benh nhoi mau co tim
BIẾN CHỨNG NHỒI MÁU CƠ TIM
Bệnh nhân NMCT thường chết chủ yếu là do các biến
chứng cấp và nếu qua khỏi giai đoạn cấp cũng thường để lại một
số biến chứng đôi khi rất nặng nếu không được điều trị một cách
thoả đáng. Các biến chứng của NMCT rất phong phú và có thể
chia làm các nhóm: biến chứng cơ học, biến chứng rối loạn
nhịp, biến chứng thiếu máu cơ tim, tắc mạch…
I. Biến chứng cơ học
Các biến chứng cơ học có thể đe doạ tính mạng bệnh nhân
là: thông liên thất, hở van hai lá cấp do đứt dây chằng, vỡ thành
tim tự do, phình thành tim...
A. Thông liên thất (TLT) do thủng vách liên thất
1. Triệu chứng lâm sàng:
a. TLT xảy ra ở khoảng 0,5 – 2% số bệnh nhân
NMCT cấp. Tỷ lệ gặp ngang nhau giữa các nhóm
NMCT phía trước và sau dưới. TLT thường xảy
ra ở những bệnh nhân bị NMCT diện rộng, tắc
một mạch mà tuần hoàn bàng hệ kém. TLT có thể
xảy ra sớm ngay sau 24 giờ của NMCT nhưng
thường xảy ra sau khoảng 3-7 ngày.
b. Bệnh nhân có biến chứng TLT thường có dấu
hiệu lâm sàng nặng nề hơn. Các bệnh cảnh lâm
sàng như đau ngực tăng, phù phổi cấp, tụt huyết
áp, sốc tim có thể xảy ra đột ngột trong qua trình
đang diễn biến bình thường của bệnh.
c. Khi nghe tim thấy một tiếng thổi tâm thu mới
xuất hiện vùng trước tim, tiếng thổi rõ nhất ở
phía thấp bên trái xương ức. Khi bệnh nhân có lỗ
thủng lớn ở vách liên thất và tình trạng suy tim
nặng thì có thể không nghe thấy tiếng thổi nữa.
d. Cần phân biệt với hở van hai lá hoặc hở van ba lá.
2. Giải phẫu bệnh:
Lỗ TLT là hậu quả của lỗ thủng vùng cơ tim bị
hoại tử do NMCT và xảy ra chỗ ranh giới giữa vùng
không hoại tử và vùng bị nhồi máu. Lỗ này thường ở
vùng gần mỏm tim đối với những bệnh nhân NMCT
vùng trước và vùng vách sau với NMCT phía sau.
3. Các xét nghiệm chẩn đoán:
a. Điện tâm đồ: có thể thấy bất thường về dẫn
truyền ở nút nhĩ thất hoặc đường dẫn truyền từ
nhĩ xuống thất.
b. Siêu âm tim: là thăm dò có giá trị trong chẩn
đoán bệnh đặc biệt là siêu âm màu. Đối với thủng
vùng gần mỏm, mặt cắt 4 buồng từ mỏm là mặt
cắt tốt nhất để quan sát. Đối với thủng vùng vách
sau, mặt cắt trục dọc có lái góc đôi chút hoặc mặt
cắt trục dọc dưới mũi ức cho phép đánh giá rõ
nhất. Trong một số trường hợp cần phải dùng đến
siêu âm qua đuờng thực quản để đánh giá rõ hơn
về bản chất thương tổn. Siêu âm tim có thể giúp
đánh giá được kích thước lỗ thông, mức độ lớn
của shunt. Siêu âm tim cũng có thể giúp đánh giá
chức năng thất trái và thất phải, từ đó góp phần
tiên lượng bệnh.
c. Thông tim phải: khi có chỉ định chụp ĐMV
thường nên thông tim phải để đánh giá được
luồng thông và lưu lượng shunt cũng như áp lực
động mạch phổi, cung lượng tim... giúp có thái
độ điều trị và tiên lượng bệnh tốt hơn.
4. Điều trị:
a. Thái độ: Tỷ lệ tử vong khi có biến chứng TLT
được điều trị nội khoa là khoảng 24% sau 24 giờ,
46% sau 1 tuần và 67-82% sau 2 tháng. Do vậy,
cần nhanh chóng xác định và có kế hoạch mổ
sớm để đóng lỗ thông ngay khi tình trạng bệnh
nhân không được ổn định.
b. Điều trị nội khoa: Điều trị nội khoa là biện pháp
cơ bản và là cầu nối cho điều trị ngoại khoa. Các
thuốc giãn mạch làm giảm lưu lượng shunt và
làm tăng cung lượng hệ thống do làm giảm sức
cản hệ thống; tuy nhiên, nếu làm giảm sức cản
động mạch phổi quá lại dẫn đến làm tăng lưu
lượng shunt. Thuốc thường dùng là Nitroprusside
truyền TM, bắt đầu bằng liều 0,5-3 mcg/kg/ph và
theo dõi huyết áp trung bình ở mức 70-80mmHg.
c. Đặt bóng bơm ngược dòng trong động mạch
chủ (IABP): là biện pháp nên được thực hiện
càng sớm càng tốt trước khi gửi đi mổ. IABP làm
giảm sức cản hệ thống, giảm lưu lượng shunt,
tăng tưới máu ĐMV và duy trì đuợc huyết áp
động mạch.
d. Phẫu thuật: Là biện pháp lựa chọn mặc dù tình
trạng huyết động không được ổn định. Phẫu thuật
ở bệnh nhân có biến chứng TLT làm giảm đáng
kể tỷ lệ tử vong so với điều trị bảo tồn. Tuy
nhiên, tỷ lệ tử vong vẫn còn cao đặc biệt ở nhóm
bệnh nhân có sốc tim, suy đa phủ tạng, NMCT
vùng sau dưới gây lỗ thủng vùng vách sau do kỹ
thuật khó khăn hơn nhiều so với vùng mỏm...
B. Hở van hai lá (HoHL) cấp
HoHL cấp do đứt dây chằng cột cơ là một biến
chứng nặng nề và báo hiệu tiên lượng rất xấu trong
NMCT. Đứt dây chằng cột cơ thường xảy ra trong vòng
2-7 ngày sau NMCT cấp và chiếm tỷ lệ khoảng 1% trong
số NMCT cấp.
1. Triệu chứng lâm sàng:
a. HoHL cấp do đứt dây chằng cột cơ thường xảy ra
ở bệnh nhân bị NMCT cấp thành sau.
b. Nếu tình trạng đứt hoàn toàn một cột cơ gây
HoHL cấp sẽ dẫn đến tình trạng sốc tim nhanh
chóng hoặc đột tử. Những trường hợp nhẹ hơn có
thể biểu hiện bằng khó thở tăng lên nhiều, phù
phổi cấp hoặc đi vào sốc tim.
c. Nghe tim: có thể thấy xuất hiện một tiếng thổi
tâm thu mới ở vùng mỏm lan lên nách hoặc lên
vùng đáy tim. Trong trường hợp NMCT vùng
thành sau gây đứt dây chằng sau có thể nghe thấy
tiếng thổi tâm thu phía cạnh xương ức dễ nhầm
lẫn với thông liên thất hoặc hẹp van động mạch
chủ. Cường độ tiếng thổi không có ý nghĩa dự
đoán mức độ nặng nhẹ của HoHL. Đôi khi tiếng
thổi rất nhẹ hoặc không thấy do bệnh nhân bị suy
tim quá mức hoặc giảm cung lượng tim quá.
d. Chú ý: Đứt dây chằng thường xảy ra ở NMCT
vùng dưới. NMCT vùng này (tắc nhánh liên thất
sau – PDA) gây hoại tử cột cơ phía sau và gây sa
van hai lá và HoHL.
2. Các xét nghiệm chẩn đoán:
a. Điện tâm đồ: cho thấy hình ảnh của NMCT cấp
thường là phía sau dưới.
b. Xquang tim phổi có thể cho thấy hình ảnh của
phù phổi tuỳ mức độ. Một số bệnh nhân có hình
ảnh phù phổi nhiều ở thuỳ trên phải vì dòng
HoHL phụt trực tiếp nhiều về phía tĩnh mạch
phổi phải phía trên.
c. Siêu âm Doppler tim: là phương pháp rất có giá
trị trong chẩn đoán cũng như tiên lượng bệnh.
• Hình ảnh sa lá van hai lá.
• Hình ảnh dòng màu của HoHL và cho phép
đánh giá mức độ HoHL.
• Cho phép chẩn đoán phân biệt với tiếng thổi
do biến chứng thông liên thất hoặc các biến
chứng khác.
• Giúp đánh giá chức năng tim và áp lực động
mạch phổi.
d. Thăm dò huyết động: Thông thường đối với
những bệnh nhân này cần theo dõi huyết động
chặt chẽ bằng một ống thông Swan-Ganz để theo
dõi áp lực động mạch phổi, cung lượng tim và áp
lực mao mạch phổi bít (PCW). Trên đường cong
áp lực của PCW có thể thấy hình ảnh sóng V cao
một cách bất ngờ.
3. Điều trị:
a. Các ưu tiên trong điều trị: Cần thiết phải phát
hiện được nhanh chóng biến chứng HoHL cấp để
kịp thời đối phó. Bệnh nhân cần được điều trị nội
khoa một cách hết sức tích cực và cân nhắc điều
trị ngoại khoa sớm nếu có thể.
b. Điều trị nội khoa:
• Các thuốc giãn mạch đóng vai trò quan trọng.
Thuốc được ưu tiên dùng là Nitroprusside,
thuốc này làm giảm sức cản hệ thống một
cách có ý nghĩa, làm giảm phân số hở van hai
lá và có thể làm tăng cung lượng tim. Thuốc
này được dùng bằng đường truyền tĩnh mạch
liên tục với liều khởi đầu là 0,5-3
mcg/kg/phút và điều chỉnh theo huyết áp
trung bình trong khoảng 70-80 mmHg.
• Thuốc giãn mạch không nên dùng cho bệnh
nhân đã bị tụt huyết áp. Trong trường hợp
này, giải pháp tốt nhất là nên đặt bóng bơm
ngược dòng trong động mạch chủ (IABP).
IABP làm giảm hậu gánh của thất trái và tăng
lưu lượng đến mạch vành. Sau khi đặt IABP
có thể cân nhắc cho tiếp thuốc giãn mạch.
c. Biện pháp can thiệp động mạch vành cấp cứu:
Nong ĐMV hoặc đặt Stent cấp cứu làm cải thiện
được tình trạng huyết động và mức độ HoHL ở
những bệnh nhân HoHL mới do thiếu máu cục
bộ. Tuy nhiên, khi đã bị đứt hẳn cột cơ thì can
thiệp ĐMV đơn thuần cũng không cải thiện được
tình trạng bệnh.
d. Điều trị ngoại khoa: Là biện pháp cần được tiến
hành sớm khi có đứt hoàn toàn cột cơ.
• Tỷ lệ tử vong khi mổ khá cao (20-25% ở các
nước phát triển) tuy nhiên vẫn là biện pháp
hiệu quả nhất và cần được chỉ định sớm.
• Nên tiến hành can thiệp ĐMV trước khi tiến
hành phẫu thuật can thiệp van hai lá.
• Có thể tiến hành sửa van hai lá ở những bệnh
nhân HoHL mức độ vừa mà không cần phải
thay van hai lá.
C. Vỡ thành tự do của tim
1. Triệu chứng lâm sàng:
a. Vỡ thành tự do tim có thể gặp ở khoảng 3% số
bệnh nhân NMCT cấp và là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tử vong đột ngột. Vỡ thành
tim cũng chỉ xảy ra ở những bệnh nhân có
NMCT xuyên thành. Những yếu tố nguy cơ dễ
xảy ra vỡ thành tim là: tuổi già, nữ giới, tăng
huyết áp quá nhiều, NMCT lần đầu và hệ thống
mạch vành không phong phú.
b. Triệu chứng của thể cấp: có thể thấy biểu hiện
của phân ly điện cơ trên ĐTĐ và đột tử. Một số
bệnh nhân kêu đau ngực dữ dội hơn, ho và nấc.
c. Thể bán cấp: gặp ở số ít bệnh nhân mà bệnh cảnh
dễ nhầm với viêm màng ngoài tim cấp, nôn, tụt
huyết áp.
d. Khám thấy các dấu hiệu của ép tim cấp đột ngột:
giãn tĩnh mạch cảnh, mạch đảo, tiếng tim mờ..
2. Các xét nghiệm chẩn đoán:
a. Điện tâm đồ: có hình ảnh nhịp bộ nối hoặc tự
thất, điện thế ngoại vi thấp, sóng T cao nhọn ở
các chuyển đạo trước tim. Một số bệnh nhân biểu
hiện nhịp chậm trước khi vỡ thành tự do.
b. Siêu âm tim: cho phép nhìn thấy hình ảnh ép tim
cấp và có thể cho phép nhìn thấy chỗ vỡ.
3. Điều trị:
a. Biện pháp điều trị tái tưới máu làm giảm bớt tỷ lệ
bị vỡ thành tim.
b. Mục đích là phải nhanh chóng nhận biết được
tình trạng vỡ tim và tiến hành mổ cấp cứu.
c. Điều trị nội khoa chỉ đóng vai trò tạm thời khi
hồi sức và trong lúc đưa đến phòng mổ. Dùng
thuốc vận mạch và truyền dịch để duy trì huyết áp.
d. Nhanh chóng chọc dịch màng tim nếu xác định là
có ép tim cấp trong lúc thu xếp cuộc mổ.
e. Phẫu thuật tối cấp cứu là biện pháp duy nhất có
thể cứu sống được bệnh nhân trong trường hợp bị vỡ thành tự do tim.
D. Giả phình thành tim
1. Triệu chứng lâm sàng:
a. Giả phình thành thất thường có tiến triển thầm
lặng và thường được phát hiện tình cờ khi làm
các thăm dò chẩn đoán. Tuy nhiên, một số bệnh
nhân có biểu hiện của các cơn tim nhanh tái phát và suy tim.
b. Thăm khám có thể thấy tiếng thổi tâm thu hoặc
tâm trương hoặc tiếng thổi theo tư thế do dòng
máu xoáy qua lỗ thủng vào chỗ phình.
c. Bản chất bệnh lý của giả phình thành thất là do
vỡ một chỗ nhỏ của thành tự do thất và được
màng ngoài tim cùng huyết khối thành bao bọc
lại. Giữa túi phình và thất vẫn còn liên hệ với
nhau nhờ lỗ thủng.
2. Các xét nghiệm chẩn đoán:
a. Xquang tim phổi: thẳng có thể thấy hình ảnh
bóng tim bất thường với một chỗ lồi tương ứng
với túi phình.
b. Điện tâm đồ: có thể cho thấy hình ảnh ST chênh
vòm cố định giống trường hợp bị phình thất.
c. Siêu âm tim: có thể giúp chẩn đoán xác định
bệnh. Chụp cộng hưởng từ (MRI) cũng là một
biện pháp khá chính xác để chẩn đoán bệnh.
3. Điều trị: Phẫu thuật là chỉ định bắt buộc bất kể kích
cỡ hoặc triệu chứng của túi giả phình này như thế
nào để ngăn ngừa việc vỡ thứ phát của túi giả phình này.
E. Phình vách thất
1. Triệu chứng lâm sàng:
a. Thể cấp: Khi một vùng cơ tim rộng bị giãn ra thì
nhanh chóng dẫn đến suy tim hoặc sốc tim.
Những bệnh nhân bị NMCT ở vị trí có ảnh hưởng
đến vùng mỏm thường là có nguy cơ cao nhất.
b. Thể mạn tính: Là những thể phình vách thất tiến
triển từ từ sau hơn 6 tuần. Chúng xảy ra ở 10-
30% các trường hợp NMCT. Những bệnh nhân
này thường có các triệu chứng của suy tim, rối
loạn nhịp thất, tắc mạch đại tuần hoàn..
c. Khám tim: Đôi khi có thể phát hiện được vùng
bị phình của thất thông qua sờ mỏm tim hoặc gõ
tim. Còn phần lớn các trường hợp là có thể thấy
tiếng ngựa phi ở những bệnh nhân đã suy giảm
nhiều chức năng thất trái.
2. Sinh lý bệnh:
Phình vách thất là một vùng cơ thất bị giãn ra
do vùng đó bị hoại tử do động mạch vành nuôi
dưỡng tương ứng bị tắc. Nếu ĐMV bị tắc được giải
phóng càng sớm thì nguy cơ bị phình vách thất càng
thấp. Quá trình phình vách thất là phối hợp nhiều cơ
chế trong đó quá trình tái cấu trúc (remodeling) cơ
tim là rất quan trọng.
3. Các thăm dò cận lâm sàng:
a. Điện tâm đồ:
• Nếu phình vách thất xảy ra cấp tính thì sóng
ST chênh lên cố định mặc dù ĐMV có được
tái tưới máu.
• Nếu phình vách thất xảy ra từ từ thì ST chênh
lên tồn tại khoảng hơn 6 tuần.
b. Xquang tim phổi: thấy hình ảnh một vùng bóng
tim phình ra tương ứng với vùng cơ thất bị phình.
c. Siêu âm tim: là một thăm dò có giá trị giúp chẩn
đoàn xác định bệnh, định khu, đánh gía các biến
chứng, chức năng thất, huyết khối. Đặc biệt siêu
âm giúp chẩn đoán với gỉa phình thất (trong
phình vách thất thật thì cổ vào rộng còn giả phình
thì cổ vào hẹp).
d. Chụp cộng hưởng từ: cũng giúp xác định phình
vách thất.
4. Điều trị:
a. Điều trị nội khoa:
• Phình cấp: Nên nhanh chóng điều trị tình
trạng suy tim bằng các thuốc giãn mạch
truyền tĩnh mạch và đặt bóng bơm ngược
dòng trong ĐMC. Cho thuốc ức chế men
chuyển sớm là một biện pháp quan trọng
ngăn ngừa được quá trình tái cấu trúc và lan
rộng của vùng nhồi máu. Vì quá trình lan
rộng của nhồi máu xảy ra rất sớm nên cần cho
thuốc ức chế men chuyển sớm trong vòng 24
giờ của NMCT cấp (nếu huyết áp không quá
thấp).
• Phình mạn tính: Các thuốc dùng để điều trị
suy tim do phình mạn tính vách thất là: ức
chế men chuyển, lợi tiểu hoặc có thể cho
Digoxin.
• Chống đông: Các thuốc kháng vitamin K
đường uống được chỉ định ở những bệnh
nhân có phình vách thất mà có huyết khối
bám thành. Trước tiên nên cho Heparin trong
vòng vài ngày và cũng bắt đầu luôn bằng các
thuốc chống đông dạng uống loại kháng
vitamin K. Khi điều trị, nên chỉnh liều sao
cho INR từ khoảng 2-3 trong vòng 3-6 tháng.
Đối với những phình vách thất dù lớn mà
không thấy hình ảnh huyết khối bám thành thì
người ta cũng chưa rõ lợi ích và chỉ định của
kháng vitamin K. Đối với những bệnh nhân
có phình vách thất mà chức năng thất trái rất
kém thì nên cho thuốc chống đông đường
uống trong ít nhất 3 tháng sau NMCT cấp.
b. Điều trị can thiệp:
• Những bệnh nhân bị nhồi máu thì can thiệp
ĐMV càng sớm càng tốt giúp ngăn chặn quá
trình giãn thành thất và tái cấu trúc. Can thiệp
muộn sau 12 giờ vẫn có thể có ích nhưng sau
24 giờ thì có thể không cải thiện được tình
hình phình vách thất.
• Đối với những bệnh nhân có phình vách thất
mà có rối loạn nhịp thất nguy hiểm thì có thể
cân nhắc việc cấy máy phá rung tự động
trong buồng tim (ICD).
c. Ngoại khoa: Đối với những bệnh nhân phình
vách thất có suy tim dai dẳng hoặc rối loạn nhịp
tim nặng nề thì có thể cân nhắc điều trị ngoại
khoa. Điều trị ngoại khoa có thể cắt đóng đoạn
phình hoặc làm một miếng vá ở đó để duy trì
được thể tích thất trái. Cũng nên cân nhắc việc
điều trị tái tưới máu động mạch vành trước đó.
II. Các rối loạn nhịp
Trong NMCT, biến chứng rối loạn nhịp tim là rất thường
gặp ở các mức độ khác nhau (90% các trường hợp). Có thể gặp
tất cả các loại rối loạn nhịp khác nhau (xin tham khảo chi tiết ở
phần các rối loạn nhịp tim).
A. Rối loạn nhịp thất
1. Ngoại tâm thu thất: hay gặp, cần theo dõi tốt, điều
chỉnh các rối loạn điện giải. Thuốc chẹn bêta giao
cảm có thể có tác dụng tốt. Một số tác giả ưa dùng
Amiodarone.
2. Nhịp tự thất gia tốc: hay gặp ở bệnh nhân có hội
chứng tái tưới máu, đề phòng cơn nhanh thất hoặc
rung thất.
3. Nhịp nhanh thất và rung thất: là tình trạng cấp cứu
và cần xử trí theo đúng như phác đồ ngừng tuần
hoàn.
B. Rối loạn nhịp trên thất: có thể gặp các rối loạn như:
1. Nhịp nhanh xoang.
2. Cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất.
3. Rung nhĩ.
4. Nhịp bộ nối.
C. Các rối loạn nhịp chậm
1. Nhịp chậm xoang: hay gặp ở bệnh nhân NMCT sau
dưới, cần điều trị khi có ảnh hưởng đến huyết động.
2. Bloc nhĩ thất từ cấp I đến cấp III: Nếu bloc độ cao
ảnh hưởng đến huyết động thì cần cấp cứu theo phác
đồ và chú ý đặt máy tạo nhịp tạm thời sớm. Chỉ định
đặt máy tạo nhịp tạm thời:
a. Vô tâm thu;
b. Bloc nhĩ thất cấp III;
c. Nhịp chậm xoang hoặc bloc nhĩ thất độ thấp
nhưng có ảnh hưởng đến huyết động.
III. Suy chức năng thất trái và sốc tim
Rối loạn chức năng thất trái là diễn biến khó tránh khỏi
sau NMCT, chỉ tuỳ theo mức độ nhẹ hay nặng. Mức độ suy chức
năng thất trái liên quan đến vùng tổn thương nhiều hay ít. Bệnh
nhân NMCT với vùng tổn thương nhỏ có thể gây rối loạn vận
động một vùng cơ tim nhưng không gây giảm chức năng đáng
kể toàn bộ thất trái. Tuy nhiên, khi nhồi máu diện rộng, đặc biệt
là vùng trước hoặc ở nữ giới, người cao tuổi, tiểu đường… là
những yếu tố dự báo nguy cơ cao của suy tim trái nặng và sốc
tim.
A. Phân loại
Hiện nay phân loại của Killip và Kimban (bảng 4-1) là
phân loại được sử dụng rộng rãi nhất trên lâm sàng để phân
loại mức độ nặng nhẹ và có giá trị tiên lượng bệnhl/phút/m2
I < 18 > 2,2 3
II > 18 > 2,2 9
III < 18 < 2,2 23
IV > 18 < 2,2 51
B. Triệu chứng lâm sàng
1. Triệu chứng cơ năng:
a. Bệnh nhân có thể có các dấu hiệu của suy hô hấp,
khó thở, cảm giác lạnh... bên cạnh các dấu hiệu
kinh điển của NMCT.
b. Bệnh nhân sốc tim có các dấu hiệu trầm trọng
hơn như khó thở nhiều, tiểu ít, rét run, rối loạn
tâm thần…
2. Triệu chứng thực thể:
a. Hạ huyết áp do giảm cung lượng tim, giảm thể
tích tuần hoàn.
b. Ứ trệ tuần hoàn phổi, với ran ở phổi.
c. Giảm tưới máu ngoại vi: da lạnh, đầu chi lạnh, vã
mồ hôi.
d. Nghe tim: thấy nhịp tim nhanh, tiếng ngựa phi..
3. Nguyên nhân dễ dẫn đến sốc tim ở bệnh nhân
NMCT cấp:
a. NMCT diện rộng.
b. Nhồi máu thất phải diện rộng.
c. Vỡ thành thất.
d. Hở van hai lá cấp.
e. Ép tim cấp có kèm hoặc không kèm vỡ thành tim.
C. Các xét nghiệm thăm dò
1. Xét nghiệm máu: Tăng acid lactic trong máu, tăng
creatinin và thiếu ôxy máu động mạch.
2. Xquang tim phổi: thấy hình ảnh ứ huyết phổi các
mức độ.
3. Điện tâm đồ (ĐTĐ): thường chỉ ra dấu hiệu của
NMCT lan rộng. Có thể thấy hình ảnh ST chênh
xuống (do thiếu máu cơ tim) lan rộng ở nhiều chuyển
đạo. Nếu ĐTĐ không biến động đặc hiệu khi sốc tim
thì phải nghĩ tới nguyên nhân khác gây sốc tim như
tách thành ĐMC hoặc các biến chứng cơ học trầm
trọng của NMCT cấp.
4. Siêu âm tim: giúp đánh giá mức độ lan rộng của
vùng nhồi máu, chức năng thất và tìm hiểu thêm các
biến chứng có thể gây ra sốc tim.
5. Các thăm dò chảy máu: giúp theo dõi về huyết
động chính xác. Thường thì nên đặt một ống thông
Swan Ganz để theo dõi áp lực động mạch phổi và áp
lực mao mạch phổi bít cũng như cung lượng tim
(xem thêm phần sốc tim).
D. Điều trị
1. Các ưu tiên trong điều trị: Nếu bệnh nhân có sốc
tim nên đặt bóng ngược dòng trong ĐMC (IABP)
trước nếu có thể, sau đó tìm cách giải quyết nguyên
nhân và các biện pháp điều trị nội khoa thích hợp.
2. Các thuốc:
a. Các thuốc giãn mạch đóng vai trò cực kỳ quan
trọng trong điều trị bệnh nhân suy tim trái sau
NMCT. Cần theo dõi huyết áp chặt chẽ khi cho
các thuốc giãn mạch.
b. Nitroglycerin dạng truyền tĩnh mạch là thuốc nên
được lựa chọn hàng đầu. Liều dùng bắt đầu từ 10
– 20 mcg/phút và có thể tăng mỗi 10 mcg/phút
sau vài phút tuỳ theo đáp ứng và huyết áp. Nên
điều chỉnh sao cho huyết áp trung bình động
mạch khoảng 70 mmHg.
c. Nitropruside có thể thêm vào để có tác dụng làm
giảm hậu gánh vì nếu dùng Nitroglycerin một
mình chủ yếu làm giảm tiền gánh do giãn hệ tĩnh
mạch. Nitroprusside được dùng bắt đầu bằng liều
0,3-5 mcg/kg/phút và chỉnh liều theo huyết áp
động mạch.
d. Thuốc ức chế men chuyển (ƯCMC) cải thiện
được chức năng thất trái ở bệnh nhân sau NMCT.
ƯCMC nên được cho sớm trong NMCT nếu
huyết áp không thấp quá. Chú ý tác dụng gây tụt
áp liều đầu của ƯCMC, do vậy nên cho bệnh
nhân dạng truyền TM với liều bắt đầu thấp và
không dùng khi có sốc tim.
e. Thuốc lợi tiểu có tác dụng tốt ở những bệnh nhân
có phù phổi sau NMCT. Furosemide là thuốc nên
được lựa chọn.
f. Digitalis trợ tim không nên cho rộng rãi trong
NMCT, nhưng có tác dụng tốt ở bệnh nhân suy
tim trái nhiều kèm rung nhĩ hoặc cuồng nhĩ hoặc
các thuốc khác điều trị suy tim kém hiệu quả.
g. Các thuốc giống giao cảm (Dopamine và
Dobutamine) được chỉ định cho những bệnh nhân
suy tim nặng có tụt áp hoặc sốc tim.
h. Thuốc vận mạch khác (Norepinephrine) có thể
phải dùng khi cần thiết để duy trì huyết áp trong
sốc tim (xem bài sốc tim).
3. Điều trị can thiệp động mạch vành:
a. Đặt ngay bóng bơm ngược dòng động mạch chủ
nếu có thể ở bệnh nhân sốc tim. Biện pháp này
rất hữu ích giúp làm giảm hậu gánh, tăng cung
lượng tim, giảm nhu cầu tiêu thụ ôxy cơ tim.
b. Can thiệp động mạch vành tức thì giúp cải thiện
được tiên lượng ở những bệnh nhân đã có sốc tim
đặc biệt ở người không quá già.
4. Phẫu thuật:
a. Phẫu thuật làm cầu nối chủ-vành trong sốc tim ở
bệnh nhân NMCT được chỉ định ở những bệnh
nhân bị bệnh nhiều ĐMV, hoặc tổn thương thân
chung ĐMV trái mà không thích hợp cho can
thiệp ĐMV.
b. Có khi phẫu thuật được chỉ định để cấy ghép
những thiết bị hỗ trợ thất trong khi chờ ghép tim.
IV. Nhồi máu cơ tim thất phải
Rối loạn chức năng thất phải nhẹ thường gặp ở những
bệnh nhân bị NMCT vùng sau dưới, tuy nhiên có khoảng 10%
số bệnh nhân này có suy thất phải cấp và điều trị cần chú ý một
số đặc điểm khác biệt.
A. Giải phẫu bệnh
Thành thất phải bình thường mỏng hơn và ít nhu cầu
tiêu thụ ôxy hơn buồng thất trái, do vậy thông thường thì
thất phải có thể chịu đựng và hồi phục sau khi được điều trị
kịp thời. Việc suy chức năng thất phải nặng xảy ra phụ thuộc
vào mức độ tắc nhánh động mạch vành nuôi dưỡng thất phải
và mức độ tuần hoàn bàng hệ từ bên trái sang khi nhánh nuôi
thất phải bị tắc (nhánh này thông thường bắt nguồn từ động
mạch vành bên phải).
B. Triệu chứng lâm sàng
1. Bệnh nhân NMCT thất phải thường có triệu chứng
của ứ trệ tuần hoàn ngoại vi nhưng không khó thở.
2. Bệnh nhân có suy thất phải nặng có thể có biểu hiện
của giảm cung lượng tim nặng như rét run, chân tay
lạnh, rối loạn tâm thần, huyết áp tụt và thiểu niệu.
3. Thăm khám thực thể ở bệnh nhân NMCT thất phải
thường thấy tĩnh mạch cổ nổi, gan to, huyết áp thấp
nhưng phổi không có ran. Dấu hiệu Kussmaul (tĩnh
mạch cổ nổi to hơn trong thời kỳ hít vào) là khá đặc
hiệu và báo hiệu có suy thất phải nặng.
C. Các xét nghiệm chẩn đoán
1. Điện tâm đồ: thường cho thấy hình ảnh NMCT vùng
sau dưới kèm theo ST chênh lên ở V1 và đặc biệt là
V3R và V4R.
2. Xquang tim phổi: không có dấu hiệu của ứ trệ tuần
hoàn phổi.
3. Siêu âm tim: là một thăm dò có giá trị trong NMCT
thất phải. Trên siêu âm tim thường cho thấy hình ảnh
thất phải giãn, suy chức năng thất phải, rối loạn vận
động vùng sau dưới, và đặc biệt giúp loại trừ tràn
dịch màng tim gây ép thất phải (dễ nhầm với NMCT
thất phải).
4. Các thông số về huyết động trên thăm dò chảy máu
cho thấy tăng áp lực của nhĩ phải nhưng không tăng
áp lực mao mạch phổi bít (PCWP). NMCT thất phải
cũng làm giảm cung lượng tim do giảm lượng máu
về thất trái. Khi áp lực nhĩ phải trên 10 mmHg và tỷ
lệ áp lực nhĩ phải/PCWP trên 0,8 là một dấu hiệu
huyết động quan trọng gợi ý NMCT thất phải.
D. Điều trị
1. Điều trị nội khoa:
a. Truyền đủ dịch là một biện pháp quan trọng hàng
đầu vì trong NMCT thất phải có sự giảm cung
lượng tim do giảm thể tích đổ đầy thất trái. Một
số bệnh nhân nặng cần cho truyền tới 1 lít dịch
trong giờ đầu. Khi truyền dịch cần phải theo dõi
chặt chẽ các thông số huyết động vì nếu truyền
quá nhiều dịch đôi khi lại dẫn đến suy giảm chức
năng thất trái (hiện tượng này là do vách liên thất
bị ép quá về phía thất trái gây giảm cung lượng
tim). Mục tiêu điều trị là đưa áp lực tĩnh mạch
trung tâm đến khoảng 15 mmHg.
b. Thuốc tăng co bóp cơ tim: Khi truyền dịch vẫn
không đủ làm tăng cung lượng tim thì có chỉ định
dùng các thuốc tăng co bóp cơm tim.
Dobutamine là thuốc được lựa chọn hàng đầu
làm tăng cung lượng tim và phân số tống máu
của thất phải.
c. Một lưu ý rất quan trọng là không được dùng các
thuốc giãn mạch (Nitrates, ức chế men chuyển...)
và lợi tiểu khi có suy thất phải vì các thuốc này
càng làm giảm cung lượng tim.
2. Điều trị can thiệp:
a. Nong hoặc đặt Stent động mạch vành sớm sẽ
giúp cải thiện rõ rệt tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân
NMCT thất phải. Việc tái tưới máu ĐMV thất
phải giúp cải thiện chức năng thất phải.
b. Một số trường hợp NMCT thất phải thường kèm
theo nhịp chậm hoặc bloc nhĩ thất cấp III cần
được đặt máy tạo nhịp tạm thời sớm và đại đa số
phục hồi tốt sau khi đã can thiệp tốt ĐMV.
c. Một số trường hợp huyết áp thấp quá có thể cần
phải đặt bóng bơm ngược dòng động mạch chủ.
3. Phẫu thuật:
a. Một số trường hợp mà tình trạng sốc tim kéo dài
không đáp ứng các biện pháp điều trị thông
thường có thể có chỉ định mổ cắt màng ngoài tim.
b. Phẫu thuật cấy thiết bị hỗ trợ tim khi tình trạng
sốc tim quá nặng.
c. Mổ làm cầu nối chủ-vành cấp khi tổn thương
không thể can thiệp được hoặc khi can thiệp có
biến chứng hoặc khi có các biến chứng cơ học.
V. Đau ngực tái phát sau NMCT
Biến chứng thiếu máu cơ tim (đau ngực) xảy ra sau
NMCT cấp có thể do vùng tổn thương lan rộng, thiếu máu cơ
tim tái phát, tái NMCT...
A. Vùng tổn thương lan rộng: Bệnh nhân vẫn đau ngực
liên tục hoặc tái phát, trên điện tâm đồ có thay đổi mới
(chênh hơn và lan rộng), men tim vẫn tăng kéo dài.
Thăm dò siêu âm tim hoặc phóng xạ đồ giúp xác định
được vùng cơ tim tổn thương.
B. Thiếu máu cơ tim tái phát: Bệnh nhân đau ngực sau
giai đoạn cấp từ vài giờ đến 30 ngày với sự thay đổi trên
điện tim chứng tỏ có thiếu máu cơ tim. Thiếu máu cơ tim
tái phát thường hay xảy ra hơn ở bệnh nhân NMCT
không có sóng Q. Đau ngực tái phát sau NMCT thường
có tiên lượng xấu và cơ chế bệnh sinh được coi như là
đau thắt ngực không ổn định. Việc điều trị do đó được
coi như là điều trị đau thắt ngực không ổn định.
C. Nhồi máu cơ tim tái phát: Bệnh nhân đau ngực lại với
thay đổi mới điện tim đồ và men tim. Nếu bệnh nhân
nhồi máu lại sau khi đã dùng thuốc tiêu huyết khối cần
tiến hành can thiệp động mạch vành ngay.
Vấn đề điều trị: Cần chỉ định chụp và can thiệp ĐMV
sớm ở các bệnh nhân này. Các thuốc Heparin, Aspirin, Nitrates,
chẹn Beta giao cảm cần được cho một cách tích cực hơn.
VI. Các biến chứng tắc mạch
Các biến chứng tắc mạch ở bệnh nhân NMCT cấp xảy ra
trong khoảng 20% số bệnh nhân. Những bệnh nhân bị NMCT
trước rộng là có nguy cơ cao dễ bị biến chứng này.
A. Triệu chứng lâm sàng
Các biểu hiện lâm sàng hay gặp nhất là của tai biến
mạch não, một số bệnh nhân bị tắc mạch chi, tắc mạch thận,
tắc mạch mạc treo… Hầu hết các tai biến tắc mạch thường
xảy ra trong 10 ngày đầu của NMCT cấp. Đối với những
bệnh nhân nằm bất động lâu, có thể có các biến chứng huyết
khối tĩnh mạch sâu chi dưới và tắc mạch phổi. Tuỳ theo thể
bệnh mà có các triệu chứng tương ứng trên lâm sàng.
B. Điều trị
1. Truyền Heparin tĩnh mạch liên tục trong 3-4 ngày
sao cho thời gian aPTT ở khoảng 50-65 giây.
2. Với những bệnh nhân bị NMCT thành trước mà có
dấu hiệu huyết khối bám thành cần cho thuốc chống
đông đường uống (kháng vitamin K) ít nhất trong 3
tháng, gối đầu với Heparin.
3. Heparin trọng lượng phân tử thấp có tác dụng phòng
ngừa tốt huyết khối tĩnh mạch chi dưới và nhồi máu
phổi đối với những bệnh nhân nằm lâu.
VII. Biến chứng viêm màng ngoài tim
A. Viêm màng ngoài tim cấp
1. Triệu chứng lâm sàng:
a. Biến chứng viêm màng ngoài tim cấp xảy ra ở
khoảng 10% số bệnh nhân NMCT cấp và là một
trong những nguyên nhân gây đau ngực. Biến
chứng này thường xảy ra trong vòng 24-96 giờ
sau NMCT cấp.
b. Viêm màng ngoài tim cấp thường xảy ra ở bệnh
nhân có NMCT xuyên thành. Một số không có
triệu chứng lâm sàng mà chỉ nghe thấy tiếng cọ
màng tim.
c. Đa số các bệnh nhân thường có dấu hiệu đau
ngực kéo dài và cảm giác rát bỏng. Đau ngực
tăng lên khi bệnh nhân ngồi và cúi ra phía trước
hoặc hít thở sâu, ho hay nuốt. Đau thường không
lan và quanh quẩn trước ngực.
d. Nghe tim cho thấy dấu hiệu quan trọng nhất là
tiếng cọ màng ngoài tim. Một số trường hợp có
thể không thấy tiếng cọ này. Tiếng cọ màng tim
thường nghe rõ nhất ở cạnh ức trái vùng thấp.
Tiếng cọ màng tim tiến triển theo thời gian, giảm
hoặc mất đi khi lượng dịch màng tim nhiều.
e. Cơ chế của viêm màng ngoài tim cấp là do phản
ứng viêm vùng màng tim tương ứng với vùng bị
nhồi máu. Sự tiến triển của phản ứng viêm có thể
liên quan đến mức độ và diện rộng của NMCT.
2. Các xét nghiệm chẩn đoán:
a. Điện tâm đồ: là một thăm dò có giá trị trong
chẩn đoán viêm màng tim cấp. Tuy nhiên khi
bệnh nhân bị viêm màng ngoài tim cấp sau
NMCT cấp thì các dấu hiệu viêm màng ngoài tim
có thể bị che lấp mất. Nhìn chung, dấu hiệu đặc
hiệu của viêm màng ngoài tim trên ĐTĐ là đoạn
ST chênh lên đồng hướng ở các chuyển đạo và
kiểu chênh lên hình yên ngựa. Các dấu hiệu thay
đổi đoạn ST cũng thay đổi theo thời gian, đầu
tiên là ST và T chênh lên, sau đó T dẹt rồi ST về
đường đẳng điện và sóng T thì âm rồi cũng
dương trở lại.
b. Xquang tim phổi: ít có giá trị chẩn đoán viêm
màng ngoài tim cấp.
c. Siêu âm tim: có thể cho thấy dịch màng ngoài
tim, nhưng cũng không thể hoàn toàn loại trừ
chẩn đoán được.
3. Điều trị:
a. Aspirin là thuốc được lựa chọn với liều khoảng
2,5g đến 4g trong một ngày chia làm 4-6 lần.
b. Các thuốc giảm viêm chống đau không steroid và
steroid không nên dùng để điều trị trong trường
hợp này vì nó có thể ảnh hưởng quá trình liền sẹo
của cơ tim và làm lan rộng vùng nhồi máu một
cách âm thầm. Một số bệnh nhân mà có đau ngực
tái phát nhiều không đáp ứng với Aspirin thì có
thể cho Colchicine.
B. Hội chứng Dressler
Hội chứng Dressler (viêm màng ngoài tim muộn) xảy
ra ở khoảng 1-3% số bệnh nhân NMCT. Hội chứng này
thường xảy ra sau từ 1-8 tuần sau NMCT cấp. Hiện cơ chế
bệnh sinh của bệnh chưa được rõ hoàn toàn, nhưng người ta
thấy có nhiều bằng chứng liên quan đến cơ chế tự miễn dịch
của cơ thể.
Bệnh nhân thường có biểu hiện đau ngực kiểu viêm
màng ngoài tim, có thể sốt, đau khớp, đau cơ, tăng bạch cầu
máu, tốc độ lắng máu tăng. Nghe tim có tiếng cọ màng ngoài
tim. Siêu âm tim cho thấy có dịch màng ngoài tim.
Về điều trị thì giống như trong điều trị viêm màng tim
cấp sau NMCT. Tuy nhiên, nếu sau quá 4 tuần của NMCT
thì có thể cho bệnh nhân được các thuốc kháng viêm không
phải steroid thậm chí có thể cho cả steroid.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top