi mà không có quần mặc. Như vậy họ lấy tiền đâu mà nộp thuế chứ. Nhưng chúng ta không thâu được lại bị quan mắng chửi bảo chúng ta vô dụng…
Người đó đứng nói tới đây thì bỗng nghe tiếng ngựa của Triều Tôn kêu, mấy tên công sai giựt mình kinh hãi vội ra cửa điều tra xem, chúng thấy con ngựa liền bàn tán xôn xao, có tên nói:
- Người cưỡi ngựa thế nào cũng ở trong nhà này như vậy chúng ta lại kiếm được một món hời rồi
Nên tên nào tên nấy mừng rỡ và cùng tiếng vào trong nhà khám xét.
Triều Tôn cả kinh liền kéo tay Hầu Khang lén ra cửa sau đi miết, hai thầy trò chân cao chân thấp cứ cắm đầu mà chạy, mãi không thấy người đuổi theo hai thầy trò mới yên trí và cũng may tiền bạc đều cột cả ở trên lưng Hầu Khang. Hai người ở trong bụi cây ẩn nấp một đêm chờ trời sáng rõ mới đi ra ngoài tới đường cái quan. Hai thầy trò cứ lần theo đường cái mà đi hơn mười dặm rồi quyết định tới thị trấn đằng trước hãy mua ngựa cưỡi sau, Hầu Khang vừa đi vừa mắng chửi bọn công sai hoài. Trong khi đang chửi đổng luôn mồm thì bỗng có bốn tên công sai ở bên đương ngách bước ra tay cầm xích sắt và thước sắt, phía sau lại có hai người tay giắt một con ngựa.
Hai thầy trò Triều Tôn đã nhận ra ngay đó chính là con ngựa của mình nên hai thầy trò cũng ngẩn người ra. Lúc ấy hai thầy trò muốn tránh cũng không kịp nữa, đành làm như không có việc gì xảy ra và cứ đi thẳng về phía trước. Bốn tên công sai cứ ngắm nghía hai người hoài rồi một tên mặt vàng khè liếc mắt nhìn Triều Tôn hỏi:
- Nè, hai người kia làm nghề gì thế?
Triều Tôn nghe lời nói của người đó biết ngay người này chính là lão Vương mà tối hôm qua đánh ông bà già, Hầu Khang liền tiến lên một bước đáp:
- Vị này là công tử của chúng tôi định lên núi Chung Nam du ngoạn.
Lão Vương túm ngay lấy ngực Hầu Khang và nhanh tay cướp luôn bọc đồ cột trên vai rồi mở luôn ra xem ngay. Chúng thấy bên trong có rất nhiều vàng bạc liền động lòng tham và quát hỏi:
- Cái gì công tử với công tôn, chắc ngươi thế nào cũng là đồng bọn với lũ cường hào nên mới tới chốn này. Ngươi phải khai thật có đúng như vậy không?
Hầu Khang tái mặt nhưng cố lấy sự bình tĩnh:
- Bẩm đại quan không phải thế.
Lão Vương quát:
- Chứ thế nào hãy khai mau?
Hầu Khang đáp:
- Bẩm đại quan công tử của tôi là con nhà giàu sang quyền quí, nhân những ngày nghỉ học nhàn rỗi đi du ngoạn đến đây chứ không phải đồng bọn với bọn cường san, xin đại quan xét lại.
Lão Vương hầm hừ:
- Như thế các ngươi lên núi tiếp tế cho bọn cường san phải không?
Hầu Khang sợ hãi:
- Bẩm đại quan không phải vậy.
Lão Vương giận dữ quát:
- Thế tại sao các ngươi mang vàng bạc nhiều thế này, không phải tiếp tế cho bọn cường san?
Hầu Khang càng thêm kinh hãi:
- Bẩm đại quan mấy ngày trước Công tử tôi tới thị trấn trước kia thăm một người, khi về người sư thúc tặng số vàng bạc này cho Công tử tôi làm lộ phí.
- Ngươi nói láo.
- Bẩm đại quan tôi nói thật, tôi nói dối Vương đại quan đất trời tru lục cả gia đình tôi.
Lão Vương đưa cặp mắt cú vọ nhìn Triều Tôn rồi nhìn lại Hầu Khang như để dò xét sự thật. Sau đó lão gật đầu.
- Bây giờ ta cũng tạm tin theo lời nói của ngươi, nhưng số vàng bạc này ta mang về sở tại xét lại coi có đúng như lời của ngươi vừa khai không, nếu đúng ta sẽ trả lại.
Hầu Khang cũng là một tay có bản lĩnh hiểu rõ lão công sai họ Vương muốn chiếm đoạt số vàng bạc kiếm cớ nói ra như thế chứ có đời nào bọn công sai này buông bỏ miếng mồi béo bở.
Nhưng gã vẫn cúi đầu:
- Vâng. Bọn tại hạ xin đa tạ đại quan.
Lão Vương cho tay vào mặt Hầu Khang dọa:
- Nếu sau này ta tìm ra manh mối hai ngươi có thông đồng với bọn cường san thì đừng trách ta sao độc ác.
Nói rồi lão Vương cùng ba tên công sai đi qua một ngõ, Hầu Khang biết bọn chúng tìm chỗ chia vàng bạc. Dù đã bị mất hết số vàng bạc mang theo nhưng vẫn còn sinh mạng, Hầu Khang nói mau:
- Công tử chạy mau kẻo bọn chúng đổi ý thì khốn mất.
Chưa dứt câu gã đã chạy đi, Triều Tôn cũng gấp rút chạy theo. Hai người rẽ sang một con đường mòn vào trong núi để tìm đường ra quan lộ trở về gia trang.
Chỉ vì trong vùng này bọn công sai được bố trí khắp nơi không thể nào qua lọt được. Hầu Khang hướng dẫn Triều Tôn chạy được một lúc, thình lình nghe ở phía sau có tiếng vó ngựa đuổi theo. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần chứng tỏ đang đuổi theo thầy trò Hầu Khang và Triều Tôn. Triều Tôn hốt hoảng:
- Hầu Khang, bọn công sai đuổi theo chúng ta kìa.
Hầu Khang giục:
- Công tử chạy mau, bọn chúng sắp tới nơi rồi.
Triều Tôn vì quá sợ hãi luống cuống, cả hai chân như không còn có thể chạy.
Hầu Khang quay trở lại nắm lấy tay Triều Tôn chạy đi mau.
Tới một chỗ kia, gã hấp tấp bảo:
- Công tử! Bọn chúng sắp tới nơi rồi không thể nào chạy kịp nữa.
Triều Tôn run run:
- Chúng ta làm sao bây giờ?
Hầu Khang trỏ tay về phía trái vách núi:
- Chúng ta hãy trốn trong cái hốc đá đó.
Gã kéo tay Triều Tôn vào nách, chạy nhanh hơn trước trong khi vó ngựa đã tới gần. Đến hốc đá khá rộng. Hầu Khang thúc hối:
- Công tử vào nhanh đi.
Gã lôi tuột Triều Tôn vào trong hốc đá. Hốc đá này chỉ vừa chừng người thôi rong rêu lâu ngày nghe mùi ẩm mốc.
Hầu Khang và Triều Tôn quay mắt ra nhìn nín thở đợi chờ.
Người kỵ mã chạy tới phía sau có dắt một con ngựa dừng lại sau hang cốc.
Hầu Khang và Triều Tôn nín thở nhìn ra ngoài thấy người cưỡi ngựa không phải là bọn công sai và hắn đi một mình. Nhưng người lạ này không biết hắn thuộc hạng người nào có phải là cường đạo hay không. Vừa thoát khỏi bọn công sai giờ nếu rơi vào tay cường đạo họa đâu phải là nhỏ.
Người ky mã này trên tay cầm cây đao sáng ngời đưa mắt nhìn quanh một lượt.
Hắn lẩm bẩm:
- Hai người chạy đi ngã nào, ta định trả ngựa lại sao không thấy.
Nhưng hắn đã reo lên:
- Hai ông bạn hãy ra đây còn ở chi trong đó.
Biết không thể nào trốn được Hầu Khang và Triều Tôn bước ra ngoài.
Người đàn ông trỏ hai con ngựa:
- Ngựa này có phải của hai vị không?
Hầu Khang gật đầu. Người này bảo:
- Tốt hơn hết công tử nên mau trở về đi? Rồi thương lượng với lệnh tôn liễu - kết vụ án này. Vì bọn công sai âm độc lắm. Nếu không nghĩ cách đối phó chúng trước đến khi bị chúng ngăn trở thì phiền hà lắm?
- Còn chúng không biết tên của tại hạ ra sao, rồi tất cả mọi công việc chúng sẽ đổ hết lỗi vào cho công tử đấy?
Triều Tôn nghĩ cũng phải và chàng cũng hết du hứng rồi, liền đáp:
- Dương huynh chỉ giáo như vậy rất phải, vậy Dương huynh cho phép tiểu đệ đi cùng với Dương huynh về phía Đông nhé?
Bàng Cử gật đầu nhận lời. Hai ngày liền Hầu Khang bị hoảng sợ đến mất hết hồn vía, bây giờ y được một tiêu khách đi cùng cho nên khoái chí và yên tâm khôn tả.
Ba người đi được hơn ba mươi dặm, tìm không thấy chỗ trọ Bàng Cử liền lấy lương khô ra cho thầy trò Triều Tôn ăn.
Hầu Tôn đi kiếm một cái nồi vỡ, nhặt ít củi khô định đun ít nước uống, thì bỗng nghe thấy phía sau lưng có tiếng quát tháo:
- Cường đạo ở đây rồi?
Hầu Khang giật mình đến thót một cái, tay run lẩy bẩy nước trong nồi đổ hết cả vào đống củi. Bàng Cử quay đầu lại nhìn thấy một tên công sai hồi nãy phóng ngựa đi trước, y dẫn mười mấy quân binh đều cưỡi ngựa đuổi theo tới. Chàng liền bảo thầy trò Triều Tôn rằng:
- Mau lên ngựa?
Thế rồi cả ba đều nhảy lên mình ngựa phóng đi luôn. Bàng Cử nhường cho thầy trò phóng đi trước, còn chàng thì rút thanh đơn đao ra, đi sau yểm hộ. Bọn quan binh liền la lớn:
- Bắt lấy cường đạo?
Chúng vừa quát tháo vừa phóng ngựa đuổi theo. Bàng Cử thấy quan binh càng đuổi càng gần, và chúng lại còn bắn tên theo, chàng vội múa đao gạt hết những mũi tên đó.
Đang khi ấy chàng thấy ở phía trước bỗng có một con đường nhỏ, liền bảo thầy trò Triều Tôn rằng:
- Mau chạy sang đường nhỏ.
Thầy trò Triều Tôn liền ré sang con đường nhỏ đó mà chạy, bọn quan vẫn đuổi theo riết, tên công sai nọ còn quát tháo tiếp:
- Đuổi đi? Bắt được chúng sẽ có tiền bạc chia nhau ngay?
Bàng Cử thấy bọn quan binh săn đuổi tới gần liền dừng ngựa quay đầu lại quát lớn một tiếng rồi múa đao chém luôn.
Tên công sai họ Vương hoảng sọ vội lui về phía sau còn những quan binh khác thì múa thương xông lại đâm liều.
Bàng cử không dại gì lại đối địch với nhiều người như thế, nên chàng vừa đánh vừa rút lui. Ngờ đâu trong lúc hỗn chiến chân chàng bị một mũi thương đâm trúng.
Tuy vết thương không nặng lắm, nhưng nhuệ khí đã mất nhiều, chàng liền kẹp chặt lấy bụng ngựa, giật cương một cái, con ngựa của chàng nhảy xổ về phía trước, thuận tay chàng chém một tên quân binh gãy luôn một cánh tay trái. Các tên quan binh khác thấy vậy hoảng sợ liền lui ngay về phía sau, nhờ vậy chàng mới có dịp may phi ngựa chạy luôn.
Thấy chàng bỏ chạy bọn quan binh lại đuổi tiếp. Một lát sau chàng đã đuổi kịp thầy trò của Triều Tôn. Lúc ấy con đường càng ngày càng chật hẹp, các quan binh ai cũng sợ Bàng Cử dũng mãnh nên không ai dám đuổi tới gần. Ba người liền thúc ngựa chạy một hồi. Đường núi càng ngày càng khúc khuỷu khó đi, ba người chỉ còn văng vẳng nghe tiếng hò hét của bọn quan thôi, chứ không thấy hình bóng của chúng đâu cả. Đang lúc ấy, ba người thấy trước mặt hiện ra ba con đường nhỏ Bàng Cử liền khẽ bảo:
- Mau xuống ngựa?
Ba người chui vào trong bụi ẩn núp. Vừa núp xong, ba người đã thấy bọn quan binh đuổi tới. Lão Vương đang phân vân thì tên quân binh dẫn đầu đã rẽ sang một con đường khác tìm kiếm. Bàng Cử vội nói:
- Chúng đuổi một lúc thế nào cũng quay trở lại chúng ta hãy chạy mau lên?
Nói xong chàng xé một mảnh áo buột chỗ vết thương ở đùi rồi cả ba đều chạy sang một con đường nhánh khác.
Một lát sau, phía sau lại có tiếng quan binh đuổi theo tới. Bàng Cử lo âu vô cùng bỗng thấy phía đằng trước có ba căn nhà ngói, ở phía trước cửa có một nông dân đang làm lụng, chàng vội xuống ngựa đi tới trước mặt người nông dân đó và nói:
- Đại ca? phía sau có quan binh định giết hại chúng tôi, xin đại ca kiếm một chỗ kín đáo giúp chúng tôi ẩn núp.
Nông dân đó cứ thủng thẳng cuốc đất, hình như không nghe chàng nói gì cả vậy.
Triều Tôn cũng xuống ngựa van lơn. Nông dân ấy đột nhiên ngửng mặt lên nhìn, hai mắt tia ra hai luồng ánh sáng như hai tia điện, ngắm nhìn Bàng Cử với Triều Tôn một hồi, cùng lúc ấy ở trong bụi cây ở phía đằng trước có tiếng sáo du dương vọng tới và có một mục đồng cưỡi trên lưng bò đang thẳng đi ra. Mục đồng ấy tuổi chừng tám, chín đầu cột một cái đuôi sam nhỏ, mặt mũi rất thanh tú khiến cho ai thấy cũng phải động lòng thương, người nông dân liền nói với mục đồng rằng:
- Thừa Chí? dắt ba con ngựa này vào trong núi cho chúng ăn cỏ thật no, chờ trời tối hãy cho chúng trở về.
Tiểu đồng đưa mắt nhìn Triều Tôn ba người một cái rồi đáp:
- Vâng.
Thằng nhỏ liền dắt ba con ngựa của ba người đi luôn.
Bàng Cử không hiểu người nông dân làm như thế có ý nghĩa gì nhưng chàng chỉ thấy lời nói của người ấy rất có oai thế khiến ai cũng không dám chống cự và làm tráilại. Lúc ấy tiếng vó ngựa của quan binh đuổi theo càng ngày càng gần Triều Tôn thấy vậy lo âu vô cùng vội hỏi:
- Biết làm thế nào đây? Biết làm sao đây?
Người nông dân lên liền đáp:
- Ba vị hãy đi theo tôi lại đây.
Nói xong, y liền dẫn ba người vào trong nhà. Triều Tôn thấy trong nhà tuy có để rất nhiều nông cụ, nhưng quét dọn sạch sẽ lắm, đủ thấy nhà này không phải là một nhà nông tầm thường.
Nông dân đó đi thẳng vào bên trong đến bên phòng ngủ ba người chỉ thấy nông dân vén màn lên để lộ bức vách, rồi thấy người ấy giơ tay lên ấn vào hai nơi trên tấm vách đó một cái, liền có tiếng kêu “kèn kẹt” vang lên, trên tường hiện ra một cái lỗ hổng mọi người thấy vậy đều ngẩn người ra, nông dân liền nói:
- Đi vào đi?
Ba người nghe lời theo vào bên trong, mới hay đó là một cái hang động rất lớn, căn nhà lá được xây dựng ngay trước hang động, nếu không dời căn nhà này ra thì không ai biết đằng sau nhà là một cái hang động to rộng như thế.
Ba người vào trong đó ẩn núp xong thì người nông dân lại ấn tay lên vách tường một cái, cánh cửa kín đó tự động khít lại. Nông dân vội quay ra cuốc đất như thường.
Một lát sau tên công sai đã dẫn một bọn quan binh đến, tên công sai họ Vương liền lớn tiếng quát hỏi người nông dân nọ rằng:
- Này? Vừa rồi có ba người vừa cưỡi ngựa qua đây phải không?
Nông dân liền chỉ con đường nhỏ gần đó và đáp:
- Có, họ vừa mới đi qua đây và đi vào con đường ấy đấy.
Bọn quan binh liền theo con đường nhỏ ấy đuổi theo, nhưng chúng đi được bảy tám dặm, không thấy tung tích gì cả liền trở lại hỏi người nông dân, nhưng người nông dân giả bộ như câm như điếc, ăn nói ấm ớ không sao nghe rõ được. Một tên binh sĩ lớn tiếng mắng chửi:
- Đ.m hỏi tên ngu xuẩn này chỉ tốn mất thì giờ, chúng ta đi thôi!!!
Thế rồi bọn quan binh ấy đi sang con đường khác để đuổi theo tiếp, Triều Tôn, Hầu Khang, Bàng Cử ba người nấp trong hang động văng vẳng nghe tiếng vó ngựa chạy đã xa mới an lòng.
Một lát sau, ba người không nghe thấy tiếng động gì nữa, thế mà mãi không thấy nông dân mở cửa cho ba người ra. Bàng Cử nóng lòng sốt ruột vô cùng vội giơ tay đấm vào cửa nhưng tấm cửa đó rất dầy, đấm hằng nửa ngày mà không thấy suy chuyển chút nào., ở trong hang động tối om, không biết giờ giấc gì cả, ba người đành phải ngồi xuống đất ngủ gật để nghỉ ngơi.
Bàng Cử thấy vết thương đau nhức cứ luôn mồm chửi bọn công sai và bọn quan binh. Không biết trải qua bao nhiêu tiếng đồng hồ, cánh cửa đá bỗng xịch mở và có ánh sáng vàng lé vào.
Nông dân nọ tay cầm một ngọn nến vừa bước vào vừa nói:
- Mời ba vị vào xơi cơm?
Bàng Cử đứng dậy đi ra ngoài, thầy trò Triều Tôn theo sau cùng đi ra ngoài khách sảnh. Ba người thấy trên bàn gỗ để ở giữa nhà bày sẵn một bát canh rau một đĩa đậu phụng rang, ngoài ra lại còn có ba con gà nóng hổi nữa. Ba người thấy ngoài người nông dân và mục đồng ra lại còn có ba người nữa cũng ăn mặc theo lối nhà nông. Năm người đang đứng đợi chờ cả ở khách sảnh, Triệu Tôn với Bàng Cử ba người vội chấp tay cảm tạ và tự nói tên họ của mình cho mấy người đó nghe.
Nghe thấy cái tên Kim Xí Dương Bàng Cử hình như mấy người nông dân đó không có vẻ ngạc nhiên gì cả nhưng khi họ nghe Triều Tôn kể lại chuyện Bàng Cử cứu giúp thầy trò mình như thế nào và còn khen ngợi Bàng Cử một hồi. Bàng Cử có vẻ đắc chí vội đỡ lời:
- Câu chuyện vừa rồi có nghĩa gì đâu, thiết nghĩ năm xưa ở Sơn Tây một mình tôi bắn chết Tấn Bắc tam hung, lại còn khủng khiếp hơn chuyện vừa xảy ra hồi nãy nhiều.
Thế rồi, y liền kể lại lúc ấy tình thế nguy cấp như thế nào, y anh dũng ra sao, sắp bị đánh bại đến nơi mà lại còn thắng được đối phương giết chết luôn ba tên đạo tặc… càng kể y càng khoái chí và còn kể lại những chuyện của mình ở trên giang hồ trên mười năm nay lừng lẫy ra sao,… hết sức khoe khoang và tự cho mình là anh hùng cái thế. Y lại còn nói những cường đạo hễ thấy mặt y là không dám tới, y đang nói thao thao bất tuyệt thì bỗng thấy mục đồng ngồi cạnh đó cười khúc khích một tiếng…
Bàng Cử liếc nhìn thằng nhỏ một cái, nhưng y không có vẻ tức giận gì hết. Y lại tiếp tục nói những sự tích trên giang hồ. Triều Tôn nghe y nói có vẻ thích thú lắm. Hầu Khang hãy còn ít tuổi tính tre con vừa nghe vừa khen ngợi và thỉnh thoảng lại hỏi một vài câu. Sau cùng Bàng Cử nói đến võ nghệ, giơ tay giơ chân vừa nói vừa thí dụ. Mấy người nông dân có vẻ không thích nghe, nhất là người béo lùn họ La cứ ngập ngừng hoài và nói:
- Khuya rồi, chúng ta đi ngủ thôi.
Mục đồng nghe nói liền chạy ra đóng cửa luôn, người họ Chu xách một tảng đá lớn để ở xó tối ra chặn cửa. Bàng cử thấy tảng đá lớn như vậy bèn thở phào một cái và nghĩ thầm: “Người này khỏe thật, tảng đá ít nhất cũng nặng tới bốn năm trăm cân mà y xách đi một cách nhẹ nhàng như vậy…”
Họ Ung thấy y mặt biên sắc liền nói:
- Nghiệt súc lại tới lại tới quấy rối đấy.
Người họ Nghê bèn đứng dậy nấp ở phía sau cánh cửa lấy cây đinh ba ra rung động một cái có tiếng kêu cong cong vang lên rồi lên tiếng nói:
- Hôm nay nhất định không để nó đào tẩu được nữa. Thừa Chí, cháu cùng đi theo chú đi.
Mục đồng nhận lời ngay chạy luôn vào trong nhà lấy một cái thương sắt thu nhỏ ra. Người họ Chu liền xách tảng đá lớn sang bên, cánh cửa bị luồng gió thổi mở toang ra. Gió ở bên ngoài thổi vào đem cả mùi tanh hôi và những lá rụng, những ngọn nến ởtrong phòng cũng bị tắt luôn. Hầu Khang kinh hoảng thất thanh la lớn, người họ Nghê với mục đồng đã nhanh nhẹn nhảy ra ngoài cửa. Bàng Cử cầm thanh đơn đao cũng lên tiếng nói:
- Cho tôi đi với.
Y vừa bước chân ra ngoài cửa thì cổ tay trái y bị người ta nắm chặt lấy, y định dùng sức giật ra nhưng y thấy năm ngón tay của người đó cứng như sắt đang nắm chặt lấy tay y, khiến y không sao cử động được. Trong bóng tối liền có giọng nói khàn khàn khe bảo y rằng:
- Đừng đi ra, con hùm đó lợi hại lắm.
Bàng Cử còn định giằng co nữa nhưng người nọ cứ nắm chặt lấy y không kéo vào mà cũng không cho y đi ra. Bàng Cử bất đắc dĩ đành phải ngồi xuống đất người nọ mới chịu buông tay y ra.
Lúc ấy mọi người chỉ nghe thấy người họ Nghê quát tháo và tiếng hổ gầm.
Tiếng cồng đồng ở trên cây đinh ba kêu loong cong cùng tiếng lá, tiếng cành cây rơi xuống đất rào rào cùng nổi lên ồn ào vô cùng, thỉnh thoảng lại xen tiếng quát tháo của mục đồng. Mọi người đoán chắc hai người một hổ đang kịch chiến ở bên ngoài, một lát sau tiếng ồn ào đó càng ngày càng xa có lẽ con hổ đó đã bị thương và đào tẩu và hai người đã đuổi theo rồi.
Người họ La liền lấy đá lửa ra để châm nến chỉ thấy trong nhà đầy những lá và cành cây nhiều vô cùng. Mọi người đang im lặng bỗng nghe thấy đằng xa có tiếng chân người đi tới, thoắt cái mục đồng đã chạy vào trong nhà vẻ mặt hớn hở mồm thì la lớn:
- Ăn thịt hổ, ăn thịt hổ.
Triều Tôn thấy cây đoản thương của y dính đầy máu tươi liền nghĩ thầm: “Y bé nhỏ như thế mà dũng mãnh như vậy. Mình thì tay không không trói nổi một con gà thật là hổ thẹn quá.”
Chàng đang suy nghĩ, đã thấy người họ Nghê bước vào, tay trái cầm đinh ba, tay phải xách con cọp rằn rất lớn. Vừa vào tới nơi y đã ném ngay con cọp rằn xuống đất.
Triều Tôn giật mình đến thót một cái, vội chạy ngay vào bên trong. Sau chàng thấy con vật không cử động gì hết mới hay nó đã chết rồi. Người họ Nghê vênh mặt lên bảo mục đồng rằng:
- Thừa Chí, lúc nãy cháu đã đánh lầm rồi cháu có biết không?
Mục đồng cúi đầu xuống đáp:
- Dạ, cháu không nên đứng trước mặt mà ném phi tiêu.
Người họ Nghê mới dịu nét mặt và nói tiếp:
- Đứng phía trước ném phi tiêu không phải là không được, nhưng cháu hãy ném hai phi tiêu cùng một lúc. Đồng thời phải ném trúng hai mắt của nó và sau khi ném xong thì nhảy sang bên ngay. Bây giờ cháu ném có một phi tiêu, đả thương có một mắt nó thôi. Con cọp đã bị thương rồi, thế nào sức vồ của nó cũng mạnh hơn trước, nếu không dùng cây đinh ba chống đỡ thì cháu đã toi mạng rồi.
Mục đồng không nói năng gì hết, cứ đứng yên mà nghe thôi. Người họ Nghê liền khen y vài câu:
- Cháu ném phi tiêu khá lắm, nhưng sức ném còn hơi yếu một chút. Nhưng điều này không thể trách cháu được, sau này cháu lớn lên sức lực ở cổ tay sẽ tự nhiên mạnh hơn bây giờ liền.
Nói xong, y xách con cọp lớn lên. Chỉ thấy chỗ hậu môn bị bắn trúng một mũi phi tiêu. Y lại nói tiếp:
- Mũi tiêu đủ sức mạnh, nên đã xuyên vào tận trong bụng nó, vì vậy con súc sinh này mới chết ngay.
Mục đồng đáp:
- Ngày mai cháu sẽ dụng tâm luyện lại.
Người nọ nghe gật đầu, liền lôi con hổ vào trong hậu đường. Bàng Cử thấy hai người giết một con cọp lớn một cách dễ dàng như vậy, trong lòng sợ hãi không yên.
Thoạt tiên y tưởng những người này không phải là nông dân thường. Bây giờ y biết những người này có lẽ là giặc cướp giả dạng. Nếu họ mà ra tay đối phó mình thì mình địch sao lại họ.
Nhưng Triều Tôn không có ý nghĩ ấy, chàng cứ hết sức khen ngợi mục đồng anh dũng, rồi chàng còn chạy lại vuốt tay thằng nhỏ hỏi tên họ là chi nữa nhưng mục đồng không chịu cho chàng hay.
Đêm hôm đó, Triều Tôn, Bàng Cử và Hầu Khang ba người cùng ngủ một giường.
Vừa nằm xuống, Hầu Khang đã ngủ say liền. Triều Tôn nằm trằn trọc mãi không sao ngủ được. Một lát sau, chàng nghe có tiếng người đọc sách, liền lắng tai nghe, mới hay mục đồng đang đọc sách bằng tiếng Quảng Đông, chứ không phải là tiếng Trung Châu chàng lại càng ngạc nhiên thêm. Chàng nghe mãi không hiểu thằng nhỏ ấy đọc sách gì sau mãi mới nghe được một vài câu, mới hay mục đồng đang đọc viện binh trận, chiến đấu gì đấy. Lòng hiếu kỳ thúc đẩy, chàng vội khoác áo ngoài vào, đi ra ngoài sảnh thấy trên bàn có thắp một ngọn nến cực lớn, mục đồng đang chăm chỉ đọc và người họ Ung ngồi bên cạnh dạy bảo. Trông thấy Triều Tôn ra chỉ khe gật đầu chào một cái thôi.
Triều Tôn tới cạnh bàn, thấy trên mặt bàn còn có thêm một cuốn sách nữa, chàng bèn cầm một cuốn lên xem thấy ngoài bìa đề “Kỳ Hiệu Tân Thư”, mới hay cuốn sách ấy là cuốn binh thư.
Triều Tôn liền lên tiếng với họ Ung ấy rằng:
- Xem cử chỉ và hành động tôi nhận thấy quí vị ắt không phải là người thường. Vậy không hiểu tại sao quí vị ẩn cư ở nơi đây? Chẳng hay tiểu sinh có thể cho tại hạ nghe rõ nguyên nhân ấy không.
Người họ Ung đáp:
- Chúng tôi chỉ là những người dân rất thường thôi. Chúng tôi quanh năm sinh sống bằng nghề cày cấy săn bắn, còn học sách tập viết là việc rất thường thôi, chứ có gì khác lạ đâu mà công tử lại hỏi như vậy? chẳng lẽ chỉ có con cháu quan hay người giàu có mới được học hành hay sao?
Triều Tôn biết đối phương không chịu nói cho mình hay, có hỏi thêm chỉ vô ích mà thôi, nên chàng cáo lỗi, rồi trở về phòng ngay.
Chàng đang mơ mơ màng màng thì thấy có người đẩy mình một cái liền thức giấc và tỉnh lại liền. Chàng nghe thấy Bàng Cử khe nói:
- Nơi đây là ổ giặc đấy, chúng ta mau chạy đi thôi.
Triều Tôn giật mình kinh hãi khe hỏi lại:
- Sao Tổng tiêu đầu lại biết rõ như thế?
Bàng Cử liền lấy đá lửa ra đánh thắp một bó đuốc nhỏ, rồi tới cạnh một cái rương lớn rồi mở nắp ra và nói:
- Công tử xem này.
Triều Tôn thấy trong gương chứa toàn vàng bạc châu báu, giật mình kinh hãi đứng ngẩn người ra liền.
Bàng Cử đưa bó đuốc cho Triều Tôn cầm, để khuân cái gương ấy xuống, bên dưới lại còn một cái nữa, y định be khóa để mở ra xem Triều Tôn vội khuyên bảo:
- Ta không nên xem những gì bí ẩn của người khác như thế, nhỡ gây tai họa thì sao?
Bàng Cử đáp:
- Tôi nhận thấy trong rương có mùi khó ngửi xông ra.
Triều Tôn vội hỏi lại:
- Mùi gì thế?
- Mùi tanh của máu.
Triều Tôn không nói gì nữa. Bàng Cử liền bẻ luôn cái khóa rồi lắng tai nghe thấy bên ngoài không có tiếng gì cả, y liền khẽ mở nắp rương lên, và giơ bó đuốc lên soi.
Không hiểu hai người trông thấy vật gì ở trong rương mà đều ngẩn người ra liền.
Thì ra trong rương có hai cái thủ cấp một cái đã bị chém lâu, nên máu đã khô và thâm cả rồi, cái thứ hai thì mới chém không lâu. Họ tẩm vôi bột và thuốc để cho khỏi hư, nên râu và lông mày của hai cái thu cấp ấy vẫn còn toàn vẹn cả. Bàng Cử là người lão luyện giang hồ đến thế mà cũng biến sắc mặt, chân tay run lẩy bẩy liền. Triều Tôn cũng kinh hãi đến đứng đờ người ra.
Bàng Cử khẽ đóng nắp rương lại và nói:
- Chúng ta phải chạy cho thực mau mới được.
Nói xong, y liền gọi Hầu Khang dậy rồi cả ba lần mò ra ngoài sảnh, nhưng khi tới nơi canh cửa, vừa rờ tới tảng đá lớn chặn cửa thì Bàng Cử kêu khổ thầm liền. Y giở hết sức bình sinh ra mà cũng không sao lay chuyển nổi tảng đá ấy.
Bỗng có ánh sáng đèn chiếu ra, ba người vội quay lại nhìn, mới hay người họ Chu đã cầm nến bước ra. Bàng Cử vội cầm lấy thanh đơn đao để phòng bị, nếu có sao thì đành thí mạng với đối phương ngay. Nhưng người nọ không thèm đếm xỉa tới y, chỉ hỏi:
- Muốn đi phải không?
Nói xong, y liền đi tới cạnh cửa, khẽ đẩy tảng đá sang bên, rồi mở luôn cánh cửa lớn ra.
Không biết là hên hay xui, Bàng Cử với Triều Tôn cứ cúi đầu đi ra ngoài cửa, dắt ngựa tới, rồi lên ngựa phóng nhanh về phía Đông tức thì.
Ba người đi được mười mấy dặm, trong lòng đang yên trí thì bỗng nghe thấy phía sau tiếng gió ngựa nhộn nhịp và có người kêu gọi:
- Này, đứng lại, đứng lại.
Ba người không dám ngừng lại cứ thúc ngựa phóng tiếp. Đột nhiên có cái bóng đen thấp thoáng, một người lướt qua cạnh ba người và phóng lên phía trước, giơ tay ra một cái. Ngựa của Bàng Cử kinh hãi hí lên một tiếng cực lớn rồi đứng chồm lên luôn.
Bàng Cử vội giơ đao, nhắm đầu người ấy chém luôn một nhát. Người nọ giở thế võ tay không cướp khí giới ra đấu với Tổng tiêu đầu. Nhưng chỉ đấu được vài hiệp, người đó đã tung mình nhảy lên giơ tả quyền ra đấm luôn vào thái dương huyệt của Bàng Cử. Không chịu cho đối phương đấm trúng Bàng Cử múa đao lên nhắm cánh tay của người ấy chém luôn. Ngờ đâu thế công của người nọ chỉ là thế hư, tay đưa ra lưng chừng chàng đã biến quyền thành chưởng, người chàng ta chưa rơi xuống mặt đất đã dùng chưởng móc luôn vào cổ tay của Bàng Cử mồm thì quát lớn:
- Xuống ngựa.
Thế là người ấy đã lôi được Bàng Cử té xuống đất tức thì. Không hiểu y đã dùng thủ pháp gì mà chỉ giơ tay ra một cái đã cướp luôn được thanh đơn đao của đối phương ngay.
Người ấy cướp được thanh đơn đao xong liền buông tay Bàng Cử ra ngay và hai tay cầm thanh đơn đao bẻ “cách” một tiếng thanh đao ấy đã gãy làm hai, và vứt xuống đất luôn.
Dưới ánh sáng mặt trời mới mọc ba người nhận ra người đó là người họ Chu.
Người nông dân họ Chu nói:
- Ba người hãy theo tôi trở về đã.
Nói xong y liền nhảy lên mình ngựa dẫn đường đi trước, không lo ngại ba người Bàng Cử và Triều Tôn đào tẩu gì cả. Bàng Cử biết có chạy cũng không thể nào chạy thoát và phản kháng cũng không nổi, nên đành phải ngoan ngoan theo người nọ đi luôn.
Ba người theo người họ Chu lại quay trở về căn nhà ngôi ở trọ đêm hôm trước.
Vừa vào đến cửa đã thấy bên trong đèn thắp sáng choang, mục đồng ngồi ngay chính giữa, còn ba người kia ngồi ở hai bên, ai nấy vẻ mặt đều nghiêm nghị vô cùng và không nói nửa lời.
Bàng Cử yên trí phen này thế nào cũng chết chứ không sai, nên y đánh liều làm ra vẻ nghênh ngang kiêu ngạo nói:
- Ngày nay Dương đại ca đã lọt vào tay các ngươi, muốn chém thì chém, muốn giết thì giết khỏi cần phải nói nhiều.
Họ Chu liền nói:
- Ung đại ca nên đối xử với y ra sao?
Người họ Ung ngẫm nghĩ một hồi chưa kịp lên tiếng thì người họ Nghê đã xen lời tiếp:
- Buông tha cho thầy trò Hầu công tử.
Họ Ung đáp:
- Tên họ Dương này chuyên môn bảo tiêu làm chó săn cho người có tiền, tội của y đáng chết rồi, nhưng ngày hôm nay y có lòng nghĩa hiệp cứu thầy trò Hầu công tử thì hãy tha chết cho y một phen. Chú em họ La chú hãy phế đôi nhãn hiệu của y đi.
Người họ La đứng dậy, Bàng Cử thấy vậy mặt biến sắc. Triều Tôn không hiểu tiếng lóng của giang hồ, nên không biết phế đôi nhãn hiệu là khoét đôi mắt đi.
Nhưng chàng thấy thái độ của mọi người đoán chắc thế nào cũng giết hại Bàng Cử chứ không sai. Chàng đang định lên tiếng van lơn họ thì bỗng thấy mục đồng nói:
- Ung thúc thúc, cháu thấy y cũng tội nghiệp lắm, thôi tha cho y đi.
Người họ Ung đưa mắt nhìn nhau một cái, ngừng giây lát, y lớn tiếng nói với Bàng Cử rằng:
- Bây giờ đã có người xin cho ngươi, vậy ngươi phải thề độc là không được tiết lộ một tí gì về những việc mà hôm nay ngươi đã trông thấy.
Bàng Cử đáp:
- Quả thật tôi không có ý định dòm ngó gì hết, nhưng tôi đã trót thấy rồi, có điều chỉ trách Dương mỗ là người mù quáng không biết quí vị là anh hùng hảo hán. Từ đây trở đi tôi xin thề không bước chân vào Thiểm Tây này nửa bước và việc của quí vị tôi xin giữ kín. Nếu tôi nuốt lời thì trời đất tiêu diệt tôi.
Họ Ung lai nói:
- Được, chúng ta tin ngươi là người hảo hán, thôi ngươi đi đi.
Bàng Cử chấp tay chào định đi thì người họ Nghê đột nhiên đứng dậy quát tháo:
- Ngươi đi ngay như thế này ư?
Bàng Cử ngẩn người ra một cái nhưng y liền hiểu ý ngay, gượng cười một tiếng và đáp:
- Thôi được xin cho tôi mượn thanh đao.
Bàng Cử giơ tay ra bắt và đi mấy bước để tay phải lên mặt bàn, rồi múa đao chém đến phập một cái, đứt luôn bốn ngón tay.
Chém xong, y liền vừa cười vừa nói tiếp:
- Con đồ này một thân một mình chịu không liên can gì đến bọn kia hết.
Mọi người thấy tay y máu chảy ra như suối mà vẫn cố gắng chịu đựng được nên ai nấy đều cảm phục khí khái của y. Người họ Nghệ giơ ngón tay cái lên nói tiếp:
- Được lắm, câu chuyện hôm nay coi như đã kết liễu rồi.
Nói xong y liền đi vào bên trong, lấy thuốc cứu thương và vải trắng ra băng bó cho Bàng Cử. Không muốn ở lại đó chút nào Bàng Cử để người họ Nghê băng bó vết thương cho mình xong quay lại nói với người họ Nghệ rằng:
- Chúng ta đi thôi.
Triều Tôn thấy sắc mặt y nhợt nhạt như vậy chắc là y đau đớn lắm định mời y ở lại thêm một đôi ngày nữa nhưng chàng nghĩ lại không dám lên tiếng nói. Người họ Ung thấy vậy vội đỡ lời:
- Hầu công tử nói ra thì chúng tôi với công tử cũng có đôi chút liên can với nhau.
Người khách họ Dương này cũng hảo hán lắm. Thôi để tôi biếu cho hai người vật này.
Nói xong, y móc túi lấy ra một vật đưa cho Triều Tôn, Triều Tôn thấy vật đó là một the trúc, nho nhỏ, đầu có đục lỗ thành hai chữ “Sơn Tôn.” Phía sau lưng có vẽ một bông hoa gì đó, nhưng chàng không hiểu vật này dùng để làm gì? Đang ngơ ngác nhìn thì người họ Ung lại tiếp:
- Hiện thời thiên hạ đại loạn, công tử là một thư sinh yếu ớt, không nên đi lại bên ngoài như vậy. Tôi khuyên công tử nên trở về nhà ngay. Nếu đi đường có gặp sự gì nguy nan thì công tử cứ việc đưa cái thẻ trúc này ra là bình yên ngay.
Triều Tôn lại xem cái thẻ trúc đó, thấy không có cái gì là lạ hết, nên chàng vẫn chưa tin nó có pháp lực thần bí gì chàng đoán chắc vật này chỉ là một vật để trong người thôi cho nên chàng liền cám ơn một tiếng rồi giao cho Hầu Khang bỏ vào trong bọc áo.
Thế rồi ba người từ biệt mọi người ra đi, cưỡi ngựa thung thẳng theo lối cũ quay lại. Cả ba trong lòng đều rầu rĩ vô cùng. Đi đến khi trời sáng tỏ mới đến một thị trấn nhỏ. Triều Tôn liền kiếm một khách sạn để cho Bàng Cử nghỉ ngơi.
Sáng ngày hôm sau ba người lại lên đường đi luôn. Không muốn trông lại thảm trạng thị trấn bị quan binh càn quét Triều Tôn đề nghị đi vòng đường chứ không chịu đi xuyên qua thị trấn đó. Ba người đi đến giờ ngọ mới có chỗ nghỉ chân, nghỉ ngơi xong, lại lên đường, đi được hơn hai chục dặm nữa, bỗng nghe thấy có tiếng vó ngựa nhộn nhịp, rồi thấy một người cưỡi ngựa ở đằng trước phi tới. Khi đi qua cạnh ba người, có đưa mắt ngắm nhìn Triều Tôn và Bàng Cử một cái rồi phóng ngựa đi luôn.
Ba người đi được năm sáu dặm đường, lại nghe thấy phía sau có tiếng vó ngựa nhộn nhịp. Và thấy người cưỡi ngựa hồi nãy đuổi theo tới. Lần này y ngắm nhìn Bàng Cử và Triều Tôn kỹ lưỡng hơn, người ấy đầu bọc vải xanh mặt mũi có vẻ rất anh tuấn.
Y đi qua cạnh ba người rồi phóng đi luôn.
Triều Tôn liền lên tiếng nói:
- Hình dáng của người này kỳ lạ thật, sao y đi rồi lại quay trở lại thế?
Bàng Cử đáp:
- Chờ lát nữa có việc gì xảy ra Hầu công tử chỉ việc đào tẩu trước, cứ để mặc cho tôi đối phó.
Triều Tôn kinh hãi hỏi lại:
- Dương huynh nói gì thế? Lại có cường đạo hay sao?
- Có lẽ chúng ta đi không đầy năm dặm nữa thế nào cũng có việc xảy ra, nhưng bây giờ chúng ta muốn lui cũng không được nữa đành phải xông pha lên một phen vậy.
Liền có ba người cỡi ngựa chạy ra cản đường. Bàng Cử… thúc ngựa chạy lên chắp tay chào nói:
- Tại hạ là người họ Dương người của tiêu cục Võ Hội đi qua quí địa nhưng không phải là bảo tiêu gì cả, cho nên mới không gửi thiếp chào quí Vương gia, còn vị Hầu công tử đây là đi du lịch. Hầu công tử là học trò mong quí vị nể nang nhường lối đi cho.
Bàng Cử ở trên giang hồ cũng có chút tên tuổi xưa nay, đơn đao của y cũng học được chân truyền, nhưng vừa rồi y bị chặt gãy mấy ngón tay và y lại nghĩ mấy người quanh đây chắc đa số có liên quan đến người họ Ung. Cho nên y mới dùng lời lẽ khiêm tốn như thế để thỉnh cầu. Người đi giữa ba người kia tay không cầm khí giới cười đáp:
- Chúng ta thiếu tiền lộ phí định mượn các hạ một ít.
Rồi y phi ngựa tới, giơ tay ra chộp luôn cái bọc áo sắp rơi xuống đất.
Y vừa cầm bọc áo lên vừa thử xem nặng bao nhiêu rồi vừa cười vừa nói:
- Cám ơn nhé.
Giây phút sau ba người đó đã đi mất dạng liền. Bàng Cử liên tiếp bị thất bại chán nản vô cùng. Hầu Khang lo âu vội hỏi:
- Tất cả tiền lộ phí của chúng ta ở trong cái bọc đó hết, bây giờ biết lấy gì mà đi về đây?
Bàng Cử đáp:
- Chú được sống sót như vậy cũng đã là mừng lắm rồi, thôi chúng ta cứ đi đến đâu lo đến đấy vậy.
Ba người nản chí cúi đầu thủng thẳng đi luôn. Nửa giờ sau, bỗng nghe thấy phía sau lại có tiếng vó ngựa nhộn nhịp ba người vội quay đầu nhìn lại mới hay ba người lúc nãy lại quay ngựa đuổi theo. Bàng Cử và Triều Tôn đều hoảng sợ vô cùng, không biết họ đuổi theo như thế để làm chi.
Ba người đó vừa phóng ngựa tới trước mặt bỗng xuống ngựa liền, người đi trước chắp tay chào và nói:
- Ra là người nhà cả, chúng tôi thất lễ mà cũng không hay, xin hai vị đừng trách cứ nhé.
Một người nữa hai tay bưng bọc áo trả lại cho Hầu Khang, lễ phép:
- Xin giao hoàn món vật này lại cho huynh đài, vừa rồi chúng tôi đã hiểu lầm xin thứ lỗi cho.
Hầu Khang trố mắt nhìn gã kia chưa biết phải phản ứng ra sao cho đúng vì trong lòng hắn rất nghi ngại bởi vì bọn người này vừa mới cướp cái bọc của thầy trò hắn chạy đi, bây giờ trở lại trao trả với ý định gì.
Từ trước bọn cường can tính tình hung bạo tráo trở lạ thường làm sao có thể tin được. Chúng bảo chúng ta người nhà cả. Câu nói này có ý nghĩa gì. Hầu Khang đứng ngớ người ra chưa đáp.
Tên kia tươi cười:
- Huynh đài hoài nghi tôi nói đùa đấy à?
Hầu Khang gật đầu:
- Vâng… tôi… tôi… tôi.
Tên kia ngắt lời:
- Chúng tôi trả lại thật, huynh đài nhận đi.
Hắn ném cái bọc sang phía Hầu Khang, Hầu Khang chộp bắt cái bọc cầm nơi tay chưa biết phải nói lời gì. Trong trí óc Hầu Khang nghĩ ra một chuyện, hắn nghĩ thầm:
- Hay bọn này là cường đạo, hắn hiểu lầm ta và công tử là đồng môn nên mới nói: “Chúng ta là người nhà cả.”
Hắn còn đang suy nghĩ thì chợt thấy tứ phía có một số đông người từ trong những kẹt đá chạy tới. Hình như bọn người kia ẩn nấp trong sơn cốc giờ trở ra ngoài. Bọn này đứng chào. Số người kia chạy tới ngưng lại. Họ đều là những người nông dân thôn dã thân hình to lớn khoe mạnh. Bọn người kia nhìn gặp mấy người này mừng vui như vừa trải qua một tai nạn rồi lại gặp nhau.
Triều Tôn và Hầu Khang chú ý quan sát để xem đây là chuyện gì, tại sao hôm nay họ lại hội đông đảo như thế.
Bọn người chào hỏi nhau đủ giọng của các tỉnh. Và cứ xem phục trang của họ cũng đủ biết đa số là ở xa tới. Hai người không hiểu những người đó lặn lội xa xôi đến đây làm chi nên trong lòng thắc mắc vô cùng.
Tối hôm đó Triều Tôn và các người ở trọ trong khách điếm tại chân núi Lão nhai định sáng sớm mai là lên núi liền. Mọi người đang ăn cơm tối bỗng có người chạy vào nói:
- Tổ tướng công đã tới.
Chín phần mươi ngươi trong khách điếm đều đứng cả dậy và chạy luôn ra khỏi khách điếm. Bàng Cử kéo tay Triều Tôn và nói:
- Chúng ta cùng đi ra xem sao đi.
Hai người đi ra ngoài cửa khách điếm thấy những người đó đều đứng sang cả hai bên đường buông xuôi tay xuống. Hình như đang đợi chờ một nhân vật quan trọng vậy.
Một lát sau trên đường núi ở phía tây có tiếng vó ngựa nhộn nhịp vọng tới, mọi người đều quay mặt lại nhìn cả về phía đó giây phút sau liền thấy một thư sinh chạc độ hai bảy hai tám tuổi cỡi ngựa thủng thẳng đi tới. Người đó thấy mọi người đứng cả hai bên đường nghênh đón, người đó liền thúc ngựa lại gần rồi nhảy xuống dưới đất. Trong những người đi theo đã thấy một đại hán tiến lên đỡ lấy cương ngựa. Thư sinh ấy đi bước một tới cúi đầu vái chào và hỏi thăm từng người một.
Thư sinh ấy đi tới trước mặt Triều Tôn thấy chàng ăn mặc theo lối thư sinh vội tiến tới gần chắp tay chào và hỏi:
- Vị này là ai thế?
Triều Tôn đáp:
- Tại hạ họ Hầu xin hỏi quí tính danh là gì?
Thư sinh nọ đáp:
- Tại hạ họ Tổ tên là Trọng Thọ.
Triều Tôn chắp tay chào và hỏi tiếp:
- Tai hạ ngưỡng mộ đã lâu…
Trọng Thọ mỉm cười và đi vào trong khách điếm luôn. Bàng Cử lôi Triều Tôn sang bên và nói:
- Hình như thư sinh họ Tổ này rất có quyền thế. Hầu công tử nên nói với y bảo y tha cho chúng ta đi. Công tử với y cùng là người học hành với nhau chắc dễ nói chuyện hơn.
Triều Tôn nghĩ cũng phải liền đi tới trước cửa phòng của Trọng Thọ ho một tiếng đánh tiếng trước rồi mới giơ tay lên gõ cửa. Lúc ấy chàng nghe thấy trong phòng có tiếng đọc sách vọng ra. Chàng gõ được mấy cái tiếng đọc sách trong phòng liền ngưng ngay, cửa phòng vừa hé mở Trọng Thọ đã ra nghênh đón và nói:
- Ở khách điếm tĩnh mịch này mời Hầu huynh vào đây trò chuyện với đệ một phen.
Triều Tôn vái chàng nọ một cái rồi đi thẳng vào trong liền. Chàng thấy trên bàn có để một quyển sách bên trên có viết chữ: Binh Liêu, Minh Điêu Thần Hoàng Thượng. Chàng đoán chắc đó là một bản tấu chương nên chàng không dám ngó nữa vì sợ đối phương nghi kỵ, rồi mới ngồi xuống.
Trọng Thọ hỏi gia thế của chàng ra sao? Chàng theo đúng thứ tự mà trả lời. Thấy chàng là con trai Hộ bộ Thượng thư liền kêu “ủa” một tiếng nói tiếp:
- Lệnh tôn đại nhân là một người quần tư thanh lục, chúng tôi rất kính phục.
Triều Tôn vội đáp lời. Tiếp theo đó chàng liền kể lại chuyện cho Trọng Thọ nghe mình vì trốn tránh quan sai rồi được Bàng Cử ra tay cứu giúp như thế nào, sau lại được người họ Ung tặng cho cái thẻ bài trúc… riêng có chuyện thấy ở trong hòm có đầu lâu người thì chàng không dám nói ra cho đối phương nghe thôi.
Trọng Thọ vừa cười vừa nói tiếp:
- Chúng ta gặp gỡ ở nơi đây kể ra cũng có duyên phận đấy, ngày mai huynh hãy theo tiểu đệ lên núi để quen biết một ít anh hùng hào kiệt. Đây cũng là một việc rất khoái chí của một đời người, quí hồ Hầu huynh đừng tiết lộ những gì mắt thấy tai nghe của chuyến đi này thì tiểu đệ cam đoan Hầu huynh không bị hại gì cả.
Triều Tôn thấy chàng ta ăn nói nhanh nhạy như vậy trong lòng mới yên tâm. Thế rồi hai người lại nói đến chuyện văn thơ. Mới hay Trọng Thọ học rất ít, nên khi chàng ta thấy Triều Tôn ăn nói trang nhã như vậy lại càng kính nể vô cùng.
Hai người đàm đạo cho đến canh hai, Triều Tôn mới cáo từ về phòng. Bàng Cử đợi chờ hoài không thấy Triều Tôn quay trở về phòng nóng lòng sốt ruột vô cùng, không biết hên sui ra sao, đang đi đi lại lại thì bỗng thấy Triều Tôn vẻ mặt hớn hở về tới. Y mới yên lòng.
Bích Huyết Kiếm - Hồi 2 : Tám phương hội anh tuấn
Ngày hôm sau là ngày Tết Trung thu, nên hôm đó Triều Tôn với Bàng Cử theo mọi người lên núi thật sớm. Khi đi tới lưng núi thì vừa đúng giờ ngọ đã có mười mấy người khiêng sẵn cơm nước ở đó chờ đợi rồi, nhưng các món ăn đều là món chay hết. Mọi người ăn uống xong, nghỉ ngơi một lát rồi lại tiếp tục đi luôn.
Từ chỗ nghỉ chân lên tới đỉnh núi, suốt dọc đường đều có trạm canh và khám xét rất nghiêm ngặt. Khi bị khám xét tới bọn Triều Tôn ba người, thì Trọng Thọ tiến lên gật đầu một cái, người canh gác để cho đi qua. Triều Tôn nghĩ thầm: “Nguy nan thật, nếu tối hôm qua không trò chuyện với Trọng Thọ thì ngày hôm nay chưa biết số phận mình sống chết ra sao?”
Đến lúc chiều tà mới lên tới đỉnh núi. Mấy trăm hảo hán, cao có, thấp có, đã xếp hàng đứng nghênh tiếp mọi người. Có một người vừa cao vừa mập, vạm vỡ khác thường, hình như là thủ lãnh của nhóm người ra đón, thấy Tô Trọng Thọ, vội tiến tới đó chào. Rồi, hai người dắt tay nhau cùng đi vào trong nhà. Triều Tôn thấy trên núi thưa thớt có mấy chục nóc nhà. Căn lớn nhất hình như là một ngôi chùa hoặc miếu. Những căn nhà đó không phải là nhà thường dân, mà cũng không giống sơn trại nào của giặc cướp. Vì không có một căn nào xây lầu canh pháo lũy cả.
Ở dưới núi, Bàng Cử đã thấy kiểu cách của các người ấy khác những đám giặc cỏ mọi nơi, thì chắc trên sơn trại thế nào cũng hùng vĩ lạ thường, nhưng có ngờ đâu lại sơ sài nghèo nàn đến thế! Chàng phân vân không hiểu những người này là hạng người gì?
Chàng nghĩ thầm: “Mình lăn lộn trong đám giang hồ chẳng gì cũng đã được mấy năm trường. Việc gì chẳng mục kích qua? Trường hợp nào chẳng có mình dự qua? Nhưng lần này có điều lạ nhất là những người này phần nhiều ở nơi xa xôi hàng nghìn vạn dặm tới. Khi gặp nhau, thái độ của họ thân mật như anh em ruột thịt, mà sắc mặt thì buồn bực phẫn uất, không thấy một người nào tươi cười vui mừng cả?”
Triều Tôn và ba người được dẫn vào nghỉ một căn phòng nhỏ. Một lát sau, có người bưng cơm nước tới. Có bốn món chay và hơn 20 cái bánh mì hấp (Người phía Bắc Trung Hoa ăn bánh mì hấp thay cơm). Đêm hôm đó, Triều Tôn cùng Bàng Cử bàn tán thầm thì. Cả hai đều không hiểu những người kia quy tụ trên núi này làm gì? Ngày hôm sau là ngày 16 tháng 6, hai người vừa ăn điểm tâm xong, ra ngoài dạo chơi quanh núi thấy đâu đâu cũng có những đại hán lạ mặt, có kẻ mặt đầy những sẹo vết thương, có người què chân cụt tay, đều là chiến trường trải, phong sương lịch duyệt cả. Hai chàng sợ người ta nghi kỵ lại sinh tai bay vạ gió thì nguy, nên vội trở về phòng ngay, cả ngày không dám ra khỏi phòng.
Hôm đó bốn bữa ăn đều toàn những món chay cả. Bàng Cử rủa thầm: “Chúng làm chay cúng cha cúng tổ, mặc chúng! Tại sao lại bắt buộc cả tụi mình phải ăn nhạt theo chúng thế này?”
Tới lúc hoàng hôn, bỗng tiếng chuông vang tai inh ỏi, có một người vào mời.
- Tổ tướng công mời quí vị lên trên điện xem làm lễ.
Triều Tôn và Bàng Cử theo người đi liền. Hầu Khang cũng định đi theo, người kia vội xua tay:
- Cậu em ở lại. Đi ngủ sớm còn hơn.
Triều Tôn và Bàng Cử theo người kia đi vòng qua mấy căn nhà ngói, đến một ngôi miếu.
Triều Tôn ngửng đầu thấy trên cửa có treo một tấm hoành phi đề ba chữ “Trung Liệt Từ”, chàng nghĩ thầm: “Đây là căn từ đường, không hiểu họ thờ những ai thế?”
Xuyên qua gian ngoài và sân giữa thấy hai bên đều có để giá bày võ giới. Nào đao kiếm thương kích đủ thập bán ban, cái nào cái nấy đều lau chùi bóng lộn choáng mắt.
Vào tới đại điện, hai chàng thấy có ngót ba ngàn người, ngồi đông kín cả điện. Giựt mình hoảng sợ, hai chàng ngạc nhiên vì trên hoang sơn này sao lại tụ họp được nhiều người đến thể?
Triều Tôn nhìn lên bàn thờ thấy thờ một pho thần tượng, khôi giáp đàng hoàng ngoài phủ một cẩm bào, tay trái cầm bảo kiếm nhà vua, tay phải một cờ lệnh mặt xương xương, râu ba chòm, trông rất oai nghi, nhìn thẳng về phía trước có vẻ lo âu.
Hai bên có bầy hai hàng bài vị, vì đứng xa quá, nên chàng không trông thấy rõ những tên họ viết trên linh vị đó.
Mọi người đều phủ phục vái lạy. Một tiểu đội mặc áo đại tang tiến trước mặt mọi người, rồi phục xuống đất đáp lễ. Triều Tôn và Bàng Cử đều giựt mình vì thấy tiểu đồng ấy lại là tên mục đồng giết cọp đêm qua.
Mọi người vái lễ xong rồi đứng dậy, ai nấy nước mắt ràn rụa vẻ mặt đầy phẫn uất. Trọng Thọ nói với Triều Tôn:
- Hầu huynh tài hoa xuất chúng xin sửa chữa dùm cho những câu văn viết sai trong văn tế mà đệ đã soạn thảo.
- Dạ, đệ không dám nhận những lời quá khen ấy.
Trọng Thọ sai người đem văn phòng tứ bảo ra và nói tiếp:
- Sở dĩ tiểu đệ mời Hầu huynh lên đây cũng vì muốn nhờ vả đến tài ba của Hầu huynh để làm cho công luân của Nguyên nhung chúng tôi được vẻ vang thêm.
Triều Tôn khó xử quá, vì biết Vua Sùng Chính đã bị trúng kế phản gián của quân Thanh mà đem Viên Sùng Hoán ra xử trảm, thiên hạ ai ai cũng biết ông này bị oan. Nhưng đó là Thánh chỉ của nhà Vua, nếu người nào đứng ra minh oan cho ông ta sẽ mang tội phạm thượng và bị xử tử ngay, biết rõ như thế nhưng nay Trọng Thọ nhờ vả tới, không lẽ chẳng chối từ.
Dù sao chàng cũng là một văn nhân, nên chỉ nghĩ ngợi giây phúc rồi cầm bút viết luôn: “Tiến quân sắp tới Hoàng Long, Nhạc Nguyên soái đã bị thác oan. Nhà Hán đang phục hưng, Gia Cát quân sư đã vội lánh trần. Ô hô! Ai tai! Thượng hương!” Chàng lấy cố nhân ra vị văn tế này nếu có lỡ lọt vào tay nhà vua, thì cũng không thể khép tội cho chàng được.
Trọng Thọ thấy Triều Tôn hạ bút như rồng bay phượng múa mừng lắm. Và Tôn lại ví Viên Sùng Hoán như Gia Cát Khổng Minh và Nhạc Phi thật là ca ngợi hết bề nói. Mà sự thực cảnh ngộ của Viên Đốc Phủ cũng hơi giống cảnh ngộ của Nhạc Nguyên Soái, chứ không phải chàng tâng bốc bậy. Trọng Thọ giải nghĩa mấy câu đó cho mọi người hiểu. Ai nấy đều đồng thanh cám ơn và tỏ vẻ có thiện cảm với Triều Tôn và Bàng Cử, không coi hai người như khách lạ nữa.
Trọng Thọ lại nói:
- Văn bút của Hầu huynh quả thật khác thường. Huynh dùng hai vị thánh hiền Gia Cát và Nhạc Vũ Mục để ví, khiến Nguyên Nhung chúng tôi ở dưới chín suối cũng được hân hạnh vô cùng. Lát nữa đệ sẽ cho người khắc mấy câu nói đó vào bia đá dựng trước cửa miếu.
Triều Tôn vội bái tạ.
Hành lễ xong, mọi người ngồi về chỗ cũ. Người xướng lễ lại lên tiếng hô: “Mỗ Dinh, X Tướng quân,” hoặc là “Mỗ trấn, Y Tổng Binh.”
Cứ mỗi lần hô xong một danh tánh chức vị nào lại có một người đứng lên trình diện và báo cáo. Nghe thấy chức hạ cũ của Viên Sùng Hoán. Sau khi Viên tướng quânbị hãm hại, các bộ hạ tản mát đi bốn phương. Rồi hàng năm đúng ngày, đúng giờ họ đến núi Lão Ô này tụ họp, để làm lễ tưởng niệm vị chủ tướng cũ.
Những lời báo cáo của họ, có tới tám chín mươi phần trăm chàng Triều Tôn không hiểu. Hình như họ còn mưu toan sự gì nữa. Khi người xướng lễ hô tới tên: “Kế Trấn Phó tổng binh Châu An Quốc.”
Có một người đứng dậy, Triều Tôn và Bàng Cử đều giật mình, ngạc nhiên. Người đó chính là người nông dân đã đưa Tôn và Cử vào ẩn núp trong hang núi.
Bàng Cử nghĩ thầm: “Không ngờ y lại là một danh tướng đã đánh bại giặc Liêu Ninh. Như vậy mình thua ông xa.”
Châu An Quốc nói:
- Còn nội một năm năy, tiểu chủ đã tiến bộ về võ nghệ, và cũng đã đọc được rất nhiều cuốn sách. Võ nghệ của tôi và của hai chú La, Ngụy đều truyền thụ hết cả cho Công tử rồi. Xin các vị đề cử danh sư khác cho.
Trọng Thọ nói tiếp:
- Trong nhóm anh em chúng ta, chẳng còn ai võ nghệ quật cường bằng ba vị!
Vậy Châu tướng quân đừng nên khiêm tốn mà chối từ nữa.
- Tiểu chủ thông minh lạ thường, mới chỉ bảo qua loa mà cậu ấy đã hiểu ngay. Tất cả tài nghệ của chúng tôi đều đã đem ra dạy cho cậu ấy hết cả rồi. Thật quả phải mời vị danh sư khác dạy bảo, để khỏi lỡ mất thời giờ quý báu của cậu ấy đi.
- Thôi được, việc này để lát nữa sẽ bàn định sau. Còn vụ tiêu diệt kẻ gian phi, có kết quả gì không?
Người họ Ngụy đã giết chết mãnh hổ, liền đứng dậy tường trình:
- Tháng trước, La tướng quân theo dõi tên gian tặc họ ôn, tới Triết Giang thì diệt được y. Còn tên gian tặc họ Sử thì 10 ngày trước đây đã bị tôi giết chết tại Tràng An. Hai thủ cấp của chúng đều có cả ở đây.
Nói đoạn, y mở cái túi vải để dưới đất, lấy hai cái đầu lâu ra. Mọi người đều phẫn nộ, hô lớn: hoan nghênh. Và cũng có một số người nghiến răng nguyền rủa hai cái thủ cấp đó.
Trọng Thọ đặt hai cái đầu gian tặc lên trên bàn thờ, rồi quỳ xuống khấn vái. Tới lúc này Triều Tôn mới biết hai cái đầu người mà đêm nọ mình trông thấy trong hòm áo là thủ cấp của kẻ thù nhà họ Viên. Chắc hai người này là kẻ gian đã liên can vào vụ hãm hại Viên Sùng Hoán. Lúc đó, lại có vài người đêm những thủ cấp khác ra trình.
Thế là trên bàn thờ bày la liệt mười mấy cái đầu người.
Nghe lời báo cáo của họ, trong những đầu lâu này có một cái là đầu của quan Ngự sử đương thời, họ Triều Tôn đã được cha kể truyền cho nghe, quan Ngự sử này đã tâu với vua, vu oan cho Viên Sùng Hoán là mãi quốc cầu vinh, tư thông với địch, nên y bị cho quan thanh liêm khinh miệt. Vì vậy, ngày nay y mới bị bộ hạ của Viên Sùng Hoán giết chết. Mọi người báo cáo xong, Trọng lại lên tiếng:
- Thù lớn của chúng ta chưa báo xong, vua thái của Sát Từ (Mãn Thanh) và vua Sùng Chính vẫn còn tồn tại. Vậy các vị có cao kiến gì để trả thù cho Đại soái của chúng ta không?
Một người lùn đứng dậy nói:
- Tổ tướng công!
Tiếng nói của y lớn như tiếng sấm. Triều Tôn và Bàng Cử không ngờ người y bé nhỏ như vậy mà tiếng nói lại lớn đến thế đều phải giựt mình kinh ngạc.
Tổ Trọng Thọ trả lời:
- Chẳng hay Triệu tống binh có ý kiến gì? Xin cứ phát biểu.
Người lùn đó nói:
- Theo ý tôi…
Chưa dứt lời, bỗng có một người từ ngoài cửa hấp tấp chạy vào bẩm rằng:
- Bẩm, Lý Tự Thành tướng quân có sứ giả vào hầu kiến.
Mọi người thấy nói đến ngạc nhiên bàn tán ầm ỹ.
Trọng Thọ nói:
- Triệu tổng binh hãy khoan phát biểu. Chúng ta ra đón sứ giả của Lý tướng quân trước đã.
Triệu tổng binh:
- Xin tuân lệnh.
Nói đoạn, y đảo chân đi ba bước. Mọi người đều đứng dậy. Cánh cửa lớn mở rộng và một bàn tay cầm bó đuốc đứng sang hai bên, rồi có ba người bước vào. Bàng Cử ở Thiểm Tây đã nghe danh Lý Tự Thành từ lâu. Biết y làm phản, giết quan quân, oai thế rất lớn nên chàng muốn coi xem bộ hạ của y là những hạng anh hùng hảo hán nào?
Chàng thấy một người đi trước thời ngoài 60 tuổi, mặt rỗ tóc rối bù, mặc quần áo bóng cũ rách cả khuỷu tay và dưới đầu gối, chân đi đôi giày cỏ, không khác gì một tên công dân thường ở tỉnh Thiểm Tây.
Hai người đi theo sau, một người ngoài 30 tuổi, mặt trẳng trẻo trông nho nhã tuấn tú, ăn mặc gọn ghẽ, tỏ vẽ văn nhân và một người nữa, ngoài 20 tuổi, thân hình vạm vỡ, da mặt ngăm đen, ăn mặc theo lối nông dân. Người đi đầu tiên thẳng tới trước bàn thờ rồi đứng yên. Người mặt trắng lấy hương nến trong bọc áo ra, thắp lên và cắm vào bát hương. Rồi cả ba cùng quỳ xuống vái. Tiểu mục đồng quỳ cạnh bàn thờ đáp lễ. Ba người lễ xong. Người mặt rỗ lớn tiếng nói:
- Lý Tự Thành tướng quân chúng tôi được biết Viên đại nguyên soái ở Liêu Đông đã đánh lui quân Sài Tứ, lập công lớn, nên Tướng quân chúng tôi rất thán phục. Sau lại hay tin Viên đại nguyên soái bị nhà Vua nghe lời vu oan, giết chết. Thiên hạ bá tánh ai ai cũng đều căm hận. Bấy giờ quan buộc dân làm loạn, chúng tôi đói rét quá, đành phải kháng cự, không chịu nộp lương và giết quan quân. Cầu anh linh của Viên đại nguyên soái phù hộ chúng tôi đánh lên Bắc Kinh. Bắt tất cả nhà Vua và bè lũ gian tham, đem ra giết hết, để trả thù cho Viên đại nguyên soái và dân chung của thiên hạ.
Nói xong, y lại vái mấy cái.
Mọi người thấy sứ giả của Lý Tự Thành tôn trọng Đại nguyên soái của mình đến thế, ai nấy đều có thiện cảm với người ấy. Tổ Trọng Thọ tiến lại gần, chấp tay chào và nói:
- Chúng tôi rất cảm ơn quý thịnh tình. Xin ngài cho biết cao tính danh là gì?
- Tôi là Lưu Nhất Hổ, Lý tướng quân chúng tôi hay ngày hôm nay là ngày giỗ kỵ của Viên đại nguyên soái, thế nào quí vị cũng tới sùng lễ, nên sai tôi đến đây đại diện dự lễ và để cùng quý vị tương kiến.
- Dạ, tôi là Tổ Trọng Thọ.
- Thế thì Tướng quân là lệnh đệ của Tổ đại tướng quân đấy! Anh danh của Tổ đại tướng quân lừng lẫy bốn phương, chúng tôi rất bái phục!
Hai người đang trò chuyện, người tùy tùng mặt đen của Nhất Hổ bỗng thấy đứng chặn ngay cửa giữa.
Xuất kỳ bất ý, mọi người cùng ngơ ngác không hiểu có chuyện gì đã xảy ra, ai nấy đều đứng dậy.
Lúc ấy người thiếu niên mặt đen chỉ thẳng vào mặt hai người đứng lẫn trong đám người tới dự lễ mà quát rằng:
- Hai ngươi là bộ hạ của Tào thái giám, đến đây để làm gì?
Lời của y vừa dứt, mọi người đều kinh ngạc. Thì ra sau khi Vua Sùng Chính xử trảm Ngụy Trung Hiền và Khách Thị rồi, trong triều đình nghịch đảng đã bị quét sạch. Nhưng tính vua hay đa nghi, không tín nhiệm một vị đại thần nào cả, mà chỉ tin dùng có tên Thái giám theo hầu từ hồi nhà vua còn là Thái tử. Thái giám ấy tên là Tào Hóa Thuần. Y là thủ lãnh đội vệ sĩ của nhà Vua, chuyên môn phụ trách mặt điều tra các quan văn võ trong triều hoặc ở khắp nơi.
Tên tuổi của Tào thái giám không ai không biết tới. Cho nên người thanh niên mặt đen vừa quát hỏi xong, mọi người đều giựt mình sợ hãi.
Hai người kia, một người cằm tua tủa mọc râu vàng, tuổi ngót 40. Còn người nọ, mặt trắng, không râu, nhưng béo mập và lùn. Người béo lùn biết sắc mặt, nhưng y trấn tỉnh lại ngay, rồi vừa cười vừa nói:
- Ông hỏi tôi đấy ư? Xin ông đừng nói bông, nói đùa như vậy!
Người thanh niên mặt đen lại quát:
- Hừ; Ta thèm nói bông nói đùa à! Hai người ở lại điếm lén lút bàn tán, định vào trong núi này nằm vùng, rồi sai người đi báo cáo cho Tào thái giám hay, để đem quân đến vây bắt tất cả. Ta đã nghe rõ hết những lời bàn bạc của hai ngươi.
Tên râu vàng rút luôn đơn đao ra, định xông lại thí mạng với người thanh niên mặt đen. Nhưng tên mặt trắng béo mập kia vội cản lại, rồi nói:
- Lý Tự Thành định dụ dỗ anh em trên núi nhập bọn với y. Điều này ai cũng biết cả. Bây giờ các ngươi muốn đến đây làm ly gián anh em chúng ta không được đâu!
Tiếng nói của y nhỏ bé, giống hệt giọng nói của các vị Thái giám. Tuy vậy, lời nói của y cũng làm cho ý chí một số người bị lung lay; họ hoài nghi ba người sứ giả của Lý Tự Thành không phải thật tâm đến để dự lễ cúng kỵ Viên tướng quân.
Lưu Nhất Hổ tuy xuất thân ở nông dân nhưng dầu dự rất nhiều trận chiến, trở nên điêu luyện thành con người gan thép, nên rất tinh khôn và minh mẫn. Chàng thấy sắc mặt biến đổi của nhiều người, biết ngay lời nói của tên mặt trắng đã có hiệu lực liền đứng dậy thét hỏi:
- Ngài là ai? Có phải là bạn hữu của Sơn Tôn này không?
Hỏi trúng chỗ yếu, người kia không trả lời được.
Tổ Trọng Thọ cũng thét hỏi:
- Bạn có phải là bộ hạ cũ của Viên đại soái không? Tại sao tôi chưa hề gặp bạn bao giờ? Bạn là thủ hạ của vị Tổng binh nào?
Người mặt trắng biết việc đã bại lộ, liền đưa mắt ra hiệu với tên râu vàng. Cả hai cùng nhảy tới phía cửa giữa. Tên râu vàng dùng thế “Cực Lịch Hoa Sơn” chém thẳng một đao vào mặt thanh niên mặt đen. Tên mặt trắng nọ, trông như nam bán nữ, nhưng hành động của y cũng nhanh nhẹn lạ lùng. Y rút luôn đôi bút Phán Quan ở trong tay áo ra, nhắm ngay giữa ngực thanh niên mặt đen điểm tới. Vì tỏ thái độ tôn sùng, đến đây chỉ có mục đích dự lễ tế Viên Sùng Hoán, chàng thanh niên mặt đen không đem theo khí giới. Mọi người thấy chàng tay không tình thế có vẻ nguy ngập, liền có bảy, tám người võ giỏi vô địch xông tới cứu chàng.
Ngờ đâu võ nghệ của chàng cũng cừ khôi lắm, tay trái nhanh như gió giở miếng “Cầm Nã thủ” nắm luôn cổ tay tên râu vàng. Đồng thời, tay phải của chàng duỗi thẳng hai ngón tay trỏ và giữa đâm thẳng vào hai mắt của tên mặt trắng. Hai tác động của chàng tuy phát động sau, nhưng lại tới trước. Tên râu vàng và tên mặt trắng đều hoảng sợ, phải lùi lại thủ thế ngay. Mọi người thấy chàng thanh niên chỉ một miếng võ đã chuyển từ thủ ra công ngay.
Ai nấy đều dừng bước, khen ngợi thầm. Hai tên kia thấy không thể xông ra nổi bên ngoài, biết mình ở trong hang hổ, tình thế nguy ngập vô cùng, nên vừa lui một bước, cả hai nhất loạt tiến lên. Thanh niên mặt đen chỉ dùng song chưởng, tả xông hữu đụt, ra vào trong đơn đao và song bút.
Chàng tấn công nhiều hơn thủ thế. Hai tên kia mấy lần định tiến tới ngưỡng cửa, nhưng lại đều bị chàng nọ dồn lui trở lại.
Tên mặt trắng nóng ruột thay đổi luôn luôn bút pháp. Cặp bút của y đâm ngang, điểm dọc. Miếng nào cũng nhằm những yếu huyệt của chàng thanh niên mà tấn công.
Còn khách râu vàng thì áp dụng đao pháp của Võ Thắng môn Sơn Tây. Đứng theo lối trung bình tấn, đao nào của y cũng nhằm hạ thổ địch mà trảm. Thấy tình thế của thanh niên nọ nguy cấp, mọi người định xông lại giải cứu. Nhưng ai nấy thấy Lưu Nhất Hổ có vẻ trấn tĩnh lạ thường, nên cũng yên trí ngồi xuống xem họ tiếp tục tranh đấu. Mọi người nghĩ thầm: “Người cùng đi với họ mà không lo ngại thì tất nhiên họ phải như thế nào mới bình tĩnh như thế được. Ta hãy ngồi xem kết quả ra sao.”
Ba người tiến lên, lùi xuống, tung hoành trong điện. Thấy lúc đang hăng hái chiến đấu, khách râu vàng bỗng kêu tiếng với giọng bi đát, đơn đao của y tuột tay bay vàođám đông người. Châu An Quốc nhảy lên bắt lấy chiếc đơn đao ấy. Ngay lúc đó người thanh niên mặt đen tiến lên một bước, giơ chân trái đá tên râu vàng ngã xuống. Trong lúc chân trái của chàng chưa thâu về, chân phải lại thừa thế đá luôn tên mặt trắng. Tên này võ nghệ khá hơn, nên y khòm lưng, thót bụng lại tránh miếng đá đó và đồng thời song bút của y phản điểm lại giữa ngực của địch. Nhưng tay phải của thanh niên mặt đen nhanh như chớp nhoáng, đột nhiên nắm lấy ngọn bút bên trái của tên mặt trắng. Rồi vặn mạnh một cái, chàng đã cướp được cây bút sắt của kẻ địch. Lúc ấy, cây bút bên phải của tên mặt trắng đã điểm tới, nhưng nhanh như cắt, chàng thanh niên liền dùng cây bút vừa giựt được gạt ngang luôn. Hai bút va chạm nhau “keng” một tiếng, bật đom đóm lửa lên. Tên mặt trắng bỗng cảm thấy hổ khẩu tay đau đớn lạ lùng, và cây bút cũng rời khỏi tay. Chàng thanh niên mặt đen cười khoái trá, tay phải túm luôn ngực kẻ địch và nhấc bổng lên, tay trái của chàng kéo luôn quấn của tên mặt trắng ra.
Đang khi mọi người đều ngạc nhiên, thanh niên mặc đen vừa cười vừa nói:
- Đây, xin quí vị lại gần chứng kiến xem y có phải là Thái giám không?
Lúc này mọi người mới hiểu tại sao người thanh niên mặt đen lại có cử chỉ lạ lùng như thế. Ai nấy cùng nhìn thẳng vào người tên mặt trắng. Quả thật y đã bị hoạn tất.
Mọi người đều cười ồ và xúm đông lại xem. Thấy chàng thanh niên mặt đen giải quyết rất nhanh chóng chứng tỏ võ nghệ chàng rất cao cường, ai nấy đều kính phục.
Lúc ấy bây giờ đã có người đến đè đầu hai tên gian tiếp xuống. Tổ Trọng Thọ quát hỏi:
- Tào thái giám phái hai người đến đây làm gì? Có bao nhiêu đồng đảng? Và trà trộn vào đây bằng cách nào?
Hai tên nọ làm thinh không trả lời. Trọng Thọ đưa mắt ra hiệu, La tham tướng giơ đơn đao lên, chỉ trong nháy mắt đã hạ luôn thủ cấp của hai tên gian phi và đặt lên trên bàn thờ. Trọng Thọ chắp tay vái chào Lưu Ninh Hổ và nói rằng:
- Nếu ba vị không lột mặt nạ của bọn gian tặc kia giúp cho thì họa lớn đến nơi chúng tôi cũng không hay.
Lưu Nhất Hổ vội đáp lời:
- Việc này chỉ là một sự ngẫu nhiên. Chúng tôi gặp bọn chúng ở dọc đường. Thấy chúng nó có nhiều điểm khả nghi nên chúng tôi để ý theo dõi. Đêm hôm qua, theo chúng vào một khách sạn, chúng tôi mới khám phá được tung tích của chúng.
Trọng Thọ nói với hai người tùy tòng của Nhất Hổ rằng:
- Hai vị quí danh là gì?
Người mặt mũi tuấn tú tự xưng họ Điền và người thanh niên mặt đen là họ Thôi.
Châu An Quốc tới gần nắm tay thanh niên mặt đen tỏ tình thân thiện và khen ngợi luôn miệng.
Nhất Hổ, Trọng Thọ và mấy vị thủ lãnh dắt nhau vào nhà trong đàm thoại bí mật.
Nhất Hổ phát biểu rằng:
- Lý Tự Thành tướng quân mong được liên minh với quí vị để đánh đổ nhà Minh.
Các bộ hạ của Viên Sùng Hoán trù trừ chưa dám quyết định. Sau cùng Trọng Thọ nói:
- Hành động của chúng ta đã bị Tào thái giám biết rồi. Nếu không liên minh với Lý tướng quân đề cử đại sự thì làm sao mà trả thù cho Viên nguyên soái và giết vua Sùng Chính được. Lỡ Tào thái giám phái quân đi khắp nơi đón giết chúng ta thì sao?
Mọi người nghĩ lại cũng phải, nên cuộc liên minh với Lý Tự Thành được giải quyết xong ngay.
Bên trong mọi người thương lượng liên minh đại kế.
Ngoài điện Châu An Quốc và Đả Hổ Anh Hùng Ngụy Hạo kéo thanh niên mặt đen Thôi Sơn ra một nơi tĩnh mịch trò chuyện.
Châu An Quốc nói:
- Thôi đại ca, hôm nay chúng ta tuy mới gặp nhau lần đầu nhưng nhất kiến vị của đại ca đừng coi chúng ta như người ngoài.
Thôi Thu Sơn trả lời:
- Hai vị đại ca trước kai đánh quân Thanh bảo vệ dân chúng, đệ xưa nay khâm phục lắm. Hiện nay đệ lại được hân hạnh gặp quý bạn anh hùng trên Sơn Tôn này, đệ rất lấy làm sung sướng.
Ngụy Hạo nói:
- Tôi nói câu này hơi đường đột xin đại ca thứ lỗi cho. Chẳng hay đại ca học vị danh sư nào?
Thôi Thu Sơn, hai mắt bỗng đỏ ngầu, trả lời:
- Gia sư là Nhất Thanh Lôi Trương Bạch Đế qua đời đã từ lâu năm rồi!
Châu An Quốc và Ngụy Hạo đưa mắt lên nhìn nhau trong lòng tỏ vẻ hoài nghi. Song Ngụy Hạo tính tình thẳng thắn, không nhịn được, nói liền:
- Nhất Thanh Lôi Trương lão tiền bối, chúng tôi ngưỡng mộ đã lâu, nhưng có một câu này xin Thôi đại ca chớ khiển trách, võ nghệ của Trương lão tiền bối tuy cao cường thật nhưng hình như còn kém Thôi đại ca xa.
Thôi Thu Sơn lẳng lặng không nói nửa lời. Thấy vậy, Châu An Quốc lại nói:
- Trò giỏi hơn thầy, đó cũng là lẽ thường. Nhưng vừa rồi, tôi thấy thân pháp và thủ pháp của Thôi đại ca trong lúc triệt hạ hai tên gian tế thì hình như đại ca còn được sự chân truyền khác.
Thôi Thu Sơn nghĩ ngợi giây phút mới trả lời:
- Hai vị là bạn quen, tôi không dám giấu diếm. Sau khi sư phụ tôi tạ thế, trong một trường hợp ngẫu nhiên, tôi may mắn gặp một vị cao nhân ngoài đời thương hại tôi mà đã chỉ bảo cho tôi chút ít võ nghệ. Nhưng ông ta bắt tôi thề không được nói tên tuổi của ông cho ai biết. Vì lẽ đó, xin hai vị đại ca lượng thứ cho.
Thấy chàng thành thật như vậy, sở dĩ chúng tôi muốn hỏi Thôi đại ca là vì có một việc muốn hỏi.
- Hai vị có việc gì, nếu tiểu đệ có thể làm được, tiểu đệ xin giúp ngay. Cùng là người nhà với nhau cả, hai vị hà tất phải khách khứa như vậy.
Châu An Quốc nói:
- Xin đại ca hãy chờ một tí để tôi đi kiếm thêm hai người bạn nữa đến đây trò chuyện.
Thôi Thu Sơn thấy thái độ của Châu An Quốc rất thận trọng, nhưng không biết định nhờ vả mình vào việc gì. Châu An Quốc và Ngụy Hạo cho gọi họ ứng và họ La đến.
Người họ ứng hỏi:
- Có việc gì thế?
Châu An Quốc trả lời:
- Người kia võ nghệ giỏi lắm. Anh em chúng ta đây không ai địch nổi hắn. Nghe hắn nói chuyện, tôi nhận thấy hắn là người chánh trực và hào phóng lắm.
Ngụy Hạo nói:
- Nhưng hỏi đến sư phụ hắn thì hắn giấu diếm không chịu nói.
Rồi y kể lại câu chuyện nói với Thu Sơn cho họ ứng và họ La nghe.
Người họ Ứng tên Tòng, là mưu sĩ dưới trướng của Viên Sùng Hoán. Vụ vây thành Ninh Viên năm nọ, y cũng có rất nhiều công lao trong đó. Người họ La tên Đại Can, là một pháo thủ trứ danh. Trong trận đánh ở Ninh Viên, y châm ngòi thuốc hồng y đại bác bắn chết vô số quân Thanh. Nhờ công đó, y mới được thăng lên chức Tham tướng.
Sau khi Viên Sùng Hoán bị xử tử oan, bộ hạ hắn tản mác, ai nấy trở về quê hương làm ruộng. Ứng Tòng nói:
- Chúng ta cứ nói thật, yêu cầu hắn giúp xem hắn trả lời ra sao.
Châu An Quốc nói:
- Tôi thiết tưởng việc này nên hỏi qua ý kiến của Tổ tướng công đã.
Ứng Tòng đáp:
- Phải đấy.
Nói đoạn y quay vào gian trong, thấy Trọng Thọ và Thất Hổ đang chuyện trò tương đắc. Nhưng y cũng mời Trọng Thọ ra bên ngoài bàn bạc mấy câu. Trọng Thọ nói:
- Ứng sư gia, việc này quan hệ đến đời sống của tiểu chủ nhân. Trước hết, sư gia phải hỏi xem người họ Thôi có bằng lòng hay không đã.
Ứng Tòng gật đầu nghe lời, rồi cùng Châu An Quốc, Ngụy Hạo, La Đại Can ba người đến gặp Thôi Thu Sơn, Ứng Tòng nói:
- Chúng tôi có một việc, chỉ có Thôi đại ca mới giúp được thôi. Cho nên…
Thôi Thu Sơn thấy Ứng Tòng muốn nói lại ngừng, vẻ mặt sượng sùng. Chàng sốt ruột hỏi luôn:
- Đệ là người thô lỗ. Các vị định chỉ bảo điều gì, xin cứ nói. Nếu việc gì có thể làm được, quyết không chối từ.
Ứng Tòng nói tiếp:
- Thôi huynh sảng khoái như vậy chúng tôi xin nói thật để huynh rõ. Viên đại soái chúng tôi bị hãm hại, còn lại một người con trai. Lúc bấy giờ cậu ta mới lên bảy. Chúng tôi cố gắng mãi mới cứu được cậu ta thoát nạn. Trước sau đã ác chiến với bọn Cẩm Y vệ 3 lần. Anh em chúng tôi có 2 người tử nạn. Nay mới bảo toàn được một chút cốt nhục đó cho Viên đại soái chúng tôi. Vị tiểu chủ chúng tôi là Thừa Chí. Và bốn anh em chúng tôi đảm nhiệm dạy cậu ta cả văn lẫn võ. Cậy ấy thông minh lắm chỉ bảo qua vài lần là hiểu ngay. Mấy năm nay bản lĩnh của chúng tôi đã truyền hết cả cho cậu ta rồi. Cậu ấy tuổi hãy còn nhỏ, tuy có một vài môn võ vẫn chưa lĩnh hội hết, nhưng nếu còn theo học chúng tôi nữa, thế nào cậy ấy cũng tiến bộ rất nhanh. Và sẽ có một tương lai rất lớn.
Thôi Thu Sơn đã hiểu ý nghĩ lời nói của Ứng Tòng liền trả lời:
- Các vị tính cho cậu ấy theo tôi học võ phải không?
Châu An Quốc trả lời:
- Vừa rồi chúng tôi thấy đại huynh ra tay đánh bại hai tên gian tặc. Chúng tôi công nhận võ nghệ của đại huynh giỏi hơn chúng tôi nhiều. Nếu Thôi đại ca chịu thâu nhận cậu ấy làm đồ đệ, dạy dỗ thành tài. Không riêng gì anh em chúng tôi, cả linh hồn của Viên đại soái chúng tôi nơi cửu tuyền cũng cám ơn đại ca vô cùng.
Nói đoạn bốn người cùng chắp tay vái lạy. Thôi Thu Sơn vội đáp lễ rồi ngẫm nghĩ giây phút mới trả lời:
- Được các vị coi trọng như vậy, tôi đâu dám từ chối. Nhưng hiện giờ tôi đang phục vụ trong quân đội Lý tướng quân, nay đây mai đó, không một lúc nào được ở một chỗ. Và chiến đấu với quan quân luôn luôn, chưa biết sống chết lúc nào. Nếu Viên công tử có theo tôi ở trong hàng ngũ, một là tôi e không có thì giờ dạy cậu ấy hai là nguy hiểm vô cùng.
Bốn anh em Ứng Tòng ngẫm nghĩ lời nói của Thu Sơn cũng phải. Ai nấy đều thất vọng, Thu Sơn bỗng nói lớn:
- Có một người võ nghệ giỏi gấp tôi trăm lần. Nếu ông ta bằng lòng thâu nhận thì thật may mắn cho công tử lắm.
Nói đoạn, chàng chợt nghĩ ra điều gì lắc đầu lẩm bẩm nói thầm:
- Không xong, không xong.
Lưu Nhất Hổ đã điều đình xong công việc liên minh với Tổ Trọng Thọ. Ngày hôm sau, mọi người tuyên thệ trước bàn thờ Viên Sùng Hoán. Thề quyết cùng nhau sanh tử, không ai được phụ lòng ai. Sau đó, Tổ Trọng Thọ thu xếp cho Triều Tôn, Bàng Cử và Hầu Khang, ba người lên đường về nhà. Khi chia tay, chàng nói với Triều Tôn và Bàng Cử rằng:
- Chúng ta gặp nhau đây, cũng do số phận xuôi nên hạnh ngộ này. Tất cả những sự gì xảy ra trên Sơn Tôn này xin hai vị đừng tiết lộ ra ngoài nửa câu. Nếu không nghe lời tôi, hậu quả ra sao, tôi không dám nói trước.
Hầu Triều Tôn và Dương Bàng Cử dạ dạ luôn miệng. Trọng Thọ tặng cho mỗi người 50 lạng làm tiến lộ phí, và còn phái hai người đàn em tiễn bọn Triều Tôn ba người xuống núi. Trải qua bao cuộc hiểm nguy, Triều Tôn và Bàng Cử đều chán nản cực độ. Một người đóng cửa ở nhà đọc sách, sau trở nên một nhà văn tên tuổi về cuối đời nhà Minh. Còn một người thấy trên giang hồ có biết bao nhiêu người tài giỏi xét ra “ngọn núi này đã cao lại còn núi khác cao hơn, ngoài vòm trời này lại còn vũ trụ khác”, nên chàng đóng cửa cục tiêu lại, xoay sang nghề nông, suốt đời không nhắc nhở đến chuyện võ. Sau chàng bị quân Thanh giết chết.
Thương thuyết cuộc Liên minh xong, Lưu Nhất Hổ cùng người họ Điền hạ sơn trở về đơn vị trong đội Lý Tự Thành. Các bộ hạ Viên Sùng Hoán có một số người tham gia nghĩa quân Lý Tự Thành, còn một sối thì về nguyên quán sửa soạn cuộc khởi nghĩa.
Tổ Trọng Thọ, Châu An Quốc, Ngụy Hạo và Ứng Tòng, thì ở lại núi để bàn tán về việc xuất sư sau này của Viên Thừa Chí.
Được tin Thôi Thu Sơn nhận lời dạy cho mình Phục Hổ chưởng, Thừa Chí mừng đến nỗi suốt đêm hôm đó không ngủ được. Sáng hôm sau, vì ai nấy đều bận việc nên không có thì giờ nhắc nhở tới việc dạy võ. Chiều, mọi người lũ lượt xuống núi. Trước khi ra về, họ đều vào từ biệt tiểu chủ nhân, như vậy lại bận rộn thêm nửa ngày. Tối hôm ấy, Tổ Trọng Thọ vào trong thắp một đôi nến đỏ, đặt chiếc ghế bành ở giữa mời Thôi Thu Sơn ngồi lên trên ghế đó để Viên Thừa Chí làm lễ bái sư, Thôi Thu Sơn nói:
- Thật quả mới trông thấy chú em họ Viên, tôi đã cảm tình liền. Nay chú ấy thích học võ Phục Hổ chưởng, tôi xin vui lòng ở lại đây vài ngày để truyền thụ cho chú ấy.
Nhưng liệu trong mấy ngày trời, có thể học thành tài không? Và thành tài rồi có thể sử dụng được không? Những điều đó cần phải xem sự học tập với nhau thôi, chớ tôi không dám nhận thầy trò đâu!
Ứng Tòng nói:
- Quí hồ đại ca dạy cho năm ba miếng, một vài hiệp suốt đời cũng là sư phụ rồi. Hà tất đại ca phải khiêm tốn như thế?
Thôi Thu Sơn nhất định không nhận. Mọi người không sao cưỡng ép nổi, đành phải thôi, không nói tới nữa.
Mọi người cũng biết luật lệ của võ lâm. Thôi Thu Sơn ngồi trên ghế nghiêm nghị hỏi:
- Thừa Chí, thế Phục Hổ chưởng pháp này do một vị cao nhân tiền bối truyền cho. Tôi tuy chưa lãnh hội hết sự tinh vi huyền ảo của nó, nhưng ở chốn giang hồ, với kẻ địch hạng bình thường thì cũng dư sức để đối phó. Lúc ông ta truyền thụ cho tôi thế Chưởng pháp này có bắt tôi thề độc rằng: Sau khi học thành tài môn võ này, quyết không được giết hại người vô tội, đè nén kẻ lương dân.
Thừa Chí là người rất thông minh, nghe Thu Sơn nói như vậy vội quỳ ngay xuống và nói rằng:
- Đệ tử Viên Thừa Chí, sau khi học xong Phục Hổ chưởng pháp, quyết không đè nén lương thiện, giết hại kẻ vô tội. Bằng không, bằng không…
Vì không biết phải nói như thế nào, nên Thừa Chí nói tiếp:
- Bằng không sẽ bị sư phụ đánh chết.
Thu Sơn cười nói:
- Tốt lắm!
Bỗng thoáng một cái, người đã biến mất. Thừa Chí vội quay mình lại, thấy Thu Sơn đã ở đằng sau, và vỗ vai y vừa cười vừa nói:
- Chú bắt lấy tôi nhé.
Nhờ được danh sư Châu An Quốc và Ngụy Hạo chỉ bảo, nên võ nghệ của Thừa Chí có chút căn bản. Y đột nhiên hạ tấn xuống, tay trái đánh dứ một miếng, tay phải quàng về phía sau, nhưng y không quay mình lại, chỉ cần nghe hơi gió để phân biệt thân hình đối phương, rồi nhắm đùi Thu Sơn nắm lấy.
Thu Sơn mừng thầm:
- Biết sử dụng miếng này kể cũng khá lắm đấy!
Vừa nói dứt lời, tay chàng khẽ vỗ vào vai Thừa Chí, rồi thoắt một cái, chàng lại biến mất.
Áp dụng theo sự chỉ dẫn của Ngụy Hạo, Thừa Chí định thần nhìn, hơi dang hai tay ra, nhờ vậy cũng yểm hộ được các chỗ hiểm yếu của toàn thân. Y thấy thân pháp của Thu Sơn nhanh nhẹn lạ lùng, bắt thế nào cũng không nổi. Y không chạy vòng quanh như bịt mắt bắt dê nữa. Y lùi từng bước một, lui về phía chân tường. Rồi nhảy một cái, đứng sát lưng vào tường, y vừa cười vừa nói:
- Thôi thúc thúc, cháu đã trông thấy thúc thúc rồi!
Lúc ấy Thu Sơn không thể vòng ra sau lưng y được, liền ngừng bước, cả cười nói:
- Giỏi lắm! Giỏi lắm! Cháu không những khôn ngoan mà căn bản võ nghệ cũng khá. Thế Phục Hổ chưởng này học thế nào cũng đạt.
Thế rồi, bắt đầu từng miếng từng hiệp một, chàng dạy Thừa Chí cho hết thế võ đó. Thế “Phục Hổ chưởng” này có tất cả 108 miếng, mỗi miếng lại có 3 đường biến hóa “kỳ chính tương sinh tương khắc” cộng tất cả là 324 đường, Viên Thừa Chí đều nhớ hết cả. Thôi Thu Sơn lại dạy thêm 3 lần nữa. Thừa Chí đã học thuộc hoàn toàn thế võ đó. Thu Sơn vừa dạy vừa giảng, đem mỗi miếng mỗi biến hóa như thế nào để truyền thụ cho Thừa Chí một cách rất tỉ mỉ. Thừa Chí có căn bản sẵn, lại thêm thông minh có thừa, nên cả những chỗ tinh vi nhứt, y cũng lãnh hội hết, chỉ vì chưa tập được thành thục cho lắm, nên chưa có thể sử dụng được ngay thôi. Một người càng dạy càng thấy hứng thú, một người rất chăm chỉ học hỏi, nên cả hai tập luyện cho tới đêm khuya.
Sáng hôm sau, Thôi Thu Sơn ra ngoài bách bộ, trông thấy Thừa Chí một mình ở bãi đất hoang tập luyện võ nghệ. Y đem 108 miếng “Phục Hổ chưởng” hóa đi biến lại mà còn quán xuyến cả tám yếu quyết tinh vi. Thấy vậy, Thôi Thu Sơn bỗng nhảy vào nhằm giữa lưng đá một cái. Thừa Chí nghe thấy sau lưng có tiếng gió, vội né mình quài tay nắm luôn chân của kẻ địch. Đến khi nhận kĩ ra, y mới biết người tấn công mình là Thôi Thu Sơn, y liền rút tay lại và la lớn:
- Kìa, Thôi thúc thúc!
Thôi Thu Sơn vừa cười vừa nói:
- Đừng ngừng tay, cứ tiếp tục đánh đi.
Nói đoạn, chàng bổ luôn vào mặt Thừa Chí. Y không tránh mà lại thêm một bước đấm luôn một quyền vào hạ mạng Thôi Thu Sơn. Miếng võ này là miếng thứ 89 củathế võ “Phục Hổ chưởng” gọi là “Thâm Nhập Hổ Huyệt”, Thôi Thu Sơn tấm tắc khen ngợi:
- Đúng lắm, đánh như thế được lắm.
Chàng miệng nói, tay vẫn không ngừng tiếp tục tấn công Thừa Chí. Có miếng nào Thừa Chí sai lầm, chàng lại chỉ bảo ngay, hai người, kẻ đi người lại, đem 324 đường biến hóa không cùng, càng vận dụng càng thấy kỳ lạ. Thừa Chí còn sung sướng hơn nhặt được của báu. Tập cho tới khi Thừa Chí mồ hôi nhễ nhại, Thôi Thu Sơn mới cho phép ngừng tay. Trong khi nghỉ ngơi, chàng giảng giải những miếng hóc hiểm cho Thừa Chí biết. Giảng giải xong, hai người lại đứng dậy tiếp tục luyện tập.
Từ sáng sớm cho đến khuya, ngoài hai bữa ăn ra, Thừa Chí không chịu bỏ phí một giờ phút nào cả.
Luyện tập trong bảy ngày liền, sáng ngày thứ tám, Thôi Thu Sơn lại nói:
- Tất cả võ nghệ của tôi đã truyền cho chú hết rồi. Còn sự thành công hay không, phải xem sau này chú có chịu khó luyện tập luôn không đã… Khi giao đấu với địch, dù áp dụng thế võ nào cũng vậy, ta chỉ có thể tin cậy vào tài nghệ bảy phần mười thôi, còn ba phần kia cậy nhờ vào trí khôn mới được, chớ nhắm mắt nhắm mũi đánh bừa thì khó lòng thắng lắm.
Viên Thừa Chí xin vâng lời… Thu Sơn lại nói tiếp:
- Ngày mai tôi phải trở về với Lý tướng quân. Sau này chú phải chăm chỉ tập luyện lấy.
Thừa Chí mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ. Thôi Thu Sơn tuy ở với Thừa Chí có mười ngày, nhưng chàng đã dạy cho y tất cả bí quyền của thế võ “Phục Hổ chưởng.” Như vậy đủ thấy chàng thương mến Thừa Chí không cầm nổi cảm xúc, mếu máo khóc muốn bật ra tiếng. Thôi Thu Sơn sống trong hàng ngũ lâu năm, tuy giết người không hề chớp mắt nhưng thấy tình quyến luyến chân thật của Thừa Chí, chàng cũng phải cảm động.
Thôi vuốt ve vỗ về Thừa Chí giây lát rồi nói:
- Người thông minh như chú trong võ lâm này ít có lắm. Chỉ tiếc rằng chúng ta hông có dịp đoàn tụ lâu ngày.
- Thôi thúc thúc, cháu xin thúc thúc đến trại Lý tướng quân cũng được chớ sao?
- Chú con nhỏ tuổi, đến chỗ ấy ở sao được!
Vừa nói tới đấy, bỗng nghe tiếng kêu của nó không giống cọp mà cũng chẳng giống sài lang!
- Nó là báo đấy!…
Chàng đang nói, sực nghĩ ra điều gì, rồi lại nói tiếp:
- Chúng ta ra ngoài bắt sống con Báo ấy đi. Tôi cần dùng loại thú này…
Tính tò mò xúi giục, Thừa Chí vội cướp lời:
- Chú muốn dùng nó để làm gì?
Thôi Thu Sơn chỉ cười mà không nói, Thừa Chí đi theo ra, thấy chàng không cầm khí giới bèn hỏi:
- Thôi thúc thúc định dùng khí giới gì bắt con báo ấy thế?
Ngờ đâu Thu Sơn không ra thẳng ngoài cửa lại bước vào gian trong, chỗ ở của Tổ Trọng Thọ, rồi lên tiếng gọi:
- Châu đại ca, Ngụy đại ca, hai vị có ở trong đó không?
Nhờ các vị giúp hộ một tay, ra ngoài kia dồn hộ con báo vào trong này. Tôi đang cần dùng tới nó.
Ngụy Hạo là tay thiện nghệ giết hổ, thấy Thu Sơn nhờ mình một việc đúng sở thích, như gãi đúng chỗ ngứa liền trả lời:
- Được, để tôi dồn cho!
Nói đoạn, chàng cầm luôn chiếc đinh ba vẫn săn hổ, xông ra ngoài cửa. Thu Sơn vội gọi:
- Ngụy đại ca! Xin đại ca đừng đả thương nó nhé!
Ngụy Hạo ở đằng xa đáp vọng lại, vâng lời. Tiếp theo đó tiếng hò hét của chàng vang động trên đỉnh núi.
Thu Sơn, An Quốc và La Đại Can hai người cũng nhảy theo ra ngoài cửa. Thừa Chí cầm đoản thương định theo ra, Tổ Trọng Thọ vội gọi lại:
- Thừa Chí, cháu đừng ra nữa. Chúng ta ở lại trong này mà xem.
Bất đắc dĩ Thừa Chí phải ngừng bước, rồi cùng Trọng Thọ và Ứng Tòng ba người đứng tựa cửa sổ, nhìn ra phía ngoài xem. Thấy ba người ta cầm bó đuốc, chia nhau đứng Đông, Tây, Bắc ba ngã. Ngụy Hạo tay cầm đinh ba, chiến đấu với một con báo thật lớn ở bên sườn núi. Chàng chỉ dùng đinh ba cản không cho con báo vồ tới, chớ không đả thương nó. Báo thấy ánh sáng lửa hoảng sợ, muốn chạy, nhưng bị Thu Sơn, An Quốc và Đại Can ba người chận lại. Con báo cũng tinh khôn lắm, thấy Thu Sơn tay không, liền gào một tiếng thật lớn, nhảy tới định vồ. Thu Sơn né mình tránh khỏi đôi chân đầy móng sắc bén của con thú, rồi tay phải cứng như sắt, tạt luôn một cái vào trán cao báo. Con thú ngã lộn một vòng, quay mình chạy về phía Nam. Thấy cửa phòng phía này mở rộng, con báo tinh khôn lắm, nó nhất định không chịu chạy vào. Nó định quay sang phía khác, nhưng các người đã ập lại. Trong lúc nó đang ngơ ngác nhìn ngược, nhìn xuôi, thì Thu Sơn đã nhảy tới đá mạnh vào mông nó một cái. Con thú bị đau, rú lên một tiếng, chạy thẳng vào trong nhà. Lúc ấy Ứng Tòng đã đóng kín các cửa ngõ lại, chỉ để một cánh bên phía Tây. Thấy các người cầm đuốc đi tới, con báo vừa gầm gừ vừa đi thẳng vào phía trong cửa ngõ đó. Đại Can theo sau, rồi đóng nốt cánh cửa ấy lại. Thế là con báo bị nhốt ở trong điện.
Mọi người thấy bắt được con báo rồi, ai nấy vẻ mặt hân hoan, nhìn thẳng vào phía Thu Sơn như muốn hỏi chàng định bắt con báo ấy làm gì. Thu Sơn mỉm cười nói:
- Thừa Chí, chú vào đánh con báo ấy đi!
Chàng vừa dứt lời, mọi người đều giật mình sợ hãi, Trọng Thọ nói:
- Tôi e cháu Chí đánh không nổi con thú ấy đâu.
Thu Sơn vội trả lời:
- Không sao, đã có tôi ở cạnh trông nom; con báo ấy không làm gì nổi chú ấy được.
Thừa Chí nhanh nhẩu:
- Cháu xin vào ngay!
Tay cầm đoản thương, y đẩy cửa định bước vào, Thu Sơn vội cản lại:
- Hãy khoan, chú để cây thương xuống, vào đánh bằng tay không!
Thừa Chí ngẩn người trong giây phút nhưng y hiểu ngay ý định của Thu Sơn là muốn y dùng “Phục Hổ chưởng” mới học được để đối phó với con báo kia. Tuy vậy, y vẫn rụt rè chưa dám vào. Thu Sơn lại thúc giục:
- Cháu sợ phải không?
Thừa Chí không ngần ngại nữa, đẩy mạnh cánh cửa, ung dung tiến thẳng vào. Chỉ nghe thấy một tiếng “gầm” thật lớn, rồi một bóng đen nhảy tới vồ vào đầu Thừa Chí. Chàng né mình tránh sang một bên, rồi thuận tay tạt một cái vào mang tai con báo. Tuy bị đánh trúng, nhưng tay chàng bé nhỏ yếu ớt, nên con báo không thấy đau đớn chút nào, nó quay đầu lại giơ chân cào Thừa Chí, chàng nhảy tới phía sau con thú, hai tay nắm lấy đuôi kéo. Lúc ấy Thu Sơn đã đứng cạnh đó để bảo vệ, vì sợ con báo phát cáu nổi khùng, Thừa Chí sẽ không chế ngự nổi. Y tuy ít tuổi nhưng thế võ Phục Hổ chưởng y đã biết sử dụng thuần thục, nên tuy con báo vồ ba lần, cào ba lần, rốt cuộc vẫn không đụng chạm nổi vạt áo của chàng. Trái lại, nó còn bị chàng đánh cho một cái tát và tiếp luôn một cái đá.
Tổ Trọng Thọ, Châu An Quốc, Ngụy Hạo, ba người thấy Thừa Chí tay không đấu với báo, mặc dù đã có Thu Sơn đứng cạnh bảo vệ, nhưng vẫn còn lo ngại thay cho y.
Trong khi An Quốc và Ngụy Hạo đều cầm sẵn ám khí để đề phòng lúc nguy cấp giết báo cứu người.
Dưới ánh sáng của mấy bó đuốc thắp chung quanh, Thừa Chí nhảy nhót né tránh nhanh nhẹn vô cùng. Lúc đầu cậu ta không dám tới gần con báo. Nhưng sau đến khi sử dụng mới thấy “Chưởng pháp Phục Hổ” ảo diệu vô cùng. Càng đánh, càng thấy phấn khởi tinh thần. Vì bàn tay quá nhỏ và sức lực còn yếu ớt thấy đánh vào con thú không ăn thua gì, cậu liền xoay ra cách lôi kéo. Mỗi lần lôi là mỗi lần cậu vặt được một nắm lông của con báo. Con thú bị đau, rống lên ầm ĩ. Và nó cũng bắt đầu sợ đôi bàn tay bé nhỏ của Thừa Chí. Nó vừa nhe răng, vừa lui để trốn tránh kịp. Chỉ trong chốc lát, hầu khắp căn điện đầy lông báo bay tứ tung. Con báo bị vặt trụi lông, trông thật kỳ lạ, mọi người đứng xem đều cười ồ cả lên.
Thấy đánh mãi vẫn chưa phục nổi con báo, Thừa Chí đột nhiên đổi sang miếng “Bồ Tát Đê Mi” (Bồ tát lim dim đôi mắt). Cậu cúi thấp xuống, xông thẳng trước mặt con báo. Con thú ngơ ngác, rồi nhảy lên vồ Thừa Chí. Thấy cậu ta đã ở dưới bụng con thú nọ, Ngụy Hạo sợ quá, phi ngay song tiêu. Con báo tinh khôn lắm, giơ chân phải gạt song tiêu.
Lúc ấy không thấy hình bóng Thừa Chí đâu cả. Mọi người nhìn kỹ thì cậu đang núp dưới bụng báo, hai chân quặp lấy bụng nó, còn đầu thì đỡ cằm con thú lên, khiếncon vật muốn cắn không được, muốn cào không tới. Nó cứ nhảy đi nhảy lại, rồi lại lăn lộn dưới đất mấy vòng mà Thừa Chí vẫn ôm chặt không buông.
Một người, một thú cứ cầm cự nhau mãi. Nhưng Thừa Chí tự biết sức mình, nếu cứ kéo dài như thế mãi, cậu sẽ bị đuối sức. Hễ buông tay ra là cậu bị con báo vồ ngay, càng nghĩ càng sợ, cậu vội gọi:
- Thôi thúc thúc giúp cháu với!
Thu Sơn trả lời:
- Chú lấy đôi mắt của nó trước đi.
Nghe lời chỉ bảo, Thừa Chí vươn tay phải ra móc mắt trái của con báo. Con vật đau quá lồng lộn nhảy nhót dữ dội.
Thu Sơn tiến lên một bước. Chỉ nghe “bốp bốp” hai tiếng, chàng đã dùng thế liên hoàn hai tay đánh trúng đầu con báo. Con thú lắc lư đầu mấy cái, rồi nằm ngửa tênh hênh ra đất hết thở. Chàng liền ẵm Thừa Chí lên, cả cười nói:
- Giỏi lắm! Giỏi lắm!
Nói đoạn, Thu Sơn quay lại nhìn mọi người. Chàng thấy bọn Tổ Trọng Thọ, ai nấy đều kinh hãi đến nỗi mồ hôi toát ra ướt áo. Chàng mở cửa điện, rồi đá vào mông con báo một cái, vừa cười vừa nói:
- Tha cho mi!
Chiếc đá ấy mạnh đến nỗi con thú bị bắn thẳng ra khỏi cửa. Bỗng bên ngoài có tiếng người sợ hãi rú lên.
Mọi người tưởng con báo chưa chết ra tới ngoài lại vồ người liền đổ xô ra xem. Ai nấy đều thất kinh vì thấy xung quanh núi đầy những ánh lửa đuốc sáng tỏa một vùng, thành rừng đao thương lấp loáng phản chiếu bởi những ánh sáng của các ngọn đuốc ấy.
Thì ra quân Minh đã ùn ùn kéo tới vây đánh núi Lão ô.
Cũng may các đảng viên nhóm “Sơn Tôn” đã giải tán từ hồi trưa. Tổ Trọng Thọ xét tình hình thấy khó lòng tẩu thoát khỏi tay kẻ địch. Nhưng có người ngạc nhiên, tự hỏi: Phải chăng những đàn em canh gác dưới núi đều đã bị quân Minh sát hại hết chăng? Nên quân địch mới lên tới đỉnh núi, mà tuyệt nhiên không nghe thấy một tiếng báo động nào!
Những người còn lại trên núi đều là những người từng đánh trăm trận cả. Tuy trong lòng họ hơi e ngại, nhưng không một người nào tỏ vẽ nao núng cả. Trọng Thọ là người có địa vị cao hơn cả nên chàng phải lịnh chỉ huy:
- La tướng quân dẫn tất cả đàn em phụ trách nấu bếp, quét dọn và canh gác miếu ra đầu núi phía Đông phóng hỏa rồi hò hét làm nghi binh.
La Đại Can vâng lời đi luôn. Trọng Thọ nói tiếp:
- Châu tướng quân, Ngụy tướng quân, hai vị tới trước núi, mỗi người bắn 10 phát tên cho quân địch khỏi tiến đến gần. Bắn xong trở lại đây tức thì!
Chờ Châu, Ngụy hai người đi rồi, chàng lại nói tiếp:
- Thôi đại ca! Đệ nhờ đại ca giúp cho một việc rất quan trọng.
Thôi Thu Sơn tiến ra:
- Đại ca muốn tôi bảo vệ Thừa Chí phải không?
- Vâng.
Nói đoạn, Trọng Thọ và Ứng Tòng đều quỳ xuống vái Thu Sơn. Chàng giựt mình vội đáp lễ!
Lúc ấy tiếng hò reo, tiếng trống, tiếng thanh la nổi dậy, phát từ trên núi xuống. Mọi người đoán chắc những tiếng đó, do La Đại Can phát động, mục đích làm cho quân địch bối rối. Trọng Thọ chỉ vào Thừa Chí vội nói với Thu Sơn rằng:
- Viên đại soái chúng tôi chỉ có một người con này thôi. Bây giờ trăm sự nhờ đại ca hộ tống tiểu chủ xuống núi giúp.
Thu Sơn trả lời:
- Tôi xin tận tâm bảo vệ chú Thừa Chí!
Bấy giờ Châu An Quốc và Ngụy Hạo bắn tên xong, trở về. Trọng Thọ lại ra lệnh:
- Tôi và Châu tướng quân cùng đi một đường. Khi gặp La tướng quân ba người chúng tôi sẽ xông xuống núi bên phía Đông. ứng tiên sinh và Ngụy tướng quân xuống bên phía Tây. Bọn chúng ta xông xuống trước để dụ địch tập trung lực lượng về phía chúng ta. Thừa dịp đó, nhờ Thôi đại ca hộ tống giúp Thừa Chí xuống núi ở phía sau. Rồi tất cả sẽ gặp nhau ở trại Lý tướng quân.
Trong lúc nguy cấp mà Tổ Trọng Thọ vẫn bình tĩnh chỉ huy, mọi người đều phục chàng can đảm. Được Ứng Tòng và mọi người dạy bảo mấy năm, nhứt đáp chia ly, lòng Thừa Chí bùi ngùi khôn tả. Cậu ta liền quỳ xuống vái mọi người mấy cái và thưa rằng:
- Tổ thúc thúc, ứng thúc thúc, Châu thúc thúc, Ngụy thúc thúc, cháu… cháu…
Cổ họng tắc nghẽn, y không sao nói tiếp được. Tổ Trọng Thọ liền đỡ lời:
- Cháu đi theo Thôi thúc thúc, phải nên ngoan ngoãn nghe lời.
Thừa Chí gật đầu xin vâng.
Lúc đó, quân Minh sắp đánh lên tới đỉnh núi, Ứng Tòng nói:
- Chúng ta đi thôi! Thôi đại ca chờ một lát hãy lên đường nhé!
Mọi người tay cầm khí giới, chia đường xông xuống.
Thấy Thu Sơn tay không, Ngụy Hạo liền giao cây đinh ba cho Thu Sơn và nói:
- Thôi đại ca đỡ lấy.
Thu Sơn trả lời:
- Tôi không cần tới.
Nói đoạn, chàng định giao trả. Nhưng Ngụy Hạo đã đi xa rồi. Chàng đành phải tay trái dắt Thừa Chí, tay phải cầm đinh ba đi về phía sau núi.
Trên sườn núi phía sau cũng có rất nhiều bó đuốc chiếu rọi. Quân Minh đông như đàn kiến vừa hò reo vừa xông lên. Thấy tên và đá bắn như mưa, Thôi Sơn đành phải lùi vào trong Miếu. Chàng xuống bếp lấy hai cái vung chảo; mình cầm cái to, còn cái nhỏ đưa cho Thừa Chí và bảo rằng:
- Chúng ta lấy cái vung này làm tạm cái mộc để đỡ tên đá. Thôi, đi đi!
Hai chú cháu dùng khinh công, nhằm xó tối mà tiến thẳng vào, nhưng hai người bị quân Minh phát giác tung tích. Chúng hò reo, đuổi và bắn theo mấy chục mũi tên.
Thôi Sơn để Thừa Chí chạy trước, còn chàng đi đoạn hậu, tay trái múa vung chảo cản đỡ các mũi tên phía trước, tay phải múa đinh ba gạt mũi tên phía sau. Cả hai cùng theo đường chân núi xông xuống. Bỗng có một nhóm quan quân khá đông, chạy đi ngăn cản nhưng chỉ trong chốc lát đã có mười mấy tên quân bị đinh ba của Thôi Sơn đâm chết. Cây đoản thương của Thừa Chí tuy không giết nổi người nhưng cũng có thể hộ thân cho cậu. Chạy xuống tới lưng chừng núi, hai người định dừng lại nghỉ ngơi chốc lát, bỗng có tiếng hò hét vọng lại, rồi thấy một đội quân Minh khác ở ngang hông núi xông tới. Đi đầu là một viên Thiên Hộ, tay y cầm đại đao bổ thẳng vào đầu Thôi Sơn. Giơ đinh ba lên đỡ, Thôi Sơn thấy chĩu tay, biết tên Thiên Hộ sức lực khá mạnh.
Chàng liền dùng miếng “Độc Long Xuất Động” (rồng độc ra ngoài hang) đâm thẳng sang. Tên Thiên Hộ giơ đao gạt sang một bên và hô lên:
- Các anh em tiến!
Thôi Sơn không dám tiếp tục chiến đấu liền giơ cái vung chảo úp vào mặt kẻ địch. Tên Thiên Hộ vội tránh sang bên phải, Thôi Sơn cả thét lên một tiếng, đinh ba của chàng đâm thẳng vào mạng mỡ kẻ địch. Tới khi rút được cây đinh ba ra, chàng quay lại, không thấy bóng Thừa Chí đâu cả. Chàng thất kinh, bỏ đi tìm. Thấy bên trái có một đám đông đang hò hét, chàng hùng hổ phóng tới. Quân Minh sợ hãi, phải gạt sang hai bên để cho chàng đi. Khi tới gần tới nơi, quả nhiên chàng thấy Thừa Chí đang bị bao vây. Cây đoản thương đã rơi xuống đất, cậu ta chỉ dùng hai bàn tay nhỏ đỡ, thế “Phục Hổ chưởng” mới học được ra đối địch với bọn quân Minh. Vì người nhỏ sức yếu, Thừa Chí càng đánh càng kém thế. Sắp bị nguy hiểm đến nơi, thì may thay, Thôi Sơn đã tới cứu ứng. “Soảng soảng” hai mũi đinh ba đánh ngã hai tên địch, chàng vội kéo luôn Thừa Chí chạy. Bọn quân lính hò hét đuổi theo. Chàng bỗng đứng lại, dùng miếng “Hồi mã thương” đâm ngã hai tên địch đuổi tới gần.
Tiếp theo đó, chàng tiến lên một bước dùng chuôi cán đinh ba hất tung một tên lính lên rơi xuống mỏm đá. Tên lính nọ kêu lên một tiếng thảm khốc, rồi chết ngất.
Bọn quan binh thấy Thôi Sơn thần dũng quá, đều ngưng bước không dám đuổi theo nữa. Thôi Sơn cặp Thừa Chí vào nách, giở khinh công “Đề Tung thuật” (thuật nhẹ mình nhảy nhót) nhảy như bay, tiến thẳng vào trong bóng tối như vào chỗ không người. Không bao lâu đã rời bọn quân binh khá xa, Thôi Sơn mới đặt Thừa Chí xuống và hỏi rằng:
- Chú có bị thương không?
Thừa Chí thấy hỏi, vội giơ tay lau mồ hôi trên mặt thấy dính nhơm nhớm, vội ra chỗ có ánh trăng xem. Thấy tay dính đầy máu, cậu ta sợ quá. Quay lại nhìn mặt Thôi Sơn, cậu cũng thấy dính máu, liền hỏi:
- Thôi thúc thúc, máu… máu…
- Không sao. Đó là máu của địch quân. Người chú có chỗ nào thấy đau không?
- Không ạ.
- Hay lắm. Chúng ta đi thôi!
Cả hai cùng bò vào trong bụi cây mà đi. Một tiếng đồng hồ sau, sắp ra khỏi bụi rậm, Thôi Sơn ló đầu ra ngoài xem. Dưới núi, lửa đuốc sáng choang, mấy trăm quân lính đang canh gác ở đó. Chàng rỉ tai Thừa Chí:
- Chỗ này không xuống được. Phải rút lui.
Hai người quay trở lại, đi bộ mấy trăm thước, trông thấy một cái hang rất rộng. Trước cửa hang, cây cỏ um tùm, khó lòng phát giác, cả hai cùng chui vào trong đó ẩn núp, Thừa Chí trẻ người non dạ, đang ở chỗ nguy hiểm mà vẫn ngây thơ, không biết sợ hãi gì cả. Vì mỏi mệt quá, chỉ trong chốc lát, Thừa Chí ngủ lăn ra đất, Thôi Sơn khẽ ẵm cậu lên, ôm vào trong lòng. Lát lâu, tiếng hò reo của quân trên núi ánh sáng tỏ bừng, chắc quân Minh đang phóng hỏa đốt ngôi miếu. Lát lâu nữa, lại nghe thấy tiếng thâu binh của quân Minh, rồi đại đội người ngựa đi qua. Thôi Sơn kêu khổ thân, vì chỗ hang núi chàng ẩn núp ở ngay bên cạnh con đường xuống núi.
Bích Huyết Kiếm - Hồi 3 : Nạn nọ chưa qua nạn kia đã tới
Trải qua một thời gian khá lâu bỗng Thôi Sơn nghe thấy phía ngoài bụi cây có tiếng động, hình như có người ngồi xuống. Chàng vội cầm cây đinh ba lên và lắng tay nghe. Có tiếng một người quát lớn:
- Tên nghịch tặc họ Viên có một đứa con còn sống. Hiện giờ ở đâu?
Tiếng nói to quá, làm Thừa Chí giật mình tỉnh giấc, Thôi Sơn ra hiệu bảo cậu giữ im lặng.
Lại nghe thấy người nọ quát hỏi:
- Mầy có nói không? Nếu không, tao phải chặt gãy chân mày trước!
Một tiếng khác chửi lại:
- Mầy muốn chặt, cứ việc chặt đi, chứ tao ở biên giới đánh nhau với quân Mãn Thanh hung ác như thế còn không sợ, há gì bè lũ gian tặc chúng bây!
Nghe giọng nói đúng như Ứng Tòng, Thừa Chí khẽ kêu lên:
- Ứng thúc thúc!
Người nọ quát hỏi:
- Mầy không chịu nói phải không?
Ứng Tòng không thèm trả lời, nhổ nguyên đống nước miếng vào mặt tên nọ. Tiếp theo đó, chỉ nghe một tiếng la thét thê thảm. Có lẽ Ứng Tòng đã bị quân địch chém một nhát rồi cũng nên? Thừa Chí không thể nhịn được nữa, vùng mình thoát khỏi tay Thôi Sơn, vừa gọi, vừa phóng thẳng ra:
- Ứng thúc thúc!
Dưới ánh sáng, Thừa Chí thấy một người giơ đao định chém một người nằm ngã dưới đất. Cậu ta xông ngay vào, dùng miếng “Tả Kích Hữu Cầm” trong thế “Phục Hổ chưởng” đấm vào mắt tên nọ. Mắt y bị đấm đau, nổ đom đóm lửa. Cổ tay phải của y cũng bị đau, vì giơ tay định đỡ, và con dao trong tay bị văng đi mất. Thừa Chí thuận tay chém luôn một đao vào vai tên nọ. Tuy người nhỏ sức yếu, không chém đứt nổi cánh tay của địch nhưng cũng khiến cho tên nọ đau đến mất hồn bạt vía. Bị đánh bất ngờ, các quan binh đều giật mình hoảng sợ. Nhưng nhìn kỹ lại chỉ thấy một thằng bé con thôi, cả bọn đều cầm đao thương xông lại chém lia lịa, tưởng như sắp chém thằng bé thành mảnh vụn.
Đột nhiên, từ trong bụi cây, một cây đinh ba lao ra, một số lớn binh sĩ bị toạt hổ khẩu tay, đau đớn lạ thường, quăng cả khí giới xuống đất. Thừa dịp nhốn nháo, Thôi Sơn nhảy vọt vào cặp chặt Thừa Chí, rồi thoắt một cái, đã nhảy ra khỏi đám đông. Đến lúc quan quân hoàn hồn, phóng tên theo thì hai người đã chạy đi mất rồi.
Sau khi Thôi Sơn đã cứu Thừa Chí khỏi nơi ấy, viên tướng thừa lệnh Tào thái giám đến đây chỉ huy cuộc vây bắt, liền ra lệnh cho bốn tên hảo thủ lập tức theo dõi. Chúng thấy Thôi Sơn dưới nách vẫn cặp Thừa Chí, mà vẫn chạy nhảy như bay. Một tên lấy ra ba cái thủ tiễn (tên phóng bằng tay) dùng hết sức bình sinh lao theo. Nghe thấy hơi gió lướt qua đầu chàng, vì tránh ba mũi tên, chàng phải ngừng bước. Lợi dụng phút đó, một tên khác vội vã phóng liên tiếp ba chiếc phi tiêu theo. Thôi Sơn bèn đặt Thừa Chí xuống đất, tay trái quơ luôn được hai mũi phi tiêu. Đang định phóng trả đũa lại thì những ám khí khác của địch đã liên tiếp bay tới. Chàng một tay bắt, một tay dùng đinh ba gạt những ám khí đó, rồi vừa chạy xuống núi.
Lúc ấy, tuy cách đại đội quân Minh đã xa, nhưng bốn tên kia vẫn còn theo sau đuổi riết.
Trong bốn người kia có một tên nói với theo:
- Này anh bạn kia, muốn sống thì khôn liền bỏ khí giới xuống, ngoan ngoãn nghe lời chúng ông thì ngươi sẽ ít chịu đau khổ!
Thấy lời nói của tên nọ quá vô lễ, Thôi Sơn giận lắm, lẳng lặng lấy ngầm phi tiêu ra. Chờ y đuổi tới gần, chàng liền phóng luôn. Cái trên cái dưới, hai phi tiêu đi nhanh như chớp. Tên nọ kêu “Trời ơi!” một tiếng, đùi y đã bị trúng ngay một phi tiêu, ngã lăn ra đất. Còn ba tên kia, thây kệ bạn bị thương, vẫn cắm đầu đuổi theo. Thu Sơn thấy kẻ địch sắp tới gần, liền nói với Thừa Chí rằng:
- Đôi đao của tên kia sắc lắm, để tôi cướp lấy cho chú nhé!
Nói đoạn, chàng cầm đinh ba xuống đất rồi đột nhiên quay lại. Nhưng tên sử dụng song đao đã dùng thế “Vân Long Tam Hiện” (rồng mây hiện ba lần) chém liên hoàn ba nhát, nên Thu Sơn không cướp nổi song đao của y. Còn tên dùng thiết tiêu đã xông tới cạnh Thừa Chí. Thu Sơn chưa cướp được song đao thấy Thừa Chí sắp bị nguy hiểm đến nơi, chàng liền quay lại quay tít một vòng đá tới phía sau tên cầm thiết tiêu, chàng dùng miếng “Kim Long Thần Trảo” (rồng vàng múa vuốt) giơ tay túm lấy vai áo tên kia.
Tên cầm thiết tiêu đang quất ngang ngọn roi vào lưng Thừa Chí bỗng thấy phía sau có kẻ địch, y vội ngừng roi quay mình trở lại, Thu Sơn đánh nhanh quá, tên kia chỉ có cách vừa đỡ vừa lui. Thuận chân, Thừa Chí đá luôn vào mông đít tên nọ, y nổi giận, thét to một tiếng, giở roi đánh trở lại. Nhưng đã quá chậm vì thiết tiêu của y đã bị Thu Sơn nắm lấy rồi. Lúc đó tên sử dụng song đao và tên dùng quỷ đầu đao đều nhứt loạt chém vào lưng Thu Sơn, còn tên bị trúng phi tiêu cũng đã bò dậy, cầm thương đâm vào cạnh sườn trái của Thừa Chí.
Lúc ấy, nguy cơ tứ phía, Thôi Thu Sơn quả thật anh dũng. Trong lúc tối khẩn cấp đó mà chàng vẫn ung dung không hề nao núng. Chàng thét lên một tiếng thật lớn, tay phải dùng miếng “Hàng Long Phục Hổ” đánh ngay vào ngực tên cầm thiết tiêu. Miếng đó là một trong ba miếng tuyệt diệu của ba thế võ “Phục Hổ chưởng.” Tên quân Minh kia làm sao đỡ nổi? Y bị hất tung người lên và rơi nhằm trúng ngọn thương của tên bị phi tiêu ngã xuống, cũng may tên nọ đã rút nhanh cây thương lại, nên y mới thoát chết.
Thu Sơn, cướp đượt cây thiết tiêu, liền quất trở lại, hất ba mũi đao của hai tên nọ phóng ra. Rồi chàng kéo tay Thừa Chí chạy thẳng xuống núi.
Bốn tên quân Minh thấy Thu Sơn chỉ trong chớp nhoáng đã dùng tay không cướp roi sắt, đồng thời lại giải vây được thế tấn công của bốn người. Võ nghệ của chàng đã tới mức tuyệt đỉnh, nên bọn người này sợ quá không dám đuổi theo nữa, chỉ lấy ám khí phóng theo. Trong bóng tối, Thu Sơn nghe tiếng gió “vù vù” lia lịa, vói Thừa Chí vàolòng rồi vượt cao, nhảy thấp, để tránh những ám khí của địch. Dù sao phải ẵm thêm một người, chàng nhảy nhót cũng không nhanh nhẹn cho lắm. Vì vậy, tránh được ba viên “Thiết bồ đề” ở phía phải tới, thì chân trái chàng đã thấy đau, chàng biết mình đã bị trúng ám khí rồi. Vết thương thấy đau rồi lại thấy ngứa, chàng sợ quá, biết mình đã trúng phải mũi tên độc rồi. Không dám dừng bước, chàng phải ngiến răng chịu đựng để chạy xa thêm một quãng nữa. Như vậy chất độc lại càng phát nhanh hơn.
Một lát sau, chân bị tê liệt, chàng loạng choạng rồi ngã lăn ra đất. Thừa Chí sợ quá vội gọi:
- Thôi thúc thúc!
Bốn người đang đuổi theo phía đàng sau, nhìn thấy Thu Sơn đã ngã nằm trong bóng tối, liền hò reo chạy tới.
Thu Sơn bảo với Thừa Chí:
- Thừa Chí, chú em chạy mau lên! Để mặc tôi cản chúng lại cho!
Tuổi tuy còn nhỏ, nhưng Thừa Chí là người rất có nghĩa khí. Cậu dương hai tay nhảy tới phía sau lưng Thu Sơn để sửa soạn nghinh địch…
Thu Sơn nghĩ thầm: “Võ nghệ của y còn non nớt quá, bảo vệ ta sao nổi.”
Tuy vậy, lòng chàng vẫn thấy cảm động vì cử chỉ đẹp đẽ ấy. Chỉ trong nháy mắt, kẻ địch đã đuổi tới noi. Tên sử dụng song đao và tên dùng quỷ đầu đao, lấy sống đao chém thẳng vào mắt cá chân Thừa Chí. Cậu bé nhảy cao tránh khỏi nhát đao đó. Thu Sơn gượng quỳ dậy, phóng cây tiêu vào người cầm song đao. Tên kia muốn tránh cũng không kịp, trán y bị cây tiêu đâm trúng chết liền. Trong lúc tên cầm quỷ đầu đao vì hoảng sợ ngẩn người ra, Thu Sơn nhanh như chớp đã lao mình tới bóp chặt cổ họng y. Tên nọ đau quá, tiện tay chém luôn một đao vào cánh tay chàng. Tuy bị thương chàng vẫn thừa sức bóp cổ kẻ địch cho tới khi hắn tắt thở mới thôi. Còn hai tên kia, vốn bị thương sẵn, thấy Thu Sơn hùng dũng quá đều quay đầu ù té chạy.
Cánh tay của Thu Sơn máu chảy không ngớt và đùi bên phải đã bị tê liệt thành vô tri giác, nhưng chàng vẫn nghiến răng chịu đựng. Rồi chàng nhặt thanh đao, dùng tay trái chống lên, cố gượng đứng dậy. Lúc ấy tuy kẻ địch đã chạy xa rồi, nhưng chàng còn sợ chúng dẫn viện binh tới. Không quản ngại đau đớn nguy hiểm gì cả, chàng đi lò cò một chân và lấy thanh đao làm gậy chống, rồi cứ nửa đi nửa nhảy, tiến thẳng xuống chân núi.
Trong khi đó, Thừa Chí đi cạnh để chàng vịn vai đi cho dễ dàng. Đi được một lúc, nọc độc từ dưới chân trái ngấm dần lên, khiến tay trái chàng cũng bị đuối sức. Vì vậy, tay phải đang vịn vào vai Thừa Chí càng phải dùng sức thêm lên. Càng đi, Thừa Chí càng thấy nặng chĩu, nhưng cậu vẫn cố sức chịu đựng, không dám hé miệng kêu ca nửa lời. Đi thêm một quãng đường nữa, cả hai người đều mỏi mệt, kiệt sức. Thừa Chí bỗng nói:
- Thôi thúc thúc nè, đằng trước kia có một ngôi nhà! Chúng ta đến đó để tạm tránh đi. Chỉ có một tí nữa là tới nơi ngay!
Thu Sơn gật đầu, rồi miễn cưỡng lết chân đi. Vừa tới trước cửa nhà đó, chàng đã chịu không nổi, ngã lăn ra đất, chết ngất.
Thừa Chí sợ quá, vội cúi xuống gọi:
- Thôi thúc thúc!
Lúc đó cánh cửa nhà nọ “kẹt” một tiếng hé mở. Một người đàng bà tuổi trung niên bước ra.
Thừa Chí nói:
- Thưa Đại nương, chúng cháu gặp quan binh. Chú cháu bị thương. Bà làm ơn cho chúng cháu vào ở nhờ một đêm.
Người đàn bà nông dân đó vốn tâm địa rất nhân từ, thấy Thừa Chí nói đoạn, liền gọi một thanh niên trạc độ 18, 19 tuổi đỡ lấy. Thu Sơn có võ công khá cao, thần khí nội liêm, nên tâm trí vẫn chưa mê mẩn. Vừa nằm lên giường giây lát, chàng đã gọi Thừa Chí cầm đèn đến xem vết thương. Thấy bên chân bị trúng độc đã sưng lên gấp đôi, cả hai cùng giật mình sợ hãi. Thu Sơn nhờ người thanh niên nọ băng bó vết thương trên cánh tay và lấy giẻ cột chặt phía dưới đùi để cho hơi độc khỏi nhiễm tới tim. Sau đó chàng mới rút mũi tên ra. Vết thương chảy máu đen. Chàng định cúi xuống để hút máu độc ra, nhưng chân bị sưng to quá, nên miệng chàng không sao đụng tới chỗ đau được. Thừa Chí lẳng lặng ngồi xuống, để miệng vào vết thương hút luôn. Nút tới bốn chục lần, y nhổ ra toàn những máu đen. Mãi đến lần thứ 40 mới thấy máu đỏ chảy ra.
Thu Sơn bảo rằng:
- May quá! Chất độc trong mũi tên không phải là thứ lợi hại cho lắm. Thừa Chí chú mau ra súc miệng đi!
Trong khi đó, người đàn bà nông dân đứng cạnh vẫn niệm Phật cầu cho nạn nhân chóng qua khỏi.
Đến chiều ngày hôm sau, người thanh niên, về cho hay, bọn quan binh đã rút lui hết rồi. Tuy chân của Thu Sơn đã bớt sưng dần, nhưng chàng lại lên cơn sốt, nói mê sảng.
Vì Thừa Chí nhỏ tuổi nên chẳng hiểu bệnh tình Thu Sơn nặng nhẹ như thế nào.
Người đàn bà nông dân nói:
- Cậu ấm này! Tôi chắc độc khí trong chân thúc thúc cậu chưa hết đâu. Thế nào cũng phải xuống dưới trấn mời thầy lang về chữa mới được.
Thừa Chí công nhận lời nói đó là phải. Người đàn bà đó tốt bụng quá, đã cho mượn chiếc xe bò lại còn sai chàng thanh niên kia đưa hai chú cháu xuống dưới thị trấn. Tội nghiệp thay! Cả hai chú cháu đều không có đồng xu dính túi. Người thanh niên kia hỏi hai người muốn ăn gì cho biết để làm. Thừa Chí không biết trả lời ra sao, chỉ thoái thác là còn no thôi. Cậu đang ngồi khóc thút thít bỗng Thu Sơn chợt tỉnh giấc.
Thừa Chí hỏi chàng có cách gì ra tiền không? Chàng hỏi lại:
- Hiện giờ trong người chú em có vật gì đáng tiền không?
Thừa Chí mừng quá reo lên:
- Thế chiếc vòng này có được không?
Nói đoạn, cởi cái vòng đeo ở cổ ra. Thu Sơn thấy chiếc vòng đó là vàng điệp, trên có đính 8 hột trân châu, và khắc 4 chữ “Phú Quý Vinh Hoa” phía dưới khắc hai hàng chữ nhỏ “Tổ Đại Thọ kính trọng” “Viên công tử ni nguyệt chi khánh.” Chàng mới biết cái vòng này của Tổ Đại Thọ mừng Thừa Chí lúc đầy tháng.
Tổ Đại Thọ nguyên là viên đại tướng rất đắc lực của Viên Sùng Hoán. Lúc tuổi trẻ, Đại Thọ rất nghĩa hiệp tính tình phóng đãng. Kế Liêu Phủ Tôn Thừa Tôn bắt được, sắp bị trảm huyết, nhưng may mắn được Viên Sùng Hoán xin miễn cho. Vì vậy chàng rất trung thành với Viên đại soái. Sau khi Đại soái bị chết oan uổng, chàng nổi giận đem bộ hạ rời khỏi kinh đô. Chàng định nổi loạn để trả thù cho ân nhân nhưng sau mẹ và vợ con chàng khuyên can mãi mới thôi. Chàng là một viên dũng tướng đối mặt Minh, ai ai cũng biết tiếng. Lúc đó Thu Sơn nửa mê nửa tỉnh, không còn tính toán hơn thiệt, liền hỏi:
- Chú bảo phổ ky dẫn chú đi cầm. Sau này có tiền ta lại chuộc về.
- Vâng cháu xin đi ngay.
Nói đoạn, cậu ta nhờ người dẫn đi cầm.
Người làm việc ở tiệm cầm đồ trông thấy cái vòng, giựt mình rồi nói:
- Cậu bé hãy đứng chờ một lát nhé!
Người ấy cầm chiếc vòng đó vào nhà trong khá lâu. Thừa Chí và người phổ ky chờ lâu quá, nóng ruột. Nhưng một lát sau, người làm ở tiệm cầm đồ mới đi ra, hỏi rằng:
- Hai chục lạng bạc có cầm không?
Thừa Chí không biết trả lời ra sao cả. Cũng may, được người phổ ky có lòng tốt, nài thêm cho cậu thêm 5 lạng nữa. Cầm lấy số bạc và giấy cầm đồ, Thừa Chí cùng tên phổ ky tiện đường, mời thầy lang đến thăm bịnh cho Thu Sơn.
Nhưng cậu không ngờ, mình đang bị hai tên Công sai theo dõi. Khi về tới phòng, thấy Thu Sơn nằm ngủ li bì, trán nóng như lửa thì sốt ruột quá. Thầy lang chưa tới mà đã thấy bảy, tám tên Công sai, tay cầm day xích và thước sắt xông vào. Một tên trong bọn la lớn:
- Chính thằng nhỏ này đây!
Tên cầm đầu bọn Công sai hỏi Thừa Chí:
- Này, cậu bé kia! Cậu họ Viên phải không?
Thừa Chí sợ hãi, không biết trả lời ra sao, chỉ nói:
- Không phải.
Tên Công sai cả cười, móc túi lấy chiếc vòng vàng ra rồi hỏi:
- Thế cái vòng này cậu lấy trộm ở đâu ra thế?
Thừa Chí tức mình trả lời:
- Cái vòng này của tôi, không lấy trộm của ai hết!
Tên công sai lại cười:
- Viên Sùng Hoán là thân phụ của cậu phải không?
Thừa Chí không dám trả lời, quay trở vào gọi Thu Sơn. Mấy tên Công sai đứng ngoài cửa phòng vội quát tháo bảo nhau:
- Bọn gian đảng núi Lão Ô đang trốn trong này. Ta đừng để cho chúng tẩu thoát!
Thu Sơn bỗng ngồi dậy, muốn gượng đứng lên. Nhưng vừa đặt chân xuống đất, chàng đã ngã qụy xuống. Thấy bọn Công sai xông vào trong khi chưa kịp đỡ Thu Sơn dậy, Thừa Chí đã phải nhảy ra ngăn cản. Khách ở trọ và các phổ ky nghe thấy tiếng kêu bắt tội phạm, đều đứng xúm đầy sân xem. Họ trông thấy bảy, tám tên Công sai đang hoành hành với một đứa bé trạc độ 10 tuổi. Ai nấy đều ngạc nhiên. Một tên công sai định quàng cái xích sắt vào đầu Thừa Chí.
Thừa Chí lùi lại một bước để tránh nhưng cậu vẫn giữ thế, không để cho Công sai đột nhập trong phòng. Tên Công sai thấy không xích nổi Thừa Chí cũng ngạc nhiên vô cùng. Y sống trong nghề nha lại đã mấy chục năm, và lần nào xích người cũng rất dễ dàng. Thế mà với thằng nhỏ này, y lại xích không nổi. Y giận quá, đưa tay đành nắm lấy cái đuôi sam nhỏ của Thừa Chí. Thấy bọn Công sai hùng hổ ào ào, Thừa Chí sợ hãi đến nỗi suýt khóc. Nhưng thấy tên Công sai ra tay định xâm phạm vào người mình, cậu liền né đầu tránh và sử dụng ngay miếng “Hoàng Hổ Đơn Tiên” (phất ngang cây roi) trong thế võ Phục Hổ chưởng. Cậu nắm cổ tay tên Công sai kéo ngang một cái. Tên nọ loạng choạng suýt ngã. Y càng giận thêm, liền giơ chân vừa đá vừa chửi:
- Thằng nhãi con kia, hôm nay ông phải cho mầy biết tay.
Thừa Chí vừa né tránh chiếc đá vừa nắm lấy đùi và mông tên Công sai nhắc bổng y lên, rồi thuận tay hất y ra ngoài. Tên Công sai vừa to vừa mập, bị hất tung ra ngoài sân, ngã chổng bốn vó lên trời. Bé nhỏ như Thừa Chí làm gì có sức mạnh đến thế? Đó là nương lấy sức đá của tên Công sai, cậu mượn lấy sức ấy để đánh lại “Tả Lực Đả Lực” và hất ngã nổi tên công sai. Các người đứng xem đều vỗ tay khen ngợi. Nhìn thấy người lớn bắt nạt người trẻ con, họ tức giận sẵn rồi, nay lại thấy tên người lớn kia bị thằng bé con đánh ngã, họ mới hò reo khen ngợi như vậy.
Các tên công sai khách cũng đều ngạc nhiên. Chúng nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này có phép lạ chắc?”
Rồi chúng đưa mắt ra hiệu, tay cầm thước sắt xông cả lại. Bọn người đứng xem thấy bọn Công sai rút võ khí ra, sợ bị vạ lây đều tránh ra xa. Thừa Chí tuy đã học được mấy năm võ nghệ, nhưng dù sao cậu vẫn còn nhỏ tuổi, thì địch sao nổi nhiều người lớn như thể? Đang lúc nguy cấp, bỗng thấy phòng bên có một đại hán bước ra. Chỉ thấy khẽ nhún mình, người ấy đã nhảy tới trước mặt rồi. Chàng giơ hai tay nắm và vỗ loạn xạ. Không hiểu tại sao, tất cả vũ khí của bọn Công sai đều bị chàng cướp giựt hết cả.
Có mấy tên Công sai rút lui hơi chậm bị đánh đến nỗi mắt quầng, mồm sưng vênh cả lên. Chàng nọ cả cười rồi rú lên thứ tiếng lạ lùng. Một tên Công sai thét lớn:
- Chúng ta đến đây tróc nã phạm nhân, nhà người là ai? Có mau tránh ra không?
Người kia tựa như không nghe thấy, chỉ thoáng một cái đã tới mặt tên Công sai vừa la thét, và tay phải cứng như sắt, chàng túm ngực tên Công sai vứt ra ngoài. Tên Công sai tựa như diều đứt dây, là là bay ra ngoài đường, và “ầm” một tiếng, y đã bị ngã chết ngất dưới đất. Còn những tên Công sai khác không dám ở lại, chạy ngoài đường.
Đại hán nọ đi tới trước mặt Thừa Chí hai tay chỉ ra hiệu miệng ú ớ. Thì ra người đó là người câm, và hình như hỏi lai lịch của Thừa Chí. Không biết trả lời sao cho phải, Thừa Chí nóng ruột quá. Bỗng chàng câm dỡ một bàn tay lên và úp một bàn tay xuống. Bắt đầu đánh theo thế Phục Hổ chưởng, từ miếng thứ nhất, chàng đánh tới một miếng thứ 10 mới thôi. Thừa Chí biết ý liền từ miếng 11 đánh tới miếng 24. Chàng Câm vừa cười vừa gật đầu, rồi chạy lại ẵm Thừa Chí lên tỏ vẻ thân mật. Thừa Chí chỉ vào trong phòng, ra hiệu có người nằm trong đó. Chàng Câm liền ẵm cậu vào.
Trông thấy Thu Sơn đang ngồi dưới đất, mặt nhợt nhạt như sắp chết, chàng Câm giựt mình đặt Thừa Chí xuống. Chàng vừa tiến đến gần, Thu Sơn đã nhận ra người quen, liền ra hiệu chỉ xuống đùi mình. Chàng Câm gật đầu, rồi tay trái dắt Thừa Chí, tay phải ẵm Thu Sơn, đi bước đại ra khỏi khách điếm. Thấy chàng Câm hung hăng như vậy, bọn phổ ky cũng không dám cản trở. Hai tên Công sai núp ở hai bên, chờ chàng Câm đi một quãng mới dám theo dõi. Chúng muốn biết chàng và hai phạm nhân trú chân ở đâu, rồi chúng về triệu thêm người tới nã bắt. Lúc ấy, Thu Sơn mơ mơ màng màng không biết gì cả.
Chàng Câm vì không nghe thấy tiếng người đuổi theo, nên cũng không nghi ngờ gì cả.
Duy có Thừa Chí nhỏ người mà khôn ngoan lạ lùng. Cậu thấy phía đằng xa xa có bóng người thấp thoáng, biết ngay là bọn Công sai theo dõi. Cậu liền ra hiệu cho chàng Câm hay. Quay đầu ngó lại phía sau, chàng chỉ thấy có hai tên Công sai theo sau nên chàng không sợ, cứ thủng thẳng tiến về phía Tây. Đi độ hai ba dặm đường, càng đi càng thấy vắng vẻ, chàng Câm đặt Thu Sơn xuống đất, rồi quay phắt lại, chỉ nhảy hai, ba cái chàng đã tới trước mặt hai tên Công sai nọ. Chúng định quay đầu chạy, nhưng kịp sao được, chàng đã mỗi tay túm ngay một đứa, quăng ngay xuống dưới thung lũng. Chỉ nghe thấy hai tiếng kêu thảm thiết, hai tên Công sai đã vỡ sọ chết tươi.
Giết xong hai tên Công sai, chàng Câm lại ôm Thu Sơn lên, rảo bước đi như bay, dù cố sức chạy theo mà Thừa Chí vẫn không đuổi kịp. Chạy được hơn dặm đường, Thừa Chí mệt thở hổn hển không đi được nữa. Chàng Câm mỉm cười cúi xuống ẵm cả Thừa Chí lên. Như vậy, chàng khỏi phải lo nghĩ, đi còn mau lẹ hơn trước. Được một quãng, chàng quay sang trái, hướng thẳng phía núi mà tiến. Qua hai ngọn núi, chàng tới trước cửa ba căn nhà lá dựng ở lưng chừng núi. Một người đứng trước cửa nhà lá chạy lại nghinh đón, người đó là một thiếu phụ trạc ngoài 20 tuổi. Nàng và chàng Câm cùng gật đầu chào ngay. Trông thấy Thu Sơn và Thừa Chí, nàng có vẻ ngạc nhiên nhưng nàng dẫn mọi người vào trong nhà, rồi lên tiếng gọi:
- Tiểu Tuệ, con cầm ấm trà ra đây mau.
Một em nhỏ ở phòng bên lên tiếng vâng lời, rồi xách một ấm nước trà và mấy cái bát ra. Trông thấy Thu Sơn và Thừa Chí, em nhỏ trợn tròn đôi mắt nhìn.
Người thiếu phụ tuy ăn mặc mộc mạc, nhưng da trắng trẻo, mặt xinh đẹp, và cả em nhỏ cũng xinh xắn vô cùng. Thiếu phụ nọ hỏi Thừa Chí:
- Cậu bé tên gì? Tại sao lại gặp được chàng Câm này?
Thấy nàng hỏi như vậy, Thừa Chì biết rõ ràng là người quen của chàng Câm, nên không giấu diếm, cậu kể hết sự thể đầu đuôi cho nàng nghe. Thấy Thu Sơn bị thương, nàng vào trong lấy một hộp đựng thuốc ra. Mở ra ít thuốc bột màu trắng và ít thuốc bột màu đỏ, hòa lẫn với nước, nàng cho Thu Sơn uống. Rồi nàng lại lấy một con dao nhỏ thật sắc bén khoét những chỗ thịt thúi trên đùi Thu Sơn bỏ đi, rồi rắc ít thuốc bột màu vàng vào chỗ vết thương. Một lát sau, nàng lại lấy nước thật trong rửa sạch vết thương, và rắc thêm thuốc bột màu vàng vào. Rửa và rắc thuốc hai lần xong, nàng mới thấy Thu Sơn cất tiếng rên. Nàng nhìn Thừa Chí rồi cười nói:
- Khỏi nguy hiểm rồi!
Nói đoạn, nàng chỉ chỏ ra hiệu cho chàng Câm bồng Thu Sơn vào phòng trong nghỉ ngơi.
Thiếu phụ vừa thu dọn hòm thuốc, vừa nói với Thừa Chí:
- Tôi họ An, cháu cứ gọi tôi là Thím An. Con nhỏ này là cháu gái tôi, tên nó là Tiểu Tuệ. Cháu cứ việc ở lại đây.
Thừa Chí gật đầu. An đại nương xuống bếp làm cơm giết gà để thết khách. Mệt nhọc suốt ngày, ăn uống xong Thừa Chí không thể gượng được nữa, đành phải gục đầu xuống mặt bàn ngủ thiếp đi.
Sáng ngày hôm sau, cậu vừa tỉnh dậy, Tiểu Tuệ liền kéo tay cậu đi rửa mặt. Thừa Chí nói:
- Để tôi đi thăm Thôi thúc thúc xem vết thương khỏi chưa đi.
- Bác Câm đã cõng ông ta đi rồi.
Thừa Chí giựt mình hỏi:
- Có thật không?
Tiểu Tuệ gật đầu. Thừa Chí chạy vào trong, quả nhiên không thấy Thu Sơn đâu cả. Cậu òa lên khóc. Tiểu Tuệ vội khuyên:
- Anh đừng khóc, đừng khóc nữa!
Thừa Chí không chịu nghe, cứ khóc hoài.
Tiểu Tuệ liền gọi:
- Má ơi! Má ơi! Mau ra đây!
An đại nương nghe thấy tiếng con gọi, vội chạy ra. Tiểu Tuệ nói với mẹ rằng:
- Má này! Anh ấy thấy bác Câm và Thôi thúc thúc đi rồi, anh ấy khóc liền.
An đại nương vội an ủi Thừa Chí:
- Cháu nín đi! Có phải Thôi thúc thúc của cháu bị thương nặng lắm đó không?
Thừa Chí gật đầu. Đại nương nói tiếp:
- Thím chỉ có thể chữa cho chú ấy khỏi tạm thôi. Muốn cho chú ấy mau lành, thím phải bảo bác Câm cõng chú ấy đi nhờ thầy lang chữa cho. Chờ chữa xong, chú ấy sẽ trở lại đây với cháu.
Thừa Chí hiểu rõ mới nín dần. An đại nương lại nói:
- Chú ấy sắp khỏi rồi. Cháu mau vào rửa mặt đi, rồi vào đây ăn cơm với thím và em nó.
Dùng cơm sáng xong, An đại nương bảo Thừa Chí kể lại thật rõ ràng câu chuyện đã xảy ra một lần nữa. Nghe xong, nàng cứ thở dài hoài. Thế là Thừa Chí được yên tâm ở lại nhà đó.
Cậu mồ côi từ thuở nhỏ, nay bỗng nhiên được Đại nương trông nom săn sóc như người mẹ hiền, lại có thêm Tiểu Tuệ làm bạn nên trong mấy ngày ở tại đó, cậu cảm thấy sự ấm cúng nhất trong đời. An đại nương lại bảo cậu ôn luyện lại những võ nghệ mà đã học hỏi được. Xem xong, nàng gật đầu khen ngợi và nói rằng:
- Cháu thông minh giỏi gian lắm!
Như vậy cũng đủ rõ nàng cũng hiểu biết những tinh túy của các thế võ đó vậy.
Cứ như thế qua được mười mấy ngày, và ngày nào An đại nương cũng bắt Thừa Chí luyện võ. Nhưng luyện hay hay dở, nàng không bao giờ chỉ bảo khen chê cả, và nàng săn sóc cho chàng từng li từng tí, coi chàng chẳng khác nào con ruột của mình vậy.
* * *
Tiểu Tuệ xuống lưng chừng núi đi tìm Thừa Chí vì không biết chàng vừa đi đâu mà không có ở trong nhà.
Cô gái dừng lại cất tiếng gọi:
- Anh Thừa Chí! Anh đâu rồi?
Gọi mãi không nghe tiếng Thừa Chí đáp lời, Tiểu Tuệ xuống núi để tìm chàng.
Tới một lùm cây chợt nghe có tiếng nói:
- Cô bé kia đứng lại.
Một ngưòi từ trong bụi rậm bước ra. Coi lại đó là một viên Công sai tay cầm đại đao sáng ngời.
Tiểu Tuệ giật mình lui mấy bước mở to đôi mắt đen huyền nhìn người khách lạ mặt.
Cô gái sợ sệt hỏi:
- Ông là ai?
Viên Công sai không đáp mà chỉ hỏi:
- Nhà An đại nương ở đâu?
Tiểu Tuệ lại lui thêm hai bước:
- Ông là ai, sao hỏi nhà An đại nương?
Viên Công sai nghiêm sắc mặt:
- Ta muốn gặp An đại nương có chuyện gấp lắm. Nhà An đại nương đâu?
Tiểu Tuệ tuổi hãy còn ngây thơ đâu hiểu chuyện gì, trỏ tay lên ngọn núi:
- Nhà ở trên kia.
Viên Công sai nhìn kỹ Tiểu Tuệ rồi hỏi:
- Tiểu cô nương tên gọi là gì?
- Tiểu Tuệ!
Cặp mắt của viên Công sai chớp lên:
- Tiểu cô nương hãy theo tôi.
Tiểu Tuệ kinh hãi trố mắt:
- Tôi theo ông để làm gì?
- Có người bảo tiểu cô nương theo tôi.
Tiểu Tuệ càng kinh dị hơn:
- Người đó là ai?
- Tiểu cô nương gặp ngườ đó rồi sẽ rõ.
Tiểu Tuệ lắc đầu:
- Tôi không đi.
Vị Công sai cười gằn:
- Tiểu cô nương không đi thì bắt buộc tôi phải đưa tiểu cô nương đi.
Hắn bước tới chụp nắm lấy Tiểu Tuệ.
Bật… bật…
Tiểu Tuệ kinh hãi vỗ hai chưởng, vừa hét:
- Mẹ ơi! Cứu con…
Nhưng viên Công sai đã lấy chiếc khăn lớn trùm lấy Tiểu Tuệ cuốn lại cho cô gái hết la.
Hắn quay mình đi xuống núi. Thình lình có tiếng hét:
- Trả em gái lại cho ta!
Người vừa hét chính là Thừa Chí. Chàng vỗ một chưởng vào lưng viên Công sai.
Viên Công sai nghe luồng gió day trở lại khoa cây đại đao chống đỡ.
Hắn nhìn Thừa Chí rồi quát:
- Thằng bé này muốn chết sao! Lui mau.
Viên Công sai hấp tấp bước đi, nhưng Thừa Chí đã dùng khinh pháp vượt ngang qua đầu hắn chận lại.
Chàng hét:
- Trả em gái ta, tại sao ngươi bắt cóc em ta?
Viên Công sai trợn mắt:
- Thằng tiểu quỷ, ngươi có lui ra không?
Thừa Chí không nói vỗ một chưởng ngay tâm huyệt viên Công sai.
Hắn quát:
- Ta giết ngươi!
Cây đao trong tay viên Công sai chớp lên, Thừa Chí rú lên một tiếng nhào lộn ra ngoài.
Chàng trúng nhằm hai nhát đao của viên Công sai máu tuôn lênh láng.
Tuy đã bị thương nhưng Thừa Chí đã phóng người dậy cản ngang trước mặt viên công sai.
Viên Công sai giận dữ quát:
- Thằng quỷ nhỏ có chịu dang ra chưa?
Thừa Chí trợn mắt:
- Ngươi không buông em gái ta ra, bằng không ta liều sống chết với ngươi.
Viên Công sai cười lớn:
- Vậy là người phải chết!
Hắn khoa đao định chém thêm mấy nhát kết liễu sinh mạng Thừa Chí. Bỗng có tiếng thét lanh lảnh:
- Buông con ta xuống. Ai bảo ngươi tới đây bắt cóc con gái ta.
Trong tiếng thét kèm theo một loạt chỉ sắc bén bắn vùn vụt vào mình viên Công sai.
Hắn hốt hoảng lui lại tránh rồi nói mau:
- Có người bảo tôi tới đây đưa tiểu cô nương về dinh.
- Người nào?
- Đại nhân!
An đại nương sửng sốt lên rồi thét:
- Buông con ta ra…
Nàng vỗ hai tay vào nhau, một viên ám khí liền bắn xẹt vào người viên Công sai làm hắn buông tuột cái khăn, Tiểu Tuệ ngã xuống đất.
Y cảm thấy giữa lưng đau ngấm ngầm, và trong lúc y hơi chậm tay một chút, đơn đao của y đã bị chiếc côn vải cuốn chặt và bị giựt rời khỏi tay y. Hắn nhảy lui về phía sau hai bước, miệng cười xã giao:
- Chồng chị nhờ tôi, tôi phải làm cho được. Thế nào cũng có ngày tôi trở lại đây kiếm chị.
Đại nương lại quật ngang miếng vải vào lưng y, nhưng lần này y đề phòng trước, nên vừa dứt lời, y đã quay mình chạy thẳng xuống núi. Đại nương không đuổi theo, quay lại phía Thừa Chí và Tiểu Tuệ. Thấy con gái mình không việc gì, nàng mới yên tâm, Tiểu Tuệ ngả vào lòng mẹ, khóc lóc. Thấy người và mặt Thừa Chí ướt đẫm những máu, Đại nương vội đưa về rửa và băng bó vết thương cho cậu trai. Cũng may hai vết chém chỉ phớt qua, làm chảy máu nhiều thôi chớ không nặng cho lắm. Sau khi nàng đặt Thừa Chí lên giường ngủ, Tiểu Tuệ mới kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nàng nghe. Nàng nhìn Thừa Chí rồi nghĩ thầm: “Không ngờ nó tuổi nhỏ bé người mà cũng có lòng nghĩa hiệp như vậy! Hiện giờ ta không thể ở lại chốn này được. Thế nào ta cũng phải gây dựng cho nó thành tài mới trả được ơn này.”
Nghĩ đoạn, nàng nói với Tiểu Tuệ:
- Con cũng đi ngủ đi, đêm nay còn phải lên đường. Chúng ta dọn đi nơi khác đấy!
Tiểu Tuệ vẫn thường theo mẹ dọn nhà đây đó luôn luôn, nên khi nghe mẹ nói như vậy cũng không ngạc nhiên gì cả, An đại nương thu xếp quần áo, gói làm hai bọc.
Sau khi ba người ăn cơm tối xong, Đại nương thắp nến ngồi chầu một bên hình như nàng có ý chờ đợi người nào đó, nên cửa vẫn thấy để ngỏ.
Tới canh hai, ngoài cửa đó có tiếng chân người đi rất nhẹ. Thoáng một cái, chàng Câm đã tới cửa rồi. Tuy vóc người cao lớn vạm vỡ, nhưng chàng Câm đi rất nhẹ nhàng, không một tiếng động. Như vậy đủ thấy thuật khinh công của chàng tới mức cao siêu.
An đại nương đứng dậy chỉ chỏ ra hiệu, trò chuyện với chàng Câm lúc lâu. Chàng gật đầu tỏ vẽ bằng lòng, Thừa Chí liền hỏi:
- Thôi thúc thúc đã khỏi chưa?
An đại nương trả lời:
- Thôi thúc thúc vô sự rồi, cháu cứ yên tâm. Từ khi cháu tới đây, thím rất thương cháu, coi cháu như con đẻ vậy. Hôm nay cháu lại hăng hái cứu em Tiểu Tuệ nó. Thím không bao giờ quên ơn cháu. Tối hôm nay thím phải đi nơi xa, còn cháu thì theo chú Câm đi.
- Không, cháu đi theo thím cơ!
An đại nương mỉm cười:
- Thím cũng không nỡ xa cháu. Nhưng thím đã nhờ chú Câm đưa cháu đến chỗ sư phụ ký danh của Thôi thúc thúc. Cháu xem, Thôi thúc thúc chỉ học với cụ ấy mấy tháng mà võ nghệ đã xuất sắc đến thế rồi. Cụ ấy võ công thiên hạ vô song, thím muốn cháu theo cụ ấy học võ. Từ xưa tới giờ, cụ ta mới nhận có hai người đồ đệ thôi. Có thể bây giờ cụ ta không muốn nhận đồ đệ nữa, nhưng thấy cháu thông minh và tính nết lương thiện, thím chắc thế nào cụ ấy cũng thương cháu. Chú Câm là người hầu của cụ ta, cho nên thím mới nhờ chú ấy đưa cháu đi và nói giúp hộ cháu. Nếu cụ ta không nhận thì chú Câm sẽ đưa cháu về ở với thím.
Thừa Chí gật đầu bằng lòng. Nàng lại dặn dò thêm:
- Tánh cụ ta lạ lắm. Nếu cháu không nghe lời, tất nhiên cụ ta không nhận, nhưng nếu cháu ngoan ngoãn quá cụ ta sẽ bảo cháu không có cốt khí và cũng không nhận nốt. Vậy phải chờ xem cháu sẽ được may mắn hay không?
Nói đoạn nàng tháo chiếc vòng vàng ở cổ tay ra đeo vào cánh tay Thừa Chí. Cái vòng nọ hơi to, nàng phải bóp nhỏ lại mới đeo vừa. Rồi nàng vừa cười vừa nói:
- Chờ đến khi học thành tài, trở nên người lớn, cháu đừng có quên thím và em nó nhé! Nếu trường hợp cháu được lão tiền bối chịu dạy bảo thì khi nào thím được rảnh, đưa em Tuệ đến thăm cháu nhé!
An đại nương tuy cố gắng giữ cho giọt lệ khỏi rơi, nhưng mắt nàng cũng đã đỏ ngầu rồi. Nàng gượng nói:
- Được rồi! Lúc nào thím cũng nhớ đến cháu, thương cháu!
Nói đoạn, nàng viết thơ cho chàng Câm, rồi một tay sách hai bọc áo một tay dắt Tiểu Tuệ ra đi. Chàng Câm và Thừa Chí theo sau. Ra tới ngoài cửa, mẹ con Tiểu Tuệ đimột ngả, còn chàng Câm và Thừa Chí đi một ngả. Trước khi chia tay mẹ con Tiểu Tuệ và Thừa Chí đều quyến luyến không muốn từ biệt.
Thấy Thừa Chí bị thương và mất máu khá nhiều chắc không thể đi nhanh được, nên chàng Câm cõng cậu lên, thẳng tiến trên con đường núi. Ngày đi tối nghỉ, hai người đi ròng rã mười mấy hôm. Đêm nào cũng không dám vào khách điếm ngủ trọ, chàng Câm và Thừa Chí chỉ vào đền, miếu đổ nát hoặc các hang động nghỉ ngơi thôi.
Ngày nào Thừa Chí cũng ra hiệu hỏi chàng Câm đã tới đích chưa, thì chàng kia lại chỉ về phía trước. Lại đi ba ngày nữa, đường đi bắt đầu đã thấy hiểm trở. Tới một núi nọ, chàng Câm phải dùng cẳng chân để bò lên leo trên đỉnh núi cao chót vót. Vết thương của Thừa Chí đã khỏi hẳn, duy có lông mày bên trái thành một vết sẹo thâm quầng.
Cậu phải ôm chặt cổ chàng Câm. Vì đường núi giốc quá làm một trong hai người trượt chân hoặc buông tay ra là té xuống hố sâu, tan xương nát thịt, chết ngay tức thì, nên hai người càng phải hết sức cẩn thận. Khi bò tới đỉnh núi cao nhất, Thừa Chí trông thấy một miếng đấy rộng và bằng phẳng. Xung quanh có những cây thông cao bao phủ.
Xuyên qua rừng thông, cậu thấy có năm, sáu căn nhà bằng đá, chàng Câm có vẻ hân hoan, tựa như chàng đi xa lâu ngày mới trở về nhà cũ vậy. Chàng dẫn Thừa Chí vào trong Thạch ốc, lấy chổi quét dọn sạch sẽ đâu đấy rồi mới xuống bếp thổi cơm. Ở tới ngày thứ ba, Thừa Chí nóng lòng ra hiệu hỏi chàng Câm, sư phụ ở đâu? Thấy chàng Câm chỉ tay xuống núi, Thừa Chí đòi xuống nhưng chàng Câm lại xua tay lắc đầu. Bất đắc dĩ, cậu đành phải chịu nhẫn nại chờ đợi.
Không trò chuyện được với chàng Câm, cậu bực mình buồn bực vô cùng.
Một đêm nọ, Thừa Chí đang ngủ ngon giấc, bỗng thấy trước mắt sáng choang, vội vàng ngồi dậy. Cậu thấy một ông cụ, tay cầm cây nến đứng cạnh giường, vẻ mặt tươi cười. Thừa Chí, phúc chí tâm linh, vội nhảy xuống đất quỳ lạy ông cụ bốn lạy, và thưa rằng:
- Bạch sư phụ mới về, đệ tử Viên Thừa Chí xin kính lạy ra mắt sư phụ.
Ông cụ nọ cả cười, nói:
- Thằng nhỏ này, ai đã nhận dạy mà mà dám gọi ta sư phụ? Tại sao mầy đoán được thế nào tao cũng nhận mày làm đồ đệ?
Nghe giọng nói, Thừa Chí biết ông ta đã bằng lòng rồi, liền vui vẻ đáp:
- Dạ, bạch sư phụ, thím Anh chỉ bảo dùm con đấy ạ.
- Nàng chỉ hay làm phiền ta. Thôi được, ta nể người cha đã khuất của con, mà nhận con làm đồ đệ vậy!
Thừa Chí định sụp xuống lạy, nhưng ông cụ vội cản lại:
- Thôi đủ rồi, ngày mai sẽ nói chuyện.
Sáng sớm ngày hôm sau, mặt trời chưa mọc, Thừa Chí đã dậy rồi. Chàng Câm hình như đoán biết ông cụ đã chấp nhận Thừa Chí làm đồ đệ cho nên chàng mừng quá, bồng Thừa Chí ném lên trên không rồi lại đỡ lấy vừa ném vừa đỡ như vậy đến bốn, năm lần. Nghe thấy tiếng cười đùa của Thừa Chí, ông cụ ở trong nhà bước ra, vừa cười vừa nói:
- Được lắm, con mới có bấy nhiêu tuổi đầu, mà đã biết hành hiệp trượng nghĩa, cứu đàn bà trẻ con. Con có bản lĩnh gì, hãy giở ra cho ta coi nào.
Thấy ông cụ nói như vậy, Thừa Chí xấu hổ, mặt mũi đỏ gay. Ông cụ nói tiếp:
- Con không trổ tài cho ta xem, thì ta biết thế nào mà dạy con bây giờ!
Thừa Chí biết sư phụ không nói đùa với mình, liền dỡ thế võ “Phục Hổ chưởng” của Thôi Thu Sơn truyền cho. Từng đường, tường miếng một đánh từ đầu tới cuối. Ông cụ vừa xem vừa mỉm cười chờ cậu đánh xong, mới nói:
- Thu Sơn cứ khen con thông minh, lúc đầu ta còn chưa tin, nay mới thấy rõ, hẳn chỉ dạy con có mấy ngày, mà đã thành tựu như vậy, quả thật là khá lắm!
Thấy nói đến Thôi Thu Sơn, Thừa Chí chờ ông cụ nói xong, liền tiếp lời hỏi ngay:
- Bẩm sư phụ, Thôi thúc thúc hiện giờ ở đâu? Và đã mạnh chưa ạ?
- Hắn đã hoàn toàn vô sự. Và trở về nơi Lý tướng quân tiếp tục chiến đấu rồi.
Thừa Chí thấy thầy nói như vậy, hớn hở vô cùng. Lúc ấy, chàng Câm đã bày xong hương án. Ông cụ lấy ra một bức tranh có vẽ hình một vị nho sinh rồi thắp hương nến cung kính quỳ lạy, đoạn nói với Thừa Chí rằng:
- Đây là Từ tổ sư Khai Sơn của phái Hoa Sơn chúng ta, con lại đây quỳ lạy đi.
Thừa Chí nghe lời, sụp xuống quỳ lạy, nhưng cậu không biết lạy bao nhiêu cái mới phải, trong lòng nghĩ thầm: “Chắc càng lạy nhiều càng hay,” rồi cậu cứ lạy lia lịa.
Ông cụ phải phì cười bảo thôi. Ông cụ vừa dứt tiếng cười, đang định nói thì Thừa Chí vội quay lại, lạy ông cụ mấy lạy, coi như đã là chánh thức bái sư. Ông cụ mỉm cười nhận lễ:
- Từ nay con là đệ tử chính thức của phái Hoa Sơn chúng ta rồi. Từ trước tới giờ ta mới thu nhận chỉ hai đồ đệ. Đã mười mấy năm nay, vì chưa gặp đứa trò nào thông minh, chịu khó, nên ta chẳng nhận thêm ai cả. Con là đệ tử thứ ba của thầy và cũng là đồ đệ chót, vậy con phải chăm chỉ học tập đừng để cho người ta chê cười mỉa mai.
Thừa Chí cúi đầu xin vâng. Ông cụ lại nói tiếp:
- Ta họ Mộc, các bạn giang hồ gọi ta là Bát Thủ Tiên Viên (Vượn tiên tám tay). Con phải ghi nhớ, kẻo có người ta hỏi đến tên thầy, con lại ú ớ không biết trả lời ra sao.
Thừa Chí không nhịn được phải phì cười. Cậu ta nghĩ thầm: “An đại nương bảo tánh nết ông ta rất kỳ lạ, mình cứ nơm nớp lo sợ mãi. Ngờ đâu thầy ta dễ dãi, ưa khôi hài đến thế!”
Võ nghệ của Bát Thủ Tiên Viên cao siêu vô cùng. Trong 20 năm nay, ông tung hoành trên chốn giang hồ và chưa hề gặp người địch thủ. Vì ông ta không hay can thiệp vào việc người nên ít người biết tới tên tuổi. Thật tình tánh nết ông ta rất kỳ lạ và khó khăn lắm. Lần này, chỉ vì thương hại Thừa Chí côi cút tội nghiệp và thêm điều tôn kính cha cậu là một vị trung thần hết lòng vì nước lại chết oan, nên ông ta mới đoái hoài tới, rồi thấy Thừa Chí là người thông minh hoạt bát nên ông ta mới trò chuyện vui vẻ như thế. Mục Nhân Thanh lại nói:
- Hai sư huynh của con hơn con những 20, 30 tuổi, ngay như đồ đệ của họ cũng còn lớn hơn con nữa là khác. Có lẽ họ sẽ trách móc ta tới giờ phút này còn nhận thêm đứa con nít làm đồ đệ. Hà! Hà! Nếu con không chịu khó luyện tập, sau này bị thua cả đồ đệ, đồ tôn của chúng, thì họ càng có lý do bảo thầy là già nua lẩm cẩm đấy!
- Con xin hết sức chăm chỉ luyện tập. à, thưa sư phụ, Thôi thúc thúc có phải là sư huynh của con không?
- Nó đi theo Lý tướng quân luôn luôn bận việc binh đao không có thì giờ học tập nên ta chỉ dạy cho có một thế võ “Phục Hổ chưởng” thôi chớ nó không phải là đồ đệ chính thức của ta.
Nói đoạn Mục Nhân Thanh chỉ vào chàng Câm đoạn nói tiếp:
- Như chàng Câm kia chẳng hạn, hằng ngày xem ta dạy võ, nó cũng võ vẽ vài miếng. Nhưng nếu đem so sánh với hai sư huynh con thì thật một trời một vực, nó còn kém lắm.
Thừa Chí nghĩ thầm: “Chàng Câm hai lần ra tay ném bọn công sai, thân thủ lanh lẹ vô cùng. Nhưng sư phụ bảo hai vị sư huynh còn giỏi hơn y không biết bao nhiêu lần. Vậy nếu ta chịu khó học tập, dù không bằng hai vị sư huynh, nhưng bằng được chàng Câm, ta cũng sung sướng và an ủi lắm rồi.”
Mục Nhân Thanh lại nói:
- Phái Hoa Sơn chúng ta có rất nhiều giới điều chẳng hạn như: giới dâm, giới sĩ (ra làm quan), giới bảo tiêu, vân vân. Bây giờ dù có nói ra, con cũng không thể nào nhớ hết được. Ta chỉ cần dặn con hai câu này: Thứ nhất phải nghe lời sư phụ. Thứ hai đừng có làm bậy. Con hiểu không?
- Con xin vâng lời thầy, không bao giờ dám làm bậy.
- Thôi được, bây giờ chúng ta bắt đầu luyện võ. Vì thời gian gấp rút, Thôi thúc thúc đã dạy con hết thế võ Phục Hổ chưởng nhưng thế Chưởng pháp đó thần diệu khôn lường. Tuổi con còn nhỏ dù có học hiểu hết cũng không thể sử dụng như ý muốn được. Nay ta hãy dạy con thế “Trường quyền Thập Đoạn Cầm” trước đã.
- Thưa thầy, thế võ này Ngụy thúc thúc đã dạy con rồi ạ.
- Thế võ con học của Ngụy thúc thúc vừa múa cho thấy xem còn nhiều chỗ sai lầm lắm. Nếu con thật hiểu hết sự tinh vi của thế “Trường quyền Thập Đoạn Cầm” thì trên chốn giang hồ sẽ ít có người địch nổi con.
Nghe lời sư phụ dạy bảo, Thừa Chí không dám cãi lại, chỉ vâng vâng dạ dạ thôi.
Mục Nhân Thanh đem thế võ “Thập Đoạn Cầm” ra biểu diễn cho Thừa Chí xem.
Cậu thấy các đường quyền giống hệt Ngụy Hạo dạy hồi nọ. Cậu nghĩ thầm: “Thế này thì có gì đặc biệt đâu?”
Cậu đang nghi ngờ thì Mục Nhân Thanh lại nói:
- Chắc con tưởng sư phụ nói dối phải không? Bây giờ con thử lại đây xem con có thể nắm được áo của ta không? Con chỉ cần đụn vào vạt áo của ta, ta cũng cho con là tài ba lắm rồi.
Thừa Chí tưởng phải đối địch với sư phụ nê không dám, cứ đứng yên, nhe răng cười. Mục Nhân Thanh liền thúc giục:
- Con cứ lại đi! Như thế cũng như ta dạy con luyện võ đấy mà!
Thấy nói là dạy võ, Thừa Chí liền xông ngay lại, giơ tay định nắm lấy tà áo của Nhân Thanh. Nhưng tay cậu vừa sắp trờ tới thì tà áo đó bỗng rụt lạ, chỉ cách xa đầu ngón tay Thừa Chí độ hai, ba tấc thôi. Thấy vậy, cậy tiến lên một bước đủ vừa nắm lấytà áo. Ngờ đâu, cậu chẳng thấy sư phụ đâu nữa, chỉ thấy có tay người vỗ sau gáy cậu một cái, và có tiếng gọi: “Ta ở đây mà!”
Thừa Chí quay mình định hai tay ôm choàng lấy sư phụ ngờ đâu ông ta đã biến mất. Cậu vội quay lại thấy sư phụ đứng cách xa tới hai, ba trượng. Tính hiếu thắng của trẻ con thúc đẩy, cậu nghĩ thầm: “Thế nào ta cũng phải bắt cho được mới thôi!”
Nghĩ đoạn, cậu nhảy xổ lại nắm lấy tay áo của sư phụ. Mục Nhân Thanh chỉ phẩy ta áo một cái, ông ta nhảy ra tận đằng xa rồi, Thừa Chí vừa cười vừa đuổi theo. Đang lúc đó cậu thấy chàng Câm chỉ tay ra hiệu, bảo cậu nên chú ý. Thừa Chí sực nghĩ: “Quả nhiên sư phụ dùng thân pháp trong thế võ Thập Đoạn Cầm thôi, nhưng tại sao ông ta lại nhanh nhẹn đến thế?”
Nghĩ đoạn, cậu vừa đuổi vừa ghi nhớ lối sử dụng thân pháp của sư phụ. Cậu vốn dĩ đã thuần thục thế võ “Thập Đoạn Cầm” nhưng vì Mục Nhân Thanh tiến thoái lẩn tránh nhanh nhẹnh quá và trong lúc vận dụng thế võ, lại khôn khéo vô cùng. Thừa Chí thông minh lạ thường, một mặt đuổi bắt, một mặt nhớ kỹ thân phá của sư phụ. Sau cùng, cậu vừa đuổi vừa vận dụng thân pháp một cách khôn khéo, quả nhiên thấy nhanh nhẹn gấp trước mấy lần. Mục Nhân Thanh thầm gật đầu khen thầm: “Thằng bé này thông minh đấy!”
Lúc ấy Thừa Chí đuổi càng nhanh bao nhiêu, Mục Nhân Thanh càng tránh lẹ bấy nhiêu. Hai người chạy đuổi càng ngày càng nhanh, đến nỗi chỉ thấy có hai cái bóng người bay múa đó đây.
Bỗng thấy Mục Nhân Thanh cất tiếng cười ồ, rồi ôm lấy Thừa Chí, vừa cười vừa nói:
- Đồ đệ tài giỏi, đứa trẻ ngoan ngoãn đáng yêu của thầy!
Thừa Chí thấy trong “Thập Đoạn Cầm” có nhiều miếng huyền ảo như vậy trong lòng hớn hở vô cùng.
Mục Nhân Thanh lại nói:
- Thôi bấy nhiêu cũng đủ cho con tập luyện rồi.
Nói xong, ông ta đặt Thừa Chí xuống đất dặn tiểu đồ đệ hãy ở lại luyện tập thêm vài lần nữa rồi đi vào gia trang.
Thừa Chí luyện tập từ đầu chí cuối, lại tập thêm hơn mười lần nữa. Ngoài những thân pháp của sư phụ mà cậu học được, cậu còn biến chế thêm vài mánh lới riêng biệt nữa.
Tối hôm đó, cậu sung sướng quá, chỉ gãi đầu gãi tai, trằn trọc suốt đêm không sao ngủ được. Đến khi mệt quá thiếp đi cậu vẫn nghĩ tới sự luyện võ trong giấc mơ.
Vừa tảng sáng, sợ quên những miếng võ hôm qua đã học được cậu vội ra ngay sân ôn luyện lại, càng tập càng thêm hăng hái. Bỗng nghe phía sau có tiếng ho, cậu quay lại, trông thấy sư phụ miệng mỉm cười đang đứng tại đó. Cậu vội cúi đầu chào:
- Đệ tử kính chào sư phụ.
- Mấy miếng võ của con vừa chế biến ra kể cũng khá đấy. Ngay như miếng con vừa đánh xong cũng đã nhanh lắm, nhưng hạ bộ vẫn còn nhiều chỗ sơ hở. Nếu kẻ địch là người giỏi võ, họ chỉ giơ chân ra móc một cái là con bị nguy hiểm ngay. Cho nên con phải đánh như thế này.
Nói đoạn, Mục Nhân Thanh liền đứng vào địa vị kẻ địch, vừa tấn công vừa chỉ dẫn vào những yếu điểm. Chỉ dặn qua một lần, Thừa Chí đã hiểu ngay. Ngày hôm đó, cậu lại học thêm được vài miếng võ tuyệt xảo.
Ở trên Hoa Sơn luyện tập, thấm thoát đã ba năm. Năm đó Thừa Chí được 12 tuổi.
Vì luyện võ từ thuở nhỏ nên thân thể cậu chóng nở nang hơn người. Thỉnh thoảng Mục Nhân Thanh có việc phải xuống núi. Hễ đi cỡ hai, ba tháng ông ta mới về. Trước khi đi, thế nào ông ta cũng dạy Thừa Chí một vài quyền pháp, để khi về, bảo cậu luyện lại cho ông xem. Lần nào cậu cũng thành thạo những quyền pháp mới học được.
Tết Đoan Ngọ năm nọ, sau khi uống rượu Hồng Hoàng xong, bỗng nhiên Mục Nhân Thanh đem bức họa của sư gia ra treo. Ông ta quỳ lạy xong, gọi Thừa Chí lạy, rồi nói với cậu rằng:
- Con có biết tại sao hôm nay thầy bảo con lạy Tổ sư gia không?
- Thưa thầy con không biết ạ.
Mục Nhân Thanh vào gian trong bưng một hộp gỗ hình dài ra đặt hương án, rồi mở nắp ra, chỉ thấy ánh sáng loè mắt, một bảo kiếm dài ba thước nằm trong đó. Thừa Chí trống ngực đập thình thịch, miệng run run hỏi:
- Sư phụ dạy con học kiếm phải không?
Mục Nhân Thanh gật đầu, lấy thanh bảo kiếm ra, vẻ mặt nghiêm trang, bảo Thừa Chí:
- Con quỳ xuống, nghe lời thầy dạy!
Thừa Chí vội vàng quỳ xuống. Ông ta nói tiếp:
- Kiếm là tổ của trăm thứ khí giới, rất khó học. Con thông minh lại hiểu biết chóng, thế nào cũng học được thành tài. Nhưng kiếm pháp của phái Hoa Sơn chúng ta, từ các đời tổ sư truyền xuống, ai nấy đều nhờ ở trí tuệ thông minh của mình mà sáng kiến thêm, nên mỗi đời mỗi tinh xảo hơn. Các phái võ công khác, sư phụ họ thường hay giữ lại một vài miếng bí quyết để hộ thân, không dạy hết cho đồ đệ, nên các phái đó một đời một tàn lụinhư vậy, để tránh điều đó nên lúc chọn đồ đệ để truyền dạy võ nghệ rất là nghiêm ngặt. Khi đã tuyển chọn xong rồi là sư phụ phải dốc túi dạy hết. Vì vậy, môn kiếm pháp này, đời nào trò cũng giỏi hơn thầy. Kiếm pháp của ta khó học vô cùng và cũng ác hiểm hơn các kiếm pháp khác. Nếu con chịu khó luyện tập thành tài, sẽ trở nên một kiếm sĩ thiên hạ vô địch thủ ngay. Trước khi dạy con kiếm pháp, thầy buộc con phải thề độc không được tàn sát một người oan uổng cả.
Thừa Chí nhanh miệng thề luôn.
- Được rồi con đứng lên đi!
Thừa Chí đứng dậy, ông ta lại nói tiếp:
- Thầy biết con tâm địa nhân từ, chắc không bao giờ con giết bừa những người hiền lành đâu. Nhưng giữa những thị phi, cũng có khi khó phân biệt phải trái. Quý hồ con đặt lòng từ thiện trên hết, thì không bao giờ giết nhầm đâu. Điều này con nên nhớ kỹ!
Thừa Chí gật đầu vâng lời. Mục Nhân Thanh tay trái nắm kiếm quyết, tay phải giơ bảo kiếm lên. Thật là “Đường kiếm như Rồng bay Phụng múa, lóe hào quang tựa ánh sáng mặt Trời.”
Một kiếm pháp thiên hạ vô song bắt đầu phát động.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top