CHƯƠNG MỞ ĐẦU

Chuyện kể về một ngôi làng xa xăm ngự trên đỉnh ngọn núi không tên.

Ba mươi người sinh sống hạnh phúc, cho đến một ngày "chúng" đến.

"Chúng" xâm nhập trong bí mật, làm đảo lộn mọi trật tự.

Vậy nên họ lập lại trật tự bằng cách thiết lập các "điều luật" về ngày và đêm để tìm ra "chúng".

Nhưng "điều luật" lại mang đến sự chết chóc, và sự chết chóc được đánh đổi bằng sự thật.

Một sự thật về danh tính cuối cùng, phải trả bằng mọi giá để trả lời cho các câu hỏi.

"Ai... là Ma Sói?"

🐺

Một năm sau kể từ sự kiện Trăng Đỏ. Đây là câu chuyện về "ngôi làng cũ" - nơi họ đã trở về...

Chiếc cối xay chầm chậm đưa nhẹ trong gió, một buổi sáng thoáng đãng không mây tạo nên bầu trời trong xanh như mặt hồ rộng vô tận. Một ông lão đứng bên dưới nhìn lên những chuyển động của cánh quạt khổng lồ, trong ánh mắt hồi tưởng và đăm chiêu. Trong làng này, ai cũng biết Sherir là người đã trải qua nhiều chuyện ly kỳ nhất, những câu chuyện của ông khi trở về từ ngôi làng khai hoang nhanh chóng được mọi người nằm lòng. Chúng trở thành cổ tích cho lũ trẻcon và lời cảnh báo cho những người trưởng thành.

Ngôi làng rộng lớn với nhiều căn nhà đá kiên cố lâu đời, họ đã sống ở đây vài thế kỷ. Năm nay là một năm thành đạt với những vụ mùa tươi tốt, của cải sung túc ban phát khắp mọi nhà. Chỉ mới vài ngày trước thôi một đoàn gồm vài chục người ở đây đã quyết định thực hiện một chuyến buôn lớn đến một thị trấn nổi tiếng phía Bắc. Nhìn cái tâm trạng vui vẻ và hồ hởi đó, khó mà tưởng tượng được họ đã từng chịu đựng nỗi đau lớn lao vì mất người thân vào thảm kịch một năm trước. Thời gian quả thực đã chữa lành mọi vết thương, hoặc có khi họ chỉ đang cố che giấu trong nụ cười khắc khổ.

Những bông hoa cẩm chướng đủ màu sắc trải dài mép tường cũ của một ngôi nhà trắng. Chúng đang được tắm mát dưới làn nước nhỏ tuôn ra từ vòi tưới của chiếc bình đang đong đưa trên tay bà cụ già ngồi xe lăn. Cô gái trẻ mặc chiếc váy màu xanh dương đi ngang qua buông lời hỏi thăm.

"Chào bà Pearl, những bông hoa này thật lộng lẫy, mỗi lần đi ngang qua nhà bà là cháu lại cảm thấy mình thật thua kém!"

"Cảm ơn Laudren, cô cũng rất xinh đẹp", bà già mỉm cười, gật gù tỏ vẻ hài lòng.

Cô gái cất bước với chiếc giỏ xách trên tay, tiến về hướng Đông ngôi làng. Ở đó có những cánh đồng lớn trải dài một vùng mênh mông ra đến tận chân núi, các con kênh chạy dọc ngang cánh đồng rồi rẽ sang nhiều phía. Một người nông dân nghỉ tay khi nghe tiếng cô vợ trẻ gọi từ xa:

"Anh Johan, anh trông nhà hộ em một lát nhé. Em mang số vải này qua nhà của Elsebeth để nhờ chị ấy làm bộ trang phục cho lễ hội năm nay."

Người đàn ông chống cuốc xuống đất để tựa vững, lấy mu bàn tay lau những giọt mồ hôi trên trán, rồi đáp:

"Được rồi Lena, em nhớ về sớm nhé! Nếu có gặp Philbert thì nhắc anh ấy qua giúp anh một tay để khai thông con kênh mới này. Một mình anh vất vả quá."

Nguồn cung cấp lương thực chính cho cả làng là những thửa ruộng tươi tốt này, vì vậy mà Johan có một vai trò quan trọng ở đây. Những con kênh ngày càng được mở rộng để đáp ứng nhu cầu ruộng đất. Ở cuối nguồn nơi dòng nước đổ ra thửa ruộng, phải đi qua con sông dài uốn quanh phía Bắc ngôi làng và chạy đến một chiếc hồ lớn nằm trong cánh rừng già phía Tây.

Người ta còn có thể đến để thưởng ngoạn vẻ đẹp phẳng lặng của chiếc hồ bằng cách đi qua cây cầu đá nối liền giữa làng và khu rừng. Hầu như mỗi sáng hoặc xế chiều trước khi mặt trời lặn vài tiếng, luôn có bóng dáng của một cụ già ngồi bên mép hồ gần cuối cây cầu, giữ một chiếc gậy dài và mỏng có nối dây ở đầu. Ông Bent thường ngồi đó hàng giờ yên tĩnh như một pho tượng, mặc dù không có nhiều cá ở đây nhưng ông luôn hài lòng với quang cảnh thoáng đãng tràn đầy không khí tươi mát thổi từ bìa rừng.

Nếu chỉ có thể sống ven bìa rừng thôi thì người ta có thể hạnh phúc suốt cả cuộc đời, miễn là đừng dấn sâu hơn vào địa bàn của đám thú dữ. Ngoài thợ săn Paul với kỹ năng thiện xạ tài ba thì không ai dại gì đương đầu với chúng cả. Nhưng thậm chí Paul tài giỏi, hay Doros mạnh khỏe nhất làng, cũng phải thận trọng với một vùng sâu xa, đen tối nhất trong rừng...

Ở sát vách núi phía Tây của khu rừng, sừng sững bóng dáng của một tàn tích hoang sơ, cổ kính, cao gần trăm mét với nhiều cửa sổ dài, và một đỉnh tháp chỉa nhọn lên trời. Kiến trúc màu xám đen đó là một tòa lâu đài bị lãng quên hàng trăm năm nay thậm chí tồn tại trước cả ngôi làng này. Nó là một kho tàng lớn của các lời đồn đại về quái vật, hay những câu chuyện ma, nhiều đến nỗi có hẳn một cuốn sách viết về nó. Nhưng trong cuộc sống bình thường hằng ngày thì chẳng ai mảy may để tâm đến tòa lâu đài ấy. Sự thật là nó không có chút ảnh hưởng gì tới họ ngoài việc trở thành một cảnh quang kỳ thú để chiêm ngưỡng từ xa, trước khi màn đêm buông xuống và nó trở nên mất hút.

Đúng vậy, họ không hề để ý đến nó, không ai nhắc đến nó trong nhiều năm tháng. Họ gần như quên đi sự tồn tại của nó, cho đến một ngày...

Đó là một buổi trưa hè Chủ Nhật, tiếng ve len lỏi vào những căn nhà yên ắng vắng người. Đáng ra vào giờ này mọi người đã nghỉ trưa rồi, nhưng hôm nay họ lại tụ tập ở một vùng gần quảng trường. Một người từ xa chạy đến chỗ đám đông đang đứng, khuôn mặt mướt mát mồ hôi.

"Sao rồi Doros?" Sherir hỏi người vừa đến.

"Tôi vẫn chưa tìm thấy cô ấy..." chàng trai tóc vàng đứng dậy hổn hển trả lời, ai nấy đều tỏ vẻ lo lắng.

"Elsebeth...", bà Pearl buồn rầu.

"Đã hai ngày rồi, lần cuối cùng tôi nhìn thấy cô ấy là khi cô ấy ngồi trong nhà trông bé Daisy đang ngủ," một người đàn ông lên tiếng.

"Cô ấy có thể đi đâu được chứ?"

Đám đông bắt đầu huyện náo, cho tới khi một giọng nói cắt ngang làm không khí dịu lại:

"Tôi nghĩ là ở đó..." một người thanh niên tay cầm chiếc cung tiến đến gần từ con đường bên cạnh.

"Anh nói sao Paul? Ở đâu?" Johan hỏi.

"Trong rừng... Không, đúng hơn là... bên sâu trong khu rừng, chỗ tòa lâu đài."

Cả đám đông lại nhốn nháo, nhiều người chen nhau hỏi Paul về việc tại sao anh biết cô ấy ở đó và tại sao lại nhắc đến tòa lâu đài? Paul giải thích:

"Hôm trước khi đi săn, vì quá mải mê đuổi theo con hươu nên tôi đã tiến sâu hơn chút ít vào bên trong khu rừng. Núp mình đẳng sau tảng đá lớn, thứ mà tôi nhìn thấy không phải là con mồi đang theo dõi, mà chính là... Elsebeth."

"Tại sao? Elsebeth không có lý do gì để vào đó cả!" Lena nói với mọi người. "Gần như ngày nào cô ấy cũng ở trong nhà may vá, trừ khi đi thăm một vài người bạn vào buổi tối thôi. Làm sao mà... trong cái thứ mục cổ ấy ư?"

"Cậu có chắc không, Paul?" Sherir tiến đến nhìn chằm vào Paul. 

"Chắc chắn, nhưng hãy để tôi kể câu chuyện này đã, và tôi nghĩ... chúng ta nên hành động ngay. Tại sao ư? Đúng là tôi đã nhìn thấy Elsebeth, nhưng cũng như Lena nói, cô ấy không tự đến đó, mà có kẻ đã mang cô ấy đến chỗ lâu đài." 

Đám đông sợ hãi rùng mình trong phút chốc, Paul nói tiếp với vẻ căng thẳng: 

"Tôi không nhìn thấy rõ cái bóng đen đó, nhưng hắn đã khiến Elsebeth bất tỉnh và mang cô ấy vào tòa lâu đài. Tôi thề chuyện này là có thật ! Hãy tin tôi!"

Bây giờ thì những câu chuyện cổ quái, những huyền thoại đáng sợ về tòa lâu đài tự nhiên lại trỗi dậy trong tâm trí gần mười hai người đứng ở đó, gây cho họ một nỗi sợ nơm nớp khó tả. Một số người đã đồng ý, một số người không đồng ý và tự động giải tán. Những người còn lại thì quyết định trang bị cho mình một vài vũ khi tự vệ cần thiết để chuẩn bị cho chuyến đột nhập làm rõ sự thật, vạch trần hung thủ đã bắt cóc cô gái thợ may của làng - Elsebeth. 

Paul dẫn đường cho họ tiến vào bên trong khu rừng già... Mất khoảng 20 phút để họ có thể tới chỗ u ám ấy. Thật ra họ có thể đi nhanh hơn nếu không quá mải mê suy tưởng đến những điều ám ảnh dễ liên tưởng trong bất kỳ kiến trúc cổ nào.

Và còn gì sốc hơn bằng việc phát hiện ra một bí mật khủng khiếp được che đậy hàng trăm năm qua, nhất là khi nó đang ở gần mình và hầu như không đụng chạm gì đến đời sống. Giống như một chiếc rương chứa quái vật được đặt dưới gầm giường suốt một thời gian dài, để rồi một ngày thứ nằm trong đó lụp cụp muốn thoát ra.

Có ai ngờ đâu bên cạnh một ngôi làng yên bình là một nơi ma quái chứa đựng những tạo vật từ địa ngục. Họ có biết đâu, họ có bao giờ nghĩ đến hay nhắc về nó như là một sự thật đâu. Ấy thế mà nó lại đang hiện diện sừng sững trước mắt họ đây...

Trên căn phòng cao nhất gần đỉnh tháp tòa lâu đài, sáu người đứng đó trong run rẩy, hai người đã quá sợ hãi đến nỗi buông rơi vũ khí xuống nền đá bẩn thỉu. Căn phòng lạnh lẽo và ảm đạm, tỏa mùi ẩm mốc, những mạng nhện bám trên góc tường và trên các mặt bàn nâng đỡ nhiều lọ thuốc với kích cỡ khác nhau. Cứ như thể đây là nơi tiến hành những thí nghiệm đen tối nào đó.

Quả thật, nơi này ẩn chứa một âm mưu bí ẩn. Còn kẻ chủ mưu đang đứng nấp mình sau tấm cửa sổ dài hé nửa, chỉ đủ cho chút ánh sáng mờ rọi vào phòng. Khó có thể thấy rõ khuôn mặt của hắn nhưng hẳn nó rất quái quỷ, ác độc như cái công việc hắn đang thực hiện. Bên cạnh tên ác quỷ sống nơi tăm tối này là thi thể của cô gái tên Elsebeth bị treo hai tay đính vào sát vách tường, máu từ trên người cô chảy từng dòng xuống một máng hứng bên dưới có hình dáng như chiếc hồ nhỏ. Treo bên cạnh xác cô gái đáng thương kia, còn có nhiều xác chết của những con sói như đã bị thối rữa với thịt lộ ra quanh vài vết chém ngẫu nhiên.

Nhóm người dân lấy lại tinh thần sau cảnh tượng gây sốc, họ tiến đến gần tên ác quỷ mang áo choàng kia, tim đập mạnh dần và lá phổi như muốn nhảy ra lồng ngực. Doros đột ngột vung vũ khí lên, hét to và lao nhanh tới. Một tiếng cười the thé đầy nham hiểm, bộ mặt của hắn thoáng lộ ra trước khi hắn mở cửa sổ và nhảy nhào xuống phía dưới. Tất cả mọi người chạy đến bật tung cánh cửa sổ còn lại, nhìn xuống vực thẳm hàng trăm mét nơi khu rừng hoang dại, với những đỉnh cây nhọn hoắc đầy vẻ chết chóc. Còn cái bóng người vừa lao xuống kia thì đã biến mất, giờ chỉ còn lại cơn gió nhẹ thổi qua các khe hở của tòa lâu đài, nghe như tiếng cười báo hiệu tên sát thủ vẫn còn lẩn khuất quanh đây và sẽ còn quay lại...



Tang lễ của người mẹ trẻ được cử hành ngay trong chiều hôm đó, Elsebeth đã bỏ lại đứa con gái nhỏ Daisy đang đau ốm. Bà Pearl dặn mọi người không được nói với Daisy về cái chết của mẹ nó, mà chỉ được nói rằng Elsebeth đã đi xa làm ăn cùng với Theoro, người chồng trong đoàn buôn vào tuần trước. Sự việc này quá đau buồn với toàn thể dân làng, huống gì với một đứa nhỏ mười tuổi còn thơ ngây...

Từ căn nhà lớn như một biệt thự với kiến trúc cầu kỳ, Sherir mang bộ mặt u sầu chầm chậm bước ra gặp gỡ vài người đứng chờ đằng trước. Ông thông báo với mọi người rằng đề xuất của ông đã không được hội đồng quản trị kiểm duyệt. Giá như phải một năm trước, khi Sherir chưa di cư đến ngôi làng kia, khi mà ông vẫn còn là một thị trưởng đáng kính tại ngôi làng này, thì mọi quyết định có lẽ đã nằm trong tầm tay của ông rồi. Nhưng ngày hôm nay, ý kiến của Sherir về việc xây hàng rào và tăng cường phòng vệ cho ngôi làng đã bị bác bỏ, bởi những người vừa nghe xong câu chuyện về tòa lâu đài đều cho rằng nó thật hoang đường. Đặc biệt cái tên trưởng làng mới Lingston không những không tin mà còn nhạo báng ông và đám người theo cùng. Lingston tuyên bố trách nhiệm của ông là bảo vệ người dân và ông tự biết mình phải làm gì.

Vì quyết định ấy mà câu chuyện cứ kéo dài một tuần nữa, gây ra nhiều bất an hơn cho người dân. Lời đồn lan rộng, nhiều giả thuyết được đề ra càng thêm xôn xao, kích thích nhiều tưởng tượng và lo lắng. Lại thêm một sự kiện khủng khiếp khác xảy ra khiến cho nỗi bất an đó gia tăng bội phần, đó là khi một tang lễ thứ hai được tổ chức vì cái chết của một bà già khốn khổ. Người ta phát hiện bà Rose tự vẫn bằng một sợi dây thòng lọng treo trên nóc của căn nhà, còn ông chồng Grey thì nhất quyết không tin và cho rằng vợ mình đã bị sát hại.

Nỗi bất an lên đến đỉnh điểm rồi biến thành sự sợ hãi điên loạn, khi chính mắt người dân đã phát hiện ra "nó", để rồi họ không còn nghi ngờ gì nữa...

Vào giữa đêm của buổi tối đầu tuần, tiếng chuông báo động reo lên inh ỏi lôi kéo nhiều người chạy đến căn nhà nọ tại ngã tư lớn. Một người đứng đối diện vài chục mét với đôi chân bất động mà nhìn sững sờ, một người khác đang mấp máy môi nói không nên lời, một người khác nữa đang chắp tay cầu nguyện, còn người cao to thì cầm trên tay chiếc lưỡi liềm sắc bén. Tất cả đều đang nhìn về hướng căn nhà đó...

Ánh đèn vàng tỏa sáng bên trong hất lên nền cửa sổ lớn một chiếc bóng, hình dáng lồ lộ của một cơ thể với nhiều lông chỉa nhọn tua tủa cao gần đụng trần nhà - khó mà có thể nghĩ đó là một con người. Nó di chuyển chầm chậm, rồi thay đổi nhanh khi biết bị phát hiện. 

Tiếng "xoảng" của nhiều đồ đạc vỡ vang lên, đi kèm với tiếng la hét của một người đàn ông bên trong. Trước khi mọi người xung quanh căn nhà có thể làm được gì thì chiếc bóng của sinh vật ấy đã vụt biến mất trong bóng tối khi ngọn đèn dầu vừa tắt ngúm.

Philbert đã chết, dã man hơn mức người ta có thể tưởng tượng...

Sáng hôm sau sự phẫn nộ lên đến đỉnh điểm, nhiều người kéo đến giữa làng để nghe thông báo từ thị trưởng và đòi hỏi phải có một giải pháp thỏa đáng. Đứng trên chiếc bục ở giữa trung tâm của gần bốn mươi người, Lingston cùng với hai người khác trong hội đồng quản trị ra hiệu trấn an mọi người. Ông nói: "Tôi biết tối hôm qua đã có một biến cố kinh khủng gây nên cái chết của Philbert. Cũng như các vị ở đây, tôi rất đau buồn đến nỗi không thể ngủ được khi trông thấy loài sinh vật ấy ra tay thâm độc thế nào. Tôi đã thức để suy nghĩ, để tự trách mình!" 

"Chúng ta phải làm gì đó!" tiếng của một người vang lên rõ to. "Đúng vậy," Lingston ôn tồn đáp. "Tôi đã nghĩ, nghĩ rất nhiều, và tôi như được khai sáng khi đã tìm ra một giải pháp cho tình huống!"

"Không, không..." Sherir lắc đầu thủ thỉ với chính mình. "Không, đừng... đừng để nó xảy ra lần nữa!" 

Lingston đưa mắt nhìn về hướng con đường bên trái ông, mọi người nhìn theo nơi phát ra tiếng lộc cộc bánh xe lăn. Những người hướng đó tản ra tạo thành lối đi để cho hai người đằng sau đẩy chiếc xe đến gần. Đó là một thiết kế với sáu chiếc bánh ở dưới nâng đỡ một chiếc bục lớn ở trên. Khi chạm đến nơi thị trưởng đang đứng, hai chiếc bục đã khép lại một cách vừa khít. Trên chiếc bục thứ hai, một cọc gỗ ba mét vươn lên bầu trời, nó gãy khúc 90 độ tạo thành một chiếc cần câu. Ở cuối chiếc cần hướng ra đó, sợi dây thừng to đùng đang thòng lọng đưa xuống và lắc đều...

Sherir định bước ra can thiệp nhưng bị lấn át bởi tiếng Lingston: 

"Đây chính là giải pháp! Chúng ta sẽ tìm ra được sinh vật gớm ghiếc ấy và tiến hành treo cổ nó!"

"KHÔNGGG!!!" 

Rõ ràng Sherir đã la rất lớn, nhưng ông thậm chí không chắc mình đã nói ra từ ấy hay chưa bởi vì tiếng hô hào của dân làng lúc này lấn át tất cả. Những tiếng như "giết nó!", "treo cổ nó!", "xử tử!" lần lượt chồng chất lên nhau. Trong một thoáng Sherir có cảm tưởng như họ đã bị mất trí, khung cảnh lúc này không khác gì ký ức của ông một năm về trước. 

Một bàn tay đặt nhẹ trên vai Sherir, tiếng nói thì thầm của một cô gái làm ông quay lại: 

"Đây là một âm mưu, ông Sherir ạ", cô gái che kín khuôn mặt bằng tấm vải mờ màu tím đó là vị tiên tri Katty. "Chúng đã được sắp đặt từ trước." 

Người đàn ông bên cạnh Lingston, một trong những thành viên hội đồng tên là Sildar, hắn cầm một cuộn giấy rồi mở ra nhìn. Hắn nói xuống giọng to rõ:

"Chúng ta có những điều luật cụ thể đã được sáng lập cho tình huống này. Các vị đùng lo lắng, mọi thứ sẽ ổn thỏa!" 

Sildar nghỉ một hồi để nhìn mọi người, rồi nói tiếp: 

"Đương nhiên "điều luật" này đã được áp dụng thành công ở ngôi làng trước đó, nhưng để tốt hơn chúng ta sẽ có một số thay đổi, hội đồng đã thông qua..." 

"Còn bây giờ", Lingston nói dõng dạc. "Hãy đưa ra bằng chứng của mình và chúng ta sẽ bắt đầu đi tìm kẻ thù đang ngụy trang khôn khéo. Chúng ta sẽ tìm, bắt sống Ma Sói và tiêu diệt nó ngay đây, khi chiếc kim đồng hồ chỉ đúng 12 giờ trưa!"

Người thanh niên bước đến cạnh Sherir và Katty trong khi mắt vẫn nhìn lên tên Lingston đang thuyết giảng. Không ai khác, đó chính là Levi, người đang tỏ một thái độ lo lắng hiếm thấy: 

"Đã quá muộn rồi sao? Chúng ta có thể làm gì đây?..." 

Cả ba người nhìn nhau và ngầm hiểu ý, họ đang nhớ đến "người đó". 

"Nào mọi người! Tất cả hãy tiến hành... 

BỎ PHIẾU!"

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top