bệnh thủy đậu
Virusherpes
Herpesvirus
Phân loại virus
Nhóm:
Nhóm I (dsDNA)
Bộ (ordo):
Herpesvirales
Họ (familia):
Herpesviridae
Virus herpes:
Là họ virus lớn có cấu trúc DNA gây bệnh ở động vật, bao gồm cả con người.Tên herpes có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: herpein có nghĩa là "leo", miêu tả khả năng gây nhiễm trùng tiềm ẩn hoặc định kỳ đặc trưng của nhóm virus này.
Cấu trúc virus
Các virus herpes có một cấu trúc chung, được cấu tạo bởi sợi đôi tương đối lớn, bộ genDNA mã hóa tuyến tính 100-200 gen được bọc trong một lớp vỏ protein 20 mặt gọi là capsid, lớp vỏ này có chứa cả protein, mRNA của virus và màng lipid kép.
Vòng đời
Tất cả virus herpes là những hạt nhân sao chép, tức là các DNA của virus được sao chép đến các RNA trong nhân của tế bào nhiễm virus. Trong thời gian có triệu chứng nhiễm trùng, các tế bào bị nhiễm virus sao chép gen của virus theo một chu kỳ, trong thời trang này, virus có thể tồn tại trong tế bào vật chủ vô thời hạn.
Các bệnh do virus herpes gây ra ở người
Human Herpesvirus (HHV) classification
Loại
Đồng dạng
Dòng phụ
Tế bào mục tiêu chính
Sinh lý bệnh
Cơ quan bị ảnh hưởng
Phương thức lây nhiễm
HHV-1
Herpes simplex-1 (HSV-1)
α (Alpha)
Biểu mô và màng nhầy
Herpes miệng và/hoặc herpes sinh dục, hoặc đơn giản là herpes simplex
Neuron
Tiếp xúc gần
HHV-2
Herpes simplex-2 (HSV-2)
α (Alpha)
Biểu mô và màng nhầy
Herpes miệng và/hoặc herpes sinh dục, hoặc đơn giản là herpes simplex
Neuron
Tiếp xúc gần (Bệnh lây truyền qua đường tình dục)
HHV-3
Virus Varicella Zoster (VZV)
Α
Biểu mô và màng nhầy
Bệnh thủy đậu và giời leo(Zona)
Neuron
Hô hấp và tiếp xúc gần
HHV-4
Virus Epstein-Barr (EBV), lymphocryptovirus
γ (Gamma)
Tế bào B và tế bào biểu mô
Nhiễm trùng bạch cầu đơn nhân, ung thư hạch Burkitt, ung thư hạch CNS ở các bệnh nhân AIDS, ung thư vòm họng, bạch sản niêm mạc miệng dạng tóc (thường liên quan đến HIV)
Tế bào bạch cầu B
Tiếp xúc gần, truyền máu, ghép mô, và bẩm sinh
HHV-5
Cytomegalovirus (CMV)
β (Beta)
tế bào bạch huyết, và các tế bào biểu mô
Nhiễm trùng bạch cầu đơn - giống như triệu chứng các du khách bị sốt khi trở về từ vùng nhiệt đới[4], viêm võng mạc...
Monocyte, lympho bào
Nước bọt
HHV-6
Roseolovirus, Herpes lymphotropic virus
β
Tế bào T
Đào ban ấu nhi (roseola infantum)
Tế bào T
Hô hấp và tiếp xúc gần?
HHV-7
Roseolovirus
β
Tế bào T
Đào ban ấu nhi (roseola infantum)
Tế bào T
HHV-8
Kaposi's sarcoma-associated herpesvirus(KSHV)
γ
Lympho bào và các tế bào khác
Ung thư mô liên kết Kaposi (Saccôm Kaposi), ung thư hạch tràn dịch chính, bệnh Castleman
Tế bào B
Tiếp xúc gần (quan hệ tình dục), nước bọt?
Varicella zoster virus – Thủ phạm gây nên bệnh thuỷ đậu
· Varicella zoster là 1 loài virus phổ biến gây bệnh cho người và các động vật có xương sống. Varicella zoster là 1 trong 8 loài thuộc họ virus Herpes và là thủ phạm chính gây nên bệnh thuỷ đậu và bệnh zona ở người.
· Mặc dù bệnh thuỷ đậu không đa phần không nghiệm trọng và có thể chữa khỏi dễ dàng nhưng nếu không được chữa trị kịp thời và đúng cách thì bệnh sẽ để lại những biến chứng rất nguy hiểm đặc biệt là cho trẻ em như: viêm não, viêm phổi v.v
· Dù đã chữa trị khỏi thuỷ đậu nhưng bản thân vật chủ vẫn ko thoát khỏi Varicella zoster vì virus này cũng như những người họ hàng khác của nó trong họ Herpes có 1 đặc tính đó là không bao giờ chịu dọn ra khỏi cơ thể vật chủ. Khi miễn dịch của người đẩy lui thuỷ đậu Varicella zoster tạm thời ngủ đông trong hệ thần kinh ( tuỷ sống ) đợi tới khi miễn dịch của vật chủ yếu đi sẽ lại nổi lên tấn công ra da và gây nên bệnh zona ở người.
Bệnh thuỷ đậu
1. Bệnh thuỷ đậu là gì?
Bệnh thủy đậu do một loại siêu vi mang tên Varicella Zoster Virus (VZV) gây nên, thủy đậu là một bệnh rất dễ lây truyền: Khi 1 người mang siêu vi thủy đậu nói, hắt hơi nhảy mũi) hoặc ho... thì các siêu vi đó theo nước bọt, nước mũi bắn ra ngoài tan thành bụi. Người khác hít phải bụi đó sẽ lây bệnh ngay. Bệnh xảy ra phần nhiều ở trẻ em, nhưng cũng không ít người lớn mắc bệnh này. Thông thường, từ lúc nhiễm phải siêu vi, đến lúc phát ra bệnh - được gọi là thời gian nung bệnh hoặc ủ bệnh - là khoảng 2-3 tuần.2
2. Triệu chứng:
Về triệu chứng, thoạt mở đầu người bệnh có sốt, thường là sốt nhẹ, trong một vài ngày. Sau đó, sẽ thấy nổi lên trên da những vết dát đỏ; chỉ sau đó 1-2 ngày, xuất hiện các mụn bóng nước giữa các nến đỏ đó. Những mụn bóng nước này thường mọc ở thân mình, sau đó lan lên mặt và tay chân. Mụn bóng nước lúc đầu chứa một chất dịch trong, nhưng chỉ sau khoảng 1 ngày dịch đó trở nên đục như mủ. Sau 2-3 ngày nữa, các mụn sẽ đóng vẩy. Các vẩy đó sẽ rụng dần và nếu không có biến chứng gì thì sẽ không để lại sẹo.
Đặc điểm của các mụn nước đó là chúng mọc làm nhiều đợt khác nhau. Do đó, cùng trên 1 vùng da, có thể thấy nhiều dạng khác nhau: hoặc dát đỏ, hoặc mụn nước trong, mụn nước đục, mụn đóng vẩy... trong cùng 1 thời gian. Nếu không có biến chứng, bệnh có thể khỏi sau 1-2 tuần. Cũng do thời gian tiến triển của bệnh tương đối ngắn, nên một số người đã cho thủy đậu là một bệnh nhẹ, hoàn toàn không nguy hiểm.
3. Biến chứng:
Sự thật thủy đậu không phải là bệnh nhẹ. Vì thủy đậu nói chung, tuy không có vẻ nguy kịch như một số bệnh nặng khác, nhưng cũng đã không ít lần gây biến chứng nguy hiểm cho người bệnh, nhất là cho các trẻ nhỏ. Sau đây là một số biến chứng mà chúng tôi ghi nhận được trên các trẻ bị thủy đậu đã tới khám bệnh và điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng II:
Một số trẻ đã bị xuất huyết ở các mụn thủy đậu, bệnh trở thành một thể "thủy đậu xuất huyết" rất trầm trọng.
Một số trẻ khác bị bội nhiễm thêm các vi khuẩn khác. Các vi khuẩn này vào các mụn thủy đậu, làm sưng to lên, nhiều khi lại gây ngứa. Trẻ không chịu được, gãi toác da, và từ đó để lại những vết sẹo rất xấu. Điều này đã làm khổ tâm nhiều em gái.
Trong một số trường hợp, các vi khuẩn nói trên, từ các mụn thủy đậu lại xâm nhập ồ ạt vào máu, gây ra nhiều bệnh ở cơ quan khác, như viêm thận, viêm gan v.v... Riêng chứng "nhiễm khuẩn huyết" mà chúng gây nên cũng đã là nguy hiểm chết người.
Chứng viêm phổi do thủy đậu, ít khi xảy ra hơn, nhưng rất nặng và rất khó trị.
Chứng viêm não do thủy đậu cũng vẫn xảy ra, không hiếm: sau thủy đậu trẻ bỗng trở nên vật vã, quờ quạng chân tay, nhiều khi kèm theo co giật (làm kinh), hôn mê. Những trường hợp này có thể gây chết người nhanh chóng, và một số trẻ tuy qua khỏi được vẫn mang di chứng thần kinh lâu dài: bị điếc, bị khờ, bị động kinh v.v...
Cũng xin nói thêm là có một thể thủy đậu đặc biệt, gọi là thủy đậu bẩm sinh: đó là những trẻ khi mới sinh ra đã có một số tổn thương ngoài da giống như thủy đậu, nhưng tai hại hơn nữa lại có kèm theo một số dị tật: teo cơ ở chân tay, bệnh ở mắt (bệnh "đục thủy tinh thể", có thể gây mù), khờ v.v... Có hiện tượng đó, là do bà mẹ đã bị thủy đậu trong lúc mang thai, và bệnh đã xảy ra trong 6 tháng đầu của thai kỳ.
Những biến chứng, những thể bệnh kể trên của bệnh thủy đậu đã gây tử vong cho không ít trẻ em.
Và như vậy, bệnh thủy đậu - tuy vẫn được nhiều người coi là 1 bệnh nhẹ, "lành tính" - thật ra vẫn là 1 bệnh hoàn toàn không nên coi thường, nhất là ở trẻ em.
Vậy thì, khi trong gia đình không may có một trẻ hoặc một người lớn bị bệnh thủy đậu, cần làm gì?
4. Cách xử lý:
Trước hết, bạn hãy cho người bệnh đi khám bệnh ngay. BS sẽ khám và căn cứ vào tình trạng bệnh, sẽ cho vào viện điều trị nội trú hoặc cấp đơn về điều trị tại nhà, có theo dõi, hẹn ngày tái khám. Chớ bao giờ tự ý dùng thuốc hoặc nghe lời mách bảo của một số người không hiểu biết về y khoa mà dùng thuốc sai lầm.
Chúng tôi đã không ít lần được chứng kiến những trẻ bị thủy đậu bội nhiễm rất nặng, do đã đắp các loại lá, hoặc rắc các thuốc bột bán trôi nổi tại các góc chợ, vỉa hè. Lại có trẻ được gia đình cho uống thuốc "đề xa" (1 loại corticoid) thật là nguy hiểm, thuốc đó sẽ làm bệnh nặng lên rất nhanh!
Nếu người bệnh được bác sĩ cho điều trị ngoại trú tại nhà, hãy cho nằm nghỉ trong 1 phòng thoáng mát, sạch sẽ, ăn các chất dễ tiêu.
Có thể dùng một số thuốc chống ngứa và an thần (như Sirô phenergan), cố tránh gãi. Cắt ngắn móng tay. Mặc quần áo dài để che kín các nốt thủy đậu, tránh để ruồi muỗi đậu vào.
Dùng thêm kháng sinh, nếu có chỉ định của BS.
5. Cách đề phòng:
Còn về phòng bệnh? Bạn nên cho con bạn tránh xa người bệnh đang bị thủy đậu, để tránh sự lây truyền. Tuy nhiên, điều này cũng không tuyệt đối tránh được bệnh, vì người bị nhiễm bệnh, ngay từ trước khi có các triệu chứng của bệnh khoảng 24 giờ, đã có thể truyền bệnh cho người khác rồi.
Do đó, điều tốt nhất là hãy cho trẻ đi chích ngừa. Thuốc chích ngừa thủy đậu (Varilrix) đã được nhập vào nước ta. Tất cả trẻ em từ 9 tháng tuổi trở lên và người lớn, đều có thể chích ngừa với loại thuốc này. Ở các tỉnh, có thể tới chích thuốc tại các trung tâm y tế dự phòng.
Tại TPHCM, có thể tới chích thuốc tại Viện Pasteur, hoặc Trung tâm y tế dự phòng, hoặc đội vệ sinh phòng dịch ở một số quận huyện. Bạn sẽ tốn một số tiền, nhưng nếu để căn bệnh xảy ra, chắc chắn bạn sẽ tốn kém hơn nhiều, và còn có thể gặp nhiều tai hại khác!
Nhóm 2:
· Trần Thị Yến Xuân 1053010981
· Nguyễn Thanh Xuân 1053012980
· Nguyễn Dương Vũ 1053012958
· Nguyễn Thị Thiên Kiều 1053010345
· Nguyễn Thị Hải Ngọc 1053010498
Virusherpes
Herpesvirus
Phân loại virus
Nhóm:
Nhóm I (dsDNA)
Bộ (ordo):
Herpesvirales
Họ (familia):
Herpesviridae
Virus herpes:
Là họ virus lớn có cấu trúc DNA gây bệnh ở động vật, bao gồm cả con người.Tên herpes có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: herpein có nghĩa là "leo", miêu tả khả năng gây nhiễm trùng tiềm ẩn hoặc định kỳ đặc trưng của nhóm virus này.
Cấu trúc virus
Các virus herpes có một cấu trúc chung, được cấu tạo bởi sợi đôi tương đối lớn, bộ genDNA mã hóa tuyến tính 100-200 gen được bọc trong một lớp vỏ protein 20 mặt gọi là capsid, lớp vỏ này có chứa cả protein, mRNA của virus và màng lipid kép.
Vòng đời
Tất cả virus herpes là những hạt nhân sao chép, tức là các DNA của virus được sao chép đến các RNA trong nhân của tế bào nhiễm virus. Trong thời gian có triệu chứng nhiễm trùng, các tế bào bị nhiễm virus sao chép gen của virus theo một chu kỳ, trong thời trang này, virus có thể tồn tại trong tế bào vật chủ vô thời hạn.
Các bệnh do virus herpes gây ra ở người
Human Herpesvirus (HHV) classification
Loại
Đồng dạng
Dòng phụ
Tế bào mục tiêu chính
Sinh lý bệnh
Cơ quan bị ảnh hưởng
Phương thức lây nhiễm
HHV-1
Herpes simplex-1 (HSV-1)
α (Alpha)
Biểu mô và màng nhầy
Herpes miệng và/hoặc herpes sinh dục, hoặc đơn giản là herpes simplex
Neuron
Tiếp xúc gần
HHV-2
Herpes simplex-2 (HSV-2)
α (Alpha)
Biểu mô và màng nhầy
Herpes miệng và/hoặc herpes sinh dục, hoặc đơn giản là herpes simplex
Neuron
Tiếp xúc gần (Bệnh lây truyền qua đường tình dục)
HHV-3
Virus Varicella Zoster (VZV)
Α
Biểu mô và màng nhầy
Bệnh thủy đậu và giời leo(Zona)
Neuron
Hô hấp và tiếp xúc gần
HHV-4
Virus Epstein-Barr (EBV), lymphocryptovirus
γ (Gamma)
Tế bào B và tế bào biểu mô
Nhiễm trùng bạch cầu đơn nhân, ung thư hạch Burkitt, ung thư hạch CNS ở các bệnh nhân AIDS, ung thư vòm họng, bạch sản niêm mạc miệng dạng tóc (thường liên quan đến HIV)
Tế bào bạch cầu B
Tiếp xúc gần, truyền máu, ghép mô, và bẩm sinh
HHV-5
Cytomegalovirus (CMV)
β (Beta)
tế bào bạch huyết, và các tế bào biểu mô
Nhiễm trùng bạch cầu đơn - giống như triệu chứng các du khách bị sốt khi trở về từ vùng nhiệt đới[4], viêm võng mạc...
Monocyte, lympho bào
Nước bọt
HHV-6
Roseolovirus, Herpes lymphotropic virus
β
Tế bào T
Đào ban ấu nhi (roseola infantum)
Tế bào T
Hô hấp và tiếp xúc gần?
HHV-7
Roseolovirus
β
Tế bào T
Đào ban ấu nhi (roseola infantum)
Tế bào T
HHV-8
Kaposi's sarcoma-associated herpesvirus(KSHV)
γ
Lympho bào và các tế bào khác
Ung thư mô liên kết Kaposi (Saccôm Kaposi), ung thư hạch tràn dịch chính, bệnh Castleman
Tế bào B
Tiếp xúc gần (quan hệ tình dục), nước bọt?
Varicella zoster virus – Thủ phạm gây nên bệnh thuỷ đậu
· Varicella zoster là 1 loài virus phổ biến gây bệnh cho người và các động vật có xương sống. Varicella zoster là 1 trong 8 loài thuộc họ virus Herpes và là thủ phạm chính gây nên bệnh thuỷ đậu và bệnh zona ở người.
· Mặc dù bệnh thuỷ đậu không đa phần không nghiệm trọng và có thể chữa khỏi dễ dàng nhưng nếu không được chữa trị kịp thời và đúng cách thì bệnh sẽ để lại những biến chứng rất nguy hiểm đặc biệt là cho trẻ em như: viêm não, viêm phổi v.v
· Dù đã chữa trị khỏi thuỷ đậu nhưng bản thân vật chủ vẫn ko thoát khỏi Varicella zoster vì virus này cũng như những người họ hàng khác của nó trong họ Herpes có 1 đặc tính đó là không bao giờ chịu dọn ra khỏi cơ thể vật chủ. Khi miễn dịch của người đẩy lui thuỷ đậu Varicella zoster tạm thời ngủ đông trong hệ thần kinh ( tuỷ sống ) đợi tới khi miễn dịch của vật chủ yếu đi sẽ lại nổi lên tấn công ra da và gây nên bệnh zona ở người.
Bệnh thuỷ đậu
1. Bệnh thuỷ đậu là gì?
Bệnh thủy đậu do một loại siêu vi mang tên Varicella Zoster Virus (VZV) gây nên, thủy đậu là một bệnh rất dễ lây truyền: Khi 1 người mang siêu vi thủy đậu nói, hắt hơi nhảy mũi) hoặc ho... thì các siêu vi đó theo nước bọt, nước mũi bắn ra ngoài tan thành bụi. Người khác hít phải bụi đó sẽ lây bệnh ngay. Bệnh xảy ra phần nhiều ở trẻ em, nhưng cũng không ít người lớn mắc bệnh này. Thông thường, từ lúc nhiễm phải siêu vi, đến lúc phát ra bệnh - được gọi là thời gian nung bệnh hoặc ủ bệnh - là khoảng 2-3 tuần.2
2. Triệu chứng:
Về triệu chứng, thoạt mở đầu người bệnh có sốt, thường là sốt nhẹ, trong một vài ngày. Sau đó, sẽ thấy nổi lên trên da những vết dát đỏ; chỉ sau đó 1-2 ngày, xuất hiện các mụn bóng nước giữa các nến đỏ đó. Những mụn bóng nước này thường mọc ở thân mình, sau đó lan lên mặt và tay chân. Mụn bóng nước lúc đầu chứa một chất dịch trong, nhưng chỉ sau khoảng 1 ngày dịch đó trở nên đục như mủ. Sau 2-3 ngày nữa, các mụn sẽ đóng vẩy. Các vẩy đó sẽ rụng dần và nếu không có biến chứng gì thì sẽ không để lại sẹo.
Đặc điểm của các mụn nước đó là chúng mọc làm nhiều đợt khác nhau. Do đó, cùng trên 1 vùng da, có thể thấy nhiều dạng khác nhau: hoặc dát đỏ, hoặc mụn nước trong, mụn nước đục, mụn đóng vẩy... trong cùng 1 thời gian. Nếu không có biến chứng, bệnh có thể khỏi sau 1-2 tuần. Cũng do thời gian tiến triển của bệnh tương đối ngắn, nên một số người đã cho thủy đậu là một bệnh nhẹ, hoàn toàn không nguy hiểm.
3. Biến chứng:
Sự thật thủy đậu không phải là bệnh nhẹ. Vì thủy đậu nói chung, tuy không có vẻ nguy kịch như một số bệnh nặng khác, nhưng cũng đã không ít lần gây biến chứng nguy hiểm cho người bệnh, nhất là cho các trẻ nhỏ. Sau đây là một số biến chứng mà chúng tôi ghi nhận được trên các trẻ bị thủy đậu đã tới khám bệnh và điều trị tại Bệnh viện Nhi đồng II:
Một số trẻ đã bị xuất huyết ở các mụn thủy đậu, bệnh trở thành một thể "thủy đậu xuất huyết" rất trầm trọng.
Một số trẻ khác bị bội nhiễm thêm các vi khuẩn khác. Các vi khuẩn này vào các mụn thủy đậu, làm sưng to lên, nhiều khi lại gây ngứa. Trẻ không chịu được, gãi toác da, và từ đó để lại những vết sẹo rất xấu. Điều này đã làm khổ tâm nhiều em gái.
Trong một số trường hợp, các vi khuẩn nói trên, từ các mụn thủy đậu lại xâm nhập ồ ạt vào máu, gây ra nhiều bệnh ở cơ quan khác, như viêm thận, viêm gan v.v... Riêng chứng "nhiễm khuẩn huyết" mà chúng gây nên cũng đã là nguy hiểm chết người.
Chứng viêm phổi do thủy đậu, ít khi xảy ra hơn, nhưng rất nặng và rất khó trị.
Chứng viêm não do thủy đậu cũng vẫn xảy ra, không hiếm: sau thủy đậu trẻ bỗng trở nên vật vã, quờ quạng chân tay, nhiều khi kèm theo co giật (làm kinh), hôn mê. Những trường hợp này có thể gây chết người nhanh chóng, và một số trẻ tuy qua khỏi được vẫn mang di chứng thần kinh lâu dài: bị điếc, bị khờ, bị động kinh v.v...
Cũng xin nói thêm là có một thể thủy đậu đặc biệt, gọi là thủy đậu bẩm sinh: đó là những trẻ khi mới sinh ra đã có một số tổn thương ngoài da giống như thủy đậu, nhưng tai hại hơn nữa lại có kèm theo một số dị tật: teo cơ ở chân tay, bệnh ở mắt (bệnh "đục thủy tinh thể", có thể gây mù), khờ v.v... Có hiện tượng đó, là do bà mẹ đã bị thủy đậu trong lúc mang thai, và bệnh đã xảy ra trong 6 tháng đầu của thai kỳ.
Những biến chứng, những thể bệnh kể trên của bệnh thủy đậu đã gây tử vong cho không ít trẻ em.
Và như vậy, bệnh thủy đậu - tuy vẫn được nhiều người coi là 1 bệnh nhẹ, "lành tính" - thật ra vẫn là 1 bệnh hoàn toàn không nên coi thường, nhất là ở trẻ em.
Vậy thì, khi trong gia đình không may có một trẻ hoặc một người lớn bị bệnh thủy đậu, cần làm gì?
4. Cách xử lý:
Trước hết, bạn hãy cho người bệnh đi khám bệnh ngay. BS sẽ khám và căn cứ vào tình trạng bệnh, sẽ cho vào viện điều trị nội trú hoặc cấp đơn về điều trị tại nhà, có theo dõi, hẹn ngày tái khám. Chớ bao giờ tự ý dùng thuốc hoặc nghe lời mách bảo của một số người không hiểu biết về y khoa mà dùng thuốc sai lầm.
Chúng tôi đã không ít lần được chứng kiến những trẻ bị thủy đậu bội nhiễm rất nặng, do đã đắp các loại lá, hoặc rắc các thuốc bột bán trôi nổi tại các góc chợ, vỉa hè. Lại có trẻ được gia đình cho uống thuốc "đề xa" (1 loại corticoid) thật là nguy hiểm, thuốc đó sẽ làm bệnh nặng lên rất nhanh!
Nếu người bệnh được bác sĩ cho điều trị ngoại trú tại nhà, hãy cho nằm nghỉ trong 1 phòng thoáng mát, sạch sẽ, ăn các chất dễ tiêu.
Có thể dùng một số thuốc chống ngứa và an thần (như Sirô phenergan), cố tránh gãi. Cắt ngắn móng tay. Mặc quần áo dài để che kín các nốt thủy đậu, tránh để ruồi muỗi đậu vào.
Dùng thêm kháng sinh, nếu có chỉ định của BS.
5. Cách đề phòng:
Còn về phòng bệnh? Bạn nên cho con bạn tránh xa người bệnh đang bị thủy đậu, để tránh sự lây truyền. Tuy nhiên, điều này cũng không tuyệt đối tránh được bệnh, vì người bị nhiễm bệnh, ngay từ trước khi có các triệu chứng của bệnh khoảng 24 giờ, đã có thể truyền bệnh cho người khác rồi.
Do đó, điều tốt nhất là hãy cho trẻ đi chích ngừa. Thuốc chích ngừa thủy đậu (Varilrix) đã được nhập vào nước ta. Tất cả trẻ em từ 9 tháng tuổi trở lên và người lớn, đều có thể chích ngừa với loại thuốc này. Ở các tỉnh, có thể tới chích thuốc tại các trung tâm y tế dự phòng.
Tại TPHCM, có thể tới chích thuốc tại Viện Pasteur, hoặc Trung tâm y tế dự phòng, hoặc đội vệ sinh phòng dịch ở một số quận huyện. Bạn sẽ tốn một số tiền, nhưng nếu để căn bệnh xảy ra, chắc chắn bạn sẽ tốn kém hơn nhiều, và còn có thể gặp nhiều tai hại khác!
Nhóm 2:
· Trần Thị Yến Xuân 1053010981
· Nguyễn Thanh Xuân 1053012980
· Nguyễn Dương Vũ 1053012958
· Nguyễn Thị Thiên Kiều 1053010345
· Nguyễn Thị Hải Ngọc 1053010498
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top