ben thang cuoc c9
Chương IX: Xé Rào
Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt từng nói trước Hội đồng Nhân dân: “Khác với tất cả
các xã hội có giai cấp trước đây, nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu trách nhiệm đầy đủ
đối với đời sống của nhân dân, vì vậy nhà nước phải nắm toàn bộ khâu lưu thông
phân phối, đặc biệt là những nhu cầu thiết yếu đối với đời sống, liên quan đến bữa
ăn hàng ngày của nhân dân lao động
”
452
.
Chỉ mấy năm sau, những người như ông
Kiệt nhận ra chính tham vọng tốt đẹp đó đã như những bức tường, những hàng rào,
giam hãm sự năng động của toàn xã hội. Những nỗ lực “đục thủng” cơ chế “tập
trung quan liêu bao cấp” đó về sau sẽ được gọi là “xé rào”.
Bế tắc
Bên ngoài thì giặc dã, bên trong thì bức bối, đói kém, không khí càng trở nên
ngột ngạt, nhất là từ giữa năm 1978. Lượng người bỏ nước ra đi càng lúc càng
tăng, cỗ xe như đang lao xuống dốc mà không ai nhìn thấy chân phanh ở đâu.
Ông Võ Văn Kiệt quyết định gặp gỡ giới trí thức Thành phố. Với hy vọng có được
sự chia sẻ từ những người Sài Gòn vốn được coi là có cảm tình với “Cách mạng”,
ông Kiệt đã nói khá chân thành: “Anh em cố gắng ở lại, trong vòng ba năm nữa,
nếu tình hình vẫn không thay đổi, tôi sẽ đưa anh em ra phi trường”. Cả hội trường
im lặng. Rồi, giáo sư Nguyễn Trọng Văn đứng lên: “Chúng tôi sẵn sàng ở lại, nhưng
nếu ba năm nữa mà tình hình không thay đổi thì tôi cho rằng người nên ra đi phải
là các anh”.
Câu nói của giáo sư Nguyễn Trọng Văn gây rúng động. Tối hôm ấy, tại số 56
Trương Định có một cuộc họp của Thường vụ mở rộng, Tổng Thư ký Hội Trí thức
Yêu Nước Huỳnh Kim Báu được mời dự. Hầu hết ý kiến phát biểu đều phê phán Giáo
sư Văn gay gắt, ông Mai Chí Thọ đề nghị: “Bắt!”. Ông Báu kể, Võ Văn Kiệt làm
thinh, nhưng cặp mắt đăm chiêu. Cuối cùng, ông nói: “Sau khi nghe anh Văn nói,
tôi cũng bị sốc, rất sốc. Nhưng rồi suy nghĩ, tôi thấy, anh Văn đã phát biểu rất
nghiêm túc. Tôi cho rằng, nếu ba năm nữa mà tình hình không thay đổi thì rõ ràng
người ra đi không thể là các anh ấy”. Kết luận của ông Kiệt khiến cho mọi người im
lặng, và nhờ nó, Giáo sư Nguyễn Trọng Văn đã không bị bắt. Ông Huỳnh Kim Báu
nhớ lại: “Lúc đó, nếu ông Võ Văn Kiệt thiếu bình tĩnh, cứng với anh Văn thì tình hình
sẽ diễn biến rất xấu”.
Là người có kinh nghiệm với cả hai phía, ông Huỳnh Kim Báu nhận ra vấn đề
không phải ai đúng ai sai mà sức chịu đựng của những nhà lãnh đạo đang nắm
quyền tuyệt đối trong tay là rất giới hạn. Ông khuyên giáo sư Nguyễn Trọng Văn:
“Anh phải kiềm chế, nếu tiếp tục phát biểu như thế, Sáu Dân không đỡ nổi đâu. Tôi
không muốn trở thành người phải còng tay anh”.
Trước “giải phóng”, ông Huỳnh Bửu Sơn là chuyên viên của Ngân hàng Quốc gia.
Sau khi bàn giao mười sáu tấn vàng cho cách mạng xong, ông về làm tại ngân hàng
Bến Chương Dương. Tại đây, theo quán tính của một công chức chỉnh chu, ông
Huỳnh Bửu Sơn vẫn mặc áo sơ mi, quần tây, đôi khi cà-vạt và thường xuyên mang
giày đến sở. Điều đó làm cho những vị lãnh đạo ngân hàng từ Bắc vô nhận xét:
“Thằng này chưa giác ngộ”. Một hôm, ông Huỳnh Bửu Sơn bị gọi lên
nói: “Giờ
chúng tôi quyết định đưa anh về ngân hàng Củ Chi”. Một cảm giác vừa chán chường
vừa uất hận dâng nghẹn. Cho dù rất sợ vì chưa biết điều gì sẽ xảy ra nhưng ông
Huỳnh Bửu Sơn vẫn nói: “Nếu đưa đi Củ Chi thì tôi nghỉ”
453
.Cuối thập niên 1960, khi vừa tốt nghiệp luật và văn khoa về làm tại Ngân hàng
Quốc gia, ông Huỳnh Bửu Sơn được cấp một căn hộ trên đường Bà Huyện Thanh
Quan. Năm 1970, khi ngân hàng xây một khu cư xá tại An Phú, Thủ Đức, ông được
cấp bán một căn biệt thự xây dựng trên khuôn viên rộng 1.000m. Lương của ông
Sơn khi ấy là 200.000 đồng, tương đương với sáu lượng vàng, ngoài ra cán bộ như
ông còn được cấp một xe hơi hiệu Ladalat để đi lại. Là chuyên viên, ông không
những có thể nuôi vợ con sung túc, mà đến tháng 4-1975, số dư trong tài khoản
tiết kiệm của gia đình ông vẫn có hơn hai triệu đồng. Số tiền này đã trở thành giấy
lộn sau khi đổi tiền và sau khi chính quyền “đình chỉ vĩnh viễn mười sáu ngân hàng
tư nhân”.
Để lo cho cuộc sống, cũng như nhiều gia đình khác, vợ chồng ông Huỳnh Bửu
Sơn bắt đầu phải bán từ dàn máy nghe băng hiệu Akai, cái tivi, rồi hai chiếc xe gắn
máy. Chuyện “ăn tiệm” diễn ra gần như hàng tuần trước đây trở thành cổ tích. Mỗi
ngày đi làm, ông Huỳnh Bửu Sơn phải mang theo một lon guigoz cơm độn mì, vợ
ông lấy củ hành kho tương với mấy lát khổ qua xắt. Nước mắm khi ấy vô cùng khan
hiếm, người dân Sài Gòn phải lấy muối pha với nước rau để làm nước chấm. Nếu
như ông Phan Lạc Phúc đã mất “13 ký mỡ” sau khi chịu cải tạo qua các trại Suối
Máu, Long Khánh, Sơn La, thì ở Sài Gòn, ông Huỳnh Bửu Sơn nhớ: “Giải phóng hai
năm tôi cũng sụt mất mười ba ký”.
Không chỉ có cuộc sống của những người từng làm việc cho chế độ Sài Gòn như
ông Huỳnh Bửu Sơn bị đảo lộn. Sự khốn đốn cũng không buông tha những người
chiến thắng. Theo một ủy viên Trung ương Đảng, ông Nguyễn Thành Th
ơ
454
:
“Một
hôm, khoảng sáu giờ tối, vợ của một thiếu tướng, vốn là bác sĩ chăm sóc sức khỏe
cho tôi khi tôi làm bí thư Chính ủy khu miền Tây, đến đá cửa nhà tôi ầm ầm rồi
kêu: ‘Mười Thơ, gạo đâu ăn?’. Tôi chạy ra mở cửa, trước thái độ đói giận của chị, tôi
vô nhà vác bao gạo mới được cấp, đem ra để trên xe. Chị cho xe rồ máy chạy về,
đến cũng như đi, không có một lời chào hỏi”. Đó là bao gạo duy nhất còn lại trong
nhà.
Ông Nguyễn Thành Thơ kể tiếp: “Hai anh em con tôi, sau những ngày ăn bo bo,
khoai bắp, hôm có ít gạo nấu nồi cháo, em vào bếp múc tô cháo ăn. Anh vô bếp
thấy em ăn, hỏi: ‘Mầy ăn gì?’. Người em lấy mặt che tô cháo. Anh nắm lỗ tai kéo
lên: ‘Mầy ăn cháo gạo không chờ ai à?’. Nói xong, liền đẩy đầu em xuống tô cháo.
Thằng em, mặt đầy cháo, ngước dậy lấy tô cháo vụt vào mặt anh, trúng mé mắt,
máu ra lai láng. Vợ tôi vội chở đến bệnh viện Gia Định cầm máu, may lại. Dọc
đường thằng anh nói với mẹ: ‘Đừng đánh em, tại con mấy ngày không được ăn cơm
cháo gạo, thấy em ăn cháo gạo không kêu ai nên tức giận, có thái độ không phải
với em”.
Mậu dịch quốc doanh
Ông Đỗ Mười đến Sài Gòn năm 1978 không chỉ tổ chức các lực lượng đánh thẳng
vào “sào huyệt của giai cấp tư sản” mà còn triệu tập cán bộ dân chính Đảng tới
nghe ông nói chuyện về lý luận. Ông Nguyễn Thành Thơ kể: “Anh Kiệt kêu tôi thay
anh đi dự nghe”.
Tại hội nghị, theo ông Thơ, "Đỗ Mười nói: 'Ta cải tạo công thương thành quốc
doanh, để nắm chặt, tránh cạnh tranh, tránh khủng hoảng thừa thiếu, đảm bảo yêu
cầu nhân dân, tránh đầu cơ bóc lột. Về nông sản ta có trạm từ tỉnh, đảm bảo tự túc
tự cung từ tỉnh, sản phẩm thừa nhà nước thu mua, có kho chứa và vận chuyển cho
nơi thiếu, đảm bảo yêu cầu…'. Mỗi lần nói xong, anh Đỗ Mười nhìn lên mái nhà một
lát rồi lại nói tiếp, cứ thế đến sáu giờ tối mới chấm dứt. Tôi nghe giải thích đó là xã
hội chủ nghĩa, là đảm bảo yêu cầu nhân dân, là không bị đầu cơ bóc lột, những cơ
chế tôi hoàn toàn không thông, vì quá mới mẻ chưa từng qua cuộc sống”.
Theo ông Võ Văn Kiệt: “Sau cải tạo, hệ thống thương nghiệp quốc doanh bắt
đầu thay thế các cửa hàng tư nhân. Ngay cả những cửa hàng tư nhân đang làm ăn
trước chợ Ông Lãnh, chợ Cầu Muối, cũng phải dẹp bỏ để nhường chỗ cho thương
nghiệp quốc doanh đến trưng bảng hiệu”. Trước khi cải tạo công thương nghiệp tư
doanh, báo chí nhà nước liên tục đổ lỗi cho “gian thương
”
455.
Sau ngày cải tạo, cáchộ kinh doanh bị chính quyền truy quét triệt để tới cả vỉa hè, nơi trao đổi từng chiếc
quạt máy, vài cái đồng hồ mà dân Sài Gòn bắt đầu phải bán đi vì túng quẫn.
Báo chí “cách mạng” gọi những tụ điểm mua bán đồ cũ đó là “những hang ổ của
bọn lưu manh trộm cướp, đầu cơ, bọn áp phe buôn lậu, bọn bán hàng giả, hàng ăn
cắp của nhà nước, tiêu thụ của cướp giật, là những điểm hội tụ của tất cả những
bọn làm ăn bất chính, phá rối trật tự trị an, làm hại đến đời sống nhân dân lao
động
”
456
.
Công an thường xuyên phối hợp với các lực lượng thanh niên bảo vệ,
“đồng loạt truy quét bọn lưu manh côn đồ tại mười ba tụ điểm chợ trời lớn trong
thành
phố,
trong
đó
có
xa
cảng
miền
Tây,
khu
Huỳnh
Thúc
Kháng-Hàm
Nghi-
Nguyễn Huệ, khu chợ trời Trần Quốc Toản”.
Ông Kiệt không phải chờ quá lâu để chứng kiến những gì mà chủ nghĩa xã hội
mang lại cho Sài Gòn. “Toàn Đảng” và không ít người dân đã từng tin vào một
tương lai tươi sáng sau khi thực hiện “kế hoạch 5 năm”, 1976-1980. Đại hội Đảng
lần thứ IV đề ra mục tiêu: “Năm 1980 đạt ít nhất hai mươi mốt triệu tấn lương thực
quy thóc, một triệu tấn thịt hơi các loại”. Vậy mà thực tế là, ngay trên vựa lúa Đồng
Bằng Sông Cửu Long, sau khi “cưỡng bức tập thể hóa”, sau khi máy cày, máy kéo
của tư nhân bị đưa vào hợp tác xã, tập đoàn đã trở nên tàn phế, mặc kệ các chỉ tiêu
Đạihội,
sảnlượnglươngthực,thựcphẩmgiảmmạnhsaucác“nămnămkếhoạch
”
457
.
Nếu như chỉ có thất bại của chính sách hợp tác hóa, người dân vẫn có thể
xoay xở với một lượng lương thực chỉ giảm đi vài trăm nghìn tấn. Nhưng gạo lại để
ẩm mốc ở Long An trong khi dân Sài Gòn vẫn đói. Chế độ bao cấp lương thực theo
định lượng và chính sách cấm chợ ngăn sông đã trói buộc cả chính quyền lẫn người
dân.
Ngay sau ngày 30-4-1975, chính quyền mới nhanh chóng thiết lập một chế độ
công hữu các dịch vụ như y tế, giáo dục, biến hàng trăm ngàn thầy cô giáo, y tá,
bác sỹ trở thành công chức ăn lương. Không dừng lại ở mức độ “ưu việt” đó, Bộ
Lương thực đã điều hơn 3.000 mậu dịch viên vào Thành phố, thiết lập một hệ thống
phân phối gạo bao cấp với hơn 1.000 cửa hàng ở khắp Sài Gòn-Chợ Lớn. Chính
quyền dự định cấp sổ gạo cho hơn bốn triệu người dân ở Sài Gòn với mức bình quân
chín ký mỗi người với giá lúc đầu là bốn mươi đồng một ký; sau đổi tiền, chỉ còn
năm mươi xu một ký, trong khi giá gạo trên thị trường năm 1975 là hai đồng rưỡi.
Nhưng niềm hân hoan của người dân Sài Gòn chỉ kéo dài vài tháng.
Cửa hàng lương thực là một trong những điểm tiếp xúc đầu tiên của dân chúng
với chế độ. Theo bà Ba Thi, người dân vừa than phiền thái độ hách dịch cửa quyền
của mậu dịch viên vừa thất vọng về chất lượng gạo. Lượng người xếp hàng ở mậu
dịch đông, trong khi các mậu dịch viên thì thủng thẳng vô sổ, cân đong và ca cẩm.
Để mua được đủ tiêu chuẩn gạo, nhiều người phải xếp hàng cả ngày.
Gạo mậu dịch khi ấy được gọi là “gạo tổ”, thứ gạo mà trước khi nấu phải đãi sạn
và gạo mục, trước khi đãi phải nhặt thóc và bông cỏ. Thế nhưng vì giá bán rẻ hơn
rất nhiều so với thị trường, nên những nhà không ăn tới vẫn cho người ra xếp hàng
mua hết tiêu chuẩn về cho heo, cho gà ăn, hoặc bán lại. Bà Ba Thi Nguyễn Thị
R
áo
458
giải thích: “Nhà nước mua lúa của nông dân với giá rẻ mạt nên người nông
dân bán cho tròn bổn phận chứ không hề băn khoăn phải lựa chọn thứ lúa tốt phơi
khô, rê sạch. Người ta không nói ra nhưng vẫn thấy nhà nước thật lạ, nông dân làm
một nắng hai sương mới ra hột lúa, củ khoai mà thu mua như giựt
”459
.Năm 1978, khi đồng bằng sông Cửu Long mất mùa, Nhà nước phải dùng hàng
vạn tấn khoai lang, sắn và hạt lúa mạch, dân tình quen gọi là bo bo để bán ra thay
“tiêu chuẩn gạo”. Trong tình hình đó, Nghị quyết về “Công tác giá trong tình hình
mới” của Bộ chính trị lại “đổ thêm dầu vào lửa” khi quy định giá thu mua lương
thực, thực phẩm của nông dân thấp hơn rất nhiều so với giá thàn
h
460
.
Tình hình
lương thực càng căng thẳng vì không thu mua được. Ngay trên địa bàn Thủ đô, cho
dù Ban bí thư đã trực tiếp điện yêu cầu các địa phương đưa gạo v
ề
461
,
nhưng tháng
3-1978, người dân Hà Nội chỉ mua được 30% gạo trong khẩu phần lương thực;
tháng 4-1978, tỷ lệ gạo mua được còn thấp hơn tháng 3. Trong khi đó, các thực
phẩm thông thường như rau, đậu phụ, mỡ, cá cũng không đủ để bán theo tem
phiế
u
462
.
Khan hiếm lương thực, thực phẩm và các nhu yếu phẩm bắt đầu tác động mạnh
mẽ lên các thị dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công nhân sống dựa vào tem phiếu
và những gì được cung cấp ở các cửa hàng mậu dịch. Kể từ đầu thập niên 1960, tại
Hà Nội, cán bộ cao cấp có cửa hàng phục vụ riêng tại phố Tôn Đản, cán bộ trung
cấp có cửa hàng tại phố Nhà Thờ, Vân Hồ, Đặng Dung và Kim Liên, còn cán bộ,
công nhân, viên chức bình thường và nhân dân mua ở các cửa hàng rải rác trong
thành phố. Dân tình có thơ: Tôn Đản là chợ vua quan / Vân Hồ là chợ trung gian
nịnh thần / Bắc Qua là chợ thương nhân / Vỉa hè là chợ… nhân dân anh hùng!
Những người hưởng chế độ tem phiếu A1, thuộc thứ bậc thấp nhất trong hàng
hưởng lương nhà nước, thì mỗi tháng chỉ được ba lạng thịt. Cán bộ, công nhân
thường mỗi năm được cấp phiếu mua năm mét vải, mỗi tháng được từ 0,3 đến 0,5
ký thịt, bốn lít dầu… Thường dân thì được mua bốn mét vải một năm. Lao động gián
tiếp, làm việc ở văn phòng, mỗi tháng được bán mười lăm ký gạo; giáo viên được
mười ba ký; sinh viên được mười bảy ký; còn những người “lao động trực tiếp” như
công nhân thì được hai mươi mốt ký gạo. Trong bài văn nộp cho cô giáo, con gái
một công nhân làm việc ở Nhà máy Dệt 8-3 ước mơ: “Ngày Tết em mong sao có
một nồi cơm trắng và một bát thịt kho”.
Mỗi tháng, theo tiêu chuẩn, các gia đình được phân phối thịt. Gọi là thịt nhưng
toàn mỡ vụn, bạc nhạc và lại chia làm hai lần nên phải bốc thăm. Ai trúng thì lĩnh
trước, không trúng thì chờ đợt sau. “Có bị cân hụt mất cả lạng thì cũng phải cố mà
cười. Thịt mang về, rán cho cùng kiệt mỡ, cẩn thận đổ vô liễn rồi mới cho muối, kho
mặn chát để ăn dè. Các nhu yếu phẩm khác như xà phòng, mì chính, chất đốt cũng
vậy, có khi năm ba tháng liền chỉ được lĩnh vải mà không có xà phòng, có người ở
nhà toàn phụ nữnhưng khi lĩnh đồ lót phân phối thì toàn quần đùi, áo may ô và…
dao cạo râu. Trong những ngày chia thịt, ở các khu phố, có không ít tiếng chì chiết
của các ông chồng vì vợ bốc không trúng thăm thịt trong khi mùi mỡ cứ bay từ nhà
hàng xóm sang
”
463
.
Trong khi đó, ở Tôn Đản, theo ông Nguyễn Văn Huy, giám đốc Bảo tàng Dân tộc
học: “Bố tôi là bộ trưởng Bộ Giáo dục. Ông mất ngay sau khi đất nước được thống
nhất, nhưng mẹ tôi vẫn được hưởng chế độ cung cấp như khi bố tôi còn sống. Đại
gia đình chúng tôi, mẹ tôi và bốn gia đình anh chị em chúng tôi, cùng chung sống
dưới một mái nhà, góp tiền lương ăn chung một nồi… Tất cả chúng tôi đều là những
cán bộ trung cấp, là tiến sỹ, giáo sư, phó viện trưởng hoặc tương đương nhưng tiền
lương không đủ để mua hết tiêu chuẩn thực phẩm vốn đã ít ỏi cấp cho một bộ
trưởng
”464
.Hơn hai thập niên, người Hà Nội đã phải sống chung với các mậu dịch quốc
doanh, các cửa hàng gạo như là một biểu tượng của Hà Nội thời bao cấp: Người dân
phải dậy từ nửa đêm để xếp hàng. Người bận quá thì đặt cục gạch, cục đá hay cái
nón, cái rổ rá ở đấy để giữ chỗ. Gạo mua về mà ngửi không có mùi mốc là lâng lâng
sung sướng.
Ước mơ của người Hà Nội trong thập niên 1970 là một chiếc xe đạp Thống Nhất,
một cái quạt tai voi hay một đôi dép nhựa Tiền Phong. Tiêu chuẩn của các cô gái Hà
Nội cũng thật là đơn giản: Một yêu anh có may ô / Hai yêu anh có cá khô ăn dần /
Ba yêu rửa mặt bằng khăn / Bốn yêu anh có chiếc quần đùi ho
a
465
.
Một đôi dép
nhựa Tiền Phong bán chợ đen thời ấy đủ mua một vé máy bay bao cấp từ miền
Nam ra B
ắc
466
.
Chỉ những người đạt các danh hiệu thi đua mới có thể được phân
phối xe đạp. Xe đạp muốn lưu hành cũng phải đăng kí xin cấp giấy chứng nhận sở
hữu và biển số x
e
467
.
Cho đến cuối thập niên 1970, người dân miền Bắc muốn sở
hữu radio cũng cần giấy phé
p
468.
Trong khi nhu cầu hàng hóa để phân phối càngngày càng tăng, chính sách kinh tế kế hoạch hóa đã làm hoang phế máy móc và
triệt tiêu khả năng sản xuất kinh doanh của cơ sở.
Máy bỏ không, công nhân cuốc ruộng
Hầu hết các hãng, nhà máy lớn ở Sài Gòn do có “xuất nhập cảng” nên gần như
đã bị quy là “tư sản mại bản” và bị “đánh” vào tháng 9-1975. Những hãng xưởng
nhỏ
hơn thì từ đó cho tới tháng 3-1978 bị “đánh” hoặc bị “vận động công tư hợp
doanh”. Điều xót xa hơn, theo ông Vũ Đình Liệu: “Máy móc thu được của các nhà tư
sản không những không tiếp tục làm ra của cải mà bị vất vào kho để cho tới khi hư
hỏng”.
Theo ông Trần Hồng Qu
ân
469
:
“Khoảng cuối năm 1978, đầu năm 1979, trung
ương nhờ trường Đại học Bách Khoa cho sinh viên vào kho “hiện vật cải tạo”, để
xem những máy móc trong đó có cái gì còn dùng được. Nhưng sinh viên thì chỉ biết
mấy cái máy tiện, máy phay, những máy móc dùng trong công nghiệp nhẹ thì chưa
bao giờ được tiếp xúc, nên không thể làm gì. Cuối cùng, trung ương ra lệnh, tháo rã
những chiếc máy đó ra, thu hồi những vòng bi làm phụ tùng, còn phần lớn thì dùng
như phế liệu”. Đây là những máy móc mà “trước giải phóng” đã giải quyết việc làm
cho hàng vạn công nhân và làm ra biết bao của cải cho xã hội.
Không chỉ có “tư liệu sản xuất”, nhà cửa của “giai cấp tư sản” đưa vào “quỹ nhà
cải tạo” đã được phân chia như chiến lợi phẩm. Theo ông Đỗ Hoàng Hải: “Những
căn nhà mà tư sản dùng làm cơ sở thương nghiệp, rất tiện cho việc buôn bán, được
chia cho những người lao động. Ngôi nhà đang một chủ, giờ chia ra mỗi hộ giữ một
phòng hoặc một tầng lầu, hộ có toa-let thì không có bếp, hộ có bếp thì không có
nơi phơi phóng”. Không những trong nội bộ ‘giai cấp công nhân’ bắt đầu tranh chấp,
gây gổ với nhau, mà cấu trúc của ngôi nhà cũng bắt đầu bị hủy hoại. Một phần lớn
nhà cửa khác được giao lại cho các đơn vị thương nghiệp quốc doanh thì phần lớn
bỏ không hoặc sử dụng không hiệu quả.
Các cán bộ miền Bắc cũng được các bộ, ngành điều vào để nắm giữ các nhà máy
của tư sản miền Nam.
Một trong số họ là ông Nguyễn Quang Lộc. Tháng 9-1975,khi được giao tiếp quản hãng Bột giặt Viso của nhà “tư sản mại bản” Trần Văn khôi,
ông Lộc đã đề nghị chính quyền “áp dụng chính sách nhân đạo”, hoãn đưa ông Khôi
đi cải tạo hai năm để ông Khôi “truyền kinh nghiệm quản lý nhà máy cho Cách
mạng”. Đây không phải là một may mắn cho ông Trần Văn Khôi, vì năm 1977 ông
vẫn phải đi tù ba năm, mà là may mắn cho chính quyền, vì trong hai năm ấy ông
Khôi đã giúp những người như ông Lộc khôi phục được phần lớn khả năng hoạt
động của nhà máy.
Ông Nguyễn Quang Lộc kể: “Khi tôi vào, ông Khôi nói, mời anh làm giám đốc,
tôi đề nghị để tôi làm ‘phụ tá’ thôi. Rồi tôi nói với công nhân, quý vị yên tâm, ông
Khôi dùng được quý vị thì tôi dùng được. Nhưng điều tôi lo nhất là những cán bộ từ
miền Bắc vào”. Cán bộ miền Bắc, kể cả ông Lộc là kỹ sư, chưa bao giờ nhìn thấy
một giây chuyền sản xuất như vậy. Chưa kể, từ miền Bắc thiếu thốn, vào thấy cái
gì trong nhà máy cũng có giá, không tránh khỏi thèm thuồng. Thế nhưng, thay vì
học hỏi, không ít người lại tự cao, tự đại. Ông Lộc đã phải nói với họ: “Các anh vào
đây, chuyên môn chưa làm được thì phải lo mà giữ đạo đức, đừng có đi mót của,
người ta khinh mình”.
Khác với ông Trần Văn Khôi, tháng 8-1976, khi bà Nguyễn Thị Đồng được Liên
hiệp Dệt cử vào “tiếp thu” Tái Thành Kỹ Nghệ thì chủ nhà máy, bà Đoàn Thị Mỹ, đã
bị đi cải tạo rồi. Quan điểm của bà Đồng là “phải có chi bộ mới đề ra chủ trương
lãnh đạo nhà máy được”. Đảng ủy cấp trên đồng ý cho bà lập một chi bộ có mười
ba người do bà làm bí thư.
Bà Nguyễn Thị Đồng kể: “Tôi phân công từng đồng chí đảng viên chịu trách
nhiệm từng khâu. Khẩu hiệu là không làm thịt máy chết” - tức là không tháo phụ
tùng từ máy cũ sang thay vào máy mới. Tái Thành Kỹ Nghệ sau năm 1975 đã hoạt
động cầm chừng. Nhà máy có 130 máy dệt, một máy hồ mới đem về và mười bốn
máy nhuộm mà “Cách mạng vô không ráp được”. Theo bà Đồng thì những người
thợ giỏi đã bị chủ cũ đuổi đi. Từ danh sách những người bị đuổi, bà Đồng mời được
năm mươi hai thợ giỏi vào nhà máy, lúc bấy giờ được gọi là Dệt Thành Công, làm
việc.
Cũng như ông Nguyễn Quang Lộc, bà Nguyễn Thị Đồng cũng phải dặn các đảng
viên: “Nghèo thì nghèo, tuyệt đối không được lạng quạng”. Thoạt đầu, bà Đồng
phân công các đảng viên làm tổ trưởng. Nhưng vì những người này, theo lời bà
Đồng, đều là “bộ đội quăng qua, không có nghề nghiệp gì”, nên “tôi phải gọi họ lên
làm công tác tư tưởng để họ xuống làm tổ phó cho thợ giỏi lên làm tổ trưởng”.
Những năm tháng đầu sau khi tiếp quản, bà Đồng tích cực “phát triển Đảng
trong giai cấp công nhân”. Bà nói: “Mục tiêu là mỗi tổ sản xuất phải có một đảng
viên, tiến tới một ‘ca’ phải có một chi bộ”. Khát vọng khi đó của bà Đồng là xây
dựng “mô hình
xã
hội chủ
nghĩa
hoàn chỉnh” trên
quê hương
mình. Bà nói với
những công nhân cũ bỏ việc: “Chị nói thật với các em, chị cũng là người miền Nam,ra Bắc ráng học để trở về xây dựng ở miền Nam một xã hội tốt đẹp, cớ gì các em lại
bỏ đi”. Khi ấy bà Đồng chưa nhận ra rất nhiều khó khăn xuất hiện ở miền Nam là
bởi xã hội đang phải đi theo những điều mà những người như bà tin là “tốt đẹp”.
Những khó khăn mà bà Đồng và ông Lộc phải đối diện không chỉ là những gì xảy
ra ở bên trong. Ông Nguyễn Quang Lộc nhớ lại: “Nhà máy đã bị cơ chế quản lý xé
nhỏ, các bộ cắt dọc, địa phương cắt ngang: sáu mươi xe tải của Viso bị bắt bàn giao
cho Bộ Giao thông Vận tải quản lý, hai máy phát điện giao Bộ Điện lực, khu liên hợp
sản xuất nguyên liệu hóa chất giao cho Tổng cục Hóa chất, dây chuyền đóng gói
bột giặt giao cho Bộ Công nghiệp nhẹ”. Trước 1975, nhà máy Viso có năm kỹ sư
nước ngoài, nguyên liệu thiếu, phụ tùng hết chỉ cần gọi điện ra là người ta đưa
sang. Theo ông Lộc: “Cách làm đó ta gọi là lệ thuộc vào ngoại bang nên khi tôi đề
nghị học cách làm của tư sản, tiếp tục hợp tác với nước ngoài không được ai chấp
nhận”.
Để có thể duy trì hoạt động của nhà máy, ông Nguyễn Quang Lộc đưa những
người cũ, giỏi nhất về cơ khí làm quản đốc phân xưởng. Những vị quản đốc cũ này
được trả lương cao, hơn hai ngàn đồng một tháng, trong khi lương ông Nguyễn
Quang Lộc chỉ có 117 đồng. Ông Lộc kể là khi ông trả lương bậc bảy cho một thợ cơ
khí không biết chữ, Vụ Kỹ thuật của Bộ Công nghiệp nhẹ kịch liệt phản đối khiến
cho ông đã rất nao núng. Nhưng khi ông muốn làm mấy cái bồn để dự trữ nhiên
liệu, kêu thợ bậc bảy ngoài Bắc vào làm không được. Ông đành phải gọi một ông
thợ người Hoa, ông thợ người Hoa trả lời: “Ngộ làm được”. Ông Lộc hỏi cần điều
kiện gì, ông thợ người Hoa nói: “Cho ngộ năm thợ phụ, hai thợ hàn, hai thợ gò, mỗi
ngày cho thêm hai bữa phụ bằng xôi và cho mấy két nước ngọt”. Rồi chỉ mười lăm
ngày sau là dựng được bốn bồn đứng.
Cách mạng đã rất tự tin khi đổi tên Tái Thành Kỹ Nghệ thành nhà máy Dệt
Thành Công. Nhưng chỉ chưa đầy hai năm sau, Thành Công đứng trước nguy cơ
phải đóng cửa, máy móc để cho tơ nhện giăng. Công nhân một nhà máy có công
nghệ dệt hiện đại nhất lúc ấy phải sống bằng cách tận dụng vải vụn, tơ rối để khâu
găng tay, nhồi búp bê, đan mũ, đan tất và làm thú nhồi vải vụn. Những công việc
bằng tay đó cũng chỉ giải quyết được một phần lao động. Một phần lớn khác, kể cả
đội ngũ công nhân dệt lành nghề, kỹ sư, thợ điện đều phải đi gặt thuê ở Long An,
mở trại nuôi bò ở Long Thành, xuống Cà Mau làm ruộng, lên Đồng Nai, Sông Bé
khai hoang trồng sắn, lập trang trại nuôi bò. Bí thư Dệt Thành Công, bà Nguyễn Thị
Đồng, cho biết thêm: “Chủ trương đi sản xuất lương thực là từ Bộ Công nghiệp nhẹ,
Liên Hiệp Dệt triển khai. Các ông ấy bị ám ảnh bởi cái đói từ thời chống Pháp”.
Không chỉ công nhân trong nhà máy, theo ông Tư Kết Nguyễn Văn Ly, thư ký
riêng của ông Mai Chí Thọ: “Mấy ngày sau giải phóng, ông Mai Chí Thọ chuyển từ
trường Petrus Ký về cư xá Lữ Gia, ở nhà của Đại tá Đỗ Kiến Nhiễu (đô trưởng Sài
Gòn cũ), sau ông thấy bất tiện nên viết giấy kêu tôi sang tiếp quản nhà 21 Duy
T
ân
470
”
. Nhà 21 đường Duy Tân vốn là tư dinh của tổng giám đốc hãng Esso, có hồ
bơi riêng, có máy phát điện riêng. Khi tình hình khó khăn, ông Tư Kết kể: “Tôi và
Mười Lù, bác sỹ riêng của ông Mai Chí Thọ, phải phá vườn bông trồng rau muống
còn hồ bơi thì nuôi cá rô phi”.
Tư
duy
“tăng
gia sản
xuất
để
tự
cung
tự
cấp”
không
phải
xuất
phát
từ
địa
phương mà từ Chỉ thị 306-TTg mà thủ tướng ban hành ngày 18-11-1980. Theo đó,
các cơ quan xí nghiệp trong cả nước phải tổ chức cho công nhân viên thay phiên
nhau về nông thôn mượn đất của các hợp tác xã để trồng trọt. Kỹ sư, bác sĩ và
những công nhân lành nghề bắt đầu được huy động đi vác cày, vác cuốc. Một thành
phố như Đà Lạt cũng bị chỉ đạo, thay vì trồng hoa, phải phát triển diện tích trồng
khoai sắn.
Cũng có đơn vị không “chấp hành chủ trương” này như nhà máy Bột giặt Viso.
Ông Nguyễn Quang Lộc kể: Ông Mười Hương, phó bí thư thường trực hỏi: ‘Tại sao
mày không đưa người đi trồng lúa để tự túc lương thực?’. Ông Lộc bảo: ‘Việc của
chúng em không phải là trồng lúa’. Ông Mười Hương: ‘Chủ trương của Trung ương
là sẽ cắt hai tháng lương thực, không trồng lấy gì ăn?’.
Ông Lộc: ‘Người ta chỉ công
nhân hóa nông dân, không ai nông dân hóa công nhân cả. Làm ruộng cũng là một
nghề, không phải làm phong trào’. Ông Mười Hương: ‘Tại sao người ta làm được mà
mày không làm được?’. Ông Lộc: ‘Thưa anh chúng nó lếu láo, lấy xăng dầu đổi sắn,
đổi gạo hết chứ không trồng cấy gì ra thóc ra lúa đâu’. Ông Mười Hương: ‘Tao
không cãi với mày, tao vẫn bảo bên Lương thực cắt hai tháng của Viso đấy'.
Tháo gỡ
Tác giả của mô hình kinh tế này, Tổng Bí thư Lê Duẩn, cũng rơi vào bế tắc. Theo
ông Đỗ Phượng, tổng giám đốc Thông tấn xã Việt Nam: “Không ít lần tôi báo cáo
thông tin với đồng chí Tổng bí thư, nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên tôi thấy anh Ba
ngồi yên, nghe mà như không nghe, không hỏi lại mà cũng không ngắt lời
”471
.Khi
ông Đỗ Phượng nói “muốn được nghe ý kiến của anh”, ông Lê Duẩn đứng dậy, nói
bằng một giọng nhẹ nhàng mà ông Đỗ Phượng nói là ông chưa từng nghe bao giờ:
“Thế anh bảo Trung ương phải làm gì đây, tôi phải làm gì đây! Các đồng chí lãnh
đạo có trách nhiệm bên Đảng và bên chính phủ đều có mặt tại chỗ. Khó khăn thì
phải tìm cách tháo gỡ, ngồi mà kêu cực trông chờ ai cứu mình”.
Ở cấp địa phương, theo ông Võ Văn Kiệt: “Hàng ngày lãnh đạo Thành phố phải
họp để nghe chi tiết thương nghiệp thu mua được mấy tấn thịt, mấy tấn rau mà vẫn
không sao làm tốt bằng tư nhân được. Dân kêu: ngay cả khi chiến tranh ác liệt
nhất, Sài Gòn vẫn có rau xanh, cá tươi, thịt ngon bán chứ không khan hiếm thế
này”. Ông Kiệt thừa nhận bản thân ông lúc ấy cũng chưa nhìn thấy nguyên nhân
chính nằm ở chế độ bao cấp vừa được nhanh chóng áp dụng ở miền Nam. Ông nói:
“Mình có biết gì về cách mạng xã hội chủ nghĩa đâu, Trung ương bảo làm thì ráng
làm. Làm rồi mới thấy không phù hợp”. Ông Kiệt cố gắng xoay xở để làm sao có cá,
có rau và có thịt. Ông chỉ thị: “Không được để một người dân chết đói”.
Thoạt đầu, ông Võ Văn Kiệt dự định “tháo gỡ” từ trên. Theo ông Nguyễn Thành
Thơ: “Một hôm anh Kiệt đi công tác Cần Thơ, nghe anh Bảy M
áy
472
,
bộ trưởng Bộ
Lương thực, đang đi đôn đốc cất kho trữ lúa, anh Kiệt mời anh Bảy Máy gặp bàn về
lưu thông nông sản, chủ yếu là lương thực. Anh Bảy Máy nói: ‘Tôi chỉ biết nghe ý
kiến chính thống, chớ không nghe ý kiến ai cả’. Anh Kiệt xếp tập sổ lại: ‘Hết làm
việc rồi’”.
Ông Kiệt trở lại Thành phố gặp Sở Lương thực, và khi bà Ba Thi đề xuất để bà
chủ động về đồng bằng sông Cửu Long tổ chức thu mua lúa gạo đem về Sài Gòn,
ông Kiệt đồng ý. Ngay sáng hôm sau, ông Võ Văn Kiệt cho mời giám đốc Ngân hàng
Thành phố, ông Lữ Minh Châu, giám đốc Sở Tài chánh, ông Nguyễn Ngọc Ẩn, chánh
Văn phòng Thành ủy, ông Nguyễn Văn Nam và bà Ba Thi đến nhà riêng “ăn sáng”.
Sau bữa điểm tâm, ông Kiệt nói: “Hiện nay, dự trữ gạo Thành phố chỉ còn vài
ngày. Theo nguyên tắc thì Bộ Lương thực có trách nhiệm cung cấp mỗi tháng bốn
mươi đến bốn mươi lăm nghìn tấn gạo nhưng nhiều lắm thì bộ chỉ cung cấp được
khoảng ba mươi nghìn tấn thôi. Bộ không có đủ gạo vì dân không muốn bán lúa cho
nhà nước theo giá quy định. Sở Lương thực thì không được phép tự ý thu mua với
giá thỏa thuận. Người dân Thành phố cũng không thể tự đi mua gạo với giá hợp lý
cho nông dân vì không thể vận chuyển gạo ra khỏi tỉnh. Tại sao ta không ráp hai
mối này lại?”.
Ở thời điểm đó, “ráp” khả năng cung ứng lúa gạo của nông dân với nhu cầu
lương thực của thị dân là phạm luật. Theo ông Lữ Minh Châu, nếu bà Ba Thi lấy
danh nghĩa Sở Lương thực đi mua thóc thì bà không được quyền mua theo giá thỏa
thuận; nếu bà lấy danh nghĩa cá nhân thì bên tài chánh không thể cấp vốn, ngân
hàng không thể cho vay; mua được thóc cũng khó mà vận chuyển thóc từ các tỉnh
về cũng khó. Ông Châu cho rằng muốn làm được thì phải “xé rào”, ông Võ Văn Kiệt
lập tức đồng ý.
Một mô hình làm việc ngay buổi sáng hôm đó đã được hình thành: tài chánh cử
kế toán đi cùng, ngân hàng cử người mang tiền mặt theo, bà Ba Thi quyết định
mua ở đâu thì kế toán làm giấy tờ, ngân hàng chi tiền. Mô hình có tên gọi là “tổ thu
mua lúa gạo” do bà Ba Thi làm tổ trưởng.
Mặc dầu đã được ông Kiệt với tư cách là ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, bí thư
Thành ủy ra “chủ trương” nhưng bà Ba Thi vẫn lo lắng: “Chúng tôi làm được nhưng
trung ương biết là đi tù đó”. Ông Võ Văn Kiệt nói: “Đừng tham ô thôi, còn nếu chỉ
làm thế này mà các anh chị phải đi tù thì tôi đưa cơm!”. Rồi đích thân ông Kiệt cùng
bà Ba Thi về làm việc với Tỉnh ủy Bạc Liêu và Huyện ủy Giá Rai, thuyết phục các địa
phương bán gạo cho Thành phố. Khi ấy, nhiều tỉnh ban hành lệnh cấm mang lúa
gạo ra khỏi địa phương. Các trạm kiểm soát được lập trên gần như tất cả mọi tuyến
đường, ai đi qua cũng có thể bị khám xét, mua năm bảy ký gạo, đưa ra khỏi huyện,
khỏi tỉnh là có thể bị tịch thu. Vì thế có nơi để gạo thóc ẩm mục, phải cho heo gà ăn
hoặc làm phân bón, có nơi đói mà không thể lưu thông. Các sở lương thực chỉ có
quyền ngồi chờ khoai sắn từ Bộ Lương thực cấp về rồi phân phối.
Để có thể mua được lúa gạo và đưa trót lọt về Sài Gòn, bà Ba Thi vừa phải dựa
vào uy của ông Võ Văn Kiệt vừa phải khai thác các mối quan hệ của chính mình.
Thời gian đầu, bà phải dùng xe biển số đỏ của Bộ Tư lệnh Thành với bộ đội mang
súng đi theo áp tải gạo qua địa bàn các tỉnh.
Cái cách mà bà Ba Thi mua lúa ở miền Tây cũng "du kích" không khác gì phương
thức mà bà đã hoạt động ở đồng bằng trước ngày giải phón
g
473
.
Ông Nguyễn Thành
Thơ viết: “Một hôm chị Ba Thi ra Hà Nội tặng quà những ai giúp đỡ chị, quà là năm
gói mì ăn liền do nhà máy chị sản xuất. Chị đưa tặng tôi, tôi nói: ‘Chị cho tôi biết tôi
đã giúp đỡ gì tôi mới dám nhận quà’. Chị nói: ‘Bận tôi mua lúa gạo không có anh,
nhưng tôi tìm anh, nhờ anh nói các tỉnh, giúp tôi mua lúa gạo dễ dàng, đồng thời
một chuyến ghe tôi mua lúa gạo ở Rạch Giá, bị bắt, anh em chạy đến nhờ anh giúp
đỡ, anh giúp có kết quả’. Tôi nói: Vậy tôi nhận qu
à”
474
.
Một cán bộ thu mua lương thực của bà Ba Thi, bà Út Hiền, kể: “Ở nông thôn,
nông dân cần dầu lửa thắp đèn, cần vải đen may quần áo đi làm ruộng, cần thuốc
uống trị bệnh lúc ốm đau. Nhưng, nhiều người cầm xấp tiền mới mà không có gì để
mua”. Khi đó, mới đổi tiền, 500 đồng tiền chế độ cũ đổi một đồng tiền mới. Mệnh
giá đồng tiền quá lớn trong khi hàng hóa không còn. Bà Út Hiền nói tiếp: “Chúng tôi
không còn mua gạo bằng đồng tiền nữ
a”
475
.
Bà Ba Thi đề nghị Thành ủy mang hàng hóa về đổi lương thực, thuật ngữ kinh tế
khi đó gọi là “hàng hai chiều”. Dầu lửa, thuốc tây, vải đen,… bắt đầu được chở
xuống. Bà Ba Thi lập ra các điểm thu mua, nông dân mang lúa tới, đổi lấy những tờ
phiếu lãnh hàng rồi cầm phiếu này đi nhận dầu, nhận vải, nhận thuốc. Gạo của bà
Ba Thi mua về được bán theo giá “đảm bảo kinh doanh”: tính đủ chi phí mua lúa,
vận chuyển, xay xát, hao hụt. Từ năm 1979, khoảng một triệu rưỡi dân Thành phố
đã được mua mỗi người sáu ký gạo mỗi tháng với giá bảy đồng; năm 1982, chín ký
mỗi tháng với giá mười hai đồng, rẻ hơn so với gạo của tư nhân cùng loại.
Cùng với những “tháo gỡ” trong việc “thu mua lương thực”, cuối năm 1978, đầu
năm 1979, ông Võ Văn Kiệt xuống làm việc ở nhà máy dệt Việt Thắng, một nhà
máy có hàng ngàn công nhân được trang bị máy móc hiện đại. Thoạt đầu, ông Kiệt
đến đây như một nhà lãnh đạo Đảng đến với giai cấp công nhân. Ông muốn chuyến
đi của ông đánh tan mối nghi ngờ của một số nhà lãnh đạo lúc đó cho rằng lực
lượng công nhân ở những nhà máy do giai cấp tư sản để lại như Việt Thắng đã bị
chi phối bởi “công đoàn vàng”. Tuy nhiên, sau một tuần làm việc ở nhà máy, ông
Võ Văn Kiệt nhận ra điều mà “giai cấp công nhân” cần không phải là “phẩm chất
chính trị” mà là công ăn việc làm. Vật tư, nguyên liệu do nhà nước cung cấp theo kế
hoạch chỉ đủ cho nhà máy sản xuất được vài ba tháng. Trong khi đó, nhà máy lại
không được quyền tự tìm kiếm vật tư nguyên liệu. Phần lớn công nhân phải nghỉ
hưởng 70% lương.
Ngoài Việt Thắng, ông Võ Văn Kiệt đã cùng với các ủy viên Thường vụ khác đến
làm việc tại mười lăm nhà máy. Từ thực tế đó, Ban Thường vụ Thành ủy đã chủ
trương “mở rộng quyền chủ động cho các cơ sở sản xuất”, cho xí nghiệp thực hiện
“ba phần kế hoạch”. Theo đó, ngoài kế hoạch nhà nước giao, xí nghiệp còn được
thực hiện kế hoạch 2: khai thác nguồn nguyên liệu từ tận dụng phế liệu, phế thải;
kế hoạch 3: liên kết với các xí nghiệp và các địa phương để sản xuất. Thành ủy còn
cho phép các xí nghiệp áp dụng chế độ “ba lợi ích”, theo đó, ngoài “lợi ích của nhà
nước”, “lợi ích tập thể”, xí nghiệp còn có phần để quan tâm đến “lợi ích của người
lao động”.
Đồng thời, ông Kiệt cho phép Ủy ban Nhân dân Thành phố mở các kho chứa tài
sản thu được từ các chiến dịch cải tạo tư sản ra sử dụng. Thành ủy cũng kiến nghị
với trung ương cho phép Thành phố được sử dụng nguồn phế liệu trong các kho do
quân đội và các ngành trung ương quản lý. Đặc biệt, Thành phố kiến nghị để cho
các xí nghiệp xuất nhập khẩu được trực tiếp giao dịch với khách hàng sau khi đã
hoàn thành chỉ tiêu xuất đại ngạch cho trung ương theo kế hoạch.
Nghị quyết Trung ương 6
Việc dự trữ lương thực của một Thành phố như Sài Gòn có lúc chỉ còn đủ ăn vài
ngày đã được ông Võ Văn Kiệt đưa vào chương trình nghị sự của Bộ Chính trị. Cuối
năm 1978, không chỉ có Thành phố, hầu như địa phương nào cũng ở trong tình
trạng cực kỳ khó khăn. Đầu năm 1979, Ban Bí thư đã tiến hành điều tra thực tế
miền Nam. Báo cáo của đoàn kiểm tra là cơ sở để ngày 18-5-1979, Bộ Chính trị ra
Thông báo số 10, điều chỉnh một số chỉ tiêu và biện pháp kinh tế hai năm còn lại
của “Kế hoạch 5 năm”. Thông báo của Bộ Chính trị thừa nhận: “Một số biện pháp
tưởng là đúng đắn trước đây tỏ ra không hiệu quả, ngược lại những ý kiến bị quy
kết là sai lầm nay cần được lắng nghe và xem xét một cách nghiêm túc”. Thông báo
số 10 không chỉ ra “những ý kiến bị quy kết sai lầm” bao gồm chuyện thu mua
lương thực của Thành phố và chuyện mua đường và đậu phộng giá cao của Long
An. Tuy nhiên, nhận xét của Bộ Chính trị đã gỡ bỏ được không ít “án treo”, đặc biệt
là những cái “án” lơ lửng trên đầu lãnh đạo Long An.
Năm 1977, tỉnh Long An cũng đã mua đường và đậu phộng của nông dân theo
giá thị trường rồi bán giá cao tại các cửa hàng thương nghiệp. Phần nghĩa vụ, Long
An thay vì nộp theo “giá chỉ đạo” lại đòi Trung ương phải trả theo giá đã thu mua.
Trung ương không chịu. Tỉnh đem bán cho Công ty Xuất Nhập khẩu Thành phố Hồ
Chí Minh rồi mua hàng công nghiệp về bán lại.
Bằng cách đó, Long An không chỉ
thu hồi được nguồn tiền bỏ ra thu mua mà còn tích lũy được khá nhiều cho ngân
sách. Tuy nhiên, cách làm “trái nguyên tắc” này đã được Bộ Nội thương báo lên
chính phủ. Phó Thủ tướng Phạm Hùng đã ra lệnh cho Long An dừng lại.
Tháng 8-1979, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần 6. Không còn sự lạc quan, say
sưa của ba năm trước đây, Trung ương thừa nhận: “Lẽ ra thắng lợi vĩ đại của sự
nghiệp chống Mỹ cứu nước cùng những thắng lợi mấy năm qua phải tạo nên một sự
phấn khởi to lớn và một sức vươn lên mãnh liệt của nhân dân lao động. Nhưng sự
phấn khởi và sức vươn lên đó đã bị hạn chế và gần đây phát sinh tâm lý bi quan,
xao xuyến, thiếu tin tưởng trong một bộ phận dân cư”.
Theo chương trình toàn khóa, Hội nghị Trung ương 6 dự định sẽ nghe Chủ nhiệm
Ủy Ban Kế hoạch Nguyễn Lam báo cáo về chương trình sản xuất hàng tiêu dùng.
Nhưng “tháng 7-1979, khi Bộ Chính trị họp chuẩn bị cho hội nghị trung ương, ông
Võ Văn Kiệt đã đề nghị Bộ Chính trị dành thời gian để nghe tình hình kinh tế-xã hội
đang khó khăn ở mức đáng báo động trong cả nước. Bộ Chính trị đồng ý, và chỉ
trong một thời gian ngắn, Văn phòng Trung ương cùng với Viện Kinh tế Trung ương
đã khẩn trương chuẩn bị một văn kiện đưa ra các giải pháp nhằm ‘giải quyết những
vấn đề cấp bách’ của đất nước
”
476.
Hội nghị Trung ương 6, tuy vẫn cho rằng có nguyên nhân “kẻ địch lợi dụng tình
hìnhđể
chốngphá”,nhưngđãnhậnranguyênnhânđấtnướckhókhănlàvì"những khuyết điểm chủ quan
”
477
và chủ trương xóa bỏ ngay những chính sách chế
độ bất hợp lý, gây trở ngại cho sản xuất, khuyến khích việc phát triển sản xuất, mở
rộng “quyền chủ động hợp lý” của các ngành, các địa phương và cơ sở nhằm làm
cho sản xuất bung ra để có nhiều hàng hóa cho xã hội. Đặc biệt, Nghị quyết Trung
ương 6 cho phép “các địa phương được mua bán với nhau và được quyền quyết định
giá”.
Ông Võ Văn Kiệt coi Nghị quyết Trung ương 6 là một thắng lợi. Sau hội nghị này,
Thành ủy càng đẩy mạnh xé rào trên nhiều mặt. Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành
phố Hồ Chí Minh lần thứ II, tổ chức tháng 10-1980, được xác định là “Đại hội chấp
hành sự chuyển hướng chính sách kinh tế của Ban Chấp hành Trung ương”.
Ngày 14-10-1980, trên diễn đàn đại hội có ông Lê Duẩn tham dự, Võ Văn Kiệt
đã phê phán “những khuyết điểm của công tác cải tạo công thương nghiệp tại miền
Nam” đồng thời chỉ ra “những sai lầm trong chính sách” mà theo ông “đang dẫn
đến những nguy cơ triệt tiêu động lực của chế độ làm chủ tập thể”. Sau phát biểu
này của ông Võ Văn Kiệt, các ý kiến thảo luận trong đại hội đã phân tích thêm: do
không nắm được đặc điểm tình hình miền Nam, nhất là Sài Gòn, cải tạo ở miền
Nam đã được áp dụng như đã làm ở miền Bắc nên dẫn đến nhiều sai lầm và đã phải
trả giá đ
ắt
478.
Bù giá vào lương
Tình trạng kiệt quệ ngân sách và thiếu hụt lương thực nghiêm trọng cuối năm
1979 đã buộc trung ương phải tham chiếu thực tiễn “xé rào” thành công của Thành
phố Hồ Chí Minh. Đầu năm 1980, Hội đồng Chính phủ, “dưới ánh sáng Nghị quyết
Trung ương 6”, đã ra Quyết định 09-CP, áp dụng chế độ cung ứng lương thực giống
như Thành phố Hồ Chí Minh. Theo đó, những người nằm trong biên chế Nhà nước
tiếp tục được mua giá cung cấp. Những cư dân đô thị khác được mua theo giá tính
đủ chi phí.
Tại Long An, ngày 22-9-1980, Ủy ban Tỉnh ra quyết định: “Giá thu mua heo con
loại một là 6,5-7,5 đồng/kg thay vì 5 đồng như trước nay”. Kết quả, theo ông Bùi
Văn Giao, khi ấy là trưởng Ty Thương nghiệp: “Trước đây mậu dịch quốc doanh
xuống tận nhà dân truy mua, bắt trói sưng chân, heo bỏ ăn, xuống ký. Áp dụng giá
mới, nông dân tự bắt heo bỏ xe chở lên giao cho nhà nước, con heo sống khỏe, thịt
heo ngon, các công ty trung ương cũng hoan nghênh Long An”. Người đưa ra các
sáng kiến cải cách ở Long An là ông Bùi Văn Giao.
Năm 1954, ông Bùi Văn Giao tập kết ra Bắc. Sau khi tốt nghiệp Đại học Thương
nghiệp Hà Nội, ông về làm ở Bộ Nội thương, nơi “đẻ” ra tem phiếu. Ông Giao từng
làm trưởng Phòng Kế hoạch, từng chứng kiến xe đạp Favorite, vải viện trợ của Thụy
Điển bán giá rẻ như cho, chủ yếu là vợ con cán bộ mua rồi mang ra chợ trời bán.
Khi về Long An làm trưởng Ty Thương nghiệp, ông Giao kể: “Hết ban ngành, đoàn
thể trong tỉnh, đến các đoàn khách đến thăm đều xin mua đồ cung cấp vì giá nhà
nước bán rẻ gấp năm, gấp sáu lần thị trường; tôi phải ký duyệt hàng ngàn đơn do
Tỉnh ủy, Ủy ban và các ngành chuyển sang”.
Thay vì chỉ mua đường, mua thịt theo giá cao, đầu năm 1980, ông Bùi Văn Giao
nghiên cứu một bước đi táo bạo: bù giá vào lương. Giá cả năm 1979 đã tăng gấp ba
lần so với năm 1976. Chênh lệch giá tem phiếu và giá thị trường cũng rất cao, ví dụ
giá cung cấp thịt heo là ba đồng trong khi giá thị trường là 70 đồng/kg. Ông Giao
đã lấy chín mặt hàng cung cấp, tính chênh lệch giá giữa tem phiếu và thị trường tự
do rồi, thay vì cấp tem phiếu và tổ chức cửa hàng quốc doanh, ông đề nghị trả
bằng tiền khoản chênh lệch ấy để viên chức nhà nước tự ra chợ mà mua.
Bí thư Tỉnh ủy Long An lúc bấy giờ là ông Nguyễn Văn Chính, thường được gọi là
ông Chín Cần, ủng hộ ông Giao thực hiện đề án táo bạo này. Ngày 26-6-1980,
Thường vụ Tỉnh ủy họp. Sau khi nghe Ty Thương Nghiệp trình bày đề án, theo ông
Bùi Văn Giao, một đại tá là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy đập bàn cái rầm: “Ai đề xuất
cái này, lập trường đâu?”. Một số ủy viên từ miền Bắc và từ các trường đại học ở
Đông Âu về cũng phản đối. Hội nghị kéo dài sang ngày hôm sau thì ra được Quyết
định số 03-ĐB về “Biện pháp thực hiện chủ trương mua bán hàng theo giá thỏa
thuận”.
Sau khi có nghị quyết, ông Chín Cần lên Thành phố gặp ông Nguyễn Văn Linh,
khi đó là ủy viên Bộ Chính trị được phân công theo dõi việc thực hiện nghị quyết ở
các tỉnh phía Nam. Ông Linh nói: “Vấn đề liên quan đến tiền lương phải báo cáo anh
Lê Đức Thọ”. Trưởng Ban Tổ chức Lê Đức Thọ nghe xong “cho làm thử”. Ông Linh,
sau khi nghe báo cáo là đã có ý kiến “anh Sáu Thọ” và cho trợ lý xuống Long An
kiểm tra, đã đồng ý cho Long An làm thử.
Tuy nhiên, từ đó cho tới tháng 9-1980, Ủy ban Tỉnh không ra được văn bản nào
để triển khai Quyết định 03-ĐB. Theo ông Bùi Văn Giao: “Ông Chín Cần bảo tôi, nếu
anh không qua Ủy ban thì không làm được đâu”. Tháng 9-1980, ông Giao được đưa
qua Ủy ban, làm phó chủ tịch phụ trách phân phối lưu thông. Việc đầu tiên của ông
là thảo ra Chỉ thị 31 để thi hành đề án.
Mặt hàng đầu tiên được triển khai bán ra là vải. Trong ngày đầu tiên, theo quán
tính, người dân đổ xô, tranh nhau mua. Ông Bùi Văn Giao kể: “Ở huyện Đức Huệ, bí
thư Huyện ủy cấm xe của thương nghiệp chở hàng về bán giá cao. Khi thấy dân
mua nhiều quá, những người lúc trước không tán thành chủ trương bù giá đề nghị
cho ngưng lại. Tôi xin ba ngày. Hôm sau, tôi cho xe chở hàng tới nhiều nơi trong
tỉnh bán lưu động. Người dân chợt nhận ra hàng bán với giá như chợ bán, xếp hàng
mua làm gì”. Khi người dân không còn mua hàng tích trữ nữa, thị trường ổn định
trở lại, tỉnh bắt đầu cho giảm giá từ từ. Theo ông Giao: “Chúng tôi không những tiết
kiệm được rất nhiều tiền in tem phiếu mà Phòng Tem phiếu có chín người từ đó bắt
đầu hết việc làm”.
Cũng trong năm 1980, tại An Giang, những hoạt động trao đổi lương thực của
bà Ba Thi trong vùng đã như một gợi ý để An Giang thực hiện phương thức “mua
cao bán cao” với nông dân. Từ đầu năm 1980, An Giang quy định giá mua phần lúa
“vượt mức nghĩa vụ” của nông dân lên sát giá thị trường, đồng thời cũng cho bán
phân bón, vật tư theo sát giá thị trường. Đặc biệt, từ năm 1980, An Giang bắt đầu
xóa bỏ các trạm kiểm soát hàng hóa. Đến năm 1982 thì tỉnh không những “cấm
gây phiền hà cho việc đi lại của nhân dân, phân biệt người buôn bán với nhân dân
đi lại có mang theo ít hàng hóa để dùng hoặc để làm quà” mà quyết định ngày 29-
6-1982 của Ủy ban Tỉnh còn “cho phép nhân dân đem lúa gạo ra khỏi tỉnh để bán.
Mỗi người mỗi lần được chở không quá hai tấn gạo hoặc ba tấn lúa”.
Cắm cờ xé rào
Sau Hội nghị Trung ương 6, trở lại Sài Gòn, nơi bức tường rào cơ chế ghi dấu vết
“xé” đầu tiên, ông Võ Văn Kiệt tiếp tục sử dụng ảnh hưởng của một ủy viên dự
khuyết Bộ Chính trị thúc đẩy sự bung ra ở cả những xí nghiệp thuộc quyền quản lý
của trung ương nhưng đóng trên địa bàn Thành phố.
Ông Kiệt xuống nằm nhiều ngày trong các nhà máy như Bột giặt Viso, Dệt Việt
Thắng, Dệt Thành Công, Thuốc lá Vĩnh Hội,… tận mắt nhìn thấy máy móc bị vất lăn
lóc, trực tiếp lắng nghe từng kỹ sư, từng người thợ bậc cao nói về cách mà những
người chủ cũ của họ đã điều hành những nhà máy này, lắng nghe những ràng buộc
mà cơ chế đang trói tay, trói chân các doanh nghiệp. Theo ông Phạm Văn Hùng, thư
ký riêng của ông Kiệt: “Những khi ông ở lại nhà máy, chúng tôi phải mang cơm cho
ông vì ông không cho nhà máy tiếp đón”.
Xuống Viso, ông Võ Văn Kiệt nói: “Không có cuộc chiến tranh nào kết thúc mà
bên chiến thắng tiếp quản được một thành phố nguyên vẹn hoàn toàn như Sài Gòn.
Những cái khó, ách tắc còn lại chỉ là tự mình gây ra, tự mình trói mình. Chúng ta
phải
tháo
gỡ, tháo
không
được
thì phải
chòi
đạp”.
Giám
đốc Viso,
ông
Nguyễn
Quang Lộc, nói với ông Kiệt: “Ta phải học cách làm của tư bản thôi. Nếu muốn học
tư bản thì không ở đâu tốt hơn Sài Gòn”. Ông Nguyễn Văn Kích, khi ấy là trưởng
phòng Tổng hợp, Ban Thi đua Thành phố, tháp tùng ông Kiệt xuống các “điển hình”,
nói: “Đến Viso, ông Kiệt trở nên cởi mở hơn, vì ở những nơi mà ông đi qua, không
ai trình bày vấn đề một cách có hệ thống và chỉ ra được những ách tắc và lối ra rõ
ràng như ông Lộc”.
Được ông Võ Văn Kiệt khích lệ, thay vì đưa công nhân đi cấy lúa, trồng khoai,
ông Lộc đã dùng “sức mạnh công nghiệp” làm ra sản phẩm đem đổi “thực phẩm,
lương thực” về cho nhà máy. Ông Nguyễn Quang Lộc được coi là người đầu tiên
nghĩ ra “tam giác” xuất khẩu: dùng sản phẩm công nghiệp đổi nông sản, dùng nông
sản đổi ngoại tệ, dùng ngoại tệ mua nguyên liệu cho công nghiệp. Ông Lộc kể:
“Tổng Cục không còn hóa chất cấp cho Viso, tôi đành xuống Minh Hải mua dầu dừa
về nấu thành xà bông. Dùng xà bông đó đổi gạo, đổi heo. Tỉnh Minh Hải rất phấn
khởi, họ cấp giấy, rồi lấy cờ Văn Phòng Tỉnh ủy cắm trên xe chở heo, chở gạo để
chúng tôi có thể chạy phăng phăng về Thành phố”.
Cũng như Viso, Dệt Thành Công không có quyền đi mua sợi về dệt vải, đồng thời
không có quyền tự ý đem vải mình dệt đem bán ra thị trường. Nhà nước, thông qua
Liên Hiệp Dệt, đầu năm giao kế hoạch rồi giao sợi, nếu sợi ít thì cuối năm rút bớt kế
hoạch xuống. Số sợi theo kế hoạch đó dệt được bao nhiêu lại giao cho Liên Hiệp để
Liên Hiệp giao lại cho Thương nghiệp. Thương nghiệp dùng vải đó phân phối theo
chế độ, trong đó có phần dùng làm hàng trao đổi cho nông dân trên cơ sở nhà nước
thu lại nông sản với giá “mua như cướp”.
Để thoát ra khỏi cơ chế này, các nhà máy Viso, Dệt Thành Công và Thuốc lá
Vĩnh Hội, nơi ông Lê Đình Thụy làm giám đốc, đưa ra sáng kiến tự vay ngoại tệ mua
nguyên liệu sản xuất. Sản phẩm làm ra, thay vì giao cho Liên hiệp để bán cho
Thương nghiệp, nhà máy tự bán trực tiếp cho các công ty xuất nhập khẩu để thu
ngoại tệ. Vấn đề là khi đó chỉ có Vietcombank mới có ngoại tệ, và ngân hàng này
chỉ xuất ngoại tệ theo lệnh của chính quyền chứ không có chuyện cho doanh nghiệp
nào vay USD cả.
Giám
đốc
Vietcombank
Thành
phố
Hồ
Chí
Minh,
ông
Nguyễn
Nhật
Hồng,
và
Giám đốc Sở Ngoại Thương, ông Mười Phi, không phải là những cán bộ quan liêu.
Hai ông đã từng quan hệ với giới ngân hàng ở Hong Kong trong thời gian làm kinh
tài chuyển tiền mua vũ khí vào Nam. Hiểu cách làm của các giám đốc năng động,
hai ông đã cùng với Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt xuống tận nhà máy để nghe giải
trình, và khi ông Võ Văn Kiệt “bật đèn xanh”, Vietcombank đã cấp ngoại tệ cho các
nhà máy mua nguyên liệu. Sau đó, đích thân ông Võ Văn Kiệt xuống tận các nhà
máy “phát động chiến dịch”. Báo Sài Gòn Giải Phóng cử người đi theo Bí thư Thành
ủy và cho đăng các bài xã luận gọi những hành động “xé rào” này là những “trận
đánh táo bạo
”
479.
Cứ mỗi lần ông Võ Văn Kiệt xuống các nhà máy “cắm cờ” là lạithêm một đoạn “tường rào cơ chế” được “xé”.
Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là lúc ấy ông chỉ nhận ra thực tiễn có điều gì đó
thậm sai nhưng không đủ lý luận để tìm ra nguyên nhân. Ông Kiệt chỉ biết số phận
chính trị của những giám đốc dám nghe ông “xé rào” còn có một “tròng” nằm trong
tay các ban ngành trung ương. Giống như hồi 1973, cứ sau khi đẩy lui được một
“thành trì”, ông lại cho “cắm cờ’ thi đua, khen ngợi. Sự xác nhận của một ủy viên
dự khuyết Bộ Chính trị như ông ít nhiều sẽ làm cho những “đặc phái viên” quan liêu
được cử từ Hà Nội vào lúng túng mà chùn tay. Họ không thể “xử trảm” một cách
làm ăn mà cấp ủy địa phương đã đóng dấu “điển hình tiên tiến”.
Sau một thời gian làm việc chung với “giai cấp tư sản” miền Nam, ông Nguyễn
Quang Lộc cho rằng không phải những người được đưa từ miền Bắc vào dốt hơn,
kém khả năng hơn chủ cũ của các nhà máy. Sở dĩ chỉ một thời gian ngắn sau khi
tiếp quản, nhà máy đi đến chỗ suy sụp, công nhân đói là vì họ tuân thủ các nguyên
tắc mà họ mang từ miền Bắc vào. Ông Lộc nói: “Những người xé rào như chúng tôi
không phải giỏi hơn, đơn giản chỉ vì chúng tôi không phản lại thực tế”. Ở Viso, ông
Nguyễn Quang Lộc giữ nguyên bộ máy cũ, chỉ sử dụng 2% cán bộ tăng cường từ
miền Bắc. Một trong những lý do khiến sáu tháng sau khi ông Lộc nắm Viso, nhà
máy khôi phục được mức sản lượng trước ngày “giải phóng” là nhờ ông giữ được
90% thợ kỹ thuật giỏi người Hoa (thời kỳ “nạn kiều” không có ai ở Viso bỏ đi).
Nhưng rồi ông Võ Văn Kiệt sẽ thấm thía ý kiến của Kỹ sư Dương Kích Nhưỡng:
“Điều hành một đất nước phải bằng pháp luật chứ không thể bằng nghị quyết và
những sáng kiến cá nhân”. Những câu chữ như “bung ra” hay “quyền chủ động hợp
lý” không phải là một quy phạm để người thực thi xác định được ranh giới đúng sai;
chúng chỉ là những khái niệm mơ hồ, áp dụng tới đâu là tùy thuộc vào ý chí và
nhận thức. Hồ sơ tố cáo “xé rào” liên tục được gửi ra Hà Nội. Khi nghe Viso thay vì
chờ Bộ cung cấp phụ tùng lại xoay xở tự tìm lấy ngoài thị trường, ông Đỗ Mười, khi
ấy là phó thủ tướng, quát: “Bọn này tiếp tay cho gian thương”. Ở nhà máy dệt
Thành Công, từ chỗ không có một đồng dính két, từ khoản vay 120.000 USD đầu
tiên trong năm 1980, Thành Công lãi được 82.000 USD; năm 1981, tích lũy ngoại tệ
của Dệt Thành Công lên đến 1,3 triệu USD.
Nhưng như thế là sai phạm. Ông Đỗ
Mười ra lệnh thanh tra.
Bí thư nhà máy, bà Nguyễn Thị Đồng, nhớ lại: “Chúng tôi buồn quá, khi mình
đang làm giàu được cho nhà nước thì bị nhà nước đòi xử lý”. Theo bà Đồng: “Đầu
tiên, một đoàn trên tám mươi cấp tá của công an cả nước vô, nghe tôi trình bày.
Ông Kiệt dặn trước: liệu ăn nói thế nào để họ nghe được thì nói, không thì thôi.
Nghe lời ông Kiệt dặn, khi họ hỏi những câu chọc tức, khiêu khích, tôi nín thinh
hoặc kiếm cách nói sang chuyện khác”.
Với đoàn thanh tra, bà Đồng nói: “Tôi lấy lý luận của Đảng tôi cãi lại. Tôi bảo,
các anh không giao sợi, lẽ ra tôi để nhà máy dẹp. Tôi tự xoay xở, nhà nước thu tiền
mệt nghỉ sao anh bắt tôi?”. Trưởng đoàn thanh tra hỏi: “Tại sao theo quy định, tiền
ăn công nhân là 700 đồng, chị dám chi 1.000?”. Bà Đồng bảo: “Ngoài giờ, lẽ ra
người ta ở nhà, tôi bồi dưỡng họ chút ít rồi vận động họ làm thay vì vui chơi với gia
đình, họ ăn thêm 300 đồng để làm cho nhà nước chứ có làm cho nhà họ đâu”. Ông
Đức nói: “Như vậy là phá rào”. Bà Đồng nói thẳng: “Không phá rào không làm được
gì hết”.
Sau khi thanh tra hết sổ sách không những không thấy thâm thủng mà còn thu
về nhiều, ông Đức trưởng đoàn thanh tra nói: “Dệt Thành Công ăn nên làm ra như
vậy là rất đáng mừng. Nhưng trước khi tôi đi, anh Đỗ Mười dặn: ‘Chú vô Nam,
thằng nào phá rào là phải bắt. Chú không bắt được thằng nào, tôi bắt chú’. Chắc
chuyến này về tôi để ông Đỗ Mười bắt”. Khi trở ra Hà Nội, Thanh tra Đức đã không
bị bắt. Tại thời điểm ấy, không chỉ có Thành phố Hồ Chí Minh xé rào. Ở Côn Đảo, Xí
nghiệp Đánh cá Vũng Tàu - Côn Đảo cũng đã thành công khi áp dụng cơ chế ăn
chia với từng thuyền, với từng ngư dân như cách mà tư nhân đã làm trước ngày
“giải phóng”. Ở miền Bắc, nhà máy Dệt Lụa Nam Định, cũng đã sử dụng công thức
“tam giác xuất khẩu” khá thành công để thoát ra khỏi tình hình bế tắc.
Thành công của những “kẻ phá bĩnh” lúc ấy chưa làm cho các nhà hoạch định
chính sách đánh giá lại niềm tin của mình vào “tính ưu việt” của nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung. Tuy nhiên, trong một chừng mực nhất định, trung ương bắt
đầu công nhận một vài “lỗ thủng” được cơ sở “xé” trên bức tường cơ ch
ế
480
.
Khoán chui
Cùng thời gian ấy, trên một “mặt trận” khác, nông dân đã tạo ra một cuộc “đồng
khởi” lần hai, xé toạc bức tường rào hợp tác xã. “Đồng khởi” lần một diễn ra ở Vĩnh
Phúc từ năm 1966, với chủ trương về sau được gọi là “Khoán Kim Ngọc”. Tuy nhiên,
khoán hộ thời Kim Ngọc đã bị dập tắt sau đó hai năm và bức tường rào cơ chế trong
nông nghiệp đã “nhốt” nông dân gần hai thập niên sau đó.
Hợp tác xã được các nhà lý luận cộng sản coi là “giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã
hội”, nên ngay từ tháng 4-1959 tại Hội nghị Trung ương 16, vấn đề “hợp tác hóa”
bắt đầu được “nghị quyết hóa”. Việc nông dân phải vào hợp tác xã là không bàn cãi
- chỉ có “những phần tử phản động” mới có thể đứng ngoài.
Nói là “hợp tác”, nhưng sau khi đưa ruộng đất, trâu bò, cày bừa, mương máng
vào, nông dân sẽ trở nên trắng tay, đi tát nước hay đi cày đều theo kế hoạch, có
phân công, có chỉ đạo điều hành của ban chủ nhiệm. Lao động của họ được tính
thành công và điểm; thu nhập của hợp tác xã sau khi nộp thuế, nộp các nghĩa vụ,
trừ chi phí quản lý, sẽ tính theo công điểm để chia cho xã viên. Việc “ăn chia” phải
dựa trên định mức do Bộ Nông nghiệp và Ban Nông nghiệp Trung ương hướng dẫn.
Cách tổ chức này khiến cho mỗi người lao động không thấy lợi ích cụ thể của
mình, người làm tích cực cũng có số điểm như người chây lười, ỷ lại. Trong khi đó,
chủ nhiệm hợp tác xã lên huyện “đánh chén” cũng được tính công, cán bộ hợp tác
xã cầm dùi ra gõ kẻng cũng “ăn” hai điểm.
Tình trạng gian dối, “dong công, phóng
điểm”, trở nên phổ biến. Từ thập niên 1960, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, ông Kim
Ngọc, nhận ra ban quản trị các hợp tác xã “ăn rồi chỉ có ngồi họp và uống rượu, cả
tháng không ra đồng ngày nào, thế mà công điểm lại nhiều hơn tất cả những người
nai lưng ra làm ở ngoài đồng
?”
481
.
Trong khi đó, “nông dân cũng ngồi ở gốc đa để
chờ nhau
”
482.
Năm 1966, Bí thư Kim Ngọc chấp nhận thí điểm khoán ruộng tới hộnông dân, kết quả đạt được rất cao, nhưng chính sách này bị ông Trường Chinh phê
ph
án
483.
Ông Kim Ngọc “tự kiểm” và bỏ khoán. Ông tiếp tục làm bí thư Tỉnh ủy chotới khi về hưu, năm 1978, nhưng chén cơm của người nông dân đã bị vơi đi vì ruộng
đất lại phải đưa vào hợp t
ác
484.
Khoán xuất hiện lần đầu ở Hải Phòng vào năm 1962 trong vài hợp tác xã ở hai
huyện Tiên Lãng, An Lão. Thấy phương thức làm ăn này hiệu quả, Bí thư Thành ủy
Hải Phòng lúc bấy
giờ là ông Huỳnh Hữu
Nhân
đã đề nghị
trung
ương cho
mở
rộn
g
485.
Tuy nhiên, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, khi đó là trưởng Ban Công tácNông Thôn, đã không đồng ý vì cho rằng “khoán hộ là con dao hai lưỡi
”
486
.
Hải
Phòng, năm 1974, cũng là nơi đầu tiên khôi phục khoán, nhưng chưa đầy hai nămsau thì bị c
ấm
487
.
Năm 1976, cho dù chịu đói kém, cả xã có tới sáu mươi hộ có người đi ăn xin,nông dân Đoàn Xá, Hải Phòng, đã thà mò cua bắt ốc chứ nhất định không xuống
làm ở ruộng hợp tác xã. Sau khi có biểu quyết của 90% cán bộ, xã viên, ngày 10-6-
1977, “Ban thường vụ Đảng ủy xã họp phiên bất thường và ra ‘nghị quyết miệng’,
cho phép khoán sản phẩm”
488
.Cả xã nắm chặt tay nhau thề tuyệt đối giữ bí mật để
“bảo vệ sự nghiệp và bảo vệ cán bộ”. Năm 1978, ở huyện Ứng Hòa, Hà Sơn Bình,
để bảo vệ “khoán chui”, chủ nhiệm hợp tác xã Sơn Công đã phải cho gỡ bỏ một số
ván trên cây cầu độc đạo dẫn vào xã, sao cho xe cải tiến chở phân, chở lúa của
nông dân thì qua được nhưng xe hơi lãnh đạo về thì không qua được.
May mắn cho Đoàn Xá, từ Bí thư Huyện ủy Nguyễn Đình Nhiên, Bí thư Thành ủy
Bùi Quang Tạo, Chủ tịch Thành phố Đoàn Duy Thành đều đã cùng “đội nón, xắn
quần lội xuống thăm đồng, nói chuyện chia sẻ với nông dân”, nên ngày 27-6-1980,
Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng đã ra Nghị quyết 24, cho “áp dụng khoán trên
100% đất nông nghiệp
”
489.
Toàn bộ nghị quyết này được ông Tạo cho đăng tải trênđài, báo Hải Phòng. Nhiều địa phương miền Bắc đã khăn gói về đây học t
ập
490
.
Nhưng trong Thành ủy Hải Phòng, có bốn ủy viên không đồng ý khoán. Hai tỉnhláng giềng là Hải Hưng và Thái Bình cấm cán bộ nghe theo Hải Phòng. Một cơ quan
lý luận của Trung ương đặt vấn đề: “Nếu cứ khoán như thế thì đốt hết sách Marx-
Lenin đi à”.
Trước tình hình đó, Bí thư Thành ủy Bùi Quang Tạo đã trực tiếp báo cáo với Ban
Bí thư Trung ương Đảng. Trong Ban Bí thư chỉ có một nửa tán thành. Ban Nông
nghiệp Trung ương, đặc biệt là Trưởng Ban Võ Thúc Đồng, quyết liệt phản đối, coi
khoán là “chệch hướng, mất lập trường, mất chủ nghĩa xã hội”. Một số cán bộ của
Ban ủng hộ khoán đã bị kỷ luật, Vụ trưởng Nguyễn Thái Nguyên bị khai trừ Đảng.
Nhưng Hải Phòng vẫn không nao núng. Ở nhiều huyện, nạn đói vẫn còn nghiêm
trọng. Ông Bùi Quang Tạo yêu cầu bí thư các huyện tiếp tục triển khai, đồng thời
Thành ủy Hải Phòng “tổ chức lực lượng tiến công vào từng thành lũy quan điểm lập
trường”, từ Tổng Bí thư Lê Duẩn, Chủ tịch nước Trường Chinh, đến Thủ tướng Phạm
Văn Đồng.
Một thuận lợi cho Hải Phòng là có khu nghỉ mát Đồ Sơn, nơi các nhà lãnh đạo
thường xuyên về nghỉ ngơi hoặc tổ chức hội nghị. Đặc biệt, năm 1962, sau khi từ
Trung Quốc trở về, bà Nguyễn Thụy Nga, người vợ miền Nam của ông Lê Duẩn, đã
về công tác tại báo Hải Phòng cho đến ngày trở lại Khu IX. Mối quan hệ của ông Lê
Duẩn với Hải Phòng, vì thế, còn có cả tình riêng. Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nghe Chủ
tịch Đoàn Duy Thành “báo cáo tình hình Hải Phòng” trong suốt ba giờ liền: nông
nghiệp được báo cáo là sa sút, “người trồng lúa mà không có gạo ăn, lúa chín ngoài
đồng mà không ai muốn gặt, vì gặt về mà chẳng được hột nào”.
Ông Thành, một người cởi mở và ăn nói trôi chảy, lại rất được ông Lê Duẩn và
bà Nguyễn Thụy Nga cảm tình, đã phân tích “nhiều yếu tố không hợp lý của hợp tác
xã”. Ông Thành còn đọc cho ông Lê Duẩn nghe câu ca dao: “Mỗi người làm việc
bằng hai, để cho cán bộ mua đài, mua xe. Mỗi người làm việc bằng ba, để cho chủ
nhiệm xây nhà lát sân”. Theo ông Đoàn Duy Thành thì ông Duẩn nghe tới đó liền
đứng phắt dậy: “Tôi đồng ý! Làm ngay! Làm ngay! Không phải hỏi ai nữa. Cứ làm
ngay đi!”.
Ngày 2-10-1980, tổng bí thư xuống thăm Hải Phòng, từ Đồ Sơn đến Kiến An,
ông thấy quả là trên các thửa ruộng khoán lúa xanh tốt, nông dân phấn khởi, đời
sống nhân dân đi lên khác hẳn những nơi còn duy trì lối làm ăn tập thể. Trợ lý tổng
bí thư, ông Đậu Ngọc Xuân tháp tùng, gợi ý với Hải Phòng: “Nếu anh Ba đã nói cho
phép làm thì phải làm thật nhanh, để đến khi ở trên có ai phản ứng thì ở dưới đã có
kết quả thực hiện rồi, lúc đó có ai muốn ‘bẻ ghi’ cũng không kịp nữ
a”
491
.
Sau khi tổng bí thư ra về, Chủ tịch Đoàn Duy Thành lại đi Hà Nội xin gặp Thủtướng Phạm Văn Đồng. Ông Thành đã không quên “thưa với thủ tướng” rằng Tổng
Bí thư Lê Duẩn đã xuống thăm và “rất ủng hộ khoán”. Ngày 12-10-1980, thủ tướng
xuống nghỉ mát ở Đồ Sơn, Hải Phòng lại báo cáo, và giọng của Chủ tịch Đoàn Duy
Thành lại lâm ly như khi báo cáo với tổng bí thư. Thủ tướng Phạm Văn Đồng xót xa:
“Làm lấy cái để ăn mà cũng còn khó như thế đấy”. Trước khi rời Đồ Sơn, thủ tướng
dặn: “Các đồng chí phải cố sức thuyết phục anh Năm (tức Chủ tịch nước Trường
Chinh) để sớm đi tới thống nhất
”
492
.
Cuộc tiếp cận với “anh Năm” mất nhiều thời gian hơn, không chỉ vì ông là người
đã tuyên ngôn chống khoán thời Kim Ngọc. Trường Chinh là một con người làm việc
có nguyên tắc, và nguyên tắc quan trọng nhất của ông là chủ nghĩa Marx-Lenin.
Theo ông Phan Diễn, khi đó là trợ lý của Chủ tịch Trường Chinh: “Mùa hè năm
1980, bác Thận (tức Trường Chinh) đang nghỉ ở Đồ Sơn. Anh Bùi Quang Tạo ra
thăm bác, nhưng chỉ nói qua loa về chuyện khoán hộ, coi như việc làm tự phát ở
một vài nơi. Bác Thận biết ý cũng không hỏi sâu thêm”. Một cán bộ của Văn phòng
Trung ương, ông Hà Nghiệp, khéo léo hé tin với Trường Chinh: “Anh Ba và anh Tô
(tức tổng bí thư và thủ tướng) cũng mới xuống xem các cơ sở và tỏ ý đồng tình với
khoán”. Rồi ông Hà Nghiệp gợi ý với Hải Phòng: “Thành phố nên mời chủ tịch nước
xuống thăm bà con nông dân ở các hợp tác xã có khoán. Tất nhiên phải chọn địa
điểm nào thật thuyết phục”
493
.Năm 1981, nhân dịp xuống nghỉ ở Đồ Sơn, Chủ tịch Trường Chinh đồng ý là sẽ
“dành nửa tiếng để tiếp lãnh đạo Hải Phòng”. Các nhà lãnh đạo Hải Phòng rất lo
nhưng quyết định tốt nhất là cứ nói ra sự thật. Bí Thư huyện ủy Đồ Sơn Nguyễn
Đình Nhiên, lại bắt đầu bằng câu chuyện “năm mươi, sáu mươi hộ xã viên của Đoàn
Xá” đã từng phải đi ăn xin, do đói mà tệ nạn ăn cắp trong nông thôn phát triển.
Ông Nhiên thưa với chủ tịch: “Cả gà, cả chó, cả lợn, rồi cả trâu của hợp tác xã
người ta cũng giết trộm ngay ngoài đồng để ăn”.
Thấy “cụ chau mày”, ông Nhiên khá lo nhưng rồi “cụ” bảo tiếp tục, ông nói tiếp:
“Thưa Chủ tịch, lên quy mô lớn còn có cái tệ nữa là chè chén ghê lắm. Cái gì cũng
liên hoan. Chỉ xây dựng một cái cống con chừng độ bốn, năm mét mà cũng phải có
khai mạc, bế mạc. Chẳng qua là để đánh chén thôi. Ngày tổ chức đặt vòng cũng
đánh chén! Cán bộ đánh chén như thế thì dân đói là phải
”
494.
Người thư ký nhắc nhởgiờ, nhưng Chủ Tịch Trường Chinh vẫn cho tiếp tục. Thay vì nửa giờ, hôm đó nhà
lãnh đạo vào hàng kiên định nhất của Đảng này đã nghe nói về “xé rào” hết hơn
một giờ rưỡi.
Trước đó, tháng 8-1980, ông Lê Thanh Nghị, khi ấy làm thường trực Ban Bí thư,
tổ chức một cuộc họp, mời ông Lê Duẩn cùng bốn bí thư tỉnh ủy: Trương Kiện, bí
thư NghệTĩnh, Hoàng
VănHiều, bíthưThanhHoá, Bùi QuangTạo, bí thưHảiPhòng, Ngô Duy Đông, bí thư Hải Hưng, bàn về hợp tác xã.
Theo ông Trần Đức Nguyên, thư ký của ông Lê Thanh Nghị: Buổi sáng hội nghị
nghe Ban Nông nghiệp trình bày một bản đề án mà trước đó ông Nghị đã cho là
“không thoát khỏi tư duy cũ”. Đầu giờ chiều, Văn phòng Trung ương gửi tới những
người dự hội nghị bản kiến nghị khoảng ba trang do một chuyên viên, ông Nguyễn
Minh Chương, tranh thủ viết trong buổi trưa, nêu hai vấn đề: 1-Tổ chức lại các hợp
tác xã quá to theo quy mô hợp lý, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, kỹ thuật
và trình độ cán bộ. 2- Cho hợp tác xã khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm lao
động và đến người lao động.
Hội nghị đã thảo luận sôi nổi, đa số tán thành kiến nghị này. Ông Lê Duẩn nói:
“Thêm vấn đề huyện vào đây nữa”. Còn ông Ngô Duy Đông thì bác bỏ thẳng thừng:
“Nếu có thể dùng dây thép gai rào lại để ngăn việc khoán sản phẩm ở Hải Phòng
không tràn được sang Hải Hưng thì tốn mấy tôi cũng làm”. Trưởng Ban Nông nghiệp
Trung ương Võ Thúc Đồng không phát biểu gì. Nhưng một phó ban của ông Đồng là
ông Nguyễn Công Huế nói sau cùng: “Nếu khoán theo kiểu này, thì ba năm nữa,
nước ta phải làm lại cuộc cải cách ruộng đất lần thứ hai!”.
Ngay sau cuộc họp này, Thông báo 22, đã được ông Lê Thanh Nghị ký vào ngày
14-8-1980, cho phép: “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động
trong hợp tác xã”. Do có khoảng cách với quan điểm của Ban Nông nghiệp Trung
ương, theo ông Đinh Văn Niệm: “Thông báo này không được đăng báo, không được
phát hành xuống cơ sở; tuy nhiên, nó cứ được truyền tay mà lan ra”.
Từ ngày 27 đến 29-10-1980, tại Côn Sơn, ông Hoàng Tùng, bí thư Trung ương
Đảng kiêm tổng biên tập báo Nhân Dân, đã lấy uy báo Đảng tổ chức một cuộc hội
thảo với sự tham gia của gần 100 đại biểu, gồm lãnh đạo các tỉnh, những người chủ
chốt trong ngành nông nghiệp, các nhà nghiên cứu, đại diện của các viện khoa học
và đại điện của nhiều tờ báo lớn. Theo ông Hoàng Tùng, tại hội thảo này, Trưởng
Ban Nông nghiệp Trung ương Võ Thúc Đồng tiếp tục chống lại chủ trương khoán.
Phát biểu trước Hội nghị Côn Sơn, ông Đồng tuyên bố: “Học tập Đoàn Xá tức là học
tập những kẻ ăn mày, lười biếng”. Nhưng ý kiến của ông Đồng đã khá lạc lõng, vì
ông Hoàng Tùng đã bố trí để cho tiếng nói ủng hộ khoán trở nên áp đảo trong Hội
nghị.
Tiếp theo đó, ông Võ Chí Công chủ trì một hội nghị về khoán ngay tại Đồ Sơn.
Theo ông Đinh Văn Niệm thì ông Ngô Duy Đông đã không cho Hải Hưng sang, nhiều
tỉnh đến Hội nghị Đồ Sơn phải đi chui. Ông Võ Chí Công là người mà trước khi
khoán được đưa ra công khai bàn đã từng phê phán phương thức khoán việc quan
liêu. Ông nói: “Khoán việc có phải là cái bàn thờ đâu mà ta không dám đụng đến”.
Ông cũng là người đã từng khuyến khích ông Hoàng Quy, người kế nhiệm ông Kim
Ngọc làm bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú, tổ chức thí điểm mô hình khoán ở huyện Vĩnh
Tườn
g
495.
Theo ông Đinh Văn Niệm, “anh Năm” nói với anh Hoàng Quy: “Biểu cứlàm đi, thành công thì cho phát triển ra toàn tỉnh. Các đồng chí đừng sợ chi hết.
Nếu khoán có làm cho trời sập thì tôi cũng xin chịu trách nhiệm”. Sau đó, ông Võ
Chí Công xuống Hải Phòng thăm gặp Bí thư Đồ Sơn Nguyễn Đình Nhiên và Bí thư
Thành ủy Bùi Văn Tạo. Khi trở về, ông báo cáo tình hình lên Ban Bí thư.
Tại Hội nghị Đồ Sơn, Võ Chí Công đã nói “tay vo” trong vòng ba mươi phút. Ông
nhấn mạnh: "Ta áp đặt cách làm dẫn tới các hợp tác xã thiếu ăn, có nơi đói trầm
trọng. Dân đói quá phải tìm cách có được cơm no áo ấm thì ta lại cấm để dân phải
“chui”, bắt dân trở lại với khoán việc, với cái đã làm dân đói. Chiến tranh cũng như
hòa bình, lãnh đạo mà quan liêu, xa dân, không lắng nghe dân, quen từ trên áp đặt
chủ trương thì chỉ làm cho dân đau khổ
"
496
.
Bài phát biểu của ông Công được Đài
Hải Phòng ghi âm, phát thanh, sau đó được các địa phương xin sang băng đưa vềđịa phương mình phát lại. Ở Hội nghị Đồ Sơn, ông Võ Chí Công được mô tả như một
vị tướng phát lệnh cho nông dân “đồng khởi”.
Hơn một tháng sau, tại Hội nghị Trung ương 9, ngày 10-12-1980, Tổng Bí thư Lê
Duẩn thay mặt Bộ Chính trị kết luận: “Việc làm thử cách khoán mới trong hợp tác
xã nông nghiệp của miền Bắc… có tác dụng tốt…, phong trào lao động sản xuất bắt
đầu có khí thế. Tình trạng trì trệ trong sản xuất bắt đầu chuyển biến theo hướng
tốt
”
497
.
Trong khi đó, theo ông Trần Đức Nguyên, Văn Phòng Trung ương thấy rằng,
vì khoán chỉ mới được nêu trong Thông báo 22 - một văn bản không có tính bắt
buộc - nên có nhiều địa phương vẫn không thi hành. Ông Vũ Quan
g
498
đã thúc đẩy
để khoán được xác định trong một văn bản có tính ràng buộc hơn.
Sau Hội nghị Trung ương 9, Ban Bí thư đã ra “Chỉ thị 100” về khoán. Tuy nhiên,
trong Đảng lúc ấy nhiều người còn băn khoăn. Chủ tịch Trường Chinh tuy trong lòng
đã ủng hộ nhưng vẫn còn lo “mất chủ nghĩa xã hội ở nông thôn”. Trưởng Ban Tổ
chức Lê Đức Thọ thì chấp nhận khoán vì cho rằng đây chỉ là “một bước lùi để tiến”.
Chỉ thị 100 vì thế vẫn phải né tránh từ “khoán hộ” mà Kim Ngọc đã dùng bằng khái
niệm “khoán đến nhóm lao động và lao động”.
Theo ông Đinh Văn Niệm: “Khi được Ban Bí thư giao soạn thảo Chỉ thị 100, anh
Năm đòi chỉ ‘khoán hộ’ hoặc ‘người lao động’ thôi. Nhưng ông Nghị không đồng ý,
hai ông rất căng với nhau. Về sau, do không thể kéo dài thời gian ban hành Chỉ thị
100, anh Năm thỏa hiệp, để ngày 13-1-1981, ông Lê Thanh Nghị ký cho ‘mở rộng
khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động’. Tuy nhiên, anh Năm bảo
lưu ý kiến là không có nhóm”.
Mặc
dù không phản đối Chỉ thị 100 nhưng Trường Chinh vẫn tỏ
ra rất thận
trọng. Đầu năm 1981, ông xuống Hải Hưng. Theo ông Nguyễn Thái Nguyên, ngườiđược Ban Nông nghiệp Trung ương cử tháp tùng ông Trường Chinh: Bí thư Hải Hưng
Ngô Duy Đông là một người chống khoán, ông cố tình đưa Trường Chinh tới những
mảnh ruộng bị chia nhỏ cho xã viên bằng những cành phi lau cắm làm ranh giới và
nói: “Xã hội chủ nghĩa thế này thì còn manh mún hơn xưa”. Ông Trường Chinh lo
lắng lắm. Khi về, ông nói với thư ký Phan Diễn và ông Nguyễn Thái Nguyên: “Lần
tới, bác cháu ta lên Vĩnh Phú xem Hoàng Quy khoán thế nào”.
“Đi Vĩnh Phú thì chết”, Thái Nguyên bàn với Phan Diễn là nên vận động phu
nhân Trường Chinh để thay vì đi Vĩnh Phú ông đến Hà Nam Ninh. Khi ấy đã giáp tết,
ông Trường Chinh đồng ý về Hà Nam Ninh, nhân thể thăm quê. Đến huyện Xuân
Thủy, tỉnh bố trí để ông ở nhà khách, nhưng Trường Chinh đã về ngủ đêm ở xã
Xuân Hồng.
Đêm ấy, theo ông Nguyễn Thái Nguyên, người dân kéo đến rất đông, ai cũng
xưng là cháu Trường Chinh nên bảo vệ không thể nào ngăn cản. Mấy người bà con
của Trường Chinh “vô tư” khoe: “Bác ạ, nhờ giải tán hợp tác xã, khoán ruộng mà
chúng cháu không còn đói nữa”. Thái Nguyên nghe sợ quá nói với Phan Diễn: “Gay
rồi”. Phan Diễn cũng sợ, nhưng không ngờ, nhờ những lời nói thật của những người
cậy thế cháu chắt ấy mà sáng hôm sau, thay vì trở lại Xuân Thủy, ông Trường
Chinh triệu tập một cuộc nói chuyện ở xã Xuân Hồng. Tại đây, lần đầu tiên ông
nhắc đến Chỉ thị 100 và công khai ủng hộ khoán.
Năm 1982, khi trở thành phó chủ tịch trường trực Hội Đồng Bộ trưởng, ông Tố
Hữu xuống thăm và tặng Hải Phòng mấy câu thơ: “Bốn cống ba cầu, năm cửa ô /
Đào sông lấn biển dựng cơ đồ”. Người dân Hải Phòng lập tức họa lại: “Có cống có
cầu lại có ô / Phi thương bất phú dựng cơ đồ”.
Ông Kiệt xé rào, ông Linh lãnh đạn
Việc “xé rào” mà ông Võ Văn Kiệt cho làm ở Thành phố Hồ Chí Minh quả là có
gây tiếng vang, nhưng đồng thời cũng bị một số người quy kết là “đi chệch mục tiêu
xã hội chủ nghĩa”. Theo ông Võ Văn Kiệt, điều đó khiến ông Lê Đức Thọ lo lắng.
Ở Đại hội lần thứ IV, năm 1976, ông Võ Văn Kiệt được đưa vào Bộ Chính trị với
vai trò ủy viên dự khuyết cùng với hai nhân vật khác là Tố Hữu và Đỗ Mười. Cả ba
được chuẩn bị để trở thành lực lượng kế cận trong thập niên tiếp theo. Ông Võ Văn
Kiệt kể: “Anh Sáu Thọ muốn đưa ngay tôi ra Trung ương. Anh Ba Lê Duẩn nói cứ để
Kiệt làm ở Thành phố, làm được ở Thành phố rồi thì giữ cương vị gì cũng được.
Nhưng anh Sáu Thọ nói cũng phải tập và cũng phải cho va chạm. Về sau, tôi biết
thêm là anh Sáu Thọ sợ tôi sa lầy bởi vụ xé rào
”
499
.
Tháng 3-1982, sau Đại hội Đảng lần thứ V, cả ba ông Võ Văn Kiệt, Tố Hữu, ĐỗMười đều trở thành ủy viên chính thức Bộ Chính trị, cùng với hai ủy viên mới là
Tướng Lê Đức Anh, tư lệnh Quân Tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, và Nguyễn
Đức Tâm, trưởng Ban Tổ chức. Hai nhân vật bị đưa ra khỏi Bộ Chính trị trong thời
gian này là ông Nguyễn Văn Linh và Tướng Giáp. Sau đại hội, ông Kiệt ra Hà Nội giữ
chức phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước,
ông Linh được điều trở lại Thành phố làm bí thư.
Đúng như Lê Đức Thọ dự đoán, ngay trong Đại hội V, thực tiễn xé rào ở Thành
phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Nam chỉ nhận được rất ít hoan nghênh, trong khi
lại bị rất nhiều nơi phê phán. Ông Phạm Văn Hùng, thư ký của đoàn đại biểu Thành
phố tại Đại hội V, kể: “Tôi đi dự các phiên họp, nghe thư ký các đoàn phản ánh,
thấy các đoàn tuy có đánh giá mặt tích cực của “bung ra”, nhưng những tín hiệu
này không những không được nâng niu, mà mặt trái của nó đã bị phê phán vô cùng
gay gắt”. Đại hội V vì thế lúc đầu định bỏ chế độ hai giá trong “lưu thông phân
phối”, cuối cùng vẫn phải duy trì. Nghị quyết đại hội tuy có ‘chống tập trung quan
liêu bao cấp” nhưng cũng đã nhấn mạnh chống “tùy tiện, vô tổ chức vô kỷ luật”
hơn. Theo ông Phạm văn Hùng: “Cuộc đấu tranh trong Đảng là vô cùng phức tạp”.
Nửa năm sau, ngày 10-8-1982, Bộ Chính trị vào làm việc với ban lãnh đạo mới
của Thành phố Hồ Chí Minh. Ngay trên máy bay chuyên cơ, theo nhà báo Hữu Thọ,
Tố Hữu nói: “Chưa tới Tân Sân Nhất đã ngửi thấy mùi Nam Tư
”
500
.
Tại phiên họp ở
“Hội trường 10” cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh của Văn phòng Trung ương (T78),
kéo dài đến hết ngày 19-8-1982, chính các nhà lãnh đạo từng ủng hộ “xé rào”
trong nông nghiệp ở Đồ Sơn đã phê phán gay gắt tình trạng bung ra trong Thành
phố. Nghị quyết của Bộ Chính trị tại đợt làm việc này, được gọi là “Nghị quyết 01”,
đánh giá: “Những nhận định về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội chưa thật rõ và có phần buông lơi chuyên chính vô sản trên
mặt trận phân phối lưu thông, mặt trận nóng bỏng nhất trong cuộc đấu tranh giữa
ta với tư sản thương nghiệp và các thế lực chống đối khác”.
Tổng Bí thư Lê Duẩn và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã chủ trì
cuộc “làm việc” này, và ông Nguyễn Văn Linh, vừa mới về làm bí thư, là người “chịu
trận”. Nhà báo Hữu Thọ, người có mặt ở Hội trường 10 trong phiên họp này, nhớ
lại: “Ông Lê Duẩn nói: bí thư nên từ chức, chủ tịch cũng không nên làm nữa!”. Theo
ông Trần Đức Nguyên, chuyên viên có mặt trong phiên họp, bị phê bình quá căng,
ông Nguyễn Văn Linh nói: “Tôi về thì tình hình đã như thế này rồi”.
Ông Nguyễn Thành Thơ, người vừa bị Lê Đức Thọ loại ra khỏi Ban Chấp hành
Trung ương Khóa V, là một trong rất ít người khi ấy đến chia sẻ với ông Nguyễn Văn
Linh. Thấy ông Mười Thơ và ông Năm Vận tới thăm, “anh Nguyễn Văn Linh rất
mừng”. Hôm ấy, ông Nguyễn Văn Linh đã thuật lại cho ông Mười Thơ và ông Năm
Vận nghe về cuộc làm việc tại Sài Gòn của Bộ Chính trị. Ông Linh nói: “Trước một
số tình hình, anh Đồng không ngồi, đi giày lọc cọc quanh bàn họp nói: ‘Phá hoại,
phá hoại, từ chức, từ chức’. Tôi giận quá muốn nói: ‘Làm cho nền kinh tế đất nước
suy sụp thế này lẽ ra tổng bí thư và thủ tướng phải từ chức'. Nhưng vừa mới nhóng
lên, thấy thành phần hội nghị có bộ trưởng, thứ trưởng rất phức tạp, đành ngồi dựa
ghế lặng im, hút thuốc hết điếu này đến điếu khác. Chiều tôi cử đồng chí trưởng
Ban kinh tế Thành ủy trình bày, đồng chí này trình bày được
”
501
.
Trưởng ban Kinh tế
Thành ủy khi ấy là ông Nguyễn Ngọc Ẩn502
.Ông Nguyễn Văn Linh kể: “Năm Ẩn nói
xong, thấy các anh há hốc, chứng tỏ họ không hiểu gì thực tế
”
503
.
Nghị quyết 01, ban hành sau phiên họp này của Bộ Chính trị, được công bố vào
ngày 14-9-1982, tuy cho rằng Thành phố “buông lỏng chuyên chính vô sản trên
mặt trận lưu thông phân phối” nhưng đã không đòi phải xử lý cụ thể những gì. Tuy
vẫn khẳng định rằng “trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ phải hoàn thành
cơ bản về cải tạo xã hội chủ nghĩa”, nghị quyết vẫn nhấn mạnh “kết hợp chặt chẽ
cải tạo và xây dựng, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và lực lượng sản
xuất mới”.
Như một động thái chính trị nhằm triển khai Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị,
ngày 30-9-1982, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh họp, dưới sự chủ trì của Bí thư
Thành ủy Nguyễn Văn Linh, phân tích nguyên nhân của tình trạng tăng giá, buôn
lậu, trốn thuế… không thể ngăn chặn là do “Thành phố còn tồn tại năm thành phần
kinh tế”. Nghị quyết 17, ngày 30-9-1982, của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cho
rằng: “Chuyên chính vô sản trên mặt trận phân phối lưu thông là mặt trận nóng
bỏng nhất trong cuộc đấu tranh giữa ta và tư sản thương nghiệp và các lực lượng
chống đối khác”.
Năm tháng sau, ngày 4-3-1983, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh ra tiếp Nghị
quyết 19, đòi: “Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản
tư doanh… triệt để xóa bỏ tư sản thương nghiệp, từng bước cải tạo các tầng lớp tư
thương… Truy mua toàn bộ phương tiện của tư sản kinh doanh ngành vận tải, nhất
là phương tiện vận tải chuyên dùng”
504
.Nghị quyết 17 và 19 có thể dùng để bổ sung vào nhận xét ông Nguyễn Văn Linh
“không phải là người chống cải tạo tư sản”
505
.Tuy nhiên, đây là một thời điểm mà
không khí cải tạo đang được tái lập. Tháng 12-1982, Ban Chấp hành Trung ương ra
Nghị quyết 03, yêu cầu: “Lập lại trật tự xã hội chủ nghĩa, trước hết trong nội bộ
kinh tế quốc doanh và cơ quan nhà nước”. Sau khi Nghị quyết 01 phê phán “chuyên
chính vô sản bị buông lỏng” ở Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21-1-1983, Bộ chính trị
làm việc với Hà Nội, lại ra Nghị quyết 08, phê phán gay gắt hiện tượng xé rào và
yêu cầu Hà Nội “mau chóng xiết chặt kỷ cương của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa”.
Đầu tháng 5-1983, nhiều địa phương miền Bắc nhận được một “điện mật” của
Trung ương chỉ thị thi hành một chiến dịch mang mật danh “Z-30”. Theo đó, chính
quyền được phép “tiến hành điều tra, khám xét” những gia đình được gọi là có “tài
sản bất minh”. Chỉ thị “Z-30” gần như chỉ được tiến hành ở Hà Nội
506
.Tại đây,
những gia đình có nhà mới xây từ hai tầng trở lên, hoặc những gia đình mà xóm
giềng tố cáo có vẻ giàu có, khá giả, đều bị đưa vào diện nghi vấn “làm ăn bất
chính”. Hàng trăm ngôi nhà đã bị khám xét, một số nhà được gọi là bất minh đã bị
tịch thu. Năm 1983, người Hà Nội nói thơ: “Ti vi, tủ lạnh, Honda / Có ba thứ ấy
khám nhà như chơi
”
507
.
Ở Nam Định, khi công an lập một danh sách 200 hộ có “tài sản bất minh” cần
kiểm tra, ông Nguyễn Văn An, khi ấy là bí thư Tỉnh ủy Hà Nam, đã cho ngăn lại.
Theo ông Nguyễn Văn An, khi ấy ở Hà Nội ông thấy “có gia đình cả nhà thắt khăn
tang khi bị tống lên xe, kêu khóc ầm ĩ”. Bí thư Thành ủy Hải Phòng lúc bấy giờ là
ông Đoàn Duy Thành nhận ông là người đầu tiên và duy nhất lên Trung ương “phản
đối chiến dịch Z-30”.
“Ai thắng ai”
Đường lối đi lên “sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa” của Đại hội IV chủ yếu được
hình thành trong thời gian ông Lê Duẩn cùng nhóm giúp việc “thả mình tư duy” trên
bãi
tắm
Đồ
Sơn,
trước
lâu
đài
Vạn
Hoa.
Nhà
nghiên
cứu
Đặng
Phong
đã
dùng
khoảng cách một “kế hoạch 5 năm” để “đo” quãng đường từ Vạn Hoa xuống những
cánh đồng Đoàn Xá. Chính vì sự nôn nóng “sản xuất lớn”, dồn hợp tác xã ngày một
to ra, mà người dân Đoàn Xá, Đồ Sơn, ở cách đó không bao xa, đã phải đi ăn xin.
Chỉ khi tự “xé” bỏ con đường duy ý chí ấy, nông dân mới bắt đầu hết đói.
Lẽ ra, Đoàn Xá phải được nghiên cứu như một điển hình về quy trình ban hành
chính sách. Cấp ủy xã đã chỉ ra “nghị quyết khoán” khi có 90% dân chúng yêu cầu.
Khi không được cấp thẻ Đảng vào đúng ngày thành lập Đảng 3-2, Bí thư Phạm
Hồng Thưởng đã nói với các đảng viên của ông: “Bây giờ cái cấp bách là cuộc sống
của dân chứ chưa phải là thẻ đảng. Có thẻ đảng mà dân đói thì mang thẻ đảng
càng
thêm
xấu
hổ.
Cứ
làm
sao
lo
cho
hợp
tác
xã
lên,
đấy
mới
là
cái
thẻ
quý
nhất
”
508.
Không phải đợi đến năm 1980, khi nghe báo cáo của Hải Phòng, Tổng Bí thư Lê
Duẩn mới biết vai trò khoán hộ. Theo ông Trần Phương, người năm 1968 là trợ lý
của ông Lê Duẩn: Buổi sáng mà tạp chí Học Tập cho đăng bài của ông Trường Chinh
phê phán Kim Ngọc, ông Lê Duẩn đã bước vào phòng của những người giúp việc ở
Nhà khách Tây Hồ, “ném tờ Học Tập xuống bàn” với nét mặt không vui. Sau đó,
theo ông Đậu Ngọc Xuân, ông Lê Duẩn đã xuống Vĩnh Phú để thăm và an ủi ông
Kim Ngọc. Khi nói chuyện với Kim Ngọc, Lê Duẩn đã hết sức phân vân trước thực tế
nông dân đã được nuôi sống chủ yếu bằng 5% đất được chia chứ không phải 95%
đất bị đưa vào hợp tác xã.
Khi kể lại câu chuyện này, những người thân cận của ông Lê Duẩn muốn đưa ra
những ví dụ cho thấy “Anh Ba” của họ đã không phê phán Kim Ngọc như
ông
Trường Chinh. Nhưng điều này cũng cho thấy là từ năm 1968, ông Lê Duẩn đã biết
hạn chế của cơ chế “cha chung” khi dồn ruộng của nông dân vào hợp tác. Vậy mà
đến năm 1976, khi lựa chọn đường lối kinh tế, ông vẫn đẩy hợp tác xã lên một quy
mô lớn hơn, và hậu quả gây ra đã nghiêm trọng hơn thời gian trước đó.
May
mà
cho
dù
các
nhà
hoạch
định
chính
sách
cứ
loay
hoay
“giữa
hai
con
đường” và cứ đắm mình trong những “cuộc đấu tranh”, người dân chỉ có một con
đường là phải tự thoát ra mà kiếm sống. Sự thay đổi của Việt Nam không bắt đầu
từ một cá nhân, cũng không phải bắt đầu từ một luồng tư duy. Khi nền kinh tế
xuống tận đáy và cuộc sống của nhân dân bị dồn vào chân tường, người dân đã
buộc chính quyền xoay xở. Công cuộc phá bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung của
Việt Nam thành công cũng một phần nhờ viện trợ Liên Xô đã chưa bao giờ đủ nhiều
để xóa sạch kinh tế tư nhân ở cả hai miền Nam - Bắc.
Quan trọng hơn, cuộc chiến tranh được nói là “giải phóng miền Nam” đã nối nền
kinh tế bị nhốt kín suốt hai mươi năm của miền Bắc với nền kinh tế thị trường ở
miền Nam. Cuộc “Bắc tiến” ngoạn mục của những chiếc quạt bàn, tủ lạnh, xe máy
Honda đã phần nào giải phóng tư duy cho chính những người đã lãnh đạo chiến
tranh. Phần lớn những người che chở cho người dân “xé rào” sau năm 1975 đều là
những người ít được học lý luận Marx-Leni
n
509.
Họ vừa mới đi qua chiến tranh, đụngchạm tới cơ chế như những chiếc “xe tăng” vẫn nồng nặc mùi khói đạn. Họ không
còn đơn độc như thời Kim Ngọc và không sợ ai quy kết quan điểm lập trường.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top