Bê trọc

Chương I

VƯỢT TRƯỜNG SƠN

Năm 1968

Sau chuyến đi công tác Nghĩa Lộ, tôi về Hà Nội, được hưởng

một cái tết gia đình thật vui vẻ. Rồi họp và nhận được quyết định đi

B. Bao sung sướng! Thế là tôi chẳng còn lòng dạ nào mà ngồi với

bút sách nữa. Chạy nhào lên Sơn La mang các thứ về để kịp tập

trung. Riêng cái xe đạp thì phải để lại, vì không có phương tiện

chuyên chở, anh em sẽ đem về gia đình giúp khi có điều kiện. Điều

duy nhất làm tôi luyến tiếc là không kịp lấy giấy chuyển đối tượng

kết nạp Đảng. Việc phấn đấu, coi như phải làm lại từ đầu. Ngoài ra,

còn có một số tài liệu hay mà không viết được vì lòng cứ rộn lên.

Từ ngày 9 tháng 3 năm 1968

Chúng tôi đến nơi tập trung để bồi dưỡng và rèn luyện. Lại lên

ở với núi rừng - trại 105 này đóng ở Hòa Bình, nơi có những ngọn

núi đá vôi cùng nhiều hang động khá lớn. Ăn uống thật khá. Chúng

tôi phát ngấy mỡ lợn, phải ăn kèm với các món chua (chủ yếu là giá

muối chua). Chúng tôi tập hành quân: đeo gạch và leo núi. Công

việc đó không có gì mới lạ đối với tôi, vì khi công tác ở vùng rừng

núi Sơn La, tôi đã từng leo dốc cao, mang vác nặng.Tuy nhiên có

những tối hành quân trên đường số 6 thì thật vui. Rừng vốn tĩnh

mịch, chỉ có những ánh đom đóm lập loè nơi thung lũng. Song rừng

bỗng chuyển động ầm ầm bởi những đoàn quân đi. Chúng tôi đi

hàng hai ven đường, còn lòng đường thì nhường cho từng đoàn xe

lớn. Có những đoàn chở vũ khí, phủ bạt kín mít, lầm lũi lăn bánh.

Có những chiếc xe xích sắt rú ầm ầm, xủng xoảng, ở ống xả hơi,

3

thỉnh thoảng lửa lại phụt ra, kéo thành một đường lửa nhỏ mà đỏ

rực. Có những chiếc ô tô chở đầy chiến sĩ. Tối quá, không nhìn thấy

họ, song nghe giọng nói và tiếng cười của họ, tôi dám chắc rằng họ

còn trẻ lắm và nét mặt họ rạng rỡ lắm. Họ hò hát. Họ thét lên với

chúng tôi:

Đi trước nhé!

- Gặp nhau ở Khe Sanh nhé!

- Gặp nhau ở Sài Gòn nhé!

Và nhiều nữa. Họ lại hát những bài ca sục sôi khí thế cách

mạng: Hành quân xa, Vì nhân dân quên mình... Trên một chiếc xe

vọng lại tiếng kèn acmônica với bài Giải phóng Miền Nam. Phải,

giải phóng Miền Nam, chúng tôi, các đồng chí đang trên đường đi

giải phóng Miền Nam đây! Trong tiếng xe chuyển động rầm rầm,

tôi thấy máu trong người bốc lên hừng hực. Tôi muốn băng ngay

theo những đoàn xe - chúng đi chếch sang phía Tây để vòng về

phương Nam - Tiền tuyến đó.

Ngày 30-4-1968

Chúng tôi đã nhận xong trang bị và hôm nay bắt đầu lên

đường. Mưa phất nhẹ những hạt li ti như bụi phấn. Chúng tôi ra đi

trước sự tiễn biệt của nhà trường, của những anh em đi sau. Vì bí

mật, không ai được báo cho người nhà đến tiễn. Một số người có đại

diện cơ quan đến đưa chân. Anh Điều - công nhân in tráng phim

thuộc ngành Điện ảnh - đi trong đoàn tôi, bỗng khóc rưng rức. Anh

em xúm lại hỏi, anh bảo khóc vì "nhớ cơ quan quá!" Tôi không ai

tiễn đưa, nhưng lòng thấy thanh thản. Bẩy chiếc xe chở đoàn chúng

tôi. Xe chuyển động và mọi người vẫy gọi. Tôi từng ra đi, từng gặp

nhiều cuộc chia tay, song lần này sao thấy nó khác thế. Lòng bâng

khuâng, háo hức, thương mến...Ôi, bao cảm xúc cứ xen vào nhau...

Chúng tôi đi theo đường quân sự, vắng lặng mênh mông.

Không một bóng người. Không một bóng nhà. Chỉ thấy con đường

4

mờ mờ trắng và bạt ngàn là màu tím đen của núi rừng cùng vô vàn

ánh đom đóm lập loè khắp thung lũng.

Suốt từ 30-4 đến 5-5, chúng tôi đã vượt được hàng trăm cây số,

vượt qua Hoà Bình, vượt Thanh Hoá đến Nghệ An.

Đoàn chúng tôi dừng lại ở Nam Vân - Nam Đàn, gần ngay quê

Bác. ở đây, máy bay Mỹ quần suốt ngày đêm. Một buổi trưa, chúng

tôi nghe những tiếng bom nổ uỳnh uỳnh và một tiếng "bụp". Một

quả bom rơi rất gần chúng tôi, trúng vào một xóm trước mặt. Bụi

đất tung lên vàng khè. Bọn quỷ Mỹ lại tàn sát dân ta đây! Lòng

chúng tôi nghẹn lại căm thù!

Buổi tối, chúng tôi ra đi. Chẳng còn mấy chốc nữa sẽ đến thành

phố Vinh. Trời xẩm tối. Đoàn xe chợt dừng lại. Người gác barie báo

có bom nổ chậm ở phía trước. Thế là xe phải quay đầu lại. Phía xa,

mấy chiếc đèn dù của lũ máy bay mới thả treo lơ lửng, hắt ánh sáng

vào cả khoang xe chúng tôi.

Lại xuống xe, vào làng, tìm nhà dân để ở. Chúng tôi toàn dựa

vào đồng bào thôi mà! Tổ chúng tôi đang ngơ ngác tìm đường thì có

một ông cụ trạc 70 tuổi ra gọi:

- Các con vào nhà bố mà ở!

Mừng quá, chúng tôi tạt vào. Ông cụ đi trước, lưng hơi còng

song dáng còn nhanh nhẹn lắm. Trong nhà, một phụ nữ ra mở cửa

liếp - đó là con dâu cụ lão. Gia đình lục đục thức dậy. Cụ mở màn,

lay gọi hai đứa bé. Chúng tôi gạt đi:

- Thôi, để các em ngủ, chúng con nằm đâu cũng được!

Cụ sốt sắng:

- Không, có chỗ cho chúng tôi rồi. Nằm đây cho tử tế.

Cái giường ấy rộng song hơi ngắn. Dưới gầm nó là một cái hầm

lớn. Chiếc giường được kê nửa chìm, nửa nổi trên chiếc hầm đó.

5

Sáng, chúng tôi giật mình choàng dậy vì những tiếng động lớn.

Mấy chiếc phản lực xà sát sạt, gầm rít điên loạn. Hai đứa chúng tôi

vùng dậy định tụt xuống hầm, song lúng túng mãi vì mấy sợi dây

dù ở cái võng chúng tôi dùng làm chăn đắp cuốn cả vào chân, tay.

Lẫn trong tiếng phản lực, tôi nghe tiếng cười khanh khách ròn tan

của trẻ thơ. Một cô bé chừng 14 tuổi đang đứng ôm cột nhìn chúng

tôi mà cười. Trời, giữa vùng chiến sự ác liệt này sao lại có giọng cười

hồn nhiên như vậy nhỉ?

Ngày 8-5-1968

Chiều rồi mà số bom quái quỉ kia vẫn chưa được giải quyết.

Đoàn chúng tôi quyết định phóng xe vượt qua nơi đó. Không còn

cách nào khác. Chẳng lẽ nằm ì ra mãi?

Xe chúng tôi vẫn đi thứ hai. Nó ầm ì tiến khỏi làng, ra đường

lớn. Rồi nó tăng tốc độ. Chúng tôi ngồi ngay ngắn, tay bám chặt lấy

thành xe. Xe vượt qua nghĩa trang liệt sĩ 30-31, rồi qua gốc đa. Chỉ

qua cái cống nữa là đến bãi bom. Nhìn lại sau xe, tôi thấy mấy cô

gái đang thủng thẳng bước tới và cười rất tươi. Sắp đi qua bãi bom,

sao mà thản nhiên vậy? Xe xóc mạnh và băng lên. Sau xe, cánh

đồng lúa xanh mởn trải rộng dần ra. Và ở một vạt lúa sát bên

đường có 2 hố đen ngòm, bùn bắn tung toé xung quanh. Còn 4, 5 hố

khác ở mấy thửa ruộng xa hơn. Đó, các hố bom đó. Xe vẫn băng lên.

Cái chết lùi dần lại phía sau. à, ra cũng đơn giản thôi.

Thế là qua bãi bom một cách an toàn. Xe tiến về thành phố

Vinh. Nhà thờ Vinh đứng câm lặng bên những ngôi nhà tan hoang,

những ngọn cây xơ xác vì bom Mỹ. Chợ Vinh tan tành, cái biển đề

tên chợ treo ở cổng cũng bị bom hất xuống, chỉ còn bám chếch vào

một trụ gạch như thách đố.

Chúng tôi xuống xe. Vừa lúc ấy nghe phía Nam Đàn có một

tiếng nổ lớn: bãi bom đã lên tiếng! Không hiểu mấy cô gái tôi gặp có

sao không?

6

Xe đỗ ở ngã tư thành phố để chờ qua phà. Còn cách 3-4 km nữa

nhưng nơi đó rất nguy hiểm nên xe phải chờ ở đây. Khi nào phà đến

sẽ có người gọi điện thoại báo cho trạm barie, trạm lại hướng dẫn

cho xe đi. Hoàng hôn dần buông xuống. Bầu trời xam xám, điểm

chút mây hồng ở phía Đông. Vinh đây, tơi tả vì sự tàn phá của

chiến tranh. Vắng vẻ, đìu hiu. Mấy hàng phi lao cao vút đứng lặng,

in bóng sẫm trên nền trời, cạnh những ngôi nhà gác đổ tan hoang.

Trạm biến thế điện bỏ không, xung quanh có công sự. Bọn tôi đứng

đó ngắm nhìn cái cảnh tĩnh mịch của thành phố và nghĩ mãi rằng

tại sao lại có những lúc nó nổi bão lửa hừng hực trái ngược với cái

vắng lạnh mênh mông này được? Chúng tôi khẩn trương lên xe. Xe

từ từ tiến về Bến Thuỷ. Bên phải đường là nhà máy điện. Bom nổ

làm đất đá ở đó bị đào xới lộn bậy. Những cột điện gẫy gục hoặc đổ

nghiêng. Cạnh đó là núi Quyết. Phải, cái ngọn núi nhỏ nhoi lở loét

ra vì bom đạn đó chính là ngọn núi anh hùng, đã từng nổi danh

cùng đội tự vệ thành phố Vinh dám đương đầu với lũ "thần sấm",

"con ma" Mỹ.

Sông Lam trôi êm đềm. Bến vẫn phẳng lắm. Xe nhẹ nhàng lên

phà. Phà rộng thật, chở tới 5 xe. Bọn tôi đứng hai bên thành phà.

Trăng lên rồi, toả ánh sáng nhàn nhạt xuống dòng sông. Tôi đứng

bên trái phà ngắm nhìn sông không chán mắt. Dải Hồng Lĩnh đang

im lặng in bóng tím trên bờ bên kia. Không có máy bay và cũng

không có tiếng pháo. Một anh bạn đứng gần tôi chỉ về phía núi

Quyết và hỏi:

- Núi Quyết đấy à? Nó bé thế sao lại nổi tiếng như vậy nhỉ?

Tôi cười:

- Nó nổi tiếng vì ý chí quyết chiến, quyết thắng của nó, ở những

con người đã chiến đấu và chiến thắng trên đỉnh núi ấy.

Phà nhẹ nhàng cập bến. Ô tô rú ga. Chúng tôi chạy nhanh lên

bờ. Tất cả đều phải khẩn trương. Có thể lũ máy bay sẽ đến bất ngờ

hoặc pháo ở biển có thể nã tới trong phút chốc.

7

Đất Hà Tĩnh đây rồi. Vào làng. Hai bên đường, những quả núi

nhỏ nằm im lìm dưới trăng.

Xe chợt dừng lại. Phía trước, lũ máy bay mới thả mấy quả pháo

sáng. Chúng tôi tản ra hai bên đường. Tôi và Vượng vào ngồi gần

một ruộng khoai, có gì thì nấp ở rãnh khoai cũng đỡ. Những quả

pháo sáng vẫn treo lơ lửng lưng trời, hắt ánh sáng vàng vọt về phía

chúng tôi. ở ngôi nhà bên có mấy đứa bé chạy ra ngó chúng tôi và

cười. Bố chúng đứng ở vườn sắn hò hét bắt chúng vào hầm, song

chúng cứ ngồi cười mãi. Có vẻ chúng đã quen với cảnh máy bay dậm

dọa lắm rồi.

Khoảng giữa đêm, đoàn xe dừng lại. Chúng tôi rẽ vào làng để

ngủ. Đường đi phải qua một cánh đồng lớn. ít lâu nay mưa lớn nên

đường lầy lội và trơn quá. Phải dò dẫm từng bước, thụt lên thụt

xuống mới đi nổi. Song được cái không ai ngã.

Sáng, chúng tôi chuyển sang nhà bên cạnh ở, vì nhà cũ chật

quá. Gia đình này có hai cô con gái. Các cô rất tươi cười. Một cô bảo

rằng mọi khi có bộ đội đến, thanh niên làng vẫn tổ chức đón tiếp

nồng nhiệt lắm, nhưng vì chúng tôi đến vào ban đêm nên không tổ

chức được.

Một bác nông dân có vóc người cao lớn sang chơi. Bác tỏ ra rất

quan tâm đến tình hình thời sự. Bác hỏi chúng tôi, nhưng nhiều khi

lại ngồi nói vanh vách tình hình trong nước, ngoài nước cứ như là

phổ biến cho chúng tôi vậy. Bác nói rằng ở đây nhân dân tổ chức

bán gà chống Mỹ, nếu đoàn có giấy tờ thì sẽ mua được. Bác ấy là

chủ nhiệm hợp tác xã mua bán xã. Bác ấy nói đúng. Buổi chiều, có

mấy bà xách vịt, ngan đến cho chúng tôi. Vì ban ngày, gà đã thả

nên thay bằng ngan, vịt. Rồi lại có bà mang rau đến bán cho chúng

tôi nữa. Tất cả đều có giá phải chăng. Hai cô gái ở nhà rất sốt sắng

giúp chúng tôi. Cô thì rửa rau, vo gạo, cô thì đi mua giúp củi, nhen

bếp. Điều đó làm chúng tôi rất vui vẻ và cảm động.

Tối, chúng tôi ra xe. Trăng ngào ngạt khắp làng quê. Các cô gái

làng ríu rít đi tiễn, cô xách hộ xoong nồi, cô xách hộ túi.

8

Xe lại rú ga, gầm gừ tiến khỏi làng. Đường xóc nảy như rang

ngô. Có một cái rãnh xẻ ngang đường to quá, xe phải chúi đầu

xuống rồi lại dê đít vượt lên - lúc ấy thì thành xe chúi tịt xuống

rãnh, chỉ cao ngang mặt đường. Được cái xe khoẻ nên vượt qua hết.

Đi được một đoạn thì xe dừng lại. Thật phiền phức, đường tắc

rồi. Chiều nay bọn Mỹ vừa đánh đoạn đường phía trước, hiện ở đó

còn bom nổ chậm. Thế là phải quay lại đường cũ, gặp lại con đường

làng với những nụ cười vui vẻ của các cô gái.

Ngày 11-5-1968

Tối nay là tối thứ bảy. ở Hà Nội chắc vui lắm, còn chúng tôi thì

đang làm nhiệm vụ bám chắc vào thành xe để khỏi bị xe hất tung

ra ngoài qua những cú xóc. Nhưng không vì thế mà mất vui. Nhiều

anh khoẻ tán lắm - đủ thứ chuyện - làm váng cả xe lên.

Tôi ngồi gần cuối, tay vịn vào thành xe và lặng nhìn về phía

sau. Mây nhiều nên trăng bị che, trở nên nhạt nhẽo vô cùng. Lẫn

trong tiếng động cơ ô tô, tôi nghe có tiếng rít và réo ầm ầm. Và hiện

ra trước mắt tôi là hình thù đen trũi của một chiếc phản lực Mỹ. Nó

bay thấp quá, trông như một con cá lớn trườn qua đầu chúng tôi,

song nó mù, chẳng phát hiện nổi chúng tôi. Xe không dừng lại.

Phải, nó bay nó cứ bay, mình đi mình cứ đi chứ sao.

Được một đoạn, xe dừng lại nhưng vẫn nổ máy. Vì ngồi sau, tôi

không nhìn thấy gì ở phía trước. Tôi nghe tiếng mở cửa ô tô, rồi

nghe Ca - một trong hai anh lái xe cho đoàn - hét lớn:

- Đi thôi Thịnh ơi. Bom bi, nó nổ bỏ mẹ bây giờ!

Cửa xe đóng cái "sầm". Xe lướt tới. Chúng tôi lạnh gáy! Ngơ

ngác chẳng rõ vì sao lại có chuyện ấy? Lúc này xe đã vượt qua nơi có

bom bi. Quả bom nằm ngang trên đường, cánh mạ kền sáng lấp

lánh dưới trăng. Đó là loại bom bi dứa. Bên đường, có một số hố nho

nhỏ - đó chính là hố do các quả bom bi khác gây ra. Thật cái chết cứ

rình mò và định nhảy xổ vào sự sống. Song cuộc sống vẫn cứ ung

dung điềm tĩnh.

9

Nghỉ giải lao. Ngồi mãi trong xe cũng phát mệt, tai ù lên và

người nôn nao. Chúng tôi nhảy xuống xe, vươn mình hít thở luồng

không khí trong lành của buổi đêm. Phía xa, bọn máy bay lại thả

mấy chùm pháo sáng. Chúng tôi tản ra xa xe và ngồi gần mấy cái

hào. Tôi hỏi Thịnh:

- Lúc nãy bom bi thế nào đấy?

Thịnh cười rất tươi:

- À, mình nhìn dưới ánh trăng thấy vật gì lấp lánh, tưởng cái

bút máy ai đánh rơi nên đỗ lại. Suýt nữa thì bỏ mạng!

Quanh tôi có những tiếng nói chuyện rì rầm. Có mấy anh đang

gay gắt tranh luận về việc hút thuốc lá thì phản lực có phát hiện

được không? Anh thì bảo nó chỉ như tàn đom đóm, thấy sao được.

Anh thì bảo đừng chủ quan. Thế mà rồi cãi nhau om sòm.

Tôi nhìn trở lại con đường xe vừa qua. Cách nơi tôi ngồi không

xa lắm, có một đoạn đường còn mang nặng vết tích chiến tranh. Hai

hàng cây ven đường bị cháy xém và gãy gục. 6 chiếc xe - cái thì tung

mui, cái thì còn trơ khung - nằm lăn lóc hai bên đường. Thịnh cho

biết nơi đó trước đây có hai hàng cây rất lớn, xanh rì. Xe của ta đỗ ở

đó, không may bị lũ giặc trời phát hiện, chúng điên rồ xâu xé. Xe bị

bốc cháy. Có anh đã dũng cảm lái xe chạy xuống ruộng, lấy bùn dập

lửa nhưng lại bị bọn Mỹ bắn rốc két trúng, nên hy sinh ngay bên

xe.

Đêm, xe đi theo những con đường vòng khó hiểu rồi đỗ lại ở một

bãi khá rộng. Tất cả người và đồ đạc đều xuống xe. Đây là trạm 12 ở

Hương Khê, chúng tôi nghỉ lại rồi sẽ đi bộ. Chúng tôi bắt tay từ biệt

những đồng chí lái xe dũng cảm và vui tính.

Vai vác ba lô, chúng tôi men theo những bờ ruộng để vào nơi

nghỉ. Đi chừng 4-5 km mà thấy toát cả mồ hôi. Gặp mấy đoàn bộ

đội đi ngược lại. Họ hỏi chúng tôi: "Quê đâu đấy? vào hay ra?..."

Đường làng rộn rã bước hành quân.

10

Ngày 12, chúng tôi nghỉ ở đây, anh em mua con chó làm bữa

liên hoan.

Ngày 13-17/5-1968

Bắt đầu cuộc đi bộ. Nghe nói 10 ngày đầu là mệt lắm. Được cái

đường bằng và ngắn nên đỡ mệt. Ngay hôm đầu vừa đi đã gặp mưa.

Chưa có kinh nghiệm nên ai cũng để ni lông trong ba lô, tháo ra

thật lâu.

Gặp một buổi hành quân đặc biệt. Trời tối như hũ nút, đường

nhỏ, gập gềnh men theo triền núi, lại không được dùng đèn pin.

Chúng tôi dò dẫm bước từng bước. Chỉ lo ngã. Phía thung lũng,

hàng trăm ngàn cánh đom đóm sáng lập loè. Toàn khu rừng lốm

đốm những ánh lân tinh phát ra từ các cây gỗ, lá mục.

Tôi lấy một miếng gỗ lân tinh lớn gài sau ba lô người đi trước

và bám riết theo ánh sáng yếu ớt đó. Vậy mà có lúc tôi bước không

kịp. Nhìn quanh chỉ thấy đen tối mịt mùng. Chân không dám bước

vì sợ sa xuống vực. Tôi đứng tại chỗ gọi hoài người đi trước để nghe

theo tiếng gọi mà lần tới. Mắt cứ căng ra mãi, nên đầu thấy nhức

quá. Đoạn đường có hơn nửa cây số mà chúng tôi đi mất hơn một

tiếng đồng hồ. Ra cửa rừng thấy ánh trăng tràn ngập.

Ngày 18/5/1968

Ra đi từ 2 giờ sáng. Đoạn đầu đường cũng bằng. Đến gần trưa

thì bắt đầu lên dốc. Chúng tôi nghỉ trưa ở một khu rừng nứa. Nóng

và khát, bi đông đã gần hết nước.

Khoảng hai giờ, chúng tôi lại đi. Phải lên cái dốc cao, anh em

gọi là dốc Đại tướng. Mệt thật, nắng cứ nắng hoài, và dốc cứ lên cao

mãi. Rồi chúng tôi dừng lại khu rừng nứa. Đặt ba lô xuống, chúng

tôi rút dao găm và chặt nứa để lấy nước uống. Những cây nứa bị

phạt ngang, toé ra những tia nước trong mát. Chúng tôi chặt cả cây

rồi chặt ra từng khúc, dùng ca, bát hứng ở dưới. Như vậy cũng tạm

được, có chút nước bớt khô cổ. Cuộc hành quân lại tiếp tục. Trời vẫn

nóng như đổ lửa. Phía bên kia sườn núi, những hố bom Mỹ lở lói, đỏ

11

chói lên dưới ánh nắng. Lại khát, mồ hôi ra ướt đẫm áo. Mồ hôi túa

ra trên mặt, chảy thành dòng xuống cằm. Tôi liếm những giọt mồ

hôi đó, cảm thấy đỡ khát. Kỷ luật hành quân không cho phép dừng

lại; khi qua một rừng nứa, tôi cầm con dao lăm lăm trong tay, hễ

thấy cây nào dễ, là bập một nhát rõ mạnh vào thân nó, rồi ghé sát

miệng vào đó, uống vội vàng từng giọt nước. Gần 4 giờ chiều, trời

càng chói chang. Chúng tôi phải đi qua một khu đồi tranh. Đạp lên

tranh mà đi. Tranh ngã rạp theo triền dốc, đặt chân lên thấy trơn

tuột, chỉ muốn ngã. Tranh hấp nắng, toả ra cái nóng hầm hập. Tôi

đi, trần trụi hai cảm giác khát và nóng, tưởng như đi trong một cái

nồi rang khổng lồ, kỳ quái. Còn chiếc ba lô thì trĩu nặng xuống, đôi

quai cứ trì riết hai vai rát bỏng. Xuống khỏi dốc, chúng tôi phải

vượt qua đường 15. Đoạn đường này bọn Mỹ thường rải bom bi.

Từng tốp 4-5 người chạy dọc theo đường, núp sát ta luy rồi băng

qua phía bên kia. Tiếp đó, xuống một cái dốc sâu hun hút và trơn

tuột. Không phải đi xuống mà là bò xuống, tụt xuống. Tôi phải dùng

gậy, ra sức chống đỡ cho khỏi ngã. Suối nước reo róc rách dưới chân

dốc kêu gọi chúng tôi. Nhiều người nhào xuống dưới chân dốc là

quăng ba lô xuống, lấy bi đông ra vục nước, uống ừng ực. Tôi uống

một ca đầy, thấy nước chạy khắp cơ thể, tới đâu mát tới đấy. Rồi

rửa mặt thật thoả thuê. Nước, nước, mới xa nước vài tiếng đồng hồ

mà thấy nhớ vô cùng, khi gặp lại nó ai cũng vồ vập. Tính, một cô

gái có dáng người thấp, béo, ngồi gục vào chiếc ba lô. Tôi hỏi cô lấy

nước chưa? Cô ngửng lên, lắc đầu. Mặt cô đỏ rực như muốn bốc lửa.

Tôi cầm bi đông, khăn mặt, lấy nước dùm cô ấy.

Mãi tới 6 giờ tối mới tới trạm, kết thúc chuyến đi dài 36 km

trong một ngày!

Chủ nhật, ngày 19/5/1968

Chúng tôi ở trạm 15. Hôm nay sinh nhật Bác. Tôi ngồi nghĩ lại

cuộc đời chiến đấu đầy gian khổ của Bác và thấy có thêm sức mạnh

để vượt đường dài.

Đường đã thử sức người. Những đoạn đường đã trả lời cho

chúng tôi rõ: Sức anh được bao nhiêu? Liệu bỏ bớt thứ gì? Bắt đầu

cuộc "thanh trừng" các ba lô. Có anh mang sách ra xé bớt bìa. Có

12

anh bỏ lại cái áo đông xuân, một vài chiếc quần, áo. Nguyễn Đại,

phóng viên báo Nhân dân, người bé nhỏ, lượng không đủ sức mang

vác, đã cắt bớt nửa dưới của chiếc màn cá nhân, bẻ vứt đi nửa đuôi

chiếc bàn chải đánh răng... Còn tôi, tôi thấy vừa sức, vả lại cái gì

cũng cần, không thể bỏ được.

Chúng tôi ngủ trong cái nắng hầm hập của miền Tây Quảng

Bình và trong tiếng gầm rú của lũ phản lực để nửa đêm lại vùng

dậy, vác ba lô đi.

Ngày 20 và 21/5/1968

Trời trở mát và mưa nhẹ hạt. Song nằm trong nhà nghe rõ giọt

mưa rơi lộp bộp xuống những tầu dừa, tưởng mưa to lắm. Sáng sớm

lại ra đi. Mắt díp lại, buồn ngủ quá. Hôm nay chúng tôi chỉ vượt 17

km nên đỡ mệt.

Ngày 21/5/1968

Nghỉ lại trạm 17. Đây là trạm cơ giới. Mọi người hy vọng sẽ

được đi ô tô. Đôi chân tệ quá mà.

Tình hình không cho phép chúng tôi đi xe. Lũ máy bay rình mò

dữ lắm, đi bộ an toàn hơn. Chúng tôi được biết đoàn xe đi trước

chúng tôi mới "bị" ở Xuân Sơn 3 xe, 40 người bị chết, bị thương. Tôi

cũng nghe tin hôm vượt đường, chúng tôi qua một lúc thì lũ máy

bay đến ném bom làm chết và bị thương 25 bộ đội...

Hôm nay chúng tôi được nghỉ ngơi hoàn toàn. Anh em đi lĩnh

gạo, thịt hộp, đường, sữa, rau khô. Cuộc sống trên đường thật sung

túc. Chúng tôi được cung cấp đầy đủ đường, sữa, thịt... để bồi dưỡng

sức khoẻ.

Từ ngày 22-25/5/1968

Tiếp tục đi đường bằng. Mỗi ngày vượt từ 18 đến 24 km. Trạm

18 ở trên một mảnh đất khô cằn.

13

Chủ nhật, Ngày 26/5/1968

Đi đến trạm 20. Nắng dữ dội. Đây, đất Bố Trạch, Quảng Bình

đây. Đêm, máy bay quần đảo suốt.

Ngày 27/5/1968

Chiều, chúng tôi xuất quân. Trời nắng chói chang. Gần đến

đường 15, chúng tôi dừng lại bẻ lá nguỵ trang, rồi nai nịt gọn gàng.

Chúng tôi khẩn trương tiến ra đường, rồi tiếp nhau chạy qua

khoảng đất trống do con đường và một khoảnh ruộng bên đó tạo

thành.

Đêm, chúng tôi tới trạm 21. Máy bay quần suốt, thi nhau thả

pháo sáng và bắn rốc két.

Ngày 29/5/1968

Ra đi từ 3 giờ sáng. Đoạn đường thật đẹp: men theo những bờ

suối, nước trong vắt, có nhiều phiến đá có những hình thù kỳ ngộ,

dễ ưa và những cây trúc đào lả lướt mọc hai bên bờ suối.

Gần trưa, chúng tôi tới một khu rừng già. Thật tấp nập: bộ đội,

thương binh nườm lượp.

Bắt đầu cuộc sống ngủ rừng. Chúng tôi căng tăng, mắc võng

thành một căn lều xinh xắn giữa rừng. Phải học cách mắc võng để

không cho nước mưa chảy vào võng: đầu tiên, phải chọn 2 cây có

khoảng cách vừa tầm võng (trên 2 mét), đóng 2 cọc và buộc dây

chằng chúng vào 2 thân cây -gọi là cọc phụ - sau đó cột dây võng

vào 2 cọc phụ. Cách mắc tăng thì đơn giản hơn: dùng dây căng

thẳng qua hai thân cây làm "đòn nóc", vắt tấm vải vi ni lông qua,

rồi cột các góc vào các gốc cây xung quanh, tạo thành tấm lều nhỏ

phủ trên võng.

Ngày 30/5/1968

Tới hôm nay đã hành quân tròn một tháng. Chúng tôi nghỉ tại

trạm 22 một ngày. Khu rừng rộng rãi và thoáng, sạch, tạo cho

14

chúng tôi một không khí thoải mái. Song lũ máy bay quấy rối chúng

tôi hoài. Chúng bay sát sàn sạt ngọn cây, gầm rít điên loạn. Qua

những lùm cây, thỉnh thoảng tôi lại thấy lướt qua hình thù dài

ngoẵng của một chiếc F105 hoặc múp hình vỉ ruồi của một chiếc F4.

Chúng bỏ bom uỳnh uỳnh phía ngoài đường. Song, bọn tôi vẫn điềm

tĩnh nghỉ ngơi. Người thì mang bộ tông đơ ra cắt tóc cho nhau, một

số người thì xúm xít trong một chiếc lều, hò hét nhau trong những

ván bài thú vị.

Ngày 31/5/1968

Hôm nay phải vượt qua một đoạn đường dài 40 km. Chúng tôi

đi từ sớm. Con đường thật hóc hiểm, toàn núi đá dựng đứng. Anh

em công binh phải dùng mìn phá bạt sườn núi mở đường đi. Có

những đoạn dốc dựng đứng, đá lởm chởm không thể làm đường

được. Người ta phải đóng những thanh gỗ lớn bắc vượt qua nó. Đeo

ba lô nặng, bước lên những bậc thang dựng đứng và ẩm ướt cảm

thấy người nặng trịch và thiếu thăng bằng. Đoạn đường này, phải

vượt qua chín dốc, ba thang.

Được nửa đường, chúng tôi dừng lại dựng lều để nghỉ. ở đây xa

suối quá, chúng tôi phải mang ni lông đi 3-4 km vác nước về. Trời

thật tai ác, khi chúng tôi vừa nhen nhúm lửa lên thì đổ ập mưa

xuống. Mưa rào quất những làn roi nước xuống mặt đất một cách

phũ phàng. Chúng tôi vội vàng chuyển bếp vào một ngách đá và

ngồi thu lu dưới cái vòm đá nhỏ nhắn đó mà nấu nướng.Vẫn không

tránh khỏi ướt. Nhưng dù sao lửa vẫn cháy và cơm vẫn chín.

Chúng tôi ngồi co ro trong tăng ăn cơm nóng và chịu cái lạnh từ

nước mưa thấm vào.

Tôi phải thay quần áo và xoa dầu khắp người cho nóng rồi mới

yên tâm leo lên võng nghỉ.

Đêm, mưa vẫn rả rích. Mở mắt ra, tôi ngỡ ngàng với những

đốm sáng xanh quanh võng: lân tinh phát ra từ những kẽ lá, thân

cây mục rải khắp rừng.

15

Ngày 1/6/1968

Sáng dậy, mặc lại bộ quần áo ướt và lại ra đi. Đến trạm - cũng

là rừng thôi. Xa dân thật khổ.

Ngày 2/6/1968

Lại ra đi khi mới 4 giờ sáng. Chúng tôi nhanh nhẹn chạy vượt

đường 20. Đoạn đường này địch đánh ác liệt, thấy đầy hố bom và

hai bên đường cây cối cụt hết ngọn, trơ cành xơ xác. Suốt 20 km này

đường dốc liên tục.

Đêm, nằm trên đỉnh Trường Sơn lạnh buốt. Máy bay địch quần

không ngớt.

Ngày 4/6/1968

Sau khi nghỉ một ngày ở trạm 24, 5 giờ sáng nay chúng tôi lại

ra đi.

Đường chúng tôi đi men theo những dòng suối nên khá trống

trải. Lũ máy bay địch cũng quần lượn hoài trên vùng trời này.

Những chiếc máy bay phản lực sáng loá lên trước ánh nắng và lao

loang loáng giữa vòm trời xanh. Có những tiếng nổ "ùng ục" kéo

dài. Không hiểu ta bắn lên hay địch bắn xuống. Chúng tôi phải hết

sức nhanh nhẹn vượt những quãng quá trống trải để lũ máy bay

khỏi thấy.

Trạm 25 này là một trạm mới di chuyển đến. Chỗ ở thật tai hại.

Đó là một khu rừng nứa rất dốc -thật khó kiếm được một chỗ bằng

để làm nơi ở - và rặt một thứ đất đỏ quánh, trơn như đổ mỡ.

Lâu ngày rồi không được ăn rau, thèm quá. Gặp mấy o thanh

niên xung phong và được các o cho một bó rau tầu bay. Thế là

chúng tôi được một bữa canh tươi! Bọn tôi lúi húi mỗi nhóm một góc

rừng bắc ăng gô nấu cơm. Chật chội hết sức. Do vậy thật tai vạ, một

ăng gô nước sôi vừa bắc ra bị anh Nhị đá phải đổ ập cả vào chân

trái tôi. Nóng dãy lên. Bàn chân trái phút chốc đỏ rực lên và rất rát.

16

Nó cứ nóng rát lên từng đợt, rồi dịu đi, rồi lại nóng rát lên từng đợt,

từng đợt như vậy, thật khó chịu. Chống gậy về võng nằm. Tôi lo

lắng vô kể: ngày mai đi đứng sao đây với cái chân này? Thấy tình

cảnh ấy, Vượng rất lo lắng cho tôi. Anh trách móc mãi Nhị về sự vô

ý vừa qua.

Ngày 5/6/1968

Sáng dậy, thấy chân bị bỏng phồng rộp lên. Tôi bôi thuốc mỡ

lên rồi băng nó lại, lồng nó vào chiếc bít tất. Tôi nới rộng quai dép

để đi cho đỡ tức chân, rồi chống gậy tập tễnh bước đi. Đoàn quân

nối dài trong khu rừng nứa lầy bùn. Một thứ bùn đỏ quánh, trơn

tuột. Người ta thi nhau ngã oành oạch! Có đoạn xuống dốc đường

trơn quá, tôi phải chống gậy xuống trước, lựa chiều để xuống dần

từng bước, từng bước.

Đến đất Lào rồi đây. Chúng tôi đi qua một bản của người Lào,

thấy dân ở đây giống người Xá Tây Bắc. Lâu lắm rồi mới gặp dân.

Trời u ám, xam xám một màu chì và thoảng những làn gió

lạnh. Lòng tôi chợt buồn nao nao. Nhớ gia đình quá!

Ngày 6/6/1968

Nghỉ lại ở trạm 26 - tức trạm 6. Đây là trạm đầu tiên trên đất

Lào - thuộc tỉnh Khăm Muộn.

Ngày 7/6/1968

Chúng tôi đi theo những rừng nứa thưa hoặc dòng suối cạn.

Đất mịn màng dưới chân chúng tôi. Đoạn đường này đi khá dễ chịu.

Ngày 8/6/1968

Đi. Đi hoài. Đường dốc ghê quá. Có hai dốc anh em gọi là "ác

ôn" vì nó vừa dựng đứng, vừa trơn tuồn tuột, sảy chân là ngã liền.

Chủ nhật, ngày 9/6/1968

17

Chúng tôi bắt đầu bước vào mùa mưa của đất Lào. Hôm nay

mưa dầm dề suốt. Mưa không to lắm nhưng rất đều hạt và liên tục.

Chúng tôi choàng ni lông, cắm cúi đi. Chiếc áo đi mưa bị cái ba lô

đẩy phồng lên làm cho lưng chúng tôi trở thành gù, trông như

những con lạc đà vậy. Lạc đà vượt Trường Sơn!

Đường lầy lội những nước. Tôi hết sức tránh nhưng dù sao vẫn

sa chân vào những vũng nước bẩn. Nước bùn ngấm vào chỗ bỏng

khiến nó rức buốt. Có lúc đau quá, tôi phải ngồi lại nghỉ - ngồi trên

những khúc gỗ hoặc tảng đá ướt át. Rồi lại chống gậy, gắng đi. Phải

đấu tranh dữ lắm mới đi nổi!

Chiều, trời ngớt đi một chút. Anh em xin được mấy con cá, kho

ăn ngon lạ. Đặc biệt hôm nay chúng tôi ăn khoẻ quá - ăn hai lần,

cách nhau một tiếng và mỗi người ăn mỗi lần nửa ăng gô cơm!

Đêm, trời lại ập cho một trận mưa. Thật đáng buồn, tăng

chúng tôi mắc quá cẩu thả nên nhiều người bị nước tạt vào ướt

sũng. Võng tôi cũng bị ướt. Thế là phải dậy lục đục căng lại tăng.

Quần áo cũng ướt theo. Nằm trong cái ướt lạnh ghê người.

Ngày 10/6/1968

Trời vẫn mưa hoài. Vì đau chân, tôi tranh thủ đi trước. Đường

qua những khu rừng thưa. Thật kỳ lạ, trên đường sao lắm cua thế.

Những con cua núi này trông rất ngộ nghĩnh: con nào con nấy có

đôi càng to tướng và có bộ mai màu đỏ sặc sỡ. Gặp người, chúng chạy

rõ nhanh và chui tụt vào hang. Nếu không chạy kịp, chúng giơ đôi

càng lớn ra muốn chống cự. Tôi bắt được tới hơn 40 con. Bắt nó thật

thú vị: phải nhanh tay, nhanh mắt chộp lấy nó, có con chạy gần tới

hang, tôi lấy gậy hất một cái, cu cậu bật ngửa và giơ đôi càng to xù ra

thật ngộ nghĩnh. Vui với việc bắt cua, tôi quên cả đau chân.

Trạm 10 nằm ở một khu rừng thưa rộng rãi, đất bằng phẳng.

Trạm đón tiếp chúng tôi một cách rất trịnh trọng. Chúng tôi giã cua

nấu canh và lấy một số rang mặn ngọt, ăn rất ngon.

Ngày 11/6/1968

18

Nghỉ lại trạm 10. Trời tạnh mưa, sáng lên một chút. Gần trưa,

chúng tôi ra ven suối nấu cơm. Lửa vừa nhen lên thì mưa ập xuống.

Cái mùa mưa quái ác! Chúng tôi phải lấy ni lông che tạm bếp và

người. Được cái củi là củi nứa nên dễ cháy. Người chúng tôi ướt

mèm, nhưng dù sao cơm vẫn chín.

Chiều, chúng tôi gặp Hoàn, phóng viên của báo Thủ Đô Hà Nội,

nay làm ở Tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn xe. Chúng tôi vào Tiểu đoàn bộ

chơi, được anh Nguyễn Hồng - Tiểu đoàn trưởng - và anh Trần

Minh Khâm - anh hùng Quân đội - đón tiếp rất nhiệt tình. Cuộc

sống ở đây khá sung túc. Các anh mang đường kính thỏi của Liên

Xô ra tiếp chúng tôi. Chiều đó, chúng tôi được ăn một bữa cơm trịnh

trọng và thịnh soạn: có bàn ghế, mâm bát hẳn hoi (lâu rồi chúng tôi

chỉ ăn dưới đất và bằng nắp ăng gô), có thịt hộp, thịt lợn tươi kho

(không phải là thịt hộp), canh chua, măng xào...

Ngày 12/6/1968

Trời hửng lên rồi. Bầu trời trong xanh, hứa hẹn những ngày

nắng.

Ngày 13/6/1968

Nắng dữ dội. Mệt quá đấy, mãi đến chiều mới tới trạm.

Ngày 14/6/1968

Đến trạm 13. Trời vẫn nắng.

Ngày 15/6/1968

Nắng rực rỡ, trời xanh cao vời vợi thật đẹp. Chúng tôi nghỉ lại ở

một khu rừng thưa. Trạm trưởng là một chuẩn uý khá điệu đà. Anh

thường nhấn mạnh quá đến cái "tôi": "Tôi đã chỉ thị...", "Tôi không

cho phép...". Anh đưa ra một số mìn lá của biệt kích giới thiệu với

chúng tôi và nói: "Tôi đã cho nhặt hết, nhưng các đồng chí phải

cảnh giác, có nhiều loại màu: màu lá, màu đèn pin, màu bút bi....các

đồng chí đã rõ chưa?". Khi chúng tôi căng tăng, anh không cho, bắt

19

đợi đến tối, bởi vì, theo anh, "tăng là chất mầu dễ lộ, máy bay dễ

thấy". Tôi thấy hơi khó chịu với thái độ của anh trạm trưởng. Vượng

cứ đay đi đay lại cái câu " tăng là chất mầu dễ lộ", có ý chế riễu anh

ta.

Ngày 16/6/1968

Sáng, chúng tôi dậy thật sớm, ăn cơm rồi soạn ba lô.

Chúng tôi vượt sông Xi Bang Hiên bằng những chiếc thuyền

lớn. Nước sông trong xanh và phẳng lặng như gương, trông thật

đẹp.

Đi khỏi sông một quãng, thấy trời bỗng u ám, gió thổi thốc lên

khiến lá rừng rơi lả tả và bay quay cuồng. Mỗi khi trời như thế, tôi

lại nhớ tới Hà Nội mùa đông với những cơn gió mùa đông bắc ngắt

lá rụng đầy đường và lòng thấy trạnh buồn. Nhớ lũ em quá.

Trời mưa một cách giả tạo để rồi lại nắng.

Ngày 17/6/1968

Nghỉ lại trạm 15. Chúng tôi ở trên một triền dốc thoai thoải,

chân đồi có một con suối lượn quanh.

Nghỉ ngơi thoải mái, tôi đi vào bản chơi. Dân Lào nói tiếng

Thái nên tôi chuyện trò được. Bản tôi vào gồm khoảng chục nóc nhà

sàn lụp xụp, với những người dân ít trò chuyện. Phụ nữ không mặc

áo và da đen bóng. Kể ra, bản cũ của họ ở nơi rộng, thoáng, sạch sẽ

và đẹp. Song bọn Mỹ ném bom, họ phải sơ tán vào khu rừng này.

Ngày 18/6/1968

Nắng rực rỡ. Chúng tôi ra đi giữa trưa nên mệt tợn. Có gì sôi

lục bục ở hai mang tai. Đầu óc muốn nổ tung ra. Mi mắt nặng trĩu,

muốn sụp xuống. Tôi phải lấy đường pha với Vi ta min C uống cho

lại sức.

20

Gần tối, chúng tôi vượt qua đường 9. Con đường nổi tiếng đó

trải bằng đá và chỉ rộng 7-8 thước thôi. Sau đó, chúng tôi dùng

thuyền vượt qua sông SêPôn.

Ngày 19/6/1968

Sáng nay chúng tôi vượt dốc "Nguyễn Chí Thanh". Từ các trạm

trước, tôi đã nghe nói đến dốc này. Dưới chân dốc có làm một cái

cổng chào và treo những khẩu hiệu động viên người ra tiền tuyến.

Anh em giao liên đã làm những bậc gỗ để lên dốc cho dễ. Tôi hăng

hái vượt hết bậc này đến bậc khác, vượt gần nghìn bậc thì lên tới

đỉnh. Trên đỉnh cũng có một cổng chào. Bỏ ba lô xuống, tôi hít thở

một cách thoải mái làn không khí trong lành. Nhìn xuống, tôi thấy

ở tít xa, dòng sông SêPôn ánh lên bàng bạc.

Ngày 20/6/1968

Đến trạm 19 A. Đường bằng nhưng dài quá nên đi khá mệt.

Đến đây đoàn K191 chia tay với chúng tôi để rẽ về Trị Thiên.

Khu rừng chúng tôi ở toàn một loại cây nhỏ, thấp và thưa lá

nên quá trống trải.

Ngày 21/6/1968

Nghỉ lại nơi này. Chúng tôi ra bờ sông SêPôn nấu ăn. Lòng

sông khá rộng và nông, có nhiều phiến đá lớn nằm giữa dòng nước

trông thật là đẹp. Tôi tắm giữa dòng sông trong mát thấy thoải mái

vô cùng.

Chiều, trạm tổ chức chiếu phim cho anh em xem.

Ngày 22/6/1968

Đi sớm để qua cầu treo. Chiếc cầu nhỏ, chỉ rộng độ nửa thước

đan bằng tre, được treo ở hai mỏm đá bằng những sợi mây lớn. Trên

đất Lào này, chúng tôi hay gặp những cầu treo như thế. Chỉ làm

toàn bằng gỗ, tre rồi dùng dây mây chằng, treo lên ngọn, thân cây

21

hoặc tảng đá, vậy mà rất vững. Đoàn quân đi qua, cầu rung lên kêu

ken két và đung đưa, đung đưa...

Đến trạm 23, tình cờ tôi nhặt được lá thư của một phụ nữ nông

thôn gửi cho chồng, nói lên những công việc đảm đang của mình khi

anh ra tiền tuyến, ở góc lá thư, anh bộ đội viết câu ca dao:

Vượt qua trăm núi ngàn khe

Đường ra tiền tuyến say mê lạ thường.

Anh lính ấy ra đi rất say mê, phải chăng vì có một lý tưởng

đúng đắn, và phải chăng vì ngoài hậu phương lớn, hậu phương

chung, anh còn có một hậu phương riêng rất vững? Tôi suy nghĩ

nhiều về hậu phương. Ai ra tiền tuyến mà chẳng ôm ấp trong lòng

mình những cái thân yêu của hậu phương. Ngoài cái hậu phương

lớn, chung là cả miền Bắc, là công trường, nhà máy, đồng ruộng...

mỗi người đều ôm ấp trong lòng một hậu phương riêng, đó là gia

đình, bè bạn, nơi anh sinh trưởng! Cái hậu phương ấy tuy riêng, tuy

nhỏ nhưng mặt nào đó nó bao hàm cả những cái chung, thông qua

đó người ta nhớ đến hậu phương lớn vì nó có tác động rất mạnh mẽ

và trực tiếp tới anh. Nó vững mạnh, nó tốt, nó sẽ nâng bước anh rất

nhiều.

Tôi thấy rất tự hào về gia đình tôi, một gia đình có truyền

thống cách mạng. Tự hào về người cha luôn tận tình phục vụ cách

mạng - Ông đã được thưởng Huân chương kháng chiến và Huân

chuơng lao động. Tự hào ở người mẹ đã tiến vượt lên trong cuộc

kháng chiến thứ hai này. Cuộc kháng chiến trước, mẹ tôi chỉ ở nhà

quanh quẩn nuôi chúng tôi. Cuộc kháng chiến này, mẹ tôi tham gia

công tác cơ quan, đồng thời làm công tác Công đoàn. Mẹ tôi đã tự

học để nâng trình độ văn hoá lên hết cấp 2, đã nỗ lực phấn đấu và

đã trở thành Đảng viên. Tự hào ở những đứa em ngoan ngoãn,

chăm học, chăm làm, đứa nào cũng là đoàn viên hoặc đội viên thiếu

niên tiền phong.

Đây đã là tỉnh Xa Van Na Khét của Lào rồi. Chiều, trời đổ ập

một cơn mưa dữ dội.

22

Ngày 23/6/1968

Sáng đi sớm. Trời thật ẫm ờ, dở mưa dở nắng.

Ngày 24/6/1968

Gần sáng, trời mưa như trút nước, chúng tôi dậy thu dọn mọi

thứ trong mưa để lại ra đi. Chiều, trời lạnh và lại trong xanh một

cách kỳ lạ.

Ngày 25/6/1968

Sức khoẻ của anh em trong đoàn sụt dần, đã có nhiều người ốm

phải nằm lại trạm. Thuyết - cùng tiểu đội tôi - cũng sốt, rên hừ hừ.

Chúng tôi kiếm được một quả bí đỏ, nấu chè ăn thật ngon.

Ngày 26/6/1968

Sáng lại lên đường. Mấy anh ốm chống gậy khặc khừ ra đi.

Chúng tôi đi một cách chậm chạp. Tiểu đội tôi tụt lại phía sau

vì anh Thuyết yếu quá. Tuy chúng tôi đã mang hết gạo và một số

thứ nặng hộ anh, anh vẫn đi rất nặng nề. Chúng tôi mệt mỏi leo lên

một cái dốc. Đến gần đỉnh, bỗng Thuyết đứng sững lại, mặt nhợt

nhạt. Anh ngồi phịch xuống rồi nằm ngửa ra. Bọn tôi cuống quýt

tháo ba lô cho anh. Người anh đầm đìa mồ hôi và lạnh toát. Chúng

tôi xoa dầu cho anh và lấy mấy viên sâm, Polyvitamin bỏ vào miệng

anh. Anh ta phều phào: "Đắng lắm anh ơi" và định nhè ra...

Chúng tôi lấy võng ra, buộc vào một khúc tre lớn rồi vực

Thuyết vào võng, khiêng lên đỉnh dốc. Sau đó, chúng tôi buộc hai

đầu đòn khiêng vào cây rừng để anh nằm nghỉ rồi vơ củi, lấy nước

nấu cháo. Vừa lúc ấy thì đồng chí chính trị viên trạm tới. Anh tỏ ra

lo ngại, song không thể ở lại với chúng tôi được. Anh mang hộ ba lô

Thuyết đi trước và dặn "Chú ý, nơi này hay có biệt kích. Nó thường

đi từ phía sườn núi lên". Nghe nói biệt kích, San vội chạy vào ngồi

giữa. Anh chàng này làm nghề chữa máy ảnh, máy quay phim, tính

23

rất vô tư và rất sợ hổ, biệt kích. Chúng tôi cười ầm lên và nói vài

câu nhạo báng San. Anh cười hì hì.

Ngọn lửa bừng lên sưởi ấm cho Thuyết. Chúng tôi bắc mấy ăng

gô lên. Thật chán, vì vội vã, chúng tôi đóng cọc không cẩn thận nên

cọc đổ làm ụp cả ăng gô xuống. Khói bốc mù lên. Lại phải xuống dốc

lấy nước khác.

Nước sôi, cháo chín. Tôi lấy ruốc hoà vào cháo mang tới cho

Thuyết. Anh húp được vài thìa.

Quá trưa rồi. Trời nắng và nóng dữ. Chúng tôi quyết định

khiêng Thuyết đi. Tôi lấy cây gánh ba lô cho Vượng và Thành. Còn

Thành, Vượng khiêng võng. Gánh có hai ba lô mà sao thấy nặng

thế, người cứ lao đao, chúi về phía trước. Tôi đi sau như chạy một

cách bị động, được vài chục thước là thở hồng hộc và phải đặt gánh

xuống nghỉ. Còn Vượng và Thành khiêng mới vất vả. Hai anh rúm

vai và bước đi xiêu vẹo...

May sao, đi được một lúc thì Thuyết hồi sức. Anh xuống võng,

đi bộ. Bọn tôi mang hết đồ đạc cho anh và kèm anh đi. Chừng 5-10

phút lại nghỉ một lần. Nóng và mệt quá chừng.

Gần tối, chúng tôi tới trạm. Dù sao cũng đã vượt được một thử

thách lớn!

Ngày 27/6/1968

Chúng tôi nghỉ tại đây. Đồng bào mang hàng đến đổi. Chúng

tôi đổi được một ít rau bí, ngô non và sắn. Canh rau bí thật ngọt

ngào. Ngô để cả râu, luộc lên, chúng tôi lấy nước ấy cho Thuyết

uống. Còn sắn luộc thì ăn " thoả mãn bần cố ".

Buổi chiều, Thuyết vào trạm xá nằm. Anh sẽ nghỉ lại trạm này,

khi khỏi sẽ đi tiếp. Khi chia tay, anh khóc không dấu diếm, khóc hu

hu như một đứa trẻ con...

24

Ngày 28/6/1968

Dốc nhiều.

Lần đầu tiên chúng tôi được vào nhà của trạm nghỉ và được

trạm nấu cơm cho ăn. Do vậy đỡ vất vả.

Ngày 29/6/1968

Gần sáng, trời mưa xối xả. Có lẽ đây là trận mưa lớn nhất từ

khi tôi đặt chân lên đất Lào. Nước xối ào ào, ào ào xuống rừng núi,

chảy từng dòng theo các khe rãnh. May mà nằm trong lán nên

không bị ướt.

Qua sông Nậm-Bạc bằng thuyền. Sang sông rồi, chúng tôi tiến

vào một khu rừng. Lúc đó, một máy bay phản lực đen trùi trũi bay

sát ngọn cây, rít ầm ầm.

Ngày 30/6/1968

Sáng sớm, dậy nấu cơm ăn rồi lại đi. Chúng tôi cứ dọc theo

sông Bạc mà tiến. Nước sông chảy tràn qua các tảng đá lớn, tung

bọt trắng xoá dưới nắng và réo ầm ầm.

Đến trạm 32 này là chẵn 2 tháng trên đường rồi!

Thứ 2 ngày 1/7/1968

Nghỉ lại trạm 32. Hôm nay sinh nhật mình. Tuổi 22 ơi, ngươi

chứng kiến những ngày phấn đấu của ta trong cuộc trường chinh

lớn này. Đón ngày sinh thứ 22 trên đất Xa Van Na Khét (Lào), lòng

mình không khỏi bồi hồi nhớ tới quê hương.

Ngày 2/7/1968

Lên, lên mãi. Đến đỉnh dốc thấy mây mù bao phủ. Không khí

ẩm ướt và lành lạnh.

25

Ngày 3/7/1968

Dốc, dốc suốt. Lên cao mãi để xuống thấp mãi. Lên thấy nặng

nề một cách mệt nhọc. Xuống thấy chùn chân, đầu gối run bần bật.

Đứng trên đỉnh núi thấy mây bao phủ dưới chân. Con đường thật

quái ác, không men theo triền núi mà cứ nhằm đỉnh núi mà tiến.

Trạm 34 này nằm ở tỉnh Xa Ra Van.

Ngày 4/7/1968

Đến trạm 35. Đường khá bằng. Thấy dân Lào đào mương, làm

thuỷ lợi thật vui. Lại nhớ đồng bào Tây Bắc. Đến tỉnh Ta Vên Ok

(Mặt trời mọc).

Ngày 6/7/1968

Sáng lại đi. Đến đây thêm 3 người nữa nằm lại trạm vì ốm. Thế

là 7 người rồi! Đoàn chỉ còn lại 13 người.

Khi xuống dốc, tôi vô ý sảy chân, bị ngã một cái như trời giáng.

Đường toàn lên dốc mà không xuống. Chúng tôi đang trèo lên

một cao nguyên lớn của nước Lào: cao nguyên Bô Lô Ven.

Chúng tôi vào trạm. Nhiều căn nhà nằm lạnh lùng trên đỉnh

núi giá lạnh này và chìm trong sương mù. Mù mịt và ẩm ướt suốt

ngày. Mặt trời trốn biệt và nếu có lúc nào đó chợt ló ra thì những

tia nắng yếu ớt cũng không đủ sức xuyên qua những lớp lá cây xanh

rì cùng những lớp sương mù dầy đặc. Ban chỉ huy trạm tiếp chúng

tôi tại câu lạc bộ của trạm. Đó là một căn nhà xinh xắn, có làm mấy

dãy ghế và trên trần có treo mấy chiếc dù pháo sáng màu trắng.

Chúng tôi ngồi nghe anh trạm trưởng phổ biến địch tình trong cái

ẩm ướt và lạnh ghê người. Nơi đây, địch đã ném bom vào bãi khách,

làm chết và bị thương một số người. Chúng cũng thường thả biệt

kích xuống. Ba bốn giao liên đã hy sinh trong một cuộc đọ súng bất

ngờ với chúng tại một đỉnh dốc.

26

Chúng tôi nghỉ tại đây một ngày. Không lấy gì làm thú vị lắm

vì trời quá u ám, không khí quá ẩm thấp và đêm ngủ quá lạnh.

Đêm nằm trong lán, trên sạp, tôi trải ni lông lót lưng, lấy cả võng,

tăng và chiếc dù pháo sáng trùm kín mà vẫn rét rúm cả người lại.

Tôi luôn thấy đồng bào Lào gùi rau đến cho trạm. Trạm cho

đồng bào muối hoặc một vài thứ cần thiết cho sinh hoạt mà đồng

bào không có. Tôi gặp một bà mẹ và một cô gái nhỏ mang gạo nếp,

đậu xanh đến cho ban chỉ huy trạm. Bà mẹ và cô gái ngồi quanh

một chiếc bàn cùng mấy đồng chí giao liên, vừa chuyện trò vui vẻ,

vừa nghe đài.

Một phụ nữ khác cõng rau đến rồi ẵm con vào nhà mấy giao

liên. Họ nói chuyện rất cởi mở bằng tiếng Lào. Một giao liên lấy cơm

và ruốc bông cho đứa bé. Nó bốc ăn ngon lành.

Ngày 8/7/1968

Giờ đây, chúng tôi nhằm hướng mặt trời mọc mà tiến về Tổ

Quốc... Hai người nữa nghỉ tại trạm rồi, cái sốt rét rừng ác hại!

Chúng tôi đang đi trên đỉnh cao nguyên BôLôVen. Nắng yếu ớt

và sương mù trải nhẹ khắp cao nguyên. Có những bãi bằng rộng

như một cái sân bay trải đầy cỏ xanh rờn. Núi non trập trùng trải

ra dưới tầm mắt chúng tôi, nhiều ngọn núi rực lên dưới ánh nắng.

Chiều, chúng tôi tới trạm 60 -Binh trạm 21.

Ngày 9/7/1968

Mặt trời Tổ Quốc luôn vẫy gọi chúng tôi. ánh nắng buổi sớm

xuyên qua những giọt sương long lanh đọng trên các ngọn cỏ tranh,

chiếu thẳng mặt chúng tôi. Chúng tôi len lỏi trong rừng tranh,

nhằm thẳng phương Đông mà tiến. Đi một chặp, người đã sũng

nước sương. May mà đã thoát khỏi những đồi tranh. Trước mặt

chúng tôi là rừng thông. Tôi ào tới khu rừng ấy. Chao, đẹp quá.

Những cây thông cao vút, thẳng tắp đang khẽ reo lên trong gió.

Rừng thưa và sạch. Dưới gốc thông không có những cây con và rác

rưởi mà chỉ toàn là lá thông. Lá thông trải dầy, bằng phẳng và êm

27

như đệm bông. Cả một giải rừng thông nối nhau trập trùng từ ngọn

núi này sang ngọn núi khác. Thỉnh thoảng, tôi gặp vài cây thông

cháy. Ngọn lửa cũng liếm gọn những lá thông dưới gốc, tạo thành

những khoảnh đen. Anh giao liên cho biết sở dĩ thông bị cháy là do

pháo sáng địch thả rơi xuống.

Gần trưa, trời nắng chói chang. Chúng tôi đi men mấy cái rẫy

mới phát. Trên rẫy ngổn ngang những cây thông lớn đã bị cháy khô.

Thật tiếc, đồng bào làm rẫy nên phá nhiều thông quá.

Rời khu rừng thông khô ráo, thơm tho và ngập tràn ánh nắng,

chúng tôi chui vào một khu rừng gỗ già nua, vừa ẩm ướt, vừa âm u

và lại lắm dốc.

Chúng tôi gặp Nguyễn Đại và Đỗ Quảng - phóng viên báo Nhân

dân - hai anh không đủ sức khoẻ nên phải ra. Qua chiếc cầu tre,

chúng tôi vấp phải một cái dốc khủng khiếp. Dốc dựng đứng, nhão

nhọet bùn và trơn nhầy nhẫy. Tôi dùng tay bám vào rễ cây, thân

cây, cố leo lên. Lên được một đoạn, gặp một cái thang gỗ cũng ướt

nhọet và nhớp nháp. Nhưng dù sao, bước lên những bậc gỗ đó vẫn

dễ hơn. Con đường nhầy nhụa và dốc đứng này, anh em giao liên

vẫn thường cáng thương binh qua. Tôi vô cùng cảm phục họ, sao

khiêng nặng trên vai như vậy mà vẫn đi được trên những đoạn

đường như thế? Chỉ cần sảy chân một chút là cả anh, và kinh

khủng hơn nữa, cả người thương binh nằm trên cáng, sẽ nhào

xuống vực... Tôi luôn gặp những cáng thương. Hai giao liên hai đầu

cáng, vai nâng cáng, chân thận trọng bám từng thớ đất mà lên dốc

hoặc xuống dốc.

Ngày 10/7/1968

Nghỉ lại trạm 61. ở đây có loại cần rừng là món ăn phổ biến.

Trông nó giống rau cần ta vẫn trồng, song ăn thì hắc quá, giống

như mùi dầu hoả. Cần xào, canh cần, cần muối... Ôi! Chán ngấy.

Chỉ có món nước mắm là hấp dẫn một chút. Đó là một loại nước có

dính một tí thịt hộp. Thịt hộp ít quá, anh nuôi khui ra, cho vào nấu

nát và đổ hàng soong nước vào. Thế mới đủ cho mọi người chấm

mút một chút chứ...

28

Trạm này cũng ẩm ướt và lạnh. Ăn rồi, bọn tôi nằm trên võng

tán gẫu, xong lại ca cẩm về cái lạnh và đói. Quái lạ, sao ăn 7 lạng

mà trạm nấu thấy ít cơm thế? Còn ít gạo, chúng tôi rủ nhau đi nấu

mà ăn. Chớ có nhờ trạm, họ sẽ gắt ầm lên vì phiền đến họ. Chúng

tôi rúc vào rừng, tất nhiên mỗi nhóm một hướng để khỏi bị giao liên

phát hiện, tìm củi mà nấu. Bốn đứa chúng tôi chui vào một hốc cây

to, nổi lửa đùng đùng và bắc ăng gô lên. Chỉ ít phút sau là chúng tôi

đã ăn xong, lại leo lên võng nằm tán gẫu, như chưa hề vào rừng nấu

cơm vụng trộm vậy. Cách nấu nướng ngang tắt ấy, trên đường hành

quân, bộ đội Trường Sơn gọi là "tụt tạt".

Ngày 11/7/1968

Đường qúa dài. Mãi 4 giờ chiều mới tới.

Ngày 12/7/1968

Dốc dữ quá, lên cao chót vót rồi lại xuống thăm thẳm. Qua sông

SêCaMáng.

Hôm nay, chúng tôi đã vượt qua biên giới, trở lại đất nước -

tỉnh Công Tum. Đi trên đất Lào mất một tháng sáu ngày!

Ngày 13/7/1968

Vẫn kiên trì đi. Đường đỡ dốc hơn.

Ngày 14/7/1968

6 đứa chúng tôi nghỉ tại trạm này, đoàn tiếp tục đi.

Ngày 15/7/1968

Chúng tôi đi qua một vùng rẫy. ở đây bầu trời rộng ra và mặt

đất sáng sủa hơn lên. Bà con dân tộc làm việc rộn rập ở rẫy, nhiều

người mang ngô rang ra. Họ đổi ngô rang lấy thuốc bổ, thuốc cảm

sốt... Khi đoàn gần chui vào một khu rừng rậm thì có một chiếc máy

bay trinh sát loại L19 lượn đến. Tôi và Điều đi sau, nên còn ở

29

khoảng trống. Chúng tôi đứng im. Chiếc L19 nghiêng cánh, nhòm

ngó rồi vòng đi. Tôi và Điều vừa bước vài bước thì nó vòng lại,

nghiêng cánh. Chúng tôi ngồi thụp xuống, mang cả ba lô trên vai.

Thật khó chịu, chiếc L19 cứ lượn. Ngồi mỏi cả chân. Song, nó cũng

cút. Chúng tôi nhanh chóng lẩn vào rừng. Giờ thì tha hồ cho mày

tìm.

Trời nắng rực rỡ là vậy, lại ập cho một cơn mưa xối xả khi

chúng tôi vừa tới trạm. Trạm 65.

Ngày 16/7/1968

Chúng tôi lại đi qua những giải rừng thông bát ngát. Đồng bào

ta cũng phá quá nhiều thông để làm rẫy.

Chiều, mưa tầm tã.

Ngày 17/7/1968

Đường ngắn, đi thoải mái. Nhiều rẫy bắp sắp đến ngày thu

hoạch nằm cạnh đường đi. Quanh rẫy, đồng bào cắm những cây nứa

lớn được chẻ làm 2, 3, có một sợi dây dài chằng trên các cây đó, trên

dây buộc nhiều giẻ rách và đầu dây nối với một guồng nước. Nước

chảy rì rào làm cái guồng nhảy lên nhảy xuống, kéo sợi dây làm

những cụm vải đung đưa và những cây nứa bị tẽ ra, dập vào nhau

phát lên những tiếng "Crập! Crập" đều nhịp. Xen vào đó là những

tiếng hờ của đồng bào nghe âm u, rờn rợn. Rừng núi Trường Sơn có

những âm thanh huyền bí như vậy đó.

Chúng tôi tới trạm 67, trạm Xã hội chủ nghĩa cuối cùng của

đường dây. Trạm có những ngôi lán sạch sẽ, ở đầu trạm có một

bảng nội qui to bằng gỗ. Trạm có vẻ đàng hoàng.

Anh em cấp dưỡng lấy rất nhiều củ nưa - trông giống như móng

ngựa nên anh em gọi là củ móng ngựa - về làm thức ăn. Loại củ này

có chút chất bột nhưng cứng và rất chát, muốn ăn, phải gọt vỏ, thái

ra, ngâm nước cả đêm. Nhưng với điều kiện thiếu thốn, đem thái

30

nhỏ, trộn với bột trứng và rán lên thì thành một món chả ngon

tuyệt.

Anh em đi lĩnh gạo. Tôi ở nhà nấu thêm vài ăng gô cơm cho anh

em về đỡ đói. Tôi nấu nhờ nhà bếp. Cơm gần sôi thì có một anh

chàng giao liên đến gắt nhặng lên và không cho tôi nấu nữa. Tôi nói

sao anh ta cũng không nghe. Anh ta bảo: "Sợ hỏng gạo thì đổ ra mà

phơi!" Bực tức, tôi xách ăng gô về. Tìm đâu cũng không ra chỗ để

nấu cơm, sau một hồi loay hoay đành thôi. Lúc sau, thấy anh chàng

giao liên nọ sục vào rừng. à, chắc anh ta tìm xem tôi có "tụt tạt"

không? Con người gì mà khắt khe vậy? Thật đáng ghét. Mấy anh đi

lĩnh gạo về, thấy không có cơm, đều tỏ rõ sự thất vọng. Nhất là anh

chàng San háu đói, mặt xị đi trông thật buồn cười.

Tôi gặp mấy cháu nhỏ từ Quảng Nam ra. Bọn con trai khoẻ và

nghịch như qủy. Bọn con gái gầy yếu và rủ rỉ kể chuyện rất hay.

Cái Bốn, Đức sốt quá, tôi lấy thuốc lên trạm nhờ tiêm cho chúng.

Chúng tôi nghỉ tại trạm một ngày.

Ngày 19/7/1968

Chúng tôi sẽ đến trạm Giải phóng đầu tiên. Tôi mong đến

nhanh xem trạm Giải phóng có gì khác và cứ đinh ninh rằng sẽ gặp

những chiến sĩ Giải phóng nói giọng miền Nam và hết sức ân cần

tiếp chúng tôi - những người từ miền Bắc vào.

Đường chúng tôi đi toàn dốc, đi qua một trạm vận chuyển - có

rất nhiều nữ trẻ - và qua sông nước Chè. Trên đường lại gặp cô gái

người Quảng Nam. Cô mượn dao của tôi và kê thuốc lá lên cây mà

xắt. Rồi cô cuốn một điếu thuốc to đứng hút ngon lành, miệng luôn

nhổ nước miếng toèn toẹt.

Những điều thấy được làm tôi thất vọng. Giao liên dẫn tôi đến

trạm Giải phóng là một chú chàng miền Bắc 100%, trẻ măng và

đoảng tính. Chú ta quên mang giấy giới thiệu của chúng tôi theo,

và tệ hơn nữa, còn bỏ rơi cả một chú bé đi ra Bắc. Chú chàng chỉ

đường cho chúng tôi đi rồi quay ngược lại tìm chú bé nọ. Chúng tôi

31

tự đi, tới một con suối thì dừng lại chờ. Phải mất tới gần 2 tiếng

đồng hồ, chú chàng mới tới dẫn bọn tôi đi. Tới trạm. Chà, chẳng có

gì hấp dẫn cả. Trạm đấy, với mấy ngôi lán lụp xụp, trống huếch, với

mấy chàng giao liên người Bắc dáng diệu mệt mỏi, chán chường và

không hiếu khách. Các anh chàng tỏ ra không biết nói chuyện lịch

thiệp. Bọn tôi cố nén, nói năng ôn tồn để xin gửi cơm cho trạm nấu

và được ngủ trong lán.

Nghe nói đây thuộc tỉnh Quảng Nam.

Ngày 20/7/1968

Trạm này chỉ có mấy chú lính ở nhà, ban chỉ huy đi họp hết.

Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm, mấy chú lính đối với khách tệ quá.

Sáng sớm, chúng tôi thức dậy nghe lời kêu gọi của Hồ Chủ

Tịch. Rồi ăn cơm và chuẩn bị lên đường. Trước khi đi, bọn tôi cãi vã

một hồi với tay quyền trạm trưởng về việc giao liên quên giấy tờ của

bọn tôi. Anh này người Bắc nhưng giả tiếng miền Nam và nói rất

ngang, toàn lý sự cùn. Cãi vã phát chán, chúng tôi bỏ mặc anh ta

đấy mà đi cho rảnh.

Trên đường đi, tôi gặp nhiều chị em nữ trong đội vận chuyển.

Chị em còn trẻ, thường là gầy gầy và ai cũng cõng một cõng hàng to

tướng sau lưng. Mồ hôi ra ướt đẫm áo và chị em thở phì phò...

Chúng tôi tới trạm 2 Giải phóng. Cảnh trạm thật đáng buồn.

Khi đi qua nhà bếp để đến lán ở, tôi thấy một chiếc võng treo ở góc

nhà, một thân hình nhỏ bé nằm gọn trong ấy. Từ đó phát ra những

tiếng rên rỉ yếu ớt và bay ra mùi khai nồng nặc. Nhìn vào võng, tôi

thấy một khuôn mặt nhỏ, xanh xao của một em gái. Em ngước cặp

mắt lờ đờ nhìn tôi và nói lý nhí những câu gì không rõ. Hình như

em kêu mất lý lịch và tiền. Tôi lo ngại cho em. Ôi, cái sức sống nhỏ

nhoi trong cái thân hình gầy yếu ấy có chống nổi thần chết do vi

trùng sốt rét mang đến không? Em nằm đó, thoi thóp, rên rỉ và luôn

bị mắng mỏ. Mấy cậu giao liên đay nghiến: "Phải để con bé con này

nằm chỗ khác, để đây nó kêu điếc cả tai!". Cậu y tá và cậu cấp

dưỡng ca cẩm: "Con bà cô lắm chuyện quá, hết đòi ăn trứng lại đòi

32

ăn chuối, moi đâu ra!". Mỗi khi em gái gọi họ để nhờ việc gì đó, em

liền bị gắt: "Con bà cô im đi - kêu la mãi! ". Em gái này là con một

gia đình cách mạng. Cha em hiện ở miền Bắc, mẹ em đi lấy chồng.

Em ở với bà nội và giờ đang ra Bắc để ở với cha. Ôi, con đường ra tới

đó xa vời quá em ơi, liệu em có tới đó được không?

Đến lán ở, tôi càng thêm buồn. Tại đó có hai anh bộ đội đang

nằm trên võng. Một anh bị sốt rét, một anh bị đau chân. Anh sốt rét

còn trẻ, khoảng hai mươi, hai mốt. Anh ta luôn rên la và kêu cha,

mẹ. Anh bị đau chân khoảng 30 tuổi, người xương xương. Anh ta bị

chông xóc vào ngón chân cái. Vết thương nhiễm trùng, lở lóet ra và

hiện đang bị dòi bọ quấy nhiễu. Cậu y tá thật lười biếng, không

chăm sóc gì bệnh nhân cả. Anh bộ đội ấy ngồi nhìn vết thương mà

nhăn nhó. Anh ta lấy que nứa gẩy từng con dòi một. Dòi văng ra

đất, bò lúc nhúc, trông thật tởm! Cả y tá và bệnh nhân đều lười

biếng và bẩn thỉu đến tệ hại.

Tôi lấy thuốc tím, thuốc đỏ và một lọ Pênêxilin đưa cho anh bộ

đội và dặn anh ta phải chịu khó rửa vết thương. Còn anh y tá thì

nói rằng sẽ lấy Pênêxilin bôi vào vết thương cho anh bộ đội. Anh bộ

đội nhận thuốc, mừng quýnh lên. Anh gọi tôi bằng đồng chí và xưng

em. Tôi cảm thấy ngượng ngùng vì lối xưng hô đó - anh ta lớn tuổi

hơn tôi.

Đến bữa cơm, cậu y tá bưng lên một rá cơm sắn - cơm ít và sắn

nhiều.

Ở đây, cả giao liên lẫn bệnh nhân đều phải ăn độn với tỷ lệ sắn

quá cao. Gạo thiếu, trạm chỉ đủ khả năng cung cấp cho mỗi người

một lon một ngày. Chúng tôi lấy cơm của mình cho hai bệnh nhân

và bưng rá cơm sắn lại ăn.

Xế chiều, giao liên dẫn một đoàn khách ra Bắc. Có phụ nữ, trẻ

em và cả những ông già. Họ hăm hở đi, vui thích và khao khát như

sắp đến cõi tiên. Họ trút lại phía sau những chuỗi ngày gian khổ, ác

liệt. Sau lưng họ là phía trước của chúng tôi. Chúng tôi đang tiến về

đó - về nơi gian khổ, ác liệt - cũng rất hăm hở.

33

Chủ nhật 21/7/1968

Cậu y tá dẫn chúng tôi đi. Đến 7 giờ, chúng tôi ngồi nghỉ và

nghe buổi phát thanh ca nhạc theo yêu cầu thính giả của Đài tiếng

nói Việt Nam.

Giao liên của trạm 3 đến đón chúng tôi là một chú chàng 18-19

tuổi, sốt rét khặc khừ. Chú chàng chỉ đường cho chúng tôi rồi rẽ vào

một khu nhà lá bỏ không nằm nghỉ.

Chúng tôi đi không có giao liên. Tới một ngã ba, chúng tôi dừng

lại, bàn cãi. Đi lối nào, ai mà biết được? Chúng tôi đành treo võng

nằm chờ giao liên. Song thật sốt ruột, mãi mà chú chàng không

đến. Chúng tôi đánh liều, đi đường phía tay trái. Trời nắng làm mồ

hôi chúng tôi vã ra như tắm. Tới đỉnh dốc, chúng tôi ngồi nghỉ. ở

đây có những cây quế lớn, một cây bị róc hết vỏ tới ngọn. Chúng tôi

lấy dao găm vạc một ít vỏ ở rễ cây quế ăn cho vui miệng - vị quế cay

nồng, ngòn ngọt. San leo lên ngọn cây, vạc từng miếng vỏ lớn.

Chúng tôi lại đi dưới cái nắng dữ dội, trong cái oi ả và nồng

nực. Mệt mỏi. Rã rời. Chiều, chúng tôi tới trạm. Vừa hay, trời ập

xuống một cơn mưa lớn. Nước trút xuống xối xả. Chúng tôi rúc vào

một ngôi nhà nhỏ và chiếm lĩnh một nửa. Nửa bên kia có mấy người

đang ngồi mài sắn để gói bánh. Chúng tôi phải năn nỉ mãi mới được

trạm cho ở trong chiếc nhà đó nhưng phải cam kết rằng nếu có

khách phía trong tới thì lập tức phải dọn ra bãi khách ngay. Ôi,

nhất trạm nhì trời! Trạm là hết thảy. Anh hãy nhún xuống để khỏi

làm phật ý trạm, để có thể nhờ trạm chút ít.

Ngày 22/7/1968

Trạm không đồng ý cho chúng tôi nghỉ lại vì lý do: có thể B52

sẽ oanh tạc. Không, chúng tôi cần nghỉ ngơi lấy lại sức, đây là trạm

nghỉ. Chúng tôi năn nỉ hoài. Đại đội trưởng đại đội giao liên ở đây

bắt chúng tôi phải ký giấy cam đoan chịu hoàn toàn trách nhiệm

nếu bị B52 thì mới được nghỉ. Dùng dằng mãi, rồi chúng tôi cũng

được nghỉ lại mà chẳng phải ký giấy gì. Trạm chỉ làm ra vẻ quan

trọng mà thôi.

34

Trạm này có nhiều rẫy sắn do anh em bộ trồng cách đây 2-3

năm. Giờ, sắn mọc lẫn với lau lách, củ rất nhiều, rất to. Nhiều đơn

vị thiếu gạo đã đến đây lấy sắn về ăn. Nửa nhà chúng tôi ở, anh em

ở bệnh viện Quân khu vẫn hì hục mài sắn và gói bánh. Trông cảnh

mài mài, gói gói thật vui, như cảnh gói bánh chưng ngày tết vậy.

Nhưng giữa cảnh nhộn nhịp ấy lại có những cái bóng vật vờ

như bóng ma. Đó là một số bộ đội nghĩa vụ bị ốm nằm lại trạm.

Thực ra đó là những anh chàng bạc nhược về ý chí, nằm ỳ lại. Họ

nằm suốt và chỉ dậy khi đi ăn cơm. Song, đặc biệt, họ rất hăng hái

đối với việc đổi chác. Khi thấy đồng bào mang chuối, mía,... ra, họ

bật khỏi võng, như một cái lò so và cuống quýt mang quần áo ra dúi

vào tay đồng bào để lấy về có thể là nải chuối hoặc quả đu đủ... Họ

nhắm mắt đổi, không kể đắt rẻ.

Ở đây, chúng tôi nghe tin địch càn nơi Khu ở. Chúng tôi gặp

một chiến sĩ tên là ảnh, anh tự giới thiệu là ở trạm 5 - trạm chúng

tôi sẽ đến - và rủ chúng tôi cùng đi.

Ngày 23/7/1968

Chúng tôi đi theo ảnh. Anh cõng một ba lô gạo về cho đơn vị. Đi

đường, anh luôn cười nói vui vẻ, sôi nổi.

Chúng tôi ngủ lại giữa rừng, sáng mai lại đi tiếp để khỏi phải

vòng về trạm, mất thêm 3-4 tiếng. Trời lại mưa. Chúng tôi căng

giàn, làm một cái lều ở chung. Quái qủy, vừa co chân lên võng thì

lều sập. Lại phải đội mưa mà dựng lều.

Chúng tôi kiếm rau tàu bay, bắp chuối rừng và mót sắn làm

một bữa tươi. ảnh tỏ ra là một người sôi nổi, vui tính, lạc quan.

Trời tối dần. Lạnh lẽo và ẩm ướt. Song nằm trong lều, võng sát

võng chuyện trò, chúng tôi cảm thấy ấm áp.

Ngày 24/7/1968

Đường kỳ quái thật, toàn men theo những khe lạch và rúc vào

lau lách. Nước mưa đọng ở cành lá làm ướt quần áo chúng tôi và

bùn trơn làm chúng tôi trượt ngã mãi.

35

Gần trưa, chúng tôi gặp một làng của đồng bào dân tộc ở đỉnh

dốc. ở đây, tôi thấy một anh người Kinh đang đứng nói với đồng bào

Thượng: "Tôi làm như vậy, đồng bào ai cũng khen là tốt. Vậy mà

khi trả công, anh Sơn không trả hẳn hoi, lẽ ra phải trả gạo, sắn, thì

anh ấy lại chỉ vào một khu rừng và bảo tôi rúc vào đó mà kiếm

sắn". Chúng tôi chuyện trò với anh. Anh ấy dẫn một đoàn cán bộ từ

Gia Lai ra Khu, song không bắt được liên lạc nên phải vào bản làm

thuê cho đồng bào lấy sắn ăn. Chúng tôi xôn xao bàn tán. Những

ngày tới sẽ ra sao đây?

Chúng tôi tới trạm. Tại đây chúng tôi gặp một lãnh đạo của

Khu - anh Vinh. Anh Vinh cho chúng tôi biết là đường dây chưa

liên lạc được với Khu và bảo chúng tôi hãy nằm lại trạm chờ vài

ngày rồi hãy đi. Gay đấy, chúng tôi chỉ lĩnh 10 ngày gạo. Hôn nay

đã là ngày thứ 6 kể từ khi lĩnh rồi. Buổi tối, chúng tôi nấu cơm một

cách dè xẻn. Anh em ở trạm không ăn cơm mà ăn cháo. ảnh cho tôi

biết tình trạng này kéo dài lâu rồi. Tôi nhớ, vào buổi trưa, gặp giao

liên ở chỗ trực, chỉ thấy anh đem theo một khúc sắn - khẩu phần

của bữa trưa. ảnh quả là một con người biết phớt lờ khó khăn. Tiếp

xúc với anh, ta không thể thấy một nét nào của một người đang

sống trong cảnh đói kém.

Ngày 25/7/1968

Chúng tôi nghỉ lại trạm và anh em bảo nhau mang đồ dạc cá

nhân ra làng đổi sắn ăn. Nhị đưa ra chiếc đồng hồ - anh bảo nếu có

heo thì đổi. Tôi và San mang gùi đi với một số vật tư trong tay: con

dao, khăn mặt, hộp nhôm.... và với hy vọng nhỏ nhoi: kiếm được

khoảng nửa gùi sắn. Đi với tôi và San còn có Lơ - bộ đội quân giới.

Cậu ta tỏ ra rất căn cơ.

Làng chúng tôi vào nằm ở một đỉnh dốc. Mới vào đến nơi, một

cảnh bẩn thỉu phơi bầy ra trước mắt tôi: rác rưởi, phân lợn gà, bùn

nước...và mùi hôi thối bay lên nồng nặc. Ôi, sự no đủ vẫn có sức

mạnh hơn cái bẩn thỉu. Làng đó bẩn, nhưng làng đó có sắn, có bắp -

có cái cứu đói cho chúng tôi - nên chúng tôi cần vào, phải vào.

Chúng tôi bước lên rác rưởi và trèo qua một cái thang nhỏ, vào

trong làng. Sân làng cũng bẩn thỉu không kém "khu ngoại vi". Làng

36

chừng hơn chục nóc nhà - loại nhà sàn thấp tịt, mái sùm sụp và tối

om om. Đón chúng tôi là một lũ trẻ nhỏ trần truồng hoặc mặc áo

rộng thùng thình, với con mắt tò mò. Tôi bám lấy chúng nó, theo

chúng nó về nhà để "gạ đổi". Bọn trẻ rất tinh ranh, biết chúng tôi bí

nên tỏ ra phớt lờ những thứ chúng tôi đưa ra. Ôi, tôi ghét nhất nghề

buôn bán, có bao giờ tôi thích đi chợ, cò kè mặc cả đâu. Nhưng, bây

giờ sự sống, miếng ăn của toàn thể anh em khiến tôi phải làm

những việc tôi ghét ấy. Tôi mang chiếc khăn mùi soa Trung quốc có

in hoa rất đẹp ra, cầm hai góc giơ lên (như những người quảng cáo

hàng ở Bờ Hồ) và bảo với lũ trẻ: đẹp không, ưng đổi không? Rồi tán

dương từ chiếc hoa in đến đường kẻ sọc... Cuối cùng, một thằng nhỏ

dẫn tôi về nhà và đổi cho tôi chừng hơn chục củ sắn nho nhỏ. Con

dao Trung Quốc rất đẹp, song bọn nhỏ đổi cho ít sắn quá, tôi đành

giữ lại. Một thanh niên gạ mua con dao ấy 50 đồng. Tiền mà làm

chi lúc này? Tôi hỏi anh ta có đổi đồng hồ không, anh ta hỏi "mác

gì"? biết là loại đồng hồ xoàng của Pháp, anh ta lắc đầu - anh ta chỉ

ưng đồng hồ Nhật, có lịch. Vất vả lắm tôi mới đổi được một ít sắn

nữa - tất cả vào khoảng hơn nửa gùi.

Chúng tôi vội vã ra về. Thật tai hại. Tôi đi đầu, cứ cắm cúi

bước, không để ý đường, nên lạc vào đường đồng bào đi rẫy. Càng

đi, càng thấy lạ rừng, lạ đường! Đi miết, đi miết rồi đụng phải một

con suối lạ. Cằn nhằn với nhau một hồi rồi quay lại vậy!

Trời u ám, mù dày đặc. Mù sà xuống rừng cây, sà cả xuống

suối, ẩm ướt và u tối. Trưa rồi. Chúng tôi kiếm củi nứa, đốt cháy

đùng đùng rồi quăng ít củ sắn vào. Bữa trưa đó. Vỏ sắn cháy đen

thui. Chúng tôi bóc vỏ, sắn bở tung, trắng ngần thật hấp dẫn.

Chúng tôi ăn một cách vồ vập như chưa hề được ăn một bữa ngon

như thế này bao giờ. Ăn rồi ngó mặt nhau mà cười rinh rích. Mặt

anh nào anh ấy nhọ nhem than sắn, trông nguyệch ngoạc như hề.

Ngày 26/7/1968

Nghỉ lại trạm Lập. Nấu cơm, sắn một cách dè sẻn. Trên đường

đi đến trạm, chúng tôi được biết một loại dây leo đặc biệt - dây chạc

chìu: cắt ra, ngậm vào một đầu, mút một hơi là đầy một miệng

nước.

37

Ngày 27/7/1968

Lại ra đi như mọi ngày nhưng với khẩu phần cơm ít ỏi. Khi qua

một dốc dài 1 giờ 30 phút, chúng tôi lên tới đỉnh dốc Sơn Mại. Đỉnh

này cao chót vót, hẹp, lộng gió và mọc nhiều loại cây có lá nho nhỏ

như lá phi lao, rất đẹp. Chúng tôi đặt ba lô thở phào và đứng phanh

cúc áo, mặc cho gió lùa vào da thịt, tưởng chừng lùa tới tận phổi.

Trước mặt và dưới tầm mắt chúng tôi là Khâm Đức - trại biệt kích

nguỵ mới bị đánh tan. Từ những trạm ngoài, chúng tôi đã thấy nói

về chiến thắng Khâm Đức: ta tiêu diệt được hoàn toàn trại này và

thu rất nhiều vũ khí, lương thực, thực phẩm. Giờ thì Khâm Đức

nằm trơ đó, phơi mình dưới bầu trời xanh... Những ngôi nhà sụp đổ,

những đồn luỹ ngổn ngang... Chúng tôi lại quay nhìn về phía đồng

bằng Quế Sơn. Núi rừng trập trùng trải dài trước mắt chúng tôi rồi

thấp dần, thấp dần và tít xa, mờ xanh là đồng bằng. Đồng bằng

thân yêu, ta xa đồng bằng bao lâu rồi mà sao lòng nhớ da diết đồng

bằng vậy? Bao giờ lại về đồng bằng? Ôi, rừng núi điệp trùng. Chúng

tôi trầm lặng nhìn về đồng bằng với con mắt khát khao, với tâm

hồn cháy bỏng yêu thương.

Nắng vàng rực rỡ trải đều khắp rừng núi. Lũ máy bay phản lực

đến quấy đảo vùng trời. Chúng đánh phá đường 16. Chúng bay dưới

tầm mắt chúng tôi, điên đảo với cái thân trắng nhởn và với những

tràng bom đen trũi. Lũ máy bay thi nhau bổ nhào và vọt lên cao,

thay nhau gây nên những tiếng gầm rú xé trời và những tiếng nổ

inh tai nhức óc.

Tạm biệt ảnh, chúng tôi theo giao liên của trạm 5 - anh này có

thân hình nhỏ loắt choắt, có đôi mắt kèm nhèm... Khi xuống dốc,

chúng tôi tiếp cận với đường 16. Hồi nãy, lũ máy bay đánh phá

chính đoạn đường này, mùi thuốc bom còn khét lẹt. Đất đá bị đào

bới tung lên. Cây cối bị chặt cành, bị đổ nằm ngổn ngang, lá nát tơi

bời. Con đường đã biến dạng. Giao liên luẩn quẩn một hồi mới tìm

ra đường. Chúng tôi nhanh nhẹn theo anh. Tại bìa rừng, nằm dưới

lùm cây là một chiếc ô tô tải GMC của Mỹ. Giao liên nói rằng chiếc

xe đó lấy ở Khâm Đức, máy còn tốt song không có đường mà chạy.

Chúng tôi băng qua đường. Im lặng bao trùm cảnh hoang tàn. Nắng

chói chang làm mùi bom càng thêm nồng, khét, mùi lá cây thêm

38

hắc. Qua đường rồi chúng tôi rúc sâu mãi vào rừng. ở đây, cây cối

cũng đầy những vết thương do mảnh bom, lá rụng xanh cả đất...

Đang ngủ, chúng tôi giật mình tỉnh dậy vì tiếng pháo nổ. Có

những tiếng đề pa "uỳnh", tiếp sau là tiếng "Víu..." qua đầu chúng

tôi và cuối cùng là tiếng "Oàng" ở phía xa. Chưa có kinh nghiệm về

phi pháo, chúng tôi nằm nghe tiếng nổ mà lo. "Uỳnh!.. Víu...

Oàng!"... Những tiếng nổ, tiếng rít đáng ghét cứ nối nhau mãi. Và

rõ ràng tiếng "Oàng" mỗi lúc lại gần về phía chúng tôi hơn. Bao giờ

nó sẽ nổ chụp ngay trên bãi này? Ai mà biết được. Bãi chúng tôi ở

bằng quá mà chẳng có hầm hố gì cả. Chỉ cần một vài quả thôi... Có

tiếng gấp tăng loạt soạt và tiềng người lao xao. Anh nào đó định

cuốn gói khỏi cái bãi bằng đang bị đe dọa này chăng? Tôi và Vượng

tụt khỏi võng, tới núp sau một gốc cây lớn. Đạn pháo vẫn bay viu

víu qua đầu. Nhưng rồi cũng im. Lũ pháo binh chết tiệt chắc cũng

cần ngủ!

Chủ nhật, ngày 28/7/1968

Đi được khoảng một tiếng, chúng tôi nghe tin chưa bắt được

liên lạc với Khu, đừng đi tiếp nữa! Chúng tôi vô cùng lo lắng. Gạo

gần hết rồi. Bàn luận một lúc rồi quyết định: đóng tăng dừng lại đợi

tin tức.

Chúng tôi dựng lều ở bên một dòng suối nhỏ. Ôi chao, khu vực

này mới nhiều vắt làm sao: chúng tôi đụng đậy bước chân là lập tức

hàng trăm con vắt đói nằm phục dưới lá ngóc đầu dậy bò đến bu vào

chân cẳng chúng tôi. Có con bò thục mạng, vội vàng đo từ lá cây này

đến lá cây khác, bị ngã lăn chiêng, vươn dậy, lại cuống quýt bò. Có

con bò phải cành cụt, cứ vươn mãi cái thân nhũng nhẽo ra mà quơ

tìm đường. Có con chưa đánh được hơi, bám một đầu vào đất rồi

dựng thân thẳng đứng như một que củi, thấy động là quay tít như

ra đa. Thật là lúc nha lúc nhúc như vắt mùa mưa. Có lẽ không con

vật nào thân lại lạnh như con vắt. Đụng vào nó, bạn có thể nổi da

gà liền, nó lạnh ngắt, lại ươn ướt, nhầy nhầy, gây nên một cảm giác

ghê sợ. Khi đã hút máu no, nó tự buông cái thân hình tròn căng,

bóng nhẫy xuống đất và nằm im thin thít, lười biếng. Chúng tôi

thường lấy dao găm chặt đôi, chặt ba con vắt ra cho bõ ghét.

39

Dòng suối này rất nhiều cá. Chúng tôi lấy kim uốn lưỡi câu, lấy

chỉ se lại làm dây câu và kiếm cây làm cần để đi câu cá. Loại cá

trắng thật khôn, chỉ có vài con cắn câu rồi sau đó chúng chuồn hết.

Còn loại cá trầu (giống cá quả nhưng nhỏ chỉ bằng ngón chân cái)

thật phàm ăn. Thấy mồi, chú ta bơi lởn vởn một chút rồi bập vào

liền. Có con bị giật đứt mép, văng lên bờ rồi quẫy xuống nước, vậy

mà không hề sợ, gặp mồi là lại lao tới liền. Chúng tôi kiếm được gần

một ăng gô cá.

Có tiếng máy bay ì ì. Hai chiếc trinh sát cánh quạt lượn trên

đầu chúng tôi. Một lúc sau, nghe trên không trung vang tiếng người

nói. à, tầu rao đó - nó gắn máy phóng thanh cực đại để làm nhiệm

vụ chiêu hồi. Thử nghe xem sao? Thằng cha trên đó nói giọng Huế,

qua máy phóng thanh phát từ trên cao nghe âm âm, hư hư thực

thực như tiếng từ âm phủ vọng lên. Hắn kêu gọi binh lính Bắc Việt

hãy hồi chánh.... Chúng tôi bực tức chửi rủa thằng tầu rao một hồi,

rồi xoay qua bàn: Sau này Mỹ thua, những thằng bán nước kia sống

ra sao nhỉ? Thật nhục nhã... Chiếc tầu rao bay lượn một hồi, kêu la

một hồi rồi vòng ra xa. Tiếp đó, tôi nghe tiếng phản lực rít. Một

tiếng nổ "bục!". Rừng cây chuyển động và lá rụng rào rào. Chiêu hồi

chán, chúng giở trò đánh phá, có gì là lạ đâu!

Xế chiều, chúng tôi quay lại trạm để ngủ. Trời ập cho một cơn

mưa phũ phàng. Tôi ngồi trong một cái bếp bé xíu mà nấu cháo -

người ướt sũng vì mồ hôi và nước mưa. Tối đó, mỗi người chúng tôi

húp một chút cháo loãng toẹt.

Đêm ngủ, thấy buồn quá. ừ, buồn một chút cũng được, nhưng

đừng bi quan. Không, tôi không bi quan chút nào. Khó khăn là tạm

thời. Tình hình toàn cục vẫn rất sáng sủa.

Ngày 29/7/1968

Vẫn chưa liên lạc đươc với Khu. Gạo còn chút xíu thôi, nằm chờ

sao được? ở cái khu rừng nghèo nàn này thì kiếm được gì mà ăn kia

chứ. Ngay trạm cũng chỉ ăn cháo. Đến một lát sắn khô cũng không

có mà ăn. Chiều qua, Dân - trạm trưởng - lục tìm mấy củ sắn tươi

40

để dành từ mấy hôm trước, định xắt ra nấu cháo. Song nó thối mất

rồi. Ai nấy tiếc đứt ruột.

Trước tình hình như vậy, chúng tôi bàn nhau phải quay ra

trạm ngoài để kiếm gạo, sắn.

Lại quay về con đường cũ. Đường rừng bữa nay ẩm ướt vì trận

mưa hôm qua và quá nhiều vắt. Mặc dù chúng tôi đã bôi thuốc

chống vắt, vắt vẫn không hề sợ. Chúng ào ào xông đến bám vào

chân cẳng, quần áo. Tôi đi một đôi bít tất dầy và dài tới đầu gối nên

vắt không cắn được. Tuy nhiên chúng bám đầy bít tất. Không sao

bắt xuể. Đứng lại bắt một hai con thì lập tức ba bốn con khác lên

thay. Vừa đi vừa co cẳng lên, lấy tay gạt bừa, rơi con nào thì rơi

vậy. Lũ vắt bò lổm ngổm đầy hai bít tất, leo lên tận đầu gối. May

quá, tới một con suối rồi. Chúng tôi nhảy ra các tảng đá ngồi bắt

vắt. Ở các kẽ chân, quai dép, vắt hàng búi. Chỉ một chặp, tôi giết

được 30 con vắt to nhỏ. Ôi chao, vắt!

Trưa nắng, chúng tôi ra tới một con suối lớn. Ai nấy kiếm bóng

mát ngồi nghỉ. Tôi lội qua suối rồi ngồi xuống một tảng đá bên một

bụi cây mát rượi.Vừa ngồi xuống thì tôi thấy một con vắt no tròn

lăn cù theo độ dốc của phiến đá. Không hiểu nó hút máu tôi từ lúc

nào mà bây giờ no như vậy, no tròn bóng lên, no không bò nổi nữa.

Trông con vắt mà tiếc máu vô kể. Tôi lấy gậy chọc cho con vắt toé

máu ra cho bõ ghét. Máu đen thẫm, loang đầy phiến đá. Tôi ngồi

im, mệt mỏi. Sao nhớ nhà thế. Tôi thấy hình ảnh cha, mẹ, anh em

hiện lên rất rõ. Tôi muốn ôm lấy lũ em mà không được. Và tự nhiên

nước mắt tôi cứ trào ra, không sao kìm nổi. Tôi để mặc những giọt

nước mắt lăn trên gò má, nóng hổi. Ôi, những giọt nước mắt yêu

thương, ngươi không làm yếu lòng ta, ngươi cứ chảy đi...

Xế chiều, chúng tôi tới trạm. Người đói run lẩy bẩy. Anh em

chia cho mỗi người 1/3 lon gạo để nấu cháo. Phải ăn hết sức dè sẻn

như vậy mới được. Tôi đi kiếm môn dóc. Môn dóc là loại rau dại mọc

rải rác trong rừng, trông gần giống các loại khoai môn nhưng lá dài

và nhỏ hơn. Tôi lọ mọ khắp rừng mà chỉ lần được vài cây. Chúng tôi

hái lá, tước cọng, rửa sạch để chuẩn bị nấu canh. Thật đã đói thì

một cọng rau cũng quí. Cái thứ môn dóc ấy nấu lên bay mùi hôi như

41

cám lợn, song lúc này cũng quý như rau muống vậy. Tôi ra máng

nước, nhặt lại mấy đầu mẩu sắn anh em vứt bữa trước, tuy nó

xương xẩu và đã chạy nhựa thâm lại nhưng vẫn quí, vì nó còn chút

chất bột. Tất cả những thứ đó - 1/3 lon gạo, mấy cọng môn dóc, mấy

đầu mẩu sắn - tôi dồn cả vào ăng gô, nấu nhừ ra. Bữa cháo ấy mới

ngon lành làm sao.

Ăn rồi toàn Chi họp bàn cách gỡ thế bí (Chi không phải là chi

bộ mà là tên gọi của mỗi đoàn kèm theo số hiệu, như Chi của tôi có

phiên hiệu 192). Anh Bí thư Chi đang sốt, mặc sù sụ chiếc áo vệ

sinh và nói bằng cái giọng khịt khịt của người tịt mũi: "Bây giờ gặp

khó khăn, tất cả chúng ta phải đoàn kết, thương yêu nhau, cùng

nhau phải giải quyết..." Bàn luận rồi chúng tôi nhất trí: để một số

đồng chí ốm yếu lại coi đồ đạc, còn những người khoẻ quay lại trạm

3 để xin gạo.

Tôi chuẩn bị đồ đạc để sáng đi sớm. Đêm ngủ mê toàn thấy ăn

tiệc. Tỉnh dậy thấy trống không và bụng đói cồn cào, sôi lục bục.

Ngày 30/7/1968

Bốn chúng tôi ở tiểu đội Hai và 4 người ở tiểu đội Một hợp

thành một đoàn, khăn gói lên đường. Thành và Điều thuộc tiểu đội

tôi ở lại vì yếu mệt. Chúng tôi nấu một ít cơm để ăn sáng và trưa,

còn bao nhiêu gạo thì trút hết lại cho anh em.

Khăn gói nhẹ bỗng, chúng tôi lên đường - lại qua rừng quế, qua

những đoạn đường trơn tuột. Khi tới làng, chúng tôi dừng lại để đổi

sắn. Vật tư cạn rồi. Tôi cầm cái hộp guy gô của Vượng vào với tâm

trạng đầy lo lắng: liệu có kiếm được gì không? Tôi thẩn tha vào các

nhà, dỗ dành mấy lũ trẻ và cuối cùng đổi được 9 củ sắn. Tôi mừng

rơn, 4 anh em sẽ được nhờ tôi ở 9 củ sắn ấy đấy.

Chúng tôi cắm cúi leo dốc. Đỉnh dốc này có một rẫy sắn cũ.

Nắng và nóng làm chúng tôi thở hồng hộc. Tôi ngồi nghỉ với hai

đồng chí pháo phòng không. Hai người mang hai gùi sắn vơi vơi, củ

nhỏ và cong queo. Họ cho biết, họ mót sắn ở đồi này. Song gay lắm.

Đất rắn và có lẫn đá nên phải dùng xẻng đào, vậy mà suốt từ sáng

đến trưa, họ chỉ kiếm được từng ấy sắn. Còn chúng tôi, với mấy con

42

dao găm nhỏ, liệu được gì? Mà thật tai hại, khi leo từ suối lên đỉnh

dốc, con dao găm của tôi lại biến đâu mất rồi kia chứ. Chúng tôi

nhìn nhau thất vọng và vội xuống dốc để theo kịp tiểu đội Một.

Theo mãi, theo mãi mà vẫn mất hút họ.

Xế chiều rồi mà chúng tôi vẫn không thấy 4 anh ở tiểu đội Một

đâu cả. Tôi nhớ ra rằng anh Bí thư Chi (ở tiểu đội Một) và mấy anh

nữa cùng tiểu đội đó có người quen ở trường Kinh tài, trường này

nằm ở gần đây. Chúng tôi hiểu rồi. Họ bỏ chúng tôi để vào trường

Kinh tài nhờ vả cho dễ. Nhớ đến câu của anh Bí thư Chi: "Chúng ta

phải đoàn kết thương yêu nhau" mà thấy chua chát! Thôi, đành

dừng lại giữa rừng này thôi.

Chúng tôi dựng nhà tăng để ở. Cái sườn nhà này cũ quá rồi, cứ

xiêu xiêu vẹo vẹo. Chúng tôi lấy cây chống, lấy đá chèn cho vững.

Vượng chặt về một ôm cọng đùng đình gác lên mái để căng tăng cho

phẳng phiu. Không khí ẩm ướt. Chúng tôi khó nhọc lắm mới kiếm

được ít củi tạm gọi là khô. Rồi bóc sắn nhét vào ăng gô. San đòi "đạo

diễn" món sắn luộc, anh khoe rằng sắn anh luộc sẽ vừa bở tung vừa

ráo nước, ngon như bánh khảo vậy. Để bồi dưỡng, chúng tôi làm luôn

hai bắp chuối rừng mà tôi và Vượng hái được ở rẫy. Thái nhỏ ra cho

vào hai ăng gô, thế là được một bữa canh tuyệt vời. Xẩm tối, chúng tôi

dọn "cơm", cũng 4 ăng gô như ai, tiêu chuẩn cao đấy chứ. Tôi, San,

Vượng, Nhị quây quần bên 4 ăng gô, ăn những khúc sắn bở tung với

canh bắp chuối ngọt lừ, vừa húp canh sùm sụp vừa khen bữa "cơm"

ngon thật là ngon. Rồi thì leo lên võng nằm và nghe đài. Trời mưa lắc

rắc. Rừng âm u, tịch mịch. Chúng tôi thiếp đi, quên hết cả mọi lo lắng

về những ngày sắp tới. Nhưng quái ác thay, quá nửa đêm thì cái cây

ngang cột võng của chúng tôi bị gẫy, đánh bật chúng tôi dậy. Bốn anh

em lại hì hục cột cột, chống chống, sửa lều trong đêm tối âm u, dưới

trời mưa lắc rắc, giữa không khí giá lạnh.

Chúng tôi đi đã chẵn ba tháng rồi đó, ba tháng đầy vất vả song

cũng đầy kỷ niệm yêu thương.

Ngày 31/7/1968

Sáng, dốc chút gạo còn lại ra nấu cơm. Trời vẫn mưa nhẹ hạt.

Chúng tôi phải đóng 4 cái cọc và che áo mưa lên để làm tạm cái bếp.

Song củi quá ẩm ướt nên nấu thật vất vả. Khói tuôn ra và đọng lại

43

đầy cả khu rừng. Không khí nặng quá, khói không tan nổi. Lại có

tiếng máy bay trinh sát ì ì phía xa. Cứ chúi mũi vào bếp mà thổi

phù phù, chóng cả mặt.

Lại những con đường rừng là lạ quen quen. Đây, dòng suối bữa

nọ chúng tôi ngồi nghỉ, xem đồng bào dân tộc lật đá bắt cá. Chúng

tôi ngồi bên bờ suối, trầm ngâm. Lúc này, cậu y tá của trạm 2 Giải

phóng lại ở đâu dò đến. Cậu ta được lệnh tập trung lên đoàn công

tác. Tôi sốt sắng hỏi cậu ta về anh thương binh và cô bé. Cậu ta cho

biết anh thương binh nhờ có thuốc nên sau đó ít ngày, vết thương

đã hết dòi và nay chân đã khỏi. Còn em bé, em còn đâu nữa! Y như

điều tôi dự đoán, bệnh sốt rét quái ác đã cướp mất em! Ôi, thật là

cay đắng! Lòng tôi nặng trĩu buồn thương...

Từ đoạn này đi ra, người thật đông. Bộ đội chuyển đạn, chất

nổ... đi nườm nượp. Có cả những người gùi những gùi sắn nặng

trịch, với những củ sắn to tướng, mập mạp. Chúng tôi xin được vài

củ sắn cỡ vừa vừa, lấy làm mừng lắm. Cái bụng xấu tính, cứ sôi lên

đòi ăn. Tới một đỉnh dốc gần trạm, chúng tôi dừng lại, làm một bữa

"xổi". Tại đây, vỏ sắn vứt la liệt, những mẩu sắn vứt lăn lóc trên

sườn đồi, dưới khe suối. Thỉnh thoảng lại có những củ còn nguyên xi

lành lặn nữa. Chúng tôi lột sắn, đựng đầy 4 ăng gô, chất lửa đùng

đùng. Sắn bở tung, nóng hổi, đối với chúng tôi như là một bữa tiệc.

Có anh bộ đội mới hành quân từ Bắc vào, nghe chúng tôi nói

chuyện, liền đem cơm nắm ra ân cần mời chúng tôi, còn anh ta ăn

sắn - anh ta cũng thèm sắn. Thật giống như khi chúng tôi còn nhiều

gạo, chỉ độc thèm sắn. Này, bình tĩnh lại anh bạn ơi, rồi thì sắn sẽ

làm cho anh ê ẩm đấy.

Ăn uống no nê rồi, chúng tôi kéo quân vào trạm. Thật bất ngờ,

chúng tôi lại gặp Thuyết và Các, hai anh em cùng Chi bị ốm, đi sau.

Hai anh kéo chúng tôi vào ở ngôi nhà được trạm phân phối cho.

Hàn huyên, cười nói mãi rồi cũng phải lo tới thực tại, lo tới tương lai

của chuyến đi. Gạo hết, muối chẳng còn.

Chiều đó, chúng tôi được một bữa cơm no, ngon, nhờ cơm gạo

trắng tinh của Thuyết, Các, nhờ lương khô thịt voi của hai anh bạn

bộ đội và nhờ nồi canh sắn ngọt lừ do bọn tôi tự kiếm. Rồi thì xúm

44

vào bàn bạc cụ thể để kiếm ra lương thực. Hiện nay, trạm không

chịu cấp gạo cho chúng tôi (kho có trên 5 tấn) và chỉ cho tạm vay:

mỗi người một ngày được vay nửa lon sữa bò! Kia, thức ăn no của

chúng tôi là rẫy sắn ngoài kia.

Thứ năm, ngày 1/8/1968

Chúng tôi dọn ra bãi khách và bắt tay ngay vào việc đi đào sắn

- chỉ có dao găm thôi. Tôi cũng có một con dao găm, thực ra nó là

loại lưỡi lê của Mỹ, một anh bạn đi ra Bắc tốt bụng đã cho Nhị, Nhị

lại cho Tôi.

Ở đây sắn nhiều, nhưng bỏ lâu rồi nên hoang vu, sắn mọc lẫn

những bụi gai góc, lau sậy, cây cối. Phải chui rúc mà mót, may thì

gặp nơi nhiều, không may thì gặp nơi ít.

Cứ theo triền dốc đi xuống, chúng tôi gặp một bãi sắn đã bị

khai thác. Cây sắn to đổ ngổn ngang, còn trơ cái hốc đỏ lòm mầu

đất. Tôi ngơ ngác tìm các bờ bụi, chẳng thấy cây sắn nào sất! Mà

sao lắm cây mâm xôi thế. Loại cây này thân đầy gai, bò ngùng

ngoằng, quấn vào nhau dầy đặc. Gai nó cào toạc cả da thịt. Nắng

chói chang. Nắng toé lửa. Tôi bươn lên sườn núi lùng nhùng những

bụi mâm xôi rồi rúc ngang, kiếm mãi vẫn chẳng có gì. San và

Vượng cũng vậy. Nhưng sau đó, chúng tôi cũng tìm ra 2,3 gốc sắn

mọc lẫn trong lau lách. Thế là xúm nhau vào phát, đào. Cái thứ sậy

chết tiệt này, rễ, gốc ăn tràn mặt đất, cắm sâu xuống đất và cứng tổ

cha. Tôi, San, Vượng phải thay nhau dùng dao găm bạt dần từng

mảng rễ, gốc đó ra mới đào được. Khát khô cả cổ. Bi đông cạn sạch

nước rồi. Trời lại rắc cho một ít hột mưa rào. Thế là hơi đất được dịp

bốc lên, thốc vào mặt chúng tôi - những khuôn mặt có những cái

miệng và cái mũi đang há hốc ra thở dốc. ậm ạch, hì hục mãi rồi

cũng moi được sắn từ lòng đất lên. Khoảng một nửa gùi tất cả. Quá

trưa, chúng tôi ra về.

Ngày 2/8/1968

Lại đi đào sắn, song đi chếch ra ngoài một chút. Tôi và San

mượn được hai cái xẻng nhỏ, chắc sẽ đỡ vất hơn. Nơi này khá rậm.

45

Rúc một lúc là mất hút Vượng rồi. Chúng tôi í ới gọi nhau, nhưng

không được, đành chia hai cánh, đào hai ngả vậy. Nơi này khá

nhiều sắn. Tôi và San cắm cúi đào. Đất cũng khá mềm. Cứ đào được

một bụi, lại rúc rúc, luồn luồn trong bụi rậm, lần ra từng hốc sắn

mà đào.

Khoảng nửa buổi, tôi rúc ngược lên và gặp Vượng, Anh đào

được khá nhiều sắn. Sắn to thật, nhiều củ bằng bắp đùi. Tôi cũng ra

sức đào. Moi lên những củ sắn đầu phình to, đuôi múp lại, trông

thật ngộ ngĩnh.

Xế trưa, chúng tôi ra về, mỗi người lặc lè một gùi sắn. San

không gùi, anh buộc lại mà gánh. Thế là tai vạ đến với anh: rúc một

chặp, sắn bị dây dợ, gai góc lôi kéo thi nhau rơi. Mỗi lần như vậy,

San lại phải đặt gánh xuống, lượm từng củ, buộc lại. Có lẽ quá mệt,

anh đâm bẳn tính, cáu gắt nhặng xị. Tôi cứ bụm miệng cười. Ai bảo

dại!

Khát khô cả cổ. Mệt mỏi rã rời. Gùi sắn trĩu nặng trên lưng...

Thứ bảy và chủ nhật, ngày 3 - 4/8/1968

Đã có sắn ăn, sắn để, chúng tôi tạm nghỉ ngơi cho dãn xương,

dãn cốt và tích cực đi làm công tác vận động lương thực. Thuyết xin

được cho chúng tôi khoảng hai lon muối - thật quí hơn vàng (lúc

này, do tài "ngoại giao" Thuyết, Các vẫn được nghỉ và ăn uống trong

trạm, bốn đứa chúng tôi nghỉ ở nửa ngôi nhà ở giữa bãi khách, cạnh

tiểu đội Một).

Trạm vẫn khăng khăng không cấp gạo cho chúng tôi. Lý do họ

nêu ra: đường dây vẫn thông suốt, các anh cứ đi là được! Chúng tôi

phải nằn nì mãi, sau mới được cấp 6 kg gạo. Tuy nhiên, anh em ăn

hết sức dè sẻn. 4 người ăn chưa đến 2 lon gạo một ngày, còn toàn là

sắn. Sáng, chiều, ăn chút cơm ghế sắn. Trưa, ăn sắn luộc.

Ngày 5 - 8/8/1968

Chúng tôi tiếp tục vừa nghỉ ngơi vừa đào sắn, thái và phơi, sấy

sắn. Chủ yếu là sấy vì ở đây rừng già, chỉ có ít ánh nắng. Chúng tôi

46

làm một cái giàn bếp lớn, gác lên đó một cái vỉ tre rồi rải sắn lên.

Phía dưới là bếp, hàng ngày nấu ăn, tối thì chất củi gộc, củi tươi vào

đốt suốt đêm. Chẳng bao lâu chúng tôi được một bao sắn khô to

tướng.

Ngày 9/8/1968

Có tin đã nối được liên lạc với VQ ( tức Vinh Quang, mật danh

của Khu ủy khu Năm). Trạm cấp cho chúng tôi gạo ăn đường: 6

ngày, mỗi ngày mỗi người 2 lon.

Thật là mừng, chúng tôi bàn nhau phải liên hoan một bữa. Tôi,

San, Nhị vác cần đi câu cá, được khoảng một nắp ăng gô. Lại xin

được hai quả dứa. Thế là được một nửa ăng gô cá kho ngon tuyệt.

Chiều, chúng tôi nấu cơm không ghế sắn, ăn với cá kho dứa và coi

đó là đại tiệc.

Ngày 10 - 13/8/1968

Lại trở lại đường cũ, ba lô nặng trịch những sắn khô và chút

gạo.

Khi vượt được đỉnh Sơn Mại rồi, đi qua một con suối, tôi thấy có

mấy anh bộ đội trẻ măng ngồi bên một đống củ nần. Loại củ này to

bằng ấm tích, tròn, có bột mầu trắng ngà, phải làm thật kỹ (sắt ra,

ngâm nước mấy ngày), ăn mới hết đắng, hết say. Mấy anh ấy ở đơn

vị pháo ngoài Bắc mới vào, bị lạc đơn vị, bị đói. Sâu vào phía trong

một chút, dưới một cái tăng có treo một cái võng. Chiếc võng căng

nặng, chứng tỏ có người nằm trong. ở một đầu chiếc võng, ướt đầm

đìa những nước. Từ đó bay ra mùi khai thối nồng nặc. Anh bộ đội đó

bị ốm nặng, lại bị đói, liệu có thoát khỏi cái chết giữa núi rừng

hoang vu này không?

Chúng tôi nghỉ lại ở trạm Dân. Trạm vừa bắn được hai con Dộc

(loại thú rừng họ khỉ), Dân cho chúng tôi một con nhỏ. Lúc nào

cũng vậy, Dân rất niềm nở, tươi cười và hay chia ngọt xẻ bùi với

anh em. Trạm anh vừa cứu được một đồng chí bộ đội bị ốm và suýt

47

chết đói. Hiện anh ta đã khoẻ và trạm vẫn nuôi. Lương thực vẫn

khó khăn.

Ngày 14/8/1968

Đi đến trạm Khoa. Đường bằng, men theo các bờ suối hoặc

xuyên qua những khu rừng bằng phẳng, đầy lá khô và nhung nhúc

những vắt. Thỉnh thoảng có một vài cái dốc ngắn song trơn tuồn

tuột - đất ở đây là loại đất thịt, bị thấm nước, nó tạo thành một lớp

bùn quánh, nhầy ở bề mặt, còn phía dưới vẫn cứng nên mới trơn

như vậy. Nhiều người đã ngã - ngã lăn ba vòng từ trên xuống, ngã

ngồi trượt một đường dài... đủ kiểu ngã. Tôi cố sử dụng chiếc gậy

thật khéo léo, lúc thì chống, lúc thì ghìm lại thành một cái trụ vững

chắc nên xuống mấy dốc đó đều an toàn.

Ngày 15/8/1968

Giao liên dẫn chúng tôi đến trạm Phú là một anh người nhỏ

nhắn. Anh bị đau bụng - kiểu đau dạ dày - nên thường tụt lại đi sau

chúng tôi. Đường men theo bờ sông, cũng dễ đi. Phía bờ sông bên

kia có những nơi bị bom cày phá khiến cây cối đổ gục, đất bị đào

bới, phơi màu đỏ hoen ố.

Đến trưa, chúng tôi mang cơm ra ăn. Cơm của tôi có ít, vì hết

sắn khô để ghế rồi. Anh giao liên mang gói cơm bé xíu ra - thực ra

đó là sắn khô nấu thì đúng hơn, vì chỉ có loáng thoáng ít hạt cơm.

Anh nói trạm này cũng đói, gạo quá ít và đi lấy sắn quá xa, phải

mất hai ngày đường. Anh giao liên chỉ ăn vài miếng là hết veo nắm

cơm tội nghiệp. Tôi mời anh ăn thêm với tôi, anh ta ăn rất tự nhiên.

Cũng thật xúi quẩy, chúng tôi xin được một quả lựu đạn, đem

đến một hục sâu ở suối ném, định kiếm một chút cá. Nhưng lựu đạn

nổ mà chẳng có con cá nào chết cả!

Chiều, tới trạm, vừa kịp căng tăng thì trời nổi gió đùng đùng và

sầm sập đổ mưa.

48

Chúng tôi góp gạo, ăn chung với trạm. Còn trạm thì có sắn tươi

và cá - cá do anh em giao liên mò ở suối, được ít con. Bữa cơm nóng,

ngon.

Đường nhiều dốc nhưng ngắn. Rừng nhiều muỗi quá, mỗi khi

ngồi nghỉ là chúng ào vào đốt túi bụi. Tôi phải lấy khăn mặt đập

ngang đập dọc luôn tay mà vẫn bị đốt tịt cả người. Rừng cũng nhiều

hạt gắm quá, tôi nhặt không biết chán. Trong lúc lương thực thiếu

thốn này, hạt gắm thật quí - nó có chất bột, sẽ làm chúng tôi bớt đói

một chút và ăn lại ngon, vừa bùi, vừa béo. Điều cũng cặm cụi nhặt

với tôi. Thuyết nhặt được một nắm, đưa cho tôi mang rồi đi thẳng -

anh rất ngại làm công việc cải thiện sinh hoạt và chỉ thích nghỉ

ngơi. Vượng, Nhị, San thấy chúng tôi nhặt cũng chẳng để ý, cứ đi

thẳng, có lẽ các anh chưa biết giá trị của hạt gắm.

Bãi nghỉ của chúng tôi quá chật hẹp, nằm kề một con suối nhỏ,

dưới một cái làng của đồng bào dân tộc. Tôi bước vào bãi định kiếm

một chỗ căng tăng thì bỗng thấy đau buốt ở chân; Tôi ngã khuỵu

xuống. Trời, mu chân trái của tôi mang nguyên si một mũi chông tre

kiểu lá tranh. Mũi chông cắm sâu vào mu bàn chân, tôi phải rút nó

mới chịu rời ra. Nó cắm sâu tới gần hai đốt ngón tay. May nó không có

ngạnh nên không bị mắc cứng trong đó. Máu từ vết thương tuôn ra,

đỏ thẫm cả bàn chân. Anh em chạy xúm đến. Vượng nhai thuốc lá dịt

cho Tôi. Điều dở băng băng chặt lại. Tôi tập tễnh về treo võng nằm,

lòng đầy lo ngại. Lúc ấy tôi mới để ý nhìn và thấy ớn lạnh: quanh bãi

nghỉ, ngược lên triền dốc, chi chít những chông. Chông hình lá tranh,

bén nhọn, được cắm chênh chếch và lẫn vào cỏ, rất khó phát hiện. Có

lẽ đồng bào cắm chông đề phòng biệt kích.

Tối, Điều mang hạt gắm ra rang. Anh em xúm xít quanh bếp

lửa. Chúng tôi chia đều cho 7 người, mỗi người được khoảng bốn

chục hạt, ăn thấy bùi, béo, thơm, thú vị vô cùng.

Ngày 17/8/1968

Cái chân đau muốn cản trở cuộc hành quân của tôi. Đường lại

cứ nhằm suối mà đi. Lội nước đến phát sợ lên. Người ớn lạnh, sởn

gai ốc.

Đến trạm, tôi vội lấy thuốc tím rửa chân rồi rắc thuốc Sunfamit

vào. Miệng vết thương khép kín, trắng bợt.

49

Lo lắng về gạo vô cùng. Biết đi mấy ngày nữa? Ôi, cái kiểu đi

nửa ngày ỡm ờ này làm chúng tôi tốn gạo quá. Chúng tôi ăn rất dè

sẻn. Hành quân mang nặng mà chỉ ăn một lon rưỡi gạo một ngày -

nấu cơm suốt từ sáng để ăn ba bữa. Do vậy, phải tự kiềm chế ghê

lắm, nếu không sẽ ăn hết ngay trong một bữa. Cơm ăn với muối

trắng mà thấy ngon lạ. Sáng, ăn 1/3 khẩu phần, thấy thòm thèm

quá. Muốn ăn thêm. Này, hãy tự kiềm chế đi, ăn thêm một thìa thôi

nhé. Trưa, chiều lấy gì ăn nếu ăn hết từ sáng? Đến trưa lại phải

đấu tranh dữ dội nữa. Bụng đói cồn cào, đầu gối bủn rủn. Ăn mấy

thìa đấy? Còn phần của chiều - chớ quên điều đó, chớ sa đà. Trời ạ,

ác hại thay, sao trời sinh ra hạt gạo ngon thế? Ăn một lại muốn ăn

hai. Nhất là những lúc đói kém này. Song, tôi tự kiềm chế nổi -

phần của bữa nào ra bữa đấy, có xê xích cũng chỉ trong khoảng một,

hai thìa.

Tối, Thuyết lò mò đi xin được hơn một lon bắp. Tất cả tiểu đội

đều mừng rỡ và lập tức bắc nồi, chất lửa rang ngay. Những hạt bắp

thơm phức, ròn rộm đã đem lại cho chúng tôi một niềm vui nho nhỏ.

Anh em quây quần quanh bếp lửa, chia nhau từng hạt bắp rang và

tán đủ thứ chuyện. Mọi mệt nhọc, lo lắng dường như bị lãng quên.

Ngày 18/8/1968

Chúng tôi tới trạm An. Giao liên cho chúng tôi đóng tăng ở một

bãi nhỏ, giữa dốc và nằm kề một con suối nhỏ.

Tình hình đường lơ mơ quá. Còn đi mấy ngày nữa, giao liên

không biết. Ai sẽ cấp thêm gạo cho chúng tôi? Trạm ư? - Trạm cũng

đói. Cho đến hôm nay, mỗi người chúng tôi chỉ còn một lon rưỡi gạo

và một chút cơm nguội đóng trong ăng gô và... hết, xung quanh là

rừng núi cùng những anh em thiếu đói...

Số gạo còn lại phải để dành, phòng khi đói lả còn có chút hơi

gạo. Chúng tôi phải đi kiếm thêm môn dóc ăn. ở đây, môn dóc cũng

hiếm. Cây môn dóc cằn cỗi, nhỏ xíu, mọc lưa thưa trên vách núi,

ven suối. Tôi tập tễnh lê cái chân đau đi kiếm môn dóc cùng San.

Cái suối này đổ từ đỉnh núi xuống nên rất dốc. Lòng suối đầy đá

tảng trơn tuột. Chúng tôi thận trọng dò từng bước theo suối đồng

50

thời phải hết sức chú ý hai bên vách núi. Hễ có môn dóc là phải

bám vào cây, đạp chân vào những mô đá mà leo lên hái. Hái mãi

mà chỉ được vài nắm. Tôi phớt cái chân đau, xông bừa vào bụi, mặc

gai mây cào, mặc dây leo níu. San cũng xông xáo theo tôi, song anh

hơi thiếu kiên trì. San cứ giục: "Về thôi, đủ rồi". Tôi nhìn bó rau mà

lắc đầu: "Đấy, 7 người ăn chứ ít đâu?". San in lặng và lúi húi kiếm

môn dóc. Tôi vướng phải một dây leo hình múi khế, có 4 cạnh, rất

giống cây củ trắng (loại giống củ mài, củ to mà rất nhiều bột, ăn

thơm, ngon). Tôi mừng rỡ bảo San: "Có thể là củ trắng đấy". San

sáng mắt lên: "Đúng không, nếu đúng thì lấy dao găm đào bằng

được". Tôi lần theo dây, nó mọc ra từ một cái dây khác to tướng chứ

không phải mọc ra từ dưới đất. Thất vọng, làm gì có thứ của quí ấy

ở chốn rừng già này. Vẫn chỉ có môn dóc làm bạn với ta.

Hái suốt chiều chỉ được hai bó môn dóc. Chúng tôi rửa sạch,

tước cọng và chia đều cho 7 người, mỗi người được khoảng nửa ăng

gô. Đến khi lấy muối, tôi giật mình: gói muối chỉ còn chút xíu. Mọi

khi tôi vẫn giữ muối, hôm qua đưa Điều nấu canh, lúc ấy gói muối

còn khá nhiều. Chúng tôi bực bội, ai ăn mà hết đi nhanh vậy?

Nhưng rồi cũng phải nén lại. Lúc đói kém mà dằn vặt nhau quá thì

chỉ thêm khổ. Được, rồi sẽ phải lựa lời nói với nhau sau.

Tôi trộn cơm nguội vào ăng gô canh loãng tọet, húp xì xụp, thấy

ngon như ăn súp vậy. Thực ra cái thứ rau rẻ mạt này khi nấu lên

cứ hôi hôi mùi bùn và từa tựa như cám lợn.

Tối, tôi đến tăng của Thuyết lấy bi đông chế nước cho anh. Tình

cờ tôi thấy anh còn một gói ruốc bông (chắc anh xin được ở một

trạm nào đó ngoài đường dây Xã hội chủ nghĩa ). Thì ra anh vẫn cất

kỹ và ăn giấu một mình. Tôi thấy buồn quá. Tôi nhớ hôm xin được

con dộc, chúng tôi nấu kha khá cơm gọi là liên hoan. Tôi vẫn ăn với

cái điệu chậm rãi như ở nhà - tôi quen ăn chậm nhai kỹ. Điều đau

dạ dầy nên cũng phải nhai kỹ. Tất cả có 4-5 ăng gô cơm, nghĩa là

mỗi người được một nửa ăng gô, còn lại một ăng gô rưỡi là phần liên

hoan chung. Nhưng khi tôi và Điều ăn hết một ăng gô thì 4 ăng gô

kia đã hết veo rồi. 5 anh bạn kia đã ăn hết cả phần cơm tội nghiệp

gọi là cơm liên hoan. Thật là dở mếu dở cười. Trong hoàn cảnh thiếu

thốn này, ai cũng mau đói, lúc ấy ăn uống dễ bị "quá đà", lẹm cả

51

vào phần của đồng đội. Thật đúng như các cụ nói chín người mười ý,

mỗi anh em trong đoàn có một tính nết riêng. Người chăm kẻ lười,

người biết nhường nhịn kẻ lại không. Biết làm sao? Nhưng nói

chung, tiểu đội chúng tôi vẫn thường chia ngọt xẻ bùi cho nhau -từ

mẩu sắn, hạt ngô đến lá rau. Đồ đạc tư, anh em đều góp lại, mang

ra đổi chác kiếm cái ăn chung. Riêng tôi, giờ đây ba lô đã vơi quá

nửa, chỉ còn vài thứ thật cần thiết cho cuộc sống.

Nằm trên võng lạnh, để mặc cho cái đói dày vò, tôi nghĩ miên

man. Trong khó khăn, bệnh cá nhân có điều kiện bộc lộ. Tiểu đội

Một đối với chúng tôi không được tốt. Tiểu đội ấy toàn là anh em

người địa phương, quen thông thổ và có người quen nên kiếm được

nhiều lương thực. Họ không hề chia xẻ cho chúng tôi. Tới bữa, họ

mang gạo, sắn, bắp, đỗ... ra một chỗ và nấu ăn. Họ vẫn luôn luôn

kêu thiếu thốn. Tôi nhớ có hôm vào nơi tiểu đội Một ở giữa lúc họ ăn

bắp rang, mùi bắp thơm lừng, có anh còn đang nhai dở bắp trong

miệng, vậy mà vẫn có anh nói: "Đói hỷ, chẳng có gì ăn cả". Họ

không chia xẻ cho chúng tôi, họ còn giành giật của chúng tôi những

của cải của toàn đoàn, đem đi đổi chác. Chiếc lưới đánh cá, họ cho

trường Kinh tài để lấy về bắp, đỗ xanh, mắm cá - họ nói rằng họ gửi

ở đó (!?). Gửi đó, ai sẽ lấy và bao giờ lấy? Rồi bộ tông đơ cắt tóc, túi

thuốc công họ cũng chiếm cả.

Sinh hoạt lỏng lẻo quá, chẳng họp hành, kiểm điểm gì cả nên

thật khó phê bình, sửa sai. Chỉ thỉnh thoảng nặng lời với nhau thôi.

Buồn thật!

Ngày 19/8/1968

Cả ngày hôm nay chỉ được một lon gạo thôi, nửa lon kia phải

kiên quyết giữ lại.

Sáng, hỏi giao liên còn đi mấy ngày nữa, anh trả lời bâng quơ:

khoảng 3-4 ngày gì đó. Chúng tôi xôn xao bàn bạc. Đi 3-4 ngày nữa

thì lấy gì ăn đây! Chiều qua, chúng tôi gặp mấy anh ở giao bưu. Các

anh vẽ đường cho chúng tôi và bảo: cứ mạnh dạn đi, thể nào cũng

gặp cơ quan nào đó, may ra xin được gạo. Bây giờ chúng tôi xoay ra

hướng ấy: cứ mạnh dạn tách trạm, tìm đường đi. Thuyết vào báo

52

cáo với trạm điều đó. Trạm trưởng bắt chúng tôi phải ký giấy cam

đoan và gắt gỏng: "Nếu xảy ra chuyện gì thì các anh chịu trách

nhiệm!".

Leo dốc với đôi chân bủn rủn vì đói. Mắt hoa lên và mồ hôi vã

ra như tắm. Dừng lại nghỉ ở một cái suối lớn dưới chân dốc. ở đây có

rừng giang, những cây giang vươn dài và ngoằn ngoèo. Chúng tôi

rúc vào các bụi giang và tìm kiếm: có măng! May mắn làm sao.

Đi một chặp, chúng tôi gặp một con suối lớn và cứ lội xuôi theo

suối miết. Nước sâu tới đầu gối, giá lạnh, làm chân chúng tôi cứng

đờ lại, mỏi rũ. Ven suối mọc những dây lang rừng - giống dây khoai

lang, lá ăn giống lá khoai. Chúng tôi sà vào các bụi mà hái lá lang

rừng. Với túi rau và măng đầy ắp, chúng tôi hy vọng chiều sẽ được

một bữa no.

Chân đau quá, tôi tập tễnh đi sau. Bao giờ đến. Và đến đâu?

Xế trưa, tôi theo kịp đoàn. San đứng ở một tảng đá đón tôi, mặt

mày rạng rỡ. San reo to: "Sao đi chậm thế? Đến nơi rồi. Gặp cơ quan

rồi!". Tôi lặng người đi, ngỡ ngàng. Và niềm vui xáo động chạy thốc

vào cơ thể tôi như một dòng nước mát ngọt, làm tiêu tan mọi mệt

nhọc, lo lắng. Đây là trạm vận chuyển gạo của Ban Tuyên huấn, cơ

quan mới của tôi. Anh Hoài ở báo Tiền Phong xem giấy và nhận đón

chúng tôi, những người ở tiểu đội Hai. Còn tiểu đội Một thì phải đi

nữa, phải đi tìm cơ quan Giao thông. Anh trưởng đoàn đồng ý để

chúng tôi về thẳng cơ quan. Khi chia tay, toàn tiểu đội chúng tôi

dốc ruột nghé ra được ba lon rưỡi gạo, đưa hết cho tiểu đội Một. Số

rau, măng kiếm được, tôi cũng đưa hết cho Báu.

Chúng tôi mang số cơm phần của buổi chiều ra liên hoan. Anh

em ở trạm vận chuyển mang cho chúng tôi một đĩa mắm cái - đĩa

mắm có những con cá đỏ tươi, bay mùi thơm phức. Ăn xong, chúng

tôi chia tay nhau: Điều, San, Thành về đội Điện ảnh; tôi, Vượng,

Nhị, Thuyết được anh Hoài dẫn về ban Tuyên huấn. Bắt tay nhau,

sẽ gặp lại nhau, nhưng sao bịn rịn quá.

53

Sáng, chúng tôi cùng đi với anh Hoài và mang trên lưng sự no

ấm: mấy chục lon gạo, mỗi người một hộp sữa nước.

Trưa đó chúng tôi dừng lại hái lang rừng luộc ăn với cơm. Rồi

lại pha sữa chia nhau uống rôm rả.

Chúng tôi xuôi theo đường 14. Con đường bằng nhưng nhiều

lau lách.

Chiều, trời mưa lâm thâm, bầu trời u ám và hơi lạnh. Chúng

tôi nghỉ lại ở một ngôi lều nhỏ bỏ không dọc đường. Mưa, vẫn mưa

rả rích. Chúng tôi đốt lửa cho ấm áp. Hãy ngủ đi, sáng mai dậy sớm

để qua đò.

Nhưng cái chân đau quấy nhiễu tôi dữ quá. Vết chông kín

miệng nhưng bọng mủ phía trong, nhức nhối. Chân phải lại mọc

một cái nhọt lớn, nhói buốt. Hai "báu vật" ấy hành làm tôi sốt nóng

suốt đêm.

Ngày 21/8/1968

Dậy từ ba rưỡi sáng. Vừa bước xuống đất, tôi bỗng choáng

váng. Mắt tối sầm lại, nổ đom đóm. Mồ hôi toát ra lạnh ngắt. Ôi cái

chân, cái chân hành quân của tôi!

Thuyết xếp ba lô hộ tôi và tôi phải ráng mang ba lô đi. Đường

đọng những vũng nước bẩn thỉu. Lau lách um tùm cản lối đi. Trời

tối thui. Phải bấm đèn pin dò từng bước. Đầu óc tôi choáng váng.

Muốn ngã gục xuống. Gắng lên, gắng lên đi! Bươn qua quãng đường

rậm rì lau lách, chúng tôi tới bờ sông - bến đò Giằng đó. ở đây lắm

muỗi mát quá. Thứ muỗi mát nhỏ xíu đến nỗi không nhìn thấy, rất

tai ác, cứ chui vào đầu đốt vào chân tóc, đốt vào cổ vào tai. Ngứa

ran lên. Rậm rật khó chịu. Mọi người phải lấy khăn mặt đập liên

hồi để xua đuổi chúng. Tiếng khăn đập phần phật cùng với tiếng

nói chuyện rì rầm lan trên mặt nước mờ đục hơi sương, đang sáng

dần lên theo ánh bình minh, tạo thành bản nhạc toàn những nốt

trầm huyền ảo. Không có một tiếng chim hót.

54

Qua đò, chúng tôi bước trên con đường mòn nhỏ xíu, lau lách

phủ kín. Chúng tôi tiến vào bãi sông. Bãi bằng phẳng, phủ một lớp

cát trắng, bên một dòng sông nước trong xanh, bên những bụi cây

rù rì cành mềm mại, duyên dáng.

Ăn cơm xong, tôi thấy người chuyếnh choáng. Không muốn đi

nữa. Anh em bảo tôi dừng lại đây. Nghỉ ở đây ư? Giữa con đường lạ

này. Tôi lưỡng lự. ở lại một mình liệu có vượt nổi sự yếu đuối

không? Còn hôm nay thôi sẽ đến cơ quan. Gắng lên đi!

Tôi tập tễnh đi sau đoàn. Những con vắt quái ác cứ bu vào hai

vết đau của tôi mà hút máu. Máu, máu loang ra đỏ cả bàn chân, đỏ

sẫm lại. Đầu tôi choáng váng lắm rồi. Ngồi tạm xuống nghỉ một

chút. Người nóng bừng và chìm trong cơn mê sảng kinh khủng. Đầu

óc quay cuồng, lâng lâng như bay trong khoảng không vũ trụ. Cố

gắng lắm, tôi mới đứng dậy được và lại chuyệnh choạng bước đi. Ba

lô nặng như đá tảng. Lại ngồi bệt xuống bên đường, gục đầu vào hai

đầu gối mà thiếp lịm đi. Có gì cứ kêu ong ong hai bên tai, và lạ lùng

quá, có một mảng mầu vàng khè cứ xuyên thẳng qua đôi mắt nhắm

nghiền của tôi, phủ kín cả óc tôi. Tôi mơ màng nghe có tiếng gọi:

"Này anh! Này anh!". Trước mắt tôi nhập nhoà hình ảnh một anh

thanh niên Thượng đóng khố, vác cây súng trường. Anh ta bảo: "Có

gạo không? Đổi thịt khô". Tôi lắc đầu. "Có cơm không? Đổi cơm cũng

được", anh ta chỉ vào túi ba lô tôi khẩn khoản. Tôi lại lắc đầu. Anh

ta bỏ đi. Tôi cũng xiêu vẹo bước theo.

Qua một bãi cỏ tranh bằng phẳng, trống trải và chói chang ánh

nắng. Phải đi nhanh qua. Lũ Moranh (máy bay trinh sát) có thể

đến bất ngờ, thấy anh, nó sẽ sà xuống bắn hoặc gọi pháo bắn tới cấp

tập. Vượt khỏi bãi tranh lại chui vào một khu rừng thưa. Chúng tôi

dừng lại ăn cơm trưa. Hoài lấy ít gạo đổi đưọc ít thịt nai khô. Đi với

anh, chúng tôi - những lính mới - thấy yên tâm. Quê vùng Trị Thiên

- Huế, vào đây trước chúng tôi mấy năm, Hoài rất chu đáo với

chúng tôi. Với giọng nói nhẹ nhàng và ấm áp, anh hỏi han chúng tôi

về chuyện hành quân, chia xẻ với chúng tôi phần ăn của mình.

Chúng tôi nhen lửa kho thịt. Kể cũng liều một chút. Máy bay có thể

phát hiện ra khói.

55

Cơm có thịt, song miệng tôi đắng ngắt, ăn thấy nhạt nhẽo vô

cùng. Lần đầu tiên tôi không ăn hết phần của mình.

Lại đi. Gắng lên, gắng lên, còn vài giờ nữa thôi sẽ tới nhà.

Chúng tôi tách khỏi đường 13, rẽ ngoặt về bên trái, lội qua một

con suối, vượt một bãi trống. Cây cối ở đây xơ xác, úa vàng vì chất

độc hoá học. Có vài cây đót cao vót, phơi ra những tầu lá khô queo,

in bóng đen sẫm trên nền trời xanh.

Đường men theo bờ sông, trườn lên những vách đá hóc hiểm.

Phải níu lấy dây mây, cây cối hai bên đường mà leo lên, tụt xuống.

Bãi lội đã hiện ra trước mắt tôi. Con sông Thanh gập gềnh những

đá, nước chảy ào ào, bỗng trở nên hiền hoà khi chảy qua khúc sông

bằng phẳng, toàn cát vàng. Tôi lội qua dòng nước mát lạnh, thấy

tỉnh táo lại đôi chút. Anh em mang dâu da đưa tôi ăn. Những quả

dâu da đỏ chót, ngòn ngọt, chua chua thật hấp dẫn.

Lội ngược theo một suối con, chúng tôi rẽ vào cơ quan. Cơ quan

đó, với những ngôi nhà lá sơ sài, không có giường, chỉ có mấy chiếc

bàn ghép bằng thân cây. Anh em xúm đến chào đón chúng tôi rồi

đưa chúng tôi vào một căn nhà trống trải - nhà Văn phòng đây,

chúng tôi nghỉ ngơi tại đó.

Tôi căng võng nằm và thiếp đi trong cái đau nhức nhối nơi hai

bàn chân.

56

Chương 2

Ở CĂN CỨ

Từ ngày 25 tháng 8 năm 1968

Chân đau khiến tôi phải nằm suốt. Thật là phiền phức. Cô Nga

- y tá - rất tận tình chữa vết thương cho tôi. Ngày nào cũng vậy, cứ

buổi chiều là cô mang nước nóng đến rửa vết chông và cái nhọt rồi

bôi thuốc đỏ vào. Qua mấy ngày, miệng vết chông khép kín lại và

bọng mủ ở trong, nhức nhối. Cái nhọt cũng căng mủ. Nga nặn ra

toàn máu đen và mủ. Sau đó, cô lấy panh cặp bông và thọc nó vào

tận trong lòng vết thương để kéo máu mủ ra. Miệng vết chông đã

liền thịt nên phải lấy panh chọc ra rồi luồn bông có tẩm thuốc vào.

Ngày nào tôi cũng phải chịu cái đau và ghê rợn kinh khủng khi rửa

vết thương. Chiếc panh ngoáy vào lòng vết thương như bào từng thớ

thịt tôi ra. Tôi cắn răng chịu đựng để khỏi phải la lên, để cô y tá yên

tâm làm việc. Rồi tôi được tiêm hai lọ Pê-nê-xi-lin. Công hiệu lắm,

vết thương dịu dần.

Cơ quan đang gặp khó khăn về lương thực. Anh em chạy nháo

nhào đến các làng đổi bắp về. Ngày đầu chúng tôi được ăn ba bữa

cơm. Sau đó xuống còn hai bữa: sáng 9 giờ ăn bắp, chiều 4 giờ ăn cơm.

Từ ngày 29-8, tôi bắt tay vào việc: soạn những bản tin khai

thác từ những bức điện báo cáo và những tài liệu, bài vở từ các địa

phương gửi về. Tôi ngỡ ngàng với phương thức làm việc này.

Ngày 2/9/1968

Chúng tôi đón ngày tết Độc lập tại cơ quan. Anh em đi đánh cá

về làm một bữa liên hoan rôm rả. Chiều, sau khi nghe bài diễn văn

57

của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, chúng tôi ngồi bàn luận về cuộc

kháng chiến thần kỳ của dân tộc, củng cố thêm quyết tâm chiến

đấu và chiến thắng.

Ngày 18/9/1968

Tôi đi A7 cõng gạo. ở đây, cõng gạo về ăn là nghĩa vụ của mỗi

người. Mỗi tháng cần đi cõng gạo ít nhất một lần.

Lại qua bến đò Giằng. Trời bỗng ập mưa rào. Rồi phút chốc

nước lũ kéo về ầm ầm. Dòng sông bỗng trải rộng ra, nước đỏ ngầu,

chảy điên cuồng, tung lên những con sóng bạc. Đò không thể qua

sông được. Chúng tôi lùi về một dải cát, căng tăng mắc võng nghỉ.

Nhưng tai ác thay, vừa ăn cơm xong thì nước tự nhiên tràn đến,

dâng cao dần. Lúc đầu, nước chỉ sâm sấp bàn chân. Phút chốc, nước

đã lên tới đầu gối, lạnh ngắt. Chúng tôi cuống cuồng thu đồ đạc, kéo

lên một dông cao. Rồi mò mẫm phát cây, kiến thiết chỗ ở. Ướt nhớp

nháp. Rét run cầm cập. Vắt được dịp bò đến hút máu chúng tôi.

Sáng 19/9

Chúng tôi qua đò. Tôi gặp lại Xuân Quý, người cùng tập trung

ở Hòa Bình với chúng tôi, đã rời miền Bắc trước chúng tôi ít ngày và

hiện ở tiểu ban Văn nghệ, cùng công tác viết văn với chồng là Bùi

Minh Quốc - tức Dương Hương Ly. Xuân Quý đi cõng gạo về và đêm

qua phải ngồi suốt bên bến đò, dưới trời mưa tầm tã.

Đi qua rừng loòng boong. Cây loòng boong từa tựa như cây

hồng bì, có những chùm quả vàng, tròn căng. Quả loòng boong có 4

múi như quả hồng bì, song ngọt lịm và thơm lạ. ở một múi, có một

vết hằn, giống như vết bấm của móng tay. Loòng boong là đặc sản

của miền Tây Quảng Đà này. Chúng tôi hái loòng boong ăn thoả

thuê. Rừng núi cũng tình nghĩa lắm chứ.

Ngày 20/9

Tôi cõng 90 lon muối ra về. Chán quá, để quên chiếc mũ trong

gùi, lún sâu dưới muối, nên không lấy ra được. Nắng xiên vào gáy

nhức nhối.

58

Ngày 21/9

Tôi mang muối vào làng đồng bào Thượng để đổi bắp cho cơ quan

- cứ một lon muối ăn ba lon bắp. Làng này khá sạch sẽ. Trẻ em được

học chữ dân tộc mình và hay hát những bài hát cách mạng.

Tôi thấy người ngây ngấy sốt. Có lẽ cảm nắng.

Ngày 23/9

Tôi cõng hơn 100 lon bắp về. Bến lội của chúng tôi trở nên sâu

và nước chảy xiết vì mưa lũ. Tôi phải vác gùi bắp lên vai, chống gậy

lội qua sông. Nước sâu tới ngực, chỉ chực quật ngã tôi. Hãy cẩn

thận. Nhiều người đã chết vì cách vượt sông nguyên thuỷ này.

Ngày 24/9

Tôi đã bị vi trùng sốt rét tấn công. Đây là trận sốt rét đầu tiên

mà tôi phải chịu. Đầu đau như búa bổ. Các khớp xương nhức nhối.

Bụng anh ách, lúc nào cũng thấy no một cách khó chịu. Uống ký

ninh vào, tai bùng lên, bùng lên bùng bục. Mắt cảm thấy bị chói

nắng, không nhìn rõ gì cả. Miệng đắng ngắt, không muốn ăn uống.

Cố gắng ăn tý cháo, song nuốt không nổi, cổ họng ghê lợm cứ bắt

nôn mửa. Đêm, mắt chong đèn không sao ngủ được. Đầu cứ buốt

thon thót.

Tới chín, mười ngày sau tôi mới khỏi sốt. Dậy đi lại thấy chân

nặng trịch, người lảo đảo muốn ngã. Phạm Hồng động viên tôi: Ai ở

Trường Sơn mà chẳng bị sốt rét nghĩa vụ, rồi sẽ quen đi và sẽ thấy

bình thường!

Bây giờ là mùa mưa rồi. Những trận mưa rào xối xả và kéo dài

khiến các con suối trở nên dữ tợn, khiến những dòng sông tràn đầy

nước, chảy ào ào, cuốn những cây gỗ trôi băng băng.

Chính trong mùa mưa dữ dội này, chúng tôi được lệnh chuyển

xuống A7. Anh Hồng bảo tôi rằng ở căn cứ, di chuyển cơ quan là

chuyện thường. ở đâu lâu nhất là 3 tháng, có nơi chỉ một tháng, vì ở

lâu dễ bị địch phát hiện, cho máy bay B.52 dội bom hoặc đổ quân

59

tấn công. Chuyến đi đầy vất vả và đã gây tổn thất cho chúng tôi:

Điều đã bị chết, chết một cách vô lý. Mấy hôm trước đó Điều sốt rét.

Anh sang ở với tôi cho gần y tá để tiện tiêm thuốc. Sau đó anh khỏi

nhưng sức vẫn yếu và phải hành quân. Tới dòng suối lớn chảy xuôi

về A7, Điều tụt lại đi sau. Và điều không ngờ đã xảy đến: anh ngã

ngửa, ngồi dựa vào ba lô, ngâm mình trong nước suối mà chết. Sớm

hôm sau San, Thành... mang cuốc xẻng ra chôn Điều. Tôi cũng

muốn ra tiễn đưa Điều, song công việc bận quá, không bỏ đi được.

Tôi bùi ngùi nhớ tới Điều, nhớ tới những câu chuyện tiếu lâm của

Anh; Nhớ tới tài uốn lưỡi câu, cắt tóc của Anh; Nhớ tới những điều

tâm sự của anh về gia đình; Nhớ tới lời hẹn của anh: ngày thống

nhất về Nghệ An quê hương Anh, Anh sẽ cho ăn cá thoả thích. Anh

đi ngày 30-4 và chết ngày 28-10-1968. Cũng trong chuyến đi này,

một đồng chí ở Ban An ninh không may xảy chân ngã xuống cầu,

lập tức dòng nước sông Thanh hung dữ cuốn anh đi, nhận chìm anh

dưới thác nước khủng khiếp.

Công việc vẫn tiếp diễn. Chúng tôi chặt cây dựng nhà, đào hầm

hố và làm chuyên môn. Những trận sốt rét từ nay đã điểm nhịp vào

cuộc sống của tôi, ít ra mỗi tháng một lần.

Từ trung tuần tháng 11-1968, cơ quan hai lần lâm vào cảnh bế

tắc về lương thực. Gạo gần hết rồi mà không sao moi được ở đồng

bằng lên. Hồi này, địch buộc phải ngừng đánh phá miền Bắc nên

chúng đánh phá miền Nam điên cuồng hơn. Phi pháo, B57, B52 thi

nhau hoành hành. ở Sơn Phúc, Lộc Thành, chúng càn quét liên tục,

bịt mất đường lấy gạo của chúng tôi. Mức ăn phải giảm xuống, từ 2

lon xuống 1 lon rưỡi, rồi 1 lon một ngày. Anh em thi nhau xuống

núi kiếm rau rừng, củ nưa về ăn cho đỡ đói lòng. Vùng này quá

lạnh. Sương mù bao phủ suốt ngày. Cái rét và đói hành hạ chúng

tôi. Đêm, chúng tôi phải đốt lửa cho ấm. Nhìn lửa than, chỉ ước có

củ sắn mà nướng.

Ngày 21/11/1968

Tôi và Hồng xuống Quảng Đà lấy một số đồ đạc gửi đoàn Trọng

Quyền mang vào. Tại đây, tôi được sống trong bầu không khí ấm

cúng, vui nhộn của một tổ phóng viên, giống như khi sống ở Sơn La

60

vậy. Hoàng Mẫn vẫn béo tròn và say mê in, phóng ảnh bằng ánh

sáng mặt trời. Đinh Trọng Quyền vẫn sôi nổi và cởi mở. Trần Mai

Hạnh, Thế Trung vẫn vui nhộn, hoạt bát và vẫn có những câu

chuyện sinh động về các cô gái. Chỉ có Trần Biên - điện báo viên - là

dao động, sợ chết, nay đã ra Bắc rồi. Trọng Định đã hy sinh hồi cuối

tháng 8 vì bị pháo trên đường công tác.

Nghỉ một ngày, sáng hôm sau tôi và Hồng rủ nhau xuống Sơn

Phúc mua một ít hàng. Chúng tôi chỉ có trách nhiệm xuống Quảng

Đà. Song muốn thấy đồng bằng một chút nên liều đi. Đường xuống

dần, trườn qua những đồi lúp xúp, cây cối thưa thớt. Qua một

quãng rừng, tôi thấy có mấy hố bom lớn do B57 thả. Cây cối tơi tả.

Bên đường có những mảnh quần áo rách và ở một vài đám đất có

nhặng bu đến - từ đó mùi hôi thối xông ra nồng nặc. Chắc có anh

nào xấu số bị bom xé vụn ra. Chúng tôi tiến gần vùng ranh. Có

những người mang hàng đi ngược chiều với chúng tôi. Họ cho biết

tình hình rất căng. Bọn biệt kích ở núi Chóp Nón luôn kiểm soát

con đường vượt ranh. Hễ phát hiện người là chúng bắn cối đến hoặc

gọi pháo nã tới. Do vậy phải vượt ranh vào sáng tinh mơ hoặc sẩm

tối. Chúng tôi định tranh thủ vượt ranh buổi trưa, tối đó mua hàng

và sáng sau về sớm. Ai cũng ngăn chúng tôi: chớ nên liều lĩnh. Tôi

và Hồng bàn cãi mãi: đi hay không đi. Một mặt mong được thấy

đồng bằng, một mặt sợ xảy ra chuyện gì sẽ bị kỷ luật. Vừa bàn cãi

vừa đi xuống. Sắp tới con đường dưới chân núi Chóp rồi. Đường

vắng ngắt, không một bóng người, chỉ có những hố bom, những

thân cây đổ ngổn ngang. Tôi bỗng nghe hai tràng súng máy nổ ròn.

Ai bắn đấy? Hồng bảo hình như du kích bắn máy bay. Một lúc sau,

tôi thấy một cậu bộ đội trạc 18-19 tuổi tay xách dép hớt hải chạy

tới. Cậu ta cho biết mình vượt ranh, bị bọn biệt kích phát hiện.

Chúng không nã cối mà bắn đạn thẳng tới. May mà không trúng.

Tôi và Hồng dừng lại bàn bạc: thôi, quay lên thôi kẻo chết uổng

mạng, lại bị kỷ luật. Nếu là đi công tác thì dù ác liệt đến mấy cũng

phải vượt qua, đằng này lại tự ý đi...

Chúng tôi quay lại, xa dần gò Đu. Tại đó có hai xác bộ đội

nghĩa vụ bị biệt kích bắn chết cách đây đã lâu. Không ai chôn cả,

giờ đây hai xác chỉ còn là hai bộ xương, lồng trong hai bộ quân phục

mục nát.

61

Cuối tháng 12, địch điên cuồng mở cuộc càn lên nơi Khu đóng

quân. Một thằng phản bội đã tiết lộ mọi điều bí mật. Thế là ngày

đêm địch cho máy bay B52, B57 trút bom xuống các khu rừng khả

nghi, nhưng chẳng trúng ai cả. Pháo cũng bắn ì oành suốt đêm.

Tình hình căng, chúng tôi phải ngủ hầm. Có hôm nằm trên nhà,

chúng tôi bỗng nghe tiếng rít xoáy vào không khí. Bom B57! Mọi

người nhào xuống hầm. Tôi đang nằm trên võng, người quấn tròn

trong màn, bọc võng, vậy mà cũng bật tới hầm từ lúc nào, không

vướng víu gì cả. Bản năng sinh tồn của con người có một sức mạnh

kỳ diệu thật.

Địch đổ quân ở A7 - giữa nơi cơ quan tỉnh Quảng Đà đóng.

Chúng dò dẫm mò theo đường, đã lên tới cây gỗ vuông, rồi tới suối

Nước Lớn, nghĩa là chúng chỉ còn cách chúng tôi vài tiếng đồng hồ.

Song chúng bị ta chặn đánh ở đó, diệt một số, nên chưa tiến thêm

được bước nào.

Tiểu ban Văn nghệ mở cuộc họp tại Ban. Bùi Minh Quốc và

Xuân Quý đến nhà tôi. Chúng tôi chuyện trò về văn học, nhạc hát

rất sôi nổi. Xuân Quý sắp đi công tác Quảng Đà, đang bận rộn

chuẩn bị mọi thứ cần thiết. Chúng tôi chuyện trò trong cái giá lạnh

và trong cái đói quặn thắt lòng. Quốc sang Quân khu, lúc về được

Thu Bồn cho ít gạo. Buổi tối, chúng tôi nấu cháo "liên hoan": 1 lon

gạo, 4 người. Cháo loãng có mì chính và muối, cộng thêm ít dầu xà

lách, mà thấy ngọt ngào, bùi béo tợn. Chúng tôi xì xụp húp. Quốc

nói rằng chưa bao giờ được ăn cháo ngon như vậy.

Gạo gần cạn kho rồi. Cái đói vẫn tấn công điên cuồng vào

chúng tôi. Song, mọi người vẫn vững vàng, không một lời ca thán.

Chính trong lúc này, tôi bận rộn nhất: tuyên truyền cho thắng lợi

của miền Bắc ruột thịt đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại

của giặc Mỹ, tuyên truyền cho ngày thành lập Mặt trận Dân tộc

giải phóng 20 -12. Tài liệu rất nhiều. Chúng tôi say mê làm tin cả

ngày lẫn đêm. Và cuộc sống của cơ quan vẫn vui tươi, lạc quan. Nơi

ở được tổng vệ sinh thêm quang đãng. Nhà ăn được sửa sang lại với

những dãy bàn, ghế ngay ngắn. Thanh niên chúng tôi sáng vẫn tập

thể dục đều đặn, vẫn viết báo tường, chỉ tiếc là không được ca hát vì

gần địch quá, sợ chúng nghe thấy. Thay vào đó là những câu

62

chuyện vui. Chẳng hạn, anh Trần Phát, còn gọi là Sáu Phát vì anh

là con thứ sáu, đi lạc, bí quá bèn bắn súng làm hiệu, mọi người

tưởng địch đột kích... Thế là có mấy câu nhắc nhẹ anh:

Anh Trần Phát

Một hôm anh đi lạc

Anh rút súng bắn sáu phát

Khiến mọi người ngơ ngác

Đổ ra rừng nhao nhác

Ồ, hóa ra anh Sáu Phát

Một hôm anh đi lạc...

Thứ "thơ xà quần" - đọc vòng tròn, không bao giờ hết - kiểu

này, ai cũng thích.

Hôm qua họp cơ quan, anh quản lý tuyên bố bắt đầu ăn một lon

gạo một ngày và Ban quyết định đưa một đoàn vào A5 - cơ sở sản

xuất ở hậu cứ - lấy gạo về cứu đói. Sáng ngày 18-12, đoàn chúng tôi

ra đi. Mưa rả rích. Đường trơn tuồn tuột. Song phải đi thật khẩn

trương, đi như chạy vậy. Tới nơi, chúng tôi khẩn trương giã gạo và

vẫn ăn một lon gạo một ngày, song có sắn ghế nên vẫn no. Sắn ở

đây bị chất độc hoá học nên lụi hết, củ sượng như củ chuối và phải

đào vất vả lắm. Ở đây, bọn Mỹ rải chất độc dữ quá. Từng cánh rừng

bị trụi lá, phủ đầy một màu xám hoặc màu nâu vàng úa. Đứng trên

núi cao nhìn xuống, thấy rừng cây xơ xác mà đau lòng quá. Có

những rừng quế rất quí cũng bị tàn lụi cả, thật tiếc đứt ruột.

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Quảng Đà, ngày 26/11/1968.

Bố mẹ và các em yêu quý!

Không hiểu những thư trước con gửi về, gia đình có nhận được

không mà vừa rồi cơ quan con điện vào hỏi chúng con đã đến nơi

chưa? Con gửi lá thư đầu ở trong này vào cuối tháng 8. Lẽ ra ngoài

63

đó phải nhận được rồi mới phải chứ! Con rất sốt ruột và rất mong

thư gia đình nên hễ có ai ra là con tranh thủ viết thư ngay.

Hiện con vẫn khoẻ và công tác bình thường. Dạo này con đã

quen với sốt rét nên không bị trận nào nặng, chỉ thỉnh thoảng sốt

2,3 ngày rồi lại khỏi ngay thôi, khỏi thì lại khoẻ, lại làm việc ngay

được. Đặc biệt con ăn khoẻ lắm, có bao nhiêu cũng hết, nên luôn

thấy đói.

Còn tình hình gia đình thế nào? Có gì bố nhờ bác Đào Tùng,

anh Đỗ Phượng điện vào báo tin cho con mừng. Nhưng điện vào chỗ

anh Quyền, tổ phóng viên Quảng Đà, chứ không phải điện thẳng tới

chỗ con đâu, từ đó các anh ấy sẽ nhắn lên cho con. Bố mẹ cũng nhớ

đến số 47 Bát Đàn - Hà Nội tìm anh Trần Tô (mới ở Miền Trung

Trung Bộ, chỗ anh Đống, ra) để gửi thư vào cho con. Hồi ra đi, con

có gửi về nhà thẻ phóng viên của con, vào đây con thấy cần dùng,

vậy bố mang đến anh Tô, nhờ anh ấy mang vào cho con nhé. Cái thẻ

này chỉ gửi người trực tiếp mang vào thôi, không gửi theo bưu điện

được.

Do cần khai lý lịch, con cần rõ quá trình hoạt động cách mạng

của bố từ trước đến nay. Bố tìm cách gửi người mang vào cho con

với.

Các em dạo này có khoẻ không, học tập giỏi không? Anh rất

nhớ các em. Các em phải viết thư ngay cho anh nhé.

Thôi, con vội viết vài dòng. Chúc bố mẹ, các em khoẻ mạnh.

Cho con gửi lời thăm cô chú trong cơ quan.

Con của gia đình

Việt Long

Hòm thư 3.105 Vinh Quang

TB:

Nếu gửi theo bưu điện thì mang đến cơ quan con hoặc Ban

Thống nhất Trung ương nhờ chuyển.

64

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Bắc ngày 8/12/1968

Long thân mến của mẹ.

Từ ngày con đi đến nay bố mẹ và các em mong tin con đỏ cả

mắt, lần nào mẹ về Hà Nội cũng đến chỗ chị Sáu hỏi tin con mãi

đến cách đây độ 2 tháng chị Sáu mới cho biết tin là con đã vào đến

nơi an toàn rồi mẹ đỡ sốt ruột một ít.

Mẹ nói chuyện cái xe đạp cho con nghe, sau khi con đi thì cô

Chung ngày nào cũng đến hỏi xe đạp mà vẫn không thấy về, sau

cách đến 3 tháng anh Phối mới đem về cho và xe như thế là hỏng

hết, lốp săm dính vào nhau vì bùn, xích bị rỉ không đi được, gác đờ

xen không có, bê đan không có, còn gác đờ bu thì lại để ở một chỗ

khác, mẹ phải đến lấy sau, nói chung là cái xe chỉ còn được mỗi cái

khung thôi. Về mẹ phải sửa mất gần 2 chục mới đi tạm được và lốp

bây giờ thì cứ đứt hết tanh, nhưng thôi con ạ, mẹ tính anh Phối

đem hộ về như thế là cố gắng lắm rồi, mẹ chỉ tiếc là cái xe mới có

hơn một năm mà nó hỏng quá sức tưởng tượng. Hôm ấy mẹ có gặp

anh Phối và anh Phối nói là anh đổi vào Thanh Hoá mà xe của anh

Phối cũng chưa đem về được mà anh Phối phải đem xe về cho gia

đình mình để con được yên trí và anh Phối cũng khoe mẹ về vấn đề

vào Đảng của con. Anh Phối có cho mẹ xem cái giấy của chi bộ trên

ấy nhận xét về con và có báo cho tổ chức để gửi vào cho con chả biết

có nhận được không, anh Phối có nói là kết hợp với thời gian thử

thách con đi ngoài này vào trong ấy tốt thì sẽ có triển vọng kết nạp.

Khi con đi thì cô Chung có gửi lên cho mẹ 30đ và cái bút máy nắp

vàng của con rồi, và tất cả đồ dùng con gửi về mẹ nhận đủ rồi. Bố

mẹ và cả gia đình rất thương con về bước trưởng thành của con quá

vất vả nhưng mẹ nghĩ đấy cũng là sự yêu cầu của con và cũng hợp

với thanh niên thời đại này. Bố con về nhà lúc nào cũng nhớ đến con

và cứ nhắc đến con luôn, mẹ thì hàng ngày nhìn lên ảnh con mà

không sao cầm được nước mắt, mẹ nhớ bồn chồn cả người vì trước

con còn ở Sơn La, tuy xa nhưng còn có hy vọng con được về chơi hay

nghỉ phép, nhưng bây giờ thì không biết là thời gian nào mới gặp lại

con được. Hôm bố mẹ mới đi Hà Nội về thì nhận được thư của con

65

vào đầu tháng 12, cả nhà mừng quá, khi đọc thư con các em con và

bố xúm quanh lại nghe thư. Mẹ đọc, mẹ không sao đọc được vì quá

xúc động và thương con quá nhất là em Thuỷ và Lan nó cứ ngó mặt

mẹ, nhưng dù sao bố mẹ và các em con cũng mừng là con đã vượt

được chặng đường nguy hiểm và đã vào đến nơi an toàn thế là cả

nhà mừng rồi, còn việc ở trong ấy ra thế nào thì đấy là số phận may

rủi thôi con ạ. ở nhà thì mẹ lo cho con lắm lắm, còn các em con ở

nhà học vẫn tốt, em Ngọc được khen là học sinh toàn diện, vừa được

bình cho mua cái xe đạp Liên Xô con, mẹ mua cho em và hiện nay

tạm để cho Việt đi còn xe của con thì để cho Phúc dùng, để em học

thêm văn hoá sang năm thì em Ngọc cũng phải đi học xa rồi, còn

anh Đức con thì vừa rồi gửi cho bố cái đài lại không đủ giấy tờ,

thành ra họ lại phải giữ lại và trả lại anh thế có chán không?

Trên nhà cụ bà, cậu Hiến vẫn bình thường, cậu Hiến mới về

công tác qua Hà Nội mẹ cũng gặp. Hồi này ngoài này tạm yên ổn do

đó trường mình có mấy trăm học sinh học ngắn hạn được về trường

Mễ Trì học, còn trường thì vẫn ở khu sơ tán, bố mẹ cũng vẫn ở sơ

tán. Về phần con ở trong ấy hết sức giữ gìn sức khoẻ và nhất nhất

con làm gì hoặc đi đâu là phải hết sức thận trọng. Cẩn thận đấy con

ạ, mẹ lo cho con lắm đấy.

Con cố gắng năng viết thư cho nhà đỡ sốt ruột, như thế là thư

con gửi hơn 3 tháng là nhanh đấy con ạ, chỉ cần con viết ít chữ thôi

cũng đủ rồi, còn việc con đi thì mẹ có hỏi chị Sáu về vấn đề quyền

lợi của gia đình nhưng chị Sáu bảo chả có gì cả vì con chưa có gia

đình riêng, và chỉ có mỗi cái thẻ để đi khám bệnh thôi.

Thôi mẹ muốn viết rất nhiều nhưng sợ thư nặng quá còn để bố

và các em viết nữa. Cuối thư mẹ chúc con khoẻ mạnh, tiến bộ để

ngày thống nhất gia đình được đoàn tụ vui vẻ.

Mẹ của con.

66

T107.BC13/9 - 8/12/1968

Con yêu dấu của bố mẹ!

Bố đã nhận được lá thư đầu tiên con gửi từ địa điểm công tác

mới. Mẹ đọc thư, bố và các em chăm chú ngồi nghe, mừng mừng,

thương thương, mừng vì con đã vượt mọi khó khăn, nguy hiểm,

thương con nhiều lắm. Chuyện nhà mẹ đã nói rồi. Nói chung bình

yên, khoẻ mạnh. Các em đều học tốt cả. Ngoài này từ khi giặc Mỹ

buộc phải ngừng ném bom miền Bắc, mọi người ra sức làm việc, đẩy

mạnh công tác các mặt, đồng thời không ngừng nâng cao cảnh giác.

Tình cảm đối với miền Nam càng thắm thiết con ạ! Có con hoạt

động bên trong, cả gia đình thấy thắm thiết tình cảm Bắc Nam ruột

thịt, có thể nói không ngày nào gia đình không nghĩ tới miền Nam,

tới đứa con yêu dấu đang sống và chiến đấu trong sự chăm sóc nuôi

dưỡng của đồng bào miền Nam. Mong con ra sức phấn đấu, đạt

nhiều kết quả trong công tác, xứng đáng là thanh niên của thế hệ

Hồ Chí Minh. Con hết sức chú ý tu dưỡng vươn lên Đảng.

Hoàn cảnh chiến đấu trong đó là điều kiện khách quan thuận

lợi để con phấn đấu tốt. Đồng thời con hết sức chú ý giữ gìn sức

khoẻ. Mỗi lần nhớ con, bố lại đem ảnh con ra xem, nhớ lại hồi con

còn bé. Con là đứa con yêu quý nhất của bố trong các đứa con yêu

dấu của gia đình. Bố yêu con, thương con, nhớ con nhiều lắm. Bố

mong thư con, mong con khoẻ mạnh, mong được tin con phấn đấu,

hoàn thành tốt nhiệm vụ cách mạng. Bố, mẹ ở nhà ra sức công tác

với tinh thần "Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Tin thắng

trận dồn dập làm nức lòng mọi người. Mong con góp phần xứng

đáng cho thắng lợi đó.

Mong đến ngày thống nhất gặp con, đứa con yêu quý đã được

tôi luyện trong khói lửa.

Bố của con.

Ngày 25/12/1968

Đúng Noel, bọn tôi nghỉ ngơi để hôm sau kéo quân về. Chiều

đó, anh em kiếm được một con gà, ít nếp làm bữa liên hoan nhỏ. Tôi

nhớ lại cách đây đúng một năm, tôi đến thăm Phúc, đứa em trai kề

67

tôi. Những ngày ấy thật ấm cúng. Hai anh em chụp ảnh, phóng ảnh

và đi bắn chim rất say mê. Tôi cũng nhớ đến cô Chung - em ruột mẹ

tôi. Gian phòng của Cô nhỏ bé, lúc nào cũng tràn ngập ánh sáng và

rất ấm cúng. Trước lúc ra đi, tôi thường đến nhà Cô và được Cô hết

sức chiều chuộng. Những bữa ăn, Cô dọn cho tôi những món tôi ưa

thích nhất: bánh mì nóng hổi, ròn tan, bơ, pa tê, rau xà lách trộn

dấm... Cô đùm bọc tôi với tình thương yêu của người mẹ. Hôm tiễn

tôi đi lên trại 105 tập trung, Cô khóc, làm tôi vô cùng xúc động. Tôi

nhớ người mẹ hiền hậu, người cha nghiêm nghị, lũ em ngoan ngoãn

của tôi. Trong lá thư viết cho tôi, cha tôi đã viết lên những lời đầy

tình cảm, chan chứa yêu thương. Ông yêu quý tôi nhất nhà, song

không hay biểu lộ tình cảm đó và đối với tôi rất nghiêm khắc. Giờ

đây khi xa tôi, khi tôi đã mạnh bạo bước vào đời, Ông mới nói rõ

tình cảm đó. Ông ước mong gặp tôi một lần nữa trước khi tôi đi B,

song lúc đó gia đình tôi sơ tán tận Hà Bắc, tôi tập trung tại Hòa

Bình, không thể về thăm, nên Ông không được gặp tôi. Ông kể lại:

Khi tôi ra đi, đêm đến gia đình không ai ngủ được. Mẹ tôi nói: "Thôi

từ nay đứa con duy nhất biết chăm lo việc gia đình đã đi xa". Ngọc,

đứa en gái thứ 5 nói: "Từ nhỏ anh Long đã dũng cảm rồi...". Diệp,

đứa em gái thứ sáu nói: "Anh Long học giỏi và rất giỏi văn, Diệp

cũng muốn học theo anh". Bé Lan, đứa em gái thứ 7 nói: "Lan rất

thích hát cho anh nghe và thích anh dạy hát cho". Còn bé út Thuỷ

thì bảo: "Anh Long đúng là anh của Thuỷ, anh chụp cho Thuỷ

nhiều ảnh rất đẹp". Tôi hình dung rõ mồn một từng đứa em của tôi,

đứa nào cũng rất đáng yêu. Phúc có tài câu cá, bắt ếch... và chỉ

thích rèn rũa những con dao, cái nhẫn... Cậu ta đã trở thành công

nhân nguội. Phúc lầm lỳ ít nói song đối với anh rất tận tình. Cậu ta

biểu hiện bằng tình cảm chứ không biểu hiện bằng lời nói. Việt

đang học lớp 10, học văn khá và rất thích đi làm công tác như tôi.

Ngọc cũng lầm lỳ, hiền như cục đất và rất chăm việc gia đình, học

giỏi và ngoan ngoãn. Ngọc làm bánh bao rất khéo, hôm tôi về nhà

được ăn bữa bánh bao do chính tay Ngọc làm, rất ngon. Diệp mảnh

khảnh, nhí nhảnh, hay múa hát. Diệp bộc lộ những cá tính rất độc

đáo và tỏ ra có năng khiếu về văn. Tôi thường mong muốn được

kèm cặp Diệp, hướng nó đi vào sâu con đường văn học. Lan béo

tròn, mắt đen láy, tính tình lỳ sì, nhưng rất hay hát và hát rất hay,

rất đúng nhạc. Lan thường ngồi hát cho tôi nghe suốt buổi theo

"Yêu cầu của thính giả". Lan có đức tính rất đáng yêu là biết chăm

68

sóc bé Thuỷ một cách tận tình. Lan thường dẫn Thuỷ đi học và có

khi Thuỷ dỗi không đi thì Lan dỗ dành rất ngon ngọt và kiên trì.

Còn cô út Thuỷ thì rất nũng nịu, hay hờn dỗi và đã biểu hiện tính

cẩn thận. Tôi nhớ có lần tôi mở cửa tủ và quên không đóng lại,

Thuỷ im lặng đến và nhẹ nhàng đóng lại rất cẩn thận. Lũ em mỗi

khi thấy tôi về là chạy ùa ra đón, níu lấy tôi và Thuỷ bao giờ cũng

dang tay ra đòi anh bế. Có những ngày chủ nhật, anh em quây

quần bên nhau đàn hát rất vui vẻ. Tôi nhớ cha mẹ tôi rất hoà thuận

và chăm sóc tôi rất chu đáo. Hồi công tác ở Hải Dương, chủ nhật tôi

thường hay về nhà. Lần nào mẹ tôi cũng mua gà, vịt, gạo nếp... để

bồi dưỡng cho tôi. Có thời gian tôi bận quá không về nhà được, bố

mẹ tôi trông mong hoài. Con ngan mẹ tôi mua để chủ nhật liên

hoan cứ được để dành suốt mấy tuần lễ. Khi tôi về, con ngan đã

nặng thêm 4 -5 lạng, lúc ấy mẹ tôi mới thịt nó. Gia đình tôi sinh

hoạt ấm cúng, hoà thuận và được bà con rất quý mến. Tôi nhớ bà

ngoại, bà trẻ tôi đã từng tần tảo nuôi anh em chúng tôi từ nhỏ để

cha tôi yên tâm đi kháng chiến. Hai bà luôn luôn sống vất vả, nghèo

nàn, lận đận, song chăm sóc con cháu rất chu đáo với tình cảm đằm

thắm. Tôi quặn thắt lòng nghĩ đến Cụ ngoại đã quá cố. Người lúc

nào cũng vất vả. Có lần giã giò để bán nuôi chúng tôi, Cụ bị giã

phải tay. Bàn tay Người dập nát, đẫm máu, song Người không hề

kêu rên. Tôi nhớ rất rõ hình ảnh cụ tôi người bé nhỏ, đội thúng

bánh dày, giò chả ngược xuôi trên con đường Dốc Đỏ, Miếu cô, chợ

Tam Cờ ở Tuyên Quang để bán lấy tiền nuôi bọn tôi. Tôi thường lon

ton chạy theo Người trong những buổi chạy chợ đó. Tôi nhớ cô

Tuyết tôi tính tình hiền lành, hay làm và không may bị giặc Mỹ sát

hại. Gia đình bên ngoại tôi rất nghèo, song sống đùm bọc nhau và

rất giàu lòng thương người. Anh em bộ đội đi ngang đường ghé nghỉ

nhờ hoặc ở chiến khu với cha tôi về đều được săn sóc rất chu đáo.

Điều đặc biệt trong họ hàng nhà tôi bên ngoại là rất nghèo nhưng

rất gắn bó với bố mẹ tôi, với chúng tôi. Còn bên nội (trừ bà và ông

nội tôi quá cố từ lâu) thì giàu có hơn song hơi xa chúng tôi. Gia đình

bên ngoại tôi đều sống ở vùng tự do, tham gia kháng chiến, còn họ

hàng bên nội phần lớn sống ở vùng địch kiểm soát, buôn bán để

sinh sống.

69

Sáng 26/12/1968

Chúng tôi ra về, trên lưng mỗi người nặng một bao gạo. Tối

hôm sau bọn tôi ghé vào một đơn vị bộ đội nghỉ nhờ. ở đây cũng

thiếu gạo, anh em ăn toàn sắn. Có một anh bộ đội trẻ bị phù phổi,

thở phì phò và sẩm tối đó thì tắt thở. Chúng tôi nằm gần nơi để xác

anh, thấy lạnh ngắt. Người đồng chí ơi, anh quê ở đâu? Hẳn cũng có

một gia đình ấm cúng ở hậu phương đang ngóng chờ anh! Đau lòng

quá! Song làm sao khác được, cuộc kháng chiến này ác liệt quá,

gian khổ quá, đòi hỏi chúng ta phải hy sinh mọi quyền lợi cá nhân,

kể cả sự sống của bản thân mình.

Chuyến đi đầy vất vả. Lúc này địch đổ biệt kích lung tung và

cho máy bay bám riết hành lang của ta. Do vậy phải đi rất khẩn

trương. Chạy, chạy và chạy: Chạy qua bãi trống. Chạy vượt đường

xe. Chạy vượt những khu rừng tan hoang vì bom B52, trơ trụi vì

hóa chất độc. Lội qua sông cũng phải chạy. Khi chạy qua một khu

rừng trống trải vì bọn Mỹ mới rải hóa chất độc, cây cối không còn

một nhành lá, tôi vấp ngã tới hai lần. Bao gạo nặng trịch đè dúi

lưng, dúi cổ xuống, song phải bật dậy ngay. Một chiếc Mô ranh hai

thân rà sát ngọn cây. Nó bay thấp quá, thấy ở buồng lái nhô ra hai

đầu giặc lái. Tôi phải núp vào một bụi lách nhỏ. Sao thấy trống quá,

thân mình, bao gạo như phơi ra trước mắt bọn chúng vậy. Nó quần

đảo mãi với cái đầu mum múp, với cái đuôi gọng bừa, với thân hình

đen trũi xấu xí, trông thật đáng ghét. Nó mù, chẳng thấy gì hết.

Anh em đi đường cho biết bọn biệt kích mới nổ mìn clâymo

(mìn định hướng, chúng tôi gọi tắt là mìn mo) ở đội 6 - nơi chúng tôi

sẽ đi qua. Nhưng không thể dừng lại được. Thời giờ là vàng ngọc.

Chúng tôi lặng lẽ tìm vào nơi đó. ở một gốc cây kề bên đường, đất bị

toác ra vì mìn nổ. Bên triền núi đầy vỏ đồ hộp do bọn biệt kích vứt

lại. Rồi cũng qua nơi đó một cách an toàn.

Con đường chúng tôi đi, nay trở về đã khác hẳn. Bom B57 rải

dọc theo đường, lấp cả lối đi. Chúng tôi ngửi thấy mùi thối nồng nặc

xông ra từ trong bìa rừng. Chắc có anh nào bị thương bò vào đó và

chết tại đó.

Cơ quan lại dời về A9. Chúng tôi mang gạo về đó.

70

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội, ngày 25/12/1968

Con thân yêu của bố mẹ!

Con ơi con! Hàng ngày bố mẹ hướng về miền Nam trông chờ tin

tức, chờ tin con, chờ tin thắng trận. Thư con gửi tháng 8/1968 đã

đến tay bố mẹ, đến tay cô Chung và các bà. Đọc thư con, lòng của

mẹ hồi hộp. Các em con đều im lặng ngồi nghe. Mẹ dơm dớm nước

mắt, phần thì thương con gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm, phần

thấy mình lại được vinh dự có con tham gia tiền tuyến, bõ công nuôi

dưỡng con từ nhỏ tới lớn. Bây giờ bố kể chuyện gia đình con nghe.

Gia đình ta vẫn bình yên, bố mẹ đều cố gắng làm việc, như hồi

con còn ở ngoài này về thăm gia đình. Các em con ngày một lớn,

ngày một ngoan thêm. Việt đang phấn đấu để cuối năm đỗ lớp 10 và

vào đại học. Ngọc cũng đang phấn đấu học hết lớp 7 để vào được lớp

8 cấp III. Việt phấn đấu tương đối tốt, đặc biệt từ khi cậu ta được

vào Đoàn. Ngọc cố gắng cả 2 mặt: học tập và đạo đức, Ngọc là học

sinh xuất sắc và là cháu ngoan Bác Hồ, được đi họp ở Huyện 2 lần.

Diệp vẫn nhí nhảnh như trước, học khá, rất mê đi xe đạp. Mẹ mới

mua chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô cho Việt đi học. Ngọc, Diệp, Lan

tập đi cả ngày. Còn chiếc xe đạp Thống nhất của con, mẹ đã nhận

được rồi và em Phúc đang dùng.

Bố kể tiếp chuyện các em con:

Lan học giỏi, tương đối toàn diện, thường được xếp thứ 3, thứ 4

trong lớp. Thuỷ đang học lớp 1, em học cũng khá và có triển vọng.

Mẹ con vẫn làm việc như cũ, và vẫn bận cả ngày, giặt giũ cho

các em bé, nấu cơm, nuôi gà v.v... Bố vẫn vậy, vẫn gắng đem hết sức

mình ra để cống hiến cho cách mạng. Có điều con ạ, bố cảm thấy

cũng yếu hơn trước vì tuổi đã 53 rồi, tuy vậy, bố vẫn cố gắng vượt

mọi khó khăn mệt nhọc để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Con

71

đã phấn đấu rất nhiều. Bố đọc thơ con cũng hình dung được con bố

đã vượt được bao khó khăn nguy hiểm, con bố đã bước đầu thể hiện

được Chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Bố cảm thấy như con đang

mở đầu một bản anh hùng ca. Con ạ! Cố gắng lên nữa, bố mong con

đem hết nghị lực, ý chí, và quyết tâm để hoàn thành xuất sắc

nhiệm vụ cách mạng đã giao phó cho con. Viết thư cho con, bố nhớ

con lắm, hình dung lại cả lúc con còn thơ ấu quấn quýt với bố, hình

dung lại hiện nay con đã trưởng thành và đang gắng sức cống hiến

thật nhiều cho cách mạng.

Con ơi! nhớ con lắm lắm, mong con hoàn thành xuất sắc nhiệm

vụ, ngày càng được gần Đảng và mong ngày thống nhất được gặp

con..

Bố. Phạm Đức Hoá.

Hà Nội ngày 25/12/1968

Anh Long mến thương !

Nhận được thư của anh đã gần một tuần rồi, hôm nay nhân

tiện có người vào chỗ anh công tác em tranh thủ viết thư tới anh

đây.

Đọc thư anh em mới hiểu hết được cuộc sống đầy gian khổ và

mạo hiểm của anh, thiếu thốn tất cả từ vật chất đến tình cảm, song

em tin rằng với anh, một người giàu nghị lực, mạo hiểm và tràn đầy

sức sống, anh sẽ vượt qua được tất cả những khó khăn trên và tạo

cho nó trở thành một cuộc sống bình thường như những thói quen

thường ngày của mình vậy.

Viết thư cho anh đúng vào ngày Nô en, ngày mà cách đây mới

có một năm anh đến thăm em và chụp ảnh cho em ở trường mới.

Một năm trôi đi rồi thế nhưng những hình ảnh ấy nó vẫn luôn luôn

gợi lại trong trí nhớ của em tưởng như bình thường mà lại chứa

đựng đầy tình thương.

72

Anh yêu quí. Cuộc sống hiện tại của em vẫn trôi đi một cách

bình thường, những ngày chủ nhật được nghỉ em thường xuống cô

Chung chơi.

Hôm vừa rồi em có tranh thủ về qua nhà chơi, các em đều khoẻ

và học giỏi cả, đặc biệt có cô Ngọc học giỏi nên được phiếu mua chiếc

xe Liên Xô nhỏ. Bố mẹ đã mua cho các em rồi, các em cũng nhắc tới

anh luôn.

Em hiện giờ vẫn công tác tại trường. Không phải đi sơ tán nữa.

Em cũng đang tranh thủ bắt đầu học thêm bổ túc văn hoá. Trong

năm tới em có thể sẽ được tăng lên bậc hai. Hiện tại em đang chuẩn

bị để thử nghề. Anh Đức hiện nay cũng đang đi thực tập. Cũng lâu

rồi em không nhận được thư của anh ấy nên cũng không rõ tình

hình.

Anh mến thương! vào công tác trong trong ấy chắc anh bận

nhiều lắm phải không. Lúc nào rỗi anh có hay đàn hát cho nó vui

không. Cuộc sống mới đến với anh chắc sẽ có nhiều nguy hiểm hơn.

Song cũng như bố mỗi lần nhắc đến anh hay kể chuyện về anh cho

các bác, các chú nghe, Bố rất vui sướng và tự hào có một người con

như anh, biết hy sinh lợi ích riêng của mình vì lợi ích chung của Tổ

quốc. Em tin rằng anh sẽ làm được tất cả những gì mà anh muốn

đấy.

Thôi em tạm dừng bút ở đây nhé! Ước gì có một ngày nào cả gia

đình mình sẽ sum họp và cùng chụp chung một tấm ảnh nhỉ.

Chúc anh đạt được nhiều thành tích trong công tác và chiến

đấu.

Ôm hôn anh nhiều lần

Em của anh - Phúc.

73

Năm 1969

Ngày 1/1/1969

Năm mới đến với những ngày đầy gian khổ, ác liệt. Bọn địch đã

đổ quân ngay A7, lập đồn ở đó và tung biệt kích đi lùng sục khắp

nơi. Gạo đã có kha khá, song chúng tôi vẫn ăn dè sẻn, kiếm thêm

rau, củ làm chất độn. Chúng tôi đi chặt hũ đót về nấu ăn. Cây đót

giống cây dừa, ở ngọn có một khúc có lõi mềm, ngọt như củ đậu.

Phải dùng rựa vạc từng bẹ đót, bóc dần cho tới khi gặp hũ nó. Chặt

một cây phải mất khoảng nửa tiếng, rất mất công. Nhưng nó là

thức ăn ngon, bổ nên chúng tôi không quản ngại, thay nhau đi chặt.

Hàng ngày, Lợi hoặc Nga đi xa tới nửa ngày đường để mót sắn,

dong riềng hoặc hái rau về cho tập thể. Đường đi phải qua sông

Thanh nước chảy cuồn cuộn. Một cái cầu nhỏ bắc chênh vênh trên

hai mỏm đá, có căng một dây mây làm tay vịn. Sáng sáng, Lợi hoặc

Nga ra đi, chiều chiều, chúng tôi trông ngóng họ về an toàn. Có hôm

gần tối rồi mà Nga chưa về, khiến anh em lo sốt vó. Mãi nhá nhem

Nga mới về, cõng nặng một gùi sắn, rau mà vẫn cười hồn nhiên.

Nhìn thân hình nhỏ bé bị cái gùi to tướng đè nặng, anh em ai cũng

thấy lòng se lại. Phụ nữ miền Nam cực khổ quá, nhiều khi phải cố

gắng quá sức mình nên thân hình thường khô khan, cằn cỗi. Song

sức sống trong lòng họ thì thật là mãnh liệt.

Trong phong trào cải thiện đời sống, anh em bắt tay vào câu cá

Chình. Loài cá này không có vẩy, đầu múp, mắt híp, chuyên sống ở

hang đá dưới nước. Người có kinh nghiệm quan sát kỹ mặt cát trước

cửa hang có thể đoán biết trong đó có cá chình hay không, cá to hay

nhỏ. Mồi câu nó là con cá niên còn sống. Cá niên giống loại cá diếc,

thịt rất béo. Móc lưỡi câu vào sống lưng con cá niên, thả xuống nước

để nó kéo lưỡi câu vào gần cửa hang. Cá chình rất háu ăn và dữ

dằn, thấy mồi liền lao ra đớp. Thoa mở đầu và thu được kết quả khả

quan: bắt được một con cá chình lớn. Nó dài thượt, phải kéo lê trên

đất mang về. Nó nặng khoảng 6 -7 kg, chặt ra được hai thau lớn. Nó

ngon một cách đặc biệt: thịt rất nạc, bùi, thơm và da dày, béo như

mỡ heo. Theo kinh nghệm, cá chình để hơi ươn, thịt càng thơm

ngon. Anh em reo mừng đón Thoa về như đón một người chiến

74

thắng. Rồi ai nấy lụi cụi lấy dây thép uốn lưỡi câu chình - thứ lưỡi

câu to tướng và có ngạnh dài, sắc. Thỉnh thoảng lại được một con

chình, lại được một bữa tươi.

Tôi trở lại A7 để lấy ba lô, tài liệu. Khi vừa qua bến đò Giằng

thì gặp Thành, Thoa hốt hoảng tới bến. áo quần hai anh ướt sũng.

Thành không có mũ đội, tóc ướt bết. Thoa không dép, chân tập

tễnh. Thành nói gấp gáp: "Quay lại, biệt kích phục ở đội 5 và đã bắn

chết Bửu". Chúng tôi đành quay về bến cũ. Anh em bàn nhau phải

đi chôn Bửu. Sáng dậy sớm gọi đò, song anh em bảo vệ không cho

qua, để còn xem tình hình. Sớm hôm sau, bọn tôi kiên quyết đi. Bửu

đã nằm ngoài trời hai ngày rồi. Không thể để xác đồng chí mình

phơi mãi như thế được. Bốn anh em tiến thận trọng theo đường 14.

Sắp đến đội 5, Hồng, Y và Tiện bứt dây mây - để buộc vào xác Bửu

mà kéo, phòng địch gài lựu đạn dưới lưng. Tôi và Thành ghé xuống

cơ sở sản xuất bỏ hoang kiếm cái cuốc và một cái thùng sắt để đào

huyệt. Chuẩn bị xong, chúng tôi đi tới nơi Bửu hy sinh. ở đó có một

ngôi mộ mới - không biết anh em nào đã chôn Bửu rồi. Chúng tôi

quay về cơ quan.

Nghỉ được ít ngày, tôi, Thành và Bông mang súng trở lại A7.

Kiên quyết bám địch bằng được mà lấy đồ đạc, tài liệu. Đường vắng

ngắt. Rừng im lặng một cách huyền bí. Chúng tôi đi lặng lẽ, lăm

lăm súng trong tay. Qua nơi Bửu hy sinh rồi. Bước chân đưa dần

chúng tôi về A7. Tôi và Thành lần mò xuống hang đá ở chân núi,

lấy đồ đạc lên. Ba lô mốc thếch, ẩm ướt. Khi trở về, tôi bị sốt, không

ăn nổi cơm, vẫn gắng đi. Bọn Mỹ đang ở trên đỉnh dốc A7, còn

chúng tôi thì đi viền theo sườn núi ấy.

Về ít ngày hết sốt, khoẻ dần lại, tôi lại cùng Lợi, Sơn xuống A7

mang nốt gạo, tài liệu về. Lần này có bảo vệ dẫn đường. Chúng tôi

tập hợp nhau lại thành một đội quân, có súng ống, có phương án tác

chiến. Sớm hôm sau, chúng tôi tiến về phía A7. Đường còn in dấu

giày của bọn biệt kích. Vỏ đồ hộp quăng bừa bãi. Con đường bị pháo

bắn, nhiều đoạn nát bét. Khẩn trương thu dọn đồ đạc xong, chúng

tôi vội vã xuyên rừng trở lại bến Giằng. Qua khu nhà của bộ đội

thông tin bỏ không, chúng tôi lấy được nhiều dầu phụng, mắm cái

do anh em bỏ lại. Tối, đến gần đội 5 thì dừng lại ngủ. Chúng tôi

75

kiếm được sắn để luộc, có mắm, dầu ngon lành và cơm dẻo song

không tài nào ăn nổi. Mệt quá! Trăng lên, sáng lạnh lẽo. Lạ thật,

hôm nay lại im tiếng pháo. Sáng ra đi, mệt vô cùng. Không ăn nổi

cơm trưa, tôi chặt hai cây chuối rừng ăn tạm, thấy mát, ngọt, dễ

nuốt hơn.

Anh em kiếm được trái mìn, đem ra sông Thanh đánh cá. Sông

này nhiều cá và cá rất lớn. Khi mìn nổ, tung cột nước trắng xoá, thì

cá cũng nổi trắng mặt sông. Chúng tôi hùng hục ngụp lặn bắt cá.

Có con nặng 5-6 kg. Hôm ấy được khoảng 30 kg.

Rồi tôi bị sốt nặng. Trận sốt kinh khủng nhất kể từ khi tôi vào

đây. Không ăn uống được gì cả. Chị nuôi nấu cháo cá chình, ăn cũng

không nổi. Nôn mửa suốt, toàn một thứ nước sền sệt, vàng khẹt.

Đêm ngủ mê sảng, những giấc mơ kinh khủng. Thấy bi quan về sức

khoẻ quá. Cơ quan lại sắp di chuyển. Tết cũng sắp đến rồi. Mùa

xuân ơi, hãy mang lại cho ta sức sống mới đi!

Cơ quan liên hoan trước tết để di chuyển. Có thịt gà, xôi đậu

xanh, mỳ, canh bí đỏ... nhưng tôi ăn không vào - nuốt mấy miếng

đã nôn oẹ ra.

Ngày 2/2/1969 - 27 tết Kỷ Dậu

Cơ quan di chuyển đã gần hết, chuyến đi này là chuyến cuối

cùng. Không làm sao khác được, tôi phải hành quân. May được chia

ít sữa, uống được một ít cho đỡ kiệt sức. Sáng, tôi dậy lấy một cốc

cháo, hoà đường, sữa vào và hạ quyết tâm: phải ăn hết cốc cháo

này. Nhắm mắt lại mà húp cháo, mà nuốt vội vàng cho nó khỏi

chạy thốc trở lại. Và cốc cháo đã hết. Này, đừng mửa nghe, gắng

đừng mửa. Giữ lấy số cháo ấy trong bụng như giữ sức khoẻ mình

vậy. Khoác ba lô lên vai, lảo đảo bước đi. Đường xá, cây cối nhoà

nhoà và quay cuồng, nghiêng ngả trước mắt tôi. Khát nước vô kể. Bi

đông cạn nước. Tôi bụm tay vục nước suối uống. Nước chảy tới đâu

thấy mát tới đó. Chao, mát, ngọt đến tận gan ruột. Mai sẽ tiếp tục

chiến đấu!

Hành quân trong cơn sốt ly bì

Mệt quá hẳng buồn ăn uống chi.

76

Nhưng núi cứ ép hoài "ăn" dốc

"No" quá cho nên thở phì phì.

Ngủ một giấc, dậy thấy đỡ choáng. Hoạ sĩ Hồng Chinh Hiền

cùng nghỉ lại với tôi (anh bị sai khớp chân), săn sóc tôi thật chu đáo.

Anh đem sữa của anh ra ép tôi uống. Rồi anh rang gạo, nấu một

ăng gô nước đặc như cà phê, pha đường, sữa cho tôi. Tôi không

muốn uống - sữa của anh đã hết rồi. Nhưng anh không chịu, bắt

buộc tôi phải uống. Nằm trên võng, Hồng Chinh Hiền nói cho tôi

nghe về các loại tranh, làm tranh sơn mài kỳ công thế nào... và đọc

bài thơ anh mới sáng tác cho tôi nghe. Anh chuyên nghiên cứu về

Tây Nguyên, có nhiều bức tranh mầu, ký hoạ rất sinh động, có một

số bài thơ hay. Tôi thấy khuây khoả dần. Chiều, đã tỉnh táo hơn, tôi

ăn được ít cơm với cá - cá do anh em nhà in cho.

Ngày 13/2/1969 - 28 tết

Mùa xuân ở đây không có mưa phùn. Trời trong xanh. Nắng

trải vàng tươi khắp núi đồi. Từng đàn chim bay chuyền, nhảy nhót

hót líu lo nghe vui nhộn.

Cơn sốt lui dần, người khoẻ lại.

Chim rừng hót rộn thật dễ thương.

Nắng rực núi đồi, mùa xuân trải.

Vai khoác ba lô lại lên đường

Chúng tôi đi ngược miết theo bờ sông Thanh. Sông này có

nhiều đá, nhiều thác, nước chảy ào ào, réo sùng sục. Lại nhớ con

sông Hồng những mùa nước. Đứng trên cầu Long Biên nhìn xuống

thấy sông rộng bát ngát, nước đỏ ngầu, cuồn cuộn chảy với sức sống

mãnh liệt. Mùa nước đến cũng là mùa hoa phượng vĩ nở đỏ rực trời,

là mùa thi. Mấy đứa học sinh chúng tôi thường kéo ra bờ sông

Hồng, ngồi trên các tảng đá mà học bài. Trời nước mênh mông,

khoáng đãng khiến cho tâm trí thêm minh mẫn, học rất chóng

thuộc bài. Song cũng đôi lúc để lòng mơ mộng theo dòng sông. Sóng

nước dập dờn. Mỗi khi có một chiếc ca nô lướt qua, dòng nước lại rẽ

đôi ra, chạy ào ào vào bờ với những con sóng vồ vập. Sóng trào lên

các phiến đá, tung bọt trắng xoá. Chúng tôi để mặc nước bắn vào

77

người mát lạnh. Có những buổi tôi cùng bọn thằng Giang, Hiến -

mấy đứa bạn thân - chạy ào trên những bãi cát tràn nước, đạp nước

bắn tung toé, té nước nhau ướt đầm đìa mà cười vang. Tuổi thơ ấu

của tôi đã trôi qua bằng những ngày học tập rất mải miết; bằng

những phút vinh dự lĩnh phần thưởng của nhà trường, bằng những

ngày nô đùa hồn nhiên với bè bạn và bằng cả những ngày hè lao

động cật lực trên các công trường nắng lửa. Giờ đây, tôi đã xa

những ngày ấy, xa những nơi ấy, xa những người bạn thân ấy để

vào chiến trường này góp thêm sức chiến đấu. Tôi đã đi qua bao

dòng sông. Và nhiều dòng sông đã để lại cho tôi những ấn tượng

khó phai mờ.

Rảo bước bên dòng sông Thanh ấy

Nghe nước đuổi nhau réo ào ào.

Ra biển gặp sông Hồng không đấy?

Có gặp, cho ta gửi lời chào.

Quặn thắt lòng, nhớ Hà Nội sao!

Lội băng qua sông Thanh, rồi chúng tôi đóng tăng nghỉ lại bên

một dòng suối lớn. Đã khoẻ hơn.

Ngày 15/2/1969 - 29 tết

Tiếp tục hành quân về nơi ở mới. Núi đồi trập trùng. Sao không

có chút mưa phùn cho mát lòng ta, cho khuây nỗi nhớ thương nhỉ.

Xuyên rừng, chợt đụng phải một cành lá. Tôi dừng lại và bỗng lặng

người, sững sờ. Mùa Xuân, mùa Xuân đây chứ đâu. Cành lá ấy

đang nẩy ra những nhành lộc non tươi mơn mởn. Mùa Xuân gieo

mầm sống và thúc đẩy sự sống hãy vươn lên mãi!...

Lội suối, trèo núi, băng rừng

Là những công việc ta mừng đón Xuân.

Đường đi bao nỗi gian truân

Mà lòng nghe vẫn lâng lâng lạ thường.

Gửi về miền Bắc quê hương

Nỗi nhớ da diết, niềm thương vô vàn.

Mong ngày thống nhất Bắc Nam

Gia đình sum họp Xuân càng vui hơn.

78

Gặp mấy anh em cùng Ban mang gùi đi ngược lại - anh em ra

suối lớn để bắt ốc, lấy chuối rừng về nấu ăn tết!

Đến nơi, vội vàng đóng một cái nhà tăng nhỏ để ở.

Đêm nay là đêm giao thừa ở miền Bắc. Tôi và Minh ao ước được

chất một đống lửa rõ to để ngồi bên mà nghe đài Hà Nội. Song

không thể được, căn nhà quá trống trải, đơn sơ, không thể đốt lửa

lên được, bọn giặc trời có thể phát hiện ra ánh sáng... Một ước mơ

nho nhỏ và giản dị vậy thôi cũng bị hoàn cảnh khắc nghiệt không

cho biến thành hiện thực. Chúng tôi đành treo võng nằm đón giao

thừa. Anh Minh là người phụ trách tổ Thông tấn chúng tôi. Anh đã

có vợ và một con trai, vào Nam từ năm 1960. Anh và vợ anh - chị Tú

- có một chuyện tình thật cảm động: Khi anh đi B, chị công tác ở

Thông tấn xã, nhưng kiêm cả phát thanh viên cho buổi đọc chậm

của Đài Tiếng nói Việt Nam, để anh luôn được nghe giọng nói của

chị khi chép tin cho cơ quan. Rồi chị gửi con thơ cho gia đình và vào

Nam, cùng anh chiến đấu trên mặt trận tư tưởng ở cùng một chiến

trường. Lúc này, chị đang ở cơ sở sản xuất, cách chỗ chúng tôi mấy

buổi đường, nên hai vợ chồng không được cùng đón xuân...

Đêm đen mịt mùng. Không đèn lửa. Không mứt, chè...

Đài Tiếng nói Việt Nam truyền đi buổi phát thanh ca nhạc Hội

diễn làn sóng. Anh chị em công nhân hát hay quá. Nhất là Bích

Việt - công nhân mỏ Quảng Ninh - có giọng hát mượt mà, tha thiết,

và Ngọc Bé, công nhân Hà Nội, có giọng hát mạnh mẽ, truyền cảm.

Mọi năm trước đây, những buổi tối giao thừa, gia đình tôi thường

quây quần bên đài nghe hát, ăn mứt và chúng tôi thường tíu tít

giúp mẹ đun nồi bánh chưng cho sôi lên ùng ục.

Đài truyền đi bài ký của Lưu Quý Kỳ. Bài có đoạn nói đến

những người chiến sĩ hy sinh cả tết xuân, đón xuân trên đường

hành quân, giữa rừng âm u... đúng hoàn cảnh chúng tôi quá. Miền

Bắc yêu thương vẫn nhớ đến chúng tôi, vẫn ở bên chúng tôi, tâm sự

với chúng tôi.

79

Đến giờ giao thừa rồi. Rừng già bỗng xao xuyến. Vào những

năm trước đây, trong những giờ phút này, gia đình tôi đều thức dậy

hân hoan đón năm mới và chờ nghe lời chúc tết của Bác Hồ, sau đó

bố mẹ tôi chúc chúng tôi và mừng tuổi chúng tôi bằng những gói

mứt, kẹo.

Lời Bác Hồ đã vang lên rồi. Giọng Bác vẫn ấm áp, hiền hậu,

song nghe không được khoẻ như các năm trước. Chúng tôi cầu mong

Bác Hồ khoẻ mạnh, sống lâu, mong ngày thống nhất Người vào

thăm miền Nam chúng tôi!

Tôi nhớ lại đêm giao thừa năm 1964, lúc ấy tôi học lớp 10. Đêm

ấy, tôi cùng mấy đứa bạn thân cùng lớp đón giao thừa ở Bờ Hồ,

người đông nườm nượp, áo quần sặc sỡ, đèn điện đủ màu rực rỡ, hoa

nở khắp đường phố, khắp công viên, pháo bông, pháo hoa sáng rực

trên bầu trời đen sẫm... Cảnh nhộn nhip ấy trái hẳn với cảnh tĩnh

mịch này. ở đây chỉ có rừng cây bạt ngàn và con suối nhỏ chảy róc

rách. Đêm giao thừa ấy, tôi làm một bài thơ nhỏ, nay tôi nằm nhẩm

lại, song rất tiếc là đoạn cuối quên mất.

Đêm giao thừa

Đêm giao thừa

Bờ Hồ rộn rập.

Như sao sa

Đường ngập ánh đèn

Đua chen vàng xanh đỏ...

Rực rỡ muôn màu

Cầu Thê Húc đèn kết sáng long lanh như ngọc.

Đêm giao thừa

Không mưa cũng mát

Gió hát

Hoa cười

Đèn rạng soi

Hoa ngời thêm sắc.

Mặc kẻ lại

Người qua

Hoa Rực tươi

80

Vẫn cười tinh nghịch

Vui thích

Ngắm ánh đèn

Cười duyên cùng công sự...

Đêm giao thừa

Gió đưa nhè nhẹ.

Khẽ Tung bay

Tà áo thướt tha

Như hoa

Tươi

Những nụ cười duyên dáng.

Sáng

Như đèn

Những cặp mắt nhung đen.

Ửng lên

Hồng đôi má

Những bước đi

Hối hả

Rộn rã

Phố phường

Vương vương

Làn tóc

Đèn Hồ Gươm như ngọc long lanh.

Đêm giao thừa

Pháo nổ

Ròn tan

Xác pháo tràn mặt đất

Vương vất

Trên hoa

Bay qua

Hè phố

Nở nụ cười

Hồng tươi

Phủ ngời

Nắp

Những hầm hào mới đắp...

Đêm giao thừa

Đêm đưa tin chiến thắng.

81

Đài phát thanh hãy nói to hơn

Tiếng nói căm hờn và phấn khởi:

Quân dân miền Bắc vừa giành thêm thắng lợi.

Đã nhận chìm một tàu Mỹ hung hăng

Mò ra Bắc đêm 30 hòng cắn trộm!

Tiếng chuông giao thừa

Thánh thót

Ngân nga

Vang xa

Vọng lại

Êm ái

Ngân mãi trong lòng

Mênh mông

Mười

Hai

Tiếng

Trái trên cành

Lá xanh

Thôi đùa gió Hồ Gươm nín thở

Giây phút trang nghiêm

Lòng đất vang lên

Tiếng Quốc ca hùng tráng

Đài phát thanh giành vinh dự truyền đi tiếng nói Bác Hồ...

Chỉ mấy phút thôi

Mà những tiếng

Những lời Đẹp nhất

Đã tràn ngập lòng ta!

Tiếng quốc ca

Lời Cha

Tin chiến thắng

mang lại đất nước này sức vươn lên mãnh liệt của mùa Xuân.

Ngày 15/2/1969 - 1 tết Kỷ Dậu

Sáng, chúng tôi dậy sớm đón năm mới. Ai nấy chỉnh tề trong bộ

quân phục, tập họp ở sân nghe lời chúc tết của các đồng chí lãnh

đạo. Rồi chúc lẫn nhau, đọc thơ, ca hát... Sau đó ăn bữa cơm mừng

năm mới. Đây, bữa liên hoan của chúng tôi ấm tình rừng núi: cơm

82

gạo trắng do đồng bào miền Băc tiếp tế, nồi canh ốc ngọt lừ nấu với

bắp chuối rừng. Anh em húp ốc nghe chùm chụp, rất vui tai. Rồi

hoạ sĩ Hồng Chinh Hiền mang tranh ra trưng bày. "Phòng triển

lãm" ngoài trời với những bức tranh mầu hay ký họa sinh động làm

rực tươi thêm cảnh núi rừng.

Tết chúng tôi nghèo quá: không thịt, xôi, không mứt, kẹo và rất

đáng buồn là không có bánh chưng xanh. Chiếc bánh chưng lúc này

đối vói tôi rất đáng yêu, không chỉ vì hương vị thơm ngon của nó,

mà chính vì nó chứa đựng nhiều tình nghĩa. Tết đến, gia đình nào

chả có bánh chưng. Bánh chưng mang tính dân tộc nhuần nhuyễn,

chứa đựng cái ấm cúng của gia đình sum họp, gợi nhớ quê hương, tổ

tiên ông bà. Lúc này đây không phải tôi thèm bánh chưng, mà là

nhớ, nhớ da diết, nhớ như nhớ người thân yêu.

Tôi ngồi say sưa viết bài thơ mừng năm mới:

Niềm tâm sự cùng xuân

Xuân ơi!

Xuân hãy dừng chân

Ghé thăm nhà ta với

Thăm căn nhà đơn sơ ta vừa dựng vội

Để có chỗ nằm và có chỗ đón xuân.

Hãy thông cảm cho người trong cuộc hành quân

Yêu Xuân lắm, song không có gì mà tặng.

Nơi đây giữa rừng già trầm lặng

Xuân hãy đến đi

Đến với những tâm hồn

Cháy bỏng nhiệt tình

Tha thiết yêu thương.

Yêu tất cả, nên rời xa tất cả.

Rời xa mái rạ, xóm ngõ yên lành.

Rồi xa làng quê với luỹ tre xanh.

Rời xa gia đình

Nơi có người cha già nghiêm nghị

Nơi có những người anh, người chị, người mẹ dịu hiền

Nơi có đàn em nũng nịu yêu thương

83

Để lên đường

Cùng cả nước làm cuộc hành quân vĩ đại.

Đường hành quân, ta đi, đi mãi.

Không biết nghỉ ngừng trong cuộc tổng tiến công!

Xuân ơi!

Hãy dừng chân chút nhé

Ghé thăm căn nhà nho nhỏ đơn sơ.

Thăm những tâm hồn cháy bỏng ước mơ.

Thăm những con người dạn dày gian khổ.

Hãy ghé võng ta ngồi

Và cùng ta tâm sự.

Kể chuyện ta nghe

Xuân miền Bắc thế nào?

Ôi quê nhà, ta nhớ làm sao!

Ta xa quê hương gần trọn năm rồi đấy.

Ta nhớ rõ ra đi ngày ấy

Tạm biệt quê hương trong một buổi chiều hè.

Cũng ở núi rừng

Xao xác tiếng ve

Ta bắt đầu cuộc hành quân gian khổ.

Qua những mảnh đất quê hương dạn dày bom lửa:

Thanh Hoá

Nghệ An

Hà Tĩnh

Quảng Bình

Lúc đó quê nhà lúa đang độ lên xanh.

Lúa vẫy chào ta, dập dờn sóng dậy.

Tạm biệt đất mình với mùa hè nắng cháy.

Ta đặt chân sang đất nước Triệu Voi.

Đội một mùa mưa nước ngập đất trời.

Vượt những con sông ào ào thác lũ.

Vượt đỉnh Trường Sơn quanh năm mây phủ

Vượt những cầu treo chót vót ngọn cây

Mê mải hành quân

Đi suốt đêm ngày

Ta lại vượt đỉnh

Trường Sơn lần nữa

Để về miền Nam chiến trường rực lửa.

84

Đây Công Tum rừng núi điệp trùng

Đây Quảng Đà dậy sóng tiến công

Ta say đắm hoà mình trong đất nước.

Cùng đội ngũ điệp trùng, mạnh chân ta bước.

Với bút, mực này ta hăm hở xung phong

Viết những dòng tin tiếp sức tiến công

Và ta lại chịu thêm nhiều gian khổ....

Có những hôm trời mưa như thác đổ

Cõng gạo xuyên rừng, vượt núi, băng sông.

Có những khi đói quặn thắt lòng.

Có những buổi sốt rét run cầm cập.

Và nhiều nữa những khó khăn dồn dập

Đã thử sức này, ta đã vượt qua.

Giữa chốn chiến trường, ta hiểu thêm ta

Và lại thấy yêu mình thêm chút nữa.

Cũng chính trong những ngày gian khổ.

Ta biết quí thêm những thứ quí trên đời.

Giữa chốn núi rừng thiếu thốn rau tươi

Ta thêm quí từng lá rau rừng chân thật.

Giữa những cơn đói làm lòng ta quặn thắt,

Ta quý thêm vị đậm đà của hũ đót, củ nưa.

Giữa cái lạnh lùng của đêm tối, rừng mưa,

Ta thêm quí ngọn lửa hồng ấm áp.

Giữa những lúc máy bay thù quần rát,

Ta quý thêm từng bóng cây xanh

Những rừng cây nặng nghĩa, nặng tình

Đã ấp ôm ta, che mù mắt giặc.

Giữa kẻ thù lòng lang dạ sói

Ta thêm yêu tình đồng chí sắt son

Từng bọc đùm nhau trong những phút sống còn

Từng ấp ôm nhau chia bùi, sẻ ngọt.

Từng chiến đấu với gan vàng, dạ thép.

Cùng một quyết tâm: địch mất, ta còn...

Nắng đã dậy rồi

Rực rỡ núi non.

Vui rộn rừng cây

Từng đàn chim ríu rít

Bao tâm sự trong lòng, làm sao nói hết.

85

Xuân ơi Xuân, Xuân có hiểu lòng ta?

Cảm ơn Xuân đã đến thăm nhà,

Mời Xuân lại cùng ăn cơm, Xuân nhé.

Ăn bữa cơm đơn sơ, bình dị.

Với bắp chuối rừng và canh ốc trong veo.

Có nữa chi đâu, giữa chiến khu nghèo.

Xuân ăn nhé, rồi cùng ta bước tiếp

Theo đội ngũ trùng trùng, điệp điệp

Bão dậy, sóng trào nổi dậy, tấn công

Nào, sẵn sàng Xuân nhé Xung phong!

Hãy xốc tới Ta quyết giành toàn thắng!

(Xuân Kỷ Dậu 1969)

Cuộc sống trở lại nếp bình thường của nó. Chúng tôi lại chặt

cây, chặt lá dựng nhà. Nơi này khá nhiều cây cọ. Tôi trèo tuốt lên

ngọn cây, chặt được khá nhiều lá cọ về lợp nhà. Căn nhà của tổ

Thông tấn xã chúng tôi xinh xinh, nằm sát bờ suối, con suối nông

nhưng rộng, lòng bằng phẳng, toàn cát, nước trong vắt.

Khu vực này có khá nhiều thú rừng. Có hôm đi trực, tới một

đoạn suối, tôi gặp một con nai lớn với cặp sừng nghênh ngang đang

lần xuống bờ suối. Thấy tôi, nó giật mình kêu "tét" một tiếng và

chạy bổ lên rừng. Có hôm, anh Thống gùi về một gùi thịt voi, cả cơ

quan được ăn "thí xác" (có nghĩa là ăn thỏa thuê, không hạn chế).

Thịt voi toàn nạc, ăn không ngon lắm nhưng lành, có thể thay cơm.

Có hôm anh em bắn về được hai con dộc lớn, bắt theo một con dộc

con. Con dộc con quanh quẩn bên xác mẹ, không biết sợ là gì.

Nhưng khi con dộc mẹ bị cạo sạch lông, thui vàng, thì nó kêu lên

mấy tiếng "chóe... chóe..." rồi leo lên tít ngọn cây...

Từ tháng 3 năm 1969.

Hồng Chinh Hiền chuẩn bị ra Bắc. Anh ra đó dựng tranh, dự

triển lãm rồi sẽ vào. Tập thơ "Đá trắng" của anh cũng sẽ hành quân

theo anh để vào một nhà xuất bản ngoài Bắc. Thuyết cũng quay

180 độ! Anh ta cáo bệnh thấp khớp, chạy vạy xin được bệnh án để

ra Bắc. Thực ra là do tư tưởng dao động, sợ gian khổ, ngại ác liệt,

86

hy sinh. Được bổ nhiệm làm Phó Văn phòng, lẽ ra phải chăm lo đời

sống chung, nhưng anh ta chỉ lo cho cá nhân. Có những lần cáo ốm

để khỏi đi cõng gạo, anh báo cháo, nhưng xuống tận bếp nói với anh

nuôi: "Nấu cháo cho chú phải lấy đủ tiêu chuẩn gạo của bữa cơm,

ghế thêm ít sắn đảm bảo dinh dưỡng chống sốt rét nghen!" Anh ta

thu vén đủ thứ, đi làm cách mạng mà như đi buôn vậy. Hết đổi chác

cái này lại xin xỏ cái khác, lấy của anh em từ cái bọc võng tới đôi bít

tất, tấm dù hoa... và chạy vạy mua sắm đủ thứ: khi vào, anh ta chỉ

có một cái đồng hồ xoàng, nay có đồng hồ Mô Va Đô, nhẫn vàng, đài

bán dẫn... (con người thật tàn nhẫn, mấy viên sâm mà bán cho đồng

chí mình tới 2000 đồng, gấp 40 lần phụ cấp hàng tháng của tôi ).

Chỉ được cái bẻm mép, tán một tấc đến giời và thân hình úc núc,

được anh em đặt cho biệt danh Tư Băm. ở Thuyết tập trung cao độ

những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Anh em ai cũng chê trách

Thuyết.

Cuối tháng 3, tôi nghe tin Xuân Quý đã hy sinh ở Quảng Đà.

Hy sinh ngày 8-3, đúng ngày Quốc tế phụ nữ. Bọn Pắc Chung Hy

phục kích và đã bắn chết chị trong một đêm tối tại tỉnh Quảng Đà.

Tôi ngậm ngùi nhớ tới chị, nhớ tới khi còn ở trường 105 Hà Nội, chị

rất hồn nhiên mang máy ảnh đến hỏi chúng tôi về cách sử dụng.

Chị là một con người có quyết tâm cao, có nhiệt tình cách mạng lớn.

Khi hành quân từ Bắc vào, chị sức yếu, ba lô nặng nhưng dứt khoát

không nhờ ai mang hộ bớt, lúc mệt quá, đau vai, đau chân quá lại

lén ra khóc một mình. Chị miệt mài viết, đồng thời luôn xung

phong trong những công việc gùi cõng nặng nhọc. Khi phân công chị

đi Quảng Ngãi, chị xin đi Quảng Đà - đó là trọng điểm của chiến

trường, rất ác liệt, song cũng nảy sinh nhiều anh hùng. Chết như

Trọng Định, Xuân Quý là cái chết vinh quang. Còn sống như

Thuyết là cái sống nhục nhã.

Thời gian này, tôi có điều kiện làm chuyên môn nhiều hơn.

Cùng anh Minh giải quyết toàn bộ tin tức từ các nơi gửi về - rất

phấn khởi, say mê. Thỉnh thoảng cũng tham gia gùi cõng, kiếm củi,

rau.

Giữa tháng 4, tôi vào Trà Mi sản xuất. Làm quen với con rựa

phát rẫy. Nắng Trà Mi đã thiêu cháy da thịt tôi và làm cho tôi cảm

87

sốt luôn. Thật buồn, thời gian này đau ốm nhiều quá, không tham

gia lao động được mấy. Mà công việc thì hết sức bận rộn, anh em

hết sức vất vả. Có hôm, con suối gần nhà chúng tôi bỗng đầy cá trôi

xuống - có những con ngắc ngoải, có những con vừa mới chết. Hình

như phía thượng nguồn, bọn địch bắn pháo lân tinh, cá bị ngộ độc.

Tôi hụp lặn cả buổi, bắt về hai thùng cá lớn. Anh em có thêm chất

tươi. Nhưng tôi bị một trận cảm nước khủng khiếp. Đầu nặng trịch,

đau như búa bổ. May quá, anh Bông - cùng đơn vị sản xuất với tôi -

biết nhể cảm. Lạ thật, anh chỉ bóp, vuốt trán tôi một lát rồi dùng

mảnh sành nhể mấy nốt giữa trán, nặn ra chút máu đen sì, là đầu

tôi thấy nhẹ bẫng. Tuy vậy, cũng phải nằm bết 2 ngày mới bình

phục.

Bắp của chúng tôi rất tốt, cho nhiều trái lớn và lúa mì cũng

xanh tốt.

Đầu tháng 7, tôi và Vượng đi bệnh xá. Vượng rất yếu và mang

tới 4 thứ bệnh: thấp khớp, viêm đại tràng, trĩ, sốt rét. Song,Vượng

dứt khoát trụ bám ở chiến truờng, không trở ra Bắc để thành B

quay. Còn tôi chỉ bị suy nhược vì sốt rét nhiều. Giữa lúc này thì

địch càn Trà Mi. Chúng đổ quân lên thôn Ba, thôn Tư, Cầu Chìm,

Nước Oa. Chúng tôi không thể về nơi sản xuất được. Rất áy náy, song

không còn con đường nào khác, đành lên tiểu ban Văn nghệ nằm chờ.

Tại đây, chúng tôi ăn sắn phát ngán vì quá ít gạo. Tôi vùi đầu vào đọc

hết số sách văn học mà tiểu ban cho mượn. Lâu quá rồi không được

đọc sách, nay đọc nhiều thấy nhức đầu nhưng rất say mê.

Tôi tham gia cõng gạo với tiểu ban, giữa đường bị sốt. Anh em

Văn nghệ săn sóc tôi rất chu đáo, nhất là Thanh Đính. Anh hát cho

tôi nghe nhiều bài hát hay. Trong gian khổ, anh vẫn quần áo chỉnh tề

và lúc nào cũng lạc quan, nhiệt tình biểu diễn phục vụ bộ đội, thương

binh. Với cây đàn ghi ta, anh có thể hát ở bất cứ nơi nào khi bộ đội

yêu cầu: trên đỉnh dốc lúc ngồi nghỉ gùi cõng, trên thuyền lúc vượt

sông, bên bếp lửa sau cơn sốt rét... Bùi Minh Quốc cho tôi xem tập thơ

của anh "Mảnh đất nuôi ta thành dũng sĩ". Sống trong không khí này

tôi thấy thật vui và khao khát được đi thực tế, được viết.

88

Anh em báo tin anh Hồ (làm ở báo Vĩnh Linh, cùng vào đoàn

với Xuân Quý), được phân công về báo Cờ Giải phóng, đã chết ở

Nước Ngheo - cơ sở sản xuất của Báo. Anh rất gầy yếu song rất cố

gắng. Bệnh sốt rét ác tính đã huỷ diệt anh. Anh Nhị bảo rằng lúc

anh Hồ chết, ở hậu môn anh, ruột thòi ra tới gần gang tay! Thế là

mới một năm vào đây, trong số người cùng vào hoặc đã vào trước tôi

ít ngày đã có 4 người hy sinh: Trọng Định, Xuân Quý, Minh Điều,

Phạm Hồ và 5 người trở lại miền Bắc: Thuyết, Xuân, Bá, Trình,

Kiên.

Giữa tháng 7, tôi và Vượng về Trà Mi.

Trời bắt đầu có những cơn mưa giông dữ dội vào buổi chiều.

Trà Mi còn nặng vết tích địch tàn phá: nhà cửa bị chúng đốt cháy

hết, trâu, bò bị bắn chết thối khắp vùng. Nhà cửa của bọn tôi cũng

bị đốt trụi. Bọn địch phá phách không còn gì, từ cái cần câu cá đến

cái giỏ cá, nong phơi thóc chúng đều đốt. Tuy nhiên, lương thực, của

cải của chúng tôi nhờ cất giấu kịp nên không tổn thất gì. Bọn địch

đóng quân ở cách chỗ chúng tôi một ngày đường, hòm đạn, vỏ đạn

vứt bừa bãi. Anh em dũng cảm bám sát cơ sở sản xuất, giành giật

với địch từng con gà con heo.

Nhà không có, chúng tôi đóng tăng ở. Thời vụ sản xuất rất

khẩn trương, phải làm cho kịp. Hồi này không có gạo, ăn toàn bắp,

song anh em rất phấn khởi, hăng hái.

Cuối tháng 7, tôi được chỉ thị về Ban để làm công tác chuyên

môn. Lúc này hay mưa, lụt, sức tôi yếu, lại đi một mình, nên lo quá.

May sao, khi lên đường, tôi đã khỏe lại và gặp nhiều bạn đường tốt,

kết hợp cùng đi nên vượt qua mấy ngày đường một cách nhẹ nhàng.

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 1969

Long thân yêu của bố mẹ.

89

Bố mẹ vừa nhận được thư và ảnh của con rồi, nói chung là tất

cả thư con gửi về gia đình đều nhận được cả mà bố mẹ cũng gửi rất

nhiều thư cho con mà chả biết con có nhận được không, con nói gửi

áo len và bút về chỗ bác Đào Tùng nhưng bác Tùng lại đi Quy - Ba

vắng vậy mẹ phải đến hỏi gia đình bác vậy. Hôm ngoài tết cô Chung

đem gửi anh Tô cho con thuốc ký ninh độ hơn trăm viên và lọ sâm

viên, còn gì nữa mẹ không nhớ và cả giấy khai lý lịch của bố cho

con, chả biết con có nhận được không.

Bố mẹ và các em con ở ngoài này nhớ và thương con lắm, nhất

là tết vừa rồi cả nhà cứ nghĩ đến con thành ra ăn tết không vui vẻ

gì, mẹ biết là con sẽ phải thiếu thốn và gian khổ đến chừng nào,

nhưng mẹ tin là con sẽ vượt được tất cả những gian khổ ấy mà tiến

lên. Bố mẹ thấy con nói bị sốt rét. Đấy là mối lo ngại nhất cho mẹ,

vì mẹ nghĩ đến những khi con nằm đang lên cơn sốt mê man mà ở

giữa rừng thì ai trông nom con, đành rằng có tập thể nhưng nó cũng

đến mức độ nhất định thôi, không thể bằng ở nhà được. Thứ nhất là

mẹ lo lúc con đang sốt mê man mà giặc đến bắn phá thì có biết

đường mà chạy không, mẹ cứ nghĩ vơ vẩn thế đâm ra nghĩ ngợi lung

tung và thương con da diết. Thật là con bắt đầu ra tự lực được ngày

nào là mẹ bắt đầu lo cho con ngày ấy vì rằng con toàn bước vào đường

chông gai nguy hiểm cả. Cái sợ nữa của mẹ là lo cho con bị cơn sốt rét

ác tính thì chẳng thuốc nào cứu được cho nên con cố xin thuốc mà

uống mà nếu may con có nhận được chỗ quinine mẹ gửi cho có chữ Q

là tốt nhất đấy. Con uống nó trước khi ngồi vào ăn hay ăn một bát rồi

uống thì nó đỡ ù tai nhé. Uống một ngày 2 viên thôi.

Còn việc gia đình vẫn khoẻ cả, các em con vẫn khoẻ cả, học vẫn

tốt. Việt đang có hướng của nhà trường là cho vào đại học Văn hay

Vô tuyến điện nếu vào được đại học. Dạo này em lo học lắm, đến

15/5 này là các em con đều thi cả. Nói chung là các em con học được

cả, em Phúc tết vừa rồi cũng lên nhà và đang học bổ túc 9. Em vừa

được thử tay nghề xong, mẹ đưa cho em cái xe đạp của con cho em

sử dụng, còn Việt thì mẹ mới mua cho cái xe đạp thiếu nhi Liên Xô

200đ, đến hè ra nếu Ngọc lên lớp 8 thì cũng đi xe đạp ấy.

Các em con biết đi xe đạp cả rồi, chỉ có Thuỷ là chưa biết đi thôi

vì còn bé quá. Anh Đức con đến tháng 12 này thì về rồi. Bố con độ

90

mấy hôm nữa thì đi tham quan Liên Xô độ 2 tháng. Cô Chung vẫn ở

chỗ cũ. Nhiều khi mẹ muốn gửi quà vào cho con mà chả biết gửi gì

vả lại chả biết họ có nhận cho không hay là có đến tay con không,

mẹ phân vân quá lại thôi.

Nhận được thư và ảnh của con, các cô các chú ở cơ quan đều

mừng chung cả với gia đình nhà ta và đều xem thư vả ảnh của con

cả. Mẹ nghĩ không biết đến bao giờ con mới được về và gặp gia đình

để lúc ấy mẹ sẽ nấu cho con ăn tất cả những món gì con thèm. Cuối

năm anh Đức về, như thế là lại thiếu con. Nếu con có nhà có phải

vui không? Con xem trong ấy có lá na thì con lấy mà vò ra lọc nước

mà uống chữa sốt rét tốt đấy.

Bây giờ mẹ khuyên con là con phải giữ gìn cẩn thận, đừng xông

pha nhiều, nếu mà là nhu cầu công tác thì không nói, nhưng ngoài

ra thì con phải giữ gìn cẩn thận. Mẹ thấy con gian khổ bao nhiêu

mẹ cũng không ngại bằng chỉ sợ không sống được, chứ nếu sống

được thì sau này cái gì cũng có cả. Hôm nay mẹ thấy chú Triều giáo

viên bảo có đồng chí trong Quảng Đà sắp vào. Vậy mẹ vội viết thư

gửi vào cho con biết tin gia đình ngoài này. Dạo này giặc Mỹ không

bắn phá nữa, nhân dân tạm yên ổn, vui vẻ, nhưng riêng mẹ cứ nghĩ

đến con thì mẹ sốt ruột lắm. Trường ta vẫn ở sơ tán, chỉ có một số

về Mễ Trì thôi.

Thôi, bố mẹ và các em chúc con khoẻ mạnh, cố gắng vượt mọi

gian khổ chờ khi đoàn tụ gia đình vui vẻ.

Mẹ

Hạnh

Hà Nội ngày 2/5/1969

Anh yêu mến của em!

Xa anh đã gần một năm rồi, mới ngày nào anh em mình còn

quây quần bên nhau thế mà bây giờ anh em mình đã phải xa nhau

hàng trăm cây số rồi nhỉ?

91

Nhận được thư và ảnh của anh, em vui sướng vô cùng. Ngắm

những chiếc ảnh anh chụp em tưởng như anh vẫn đang ở gần bên

em, vui tươi và đang nhìn em trìu mến.

Anh Long mến, đọc những dòng chữ thân thuộc của anh, em đã

tưởng tượng được phần nào những gian khổ mà anh đã trải qua,

không biết giờ đây anh đang nghĩ gì nhỉ? Em thường hay nghĩ như

vậy, và cứ mỗi khi nghĩ tới anh là em lại thấy nhớ và thương anh vô

cùng, thế rồi hình ảnh anh và những kỷ niệm khi anh em mình

cùng ở với nhau trong căn phòng nhỏ bé mà em ở, những buổi tối

phóng ảnh tới 11 giờ đêm hay những khi ngồi uống cà phê trong

quầy hàng giải khát, lại hiện lên trong tâm trí em.

Trong thời gian xa anh, em học bổ túc văn hoá. Hiện nay, em

đã học hết học kỳ I của lớp 9 anh ạ, trong thời gian này em bận hơn

trước rất nhiều, nên mặc dù có xe đạp song em rất ít đi chơi. Công

việc hàng ngày của em vẫn bình thường như trước, song chúng em

làm việc bây giờ đông vui hơn trước nhiều. Phòng em bây giờ có 6

người nữa ở, nên cũng đỡ buồn hơn trước nhiều. Em mới được thi

lên bậc, kết quả đạt loại khá nhưng cả xưởng chỉ được xét cho tăng

lương có 10% thôi nên cũng chưa biết em có được tăng hay không?

Đã lâu em không về nhà, song bố mẹ thì lên họp luôn. Bố có lẽ

khoảng giữa tháng này sẽ đi thăm quan Liên Xô, các em nhắc đến

anh luôn, chúng nó sắp được nghỉ hè và đều học khá cả. Cuối năm

nay anh Đức sẽ về nước, và tết này sẽ ăn tết ở nhà rồi, ước gì anh

lại được về ăn tết với gia đình thì vui biết mấy anh Long nhỉ.

Thôi em dừng bút ở đây nhé, em sẽ viết thư thăm anh luôn

nhé. Địa chỉ của em vẫn như cũ.

Chúc anh luôn mạnh khoẻ và may mắn trong công tác.

Phạm Quang Phúc.

92

Hà Nội, ngày 17/6/1969

Long thân yêu của bố mẹ.

Bố mới gửi một thư cho con qua tay một bác công tác ở Quảng

Đà ra Bắc lại mới vào chả biết đã đến tay con chưa, như thế là mẹ

nhận được thư của con viết từ hôm tết, cả nhà nhận được thư và

ảnh của con mừng quá, nhưng mãi từ đấy đến nay chưa nhận được

thư của con thì gia đình lại sốt ruột quá, và mẹ thấy con bị sốt rét

thì mẹ rất lo và thương con không thể nào nói được hết, còn mẹ có

nhờ cô Chung gửi thuốc ký ninh và lọ sâm viên và số lặt vặt qua

anh Tô cho con chả biết con có nhận được chưa mà gia đình rất

mong cả thư nữa, nói chung là gửi rất nhiều mà chả biết con có

nhận được không?

Các em ở nhà đã thi xong tất cả và đều lên lớp. Năm nay chọn

chất lượng học sinh khá kỹ do đó nói chung các lớp chỉ lấy vào khoảng

60% thôi nhưng các em con đỗ cả thế là may lắm rồi, mẹ lo nhất là

Việt và Ngọc nhưng đều tốt cả, vậy mẹ báo tin cho con mừng.

Còn gia đình nhà vẫn khoẻ cả, trên bà và cậu Hiếu cũng gửi lời

thăm con và động viên con làm công tác cho tốt, còn anh Đức con đến

cuối năm thì về, anh con học vào loại khá do đó được thưởng thêm mỗi

tháng 60 Mác. Còn con chả biết có bao giờ có dịp đi họp mà được ra

Bắc không? Mẹ thấy họ cứ được ra vào luôn, mẹ thèm quá.

Trường ta vẫn ở sơ tán, chỉ mới có một ít sinh viên về Mễ Trì thôi.

Hôm mẹ gặp thằng Giang, nó cũng hỏi thăm con và mẹ cho nó một cái

ảnh của con, dạo này nó cũng gầy lắm, mẹ gặp nó mẹ lại nhớ đến con

nhiều quá. Con cố gắng giữ gìn sức khoẻ và con xem nếu có lá na thì

lấy vò sống rồi vắt nước uống cũng chữa sốt rét tốt đấy con ạ. Cơn sốt

của con có bớt đi không hay vẫn như khi mới vào.

Cô chú Phương vẫn khoẻ, cô sắp cho tất cả các em về dưới này

rồi, cô định gửi bật lửa cho con nhưng chưa gửi được.

Thôi đã khuya rồi mẹ dừng bút, chúc con lần nữa khoẻ mạnh,

để có ngày sum họp gia đình. Kể viết cho con thì viết mãi cũng

93

không hết được nỗi nhớ thương con được, mỗi lần viết thư cho con

mẹ lại thấy nhớ con và vừa buồn vừa lo nữa.

Mẹ

Hạnh

Ngày 31/7/1969

Trở về Ban với sự đón tiếp vui vẻ của anh em. Có lẽ tôi thiểu

não lắm - với cái thân hình gầy yếu sau nhiều trận sốt, với cái đầu

tóc bù xù, với chiếc áo cộc tay 3 túi toạc ở lưng. Bởi vậy anh em cười

bảo tôi: "Này, cậu đi thay đồ xem có bảnh choẹ ra chút nào không

chứ. Trai làng Tuấn mà thảm vậy sao?". (Làng Tuấn là biệt danh

của Ban Tuyên Huấn Khu). Tôi cười. Không lo, trông vậy nhưng

còn dư sức chiến đấu.

Lại bắt tay vào những việc quen thân: làm chuyên môn, đóng

góp củi cho nhà bếp.

Tới 3/8, tôi bị quật ngã bởi một cơn sốt chí tử. Chưa bao giờ tôi

bị sốt nặng như lần này. Không ăn gì được. Ăn chút gạo rang cũng

không tiêu hoá nổi. Bụng binh bích. Mửa suốt, toàn một thứ nước

vàng khè. Lại kèm đau bụng đi ngoài. Lần sốt này đặc biệt hơn mọi

lần trước là chân tôi cứ cứng đơ ra, đau nhức, không co duỗi được.

Nằm thượt trên võng mà buồn không sao chịu nổi. Nhưng may

thay, đây là khu A, bệnh viện rất gần. Anh em đi báo bác sĩ đến tận

nơi khám và cho thuốc. Thuốc rất phong phú: đủ các loại trị bệnh,

trợ sức tới thuốc bổ.

Mãi tới 11/8 tôi mới khỏi sốt. Tuy nhiên nhờ thuốc và có đường,

sữa bồi dưỡng nên sức khoẻ bình phục tương đối nhanh.

Khu bộ chúng tôi có bệnh viện C là chỗ mà toàn thể cán bộ

chúng tôi trông cậy vào về mặt sức khỏe. Ngoài việc chữa bệnh tại

chỗ, bệnh viện còn cử các bác sĩ đi lưu động đến các cơ quan Khu

chăm sóc sức khỏe cán bộ. Nữ bác sĩ Phi rất thân thuộc với cơ quan

tôi. Người gầy gầy nhưng hoạt bát, chị hay nói chuyện vui. Chỗ tôi

94

có anh Đặng Phò, Trưởng Tiểu ban Báo Cờ giải phóng, hay nói tiếu

lâm và trêu đùa anh em. Anh đã đặt câu vè Ka tê, Sê cô, Sô ny, Phi

phi, Ra đi để chỉ hiện tượng anh em đau yếu phải đến bệnh viện cho

bác sĩ Phi khám, có giấy chứng nhận yếu sức khỏe, được ra miền

Bắc điều trị, trước khi đi, anh em thường may quần áo bằng vải ka

tê, mua đồng hồ Sê cô và đài Sô ny. Hôm ấy, anh gọi bác sĩ Phi là

"Phi phi", lập tức anh nhận ngay được lời đáp "Phò phò" và đành

chịu thua. Nhưng bác sĩ Phi lại bị chúng tôi căn vặn về bài của bác

sĩ viết trên báo Khu là lá sắn bổ hơn trứng bột, thách thức bác sĩ ăn

lá sắn thay các chất đạm động vật, bác sĩ lúng túng, không lý giải

nổi. Thôi, thế là hòa!

Rồi, tôi lại đi làm nhiệm vụ cố hữu ở chiến khu là cõng gạo.

Chúng tôi ra tận bến xe chuyển gạo về. Thật bất ngờ, đến giữa

đường, anh em xin được bắp cải, đậu vàng. Tuy ít thôi, song cũng

đủ bữa canh. Từ ngày xa miền Bắc, đến nay đã hơn một năm tôi

mới gặp lại thứ rau cao cấp đó. Ăn mà thấy mát tận tim gan và lại

thấy nhớ miền Bắc vô cùng.

Con đường cũng đầy tình nghĩa. Rừng ổi bạt ngàn với chi chít

quả chín rất rộng lòng mời chúng tôi thưởng thức; những cây vả núc

nỉu quả chín, cho chúng tôi nhiều mật ngọt và thơm phức; rừng

măng ken dầy, không tài nào bẻ hết được... Tất cả những thứ đó góp

phần bồi dưỡng sức khoẻ và động viên tinh thần chúng tôi rất

nhiều. Trên con đường này, qua sông Bung, Trà Kíp, A Ró, Bến

Xe... đầy những dốc cao, song chúng tôi đi không ớn lắm.

Cơ quan lại rục rịch di chuyển. Chuyến đi này sẽ nặng nề lắm

đây.

Trong những ngày này thì Vũ - Đảo từ Phú Yên ra Ban họp.

Anh nguyên là phân xã trưởng phân xã Việt Nam Thông tấn xã tại

Hà Nội, cùng tập trung đi B với tôi và hiện phụ trách tổ phóng viên

ở Phú Yên. Trải qua hơn hai tháng đi đường, gặp đói kém, Vũ Đảo

có sạm đi. Anh bị mất dép khi chạy vượt đường 19, phải dùng vải bó

chân đi suốt từ Bình Định ra gần đây mới kiếm dược đôi dép xỏ vào

chân. Râu ria anh đâm ra tua tủa. Anh cho biết đi đường bị mất bộ

dao cạo nên cái thứ râu quai nón chết tiệt ấy cứ tự do phát triển.

Tôi vội đưa anh bộ dao cạo: "Thôi cụ ơi, cạo ngay đi, trông cứ như

95

biệt kích ấy" và tôi tặng anh luôn bộ dao. Gặp nhau mừng mừng,

tủi tủi, hàn huyên đủ chuyện. Đảo kể lại những gian khổ mà anh

đã vượt qua. Các anh ở trong đó khổ hơn bọn tôi nhiều và rất đói.

Có khi hàng tháng phải ăn củ nưa thay cơm hoặc ăn sung ghế cơm.

Và trong những ngày gian khổ đó, một tổn thất lớn đã đến: Nhân

cao đã bị chết vì ốm và đói. Nhân là công nhân ảnh, tính tình hiền

lành, chăm chỉ và sống với anh em rất chân tình, ai cũng yêu mến.

Trong những ngày đói kém, tuy sức yếu, song anh vẫn cắn răng

chịu đựng, không kêu ca một lời và vẫn hăng hái gùi cõng máy, di

chuyển đến nơi mới. Rồi anh bị ốm nặng, nằm liệt. Hai má anh

chảy xệ, bệu ra như má người già. Cơ thể suy nhược lại bị vi trùng

sốt rét và cái đói tấn công, Nhân đã qua đời. Thôi, anh đã vĩnh viễn

phải xa người vợ trẻ hiền hậu và 2 đứa con dễ thương, vĩnh viễn

nằm lại nơi chiến khu gian khổ này. ở chiến trường này, cái chết

đến với con người ta dễ dàng quá. Ai có thể đảm bảo rằng mình sẽ

thoát khỏi tay thần chết. Tôi cũng vậy thôi, tuy luôn hy vọng ở ngày

chiến thắng, luôn có lòng tin một ngày mai sẽ trở về quê hương,

song vẫn phải đinh ninh một điều: cái chết đang rình mò, cái chết

có thể vồ trúng mình. Có điều người ta quen đi, dạn dầy với sự thực

phũ phàng đó. Lòng vẫn thảnh thơi không một chút bi quan.

Tối đó chúng tôi đãi khách bằng một bữa cháo ốc, cá. Cá và ốc

do chúng tôi be suối, tát bắt được hồi chiều. Đảo ăn cháo một cách

ngon lành. Tuy nhiên, anh chưa quen hút ốc nên lúng túng. Anh em

đều tỏ ra thông cảm về sự lúng túng đó và xúm lại bày cách hút ốc

cho anh...

Rồi bắt đầu những chuyến chuyển gạo. Tôi khoẻ rồi, hăng hái

tham gia những chuyến công tác đó.

Ngày 2/9/1969

Họp tổng kết thi đua của cơ quan đúng ngày tết độc lập. Anh

em phát biểu nhiều. Nói chung đều thấy được những thành tích đạt

được. Tuy nhiên cũng cần phải thấy rõ tư tưởng cầm chừng còn phổ

biến - cầm chừng và nghỉ ngơi, chưa thật xốc tới mạnh mẽ. Còn một

vấn đề nữa đặt ra: giữa chuyên môn và gùi cõng, làm sao cho cân

đối. Hình như nhiều người còn quá thiên lệch về mặt gùi cõng, đánh

giá khả năng, thành tích con người qua gùi cõng là chủ yếu, coi nhẹ

chuyên môn. Anh gùi thêm nửa ang hoặc một ang gạo, có lẽ sẽ được

nổi tiếng liền. Còn anh nghiên cứu viết lách chất lượng ra sao, ít ai

96

để ý đến. Mồ hôi đẫm lưng áo, ai cũng thấy, nhưng mồ hôi nhỏ giọt

trong óc, mấy ai biết đến. Điều đó rất nguy hiểm. Nếu chúng ta

không làm chuyên môn, không làm công tác tư tưởng, thì chúng ta

tồn tại ở ban tuyên huấn này làm gì? Có đồng chí sản xuất cả năm

trời, không biết gì đến chuyên môn. Điều đó không thể thông nổi.

Đó là vướng mắc trong tư tưởng nhiều anh em. Tôi cũng vậy. Tôi

không ngại hy sinh, gian khổ, tôi chỉ sợ không làm được nghiệp vụ.

Nếu không vì sự nghiệp viết lách phục vụ cách mạng thì tôi vào đây

làm gì kia chứ? Tuy nhiên, phải nhận thấy một điều là trong hoàn

cảnh chiến trường khó khăn này, không thể chỉ biết đến chuyên

môn. Sao lãng việc gùi cõng kiếm ăn, anh sẽ đói liền. Và như vậy,

anh không thể nhịn ăn mà làm chuyên môn. Anh hãy quan tâm đến

điều đó, nếu không, anh sẽ trở thành con người không tưởng, phi

thực tế. Vấn đề là ở chỗ cân đối - cân đối giữa chuyên môn và gùi

cõng. Cả hai việc đều phải tốt. Mọi người cần tham gia cả hai việc,

đừng để tình trạng người thì hùng hục gùi cõng, bỏ chuyên môn,

người thì chăm chắm việc chuyên môn, sao nhãng việc gùi cõng. ở

cơ quan này, nhiều đồng chí vin vào việc chuyên môn mà tránh gùi

cõng, một công việc nặng nhọc. Tuy nhiên, có một số anh chuyên

môn kém, chỉ thích gùi cõng và sản xuất, một việc nặng, song ít

phải suy nghĩ và được ăn no. Đứng trên hai thái cực ấy, 2 "phái"

đều cho mình là giỏi, đều khinh thường "phái" kia, đó là một sai

lầm lớn...

Cơ quan đổi được một con heo lớn để liên hoan ăn mừng tết độc

lập, mừng thắng lợi của hội nghị. Con heo béo quá, khổ mỡ dầy cả

gang tay. Ăn no, ăn chán mà không hết. Sau ngày liên hoan này

nhiều người bị heo "vật": sốt, đi ngoài suốt, người sọp đi, mặt mũi

hốc hác. Anh Đảo cũng bị như vậy. Anh bảo rằng người anh lao đao,

lâng lâng như đi trong khoảng không vũ trụ vậy.

Ngày đầu, tôi ăn vừa phải nên cầm cự được lâu, ăn được mấy

bữa nữa mà không ớn và không bị phản ứng gì tai hại cả. Người

cũng khoẻ khoắn.

Ngày 4/9/1969

Sáng sớm, chúng tôi mở đài nghe tiếng phát thanh viên đọc

buồn và trang trọng: "Mời các bạn nghe buổi phát thanh đặc biệt."

Tôi nằm lặng trên võng. Điều đau đớn đã đến: Bác Hồ đã qua đời,

97

Bác Hồ không còn nữa! Trong nhà có tiếng khóc nấc lên. Tôi bàng

hoàng, sửng sốt, đau đớn. Thôi, thế là miền Nam không được đón

Bác về thăm khi kháng chiến thắng lợi nữa, tôi không còn được gặp

Bác nữa!

Trong những ngày đau thương này, chúng tôi dốc sức ra làm

việc. Chúng tôi vào Thường vụ Khu uỷ để làm tin tức về tang lễ Bác

và các hoạt động biến đau thương thành hành động cho nhanh, kịp

thời. Có thể nói chúng tôi làm việc suốt ngày: sáng, trưa, chiều, tối -

làm việc tới khuya. Song ai cũng cảm thấy chưa đủ, chưa bù đắp

được một phần nhỏ cho sự tổn thất lớn lao này.

Sau những ngày làm việc cao điểm, chúng tôi trở về cơ quan. ở

đây, anh em dành ngôi nhà đẹp nhất làm chỗ thờ Bác. ảnh Bác được

lồng trong khung đen - có đèn, có trầm nghi ngút khói suốt ngày

đêm. Chúng tôi thay phiên nhau túc trực bên bàn thờ Bác.

Trời mưa sập sùi suốt.

Chúng tôi lao vào việc chuyển gạo: từ kho Lam về cơ quan, từ

cơ quan tới sông Nước Mỹ. Một đợt mưa lớn làm cản trở việc của

chúng tôi. Mưa sầm sập suốt ngày đêm. Nước xối ào ào. Con suối

chỗ nhà bếp của chúng tôi vốn bé tí, nay cũng lênh láng nước, chảy

ào ào. Còn con suối lớn phía ngoài thì nước lồng lên, gào thét dữ dội.

Đêm, nằm nghe nước cuốn những tảng đá to lăn lục cục mà rợn cả

gáy. Mưa, mưa miết, mưa miết.

Chuyến chuyển gạo vào sông Nước Mỹ thật đáng nhớ. Khi trời

vừa tạnh, chúng tôi ra đi. Nhưng khi chúng tôi vừa lên đường, thì

trời ập mưa xuống. Mưa quá dữ dội. Những giọt mưa nặng và lạnh

ngắt như trăm ngàn mũi thuốn cứ vun vút lao xuống, thuốn nát

mặt đất. Đất tơi ra và bị những bàn chân dẫm lên nát bét, nhầy

nhụa, trơn tuột. Đường đông đặc người đi: bộ đội chuyển gạo, đoàn

văn công, đoàn dũng sĩ, chiến sĩ thi đua mới dự hội nghị về. Hàng

trăm con người dầy xéo một con đường mòn xuyên rừng. Cõng gạo

nặng trên lưng, tôi cắn răng bước đi, cố cho khỏi ngã. Nhưng xuống

dốc thật khổ. Dốc đó, đầy một thứ bùn đỏ quạch, nhầy nhẫy. Bùn

chảy thành dòng xuôi theo dốc. Bùn ngập tới cổ chân. Tôi đưa chân

98

vào suối bùn kỳ quặc ấy mà dò dẫm đi. Không còn đủ ma sát giữ

cho bước chân - nó cứ trơn tuột xuống. Phải vận dụng mọi cách để

khỏi ngã: chống gậy thật chắc để đu người xuống, bám vào cây để

tụt dần xuống, bò xuống. Nhưng chủ yếu là lối đi dật lùi: quay lưng

xuống dốc, tay bám vào các cành cây, dây mây bên đường, chân

bám chắc mặt đường mà bước xuống hoặc trượt xuống.

Giữa khi đang hì hụi xuống dốc như vậy, tôi bỗng nghe tiếng

một cô gái nào đó cười vang và tiếng chân bước gấp gấp. Cô gái vụt

qua tôi như một làn gió, làn gió biết cười và nói líu lô. Cô gái mặc

quân phục và vác khẩu AK. Quần áo cô không bị lấm mấy mặc dầu

cô bước đi rất nhanh, như chạy xuống dốc vậy. Tiếng cười, nói vẫn

cứ vang rừng núi và xa dần, xa dần.

Xuống được đến chân dốc thì gần 5 giờ chiều rồi. Vội vã đóng

tăng, và kiếm củi nấu cơm. Không sao kiếm ra chút củi tốt để đun.

Chỉ có củi tươi. Những cành cây gẫy chưa kịp khô đã mục rồi. Trời,

cái không khí ẩm xì này. Chúng tôi chẻ củi, rồi lấy giấy đốt. Hết

mấy chục tờ giấy mà bếp mới bắt đầu bắt lửa. Phải thi nhau chúi

mũi vào mà thổi. Phải lấy vung nồi làm quạt lùa gió vào bếp. Bếp

khói um lên, cháy thoi thóp. Mắt chúng tôi cay xè. Mãi tới 8 giờ tối

cơm mới chín. Sáng, 5 giờ nấu cơm. Vẫn cái bếp sài đẹn ấy. Vẫn cái

lối cháy nghẹt thở ấy. Cũng 3 giờ sau cơm mới chín. Khói um lên,

bao trùm rừng cây. Giữa lúc ấy, một chiếc Moranh bay qua, rất

thấp. Chúng tôi bảo nhau nếu nó thấy và vòng lại thì lập tức phải

chạy ngược suối lên. Nhưng nó cứ bay đi - nó mù trước đám khói mù

mịt của chúng tôi. Bãi nghỉ ồn ào lên, không phải vì máy bay mà vì

một việc tệ hại: Một bác sĩ của Bệnh viện C cõng một gùi sữa hộp,

đến lúc thu dọn để chuẩn bị đi mới phát hiện bị mất một hộp sữa

bột Huygo. Không hiểu chàng nào thèm ăn quá đã lẻn vào đầu võng

moi gùi lấy hộp sữa? ở chiến khu, gần đây đã xuất hiện một số hiện

tượng xấu. Có một số bộ đội không chịu nổi gian khổ, ác liệt, đã bỏ

ngũ. Trong số họ, có ngươì lấy vợ là phụ nữ dân tộc thiểu số, có

người vào rừng ở. Một ít kẻ xấu trong số này thường lẻn đến các bãi

nghỉ để trộm cắp. Có nhiều trường hợp bị mất cả gùi gạo, cả thùng

mắm. Nhiều khi đi gùi cõng, chúng tôi phải buộc gùi vào đầu võng

để phòng xa.

99

8 rưỡi mới đi - đi trong cơn mưa tầm tã.

Ngày thứ 3, chúng tôi nghỉ ở khu nhà thông tin. ở đây có củi

khô đàng hoàng. Nhưng cái nồi thật chết tiệt. Khi chúng tôi nấu

cơm thì nó dở trò: thủng một lỗ to dưới đáy. Bắc lên bếp, ánh lửa

xuyên qua lỗ thủng đó, sáng rực như ánh sáng phát ra từ cái gương

lõm ở đèn pin. Nước đổ vào chưa kịp sôi đã cạn. Gạo trương lên - góc

không bị chảy cơm chín phềnh phềnh, góc bị chảy gạo còn cứng

nguyên. Cuối cùng, chúng tôi phải sới sang ăng gô nấu mới chín.

Gần sáng, cả khu rừng đang chìm trong giấc ngủ mê mệt, bỗng

giật mình vì một tiếng động long trời. Không phân biệt là thứ tiếng

gì. Mãi sau mới biết đó là tiếng cây đổ. Một cây cổ thụ cao to ở sườn

núi bị long gốc do mưa sói moi hết đất đã đổ ập xuống, phát ra tiếng

nổ như sét đánh. Ngọn cây đè lên một căn nhà nhỏ, trong đó có một

anh bộ đội. Chúng tôi chỉ còn nhìn thấy hai đầu võng buộc ở hai đòn

ngang. Toàn thân anh bị thân cây đè lút xuống nền đất!

Sau những ngày vật lộn với dốc, bùn, với cái trơn chết dẫm và

với những cơn mưa tầm tã, chúng tôi tới được kho gạo ở sông Nước

Mỹ - rồi quay lại cơ quan để lấy ba lô, "cuốn" đi luôn.

Cơ quan lúc này chỉ còn tôi và hai anh Lý, Lê. Khu rừng già với

những ngôi nhà lá kè trở nên vắng vẻ, lạnh lẽo vô vùng. Chúng tôi

đi dạo khắp các nhà, thấy sự ẩm ướt đã chiếm lĩnh mọi chỗ: bàn ghế

mốc meo, cửa, vách bị mối xông mục nát. Hơi ấm của con người làm

rừng cây thêm sức sống. Thiếu nó, rừng cây lạnh lẽo hẳn đi. Thấy

lòng bâng khuâng lạ...

Ba anh em kéo nhau ra suối bắt ốc. Dòng suối này trước đây

nhiều ốc, nhưng rồi hết đi một cách mau chóng kể từ khi cơ quan

Khu về ở đây. Thế mới biết sức tiêu thụ thực phẩm của chúng tôi

thật ghê gớm. Nhưng thiên nhiên bù đắp lại sự hao hụt ấy cũng

nhanh vô kể. Nước lũ đã cuốn hàng trăm nghìn con ốc từ các suối

nhỏ về dòng suối lớn này. Để khỏi bị vỡ vỏ vì nước cuốn đập vào đá,

bầy ốc đua nhau rúc vào các hốc đá bên bờ. Chúng tôi cứ việc lùa

tay vào các hốc đó lấy ra hàng chục con ốc - mỗi con to hơn ngón tay

cái. Bắt được mấy túi ăng gô ốc như vậy, chúng tôi đem về đập vỡ

100

vỏ, đãi sạch sạn, lấy thịt làm lương khô. Ngồi cặm cụi cả buổi, tỷ

mẩn đập từng con, rồi gỡ vỏ, lấy thịt, quả thật là kỳ công.

Sẵn có một ít mỡ và ốc đó, chúng tôi bầy vẽ làm bánh xèo. Gạo

được cho vào lon sữa giã thành bột. Rồi cũng đúc bánh kêu "xèo

xèo" ra vẻ. Và ăn cũng ngon - tuy nó mang tính chất tảng bột rán

thì đúng hơn là bánh xèo.

Còn có một điều thú vị nữa là có 4 chú chuột bị rơi vào 2 thùng

thiếc (trước đựng gạo, nay bỏ không). Anh Lý đem 2 thùng ấy hơ lên

lửa. Thùng nóng rẫy, các chú chuột chạy quanh tìm lối thoát thân.

Rồi các chú cũng chịu, nằm lăn ra chết. Chúng tôi lột da, mổ bụng

sạch sẽ rồi đem 4 chú ướp với muối, mì chính, đường, sau đó đem

rán vàng lên. Thế cũng thành một món thịt quay hấp dẫn.

Cuối tháng 10, chúng tôi lên đường. Lương khô tương đối tươm

tất: có ốc và thịt hộp - chủ yếu là ốc.

Tôi mang quá nặng - ngoài đồ đạc cá nhân còn thêm tài liệu và

đồ đạc của đồng chí đi vắng.

Khi cách sông Thanh một ngày, chúng tôi nghe B52 rải bom

phía đó, chắc là gần, vì nơi chúng tôi ở đất rung ầm ầm.

Trong chuyến đi này tôi đánh mất cái đài của công - đó một

điều đau xót, khiến tôi day dứt, ân hận mãi, cũng chỉ vì cái tật lơ

đãng mà nên - lúc nghỉ để cái đài vào thành đất bên đường, lúc đi

quên lấy!

Đi đường, mấy anh em cũng chú ý cải thiện bữa ăn. Anh Lý, Lê

chịu khó đi câu và được nhiều cá trầu, có thêm chất tanh. Tôi kiếm

được nhiều măng giang - thứ măng này nấu kỹ thì chuyển sang

màu vàng ươm và rất ngọt, kho với cá thì tuyệt. Tôi còn bắn đưọc

hai con sóc và một con chim cu xanh khiến anh em rất thú vị.

Tới nơi mới lại lao vào chặt cây, kiếm lá dựng nhà, làm bàn ghế

và đào hầm. Tiểu ban chúng tôi dựng được hai căn nhà khá lớn.

Khu rừng chúng tôi ở rất lạnh và ẩm. Các phiến đá và các thân cây

101

đều bị phủ đầy rêu. Lạnh buốt thấu xương. Đêm ngủ phải đốt một

đống lửa to giữa nhà.

Sau đó yên tâm ngồi làm chuyên môn. Tin tức khá nhiều, đặc

biệt là tin tố cáo tội ác địch -trong đó chúng tôi làm mạnh việc tố

cáo vụ thảm sát Sơn Mỹ (Quảng Ngãi). Tôi sang quân khu gặp Võ

Cao Lợi và Đỗ Thị Tuyết - hai nạn nhân sống sót sau vụ thảm sát

này - để khai thác thêm tài liệu. Tuyết bị sốt rét nặng, rên la suốt,

kể cho tôi nghe chuyện một cách vất vả. Phải động viên cô bé hết

sức, phải phục vụ cô bé nữa: bưng cháo, lấy nước... để cô bé gắng

cung cấp tài liệu. Rồi cũng viết được một tin đi sâu khá hữu ích.

Biên tập mấy bài về gương chiến sĩ thi đua khá thú vị - đã nâng

được bài lên, gọn hơn, sinh động hơn.

Đến cuối tháng 12, tôi tham gia gùi cõng lương thực. Phải lên

tận Văn Nải lĩnh sắn khô và bắp hạt, vừa đi vừa về hết 13 ngày.

Suốt từ xã Mai lên Văn Nải, tôi thấy rừng cây đều bị trơ trụi vì chất

độc hoá học do bọn Mỹ rải. Nương rẫy của đồng bào cũng bị chất độc

phá hoại. Do vậy, đồng bào rất đói. Họ đi xa cả ngày đường để mót

về một gùi sắn. Đồng bào vừa đói, vừa thiếu muối. Chúng tôi san sẻ

cơm cho mấy đứa bé và cho đồng bào muối - do vậy cũng suýt thiếu

muối ăn. May ghé qua cơ quan Dược, được ăn nhờ thức ăn và xin

một đồng chí bộ đội được ít muối nên mới đủ ăn tới nhà.

Nóc ông Đủ xã Văn Nải - nơi chúng tôi nhận lương thực - ở

vùng cao. Lên dốc hoài, hết mấy ngày mới tới. Không khí ẩm ướt,

lạnh buốt quanh năm ngày tháng. Đồng bào phải đốt lửa suốt ngày.

Rời khỏi bếp là lạnh cóng tay chân, không chịu nổi. Vậy mà đồng

bào ở đây rất thiếu quần áo. Nhất là bọn trẻ con - phần lớn ở

truồng.

Nóc quá bẩn. Nền đất đầy bùn nhão nhọet, đầy rác, phân heo.

Bầy heo thả rông đạp nát nền đất. Bước khỏi nhà, đạp lên thứ bùn

đó, lạnh cả người.

Về tới sông Tranh, chúng tôi bàn cách bơi qua cho gần. Thật là

vô lý nếu cứ bị lệ thuộc vào bến đò: phải đi xuống một giờ rồi mới

chờ qua đò, sau đó phải đi 4 tiếng đường dốc mới tới chân dốc - nó

102

nằm ngay bờ bên kia. Vào mùa này, nước sông Tranh khá lớn, chảy

cuồn cuộn, dòng nước xanh lè, khi ào qua các thác đá thì tung bọt

trắng xoá... Vào mùa nước, năm nào cũng có người chết đuối ở

quãng sông này.

Trời nắng chói chang. Chúng tôi lội qua sông Nước Vin rồi tới

bãi đá bên bờ sông. Những tảng đá lớn nối tiếp nhau, xếp đầy hai bờ

sông và tràn cả xuống sông. Nước réo ào ào, khiến chúng tôi thấy

rờn rợn. Vượng và Chính bơi qua trước. Không ngờ nước cuốn dữ

đến thế. Vượng bơi không, bị cuốn trôi vài chục thước rồi mới vào bờ

được. Chính mang theo gói đồ đạc, bị nước cuốn băng băng. Chính

gắng nhào vào bờ, gắng kéo bọc đồ vào theo. Còn nước, nước cứ xoáy

tít, kéo trở ra. Vật lộn với nước mà không nổi, Chính đành phải thả

bọc đồ trôi theo dòng nước, rảnh tay mà bơi vào bờ. Sau đó, Chính

chạy dọc theo bờ sông đến chỗ nước lặng mới bơi ra lấy bọc đồ được.

Nắng chói chang. Nước vẫn cuốn ào ào. Trên trời, hai chiếc

Moranh hai thân thay nhau quần lượn. Mặc. Chúng tôi vẫn cố vượt

qua sông. Chúng tôi nối dây võng căng qua sông. Từng bao gạo được

gói ni lông kỹ, cột vào một đầu dây. Phía bờ bên kia, Vượng, Chính

ra sức kéo. Những bao gạo rẽ nước sang ngang một cách dũng

mãnh. Người cũng vượt sang bằng cách đó một cách dễ dàng. Duy

chỉ có anh Dũng là gặp tai nạn. Anh không bước xuống nơi chúng

tôi chỉ mà cứ lao thẳng xuống cái bậc đá dựng đứng trước mặt. Anh

rơi tũm xuống dòng nước - nó đang chảy cuồn cuộn. Lý và tôi vội

nắm lấy tay anh, lôi lên. Cằm anh va vào đá, bị sứt một miếng, đổ

máu đỏ lòm. Dũng trạc 40 tuổi, tính tình hơi lẩm cẩm. Anh hay

quên, hay hỏi những câu hỏi rất vớ vẩn. Đặc biệt, anh ví von mới

bật cười, không bao giờ sát hợp cả. Lạnh, anh bảo lạnh như cứt.

Đứa trẻ con đẹp, anh bảo đẹp như dòi, như khỉ...

Về nhà nghỉ được một ngày, hôm sau lại đi Bằng Da cõng gạo.

Gạo không có, phải xuốnng Trà Mi sắt sắn. Dòng sông Trường vẫn

trải lòng rộng rãi và nông cạn ở thôn Tư. Có điều đáng buồn là đồng

bào ở đây quá đói - đói vì biếng sản xuất. Bà con quá tệ, đi nhổ trộm

sắn và xúc trộm lúa của các đơn vị sản xuất khá nhiều. Chỉ một

buổi chiều, chúng tôi mất khoảng 5, 6 gùi sắn.

103

Năm 1970

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội, ngày 5-1-1970

Anh Long thân mến!

Hôm nay em cầm bút viết thư cho anh, trước tiên em hỏi thăm

sức khoẻ của anh có được khoẻ thì em mừng, chúng em và bố mẹ

vẫn được khoẻ mạnh. Nhà ta chuyển xuống Hà Nội sau ngày Bác

mất, bây giờ chúng em đã đi học cả, cậu Hiếu xuống Hà Nội công

tác hơn một tháng, bây giờ cậu lại về Hà Giang rồi. Em Thuỷ, em

Lan và em đều học ở trong làng Phùng Khoang. Thuỷ năm nay lên

lớp hai. Lan lên lớp 3, còn em thì học lớp 6. Chị Ngọc đáng lẽ chị học

lớp 8 nhưng chị thi đỗ trường năng khiếu ngoại ngữ, bây giờ chị ở

huyện Từ Sơn, thỉnh thoảng chị được nghỉ dài ngày thì chị lại về

nhà, mà bây giờ chị béo lắm, còn anh Việt bây giờ anh ở Trường Đại

học Tổng hợp văn, ngày chủ nhật nào anh cũng về nhà được, bây giờ

anh ở trong Hà Đông, anh cũng chỉ vừa thôi chứ chưa béo lắm, còn

anh Phúc anh đi Liên Xô được độ hai tháng nay rồi, anh Đức cũng

sắp về nước rồi nếu như bình thường thì anh có thể ăn tết được ở

nhà nhưng bây giờ có thể độ tháng 2,3 anh mới về được. Cô Chung

bây giờ cũng được khoẻ, thằng Quang, Chiêu bây giờ về ở với cô rồi

còn Tiến vẫn ở trên nhà. Thư em viết đã dài, còn để giấy cho các em

viết nên em tạm dừng bút ở đây, cuối cùng em chúc anh mạnh

khoẻ, lập nhiều thành tích.

Em của anh

Phạm Bích Diệp

Phạm Thúy Lan

Anh Long kính mến của em!

Em là Lan, hôm nay em viết thư hỏi thăm sức khoẻ của anh,

anh có khoẻ không, còn về phần em thì em học cũng tiến bộ nhiều,

104

nhà mình đã được chuyển về Hà Nội chỉ mong đến ngày anh về để

đón anh.

Thôi cuối thư em chúc anh mạnh khoẻ, công tác tốt.

Em của anh

Phạm Bích Thuỷ

Em Bích Thuỷ hỏi thăm anh Long. Em chúc anh mạnh khoẻ.

Em vẫn được khoẻ, học tập tiến bộ. Em đang học lớp 2. Em nhớ anh

lắm lắm. Mong ngày đón anh về.

Em

Ngày 4/2/1970

Ở nhà chuẩn bị đón xuân mới. Năm nay cơ quan chuẩn bị vật

chất khá đầy đủ: có heo, nếp, kẹo... Điều thú vị nhất là cơ quan tổ

chức gói bánh chưng. Vượng đảm nhận việc đó. Trên chiếc bàn to

trong nhà, chúng tôi chất đầy nếp, đậu xanh, thịt, lá... trông thật

vui mắt. Vượng ngồi gói bánh một cách say sưa, tự hào. Quả thật

anh đáng tự hào ở cái tài gói bánh chặt chẽ, vuông vắn của mình.

Đêm, chúng tôi chất lửa nấu bánh. Nồi bánh sôi sùng sục, sùng

sục và ánh lửa bập bùng làm căn nhà trở nên vui và ấm.

Ngày 5/2/1970

Đêm nay là đêm giao thừa. Toàn tiểu ban tuyên truyền chúng

tôi ngồi quây quần bên bếp lửa trò chuyện, đón giao thừa. Có bánh

bích quy, cà phê hẳn hoi. Trong hoàn cảnh chiến trường này, thế là

sang lắm.

Chúng tôi vui tết, song lòng không khỏi đượm buồn khi nhớ tới

Bác Hồ. Giao thừa này là giao thừa đầu tiên chúng tôi không được

nghe Bác chúc tết, đọc thơ mới. Nghe đài truyền lại lời Bác chúc tết

năm ngoái, cảm thấy Bác vẫn sống, vẫn đang tươi cười...

105

Ngày mồng 1 và mồng 2 tết

Chúng tôi đón Tết Nguyên đán trong không khí bận rộn, khẩn

trương vô cùng. Họp suốt sáng, tối mùng một và sáng mùng 2. Chủ

yếu là bàn việc sản xuất. Vấn đề lương thực vẫn luôn là vấn đề

trọng yếu. Phải tích cực sản xuất, tự túc lương thực, nếu không sẽ

đói ngay. Phải coi sản xuất ngang chuyên môn. Với tinh thần khẩn

trương đó, ngay trưa mùng 2 tết, chúng tôi toả đi các ngả đường:

cõng gạo, sản xuất. Tôi vào nóc ông Chanh tham gia sản xuất ở cơ

sở một.

Ngày 9/2 đến 30/2/1970

Đây là cơ sở mới nên gặp nhiều khó khăn. Thiếu đủ thứ, từ

lương thực, thực phẩm đến nơi ăn chốn ở.

Tham gia phát rẫy 2 ngày rồi lại đi cõng gạo. Gai góc cào rớm

máu cả hai bàn tay.

Chúng tôi cõng gạo ở Sơn Ba. Đường đi dọc theo sông - hai bên

bờ có những cánh đồng lúa rộng dài tít tắp, trông đến sướng mắt.

Đợt này tôi đã đưa mức cõng gạo lên 40 kg - giá như sức khoẻ cứ

phát triển theo chiều hướng đi lên thế này thì đáng mừng lắm.

Từ ngày 10/3/1970

Bắt đầu những ngày phát rẫy dai dẳng. Trời nắng ong ong,

nóng điên người. Phơi mình dưới trời nắng, chúng tôi dùng rựa phát

cây, dứt dây. Những bụi mâm xôi rậm rì, đầy gai, bò ngùng ngoằng,

cào nát hai bàn tay chúng tôi. Chúng tôi phải dùng cây dài làm đòn

bẩy, đánh vòng, đi từ phía sau bụi mâm xôi đánh xuống. Nhờ vậy,

gốc nó phải phơi ra cho chúng tôi chặt.

Vắt cũng thi nhau hút máu. Ngày nào máu cũng đổ vì vắt. Rồi

còn ruồi mòng đốt nữa. Thứ ruồi này to, đốt buốt thon thót. Cơ thể

mỏi mệt, đau nhức. Chân, tay mụn xưng đỏ tấy. Phải có ý chí chiến

đấu - cứ vươn tới, vươn tới, lấn dần với cái mỏi mệt. Và rồi cũng qua

đi. Đây, một ngày mới lại đến. Ăn cơm sáng trong ánh đèn dầu leo

106

lét. Xách rựa ra rẫy trong cái lành lạnh của sương sớm. ánh bình

minh đón ta. Nó sáng lên với ánh sáng hơi xanh dịu hoặc ửng hồng,

lan tràn trên các đỉnh núi. Mặt trời đỏ mọng như quả mâm xôi chín

gặp chúng tôi khi nhô lên khỏi ngọn núi phía bên trái rẫy. Và

những đám mây dầy đặc bao giờ cũng đem lại cho tôi một cảm giác

khoan khoái, mênh mông... Mây trắng đục như sữa tràn đầy không

gian, đầy ắp các thung lũng, tràn phủ cả lưng những ngọn núi cao,

làm ngập lút cả những ngọn núi thấp. Đứng trên núi nhìn về phía

xa ấy, trông như một dòng sông nh mông. Mây tạo thành dòng sông

lớn, có những đoạn uốn lượn duyên dáng, có cả ngã ba bát ngát.

Những mỏm núi nhô lên xanh xanh như những hòn đảo nổi giữa

sông. Rồi ta bước vào rẫy và bị rẫy bưng lấy tầm mắt. Đó: cây, lau

lách, gai góc, dây dợ đó, hãy xông tới mà chặt, mà dứt, mà cào. Con

rựa, con rựa có cái mấu khoằm khoằm ở đầu tha hồ tung hoành. Rồi

trưa đến với cái nắng cháy da. Ăn cơm trưa ngay tại rẫy. Xong, nghỉ

tạm bợ dưới bóng cây, trên nền đất lởm chởm cho dãn xương cốt một

chút rồi lại dậy làm. Khi mặt trời khuất sau những dãy núi trùng

điệp và bầu trời chỉ còn sáng với ánh sáng thoi thóp, chúng tôi ra

về. Len qua những khu rừng, khe suối, vượt qua vài cái dốc nhỏ rồi

về nhà. Nhào vào nước rửa ráy hoặc tắm ào, rồi mài rựa, rồi ăn cơm

trong ánh đèn dầu. Tối đến với những buổi họp bàn công việc,

những giờ học văn hoá say sưa. Đấy, cuộc sống sản xuất của chúng

tôi cứ diễn ra đều đặn, bình thản như vậy.

Ngày 19/5/1970

Nhanh thật, đã sản xuất 3 tháng rồi. Ba tháng qua đi với

những ngày lao động khẩn trương vô cùng. Cuộc sống hối hả xốc tới

như con tàu đã mở hết ga. Hầu như ngày nào cũng vậy, chúng tôi

làm việc ít nhất là 9 giờ đồng hồ, có khi tới 10, 11 giờ. Tối cũng ít

nghỉ sớm -thường là 21 giờ vì còn học văn hoá, họp.

Những ngày dọn rẫy thật đáng nhớ. Phơi mình dưới cái nắng

lửa suốt ngày, không một bóng cây nhỏ. Vác những cây gỗ cháy

nham nhở vứt khỏi rẫy hoặc xếp gọn lại. Dùng rựa cào cây nhỏ, dây

dợ cho sạch. Chao, lúc ấy tro bụi tung lên mù mịt, thộc vào mồm,

mũi nồng nặc. Đến ngột lên vì tro, vì nắng, nóng. Rồi trỉa lúa, bắp.

Tất nhiên là với phương thức rất nguyên thuỷ: dùng gậy thọc lỗ rồi

107

tra hạt, lấp đất. Kể cũng lạ thật, làm thế vậy mà lúa ngô vẫn vươn

lên xanh tốt - đặc biệt là ngô.

Không bao lâu bắp đã được ăn. Trái bắp to, mẩy hạt, ngọt ngào.

Có những buổi đi coi rẫy, tôi bẻ những trái bắp non quăng vào đống

lửa. Khi lớp vỏ ngoài cháy gần vào trong, là lúc bắp chín. Bắp dẻo,

thơm, ngọt lừ, tôi chỉ ăn 3 - 4 trái là no căng, thay cho bữa cơm.

Thật là sung sướng khi được hưởng thành quả lao động do chính

tay mình làm nên. Bắp được thu về, chật nhà cửa. Chúng tôi lột bao

rồi chất lên dàn, tối đốt lửa sấy. Lẽ ra có thể phơi, song lũ máy bay

lượn dữ quá, sợ chúng phát hiện ra.

Ngày 9/6/1970

Chúng tôi vừa thu hoạch bắp vừa làm cỏ lúa. Trời hay mưa

chiều - cứ xế trưa là trời chuyển mình, mây dồn lại đen kịt và rắc

mưa xuống. Có khi mưa suốt buổi, ủ ê, buồn tẻ.

Giữa những ngày mưa giông dữ dội này, tôi nnhận được một tin

thật đau lòng: vừa qua, trong đợt chuyển gạo, cơ quan chúng tôi bị

hy sinh 3 đồng chí: Đinh Thành Lê, Kiều Thị Nghị và Bình. Ngày

4/6, Lê, Bình, Nghị và Minh chuyển gạo từ sông Giang lên. Tới Trà

Lãnh, Bình bị bọn địch từ máy bay trực thăng HU1A bắn chết bằng

một quả rốc két. Trong khi máy bay vẫn quần lượn và đổ quân, 3

người còn lại hỳ hục tìm cách chôn cất Bình. Xong, Lê và Nghị lại

chỗ để bao gạo để sửa soạn, chuẩn bị đi. Minh còn nán lại sửa mộ

cho Bình. Bất thần anh nghe 2 tràng đạn nổ liên hồi, đạn bay riu

ríu qua đầu. Anh vội nhảy vào rừng, luồn xuống suối và chạy thoát

với bộ quần áo lót trên người, cái ăng gô hỏng xách trong tay. Anh

chạy như trong cơn mê sảng, tay luôn nắm chặt chiếc ăng gô hỏng.

Cứ chạy bừa trong rừng mà cũng về tới cơ quan, khi ấy râu anh bạc

hết. Còn Lê và Nghị, hai người đồng chí thân yêu của chúng tôi,

vĩnh viễn nằm lại đó, giữa đường xuyên núi lạnh lẽo. Thật đau lòng,

khi mọi người đến chôn thì thi thể Lê và Nghị đã trương lên, không

mang đi được. Đành phải tấp ni lông rồi lấp đất, giữ nguyên vị trí

và tư thế của 2 người lúc tắt thở: Lê nằm nghiêng gần bụi lách bên

vệ đường, Nghị nằm ngửa giữa đường.

108

Tôi nhớ Đinh Thành Lê, một con người rất hiền hậu và siêng

năng. Anh hay tâm tình với tôi -từ chuyện gia đình, vợ con tới

chuyện văn thơ, báo chí. Anh là người rất dễ xúc động. Dạo Hồng bị

gió độc ngã ngất, anh đã oà khóc! Vợ anh ở miền Bắc, bị chết vì

bệnh ung thư, anh khóc, khóc mãi và anh tâm sự rằng có lúc tưởng

không sống nổi nữa, anh đã mang súng ngắn vào rừng định tự sát,

song lại thôi. Cuộc sống chiến đấu đã vực anh dậy, anh bước qua

đau khổ mà đi lên. Anh lao vào công tác với những bài báo, bài thơ

đầy tình cảm, với những ngày sản xuất, gùi cõng vất vả. Tôi nhớ

mãi những ngày cùng anh và anh Lý chuyển cơ quan. Hồi ấy, 3 anh

em đi sau cùng. 3 người sống với nhau gắn bó như anh em mà tôi là

em út. Lê thường cặm cụi đi mò ốc, câu cá, thường lúi húi thổi lửa

nấu cơm. Đi đường tôi sốt, Lê và Lý làm hết thảy mọi việc: lo dựng

lều, kiếm củi, rau, nấu ăn và dành cho tôi cả đường, sữa của mình.

Mới đây Lê có viết thư cho tôi và động viên tôi rất nhiều. Vừa qua,

khi đi cõng gạo, gặp người về chỗ tôi, Lê gửi lời thăm và hẹn sẽ viết

thư dài, kể nhiều chuyện vui cho tôi nghe. Thư chưa kịp viết kể

chuyện vui thì Lê đã ra đi, để lại nỗi đau xót quằn quại trong trái

tim tôi!

Tôi nhớ Kiều Thị Nghị, một thiếu nữ rất hồn nhiên, sôi nổi và

đầy nghị lực. Tôi thường gọi Nghị bằng họ của em "Kiều" và coi

Kiều như em tôi - Kiều bằng tuổi đứa em trai kề tôi. Lúc nào Kiều

cũng hoạt bát, vui vẻ. Nụ cười rất tươi có điểm hai lúm đồng tiền

nhỏ, luôn đem lại cho tôi niềm vui - ngay cả trong lúc khó khăn vất

vả. Đôi mắt Kiều đẹp như mắt bồ câu và rất trong sáng. Cái nhìn

lúc nào cũng như lấp lánh, lấp lánh những niềm vui làm xáo động

lòng người. Tuy sống ở rừng núi bị sốt rét huỷ hoại nhiều, Kiều vẫn

có vẻ đẹp phảng phất của một phụ nữ châu Âu.

Tôi nhớ Kiều những lúc cùng phát rẫy, hai anh em thường đi

chung một lối. Tối về sưởi chung một bếp lửa. Em thường đòi tôi

dậy học và dậy hát. Nhớ những buổi trưa nằm võng nghe em đọc

những truyện ngắn trong tập văn nghệ giải phóng. Đặc biệt, tôi rất

nhớ những chuyến gùi cõng đầy vất vả cùng Kiều. Những lúc ấy

Kiều luôn tỏ ra là người có nghị lực phấn đấu mạnh. Hồi cõng hàng

ở nước Oa, Kiều rẽ vào kho cõng dầu, còn bọn tôi cõng bắp, hẹn gặp

nhau ở sông Tranh. Tới sông, chúng tôi dăng tăng, ăn cơm và đợi

109

mãi mà vẫn chưa thấy Kiều đến. Anh em đoán Kiều gặp khó khăn

gì đó, chắc là ngủ lại kho. Nhưng tới khi trời nhoà tối và lất phất

mưa thì mọi người ngạc nhiên thấy Kiều cắm cúi cõng thùng dầu đi

tới. Đúng là Kiều gặp khó khăn: thùng bị chảy. Xoay sở mãi tới 4

giờ mới có thùng thay, song Kiều vẫn quyết tâm đi. Tôi ngồi nhìn

Kiều ăn cơm - những hạt cơm lạnh ngắt - với chút xì dầu mặn chát,

cười nói vui vẻ mà thấy lòng trìu mến lạ.

Kiều đi sản xuất trước tôi 2 tháng. Khi tôi vào, gặp Kiều và

Nhơn trỉa bắp ở gần rẫy Nóc ông Chanh. 4 người giở bánh chưng ra

ăn rồi cùng xén tỉa, dọn xong rẫy đó. Kiều ơi! Cái rẫy bắp em trỉa

đó, giờ bắp đã chín rồi. Khi cõng bắp về, anh không khỏi ngậm ngùi

nhớ tới em. Anh nhớ khi về cơ quan, em hẹn khi nào ăn bắp nhớ để

phần em với. Anh mong có ngày em vô, bắp non đó em tha hồ nướng

mà ăn. Giờ đây bắp trỉa đã ra trái vàng rồi, mà em không trở lại,

mà em mãi mãi đi xa!...

Anh nhớ khi cùng Kiều đi cõng gạo Sơn Ba, em rất cố gắng

bước kịp theo anh và Tạo. Đường bằng, em nói đi quá tức chân nên

đi chậm. Những lúc ấy anh muốn chờ em, song đường dài quá, trời

sắp tối, anh phải bước nhanh cho kịp để em lấy đó làm đích mà

bước tới. Đi trước, thỉnh thoảng ngoái lại nhìn bóng em lúi cúi bước

theo phía xa, nhoà nhoà trong ráng chiều đen đỏ, ngập chìm trong

cái vắng lạnh mênh mông, anh thấy thương em lắm. Anh về trước,

còn em ở lại mang thêm chuyến gạo nữa. Sáng đó, nhìn về hướng

em đi, thấy máy bay quần và bắn dữ, anh lo cho em. Một mình thân

gái dặm trường. Một mình một cõng gạo, vượt sông, vượt con đường

5 trống trải và vắng vẻ, liệu có sao không em? Song, em đã vượt qua

được tất cả. Anh vui mừng khi chuyển gạo chuyến sau, anh được

cùng em đi. Hôm đó em có kinh, song em không hề phàn nàn gì và

vẫn ráng mang gần 40 kg gạo theo kịp anh em. Đường qua nhiều

sông, anh cố gắng tìm thuyền hoặc tìm chỗ cạn lội qua cho em khỏi

ướt. Buổi trưa nắng, anh chú ý dừng lại những nơi có thể dừng để

em giặt giũ quần áo. Anh cố gắng giúp em cho em đỡ vất vả, song

làm sao bù đắp được những gian khổ mà em - cũng như các chị em

khác ở miền Nam này - phải chịu đựng. Có lẽ em hiểu được điều đó

nên em rất bình thản vượt qua mọi gian khổ. Nhiều lúc anh bật

cười khi ngồi nghỉ chờ em, em cõng gạo đến, mồ hôi nhỏ giọt trên

110

trán mà vẫn nói đùa: "Tưởng anh đi nữa không nghỉ. Anh cứ đi đi,

em chẳng sợ đâu!". Cũng có lúc em gắt gỏng đôi chút, song chỉ độc

một câu: "Bực mình quá đi!". Những lúc ấy anh thường trêu em:

"Tưởng bực người, chứ bực mình thì kêu lên làm gì cho khổ". Và em

lại cười. Em cũng hay trêu anh, đặc biệt là hay nhại tiếng miền Bắc

của anh. Anh nói "sông Tranh", "nhất trí" mà phát âm sai vần "Tr",

em liền hỏi lại: "sông Chanh hả anh? Nhất chí hả anh?" làm anh

bật cười.

Hôm em trở về Ban, anh đi cõng gạo và cùng đi với em một buổi

đường. Bữa cơm trưa hôm đó, anh em mình ăn ở đỉnh dốc trên nước

Lon, giáp sông Tang. Thức ăn cũng chỉ là ít xì dầu trộn muối rang,

củ nén. Giờ đây, mỗi khi ăn thứ lương khô đó, anh lại nhớ tới em

nhiều. Ăn rồi chúng ta chia tay nhau. Anh bắt tay em và hẹn ngày

gặp lại. Ngờ đâu em ơi, bữa cơm đó là bữa cơm tiễn biệt, cái bắt tay

đó là cái bắt tay cuối cùng, tạm biệt mà thành vĩnh biệt. Em đi một

mình về Trà Niêu và lo phải ngủ rừng một mình, sợ cọp. Cọp không

có, không hại em, song giặc Mỹ giết mất em! Cái loài cọp dữ đó giết

hại bao người đồng chí thân yêu của tôi rồi.

Nghị ơi, cái bình đông nhựa của em - cái bình đông từng đựng

nước cho hai anh em mình uống chung - bọn biệt kích Mỹ cũng lấy

lê đâm thủng rồi em ạ. Thật tan nát lòng anh!

Tấm đi mưa của em thủng mấy lỗ, anh dán giùm em, giờ đắp

cho em đó. Em đã gặp lại gia đình chưa? Hình như không em nhỉ, vì

gia đình em bị giặc lùa vào khu dồn rồi mà. Nằm dưới lớp đất mỏng,

dưới trời mưa dữ dội này, có lạnh lắm không em? Giông tố cuồng

loạn trong lòng anh!

Nghị ơi, anh mong rằng khi về ban, anh sẽ gặp lại em, sẽ lại

chép cho em bài hát, sẽ cố dạy em học văn hoá để em lên được một

lớp cùng với anh em khác, vậy mà em đã đi xa rồi, xa mãi. Bài hát

em là hoa Pơ Lang anh chép cho, em đã thuộc chưa và có mang theo

không? Tiếng nói của em vang mãi trong lòng anh!

Khi viết thư cho bạn, em viết: "Cố gắng xứng đáng với quê

hương hơn nữa!.." Em ạ, em đã xứng đáng với quê hương rồi đó.

Anh nguyện sống sao cho xứng đáng với em, với sự hy sinh của em.

Khi em đi vào cõi vĩnh hằng, cũng là lúc em sống trong trái tim anh

111

mãnh liệt nhất. Không ngày nào anh không suy tưởng đến em.

Không ngày nào anh không nhắc tên em! Em đã đi qua 21 mùa

xuân của cuộc đời, và giờ đây, em sẽ đi vào mùa xuân bất tận của

tâm hồn anh!

Ngày 12/6/1970

Cầm đến tấm tăng, anh lại nhớ đến em nhiều Nghị ạ. Tấm

tăng của anh bị đứt đường chỉ nối giữa, em đã ngồi cắm cúi khâu lại

đó. Nhìn những đường chỉ quấn quýt, anh lại nhớ tới đôi tay khéo

léo của em. Nhớ hôm em đứng cắt, may quần áo ở chỗ sản xuất này.

Lúc em về Ban rồi, anh định gửi nhờ em may cho anh một cái áo,

song em đi quá xa mất rồi.

Anh đi qua bãi dong riềng bữa hai anh em mình đào củ đó,

thấy nghẹn ngào lắm Nghị ơi. Em có nhớ không, bữa đó rừng núi đã

hết ánh mặt trời. Song cùng em đào dong, trước cái vui tươi hồn

nhiên của em, anh vẫn thấy nó sáng láng vô cùng. Giờ đây bãi dong

đó đã nứt mầm mới, lên rất xanh tốt. Còn em, sao em không trở lại?

Những hình ảnh của em cứ sống lại trong anh mãi. Đó, em

đang ngồi chèo đò ở sông nước Mỹ đó. Hôm ấy cơ quan di chuyển,

khi qua sông thiếu người chèo đò, em đã hăng hái ngồi đằng mũi

chèo. Đôi tay em khoan thai đưa mái chèo đẩy chiếc thuyền lướt tới

giữa dòng sông cuồn cuộn nước chảy, còn trên miệng thì điểm một

nụ cười vừa bối rối vừa bẽn lẽn trước những câu nói đùa của anh em

khác. Em đã từng tâm sự với anh, quê em ở miền biển thuộc huyện

Sơn Tịnh, cha em làm nghề cá. Em bảo khi nào thống nhất anh về

quê em chơi, em sẽ cho ăn cá biển thoả thích. Vậy mà em ra đi đột

ngột quá, đi không hẹn ngày về. Cha, mẹ em chắc đang trông tin

đứa con gái độc nhất của mình. Nhớ ghé về thăm gia đình em nhé!

Nhớ Nghị, tôi nghiền ngẫm về những thực tế mà mình đã trải

qua, trong đó có những kỷ niệm với Nghị, viết một truyện ngắn như

sau:

Cõi mơ

Hoà tới chiến trường vào cuối mùa khô năm 1968. Đã bắt đầu

có những cơn mưa rào xối xả, nhưng không kéo dài. Khi Hoà cùng 5

112

anh em khác vượt khỏi cánh rừng loòng boong, xuống hết một con

dốc ngắn thì thấy một con sông trong xanh, lấp loáng dưới ánh

nắng xế gay gắt. Mọi người đều ồ lên sung sướng. Sau những ngày

đi xuyên những cánh rừng bịt bùng, mắt bị bưng bít bởi màu xanh

bạt ngàn của lá, của cây, nay đứng trước con sông rộng với bờ cát

trắng lấp lánh và bầu trời trong xanh vời vợi, ai cũng thấy tâm hồn

như được chắp cánh bay lên. Chỉ riêng Hoà vẫn lầm lì, cắm cúi

bước. Mãi đến khi đôi chân anh chạm phải dòng nước mát lạnh, anh

mới bừng tỉnh. Vết thương ở mu bàn chân nhói buốt. Cách đây hơn

một tuần, khi luồn vào rừng kiếm nấm, anh chẳng may đá phải mũi

chông ba lá của đồng bào Kadong. Thật tệ hại, chưa đến chiến

trường, chưa tham gia chiến đấu mà đã bị thương! Nhưng điều làm

Hoà day dứt hơn là anh không được điều về đơn vị chiến đấu. Trạm

đón tiếp Quân khu phát hiện anh là sinh viên trường Đại học Giao

thông nên điều anh sang Trung đoàn 230 thuộc Cục Hậu cần,

chuyên trách công tác giao thông...

- Chào hết mấy anh nghen!

Hoà giật mình ngước nhìn lên. Hoá ra lội qua sông, bước lên bờ

từ hồi nào rồi. Bây giờ, nghe tiếng chào lạ tai, Hoà mới để ý thấy

một cô gái mặc áo đen đứng bên một gốc cây sấu to tướng đang chào

hỏi. "Giọng nói gì nghe chát như ổi xanh vậy!" - Hoà thầm nghĩ,

nhưng vẫn làu bàu đáp lại:

- Không dám, chào cô!

Khi mọi người đã quây quần bên gốc sấu, người giao liên nói

với cô gái:

- Cô Nghị nè, tui giao cho cô đủ năm lính mới toanh đó nghe.

Giấy tờ đây. Nhận được chớ?

- Chớ sao! - Cô gái đáp gọn lỏn.

"Chà, sao mà ăn nói cộc cằn", Hoà xét nét nhìn Nghị. Dọc

đường hành quân, trong những đêm dừng chân ở bãi khách, Hoà

hay la cà vào nhà khách của trạm giao liên thăm dò tình hình

113

"vùng đất mới". Trong những câu truyện vui bên bếp lửa rực hồng,

Hoà thường được nghe mấy anh lính cũ đùa đùa thật thật.

- Cậu hỏi khu Năm à? Hay đấy. Nhưng phải cái giọng nói con

gái khu Năm chát lắm. Mà mấy cô lại hay hút thuốc rê nữa. Chính

vì vậy mới có câu: "Tiếng đồn con gái Quảng Đà, mất mùa thuốc lá

chết ba ngàn người".

Còn chính Hoà, mới tuần trước thôi, cũng đã gặp một cô hút

thuốc như vậy. Hôm ấy, Hoà đang ngồi nghỉ thì một cô gái xăm

xăm bước tới:

- Cho tui mượn con dao!

Hoà chưa hiểu cô cần dao làm gì, nhưng vẫn rút con dao găm

buộc cạnh túi cóc ba lô cho cô gái mượn. Cầm con dao, cô gái lẳng

lặng tới khúc cây đổ bên đường. Cô rút trong túi ra một xấp lá

thuốc, xếp chồng lên nhau, cuộn chặt thành một thỏi to bằng cán

dao. Xong, một chân đạp lên thân cây, một tay cầm thỏi thuốc tì lên

thân cây, tay kia cầm dao, cô gái ra sức thái. Hồi lâu sau, thỏi thuốc

đã biến thành những sợi thuốc quăn queo, đen sẫm. Cô đưa trả Hoà

con dao, rồi lại xin một mảnh giấy, cuốn một điếu thuốc to bằng

ngón tay cái, hút ngon lành.

Những câu chuyện và hình ảnh ấy đem lại cho Hoà ấn tượng

không đẹp về con gái khu Năm. Lại thêm nỗi bực bội về chuyện

công tác, Hoà thấy hết sức khó chịu với cô gái có cái tên Nghị - tên

con trai này.

Cái chân đau đã làm khổ Hoà. Miệng vết thương đã kín lại,

nhưng bên trong lại làm mủ, nhức nhối. Cả bàn chân trái tấy đỏ,

nóng như gạch nung. Vào đến đơn vị, chỉ kịp chào hỏi mọi người

một lượt, Hoà đã bị cơn sốt quật ngã. Anh mắc võng, phủ bọc, nằm

li bì. Chiều hôm ấy, đang mê man trên võng, Hoà nghe tiếng gọi:

"Nè anh! Nè anh!" và thấy cái võng mình bị giật giật. Mở bọc võng,

Hoà bắt gặp ngay khuôn mặt nghiêm nghị của cô gái dẫn đường hồi

chiều hôm qua. Anh bực bội định phủ bọc võng lại, thì cô gái đã giữ

lấy:

114

- Dậy anh, em coi vết đau chút.

Cô gái cầm hộp dụng cụ y tế. Thì ra cô là y tá.

Hoà ngồi dậy, đầu nặng như chì. Cô gái ngồi xổm dưới đất, lấy

tay nắn nắn chỗ sưng ở bàn chân Hoà.

- Trời, làm gì mà mạnh tay vậy?

- Vậy mà mạnh à? Ngồi im em rửa nghe!

Nghị lấy panh cặp bông, nhúng nước nóng, chà đi chà lại trên

miệng vết thương. Hoà sởn gai ốc. Nghị giữ chặt chân Hoà, dùng

panh khơi miệng vết thương cho bật mủ ra. Hoà thấy buốt đến tuỷ

sống, song cố cắn răng im lặng. Nhưng nào đã xong. Nghị lại lấy

panh cặp bông, thọc vào miệng vết thương, thọc theo vết chông, như

thông nòng súng. Hoà thấy như bị bào từng thớ thịt ra. Anh hất

tung chân.

- Trời! - Hoà kêu lên, nhưng không phải vì đau, mà vì vừa làm

một việc tai hại: cái hất chân của anh làm đổ cả hộp dụng cụ y tế,

văng cả máu mủ vào người Nghị. Anh đợi một tiếng gắt. Nhưng

không, cô gái chỉ khẽ lắc đầu, nhặt nhạnh những lọ thuốc nằm lăn

lóc trên nền nhà rồi lại cắm cúi xức thuốc, băng cho Hoà.

Nằm kín trong tấm dù rồi, Hoà thầm nghĩ: "Nói năng khô

khan, nhưng lại không bẳn gắt, cũng lạ".

Mất gần một tuần, vết thương mới sạch mủ, Hoà chưa đi làm

đường được. Anh được phân công ở nhà giúp chị nuôi. Buổi sáng,

Nghị đưa anh cái gùi đan bằng mây, bảo: "Anh đi kiếm môn thục

nghe!"

- Hoá ra Nghị cũng là chị nuôi? - Hoà thầm hỏi rồi lẳng lặng

xách giỏ đi. Công việc làm Hoà say mê. Những cây môn thục có

cọng dài, lá to láng bóng mọc thành từng cụm rải rác khắp rừng.

Dọc đường hành quân, Hoà chưa ăn môn thục, nhưng đã nghe anh

em kháo nhau: "Môn thục là vị thuốc bắc, bổ lắm!". Hoà suy luận:

115

"Là cây thuốc, chắc bổ ở củ. Vậy lấy củ thôi, chứ lấy lá làm gì cho

nặng?". Thế là Hoà vặt sạch cọng, lá, chỉ để củ lại. Anh mải mê lần

theo các bụi môn thục, hì hục nhổ nhổ, vặt vặt. Mãi đến gần trưa

anh mới hăm hở bước về, như vừa lập được chiến công. Đặt cái gùi

xuống cái giàn cây ngoài sân, Hoà gọi:

- Cô Nghị ơi, lấy môn mà nấu này!

- Ủa, anh làm chi mà kỳ vậy? Môn thục chỉ ăn được cọng thôi,

anh bỏ cọng ở đâu, để em đi lượm về.

- Trên kia kìa! - Hoà làu bàu trả lời và chỉ tay về phía cánh

rừng non trên dốc.

Bước qua suối rồi, Nghị quay lại dặn:

- Em đang nấu mắm trên bếp. Anh coi nó sôi thì lấy dá hớt bọt

nghe!

- Được rồi! - Hoà trả lời cụt lủn rồi vào bếp.

Nồi mắm kho bắt đầu sôi, đùn bọt lên. Hoà ngó quanh bếp:

chẳng có cái rá nào hết. "Quái, tại sao lại lấy rá hớt? hay là cô ta

bảo mình lọc mắm bằng rá?". Bếp lửa cháy phừng phừng. Nồi mắm

sôi bùng lên, ngầu bọt. Hoà chưa kịp nghĩ phải làm gì thì nó đã trào

ra, dội xuống bếp xèo xèo. Tro bụi bốc mù lên. Hoà vội bắc nồi mắm

xuống. Chợt nhớ có cậu Vinh bị sốt nằm trên nhà, Hoà chạy vội lên.

- Này, lấy rá hớt mắm là sao hả cậu? Cô Nghị bảo mình lấy rá

hớt nồi mắm sôi, mà mình tìm mãi không có rá cậu ạ!

Chợt hiểu, đang sốt đùng đùng, Vinh cũng cười sặc sụa:

- Trời ơi, cô ấy bảo lấy cái vá, tức là cái muôi, để vớt bọt ấy mà.

Tiếng trong này thường lẫn V với D, ông tướng ạ!

Chạy trở vào bếp, Hoà càu nhàu: "Thật ăn không nên đọi, nói

không nên lời, rõ ngán!".

116

Chẳng bao lâu, Hoà đã làm quen được với cuộc sống mới. Đơn

vị của Hoà là trung đội Sơn Hải có nhiệm vụ làm và sửa đường, bắc

cầu cho xe đạp thồ đi. Đơn vị đóng quân ở đoạn cuối của đường thồ.

Hướng Bắc, nó vươn mãi tới con đường ô tô đỏ lói chạy ngoằn ngoèo

bên các sườn núi. Hướng Nam, nó bị dòng sông Thanh chặn đứng

lại. Từ đây, người ta không dùng xe đạp thồ nữa, mà dùng thuyền

vận chuyển hàng hoá, vũ khí cho các đơn vị chiến đấu. Hoà đã

nhiều lần xem xét, nghĩ cách bắc cầu qua con sông này để nối đường

thồ dài mãi ra, nhưng chưa được. Sông quá rộng, một bên là bãi cát,

một bên là vách đá dựng đứng, không có thế để bắc cầu. Giữa

những ngày ấy thì Hoà bị gục: cơn sốt rét đầu tiên đã tấn công anh.

Nghị đưa thuốc ký ninh cho Hoà uống. Mới chưa hết một liều, Hoà

đã thấy tai bùng lên, bùng lên lục bục như nồi bắp hầm. Nhìn vào

đâu, Hoà cũng thấy như bị chói nắng. Miệng đắng như ngậm mật

gấu, Hoà không ăn uống gì cả. Nghị ép Hoà ăn cháo, nhưng Hoà

nuốt không nổi. Cổ họng luôn luôn ghê lợm, bắt Hoà nôn mửa suốt.

Đêm, mắt chong chong, không ngủ được, đầu buốt thon thót. Mãi,

cơn sốt không lui. "Chết chăng?" - Hoà lẩm nhẩm. Nhớ tới chục ống

ký ninh mà mẹ đã cẩn thận đựng trong một ống tre nhỏ dắt vào

thành ba lô lúc Hoà ra đi, Hoà bảo Nghị:

- Tôi có thuốc, cô tiêm hộ nhé!

Nghị nói:

- Không được đâu, mới sốt phải ráng uống thuốc, chớ có tiêm.

Hoà rên rỉ:

- Trời ơi, ác độc vậy, không tiêm giúp, để tôi chết à?

Nghị cười ngặt nghẽo:

- Chết dễ vậy sao anh ơi! Thôi đưa thuốc, em cất dùm, khi nào

sốt ác tính hãy tiêm!

Quả thật, cơn sốt phải lui. Nhưng người Hoà mềm oặt. Hoà

nằm bẹp trên võng, tưởng không thể cất nổi cái đầu nặng trịch lên.

Nghị luôn luôn đến giật võng Hoà:

117

- Đừng nằm nhiều, bết người đi. Dậy cho thanh thản chút coi!

Hoà lại phải ngồi lên. Đầu váng. Mắt hoa. Hoà cau có nhìn

Nghị, nghĩ thầm: "Làm gì mà ám dữ vậy?". Không để ý đến thái độ

khó chịu của Hoà, Nghị lại giục:

- Anh xuống võng, đi lại cho nó quen chút nào!

Cứ thế, dường như ngày nào Hoà cũng không được nằm yên vì

Nghị "ám". Nhưng cũng lạ, anh thấy sức khoẻ hồi phục khá

nhanh...

Một hôm, Hoà được phân công ở nhà giúp chị nuôi. Nghị rủ:

"Sáng nay, anh và em đi cải thiện cho anh em nghen!". Hoà tán

thành, nhưng chưa biết "cải thiện" bằng cách nào! Sau khi dọn dẹp

bếp núc, Nghị bảo Hoà cầm rựa, mang gùi cùng mình ra khu rừng

đót. Rừng khu Năm có những cây đót thật kỳ diệu. Thân, lá trông

giống hệt cây dừa, nhưng lại không có quả như dừa. Quả của nó

mọc thành buồng, giống như buồng cau, mỗi quả chỉ bé bằng đốt

ngón tay. Thử ăn vào quả đót mà xem - ngứa móc họng ra. Vậy mà

đồng bào dân tộc lại biết cách trích cuống buồng để lấy ra thứ nước

tự lên men, biến thành rượu ngon tuyệt: thơm, ngọt, nồng nàn vị

rượu nếp. Nghị nói rằng ở giữa ngọn nó có một cái lõi mềm, ăn ngon

như củ sắn (tức củ đậu ở ngoài Bắc), gọi là hũ đót. Để lấy được hũ

đót, phải vạc vỏ dần dần từ ngoài vào.

Hai anh em lên tới rừng đót lúc mặt trời đã vượt khỏi ngọn cây

cao nhất rừng. ánh nắng cố len lỏi qua những tán lá dày của rừng,

toả hơi ấm xuống, nhưng vẫn không xua nổi cái ẩm lạnh muôn thủa

của rừng già. Những cây đót mọc rải rác đó đây, chịu lép dưới

những bóng cây cổ thụ ngút ngàn. Nghị bảo Hoà chọn một cây mọc

nghiêng bên sườn núi, dễ chặt, còn mình chọn một cây nằm lưng

chừng dốc. Hoà hăm hở chặt. Rựa thật sắc, nhưng gặp thứ gỗ dai,

xốp, nên không ăn ngọt xớt được. Hơn nữa, cái mũi khoằm của rựa

luôn luôn làm vướng víu, nhiều khi khiến con rựa bật ngược trở lại.

Thỉnh thoảng dừng tay, Hoà vẫn nghe tiếng rựa của Nghị phồm

phộp bập vào thân đót, nghe không dồn dập, nhưng cần mẫn, đều

đặn. Hoà càng chặt mạnh hơn. Mồ hôi túa ra ướt sũng lưng áo. Hoà

118

quyết lấy được hũ đót trước Nghị. Chẳng bao lâu, Hoà đã chặt đứt

phăng ngọn đót, làm nó rơi đánh rầm xuống, lăn hai ba vòng rồi

mắc kẹt ở gốc một cây trường. Hoà reo to:

- Xong một cây rồi, cô Nghị ơi! - rồi hăm hở chạy đến chỗ ngọn

đót.

Nhưng Nghị lại cau mày:

- Trời ơi, ai lại chặt lìa nó ra, làm sao vạc được vỏ?

Hoà bối rối:

- Vậy phải bỏ à?

Nghị bảo:

- Thôi, ráng vạc dần vỏ mà lấy hũ, đừng bỏ phí mà phải tội với

rừng.

Hai người hì hục lôi khúc ngọn cây đót lên chỗ bằng. Nghị lấy

rựa róc lớp vỏ ngoài - tay này róc, tay kia kéo. Những lớp xơ lằng

nhằng níu kéo lớp vỏ như muốn đánh vật với con người. Nhưng dần

dần, hết lớp này đến lớp khác bị lột, để hiện ra cãi lõi trắng phau.

Nghị khéo léo vạc nốt những đoạn xơ ở đầu, lấy được một hũ đót to

bằng cái bi đông. Cô lấy rựa, xắt một miếng nhỏ, đưa cho Hoà: "Anh

ăn thử coi!". Hoà bỏ ngay miếng đót vào miệng, nhai rau ráu: ngọt

và mát lịm.

Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu, nhưng không đủ sức xuyên thủng

lớp mây mù dày đặc của bầu trời tháng mười. Rừng đã thoáng đãng

ra, nhưng vẫn ẩm ướt, bốc lên mùi lá cây mục ngầy ngậy, nồng

nồng. Không khí lành lạnh. Nhưng Nghị và Hoà vẫn thấy nóng ran.

Họ vừa hạ xong cây đót thứ tám. Những hũ đót nằm lăn lóc trong

gùi; những chỗ bị bầm vập đã ngả màu cánh gián. Nghị bảo: "Ta

nghỉ trưa, rồi xuống suối bắt ốc, về nấu cơm chiều là vừa". Cô xăng

xái đeo gùi, rảo bước theo triền dốc về phía suối. Hoà ngoan ngoãn

bước theo. Bây giờ anh mới để ý thấy Nghị có dáng người săn chắc,

119

với những bước đi thoăn thoát mà vững vàng. Cô rảo bước trên con

đường trơn nhẫy mà không hề trượt ngã. Đến bờ suối, Nghị đặt gùi

lên một tảng đá. Dòng suối, mặc dù phải luồn lỏi giữa khu rừng,

vẫn đón được những tia nắng hiếm hoi của bầu trời đầu mùa mưa,

hắt sáng lên gương mặt Nghị, làm ngời lên đôi mắt to, lấp lánh của

cô. Nghị bảo Hoà lượm củi, nấu cơm, còn mình thì lội xuống suối

kiếm ốc, cá. Hoà lại ngoan ngoãn làm theo. Tìm kiếm mãi, Hoà mới

lượm được một nhúm củi khô. Nhưng không sao. Chỉ cần chừng ấy

làm mồi là đủ. Hoà đã học được ở Nghị cách đun bằng củi trường

tươi. Cây trường có vỏ đỏ, bị chặt thì ứa ra thứ nhựa đỏ như máu.

Gỗ của nó thẳng thớ, dễ chẻ, có thể tước mỏng như đóm tre. Thứ

đóm ấy mau khô, chỉ cần dựng cạnh bếp lửa một lúc là đốt đã cháy

đùng đùng. Bây giờ, bên bếp củi, Hoà đã có một lô đóm củi trường.

Đốt xen lẫn với những cành tre khô, củi trường nổ tí tách, bắn ra

những hoa lửa trông đến là vui mắt. Vừa nấu cơm, Hoà vừa chăm

chú nhìn Nghị đang lom khom dưới suối. Đã nhiều lần Hoà tự hỏi:

vì sao Nghị có thể sống một cách vô tư như thế giữa một cuộc sống

gian nan là vậy? Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình Nghị, Hoà giải đáp

được một phần.

Nghị sinh ra trong một gia đình ngư dân ở vùng biển Sơn Tịnh,

sâu trong vùng kiểm soát của nguỵ quyền Sài Gòn. Những năm

tuổi thơ của Nghị gắn liền với những nỗi nhọc nhằn khi biển động,

lúc trời nắng lửa, với những trận gió cát mịt mù. Nhưng cái dữ dằn

của thiên nhiên lại không dày vò Nghị bằng cái dữ dằn của con

người. Mồ côi cả cha lẫn mẹ, Nghị phải đi ở cho một người bà con

xa. Tiếng là người nhà, nhưng bị bóc lột chẳng kém người dưng

nước lã. Mới hơn chục tuổi đầu, Nghị phải làm đủ việc, từ vá lưới,

làm mắm, phơi cá tới nấu cơm. Một tiếng nói yêu thương, Nghị

không hề được nghe. Suốt ngày chỉ cắm cúi làm lụng, để rồi thỉnh

thoảng giật thót mình khi nghe tiếng quát của bà thím và lâu lâu

lăn lộn một lần trong trận đòn oan của ông dượng. Rồi quê Nghị

được giải phóng. Một không khí khác lạ đã tràn đến vùng biển này.

Cũng là cuộc sống lao động, nhưng Nghị thấy mọi người cư xử với

nhau thân ái hơn, hay quan tâm đến nhau hơn. Nghị được sinh

hoạt thiếu nhi, được học hát, thật vui. Khi quân Giải phóng rút về

căn cứ, Nghị trốn gia đình theo một đơn vị hậu cần. Từ đấy, Nghị

phải nếm trải những gian lao mới, nhưng cũng được biết thế nào là

120

bình đẳng và thương yêu. Dạo ấy, cuộc sống ở vùng căn cứ thiếu

thốn lắm. Đơn vị hầu hết là những người lính trẻ quê ở miền Bắc,

làm nhiệm vụ vận chuyển hàng từ miền Bắc vào. Cõng trên lưng

súng đạn, lương thực, thực phẩm, quân nhu để tiếp tế cho các đơn

vị chiến đấu phía trước, nhưng họ chỉ sống bằng những thứ tự túc

được. Bữa ăn chủ yếu là sắn, rau rừng với mắm cái và thường thì

không đủ no. Nghị thường được các anh dành riêng cho xuất cơm

không độn sắn, với vài con cá nhỏ xíu bắt được ở suối, "để có sức mà

lớn" - như các anh thường nói. Anh trung đội trưởng còn cho Nghị

cả cái võng dù, ấm mà nhẹ, anh được cấp khi rời hậu phương, thay

cho tấm võng nilông mỏng, lạnh lẽo. Tối tối, các anh lại mở đài cho

Nghị nghe - các anh bảo rằng đó là tiếng nói thân thương được

truyền đi từ miền Bắc Xã hội chủ nghĩa. Rồi các anh dạy Nghị học.

Khi thì học vào lớp buổi tối, bên ngọn đèn dầu leo lét. Lúc lại học

truyền miệng ngay trên rẫy, khi đang làm cỏ cho ngô. Sống giữa núi

rừng thâm u nhưng trong tình thương yêu của đồng đội, Nghị vẫn

lớn lên, khoẻ mạnh cả về thân thể và tinh thần. Bởi thế, nhiều khi

Nghị nói rất chân thành: "Đi làm cách mạng sướng hơn ở nhà

nhiều". Cũng bởi thế, cô vượt qua sự vất vả, đói cơm, lạt muối mới

nhẹ nhàng làm sao. Đồng thời, cuộc sống khắc nghiệt đã luyện cho

Nghị thói quen sống nghiêm khắc - nghiêm khắc với chính bản thân

mình.

Mải suy nghĩ, Hoà không biết Nghị đã đến bên bếp từ lúc nào.

Cô bày lên tấm lá chuối bốn con cá nhỏ đã làm sạch, một nắp cặp

lồng ốc đã chặt trôn và một cái bắp chuối. Cô hồ hởi:

- Em chiêu đãi anh Hoà một bữa cơm Xã hội chủ nghĩa nghen!

Hoà giật mình bứt khỏi dòng suy nghĩ:

- Chà, Nghị giỏi quá, làm sao lại bắt được cả cá thế này.

- Giỏi chi đâu anh, liệng đá rầm rầm xuống suối, cá sợ rúc vô

hang, lùa tay bắt đại được mấy con cá mù thôi mà.

Hai anh em vừa ăn cơm bên con suối róc rách tiếng nước chảy

vừa thủ thỉ tâm sự. Đến bây giờ Hoà mới thấy rằng Nghị thật giàu

121

tình cảm. Hình như hằng ngày, do công việc dồn dập, do những

căng thẳng của cuộc sống mà tình cảm ấy không có dịp được bộc lộ

ra. Còn bây giờ, trong cái tịch mịch của rừng già, bên tiếng suối róc

rách, hình như dòng tình cảm vốn tràn đầy của cô gái mới lớn ấy

mới có dịp được khơi nguồn, tuôn chảy dào dạt. Nghị kể về cuộc

sống cơ cực của mình ở quê, những trận sốt rét kinh khủng khi mới

lên chiến khu, bước đường trưởng thành khi được sống giữa một

đơn vị quân đội. Tại đó, cô đã được anh em dạy cho từ mù chữ lên

lớp bốn, rồi lại được đi học lớp y tá ngắn ngày. Tại đó, cô bắt đầu

làm quen với những cuốn sách văn học có giá trị như Ruồi trâu,

Thép đã tôi thế đấy, Những người khốn khổ, Đội cận vệ thanh

niên... Cô ngừng kể và hỏi:

- Ngoài đó, Xã hội chủ nghĩa sướng lắm hả anh?

Hoà chưa kịp nói gì thì Nghị đã tự trả lời:

- Sướng thiệt đó chớ. Nội chuyện được đi học, được hiểu biết, đã

sướng hết chỗ nói rồi. Mà nghe nói anh học cao lắm hả?

- Cũng đang dở dang đại học, cao gì đâu.

- Em thì mới đang bì bạch lớp tư. Em chỉ mong ngày mai thắng

lợi rồi, sẽ được học lên đại học thôi...

Cứ thế, Nghị vừa hỏi lại vừa tự trả lời và say sưa nói tới "ngày

mai chiến thắng". Cái ngày mai ấy như một con chim dẫn đường

luôn luôn bay ở phía trước, cất tiếng hót lảnh lót chào đón Nghị.

Cơm nước xong, hai anh em cùng đi bắt ốc. Vào những ngày

này, rừng đã bắt đầu bị những cơn mưa xối xả đầu mùa tấn công.

Những dòng suối đang trong vắt bỗng đục ngầu, nước dâng cao, trôi

ào ạt. Nước chảy băng băng, cuốn theo đủ thứ nằm trong lòng nó: từ

rác rưởi đến sỏi cát và cả những con cá, con ốc nhó bé. Để khỏi bị

nước cuốn đập vào đá vỡ tan tành, bầy ốc khôn ngoan men vào bờ,

chui tụt vào trong các hốc đá. Khi nước rút, chúng vẫn cố thủ ở đó

để đề phòng những trận mưa khác. Bây giờ, hai anh em chỉ cần đi

dọc mé nước, luồn tay vào các hốc đá là có thể vốc ra từng vốc ốc.

122

Thứ ốc đá này chỉ to bằng đầu ngón tay cái, nhưng nấu canh ngọt

phải biết. Mà cách ăn mới lạ chứ: chặt trôn, bỏ vào nồi nấu lẫn với

rau, khi ăn thì bốc từng con mà hút lấy thịt từ trong vỏ ra.

Mùa mưa đã thực sự đến rồi. Bầu trời xám ngắt, lúc nào cũng

mọng nước. Mưa tầm tã, cơn này chưa kịp dứt, cơn khác đã sầm sập

đuổi tới. Con suối nhỏ hiền lành phía dưới nhà bếp bỗng rộng ra dữ

tợn. Đêm, nằm nghe tiếng mưa xối trên lá cây mà buồn nẫu cả ruột.

Xen vào tiếng rì rầm của mưa là tiếng nước suối cuốn ào ào, sùng

sục, lại có cả tiếng những hòn đá ông sư lăn theo nước cùng cục,

cùng cục nữa. Mùa mưa kéo theo bao nhiêu khó khăn cho cuộc sống

ở chiến khu: giao thông tắc nghẽn, lương thực thiếu hụt, bệnh tật

bùng ra.

Đơn vị đã cạn gạo rồi. Những bao sắn khô được chuyển từ nơi

sản xuất về cũng nhanh chóng rỗng đi. Đường xuống đồng bằng bị

kẹt do nước sông Thanh dữ quá. Phải đi ngược ra phía Bắc, lĩnh gạo

ở trạm "Xã hội chủ nghĩa". Khu Năm có hai loại trạm giao liên:

trạm "Giải phóng", bắt đầu từ đoạn đường cắt ngang Khâm Đức trở

vào, do lực lượng của Mặt trận Dân tộc giải phóng phụ trách. Còn

từ đó trở ra do đoàn 559 Quân đội nhân dân Việt Nam phụ trách,

mà không biết ai đã đặt cho cái tên thật đáng yêu: Trạm "Xã hội

chủ nghĩa".

Nghe nói sắp được ra trạm "Xã hội chủ nghĩa" nhận gạo, Nghị

nằng nặc đòi đi. Nhưng Nghị đang sốt. Nghị nài nỉ trung đội

trưởng: "Anh Tuyên, em sốt nghĩa vụ đó mà, bớt liền thôi. Cho em

đi với. Em đi ra cho biết trạm "Xã hội chủ nghĩa" là thế nào". Với

Nghị, những chữ "Xã hội chủ nghĩa" sao hấp dẫn và thiêng liêng

nhường vậy. Chưa một ngày ở miền Bắc, Nghị chưa hiểu Xã hội chủ

nghĩa cụ thể ra sao. Nhưng cứ thấy miền Bắc cử con em mình -

những chàng trai mạnh khoẻ, thông minh, có học thức - vào cùng

đồng bào quê hương chiến đấu, cứ thấy miền Bắc luôn luôn chi viện

cho chiến trường từ vũ khí đến lương thực, thực phẩm, Nghị cũng

mường tượng được ở đó con người sống tốt đẹp thế nào. Đó là ngọn

lửa trong đêm, là tiếng hú gọi của đồng đội giữa rừng hướng Nghị đi

tới. Đó là niềm tin, là hy vọng, tạo thành sức mạnh giúp Nghị vượt

qua mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống chiến khu.

123

Nhưng, đúng ngày lên đường cõng gạo thì Nghị bị quỵ hẳn.

Lần này, cơn sốt đến dữ dội quá, khiến Nghị không gượng dậy được.

Trước lúc lên đường, nắm bàn tay giá lạnh của Nghị, Hoà động

viên: "Cố uống thuốc cho khoẻ, về anh sẽ có quà Xã hội chủ nghĩa

cho em!".

Đến ngày thứ chín, Hoà và anh em mới cõng gạo về. Cách nhà

nửa ngày đường, gặp cậu Vinh đi lên Tiểu đoàn bộ, Hoà hỏi thăm

mới biết rằng Nghị đang sốt bê bết, có chiều nguy kịch, đã uống

thuốc liều cao lắm rồi mà không bớt. Giàu nghị lực như Nghị mà

bây giờ cũng phải nằm bết trên võng. Không thể đưa Nghị đến bệnh

xá Trung đoàn được, vì phải băng qua sông Nước Mỹ, nước lớn quá.

Mà thuốc tiêm thì cả đơn vị không còn một ống nào... Nghe nói đến

đó, Hoà giật tay Vinh:

- Sao, cậu bảo phải có thuốc tiêm à? Trời ơi, chính Nghị giữ hơn

chục ống thuốc của mình chứ đâu. Sao không lấy mà tiêm cho

Nghị?

- Có ai biết là Nghị giữ thuốc tiêm trong mình đâu...

Hoà xốc gùi gạo, bươn bả đi. Những ý nghĩ u ám cứ bao phủ

đầu óc anh. Có kịp không hả em? Anh về lấy thuốc tiêm cho em có

kịp không đây. Trời ơi, nếu em có làm sao thì anh ân hận biết

chừng nào! Anh có quà Xã hội chủ nghĩa cho em đây - một đôi dép

nhựa Hải Phòng có quai hậu, hai chiếc cặp ba lá. Đứa bạn đồng

hương của anh tặng anh để anh tặng em đây... Nghị ơi, cố chờ anh

nhé!

Tới nhà, quăng vội gùi gạo lên giàn, Hoà chạy xồng xộc lên lưng

dốc, nơi Nghị ở. Cái giá lạnh của rừng mưa tràn ngập căn nhà. Một

chiếc võng treo ở góc nhà, phủ bọc kín mít. Im lặng và lạnh lẽo đến

rợn mình. Chỉ có tiếng mưa rả rích một điệp khúc buồn tẻ. Không

kịp lau khô tay, Hoà đến bên võng, mở tung bọc ra. Hoà muốn trào

nước mắt: Nghị nằm co quắp trong tấm dù hoa, trán lạnh ngắt. Hoà

lay lay:

- Nghị! Nghị! Tỉnh lại em! Anh về đây!

124

Nghị từ từ mở mắt - đôi mắt to, đen, vốn luôn luôn sáng lấp

láy, nay dại hẳn đi. Nghị chỉ mấp máy môi: "Anh Hoà!", rồi lại thiếp

đi. Hoà cuống quýt lay Nghị:

- Nghị, Nghị ! Thuốc đâu, sao không tiêm?

Nghị lại hé mắt, nói đứt quãng:

- Trong ống tre... ba lô, dành cho anh...

- Trời ơi! - Hoà kêu lên mà nghe tim mình nhói buốt. Thương

quá! Sao lại nghiêm khắc tới cứng nhắc như vậy hả em?

Phủ bọc võng lại cho Nghị, Hoà lại góc nhà tìm hộp kim tiêm

đem luộc và chuẩn bị thuốc. Chuyến đi vừa qua, anh được anh bạn

đồng hương tặng cho một hộp thuốc B12. Nhờ chịu khó học tập khi

tập trung huấn luyện để đi B, Hoà tiêm khá thành thạo.

Thuốc tiêm đã làm lui cơn sốt, nhưng Nghị vẫn đuối sức lắm.

Mưa thì tầm tã không dứt. Làm sao đưa Nghị đi bệnh xá được. Có

lẽ hồng cầu của Nghị chỉ còn vài triệu. Hoà nhìn Nghị nằm mê man

mà tâm trí rối bời, ruột gan quặn thắt. Rồi anh quyết định: phải

băng qua sông Nước Mỹ, mời bác sĩ về.

Trong chiến trường, có những việc được giải quyết ngoài sức

tưởng tượng của con người. Trường hợp Nghị là một. Cả một tốp bác

sĩ, xét nghiệm viên đã cùng Hoà vượt qua được sông Nước Mỹ hung

dữ chỉ bằng sợi dây mây căng ngang sông. Anh em đã xét nghiệm

và lấy máu của ba người, trong đó có Hoà, truyền cho Nghị. Thế mà

Nghị dậy được. Chẳng bao lâu sau, Nghị lại khoẻ mạnh, lại xốc vác

mọi công việc của đơn vị. Nghị thường đùa: "Em được tiếp máu Xã

hội chủ nghĩa nên mạnh hơn trước nhiều!".

Hôm ấy, vào buổi chiều tà, Nghị đi lấy măng về. Chưa kịp ăn

cơm, cô đã chạy đi tìm Hoà, hồ hởi khoe:

- Anh Hoà, em tìm ra chỗ bắc cầu rồi!

125

- Sao, chỗ bắc cầu nào?

- Bắc cầu qua sông Thanh ấy. Mải đi kiếm măng, em đã vượt

qua khu rừng nứa, sang tuốt ngọn núi bên kia. Ai dè, ở đó hai bờ

sông gần nhau quá, lại có những tảng đá chạy ngang sông.

Nơi Nghị tìm ra quả là tuyệt vời: hai bờ sông có độ cao tương

ứng, giữa sông lại có những tảng đá lớn nối đuôi nhau, làm trụ cầu

thật phù hợp. Qua bên kia sông, vượt khỏi mỏm dốc là đến con

đường 14, xưa kia địch làm, nay vẫn bỏ không.

Phương án làm cầu của Hoà được đơn vị thực hiện thật chóng

vánh. Anh em hạ những cây gỗ lớn hai bên bờ bắc lên những tảng

đá, rồi ghép gỗ nhỏ và phên nứa thành chiếc cầu khá vững chãi.

Con đường thồ được nối dài, vượt sông Thanh, vươn sang tận đường

14, kéo xuống tận Tý, Xé. Chiếc cầu ấy mặc nhiên được anh em gọi

là cầu Cô Nghị. Cũng từ đó, đơn vị kiếm thêm được một khoảnh đất

mầu mỡ bên kia sông làm nơi trồng rau, khoai. Thỉnh thoảng Nghị

ra đó kiếm rau tươi về cho đơn vị.

Dạo này, chuẩn bị sang giai đoạn Việt Nam hoá chiến tranh, bị

tấn công liên tục ở đồng bằng, bọn địch điên cuồng đánh phá lên

căn cứ của ta. Lũ máy bay B57 bay lẻ, thỉnh thoảng quăng xuống

núi rừng những trái bom nổ chát chúa. Đã có những trận B52 rải

thảm đó đây. Tuy không chà đi xát lại tạo thành thảm bom dày như

trước, nhưng mỗi loạt bom thả từ ba chiếc bay song song cũng đủ

tạo ra một thảm chết dài cả cây số. Dọc đường thồ, đã có vài đoạn bị

tấm thảm đó phủ lên: cây cối đổ nhào, đất đá bị cày xới đỏ quạch,

tạo thành những hố sâu hoắm. Đơn vị của Hoà bận túi bụi với việc

sửa đường, bắc cầu. Nghị quay tròn với công việc phục vụ: chăm sóc

người ốm, kiếm thức ăn và nấu cơm. Đôi ba ngày, Nghị lại đi qua

bãi rau bên kia cầu Cô Nghị một lần để lấy rau lang về. Thường thì

phải sau bữa cơm chiều, khi chim rừng đã xào xạc về tổ, Nghị mới

cõng gùi rau nặng trịch về nhà. Những hôm như thế, Hoà ra tận

gốc sấu bên bờ sông Thanh đón Nghị. Gốc sấu già sần sùi đã trở

thành nơi in dấu những kỷ niệm dịu êm của hai người ."Chừng nào

em mới được ra miền Bắc, anh Hoà?" Nghị đã hỏi Hoà câu hỏi ấy

126

không biết bao nhiêu lần. "Chừng nào, chừng nào"... Hoà day dứt,

khổ sở. Bởi anh không sao trả lời được câu hỏi ấy.

Hôm nay, Nghị lại ra bãi sông hái rau lang. Chim muông xao

xác về tổ. ánh nắng quái chiều đang dần dần nhạt đi. Chỉ bãi sông

và chiếc cầu là còn nhận được những tia nắng cuối ngày, nổi bật lên

giữa mầu xám của núi rừng. Nhìn chiếc cầu mang tên mình, Nghị

lại thấy lòng tràn ngập một tình cảm đằm thắm. Các anh trong

trung đội đã bỏ bao công sức làm nên chiếc cầu, Nghị làm được gì

mà được gắn tên mình cho chiếc cầu? Thật là những gì tốt đẹp nhất,

các anh ấy đều dành cho mình. Nghị bỗng thấy chiếc cầu đẹp lạ

lùng. Dường như nó đã bứt khỏi mặt đất, lửng lơ giữa bầu trời, khoe

những đường nét gãy gọn, khoẻ khoắn, còn phía dưới nó, bụi nước

đang ánh lên muôn hồng ngàn tía như ở cõi mơ nào đó. Bỗng có

tiếng gầm gào quái dị của bầy B52. Đúng lúc Nghị đi đến giữa cầu

thì đất trời rung chuyển. Một quầng lửa bùng lên, bốc lên cao, cuốn

theo cả những mảnh vụn của chiếc cầu, thả rơi lả tả xuống lòng

sông. Nghị cũng đã tan biến vào cõi mịt mù đó.

Chỉ mấy phút sau, cả Trung đội Sơn Hải đã tập trung bên mố

cầu, lặng đi trong nỗi đau vô hạn. Hoà đăm đăm nhìn vào cái nơi

mà anh đã quá gắn bó - cầu Cô Nghị - bây giờ chỉ còn là một khoảng

không lạnh ngắt.

Dòng sông Thanh đục ngầu như giận dữ, vật vã băng mình qua

hẻm núi, cuồn cuộn cuốn về xuôi...

Cứ xuôi mãi con sông này, sẽ tới một dòng sông lớn hơn, chảy

êm ả giữa một đồng bằng phì nhiêu. Đó là quê Nghị. Dòng sông có

đưa Nghị về quê không? Và em có biết rằng cứ ngược mãi theo con

sông này, sẽ gặp con đường đất đỏ vượt Trường Sơn ra miền Bắc.

Ngọn lửa dẫn đường của Nghị ở phía đó, Nghị có vượt được thác

ghềnh mà tới đó không?...

Ngày 14/6/1970

Chúng tôi dồn sức vào việc trồng sắn. Phải phấn đấu cho được

80 nghìn gốc! Rất gay go là hom sắn ở xa quá, phải đi một ngày mới

127

có. Sáng dậy, ăn cơm xong, mỗi người mang một nắm cơm, một con

rựa xuống phía Đắc Lon, rúc vào các rẫy sắn cũ mà chặt cây sắn.

Rồi bó thành bó khoảng 100 cây mà cõng về. Leo dốc, leo dốc chí tử,

thở phì phò. Gùi cây sắn đè mọp lưng xuống.

Gặp đồng bào đi lấy nước đót và họ cho uống đến say. ở rừng

núi có thứ đót thật hay. Khi nó ra buồng, người ta chặt buồng gần

sát cuống, xẻ rãnh rồi hứng ống tre ở dưới. Nước trong cây đót chảy

ra một cách nhỏ giọt, mỗi ngày được khoảng 1, 2 lít. Thật kỳ lạ, thứ

nước đó vừa ra không khí là lập tức lên men, nồng như bia và pha

vị ngọt. Uống ngon và say như nước rượu nếp vậy. Tôi uống một ống

nhỏ, vậy mà mặt cũng đỏ bừng, người chuyếnh choáng.

Chúng tôi trồng sắn xen trong lúa, mỗi công được khoảng trên

1000 gốc.

Ngày 17/6/1970

Giữa lúc công việc đang dồn dập thì Ban lại rút 3 người. Chỉ

tiêu sắn rút xuống còn 60.000 gốc, các thứ khác vẫn giữ nguyên.

Phải ráng hết sức

Lan và Cứu hết sức bịn rịn lúc chia tay chúng tôi. Anh em từng

chung lưng đấu cật vượt gian khổ gây dựng cơ sở, nay xa nhau sao

khỏi thương nhớ? Chuyện trò tâm tình với nhau tới 11, 12 giờ đêm.

Rồi ghi lưu niệm. Tặng vật kỷ niệm cho nhau. Tôi thấy cái tập thể

này rất đáng yêu. Ai cũng vậy, đều hăng hái, biết lo lắng việc chung

và rất thương yêu, đùm bọc nhau.

Ngày 1/7/1970

Tôi đón ngày sinh thứ 24 của mình ở cơ sở sản xuất. Nhanh

thật, đã 3 lần rồi tôi đón sinh nhật của mình ở môi trường sống mới

- nơi đầy gian khổ. Rất đáng mừng là trong hoàn cảnh đó, tôi vẫn

đương đầu chịu đựng được và vẫn lớn lên.

Hồi này chúng tôi tập trung vào việc làm cỏ lúa, giữ bắp, trồng

sắn. Công việc quá dồn dập, người lại ít nên chúng tôi phải làm rất

căng. Ngày làm suốt, không nghỉ trưa, tối về lại lẫy bắp hoặc làm

128

các công việc linh tinh khác. Giữa những ngày bận rộn này, đồng bào

đã đến làm giúp chúng tôi - chúng tôi giúp lại muối, vải, rựa... Đồng

bào ở đây thuộc dân tộc Kà Dong. Bà con rất nghèo, thiếu ăn và thiếu

mặc. Tôi không khỏi ái ngại khi thấy những cô gái đang ở tuổi dậy thì

mà phải mặc những chiếc áo rách rưới, hở cả da thịt. Có những em bé

chỉ khoảng 8, 9 tuổi cũng đến làm - làm như người lớn vậy. Tôi thấy

thương chúng vô hạn. ở cái tuổi đó, đáng lẽ các em chỉ việc ăn, học và

chơi. Song cuộc sống khắc nghiệt quá, nó đòi hỏi các em phải vươn tới

quá sức mình. Tôi trò chuyện với đồng bào và thấy thông cảm với họ.

Tôi cũng học tiếng Kà Dong và nói được đôi câu.

Bắp trỉa trong lúa của chúng tôi rất tốt, cây vươn cao, trái mập

mạp. Nhưng lũ sóc phá quá. Chúng leo lên cây, gặm lấy gặm để

những trái đã căng hạt. Do vậy, chúng tôi phải thay nhau đuổi

chúng. Lũ sóc rất khôn, cứ thập thò ở cửa rừng, gọi nhau sọc sọc, hễ

thấy vắng là phóc ra rẫy ăn bắp liền. Đặc biệt là một loại sóc nhỏ,

chúng tôi gọi là con đồi. Chúng chỉ to hơn con chuột nhắt một tý,

lông mầu xám, có 3 sọc đen dọc sống lưng, nhanh nhẹn vô kể. Thoắt

cái, chúng đã điu vào trái bắp mà gặm nhấm, thấy động, thoắt cái,

chúng đã vọt mất vào rừng, không làm sao bắn được.

Mùa này dễ đau ốm quá. Nắng rất dữ dội. Song lại có những

cơn mưa đột ngột. Hơi đất xông lên nồng nồng khó chịu. Muỗi và

dãn phát triển với mức độ kinh khủng. Ngồi ăn cơm trưa ở rẫy,

muỗi lao vào chích khắp người. Dãn bu đầy chân, đập một cái phải

chết hơn chục con. Đập hết những con này thì lập tức hàng chục con

khác lại bu vào liền và thi nhau đốt.

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội, ngày 1 tháng 7 năm 1970

Con yêu dấu!

Mỗi lần cầm bút viết thư cho con, bố lại đặt câu hỏi: liệu thư

này có đến tay con không và bao giờ gia đình lại nhận được thư của

con? Có thể nói không tháng nào gia đình, bố mẹ không biên thư

129

cho con và từ 7/1969 đến nay 7/1970 bố mẹ chỉ nhận được 2 thơ của

con. Có lẽ gia đình, nhất là mẹ con, được gặp con, nói chuyện với con

trong giấc mơ nhiều hơn, sau những ngày mong mỏi tin tức của đứa

con yêu dấu! Bức thư dịp Tết của con gửi về khu sơ tán của trường,

sau một thời gian đi nơi này nơi khác, cuối cùng mới đến tay bố mẹ.

Gia đình được thư của con sau 5,6 tháng lo nghĩ, bố mẹ và các em

con rất phấn khởi. Các em con thay phiên nhau đọc thơ của con, vì

đứa nào cũng muốn đọc trực tiếp thơ của anh Long của nó. Con

sống, lao động, công tác trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, mà vẫn

giữ vững được ý chí phấn đấu, tinh thần lạc quan cách mạng, bố mẹ

và các em rất vui mừng.

Trước hết bố báo tin để con rõ gia đình ta cùng với trường đã

chuyển cả về Mễ Trì - Hà Nội, ở địa điểm cũ, cho nên con đừng viết

thư về khu sơ tán nữa. Tình hình sản xuất, lao động ở ngoài này

chắc con cũng đã theo dõi được, bố chỉ nói thêm là ở ngoài này mọi

người, kể cả các học sinh của bố, đang ra sức đóng góp phần trực

tiếp của mình vào việc sản xuất ra của cải vật chất, ngoài việc hoàn

thành nhiệm vụ chuyên môn của từng người.

Gia đình ta, cùng với sự biến chuyển chung, cũng có những

điểm mới, phấn khởi.

Anh Đức sau khi tốt nghiệp đại học cơ khí chính xác vào loại ưu

đã về nước hôm 2/4 và hôm nay công tác ở Uỷ ban Khoa học kỹ

thuật, Hà Nội. Anh không béo song rất khoẻ mạnh, anh có mang

được ít quà về, chỉ tiếc là con ở xa nên không gửi quà cho con được.

Em Phúc, sau mấy năm công tác tốt, được chọn đi thực tập ở

Liên Xô. Em lên đường từ 10/1969 và hiện nay đang ở Liên Xô, cách

Kiép 100km. Em thường xuyên biên thư về. Em rất khoẻ mạnh, và

sẽ thực tập trong 3 năm, sau 6 tháng học tiếng Nga, em sẽ về nước

vào khoảng 6/1973.

Em Việt hiện nay là sinh viên trường Đại học Tổng hợp. Em

học ngôn ngữ, khoa văn. Em học vào loại khá, đang học thi học kỳ

II 1969 - 1970 trước khi nghỉ hè. Em học hệ 4 năm 1/2. Em được học

bổng như toàn thể sinh viên của trường đại học ở miền Bắc.

130

Ngọc có những tiến bộ đặc biệt. Em đang học chuyên ngoại ngữ,

tức lớp năng khiếu ngoại ngữ, em học vào loại giỏi cả về phổ thông

và ngoại ngữ. Em học tiếng Anh. Cuối năm vừa tổng kết xong, em

là học sinh tiên tiến, được xếp vào loại ưu tú, được ghi âm tiếng Anh

để phát ra trong hội nghị tổng kết. Em được học bổng mỗi tháng

22đ và có rất nhiều triển vọng

Em Diệp cũng là học sinh tiên tiến cuối năm. Em học khá toàn

diện.

Lan học vào loại xuất sắc, nhất là về văn và toán (được khen

thưởng cuối năm).

Em Thuỷ được lên lớp 3, em học vào loại trung bình khá. Em

hơi gầy, yếu, nên cũng không muốn ép em học nhiều.

Bố mẹ vẫn công tác với hết khả năng của mình, dĩ nhiên cùng

với thời gian, có già hơn trước, nhất là sau 3, 4 năm sơ tán, nhưng

rất phấn khởi vì các con mau chóng trưởng thành. Gia đình, nhất là

mẹ con, nhớ con và thương con nhiều lắm. Câu hỏi thường đặt ra là:

"Bao giờ con trở về với gia đình?". Lẽ dĩ nhiên là bao giờ con hoàn

thành vẻ vang nhiệm vụ, và có thể là đến ngày Nam Bắc thống

nhất. Mong con về, tuy cũng không mong con về quá sớm mà chưa

hoàn thành nhiệm vụ cách mạng.

Cùng với sự trưởng thành của các con, kinh tế gia đình đỡ vất

vả hơn trước con ạ. Em Ngọc, em Việt, anh Đức và bố đều có xe đạp

đi cả con ạ. Nhà có Radio để nghe tin tức và ca nhạc hàng ngày.

Bố mẹ nói để con yên tâm, đừng lo nghĩ gì về gia đình.

Cô Chung, chú Phương và các em Tiến, Quang,.... vẫn khoẻ

mạnh, bình yên. Quang được lên lớp. Em Tiến đang theo lớp 7.

Ngoài này đang nâng cao chất lượng giáo dục nên các kỳ thi cuối

cấp đều tiến hành chặt chẽ hơn trước, quy mô vào các trường đại

học cũng vừa phải đi để có điều kiện nâng cao chất lượng đào tạo.

131

Nhân dịp anh Đức về, bà Chắn và cậu Hiếu có về thăm gia

đình ta. Cụ nội, bà Chắn, trẻ Nghiêm, ông Thành vẫn được bình

yên và thường nhắc tới con luôn.

Con yêu dấu, thời gian đi mau thực. Thấm thoắt bố đã sắp 55

tuổi rồi con ạ. Vui mừng vì các con mau chóng trưởng thành. Bố đặt

nhiều hy vọng ở con, đứa con được tôi luyện trong thực tế đấu tranh

cách mạng.

Nhớ con lắm, mong thư con nhiều lắm. Con nhớ biên thơ về địa

chỉ cũ ở Hà Nội, cho bố hoặc cho mẹ ở trường Đại học Ngoại ngữ -

Thanh Xuân (Mễ Trì, Hà Nội).

Chúc con luôn luôn mạnh khoẻ, vượt được hết khó khăn, gian

khổ, phấn đấu tốt và đạt được nguyện vọng tốt đẹp của con.

Bố của con

Phạm Đức Hoá.

Từ ngày 23/7 đến 14/8/1970

Tôi và Giáo đi Kỳ Long (Tam Kỳ Quảng Nam) mua hàng và

tuyển người. Thật là một chuyến đi hết sức chật vật.

Khi mới bước chân xuống đường thì đã nghe tin địch càn ở Trà

My. Song chúng tôi quyết bám đường đi bằng được. Tới nơi, mới biết

địch đã rút rồi.

Tới sông Trường, đi trên đường chiến lược, tôi thấy dưới bờ sông

có một cô gái đang vội vã bước đi. Trông dáng người, tôi biết ngay là

giao liên. Tôi hỏi:"Về trạm Hoà đi đường nào đồng chí?". Cô ngước

nhìn lên: "Đi đường nớ!" và vẫn hối hả bước. Đoạn sông này địch rất

chú ý: Moranh chúng lượn suốt, hễ thấy gì khả nghi là chúng gọi

pháo dập tới vô hồi, gọi rọ, HUIA tới cắn xé. Dọc sông, đất đai đầy

thương tích. Cây cối nát nhừ. Những nấm mộ còn nằm rải rác đó

đây. Đó chính là nguyên nhân làm cô giao liên đi như bị ma đuổi

vậy. Cô đi quá nhanh, gần như là chạy. Chúng tôi theo hút cô, bàn

chân dường như không bám đá sỏi và cát ven bờ, song lại đạp nước

132

bắn tung toé, khiến quần áo ướt mèm mỗi khi phải lội ngang sông.

Thật chết tiệt, cái bao mang của tôi bị sút quai. Đành phải ngồi cột

lại. Thế là mất hút cô giao liên, bị lạc mất gần buổi đường. Tới 3 giờ

chiều mới tìm được vào trạm. Cũng may, lúc đó trời mới giáng cho

một cơn mưa đá, mưa rào dữ dội. Những viên nước đá to bằng đốt

ngón tay rào rào rơi xuống, lóng lánh như những giọt nước mắt

khóc cho cuộc đời của nó ngắn ngủi quá, vì chỉ một lúc nó đã tan

biến thành nước và bị đất hút lấy hút để... Tôi lượm mấy viên đá

cho vào miệng, cố tìm lại cảm giác mát lạnh và thú vị khi còn ở Hà

Nội ăn kem, uống cafê đá. Song vô hiệu. Mát lạnh thì có, nhưng

chẳng thú vị gì. Lạt lẽo.

Phải chờ trạm một ngày mới có trực (ôi, chờ và trực). Tôi và

Giáo vào cơ sở sản xuất 2. Được biết tin Cẩm mới hy sinh - vì địch

phục kích bắn chết trong đợt càn vừa rồi. Nơi này chỉ có 3 người.

Chi lại về cơ quan nên còn 2. Tiến ốm. Một mình Mai lủi thủi đi làm

cỏ lúa. Gặp Phạm Hồng ở đây. Vui quá, 2 đứa ôm lấy nhau. Hồng

chiêu đãi chúng tôi một bữa thịt gà rừng (Hồng bẫy được) và một

bữa chè đỗ đen sữa. Hồng cho xem những bức tranh vẽ từ khi xuống

Quảng Nam. Phần lớn là ký hoạ và tương đối có sức sống. Hồng đi

B trước tôi, đã giúp đỡ tôi rất nhiều lúc tôi mới vào, từ việc dạy cho

cách buộc gùi tới cách phát rẫy hoặc chống trả với những cơn sốt

rét. Dạo ở A9, Vượng vào Quân Khu, tôi và Hồng ở cùng nhà,

thường cùng Nga nghe chương trình sân khấu truyền thanh vào các

tối thứ 7, mà vở kịch chúng tôi thích nhất là Tiền tuyến gọi.

Bắt đầu theo trạm đi. Giao liên dẫn đường cho chúng tôi là cô

Xuân. Chân Xuân đi hơi cà nhắc vì bị tiêm ký ninh quá nhiều, song

cô đi rất nhanh. Có điều cô biết chờ khách chứ không bỏ khách như

cô bữa trước.

Khi đi từ trạm 25 xuống trạm 24, tôi theo một giao liên nhỏ. Đó

là Ba, em mới chừng 13, 14 tuổi. Khi ngồi đợi giao trực, tôi được

nghe cô giao liên ở trạm 25 kể rằng Ba bé xíu thôi và còn ngây thơ

lắm. Có lần, dẫn một số khách đi, thấy khách đi quá chậm, hay

nghỉ, Ba khóc lóc, van nài: "các chú ơi, đi nhanh lên, không quá giờ,

trạm trên bỏ trực, con bị phê bình đấy!". Tôi hình dung Ba yếu đuối

lắm. Song không phải vậy, Ba ở trước mặt tôi đó: vui tươi, nhanh

133

nhẹn. Em dẫn đầu đoàn người, đầu đội mũ Giải phóng, lưng mang

bao bột mì đựng công văn, vai còn khoác một cái túi giúp một chị đi

sau. Ba chào chúng tôi bằng nụ cười rất tươi. Gặp lại mấy anh

quen, Ba liến thoắng: "Ôi, anh Thoại sao ốm nhom vậy? Anh Lang

có nặng, sớt bớt đồ tôi mang cho!". Và Ba mang bớt một số vải cho

Lang. Đi đường, Ba luôn chuyện trò. Đủ thứ chuyện ngộ nghĩnh:

"chui, mấy trứng gà rừng cho ấp nở ra mấy con gà đen thui như Mỹ

đen, trông phát phiền!", "con Liên mới đi đồng bằng về, dẫn theo

mấy đứa chút chun!"..

Sáng sau, Liên dẫn chúng tôi đi. Liên mới chừng 16 tuổi, nước

da hơi xanh, yếu và nét mặt có gì hơi già dặn, khắc khổ của người

phải lo nghĩ quá sớm. Liên bảo chúng tôi đi trước vì em còn phải đi

nhận hàng. Liên dặn: "các anh ráng đi sớm, đi nhanh qua mấy bãi

trống ven sông nghe!".

Đoạn đường này địch dùng B57 đánh dữ. Thỉnh thoảng lại gặp

vài hố bom - thường là hai hố một chỗ. Nhiều hố bom trúng giữa

đường khiến chúng tôi phải đi vòng, luồn trong cây cối mà đi.

Gần trưa, Moranh quần dữ. Đường chúng tôi đi qua rừng non,

theo suối nên nhiều chỗ trống trải. Liên luôn nhìn lên bầu trời quan

sát máy bay và ra lệnh cho chúng tôi: "nó tới đó, đứng im", "nó quần

đó, rúc sâu vào bụi", "Đi nhanh!"... Chúng tôi răm rắp làm theo lời

Liên như theo lệnh người chỉ huy vậy.

Ăn cơm trưa rồi Liên tạm biệt chúng tôi để dẫn khách về trạm.

Liên nói: "chào hết mấy anh nghe!". Rồi thoăn thoắt bước đi, rồi lại

nói với lại: "Tôi chào rứa đó!". Những lời nói của Liên có gì hơi cộc

cằn đôi chút và có nhiều khi không hợp với một cô gái ở lứa tuổi

Liên. Song tôi không cho Liên là một con người cộc cằn. Khi Liên

nói: "Tôi chào rứa đó!" và cười cười thì tôi hiểu rằng em đang bối rối

trước những câu nói của chính mình. Chắc em cũng muốn nói

những câu tế nhị hơn song tìm không ra. ở những nơi ác liệt như

thế này, người ta quen nói ngắn, gọn rồi. Khi máy bay địch quần

lượn, bắn phá thì giao liên làm sao có thể nói những câu dài dòng,

văn vẻ ngoài mấy câu: "dừng lại!", "núp kín nghe!", "chạy nhanh!",

"nằm xuống!"... Nhưng chính trong những câu cộc lốc đó, tôi lại

134

thấy chứa chất biết bao tình cảm rộng lớn, sâu sắc. Những lời nói

xuất phát từ đáy lòng thương yêu anh, che chở, bảo vệ anh đó!

Càng đi xuống gần đồng bằng, tình hình càng căng hơn. Địch

càn ở Kỳ Yên đã gần tháng rưỡi rồi. Quân của chúng lết khắp nơi:

xóm Mới, Nhà thờ, Dương Bông, Bầu Tre... và sáng nay chúng lại

đổ quân ở Danh Sơn - nơi chúng tôi định đi qua.

Được cái giao liên rất thạo đường. Đoàn đi lại có mấy giao liên

thuộc tuyến này đi mua hàng nên tôi thêm tin tưởng ở sự dẫn dắt

của họ. Sang, một thanh niên khoảng 23, 24 tuổi - có dáng người to,

khoẻ, da ngăm đen, là linh hồn của đoàn. Sang thuộc đường và rất

xông xáo. ít nói, nhưng hay nói vui, cởi mở, Sang thu hút được tình

cảm của tôi ngay từ đầu. Tay cầm chắc khẩu AK báng xếp, Sang

luôn đi đầu bám đường. Gần tới con sông Kỳ Yên, bọn tôi phải đi

tách ra xa nhau vì ở đây dễ gặp địch. Chúng mới đi khỏi nơi đây.

Giấy tờ, sách báo lố lăng, lon đồ hộp còn vứt bừa bãi. Nơi này là một

thung lũng khá phẳng và rộng, cây cỏ thấp, thưa. Chúng tôi vừa

thận trọng vừa khẩn trương vượt qua bãi trống đó. Nắng chói

chang, bầu trời cao rộng, in hình mấy cái trực thăng phía xa. Chúng

tôi lội ào qua khúc sông cạn, nước tới mắt cá chân. Đạp nước bắn

tung toé, ướt cả hai ống quần. Rồi vượt qua một bãi cát lẫn đá sỏi. ở

mé sông, cát, sỏi bị nhuộm đỏ thẫm vì máu. Lại lội qua sông. Đoạn

này nước chảy mạnh. Khi tôi vừa định bước chân trái lên một hòn

đá to thì nước cuộn tới cướp phăng chiếc dép. Bỏ vậy mà đi thôi. Đi

khỏi bờ sông một quãng, chúng tôi gặp một số dân. Họ ngồi tản mát

trong các bụi cây, quanh đó là một vài thứ đồ đạc dùng hàng ngày.

Họ cho biết máu ở bờ sông là của 2 anh bộ đội bị bọn Mỹ phục kích

bắn chết từ chiều hôm kia. Một anh khác bám ra chôn lại bị HU1A

của Mỹ bắn chết. Du kích mới chôn 3 cái xác chiều qua.

Đây là một thôn thuộc xã Kỳ Yên. ở đây, đồng bào trồng sắn

trên luống cao, to, rất đẹp, sạch cỏ. Lác đác có những đám bắp, đậu.

Vài rẫy lúa. Có rẫy lúa bị chất độc hoá học cháy vàng. Bọn Mỹ hồi

này rải chất độc với diện rất nhỏ chứ không tràn lan như trước,

nhưng toàn nhằm vào nương rẫy. Thật là thâm độc!

135

Đi loanh quanh một hồi, chúng tôi gặp rất đông người - phần

lớn là cán bộ, bộ đội. Họ ùn lại ở một đám rừng non thưa thớt, đứng

ngồi lộn xộn. Họ cho biết còn phải chờ du kích bám đường mới đi

được. Chúng tôi cũng ngồi lại. Mỏi quá, ngồi lê la trên cát, cỏ. Thỉnh

thoảng, vài chiếc trực thăng lại quần lượn trên đầu, khiến chúng tôi

phải nép vào bụi. Có những tiếng pháo, tiếng súng liên thanh, tiếng

đạn cối nổ rải rác đó đây. Rồi đi, đúng là lối đi "bám". Có một số đi

trước dò đường. Rồi mọi người theo sau, đi cách xa nhau. Súng đạn

sẵn sàng. Đi chậm rì. Thỉnh thoảng phải dừng lại nghe ngóng, đợi

chờ. Thỉnh thoảng vượt qua một quãng đồng trống, phải chạy cho

nhanh, đồng thời phải giữ khoảng cách cho thưa nhau. Với cách đi

như vậy, chúng tôi vượt qua nhiều quãng đồng trống, nhiều khu

nhà dân. Nói là khu nhà dân, thực ra chỉ là từng cụm nhà thưa

thớt. Nhà, thực ra là những túp lều nhỏ, dựng tạm bợ che mưa

nắng cho hầm. Có mấy ngôi nhà bị đốt cháy, tro còn nóng. Hầm

cũng bị bọn giặc quẳng lựu đạn, lựu đạn lân tinh xuống khiến sập

lở hoặc tanh lợm.

Đường Hố Nước, Bầu Tre có địch, bọn tôi phải vòng qua đường

Danh Sơn. Lúc này đi rất nhanh, gần như là chạy. Vượt qua vài

khu ruộng. Ở một bờ ruộng, văng đầy cát tút đạn AR15 - chứng tỏ

bọn Mỹ đã có mặt ở đây và bắn rất dữ. Trời nhập nhoạng tối. Trên

trời, vài chiếc trực thăng vận tải bay nặng nề, in bóng đen sẫm, to

xù và nổ máy ầm ĩ. Khát nước vô kể. Đạp qua vài thửa ruộng đầy

cỏ, sình bùn. Nhập vào đường Danh Sơn. Con đường này tương đối

lớn, chạy qua những khu đồi sim thấp và toàn đá sỏi. Chân tôi

không dép, đạp lên đó đau ê ẩm. Tuy nhiên, phải ráng chịu đau mà

đi cho nhanh. Đi như chạy trong bóng tối nhập nhoạng. Đường chỉ

hiện ra mờ trắng dưới chân. Thỉnh thoảng lại bước hẫng xuống một

hố nhỏ hoặc vấp vào mô đá điếng người. Chẳng thèm suýt xoa, cứ

cắn răng mà bước tới. Sang đi đầu. Mọi người đi sau, im lặng hoặc

chỉ nói chuyện nho nhỏ.

Rồi nghe tiếng đài văng vẳng ở phía đồi trước mặt - đài Tiếng

nói Việt Nam. Như vậy là không có địch. Chúng tôi mạnh dạn bước

tới. Băng qua một khu ruộng nhỏ. Lội qua một con sông - lội mò

mẫm, chẳng biết nông sâu ra sao. Lại dò dẫm bước lên bãi cát sỏi.

Tiếp qua một con sông nhỏ. Rồi chui vào một thôn xóm. ở đó im

136

lặng như tờ. Tối như bịt mắt. Người đi trước bỗng sụp xuống một

cái hầm. Xì xào lộn xộn một lát rồi lại đi. Tôi cứ bám theo người đi

trước mà tiến, chẳng rõ đường xá quanh co ra sao. Rồi bỗng thấy

ánh đèn dầu hắt ra từ một ngôi nhà. Hoá ra đó là trạm. Chúng tôi

bước vào. Những người trong nhà đang ăn cơm. Lúc này đã gần 8

giờ tối. Nhà thật đơn sơ, không phên vách, không bàn ghế. Dưới nền

nó là một căn hầm rộng, có thể cột võng được. Chúng tôi lên nhà

trên ngủ. Ngôi nhà đó đã bị pháo bắn sập, người ta đã dỡ đi và cắm

4 cây lớn vào chỗ 4 cây cột để nguỵ trang. Tuy nhiên, cái hầm vẫn

tốt. Trời nóng như nồi rang. Muỗi vo ve, vo ve, ùa vào đốt. Phủ bọc

võng vào, nóng vô kể. Mà hất ra thì muỗi đốt, không chịu được.

Đành phải đưa võng hoài. Rồi cũng thiếp đi trong cái mệt nhọc.

Đêm nay im tiếng pháo.

Sáng dậy, tuy chẳng đi đâu cũng phải nấu cơm 2 bữa từ sớm.

Ăn cơm xong rồi cột bao gọn gàng. Và cứ ngồi đó đợi. Trạm cũng

làm như vậy. Những đồ dùng không sát với thân thể lắm như con

rựa, thùng nước.v.v. thì quẳng bừa ra bụi bờ, bãi cỏ. Đó là một kiểu

nghe ngóng xem địch có càn không, nếu có thì có thể lánh kịp và

không để đồ đạc cho địch phá.

Nghe tiếng động cơ xe tăng rú phía xa xa. Đó là đồn địch. Vài

chiếc tàu rọ quần lượn cao cao. Vài chiếc tàu vận tải bay qua bay

lại. Có những tiếng pháo điểm cầm chừng. Xa xa có những tràng

liên thanh nổ. Như vậy là buổi sáng yên lành. Ăn cơm trưa rồi có

thể đi làm mọi việc cần thiết.

Chúng tôi đi Kỳ Long mua ít hàng. Phải chú ý đi nhanh qua

những chỗ trống để rọ khỏi thấy, khỏi kít xuống bắn chết hoặc bắt

sống. Trên trời, một chiếc mô ranh hai thân lượn vòng miết trên cao

và dùng loa cực đại để chiêu hồi. Tiếng nói ve vãn bị át đi một cách

thảm hại bởi tiếng ù ù của động cơ máy bay.

Đi băng ngang qua con đường lớn - nó chạy về phía đồn Chóp

Chài. Vết xe hằn rõ trên đường. Vượt qua những bãi trống. ở đây, cỏ

tranh bị địch đốt cháy trụi. Bình yên một cách kỳ lạ. Băng qua một

cánh đồng lúa, chúng tôi lọt vào vùng 4 Kỳ Long. Xóm nhà thưa

thớt, ít dân. Trẻ con ở đây quần áo mầu sặc sỡ. Nhiều người la hét

137

gọi chúng tôi đi nhanh hoặc núp vào bụi vì có địch ở Dương Tranh,

cách xóm đó vài phút đi bộ. Từ ngọn đồi đó, địch có thể thấy rõ và

bắn trúng chúng tôi. Lúc này tôi thấy tiếng mìn nổ ở đó, đất bụi bay

mù mịt. Rồi một quả mù của địch nổ, tung khói mầu tím mù mịt.

Ngay sau đó, có 2 HUIA bay tới, lượn quanh quả đồi. Tôi thấy cửa

máy bay mở toang. Một chiếc rà sát rồi hạ ngay xuống đám mù tím

và cất cánh lên sau đó một lúc. Chiếc kia cũng làm như vậy.

Chúng tôi đi tìm hàng để mua. Rất hiếm và rất đắt. Họ đòi gần

600 đồng (bằng 30 đồng miền Bắc) một bao gạo ( nặng 6 kg ) - nếu

tính ra tiền miền Bắc là 5 đồng một kg, gấp hơn 10 lần gạo ngoài

đó! Thị trường tư bản thật kinh khủng.

Lại nghe tiếng mìn nổ, thấy khói mù đỏ và 2 trực thăng xuống,

lên. Đồng bào bảo rằng bọn Mỹ mới lên đồi đó, bị vấp mìn của du

kích và phải gọi máy bay tới chở những tên chết, những tên bị

thương.

Quẩn quanh mua hàng, trời đã tối. Chúng tôi nấu cơm ăn - thứ

gạo máy trắng muốt mua ở vùng địch chuyển ra. Ngồi giữa sân mà

ăn cơm - nhà ở đây bị địch đốt cháy trụi, bà con chỉ dựng mấy túp

chật chội, tấp mấy tấm tranh vào tạm bợ để dễ vứt ra bụi mỗi khi

địch càn đến. Đang ăn cơm, chúng tôi giật mình vì những tiếng

súng nổ loạn xạ. Đạn bay veo véo trên đầu, đỏ lừ. Đó là đạn do địch

ở trên xe bắn tới. Tầm đạn đi hơi cao. Lại có tiếng súng nổ phát một

chắc chắn ở phía gần đó - đạn của du kích "bia" Mỹ Nguỵ.

Tôi vào một ngôi nhà nhỏ mua gạo. Trong nhà chật ních người -

toàn là cán bộ, miền Bắc có, miền Nam có. Một cô bé chừng 14, 15

tuổi đang bán gạo. Cô bé nói rằng chỉ còn một ang thóc thôi. Tôi vội

bảo "mua gạo chứ ai mua thóc làm gì?". Cô bé giải thích: "ang thóc

tức là nửa ang gạo chứ không phải là thóc chưa giã".

Khoảng 8, 9 giờ tối, chúng tôi ra về. Không thể ở lại đây qua

ngày sau, vì xe tăng địch có thể lên rất sớm. Dấu vết của nó còn hằn

lên đó: chằng chịt trên các thửa ruộng lúa khô nước. Lúa đang thì

con gái, bị hạn, xơ xác, bị xe nghiền nát. Sang vẫn cắp AK đi đầu.

Giáo lăm lăm súng ngắn đi thứ hai. Tôi đi liền đó. Trăng lờ mờ. Khi

138

đi qua ruộng, chúng tôi không dám đi theo con đường mờ trắng mà

phải đi ven nó vì sợ địch ở phía quả đồi gần đó phát hiện. Khi đi

khỏi khu ruộng, chúng tôi thấy những bóng đen lố nhố phía trước.

Sang ghìm súng, khẽ hỏi: "ai?". Có tiếng đáp khẽ: "chúng tôi!". Thở

phào nhẹ nhõm. Không phải địch mà là anh em đi về, thấy rợn quá

đang chần chừ ở đó, chờ người cùng đi lên. Lại bám đường đi. Nhiều

khi phải nép vào bụi hoặc nằm rạp xuống đường nghe ngóng từng

động tĩnh nhỏ. Rồi vượt qua đường xe. Con đường này chạy về đồn

Chóp Chài - đi bộ mất chừng 20 phút là tới đồn thôi. Vượt vào dãy

đồi bát úp, cây cối lúp xúp và đường lạo xạo đá sỏi. Vấp liên tục và

luôn đạp lên những hòn đá sắc cạnh, đau điếng. Khuya mới về tới

nhà. Lại cột võng trên nóc hầm. Ngủ trằn trọc trong cái nóng hầm

hập, trong tiếng vo ve của muỗi và trong tiếng pháo cầm canh.

Trưa nay, ăn cơm xong thì Giáo đi Kỳ Long, còn tôi ở nhà giữ

đồ. Giáo đi một hồi lâu thì tôi nghe mấy tràng súng máy nổ phía

đường cái gần thôn Kỳ Qúy. Rõ ràng là tiếng súng địch bắn. Tôi bồn

chồn không yên. Giữa lúc ấy thì Giáo chạy về, nói gấp: "báo một tin

buồn: Phước hy sinh rồi!". Tôi sững người vì bất ngờ quá. Phước là

trạm trưởng trạm giao liên vùng dưới - giáp thị xã, đi chỉnh huấn

về. Trưa nay, Phước cùng đi xuống với đoàn của Giáo, Sang. Phước

mang AK đi đầu, tới đường cái thì gặp địch phục. Chúng bắn Phước

gãy chân. Ngã xuống rồi, Phước còn dùng AK quạt lại bọn địch.

Chúng ném tới một trái lựu đạn làm nát cả mình mẩy anh. Sang

cũng dùng AK bắn lại mấy loạt rồi mới chịu chạy. Cũng may, đoàn

có tới gần chục người, đi liền nhau, gặp đạn địch bắn loạn xạ mà chỉ

bị một ngưòi.

Tối, tôi vác cuốc cùng mấy anh em trong trạm 24 đi chôn Phước

- người ta đã khiêng Phước về để gần nhà ông Phán. Trời tối thui.

Trong ánh đèn dầu nhập nhoạng, tôi thấy xác Phước được cột dọc

theo một cây tre, đặt nằm dài dưới bãi cỏ. San - cô giao liên của

trạm 24 - soi đèn sát mặt Phước rồi thốt lên: "trời ơi, tội quá anh

Phước ơi!". Tôi không khỏi bùi ngùi xúc động. Mới đó thôi, Phước

còn sống vui tươi, khoẻ mạnh. Phước vào loại hơi xấu trai - cao và

gầy, hàm răng khấp khểnh, miệng quá rộng so với khuôn mặt nhỏ,

xương xương. Song Phước rất hay cười, nụ cười rất tươi và cởi mở,

dễ chiếm được tình cảm của mọi người. Sáng nay, Phước còn đứng

139

nói chuyện với chúng tôi. Sang trách Giáo là sáng nay không xin đôi

dép của một nông dân bị chết vì lựu đạn về cho tôi. Tôi bảo: "thôi

đồng bào họ nói cho. Nếu như anh em mình thì được, mình sẽ vỗ vai

anh bạn hy sinh mà xin đôi dép, chắc anh ta cũng thông cảm !". Lúc

ấy phước đứng gần tôi, cười cười: "ừ. anh em mình thì thông cảm

thôi, chắc anh bạn đó sẽ đồng ý!". Vậy mà bây giờ Phước nằm đó,

cứng đờ, lạnh ngắt.

Khoảng 8, 9 giờ tối, chúng tôi bắt tay vào đào huyệt cho Phước.

Trời mưa bụi lất phất. ánh đèn dầu hắt lên một vùng sáng nhỏ

vàng vàng giữa khoảng trời đất đen thẫm. Rồi chúng tôi khiêng

Phước tới. Tôi đi cuối đoàn, sát với đầu Phước. Mùi máu người tanh

vô cùng. Hình Phước cứ liền liền trước mắt tôi. Cánh tay trái anh

nắm chặt, hơi giơ lên trong tư thế cầm súng. Cánh tay phải bị mảnh

lựu đạn làm gẫy nát, lủng lẳng, lủng lẳng phía dưới, mỗi khi đi qua

một bụi cây, vướng phải cây, cỏ, lại đung đưa, đung đưa, lạnh ngắt.

Chúng tôi lót bộ quần áo của Phước dưới huyệt. Xong, tôi cùng một

anh giòng giây ở đòn khiêng, đưa phước xuống huyệt. Xác anh đã

cứng khừ, lạnh ngắt. Máu đẫm quần áo, đẫm cả tấm dù bọc xác

anh. Ngọc cố ấn cánh tay trái của Phước xuống, song không được.

Đành để Phước nằm dưới huyệt với cánh tay trái giơ lên trong tư

thế cầm súng bắn. Rồi lấp đất, đắp mộ cho anh. Im lặng tiễn Phước

đi. Mưa lâm thâm. Lạnh lẽo vô cùng !

Ra về trong mưa lạnh và trong nỗi buồn thương Phước. Đôi dép

cao su của Phước giờ đây đang nâng bước tôi. Một cô giao liên ở

trạm 23 có thân hình mập mạp nói: "Thật tội nghiệp anh Phước,

trưa nay còn đi với bọn mình mà giờ đã nằm đó. Nhưng cũng còn

may là chôn cất kịp". Lan (nữ giao liên) bảo: "Anh Phước sống tội

lắm, luôn thông cảm với mọi người, luôn tươi cười, vui vẻ." Tôi đi

sau 2 cô, nghe họ thì thầm trong hơi gió lạnh:

- Anh Phước được công nhận đảng viên chính thức ...

- Ừ, mới cánh đây 3,4 bữa.

- Mới 20 tuổi chứ mấy.

140

- Công tác tiến bộ lắm.

- Anh ấy tội lắm, chỉ lo cho công tác thôi. Anh ấy bảo đi xa trạm

có mấy ngày mà nhớ quá, chỉ muốn bay về trạm mà công tác thôi. Mỗi

khi nghe nói có địch, mọi người hỏi thì anh trả lời: "Cứ đi, gặp địch thì

đánh, không thể đứt liên lạc được " và đội mũ, xách súng đi liền.

Không thể chờ mua tiếp hàng nữa, chúng tôi phải đi lên. ở nhà,

mọi người đang chờ, công việc đang chờ. Lại theo giao liên lên theo

đường Danh Sơn. Lên đèo, ngồi nhìn lại miền xuôi. Phía xa, ở ngọn

đồi cao nhất, đồn Chóp Chài phơi mình dưới nắng. Cả khu đồi trọc

lốc, đỏ lói và xen vào những khu nhà trắng. Một con đường ngoằn

ngoèo theo triền dốc lên đó.

Lên khỏi nước Y, chúng tôi định nghỉ một ngày. Song thật dáng

ghét, khi mới nấu cơm sáng ăn xong một lát thì lũ trực thăng ở đâu

đột ngột bay tới. Chúng bay thấp tới mức chúng tôi nhìn thấy cả

những thằng Mỹ lố nhố trong máy bay qua khung cửa mở toang.

Chúng bắn rốc két, đại liên, cối xuống đồi tranh gần đó. Sợ bọn địch

đổ quân thì phiền, bọn tôi vội thu dọn đồ đạc, tiếp tục hành quân.

Về tới nóc ông Chanh, không khí thật dễ chịu. Lũ trẻ ùa ra ôm

lấy tôi. Chúng bảo bọn con gái đã khóc vì tưởng tôi chết rồi. Tôi

thường dạy chúng hát và được chúng rất mến. Chị Lý gọi tôi vào

nhà, lấy chuối và đưa nước đót cho tôi. Chị Chanh vội đi nấu cơm.

Đồng bào đã thu hoạch lúa, nhà nhà đều no. Ai cũng tíu tít gọi tôi

vào nhà, mừng mừng, rỡ rỡ. Tôi rất cảm động trước tình cảm đó.

Về nhà trước sự mừng rỡ của anh em, kết thúc chuyến đi 21

ngày đêm nhọc nhằn và căng thẳng.

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Trung Trung bộ. Ngày 2/9/1970.

Bố mẹ và các em yêu quý!

141

Hôm nay có người ra Bắc, con tranh thủ viết thư thăm gia

đình. Đang trên đường công tác, con viết vội ít chữ thôi.

Lá thư con nhận của gia đình mới nhất là lá thư bố mẹ và Diệp,

Lan, Thuỷ viết ở Hà Nội. Cho tới nay, con chưa nhận được lá thư

nào khác. Con rất mong thư gia đình.

Hồi này con vẫn khoẻ, con đã thực sự quen với cuộc sống ở

trong này và đã ít sốt. Việc công tác, phấn đấu của con có nhiều tiến

bộ. Vừa rồi, chi bộ đã xét đơn xin vào Đảng của con và nhất trí

100%, quy định thời gian dự bị cho con là 9 tháng. Tuy nhiên, còn

phải đưa lên đảng uỷ duyệt để có quyết nghị, ở trong này giao thông

khó khăn nên hiện chưa có quyết nghị gửi tới. Con báo tin như vậy

để gia đình mừng.

Con muốn viết thư cho gia đình nhiều, song việc gửi rất khó

khăn, gửi đường dây không bảo đảm đến nơi nên con chỉ gửi khi có

người ra Bắc. Đó là lý do vì sao nhà nhận được thư con thưa thớt

như vậy.

Nhận được thư bố báo tin như vậy con rất mừng. Hiện anh Đức

đã về nước chưa và công tác ở đâu? Phúc đi Liên Xô thực tập gì?

Ngọc học có giỏi không? Hàng ngày con đều nhớ tới bố mẹ, các em,

cụ, bà, cô Chung, cậu Hiếu.

Cho con gửi lời thăm cô chú Sen, Thìn, Chín và các cô chú khác.

Con vội nên viết được ít, mong bố mẹ thông cảm. Có dịp con sẽ

viết thư dài hơn, nói nhiều chuyện hơn về cuộc sống của chúng con

trong này.

Con rất mong thư gia đình

Con của gia đình

Việt Long

TB: Bố mẹ gửi cho con ảnh của gia đình chụp thời gian gần đây

nhất.

142

Ngày 4-9-1970

Lúa sớm đã chín vàng rực nương rẫy. Ban cử thêm người vào

suốt lúa, càng thêm vui. Giữa những ngày bận rộn này, giặc Mỹ lại

tới quấy nhiễu. Hôm trước, chúng cho B.52 rải bom ở Nước Boa. Và

hôm nay, mới hơn 7 giờ sáng, chúng đã tới đấm lưng chúng tôi. Tôi

sốt, đang nằm mơ mơ thì nghe hàng tràng tiếng nổ như sấm động

nối nhau. Vội nhào xuống hầm. Hai đứa trẻ khóc thét lên.

Hết loạt bom, tôi ra rẫy nhìn, thấy phía Nước Lon và phía rẫy 3

của chúng tôi bụi đất, khói bom bay mù mịt. Chúng tôi rất lo lắng

cho sinh mạng mấy anh em đang làm kho lúa phía đó.

Một lúc sau, Bá chạy về. Chưa tới ngõ, anh đã nói: "kho bắp hư

hết rồi!" - Như vậy có nghĩa là người không ai việc gì. Rồi Tạo, Hiến

chạy về. Hiến bị một vết xước nhỏ trên đầu, máu ri rỉ như bị vắt

cắn; anh em xúm lại rửa thuốc và băng cho anh. Tạo ngồi thở, mồ

hôi ra đầm đìa. Cậu ta đột ngột cười to, nói trong tiếng cười: " Khỏi

chết. B52 chụp trên đầu vẫn khỏi chết". Rồi thì Huy, Tám chạy về,

bình an cả. Anh em cho biết lũ B52 bắt đầu rải "tấm thảm bom" của

chúng từ rẫy 2, kéo qua rẫy 3 và nối dài qua Nước Lon, qua giải núi

bên kia. Anh em đều nằm giữa "tấm thảm" đó. Hiến nằm giữa triền

dốc, gần bụi lồ ô. Phía đó, một quả bom đào đã làm bay cả bụi lồ ô

đi mất. Phía sau Hiến vài mét, hai quả bom khác đào hai lỗ sâu

hoắm. Vậy mà không giết nổi Hiến, chỉ làm anh bị trầy da đầu và

mất một chiếc dép cao su. Tạo, Bá cũng nằm gần mấy hố bom, nghe

bom nổ chát chúa mà không hề gì hết.

Bom làm sập kho bắp của chúng tôi và hư một số lúa của rẫy 2,

3. Cũng may mà bắp chỉ sập xuống đất, không bay mất trái nào.

Huy động toàn lực lượng đi cõng hết số bắp về nhà. Đông người nên

chỉ qua chiều hôm sau là đã chuyển hết bắp. Hai mái gà cùng một

đàn gà con cũng được chuyển về. B52 dù sao cũng giết được hai con

gà nhỏ của lũ tôi. Tuy nhiên, bầy gà con vẫn điềm tĩnh chiêm chiếp

theo mẹ kiếm ăn, không tỏ ra sợ hãi gì.

Công việc lại đi theo nếp của nó. Suốt xong lúa rẫy 5, chúng tôi

kéo về rẫy 3 (vì trời mưa nên suốt lúa ở rẫy 5 lâu, nếu không, chúng

143

tôi đã kéo qua rẫy 3 từ 9 giờ sáng rồi, chắc là bị đội B52 đông lắm).

Hai quả bom nổ ở bìa rẫy làm hư nhiều lúa của chúng tôi. Ngoài số

bị đào bới tung ra, bị đất lấp, còn có nhiều khóm lúa bị sức ép làm

cho tả tơi, nát nhừ tận gốc. Những cây ở xa cũng bị chấn động, rụng

rất nhiều hạt. Bọn tôi phải cặm cụi nhặt từng bông lúa dưới đất lên.

Ngóng đợi những đợt B52 tiếp theo, song không có. Như vậy là

khu nhà của chúng tôi vẫn bình yên - "tấm thảm huỷ diệt" của bọn

Mỹ rải cách đó tới 20 phút đi bộ.

Lũ máy bay trực thăng hồi này cũng tích cực đi rải chất độc.

Nước Tong, Nước Ngheo, Trà Niêu... đã bị rải rồi. Khi đi làm rẫy,

chúng tôi mang theo súng đạn, sẵn sàng nện cho lũ quỉ độc đó

những đòn đích đáng nếu chúng mò đến hà hơi độc vào nương rẫy

của chúng tôi.

Mặc dù bận rộn với việc nương rẫy, mệt mỏi vô cùng, tôi vẫn

thức đêm để viết truyện - những xúc cảm từ cuộc sống hối thúc tôi

phải cầm bút:

Chú bé vùng ranh

Cô giao liên trạm hai mươi bốn tươi cười bảo chúng tôi: "Ba,

giao liên mới của các anh đó!". Theo tay cô, tôi nhìn thấy ở đoạn

đường trước mặt một chú bé dẫn đầu một đoàn người đang bước tới.

Chú đội cái mũ lưỡi trai to tướng, sụp cả xuống vầng trán, trông

thật ngộ. Lưng chú mang một cái túi bằng bao bột mì. Vai chú

khoác một khẩu AK báng xếp. Khẩu súng, mặc dầu đã được xếp

báng lại khá gọn gẽ, vẫn có vẻ dài lượt thượt so với thân hình lũn

cũn của chú. Bước tới gần chúng tôi, Ba ngẩng mặt lên, nhoẻn cười:

- Chào hết mấy anh nghe!

Hấp háy đôi mắt, chú nghiêng đầu về phía cô giao liên trạm hai

mươi bốn:

- Đi nhanh dữ chị? Rứa là em lại đến sau chị rồi, tức thiệt! Nói

rồi chú cười. Trên khuôn mặt tròn vành vạnh của chú, nụ cười thật

144

rạng rỡ. Với dáng dấp lanh lợi đó, Ba đã thu hút được cảm tình của

tôi ngay từ đầu.

Ba mang gùi công văn, vai vác AK đi đầu. Chúng tôi nối hàng

một bước theo. Đường xuyên qua một khu rừng bị rải chất độc vào

mùa hè năm trước. Mặc dầu đã là mùa xuân, khu rừng vẫn còn

mang nặng dấu tích của sự tàn phá. Những cây to vẫn trụi lá, giơ

những cành khẳng khiu, khòng khoeo lên trời. Chỉ những cây nhỏ

là đang nứt lên những chồi non xanh mơn mởn. Tôi im lặng bước

theo Ba. Đường chúi xuống dốc. Đất gan gà pha sỏi lạo xạo dưới

chân trơn lạ lùng. Tôi trượt hoài. Ba ngoái lại, cười:

- Con đường của em lạ rứa đó, nắng thì trơn, mưa lại êm! Đấy,

anh coi, những hòn sỏi như những bánh xe lăn đôi dép đi ấy.

Rồi em hạ thấp giọng, vẻ quan trọng:

- Đi đường cũng phải rút kinh nghiệm anh nhỉ! Những đoạn

này mà cứ cúm rúm dò từng bước, chỉ tổ trợt xoạc cẳng. Phải mạnh

dạn bước từng bước chắc chắn, bước nọ tiếp bước kia mới được.

Im lặng một lúc, như chợt nhớ ra điều gì, Ba hỏi tôi, một câu

hỏi chẳng ăn nhập gì vào câu chuyện đang nói cả:

- Anh, ở căn cứ anh có nuôi gà rừng bao giờ chưa? Trên đó

nhiều thứ gà, chim đẹp lắm nhỉ?

- Ừ, nhiều lắm, nhưng anh chưa nuôi gà rừng bao giờ cả!

- Bữa hổm, em lượm được ba trứng gà rừng, cho gà của trạm

ấp, nở ra ba con gà con. Chao, nó đen thui như Mỹ đen, trông phát

phiền anh à!

Rồi, như bị cuốn hút vào cái việc nuôi gà thú vị ấy, Ba dấn bước

vượt lên đỉnh dốc, vừa thở phì phò, vừa nói liến láu:

145

- Cái giống rừng nó vẫn quen rừng anh ạ! Vừa xuống ổ là chạy

rúc bụi liền! Em phải đem cái lồng, nhốt chúng vào trong. Anh có

biết làm cách nào cho chúng quen nhà không?

Ba hay có những câu hỏi đột ngột, thật khó trả lời. Và em lại

hay tự trả lời những câu hỏi đó. Em say sưa:

- Chắc rồi hắn sẽ quen anh hỉ? Cứ đi trực về là em đưa sắn vụn

vào tận trong lồng cho chúng ăn. Mình chăm hắn rứa, lẽ nào hắn

lại không ưng mình?

Tôi chăm chú theo dõi câu chuyện ngộ nghĩnh ấy của Ba. Ba

vẫn bước thoăn thoắt phía trước, cái đầu lắc qua lắc lại. Khi lên tới

đỉnh dốc, Ba dừng lại, quay nhìn chúng tôi:

- Ráng lên các anh, tới đây mát lắm!

Em tháo gùi, đặt xuống một tảng đá gần đó. Anh em trong

đoàn lần lượt đặt ba lô, gùi xuống, thở phào khoan khoái. Tôi và Ba

ngồi trên một tảng đá cao, to. ở đây, tầm mắt chúng tôi trải rộng ra,

phóng khoáng. Trước mắt tôi, con đường chúi xuống một cái dốc rồi

khuất dần sau những dải đồi bát úp lúp xúp. Xa hơn nữa là những

nà, những ruộng um tùm cỏ. Và tít tắp dưới kia, bao la, phóng

khoáng, là đồng bằng, là biển. Lẽ ra, cái thảm cây cỏ đó phải phủ

đầy màu xanh dịu dàng. Nhưng, chiến tranh đã ghi lên những dấu

tích lở lói. Có những khoảng rừng cây cối khô trụi, phơi mầu mông

mốc dưới nắng. Có những vạt rẫy cây cối vàng ruộm. Đó là kết quả

của những trận máy bay Mỹ - Nguỵ rải chất độc hoá học. Lỗ chỗ

khắp nơi là những hố bom, hố đại bác đỏ lói.

Một luồng gió từ biển thổi thốc về, mát rượi. Ba chợt thốt lên:

- Mát quá anh hè! Gió ni là gió cá chuồn đây!

Tôi hỏi lại:

- Gió cá chuồn?

146

Ba lấy tay quệt mồ hôi trán, vẻ thành thạo:

- Trời cứ gió như ri đi biển là trúng lắm, cá chất đầy thuyền!

- Em có đi biển?

- Quê em vùng biển.

Ba đưa tay chỉ về phía xa xa:

- Quê em, Kỳ Anh đó!

Rồi em say sưa:

- Ông già em làm nghề biển. Em chỉ được ra bãi biển đón

thuyền vô, chớ chưa được đi biển anh à! Hồi đó em có chút chun mà.

Má em gánh cá, em chạy theo. Chao, vui lắm.

Ba lại chợt hỏi:

- Anh được ăn cá chuồn với bánh tráng chưa? Chưa à? Chà,

ngon tuyệt! Má em hay cho em ăn món đó lắm!

Tôi hỏi:

- Giờ, ba má em vẫn đi làm biển?

Giọng Ba chợt giận dữ:

- Đâu có được, anh!

Ba dừng lại một chút. Em nhìn mãi ra xa. Sao ở đôi mắt ngây

thơ ấy lại có cái nhìn xa xăm đến như vậy. Một tràng bom nổ rền

làm cắt ngang câu chuyện của chúng tôi. Ba đứng dậy:

- Lại thằng B.57. Thôi, đi, mấy anh!

Ba dặn dò:

147

- Từ quãng này đường trống, địch chú ý lắm. Các anh nhớ đi

thưa hàng và nhanh theo em nghe! Mà các anh sửa lại đai dép, dây

mang cho chắc đã!

Tôi đứng chăm chú nhìn Ba xốc lại gùi. Chú bé thật hồn nhiên,

song lại có những nét thật cứng cáp. Bắt gặp cái nhìn chăm chú của

tôi, Ba bỗng đỏ ửng mặt lên, lúng túng. Em giật cái mũ lưỡi trai

trên đầu xuống, bóp nhàu trong tay:

- Em đội cái mũ ni lấc cấc lắm hả anh? Trước, em cũng có chiếc

mũ Giải phóng xinh lắm, nhưng pháo lượm mất rồi!

Mọi người đã rục rịch bước đi. Ba bỏ dở câu chuyện, vượt lên:

- Đoạn này em phải đi trước. Nhớ cảnh giác bám đường nghe

mấy anh!

Đường vượt qua một dãy đồi bát úp rồi trườn xuống một cái nà

lớn. Ở đây, cỏ dại mọc um tùm, thỉnh thoảng có vài bụi lách, tuyệt

không có một chòm cây lớn nào! Một dòng sông lớn cắt ngang nà,

nước loá lên trong ánh nắng. Nắng vàng ong ong. Cỏ và bùn hấp hơi

nóng, bốc lên mùi hăng hăng, tanh tanh. Bầu trời trong xanh, tít xa

điểm mấy chấm đen của những chiếc máy bay trực thăng. Im lặng

một cách kỳ lạ! Ba vẫn đi trước, ghìm chắc trong đôi tay nhỏ bé

khẩu AK. Chúng tôi rảo bước theo em. Chợt Ba ngoái lại, vẫy tay

rồi rúc vào một bụi cỏ. Chúng tôi nhanh nhẹn làm theo em, ngồi im

thin thít. Có tiếng động cơ máy bay phành phạch, phành phạch. Ba

chiếc HU1A bay ngang đầu chúng tôi rồi lướt về phía Tam Kỳ. Ba

gọi chúng tôi, vụt ra khỏi bụi và lại rảo bước. Sắp tới con sông, Ba

ra hiệu cho chúng tôi dừng lại. Em men theo các bụi cỏ, lom khom

bước tới. Phía trước em là một bãi cát trắng. Bãi cát loá nắng, vắng

lặng, chỉ có tầng không khí bị nung nóng khẽ xao động. Ba nghe

ngóng, dò xét rồi vụt chạy ra, vẫy tay cho chúng tôi chạy theo. Cát

xào xạo dưới chân. Rồi nước! Nước con sông đã ôm gọn đôi chân tôi.

Mát rượi! Dòng sông vào mùa này trong suốt, hiền từ như một dải

lụa. Ba đã lội qua bờ bên kia. Chúng tôi cũng lội ào qua, đạp nước

tung toé. Lại đạp lên cát xào xạo, sỏi lổn nhổn mà chạy vào xóm

trước mặt. Thoáng nhìn, giữa bãi cát, một vũng máu đen kịt. Chắc

148

lại có người bị bọn Mỹ "lết" phục kích bắn chết. Thoáng nghĩ vậy

mà vẫn lao nhanh về phía trước...

Vào tới xóm, Ba để chúng tôi ngồi nghỉ ở một vườn cây và bảo:

- Các anh nghỉ chút, em đi nắm tình hình rồi quay lại liền!

Vừa bước được mấy bước, gặp một tốp người từ phía Bắc đi lại,

Ba chợt reo lên:

- A, anh Luyện!

Mới kịp giáp mặt, Ba đã tíu tít:

- Sao anh, tình hình đường ra sao?

Luyện nắm tay Ba, ân cần:

- Lũ Mỹ "lết" mới qua Dương Tranh, Bầu Tre, không đi đường

ni được em ạ!

Ba nhíu mày:

- Vậy phải vòng qua Đèo Sỏi?

Hình như mỗi con đường đều hằn rõ trong óc Ba nên em mới có

thể nói một cách chắc chắn như vậy. Luyện gật đầu:

- Chỉ có con đường nớ thôi. Em đi, chú ý pháo nghe! Bọn anh đi

bám địch đây!

Ba dẫn chúng tôi rẽ ngoặt về hướng Tây. Luyện đưa anh em du

kích tiến về hướng Bắc. Bóng những người du kích vai vác AK, CKC

khuất dần sau những hàng cây rậm rạp.

Trời đổ ập bóng tối xuống, trùm kín chúng tôi. Con đường chỉ

hiện lên mờ trắng trước mặt. Trước khi vượt qua một cánh đồng lớn,

Ba đứng lại căn dặn:

149

- Các anh chú ý nghe pháo. Có chuyện chi thì lăn xuống con

mương cạn ngay bên phải đường. Cánh đồng ni bọn em gọi là cánh

đồng toạ độ đó!

Bóng Ba mất hút trong màn đêm. Chúng tôi cứ căng mắt theo

con đường mờ trắng mà vọt theo. Có tiếng pháo đề pa ở phía Nam

"ùng". Tiếp đó là tiếng rít: "víu...!". Sau đó là tiếng nổ "oàng" ở phía

xa. Tiếng Ba vang lên: "Kệ nó! Thằng Trà Bồng đó! Nổ xa". Tiếng

"ùng!... viu... oàng" cứ nối tiếp, nối tiếp điểm nhịp bước chân của

chúng tôi. Rồi đột nhiên im bặt. Chỉ còn tiếng những bước chân

chạy thình thịch trên đất. Gió đột nhiên tràn về mát rượi. Vừa

thoáng nhớ tới lời Ba: "Gió cá chuồn" thì tôi bỗng giật nảy người lên

vì tiếng thét: "Nằm xuống!"

Chỉ kịp lăn bừa xuống con mương khô, đã thấy trước mặt bung

ra một quầng lửa chói loà rồi một tiếng nổ dữ dội. Những quầng lửa

như vậy cứ liên tiếp bùng lên khắp cánh đồng như những đốm ma

trơi khổng lồ, nổ chát chúa. Rồi lại im. Tiếng Ba vang lên: "Có ai hề

chi không?" Chúng tôi ngồi dậy: "Không!". Ba dằn giọng:

- Thằng Gò Gai đó! Các anh chú ý, nghe tiếng xoẹt trên không

là lăn xuống mương liền nghe. Thôi đi!

Con đường, cánh đồng với những đốm ma trơi nổ choang choác

đã ở sau lưng chúng tôi. Ba dẫn chúng tôi rẽ vào một xóm nhỏ. Xóm

im lìm chìm trong màn đêm đen đặc. Dò dẫm từng bước một thì vào

một căn nhà nhỏ. Căn nhà bỏ hoang, không phên vách, không mái.

Duy chỉ có cái hầm là còn tốt. Ba dẫn chúng tôi xuống ngồi trong

hầm. Em cười:

- Mệt không các anh? Các anh hút thuốc đi, ngồi đây hút được đó!

Trong khi người lục túi lấy thuốc, người sửa lại bao mang, thì Ba

đã nhảy lên khỏi hầm, biến mất trong bóng đêm. Lát sau, Ba trở lại:

- Uống hớp nước, các anh. Chắc khát hung rồi!

Chúng tôi ồn lên vì sung sướng. Trải qua một ngày nắng gắt,

một thôi chạy, ai nấy mệt nhoài, khát cháy họng. Những hớp nước

150

Ba mang lại lúc này thật quý vô cùng. Những đốm lửa thỉnh thoảng

lại loé lên từ đầu những điếu thuốc. Có ai đó quẹt thùng diêm làm

bừng sáng lên một góc hầm, Ba ngồi ở góc đó, mắt sáng long lanh,

vẻ sung sướng. Đột nhiên, có một tiếng kêu: "Chết cha tui rồi!". Ba

thảng thốt:

- Chi đó anh?

Một tiếng đàn ông ồm ồm đáp lại:

- Trời ơi, cái xắc tài liệu của anh sút đai, rớt lúc nào rồi!

- Cái xắc? Nó mới rơi?

- Chắc vậy, trước khi vượt cánh đồng, anh còn nắn đai nó mà!

Ba ngồi im lặng. Còn anh em khác thì cứ ồn lên trách móc anh

cán bộ già đã đánh mất cái xắc:

- Sao không cột đai cho chắc?

Anh cán bộ rầu rĩ:

- Cực quá, xắc đó đựng toàn tài liệu quan trọng! Làm sao bây

giờ?

Ba đứng vụt dậy:

- Để em đi kiếm về!

Có tiếng can ngăn:

- Biết ở mô mà kiếm, em?

- Pháo bắn dữ rứa!

Nhưng Ba đã nhảy phốc lên mặt đất, mất hút trong màn đêm.

Cả căn hầm rì rầm, xao động. Có ai đó thốt lên:

151

- Thằng nhỏ dễ thương quá!

Một giọng khác tiếp:

- Thằng nhỏ mau lớn dữ! Mới cách đây chưa đầy năm, nó chút

chun chứ mấy!

Rồi vẫn giọng đó kể:

- Hồi nớ bọn mình đi từ dưới lên, cũng qua vùng ranh này,

nhưng đường còn tĩnh, không ác liệt như bữa ni mô. Các ông biết

đó, cánh già bọn mình đi bết lắm, đã chậm lại nghỉ nhiều. Thấy

giao liên là một chú bé mười hai, mười ba tuổi, bọn mình đòi nghỉ

luôn. Cứ đi chừng hơn nửa tiếng lại: "Ba, uống nước cam đã em",

hoặc: "Chà, chỗ ni mát rứa, không nghỉ cũng uổng, Ba...".

Ba cứ lặng lẽ chiều theo bọn mình. Nhưng khi mặt trời gần

đứng bóng, không nén được nữa, chú bé van vỉ: "Các chú đi mau

lên, không quá giờ, trạm trên bỏ trực, con bị phê bình". Rồi nó oà

lên khóc.

Một anh cười lớn:

- Ô, thế thì chuyến đi của mình với Ba lại khác hoàn toàn. Bữa

ấy không có Ba chắc mình chết mất. Chẳng là bữa ấy, Ba cũng dẫn

mình qua bãi trống hồi trưa bọn mình vượt qua đấy. Chẳng may

dép của mình tuột quai. Thằng "chuồn đen" ở đâu lại lùi lũi đến.

Hoảng quá, mình chạy quýnh cẳng giữa bãi trống. Thằng "chuồn

đen" nghiêng cánh, thế là pháo nã tới tấp, tung bụi mù mịt. Mình

không biết chạy đường nào nữa. Chính lúc đó Ba lao ra hét lớn:

"Nằm xuống!" rồi kéo mình nhào xuống một hố đạn gần đấy. Thằng

"chuồn đen" quần lượn nhòm ngó, và mỗi lần nó nghiêng cánh là

pháo lại dập tới. Ba ngước mắt nhìn trời, bảo mình: "Anh, chạy theo

em nghe!". Rồi Ba kéo tay mình, lao lên. Hễ thằng "chuồn đen"

quay đi thì Ba kéo tay mình chạy. Lúc nào nó vòng lại thì Ba kéo

mình nằm xoài xuống, giấu thân trong cỏ. Rồi cũng thoát. Hai anh

em chạy vào trong xóm ngồi thở. Mình nhìn Ba bỗng giật mình.

152

Trên đầu Ba một dòng máu đang chảy ri rỉ. Chiếc mũ tai bèo của

em đâu mất...

Một anh sốt ruột hỏi:

- Sao? Ba bị thương à?

- Bị thương, Ba bị thương... Nhưng em chỉ nhoẻn cười, đưa tay

vuốt dòng máu: "Không hề chi anh, như con vắt cắn thôi". Chúng

mình lại đi. Lúc này, một chiếc "tàu rọ" cùng mấy chiếc HU1A nữa

bay tới, quần sát sạt bãi nà. Thật hú hồn! Nếu cứ quýnh ở đó thì nó

chộp cổ rồi!". Điếu thuốc tắt từ lúc nào anh không hay. Anh móc

thùng diêm quẹt quẹt... Bữa ấy, Ba cứ đầu trần vậy mà đi dưới

nắng. Một anh trong đoàn có cái mũ lưỡi trai của lính nguỵ, không

hiểu lượm được ở đâu, vẫn nhét trong túi ba lô, liền đưa cho Ba, nói

mãi chú bé mới nhận. Nhưng vừa chụp nó lên, em lại giật xuống

ngay. "Dị òm anh, cái mũ thằng nguỵ coi lấc xấc, thôi trớt". Bọn

mình phải xúm lại giải thích mãi, chú bé mới chịu...

Lại một đợt pháo nữa dội tới. Chúng tôi nhổm lên nhìn lại phía

cánh đồng. Trong bóng tối, những chớp sáng loé lên liên tục. Tiếng

nổ chát chúa. Căn hầm rung lên. Trái tim tôi như có ai bóp thắt lại.

Tôi lo cho Ba. Tôi bỗng thấy thương em vô hạn. ở em, sao cái ngây

thơ, hồn nhiên lại kết hợp hài hòa với cái cứng rắn đến thế. Tôi

bỗng nhớ đến những mầm non ở những cánh rừng bị chất độc hoá

học. Những thử thách với chúng thật lớn. Song, chúng vẫn bật dậy

mạnh mẽ và xanh tươi mơn mởn. Mỗi khi nhắc lại những ngày qua,

Ba hay nói: "Hồi đó em còn bé"... Đúng là giờ đây em đã lớn, lớn vụt

lên rồi.. Nhưng những gì ngây thơ của con trẻ, em vẫn còn nguyên.

Những chớp lửa ma quái, những tiếng nổ độc địa cứ chụp lên

con đường kia. Những con đường đã biết bao lần in dấu chân em...

Ngoài đồng, tiếng pháo vẫn nổ. Còn trong hầm thì im lặng. Chỉ có

những đốm lửa thuốc lá loé lên và di động. Anh cán bộ già lại thở

dài. Tiếng muỗi vo ve, vo ve thật khó chịu. Đột nhiên pháo im bặt.

Sự chờ đợi như bình khí khổng lồ bị nén lại. Rồi, pháo lại gầm lên.

Lần này, tiếng pháo nặng lắm và dồn dập hơn. Người có kinh

nghiệm nhận ra ngay đó là đợt pháo bầy mà bọn địch thỉnh thoảng

153

vẫn dùng nhằm huỷ diệt mục tiêu. Tiếng nổ trầm đục là tiếng pháo

biển, xuyên sâu xuống lòng đất mới phát nổ nhằm phá hầm hố. Còn

tiếng nổ chát chúa là tiếng pháo chụp nổ ngay trên không, toá

mảnh xuống giết những người ở trên mặt đất. Pháo từ biển, từ mấy

trận địa tập trung dội vào cánh đồng này, mỗi lúc một dồn dập hơn.

Ba, em đang ở đâu?

May thay, Ba đã trở về. Em như một làn gió mát rượi của vùng

biển quê em đột nhiên tràn tới. Em nói như reo lên:

- Cái xắc đây anh!

Anh cán bộ già nhào ra phía cửa hầm ôm lấy Ba. Nhưng Ba đã

nói to:

- Đi, mấy anh! Đi mau về còn nghỉ!

*

Buổi sáng ở đồng bằng thường đến sớm hơn ở miền núi. Mới

khoảng bốn giờ, bầu trời đã chuyển sang mầu trắng đục. Chúng tôi

dậy nấu cơm. Phải nấu cả cơm sáng, cơm trưa. ở những vùng gần

địch, người ta quen làm như vậy.

Ba ăn cơm xong từ lúc nào, đang ngồi băm vụn mấy củ sắn.

Bên cạnh em là mấy cái lồng gà. Con gà mẹ xù lông, cục cục. Ba con

gà đen thui kêu chíu chít, rúc mỏ qua những kẽ nan. Tôi hỏi:

- Sao có ba con thôi em?

Ba ngẩng lên:

- Bữa địch càn, phải làm thịt con gà cồ. Sợ nó gáy, địch nghe

thấy. Gà mái không có cồ, đẻ trứng ra không ấp được. Ba con gà ni,

trứng gà rừng nở ra, mà em nói với anh đó.

154

Ba nhoẻn miệng cười rồi chúm môi "huýt huýt"... Bầy gà con

kêu chiêm chiếp... Ba nghiêng đầu, một tay mở cửa lồng, một tay

vốc sắn đưa vào trong. Bầy gà tranh nhau mổ sắn trên tay Ba.

Ăn cơm xong, chúng tôi xếp đồ đạc gọn ghẽ, ba lô sẵn sàng. Anh

em trong trạm mang những đồ dùng lặt vặt trong nhà như con rựa,

thùng nước... giấu vào những bờ bụi quanh trạm. Bầy gà được nhốt

vào hai cái lồng lớn. Con heo độc nhất còn sót lại sau đợt càn vừa

qua, cũng được cột chân lại, cho vào một cái rọ lớn. Đó là cách nghe

ngóng xem địch có càn không. Nếu có thì có thể lánh kịp, không để

cho địch phá.

Mặt trời vừa dậy đã nhăn nhó phóng những tia nắng chói

chang xuống. Bầu trời cao hẳn lên, vời vợi. Tiếng động cơ xe tăng rú

phía xa. Nơi ấy là đồn địch. Vài chiếc tàu rọ quần lượn cao cao. Vài

chiếc tàu vận tải bay qua bay lại nặng nề. Có những tiếng pháo

điểm cầm chừng. Xa xa lại có tiếng súng máy nổ liên thanh. Và bầy

bồ chao ngủ muộn giật mình choàng dậy, hỏi nhau rối rít, tranh cãi

nhau loạn xạ. Như vậy là buổi sáng yên lành. Chừng chín, mười giờ

có thể đi làm những việc cần thiết.

Anh em trong trạm lục tục mang gùi, rựa, kéo nhau đi. Chỉ còn

cô trạm trưởng ở nhà với khách. Chúng tôi lấy võng ra, cột nằm một

chút. Căn nhà của trạm đơn sơ, giống như mọi căn nhà của đồng

bào vùng ranh này. Nói nhà thì hơi quá, bởi vì nó không phên, vách,

không bàn, ghế, giường. Chỉ có mấy hàng cột với hai mái tranh sơ

sài. Tuy nhiên, căn hầm lại rất chắc chắn. Nó được đào rộng bằng

cả nền nhà, trên lát một lớp cây lớn, lấp một lớp đất dầy. Căn hầm

đủ chỗ cho chín mười người cột võng nằm được. Tôi nhìn khắp gian

nhà, suy nghĩ mung lung... Cuộc sống của người giao liên vùng ranh

này giản đơn vậy đó. Với căn nhà xuyềnh xoàng, với những đồ dùng

gọn, anh chị em trụ bám ở một vùng ác liệt, thầm lặng đưa bộ đội,

cán bộ qua lại. Họ nối liền căn cứ với đồng bằng. Con đường của ta

thành mũi dao thọc vào tim kẻ thù, Hằng ngày, chịu biết bao gian

khổ ác liệt, nhưng họ vẫn sống lạc quan, vui vẻ, yêu đời.

Cô San, trạm trưởng, mang sổ ra hí hoáy ghi chép số khách.

Xong, cô mở một quyền vở học sinh, lẩm nhẩm đọc:

Em là mạch chứa dòng máu nóng

155

Em nối liền căn cứ với tiền phương

Con đường em cháy bỏng yêu thương...

Đọc tới đó, San cười rúc rích và hỏi tôi:

- Anh, có phải bài thơ ni nói về giao liên chúng em không?

Tôi gật đầu:

- Ừ, bài thơ ca ngợi các đồng chí đấy!

San lắc đầu quầy quậy:

- Không, chúng em có gì đâu mà ca ngợi!

Tôi cười:

- Nói lạ chưa! Đó, như Ba chẳng hạn, thật là một cậu bé thông

minh, dũng cảm!

Nghe nói tới Ba, San kể:

- Gia đình Ba tội lắm anh à! Cha hắn làm biển bị bo bo bắn

chết cùng hơn chục bà con khác. Nhà chỉ còn hai má con hắn, lại bị

bọn địch bắt vào khu đồn.

Xếp chồng công văn lại, cô trạm trưởng hào hứng kể tiếp:

- Rồi đồng bào cũng nổi dậy phá banh khu đồn. Bữa ấy có đội

công tác về. Ba bám riết anh đội trưởng nằn nì xin đi. Bị từ chối,

hắn khóc dẫy lên rồi kéo tay anh đội trưởng tới chỗ má hắn. Ba vừa

nói, vừa nấc, tấm tức: "Má, má nói giùm con... Con đi trả thù cho

cha...". Anh đội trưởng không nỡ từ chối. Rứa là hắn theo về huyện.

Các anh ở huyện lại chuyển cho trạm chúng em...

Mải nói chuyện, xế chiều rồi mà chúng tôi không hay. Anh em

trong trạm đã trở về, mang theo mấy gùi bắp. Những trái bắp nếp

bao còn xanh, phốp pháp.

156

Lại nhen lửa nấu ăn. Trạm bắc một nồi lớn, nấu đầy bắp trái.

Cô trạm trưởng tươi cười:

- Hôm nay liên hoan nghe mấy anh!

Thế là cả trạm nhộn nhạo cả lên:

- Hoan hô trạm!

- Trạm sang dữ hè!

- Mà sao lại ăn bắp non, uổng chết!

- Không, trạm em không lãng phí mô! Những đám bắp trước

thu hết rồi, trái nào trái nấy khô cứng, hạt rắn đanh. Đám bắp ni

bọn em trỉa muộn, nắng quá, héo cả cây, cả trái, để cũng uổng.

Chúng tôi, cả khách và giao liên, quây quần bên rổ bắp bốc hơi

nghi ngút. Những trái bắp nếp ngắn ngày trông mỡ màng, ăn dẻo như

xôi và ngọt lừ. Ba gặm hết một trái, quẳng cùi vào cái sọt, vui vẻ:

- Các anh xem, trạm em nghèo rứa đó, ăn sắn, ăn bắp thôi!

Một anh đế vào:

- Khoai bắp, tình quê rất thiệt thà. Nghèo mà được như ri là

quý rồi.

Tất cả cười vang. Sau nhịp cười sôi nổi đó, San đứng dậy dặn

dò:

- Các anh ăn xong thu dọn đồ đạc cho gọn nghe! Dây mang cột

cho chặt. Đai dép rút sít vô cho dễ chạy. Ba và anh Phước, trạm

trưởng trạm hai mươi sáu, sẽ dẫn các anh đi.

Chúng tôi vượt mấy cánh đồng trống, vượt một con sông thì trời

đã nhá nhem tối. Lại vượt qua một bãi tranh lớn. Bãi tranh này bị

bọn địch rải xăng đốt trụi, rộng thênh thang như một sân bay. Ba

157

đi đầu. Phước đi cuối hàng. Khi qua khỏi bãi tranh, bước lên một

đồi sim thì Phước vượt lên, khẽ gọi:

- Ba, dừng lại đã!

Chúng tôi cũng dừng lại, đặt ba lô xuống nghỉ. Ba và Phước

ngồi chồm hổm bên một bụi sim. Tôi nghe hai người rầm rì:

- Em ở chờ đoàn khách, anh bám đường nghe!

- Không, em bám đường, anh ở chờ!

- Không được, anh quen đoạn đường này hung rồi!

- Không, anh đi họp về, anh cũng là khách thôi. Em là giao

liên, em phải bám đường!

- Thằng nhỏ này ngang dữ. Đoạn đường này thuộc về trạm anh.

Anh là trạm trưởng, mi phải nghe lời!

Hai anh em vẫn tiếp tục tranh cãi, mỗi lúc một gay gắt hơn. Tôi

ngồi nghe, lòng đầy xúc động. Ai đã từng đi qua vùng ranh những

ngày ác liệt mới thấy hết ý nghĩa cao quý của sự tranh giành đó.

Phía trước kia là con đường xe chạy. Bọn địch thường ra phục kích.

Cái chết rình mò trong từng bụi sim, trên từng bước đường.

Cuộc tranh cãi chấm dứt. Có lẽ là Ba thua. Phước đã ôm súng

lẹ bước ra phía lộ. Ba hậm hực quay lại chỗ chúng tôi:

- Anh Phước giành đi trước rồi! Các anh ngồi chờ một chút! Nếu

nghe anh Phước ra hiệu thì khẩn trương theo em. Còn nếu nghe

tiếng súng thì các anh chạy quay lại nhà ông Phấn.

... Bầu trời đen xẫm. Tĩnh mịch. Không một tiếng máy bay.

Không một tiếng pháo. Ba ngồi nhấp nhổm không yên. Bỗng một

tiếng súng vang lên. Ba bật dậy, lao vút đi. Tiếng súng AR15 nổ

loạn xạ như mè rang. Tiếng AK đáp lại, nhịp ba viên một, chắc

chắn. Rồi một tiếng lựu đạn M.26 nổ "ầm". Và im lặng...

158

Chúng tôi ngồi trong nhà ông Phấn, bồn chồn ngóng đợi. Ba đã

về kia, tay xách một khẩu AK. Chiếc mũ của em đã văng đâu mất.

Mái tóc tơ đẫm mồ hôi, dính bết trước trán. Trong ánh đèn dầu,

gương mặt em trông vàng võ lạ. Chúng tôi hỏi dồn dập:

- Phước đâu?

- Phước về chưa?

Ba chỉ ra sân, giọng lạc hẳn đi:

- Anh Phước ngoài đó...!

Chúng tôi xách đèn, đổ xô ra. ánh đèn dầu toả ra sân cỏ một

vùng sáng vàng yếu ớt. Hai anh du kích đứng ở đó từ lúc nào, lặng

im. Còn Phước thì nằm trên nệm cỏ. Tôi cúi xuống nhìn Phước, xót

xa. Phước nằm ngửa, hai chân duỗi thẳng, cánh tay phải bị gẫy nát,

cánh tay trái nắm chặt, hơi giơ lên trong tư thế cầm súng bắn. Máu

thấm ra ướt cả tấm dù bọc thi thể anh. Chúng tôi đều im lặng. Mỗi

người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Tôi thấy hình ảnh Phước cứ hiện

rõ trước mặt, vui tươi, cởi mở. Phước trạc ngoài hai mươi, cao gầy,

có nụ cười rất đôn hậu, khiến người ta vừa nhìn thấy là mến, tin

ngay...

Hai anh du kích dậm chân, thỉnh thoảng lại chép miệng. Tiếng

một anh trầm trầm chìm trong màn đêm: "Lũ chúng mình chậm

quá! Nếu đi sớm một chút, đặt kịp mìn ở đoạn trên thì chúng

"xoang" rồi, mà anh Phước khỏi hy sinh". Anh kia ngậm ngùi:

"Chúng mình có lỗi, đi phục kích lại bị trễ hơn chúng".

Ba từ trong nhà bước ra, giọng thảng thốt:

- Anh Phước, anh Phước ơi!

Các anh du kích lại bên Ba, dỗ dành:

159

Thôi đừng khóc nữa em! Nhớ trả thù cho anh Phước! Em đi làm

nhiệm vụ đi! Dẫn khách đi vào lúc này là tốt hơn cả.

Hình như nghe nói đến nhiệm vụ, Ba tỉnh táo lại. Em lặng lẽ

đứng dậy, xách cái bao bột mì loang lổ máu của Phước, mở ra lấy

cái võng, tấm đi mưa, đưa cho anh du kích, giọng bùi ngùi:

- Các anh đưa anh Phước đi dùm em!...

Em chỉ cái bao:

- Trong nớ còn một ít hom sắn, anh Phước xin ở trạm em, trù

xuống đó trồng. Các anh lấy trồng quanh nơi anh Phước nằm. Anh

Phước siêng lắm, cứ rảnh việc là lại cầm cuốc tăng gia.

Quay sang chúng tôi, Ba giục:

- Các anh lên đường nghe!

Giọng em rắn đanh lại. Trong đôi con ngươi còn lóng lánh nước

mắt của em, ánh đèn dầu sáng lung linh như hai ngọn lửa. Không

hiểu sao, tôi bỗng nghĩ rằng, từ đôi mắt ấy sẽ phát ra những tia

sáng diệu kỳ, soi tỏ màn đêm, rạch ròi từng bờ cây, bụi cỏ, rõ lối cho

chúng tôi đi...

(Kỷ niệm chuyến công tác vùng ranh Quảng Nam)

Thứ sáu, ngày 9/10/1970

Sáng nay đánh dấu một bước tiến quan trọng của đời tôi. Tôi

được kết nạp vào Đảng nhân dân cách mạng Việt Nam - cũng là

Đảng Lao động Việt Nam. Đó là điều tôi ấp ủ từ lâu và cũng là

niềm mong đợi của gia đình tôi, nhất là cha tôi.

Buổi lễ kết nạp được tổ chức đơn giản, đúng với nếp đơn giản

thường có ở chiến trường. Giữa rừng già kín đáo, trong căn nhà

tranh tối tranh sáng, anh em căng một cái tăng rồi treo cờ Đảng,

chân dung Hồ Chủ Tịch, khẩu hiệu "Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí

160

Minh vĩ đại!". Tôi đứng trang nghiêm nghe đọc quyết nghị kết nạp

của Đảng uỷ cơ quan. Rồi tôi đứng lên trước anh em đọc lời tuyên

thệ. Xúc động nhiều, tôi nói được ít. Tuy nhiên, đó là những lời nói

xuất phát từ trái tim cháy bỏng nhiệt tình của tôi. Từ nay tôi đã là

đảng viên dự bị của Đảng. Tôi phải phấn đấu hơn nữa để sau 9

tháng thử thách trở thành đảng viên chính thức. Sự tiến bộ này của

tôi, có công lao của anh Lý, anh Vượng. Nhớ có một lần, sau khi vào

chiến trường được khoảng một năm, nhân chuyến đi cõng gạo, tôi có

hỏi anh Bí thư Chi bộ xem Chi bộ có ý kiến gì về ưu, khuyết điểm

của tôi, anh trả lời là chưa ai bàn đến. Lúc ấy, tôi buồn quá. Sự ghẻ

lạnh mới đáng sợ làm sao! Nhưng từ khi có anh Lý, tôi đã được

quan tâm, dìu dắt. Anh Vượng luôn sát cánh bên tôi, thông báo ý

kiến của Chi bộ để tôi biết mà phấn đấu. Cách đây ít hôm, Vượng

viết thư cho tôi, báo tin Đảng uỷ đã duyệt trường hợp của tôi, viết

rằng khi có ý kiến nhận xét khuyết điểm lớn nhất của tôi là luộm

thuộm, anh Sâm (Khu Uỷ viên, Trưởng Ban Tuyên huấn của chúng

tôi) cười rất to.

Trưa, tôi và 4 đồng chí khác lên đường đi cõng muối, mua hàng.

Trời mưa suốt. Qua Trà Niêu, thấy lúa ở đây bị chết rụi vì chất độc

của Mỹ. Máy bay HUIA cũng mới bắn chết 2 con trâu của đồng bào.

Họ xẻ hết thịt nhưng còn để lại đó một cái đầu to tướng.

Tới ngày thứ ba, chúng tôi đi qua nơi anh Lê, Bình và Nghị hy

sinh. Đây là một đoạn đường trong rừng non, lẫn lau lách, khá bằng

- nằm ở đỉnh dốc. Mộ của Lê và Nghị nằm gần nhau, cách nhau một

con đường mòn, Nghị nằm chếch phía dưới một chút. Nấm mộ của

Lê đắp không cao lắm, hình hơi vuông - có lẽ Lê chết trong tư thế

nằm co. con đường đi hơi lấn xuống nấm mộ của Nghị. Bọn tôi dừng

lại lấy rựa phát quang những cây lách, dọn sạch phía trên cho mọi

người đi tránh mộ Nghị, rồi lấy cây rào quanh nấm mộ. Tôi lặng lẽ

làm, suy nghĩ mông lung. Nhớ thương lắm! Mộ của bình nằm dưới

đó vài chục mét, được rào cẩn thận, song đất đắp hơi ít nên rất nhỏ

bé. ở giữa rừng này, cuốc xẻng không có, làm sao có thể đắp to hơn

được Bình ơi!

Về, cõng muối đi trong mưa dầm dề. Người ướt rượt. Bao muối

trên lưng ướt mèm, nước nhỏ giọt, nhỏ giọt vào lưng áo, rát vô cùng.

161

Tới bờ sông Tang, bọn tôi phải dừng lại - nước lũ đã chắn đường

chúng tôi. Sông không rộng lắm, song nhiều đá. Ngày thường, nước

chỉ tới bắp chân, chảy khá mạnh, song vẫn lội qua được. Mưa nhiều,

nước trở nên lớn và hung dữ tợn. Dòng nước đục ngầu, nhấn chìm

rất nhiều những mỏm đá trước đây vẫn nằm khô. Nước xoáy vào đá,

tung bọt trắng xóa. Chúng tôi cứ ngồi đó nhìn mức nước đang xuống

một cách chậm chạp, hy vọng có thể qua được vào buổi trưa. Song,

trời đã sầm mặt lại, chuẩn bị một cơn mưa khác. Đành căng tăng ở

lại.

Cũng may, đêm không mưa. Trời trong và trăng sáng lạnh

lùng. Sáng, nước đã rút bớt, trong lại, song còn chảy rất xiết. Dù

sao cũng phải vượt qua. Hàng chục người bị ứ ở hai bên bờ sông đều

kéo ra xem xét, la ó. Tạo cởi trần lội dò nước. Cậu ta to, khoẻ nên đã

băng được qua dòng sông, dò ra lối lội. Những người đi không theo

đó lội qua. Có anh lội qua được một khúc thì bị trôi, nhưng lại dạt

được vào mỏm đá gần giữa sông. Có mấy anh nắm chặt tay nhau,

cứ thậm thà thậm thụt ở bờ nước, không dám nhào ra. Mấy anh

dân tộc lội ào ào, dùng gậy chống đỡ với dòng nước, cứ băng qua và

miệng thì la lối, cười nói liên hồi. Những tốp đã qua được bên kia bờ

nối nhau thành một cái dây để kéo người đi sau vượt qua đoạn cuối.

Họ la: "cố lên, nhanh lên!". có cô gái dân tộc đíu chặt trên lưng một

anh - anh ta khoẻ, lội băng sang. Một anh dân tộc nắm tay một cô

gái Kinh dìu qua sông. Song khi vừa nhớm chân xuống nước, cô ta

liền thụt lại và kêu lên mấy tiếng "choé, choé!" như tiếng vượn vậy.

Anh thanh niên đã lội xuống nước, cứ lội tới và kéo tay cô gái. Cô ta

vẫn kêu choe choé, vùng vẫy. Khi qua được bờ rồi, để mặc quần áo

ướt sũng dính bết vào người, cô ta đứng cười ngặt ngẽo và kêu lên:

"Khỏi chết, khỏi chết rồi!". Nhộn nhà nhộn nhạo khắp khúc sông.

Tạo vác bao muối của tôi lội qua trước. Có lúc cậu ta bị trượt

chân, lao đao dưới nước làm tôi lo thót tim. Song cậu ta vẫn gượng

được, lướt sang bờ bên kia. Cứ thế, Tạo vác 3 bao muối sang. Tôi bị

sốt nên chỉ lội người không cũng đủ mệt.

Ngày 15, tôi về đến nhà. Vò đang sốt nặng. Cậu ta nằm ở sạp,

thở khò khè. Tôi ngồi bên cậu, cầm tay và gọi: "Vò ơi, Vò ơi!" song

cậu chẳng biết gì cả. Người Vò lạnh ngắt, chân tay co lại, chẳng cử

động gì. Đôi mắt Vò mở, song chẳng nhìn vào đâu cả. Tôi nắm tay

162

Vò giật giật và gọi: "Vò ơi, có lạnh không?". Cậu hơi cựa quậy một

chút, nhưng không nói được mà chỉ: "ự, ự" trong họng. Kiểu này gay

đây.

Anh em cho biết Vò đau từ ngày tôi đi tới nay. Cũng sốt rét

thôi, nhưng kèm cả đi lỏng. Không có thuốc. Cũng chẳng đủ người

để chuyển Vò vào viện. Đến sáng nay thì Vò không dậy được nữa.

Chúng tôi thu xếp cáng Vò đi bệnh viện. Khi được đưa vào cáng, Vò

cũng chẳng biết gì. Thật đau xót, buổi chiều 15, khi đưa Vò tới viện

thì cậu ta đã tắt thở.

Vò quê ở Ninh Giang Hải Dương. Mới 19 tuổi, Vò đã được kết

nạp vào Đảng - kết nạp ngay trên đường vào Nam. Khi chuyển sang

cơ quan chúng tôi, Vò bị sốt rét nhiều, người xanh xao, cơ teo lại.

Song cậu ta rất cố gắng. Nhiều buổi trời mưa lạnh, Vò vẫn đi chăn

trâu, về còn hái rau cho nhà bếp. Vò rất chịu khó khâu vá, tuy

đường kim của cậu ta rất vụng về, chỉ như đường may lược của các

cô gái. Giờ đây chiếc mũ Vò may còn đó, chiếc quần cậu ta may

bằng vải xé từ ruột nghé ra đang còn dở dang... Bệnh tật cướp Vò đi

một cách dễ dàng quá. Trước đó ít ngày mà đưa Vò đi bệnh viện

hoặc chỉ cần có ít kí ninh ống, ít Cacofe, B12 tiêm cho Vò là có thể

giữ cậu ta lại được. Đơn giản vậy đó, song thật đau xót, không thể

làm như vậy được. Thuốc quá thiếu thốn, không có một ống, mà

thuốc viên cũng hết nhẵn. Chúng tôi đi vắng, ở nhà chỉ còn mấy

phụ nữ và mấy cậu đau ốm khật khừ, lấy ai khiêng Vò đi được?

Cách đây ít lâu, nhìn da Vò xanh dợt, bủng beo, nhìn thân hình Vò

gầy nhom, khật khưỡng, tôi nghĩ rằng cậu ta khó mà trụ được với

cuộc sống khắc nghiệt này. Có ít viên sâm Triều Tiên, tôi đưa cho

cậu ta dùng. Song ăn thua gì kia chứ? Còn đau xót nào hơn nỗi đau

xót khi biết trước rằng đồng chí mình có thể chết, lại biết cách để

cứu đồng chí mình, nhưng không có điều kiện để cứu, đành chịu

thua thần chết?

Từ ngày 20/11/1970

Tôi trở về Ban công tác. Thế là đã qua một mùa rẫy rồi. Phút

nào còn bỡ ngỡ với nhát rựa đầu tiên trên rẫy mà bây giờ đã cùng

anh em làm nên cả một mùa lúa vàng, mang mùa vàng no ấm chất

đầy kho! Ra về, lòng không khỏi lưu luyến. Vì nơi đó đã thấm mồ

163

hôi của mình trên từng khóm lúa, nương ngô, gốc sắn. Vì ở đó, mình

đã rèn luyện trong lao động nặng nhọc và đã trưởng thành.

Lên đến đỉnh dốc cao rồi, tôi quay nhìn lại nơi ở. Nổi lên giữa

màu xanh bạt ngàn của rừng núi là một bãi xanh bằng bặn của rẫy

sắn lớn của chúng tôi. Tôi rất nhớ những ngày đổ mồ hôi, phát,

ráng sức cõng hom để trồng nên 14.000 gốc sắn xanh tốt đó.

Đồng bào nóc ông Chanh bùi ngùi tiễn tôi đi. Tối đó, tôi ngủ lại

nóc, dạy bọn trẻ hát và cùng ngủ sạp với chúng. Bà con cho tôi nào

nếp, gạo, nào mè, chuối để đi đường ăn.

Ban làm nhà ở gần nóc đồng bào Kà Đong thuộc thôn 4 xã íp.

Lại bắt tay vào chuyên môn. Tôi được phân công đi các ngành

lấy tài liệu viết một số tin tổng hợp nhân dịp 20-12. Quả thật, lâu

ngày mới cầm bút viết, cũng chật vật.

Tôi cùng các anh Lý, Vượng, Ca ở một nhà, rất thú vị vì hợp

"gu" nhau. Bọn tôi quen nhà ông Xây và quan hệ rất mật thiết. Mấy

đứa nhỏ con ông Xây rất dễ thương. Chúng tôi kiếm vải may áo cho

chúng. Ông Xây rất quí chúng tôi, nhà có gì ngon lại gọi ra cho ăn,

thỉnh thoảng lại bảo con đem vào cho bọn tôi ít gạo, sắn hoặc

chuối... Bởi vậy, bọn tôi tối nào cũng có thứ để xì xụp với nhau.

Lương thực hồi này khá hơn. Ngoài số chúng tôi tự sản xuất ra,

còn được cấp gạo "Xã hội chủ nghĩa". ở bến xe, chúng tôi còn 2 tấn

gạo, song không có người chuyển về. Cứ chuyển lần hồi vài cõng

một.

Trời mưa tầm tã hoài. U ám và mọng nước mãi. Mưa kéo dài cả

chục ngày. Tạnh một chút, tưởng đã nắng, lại mưa. Bọn tôi ở cao,

trời quánh đặc một thứ mù ẩm ướt. Giá lạnh vô cùng. Đêm nào

cũng chất cả một đống lửa to tướng giữa nhà.

Theo chủ trương của Ban, đông đảo cán bộ, nhân viên sẽ đi

nước Ta sản xuất lang, rau đông xuân và đi nóc ông Thiên vỡ đất

làm ruộng, đến tết sẽ về.

164

Ngày 26/12, tôi lên đường đi nóc ông Thiên. Trời vẫn mưa dai

dẳng.

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Miền Trung Trung Bộ. 1/12/1970 .

Bố mẹ và các em yêu quý !

Hôm nay có anh Thành và anh Dân ra Bắc, con tranh thủ viết

thư thăm gia đình.

Hồi này con vẫn khoẻ. Qua gần 3 năm công tác ở chiến trường,

con đã già dặn, cứng cáp lên nhiều và cũng đã có những bước tiến

đáng mừng. Ngày 9-10-1970 con đã được kết nạp vào Đảng Nhân

dân Cách mạng Việt Nam. Bố mẹ ạ, để có ngày vinh quang đó, con

đã phải cố gắng rất nhiều. Như bố mẹ biết đó, hồi con đi do không

có thì giờ, không lấy kịp giấy sinh hoạt đối tượng nên vẫn là quần

chúng trơn. Khi đi trên đường, sinh hoạt của Đoàn cũng lỏng lẻo

nên mặc dù con rất cố gắng vẫn không được chú ý tới và khi vào cơ

quan, con vẫn chỉ là một đoàn viên thường. Tuy nhiên, con luôn xác

định cho mình là phải kiên trì phấn đấu nên trong công tác, sinh

hoạt con vẫn luôn hăng hái, phấn khởi, không tỏ ra sốt ruột, thắc

mắc. ở đây, khó khăn, gian khổ đã thử thách con và tạo điều kiện

cho con phấn đấu, thể hiện bản chất của mình. Các đồng chí Đảng

viên và các đồng chí lãnh đạo cũng luôn giúp đỡ con. Đặc biệt có

anh Huỳnh Ngọc Lý (có vợ người miền Bắc, ở Hải Phòng) rất tận

tình giúp đỡ con từng ly từng tý và rất tích cực nêu vấn đề của con

ra trước chi bộ. Tới tháng 10/1969, đáng lẽ con được chuyển lên đối

tượng, song thời gian đó, trong dịp di chuyển cơ quan, con lại sơ ý

để mất của cơ quan một cái đài bán dẫn nên bị để lại. Sau đó con

được phân công đi sản xuất, tự túc lương thực cho cơ quan. Khi gác

bút, cầm rựa, con phải vượt qua bao bỡ ngỡ, mệt nhọc để làm quen

với công việc. Tạị đây con được anh Bá (cũng là chi uỷ viên như anh

Lý) hết sức gíup đỡ. Con đã thắng mọi mệt nhọc, khó khăn, luôn là

cá nhân xuất sắc của đơn vị, là đoàn viên 4 tốt nên chỉ sau 3 tháng

165

sản xuất (tháng 5/1970) con đã được chuyển lên đối tượng và tới

tháng 7 thì được chi bộ kết nạp. Toàn chi bộ nhất trí 100% về việc

kết nạp con và cho con hưởng thời gian dự bị là 9 tháng (lẽ ra đối

với một tiểu tư sản học sinh là phải 12 tháng). Do giao thông liên

lạc khó khăn, việc chuyển hồ sơ của con lên Đảng uỷ và nhận Quyết

nghị của của Đảng uỷ về bị chậm trễ nên hơn 2 tháng sau con mới

được kết nạp. Hiện nay, con đã trở về cơ quan làm công tác chuyên

môn và tiếp tục phấn đấu để trở thành Đảng viên chính thức. Trong

dịp bình bầu khen thưởng cuối năm, con được bầu là Chiến sĩ quyết

thắng (thấp hơn chiến sĩ thi đua một bậc). Hiện nay con được cử

làm Bí thư chi đoàn thanh niên của cơ quan. Con luôn tự nhủ phải

cố gắng hết sức và khiêm tốn học hỏi các đồng chí lớn tuổi để làm

thật tốt nhiệm vụ của mình, trở thành người cán bộ thật tốt của

Đảng.

Bố mẹ kính yêu! Sống xa gia đình con luôn nhớ đến bố mẹ và

các em. Tuy nhiên, gần một năm nay con không nhận được lá thư

nào của gia đình cả. Bố mẹ cố gắng hỏi chị Tú ở VNTTX cách gửi

thư cho con sao cho nhanh nhé. Hiện anh Đức đã về chưa và công

tác ở đâu? Việt, Ngọc có hay về thăm nhà không? Diệp, Lan, Thuỷ

học có giỏi không? và lớn nhiều chưa? Con rất mong gia đình gửi

ảnh cho con.

Con có mời anh Thành, anh Dân đến thăm gia đình. Hai anh

này sẽ trở vào chỗ con sau khi nhận máy móc. Bố mẹ nhớ gửi thư để

2 anh ấy cầm vào giúp. Nếu anh Đức có đồng hồ thì mẹ gửi cho con

một cái, con rất cần vì đi rừng núi không có đồng hồ khổ lắm. Con

cũng cần một ít tiền để mua sắm đồ dùng và bồi dưỡng, bố mẹ gửi

cho con với (gửi tiền 10đ của miền Bắc, vào đây con sẽ đổi ra tiền

miền Nam). Anh Thành là bạn thân của con nên nếu gửi anh ấy

mang được là rất chắc chắn, hoặc nhờ anh ấy nhờ người mang hộ

cũng tốt.

Cuộc sống của chúng con vẫn rất gian khổ, giá sinh hoạt đắt

đỏ, nên khó có điều kiện cải thiện đời sống. Ăn uống chủ yếu vẫn là

sắn, bắp và rau rừng. Bắp được coi là gạo chứ không phải là thức

ghế. Chúng con đang cố gắng sản xuất, đánh cá, săn bắn để nâng

166

cao mức sống của mình. Sang năm, chúng con có thể được phát tiền

ăn gấp đôi mức hiện nay. Nếu vậy thì mức ăn uống có thể khá hơn.

Bố mẹ ạ, điều đáng mừng là con đã gắn bó được với đồng bào

Thượng ở căn cứ như hồi ở Sơn La con gắn bó với đồng bào Thái.

Con đã nói được tiếng Kà Dong và được đồng bào rất thương yêu.

Nói chung, cuộc sống của bà con ở đây còn khổ lắm, còn thiếu mặc

và lạt muối. Đồng bào đã tổ chức được những tổ vòng công, hợp tác

để đẩy mạnh sản xuất.

Con rất nhớ cụ, bà ngoại, ông bà trẻ, cô Chung, cậu Hiếu và các

em. Con rất mong nhận được thư của những người thân thích trong

gia đình.

Bố mẹ không nên quá lo lắng cho con, vừa qua chị Sáu ở cơ

quan con có viết thư nói gia đình hay đến hỏi tin con và nói con ít

viết thư về nhà. Thực tế, con cũng rất tranh thủ viết, song việc gửi

rất khó nên thư ít tới tay gia đình. Do vậy việc bặt thư con dăm bảy

tháng là chuyện thường, bố mẹ chớ lo.

Con gửi lời thăm các cô chú trong cơ quan bố.

Con của gia đình.

Việt Long

167

Năm 1971

Ngày 1/1/1971

Năm mới đến trong cái mưa dầm dề dai dẳng. Trời mù suốt và

cứ mưa rả rích. Tôi đón năm mới trên đường đi nóc Ông Thiên. Một

mình cắm cúi bước trên đường trong cái lạnh ướt. Một mình ngủ

giữa rừng thấy buồn tẻ vô cùng. Đêm đầu, cột võng ngay bên đường

mòn, súng ngắn để trên bụng và ngủ yên lành tới sáng. Đêm thứ

hai vào một khu cơ quan bỏ hoang bên sông, thấy ấm áp hơn.

Đến cơ sở sản xuất lúc anh em đang cuốc ruộng. ở đây đang vỡ

hoá lại cánh đồng bị bỏ hoá từ mấy năm trước đây. Những thửa

ruộng cao bị cỏ tranh bao dày. Những thửa ruộng cũ bị sình lầy và

cũng dầy đặc cỏ.

Chúng tôi dùng cuốc vỡ ruộng. Sình lầy quá đỗi. Dẫm thụt đến

quá đầu gối. Cuốc, ra sức cuốc. Cỏ kết bè lại, nhùng nhằng. Nước

bùn thấm vào da thịt lạnh ngắt và rất ngứa. Da thịt ửng đỏ lên,

ngứa muốn điên lên. dầm trong nước lạnh và bùn lầy, bọn tôi vẫn

vỡ từng đám ruộng một. Chúng tôi còn có cái thú là bắt chim cuốc -

Tô biết làm loại bẫy bằng tre thít cổ chúng.

Chẳng bao lâu ruộng đã bờ liền bờ, phẳng phiu, đủ cho chúng

tôi cấy 6 ang giống. Mạ cũng đã được gieo.

Ngày 16/1/1971

Mấy hôm nay trời đã hửng nắng. Bầu trời cao, xanh, xen những

đám mây trắng xốp. Những tia nắng le lói chiếu trên khắp núi

rừng, xua tan dần cái ẩm ướt, lạnh lẽo. Bọn địch lợi dụng trời nắng

hoạt động dữ. Moranh quần lượn suốt. "Rọ", "gáo", HU.1A (các loại

máy bay trực thăng trinh sát và chiến đấu) luôn luôn chúi vào các

hẻm núi dòm ngó. Có khi "rọ" còn lách theo bờ sông dùng cánh quạt

ở đuôi quạt tung từng bụi cây để tìm người, nhà cửa. Cái thứ tầu

"rọ" này đáng ghét lắm: chúng nhỏ bé nên luồn lách khắp nơi, sà

xuống thấp dễ dàng. Đã thế, chúng chỉ có bộ khung bằng kim loại,

168

còn lại bọc bằng nhựa trong suốt nên quan sát rất dễ. Rất nhiều

đồng chí của tôi đã bị "rọ" kít xuống bắn chết hay bắt sống.

Chúng phát hiện ra xóm nhà của nóc ông Điền. Thế là lũ

HU.1A và tầu rọ bu đến bắn đại liên, phóng rốc két, cối... Một chiếc

máy bay cánh dơi quần lượn suốt, thả hết tràng bom này tới tràng

bom khác. Chúng đánh phá như vậy suốt 3 ngày liền. Đêm, chúng

còn bắn pháo cấp tập đến nữa. Không hiểu đồng bào bị thiệt hại ra

sao?

Ngày 22/1/1971

Tôi cùng Tô, Tùng mang nếp, gà về cơ quan ăn tết.

Ráng tới bờ sông Tranh khi trời đã nhoà tối. Gọi đò hoài mà

không ai đáp. Trời lại rắc xuống một trận mưa, lạnh vô cùng.

Chúng tôi lội ngược suối, định lên đơn vị sản xuất gần đó ngủ nhờ.

Nhưng khi vừa bước vào nhà, đã nghe giọng nói chẳng lấy gì làm

thân thiện lắm: "Các anh định ngủ nhờ hả, không được đâu!". Tính

tôi không thích kèo nèo. Tô, Tùng cũng vậy. Thế là lại quay ra bờ

sông mưa lạnh.

Dăng tạm tăng ở lại bờ sông mà ngủ. Tô bỗng kêu thét lên. Hoá

ra cậu ta vịn vào cây, vớ trúng con rắn lục. Loại rắn này mầu xanh

lá cây, sống trên cây nhưng chỉ hoạt động vào ban đêm. Nọc chúng

rất độc, có thể giết chết người như không. May mà lúc này còn ánh

mặt trời, con rắn đang ngủ, chỉ phản ứng một cách chậm chạm. Tô

dùng rựa chém chết con rắn. Chỗ này dốc, nhiều đá nên chúng tôi

cột võng không thoải mái chút nào, đầu cứ chúi xuống phía sông.

Ăn chút cơm nguội. Rồi leo lên võng nằm. Gần sáng, cái tăng bị

đọng nước, đổ một vũng xuống võng Tô làm cậu ta ướt mèm. Tô làu

bàu: "Ngồi vậy thôi". Tuy nhiên, vẫn cột võng tránh chỗ nước và lại

ngủ thiếp đi - mệt quá mà. Nghe mấy quả pháo nổ gần gần.

Từ 24 đến 30/1/1971 - Xuân Tân Hợi

Chúng tôi đón xuân mới tại cơ quan. Trời chẳng có gì là xuân

cả vì cứ u ám suốt và lạnh vô cùng.

169

Thật là tai hại, cái con heo to lớn mập mạp của cơ quan lại bị

bệnh gạo - phải chôn. Do vậy quá nghèo thịt. Anh em kháo nhau

rằng đó là điều may, năm mới sẽ tha hồ gạo mà ăn.

Tuy nhiên, về tinh thần thì khá thoải mái. Chúng tôi họp tiểu

ban, đại hội chi bộ trước tết, còn đến giao thừa và ngày 1, 2 đều

được nghỉ. Tôi và Vượng thức suốt đêm nghe đài, tán chuyện tào

lao.

Đồng bào cũng vào ăn tết với chúng tôi. Cơ quan đãi bà con một

bữa khá thịnh soạn. Bọn tôi cũng dành kẹo bánh đem biếu nhà ông

Xây - cơ sở của chúng tôi.

Ngày 4/2/1971

Nhà ông Xây cho chúng tôi một con heo nhỏ. Bọn tôi mổ thịt và

mang về nấu. Nhà chỉ có 3 anh em. Xì xụp lúc cúc nấu nướng suốt

buổi tối. Kể ra đây cũng là một việc hiếm có.

Trời vẫn mù, mưa nhỏ hạt. Lạnh vô cùng. Chúng tôi chất lửa

suốt đêm ngày.

Ngày 8 - 16/2/1971

Tôi đi cõng gạo "Xã hội chủ nghĩa". Đây là loại gạo được chuyển

từ miền Bắc vào chứ không phải loại gạo mua từ đồng bằng miền

Nam lên. Nói chung, những gì liên quan đến miền Bắc, chúng tôi

đều gắn với 4 từ Xã hội chủ nghĩa: "gạo Xã hội chủ nghĩa", "đường

Xã hội chủ nghĩa", "thuốc Xã hội chủ nghĩa"...

Chúng tôi đi về phương Bắc. Ngoài tết rồi mà trời vẫn mưa lai

rai. Đường nhão nhầy, trơn truội. Đi qua con đường mà cách đây

gần 3 năm tôi đã đi qua khi hành quân từ Bắc vào. Đến nước Kiết -

trạm Dân cũ - Tôi ngồi ngắm nhìn cảnh vật, lòng đầy suy nghĩ.

Dòng suối này tôi thường ra câu cá và mỗi khi đi mót sắn về lại

cõng gùi sắn qua để vào bãi khách phía trong kia. Ôi! những ngày

đói kém, gian khổ đầu tiên đến thử sức bọn tôi có lẽ là ở đây đây.

170

Lại đi qua con sông Nước Mỹ. Dòng sông đầy những tảng đá

khổng lồ. Người ta lấy gỗ bắc qua những tảng đá đó để làm cầu đi

qua sông. Hồi vào, bọn tôi đi qua đoạn sông này. Phía bãi cát có

những bụi rù rì duyên dáng, tôi và San từng ra đó chụp ảnh - bao

năm trôi qua rồi, song cảnh vật không khác chi mấy.

Trời lạnh vô cùng. Đêm ngủ, thấy võng giá ngắt như ướt sũng

nước. Sơn và Khoa cột sát võng, nằm chung bọc võng cho ấm. Tôi

mang đủ màn, áo ấm mà vẫn lạnh không sao ngủ được. Trời nắng

được 3, 4 bữa. Đường ráo một chút, song có những quãng lầy, bùn

lại đặc quánh lại, dính dép nhằng nhẵng. Rồi lại rắc mưa xuống,

nhớp nháp.

Đường dốc vô kể. Những cái dốc đứng sựng trơn truội. Xuống

dốc, thần kinh căng như dây Mi của đàn Măng đô lin. Có một anh

đã sảy chân ngã, bị sứt 2 cái răng. Tôi phải dùng gậy chống, dò

từng bước đi xuống. Lạnh mà mồ hôi vẫn tuôn ra. Ngồi nghỉ một

chút, mồ hôi rao ráo lại lạnh vô cùng, phải đi ngay. Ngán nhất là

lúc ăn cơm trưa. Ăn vào rồi, thấy run lên vì lạnh. Không muốn ngồi

lại chút nào, tuy biết rằng ăn xong mà đi ngay là rất hại, rất ác với

cái dạ dày.

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Ngày 19/3/1971

Bố mẹ kính mến!

Có anh Phò ra Bắc chữa bệnh, con gửi thư nhờ anh ấy mang ra

và mời anh ấy đến chơi nhà. Anh ấy cùng ở tiểu ban, cùng tổ đảng

với con. Anh ấy sẽ kể nhiều chuyện về con cho gia đình nghe.

Bố mẹ ạ, hoàn cảnh gia đình anh Phò cũng tội, vợ, con anh ấy

đều ở đồng bằng, lâu nay không liên lạc gì được. Nay anh ấy bị

bệnh, không có đủ sức khoẻ, phải ra Bắc, anh ấy cũng buồn. Mong

171

gia đình đối xử với anh ấy thân mật, đầm ấm như người nhà để anh

ấy vui.

Bố mẹ muốn gửi gì cho con thì nhờ anh Phò gửi cho nhanh và

bảo đảm. Gần một năm không nhận được tin tức gia đình, con buồn

quá.

Thôi, chúc bố mẹ khoẻ, các em ngoan, học giỏi. Anh Phò sẽ nói

chuyện nhiều cho bố mẹ nghe.

Con đã dặn anh Phò nếu có điều kiện thì chụp ảnh gia đình để

gửi cho con. Con mong ảnh gia đình lắm,

Con của gia đình.

Việt Long

Ngày 22/3/1971

Lý rủ tôi xuống ngọn nước Ta để kiếm cá. Dụng cụ mang theo

là hai cái cần câu và một cái lưới rách nát, đứt xiên và chỉ có vài cái

phao.

Chúng tôi mang gùi đi - cả võng, ăng gô, gạo, rựa, súng... ở núi

rừng này phiền phức thế đấy, đi khỏi nhà một đêm là phải mang đủ

thứ lích kích.

Đến nơi, đã xế chiều. Tôi kiếm chỗ dăng tăng, kiếm củi nấu

cơm. Lý đi thăm chỗ câu và rải lưới. Tối xuống nhanh quá, hai anh

em ăn vội mấy miếng cơm rồi vác cần câu đi. Đầu tiên, chúng tôi

ngồi câu cá ở gần một thác nước. Thác nhỏ thôi nhưng dựng đứng.

Nước đổ xuống trông như bức tường đá, bắn bọt khắp một vùng.

Dòng nước chảy mạnh, xô khối không khí quanh đó chạy dạt về

phía trước, tạo thành một luồng gió mạnh. Thành thử ngồi đó luôn

có cảm giác trời mưa gió lạnh lùng. Cá chẳng cắn câu gì cả. Chúng

tôi vượt lên thác. Đá trơn, không có bậc, nên vượt thật vất vả. Phải

bám vào rễ cây, dây rừng mà đu người lên. Trời tối thui. Lội qua

suối, tôi bị hẫng chân vào một hũng sâu, ướt cả hai ống quần.

172

Câu chán ở trên không được, bọn tôi lại lần xuống dưới thác.

Phải dò từng bước xuống. Trời dậm doạ mưa. Vội về dăng tăng.

Bấm đèn, dứt dây rừng để dăng tăng. Tới nửa tiếng đồng hồ mới

xong. Lý đi thăm lưới. Cá cũng mắc. Cả câu, cả lưới được 9 con, mỗi

con to bằng 2 ngón tay!

Ăn tiếp chút cơm còn lại. Mưa. Rải vội lưới, thả lưỡi câu Chình

rồi về nằm.

Mưa rả rích. Rồi mưa lớn dần. Hai anh em nằm chung một

tăng. Nước mưa hắt làm ướt cả bọc võng. Song không lạnh lắm.

Bốn rưỡi sáng, Lý thức tôi dậy. Mưa nặng hạt hơn. Sông réo ầm

ầm. Chắc nước đang lên. Lý lo lưới bị cuốn mất. Anh nhấp nhổm

muốn dậy. Tôi viện lý là ở đó nước quẩn, không trôi lưới được,

khuyên anh nằm lại đợi sáng đã. Nhưng rồi anh vẫn dậy, bấm đèn

ra gỡ lưới. Anh mang về một gói lưới. Lá dính đầy lưới. Cũng có 5, 6

con cá. Lại cả một chú cua, một chú ếch nữa. Chúng tôi gỡ ra, cho

vào ăng gô. Cả thảy có 14, 15 con cá, một con ếch, một con cua - đó

là chiến công của chúng tôi sau gần 2 tiếng vượt dốc, lội suối và một

đêm hì hục lần mò, dầm mưa kiếm chác.

Nước sông lên to. Bọn tôi bàn nhau phải xuyên sơn về. Chẳng

thèm nấu cơm sáng nữa. Thu dọn đồ rồi lội thử qua sông. May quá,

cũng được. Tiếp tục lội ngược sông, vượt hai thác, leo dốc về cơ

quan. Tôi cho rằng đó là một thất bại. Lý nói rằng không thất bại,

vẫn là thắng lợi. Tôi nói rằng phải trả giá mấy con cá đắt quá. Lý

nói rằng không đắt, vì nước lớn, lẽ ra phải mất lưới cơ.

Về nhà nấu cơm ăn. Anh em để phần thịt mang xào, thịt mang

nấu mì chay. Và trưa đó mỗi người được một nửa con cá do chúng

tôi kiếm. Kiếm ăn đâu phải chuyện dễ!

Hồi này địch tập trung xâm lược Nam Lào nên chỗ chúng tôi

khá yên. Ngày, đêm có những chuyến máy bay phản lực vội vã bay

qua đầu chúng tôi, lướt về hướng Bắc. Cứ hôm nào có máy bay bay

nhiều, y như là hôm đó ngoài ta đánh mạnh, thắng lớn.

173

Ngày 19/3/1971

Nghe tin ta đánh thắng Bản Đông. Thật lý thú khi nghe những

tin, bài phản ánh sự thắng lợi đó. Ngày 23, quân ta làm chủ hoàn

toàn Nam Lào. Chúng tôi say sưa ghi chép tin tức chiến thắng. Anh

Phi chỉ thị phải có kế hoạch tuyên truyền tập trung cho chiến thắng

này. Tập thể bàn bạc, sau nửa tiếng vạch xong kế hoạch cụ thể. Bài

vở soạn kịp thời, vẽ cả bản đồ nữa. Đem in kịp thời tập tài liệu về

chiến thắng đó để chuyển về các tỉnh cung cấp xuống cơ sở.

Anh em tổ chức liên hoan mừng thắng lợi. Trong 2 ngày liền

đổi được 2 con lợn - thế là rôm rả.

Phong trào cải thiện lên khá. Tổ đánh cá thỉnh thoảng lại gửi

về một thùng cá muối. Đó là thành quả của việc cả tổ lặn lội suốt

ngày đêm ở Nước Ta.

Đêm 27 rạng ngày 28/3, quân ta tập kích cứ điểm Xã Đốc. Suốt

đêm, ở xã đó vang lên tiếng súng, tiếng máy bay. Nghe tin diệt gọn

một tiểu đoàn Mỹ ở đây. Địch phản ứng yếu ớt. Chúng bắn pháo vu

vơ vào các vùng xung quanh. Máy bay trinh sát cứ bay rít nhặng xị

trên bầu trời nơi chúng tôi ở suốt ngày, đêm. Pháo chúng câu tới

vùng này, song còn cách chúng tôi vài chục phút đi bộ.

Suốt 3 ngày 27, 28 và 29/3, quân và dân Trung Trung Bộ tiến

công dồn dập hàng trăm vị trí địch, diệt hàng ngàn tên Mỹ, nguỵ.

Tình hình chung toàn chiến trường rất tốt.

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội, ngày 6-4-1971

Long thân yêu của mẹ!

Thấm thoát con xa gia đình đã gần 3 năm rồi, gia đình nhớ con

nhiều lắm, mẹ cứ thấy người ta ra ngoài này bồi dưỡng sức khoẻ

hoặc được ra hẳn, mẹ mong con cũng được ra quá mà chả biết bao

174

giờ con mới được ra. Kỳ này có đoàn vào để thay thế cho một số

trong ấy ra, chả biết con có được ra không?

Hôm mẹ vào thăm anh Thành, mẹ cũng mua thuốc lá và đem

kẹo vào biếu anh ấy và mẹ có dặn khi nào anh Thành ra viện thì

thế nào cũng đến nhà chơi một ngày và anh Thành cũng chưa thể vì

còn nhiều chuyện nhưng đến bệnh viện không tiện nói nhiều.

Vì bố được tin tổ chức đến báo là có đoàn vào, có gửi gì cho con

thì gửi cho nên mẹ tạm gửi 50đ và 20v thuốc tetracylin thay

Biomycin. Khi nào con sốt hay viêm họng thì con dùng và còn một

số thuốc viên trắng là nhung viên, anh mua cho mẹ dùng nhưng còn

70 viên mẹ gửi cho con dùng, một ngày uống 3 viên thôi, mẹ rất

muốn gửi nhiều thứ cho con nhưng sợ họ không nhận. Đây là mẹ cứ

chuẩn bị sẵn còn mai đem lên xem chị Sáu có nhận cho không? Mẹ

đổi 5 tờ giấy 10 đ mới tinh để gửi cho con đấy, còn bao giờ anh

Thành vào, mẹ có điều kiện lại gửi thêm tiền cho con, con chỉ để bồi

dưỡng thôi không cần mua bán gì cả, mẹ chỉ cốt con còn khoẻ mạnh,

về với gia đình là tốt rồi. Hồi này các em bận học thi cả, chưa viết

thư cho con được, thi xong các em sẽ viết cho con. Em Phúc còn một

năm nữa là về rồi.

Nếu mẹ gửi được các thứ vào mà con nhận được thì con trả lời

mẹ để mẹ còn gửi kỳ sau, con cứ viết sẵn thư khi gặp ai ra là con

gửi thì tiện hơn, ở nhà mỗi khi ăn gì mà món ăn con thích thì mẹ lại

nhắc đến con luôn, con cố gắng phấn đấu cho tốt và giữ gìn sức

khoẻ, đừng chủ quan, khinh địch, gia đình rất mong con được về

đoàn tụ cùng gia đình ngày gần nhất.

Thôi thư đã nặng rồi, mẹ chỉ viết được thế thôi, chả sao mà nói

hết lời mấy con được.

Bố mẹ và gia đình chúc con khoẻ mạnh.

Mẹ chụp ảnh gửi gấp cho con để con mừng.

Mẹ .

175

Ngày 9 tháng 4

Tôi và Vượng được cử đi công tác thực tế. Đó là ao ước suốt 3

năm nay của chúng tôi. Tôi sẽ đi Quảng Nam, Vượng đi Quảng

Ngãi. Chúng tôi mau chóng chuẩn bị vài thứ cần thiết để đi sớm.

Anh Phi (Phương) căn dặn chúng tôi nhiều. Nói chung anh tỏ ra

khá lo ngại cho chúng tôi vì chuyến đi này là chuyến đi đầu tiên,

chiến trường lại ác liệt. Anh bảo: Xuống địa phương, ở làm việc với

Tuyên huấn và Văn phòng Tỉnh ủy - kết cho chặt, cùng làm việc

khoảng 15 ngày. Xuống huyện 15 ngày rồi đi huyện khác. Những

tin có thể điện về Khu: Phá khu dồn, mở mảng vùng giải phóng,

phá rã phòng vệ dân sự, binh biến, khởi nghĩa trong quân ngụy,

đấu tranh chính trị lớn - nên viết gọn, rõ. Những tin tổng hợp về

phong trào, về huyện. Làm ngay tin chống bình định, giành dân của

tỉnh: đánh bọn kìm kẹp, diệt ác ôn, làm rã địch, phá khu dồn, xây

dựng vùng giải phóng như thế nào? Phong trào du kích chiến tranh

- của tỉnh, huyện. Phong trào đấu tranh chính trị - có thể viết tổng

hợp hoặc gắn với tin về nổi dậy. Những mẩu chuyện về du kích, đấu

tranh chính trị, sản xuất, người tốt việc tốt - nêu rõ hành động, suy

nghĩ, nhưng viết ngắn gọn. Có thể xuống một xã nhưng không ở

lâu.

Ngày 10 /4/1971

Chúng tôi phấn khởi lên đường xuống Nước Ta.

Ở đây tổ Đảng tuyên truyền họp. Cuộc họp không thú vị gì, vì

là buổi kiểm điểm một số khuyết điểm. Vấn đề đặt ra: tại sao Tuyên

truyền có quỹ riêng 5.000đ? Có phải là tham ô tập thể không? Câu

chuyện này đáng lẽ lùi vào dĩ vãng rồi. Số là hồi năm 1969, các bộ

phận đều có cơ sở sản xuất tự túc riêng. Tới cuối năm này, qua đầu

năm 1970 thì các chi bộ giải thể, trở thành tổ đảng, cả cơ quan

thành một chi bộ, và các bộ phận sản xuất nhập chung lại. Qua việc

thanh toán với quản trị, anh Tần Phồ (phụ trách sản xuất của

Tuyên truyền) báo cáo còn thừa 5.000đ, nhưng anh em thắc mắc: số

tiền đó còn nhiều hơn. Anh Nặng (phó tiểu ban) lúc này làm rất

hăng. Anh nói: "Tôi phát hiện ra còn 27.000 đ cơ! Song để anh Phồ

đi công tác, xong hãy hay". Sau tết, anh Phồ về mua một số hàng.

176

Rồi lại có chuyến anh Phồ đi Quảng Ngãi mua một số hàng nữa. Rồi

thấy anh Nặng im, không nói đến chuyện tiền nong nữa. Mãi đến

cuối tháng 3/1971 , khi 2 anh này yếu sức khoẻ, phải ra Bắc và bàn

giao 5.000 đ lại, cơ quan mới biết. Nhưng 2 anh đã đi rồi. Chuyện

xấu để lại nơi này.

Anh em phát biểu rất công phẫn. Phải nói, nơi sản xuất của

Tuyên truyền khá tách biệt với cơ quan. Tần Phồ lúc đó là phó bí

thư chi bộ, phụ trách tổ sản xuất. Lối lãnh đạo của anh ta độc đoán.

Nhất là về kinh tế, anh ta khắc làm, khắc thanh toán với quản trị

và có nhiều lúc rất sai nguyên tắc. Ví dụ: trả công cho đồng bào

bằng hiện vật đều tính cao hơn giá thực mua để lấy lãi, bán 20 ang

bắp để lấy tiền liên hoan v.v. Nói chung số tiền thu là bất hợp pháp,

phải trả cơ quan. Chỉ có số tiền bán chất độn (ngô khoai) là chính

đáng và lẽ ra phải chia cho số anh em sản xuất ở đó. Nhưng bằng

thủ pháp dối trá, Phồ đã hợp pháp hoá số tiền đó và nhập cục lại

thành một quĩ. Rồi anh ta làm một bản danh sách dài dặc về những

buổi liên hoan, bồi dưỡng để trừ số quĩ đó đi. Nhưng thực ra, những

món chi đó, anh em đã trả rồi. Tức là Phồ thu tiền hai lần. Rõ là có

tham ô trong đó.

Còn Nặng, anh em nghi là có liên quan đến vụ này - có thể

chấm mút gì ở số tiền đó chăng? Tại sao lúc đầu anh ta làm hăng

thế, sau hai chuyến anh Phồ mua hàng về lại im đi? Anh em thắc

mắc, anh ta bảo: cứ bình tĩnh, nôn nóng hỏng việc. Anh ta báo cáo

lên trên là ổn thoả cả rồi. Những nghi vấn của anh em đều bị ứ lại ở

anh - anh đóng vai trò cái cửa cống xập xuống làm nghẹn lại những

rác rưởi ở bên kia. Lãnh đạo không rõ chuyện này. Anh ta dùng mọi

thủ đoạn để bịt mọi chuyện. Chi, Tân, Tứ... đều bị phân công đi sản

xuất, không được sinh hoạt với Tiểu ban, không nêu được thắc mắc.

Những anh em khác ở nhà thì không biết, hoặc biết lờ mờ. Thế là

anh ta đi thoát ra miền Bắc.

Rất tiếc là sự phát hiện quá chậm, như người ta bắn vuốt đuôi

máy bay vậy, chẳng ăn thua gì, còn người bắn thì chịu tiếng nổ và

khói của chính mình bắn ra!

177

Nặng người trong này. Ngay từ lúc mới gặp, nhìn đôi mắt anh

ta đã thấy khó tin. Đôi mắt sâu song con ngươi lại hơi lồi, nhiều

lòng trắng. Con mắt hay nhìn trộm và nhìn cái gì cũng rất nhanh. ở

bắp đùi anh ta có một cái bướu thịt rất lớn, phải to bằng bầu vú của

phụ nữ. Có lần ngồi nghỉ ở một nhà đồng bào, thấy mấy cô gái dân

tộc nhìn cái bướu vẻ tò mò, Nặng đưa tay xoa xoa, nắn nắn cái bướu

như kiểu người ta xoa nắn bầu vú phụ nữ, thế là mấy cô gái đỏ mặt,

lảng đi hết. Lúc gần đi, Nặng phong toả anh Huỳnh Ngọc Lý - chi

uỷ viên - dữ. Anh ta dựng đủ chuyện nói xấu sau lưng anh Lý hoặc

báo cáo với lãnh đạo: nào là lấy cốc đổi chuối, nào là đổi rựa, nào là

kèn cựa, địa vị. Phải nói, anh Lý cũng phải lao đao vì cú đánh nham

hiểm đó.

Trong buổi họp, có lẽ quá xúc động, Lý nói rằng tổ chức Đảng bị

lừa, tập trung đánh vào anh! Nói vậy là thái quá.

Anh Châu Hoàn - Bí thư chi bộ - nói rằng anh Nặng đến nỗi

nào nham hiểm dữ vậy? Anh em tập trung vạch cái nham hiểm của

Nặng. Tôi còn nhớ, anh ta từng lấy làm hãnh diện kể với chúng tôi

câu chuyện: hồi ở Bắc, một hôm anh ta và một số bạn bè rủ nhau đi

ăn hàng, ăn rất nhiều, song ai cũng nói quên tiền ở nhà. Nặng bảo

để anh ta về lấy tiền. Thế là xách xe đạp đi thẳng một hơi. Các ông

bạn tha hồ chờ!...

Châu Hoàn rất hiền lành, thật thà, cần mẫn, đáng mến. Anh

không tin chuyện ấy cũng phải thôi. Anh là hoạ sĩ, song tham gia

sản xuất nhiều hơn là vẽ. Anh mặc bộ bà ba xám thùng thình, đội

cái nón rách, vai khoác một cái xắc cốt to quá khổ, tay cầm con rựa

lúi húi với công việc suốt ngày. Thường, anh đi sớm, về muộn, ít có

bữa cơm ăn cùng với anh em. Song có lúc anh khắc khổ một cách

thái quá. Có khi anh tự soi gương và cắt tóc mất cả tiếng đồng hồ.

Trong khi đó rất nhiều anh em sẵn sàng cắt giúp anh chỉ mất 20

phút đồng hồ! Con người cù mì ấy lại nổi tiếng cả Khu bộ về chuyện

chặt nai. Bữa ấy anh xách rựa đi làm rẫy. Chẳng dè gặp một con

nai - nó bị thương từ lúc nào, ốm nhom. Con nai chạy qua bãi đá.

Anh nhào theo, vấp một tảng đá, ngã trầy cả đầu gối, nhưng đã

chém được một nhát vào chân nó. Con nai qụy xuống, anh chém cho

gẫy cả 4 chân rồi cõng về. Gần tới nhà, mệt quá, anh để đó, lẳng

178

lặng về rỉ tai Tuấn và Tám Tuyên. Cả 3 lặng lẽ kéo đi trước sự ngỡ

ngàng của anh em. Lát sau, họ quăng con nai giữa sân. Con nai mở

tròn mắt ngơ ngác nhìn mọi người. Các tay thày dùi chuyến này

mới nổi lên đả kích. Họ chế riễu những xạ thủ cứ xách súng suốt

đêm này đến đêm khác, tốn kém biết bao nhiêu pin mà thua một

anh chàng chỉ có con rựa trong tay.

Thật xúi quẩy, tôi nhận được thư anh Phi: tình hình Quảng

Nam khó khăn, khoan đi, chờ anh Huấn về bàn cụ thể! Thế là phải

khoác ba lô về. Chia tay Vượng, bịn rịn vô cùng. Mong anh đi được

đằm mình trong thực tế mà làm tin, mong anh bình yên.

Bị một cơn sốt cao - trên 40. Mệt rã rời. Song không đến nỗi kéo

dài lắm. Nằm bết mất 2 ngày. Hai ngày gắng đi lại cho khuây khoả.

Rồi lại bình thường.

Ở rừng núi có những đêm trăng thật đẹp. Trăng ngạt ngào tràn

ngập cả núi rừng. Những tán lá hầu như đều mọng lên, trong xanh,

ướt át ánh trăng.

Mùa hè, rừng núi thường dậy sớm hơn mùa đông. Đàn ve đồng

ca một điệu chỉ có độc một âm, râm ran khắp khu rừng. Con chim

"khó khăn khắc phục" cần mẫn hót từ lúc chưa rạng đông. Những

tiếng "cúc cu" thỉnh thoảng điểm vào thờ ơ và xa vắng. Khi ánh

nắng bắt đầu loé lên, bầy bồ chao lắm điều lại xúm xít nhau tranh

cãi loạn xạ, chẳng con nào nghe con nào. Rồi ánh nắng xuyên thủng

tán lá, trải mầu vàng nhạt trên mặt đất ẩm ướt.

Trong những lúc rảnh rang, tôi ngồi xem lại cuốn "thép đã tôi

thế đấy". Trong những ngày gian khổ này, đọc càng thấy cái hay,

cái đẹp của cuốn sách, thấy nó càng gần gũi với mình. Cuộc đời của

Pa Ven trong sáng, cao đẹp quá.

179

Chương 3

VỀ ĐỒNG BẰNG

Từ ngày 22 tháng 4 năm 1971

Lên đường đi công tác Bình Định. Chiều, xuống Nước Ta. Anh

em đang dọn rẫy để chuẩn bị trỉa. Trời nắng trắng cả đất. Đang

mong có mưa để trỉa và để bắp khỏi nghẹn.

Chiều và tối, nói chuyện nhiều với Ngọc, nghe Ngọc kể chuyện

về gia đình, về những ngày đầu tham gia cách mạng. Ngọc chỉ còn

mẹ già, một chị và 2 em gái nhỏ. Ngọc lam lũ từ nhỏ, biết cày từ

nhỏ, không được đi học, 15 tuổi đã đi theo mấy chú đi thoát ly. Ngọc

nói chuyện thật tình cảm, thật khác với nhận xét của tôi trước đây,

cho rằng cô ấy khô khan, cộc cằn. Có lẽ, sự nhìn nhận đánh giá về

các cô gái khu 5 trước đây có lệch lạc chăng? Tôi phục các cô ấy cần

cù, vượt gian khổ giỏi, nhưng tôi cho rằng các cô ấy khô khan, cộc

cằn. Nhưng quả thật, tôi chưa tìm hiểu sâu sắc tâm hồn phong phú

của các cô ấy. Cũng như Ngọc, các cô gái ở chiến khu này đều là con

nhà nghèo, đều có thù sâu với địch. Nên nhớ rằng những người như

vậy sẽ một lòng, một dạ đi theo cách mạng, cống hiến cho cách

mạng. Mà tình cảm đối với cách mạng là tình cảm đẹp nhất, lớn

nhất. Vậy thì sao có thể coi là khô khan được? Thực ra, thì trong lời

ăn tiếng nói, trong cách đối xử nhiều khi thiếu tế nhị, mềm dẻo.

Nhưng lỗi chính lại không phải ở các cô ấy. Sống trong hoàn cảnh

xã hội phức tạp, nghẹt thở, sống lam lũ, đầu tắt mặt tối, ít tiếp xúc

với những sản phẩm văn hoá thì nhất định sẽ dẫn đến sự nhẫn

nhục cứng rắn trong tình cảm, sự dứt khoát, bộc trực trong cách đối

xử - đôi khi dẫn đến thô thiển và cục cằn.

180

Ngày 23/4/1971

Cùng với Chi đi đánh cá. Chi là phóng viên ảnh, đánh cá rất

giỏi. Anh lựa những chỗ nước chảy mạnh, tung bọt trắng xoá mà

giăng lưới rồi dùng đá chặn chân lưới. Có chỗ sâu, anh lặn xuống,

trườn lên trên thác mà chèn lưới, đuổi cá. Rồi xuống dưới nước ném

đá ầm ầm, xua cá lên. Đánh một lúc đã được khoảng một cân cá.

Nhiều nơi đốt rẫy, lửa bốc lên hừng hừng, nóng bỏng. Khói

xanh, khói trắng, khói đen, khói vàng quện nhau cuộn lên mù trời.

Ngày 24/4/1971

Trời ầm ì làm cơn mãi mà không mưa nổi. Chiều, trời xám lại,

mây đen kéo đến dầy đặc. Rồi gió mát kéo về. Tưởng mưa to mà

cũng chỉ rắc cho vài hạt li ti.

Mọi người mong mưa, ngoài lý do cho tốt bắp, còn lý do nữa là

để săn bắn. Rẫy mới đốt, gặp mưa là nai, mang và chồn... ra kiếm

ăn đông lắm. Mấy tay thiện xạ sôi nổi chuẩn bị đèn bắn. Hương -

một xạ thủ của cơ quan - cùng Chi, Nguyễn Mỹ rì rầm bàn tán về

các rẫy, các dấu thú... Nguyễn Mỹ ghé sát vào tai tôi, thì thào:

"Đêm nay sẽ ăn mang!" và liếc mắt đầy ý nghĩa, sau đó đưa ngón

tay trỏ lên miệng "suỵt" một tiếng đầy vẻ quan Trọng. Nhà thơ với

bài thơ tình nổi tiếng "Cuộc chia li mầy đỏ" này cũng có máu trinh

thám ra phết.

Mưa nhỏ quá, chắc chỉ làm đủ ướt lá cây. Khoảng 8 giờ tối,

nghe một loạt AK nổ ròn rã. Ai nấy nhao nhao: "Hương rồi! Chắc là

nai!". Chi nhấp nhổm. Mỹ phớt tỉnh. Rồi 2 anh sách súng, soi đèn

đi. Song... màn đêm vẫn lặng lờ buông.

Sáng 25/4/1971

Sáng gặp Hương. Anh người thấp, nhỏ, đôi mắt trông hơi kèm

nhèm. Vậy mà anh đã bắn được hàng chục nai, mang và hàng trăm

chim, thú nhỏ khác. Nói tới chuyện săn thì anh say mê lắm. Anh

tuyên bố: "Mê săn hơn mê gái". Quả vậy, anh mê săn một cách kỳ

181

lạ. ít có đêm nào anh ngủ trọn giấc. Có thời kỳ chi bộ phải ra quyết

nghị cấm anh đi săn đêm để bảo đảm sức khoẻ, rồi giữ súng, đèn

của anh. Vậy mà anh lén đi mượn súng, đèn, bắn bằng được thú

mới thôi.

Nguyễn Mỹ bắn cũng vào loại khá. Vào đây, anh đã hạ 2 nai,

một số mang. Một hôm anh đi từ Ban xuống Nước Ta. Lẽ ra đi một

ngày thôi, nhưng trời mưa to, nước lũ tràn về làm anh không qua

suối được. Thế là phải ngồi co ro bên bờ suối. Đi dạo soi thú mà

không có, đành quay lại tảng đá ngồi. Tấm đi mưa nhỏ không đủ

che người và gùi nên ướt lướt thướt. Sáng sớm, đi ra rẫy và gặp một

chú mang nhỏ đang ăn lá sắn. Mỹ nổ một phát, nó bật ngửa, ngáp

ngáp. Anh bổ đi tìm con mẹ song không có nên mới vác xác con

mang con đi. Đến bờ sông, không sao qua được. Nước chẩy ầm ầm,

xô đá chạy lục cục. Mỹ ngồi bó gối trên một tảng đá, còn con mang

thì đặt nằm dưới chân. Ngồi miết, không có cách nào qua. Con

mang chướng hơi, phình căng bụng. Còn Mỹ thì ngồi gà gật, bụng

thót lại vì đói và thèm thịt. Mãi sau, có anh em bên kia đi hái rau,

thấy anh, mới quăng dây dù kéo Mỹ và con mang qua.

Lứa bắp đầu tiên đã thu về, trái không to lắm nhưng mỡ màng.

Trời vẫn nắng như đổ lửa. Chiều, tôi và Chi ra trạm Tuyển để đi

theo đường dây huớng về Bình Định.

Mưa nhỏ vậy mà nước sông Tranh cũng đục ngầu. Lội không

sâu lắm song không thấy đường, vấp vào đá mấy cái suýt ngã. Vào

trạm khi còn sớm. Anh em trong trạm đi sản xuất gần hết, tối mịt

mới về.

Ngày 26/4/1971

Ra CK5 để đi. Đơn vị này ở một nơi bằng bặn, khá sáng sủa, có

những căn nhà lợp lá kè khá chững chạc.

Cứ ngược sông Tranh mà đi miết. Hai bên bờ sông, các đơn vị

phát rẫy rất nhiều.

182

Gặp chỗ trực mấy cô gái miền Bắc mới vào - người Vĩnh Phú.

Quả thật chỉ nghe giọng nói thôi đã thấy mến rồi. Giọng nói nhẹ

nhàng, thanh thoát chỉ có con gái quê hương tôi mới có. Một cô gái

hồn nhiên trò chuyện với chúng tôi. Cô không đẹp lắm nhưng

khuôn mặt có những nét thanh tú, thông minh dễ mến. Cái áo màu

mận chín hơi phai làm nổi bật nước da trắng của cô. Cô bảo rằng cô

đi ở ngoài Bắc hồi tháng một, ăn tết bên Lào và qua khỏi đường 9

trước khi nơi này trở thành mặt trận lớn. Chúng tôi chê rằng các cô

đi quá chậm. Các chiến sĩ đánh ở đường 9 Nam Lào đã vào lâu rồi,

mặc dầu họ đi sau các cô. Cô cười: "Em bị sốt nên mới đi chậm.

Nhưng cách mạng miền Nam còn lâu dài, lo gì. Nhưng em cũng

phải cố vào nhanh mà phát rẫy phát nương chứ". "Đồng chí giác ngộ

điều đó sớm là tốt. Nhưng tay đã có chai chưa? Cầm được rựa

chưa?". Cô cười. Lâu rồi mới được nghe cái giọng nói, điệu cười nhẹ

nhàng đáng yêu của những cô gái miền Bắc, lòng thấy vui vui.

Trạm Thuỷ nằm liền bên đường, nhà cửa sạch sẽ, sáng sủa. Chỉ

có 2 giao liên đi trực 2 cánh, còn thì đi sản xuất hết.

Chi xách cần câu ra sông câu cá. Tôi đi bẻ ít cành cây làm củi.

Giao liên nói: "Anh bẻ làm gì đấy? Đến đây thì chẳng phải củi đóm,

nấu nướng gì đâu".

Tôi đưa cho Mệnh - giao liên người Hà Tây - một tờ báo Quân

đội và một tờ tranh. Cậu ta vồ lấy, vẻ mừng rỡ và đọc to lên, hết bài

này sang bài khác.

Gặp một cán bộ ở Phú Yên ra Khu họp hội nghị nổi dậy. Anh đã

khoảng ngoài 40 tuổi, nhưng chuyện trò rất sôi nổi. Anh được phân

công ở lại miền Nam, không tập kết. Sau bị lộ, cuối năm 1964 mới

gánh bông ra Bình Định giả dân buôn. Kẻ địch phát hiện, bắt giam

anh 3 năm. Được thả, anh lại hoạt động và lại bị bắt, bị đầy ra Côn

Đảo 3 năm. Khi thả anh, tên Chi trưởng cảnh sát nói: "Hiện nay

chưa biết tư tưởng anh ra sao, nhưng chúng tôi cứ thả. Báo cho anh

biết, thân nhân anh nhảy núi hết rồi, chỉ còn vợ anh ở nhà. Anh

thực sự hối cải thì phải có hành động chứng minh cho tư tưởng của

mình đã qui thuận Quốc gia, tức là phải bắt được Cộng sản nộp

Quốc gia. Cái đó khó đấy. Chứ nếu cứ cầu an cũng không được đâu.

183

Còn không, cứ lên núi mà hoạt động. Đừng ở lại phá bọn tôi, bọn tôi

cực, mà anh sẽ bị giết - nếu bị bắt trở lại. Lên núi, mang mụ vợ

theo. Mà không mang cũng được, đàn bà bọn tôi không khủng bố

đâu".

Anh tức cười quá mà vẫn hoạt động cách mạng. Con anh đi

thoát ly cả, có đứa đi từ 15 tuổi. Hiện nay, một người làm quân y sĩ.

Anh nói, như vậy là cũng đáng mừng. Anh tính trong gia đình anh,

tới nay đã có 22 người hy sinh.

Đêm, chuột phá như quỉ. Ba lô đã treo bằng một sợi dây mà

chúng còn leo vào cắn bằng được.

Ngày 27/4/1971

Vì không muốn mất thời gian, chúng tôi đi vượt trạm đến

thẳng trạm 8- trạm Rộng. Vẫn ngược sông Tranh. Đến bến, chúng

tôi rẽ về phía tay trái. Dọc sông, người ta phát rẫy tràn lan, nạo trọc

hàng dẫy đồi, mỗi rẫy phải trỉa được 10-12 ang giống. Có nnhững

thửa ruộng nhỏ, bông lúa đã vào mẩy, cúi xuống.

Trời không nắng nhưng không gió, oi ong ong. Leo dốc mệt

muốn đứt hơi.

Tới trạm thấy nhiều thay đổi. Nơi này, cách đây hơn một năm,

tôi đã đi qua, không được tấp nập như thế này. Trạm đã được

chuyển vào bãi khách gần suối lớn. 5 ngôi nhà xinh xắn được dựng

dưới rừng già thoáng sáng, trên nền rộng rãi, sạch sẽ.

Người của trạm toàn miền Bắc, rất vồn vã với khách. Đây là

trạm của nhiều mối đường: Bình Định, Công Tum, Quảng Nam,

miền Bắc, nên đủ loaị khách. Khách nộp gạo, rau, trạm nấu giúp.

Đủ loại gạo: gạo trắng Xã hội chủ nghĩa, gạo trắng đồng bằng, gạo

trắng rẫy, gạo đỏ rẫy.. đủ loại rau: lá lốt, lá chua, nấm.. tất cả nấu

chung một nồi rồi chia ra theo đoàn. Canh chỉ nấu không, của ai

nấy nêm mắm muối. Nồi cơm nấu ra có mấy mầu sắc, đẹp tựa một

chậu hoa. Anh nuôi là một người rất vồn vã và tháo vát.

184

Ngày 28/4/1971

Đến trạm Nhạ. Đường có đoạn tôi đã đi qua hồi 1969, tháng 11.

Trạm ở một khu rừng mát mẻ. Nhiều lúc gió thốc về làm lá nứa

cọ vào nhau kêu xào xào như mưa rào vậy.

Cuộc sống của anh em ở trạm thiếu thốn. Ăn toàn sắn với muối,

mì chính. Trạm ít người mà công việc lại nhiều. Đất quá xấu. Được

ít bắp, chồn lại ăn la liệt. Anh trạm trưởng nói rằng từ khi vào đây,

chưa bao giờ anh được hưởng một mình một lon sữa cả. Giao liên

trên căn cứ không phải chịu đựng ác liệt như ở đồng bằng, song

cuộc sống lại kham khổ gấp nhiều lần.

Chuột đói phá phách một cách kinh khủng. Chúng chạy dọc,

chạy ngang trên sàn nhà, dưới đất, cắn nhau chí choé, tranh nhau

gặm nhấm ba lô, ruột nghé gạo. trình độ phá phách của chúng điêu

luyện như xiếc. Ba lô, gạo, mặc dù đã được treo lên một sợi dây nhỏ,

chúng vẫn tụt xuống được mà cắn. Chúng dạn đến nỗi có anh giơ

tay túm đuôi, chúng mới chịu chạy.

Ngày 29/4/1971

Đường đi qua một vài rừng nứa rồi qua toàn những đồi lau,

lách, tranh. Nóng đến lả người. Lá tranh úa vàng hoặc quăn tóp laị

như vỏ đỗ khô.

Trạm Bửu nằm ở một khu rừng nứa dốc.

Anh Sơn mới ở miền Bắc vào nói rằng giờ đây có nhiều khái

niệm đã thay đổi. Khái niệm "sướng" trở nên giản dị quá. Đi một

quãng đường bằng, mát là sướng rồi. Ăn một bữa cơm không ghế

sắn cũng sướng. Có những việc tưởng chừng không làm nổi, vậy mà

đã làm được. Hồi ở Bắc, cứ nghe đi bộ một ngày là phát ớn. Lúc mới

đi, vận dụng đủ mọi biện pháp khoa học: xuống dốc đi nhanh, bằng

đi vừa, lên dốc đi chậm, thở đúng nhịp, vậy mà vẫn mệt. Thế mà giờ

đã quen cả, đi hàng bao nhiên ngày đường, mang nặng vẫn thấy

như không.

185

Con heo nái của trạm quả là điển hình về sự hy sinh cho con

cái của những bậc làm cha làm mẹ. Nó gầy nhom, xương sống và

xương sườn gồ lên, đầu và đuôi đều nhọn hoắt, chỉ có hàng vú là

căng sữa. 9 đứa con kêu nhặng xị, đuổi theo mẹ, hất mẹ ngã nhào

xuống, thi nhau thục mõm vào bụng mà bú.

Cùng đi với chúng tôi có đoàn cán bộ của làng Sản (mật danh

của ban Sản xuất khu), trong đó có mấy kỹ sư thuỷ lợi, trồng trọt.

Anh em lên tận Gia Lai xây dựng cơ sở mới cho trường Nông

nghiệp, việc đầu tiên là phải sản xuất. Họ cõng theo cả gà trống, gà

mái, gà mẹ, gà con. Tối, nghe họ bàn bạc:

- Đến, làm sao phải phát ngay được một rẫy, trỉa bắp mà ăn.

- Căng tăng ở tạm, đừng làm nhà vội.

- Cũng phải dựng cái nhà, lấy chỗ chui ra chui vào chứ.

- Đến, phải liên hệ chỗ ở, đổi gạo. Anh ở nhà kiếm cho một ít

cán rựa để tra vào làm.

- Không hiểu còn gạo không. 300 kg mà chuyển thành bắp thì

đuối.

Những người đầu tiên đặt nền móng cho cơ ngơi của cả tập thể

bao giờ cũng vậy, có biết bao mối lo, bao nhiêu mớ bòng bong cùng

phải gỡ một lúc.

Trạm này phát gạo.

Thứ sáu, 30/4/1971

Mở mắt đã leo lên một cái dốc thoai thoải dài hơn một giờ đồng

hồ. Toàn qua rừng non, lau lách. Cứ khoảng một giờ lại có hàng ghế

trạm làm cho khách nghỉ. Sáng, nóng và nắng. Tấm đi mưa cột ở

thắt lưng bị nung mềm nhũn như bánh cuốn mới ra khuôn.

186

Từ trên nhìn xuống, sông Rin như một con trăn khổng lồ có

những vẩy bạc sáng lấp lánh xen lẫn những vẩy xám đen quằn quại

trườn xuống thung lũng.

Vùng tây Sơn Hà này có nhiều nơi làm ruộng. Có những thửa

chỉ to bằng cái chiếu cá nhân. Có chỗ, cả thung lũng là một cánh

đồng, không vuông vức như ở ngoài Bắc, mà vọ vẹo, bờ xanh um cỏ.

Có những đám đã thu hoạch xong, trơ lại những gốc rạ. Có đám bị

hạn khô nẻ, lúa nghẹn lại loe hoe như mạ mới cấy vậy. Có những

con mương nhỏ chỉ bằng những rãnh nước quanh nhà, len lỏi quanh

những sườn núi. Qua sông Rin bằng cầu, phải vượt qua một bãi đá

rộng. Từng tảng đá to như cái sân nối liền nhau, nóng hừng hực,

phải chạy qua cho nhanh kẻo tầu rọ đến. Mới hôm qua, nó bắn ở

đoạn trên. Cầu bắc bằng mấy thân cây cau qua 2 tảng đá lớn.

Qua khỏi sông rồi leo lên một cái dốc thoai thoải, nóng rực. Gặp

một anh người Thượng. Anh mời bọn tôi uống nước. Chúng tôi chưa

uống mà ngồi cho ráo mồ hôi. Một hồi sau, anh mời lại bọn tôi. Anh

nói:

- Tôi sợ các anh nghi tôi như người Re dưới kia bỏ thuốc độc vô,

không dám uống nên tôi không dám mời nữa.

Anh nói có cái máy lửa bị rơi mất nên phải cọ nứa vào nhau mà

lấy lửa. Anh đưa bọn tôi xem cái máy lửa nguyên thuỷ ấy: nó chỉ là

một thanh tre có xẻ một đường rãnh ở giữa. Dùng một thanh tre

khác cọ ngang, ma sát sinh ra lửa. Tôi đưa cho anh chiếc máy lửa

của tôi.

Chiều, trời hơi chuyển qua mầu xám đen. Gió mát thốc về từng

hồi. Sau đó là mưa. Đến xế chiều thì mưa xối xả.

Trạm Điểm là một trạm nữ, nhà xộc xệch và ở xa nhau.

Hôm nay, kỷ niệm 3 năm ngày tôi rời miền Bắc.

Ngày 1 /5/1 971

Đến trạm Hương cũ, tức trạm 12. Trời mưa dầm dề, ào ạt như

giữa tháng 10. Mặc dầu có áo mưa, người vẫn ướt sũng. Những con

187

vắt ngày nắng ẩn dưới các lớp lá rừng, nay được dịp ngóc đầu dậy,

bu vào cắn cẳng chân. Ăn cơm mà lạnh run. Chi cuốn thuốc lá, bật

máy lửa hoài mà không cháy. Phải che vải mưa tùm hum lên mới

bật nổi. Anh bập vội hơi thuốc, sợ điếu thuốc chưa kịp cháy đã tắt

ngấm mất.

Ngày 2/5/1 971

Mưa ào ào suốt đêm đến sáng. Trưa mới hửng lên một chút. Nghỉ

lại trạm này. Chi xách cần đi câu, một lúc được 5 con cá. Mấy anh bên

làng Sản thấy vậy bèn nhộn nhạo đi chặt cần, rủ nhau đi câu.

Bảo, đoàn làng Sản, bị sơn ăn sưng rộp cả người. Anh xoay đủ

mọi cách chữa: xoa dầu, rửa xà phòng... kết quả chỉ làm da đỏ tấy

và ngứa ran lên. Cánh tay trái anh sưng húp. Tôi bảo anh xông

mắm cái. Thế là anh cậy cục xin được ít mắm cái, lột hết quần áo,

chùm chăn đốt mắm cái xông. Anh nói hôi hám quá và mồ hôi vã ra

như tắm. Có lẽ ai bầy cho anh cách gì bẩn thỉu nhất mà chữa khỏi

thì anh cũng làm.

Gần tối, đoàn khách ở trong mới ra, vì phải qua đò. Họ vơ củi

bắc bếp trong nhà mà nấu. Anh trạm trưởng nói: "Đề nghị các đồng

chí dụi lửa. Có gì cần nấu thì mang xuống bếp" rồi tới vơ củi vứt ra

ngoài. Tuy nhiên, anh vẫn để bếp lửa cháy. Mấy anh khách phân

bua: "Vì bọn tôi đến muộn quá nên mới phải làm thế."

- Vâng, các anh đến muộn. Nhưng chúng tôi chỉ yêu cầu các

anh đi đến nơi về đến chốn. Tới trạm, mời các anh cột võng nghỉ.

Chúng tôi xin phục vụ các anh đầy đủ.

Câu nói thật chí tình. Vậy mà có anh vẫn nói rất bửa:

- Thôi, anh về đi, đừng đứng canh nữa. Chín cơm là chúng tôi

dụi lửa thôi. Không mổ gà đâu mà sợ khuya.

Anh trạm trưởng quá hiền, chẳng nói gì cả.

188

Tiếp tục đi. Buổi sáng, trời mưa một chút rồi tạnh. Giao liên

biến mất khi chúng tôi mới kịp khoác ba lô lên vai. Vậy là phải mò

đường mà đi. Ai cũng ca cẩm anh giao liên bị ma bắt.

Qua một cầu bắc trên một suối lớn. Thấy mảnh đạn xuyên vào

thân cầu. Đi lên một bãi trống, thấy cây cối tơi tả, cháy xém. Cạnh

đó là một cái mả lớn, có 3 ụ. Biết rằng cách đây ít bữa tàu rọ lên

bắn ở đây, 3 người chết tại chỗ, 4 người bị thương.

Qua sông Sà Lò bằng thuyền. Dòng sông hẹp, sâu, dưới có một

thác đá lớn. Nước đục lờ lờ.

Rồi leo lên một cái dốc cao vợi. Chỗ giao trực nằm trên một

đỉnh núi. Người vào ngồi đó tới hàng chục, nói cười nhộn nhạo.

Không biết ở đây thuộc địa phận nào. Có anh bảo đây là đất Công

Tum. Có anh cãi đây là huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi.

Cô giao liên đón chúng tôi tên là Việt, dong dỏng cao, không

đẹp, song có nét hiền hậu, ưa nhìn. Cô người Quảng Ngãi, nói năng

cũng nghe dễ thương. Anh em leo dốc mệt quá, la:

- Trạm mấy cô này ở ác dữ, bắt anh em leo hoài.

Cô phân bua:

- Chúng em cũng muốn trạm gần, đường bằng, nhưng đường

đất nó như vậy, biết làm sao.

Lúc giao trực, có anh khách nói đùa:

- Nếu không bàn giao tôi cho trạm ngoài, tôi quay lại trạm cô

đấy.

Mấy chàng thanh niên được dịp tếu:

- Chắc lại nhớ giao liên rồi!

Cô cười, mặt ửng hồng, đôi mắt nhìn chậm chạp, dịu dàng.

Trạm 13 này cũng toàn nữ, do cô Xuân làm trạm trưởng. Đây

là ngọn cờ đầu của ngành Giao liên Quân khu. Trạm ở tại khu rừng

189

già thoáng, sáng, phía dưới có một dòng suối rộng, đẹp. Nhà của

trạm lợp tranh, che bằng ván và có giường hẳn hoi. Còn nhà của

khách thì hơi tối tăm lụp sụp.

Trạm có một việc đột xuất: một đồng chí khách bị sụn lưng,

không đi được, hiện nằm cách trạm một tiếng đồng hồ. Giao liên đi

mượn người khiêng, song không có người, vì ai cũng mệt bã, rã rời.

Cô Thuấn - y tá - vừa đi trực về, phải ra căng tăng, mắc võng cho

bệnh nhân. Rồi cô lại về trạm bàn với chị em giải quyết ca bệnh đó:

ra rừng cùng ngủ, chăm sóc bệnh nhân. Thế là Thuấn và Vân vội

vàng chuẩn bị đi. Thuấn nấu xi lanh, sắp xếp đồ đạc, tăng, võng,

ăng gô, lương khô. Họ vừa tíu tít chuẩn bị, vừa dặn nhau:

- Mang lương khô cho ảnh ăn, kẻo tội.

- Mang nước nữa, chắc ảnh khát lắm.

- Mang chén cho ảnh ăn. Mà thôi, ăn bằng nắp ăng gô cũng

được.

- Nhớ cất ruột nghé gạo cho ảnh, không chuột cắn nát mất.

Trời nhá nhem, tối rồi song không hề thấy họ lộ vẻ gì là ngại

ngần cả, họ chỉ lo cho bệnh nhân.

Việt mới đi trực về cũng nhào vào bếp sửa soạn cơm, nước cho

khách.

Ngày 4/5/1971

Nhà chỉ còn 2 giao liên, một người lại phải dẫn khách ra. Việt

chờ Vân, Thuấn về mới đưa khách vào. Chúng tôi đi trước, gặp

Thuấn cùng một đồng chí bộ đội khiêng bệnh nhân về, Vân cõng ba

lô. Hai cô ríu rít:

- Sao các anh không nghỉ lại trạm chúng em một bữa?

190

Đường đi qua những khu rừng bằng. Tới trực, chúng tôi tạm

biệt Việt. Cô nói ít nhưng hay nhìn -nhìn thẳng và chậm rãi.

Đi qua đường 5 - đoạn này thuộc đất Công Tum. Qua mấy vùng

ruộng. ở đây cũng lạ, lúa đủ lứa: lứa đã gặt, lứa vừa cấy, lứa đang

là mạ và có những thửa ruộng đang được vỡ.

Trời đang tạnh ráo bỗng nhiên đổ mưa, như người gánh nước

trượt ngã làm đổ ào nước xuống vậy. Rồi lại tạnh. Xong lại mưa. Y

như người ta tưới rau, hết nước phải đi xách thùng khác tưới tiếp

ấy.

Trạm 14 - tức trạm Hộ - làm nhà cửa khá xinh xắn. Nhưng heo

lại quá gầy. Trái với trạm Điểm, heo thì béo mà nhà lại quá ọp ẹp.

Đúng là: "Đàn ông cửa nhà, đàn bà gà lợn".

Đêm, lạnh ngắt.

Ngày 5/5/1971

Vì quá lạnh, chú gà trụi con của anh em làng Sản bị cóng, đang

hấp hối. Mang hơ lửa song vô hiệu, nó đã chết.

Đường đi qua những khu ruộng lúa, những cánh rừng bằng.

Cây ở đây thấp, nhỏ, lá nhỏ và rễ ăn nông, tràn lan khắp mặt đất.

Dẫm lên nó phải cẩn thận kẻo ngã dập mặt.

Trạm này cũng là trạm nữ. Nhà lụp sụp, dột nát. Heo ủi lở cả

nền.

Trước khi vào trạm phải qua sông Re. Nước sông đục, trôi lững

lờ. Có những sợi dây kết với nhau bắc ngang sông thành một cái cầu

rất vững.

Chi câu được một con cá lớn khoảng nửa cân và một số cá con.

Quả là một tay sát cá.

Chiều, trời tối sầm và đổ mưa. Nhà dột lung tung. Nước tràn

qua rãnh, ướt cả nền. Con suối bên cạnh réo ầm ầm.

191

Trạm chỉ có Hồng, Học và Tài - một cậu bé 13 tuổi - ở nhà. Còn

thì đi sản xuất hết. Hai cô đi trực hai cánh, về lại lo củi nước cho

khách nên để nhà cửa như vậy cũng không đáng trách. Các cô hẹn

rằng mấy tháng nữa, khi chúng tôi trở lại, nhà cửa sẽ khác bây giờ

nhiều.

Ngày 6/5/1971

Hồng dẫn chúng tôi vào trạm trong. Cô người Bình Định, khá

khoẻ mạnh. Cô khoe gặp một số nữ miền Bắc vào và nói:

- Vào đây để động viên các anh miền Bắc đấy.

Tôi nói:

- Các cô gái miền Nam cũng động viên được chứ sao.

Cô cười:

- Cũng động viên được một phần nhỏ thôi.

Trạm Lập nằm trên đất Gia Lai. Đường qua những khu rừng

bằng nhưng nhiều rễ cây trơn truội. Chiều, lại mưa.

Trạm này phát lương thực nửa gạo, nửa sắn. Sắn khô mốc

thếch, nấu lên bay mùi vôi nồng nặc.

Ngày 7/5/1971

Nghe tin địch càn ở khu vực đóng quân của tỉnh. Không rõ

đường xá ra sao.

Nghỉ lại trạm một ngày. ở đây khá lạnh.

Ngày 8/5/1971

Lại phải nghỉ nữa vì phải chờ để nắm tình hình đường xá. Có gì

bực bội hơn phải nằm chờ thế này. Những đoàn khác đi hết. Đoàn

ra Khu, đoàn lên Gia Lai. Sáng ngày trạm ồn ào. Người ta tạm biệt

192

nhau, chúc nhau lên đường khoẻ mạnh. Rồi đi hết. Sân trạm vắng

ngắt. Chỉ còn 2 chúng tôi nằm lại, buồn nao nao.

Ngày 9/5/1971

Nghỉ mà lo.

Ngày 10/5/1971

Tôi và Chi đi làm giúp rẫy đồng chí thủ kho. Dọn rẫy, nắng

chang chang. Vác những cây lớn ra khỏi rẫy. Người dính lọ đen

nhẻm.

Ngày 11 /5//1971

Đi theo đoàn của E12 do anh Thuận E trưởng và anh Phịa-phó

Chính uỷ E-cầm đầu (E: Trung đoàn).

Ở Gia Lai này đất khá bằng bặn. Rừng thưa, cây to. Những cây

bách, tùng mọc xen với các loại gỗ khác. Rừng rất nhiều hoa thơm.

Đường phủ đầy một loại hoa nhỏ, trắng, thơm ngan ngát như hoa

nhài. Ong bay vo ve, râm ran khắp rừng. Con đường thồ khá rộng,

không những đủ cho xe đạp thồ chuyển tải hàng hoá mà còn có thể

cho ô tô nhỏ chạy được.

Một giờ chiều, trời nổi giông bão rồi trút nước xuống ào ào.

THƯ GIA ĐÌNH

Hà nội ngày 11/5/1971

Anh Long kính mến!

Hôm nay em mới viết thư để hỏi thăm sức khỏe của anh, nếu

anh khỏe thì em mừng, còn chúng em vẫn được khoẻ cả, hàng ngày

hàng giờ chúng em đều nghĩ tới anh và chắc trong lúc công tác, lúc

ngủ anh cũng đều nghĩ tới gia đình.

193

Anh Long kính mến! Kể từ ngày anh đi tới giờ đã được ba năm

rồi đấy nhỉ. Thời gian trôi đi nhanh quá. Trong thời gian này em đã

từ lớp 4 mà lên đến lớp 7 và bây giờ em đang ôn thi để lên đầu lớp

8, cũng trong thời gian này anh đã sống xa nhà và làm việc trong

Nam, nơi đầu sóng ngọn gió của Tổ quốc. Nghe nói anh công tác

tích cực và được mọi người yêu mến em mừng lắm. Em mong anh

công tác tích cực hơn nữa để ngày Nam - Bắc được sum họp rút

ngắn lại, để anh được mau chóng sum họp với gia đình.

Tuy những suy nghĩ của em viết trên đây còn nông cạn nhưng

em mong rằng những lời nói này sẽ không vô ích, sẽ tiếp thêm một

phần sức mạnh cho anh hoàn thành nhiệm vụ. Em viết thư cho anh

sau khi làm xong một câu hỏi sử và lúc này đã hơn 10 giờ, và em đã

viết hết tất cả những suy nghĩ của em nên em xin dừng bút đây.

Cuối thư em chúc anh hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó,

chúc anh luôn luôn vui tươi, khoẻ mạnh, luôn lạc quan, tin tưởng và

luôn luôn hoà nhã với bạn bè và nhờ anh chuyển lời hỏi thăm của

em tới các chú, các cô cùng làm việc với anh.

Em của anh

Phạm Bích Diệp.

Hà Nội, ngày 11/5/1971

Anh Long kính mến!

Hôm nay mẹ viết thư cho anh nên em cũng ngồi viết thư để hỏi

thăm sức khoẻ của anh, anh có khoẻ không, nếu khoẻ thì em mừng

lắm, còn em vẫn mạnh khoẻ và em đang ôn thi lên lớp năm đấy anh

Long ạ, Chị Diệp, chị Ngọc và em Thuỷ vẫn khoẻ. Cuối cùng em

chúc anh mạnh khoẻ, công tác tốt, em rất mong ngày anh trở về,

sum họp vơi gia đình đấy anh ạ.

Người em ngoan của anh

Phạm Thuý Lan

194

Anh Long kính mến

Nhân lúc mẹ viết thư cho anh, em cũng ngồi viết thư để hỏi

thăm sức khoẻ của anh, anh có khoẻ không, nếu khoẻ thì em mừng,

em vẫn khoẻ, khi nhận được thư anh, gia đình rất mừng.

Em đang thi.

Cuối thư em chúc anh mạnh khoẻ để công tác tốt và em mong

anh chóng hoàn thành nhiệm vụ để chóng về sum họp cùng gia

đình.

Người em gái ngoan của anh

Phạm Bích Thuỷ

Ngày 12/5/1971

Con đường đất đỏ tráng một lớp nước mưa trên mặt trơn truội.

Ăn cơm trưa xong, dừng lại cầu chữ Y nghỉ. Dòng suối này sâu,

nước đục lờ lờ.

Ngày 13/5/1971

Tối, nghỉ ở bộ phận tiếp nhận vũ khí của Trung đoàn. Địch

phát triển về phía dốc Cà Xôm. Phải đợi trinh sát liên lạc lên dẫn

về.

Trung đoàn trưởng Thuận năm nay 44 tuổi, người tầm thước,

da trắng trẻo, mặt xương xương. Anh là một người sống rất sôi nổi,

cả trong lời nói và hành động. Hôm đầu tiên dừng lại nghỉ đúng lúc

trời mưa tầm tã, anh lấy ni lông che ba lô rồi lội giữa mưa gió mà

vác cây làm nhà tăng. Sau đó, lội xuống suối thăm nước tìm chỗ

đánh cá. Chẳng nghỉ ngơi, anh thả lưới, thu lưới vào buổi tối, 9, 10

giờ đêm và sáng sớm. Anh nói: "Mình phải tận dụng triệt để nguồn

lợi của thiên nhiên mà bồi dưỡng sức khoẻ chứ!". Là một thủ trưởng

có cần vụ, song không khi nào đến nơi anh lại cột võng nghỉ. Anh

luôn xốc vào việc mà đốc thúc anh em khác làm cho nhanh chóng.

195

Sơn - cần vụ của anh - tính tình hồn nhiên nhưng bộp chộp, làm

việc đại khái, thường bị anh truỳ luôn. Anh nhạo báng cậu ta:

- Các anh xem, cuộc sống nó khổ thế đấy, 17 tuổi đi bộ đội,

không có gì bồi dưỡng.

Anh mệnh danh Sơn là "tia chớp nhiệt đới" để chế giễu cái tính

đại khái, chớp nhoáng của sơn. Anh bày cho cậu ta từng việc một,

từ xâu lưới, đập đá để lấy mảnh chèn lưới tới việc cột nhà tăng.

Nhiều khi Sơn làm lúng túng quá, anh giằng lấy dụng cụ mà làm

và chê trách:

- Cậu làm như tiểu tư sản học sinh. Cựu chiến binh mà không

biết rút kinh nghiệm à?

Trong nhiều vấn đề, anh thường truy Sơn, bắt cậu ta phân tích,

biện luận. Anh phản đối cái lối ầm ừ, buông xuôi, không tỏ thái độ

dứt khoát trước công việc. Anh thường bảo Sơn:

- Nếu thấy điều gì không đúng thì phải đấu tranh. Với thủ

trưởng cũng phải đấu tranh. Có chết cũng phải đấu tranh.

Anh nói với tôi:

- Cán bộ mà lơ mơ thì chết. Hoà bình lập lại thì lớp thằng Sơn

là cán bộ chứ ai. Phải làm cho hắn chịu rèn luyện mới được.

Anh hay dùng chữ "ba trợn" để chỉ những người làm bậy bạ.

Anh quen gọi cấp dưới của mình là "bạn chiến đấu". Anh rất hay

tâm sự. Vai vác ba lô nặng, chân bước thoăn thoắt, miệng anh hào

hứng kể đủ mọi chuyện, đặc biệt là những chuyện chiến đấu.

Sơn năm nay 23 tuổi, cao, đen. Cậu ta sống ít suy nghĩ, nói

năng bộp chộp. Từ "búa bổ" được cậu ta dùng vào mọi chỗ: "rét búa

bổ", "cá nhiều búa bổ", "củi ướt búa bổ"... Hôm nghỉ ở cầu chữ Y, cậu

ta khoe biết câu cá kiểu Nam Bộ và cả kiểu Bắc Bộ. Nhưng cậu ta

câu không được con cá nào mà còn bị mắc lưỡi câu trong hang. Cậu

196

ta lội xuống suối nhưng không lặn, cứ đứng khom lưng, chúi đầu

xuống nước mà mò. Anh Thuận cười ha hả:

- Các ông xem thằng Sơn câu kiểu Nam Bộ đấy, khu không ướt

mà ướt đầu gối. Câu dược cá, để lên lưng mình mà nướng.

Đêm, tôi đang ngủ say thì thấy có người túm lấy lưng võng giật

giật:

- Dậy ăn cháo!

Mở mắt thấy Quân đang đứng cuối võng, bấm đèn gọi.

Sang bên nhà đã thấy anh em quây quần bên nồi cháo lớn.

Cạnh đó là một con chồn đã sạch lông và một con khác đã bị xẻ mất

nửa dưới thân.

Ngày 14/5/1971

Vì không chuyển được gạo lên, ở đây ăn toàn sắn. Thực ra tại

đây có rất nhiều gạo, nhưng là gạo để dành cho tân binh nên không

ai được đụng đến. Sáng, 5 người đi mót sắn, khoảng mười một giờ

về, mang theo 5 gùi sắn nặng với những củ mập mạp.

Ngày 15/5/1971

Lúc ngủ dậy đã thấy anh em treo một con cheo trên dàn bếp.

Cheo giống mang nhưng nhỏ hơn nhiều, đặc biệt có bộ chân cao và

rất nhỏ. Thịt cheo mềm, thơm ngọt như thịt gà.

Đang ăn cơm thì có một đoàn bộ đội vào. Anh Thuận và các anh

em khác đều phấn khởi đón đoàn. Đó là người của đơn vị anh. Nơi

cần đi qua, địch đã rút. Ngày mai, chúng tôi sẽ lên đường.

Mấy cậu vệ binh quay ra lột sắn, mài lấy bột làm bánh ăn

đường.

197

Tối, Vấn vừa đội đèn ra khỏi nhà đã nổ súng, sau đó xách về

một con mèo rừng. Con mèo ốm nhách, bụng lép kẹp, chắc định vào

kiếm gà.

Lúc sau, Tân kéo về một con tê tê to xụ, phải nặng tới 5 kg.

Trong này, mọi người gọi tê tê là con trút. Loài động vật này có vẩy

cứng, xếp lớp khắp từ đầu tới đuôi, khi bị đụng đến liền nằm cuộn

tròn. Lối tự vệ bị động đó làm hại chúng ghê gớm. Thịt tê tê ăn ngọt

và mềm.

Ngày 16/5/1971

Gần tối mới vượt sông Côn. Dòng sông nông nhưng lổn nhổn

những đá, lội khá chật vật. Tình hình bên kia bờ cũng im, không có

địch.

Ngày 17/5/1971

Đặt chân lên đất Bình Định. Lên dốc khá cao. Đường đầy dấu

bom đạn, vỏ đồ hộp và thỉnh thoảng lại gặp dấu tích của một ổ phục

kích của địch. Đỉnh Tà Mát bị bom Mỹ dùng mìn phá, tiện ngang

tất cả cây cối thành một bãi trống.

Ngày 18/5/1971

Leo lên đỉnh cao 980. Phía dưới là quận lỵ Vĩnh Thạnh - nơi ấy

địch tạm chiếm. Cả quận nằm trong một thung lũng dài và rộng. Từ

trên núi nhìn xuống thấy quận lỵ nằm trong một ô hình chữ nhật,

quanh có hàng rào ngăn thành mấy lớp. Có những con đường đỏ lói.

Lớn nhất là con đường 19. Từ đây xuống đó theo đường chim bay

chỉ có 3km.

Ngày 19/5/1971

Về tới "quận 2". Đây là một vùng núi đá, rừng thưa. Những

tảng đá to bằng cái nhà chen lấn nhau. Có nhiều hang, lèn rộng có

thể ở được. Những ngôi nhà nhỏ, lợp và che bằng những bao công sự

của bọn Pắc Chung Hy nép bên các lèn đá. Thoáng sáng và nóng

198

nực. Quanh nhà, anh em trồng nhiều dứa, đã ra trái nhưng nhỏ và

cằn cỗi. Gần khu vực nhà ở là rẫy bắp xanh tốt.

Gặp anh hùng Bùi Đức Sơn ở đây. Sơn 23 tuổi, người nhỏ bé,

tóc thưa, mảnh, khuôn mặt xương xương, đôi mắt một mí, sáng, đôi

lông mày thưa nhưng sắc. Anh nói năng từ tốn, hay cười. Vậy mà

trong chiến đấu, anh là một đặc công nhanh như sóc, từng nhiều

trận làm kẻ địch thất điên bát đảo. Qua chuyện trò với Sơn và một

số chiến sĩ, tôi được biết tâm lý của những anh lính mới: sau trận

chiến đấu đầu tiên về, anh nào cũng khoe mình suýt chết, tưởng

rằng mình ở mũi ác liệt nhất.

Đêm ngủ trong lèn đá. Nghe nước luồn róc rách trong kẽ đá

dưới lưng.

Ngày 20/5/1971

Nhà của tiểu ban Tuyên huấn lợp toàn bằng bao công sự. Hơn

một nửa là nhà, gần một nửa phía trong khóet sâu vào lòng núi

thành một cái hầm chắc chắn. Có bàn ghế bằng ván hẳn hoi. Ván

lấy từ các hòm vũ khí của địch vứt lại. Căn nhà nhỏ nhưng gọn ghẽ,

xinh xắn.

Làm việc với Sơn. Anh nhớ lại từng chặng đường phấn đấu của

mình, song kể lại nó bằng một giọng rất bình thản và diễn đạt như

một công việc quá bình thường, đơn giản.

Ngày 21 - 25/5/1971

Cả E bộ đang tập trung vào công tác cõng gạo. Phải chuyển

mấy tấn gạo về dự trữ. Ngày nào cũng có người đi cõng gạo. Tiếng

đóng hòm làm kho vang lên chí chát.

Sơn cũng hay tán gẫu. Tán tào lao thiên đế, tán chuyện về

người khác thì cậu ta rất hăng. Nhưng khi nói đến mình thì cậu ta

ngập ngừng, nhát gừng, buồn tẻ đến sốt ruột. Tôi phải gặp các anh

em khác để hỏi chuyện về cậu ta.

199

Sang đại đội 71 gặp Siêu. Anh vào Nam từ năm 1965, là Đại

đội trưởng của Sơn từ trước. Anh người Nam Hà, vóc người vừa

phải, tính tình vồ vập cởi mở. Anh kể chuyện về Sơn rất say sưa,

cung cấp cho tôi nhiều chi tiết tốt.

Ngày 29/5/1971

Trung đoàn cho một liên lạc dẫn chúng tôi qua Tỉnh uỷ. Đi

được một hồi lại gặp Định và Sửu, hai phóng viên quay phim. Hai

anh cho biết địch đã đổ quân ở dốc Phụ Nữ, vậy là tắc đường.

Chúng tôi quyết định nhập vào đoàn của 2 người. Cậu liên lạc

được "thả", loáng một cái đã biến mất.

Chúng tôi về M6. Tối, nghỉ lại một làng đồng bào. Làng này

nằm ở một sườn núi, núp bên các vách đá hoặc chui trong những

lèn đá. Có chừng vài ba chục người. ở đây phụ nữ rất khoẻ, nhất là

những cô gái đang lớn, trẻ con khá bụ bẫm, kháu khỉnh.

Tôi nghỉ ở nhà anh Khả. Anh nói tiếng Kinh rất thạo, kể

chuyện hay. Anh nói rằng hồi bọn Sư đoàn 4 Mỹ còn ở đây, chúng

càn luôn. Thu thóc về để trong hang, trong kho, chúng đốt sạch. Chỉ

có mì (sắn) ăn thôi. Có khi bị chúng bao quanh, nằm trong đám mì

non suốt 3 ngày đêm, không ăn, không uống. Có khi trốn trong

hang, trẻ nhỏ khóc phải bịt miệng suốt, vì thế mà chúng đau luôn,

ốm nhom. Nhưng, đêm vẫn bám đất mà sản xuất. Anh nói: "Có chết

cũng chết trên rẫy, bên gốc mì". Du kích luôn bám đánh địch. Có

hôm anh và 2 du kích khác bò vào tận sân bay dã chiến của chúng,

thấy chúng đang ngồi đánh bài, Khơ nói: "Để mình bắn trước, hồi

giờ mình chưa được bắn Mỹ" và bắn một phát CKC làm thằng Mỹ

bật ngửa. Anh em bắn vào tiếp, giết chết một số, số còn lại la ó ran

trời. Hôm sau, sáng sớm chúng đã gọi trực thăng đến vớt đi. Bò lên

thấy máu đọng thành vũng. Còn đồ hộp tha hồ lượm mà ăn. Hồi đó

đồng bào lượm cả kho, cất ăn dần. Súng AR15 cũng nhiều.

Nhà có cô bé Mưa chừng 16 tuổi tính tình nhí nhảnh hay cười.

200

Sáng 30/5/1971

Suốt ngày qua, tối qua và sáng nay địch cho Môranh quần, trực

thăng bắn, pháo câu tới vùng Bãi Tranh, Suối Quéo. Nghe nói

chúng đổ quân chặn khẩu, bị ta đánh đau nên chúng phản ứng dữ.

Đứng trên mỏm đá ở đây nhìn rõ trực thăng hạ cánh, quân bộ chạy

lốc nhốc - đây tới đó đi bộ chừng một giờ đồng hồ.

Anh Khả nói rằng ở đây bom đạn thường dội xuống. Có lần B52

dội gần, lũ nhỏ chết ngất một lúc mới tỉnh dậy.

Quá trưa, chúng tôi theo Lâm - một du kích người nhỏ, chắc -

qua "đầm" (cách gọi của dồng bào chỉ một xóm nhỏ) bên kia núi. Đi

theo kiểu xuyên sơn, toàn chui rúc trong gai góc, lau lách và leo

trèo trên những tảng đá to tướng. Lâm nhảy như sóc trên các tảng

đá. Gần đến chỗ băng qua đường hành lang, cách chỗ địch đổ quân

hôm qua chừng nửa giờ đồng hồ, Lâm bảo chúng tôi dừng lại đi sau.

Anh tháo dép cột vào thắt lưng rồi tiến lên trước thận trọng, đầu

nghiêng qua, nghiêng lại nghe ngóng, xem xét, sau đó mới vẫy

chúng tôi tiến theo. Vượt dốc, tiến theo một vùng nhiều hang đá

lớn. Đồng bào ở đây không làm nhà cửa gì mà gác sạp trong hang

lấy chỗ ăn ở. Vùng này hiện nay đang phát rẫy chứ chưa đốt rẫy

nào cả. Có những rẫy đu đủ, dứa lớn, mấy nải chuối trên cây đã

chín vàng ửng, bị chồn ăn mấy trái.

Đồng bào vùng này biết dệt vải - dệt rất thủ công, với khung

cửi nhỏ bằng tre, gỗ. Sản phẩm là những tấm vải dài, nhỏ, có pha

màu sắc khá nhã để nối vào váy cho đẹp. Còn khăn của đồng bào

khá hay, dài, màu đen, có gắn những chuối hạt cườm, khi đội lên

giống cái mũ Ca lô nhưng lại có một giải quấn tròn phía sau như

búi tóc. Thanh niên rất thích đánh đàn - loại đàn làm bằng ống

nứa, một đầu đục lỗ, xỏ cây qua để cột dây, một đầu nối với một quả

bầu, có từ 8 đến 12 dây, âm thanh không phong phú lắm nhưng

nghe dập dìu, rộn rã.

Ngày 31 /5/1971

Ở lại đây một ngày. Buổi chiều, bà con ở tổ bên cạnh mời sang

ở. Bà con bảo anh em đến gần bên mà không sang thăm bà con là

201

không được. Khi chúng tôi qua thì bà con đã nấu sẵn một nồi sắn.

Một ông già tiếp chúng tôi, mời chúng tôi ăn sắn.

Đồng bào vùng này đều thuộc dân tộc Bana, rất ân cần, chăm

sóc chúng tôi. Ngày 1/6/1971

Sáng, bà con nấu cho chúng tôi ăn sớm để chúng tôi đi. Mặc dù

bà con ăn nhiều sắn, rất ít gạo nhưng vẫn nấu cho chúng tôi nhiều

gạo, ít sắn. Khi chúng tôi đi, bà con góp gạo cho chúng tôi mang theo

ăn đường. Một ông già mang cho chúng tôi một lon muối và bảo: "Tội

nghiệp các cháu ở xa đến, không có gì cho các cháu ăn, các cháu cầm

đỡ ít muối ăn đường". Hành động ấy khiến chúng tôi vô cùng cảm

động. Tất nhiên chúng tôi không dám nhận số muối đó vì biết rằng

đồng bào rất thiếu muối.

Khi đi qua "đầm" của anh Ninh, bà con cũng mang gạo, muối

ra ủng hộ. Đồng bào nói mãi, chúng tôi đành nhận gạo.

Ninh là một du kích nhỏ bé, xương xương, đen, rắn chắc, có mái

tóc đen, quăn, ngắn. Anh lủi trong rừng nhanh thoăn thoắt. Anh đã

từng bò vào ổ phục kích của Mỹ lấy bi đông và súng. Khẩu AR15

mang theo là chiến lợi phẩm của lần ấy. Ninh dẫn chúng tôi xuyên

rừng qua M3. Đường nhỏ, cheo leo, chui rúc nhiều, cỏ tranh cứa nát

2 ống tay, bông lau rụng đầy người, rặm vô cùng. Xuống sông Quéo

phải tắm giặt rồi mới tiếp tục đi được.

Chiều đã ở M3. Có nhiều hang ở được.

Ngày 2/6/1 971

Về tới ban Tuyên huấn. Nơi đây cũng là rừng núi, hang lèn.

Cửa khầu kẹt nên cuộc sống khô khan. Gạo ít, phải ăn tiết

kiệm, ghế thêm sắn. Tuy nhiên, so với Khu vẫn tươi hơn nhiều vì có

mắm cái, đậu phộng và một lon rưỡi gạo một ngày.

Từ Ngày 14/6/1971

Phải dọn nhà sang ở chung với ban Binh vận. Dăng tăng ở tạm.

Trời lại đổ mưa sầm sập. Mối bay ra dầy đặc, bu khắp người, rất

khó chịu. Chật chội, ướt át.

202

Chúng tôi dự hội nghị do Tỉnh uỷ tổ chức về triển khai công tác

nổi dậy. Tinh thần chung là phải bám sát dân, phát động phong

trào nổi dậy, kết hợp với tấn công vũ trang, mở rộng vùng giải

phóng. Dự hội nghị có cán bộ các xã trong tỉnh, hầu hết còn rất trẻ.

Các anh ở ban Tuyên huấn nói với tôi rằng cuộc chiến đấu dưới

đồng bằng rất khốc liệt, cán bộ hy sinh liên tục, do đó hiếm có cán

bộ lớn tuổi. Nhiều khi, qua một kỳ hội nghị, đến hội nghị sau, đã

gặp tới gần một nửa là cán bộ mới. Số bị thay, hầu hết đã hy sinh,

chỉ rất ít được rút lên tỉnh và hoạ hoằn mới có kẻ phản bội.

Anh Toàn, Phó Bí thư Tỉnh ủy, hướng dẫn thảo luận: Phải

đứng trên vị trí của người cách mạng triệt để mà đánh giá tình

hình địch - ta. Phải có quan điểm thực tiễn. Không nhìn chung

chung mà phải nhìn rất cụ thể: âm mưu, thủ đoạn, lực lượng địch.

Là cán bộ ở cơ sở, càng phải thấy rõ chỗ nào địch mạnh, yếu? Đánh

giá quần chúng cũng vậy, không thể chung chung, vơ đũa cả nắm.

Anh Toàn gợi ý mấy điểm để hội nghị chú ý về cách đánh giá

địch - ta như sau: Hiện còn lúng túng về đánh giá chỗ mạnh, chỗ

yếu của địch. Nói chung, nhìn chung thì thấy địch yếu, nhưng nhìn

ở xã mình lại thấy địch mạnh. Địch yếu, nhưng quá tàn bạo, do vậy,

khó đưa quần chúng lên hành động.

Các đại biểu dự hội nghị phát biểu rất sôi nổi. Tôi ghi lại mấy ý

kiến như sau:

- Đồng chí Tiến, xã Mỹ Lợi huyện Phù Mỹ: Địch ở địa phương

tôi nhiều, có mạnh, nhưng chỉ mạnh khi ta không đánh. Khi ta

đánh, chúng rất hoang mang, bỏ chạy. Du kích ít, đánh nhỏ, nhưng

địch cũng hoảng sợ. Do đó kết luận địch rất yếu.

- Đồng chí Bình, xã Cát Khánh huyện Phù Cát: Địch yếu rõ

ràng. Cụ thể ở Tường Lâm: địch đông, nhưng yếu cả về tư tưởng và

tổ chức, nội bộ mâu thuẫn, thua quần chúng, ta nổ súng là bỏ chạy.

Sở dĩ chúng còn vênh vang, kích bác vì ta hoạt động yếu. Có bữa chỉ

có 2 người đánh vài quả lựu đạn mà địch cũng chạy, nhưng sau đó

lại không có ai đánh chúng nữa.

203

- Đồng chí Hương, huyện Tuy Phước: Nhìn về hiện tượng, thấy

địch đông, bên trong cài cấy gián điệp, thủ đoạn thâm hiểm, gây

cho ta những khó khăn nhất định. Nhưng đó chỉ là tạm thời. Qua

hoạt động của ta, lộ ra những mặt yếu của địch - yếu về tinh thần,

mâu thuẫn nội bộ, không tin nhau. Trong số địch, phần lớn là tiêu

cực, lưng chừng, ít tên ngoan cố - bọn này bị cô lập. Cũng phải thấy

mặt mạnh của địch, qua đó mà cảnh giác.

- Đồng chí Vui, huyện An Nhơn: Hiện nay Bảo An là bọn dã

man tàn bạo nhất. Chúng chỉ đánh đập chứ không xét hỏi quần

chúng. Địch cũng rất nham hiểm, dùng chiến tranh tâm lý, dùng

điệp ngầm phá hoại ta. Từ chỗ có 26 trung đội Dân vệ, nay chúng

đã có 67 trung đội - chúng đã thực hiện được âm mưu đôn quân, bắt

lính. Địch dự định đến cuối năm 1970 bình định xong An Nhơn, và

đã tiến hành bình định Nhơn Mỹ đầu tiên, nhưng đến nay vẫn

không thực hiện được. Chúng phải giải tán toàn bộ mười một đoàn

Bình định, tăng cường lực lượng cảnh sát, chứng tỏ chúng không

còn lừa mị được dân nữa. Đã đến lúc quần chúng nổi dậy. Bọn ác ôn

chạy dạt, cả tháng không dám về, do vậy thế kìm kẹp của địch bị

lỏng. Bọn Bảo an tuy còn hung hăng, tàn bạo, nhưng không dám

bung ra như trước. Tuy vậy, số tàn bạo rất ít, phần đông là lùng

chừng. Ví dụ ở Nhơn Hậu có 7 trung đội Bảo an nhưng không hoạt

dộng gì.

- Đồng chí Thành, huyện Phù Mỹ: Địch còn mạnh: quân số còn

đông, phương tiện chiến tranh còn khá (còn nguyên 45 trung đội

Dân vệ, tăng thêm 3 trung đội thanh niên chiến đấu thành 28

trung đội). Địch yếu về tư tưởng, tổ chức, giữa trên và dưới mâu

thuẫn, khi bị đánh thì mạnh trên trên chạy, mạnh dưới dưới chạy.

Dân vệ, Phòng vệ dân sự tổ chức lỏng lẻo, bất tuân lệnh. Mạnh là

tạm thời, yếu là cơ bản. Ví dụ: mới đây chỉ có 6 du kích, chia làm 3

tổ đánh cũng làm cho một tiểu đoàn cùng 24 tên Thám báo phải

chạy tán lọan.

- Đồng chí Lam, huyện Phù Cát: Địch đông, nhưng bị phân hóa,

nhiều người bị ép buộc, đa số là nông dân. Địch gian ác, nham

hiểm, luôn tìm chỗ yếu của ta mà đánh phá. Tuy vậy, chúng rất sợ

bạo lực quần chúng.

204

Tổng kết hội nghị, anh Toàn nêu những vấn đề cơ bản như sau:

Thấy rõ âm mưu địch vô cùng xảo quyệt. Lực lượng kìm kẹp

nhân dân chủ yếu là ác ôn trong ngụy quân, ngụy quyền. Địch còn

mạnh về vũ khí, quân số, thủ đoạn tàn bạo, nham hiểm, nhưng đã

lộ rõ nhiều mặt yếu cơ bản: ô hợp, không được lòng dân, yếu về

chính trị, bị cô lập.

Chúng ta chưa sát, chưa hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của quần

chúng; đánh giá quần chúng gia đình cách mạng không đúng, có lúc

nghi ngờ, thậm chí có nơi vi phạm chính sách đối với gia đình cách

mạng.

Đã nhận thức rõ hơn về quần chúng: Địch bắt lính nhiều, do đó

gia đình bính sĩ ngụy rất đông. Số gia đình đó khổ vì địch, ôm mối

hận thù với địch, nhiều gia đình muốn tham gia cách mạng. Nếu

vận động quần chúng nổi dậy mà không đi vào những gia đình binh

sĩ ngụy thì không được. Do vậy, phải chú ý cả những gia đình binh

sĩ ngụy. Mặt tích cực của quần chúng là cơ bản: Luôn luôn đối lập

vơí kẻ thù. Căm thù địch sâu sắc. Ngay ở trong vùng địch kẹp, sự

lãnh đạo của ta ít, quần chúng vẫn nổi dậy phá đồn bốt, đánh Mỹ.

Quan hệ giữa quần chúng với Đảng rất gắn bó, quần chúng luôn

luôn tin Đảng. Bất cứ người cách mạng nào cũng phải hiểu quần

chúng, tin quần chúng, gắn bó với quần chúng, nếu tách rời quần

chúng sẽ chết khô như cây mất rễ. Khả năng bạo lực vũ trang của

quần chúng sắp đến còn mạnh hơn nhiều hiện nay.

Trên cơ sở nhận thức mới, đã tin hơn ở khả năng diệt ác, phá

kìm, giành quyền làm chủ, tin hơn ở bạo lực của quần chúng.

Anh Toàn nhấn mạnh về hướng chỉ đạo sắp tới của Tỉnh ủy:

Phải theo dõi sát địch, hiểu rõ địch để đánh địch. Quá trình đánh

bại âm mưu bình định nông thôn của địch là quá trình tấn công liên

tục và toàn diện. Phải kết hợp giữa thường xuyên tấn công và các

cao điểm tấn công. Tấn công toàn diện, cả chính trị, quân sự, kinh

tế, văn hóa - tư tưởng. Tấn công và chống phản kích phải gắn chặt

với nhau. Cách tấn công tốt nhất, quyết định thắng lợi, là dùng bạo

lực của quần chúng. Tất nhiên phải kết hợp tốt lực lượng quân sự -

205

đó là yếu tố quan trọng. Phải kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân

sự và nổi dậy của quần chúng, tấn công bằng 3 mũi giáp công,

chống mọi biểu hiện ỷ lại quân sự đơn thuần. Tấn công gắn liền với

làm rã ác ôn ngụy quân ngụy quyền, do vậy phải đẩy mạnh công tác

binh vận, không những vận động binh sĩ địch, mà phải vận động cả

vào hàng ngũ ngụy quyền. Tấn công phải nhằm đúng đối tượng, vì

sức ta không thể làm tràn lan được. Ví dụ: tập trung diệt ác ôn đầu

sỏ - quan trọng nhất là chất lượng từng tên địch bị ta diệt. Tấn công

vào những mục tiêu mà quần chúng bức xúc nhất, như bắt lính, dồn

dân. Phải trụ bám, xây dựng lực lượng, làm công tác tư tưởng. Một

cơ sở đưọc coi là đã làm chủ phải đạt 5 tiêu chuẩn: Lực lượng địch

tan rã. Quần chúng được phát động. Quần chúng có thực lực 3 mũi

giáp công. Quần chúng chịu sự chỉ đạo của Đảng. Động viên được

nhân tài vật lực.

Anh Toàn khái quát 5 vấn đề cơ bản là: Trụ bám. Phát động

quần chúng. Xây dựng thực lực. Ba mũi giáp công. Tổ chức, chỉ huy,

chỉ đạo. 4 mục tiêu là: Diệt ác, giành quyền làm chủ tại chỗ, nhanh

chóng xây dựng lực lượng. Nắm vững thời cơ, nổi dậy thường xuyên,

trọng điểm, bức chốt nhổ đồn, đưa dân về, tạo cơ sở sản xuất. Nổi

dậy liên mảng. Chống phản kích.

Tranh thủ những lúc nghỉ của hội nghị, tôi gặp gỡ các đồng chí

cán bộ xã, hỏi và ghi chép được khá nhiều chuyện về tấn công, nổi

dậy, những gương diệt ác, phá kìm... Tôi rất quan tâm đến việc

đánh giá kẻ địch: Từ đầu tháng 5, chúng bắt đầu "Bình định mới" -

vẫn bằng thủ đoạn tam giác chiến nhưng thâm độc hơn: Dùng phân

đội nhỏ bung ra, có khi dùng máy bay tập kích bất ngờ vào vị trí

của ta. Dùng cảnh sát (dã chiến và đặc biệt) làm xung kích trong

bình định mới - mỗi xã có một phân chi cảnh sát 15 tên. Phát triển

mạnh gián điệp trong quần chúng, qua đó phát hiện cơ sở cách

mạng, khống chế, uy hiếp, giao nhiệm vụ, đánh vào hạ tầng cơ sở

cách mạng, vô hiệu hóa cơ sở ta. Đôn quân bắt lính. Cơ động hóa lực

lượng Bảo an. Có khi đôn thẳng từ Phòng vệ dân sự (như du kích

của ta) lên Cộng hòa (như bộ đội chủ lực của ta). Động viên lính đi

bắt thanh niên: đơn vị nào bắt được 10 - 15 thanh niên bổ sung vào

lính thì không phải đi Tây nguyên. Bảo an đã trở thành lực lượng

nòng cốt chủ yếu ở địa phương để thực hiện bình định mới. Quân số

206

bọn Bảo an đầy đủ hơn, sung sức hơn, tinh thần khá hơn bọn Cộng

hòa, Dân vệ. Chặn hành lang, cửa khẩu của ta. Rải chất độc tàn

phá mùa màng ở vùng núi. Tăng cường vơ vét, cướp bóc ở nông

thôn. Tăng thuế ở thành thị...

Tôi tự nhủ phải khai thác được tài liệu để viết tin, bài chống lại

những thủ đoạn trên đây của địch.

Chia tay các đồng chí, hẹn gặp nhau ở đồng bằng.

Tôi tranh thủ thời gian viết bài về anh hùng Bùi Đức Sơn và

nhờ Thiện - tổ trưởng tổ điện đài của Ban Tuyên huấn tỉnh - chuyển

về Khu.

Những trận chiến đấu xuất sắc của anh hùng Bùi Đức Sơn

Trung đội trưởng Minh dẫn về trung đội 1 một thanh niên gày

gò. Anh em xúm lại thăm hỏi:

- Sao, tân binh hả?

- Về làm liên lạc được chứ?

- Này, đừng tưởng nhé, một tay chiến đấu cừ đấy. Cứ nhìn đôi

mắt sáng, nhìn cái dáng lanh lợi của cậu ta mà xem!

Nói vậy, nhưng thấy Sơn nhỏ yếu quá, anh em trong trung đội

chẳng để Sơn làm việc gì cả. Còn Sơn, cậu ta cũng không chịu ngồi

yên, Sơn xin về đơn vị chủ lực này có phải là để được chiều chuộng

đâu? Mơ ước được tham gia những trận đánh lớn, diệt thật nhiều

địch cứ cháy bỏng trong lòng người thanh niên 18 tuổi ấy. Sơn mò

mẫm xem từ khẩu CKC đến quả lựu đạn chày. Vũ khí của tụi địch,

Sơn không lạ gì, vì hồi ở du kích, Sơn đã dùng hoài rồi. Nhưng vũ

khí của ta thì Sơn chưa quen. Sơn nằn nì anh em chỉ cho cách lên

đạn, chỉnh súng, liệng lựu đạn chày... Trưa nào Sơn cũng cắm cúi

tháo, lắp, ngắm, chỉnh.

207

Sau khi Sơn về được 3 ngày thì đơn vị bước vào trận chiến đấu

quyết liệt với bọn không vận Mỹ. Hôm ấy, mới sớm tinh mơ, địch đã

cho máy bay lên bắn phá vùng chợ Cát. Đơn vị đã sẵn sàng ở công

sự chờ chúng. Xin mãi, Sơn mới được anh Minh giao cho khẩu CKC

và mấy quả lựu đạn. Nhưng anh dặn dò rất cẩn thận.

- Cứ theo sát anh, chú Sơn nhé!

- Dạ! - Sơn ngoan ngoãn trả lời và ngước mắt nhìn lên bầu trời

xanh lồng lộng. Trên đó, giờ đây không chỉ có mây trắng và nắng

vàng, mà còn có những cái bóng đen ngòm của bầy trực thăng Mỹ.

Chúng xà xuống rất thấp. Dải đất cát mịn mà trắng xoá bỗng cuộn

thốc lên. Không gian chìm ngập trong bụi cát vàng khè, khói bom

đạn đen đặc. Những cây dừa, phi lao oằn mình sát đất, quằn quại,

ngả nghiêng. Sơn dướn người khỏi công sự, nhìn chằm chằm vào

trảng cát, mắt không chớp. Hàng chục chiếc máy bay đang sà

xuống, chong chóng xoay tít. Bỗng có cái tụt hẫng xuống, có cái đột

ngột vọt lên cao. Những thằng Mỹ vừa rời khỏi máy bay cụm lại, bò

xoài trên cát. Cối và đại liên của ta bố trí từ xa nã đạn tới tấp vào

giữa đội hình chúng.

- Xuất kích! Xung phong!

Sơn bật dậy, phốc khỏi công sự, lao đi trong tiếng hò reo của

dồng đội. Thấy một thằng Mỹ đang thu mình giữa đám cát bụi, Sơn

thốc tới như một cơn lốc.

- Đoàng! Khẩu CKC nổ đanh gọn. Thằng Mỹ dẫy dẫy. Sơn nhào

tới, đâm ngập lưỡi lê vào cái lồng ngực đỏ ối của nó rồi nhanh chóng

rút ra, vọt đuổi theo những thằng Mỹ khác, nện từng phát đạn chắc

chắn...

Đơn vị tạm rút về công sự. Lũ máy bay địch bị đánh bất ngờ,

vọt cả lên, bỏ lại xác đồng bọn ngổn ngang trên trảng cát. Anh Minh

vỗ vai Sơn:

- Chú đánh khá lắm!

Sơn gật gật đầu, song lại cắn cắn môi, mắt chăm chăm nhìn ra

trảng cát. Nghĩ lại "hiệp" vừa rồi, Sơn bực quá: "Anh em có AK,

208

chắc quạt được nhiều địch lắm. Mình bắn CKC đì đọp, diệt chưa đủ

chục thằng, ít quá!"

- Xung phong!

Sơn lại lao như bay về phía trảng cát. Trước mắt Sơn chỉ thấy

một màu vàng lẫn màu xám đen và lồ lộ thân hình to lớn của một

chiếc bay lên thẳng đang hạ xuống. Nó xuống dần, xuống dần, sắp

sát đất rồi. Cánh cửa giữa thân nó mở trống hốc, nhốn nháo những

thằng lính. Sơn lao thẳng tới trước cửa chiếc máy bay, vung tay.

- Ầm! Một tia chớp loé lên giữa đám khói mù mịt, kèm theo một

tiếng nổ dữ dội. Tiếng nổ lại làm bùng lên một ngọn lửa hừng hực

phủ kín cả chiếc máy bay. Sơn thoáng cười, rồi lại xách súng lao

lên, tìm diệt những tên khác...

***

Cuộc chiến đấu sôi nổi cứ cuốn hút Sơn đi. Bước chân người

chiến sĩ Giải phóng đã đi qua biết bao làng xóm của miền Trung rực

lửa, tìm diệt quân thù. Hôm nay, Sơn lại cùng đồng đội trở về chiến

đấu ngay trên đất Bình Định, quê hương anh.

Một buổi chiều êm ả, Sơn, Hoài ra Đá Bàn ngồi nhìn về phía

đồng bằng. Hoài người cùng huyện Hoài Nhơn với Sơn. Hai anh em

thân nhau như hình với bóng. Sơn, Hoài ngồi kề bên nhau, đau đáu

nhìn về quê hương. Làng Phụng Du thân thương của Sơn đó. Ngày

xưa, nơi đây rợp bóng dừa, nhìn từ xa đến chỉ thấy bao la bát ngát

một mầu xanh hiền hoà. Màu xanh của ruộng vườn nối liền với màu

xanh của biển cả trải rộng tới tận chân trời. Sơn nắm chặt tay Hoài,

lòng quặn đau. Màu xanh ấy giờ đây đâu còn nguyên vẹn nữa.

Khắp nơi chi chít những vết bom đạn đỏ lói. Nhiều cây dừa, phi lao

cụt ngọn chọc thẳng lên trời xanh cái thân hình tơi tả, gầy guộc.

Ngay trên nền làng cũ của anh, đất bị cày ủi tung lên, đỏ quạch.

Một cái sở Mỹ lố lăng nằm nghễu nghện ngay trên khu nhà cũ của

Sơn, nhức nhối giữa mắt Sơn như một cái gai, quanh đó là đồn bốt,

lô cốt, rào vi. Sơn chỉ về phía gò ú nói với Hoài:

209

- Nhà tao chỉ cách đó 500 mét thôi mi ạ. Không biết giờ đây bà

già ra sao. Ông già bị tụi hắn bắt đầy ra Côn Đảo cũng biệt tích...

Hoài nhìn Sơn thân thiết:

- Nhớ nhà lắm ne? Tao cũng nhớ quá mi ơi! Trận này hai thằng

phải đánh cho ngon nhen.

Sơn thấy có bàn tay ai đặt nhẹ lên vai. Quay lại đã thấy đại đội

trưởng Siêu, chính trị viên Hợp đứng đó từ lúc nào. Hai anh ngồi

xuống, bá vai Hoài và Sơn.

- Sao, hai đứa sắp được đánh địch ngay trên quê hương, có vui

không?

- Dạ, vui lắm anh!

- Bọn ta giao ước nhé: chuyến này đánh tan gò ú, giải phóng xã

thằng Sơn, xong sẽ giải phóng luôn xã thằng Hoài, được chứ?

Giọng nói sôi nổi của hai anh làm Hoài và Sơn mới thoáng buồn

vì chạnh nhớ quê hương, bỗng vui lên. Bốn bàn tay siết chặt, bốn

đôi mắt nhìn thẳng vào nhau, sáng lên: chúng ta sẽ chiến đấu quét

sạch quân giặc, giải phóng quê hương, giải phóng miền Nam.

... Hôm nay đã là ngày 8 tháng 1 rồi. Mùa xuân mới lại đến.

Mùa Xuân gợi nhớ những ngày tổng tấn công sôi nổi. Đêm nay, đơn

vị Sơn hành quân đi đánh vị trí gò ú. Mưa xuân rắc nhẹ. Gió xuân

mơn man da thịt những chiến sĩ Giải phóng. Đơn vị của Sơn đã đến

vị trí tập kết và đang chuẩn bị tiếp cận vị trí địch. Sau những ngày

trực tiếp đi điều tra, luồn vào tận chỉ huy sở địch, hôm nay với

cương vị trung đội trưởng, Sơn xung phong làm mũi trưởng mũi chủ

yếu. Những người chiến sĩ Giải phóng đang tiến sát vào tim kẻ thù.

Sơn bò trước tiên. Anh dán mình trên đất quê hương, nhoài tới. Đất

pha sỏi lởm chởm làm da thịt anh rớm máu. Nhưng những giọt mưa

xuân thấm đượm trên mặt đất mát rượi lại làm Sơn thấy thật dễ

chịu. Anh em vẫn tiến vào một cách êm nhẹ, nhanh chóng. Đã qua

bốn lớp rào rồi. Trên trời, thỉnh thoảng lại bùng lên một phát pháo

210

sáng. Đồn địch chợt hiện lên nhợt nhạt dưới ánh sáng vàng vọt.

"Mũi" của Sơn dừng lại trước lớp rào thứ 5. Thằng lính gác đang đi

tới, đi lui ngay trước cửa mở. Chiếc đèn pin của nó lia qua lia lại

như mắt con thú dữ. Mũi súng AK của Sơn cũng rê đi rê lại theo

bóng nó, sẵn sàng nhả đạn. Ánh đèn lại lướt tới, rọi giữa đội hình

của anh em rồi phụt tắt. Thằng giặc chắc phát hiện ra quân ta, tắt

đèn định bắn. Nhưng khẩu AK của Sơn đã nổ hai phát ròn tan.

Thằng địch vừa ngã vật xuống. Sơn đã vọt qua lớp rào, đạp lên xác

hắn, phốc vào khu trung tâm.

- Ầm! ầm! ầm!

Ba quả thủ pháo từ tay Sơn phóng vọt vào nhà chỉ huy và cụm

điện đài, nổ vang. Bọn địch trong nhà đứa chết rụi, đứa bị thương

kêu như bò rống. Hai tên giặc văng ra khỏi nhà, la chí choé. Sơn

nhào tới nện cho mỗi đứa một báng súng, chúng câm lặng.

Sau phút bàng hoàng, chiếc lô cốt gần chỉ huy sở choàng dậy,

khạc đạn ra phía cửa mở. Anh em bị cản lại trước làn đạn đỏ lừ, dày

đặc. Sơn đang tung hoành giữa trung tâm, thoáng nhìn thấy làn

đạn ác hiểm ấy, bèn vòng lại phía sau, xáp thẳng tới lô cốt, dộng

cho nó một trái thủ pháo. Khẩu đại liên câm bặt. Bộ đội ta ào ào

xông lên. Những tia chớp thủ pháo nhoáng lên khắp nơi, tiến sâu

vào giữa căn cứ địch, kéo theo những tiếng nổ dữ dội, bùng lên

những khối lửa khổng lồ, thiêu rụi quân địch. Sơn thét lớn:

- B40 lên ngay!

Thinh xách B40 tới. Sơn chỉ về phía một ngôi nhà lớn nằm sâu

phía sau khu chỉ huy:

- Kho đạn đấy, cho nó một phát!

"Bình!"- Quả đạn lao vút lên, kéo theo một luồng lửa lớn, đâm

sầm vào ngôi nhà, bung ra một chùm hoa cải rực rỡ. Kho đạn rùng

mình, cháy phực lên, nổ loạn xạ.

211

Bọn địch trong các nhà, lô cốt bị đánh chết nằm la liệt. Những

tên sống sót xô nhau nhảy xuống giao thông hào, chạy về phía hầm

ngầm. Sơn cứ chạy dọc theo bờ hào, bắn những loạt AK khiến nhiều

đứa ngã gục xuống, xác đè lên nhau.

15 phút trôi qua. Anh em đã đánh hết thủ pháo, lựu đạn. Bọn

địch đã bị diệt gần hết, chỉ còn một cụm dưới hầm ngầm. Sơn ra

lệnh cho anh em rút. Còn anh thì chạy đi kiếm vũ khí của bọn địch

để diệt nốt chúng. Chạy tới cửa mở gặp Hợp, Sơn vội báo báo:

- Hiện giờ chỉ còn một cụm quân ở hầm ngầm. Đề nghị anh dẫn

anh em ra, để tôi vào đánh luôn.

Hợp đưa thủ pháo, lựu đạn và chai cháy cho Sơn, hỏi:

- Có cần người phối hợp không?

- Báo cáo, chỉ còn một cụm địch, tôi diệt được.

Sơn trả lời rồi lao vụt đi. Một quả pháo sáng từ đồn bọn Mỹ tận

xa hốt hoảng vụt lên, nổ bục, treo lơ lửng trên đầu Sơn. Bóng Sơn

thấp thoáng giữa những ngôi nhà, lô cốt địch đổ nát, cháy rừng rực.

Sơn lao tới phía hầm ngầm. Bọn địch đang chen lấn nhau ở phía

miệng hầm. Anh nghiến răng, liệng vô đó một quả thủ pháo, một

quả lựu đạn. Bọn địch đổ rạp xuống, rên la. Những tiếng kêu quái

gở như của ma quỷ từ địa ngục phát lên vậy. Sơn thoáng nghĩ:

"Không ăn thua, hầm sâu tới 7 mét, dài 100 mét, đứng trên đánh

không được gọn. Phải chui xuống đánh". Không để bọn địch kịp rúc

sâu vào trong, Sơn nhảy đại xuống. Thịch! Thịch! Một bậc. Hai

bậc... Sơn lọt thỏm vào giữa cái miệng hầm đen ngòm. Lòng hầm tối

om, chỉ nghe bọn địch rên rỉ, la hoảng dưới đó. Sơn khom người

nắm chặt trái thủ pháo và chai cháy, liệng vô giữa chỗ ồn ào nhất

rồi vọt lên.

- Ùng!

Tiếng nổ âm vang trong lòng đất. Một luồng lửa xanh phụt ra

miệng hầm. Một luồng gió mạnh thốc lên. Sơn vừa nhoi lên khỏi

212

mặt đất, chân còn thòng dưới miệng hầm, liền bị gió hất tung lên;

sức mạnh ghê gớm của luồng gió làm Sơn văng ra xa 7,8 mét, nằm

sóng soài bên cột cờ đồn địch. Sơn chỉ thoáng nhìn thấy luồng lửa

xanh ấy. Sau đó, một màn đen bịt bùng ập tới, bọc kín đầu óc anh.

... Gần sáng rồi. Mưa ướt đầm đìa cây cỏ. Những giọt nước lạnh

ngắt đọng trên mặt làm Sơn choàng tỉnh. Anh mở mắt ra, thấy lửa

vẫn rực cháy nơi kho đạn. Tai Sơn ù đặc. Mặt mũi rát bỏng. Cơ thể

nhũn bấy như cua lột mai. Đồn địch vắng tanh vắng ngắt. Sơn

trừng mắt nhìn kho đạn, rồi chực gục xuống. "Ráng lên! Ráng lên

trở về với đội ngũ mà chiến đấu!". Có tiếng gọi nào vang vang lên

vậy, nghe đâu xa thẳm tận đáy lòng. Tiếng gọi của người chiến sĩ

không bao giờ khuất phục trước khó khăn, lúc nào cũng tha thiết

được cùng đội ngũ chiến đấu. Sơn chống tay dậy, bắt đầu bò đi. Lửa

cháy rừng rực soi rõ phương hướng cho Sơn. Được 10 thước, Sơn lại

xỉu xuống. Anh áp má trên mặt đất mát rượi. Mặt đất có những

ngọn cỏ êm êm đã từng thấm máu cha ông, giờ lại thấm máu anh,

truyền cho anh sức mạnh. Sơn nhỏm dậy, bò tới...

Khi trời mờ sáng thì Sơn ra khỏi căn cứ địch. Cách đó không xa

có một xóm nhỏ nằm trong một vườn chuối. Sơn thầm nghĩ: "Bây

giờ đi đâu? Xung quanh dày đặc đồn địch. Cứ vô xóm đó. Gặp dân là

sẽ ổn cả". Anh ráng sức bò thật nhanh về phía xóm nhỏ.

Một ông già từ trong một ngôi nhà lụp sụp bước ra. Ông đứng

lặng bên người chiến sĩ mình mẩy bỏng rộp, tóc cháy quăn queo.

Sơn nhỏm dậy, nói hổn hển trong hơi thở đứt đoạn:

- Con là bộ đội giải phóng đánh gò ú hồi hôm...

Ông già nói một câu gì đó. Tai Sơn điếc đặc, không nghe được.

Ông già cúi xuống, nhìn thẳng vào mắt Sơn, tay chỉ lên dãy núi

phía xa xa. Ông ghé lưng vào, cõng Sơn dậy. Sơn nằm trên lưng

ông, mê man. Anh mơ màng cảm thấy như mình đang đi trên một

chiếc thuyền nhỏ giữa biển cả. Ông già lúc thì đi lom khom, lúc thì

bò toài trên ruộng lúa, vạt tranh, đưa Sơn vượt qua mọi đồn bốt

địch, tiến về dãy núi phía Tây.

***

213

Phong trào cách mạng trong tỉnh ngày càng phát triển mạnh

mẽ. Nhiệm vụ diệt ác ôn hỗ trợ đồng bào nổi dậy phá kìm, giành

quyền làm chủ càng cấp bách. Một hôm, trong khi đi liên hệ với địa

phương để chuẩn bị đánh căn cứ gò Trạm, Sơn gặp đồng chí Bí thư

Huyện uỷ. Đồng chí nói với Sơn:

- Vùng này có tên Hiếu, ác ôn khét tiếng. Hắn chuyên giả làm

người buôn bò, heo, lân la tới các vùng để điều tra tình hình cơ sở ta,

về tìm cách đánh phá. Hắn còn trực tiếp nhúng tay vào việc tra tấn tù

binh. Hắn thường dùng một mảnh bom sắc quấn vào một sợi vải dài,

quật lên khắp mình mẩy người tù cho toé máu ra. Hắn cũng quen lối

lấy đinh đóng lên bàn tay người tù. Diệt được tên Hiếu sớm ngày nào,

phong trào cách mạng ở địa phương có lợi ngày ấy.

Nghe tới đây, Sơn nắm chặt tay đồng chí Bí thư, nói cương

quyết:

- Để tôi diệt nó.

Đồng chí bí thư trầm ngâm:

- Địa phương cũng đang tìm cách diệt hắn. Nhưng hắn rất xảo

quyệt. Cứ tối đến là hắn về quận lỵ ngủ. Đường về đó lại nằm giữa

5,6 ấp chiến lược, đông dày quân địch.

Sơn tha thiết :

- Nhất định tôi sẽ tìm mọi cách để diệt hắn. Chỉ yêu cầu các

đồng chí cho điều tra nắm vững quy luật hoạt động của hắn, cho

người đi với tôi để nhận dạng hắn.

...Một buổi chiều, trên con đường từ Cát Nhơn đi Phù Cát có

hai thanh niên đứng tán gẫu bên một cột cây số. Cách đó 150 mét là

một đồn Bảo an. Đầu đường bên kia, cách 200 mét cũng có một

trung đội Dân vệ đóng giữ. Trên đường, xe cộ đi lại tấp nập. Những

chiếc xe Hon đa phóng vụt qua, máy êm ro. Đã xế chiều rồi. Đường

vắng dần. Người thanh niên cao lớn vỗ vai người thanh niên nhỏ bé,

chỉ về phía Cát Nhơn:

- Anh Sơn, thằng Hiếu tới đó.

214

Bùi Đức Sơn bước ra sát mép đường, nhìn chăm chăm vào chiếc

Hon đa đang tiến lại gần. Trên xe, ngồi lái là một gã đàn ông to

khoẻ như trâu mộng, ngồi sau là một gã đàn ông nhỏ bé hơn. Khi

chiếc xe còn cách khoảng 10 thước, Sơn đứng hẳn ra ngoài đường,

vẫy vẫy tay:

- Này anh, về Phù Cát phải không, cho tôi hỏi thăm chút.

Gã đàn ông hãm xe lại. Những sợi tóc xoăn rủ lòng thòng trước

trán, che bớt khuôn mặt to bạnh, da đỏ lự. Gã cau có:

- Thằng nhỏ, sao mày dám cản xe tao?

- Ông cứ bình tĩnh cho tôi hỏi chút. Ông có phải là ông Hiếu?

Ông về Phù Cát chứ?

- Mày muốn gì tao hả?

Gã quát lên thật hách dịch. Nhận rõ mặt thằng Hiếu, Sơn móc

khẩu súng ngắn dắt trong lưng quần ra, chĩa vào hắn:

- Giơ tay lên. Cục cựa tao bắn bể đầu.

Tên Hiếu run rẩy giơ tay lên, mặt tái mét. Gã đàn ông phía sau

hoảng hốt vụt chạy. Sơn đưa súng theo, bóp cò. Nhưng viên đạn

không nổ. Anh nhanh chóng giật cơ bẩm, bắn phát thư hai, hắn bổ

xấp xuống ruộng. Thằng Hiếu hoảng sợ đến cao độ, mặt tái mét.

Sơn chĩa súng vào ngực nó tuyên bố:

- Mi là ác ôn, có nhiều nợ máu với đồng bào, hôm nay mi phải

đền tội.

Sơn bóp cò nhưng viên đạn lại thối. Thằng ác ôn nhắm mắt lại,

tưởng cái chết đã chụp lên đầu, nghe tiếng "tách" liền mở mắt ra,

đưa tay vào bao súng bên hông. Nhưng Sơn đã kịp thời giật cơ bẩm,

bắn tiếp phát nữa. Tên Hiếu ngã khụyu xuống, la lối:

- Ươi trời ơi, Cộng sản giết tôi, cứu tôi với!

215

Sơn bồi cho nó một phát nữa. Thằng ác ôn khoẻ như gấu vẫn

chưa chết mà còn quằn quại, rên rỉ. Bọn Dân vệ, Bảo an nghe tiếng

súng, hốt hoảng chúi đầu vào lô cốt, kêu la vang trời. Sơn thấy phải

kết liễu nhanh đời tên ác ôn này. Anh kéo tay anh du kích, liệng

một trái lựa đạn giữa bụng tên ác ôn. Anh du kích liệng tiếp một

trái nữa, phá tan chiếc xe Hon đa.

Bọn địch lúc này mới xả súng về phía đường, nơi có xác tên

Hiếu và chiếc Hon đa tan nát. Sơn và anh du kích băng xuống đồng,

chạy về căn cứ. Những quả M79 đuổi theo nổ tốc tốc nhưng vô

hiệu...

***

Trên đây chỉ là 3 trong số 46 trận đánh của Anh hùng Bùi Đức

Sơn. Anh đã tiêu diệt 176 tên Mỹ -nguỵ, gấp 8 lần số tuổi đời mình.

Riêng trận Gò ú, anh diệt 70 tên địch, diệt gọn ban chỉ huy đại đội,

phá huỷ một điện đài 15WAT, một đại liên, một lô cốt, một hầm

ngầm, góp phần tích cực cùng đồng đội diệt gọn một đại đội 150 tên

đóng ở căn cứ này.

Hiện nay, với cương vị đại đại đội trưởng, Bùi Đức Sơn quyết

tâm cùng đồng đội xây dựng đơn vị mình giỏi toàn diện, đã xuất

quân là chiến thắng.

Ngày 17/6/1971

Lên đường đi Phù Mỹ. Nhằm phương Đông mà tiến. Xuyên qua

những rừng cây nhỏ, đầy gai, qua những đồi tranh nóng bỏng. Gió

thổi bạt cả hơi. Nắng hầm hập. Nhìn qua đồi Bà Tám thấy địch

đóng tăng lố nhố trên đỉnh đồi. Khi đi xuống một con suối, thấy một

mảnh giấy ghim vào thân cây, ghi: "Địch cách đây 500 mét!". Vẫn

lặng lẽ bước đi. Song đếm từng bước chân một. Cứ 2 bước chân là

một mét. 500 mét vị chi là 1.000 bước! Dè chừng đấy. Rải rác 2 bên

đường có hố kích của địch. Đi khoảng 3 - 400 mét có một đường rẽ.

Phía trước có dấu lá dấp lại. Chúng tôi rẽ sang phải, bỏ con đường

chính. Phía đó chắc có địch.

216

Trạm Tám ồn ào những người. Người cột võng la liệt, nằm chờ

để xuống khẩu. Anh em cho biết địch đổ quân lung tung. Cách đây

chừng 10 - 15 phút có địch. Nói nhỏ. Chặt củi cũng phải nhẹ tay.

Hồi trưa, đứng trên núi nhìn xuống thấy đồng bằng trải rộng

dưới tầm mắt. Mầu xanh vẫn là mầu bao trùm. Duy chỉ có một

vùng cát quanh núi là không có mầu xanh, trông như cái khăn tang

trắng nhờ quấn lấy chân núi.

Ngày 18/6/1971

Một giờ trưa, bắt đầu đi xuống. Thực sự bước tới đồng bằng rồi.

Đặt chân lên những cánh đồng rộng lớn. Đất bị bỏ hoang, cỏ mọc

um tùm. Xã Cát Sơn (Phù Cát) này trắng dân. Dân đã bị lùa hết

vào khu dồn.

Dần dần bước tới khu ruộng đã cày. Chắc cày lâu rồi, cỏ đã lại

mọc lên. bên cạnh thửa ruộng là một ngôi nhà bị đốt từ lúc nào. Có

những đống rơm to đứng trơ trọi trong những vòng dây thép gai rào

thưa.

Đến trạm giao liên. Mới chập tối, địch đã bắn đèn dù liên tục.

Pháo bắn rít xòen xoẹt trên đầu. Lối Vạn Thiện - Mỹ Hiệp có địch

nên phải đi vòng Phù Cát. Qua những đồng ruộng, xóm làng. Mặc

dầu là đêm, đường vẫn hiện lên trắng ợt dưới ánh sáng của những

ngọn đèn dù đua nhau phóng vụt lên và treo lơ lửng giữa trời. Bóng

người cứ đột ngột dựng đứng rồi ngả dần, dài ra theo quả đèn xuống

thấp dần. Gió đồng nội ngào ngạt. Có những thửa ruộng lúa đã lên

cao, rì rào trong gió. Có những thửa ruộng đã bừa, lõm chõm những

bó mạ chờ cấy. Tôi hít cái hơi phóng khoáng của đồng nội, sao thấy

thân yêu quá!

Xóm làng có nhiều dừa, tre. Qua một xóm nhà chi chít. Những

ngôi nhà tranh lớn nằm im lìm trong đêm. Không có dân, nhưng

vẫn có sự sống của con người. Một chú bê đứng ở một thềm nhà im

lặng nhìn chúng tôi. Tôi xoa đầu chú, chú cũng không động cựa. Có

tiếng ngan kêu khàn khàn trong chuồng. Có những bộ quần áo phụ

217

nữ phơi còn ướt. Có những giếng xây, nước mát lạnh. Đồng bào nơi

này vào ấp cả rồi. Ngày họ lại về. Chúng tôi chờ trực ở nơi này.

Giao liên ở dưới lên tên là Hùng. Anh không chịu dẫn chúng tôi

đi. Anh Bình - Tỉnh uỷ viên - gay gắt:

- Tôi phải về triển khai nghị quyết Tỉnh uỷ gấp. Còn dẫn hay

không thì tuỳ anh.

Hùng làu bàu:

- Tôi mới xuống, nếu xuống nữa, công việc ở nhà không ai giải

quyết.

Tuy vậy, anh vẫn giao công văn và dẫn chúng tôi đi.

Đang đi ở ruộng thì đột ngột leo lên một thành đất khá cao -

trên đó là đường xe lửa. Sau đó vượt đường số một. Con đường cao

như một con đê, rộng chừng 7 - 8 thước, trải nhựa. Đứng trên đường

nhìn về hướng Nam thấy gần đó có một vùng sáng ánh điện. Nổi

bật lên là hai ngọn đèn sáng rực như đèn pha. Đấy có thể là ấp

chiến lược.

Giao liên vẫn bám đường phía trước. Chúng tôi lặng lẽ bước

sau. Phải hết sức im lặng vì địch rất gần. Vào một xóm. Cô Tâm -

giao liên hợp pháp - dừng lại:

- Lấy dừa ăn!

Cô lục lục trong bờ rào, đưa ra 5 trái dừa lớn. Lấy rựa vạc, đục

nước uống. Rựa cùn nên chặt qúa khó, lại ồn nữa nên chỉ uống sơ sơ

mỗi người nửa trái. Dừa đã già nên nước hơi chua, nồng nồng mùi

bia. Moi vội vã mấy miếng cùi dừa rồi bỏ đi. Tôi tiếc rẻ ôm theo một

quả, một lúc lại phải bỏ lại.

Qua một ngôi nhà nhỏ. Ngoài sân có mấy du kích nằm ngủ,

súng AK để bên cạnh.

218

Lội qua sông La Tinh. Đi một hồi đến một khu gò. Chui vào đấy

cột võng nghỉ. Cô Tâm nằm lăn ra đất mà ngủ. Hùng đưa tấm ni

lông bảo cô trải nằm, cô vùng vằng không nhận. Hai người thì

thầm, dằn dỗi gì đó với nhau. Qua cách cư xử của họ, tôi đoán họ có

vẻ như mới yêu nhau, hay ít nhất cũng đang có tình cảm đặc biệt

với nhau. Có điều, không hiểu họ đã nhìn rõ mặt nhau chưa, bởi vì,

do công việc, họ chỉ được gặp nhau trong đêm.

Ngày 19/6/1971

Bầy te te siêng năng một cách vô tích sự. Hồi chiều qua, khi lũ

chim khác đã ngủ hết rồi, chúng còn bay nhao nhác, kêu tét te.

Sáng nay, chúng lại dậy sớm hơn hết thảy, gọi nhau rối rít. Bầy

chào mào, tu hú cũng hót theo lảnh lót. Dàn đồng ca vô thức của lũ

chim khiến chúng tôi bật dậy. Đi luồn trong lòng địch, nhiều khi

tiếng chim xao xác cũng khiến chúng tôi bị địch phát hiện, nên lúc

này không lòng dạ nào mà nghe chim hót. Cô Tâm tạm biệt chúng

tôi. Tới lúc chia tay rồi, tôi cũng không biết mặt cô, vì lúc này trời

vẫn tối. Có những cô gái bất hợp pháp lánh ra đây. Có những người

dắt bò qua.

Xã Mỹ Tài có những dải đất nhỏ bọc 4 phía. Chúng tôi nằm ở

rìa chứ không vào làng vì sợ bọn địch đột nhập. Để đồ đạc gọn gàng

rồi nằm ra đất ngủ một chút. Có hai em bé từ làng chạy ra nói gì đó

với anh Bình. Anh gọi Kính ra cảnh giới.

Từ chiều hôm qua đến nay đều phải đi đất, đạp gai đau quá -

không đi dép cao su vì sợ bọn địch phát hiện dấu vết. Toàn xã này

có 2 đại đội Bảo an (lính địa phương), 3 đại đội Cộng hoà (lính chủ

lực nguỵ). Chúng co lại 2 chốt nhưng vẫn có một số trài trong dân,

một số thỉnh thoảng đi lùng sục. Du kích ở đây có 10 người. Địch

vào thôn Vạn Thái - cách chỗ chúng tôi khoảng 5 phút đồng hồ.

Nhưng cũng yên trí vì nhân dân báo tin thường xuyên. Trên trời,

thỉnh thoảng vài chiếc máy bay trực thăng đi hốt quân ở đâu đó nổ

máy bạch bạch. Dưới đất, thỉnh thoảng nổ một vài tràng đại liên.

Gió thổi làm hàng phi lao kêu vi vút.

219

Chúng tôi vòng qua thôn Vạn Ninh để tiếp tục đi. Hai cô gái đi

trước bám đường - bám hợp pháp. Đi giữa những thôn xóm, vườn

dừa, giữa những cánh đồng màu tấp nập cày bừa, thấy náo nức lạ.

Khắp đất này đi tới đâu cũng thấy khí thế nổi dậy sôi sục. Tới

đâu cũng thấy bàn kế hoạch: tối nay, ngày mai... nổi dậy, phương

án nổi dậy.

Đồng chí Tài - Bí thư Thị uỷ Phù Mỹ - kể cho chúng tôi việc

diệt ác ngay trên quốc lộ, chuyện cô gái Phù Mỹ diệt ác giữa thị

trấn, chuyện bức rút san đồn với giọng sôi nổi hiếm có.

Đêm, tổ chức mít tinh trị tề điệp, phát động nổi dậy. Đồng bào

toàn xã đều tới, lại phải qua những đồn địch, nên tập hợp được đông

đủ cũng khá vất vả. Mãi gần 22 giờ mới bắt đầu. Đèn dầu thắp

bằng ấm, bằng lon sữa, sáng rực.

Trong vụ xử án này, tôi thấy một trường hợp thật phức tạp. út

Thám là một phụ nữ ngoài 40 tuổi, có 2 con gái, một con trai, trước

đây là người có nhiều công với cách mạng. Từ năm 1960, gia đình

này đã là cơ sở vững của cách mạng, chuyên theo dõi tình hình địch,

bảo vệ, nuôi nấng cán bộ. Có lần bọn địch được báo có hầm bí mật ở

gần nhà này. Chúng đến săm nhưng không thấy, bèn bắt Hành -

con gái thứ 2 của Thám - đánh đập rất dã man. Chúng bắn nát bàn

chân Hành nhưng vẫn không buộc được cô khai lấy một lời. Vậy mà

tới năm 1969, khi địch "bình định cấp tốc", dùng thủ đoạn tâm lý

chiến, cài cấy gián điệp, thì chính gia đình này lại trở thành điệp

báo nguy hiểm. Thám nhiều lần báo hoạt động của cán bộ, du kích

và dẫn địch đi đánh, gây thiệt hại nhiều cho ta. Còn Hành thì liên

hệ chặt chẽ với tên nguỵ binh ác ôn, hù doạ đồng bào. Khi đưa tên

này ra, tôi thấy bên cái căm thù còn trào lên một sự đau xót. Thám

người gầy gầy, búi tóc sau gáy như mọi bà má miền Nam khác. Còn

Hành là một cô gái cao cao, trắng trẻo, trông cũng không có nét gì

là ác hiểm cả. Tội của Thám lẽ ra phải xử tử. Nhưng xét công trước

đây, nhân dân chỉ bắt tù thôi. Còn Hành chỉ bị cảnh cáo trước dân,

phải đứng ra hứa hối cải. Cô ta mất hồn, lắp bắp không nói được

câu nào cả.

220

Họp về, anh em thanh niên dẫn đi chơi. Dưới ánh trăng nhạt,

trong vườn dừa mát mẻ, đi dạo chơi với những người con trai, con

gái tuổi xuân phơi phới, thấy thật bâng khuâng. ở đây còn nhiều

nam nữ thanh niên choai choai, nhưng đi thoát ly ít quá. Họ khai

bớt tuổi để trốn lính (nguỵ), song cũng để khỏi phải đi thoát ly (cách

mạng). Có người khai 12 tuổi nhưng thực ra đã ngoài 20, có vợ, có

con rồi.

Bên cạnh đó có những câu chuyện về tòng quân rất vui. Có chú

bé xách khăn gói đi nhập ngũ, mẹ níu theo gọi về, cậu nói:

- Thôi, má về trước đi, tui về sau. Má về chuẩn bị đồ cho tui vô

lính, rồi khi nào cách mạng họp gia đình binh sĩ nguỵ thì nhớ đi

nhe!

Mẹ đành mếu máo:

- Thôi, thế chờ tao bán con bò, kiếm ít ngàn cho thêm rồi hãy

đi, con!

Có chú bé suốt ngày lo đi lượm súng đạn, tìm cách đánh giặc.

Mẹ rày la, chú ta nói:

- Con đi làm việc cách mạng, con ăn cơm của cách mạng chứ

không phải cơm của mẹ!

Mẹ gắt

- Vậy mày giỏi, mày đi đâu ăn thì ăn, đừng ăn ở nhà nữa!

Chú tiếp luôn:

- Nhưng cách mạng phân công con ăn ở nhà này, mẹ tính sao?

Mẹ cười xoà, chịu lý của con.

Về ngủ chừng một tiếng đồng hồ rồi trở dậy vác ba lô đi. Trăng

nhàn nhạt. Nếu không có người dẫn đường, có lẽ tôi lạc vào nơi địch

221

ở một cách dễ dàng, vì tôi không rõ phương hướng ra sao mà địch

thì ở quanh quẩn vài trăm mét. Gà đã bắt đầu gáy sáng.

Anh em du kích dẫn vào nhà một đồng bào nghỉ. Nhà nướng

bánh tráng, nhúng nước bánh tráng đưa chúng tôi chấm nước mắm

ăn cho đỡ đói. Bà chủ nhà nói: "Thật tiếc, không có cá, có lươn cho

các chú ăn".

Vào một xóm ngủ. ở đây, nhà cửa cũng đàng hoàng, không thấy

có hầm tránh pháo. Có những ngôi nhà dùng tôn làm máng nước

nơi giọt gianh, sáng loáng. Có những chiếc giường gỗ sơn xanh, đẹp,

trải chiếu đàng hoàng. Ba năm rồi tôi mới thấy lại những thứ đó.

Ngày 20/6/1971

Vào nhà một bà già ăn cơm. Có cá kho, da bò xào, cơm gạo

trắng. Ăn xong, bọn tôi trả gạo. Cả bà già, ông già đều nói: "anh em

đừng ngại phiền bà con. Nói thật, ăn thì bọn tôi không lo, lo chỗ ở,

lo tình hình địch thôi. Rủi có gì thì khổ mấy anh, khổ cả bà con".

Chúng tôi họp với mấy cán bộ xã Mỹ tài, Mỹ Hiệp và huyện.

Họp ở một ngôi nhà cao ráo, sáng sủa. Có du kích cảnh giới các

phía. Ngủ ít quá, đi mệt quá nên bây giờ ai cũng phải đấu tranh

chật vật để tỉnh táo. Thu - Bí thư Mỹ tài - gà gật mãi, phải ra dấp

nước vào mặt cũng không tỉnh ngủ. Anh vấn một điếu thuốc nhưng

mới được một nửa đã ngủ, làm rơi điếu thuốc. Choàng dậy vấn lại,

chưa xong đã nhắm mắt, đánh rơi điếu thuốc lần nữa. Anh bực

mình lấy qụat quạt phành phạch nhưng mắt vẫn nhắm nghiền,

người ngả nghiêng.

Trời trong, gió lộng, không gian thoáng đãng thật đáng yêu.

Nhiều người buồn ngủ quá, anh Bình phải cho tạm nghỉ họp. Ai

nấy lăn ra ngủ say sưa... Tài và mấy anh em đi hái dừa. Những trái

dừa to đầy ắp nước, thứ nước trong vắt, mát tận gan ruột. Pha sữa,

nạo cùi non vào nước đó thì ngon tuyệt.

222

Về đêm, trời mưa giông. Sau cơn mưa, chúng tôi ra đi. Vùng

này có nhiều đồi, núi nhỏ. Băng trên những bờ ruộng nhỏ, thỉnh

thoảng lại thụt chân xuống ruộng. Vượt qua đường cái quận Phù

Mỹ rồi băng qua một đám ruộng nữa, tới một khu gò. Có 2 người cột

võng ngủ đó. Chúng tôi dừng lại, tranh thủ ngủ chút ít. Ngủ được

khoảng hơn một tiếng đồng hồ thì sáng.

Ngày 21/6/1971

Sáng, chúng tôi đi theo Bình - Bí thư Mỹ Chánh. Tình hình

yên, khỏi phải đi tối. Chúng tôi đi theo rìa núi. Rồi leo lên một hòn

núi nhỏ. Cây cối ở đây cằn cỗi, gai góc. Những chùm dủ dẻ chín

vàng. Những trái chim chim chín đỏ, tròn, kết thành hàng như

chuỗi cườm đỏ. Những cây dứa dại một gốc nhiều thân, vỏ nâu, gai

nổi u như những củ từ. Quận lỵ Phù Mỹ nổi lên trăng trắng, đo đỏ

giữa màu xanh rì của cây cối. Qua khỏi đỉnh đồi, chúng tôi ngồi lại

sau cây dứa dại để quan sát tình hình rồi mới đi xuống. Ngay dưới

chân đồi là những thửa ruộng mầu. Xa hơn một chút có những ngôi

nhà lợp mái tôn trắng toát. Tiếp đến là những đìa nước với những

hàng cây ngang dọc như bàn cờ. Sau đó là đầm nước lớn nối liền với

vụng nước ngọt. Đầm nước lặng không một gợn sóng, in hình mây

trắng, mây xanh trên trời, trông xốp như một đệm bông lớn. Biển

thì trông như một bức tường màu xanh dựng đứng ở nơi chân trời.

Một quả núi hình chiếc tầu chiến đứng chơi vơi giữa biển, nổi lên

cái mầu xanh đen mờ nhạt. Phía sát đầm nước, một quả núi mà

một nửa dát cát vàng tới đỉnh, một nửa khảm cây xanh, nổi lên cao

ngạo nghễ. Không gian thanh trong. Có những tiếng te te kêu trách

móc: 'Te te tò quách!". Tiếng chào mào hót vô tư. Chú bò nào đó chợt

kêu lên tiếng kêu trầm ấm, chìm ở dưới chân núi. Tiếng động cơ

Hon Đa kêu rền phía đường cái.

Thấy ổn thoả, chúng tôi lần xuống chân núi rồi bước ra đồng.

Có những thưả ruộng trồng đầy ớt, trái chín đỏ bên những luống

kiệu cằn cỗi. Trẻ em chăn từng bầy bò 9-10 con rải rác đó đây. Đi

vào một khu nhà. Nơi đây trước là ấp chiến lược, mới được mở ra. ở

nhà chỉ thấy mấy bà già, mấy cô gái và các em bé. Bà con hôm nay

kéo đi đấu tranh. Vào một nhà mua nước cam, bia để giải khát. Căn

nhà lợp tôn trắng, xây tường gạch, nóng hầm hập. Chủ nhà là một

223

cô gái trắng trẻo, mặc chiếc áo ni lông hoa, mầu thanh nhã. Nước

cam mát ngọt, tê tê đầu lưỡi gợi nhớ Hà Nội với cửa hàng giải khát

Bốn Mùa hay Cẩm Bình. Đi ra đường cái huyện. Con đường đất cát

nhỏ giờ này vắng người. Thấy 2 cô gái vác rựa, một cô vác một cây

gỗ lớn đi lại. Các cô khoe vừa đi đấu tranh về. Hai bên đường có 2

dẫy nhà gạch nhỏ. Mấy đứa bé ngồi lê la bên hè, nhét trái cây vào

ống tre bắn "tốc, tốc". Một em trai hỏi tôi có lấy đạn côn khôngg và

chạy đi lấy cho tôi. Một chiếc xe Hon đa chạy từ phía quận lỵ về,

chở theo 2 cô gái mặc áo ni lông màu cá vàng. Bình ra đón xe, đưa

giấy gì đó. Anh lái xe đeo kính đen, đội mũ phớt cầm giấy và lại cho

xe đi. Vùng này thuộc xã Mỹ Chánh.

Đi trên bờ đìa, ngửi mùi nước tanh tanh. Nước đang lên theo

thuỷ triều nên lớn. Những cây mắm mọc dưới nước có hàng chùm rễ

to bằng ngón tay cái, nổi trên mặt nước, có lá dầy tròn như lá mít,

ròn như bánh đa nướng, cành mọc tùm hum như một bồn hoa, trông

gọn, đẹp. Gió biển thổi về lồng lộng. Tôi rửa nước đầm, thấy xót mới

chợt nhớ đây gần biển lắm.

Bữa cơm trưa có cá biển tươi ngọt lừ.

Một số cán bộ xã nằm ở khu nhà ngoài đìa nước này chờ theo

dõi cuộc đấu tranh của đồng bào. Du kích leo lên cây dừa để quan

sát địch.

Xế chiều, chúng tôi trở ra xóm nhà bên đường. Nước đìa đã

xuống theo thuỷ triều, để lại một vành đai cát rộng chừng một

thước viền theo bờ đìa. Trên vành đai đó, những chú còng ló thụt

trước miệng hang. Loại còng này nhỏ bằng ngón tay cái, có bộ ngoe

nhỏ như chiếc đinh ghim, đỏ au, có một chiếc càng to bằng thân

cũng đỏ ối. Chiếc còng luôn gấp sát bên mình - cái mình sọc dưa đen

trắng. Các chú giơ cao chiếc càng to xù lên trước rồi bò ra khỏi

hang, kéo theo những viên cát nhỏ chắn trước cửa như chiến hào

vậy.

Xóm này nằm rải rác hai bên đường, với những ngôi nhà xây,

lợp tôn trắng, những ngôi nhà gạch 2 tầng xinh xắn. Một gia đình

dọn cơm cho chúng tôi ăn, có cá biển, thịt heo, rau muống và mắm

224

cá. Bữa cơm đầy hương vị gia đình, ba năm nay tôi mới gặp lại. Ăn

xong, nghỉ một lát rồi chuyển sang ngôi nhà nằm sâu phía trong,

cách xa đường cái. Dù sao cũng phải cảnh giác vì ngôi nhà đó gần

đường, nếu có kẻ nào đi qua liệng vô một trái lựu đạn là đủ tổn thất

lớn. Vả lại, bọn Cộng hoà mới tập trung một tiểu đoàn tại chùa An

Quang, cách đây không xa, nơi chúng tôi mới đi qua hồi sáng -

chúng có thể tập kích bất ngờ. 9 giờ tối, chúng tôi ra đi. Đi dọc theo

đường cái. Bước chân phóng khoáng, không bị vấp váp đá, cây,

nhùng nhằng dây dợ như đường núi. Con đường này ta làm chủ

nhiều đoạn, nên giao thông địch bị cắt dứt, đêm đến ta đi trên

đường một cách tự do. Thỉnh thoảng phải vòng tránh những tuyến

bố phòng chặn giao thông địch. Đêm nay, trời trong trẻo. Sao gắn

cho trời muôn nghìn đôi mắt sáng lấp lánh, vô tư và lãnh đạm. Dải

Ngân Hà trải lòng êm ả giữa cõi xa xăm. Gió biển tràn về lồng lộng.

Tôi nhìn đắm đuối về phía biển Đề Gi. Nơi đó có những ánh đèn

măng sông sáng xanh rực rỡ, nhấp nha nhấp nháy. Một quả pháo

sáng thật vô duyên, tự nhiên lại len vào cái vùng sáng mỹ miều ấy

bằng một đốm sáng vàng eỏ lả, ma quái, run rẩy, chấp chới.

Rồi bước đi trên bãi cát của xã Mỹ Thành. Bãi cát bao la ngời

trắng. Phi lao, dừa mọc thành rừng trên bãi cát, ru gió vi vu. Thỉnh

thoảng lại lội qua những vũng nước rộng. Bước chân đạp nước bắn

tung toé, làm xáo động lên những đốm lân tinh sáng yếu ớt.

Qua khỏi Động Dương, đi chếch về phía tay phải một chút trên

bãi cát, chúng tôi tiến ra sát bờ biển. Giờ đây tôi mới được gặp biển

sau bao năm mong đợi. Biển đón tôi bằng tiếng sóng ì ầm. Trong

ánh sáng sao, tôi nhìn thấy lưỡi sóng trắng của biển liếm vào bờ

cát. Tôi đi sát biển, muốn gửi trọn tấm tình tha thiết đối với biển,

nhìn biển không chán mắt. Mỗi con sóng chỉ như một cây gỗ lớn bị

xô vào bờ, tới sát bờ bỗng biến thành một chiếc tên lửa trắng toát,

phóng vụt theo bờ cát rồi tan biến đi, để lại những bọt trắng xoá tan

xèo xèo trong cát. Biển gửi vào bờ cái dào dạt của lòng mình qua

những đợt sóng bất tận. Biển cũng gửi ánh sáng của lòng mình qua

những lưỡi sóng đó. Mỗi con sóng tạt vào bờ, lúc rút đi còn để lại

những bọt sóng trắng có lốm đốm những ánh lân tinh. ánh lân tinh

tưởng đã tan biến vào trong cát, khi gặp những bước chân đá thốc

lên, lại bắn ra những đốm sáng xanh tinh nghịch. Tôi bước sát mép

225

nước, mặc cho nước tạt ướt ống quần. Tôi kéo mạnh chân trên cát

làm bung ra từ bộ mặt mịn màng ấy những đốm lân tinh. Tôi cúi

vốc một hớp nước uống vào lòng.

Hôm nay, người con của núi rừng về gặp biển. Xin uống một

hớp nước mặn mòi của biển. Xin mang vào tận đáy lòng tấm tình

dào dạt, mãnh liệt đến hung tợn của biển. Ta muốn lòng ta bao la

như biển để chứa đựng được tất cả cái chiều sâu thăm thẳm, cái bề

rộng mênh mông, cái dạt dào ầm ã của cuộc đời. Biển là sự ngưng

đọng của đất trời, mưa nắng. Tất cả những gì tinh tuý nhất, ô uế

nhất của vật chất đều dồn về đây, nhào trộn với nhau, tranh chấp

với nhau, làm nên những sản phẩm vật chất kỳ diệu khác. Ta muốn

tâm hồn ta cũng là sự ngưng đọng của cuộc đời, của con người và

thiên nhiên, của những cái đẹp đẽ và xấu xa trong xã hội. Và ta

muốn sóng của tâm hồn ta sẽ nhào trộn chúng, đập tan chúng, kết

tinh chúng thành những sản phẩm tinh thần cao thượng. Đó là ước

mơ. Ước mơ chắc gì đã thực hiện được. Nhưng xin cứ ước mơ và

nguyện sống theo ước mơ.

Thanh Bình - Tỉnh uỷ viên, Bí thư Huyện uỷ - và cô Năm -

Chấp hành Huyện đoàn - đều nằm xoài trên cát. Năm là cô gái gầy

gầy nhưng có nét hóm hỉnh, miệng cười rất tươi. Cô kể rằng hồi nhỏ

đi học không có trường lớp, mỗi trò một chiếc ghế đòn, tiện nhà nào

vào nhà ấy ngồi nhờ thành lớp. Vào thời kỳ khó khăn, rất khan

hiếm thực phẩm, khi ăn mắm cái, Năm và các bạn không rửa chén

đũa, để đến bữa sau đổ nước vào khoắng cho có mùi tanh. Cứ thế

cho đến khi nào bát đũa không còn chút mùi tanh nào nữa với dùng

vào việc khác. Quả là bước trên cát chóng mỏi chân thật. Tôi và

Kính vào một xóm chài trên biển. Xóm nhỏ nằm im lìm trên cát. Từ

những ngôi nhà nhỏ hắt ra những ánh đèn dầu yếu ớt. Mọi người

đang ngủ say. Một bà cụ dậy mời chúng tôi uống nước. Bên cạnh

võng bà nằm là một nồi lớn bắc trên bếp đang sôi sùng sục. Củi phi

lao cháy rất đượm. Bà cụ nói: đang nấu bánh tét, nhưng mới được

một hồi lửa, chắc chưa chín. Bà lật lớp bánh ở trên, chọn lấy hai cặp

đưa chúng tôi.

226

Vào thôn Tân Phụng (Mỹ Thọ) ngủ. Thôn này cũng nằm trên

bãi cát ven biển, có những ngôi nhà xây bên những cây phi lao

duyên dáng.

Ngày 22/6/1971

Về P.U (huyện uỷ). Lại đi trên bờ biển đón sóng gió dạt dào.

Sớm tinh mơ, trông biển như nhuộm một màu đen. Nhưng khi mặt

trời đã lên, biển lại nhuộm một màu xanh biếc. Tôi muốn gửi cả

tâm hồn vào lòng biển. Tôi nhào vào lòng biển mà lội bơi. Biển vồ

vập ôm lấy tôi, vuốt ve tôi bằng bàn tay sóng dịu dàng. Tôi thả sức

bơi lướt trên mặt biển, mặc cho nước biển mặn chát bắn vào mặt xót

xọt.

Tôi vô ý để đôi dép gần mép nước, liền bị sóng cuốn đi một

chiếc. Suýt nữa thì mất. Biển vô tư và nghiêm khắc lắm đấy, biển

không tha thứ những anh ngờ nghệch đâu.

Cơ quan P. (huyện) nằm sát biển trong những hang đá nhỏ.

Ngồi ở "nhà" nhìn xuống biến, thấy những đốm trắng của sóng cứ

nở hoa mãi và có những đoàn ghe máy của đồng bào đi làm cá dập

dìu trên biển. Phong cảnh sẽ thật hoà bình nếu thỉnh thoảng không

có một vài chiếc trực thăng, Mô - ranh bay lượn, tìm kiếm. Nơi này

chúng đã từng rải xăng đốt trắng cả đá. Bây giờ những bọt xăng

vàng vàng, xôm xốp còn dính đầy các tảng đá.

Chiều, lại rời hang xuống bãi. Nước biển rút đi, nhưng còn

luyến tiếc bãi bờ nên còn để lại một phần nhỏ cơ thể mình trên vũng

cát, hục đá. ở đó, tôm cá bị mắc kẹt, bơi loạn. Có con cá dài, bơi

khoẻ, lao vọt qua bờ đá, sang vực bên kia. Có những con cá nhỏ

mang mầu sắc xanh đỏ sặc sỡ. Có những con giống loài cua nhưng

chân rất dài và toàn thân biếc xanh, xen xọc vàng vàng, đo đỏ rất

đẹp. Bầy còng mình mỏng, chân dài chạy xào xạo trên đá, rúc vào

các ngách đá trốn người. Có những con ốc con mang cái vỏ mầu vân

vân nhưng thân không giống ốc, có đầu, ngoe, càng hẳn hoi bò trên

cát. Vết chân của chúng tạo thành những đường dài hình chân rết

trên cát, y như vết bánh xe đạp tí hon vậy. Cứ thấy động là chúng

thu mình vào vỏ, nằm im thin thít. Cô Lý - con anh Bình - chạy

227

tung tăng trên bãi biển bắt nhum. Loài vật này thật kỳ lạ, trông

như một trái cây lớn đen thui, gai tua tủa. Những cái gai ấy luôn

động đậy, găm vào những gì chạm đến nó. Đập nát mình nó ra sẽ

lấy được ruột, trông mầu hồng hồng, nhuyễn như một thứ bột nhào

nước, ăn rất ngon.

Gần tối, chúng tôi ra làng ngủ. Về đêm, làng sáng nhấp nháy

những ánh đèn. Những cô gái ngồi bên hè đan lưới. Sát ngay biển

có một quán bán nước đá, nước cam. Cạnh đó là một quán hàng.

Chủ quán là một bà người béo tốt. Một đứa nhỏ đọc bi bô bài thơ

nào đó nói về giao thông của ta. Chúng tôi ngồi uống nước mát, đón

gió biển mát, ngóng nhìn về phía biển Đề Gi với những ánh đèn

măng sông xanh mát.

Ngày 23/ 6/1971

Bốn rưỡi sáng, trở dậy về cơ quan. Không nên ở lại đây ban

ngày, vì có thể hải thuyền sẽ mò đến. Thỉnh thoảng bọn nguỵ cũng

đưa bo bo đến bán xăng dầu cho đồng bào.

Lại tắm biển. Tôi yêu biển và không sợ biển. Tôi lao vào lòng

biển, bơi mãi ra khơi xa.

Chiều nay trời ầm ì muốn làm giông. Mặt biển xám lại theo

mầu mây. Những con hải âu trắng loá vẫn bay chấp cha chấp chới.

Ngoài khơi không xa lắm có một chiếc tầu tuần tiễu trắng xoá

và một chiếc hải thuyền chạy chậm chạp.

Ngày 24/6/1971

Hôm nay tôi buồn. Tôi nhìn biển thấy sóng cũng lặng lẽ, mênh

mang. Tôi buồn vì tôi nghe tin một người con gái mới quen vừa bị

địch bắt. Đó là Vân - PUV (Huyện uỷ viên). Không hiểu tại sao mới

gặp thôi, tôi đã có cảm tình đặc biệt với người con gái ấy. Vân có đôi

mắt to vừa phải, tròn, sáng, hay nhìn thẳng. Khi Vân gặp anh

Xang, vồ vập thăm hỏi anh, thì cũng là lúc tôi gặp cô lần đầu, nhìn

cô hoài mà cô không biết. Nghe giọng ấm mà vang của Vân, tôi thấy

228

mến. Nhìn thái độ vồn vã của Vân, tôi nghĩ rằng cô là người giàu

tình cảm, chân thực. Trong ánh đèn dầu mờ nhạt, tôi thấy mắt Vân

cứ lấp lánh sáng.

Lúc tạm biệt, tôi bắt tay Vân, bàn tay thật êm ấm. Tôi hỏi bao

giờ Vân về, Vân trả lời:

- Ngày 23 em về, anh!

Cô ra đi, mặc chiếc áo mầu mỡ gà, xách cái túi ni lông mầu

mận chín.

Tôi mong gặp lại Vân. Tôi dự định rồi sẽ nói chuyện với Vân

nhiều, sẽ hỏi về quê hương Mỹ Hiệp của Vân, hỏi về công tác của

Vân. Ngày 23 đã qua. Anh Bình nôn nóng bồn chồn. Tôi đau đáu

trông đợi. Và hôm nay thì một chị mới thoát khỏi nhà giam báo tin

Vân bị địch bắt trưa hôm qua. Tôi không muốn tin. Nhưng người

con gái xách túi ni lông mầu mận chín ấy hiển nhiên là Vân rồi.

Anh lo cho em, Vân ơi! Kẻ thù chắc sẽ tra hỏi, hành hạ em. Anh

mong em sẽ vượt qua tất cả để trở về yên lành.

Được cơ sở báo địch sẽ càn lớn ở vùng này. Toàn P.U chuẩn bị

di chuyển, sẽ phải đi đêm. Tôi tranh thủ cột võng ngủ một chút.

Nghe anh em gọi, vội choàng dậy. Mắt nặng trĩu nhưng vẫn ráng

mở to, mò mẫm trong lèn đá mà cuốn võng.

Mò trong đêm tối qua các tảng đá lớn mà xuống bãi biển. Đoạn

đường ngắn nhưng quá cheo leo nên đi thật căng. Xuống bãi biển,

anh Bình nằm xoài trên bãi cát thở dốc. Anh đang đau, mấy ngày

nay làm việc căng quá, thức đêm nhiều nên xuống sức ghê gớm. Hai

bên má anh thịt teo đi, da nhăn lại, chảy xệ xuống.

Khi vào làng Tân Phụng, tôi gặp một đoàn người từ xa tới.

Nghe có người nói:"Cô Vân làm chi mà hối dữ vậy", tôi chợt giật

mình. Nhưng cũng chẳng dám nghĩ rằng đó là người con gái tôi

đang mong. Vân đang nằm trong tay quân địch kia mà. Nghĩ vậy và

lại thấy buồn quá, thấy nhớ Vân quá! Tôi lặng lẽ bước vào một ngôi

229

nhà, lại nghe có người gọi: "Vân vào đây". Tôi vội nhìn ra cửa. Trong

ánh sáng lờ mờ tôi nhận ra Vân. Đôi mắt của Vân trông chậm chạp

và mệt mỏi. Anh em hỏi dồn dập:

- Sao nói bị bắt?

Vân trả lời:

- Bị nó bắt nhưng trốn về được.

Vân kể sơ qua chuyện mình, rồi cứ để quần xắn ống chân như

vậy mà nằm trên giường. Tôi muốn để Vân nghỉ, nhưng đến giờ

hành quân rồi, đành phải gọi Vân đi. Vân vừa đi vừa kể chuyện

mình bị bắt bằng cái giọng đầy căm phẫn. Bọn địch đã đưa Vân vào

trụ sở xã. Chúng lục soát khắp người Vân, bạt tai Vân. Buổi trưa,

địch ngủ cả, khoá chặt cửa. Vân nghĩ: "nếu ở đây sẽ chết, vì bọn

địch đã điện về xã". Bọn ác ôn địa phương còn lạ gì Vân. Chúng đã

từng nói với má: "Bà làm được đồng nào thì cho con Vân ăn đồng

nấy để rồi nó chết. Thế nào nó cũng chết với bọn tui". Thế là Vân

vạch rào chui ra - dù có vướng lựu đạn cũng cam lòng. Ra một lúc,

nhớ đến cái nón -vì nón rất cần để người con gái che mắt địch - Vân

trở vào lấy nón rồi vượt 5 lớp rào, chạy đi. May đón được xe Hon Đa,

bảo anh lái xe phóng nhanh, vượt qua vùng địch kiểm soát.

Ngày 25/6/1971

3 giờ sáng lên đường. Đi trên động cát trắng mênh mông. Bước

trên cát, mỏi nhừ cả chân. Trong đêm tối, động cát hiện lên trắng

mờ mờ, thanh vắng. Gió thổi tràn lan, mát rượi. Nếu đi cùng Vân

thì vui biết mấy. Tôi đang nghĩ về Vân thì Hoa - một cô gái cao cao -

bỗng hỏi:

- Anh có biết chị Vân không?

- Có chứ, anh gặp chị ấy ở Mỹ Tài. Mà sao kia?

- Không, có sao đâu. Nhưng mà chị ấy hỏi anh.

- Hỏi lúc nào?

230

- Hỏi hồi nãy, hỏi anh đâu.

Hoa trả lời rồi cười khúc khích. Tiếng cười gieo vào lòng tôi một

niềm vui.

Hoa dẫn bọn tôi đi lạc, luẩn quẩn mãi giữa động cát, đạp bừa

cả vào gai xương rồng. Cuối cùng đi về phía Tây. Đi trên đường cái.

Sắp sáng rồi. Đã nhìn thấy mặt nhau lờ mờ.

Tôi ngồi nghỉ bên đường. Vân đi tới. Tôi nhìn Vân, không biết

Vân có thấy tôi không? Vân quay lại chỗ tôi ngồi, đứng im lặng.

Chúng tôi nhìn nhau trong ánh lê minh trong sạch.

- Vân ở lại đây à?

- Dạ, em ở lại xóm. Anh đi lên núi đi, không có sáng mất rồi, lỡ

địch tới...

Vân đi một đoạn rồi dừng lại, đứng bên đường. Tôi dùng dằng

chẳng muốn đi ngay. Rồi cũng phải dấn bước chân lên. ở chiến

trường, cuộc sống khắc nghiệt lắm, chẳng mấy khi chiều theo tình

cảm con người. Thoắt gặp nhau, thoắt lại xa nhau.

Bắt đầu leo lên núi. Quả núi này nhỏ, không cao lắm và chỉ có

cây nhỏ, thấp. Theo một dòng suối nhỏ mà đi lên. phải vất vả lắm

mới leo lên được những hòn đá tảng to lớn. Đến lưng chừng núi,

chúng tôi ngồi lại, nghỉ trên một tảng đá lớn, nhìn xuống biển. Bình

minh đang lên. phía chân trời rực lên ánh sáng màu hồng, xanh xen

lẫn. Những đám mây đủ hình đủ vẻ, mầu sắc sặc sỡ lơ lửng ở đường

chân trời, như luyến tiếc biển, không muốn bay cao lên.

Chỗ ở là một lòng suối cạn, nằm ở lưng chừng núi. Anh Bình

lên gần tới nơi thì thở dốc rồi ngồi lại, vừa thở hổn hển, vừa rên. Cột

võng tạm bợ bên các lèn đá hay dưới rừng cây non mà nghỉ. Sau đó

anh Bình họp với một số cán bộ của ngành. Đau như vậy mà bắt tay

vào việc, anh rất tỉnh táo, nói rất sôi nổi. Chiều, anh lại nằm rên,

không ăn gì được.

231

Gần tối thì Vân lên.

Ngày 26/6/1971, thứ 7

Chiều nay, tôi được sống những giây phút êm dịu bên Vân. Vân

sốt, phải ăn cháo, da vàng hẳn đi. Vân nằm trên võng. Tôi ngồi

võng kề bên. Vân cởi mở kể cho tôi nghe chuyện gia đình, bản thân

với giọng nhỏ nhẹ, êm ấm. Tôi ngồi nghe nhiều, nhìn nhiều và nói

ít. Tôi luôn nhìn thẳng vào đôi mắt Vân, đôi mắt có hàng lông mày

đen đậm, đôi mắt màu nâu trong sáng lạ lùng. Cứ nhìn vào đôi mắt

trong sáng ấy là người ta phải nhủ mình hãy chân thật. Thỉnh

thoảng Vân nhoẻn cười, hàm răng trắng bóng, trong trong như

ngọc...

ăn cơm chiều xong, tôi soạn ba lô để xuống xã. Vân ngồi cạnh

tôi, nhắc tôi những việc tôi quên. Vân bảo tôi đưa chiếc máy ghi âm

cho Vân giữ, đừng mang theo, nặng. Tôi không muốn gửi Vân vì sợ

nếu di chuyển, Vân lại phải mang vất vả. Lại chào tạm biệt Vân ra

đi. Gần một chút lại xa, xa nhau nhiều hơn gần nhau, nhưng lúc

nào cũng thấy như ở bên nhau.

Tới dự cuộc họp cuả P.U với các cán bộ chủ chốt các xã phía

đông đường quốc lộ một . P.U phổ biến nghị quyết của X.U (Tỉnh

uỷ) và bàn công tác thời gian tới. Trước mắt là phải tập trung sức

chống càn. Đồng thời phải tiếp tục hoàn thành chỉ tiêu chưa hoàn

thành. Vấn đề thu mua lương thực được đưa lên hàng đầu. Phải đẩy

mạnh xây dựng thực lực, tổng giáp tề điệp. Cuộc họp kéo dài đến

khuya. Đến vấn đề đưa số phòng vệ dân sự (quân tại chỗ) rã ngũ đi

học tập phục vụ tiền tuyến, anh Hai (Bí thư mới của P.U) hỏi:

- Ông Khẩn, vấn đề này chỗ ông thế nào?

Một người đàn ông húi cua, tóc dựng, cất giọng rè rè:

- Báo cáo anh, đưa đi một số thôi chớ?

- tiếc gì mà không đưa đi hết.

- Có một số đau, đi sao nổi, một số yếu nữa.

232

- Hết đau thì đưa đi chứ đau mãi ne? Không hiểu sao mà ông

thương chúng dữ vậy...

- Thương gì lũ nó, cứ đưa đi làm 15-20 ngày hay bao lâu cũng

được, tôi thương gì!

- Ông muốn giữ chúng đấy, khi nào có lệnh huy động dân công

thì nhét vào cho đủ số chứ gì?

Khẩn lúng túng, im lặng. Chắc là anh bị đánh trúng nọc. Anh

Hai nói:

- Lôi thôi không đưa đi, nay mai nó càn, nó bắt đi hết là gay

đấy.

- Cho nó lánh bất hợp pháp chớ.

- Thế mới chết. Cho nó lánh cùng chỗ, nó biết nơi ông Khẩn

trốn, sau này nó phản lại, nó mới dắt lính đi cắt cổ ông Khẩn.

Cử toạ cười ầm. Anh Hai hỏi tiếp:

- Còn Mỹ Thọ?

Im lặng. anh hỏi lần nữa rồi rọi đèn pin vào một cái võng.

Người trên võng choàng dậy, ngồi thu lu. Đợi hỏi lần nữa, anh mới

lè nhè:

- Nó rã ngũ liên miên!

- Là bao nhiêu chứ?

- Hiện có 7 thằng.

- 7 thằng mà liên miên?

233

- Đó là những thằng nhốt tập trung. Còn bọn đã về nhà thì liên

miên.

- Tập trung lại rồi đưa lên huyện nghe!

- Có ngay, sớm mai mà các anh cho người dắt đi, tôi cũng tập

trung đủ cho đi ngay.

Mãi 3 giờ sáng mới họp xong. Chia nhau đi về các xã. Tôi về xã

Mỹ Lợi. Nhu - người xã Mỹ Thắng - là P.U.V phụ trách xã này. Anh

húi cua, tóc đen, còn trẻ, sôi nổi. Chúng tôi đi trên tổng lộ một cách

tự do, thoải mái. Cách đây ít lâu, nơi này còn đầy Mỹ. Nhu chỉ vào

một gốc cây, nói:

- Hồi ấy, lũ con gái tới đây bán cô ca. Bọn Mỹ đến chơi bời hôn

hít. Lũ tôi ngồi trên núi kia, tức muốn nổ con mắt.

Ngày 27/6/1971

Đường thỉnh thoảng bị xẻ ngang để chặn giao thông của địch,

chúng tôi phải đi vòng. Tới Mỹ Lợi thì trời vừa sáng. Nhu bảo tôi

cùng Sâm đi lên Phú Ninh, trưa về họp. Sâm dắt xe đạp chở tôi đi.

Con đường bằng phẳng, xe chạy bon bon. Có những ngôi nhà gạch

rải rác hai bên đường. Nhiều người gánh dừa, heo lên chợ bán. Một

cô gái mặc áo hồng, khoác súng Tôm xông, đội mũ tai bèo đi cùng

chiều chúng tôi, nhoẻn cười ngượng nghịu. Lên đây không gặp Việt,

Lâm lại chở tôi về. Buồn ngủ quá. Nằm dài trên phản ngủ một tí.

Anh em gọi dậy ăn cơm. Rồi lại chợp mắt một chút. Đang mơ màng

thì một cậu bé tới gọi: "mời anh qua họp." Lại bật dậy đi. Một giờ

trưa, lại lên Phú Ninh. Đi với anh Sinh - an ninh huyện - và Việt -

tự quản thôn. Hai anh trạc 30 tuổi, đều cao và đen. Đi trên tổng lộ,

hai anh kể chuyện địa phương rất sôi nổi. Việt chỉ vào một khu đất

có mấy ngôi nhà gạch, nói:

- Chốt Phú Ninh đấy!

234

Tôi không thể ngờ rằng trước kia, nơi đây lại là đồn địch. Giờ

nó chỉ là một bãi cỏ mấp mô. Hai, ba ngôi nhà nằm trống rỗng. Đồn

bốt bị san bằng, khó mà nhận ra dấu vết. Việt chỉ dẫn:

- Kia là lô cốt.

Tôi nhìn, chỉ thấy một nền đất lởm chởm khô khốc. Anh lại chỉ

vào một khung nhà vuông vuông và nói:

- Trước cũng là lô cốt - nó cao tới mái nhà kia. Chúng đặt đại

liên trên đó bắn ra được bốn phía.

Có những cuộn dây thép gai bùng nhùng nằm lăn lóc khắp bãi.

Việt nói rằng trước đây nó được chất thành hàng rào cao tới đầu

người, nhân dân đã phá đi, đem về rào làng chiến đấu.

Dừa vẫn xanh khắp nơi. Những cây dừa thân còn lỗ chỗ vết

đạn, song lá vẫn xanh và trái vẫn lúc lỉu đeo quanh thân. Việt bảo

một cậu thanh niên lên hái 3 trái xuống uống. Dừa thật lớn, mỗi

trái đổ ra được gần một bi đông nước. Gặp một người đàn ông trạc

40 tuổi, gầy gầy, có chòm râu dê lưa thưa đỏ như lông bò, có đôi mắt

một mí sắc sảo, Việt hỏi:

- Sao, anh đã chuẩn bị đi chưa?

- Dạ xin thưa với anh, vợ tôi nó chạy ra biển, giờ không có ai ở

nhà nên tôi báo cáo anh xin tạm hoãn.

- Không được. Anh làm cho chính quyền địch, nay chính quyền

cách mạng cho đi học để cải tạo thì phải đi. Thôi, về lấy gạo, tiền rồi

lên đây chờ tôi.

- Dạ!

- Mà rồi lên ngay, chớ đừng bày chạy theo địch!

- Không đâu ạ, nếu chạy thì chạy lâu rồi. Giờ cố gắng ở với cách

mạng thôi.

235

Việt cho biết gã kia là trưởng thôn tề Phú Ninh. Khi giải

phóng, gã nằm im, mãi sau ta mới phát hiện ra, nay mới đưa đi học

tập. Lát sau thấy hắn xách một túi Đại Hàn tới - chắc là gạo ở

trong.

Vào một ngôi nhà gạch, ngồi uống nước trà. Ngôi nhà lỗ chỗ vết

đạn, trong có bày một quầy hàng xén, một ít chai cam, bia. Việt vẫn

say sưa kể chuyện địa phương. Đôi mắt anh có lòng trắng hơi vằn

đỏ, trông rừng rực như hai hòn than hồng. Anh cười cười:

- Tôi đi 2 năm thì vợ tôi cũng đi ngủ đồn hai năm.

Tôi chưa hiểu ý anh thì Ninh giải thích:

- Vợ con cán bộ khổ vậy đó, luôn bị địch bắt tra khảo, hạch

sách.

Việt tiếp:

- Trận cuối cùng vợ tôi bị đánh cũng là trận đau nhất. Bữa tối,

tôi về tổ chức mít tinh ở địa phương. Hôm sau, bọn địch đến bắt vợ

tôi: "Sao, hôm qua chồng mày làm gì?". Rồi chúng đấm đá, bạt tai.

Vợ tôi ngã chết giấc, chúng cột dây kéo xềnh xệch lên đồn. Người

sống mà chúng kéo như một xác chết. Đến tối chúng mới thả ra.

Sinh nói rằng vợ anh cũng bị địch đánh như vậy, nay đau ốm luôn,

không làm được gì mấy.

Việt chỉ cho tôi xem từng bụi cây, ngôi nhà mà các anh diệt ác

ôn.

Một thanh niên vác khẩu các bin vào hỏi:

- Đi diệt mít không?

Tất cả kéo tới nhà cậu ta ăn mít chín. Ngôi nhà gỗ lợp tranh

khá đẹp, có tủ kính, giường gỗ. Nhà treo một quyển lịch của địch.

Việt bảo:

236

- Cái này cũng là di tích của địch, đốt đi nhé!

Cậu thanh niên gỡ cuốn lịch xuống.

Tôi hỏi:

- Khu vực này bị đốt phá nhiều không?

Việt trả lời:

- Có nhà bị đốt ba lần, có nhà không bị đốt. Có một khu nhà

bọn tôi gọi là khu Trung Quốc vì ở đó toàn nhà xây, dân lại đông.

Ra đường gặp mấy du kích vác trung liên, các bin đi lên. họ đều

rất trẻ, khoẻ. Việt cho biết số này mới vào du kích. Du kích cũ chỉ có

2 người, nay đều là cán bộ xã đội.

Có những phụ nữ gánh những gánh cá với những con to bằng

bắp chân tất tả đi về phía chợ Bình Dương.

Mấy đứa nhỏ rượt bắn nhau bằng những ống phốc. Đài Giải

phóng đang truyền đi buổi phát thanh dân ca nhạc cổ.

Phía cánh đồng, đồng bào đang nhộn nhịp cày bừa.

Chiều, Sinh đưa tôi lại nhà một bà già. Bà người gầy còm

nhưng rất hoạt bát. Bà bỏ dở công việc đang làm ngoài vườn, chạy

vào vồn vã:

- Vô nhà, vô nhà. Ăn gì chưa? Lấy chuối ăn rồi chặt dừa nạo

uống.

Bà đưa ra một nải chuối chín. Khi tôi hỏi thăm hoàn cảnh gia

đình, bà nói:

- Con trai tôi bị địch bắt đi Qui Nhơn, rồi theo cách mạng luôn.

Con dâu tôi trót quan hệ với thằng Bảo an, mới bỏ đi rồi.

237

Bà chép miệng:

- Nghĩ tội lắm. Trước đây hắn cũng đóng góp cho cách mạng.

Nhưng rồi bọn lính cứ lui tới o ép, tôi cũng không dám ngăn vì sợ

chúng vu là cộng sản, bắn bỏ. Nên nó mới đến nỗi vậy. Các ảnh

cũng không bắt tội gì, biểu cứ ở nhà đẻ. Nhưng nó nghĩ không tới,

nó bỏ đi. Còn đứa con đầu của nó đây, tôi nuôi.

Bà tất tả đi mua rau muống về nấu cơm cho chúng tôi ăn. Đứa

cháu gái bà chừng 10 tuổi thì thầm với bà:

- Hôm nay mít tinh, bà cho con mặc áo mới nghen!

Bà cười:

- Đi mít tinh chớ bộ đi coi hát đâu mà mặc áo mới?

Bà giục chúng tôi ăn cơm nhiều:

- Nói vậy chứ gạo có ăn, không phải mua đâu, ăn no đi.

Bà kể lại cái ngày nơi này còn bị kìm kẹp, địch kích quanh nhà

bà miết và nhiều lần đánh đập bà vì cái tội chứa cộng sản. Bà rất

hào hứng kể chuyện du kích diệt ác ôn: Tên ấp trưởng đang đứng

sát gạo máy thì có 2 thanh niên vào đứng bên. Nó hỏi:

- Hai thằng này, giấy đâu?

Một thanh niên đứng chìa hông vỗ vỗ (bà lấy tay vỗ vào hông):

- Giấy đây, ông cần xem hả?

Nói rồi rút ngay súng ra, nổ ba phát. Thằng ấp trưởng chạy

một đoạn thì ngã gục. Mà anh ta giỏi thật, bắn rồi lại cầm súng

quay quay, đi ra thản nhiên như không. Bọn Dân vệ, Bảo an đứng

đầy quanh đó chứ ít đâu.

238

Tối, đồng bào họp mít tinh. Hai ngọn đèn dầu thắp sáng giữa

sân. Từ đèo Nhông, địch câu pháo về Mỹ Thọ nổ ình ình liên tục.

Anh Việt nói rằng trước đây địch kẹp rất chặt, muốn đi đái cũng

không dám ra ngoài. Nhớ những khi ấy mới thấy cái sung sướng

được tự do như bây giờ.

Ngày 28/6/1971

Khoảng 3 giờ chiều, Việt đưa tôi qua Chánh Khoang. Đi qua

một cánh đồng đất xốp, trắng như đất phù sa. Bà con nông dân làm

nhộn nhịp khắp đồng. Những ông già đi sau đôi bò cày. Một cô gái

mặc áo hồng đứng trên bừa gỗ cho đôi bò lôi đi, bừa tơi đất ra. Một

số người bê thúng, vãi lúa trên đồng. Một số khác lúi húi nhổ đậu

phộng. Vài con bê rảnh việc nhởn nhơ gặm cỏ, thỉnh thoảng ngửa

mặt lên trời rống lên một tiếng trầm hùng. Phía bên kia đồng là

những hàng dừa cao xanh. Trên một bãi cát trắng có một ngôi nhà

xây lợp mái tôn, trên nóc có sơn hình lá cờ ba que đã bị cạo nham

nhở. Việt chỉ vào nơi đó:

- Đồn Phú Xuân đấy!

Tôi không thể nhận ra đâu là lô cốt, đâu là rào vi, vì tất cả đã

bị san bằng thành một bãi cát trắng. Chỉ còn lại một số cuộn dây

thép nằm lăn lóc đó đây.

Nhà của Việt nằm trên một bãi cát, dưới một cây dừa xơ xác.

Ngôi nhà lụp sụp, cột kèo, rui mè đều làm bằng những cây gỗ cháy

dở đen thui, lợp lá dừa. Vợ anh trạc 28 tuổi, dong dỏng cao, trán

cao, trông có vẻ thông minh. Anh hỏi qua loa chuyện gia đình rồi

dẫn tôi đi.

Tới bên đầm Trà ổ. Những thửa ruộng trải ra tận bìa đầm. Có

những thửa ruộng mới cấy, cây lúa đâm lên tua tủa như những mũi

chông. Có thửa xanh rờn mạ. Có thửa mới bừa xong, lấp loáng nước.

Người ta cột dây quanh bờ ruộng, kết những tua vải vào đó để vịt

sợ, không vào phá lúa. Bầy vịt có lẽ lặn ngụp đã chán, đứng xếp

hàng trên bờ, rỉa lông, rỉa cánh. Dừa mọc san sát trong xóm gần đó.

Có cây bị phình to ở đoạn thân gần ngọn. Việt giải thích rằng đó là

239

do bị ảnh hưởng của chất độc hoá học, lá rụng đi, chồi cố mọc lên

nhưng bị nghẹn. Đầm rộng mênh mông. Nước lặng lờ bàng bạc.

Bên những thửa ruộng ven đầm, đồng bào đang dùng gầu,

dùng máy bơm tát nước. Có những cô gái đang lúi húi cấy lúa. Xóm

này được mệnh danh là xóm Trung Quốc. Có lẽ vì dân ở đây giầu có

và ít bị chà xát hơn nơi khác. ở đây, dừa mọc chi chít, xanh mượt và

ít mang vết thương bom đạn. Dưới bóng dừa là những ngôi nhà ngói

đỏ tươi hoặc những ngôi nhà gỗ lợp tranh chắc chắn.

Chúng tôi vào thăm nhà ông Nghi. Ngôi nhà ngói 5 gian có bàn

thờ, câu đối, tủ, bàn ghế. Phía trước là một cái sân xi măng lớn.

Trong nhà thắp đèn hương. Trên bàn bày hai chai rượu nhỏ và một

số ly thuỷ tinh. Nhà hôm nay có giỗ. Ông Nghi gọi con gái ra bầy

biện thức ăn tiếp khách. Ông trạc 50 tuổi, có chòm râu lưa thưa,

trán cao, tóc chải lật ra phía sau. Hơi có chút rượu vào, ông nói rất

lớn, giọng sang sảng:

- Hôm nay, tôi lại chiến thắng một trận nữa, chiến thắng như

đánh trận ấy.

Nguyên là đồng bào ở đây phải lên gần Bình Dương làm đồng.

Bọn nguỵ quyền xã này chạy lên Bình Dương, cho lính ra bắt đồng

bào cày theo phần ruộng địch cấp. Hồi trước, cách mạng chia cho

đồng bào mỗi nhà chừng 5 - 6 khẩu ruộng. Khi "bình định cấp tốc"

bọn địch chỉ cho mỗi nhà 1 - 2 khẩu, còn lại đem đấu giá hết. Nay

chúng bỏ chạy cả, đồng bào lại làm theo phần ruộng ta cấp. Bác

Nghi là người đầu tiên dám đánh bò ra cày. Có bữa địch sơ hở, bác

mượn đôi bò nữa cùng đứa cháu gái đánh ra cày tuốt được ít giỏ

giống. Bác cười:

- Thanh niên trai trẻ ra tiền tuyến, tui già, tui cũng ra tiền

tuyến. ủa, thiệt chứ, ra tiền tuyến chứ. Anh coi, ra ngay trước mũi

súng thằng địch mà cày, chuyện dỡn ne?

Bác còn kể tiếp chuyện đóng lương thực cho cách mạng:

240

- Năm nào nhà tui cũng đóng vượt hết. Năm ngoái vượt 20 kg,

năm nay cũng vượt 20 kg.

Buổi chập chiều, tiếng súng bỗng nổ ran lên ở phía Tây Bắc,

cách xóm chừng 1 km. Du kích lên đó gặp địch, hai bên nổ súng

ran. Súng liên thanh nổ rèn rẹt. Súng M79 nổ ầm ầm.

Tới nhà anh Hạo. Cũng là nhà ngói đàng hoàng. Anh Hạo và

ông Hồ thay nhau kể chuyền cày ruộng:

- Anh ra đó mà coi, mỗi buổi cả trăm đôi bò cày rợp đồng. Đồng

rộng 4 - 5 chục mẫu, ít chi ne, vậy mà cày hết, không bỏ tấc nào.

Bọn địch bắt lên đồn, bắt người này có người khác thay. Chúng tôi

chuẩn bị sẵn rồi, cứ mỗi đôi bò có 2 - 3 người cày. Người này bị bắt

có người kia ra cày thay. Lũ tôi nói với bọn chúng: "Các ông nói

chuyện chưng hửng không. Các ông bỏ làng chạy tuốt luốt tận Bình

Dương. Chúng tôi người Chánh Khoang, làm ruộng Chánh Khoang,

mắc mớ gì các ông giữ. Có giỏi thì về giữ suốt ngày đêm, lũ tôi sẽ

cày ruộng "Quốc gia" và còn tính tiền công trả các ông. Mà các ông

có giữ nổi không chứ. ấp trưởng, ấp phó chạy tuốt luốt, phòng vệ

dân sự bị tước vũ khí trọi, hiện còn phải học tập cải tạo, các ông có

về giữ được không? Nếu không giữ được thì để bọn tôi làm, cách

mạng họ không để yên những kẻ ngoan cố đâu.

Bọn lính giữ mấy ngày đầu, sau phát chán, phải để đồng bào

làm. Tên Nông hội tỉnh nói chán ngán:

- Giành là giành dân. Dân không giành được thì thôi chứ giành

đất làm gì!

Anh Hạo nói với Việt:

- Tôi cũng xin thưa với anh một chuyện. Ông cảnh sát xã giờ ở

Bình Dương, tôi thấy ông cũng hiền lành. Ông không đánh ai một

gậy nào, còn giúp đỡ đồng bào nữa. Cách mạng thấy ông có tội mà

giết, tôi không dám can ngăn. Nhưng tôi chỉ xin là đừng mang đi xa

giết mất xác, tội nghiệp.

241

Ông Hồ nói:

- Không ác mà làm cảnh sát. Không có tội mà chạy lên Bình

Dương. Hắn mua chuộc mình đó thôi.

Anh Hạo chuyển qua chuyện khác:

- Còn thằng phòng vệ dân sự, tôi gặp nó, nó biểu đưa nó về, có

được không?

Việt :

- Được chớ. Anh tìm cách đưa nó về nhen. Nếu mang theo súng

về càng tốt. Nếu không mang cũng được.

Hạo suýt xoa:

- Chà, nó cũng là con nhà tập kết, trước cũng là du kích đấy.

Hồi nó bị địch bắt, nó không khai gì cả. Trời, lúc địch dẫn nó đi

ngang nhà, tôi sợ té đái trong quần, vì tôi nuôi nó hoài, nó mà chỉ

nhà thì mình chết. Nhưng nó đi ngang mà không ngó vô. Địch lấy

đá đè lên bụng nó, nó biểu: "Có lấy trăm tảng đè lên, tui cũng

không nói. Tui đi du kích, ăn cùng cùng hết. Nhà nào cho ăn thì ăn.

Cả thôn Chánh Khoang này cho tui ăn". Sau đó địch bắt đi tù, rồi

đưa vào phòng vệ dân sự.

Anh cười:

- Bữa các ông bắt cả bọn phòng vệ dân sự, sao lại để lọt nó. Nó

biểu tức quá, các ông để lọt giờ đâm khó ra. Nếu bắt nó bữa đó, có

phải sướng cho nó không.

Việt bảo:

- Ừ, trước nó tốt, nay nó muốn về mình, mình cũng cho về. Còn

nếu như trước nó xấu, nay nó muốn về với mình, mình cũng đưa về.

242

Khoảng 9 giờ, một người đàn ông cụt bàn tay trái đến tìm Việt.

Mới giáp mặt, anh ta nổi nóng liền:

- Ông Việt, ông định bắt tui đi tù hả?

- Ai nói với anh vậy?

- Dân nói chớ ai. Anh nói: "thằng cụt làm bậy thì bắt thằng cụt

đi tù ngay" phải không? có bắt đi tù thì bảo trước với, để tui chuẩn

bị ít gạo, chút mắm, chớ nhà nghèo qúa, không có sẵn.

- Tại sao anh dám giải quyết cho dân Chánh Khoang sang làm

ruộng ở Phú Ninh? Tôi nói ông làm thế không khéo thì đi tù đấy.

- Ruộng Phú Ninh không có người làm, tui cho dân Chánh

Khoang làm chớ sao. Mà họ làm thì họ gánh lúa đổ nhà họ, chớ

không đổ gánh lớn, gánh nhỏ trước sân tui. Nhưng muốn bắt tù tui

thì cứ bắt. Thằng Sanh này tham gia cách mạng hồi giờ, ra tù vào

tội hoài rồi, không biết sợ ngồi tù đâu. Chỉ có điều là muốn bắt thì

biểu trước, để tui chuẩn bị gạo, mắm. Chứ nhà nghèo qúa, không có

sẵn.

Hai người to tiếng với nhau mãi làm không gian căng như dây

câu mảnh dòng cá lớn. Sau đó anh Sanh bỏ đi. Anh Sanh trước là

cán bộ nông hội xã, sau bất mãn điều gì đó, đã thôi việc.

Những ngày tiếp theo, tôi sang Mỹ Đức. Nơi này, đồng bào vừa

bức rút đồn Gò Cớ. Tôi được sống trong một thực tế đầy tình người

và sục sôi khí thế cách mạng. Bởi vậy, tôi viết được khá nhiều tin,

bài. Bài về anh hùng Bùi Đức Sơn đã được ngoài Bắc sử dụng, riêng

buổi phát thanh Quân đội nhân dân phát liền trong ba buổi. Bài Xã

L buổi bình minh, Đi đòi đất và một số mẩu chuyện diệt ác, phá

kìm, binh vận tôi gửi về Khu đều được đăng báo Cờ giải phóng và

chuyển ra Bắc, phát nhiều lần trên đài Tiếng nói Việt Nam - chắc

còn được đăng trên báo Nhân dân, Quân đội nhân dân.

243

Xã L buổi bình minh

Anh Việt, cán bộ thông tin xã kiêm trưởng ban khởi nghĩa thôn

PN, chỉ về phía vườn dừa râm mát nằm sát con lộ, nói với tôi:

- Một trong bốn lớp học mới được mở, sau khi bức chốt PN, nằm

ở đó anh ạ!

Theo hướng tay anh, tôi thấy một ngôi nhà rộng rãi được dựng

kín đáo dưới những bóng dừa mát mẻ. Các em học sinh đang ríu rít

tụ tập lại đó. Gặp chúng tôi, các em lễ phép chào:

- Thưa chú!

Nhìn những em trai, em gái nhỏ có, lớn có, xách túi vở, lọ mực

trong những bàn tay xinh xắn, tôi thấy lòng tràn ngập niềm vui.

Việt cho biết, toàn xã mở được hai trường phổ thông cho 250 em

theo học. Các em đã trật tự ngồi vào lớp. Bàn ghế tuy đơn giản bằng

năm ba miếng ván, vài khúc thân dừa, nhưng được xếp ngay ngắn,

đủ chỗ cho ba chục em học sinh ngồi thoải mái. Thầy Dũng bắt nhịp

cho các em hát bài ca ngợi thiếu niên miền Nam. Tiếng hát các em

vút lên cao giữa miền quê mới được giải phóng, nghe trong trẻo và

ấm áp lạ lùng.

Rời lớp học, chúng tôi lại bước đi trên con đường cái lớn đã bị

nhân dân chặt ra từng đoạn. Thỉnh thoảng chúng tôi phải vòng qua

bên để tránh những đoạn hào sâu, hoặc những tuyến rào dây thép

gai do nhân dân tạo ra nhằm ngăn cản giao thông địch. Khi đi

ngang qua ngôi nhà gạch mốc meo, chúng tôi gặp một người đàn

ông đang đứng tần ngần bên thềm. Gã chừng 40 tuổi, có chòm râu

dê lưa thưa, đỏ quạch như lông bò. Việt hỏi:

- Sao, đã chuẩn bị đi chưa?

- Dạ, xin thưa với anh để tôi lấy thêm ít đồ đạc rồi lên liền.

- Được, mau lên!

244

Việt cho biết đó là tên tề trưởng thôn PN, bữa nay ta cho đi học

tập.

Anh nói thêm:

- Bên cạnh việc xử trí những tên ác ôn ngoan cố, chúng tôi chú

trọng giáo dục những kẻ lầm đường lạc lối.

Xế chiều, Việt đưa tôi qua thăm thôn CK. Chúng tôi bước đi

giữa cánh đồng lúa bát ngát. Có những thửa ruộng đang thì con gái

mơn mởn. Có những thửa ruộng mới cấy, cây lúa đâm lên tua tủa

như những mũi chông. Có những thửa mới bừa xong, mặt ruộng

láng bóng. Một cô gái mặc áo xanh lúi húi bên chiếc máy bơm nước.

Lát sau, tiếng máy nổ rộn lên, vang động cả cánh đồng. Nước từ vòi

bơm tuôn ra trắng xoá. Bên cạnh đó, có những bà má đang tát nước

gàu giai xì xụp.

Qua khỏi cánh đồng, chúng tôi bước vào một vườn dừa rợp

bóng. Chỉ vào những thân dừa bị phình to ở đoạn gần ngọn, Việt

giải thích:

- Bọn địch rải chất độc hoá học, dừa trụi cả lá, nhưng rồi nó vẫn

vươn lên xanh mượt như thách thức với quân giặc.

Tại thôn CK này, địch dùng mọi thủ đoạn tàn bạo: rải chất độc,

chụp bom pháo, đốt nhà, tàn sát điển hình v.v... Nhưng chúng vẫn

không thực hiện được chương trình "bình định" của chúng. Người

dân CK đồng tâm ghì chặt từng gốc dừa, đào hầm nuôi cán bộ, đóng

góp quỹ đảm phụ kháng chiến và nổi dậy đấu tranh buộc địch phải

bỏ đồn bốt tháo chạy. Sau khi buộc phải rút khỏi PN, địch lại xua

một đại đội Bảo an xuống CK, cố sống, cố chết dựng lại trên nền

đồn hoang tàn này những lô cốt, rào kẽm gai... Nhưng chúng đã bị

đòn phủ đầu choáng váng. Ngay tối hôm đó, du kích luồn vào đồn,

nổ súng diệt nhiều tên. Bên ngoài, đồng bào nổi trống mõ, thanh la

rầm trời, làm cho bọn địch bạt vía, kinh hồn. Chúng ẩn vào xóm...

Đồng bào liền gồng gánh, lùa bò ra đồng để cô lập chúng.

245

- Mấy chú muốn ở, cứ việc ở, bà con tui đi. ở chung với mấy chú,

cách mạng đánh vô, chết lây uổng mạng. Mấy chú coi đó, cách mạng

đứng kín các gốc dừa kia.

Bọn địch lấc láo nhìn về phía vườn dừa, mặt đứa nào đứa nấy

tái mét. Chiều đó, chúng chuồn thẳng. Một lần nữa, đồng bào lại

tràn lên phá tan hoang đồn giặc, xoá đi mọi dấu tích bẩn thỉu của

kẻ thù. Giờ đây, người dân CK đang ra sức xây dựng lực lượng, sẵn

sàng đánh địch phản kích và đấu tranh quyết liệt với chúng để phát

triển sản xuất. CK có một cánh đồng nằm sát BD - một vùng còn bị

địch kìm kẹp. Hồi tiến hành "bình định", bọn nguỵ quyền xã trâng

tráo tịch thu hết số ruộng mà cách mạng cấp cho nông dân đem đấu

giá. Ngày nay, tuy phải cút khỏi CK, chúng vẫn tìm mọi cách chiếm

đoạt số ruộng đó. Nhưng nhân dân quyết không để cho chúng muốn

làm gì thì làm.

Gặp chúng tôi, ông Nghi nói sôi nổi:

- Bữa nay, tui lại thắng thằng địch một trận nữa. Chỉ hai bữa

nữa là tui gieo hết lúa.

Việt hỏi:

- Ở cánh đồng BD hả bác?

Bác gật đầu, chòm râu bác rung rung:

- Ừ , ở đấy. Thanh niên trai trẻ ra tiền tuyến, tui già, tui cũng

ra tiền tuyến, thiệt đó. Anh coi, ra trước mũi súng thằng địch mà

cày ruộng cách mạng, chuyện dỡn ne? Bữa đầu tụi lính nạt nộ: "Các

ông phải làm theo phần ruộng Quốc gia quy định. Số ruộng của

mấy ông đại diện xã, ấp trưởng phải để lại, không ai được cày". Tui

trả lời: "Ruộng cách mạng cấp cho bà con tui, bà con tui cứ cày."

Anh Hạo, một nông dân ngoài 30 tuổi, nói thêm:

- Thấy bà con tui cứ cày tràn lan, không kể ruộng của ấp

trưởng, ấp phó nào hết, bọn nó liền xua quân bắt đồng bào vô đồn.

246

Bà con liền đấu tranh: "Các ông chạy tuốt luốt lên quận ăn hút, có

ông nào làm việc cho dân đâu mà đòi hưởng ruộng. Lúc nào các ông

về "bảo vệ an ninh" cho dân thì chúng tôi giao liền ruộng cho mấy

ông cày. "

Để khỏi mất công, mất việc, bà con tổ chức vòng đổi công, vừa

đấu tranh vừa sản xuất. Bọn địch đành chịu thua. Đồng bào tiếp

tục cày cấy.

Đồng bào hăng hái đóng góp tiền bạc, lương thực phục vụ

kháng chiến. Đóng góp đến đâu, chuyển đi đến đấy. Chỉ trong ba

hôm, bà con đóng góp và chuyển đi 10 tấn gạo.

Tới khuya, chúng tôi mới rời thôn CK. Trên các sân nhà, ánh

đèn vẫn sáng tỏ, soi rõ khuôn mặt những cô gái đang cần mẫn xay

giã. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại gặp những cô gái gánh những bao

gạo hối hả đến kho.

Màn đêm đang dần dần tan đi. Xã L đứng trước buổi bình minh

rào rạt ánh hồng. Nhưng bình minh mới chỉ là sự bắt đầu của một

ngày bận rộn với biết bao công việc cần phải giải quyết. Trên cánh

đồng CK, bà con đang nhộn nhịp gánh phân, cày bừa, gieo giống. Chú

bò con nhởn nhơ gặp cỏ trên đồng, thỉnh thoảng ngửa mặt rống lên

một tiếng trầm ấm vang khắp cánh đồng, chừng như muốn át đi tiếng

súng liên thanh đang ré lên từ phía CT. Trên đường, anh em du kích

đang vác súng tiến về ấp, lên phòng tuyến chặn địch. Họ đều rất trẻ,

có người mới cầm súng cách đây ít tuần lễ. Đôi mắt họ sáng long lanh

trong ánh nắng buổi sớm, chứa chan niềm tin tất thắng.

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội ngày 1/11/1971

Con yêu dấu của bố mẹ!

Nhân dịp thuận lợi, bố vội tranh thủ biên thư thăm con. Tuy

lâu không nhận được thư của con, bố vẫn năng liên hệ với chỗ chị

247

Sáu nên cũng thường xuyên được tin con vẫn mạnh khoẻ, công tác

tiến bộ.

Chắc con cũng được tin về trận lụt vừa qua ở ngoài này. Dù

trận lụt lớn chưa từng có, song dưới sự chăm sóc của Đảng và Chính

phủ, nhân dân ta ở ngoài này đang mau chóng khắc phục hậu quả

do nạn lụt gây ra, đồng thời tranh thủ và sử dụng tốt viện trợ của

các nước bạn. Gia đình ta bình yên, mạnh khoẻ.

Bố mới được tin trong đó có bão lớn gây nhiều thiệt hại cho

nhân dân Trung bộ, kèm theo sự khủng bố dồn dân của giặc Mỹ,

Thiệu. Bố đau xót với cái đau khổ của nhân dân trong đó, đồng thời

nghĩ đến con, đứa con tiếp tục sự nghiệp cách mạng của bố. Chỗ con

ở chắc cũng bị ảnh hưởng của trận bão lớn. Thiệt hại có nhiều

không con? Bố cũng thấy lo cho con và các bạn, song bố tin ở tinh

thần cảnh giác, kinh nghiệm đấu tranh của con và của các bạn,

những cán bộ đã được rèn luyện trong đấu tranh chống địch, chống

thiên tai.

Ở ngoài này, sinh viên các trường Đại học đang về các nơi bị

lụt, tham gia lao động, khắc phục mọi hậu quả do lụt gây ra. Khó

khăn có nhiều, nhưng đời sống được ổn định. Giá các hàng tiêu

dùng được hạ dần, đời sống cán bộ viên chức ngày được nâng cao.

Bây giờ bố nói chuyện gia đình ta để con rõ. Cái mới nhất là em

Việt đã đi bộ đội. Em tòng quân với tinh thần hồn nhiên, phấn khởi.

Em vào đơn vị Công an vũ trang và đang học tập ở một địa điểm

gần Hà Nội. Em mới viết thư về, rất vui vẻ, an tâm, phấn khởi,

khoẻ mạnh.

Em Phúc ở Liên Xô cũng mới biên thư về, em vẫn mạnh khoẻ,

còn thực tập một năm nữa thì xong. Em thực tập về ngành điện ở

một tỉnh xa xôi, cách Mạc tư khoa hàng nghìn cây số.

Anh Đức từ khi tốt nghiệp ở CHDC Đức về vẫn công tác ở Uỷ

ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước ở Hà Nội. Anh vẫn khoẻ mạnh và

đang thu xếp cưới vợ.

248

Em Ngọc vẫn học lớp phổ thông chuyên ngoại ngữ của Trường

Đại học Sư phạm ngoại ngữ Hà Nội. Em học lớp 10 và học tiếng

Anh. Tổng kết năm học lớp 9 vừa qua, em đạt kết quả là học sinh

tiên tiến, đoàn viên tiên tiến, ngoại ngữ tiên tiến. Em là một trong

2 học sinh giỏi tiếng Anh của lớp.

Em Diệp đang học lớp 8 trường Trưng Vương Đống Đa, nơi con

học PT3 trước kia. Em học khá, nhanh nhẹn, thông minh, năm vừa

qua đỗ lớp 7 vào loại khá, được miễn thi vào lớp 8.

Em Lan năm nay học lớp 5. Em chóng lớn, khoẻ mạnh, theo bố

nhận xét, trong số 8 anh em, Lan là thông minh nhất, học giỏi toàn

diện, nhất là văn và toán, mà không mất nhiều thời gian học. Đi

học về, ăn cơm xong, lại lấy bèo nuôi lợn, nấu cơm, đi chợ, rất đảm

đang.

Năm ngoái thì Diệp giúp mẹ, đảm đang công việc gia đình.

Năm nay Diệp đi học xa, Lan thay chị giúp mẹ mọi việc.

Còn em Thuỷ vẫn gầy còm, ngoan, hiền, năm ngoái học yếu,

suýt bị lưu ban. Gia đình động viên, cho em học thêm dịp hè, năm

nay đã lên lớp 4, và từ học sinh yếu đã vươn lên học sinh tiên tiến.

Thuỷ cũng đã tham gia nấu cơm, giúp đỡ mẹ.

Mẹ con vẫn công tác ở Trường như cũ. Ngoài công tác chuyên

môn và làm tốt nhiệm vụ của một đảng viên, mẹ con quán xuyến

mọi công việc trong gia đình, lại chăm sóc thêm vườn rau và nuôi 2

con lợn (một con gần 40kg, một con trên 20kg), nên thường xuyên

bận rộn.

Bố lên công tác ở Bộ Đại học đã hơn một năm, phụ trách công

tác ngoại ngữ của toàn ngành Đại học. Với tuổi đã luống, công tác

của bố hiện nay rất thích hợp, có điều kiện vận dụng kinh nghiệm

10 năm lãnh đạo trường Ngoại ngữ để giúp Bộ lãnh đạo ngoại ngữ

cho ngành. Bố được thảnh thơi hơn trước, đi sâu vào nghiệp vụ, đỡ

ốm yếu hơn truớc, ngoài ra lương và phụ cấp được tăng thêm, nên

tuy tuổi nhiều hơn, song thể lực và tinh thần khá hơn trước.

249

Ngày thường, bố, anh Đức và em Ngọc đều ở Hà Nội, ở nhà

(trường Đại học Ngoại ngữ).

Con ở trong đó công tác và sinh hoạt thế nào? Bố tin rằng con

công tác tốt, nhất là lại là một đảng viên trẻ tuổi.

Từ khi anh Phò đưa thư và quà của con ra đến nay, bố mẹ chưa

nhận được thêm thư nào của con cả. Mẹ con hàng ngày nhắc đến

con. Các em con cũng thường hỏi thăm tin anh Long của chúng nó.

Chúng nó thương anh Long của chúng nó sống trong gian khổ khó

khăn, song tự hào có người anh đang tham gia tiến hành cách mạng

ở tiền tuyến. Có lần em Lan nói anh Long của nó sống cuộc sống sôi

nổi và đầy ý nghĩa.

Cô Chung, chú Phương, các em Tiến, Quang, Chiêu, Cụ, các bà,

cô cậu Hiếu và các em trên nhà vẫn được bình yên, mạnh khoẻ.

Mọi người mong tin con, và mong ngày gặp mặt, sum họp gia

đình đông đủ trong không khí chiến thắng của toàn dân.

Chúc con mạnh khoẻ, đạt nhiều kết quả trong công tác.

Bố của con

Phạm Đức Hoá

Vụ các trường đại học

Bộ Đại học và THCN

TB: Con liên lạc với gia đình vẫn ở địa chỉ cũ, chỗ ở của gia

đình: Trường Đại học Ngoại ngữ -Thanh Xuân - Hà nội.

TIN ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT

Ngày 26/11 /1971

xã Y (bình định) nổi dậy

(Bài của Việt Long, phóng viên Thông tấn xã Giải phóng tại Bình Định)

250

Hà Nội (26-11 -71 VNTTX)

"Tình hình Bình Định từ 3 năm nay vẫn là một chiến luỹ của

Cộng sản (chỉ Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam)

bây giờ tình hình ở tỉnh này vẫn tồi tệ như bất cứ lúc nào trước đây.

Nó được xếp hàng thứ 44 trong số 44 tỉnh (của Miền Nam Việt Nam)

đứng về mức độ "bình định" mà nói.

Sự kém cỏi của chính quyền và quân đội địa phương (nguỵ)

khiến cho các đơn vị Việt Cộng tha hồ tung hoành ở nông thôn đầy

rẫy những người có cảm tình với Cộng sản".

(Báo Mỹ Diễn đàn thông tin quốc tế, số ra ngày 18 và 19-9-1971).

* * *

Đồn giặc co rúm lại trước sức đấu tranh, vây ép của đồng bào

xã Y (tỉnh Bình Định). Những phát súng bắn tỉa ác hiểm của du

kích, những đợt đấu tranh quyết liệt của nhân dân chẳng khác nào

những trận bão biển dữ dội tràn vào đồn. Bọn địch vô cùng khiếp sợ

trước những bước chân rầm rập của hàng ngàn người nổi dậy vây

đồn. Từ các hướng, đồng bào mang theo gậy, dây, mõ tiến thẳng vào

đồn địch. Bọn địch hoảng hốt bắn vãi đạn ra phía trước, nhưng

không thể nào ngăn chặn được đoàn người đã vùng lên, cương quyết

đấu tranh chống lại mọi sự đàn áp, khủng bố của địch. Từ trong các

cánh quân, không một ai chùn bước, đồng bào vẫn lao lên, hô lớn:

- Không được bắn bừa bãi!

Các cánh quân như những dòng sông lớn cuồn cuộn đổ về một

biển.

Những tràng pháo từ xa câu đến nổ chát chúa, những quả mù

cay từ trong đồn phóng ra tới tấp, tung khói lên mù mịt. Những cơn

gió nam thổi thốc từng hồi lùa hơi cay vào đoàn người, khiến ai nấy

nghẹt thở. Mọi người vội lấy khăn ướt ra, bịt chặt miệng, mũi, băng

mình chạy qua những đám khói bụi, vượt lên đầu gió. Các cánh

251

quân nhập lại thành một khối trên bãi cát trước cửa đồn, bừng

bừng khí thế.

Giữa lúc ấy, trên trời có hai chiếc máy bay bay tới. Chiếc trực

thăng phành phạch bay tít trên cao, chiếc tàu rà hai thân nhào lên,

liệng xuống, quần đảo vòng quanh, quăng mù cay tới tấp xuống

đoàn quân đấu tranh. Đồng bào vẫn giữ vững đội ngũ, không một ai

nhúc nhích. Bất lực trước khí thế nhân dân, hai chiếc máy bay

chuồn thẳng.

Ba giờ chiều, tên trung uý Trưởng đồn mới chui ra khỏi lô cốt,

nói chõ xuống:

- Giờ tôi xin trả lời đồng bào.

Đồng bào la:

- Xuống gần đây, ở đó xa quá, bà con không nghe thấy!

Nó mở một lớp rào lách ra. Một tên lính, lăm lăm khẩu súng

AR15, bước theo nó.

- Không được, còn xa quá!

Tên trung uý đành mở thêm 3 lớp rào nữa, rồi đứng trước lớp

rào thứ 5.

Chị Hai tấn công:

- Đến bây giờ mà lính các ông vẫn còn có thái độ xấu với bà con

chúng tôi. Các ông chặn đường, cấm biển, bắn bừa bãi vô xóm làm

chết người, sập nhà. Vậy các ông bảo vệ đồng bào ở chỗ nào?

Tên trung tuý lúng túng chống chế và yêu cầu đồng bào trở về.

Chị Hai nghiêm giọng:

252

- Chúng tôi tới đây là thực hiện mệnh lệnh khởi nghĩa của cách

mạng, buộc các ông phải bỏ đồn này đi. Nếu các ông không đi, cách

mạng sẽ về đánh, lúc ấy chớ có trách đồng bào.

Tên trung uý lải nhải:

- Chúng tôi sẽ đi thôi, chớ không ưng gì ở cái đồi này. Đồi này

toàn sỏi với cát, báu lắm sao mà các bà đòi miết?

Chị Hai nói dứt khoát:

- Gò này chỉ sỏi với cát, nhưng là gò của nhân dân, các ông

không có quyền chiếm giữ. Bởi vậy các ông phải rút lui, trả đất xã Y

cho người xã Y.

Tên trung uý phân trần:

- Chúng tôi không thiết gì ở đây, nhưng khi nào có lệnh trên,

chúng tôi mới rút được. Nếu chúng tôi tự động đi, chỉ huy chúng tôi

sẽ bắt bỏ tù hoặc đưa đi Căm - bốt!

Anh Năm hỏi nó:

- Các anh còn ở đây, chắc cách mạng không tha đâu. Vừa rồi

cách mạng đánh vô cầu H, giết chết 30 tên Mỹ, các anh nghĩ sao?

Tên trung uý đáp:

- Mỹ người khác máu, Mỹ chết thây cha Mỹ.

Đồng bào liền nhao nhao:

- Hoan hô trung uý đồng tình với đồng bào!

- Đả đảo đế quốc Mỹ!

Tên trung uý và tên lính đứng trơ mặt ra trước những lời hô

vang như sấm dậy. Anh Năm liền dấn tới:

253

- Đồng bào có đem theo một số truyền đơn, đề nghị các anh

nhận.

Không đợi cho tên trung uý trả lời, khẩu hiệu dồn đến tới tấp.

Tên trung uý đưa cả 2 tay ra đón. Một chục, rồi một trăm, hai trăm,

năm bảy trăm...

Ôm cả một ôm truyền đơn khẩu hiệu, tên trung uý nói:

- Thưa đồng bào, anh em chúng tôi nhận truyền đơn, khẩu hiệu

rồi, mốt sẽ trả lời đồng bào. Bây giờ yêu cầu đồng bào trở về để

chúng tôi suy nghĩ thêm.

Cụ Bảy đáp:

- Được, vậy bà con về, mốt lại lên nghe trung uý trả lời.

Khi đoàn người đã toả về các xóm ngõ, binh lính đồn X mới thở

phào nhẹ nhõm. Suốt bốn ngày nay bị vây riết trong đồn, không có

cơm ăn, nước uống, chúng mệt mỏi, bơ phờ. Nghe tiếng trực thăng

lại gần, chúng ùa cả ra sân chờ đợi. Chiếc máy bay lượn vòng quanh

đồn, đứng lại giữa sân, thả xuống hai thùng nước.

Cả năm, sáu mươi thằng xô nhau chạy tới, múc nước uống ừng

ực. Chỉ một loáng, hai thùng nước cạn khô. Chưa đã khát, đợi đồng

bào về hết, chúng ùa xuống xóm nhà gần đấy vục gáo vào các chum

nước uống lấy uống để.

Ngày thứ 5 và thứ 6 của cuộc đấu tranh, theo kế hoạch, chỉ có

một số cụ già lên đồn giục bọn chỉ huy đồn trả lời theo như tên

trung uý đã hứa. Tên trung uý đề nghị gặp đại biểu cách mạng để

thương lượng.

Và cuộc thương lượng diễn ra ở một căn nhà lá đơn sơ nằm gần

đồn X.

Anh Ba, đại biểu chính quyền xã Y, đã chờ sẵn, bắt tay hắn,

mời hắn ngồi xuống chiếc ghế ngựa kê ngay ngắn giữa nhà.

254

Anh Ba đi thẳng vào vấn đề. Sau khi nêu rõ những thắng lợi to

lớn của cách mạng ở đường 9 Nam Lào, ở toàn miền Nam và ngay

tại địa phương, anh Ba nói:

- Chúng tôi tới đây nhằm thực hiện chính sách nhân đạo của

Mặt trận. Biết các bạn là người có suy nghĩ, chúng tôi bàn với các

bạn mấy vấn đề sau đây. Một là các bạn liên hiệp hành động với

cách mạng, quay súng diệt ác ôn, chúng tôi sẽ giúp đỡ, cách mạng

sẽ khen thưởng cho đơn vị, cá nhân có thành tích. Hai là các bạn

đầu hàng, các bạn sẽ được hưởng chính sách khoan hồng của Mặt

trận. Ba là các bạn rút đi, giao đồn X cho nhân dân xã Y, cách mạng

sẽ ra lệnh cho các lực lượng vũ trang không tấn công vào các bạn,

nhân dân sẽ giúp đỡ các bạn rút đi an toàn.

Tên trung uý suy nghĩ và nói:

- Chúng tôi sẽ rút khỏi nơi này. Nhưng thời gian rút do chúng

tôi quyết định.

Anh Ba nhấn mạnh:

- Các anh nên nhớ, những yêu cầu trên là mệnh lệnh khởi

nghĩa. Đã là mệnh lệnh thì phải thực hiện cấp bách. Các anh phải

rút khỏi đồn này ngay.

Tên trung uý khăng khăng:

- Thời gian do chúng tôi định đoạt, không thể thực hiện cấp

bách được.

Anh Ba mỉm cười :

- Các anh định kéo dài thời gian, hòng chờ quân tiếp viện? Tôi

cho các anh rõ: Tất cả các con đường từ đồn này đi các đồn lân cận

đều bị du kích cắt đứt. Mặt khác, những đồn đó cũng đang bị nhân

dân vây ép. Chúng tôi cũng đã bố trí sẵn thế trận bẻ gẫy chiến

thuật trực thăng vận của các anh. Các anh càng kéo dài thời gian,

càng nguy hiểm.

255

Tên trung uý ngồi câm lặng, mặt thừ ra. Lát sau nó mới nói:

- Chúng tôi sẽ rút, nhưng sẽ có đại đội khác đến thay, chứ

không bỏ đồn này đâu.

Anh Ba đứng dậy:

- Được, trách nhiệm của anh là phải rút đi nơi khác, các anh cứ

rút. Còn đại đội nào đến, chúng tôi sẽ có cách xử sự thích đáng.

* * *

Ba ngày tiếp theo, đồng bào xã Y lại kéo lên vây ép đồn X, lần

này đồng bào tổ chức cả đội quân hậu cần lo cơm nước cho những

người đấu tranh. Bà con ăn, ngủ ngay trên bãi cát trước cửa đồn.

Ngày, bà con hô khẩu hiệu, nêu yêu sách. Đêm, bà con lại ca hát

binh vận. Trong khi đó, du kích liên tục bắn tỉa, diệt nhiều tên. Đồn

X căng thẳng, ngột ngạt. Quan thầy chúng vội vàng cho đổ xuống

xã Y một tiểu đoàn "Cộng hoà" hòng hà hơi cho chúng. Nghe tiếng

trực thăng rầm rĩ trên bầu trời, bọn lính trong đồn chen nhau thò

cổ ra khỏi lô cốt, ngóng đợi. Mấy chiếc HU1A định xà xuống quả đồi

N liền bị những luồng đạn rất căng của du kích hất ngược lên. Một

chiếc trúng đạn rơi cắm đầu xuống chân quả đồi. Những chiếc khác

chuồn thẳng. Bọn bộ binh từ chân đồi tràn lên cũng bị du kích xã Y,

bộ đội địa phương huyện K đánh cho tơi tả. Hơn chục thằng ngã gục

tại chỗ. Số còn lại vội ôm đầu tháo chạy. Những con mắt trong đồn

X xụp xuống. Qua điện đài, ban chỉ huy đồn X rên rỉ với cấp trên

của chúng: "Suốt 9 ngày nay chúng tôi đói cơm, khát nước, căng

thẳng. Chúng tôi không chịu nổi nữa!". Thấy binh sĩ đồn X đã

hoang mang đến cực độ, bọn chỉ huy của chúng đành phải cho máy

bay lên thẳng tới chở chúng đi và thay vào đó một đại đội Bảo an

khác. Hòng trấn áp quần chúng, ngay từ đầu đại đội này đã tỏ ra

hung hăng, tàn bạo. Chúng bắn cối bừa bãi ra những vùng xung

quanh.

Bà cụ N lượm một rổ mảnh đạn, mang lên đồn hỏi:

256

- Các ông bắn vô xóm, chết bà con tui thì sao? Các ông không

nên bắn như vậy nữa!

Tên trung uý sừng sộ:

- Bà đem về đi. Bà mà đấu tranh, tôi đánh bà dập mình. Đại

đội tôi không như đại đội trước đâu!

Thái độ hung hăng đó của địch không làm cho người xã Y chùn

bước. Du kích xã, thôn tập trung lại đào công sự sát đồn, bắn tỉa liên

tục làm bọn địch vô cùng căng thẳng. Chúng không dám ra khỏi lô cốt.

Càng hoảng sợ, chúng càng điên cuồng bắn như vãi đạn ra chặn đội

quân đấu tranh lại. Tình thế trở nên giằng co quyết liệt. Qua một

ngày, đồng bào họp rút kinh nghiệm, bàn biện pháp sắp tới.

Đêm ấy, du kích thôn, xã và những người tích cực nhất trong

đội quân đấu tranh họp nhau ở thôn P. Trong ánh đèn dầu, bà con

đứng nghiêm trang ôn lại những ngày giặc gây đau thương, tang tóc

trên quê hương và truyền thống đấu tranh bất khuất của người dân

xã Y. Khi tiến hành "bình định cấp tốc", hàng trăm tên Mỹ nguỵ

tràn vào các thôn H, T, P kéo từng người dân vào khu tập trung.

Nhưng không một ai chịu rời khỏi mảnh đất mà mình đã sinh sống

bấy lâu. Điển hình như bà Sáu dù bị địch đánh đập, gài mìn trên

mái nhà doạ bấm nổ, vẫn không chịu ra khỏi nhà. Giờ đây, ngôi nhà

ấy vẫn nằm ngạo nghễ ngay bên đường cái lớn, mang tư thế hiên

ngang của người xã Y. Tội ác của địch còn hằn sâu trên từng thân

dừa, chòm dương, trên cơ thể mỗi người dân xã Y.

Hai vợ chồng anh T bị pháo Mỹ bắn chết, người con lớn của anh

cũng bị Mỹ giết. Ba con thơ của anh phải chịu cảnh mồ côi nheo

nhóc. Lòng người nén lại, đau xót. Ai nấy nhìn lên chiếc khăn tang

lớn treo phía trước hứa hẹn :"Quyết tâm trả thù, quyết tâm diệt

chốt". Từng du kích lên nhận những mảnh khăn tang trắng, nhận

trách nhiệm của đồng bào giao: vây ép, bắn tỉa liên tục, không kể

đêm ngày, mưa nắng.

Ngay sau đêm phát động căm thù, du kích xã, thôn khoác súng

lên đồi cao ép địch. Đồng bào các thôn cũng sẵn sàng đội ngũ, chuẩn

257

bị kế hoạch tiến công mới. Đồn X vẫn dương những họng súng đen

ngòm ra sẵn sàng nhả đạn vào những ai dám tới gần. Tụi lính núp

mình sau những công sự, dương những cặp mắt diều hâu soi mói

nhìn vào xóm A, một xóm nằm cách đồn chưa đầy 10 mét. Một

thằng lính bỗng hoảng hốt thét lớn:

- Cháy nhà bay ơi!

Từ xóm A, tiếng la cũng rộn lên:

- Cháy nhà, cháy nhà bà con ơi!

Ngọn lửa phụt lên từ nhà chị Tám mỗi lúc một bốc cao. Đồng

bào cầm dao, mác chạy rầm rập lên gò.

Trong phút chốc, hàng trăm người đã áp sát đồn. Bà con vừa la,

vừa hốt rơm bỏ vào nhà cho ngọn lửa bùng lên hừng hực.

- Cháy nhà bà con ơi!

Tiếng báo động vang xa, vọng tới các thôn phía tây. Lập tức,

gần 2.000 người trong các thôn đó vác giáo mác, gậy gộc ùa ra

đường, tràn lên gò X. Bọn lính đóng cửa đồn, bất lực nhìn đoàn

người tràn tới như triều dâng thác đổ. Bà cụ Chín lao tới trước lô

cốt, vác gậy đập vào hàng rào, la:

- Quân đội nào quân đội ơi, Quốc gia ơi Quốc gia, tại sao đốt

nhà của cháu tui? Mấy ông bảo vệ cho dân ở chỗ nào, tại sao thấy

nhà dân cháy mà ngồi đó ngó xuống.

Một thằng lính đáp:

- Mấy bà tràn vô như nước lụt vậy, ai mà dám xuống, cộng sản

lồng vô trong, lũ tui xuống lỡ họ bắt thì sao?

Thằng khác tiếp:

258

- Tôi biết, dân chúng xã Y này dữ lắm. Đương không mà đốt

nhà để đấu tranh, miệng thì la, tay thì hốt rác bỏ vô, lúc này còn

giỏi nói.

Đồng bào gặng lại:

- Bây giờ ai làm cháy nhà chưa biết, nhưng các ông đóng ở đồn

này, bảo vệ xã này mà để nhà cháy thì các ông phải bồi thường !

Tới 2 giờ chiều, tên trung uý ra nói:

- Bữa nay cộng sản bắn tỉa miết, hai bên bắn lộn nhau chưa

biết đạn bên nào làm cháy nhà. Tôi hứa ít bữa nữa sẽ cho lính vô

xóm cất lại nhà cho đồng bào. Bà con về đi!

- Không! chúng tôi không về. Các ông ở đây đốt phá, đánh đập,

bắn giết đồng bào, các ông hung dữ như cá mập, chúng tôi không

chứa chấp các ông được. Các ông rút bỏ đồn này đi!

Đồng bào trả lời vậy và ngồi vây lấy đồn. Suốt mấy ngày sau

đó, mặc trời mưa bão làm nhà sập, thuyền trôi, lưới mất, bà con vẫn

trụ lại trước cửa đồn. Qua 3 ngày mưa tầm tã, đêm nay trời quang

mây tạnh. ánh trăng non rọi xuống đoàn người đang ngồi trên bãi

cát vây đồn. Cô Mười đứng dậy nói:

- Giờ bà con mình ca này!

Đồng bào vỗ tay:

- Phải đó, ca hát lên đi.

Giọng Mười vút lên giữa không gian thanh trong:

- Về đi anh, về đi anh lính nguỵ quyền ơi!

Sau tiếng ngân dài tha thiết, giọng Mười trầm xuống, ấm áp

mà oán trách:

259

- Anh không thương xót đồng bào.

Giết người cùng giọt máu đào như anh.

Tội chi khoai sắn đang xanh

Anh đi càn quét tan tành xác xơ .

Bọn lính lấp ló sau các lô cốt, rồi bò dần ra chiếc lô cốt ngoài

cùng, ngồi vòng tay im lặng nghe.

Giọng Mười vẫn vang lên, giục giã, tha thiết:

- Súng thù quay lại đi anh.

Bắn quân cướp nước cứu mình anh ơi.

Mười dứt lời ca. Không gian lặng đi, gieo vào lòng những binh

sĩ nguỵ bao nỗi day dứt. Sóng biển vẫn xô bờ rào rạt như mang dư

âm của lời ca "về đi anh, về đi anh lính nguỵ quyền ơi". Tiếp theo

Mười, nhiều cô gái đứng lên hô bài chòi, hát những bài ca tố cáo tội

ác của giặc Mỹ và tay sai, ca ngợi tinh thần đấu tranh bất khuất

của đồng bào và phụ nữ miền Nam. Tới những đoạn căm thù, đồng

bào đồng thanh hô "đả đảo". Tới những đoạn nêu gương đấu tranh,

đồng bào hô "hoan nghênh" vang trời. Đồng bào vừa hát hò, vừa hô

khẩu hiệu, không để ý tới hàng bầy muỗi đói đang ùa vào hút máu

mình. Tới 11 giờ khuya, bà con đứng dậy ra về. Tụi lính hỏi vọng ra:

- Sao không hát nữa?

- Mỏi rồi, về đi ngủ, để bộ đội vào nói chuyện với các ông.

Trong phút chốc, đoàn người toả về hết các xóm. Bà con về nhà,

đứng tựa cửa nhìn về phía đồn X trông đợi. ở đó, bọn địch hoảng sợ

rọi đèn pin loang loáng, bắn đại liên loạn xạ. Bỗng nhiên, một tiếng

nổ vang lên, một luồng lửa xanh lè lao vút vào giữa đồn X, rồi

những tiếng nổ khác rộ lên theo hoà với tiếng sóng biển ì ầm, khiến

260

không gian rung chuyển. Những tia chớp, khói lửa liên tiếp bùng

lên giữa khu đồn địch.

Buổi sáng, không gian trở lại yên tĩnh. Từ trên đồi N, đơn vị bộ

đội địa phương huyện đã sẵn sàng bên những khẩu súng phòng

không. Anh em mở máy PRC.25 nghe bọn địch trong đồn la lối:

- A-lô, a-lô, hồi hôm cộng sản tiến công, chúng tôi chết 2, bị

thương 4. Đề nghị cho trực thăng tới gấp!

Im lặng một lúc, bỗng trong máy ré lên tiếng một thằng nguỵ

kêu khóc:

- Trời ơi, cái cẳng tôi gãy rồi, đau quá, cứu tôi với!

Lát sau, có tiếng động cơ phành phạch bay đến. Trong máy

vọng ra tiếng một thằng nguỵ:

- Chỉ chở một con thôi, chở một con thôi!

Chiếc trực thăng vè vè hạ xuống giữa sân đồn. Bỗng "tằng tằng

tằng ..." - một loạt thượng liên nổ ròn rã, khiến chiếc máy bay giật

mình vọt lên cao. Nó đảo một vòng rồi hạ xuống. Bọn trong đồn bắn

đại liên loạn xạ ra mấy ngọn đồi xung quanh để yểm trợ chiếc máy

bay, nhưng nó vẫn không dám xuống thấp. Sau đó, bọn trong đồn

phải khiêng tên lính bị thương ra mé biển, lợi dụng ngọn đồi che

khuất chắn đạn cho chiếc máy bay hạ xuống chở nó đi.

Ngày và đêm hôm sau, cuộc đấu tranh vẫn tiếp diễn. Hoảng sợ

đến cao độ, bọn địch dùng tiếng súng để tự trấn an tinh thần.

Chúng bắn cối, đại liên, AR15... ra khắp xung quanh. Một quả cối

nổ giữa thôn H, giết chết chị K. Lập tức, toàn thôn nổi trống mõ báo

động.

- Lính bắn chết đồng bào, bà con ơi. Khiêng xác chết lên đồn.

Tiếng hò la dậy đất. Ai nấy quơ vội rựa, khiêng xác chị K lao

lên gò. Địch đóng chặt cửa đồn không dám xuống. Đồng bào liền

261

đứng tại đó, lấy thùng thiếc, thùng phi gõ hiệu lệnh báo động. Từ

trên đồi cao, tiếng kim khí bị đập mạnh rung lên, vang tới khắp các

thôn, kêu gọi bà con tới hợp sức đấu tranh. Địch hoảng sợ chạy tán

loạn trong đồn. Khi ánh bình minh vừa dâng lên, hàng nghìn người

đã tràn tới vây kín đồn X. Tiếng súng bắn tỉa của du kích nổ ròn rã,

cổ vũ đoàn người xốc tới. Tiếng hô của hàng ngàn người vang vang

như sấm dậy:

- Đả đảo bọn giết người!

- Xuống đây giải quyết mau, nếu không sẽ dỡ rào!

Bọn lính rúc vào lô cốt, nói vọng ra:

- Thôi, đừng đánh báo động nữa, để tụi tôi xuống.

Chị Hai nói lớn:

- Tại sao các ông nói đại đội trước đánh chết đồng bào, mấy ông

không ác như vậy, mấy ông bảo vệ đồng bào. Vậy đứa nào giết chị

K. Trung uý phải xuống đây giải quyết. Phải đưa thằng nào bắn

súng ra cho nhân dân hỏi tội.

Chồng chị K dứ dứ cây rựa:

- Bay ỉ súng, giết người. Bay thử bỏ súng xuống đây, một mình

tao cũng đập bể sọ 3 thằng!

Một thằng lính ra nói:

- Thôi, để tụi tôi đền cho 2 tạ gạo!

Đồng bào bừng bừng căm giận:

- Đả đảo! Đổ số gạo ấy đi, gạo phi nghĩa, gạo giết người.

Địch chui vào lô cốt, làm thinh.

262

Lát sau, lại một thằng ra nói:

- Để đền 3 tạ vậy!

Mấy thằng nữa ra theo nó, nói xoa dịu đồng bào. Số còn lại

cuống cuồng thu dọn đồ đạc chuẩn bị tẩu thoát. Hai giờ chiều, nắng

chói chang chiếu xuống đoàn người đang hừng hực khí thế đấu

tranh. Tên trung uý dẫn 2 tốp lính dỡ rào phía sau đồn, lén đi

xuống chân đồi gò, theo bãi cát chạy thẳng xuống phía xã T. Vì

vướng quả đồi, đồng bào không nhìn thấy cảnh rút chạy thảm hại

đó. Lát sau, một chị phụ nữ từ thôn T xách rựa chạy đến hô hoán:

- Chúng rút chạy rồi, chặn lấy chúng bà con ơi!

Dòng thác người ào ào cuốn theo. Chúng hoảng sợ liệng lựu đạn

rầm rầm phía trước đoàn người và chạy bán sống bán chết...

Gò X đã sạch bóng giặc. Trong đồn còn lại ngổn ngang thùng

đạn, ba lô, gạo... Đồng bào, du kích tràn vào gỡ lựu đạn, phá rào,

phá lô cốt, thu chiến lợi phẩm, nhộn nhịp như đi trẩy hội. Người xã

Y sẽ ghi nhớ mãi ngày 1-5-1971 , ngày mà với ba mũi giáp công, họ

đã tống cổ đại đội Bảo an cuối cùng ra khỏi đồn X. Giải phóng hoàn

toàn quê hương./.

Xã X (Bình định) thắng địch trên ba mặt trận

Hà Nội (VNTTX 28-11 -71 )

- "Nhân dân Bình Định hiện nay rõ ràng đã không tuân theo

những ve vãn về vật chất của Sài Gòn và không khuất phục sức

mạnh ồ ạt mà đồng minh đã đưa tới đây từ năm 1965... Bình Định

là tỉnh cứng đầu cứng cổ nhất ở Nam Việt Nam và thậm chí sau 6

năm cố gắng của đồng minh, tình hình "bình định" ở đây đang thụt

lùi... 900.000 dân tỉnh Bình Định từ lâu vẫn sống với những người

cộng sản".

(UPI ngày 26-9-1971 )

* * *

263

Chật vật lắm, bọn địch mới tập trung được khoảng 40 đồng bào

hai thôn C và A tới một bãi đất để nghe chúng phổ biến về chương

trình "bình định" nông thôn. Tên quận phó quận P (Bình Định) giở

giọng lừa bịp: "Vùng này là vùng mất an ninh, bởi vậy, dân chúng

vùng này phải tập trung về sát trục lộ để Quốc gia bảo vệ và giúp

đỡ ".

Sau khi ba hoa về sự "sung sướng" của các ấp "tân sinh" sắp

lập lại tại thôn H, để ra vẻ "dân chủ", nó hỏi:

- Ai có ý kiến gì, cứ việc lên nói.

Chị B tiến lên, nhìn thẳng vào mặt tên Quận phó rồi bước lại

gần máy phóng thanh, chị nói dõng dạc:

- Trước đây "Quốc gia" đã bắt chúng tôi tập trung đi QN, chúng

tôi khổ sở đủ điều. Bị nhốt trong trại tập trung, chúng tôi không

được tự do làm ăn, cuộc sống rất cơ cực. Chúng tôi quen sống với

đồng ruộng, chúng tôi không đi đâu hết!

Chị B vừa dứt lời, các chị N, T, C... liên tiếp đứng dậy vạch trần

bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của địch. Tiếng hô "đả đảo dồn dân lập

ấp" vang lên. Những lời lẽ sắc bén của đồng bào như những cái tát

vả mạnh vào mặt bọn nguỵ quyền quận, xã. Chúng vội vàng giải

tán cuộc họp.

Lừa bịp không được, bọn địch dùng thủ đoạn đàn áp, khủng bố.

Hai tiểu đoàn chủ lực nguỵ cùng bọn ác ôn địa phương hùng hùng

hổ hổ kéo vào hai thôn A, C đốt phá, cướp của, kéo từng người đưa

lên xe chở đi.

Đồng bào xã X. kiên quyết không để hai thôn C, A trở thành

vùng trắng. Toàn xã hợp sức cùng đồng bào hai thôn trên đấu

tranh. Đồng bào thôn H nói với bọn địch:

- Mình chúng tôi ở thôn này đã chật chội lắm rồi, các ông còn

đưa họ đến đây, ở sao nổi? Nhất định chúng tôi không cho họ ở đây!

Các ông trả họ về làng cũ!

264

Số đồng bào mới bị dồn đến cũng nhất quyết không chịu dựng

nhà, lập ấp. Bà con sống tạm bợ dưới những mái nhà tăng lụp xụp,

ngày ngày đấu tranh đòi địch bồi thường tài sản, đòi trở về làng cũ,

đòi cứu chữa những người đau ốm. Trong khi đó, du kích xã luồn

vào giữa thôn H đánh hai trận liên tiếp, diệt 9 tên địch, làm cho

chúng hết sức hoang mang. Chúng phải cho đồng bào về làng cũ gặt

lúa. Mặc dầu có bọn lính đi kèm, đồng bào vẫn khéo léo vừa gặt lúa

vừa chuẩn bị điều kiện để khi trở lại làng cũ có sẵn lương thực ăn

và nuôi du kích.

Những ngày tiếp theo, du kích xã X đánh nhiều trận trên

đường cái lớn và chặn đánh một trung đội dân vệ, diệt nhiều tên,

gây rối loạn trong hang ổ địch. Bọn nguỵ quyền hoảng sợ, đêm đêm

bỏ ấp về quận lỵ ngủ.

Bọn nguỵ quân hoang mang dao động, lúc nào cũng nơm nớp lo

bị du kích đánh. Lợi dụng sơ hở của địch, một số đồng bào cắt

tranh, chặt gỗ để sẵn ở làng cũ. Mấy ngày sau, bọn Mỹ càn vùng

này, đốt hết tranh, gỗ của đồng bào. Tại khu dồn dân, mưa cũng

làm sập nhà tăng, trôi lúa gạo. Nỗi cơ cực và lòng căm hờn thúc đẩy

đồng bào đấu tranh mạnh mẽ hơn nữa. Hàng trăm người hợp thành

đội ngũ, rầm rộ bước đi trên đường lớn, kéo thẳng vào quận lỵ hô

vang các khẩu hiệu:

- Phải bồi thường nhà cửa!

- Không được đốt phá, bắn pháo bừa bãi !

- Trở về làng cũ.

Trước sức đấu tranh mạnh mẽ ấy, bọn nguỵ quyền quận đổ lỗi

cho bọn nguỵ quyền xã. Tên quận trưởng phải chấp nhận yêu sách

của đồng bào. Kế hoạch lập ấp, dồn dân của địch một lần nữa lại bị

đồng bào xã X đánh bại.

Trở về làng cũ, bà con đùm bọc nhau trong những căn trại đơn

sơ. Đời sống được ổn định. Đồng bào 3 thôn lân cận cũng góp nhiều

tranh, gỗ, tre... giúp đồng bào thôn C, A dựng nhà mới.

265

Thắng lợi trên đã tạo điều kiện cho đồng bào xã X. tấn công

mạnh mẽ hơn nữa vào quân địch. Mũi binh vận đạt được những kết

quả tốt đẹp. Đồng bào đã chỉ cho các đội viên "phòng vệ dân sự"

thấy rõ âm mưu nham hiểu của địch dùng người Việt đánh người

Việt, khuyên răn họ bỏ súng địch về làm ăn lương thiện. Một hôm,

một số đội viên "phòng vệ dân sự" thôn V cùng người nhà kéo đến

bọn nguỵ quyền xã trả súng. Bọn này không nhận súng, số "phòng

vệ dân sự" liền nói: "Các ông không nhận thì chúng tôi đem về. Nếu

cách mạng lấy súng, chúng tôi không chịu trách nhiệm". Hàng loạt

đội viên "phòng vệ dân sự" ở các thôn khác cũng trả súng. Du kích

xã lại đột nhập vào một số thôn thuộc vùng địch kìm kẹp tước vũ

khí, giáo dục các đội viên "phòng vệ dân sự" và diệt một số tên chỉ

huy ác ôn ngoan cố. Ngày càng nhiều đội viên "phòng vệ dân sự" ra

vùng giải phóng trình diện với chính quyền cách mạng, hứa không

cầm súng cho địch nữa. Cuối cùng, cả 7 trung đội "phòng vệ dân sự"

ở xã X bị phá rã. Anh em đem nộp cho chính quyền cách mạng 18

khẩu súng. 8 người xin tham gia du kích và lực lượng an ninh xã.

Cùng với việc phá rã "phòng vệ dân sự", đồng bào xã X còn vận

động được 40 lính Bảo an, Dân vệ, Cộng hoà rã ngũ.

Quân địch ngày càng tan rã, trong khi đó lực lượng cách mạng

trong xã X ngày càng phát triển vững mạnh. Đội ngũ du kích đông

gấp ba lần so với năm trước. Đêm đêm, anh em luồn vào tận các "ấp

chiến lược" diệt ác ôn, tề điệp. Anh chị em bám sát đường lớn đánh

xe, diệt bọn "bình định" giữa ban ngày. Anh em phối hợp với bộ đội

tấn công vào hàng loạt chốt điểm địch, hỗ trợ đồng bào nổi dậy. Các

đồn N,T bị bộ đội diệt gọn. Các đồn Đ,A,B,N và L bị du kích liên

tiếp tập kích. Chỉ trong ít ngày, trên 30 tên địch bỏ mạng. Khắp nơi

trong xã ròn rã tiếng súng tiến công cùng với tiếng thanh la, trống

mõ, tiếng reo hò của đồng bảo nổi dậy diệt ác ôn, phá kìm kẹp. Bọn

địch hoảng sợ chui rúc trong các lô cốt. ở G, K bọn chúng năn nỉ:

"Thôi, đồng bào đừng bao vây chúng tôi nữa, chúng tôi ở yên trong

đồn này, cách mạng muốn làm gì thì làm!". Nhưng đồng bào xã X

đã đưa tối hậu thư buộc chúng phải giao đồn bốt, trả đất đai. Ngay

trưa hôm sau, cả đại đội Bảo an bỏ đồn bốt, chạy khỏi xã X. Bọn

địch ở 6 chốt điểm khác cùng vội vàng tháo chạy. Vùng giải phóng

và vùng làm chủ mở ra nhanh chóng.

266

Không những kiên cường chiến đấu, đồng bào xã X còn hăng

hái sản xuất. Bọn địch cấm bà con làm ruộng gần sườn núi và

thường xuyên bắn pháo vào đây. Đồng bào đấu lý với bọn nguỵ

quyền xã: "Người nông dân chúng tôi sống nhờ ruộng vườn, các ông

cấm chúng tôi làm ruộng thì phải cấp cho chúng tôi ăn!". Bọn địch

đuối lý, phải để bà con tự do sản xuất. Những tổ vần công, đổi công

được duy trì. Từ những ngày khó khăn nhất tới nay, tổ đổi công đã

phát huy sức mạnh. Đồng bào đã đào hàng trăm mét mương dẫn

nước tưới cho hàng trăm mẫu ruộng. Năm nay, nhờ đủ nước, đủ

phân, năng suất lúa của xã X cao gấp đôi so với năm trước. Diện

tích khoai lang, lạc cũng tăng. Giống lúa "tứ quý" lần đầu tiên được

cấy trên đồng ruộng xã X vượt lên phơi phới, hứa hẹn một mùa trĩu

hạt./.

(Bài của Việt Long, phóng viên Thông tấn xã Giải phóng tại Bình Định).

Ngày 29/11 /1971

Chân dung người dân bình thưòng:

Anh Bảy Trương

Toán dân công gái xã Mỹ Đức mới bắt đầu bước đi thì bỗng

nghe một tiếng gọi giật giọng:

- Khoan đã!

Mấy cô đi đầu đứng sững lại, làm mấy cô đi sâu dồn lên, xoong

nồi va vào nhau lạch cạch. Anh giao vận xã lật đật chạy tới, gọi tíu

tít:

- Này, khoan hẵng đi. Để anh Bảy Trương nhập vào đoàn với!

Có những tiếng hấm hứ của mấy cô khó tính:

- Gớm, tưởng sắp lọt ổ phục kích đến nơi, ai dè...

Theo sau anh giao vận, một người đàn ông lù khù bước tới.

Trong ráng chiều nhập nhoạng, các cô gái không nhìn rõ mặt anh,

267

chỉ thấy một khối người to lớn với cái đầu vuông vuông có cột khấc

một cái khăn, hơi lúc lắc theo bước đi. Trông dáng người, các cô

đoán chắc anh cũng đứng tuổi rồi. Khi hai người đến gần, những

tiếng hấm hứ nổi lên:

- Không được đâu. Đoàn toán đủ rồi, không nhận thêm người

nữa đâu.

Kể ra, nhận thêm một người nữa vào đoàn thì cũng chẳng có gì

khó khăn. Nhưng đằng này, trong 14 đứa con gái lại lọt thỏm vào

một người đàn ông, kì cục quá. Mà lại là một người đàn ông đứng

tuổi, có vẻ ít nói nữa chứ. Kiểu đó thì đi đường có cấu chí nhau đôi

chút, ông ấy cũng la cho, chớ đừng nói đến chuyện nô dỡn.

Thấy các cô cứ ồn ào miết, anh giao vận phải vỗ hai tay vào

nhau kêu bôm bốp rồi giải thích một hơi:

- Này, các cô đừng có cục bộ nghe không. Đương không được

thêm một người như anh Bảy Trương vào đoàn, còn làm bộ làm tịch

hả? Tưởng là mình giỏi lắm đấy. Các cô nhìn kỹ ảnh coi: đi dân công

đợt một mới về lại xung phong đi đợt 2 liền, được ăn gạo Chính phủ

chứ tầm thường đâu?

Anh còn nói một thôi một hồi nữa, nào là nhà anh Bảy nghèo

mà ảnh không quản. Nếu anh Bảy không về trễ thì cần gì phải đi

cùng với mấy đứa con gái lanh chanh, nội nghe mấy tiếng nói the

thé của mấy cô cũng đủ mệt, nào là anh Bảy siêng năng, hiền lành

hiếm có... và vân vân.

Hiển nhiên là các cô gái phải chấp nhận anh Bảy vào đoàn rồi.

* * *

Tính con gái hay tò mò, nên cô nào cũng cố xem xét xem anh

Bảy Trương là người như thế nào. Chỉ sau mấy lần nghỉ dọc đường,

các cô đã bấm nhau:

- Ăn nói lảu bảu bay ạ.

268

- Ưa ngọt.

- Có vẻ thật khù nữa chớ bay!

Thực tình mà nói, xét nét như vậy kể ra cũng xấu. Nhưng được

cái cc cô coi xét là để thoả tính tò mò, chứ không có ác ý gì. Sau khi

đã rút ra được những kết luận tạm coi là chính xác ấy, các cô xoay

qua đùa bỡn nhau. Con gái vùng biển ăn sóng nói gió, cứ cười nói bô

lô ba la làm cho anh chàng du kích dẫn đường phải đứng hẳn lại,

lên đạn lách cách mà doạ:

- Muốn chết hết hả? Đoạn này địch hay phục kích, coi chừng

đó!

Các cô nín thinh được một hồi khá lâu. Mãi khi đi qua đường số

một rồi, tình hình đỡ căng, các cô mới lại rúc ra rúc rích. Đứa nào

cũng mong mau lên tới rìa núi, nghỉ một chập và đùa một chập cho

thoả. ở vùng sâu, kề bên địch, mấy khi được tụ tập mà nô dỡn? - ấy

là một lý do, ngoài lý do chính là đi phục vụ cách mạng, khiến các

cô hăng hái đi dân công.

Cả đoàn ghé vào một xóm nhỏ yên tĩnh. Các cô gái quăng nồi

xoong loảng xoảng, vứt gùi lịch bịch rồi ngồi lê la dưới sân cát. Từ

vùng Đông, thỉnh thoảng một quả đèn dù nổ bụp, treo lơ lửng giữa

bầu trời đùng đục, rọi ánh sáng vàng bủng tới tận cái sân này. Anh

Bảy Trương cẩn thận đặt cái gùi xuống sân, chẳng nói chẳng rằng,

đi ra giếng. Khi anh vừa đi khuất, mấy cô nghịch nhất bọn liền xúm

tới lục gùi anh ra coi:

- Một lon thịt hộp bay ơi! Sáu Thoại vừa la vừa lôi ra một cái

lon thịt hộp rỗng, đen thui, có cột một sợi dây điện làm quai. Bà ba

một bộ, một khố lương ông - Hí hí... là một ống lương khô, một tấm

đi mưa, lại cù cưa con rựa.

Sáu Thoại lần lượt lôi hết đồ trong gùi ra đặt la liệt trên sân.

Cứ lôi ra một thứ, con nhỏ lại hô lên như người diễn kịch.

269

Vừa lúc ấy thì anh Bảy đi vào, tay xách một gàu nước. Có lẽ

gàu bị thủng một lỗ nên nước phun ra xè xè. Anh Bảy đứng khom

khom cái lưng, quát:

- Sắp bay làm chi vậy? Hả?

Mấy cô gái chạy túa đến bao quanh anh, đon đả:

- Anh Bảy xách nước về làm chi đó.

- Anh Bảy xách nước về cho tụi em uống na...? Anh Bảy cưng lũ

em quá hề!

Rồi cả bọn xúm vào xách gầu nước trên tay anh, chuyền cho

nhau uống ừng ực. Anh Bảy ngúc ngắc đầu mấy cái, đi đến góc sân.

Anh ngồi xuống, vừa lui cui nhặt đồ đạc bị lũ nhỏ lôi ra nhét vào

gùi, vừa lẩm bẩm:

- Kì cục! Kì cục!

Vừa giành nhau uống, vừa tạt nước cho ướt mèm đầu tóc của

nhau, chỉ một loáng các cô làm gàu nước cạn khô. Lúc ấy, anh Bảy

cầm đến cái lon. Con Sáu Thoại liền sà tới, giành lấy:

- Hí! Hí, anh Bảy à, anh đem cái lon này đi làm chi mà tội vậy?

- Để nấu ăn chớ chi? Hỏi kì cục, kì cục!

- Chu cha, anh Bảy không có xoong na, tội quá hề. Anh Bảy

quăng óc nó đi, nấu cơm chung với lũ em nghen!

Chưa đợi anh Bảy trả lời, Sáu đã quăng cái lon đánh sạt vô

tuốt trong bụi.

- Anh tiếc na? Đây, thưởng anh cái xoong, nấu ăn chung nghen

anh!

270

Anh Bảy miệng lẩm bẩm: "Kì cục, kì cục", nhưng tay lại cầm

lấy cái xoong nhét vào cái bao Đại hàn xám, bỏ vào gùi. Thấy thế,

con Hường liền lôi cái ruột nghé gạo của nó lại, cười toe toét:

- Anh Bảy à, anh xung phong đi dân công đợt 2, được ăn gạo

Chính phủ cấp thiệt na? Anh không phải đem gạo nhà na? Cho em

gửi cái ruột nghé này nghen anh!

Nó thả cái ruột nghé gạo thõng thẹo xuống tay anh rồi lại cười

toe toét. Anh Bảy làu bàu:

- Phá quá, kì cục, lũ bay phá quá.

Có tiếng báo hết giờ nghỉ. Cả bọn con gái cuống cuồng vơ gùi,

xách xoong, chạy theo cậu du kích. Anh Bảy hất cái ruột nghé gạo

lên vai, chúi người về phía truớc, cố sải bước cho kịp lũ con gái lanh

chân.

* * *

Tệ hại quá, anh Bảy đi lạc mất rồi. Đây đã là vùng giải phóng,

sát núi, không sợ anh lướ qướ đâm vào đồn địch. Nhưng mà rày

quá, đường sá liên u, hết vườn lại rừng, biết ngõ nào mà tìm anh?

Các cô hú đến bể họng mà không thấy tăm hơi gì. Sáu Thoại quay

qua trách móc cậu du kích "ma đuổi", đi chẳng biết trông trước, ngó

sau gì hết, chắc rồi cũng có lúc bỏ dân công cho cọp tha. Trách móc

vậy thôi, chớ cậu ta đã biến bóng rồi còn ai mà nghe. Sau khi giao

đoàn dân công cho trạm này, cậu ta chỉ nói độc một câu: "Đi mạnh

giỏi nghe!" rồi vác khẩu AR15 dông một hơi, có để cho ai kịp ngó

mặt đâu.

Các cô gái vừa dồn gạo vào bao, chuẩn bị cõng đi vừa râm ran

đủ thứ chuyện và cuối cùng lại xoay trở lại chuyện anh Bảy. Hường,

nhà ở cuối xóm, gần xóm anh Bảy, khẳng định:

- Tao biết ngay từ xưa mà, khật khù như ổng, đi dân công làm

sao nổi!

271

Để chứng minh kết luận của mình là đúng, cô kể:

- Ổng khật khù từ hồi xưa kia. Tao nghe họ kể chuyện ổng đi

xây cái chốt Gò Cớ cho lũ Bảo an mà tức cười hoài. Ai lại, trời nắng

chóa lửa, người ta đội nón, lại trùm thêm khăn mà ổng chỉ cột cái

khăn mặt nhuộm màu đỏ lem nhem trên đầu. Còn người ta vác bao

cát lên vai, đưa từ dưới bãi lên gò thì ổng kẹp vào nách! Bao cát

nặng, trễ xuống hông làm quần ổng tụt xuống. Một tay quặp lấy cái

bao, một tay ổng xách quần. Nhưng bao cát vẫn cứ trễ xuống, ổng

vòng tay qua, níu dây bao, thế là dây cột bao sổ tung, cát xoà ra

trắng xoá. Đã vậy, lẽ ra phải đi xuống bãi mà hốt cát khác, ổng lại

ngồi thụp xuống, bụm từng bụm cát bỏ vào bao, miệng thì lẩm bẩm

hoài: "Kì cục! Kì cục!" Chu cha, ổng kì cục muốn chết.

Nói rồi Hường cười, tưởng sẽ được mọi người hưởng ứng, ai dè

lại bị Sáu Thoại phản đối:

- Vậy mà cũng cười? Mi biết chứ, hồi ấy bọn nó còn kẹp chặt, ít

ai dám đấu tranh công khai, ổng dám đấu tranh hợp pháp chớ khật

khù na? Ai dại gì vác cát cho hay để xây cái đồn cho nó canh mình?

Rồi Sáu Thoại bàn:

- Phải làm sao kiếm anh Bảy về chứ bay, tội ảnh quá!

Con bé tuy hay trêu chọc anh Bảy - tính cô hay dỡn - nhưng lại

rất quý anh.

Sửa soạn bao gùi xong thì đã trưa, các cô đem cơm vắt, muối

hầm ra ăn. Vùng đất cằn này chẳng có rau cỏ gì hết. Mấy ống lương

khô cá, các cô làm lạt quá, ăn hết mất từ sáng rồi.

Sáu Thoại đang cầm miếng cơm, sắp đưa lên miệng, bỗng dừng

lại ngó ra xa, reo lên:

- Anh Bảy, bay ơi!

Cô vứt miếng cơm, chạy bổ ra đón anh Bảy. Cô xuýt xoa:

272

- Anh Bảy đi lạc ở đâu mà gai cào rách hết trọi áo quần thế

này?

Anh Bảy chẳng nói chẳng rằng, lầm lầm đặt gùi xuống. Có lẽ

anh giận. Nhưng không, anh thở phào một cái, hỏi:

- Ăn cơm rồi na?

Con Sáu xoắn xuýt.

- Chưa, mới đem ra thôi, anh Bảy ăn với lũ em nghen!

Anh ngồi chồm hỗm cạnh rá cơm, nhìn một chặp rồi lại hỏi:

- Ăn với muối thôi na?

Chẳng đợi các cô trả lời, anh mở bao, lấy ống lương khô, mở nắp

để cạnh rá cơm, nói:

- Ăn đi lũ bay, cá chuồn!

Hình như anh chẳng để ý gì đến chuyện đi lạc cả. Thấy vậy, các

cô cũng hết sợ anh giận, lại xúm vào ăn cơm và nô dỡn. Mấy cô tinh

nghịch nhâu nhâu vào trêu chọc anh Bảy. Sáu Thoại lấy một miếng

lương khô của anh Bảy cho vào miệng:

- Chu cha! mặn muốn thụt lưỡi anh à!

Bẻ một miếng cơm đưa vào miệng nhai chóp chép, nó hiếng mắt

nhìn anh Bảy:

- Bắt được thằng điệp ngầm nào, cứ lấy lương khô của anh Bảy

chấm một chút vô lưỡi là nó khai liền. Còn dễ sợ hơn tra điện nữa.

- Phải đấy bay! Mặn muốn thụt lưỡi, mạnh còn hơn điện.

Cả bọn tán thưởng. Anh Bảy Trương chống chế:

273

- Lương khô phải mặn chứ sao? Làm như mấy cô để ăn được

mỗi bữa là hết. Hết rồi ăn gì? Kì cục.

Thấy mấy cô gái nín thinh không cãi được, anh Bảy khoái trí

ngồi lắc la lắc lư, cười chúm chím, quên cả ăn. Các cô xoay qua

chuyện khác để phản công anh:

- Anh Bảy ơi, ma dắt anh đi đâu, anh kể cho lũ em nghe!

Sáu Thoại nháy mắt một cái:

- Để ảnh ăn bay, tao kể thay ảnh cho bay nghe.

Nó đứng dậy nhíu mắt, hai tay quờ quạng, chân dò dẫm:

Ma dắt đi đằng Đông

Ma dông đi đường Tây

Làm tao phải loay hoay

Lũ bay ơi cứu với!

Cả bọn cười vang.

- Rồi sao anh về được đến đây?

Con Sáu ngồi thụp xuống:

- Hứ, hứ, lấy nước tiểu để giải ma chớ sao! Anh Bảy xả ra một

bãi tướng để giải ma!

Anh Bảy buông bát cơm xuống, quẹt miệng một cái:

- Lũ bay nhạo tao hả? Lũ bay mà lạc như tao, có mà khóc vãi

đái trong quần chớ tìm được đường về na?

Rồi để mặc con Sáu ngồi cười rũ rượi, anh Bảy cầm miếng cơm

ăn nốt. Anh với bi đông nước tu ừng ực, chẹp chẹp miệng rổi lẩm

nhẩm:

274

- Rồi, rồi, xong đợt này cho anh em trên căn cứ con rựa, cái

võng, mình đi hợp pháp về cho nhanh.

Các cô gái lại được dịp cười phá lên:

- ảnh tính chuyện quăng hết đồ cho khoẻ. Người đâu mà nhác

vậy, đi cả tháng mà mang theo có 2 bộ kể cả một bộ trên người,

nhác ơi là nhác.

Anh Bảy chúm chím miệng cười:

- Phải, tui mang một bộ thôi, cho nhẹ, còn chỗ mà mang gạo cho

Chính phủ. Không như mấy cô mang 4,5 bộ đồ, cả cái chụp...

- Hứ !

- Hé !

- Anh Bảy nói tầm bậy mà!

Cả bọn ré lên, chặn đứng lời nói cuối cùng của anh Bảy lại. Anh

Bảy vẫn điềm nhiên, chúm chím miệng:

- Nội mấy thứ đó cũng nửa gùi, đủ nặng rồi, còn mang mấy hột

gạo cho Chính phủ?

* * *

Tiếp đó là những ngày gùi cõng vừa vất vả, vừa vui vẻ. Đoàn

Mỹ Đức nhận trách nhiệm chuyển một kho đạn về tuyến trước. Anh

Bảy Trương quả là người nói ít, làm nhiều. Anh cõng tới 3 hòm đạn,

còn các cô gái chỉ cõng được 2 hòm. Các cô tự an ủi rằng tuy cõng ít

hơn anh nhưng lại đi nhanh, đến nơi là cơm nước đường hoàng, chỉ

chờ anh tới ăn thôi. Mấy cô tinh nghịch vẫn hay xúm vào châm chọc

anh. Anh vẫn ít cãi vã, chỉ ngồi lắc la lắc lư cái đầu, miệng chúm

cha chúm chím, thỉnh thoảng mới trả lời một tiếng nhưng là những

tiếng hắc búa làm các cô phải đỏ mặt.

275

Kho đạn đã vợi đi, chỉ chuyển 2 chuyến nữa là hết. Các cô kẹp

các thùng đạn thành gùi. Khi chuẩn bị nấu cơm, các cô xếp xong

củi, bắt đầu nhen lửa, anh Bảy mới tới. Anh đi thẳng vào kho, vừa

vác ra một hòm đạn vừa bảo:

- Coi chừng khói đó bay!

- Dạ vâng, anh cứ "yên chí" - Hường bắt chiếc giọng mấy anh bộ

đội nghĩa vụ, trả lời.

Nhưng, chẳng đáng yên trí chút nào, củi ẩm quá, không chịu

cháy. Những luồng khói nâu đùn ra ùn ùn, bay cao lên, tản ra dưới

các tán cây, chuyển thành mầu xanh lam lơ lửng trên khu rừng

non. ở đồng bằng, các cô quen đun bằng tầu dừa, lá dương, vả lại

đun hợp pháp nên cũng không sợ khói. Lúc này, cô nào cũng lúng

túng. Sáu Thoại mọ mạy suốt, hết rút cành củi này ra, lại đâm cành

khác vào làm bếp càng khói um lên. Giữa lúc ấy thì có tiếng máy bay.

Cô cuống lên, càng làm cho khói mù mịt. Chiếc Moranh bay thẳng

qua đầu rồi đột ngột vòng lại, rà xuống thấp. Các cô càng cuống lên,

xúm lại mà thổi phù phù. Chiếc máy bay chúi xuống, phóng một quả

rốc két vào khoảng rừng trước mặt. Các cô vội vàng nhảy xuống hầm.

Khói từ bếp đùn lên từng cuộn. Anh Bảy Trương hét:

- Dập lửa đi!

Anh vác hòm đạn chạy tới, để xuống đất, bê nồi nước dội cái ào.

Lửa tắt ngấm. Chiếc Moranh vọt lên cao, quần đảo. Pháo bắt đầu

dội tới. Chỉ vừa nghe tiếng đề pa từ phía đèo Nhông đã thấy tiếng

nổ rầm rĩ ở khu rừng trước mặt.

- Xuống hầm mau, anh Bảy!

Sáu Thoại hét lên.

Anh Bảy cúi xuống, xốc cõng đạn lên vai, chạy xuống hầm.

Một loạt pháo nữa lại chụp tới, nổ sát kho đạn. Anh Bảy đứng

khom khom trong hầm, lo lắng ngó ra ngoài. Hồi này, bọn ngụy áp

dụng trở lại chiến thuật pháo bầy của tụi Mỹ: Có mục tiêu là chúng

tập trung cả chục khẩu bắn cấp tập một lúc 4, 5 loạt rồi thôi. Hai

276

loạt, ba loạt, 4 loạt rồi. Mỗi loạt pháo như một bầy chim sắt khổng

lồ đột ngột sà tới vồ mồi, kêu thét điên loạn.

Im lặng trong khoảng khắc, rồi không gian lại vang động lên

bởi một bầy pháo nữa. Hầm rung lên, đất rào rào rơi xuống. Khói

bụi bốc mù mịt, sộc vào hầm như người ta hun chuột. Hơi thuốc

pháo trộn với mùi lá tươi, đất bột thốc vào nồng nặc làm mọi người

ngạt thở. Lưỡi vừa đắng, vừa chát lại vừa tê tê, thật khó chịu. Các

cô gái bịt miệng, ho sặc sụa. Bỗng anh Bảy la:

- Trời ơi!

- Sao, anh bị thương sao anh Bảy?

- Không! Pháo lân tinh, kho cháy rồi!

Anh Bảy chồm ra cửa hầm. Sáu Thoại níu lại:

- Khoan đã anh, nguy hiểm quá!

- Kho cháy rồi!

Anh Bảy thét lên, giằng ra, lao lên mặt đất. Các cô gái cũng lao

theo anh. Trước mắt họ là cảnh tàn phá ghê gớm: cây cối đổ ngổn

ngang, xơ xác và lửa đang bén vào kho đạn, cháy đùng đùng. Các cô

cuống lên, chưa biết nên làm gì thì anh Bảy nhảy thốc vào giữa

đám khói bụi đặc quánh. Khi quay ra, anh vác 2 hòm đạn lớn. Sức

nặng của 2 hòm đạn làm anh phải khom lưng xuống, loạng choạng,

nhưng anh vẫn lao rất nhanh. Ra một khoảng trống, anh bỏ 2 hòm

đạn xuống, chạy trở lại kho. Các cô cũng lao theo. Khói, lửa mịt

mùng nhưng không còn ai nghĩ tới chuyện bịt miệng nữa. Một, hai

rồi 3 chuyến... mọi người hối hả khuân vác... Sáu Thoại xốc 2 hòm

đạn lên vai, nhìn xoáy vào kho: chỉ còn 2 hòm nữa nằm trong góc.

Lửa đã cháy lan rộng, gần trùm kín kho đạn. Mọi người chạy ra thì

gặp anh Bảy chạy lại. Các cô la:

- Anh Bảy, quay lại thôi!

277

- Còn 2 hòm đạn thôi anh!

Dường như không nghe thấy tiếng thét, anh Bảy vẫn lao tới.

Các cô gái chạy cho nhanh, vứt đạn vào nơi an toàn rồi quay lại.

Không thể nào nhìn thấy kho nữa. Khói đen, lửa đỏ bao trùm hết

thảy.

- Anh Bảy ơi!

Sáu Thoại gào lên. Không ai trả lời, các cô chết lặng người. Sáu

Thoại mếu máo khóc. Nhưng anh Bảy đã lao ra, loạng choạng, suýt

chúi xuống nhưng lại gượng dậy, lao ra khỏi đám khói lửa. Đến gần

các cô, anh ngã nhào xuống. Sáu Thoại bổ tới, xốc anh dậy.

Các cô gái đưa anh Bảy xuống hầm. Lửa liếm gần hết cái kho

đạn rỗng và đang lụi dần. Pháo cũng thôi, không bắn nữa. Anh Bảy

nằm thiêm thiếp. Tóc anh cháy quăn queo. Chân tay anh loang lổ

những vết bỏng. Sáu Thoại vừa sụt sịt khóc, vừa giở xắc cứu

thương, lấy băng băng cho anh. Anh Bảy mở mắt ra, hỏi:

- Chuyển hết đạn chưa?

- Dạ, rồi anh à!

- Để mặc anh, ra chuyển tiếp đi!

Anh cựa mình, chống tay định nhổm dậy. Sáu Thoại giữ anh

nằm im:

- Đâu có đó rồi, anh khỏi lo!

- Phải chuyển hết đạn đi ngay, rủi nó đổ quân - Anh gạt tay

Sáu, nhổm dậy - Anh bị sơ sơ thôi.

- Để lũ em cáng anh đi!

- Ra, ráng mà cõng hết đạn!

278

Các cô đành phải nghe lời anh, chặt cây làm nẹp, kẹp 3 hòm

đạn làm một gùi, có cô kẹp tới 4 hòm. Và lên đường. Anh Bảy chống

gậy, khập khiễng bước đi. Cõng đạn nặng muốn đè dúi các cô xuống,

nhưng nhìn anh Bảy đầu cuốn băng trắng, chống gậy bước phía

trước, các cô lại thấy khoẻ lên.Vừa hay lúc ấy, phía biển rộ lên tiếng

lũ trực thăng phành phạch bay tới...

* * *

Đợt dân công đã kết thúc bằng những ngày như thế. Anh Bảy

được đưa về bệnh xá điều trị. Lẽ ra cả đoàn Mỹ Đức có thể về nhà.

Nhưng không cô nào muốn về cả. Các cô xung phong ở lại, đi một

chuyến dân công hoả tuyến nữa. Mặt trận đã mở ra phía Bắc rồi,

quân ta vừa tấn công đồn Gò Loi, đánh bọn địch ở Khoa Trường.

Chiến dịch đang phát triển mạnh mẽ, cần nhiều người phục vụ. Giá

như anh Bảy không bị thương, chắc anh cũng sẽ đi với đoàn. Vắng

anh Bảy, các cô buồn hẳn đi. Đứa nào cũng bớt nô dỡn và biết suy

tính đến công việc hơn. Những kỉ niệm với anh Bảy cứ sống lại mãi

trong các cô, thân thương biết bao. Những kỉ niệm ấy nhỏ nhặt thôi

và cũng không có gì đặc sắc cả, phần lớn là những chuyện bỡn cợt,

châm chọc, vậy mà các cô thấy nó đẹp vô cùng. Suy nghĩ lại, các cô

mới hiểu rằng chính những lúc chống trả lại sự bỡn cợt của các cô,

bằng những lời cộc cằn, anh đã khuyên họ rất nhiều. Nếu mà các cô

biết nghe những lời khuyên ấy từ đầu thì đâu đến nỗi xảy ra những

việc đáng tiếc như thế.

279

Năm 1972

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội, ngày 4/1/1972

Long yêu dấu của bố mẹ

Gần đến Tết rồi, mẹ con lại càng nhớ con. Hôm 25/12 vừa qua

mẹ con nhắc tới con nhiều lắm, nhất là đêm hôm đó cả nhà sum họp

vui vẻ quanh bàn bánh kẹo. Vui vì gia đình sum họp, song thiếu con

và em Phúc nên cũng đượm vẻ buồn.

Hôm nay, sau 25/12, 1/1, gần đến Tết, nhớ đến con yêu dấu

đang phấn đấu vượt mọi gian khổ nơi tiền tuyến, bố mẹ lại biên thơ

thăm con, dù bố cũng không tin tưởng rồi thơ này có đến tay con

không. Trung bình, mỗi tháng bố biên một thơ theo lời con dặn, có

lần gửi cả 5 giấy 10 đồng có in chân dung Bác Hồ và thuốc men, chả

biết con có nhận được không. Bốn mùa đã qua, mà không nhận được

thơ nào của con cả. Bố thường được gặp chị Sáu và bác Đào Tùng để

hỏi tin con. Các đồng chí cho biết con vẫn khoẻ, quen với gian khổ,

đang đi công tác đặc biệt, nên bố cũng yên tâm.

Gia đình ta được bình yên, khoẻ mạnh. Từ khi bố lên Bộ Đại

học công tác, sức khoẻ tốt hơn trước, đỡ lo nghĩ, đỡ vất vả. Mẹ con

cũng vẫn khoẻ. Anh Đức vẫn công tác ở Uỷ ban Khoa học kỹ thuật,

Hà Nội. Em Phúc vẫn thực tập ở Liên Xô, đến 11/1972 sẽ trở về

nước, sau khi hoàn thành 3 năm rưỡi thực tập. Em Việt đang luyện

tập ở gần Hà Nội và sẽ công tác ở ngoài này, trong Công an vũ

trang nhân dân. Mẹ và vài em mới đi thăm Việt về. Gia đình ta

toàn nhà đều khoẻ mạnh, bình yên. Cụ đã 93 tuổi rồi, mắt đã hơi

mờ, đi lại ít, chỉ mong được gặp con trước khi nhắm mắt. Cậu Hiếu

đã có 3 con gái, 1 trai. Ông bà trẻ vẫn ở Bắc Quang. Bà và cụ ở với

cậu Hiếu, trong nông trường Việt Lâm.

280

Các em con đều khoẻ và rất ngoan. Ngọc năm nay học lớp 10,

lớp năng khiếu ngoại ngữ của Trường đại học Sư phạm ngoại ngữ.

Em ở ký túc xá, chủ nhật mới về nhà. Em béo, khoẻ, học giỏi. Tháng

5 em thi lớp 10 rồi vào thẳng Đại học Sư phạm ngoại ngữ. Em học

tiếng Anh rất tốt. Diệp học lớp 8, Lan học lớp 5, Thuỷ học lớp 4,

đang trên đà tiến bộ. Thường ngày bố và anh Đức ở Hà Nội, ở nhà

còn có mẹ và 3 em Diệp, Lan, Thuỷ. 3 em học tốt lại giúp mẹ nuôi

được 2 lợn + 1 vườn rau. Tết này, nhà ta mổ lợn ăn tết đấy, mẹ càng

thương con và nhớ con.

Chắc con đã biết tin Níc Xơn lại xua giặc lái Mỹ oanh tạc một

số tỉnh miền Bắc và đã bị thiệt hại nặng.

Miền Bắc có nhiều đổi mới tốt về kinh tế và cả về quốc phòng,

càng ngày càng mạnh lên con ạ.

Thơ này đến tay con chắc vào dịp đầu xuân Nhâm Tuất.

Bố mẹ chúc con luôn được mạnh khoẻ, luôn luôn xứng đáng là

đảng viên tốt của Đảng ta.

Rất mong thư của con.

Thân mến! Bố

Phạm Hùng Việt

Anh Long thân mến!

Em đã nhận được thư anh gửi ra do mẹ đem lên. Đọc thư, em

rất phấn khởi về tình hình công tác của anh, mong rằng trong bất

cứ hoàn cảnh khó khăn nào anh cũng hoàn thành tốt nhất nhiệm

vụ nhân dân giao phó.

Chắc đến nay, qua thư của bố, mẹ gửi vào anh đã biết em đi bộ

đội rồi, kể ra đây chỉ là việc bình thường đối với thanh niên hiện

nay nhưng đối với bản thân em, đây là bước ngoặt lớn của cuộc đời.

Em được điều động vào bộ đội từ tháng 9 năm 1971 nhưng không ở

lực lượng quốc phòng mà lại vào lực lượng công an vũ trang. Khi

281

nhận được giấy báo, một mặt em rất phấn khởi vì kể từ nay em đã

được trực tiếp đứng trong lực lượng vũ trang của Đảng, góp phần

nhỏ bé vào cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, nhưng mặt

khác cũng không khỏi tiếc vì phải tạm rời trường lớp, gác lại những

ước mơ mà mấy năm sống trong trường đại học em hằng ấp ủ. Tuy

vậy, xác định nghĩa vụ của thanh niên hiện nay cộng với sự động

viên của gia đình, nhà trường nên em rất phấn khởi, an tâm lên

đường nhập ngũ.

Kể từ ngày vào lực lượng công an vũ trang, cuộc sống của em

thay đổi rất nhiều, mọi sinh hoạt hàng ngày đều khác trước, đi vào

quy củ hơn. Hơn 6 tháng rèn luyện, em thấy mình lớn lên rất nhiều

về tác phong, nhận thức về quân sự, về nhiệm vụ... Vì công việc của

công an vũ trang có những mặt khác với quốc phòng nên chương

trình huấn luyện của chúng em cũng khác, thời gian dài hơn (riêng

huấn luyện tân binh đã 7 tháng rồi). Kể từ khi đi đến nay em vẫn ở

thị xã Sơn Tây -Trường Công an nhân dân vũ trang. Qua những

ngày tháng bỡ ngỡ ban đầu cho đến nay em đã trở thành một chiến

sĩ công an vũ trang của Đảng. Thời gian này chúng em đang ở cuối

đợt huấn luyện, đến cuối tháng 4 này chúng em sẽ nhận nhiệm vụ

cụ thể, khoá huấn luyện của chúng em là khoá thí điểm của Bộ

Công an, lấy học sinh của các trường Tổng hợp, Ngoại ngữ, Bách

khoa, vì vậy cho đến nay em cũng chưa biết mình sẽ đi đâu nữa

nhưng có lẽ muốn hay không chúng em sẽ được làm những nhiệm

vụ bình thường của một người chiến sĩ công an vũ trang, sẽ được

lăn lộn với thực tế, được về vùng biển hoặc khu vực biên phòng làm

nhiệm vụ hợp với phần nghiệp vụ của mình đã học.

Thời gian huấn luyện ở trường, điều phấn khởi đầu tiên của em

là nhờ sinh hoạt đi vào quy củ, việc rèn luyện tăng cường, ăn uống

tốt nên sức khoẻ em tăng nhiều, từ hôm vào đến nay em tăng được

4 cân, đấy là về cân nặng thôi còn sức khoẻ thì tốt hơn nhiều. Khi

mới vào, chạy buổi sáng có 2-3 cây không mang gì cả mà đã thấy

mệt lắm rồi, đến nay sáng chạy 4-5 km đối với em đã rất bình

thường, kể cả chạy vũ trang mang ba lô, súng đạn cũng không đến

nỗi vất vả với em nữa. Nhờ sức khoẻ được tăng cường nên em rất

phấn khởi trong việc hoàn thành các khoa mục quân sự như bắn

súng, đâm lê, ném lựu đạn, tập kích, phục kích. Trong thời gian

282

huấn luyện em đều hoàn thành tốt các khoa mục quân sự và phần

nghiệp vụ, 2 đợt bắn đạn thật đợt đầu em chưa đạt, nhưng đợt thứ

2 em bắn đã vào loại giỏi, lựu đạn, bộc phá cũng đều tốt cả, em

đang cố gắng để hoàn thành tốt nhất những ngày cuối cùng của

khoá huấn luyện này, sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng

và nhân dân giao phó.

Thư anh viết cho em đã giúp em rất nhiều trong suy nghĩ,

trong nhận thức về ước mơ, nghĩa vụ, tuy những vấn đề anh nói

chưa đi sâu vào công việc của em hiện nay (vì anh chưa biết em đi

bộ đội), nhưng nó là những cơ sở rất tốt để em suy nghĩ. Có phải vào

bộ đội là mọi ước mơ trước kia của người ta bị phá vỡ hết đâu phải

không anh. Nếu như trước đây, em phấn khởi vì được nhận nhiệm

vụ nhưng vẫn còn băn khoăn vì ước mơ không trọn vẹn, thì nay

ngay cả về ước mơ, em thấy cũng có những điều kiện rất tốt. Vào bộ

đội, cuộc sống của em sẽ phong phú lên rất nhiều, những thực tế mà

bao nhiêu nhà văn, nhà thơ, nhà ngôn ngữ phải cơm đùm, gạo nắm

hàng tháng trời vất vả lắm mới có được thì đối với em lại rất thuận

tiện. Em hiểu công việc viết văn hoặc làm ngôn ngữ cũng vậy thôi,

rất khó, nó đòi hỏi người ta phải có cơ sở lý luận, chuyên môn vững,

để quan sát, nhận xét, suy nghĩ nhanh, có thực tế và biết sử dụng

thực tế vào công việc cụ thể. Do vậy muốn viết được em phải cố

gắng rất nhiều, học hỏi rất nhiều. Tin tưởng ở cuộc sống sắp tới, em

sẽ cố gắng không để phí những ngày học tập vừa qua (mà không

phải người thanh niên, người chiến sĩ nào cũng có được) để áp dụng

vào thực tế, đi đôi với nhiệm vụ của người chiến sĩ tiếp tục con

đường học tập của mình. Những cái đó rất khó khăn nhưng không

phải là không thực hiện được anh nhỉ, em sẽ cố gắng để học tập

anh, theo con đường anh đã đi, làm theo những điều anh khuyên

bảo. Sống trong môi trường mới tuy vất vả nhưng em thấy đây là

điều kiện rất tốt để mình rèn luyện về mọi mặt, cả về sức khoẻ, tác

phong nhưng cái quan trọng nhất là rèn luyện về mặt chính trị tư

tưởng. Em sẽ cố gắng rèn luyện, tu dưỡng để được gần Đảng và đến

một ngày nào đó sẽ được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Đấy mới

là những điều trong suy nghĩ, trong tương lai thôi, em hiểu để đạt

được những cái đó còn nhiều khó khăn gian khổ lắm phải không

anh. Khi nào viết thư cho em anh góp ý thêm về mặt này với nhé.

283

Từ ngày ra đi em chưa có dịp nào về thăm gia đình cả, tuy ở xa

nhà có 40km, có những lần được nghỉ 2 ngày liền nhưng là đơn vị bộ

đội, luôn trực chiến nên chúng em không được đi đâu xa cả. Tuy vậy

em luôn nhận được thư của bố mẹ gửi lên.

Em được cả bố và mẹ quan tâm động viên. Tình thương của gia

đình động viên em rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày, em hiểu

những gian khổ mấy tháng qua của em chưa ăn thua gì so với cuộc

sống của anh hiện nay cả. Anh ở xa xôi quá, chẳng khi nào về thăm

gia đình được cả. Bố mẹ dạo này tuổi cũng nhiều nên có già và yếu

hơn trước, nhất là bố, tuy dạo này công tác trên Bộ có nhàn hơn

nhưng vì xa gia đình, ăn uống kém lại hay đi về bằng xe đạp nên

trông bố yếu hơn trước và già đi nhiều, hiện bố mẹ đang muốn tìm

nhà riêng để chuẩn bị cho thời gian về hưu nhưng xem ra còn rất

gay.

Về tình hình kinh tế gia đình ta dạo này có khá hơn trước, anh

Đức về mang theo một số dụng cụ gia đình như máy khâu, đài, xe

đạp... nên những cái đó bố mẹ không phải lo nữa; hơn nữa dạo này

giá cả thị trường giảm nhiều, hàng hoá mậu dịch cung cấp đầy đủ

nên cuộc sống có được tăng lên hơn.

Khi nào có điều kiện gửi thư ra anh nhớ viết thư cho em nhé,

để tránh thất lạc, anh cứ gửi về nhà rồi mẹ sẽ gửi lên nơi em công

tác, em rất mong và thích đọc thư của anh từ miền Nam gửi ra.

Những điều anh tâm sự và khuyên bảo là những cái rất thiết thực

cho sự suy nghĩ của em. Chúc anh luôn khoẻ mạnh, công tác tích

cực, viết báo và truyện thật nhiều để sau này có kinh nghiệm về

vốn sống trong sáng tác. Mong một ngày không xa anh em ta, gia

đình ta sẽ đoàn tụ sum họp trong sự đoàn tụ sum họp chung của cả

dân tộc.

Nhớ anh nhiều

Em

284

Ngày 24/1/1972

Mùa xuân mới vẫn hăm hở đi tới bằng cái lạnh thấu xương và

cái nắng rực rỡ. Bầu trời cao xanh có điểm đốm trắng của những

đàn cừu mây đang lang thang theo gió. Cả sư đoàn mùa xuân đang

rầm rập hành quân qua mảnh đất đầy bom đạn này, để vương lại

những nhành lá nguỵ trang xanh thắm. Con người cũng đang sôi

nổi ra quân chiếm lĩnh trận địa, chuẩn bị giáng cho kẻ địch đòn

quyết định. Tỉnh đoàn Thanh niên Nhân dân cách mạng tỉnh Bình

Định tổ chức "Họp bạn" cho thanh niên cơ quan tỉnh giữa những

ngày xuân lịch sử này nhằm động viên khí thế ra quân thật sôi nổi.

Khu rừng tương đối bằng với những hàng cây cao, thưa, bừng

sáng lên dưới ánh nắng xuân, xôn xao lên bởi tiếng cười nói của cả

trăm thanh niên. Anh em hăm hở san nền, chặt cây, dựng trại.

Toàn trại lấy tên "Quang Trung". Mỗi đoàn uỷ dựng một trại, với

các tên anh hùng như Lý Tự Trọng, Lê Thị Hồng Gấm... Trại dựng

cọc, dây, vải, ni lông... bên trong trang hoàng đơn giản.

Ngày 25/1/1972

Sáng sớm, toàn khu trại đã rộn ràng tiếng reo của thanh niên.

Họ tập thể dục, hát ca, đánh bóng chuyền dưới ánh điện. Họ tập tập

hợp theo còi lệnh...

Hôm nay Ban tổ chức làm lễ khai mạc trại. Sáng, nghe Tỉnh

đoàn đọc lời tuyên bố, nói về mục đích ý nghĩa cuộc họp bạn, đọc thư

của Tỉnh uỷ gửi thanh niên. Chiều, diễn đàn thanh niên, các đoàn

uỷ cử người lên nói về thành tích của đoàn uỷ mình, hướng phấn

đấu sắp tới. Đây cũng là cuộc thi: trong 10 phút phải báo cáo xong,

rõ ràng, cụ thể mới được điểm cao. Đại biểu của An ninh tỉnh nói

khá, kể được những gương người tốt việc tốt của đơn vị mình, được

vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.

Tối, bắt đầu buổi hội diễn văn nghệ. Tôi không ngờ buổi hội

diễn lại thành công đến thế. Những thanh niên từng chiến đấu rất

dũng cảm, lao động rất cần cù này đã đem lại sinh khí mới cho sân

khấu. Nó vừa chân chất, mộc mạc, vừa sôi nổi, hào hùng. Được ca

285

ngợi nhất là cô gái giới thiệu chương trình, cán bộ Tỉnh đoàn, và tốp

ca nam Binh vận với bài hát Đêm Trường Sơn nhớ Bác.

Ngày 26/1/1972

Qua phần thể thao và vui chơi. Giữa rừng này mà có một sân

bóng chuyền, thật thú vị. Có sân, có lưới hẳn hoi. Tuy kỹ thuật

đánh còn thấp nhưng các cầu thủ rất nhiệt tình. Các trò chơi có sức

hút lớn. Anh em quây quần quanh sân, ai cũng muốn xin vào dự trò

- cả nữ cũng vậy. Họ cười vui thật hồn nhiên, quên đi hết mọi mệt

nhọc, gian khổ.

Chiều, tổng kết trại, phát phần thưởng cho các trại khá, hứa

hẹn thi đua. Tối, chiếu phim "LêNin, năm 1918" và xem đoàn văn

công tỉnh biểu diễn.

Hồi trưa, lúc sắp ăn cơm, địch bắn nhiều trái pháo nổ gần. Phải

phân tán ra trú ẩn ở các hốc đá.

Ngày 27/1/1972

"Nhổ trại" ra về, mỗi thanh niên đều lưu luyến. Trong suốt

cuộc chiến tranh này, đây là lần đầu tiên thanh niên toàn tỉnh mới

có được cuộc họp mặt vui, tươi như thế.

Ngày 1/2/1972

Lên đường đi công tác Hoài Nhơn. Lại ngược về phía Tây để

sau đó vòng qua phía Bắc. Trời nắng và nóng. Hồi này, với tinh

thần mới, các trạm đều có thêm việc: đi trực xuống thì cõng đạn, đi

trực lên thì cõng muối.

Ngày 3/2/1972

Đang đi thì gặp Chi. Chi đi Hoài Nhơn đã một tháng. Chi cho

biết tình hình Hoài Nhơn quá căng: 2 tiểu đoàn Cộng hoà giữ miết

rìa, không xuống được huyện. Chúng tôi bàn nhau đi Hoài Ân.

286

Huyện uỷ Hoài Ân nằm ở một quả đồi nhỏ, cây cối nhỏ, có nhà

đàng hoàng.

Chúng tôi tới đại đội bộ đội tập trung huyện vào buổi sáng.

Cảnh đập vào mắt chúng tôi là không khí diễn tập rất khẩn trương,

nghiêm túc. Những chiến sĩ ở đây rất trẻ - từ 16 đến ngoài 20 - và

khoẻ. Họ chỉ mặc quần lót, phơi mình dưới nắng mà tập "mật tập".

Họ luồn dưới những lớp rào thép gai dày đặc, dùng cây chống, dùng

dây buộc tạo thành đường luồn. Trực ban luôn báo giờ: còn 10 phút,

còn 5 phút nữa... Phải khẩn trương và khéo léo để tới đúng giờ và

không gây ra tiếng động.

Còn ở mũi 3 - mũi đánh vận động tập kích - thì rộn ràng hơn.

Mũi này có 10 cô gái, tuổi mới 17 -20, khoẻ, chắc. Các cô xắn quần

quá gối, bới tóc ngược, vận động trên bãi, ném lựu đạn, bắn súng,

miệng kêu "tróc tróc" hoặc "ầm".

Đơn vị làm lễ ra quân. Từng mũi lên hạ quyết tâm, nêu chỉ tiêu

cụ thể - trong đó có chỉ tiêu diệt gọn từng trung đội địch.

Sau buổi lễ, các mũi hành quân tới mục tiêu của mình. Súng

đạn, ruột nghé gạo trên vai, họ hăm hở lên đường. Nhìn vào đôi mắt

sáng ngời và nụ cười tươi tắn của họ, tôi tin rằng họ sẽ chiến thắng.

Chiều, trở về Huyện uỷ.

Tối, sang Huyện đội chơi. Gần 8 giờ, địch bắn pháo lên. Hầm ở

xa quá, mò trong tối mà đi. Hầm khoét sâu trong lòng núi, rộng,

dài, vững chắc. Địch bắn 2 hồi, mỗi hồi chừng hai chục quả. Cô Nga

than rằng nồi kẹo dừa bắc trên bếp chắc bị cháy mất. Nhưng không

đến nỗi, nó vẫn chưa khô đường.

Đêm, dưới đồng có những tiếng cối nổ uỳnh oàng. Địch bắn

pháo sáng lên làm màn trời thỉnh thoảng lại trắng lên.

Ngày 8/2/1972

150 quả pháo bắn cấp tập giữa đồng trống. Tiếng nổ chát chúa

làm một số người phải bịt tai. Mảnh pháo văng tới rơi sàn sạt. Mùi

287

thuốc pháo khét nghẹt phả vào giao thông hào. Một người bị thương

nhẹ vào đùi. Chúng tôi trở về. Tiếng cười của cô Thắm vang lên rộn

rã khắp đồng nội...

Đó là trận tập kích pháo của địch vào đội hình chúng tôi lúc 5

giờ 10 phút chiều nay!

Được sự giới thiệu của Huyện uỷ, chúng tôi đi Mỹ Thành chuẩn

bị làm một số đề tài về nổi dậy trở về làng cũ. Gặp Quế Anh ở Cầu

Sắt đôi. Chị nắm tay tôi và bảo: "Các anh cẩn thận đấy, kẻo về Hoài

Ân lại bị Cộng hoà lượm!". Chúng tôi cười.

Ra giữa cánh đồng rộng, người khoan khoái lạ. Tuy cánh đồng

này bị bỏ hoá, chỉ có cỏ mọc um tùm, nó vẫn gợi lên cái mênh mông,

hào phóng của đồng bằng. Tới cây me lớn, thấy nhiều người tụ tập.

Trai, gái, Nam, Bắc, áo xanh, áo hồng, áo trắng... đủ loại. Một cô

gái đang hỏi mua trầu của một cậu bé dân tộc. Cậu bé nói rằng

muốn có quần đùi và muối. Một thanh niên nói rằng địch đang ở

Đồi Thánh Giá - đứng ở ngoài cây me một chút có thể thấy chúng.

Chúng tôi đặt ba lô, nghe ngóng tình hình.

Một quả pháo bay tới, nổ ầm phía cánh đồng. Tôi xách ba lô, lao

vào một giao thông hào cạn gần gốc me. Người tiếp người lao tới tấp

theo, thình thịch. Họ giục nhau: "Vào, vào nữa đi". Hà Huệ kêu:

"Chà, mình bỏ ba lô ngoài ấy rồi!". Một tràng pháo khoảng 20 quả

dội tới, nổ ầm ĩ phía trước mặt. Dứt loạt pháo, chúng tôi bật dậy,

chạy lùi trở lại. Huệ xách cả thắt lưng, ba lô chạy theo. Giỏ trầu

không của cậu bé dân tộc lăn lóc ở gốc me. Nối theo nhau chạy như

bay. Qua một giao thông hào cắt ngang đường. Dưới đó đã lố nhố

mấy đầu người. Chạy nữa. Tạt vào một giao thông hào bên trái

đường. Một tràng pháo nữa dội tới. Nghe tiếng đề pa và tiếng hú rối

mới nghe tiếng nổ. Thế là yên trí. Tuy nhiên, một số người vẫn phải

bịt chặt 2 tai, sợ long óc. Pháo bắn nhích dần vào trong. Chúng tôi

luồn dưới giao thông hào, lui nữa. Ba lô quá to, vướng hoài vào

vách. Khẩu súng ngắn và cái bi đông đeo ở thắt lưng cũng va, ngoắc

liên tục. Cô Nội người to béo, lấm bê bết. Cậu bé dân tộc nằm gọn

lỏn giữa giao thông hào. Mấy tràng pháo nữa dội tới. Có mảnh văng

tới, va vào cành cây nghe sàn sạt. Mùi thuốc pháo phả vào chỗ

chúng tôi, khét lẹt. Cô Nội cứ nép người qua vách trái hào. Tôi bảo:

288

"Pháo nổ bên phải, nép người về bên phải hào mới tránh được

mảnh". Cô làm theo.

Rồi im lặng. Chúng tôi ra khỏi giao thông hào, bật lên con

đường làng, chạy về. Tới suối, đoạn có một cống lớn, đã thấy Huỳnh

và Thắm (ở Huyện đội, cùng đi với chúng tôi) chờ ở đó. Phía sau xa,

Chi chạy lại, quần áo bết bùn, tay xách dép. Một anh bộ đội đi tập

tễnh phía sau, ống quần chân trái loang máu đỏ. Anh em dừng lại

băng cho anh. Vết thương không đến nỗi nặng lắm. Chúng tôi ra về.

Cô Thắm thỉnh thoảng lại cười ròn rã vì lời đùa của anh em: "Vì cô

đi nhanh quá nên địch bắn đấy".

Về nhà, anh em vui mừng, hỏi han. Có anh nói đùa: "Thế là các

anh phá được một kho đạn 150 quả rồi". Tôi vui vui khi nghĩ: "Địch

tiêu mất 150 quả pháo, đêm nay sẽ bớt gửi chi viện cho các đồn.

Đêm nay, đơn vị bộ đội huyện sẽ đánh một chốt điểm".

Nửa đêm về sáng nghe súng nổ ròn rã ở phía Hoài Nhơn và Ân

Đức. Xen vào tiếng súng máy là tiếng cối, pháo. Pháo rất ít. Phía

Hoài Nhơn nổ ròn rã hơn và dứt mau hơn. Phía Ân Đức nghe có lúc

rời rạc và kéo dài hơn.

Ngày 9/2/1972

Sáng sớm, Hoà (cán sự Huyện đội) đã đi ra chỗ đón thương.

Chúng tôi đều mong tin của trận đánh.

Được biết đơn vị đánh vào trụ sở xã Ân Đức - nằm sâu trong

vùng địch, cách quận lỵ 500 mét. Đơn vị phải hành quân hàng tiếng

đồng hồ, len lỏi qua nhiều ấp chiến lược mới tiếp cận được mục tiêu.

Theo tin nắm được, ta giết chết 1, bắn bị thương 5 tên, đánh sập

nhà trụ sở xã và chỉ bị thương 1 đồng chí - đã đưa về bệnh xá.

Ngày 10/2/1972

Trở lại đơn vị bộ đội tập trung. Đi qua một cánh đồng rồi leo

lên một quả đồi. Quả đồi này bị địch ủi trọc, phơi mầu đỏ, lổn nhổn

những sỏi. Nhìn thấy quận lỵ Hoài Ân nằm giữa một thung lũng

hẹp, nổi bật lên là những mái nhà tôn trắng toát. Khắp nơi đều có

289

bóng dừa xanh đầm ấm. Chân quả đồi có một cánh đồng lúa mới

cấy đang xanh lại. Nhân dân vùng địch kiểm soát lên đây làm đồng,

tối lại về.

Ngày 11/2/1972

Đơn vị vẫn rộn ràng với không khí chiến đấu. Một tổ đi chuẩn

bị chiến trường từ tối hôm qua. Sáng, các mũi đi cảnh giới. Các mũi

khác đang tập luyện. Khẩu đội cối gồm 4 cô Bình, Phúc, Sương, ánh

đang tập cách lấy tầm, hướng và thực hành thao tác. Các cô gái này

người mập chắc, đang còn lúng túng với các động tác, nhưng rất

mạnh dạn học tập. Phía dưới kia vang lên tiếng hô của mũi một

đang tập xạ kích: "Chú ý... mục tiêu...". Tiếng một quả pháo nổ ầm,

vọng về lạc lõng. Tiếng con cu cườm gáy đều đều "Cúc cù cu". Con

bìm bịp thỉnh thoảng lại rúc lên một hồi: "Bíp bíp bíp bíp bíp bíp".

Khu rừng non này đang chứa đựng một sức sống mãnh liệt.

Ngày 12/2/1972

Đi Mỹ Thành. Qua chỗ địch bắn pháo bữa nọ thấy mấy quả nổ

gần đường phạt gẫy một bụi tre, phát quang mấy khóm tranh.

Lội qua sông An Lão. Dòng sông rộng mênh mông, nước trong

vắt, nông cạn, chảy êm đềm. Vào một vườn dừa rậm rạp rồi đi ra

một con đường lớn - đường 5. Dưới chân đồi Thánh Giá là một dãy

chuồng bò với một đàn bò đông hàng 8, 900 con. Mấy cô gái dẫn tôi

đi đùa rằng đó là thành phố bò.

Chị Hương - Huyện uỷ viên - trạc 28, 29 tuổi, có dáng người

cao, to, đôi mắt to, sáng, gặp chúng tôi ở đường. Chị hỏi: "Các anh

tìm Hương tỉnh hay huyện? Hương huyện thì có chứ tỉnh thì ở chỗ

khác". Chị xem giấy giới thiệu rất kỹ, thỉnh thoảng lại nhíu mày vẻ

quan trọng và sau khi hỏi đi hỏi lại cặn kẽ nhiều chuyện mới nói:

"Vậy bây giờ các anh đi xuống xóm gặp tôi!".

- Ủa, gặp chị đây rồi chứ sao? À, hay là chị đi nơi khác rồi sau

đó chúng tôi xuống xóm gặp chị?

290

Chúng tôi ngạc nhiên hỏi. Chị trả lời:

- Không, tôi cùng đi với các anh. Nhưng xuống xóm mới bàn

việc.

Đi một hồi, bước vào một vườn dừa, chị chợt dừng lại:

- Này, hay là bố trí cho các anh nghỉ rồi chờ chị Tám xuống bàn

với các anh.

Chị nhìn những cái ba lô cồng kềnh sau lưng chúng tôi, tiếp:

- Định đưa các anh xuống Mỹ Thành, nhưng nghe căng quá,

thôi, các anh nghỉ ở đây.

Quay qua một phụ nữ đứng bên, chị nói:

- Phải không chị?

- Ừ, đi không đạt mục đích ý nghĩa gì thì không nên đi.

Chị Hương lại tiếp:

- Bây giờ tôi bố trí chỗ nghỉ cho các anh nhen.

Một anh bạn của Chi đi Hoài Nhơn còn đứng sớ rớ ở đó, hỏi chị:

- Thế các chị ở lại đây à?

Chị vội vàng:

- Vâng, anh cứ đi đi, anh cứ đi đi!

Cách nói của chị làm tôi hình dung chỗ chị bố trí cho chúng tôi

nghỉ là một chỗ ở, làm việc của cán bộ xã, huyện, cần phải bí mật.

Chị bước đi trước, chúng tôi bước theo sau. Vào một sân nhỏ có

ngôi nhà lụp xụp. Một cậu bé nói:

291

- Cửa đóng rồi!

Chị gọi:

- Mở cửa ra em, mở cửa ra chứ, sao lại đóng?

Chị nói nhỏ với chúng tôi:

- Mời các anh đem đồ vào nghỉ trong này.

Khi chúng tôi xốc ba lô chuẩn bị bước vào nhà, chị nói lại:

- Các anh cứ ở đây chờ, tôi đi xuống xóm mời chị Tám về gặp

các anh nhen. à, mà các anh ăn cơm chiều chưa?

- Chúng tôi ăn rồi chị ạ.

Chị tất tưởi bước đi.

Căn nhà nhỏ, thấp, có bầy bàn thờ, thắp một ngọn đèn dầu.

Nhà chỉ có một bà già và một chú bé. Hai mẹ con mới đi làm về,

đang tíu tít dọn dẹp đồ đạc, tuôn lúa, nấu cơm. Bà già luôn luôn hò

hét chú bé vì chú ta mải chơi quá, cứ bỏ việc. Chú đem lạc ra bóc vỏ.

Chúng tôi cùng ngồi bóc với chú. Chú tên là Của, 15 tuổi, người cọc

còi như trẻ 12. Tôi hỏi chú đi học chưa, chú trả lời:

- Học rồi, lớp ba.

- Trường của địch hay của ta?

- Của địch, bây giờ nghỉ rồi.

Chú tâm tình:

- Khi giải phóng, lấy trường của nó cho mình học thì ngon đấy.

Sau khi bóc lạc xong, chú bé leo lên giường. Bà già la:

- Của, đi lấy lá dừa chớ?

292

Chú phủ kín tấm dù, vờ ngủ. Chúng tôi động người mãi chú

mới dậy. Lát sau, nghe chú chặt lá sàn sạt trên cây dừa ngoài sân.

Lát sau nữa lại nghe chú doạ:

- Bà mà la hoài, tui đi bộ đội cho coi.

Chú vào nhà, leo lên giường ngủ tiếp. Bà già hì hụi bó lá, cắt

hành. Giáp Tết rồi.

Nửa đêm, đi cùng mấy cán bộ xã về nơi làm việc. Lại theo con

đường 5, đi ngược mãi lên. Bên trái, con sông An Lão hơi sáng lên

bàng bạc. Rẽ qua phải, bước lên núi. Vẫn là loại núi nhỏ, rừng non,

cây thấp, rậm, gai góc. Bấm đèn pin dò tìm đường đi. Đường bị rấp

nhiều. Sợ có gài bom mìn nên quay lại đi đường khác. Đi qua một

bãi lầy rậm rạp cỏ. Lại bước lên núi. Đường cũng bị rấp ngang bởi

những cầnh cây nhỏ. Người đi trước nói:

- Mấy ông đi chầm chậm, rủi lựu đạn nổ cái "ì" thì còn có người

khiêng tôi chớ.

Tới một chỗ rẽ, có một thùng thiếc đặt giữa đường. Phải níu cây

bước lên đá, không dám chạm đến nó vì sợ có bố phòng. Đi một hồi

tới đỉnh núi, có 2 ngôi nhà nhỏ.

Ngày 13/2/1972

Sớm, nghe một anh gọi:

- Dậy, dậy. Nấu cơm ăn chớ không có ai nấu cho đâu.

Mọi người mở ruột nghé lấy gạo, tập trung vào một cái xoong

nhỏ mà nấu. Một anh leo lên cây ổi cao quan sát. Đứng trên đó có

thể nhìn rộng, xa dưới kia.

15/2/1972 - Mồng 1 Tết Nhâm Tý

Con đường 5 hôm nay tràn ngập ánh nắng, nườm nượp người

qua lại và rộn ràng tiếng xe chạy, tiếng cười nói. Con trai, con gái,

293

quần áo đủ mầu cưỡi xe đạp đi ngược lên. Thỉnh thoảng, một chiếc

Honda chở 4, 5 người lại phóng vụt lên. Phía trên đó là "điểm" tết

của huyện. Hùynh gặp mấy đứa nhỏ quen, mượn xe đạp. Cậu ta leo

lên xe chở một chú nhỏ phóng vụt đi. Tôi chở một cô bé chừng 16, 17

tuổi. Cùng đi với chúng tôi còn có một toán 5, 6 cô gái chừng 16, 17

tuổi. Đi với họ, trước cảnh rộn ràng và những tiếng cười nói ríu rít,

tôi lại nhớ những ngày còn là học sinh, những ngày lễ, chủ nhật đi

chơi với bè bạn.

Tôi hy vọng ở điểm Tết này sẽ khai thác được nhiều chuyện

hay. Nhưng cách tổ chức của huyện làm tôi thất vọng. Một chiếc

cổng chào dựng cẩu thả trên đường. Hàng khẩu hiệu căng trên đó

rủ xuống, không đọc được chữ. Khi tôi tới, phần mít tinh đã xong,

đồng bào đang chuẩn bị ra về, chỉ có thanh niên ở lại. Anh em cán

bộ đang phát cho đồng bào thư của Uỷ ban Mặt trận tỉnh. Nhiều

người cầm lấy, ngồi tại chỗ chăm chú đọc. Tuy nhiên, có một chị

không nhận: "Tôi không dám, không dám". Anh cán bộ đưa lần nữa:

"Chị cứ cầm coi thử", chị vẫn không nhận, lách đi.

Phải mất rất nhiều thì giờ mới tập hợp được một số thanh niên

lại để Huyện uỷ nói chuyện. Chị Vân kêu gọi thanh niên ổn định

chỗ ngồi rồi hô bài chòi. Dưới này, một cậu thanh niên mặc quần

ống tuýp, chân đi đất, tay xách đôi giày da nhạo báng:

- Chà, bà ta mới mập làm sao!

Cậu ta và mấy cậu khác đầu tóc bù xù cứ lom khom đi lại giữa

bãi, ồn ào. Cậu đi đất bắt từ trên cây một con sâu to tướng làm trò

chơi cho mấy cậu kia. Nhiều cô, cậu khác cũng ngồi tản mạn khắp

nơi tán gẫu. Trong số đó phần đông là thanh niên từ vùng địch lên.

Những hình ảnh đó quá xa lạ với tôi.

Chiều, về thôn Mỹ Thành. Mấy anh bạn ở huyện đội đưa tôi

vào chơi nhà người quen. Chui vào nhà dưới mái tôn thấy nóng hầm

hập. Gia đình dọn cơm mời chúng tôi. Nói chung cũng khá đầy đủ,

có thịt, cá, bánh tét nhưng có lẽ nấu không ngon như các món tết

ngoài Bắc. Sau đó nhà bên cạnh mời chúng tôi ăn bánh ngọt. Đang

ăn dở dang thì có người báo: "Địch lên". Thế là tất cả đứng dậy, lui

294

ra ngoài xóm. Tới rìa xóm thì ngồi lại nghe ngóng. Được biết có 8

tên lính lên tới máy nước. Có người lên cho biết chúng đã rút. Lại

vào xóm. Đồng bào nói rằng tên quận trưởng vừa tới chúc tết và cho

ảnh Thiệu. Anh em du kích đang đi thu ảnh đó lại.

Lại xóm Lò rèn. Xóm này nằm bên trục đường, cách cầu Bến

Muồng mấy trăm mét - bọn địch đóng ở cầu này. Vào nhà một chị cơ

sở. Chị vồn vã đón chúng tôi:

- Các anh không xuống sớm xem bọn lính gặp, bắt tay với cách

mạng. Chà, đồng bào phấn khởi lắm.

Chị lại bàn thờ, bưng mâm cỗ xuống mời chúng tôi. Bàn thờ có

đặt một bức ảnh của một người đàn ông còn trẻ - chắc là chồng chị.

Đang ăn thì nghe tiếng pháo dội tới - pháo nổ khá gần. Trên

đồn, bọn địch bắn đèn dù sáng rực. Ra sân ngó lên thấy những quả

đèn treo lơ lửng đang xuống thấp dần, xì khói trắng ra. Cả cái xóm

này sáng bừng lên. Chị chủ nhà nói:

- Không sao đâu, các anh cứ ăn đi.

Chắc bọn địch sợ ta ém đồn nên bắn đèn quan sát. Chúng tôi

tiếp tục ăn. Chị đi gọi 2 đứa con về. Tiếng pháo vẫn nổ, ùng oàng ở

phía rìa núi. Đèn dù vẫn thay nhau thắp sáng bầu trời. Bọn địch

trên đồn gọi loa xuống: "Đồng bào cứ yên tâm, chúng tôi bắn vào

núi thôi". Chúng tôi tránh vào bên đường mà đi. Một cậu bé đứng ở

một góc sân nói:

- Bọn địch ăn rồi bắn đèn hầu mấy anh cho mấy anh thấy

đường đi!

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội ngày 19 tháng 2 năm 1972

Long thân mến!

295

Anh tốt nghiệp về nước đã gần 2 năm rồi mà chưa có bức thư

nào thăm em, kể cũng tệ quá, anh thành thực nhận khuyết điểm

nhé.

Thời gian thấm thoắt, thế mà đã 8 năm trôi qua, anh em mình

không gặp nhau rồi. Tám năm qua đã nhiều thay đổi, anh em mình

đều lớn lên, trưởng thành lên nhiều, riêng Long đã có nhiều tiến bộ

vượt bậc, anh rất mừng.

Nhà vừa nhận được thư em gửi về. Thế là cũng từ tết năm

ngoái nay mới lại nhận được thư em. Ai cũng mừng cả, nhất là bố

mẹ. Em đã trở thành nguồn tự hào của gia đình đấy. Bố mỗi khi nói

chuyện với các bác, các chú vẫn hay nhắc đến em, bố rất yêu quí,

thường kể về những tiến bộ của em: sống trong gian khổ, thiếu thốn

nhưng vẫn lạc quan tin tưởng. Nay em đã được đứng trong hàng

ngũ của Đảng, đó là món quà quí nhất từ tiền tuyến em gửi về cho

bố mẹ, cho gia đình đấy.

Long thân mến! Từ khi tốt nghiệp về, anh được phân công công

tác tại phòng máy tính điện tử thuộc Uỷ ban Khoa học Nhà nước. Anh

học về cơ khí chính xác, học lý thuyết để làm việc trong phòng thiết

kế, còn công việc ở đây thì chủ yếu là bảo dưỡng và sửa chữa máy móc

cơ khí trong phòng. Như vậy thì công việc cũng không phải là thích

hợp lắm nhưng đó cũng là tình hình chung, những ngành đi học thì

công nghiệp nước nhà chưa có, nên đòi hỏi phải có chỗ làm thật thích

hợp thì không thể nào thoả mãn được. Việc làm của anh tuy vậy cũng

còn đụng chạm đến chuyên môn phần nào, và trong vài năm tới thì

chắc là sẽ có những thay đổi, tiến triển tốt hơn.

Chỗ anh làm việc cũng ở ngay gần chỗ bố làm, ở 39 Trần Hưng

Đạo. Hàng ngày anh ở tập thể, ở khu Kim Liên, cuối tuần anh mới

lại về nhà.

Còn em thì thế nào? Công tác thì tiến bộ như vậy rồi, còn việc

riêng thì ra sao? Có định ở rể ở trong ấy không đấy? Đời sống có

thiếu thốn, vất vả lắm không?

Còn ở nhà thì mọi người đều khoẻ mạnh cả. Phúc vẫn đang

thực tập ở Liên Xô, Việt đã đi tòng quân từ tháng 9 năm 1971, đang

296

tập luyện ở Hà Tây. Ngọc đã học lớp 10 rồi, lớn và khoẻ lắm. Các em

nhỏ đều ở nhà, học khá cả.

Long thân mến! Tết năm nay nói chung cũng bình thường, vẫn

là cái tết tiết kiệm, tết chống Mỹ cứu nước. Tuy vậy cũng không

phải là kém vui. Tết năm nay lại thiếu Việt nữa. Ăn tết, cả nhà đều

nhắc đến Phúc, đến Việt, đến em. Nay mỗi em một nơi, đến khi nào

đất nước toàn thắng, các em đều về sum họp được thì cái tết mới

thực sự vui vẻ.

Thôi Long nhé, thư này anh tạm dừng ở đây. Chúc em thật

khoẻ mạnh, phấn khởi công tác và càng ngày càng thu được nhiều

kết quả lớn hơn, viết được nhiều bài, nhiều tin sinh động, có chất

lượng tốt hơn nữa.

Anh

Phạm Mạnh Đức

Phòng Toán học tính toán UBKH và KTNN

39 Trần Hưng Đạo - Hà Nội

Hà Nội, ngày 20/2/1972

Long yêu dấu của bố mẹ!

Nhà đang mong thư của con, nhất là ngày tết sắp tới, thì dồn

dập nhận được 3 thư của con, 1 thư do cơ quan của con gửi chuyển

tiếp, 1 thư do đ/c Thanh Hà đưa qua Bộ Đại học, 1 thư do anh Tuấn

San bạn thân của con trực tiếp mang tới nhà. Bố mẹ và các em

nhận được thư của con trong lúc đang mong đợi, đúng vào ngày 29

tết, gặp Tuấn San chẳng khác gì được gặp con. Mẹ con và các em

hỏi Tuấn San về tình hình của con, hỏi tỉ mỉ từng ly, từng tí. Tuấn

San rất vui tính, hồn nhiên và nhanh nhẹn, kể cho gia đình nghe về

công tác của con, về cuộc sống của con và các đồng chí trong đó.

Tuấn San nói chuyện với gia đình rất vui vẻ, ăn cơm sáng với gia

đình, nghe San nói cũng biết San ra ngoài này bận lắm, công tác

khẩn trương, và cho biết con đang chuẩn bị đi công tác một thời

gian khá lâu.

297

Tình hình ngoài này nhân dân ăn tết vui lắm. Tuy miền Bắc

vừa qua bị lũ lụt nặng, song Đảng và Chính phủ rất quan tâm đến

đời sống nhân dân, lương thực thực phẩm, hàng tết cung cấp cho

nhân dân trước tết và hiện nay, không những không bị giảm mà còn

đầy đủ hơn trước. Nhà nào cũng có hoa nở trên bàn; đêm giao thừa

pháo nổ khắp nơi. Hoa nhiều hơn mọi năm, pháo lại càng nhiều,

thời tiết cũng thuận, hơi rét và có mưa xuân.

Cũng như khi con ở nhà, mẹ con chuẩn bị tết cho gia đình rất

chu đáo, ngoài tiêu chuẩn cung cấp về mứt, kẹo, thuốc lá, bánh, thịt

các loại của bố mẹ, anh Đức, em Ngọc, mẹ còn làm thêm mứt và tất

nhiên là nấu bánh chưng, mua sắm áo tết cho 3 em. Nhẽ ra mẹ làm

thịt con lợn đang nuôi (50kg) nhưng mẹ con lại nói vì vắng 3 thằng

con trai, nhất là thằng con thứ hai đang sống trong gian khổ, mẹ

con lại hoãn để nuôi tiếp. Mẹ con tổ chức ăn tết thật là tốt vào chiều

30 và ngày mồng một và cũng như trước kia khi con còn ở nhà, mẹ

con để dành từ lúc nào không biết các loại tiền mới, và gói sẵn cho

mỗi em một gói kèm theo bánh, mứt, kẹo để đúng lúc giao thừa

mừng tuổi cho các em Ngọc, Diệp, Lan, Thuỷ.

Ngày mồng 2 tết, bố mẹ và em Thuỷ đi thăm em Việt ở đơn vị

vũ trang nhân dân. Cái anh sinh viên gày, do lười thể dục trước kia,

gặp bố mẹ ngày tết thật là vui như tết. Việt khoẻ ra, da mặt hồng

hào, nhanh nhẹn và rắn rỏi hơn xưa, và đã xác định được cho mình

một phương hướng phấn đấu cụ thể trên con đường cách mạng.

Còn anh Đức vẫn giữ được phong thái của anh học sinh trước

kia, hiền lành song đôi khi "cục", suy nghĩ không sâu sắc, biết

thương các em và nể bố mẹ, tình cảm tốt với gia đình song lười viết

thư cho bất cứ ai, tính lười viết thư cũng giống như mẹ con, tuy rất

thương rất nhớ những người thân ở nơi xa xôi.

Ngọc thì vẫn lì sì như trước, vui lắm cũng chỉ mỉm cười, trừ khi

đùa với em Thuỷ, cao, to, và chăm học, học trưa, học tối, nấu cơm

cũng học, đạt được 3 tiên tiến: học sinh tiên tiến, đoàn viên tiên

tiến, ngoại ngữ tiên tiến. Tháng 5/1972 em thi lớp 10, xong sẽ thi

vào Đại học Sư phạm ngoại ngữ.

298

Em Diệp thì nhộn suốt ngày, nói cả ngày, bực cái gì chỉ thoảng

qua, có khi bị mẹ mắng, xong lại hát liền, cũng đạt học sinh tiên

tiến.

Em Lan khoẻ, béo, giống chị Ngọc, dõng dạc và nói chuyện như

người lớn, bây giờ là cô nuôi lợn giỏi và chăm của mẹ, học thông

minh và khá. Còn Thuỷ học tiến bộ hơn trước.

Bố tuy già đi một chút, song khoẻ hơn trước, mấy năm nay

chưa phải nằm viện ngày nào. Mẹ con vẫn thế, người ta bảo "bà ấy

trẻ lâu", đỡ lo hơn trước, và đang chuẩn bị gửi quà cho con khi Tuấn

San trở vào.

Mong con khoẻ mạnh, phát huy được khí thế cách mạng của

tuổi trẻ, sáng suốt mưu trí và tận tuỵ.

Bố.

TB: Ngoài này bố mẹ và bạn bè có theo dõi các bài con viết gửi

cho báo và đài. Con viết tốt, ý bắt nguồn từ cuộc sống và biến thành

tình cảm trở về cuộc sống là đúng song khó nhất là tình cảm sao cho

chân thành, tránh suy diễn chủ quan và lời văn sao cho phù hợp với

tình cảm chân thành ấy. Bố mong con đạt nhiều kết quả tốt về mặt

này.

Hà Nội, ngày 20 tháng 2 năm 1972

Long yêu quý của mẹ!

Hôm nay, mẹ viết thư cho con ngắn thôi là vì anh San có nói là

con đi vắng do đó mẹ viết vắn tắt vài lời vì sợ con không nhận được,

thư sau anh San vào mẹ sẽ chuẩn bị gửi các thứ theo con dặn và mẹ

sẽ kể tỷ mỉ chuyện gia đình cho con nghe.

Mỗi một Tết đến mẹ nhớ con vô cùng, chả muốn bầy vẽ Tết

nhất gì cả, nhưng còn vướng các em bé thành mẹ phải chuẩn bị Tết

tương đối cho chúng nó khỏi buồn. Hôm vừa rồi 29 tết anh San đến,

299

bố mẹ và gia đình mừng quá, giữ anh San ăn cơm sáng với gia đình

xong anh San về, từ hôm ấy đến nay chưa được gặp lại anh San.

Mồng 2 tết vừa rồi bố mẹ và em Thuỷ cũng đi Sơn Tây thăm em

Việt, em béo và khoẻ lắm. Mới có 5 tháng mà đã lên được 4kg rồi,

em học hết tháng 4 thì phân công công tác thực tế một thời gian,

còn sau thế nào chưa rõ. Hôm 28 tết ở cơ quan con cũng đến thăm

gia đình và đưa thư chúc tết và biếu kẹo bánh gia đình. Còn ở cơ

quan mẹ cũng đến thăm gia đình B, C và chụp ảnh gia đình, biếu

mứt tết. Khi nào anh San vào mẹ sẽ gửi ảnh cho con. Con ở trong ấy

mẹ chỉ mong con giữ gìn sức khoẻ tốt và con đừng chủ quan con ạ,

mẹ nghĩ lắm lúc mẹ cũng lo cho con lắm nhưng rồi lo mãi cũng chả

được gì, nhiều khi phải xua đuổi những ý nghĩ vơ vẩn đi nhưng dù

sao nó vẫn cứ luẩn quẩn bắt buộc phải lo, nhưng rồi mẹ nghĩ con

cũng đã lớn rồi và tự con cũng phải biết bảo vệ con thành mẹ lại yên

tâm.

Hè vừa rồi bố mẹ và anh Đức cũng lên thăm cụ, gia đình cậu

Hiếu và ông bà trẻ, nói chung là gia đình vẫn khoẻ, cụ vẫn khoẻ và

cậu Hiếu đã được 3 con rồi - 2 trai 1 gái, sinh hoạt của cậu cũng khó

khăn con ạ.

Thôi gọi là có vài chữ cho con yên tâm và biết tin gia đình, bố

mẹ và các em vẫn khoẻ cả, mẹ chúc con khoẻ mạnh, công tác tốt.

Tết con và anh em trong ấy ăn tết ra sao kể cho mẹ nghe mấy.

Mẹ

Hạnh

Hà Nội, ngày 20 tháng 2 năm 1972

Anh Long kính mến của em!

Dịp tết vừa rồi, anh ăn tết ở trong ấy có vui không, ở nhà ăn tết

rất vui anh ạ, chỉ thương anh không về nhà ăn tết được. Anh Long

ơi, bao giờ anh về ăn tết ở nhà được thì vui lắm nhỉ. Mẹ bảo, bao giờ

anh về thì mẹ sẽ ăn tết thật to. Thịt lợn nữa cơ mà, ở nhà cũng nuôi

được con lợn khá to anh ạ, chúng em để dành cho anh đấy, anh

Long ạ. Về phần học tập thì em học cũng khá, em được bầu là học

300

sinh tiến tiến và là học sinh A3. Anh Long ơi! em rất mừng vì thấy

anh công tác tốt, sức khoẻ tốt.

Thôi cuối thư em chúc anh mạnh khoẻ, đạt nhiều thành tích

lớn trong công tác, em xin có lời hỏi thăm những người đồng đội của

anh nhé.

Người em ngoan của anh

Phạm Thuý Lan.

- Em Thuỷ thương nhớ anh Long lắm!

Chúc anh khoẻ mạnh, em mừng.

Em mong thư của anh.

Thuỷ.

Hà Nội, ngày 20 tháng 2 năm 1972

Anh Long kính mến!

Hôm nay, em lại cầm bút biên thơ cho anh sau bao tháng.

Trước tiên em hỏi thăm sức khoẻ của anh, có khoẻ em mừng, còn

chúng em và bố mẹ khoẻ cả.

Ở ngoài này nói chung gia đình ăn tết vui cả. Tết này ở nhà

nuôi được một con lợn cũng to, nhưng không giết thịt. Mẹ bảo để lấy

tiền cưới vợ cho anh Đức với lại tết năm nay vắng anh với anh Phúc

nên mẹ không muốn ăn to, chờ khi nào gia đình đủ cả, mẹ mới làm

một cái tết thật to.

Anh Long kính mến! nhận được thư của anh, biết anh tiến bộ

nhiều và khoẻ mạnh, gia đình vui lắm. Hôm nọ anh San có đến

thăm gia đình. Trông anh ấy cũng khoẻ mạnh, nghe nói anh cũng

khoẻ như anh ấy nên gia đình cũng yên tâm. Về tình hình học tập

của chúng em, để em báo cáo cho anh rõ: năm nay em học lớp 8, chị

301

Ngọc học lớp 10, em Thuỷ học lớp 4, em Lan học lớp 5. Nói chung

tình hình học tập cũng tốt. Còn anh Việt thì đang học khoa văn

năm thứ 3 thì đã khám trúng tuyển và đã đi Công an vũ trang. Anh

học 6 tháng thì ra trường. Hôm mồng 2 tết bố, mẹ và em, Thuỷ cũng

lên thăm anh ấy, anh ấy khoẻ, đen hơn hồi ở nhà, lên được 4-5 cân.

Còn anh Đức thì mỗi tuần về nhà một lần, chị Ngọc cũng vậy. Cô

Chung và chúng nó vẫn khoẻ mạnh và vẫn ở chỗ cũ. Thỉnh thoảng

cô Chung vẫn hay vào chơi trong nhà, cô nhớ anh lắm đấy. Anh ở

trong ấy nhớ giữ gìn sức khoẻ, khi nào thống nhất anh về nhà, lúc

ấy gia đình vui vẻ lắm nhỉ.

Thôi đêm đã khuya, em xin dừng bút tại đây, một lần nữa,

sang năm mới, em chúc anh mạnh khoẻ, đạt nhiều thành tích mới

trong công tác, được nhiều các cô các chú yêu mến.

Cho em gửi lời hỏi thăm, chúc sức khoẻ tới các anh chị cùng

công tác, các gia đình đồng bào nơi anh công tác.

Em của anh

Phạm Bích Diệp

Ngày 22/2/1972

Lên đường đi Hoài Nhơn. Đi dọc theo một thung lũng dài. Cả

thung lũng là một cánh đồng lớn bị bỏ hoá mọc đầy cỏ dại. Phía bên

kia sông, thỉnh thoảng có ít vạt bắp xanh rì, thấp thoáng bóng mấy

người cuốc xới.

Ngày 23/2/1972

Quá trưa thì đặt chân lên đất Hoài Hảo (Hoài Nhơn). Đi qua

mấy lèn đá gớm ngã quá. ở đây phần lớn là đồi sim, cỏ.

Ngày 24/2/1972

Lên tới đỉnh đồi, thấy đồng bằng đột ngột hiện ra trước mắt.

Đồng bằng ở xã Hoài Hảo này hẹp -nhìn ra xa một chút đã thấy

biển. Tất nhiên vẫn phải đi theo các quả đồi chứ không thể tràn

302

ngay xuống dưới đó được. Đi ở một sườn đồi, thấy thấp thoáng bên

quả đồi kia một bóng áo xanh. Sơn - giao liên - hú nhỏ một tiếng và

lấy tay vẫy vẫy. Bóng kia hơi dừng lại nhìn. Sơn cằn nhằn, gắt gỏng

trong miệng: "Đi vậy có chết không! Nó chấn cho mấy tràng pháo

thì teo. Lại đây tao dấn cho mấy bạt tai!" Quả đồi đó trống quá, địch

dễ nhìn thấy. Chúng tôi men theo sườn đồi, núp sau những bóng

cây lúp xúp mà đi xuống.

Đứng trên đỉnh một quả đồi nhìn rõ khu Nhà thờ Dốc nằm trên

một vùng đất rộng bị cày ủi đỏ lừ. Thực ra đây là một căn cứ quân

sự. Nằm riêng ra một góc là một khu nhà trắng toát của trường

huấn luyện của địch.

May gặp anh Mai - huyện uỷ viên, người mà tôi quen từ hội

nghị nổi dậy tỉnh - nên không phải chờ đợi gì. Nghỉ lại tại "trụ sở"

xã Hoài Tân để sáng đi. Nơi này tấp nập những người: cán bộ xã,

khách qua đường, cán bộ các ngành về họp và có cả mấy phạm nhân

ở trại giam tề đi cõng gạo nữa.

Ngày 25/2/1972

Tới chỗ họp của huyện - họp Huyện uỷ mở rộng để tổng kết đợt

hoạt động vừa qua, rà lại quyết tâm mới.

Vì một số cán bộ phía Đông đường chưa lên được nên phải chờ.

Ngày 26/2/1972

Theo tin báo và nhận định của Huyện uỷ, nơi họp có khả năng

bị uy hiếp. Phía Tây Nam, giáp với Hoài Ân, có bọn Cộng hoà đang

càn, có khả năng sục qua. Phía Đông Bắc và Đông cũng có bọn

thám kích, dân vệ. Nơi này đã bị lộ vì có mấy tên đầu hàng đã từng

ở. Bởi vậy, xế trưa bắt đầu di chuyển. Leo lên một đỉnh dốc cao rồi

tụt xuống. Khu rừng non này rất nhiều cây dầu rái. Những cây to bị

vạc ở gần gốc, ứa đầy nhựa trăng trắng, trong trong, thơm phức.

Lên một sườn đồi ngồi nghỉ. Khoảng 40 phút sau lại có lệnh mới:

quay lại chỗ cũ! Sau khi bàn bạc, thấy bộ phận võ trang có khả

303

năng canh gác, bảo vệ được, nếu địch đến vẫn rút lui được an toàn

nên Huyện uỷ quyết định như vậy.

Tối, bắt đầu vào cuộc họp. Như lệ thường, đầu tiên là phần sắp

xếp tổ chức, phổ biến giờ giấc, nội quy. Cả phần này đều tập trung

vào vấn đề: cảnh giác, đề phòng tổn thất.

Anh Quý - phó bí thư - đọc bản tổng kết đợt hoạt động. Sau đó

anh Vân - Thường vụ Tỉnh uỷ -phát biểu thêm. Rồi đến phần thảo

luận.

Ngày 27/2/1972

Hội nghị xoáy vào tìm nguyên nhân của những mặt yếu, và đã

đi đến kết luận: Nói với nhân dân chưa đạt lý, thấu tình để nhân

dân nhận thức được rõ quyết tâm to lớn, quan điểm quần chúng của

Đảng, yêu cầu về tinh thần độc lập, tự chủ. Biện pháp tư tưởng làm

chưa triệt để, việc giáo dục tư tưởng quần chúng bằng hành động cụ

thể của cấp ủy còn thấp. Quản lý lực lượng chưa chặt -quản lý tổ

chức, quản lý chỉ tiêu còn chuệch choạc. Nghiêng về lực lượng bất

hợp pháp, chưa có biện pháp táo bạo nâng cao vai trò và đẩy mạnh

hoạt động của lực lượng hợp pháp trong lòng địch. Kinh nghiệm cũ

kỹ, công tác bồi dưỡng cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của phong

trào. Tập dượt cho quần chúng đấu tranh còn ít. Đội ngũ chưa

thuần khiết.

Có một điều đáng chú ý: anh Vân nhắc lại lời phát biểu của anh

Đức - bí thư Hoài Châu : "Sau khi nhận phương án của huyện về"

và nói: "Như vậy là đã hé ra trong hành động, ý nghĩ của chúng ta

còn sai sót, không đúng với đường lối quần chúng của Đảng.

Phương án là phải xây dựng từ dưới lên, từ hành động của quần

chúng chứ không phải nhận từ trên xuống". Phát hiện của anh Vân

quả là sự nhạy bén của người lãnh đạo.

Hội nghị nhận định về địch: Sẽ tăng cường hệ thống phòng

ngự, điên cuồng ngăn chặn tấn công và nổi dậy, điên cuồng phản

kích bằng các hành động đánh nhỏ ăn chắc, thanh lọc quần chúng,

304

khui trục cả lực lượng bất hợp pháp và bán hợp pháp của ta, phát

triển lực lượng.

Chiến dịch sắp tới của chúng ta sẽ có quy mô lớn, tính chất

quyết liệt, dài ngày, phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả 3 thứ

quân (chủ lực, bộ đội địa phương, du kích) và 3 mui giáp công

(chính trị, binh vận, quân sự); phải có sự hợp đồng chặt chẽ giữa các

lực lượng.

Thay mặt Huyện ủy, anh Quý trao tặng Bằng khen cho xã Hoài

Châu về thành tích võ trang, xây dựng lực lượng, đóng góp nghĩa

vụ, và cho xã Tam Quan Bắc về thành tích ba mũi giáp công, cho xã

Hoài Sơn về thành tích thu mua lương thực, huy động dân công.

Huyện cũng đề nghị cấp trên tặng thưởng Huân chương giải phóng

cho lực lượng du kích đã đánh tiêu diệt các chốt An Quý, Cầu 99,

Thiện Chánh (Hoài Châu), Đồi Chùa (Hoài Xuân) và tiêu diệt các

trung đội địch trài ra ở Hoài Tân, Hoài Hương.

Ngày 29/2/1972

Xong họp, tôi về xã Hoài Châu. Khi tới Hội Phú thì trời đã tối.

Nhìn về "hố tiểu đoàn" thấy có những đám cháy lớn. Anh em đoán

đó là do địch đốt. Sợ chúng phục kích, phải cho người đi trước bám

đường. Ngồi chờ mất gần 2 giờ đồng hồ. Gió lồng lộng làm chúng tôi

rét run.

Tình hình yên ổn, chúng tôi lại đi. Trăng, mặc dù bị mây che,

vẫn sáng tỏ, soi rõ đường cho chúng tôi. Phía "hố tiểu đoàn", một

đám cháy đang leo lên dốc, thỉnh thoảng lại bốc cao lên, hừng hực.

Lửa tạo thành hình vòng cung đỏ rực ầm ầm leo lên dốc. Còn chúng

tôi thì xếp hàng một leo lên, thở phì phò, toát mồ hôi. Lên đến đỉnh

núi, muốn ngạt thở vì gió. Tới chỗ ngủ, đã 1 giờ sáng. Dưới ánh

sáng trăng, chúng tôi quơ củi nấu cơm ăn - đói quá mà. Đêm nay là

đêm rằm.

Ngày 1/3/1972

Đường chạy theo các quả đồi đất sỏi khô cằn, cây cối thưa thớt,

phần lớn là sim, mua, lổm chổm những tảng đá. Dọc phía Tây Hoài

305

Nhơn này - Từ Hoài Thanh, qua Hoài Hảo tới đây - đều một loại đất

cọc cằn như vậy. Bọn giặc còn thả bom xăng xuống đốt trụi từng

đám cỏ, từng bụi cây tội nghiệp. Những "bọt xăng" vàng bám trên

những hòn đá xám đen, những đám đất bị đốt cháy xém, những cây

bị sức nóng làm chết từ lâu giơ những cành khòng khoeo trắng

phếch lên trời càng làm cho mảnh đất vốn khắc khổ này thêm khắc

khổ. Có lẽ rồi đây, khi chiến tranh kết thúc, cũng khó trồng trọt

được loại cây gì khả dĩ làm giàu được cho con người ở vùng này.

Cùng đi với chúng tôi có anh Huỳnh Chi Đức, bí thư xã uỷ Hoài

Châu. Anh to, mập, tóc húi cua, mắt một mí, trông giống như người

Trung Quốc. Thật là một người "ăn sóng nói gió". Trong buổi họp,

khi anh phát biểu, anh em cứ phải giật áo anh nhắc "Nói nhỏ chứ".

Anh hạ giọng xuống một lúc rồi hăng lên lại nói oang oang. Anh

phát biểu trung thực, thẳng thắn, dứt khoát. Huyện khen xã anh

nhiều mặt (xã vốn được tặng danh hiệu "Thành đồng", hiện cũng

đứng nhất nhì trong huyện) và cũng phê phán một số mặt, trong đó

có mặt hoạt động võ trang, vấn đề dân công và cái máy chữ. Về cái

máy chữ, một số đồng chí phát biểu: "Tôi thấy cái văn phòng của xã

Hoài Châu ngang với văn phòng huyện. Có lẽ nên thôi cái máy chữ

đi, để tiền giấy pô luya mua mắm cho du kích ăn". Anh Đức liền

nói:

- Các đồng chí phát biểu đều đúng cả, tôi xin nhận hết. Nhưng

mà (mọi người cười ồ lên khi anh nói hai chữ này), nhưng mà tôi

cũng có ý kiến. Về mặt hoạt động võ trang, tháng 2 xã tôi yếu, cái

đó tôi có tội, tôi xin nhận. Nhưng về mặt dân công, xã tôi đi đủ,

đúng lệnh chứ không thiếu sót. Nhưng mà huyện làm chúng tôi rất

khó. Lệnh xuống, chúng tôi điều dân công tới chỗ hẹn, nhưng không

có người đón. Chúng tôi phải đưa về, chứ để đấy được ạ? Để đấy, rủi

địch đánh tổn thất thì ai chịu trách nhiệm? Còn nữa, lệnh gì mà cứ

liên tiếp xuống, thay đổi luôn. Mới nhận lệnh này, lại có lệnh khác.

Chúng tôi là cấp dưới, chúng tôi phải chấp hành chớ sao? Nhưng

chấp hành lệnh nào cho đúng? Còn cái máy chữ, có anh nói bán nó

đi, lấy tiền nuôi du kích. Tôi nói thế này. Chúng tôi trình độ thấp,

viết được một dòng thì nẫu (người ta) đã rồi một trang. Có cái máy,

nó đánh bộp bộp một lát là rồi. Ví như lệnh huy động dân công,

306

đánh một chút là có hàng chục bản. Như vậy nó nhanh, nó bớt thời

giờ để mình lo vệc chung. Các anh nói như thế, tôi hờn.

Trên đường về, lúc ngồi nghỉ, anh nói chuyện rất say sưa, vừa

nói vừa làm điệu bộ rất ăn khớp. Anh kể:

- Năm khó khăn, mình bật lên núi, râu ra dài 2 lóng tay. Bữa

về nhà, bà già ôm tôi khóc (anh nhắm mắt, mếu miệng, hai tay vuốt

vuốt vào không khí), bảo tôi: "Bay làm sao chứ, cực khổ mãi vậy

nè". Tôi liền la (anh trừng măt, la thật): "Bà còn khóc a? Bà có biết

tôi khổ, là bà có tội không? Hồi trước, bọn thực dân phong kiến bảo

bà quỳ, bà quỳ, bảo bà làm cho nó ăn, bà làm cho nó ăn, bà không

chịu đấu tranh, nó mới còn đến bây giờ, nó áp bức tôi. Vậy tôi phải

đấu tranh, chớ làm sao?".

Anh kể tiếp:

- Bà chị tôi lên thăm, đem bánh, kẹo, cho 200 bạc và mếu máo:

"Em ơi, em làm sao chớ nẫu chết hết rồi, chị ngó bộ em đi phiêu lưu

quá". Tôi liền hét: "Dẹp hết, dẹp hết (anh quờ mạnh tay), tôi không

ăn. Tôi ăn, để chị chiêu hồi hả? Đem về hết. 200 bạc, chị đem về

mua sắm thêm bày trong nhà cho đẹp".

Anh em cười:

- Anh nói vậy, rồi cũng ăn chớ?

- Ăn sao được? Tôi không thèm một chút.

- Anh chê ít, muốn nhiều chớ gì?

- Ít thì có ít. Chị ruột cất cái nhà tôn to ầm mà cho em 200 bạc

thì ăn nhằm gì. Nhưng không phải tôi đòi thêm, tôi ghét, tôi không

thèm.

Anh nói qua chuyện khác:

- Hồi đầu thằng địch đến hỏi nhà tôi: "Thằng Đức đâu?" Nhà tôi

trả lời: "Bữa trước thấy ổng về làm việc. Bữa nay không thấy nữa,

chắc ổng chết rồi". Tôi liền nộ nhà tôi: "Bà rủa tôi hả? Tôi sống mà

307

biểu chết? Cứ nói với nó rằng tôi đang sống, đang tìm cách diệt nó,

xem nó làm gì được mình?" Nhưng nghĩ cũng tội, mỗi khi mình hoạt

động, nó bị thiệt hại, nó lại lôi vợ con mình ra đánh. Có hồi, nhà tôi

mới sanh, nó bắt lên đánh máu chảy đầy mình. Nhưng Đức đâu có

chịu. Tôi liền họp gia đình bọn nó lại: "Tôi nói cho mấy người biết,

tôi với chồng mấy người là thù, thù không đội trời chung. Tôi chết,

chồng các người đạp lên xác tôi mà đi. Mà tôi cũng đạp bể sọ chồng

các người, tôi đi. Nhưng các người với vợ tôi là hàng xóm láng giềng,

có thù hằn gì? Tôi không thèm động đến các người. Tại sao chồng

các người đánh đập tàn ác vợ tôi? Về nói với chúng thả ngay ra,

không sẽ biết tay". Mấy thằng ác ôn đi trốn ngủ, sáng mò về kiếm

miếng ăn, liền bị vợ thộp ngực la: "Hồi hôm ông Đức về hỏi tội đó.

Liệu mà thả vợ ổng ra. Không thì con cái đây, tôi trả, tôi đi, tôi

không dám ở đây nữa!" Mấy đứa ậm ừ: "Thả thì cũng có ngày có

tháng chứ!". Nói vậy, nhưng rồi chúng cũng phải thả liền.

Bây giờ, nhà anh Đức vẫn nằm trong vùng địch kẹp. Bọn địch

đi qua nhà anh thường nói: "Nhà thằng Huỳnh Chí Đức đấy, đốt đi

bay" nhưng không đứa nào dám đốt cả. Thỉnh thoảng, bọn ác ôn lại

lôi mấy đứa con anh lên đánh. Anh liền kéo 2 đứa con lớn ra, đưa

lên tỉnh công tác. Nghe nói, thỉnh thoảng vợ anh có lên thăm anh,

anh em liền chọc:

- Này, thế mỗi lần chị ấy lên thăm, anh cũng nói giọng quân sự

như vậy à?

Anh cười mủm mỉm:

- Ấy, mình có cách nói chứ. Mỗi lần lên, mình mới hỏi: "Sao,

mình lên đây có mấy yêu cầu?"

Anh nháy mắt, cười:

- Nói mình cho thân mật mà.

- Kêu em thân hơn chứ?

- Em gì nữa, già rồi.

- Thế bà vợ ông trả lời thế nào?

308

- Trả lời là lên thăm, lên đem cho gạo, mắm.

- Nói chế, chắc là còn thiếu?

- Thiếu chứ, lần nào cũng phải bổ sung, chứ họ không tự giác

nói đâu. Làm mình bổ sung hoài.

Anh Đức cười lớn và mọi người cũng cười vang.

Kỳ này Huyện uỷ rút của Hoài Châu một lúc 2 cán bộ. Kể ra, vì

lo việc, anh cũng ấm ức, nhưng không dám nói ra. Nhưng lúc anh

Cường - phó Chủ tịch huyện - nói: "Nếu để ở Hoài Châu ông Đức

làm việc Đảng, ông Đặng làm việc chính quyền, ông Thảo làm việc

quân sự thì vững lắm", anh liền hưởng ứng ngay: "Chu cha, anh

Cường nói tôi mới thấm chứ, thấm vào tận gan ruột. Ai cũng như

anh thì tôi cũng được nhờ". Trong buổi họp xã uỷ mở rộng, anh nói:

"Chúng ta cũng phải tự lực đào tạo cán bộ, không có huyện đưa

quyết nghị về, cứ điều ba là mình phải chấp hành, không có là gay

lắm". Anh vừa nói vừa liếc nhìn anh Phong - Thường vụ Huyện Uỷ -

ngồi bên cạnh. (Trong quyết nghị, điều 3 nói: "Địa phương chiểu

quyết nghị thi hành", nên anh thường dùng "điều ba" để nói về việc

ấy).

Ngày 2/3/1972

Đến chỗ làm việc của Hội đồng nhân dân huyện - nằm ở xã

Hoài Châu. ở rìa núi chứ không ở đồng bằng. Nơi này, suối rất xa,

mỗi lần đi vác nước phải mất 30 phút.

Ngày 3/3/1972

Dự họp Xã uỷ mở rộng. Hoài Châu là xã Thành đồng, đang xây

dựng thành xã Anh hùng. Hoài Châu có nhiều mặt mạnh như võ

trang đánh địch, đóng góp nhân tài vật lực, nhưng cũng có một số

mặt yếu như đấu tranh chính trị, nổi dậy, trong cán bộ cũng có tư

tưởng thoả mãn, tự cao, cho xã mình là hơn cả. Huyện đang tập

trung xây dựng cho xã này trở thành một xã thật toàn diện.

309

Ngày 4/3/1972

Cùng A - Trưởng ban khởi nghĩa thôn An Quý - về thôn này. Đi

qua một cánh đồng lúa. Có những thửa ruộng cấy giống lúa lùn đã

trổ bông. Bông lúa to, hơi cúi xuống. Có lẽ hạt đang vào sữa. Còn

những thửa cấy giống lúa cao đang thì con gái, đùa gió vi vu. Từ

trên núi nhìn xuống, thấy đồng bằng có vẻ nhỏ hẹp. Nhưng khi đi

vào lòng nó rồi mới thấy nó thật bao la. Nhìn lại phía Tây, thấy một

đám cháy lớn đang bốc lên ở phía núi Hoài Hảo. Có lẽ do pháo bắn.

Dãy núi bị chìm nghỉm trong màn đêm, thành thử chỉ thấy một

đường lửa ngoằn ngoèo, chơi vơi giữa bầu trời như một con rồng lửa

đang vùng vẫy.

Qua khỏi thôn Tân An, tôi và A lọt thỏm vào giữa một cánh

đồng hoang. Đất sỏi khô cằn lại bị trộn thêm mảnh pháo, đầu mẩu

dây thép gai làm A phải cúm rúm dò từng bước. Anh đi dép Nhật,

vừa bị dây thép gai đâm thủng bàn chân, đau điếng. A cho biết đây

là một Sở Mỹ đã bỏ.

Khi qua khỏi một con mương nhỏ, chúng tôi tới gần một xóm.

Con đường nhỏ dẫn vào xóm hiện lên trắng mờ mờ, có một tầu dừa

khô nằm chắn ngang. Xóm im lìm, tối đen. Dò dẫm đi qua một cái

chuồng bò, qua một cái sân nhỏ, vào một ngôi nhà nhỏ. A nhấc cái

rựa chắn ở cửa, bước vào nhà và bật lửa, soi sát mặt một phụ nữ

đang ngủ trên giường. Chị hỏi, giọng ngái ngủ:

- Ai đấy?

- A đây.

- A nào?

- Chị mà còn không biết à? Anh Thật có vô đây không?

Nhận rõ A, chị vội kéo anh cúi sát xuống, thì thào:

- Có lính ở nhà ông Cưởng!

310

- Lính nào?

- Cộng hoà! Thôi, đi mau đi!

A vội kéo tôi đi. Ra sân, A chỉ vào ngôi nhà nằm cách đó chừng

chục mét, thì thào:

- Bọn lính ở nhà đó!

Thật rợn tóc gáy! Chúng tôi quay lại, đi qua hướng khác. A nói:

- Đồng bào đặt ám hiệu mà mình không hay. Nhìn tầu dừa,

mình tưởng họ cản vịt. Thấy nhà không đốt đèn, mình tưởng vì

buồn, họ không đốt. Gia đình ấy vừa có người bị chết vì địch khui

công sự.

Sống ở vùng xen kẽ với quân địch này phải hết sức tỉnh táo,

cảnh giác, quan tâm đến từng chi tiết nhỏ của sự vật.

Phải lội qua một con kênh rộng, nước tới ngực. Nước cắn vào da

thịt buốt thon thót.

Lại vào một xóm. Các nhà vẫn còn đỏ đèn. Vào một ngôi nhà,

thấy một ông già đang nằm chống tay trên giường. Cạnh đó là một

người đàn ông trung niên và hai cậu thiếu niên mang súng. ở dưới

bếp, hai cô bé nô giỡn gì với nhau, cười rúc rích miết.

Lát sau, một thanh niên gọi:

- Liên, kiếm túi nhựa dỡ cơm cho mấy anh.

Một cô bé chừng 12, 13 tuổi, da đen đen, chạy ra mở tủ kiếm

một lúc rồi cầm một cái túi nhựa chạy vào. Lát sau, cô đi ra, xách

một gói cơm to tướng. Một cô bé nữa đi theo sau, mặt bị bôi lọ đen

thui. Người đàn ông và 2 thanh niên khoác súng, xách cơm đi - họ

là du kích.

311

Tới một ngôi nhà khác lụp xụp hơn. Mấy anh du kích thôn vào

gọi thím chủ nhà dậy:

- Có thịt, cá gì không thím? Lấy ít lon gạo nấu cho anh em ăn.

Bà thím dậy:

- Có cá chứ không có thịt!

Rồi thím đi lấy gạo, bắc nồi nấu cơm. Thím giục chúng tôi ăn

nhiều. Sau đó, thím lại lấy bánh tráng tráng bằng nước dừa cho

chúng tôi ăn. Mấy anh em ngồi quây quần bên thím, vừa ăn vừa nói

dỡn, có anh lại nũng nịu thím chẳng khác nào những đứa con ngồi

bên bà mẹ hiền.

Sau khi ăn liền nói tới chuyện ở. Mấy du kích nêu lên nhiều

khó khăn, nói rằng để chúng tôi ở sợ không bảo đảm. "Ăn thì dễ chứ

ở thì khó quá". Chúng tôi phải nói gắt máu lắm mới được họ nhận

cho ở.

Ngày 5/3/1972

Mới 3 giờ sáng Nê đã dẫn tôi và A ra công sự. Anh dặn rất kỹ:

"Cứ nằm dưới đó, đừng đội lên, chiều tôi sẽ tới dỡ nắp". Nắp hầm

đóng ập xuống. Căn hầm hơi thấp, 2 người nằm rộng, chắc đã làm

từ lâu.

Chợp mắt một chút, tỉnh dậy đã thấy một luồng ánh sáng yếu

ớt lọt qua lỗ thông hơi. Nằm trăn trở mãi không ngủ được. Không

phải do khó chịu - hầm này rất thoáng, mát, mà vì suy nghĩ lắm

thứ quá. Hiện nay quần chúng đang sốt ruột đợi lệnh khởi nghĩa.

Bà con nói: "Làm thì làm hắc đi cho rồi, để lai rai mãi ớn quá". Sốt

ruột quá, có người sinh ra nghi ngờ, cho rằng không có khởi nghĩa.

Nhìn vào hoạt động tháng 1, tháng 2, họ nói: "Rồi đó, vậy là khởi

nghĩa rồi đó". Bên cạnh đó, bọn ác ôn tăng cường thanh lọc quần

chúng, làm phong trào sụt. Phải làm công tác tư tưởng cho giỏi và

phải có biện pháp tổ chức chặt chẽ, tỉ mỉ mới đưa được phong trào

lên.

312

Thỉnh thoảng, một ngọn gió thốc về luồn qua lỗ thông hơi, làm

căn hầm mát rượi. Ngồi nhìn ra thấy ánh nắng luồn vào miệng lỗ

thông hơi khiến cho nó giống miệng ống bễ mạ vàng. Gió thổi cành

lá tạt qua tạt lại, lúc thì che kín lỗ thông hơi, lúc lại mở toang ra, do

vậy, ánh sáng hắt vào trong hầm lúc thì sáng bừng lên, lúc lại tối

xầm đi, gợi cho tôi nhớ những ngày ở căn cứ ngồi sưởi bên bếp lửa

bập bùng. Tự nhiên thấy nhớ, nhớ da diết rất nhiều. Chỉ nằm cách

mặt đất mấy tấc mà thấy cuộc sống trên đó xa xôi quá. Tiếng mấy

đứa bé gọi nhau, tiếng chày giã gạo, tiếng chân bước thình thịch khi

vọng vào lòng hầm này đều biến dạng đi, nghe không rõ ràng gì hết.

Nằm đây mà nhớ cả đến ngôi nhà mình mới ăn cơm hồi đêm, nhớ

tiếng cười ríu ran của 2 cô bé. Rồi lại nhớ căn cứ, nhớ những ngày

mưa dầm dề đi cõng gạo, nhớ gia đình, nhớ những người bạn đã hy

sinh. Cuộc đời cũng nếm đủ chua cay, mặn nhạt, đã rèn cho tôi thói

quen thích nghi nhanh chóng với môi trường sống, nhưng những

xúc cảm trước cuộc sống vẫn luôn luôn mạnh mẽ trong tôi. Không

ngủ được, tôi ngồi dậy lấy sổ ra ghé bên lỗ thông hơi nhờ ánh sáng

yếu ớt của nó mà ghi chép. A vẫn ngủ mê mệt. Thỉnh thoảng, chân

cậu ta lại giật nảy lên một cái. Có lẽ những lần vào sinh ra tử đã

làm cho A hay bị giật mình như vậy. Lạ kỳ thật, con người nhỏ bé,

lưng hơi khòm ấy đã từng nhiều phen gạt phăng lưỡi hái của thần

chết mà giữ lấy cuộc sống. Có lần, anh đang nằm dưới một hào

ngoài rào mà ngủ thì bọn lính sục tới. Mở choàng mắt đã thấy một

nòng súng côn chĩa vào mình. Vậy mà vẫn kịp nổ một phát súng

làm tên lính ấy ngã nhào rồi đạp qua xác nó, chạy thoát. Có lần bị

địch dí chạy dạt ra đồng lúa. Ba người cùng chạy bị bắn chết. Chỉ

còn A và một người nữa rúc vào trong lúa. Mùa tháng 10 lúa tốt,

ngả rạp, đã che kín họ. Họ ngâm trong bùn, nằm im. Cả trung đội

lính đạp nát ruộng mà kiếm không ra. ở chiến trường này, những

người như A rất nhiều - vào sinh ra tử vẫn lăn lộn với phong trào.

Gần năm giờ, tôi nghe thấy tiếng gõ cửa hầm bồm bộp, tiếng

bới đất, lá xột xoạt, rồi một thác ánh sáng ập xuống làm chói cả

mắt. Lên khỏi hầm, thấy mặt nằng nặng. Vào nhà một bà già. Bà

gọi đứa cháu: "Múc cho chú gàu nước, con!". Thằng nhỏ chạy đi xách

một gàu nước cho tôi rửa mặt. Bà già hỏi 2, 3 lần: "Để nấu cơm cho

mấy chú ăn hỉ ?" Nê trả lời: "Có nấu cơm bên kia rồi ạ."

313

Lại sang một nhà khác. Trong nhà chỉ có một bà má và một cô

gái. Hai mẹ con bảo chúng tôi ngồi nghỉ rồi dọn cơm. Bữa cơm có

thịt kho với củ cải, củ cải dầm mắm, mắm cái và canh đu đủ, nhưng

cô Học vẫn băn khoăn: "Không có gì cho mấy anh ăn cho ngon". Khi

xúc món kho ra, cô bé này cứ lựa xúc thịt, còn để lại củ cải.

Ăn rồi ra sân dạo mát một chút. Thôn xóm ở đây nhà cửa thưa

thớt, lụp xụp, đất cát khô khan, vườn tược nghèo nàn. Giữa những

đám lang, đám mì có những cây dừa cao vút. Nhiều cây, thân bị

bom đạn đục ruỗng thành những hốc hác, lá bị cắt đi, xoè ra ngắn

ngủn như bàn tay cụt.

Ngày 6/3/1972

Cùng A về ở một chỗ với một tổ du kích. Nơi này khá an toàn,

bất ngờ nên có thể ở khơi được (nghĩa là nằm trên mặt đất), có địch

mới phải xuống công sự.

Mặc dù 3 giờ mới ngủ nhưng 6 giờ tôi đã dậy - không muốn ngủ

nữa. Chừng 9, 10 giờ thì mọi người cũng dậy, ngồi tán chuyện nho

nhỏ. Chị Tám đang vá quần cho mấy chú du kích. Còn mấy chú thì

đang ngồi kể lại chuyện diệt gọn chốt An Quí. Mấy chú này mới

chừng 17, 18 tuổi. Rồi đem bánh in (bánh khảo) ra ăn - bánh do

đồng bào cho.

Tình hình yên ổn cho đến chiều. Khoảng 4 giờ, một du kích đến

gọi tôi dậy: "Lính tới". Khẩn trương xuống công sự. Mấy cậu du kích

vừa cảnh giới, vừa nghi trang lại nơi ở. ở nơi này phải biết quý từng

cái lá khô, không dám đạp nát nó - bởi nó che dấu vết cho chúng tôi.

Một lúc sau, Tài tới nói xuống: "Bọn lính đang ở xóm. Có bọn ra

ngoài đồng bắn lung tung. Có chuyện gì thì đưa súng lên nhanh,

chiến đấu". Tài chạy đi một lát rồi lại tới: "Nếu chúng nó đến đây

thì dũng cảm ngoan cường đánh". Mấy du kích kia đều đáp: "Nó

đến sẽ đánh!" Nhưng bọn địch không đến. Sẩm tối, chúng tôi lên

khỏi công sự. Tôi bò ra rặng cây bên bờ suối, nhìn qua bên xóm thấy

mấy người đang đi lại ngoài sân. Một ông già rón rén đi ra bờ rào.

Lát sau, một con gà chạy từ đó ra, chân khập khiễng. Hiếu nói rằng

hồi nãy một thằng lính kê súng bên đống rạ bắn con gà này bị

314

thương. Con gà chạy vào đám mía, ba thằng đuổi theo nhưng không

bắt được. Lúc này, con gà đang tập tễnh chạy vào sân. Ông già cúi

xuống ẵm nó lên. Nghe ở nhà bên cạnh tiếng bọn lính nói nhốn

nháo gì đó. Thấy một thằng men ra bờ rào, ngồi im bên một bụi cây.

Tối mất rồi, không nhìn rõ nó - không biết nó ngồi phục kích hay

gài mìn.

Anh em nhận định, ngày mai địch có thể sục vào đây. Bởi vậy,

tất cả rời đi nơi khác.

Trải ni lông nằm ở trên, chờ gần sáng sẽ xuống công sự. Sương

xuống ướt đầm đìa.

Chiếc công sự này đã lâu không có người ở. Tôi xuống, bị bầy

kiến bu vào cắn đến nóng mình. Cửa ra vào quá nhỏ, sâu, phải nằm

dài ra mà chui vào. Trong công sự có để đèn dầu và nhiều tài liệu.

Những tài liệu này của mấy đồng chí mới hy sinh để lại.

Ngày 7/3/1972

Một ngày lại qua. Chúng tôi vào xóm nắm tình hình. Chị Tám

vào trước, lúc này đã quay ra, đem theo một gói bánh, gạo. Đói đến

run người, chúng tôi ngồi bên bờ suối dở bánh ra ăn. Rồi lại đi vào.

Ngôi nhà đầu xóm này có cái sân rộng và những cây dừa thấp,

sai quả. ở nhà chỉ có 2 ông già và một bà già. Trong khi chị Tám đi

nấu cơm thì bà già kéo tôi và A lại ăn cùng gia đình: "Cứ lại đây ăn,

cơm kia chín là vừa". Bà già gắp cá ra cho chúng tôi ăn, tíu tít như

gặp con. Ông già nói: "Gặp mấy chú, tôi lại nhớ con tôi quá. Con tôi

đứa thì ở căn cứ, đứa thì tập kết ra Bắc. Có đứa vào năm 59, năm

67 lại ra. Thế mà nó không về nhà lấy một chút". Bà già chỉ đĩa cá,

nói: "Ăn đi con. Mấy bữa nay trời động, ít cá". Nói tới đó, bà dừng

lại một lát, cười: "Bữa trước cũng nói trời động thế này mà bị nó

đánh cho nhừ đòn. Có thằng lính đóng giả cách mạng. Tôi không

biết, mới cất ba lô giúp rồi dọn cơm cho ăn. Ôi cha, mình nói gì nó

ghi hết, sau nó bắt lên đọc lại, đánh cho khiếp hồn". Thấy tôi nói

nóng ruột, bà già hỏi: "Có ăn rau dấp cá không?" và vội vã đi bưng

rổ rau lại. Còn ông già thì đứng dậy, đi ra sân trước.

315

Cơm vừa xong, thấy ông già đột ngột trở vào, khoa khoa tay,

nói thì thào: "Lính, lính!". Chúng tôi vội vơ vũ khí, sẵn sàng ở tư thế

đánh lại địch. A nhìn thoáng một cái, nói: "Không phải lính. Lũ nó."

Tiếng "lũ nó" chỉ anh em du kích thôn. Không khí đang căng, bỗng

trở nên vui rộn. Bà giá kéo 3 du kích lại mâm cơm: "Ăn đi, ăn rồi

nấu nữa!". Ông già xoa xuýt: "Tôi run quá, sao tới không báo trước

để tôi cảnh giới khỏi lầm?". Ông chỉ vào anh Thiệt - một du kích đã

cứng tuổi, đội chiếc mũ Bảo an, cầm khẩu AR15: "Thế này thì ai

không bảo là lính?".

Chỉ một loáng, ba người đã ăn cơm xong - ở sát địch bao giờ

cũng phải khẩn trương như vậy. Chúng tôi lại đi. Phải núp vào các

bờ đất mà vượt qua từng đám ruộng. Rồi bám vào xóm hỏi thăm

tình hình địch. Cứ như vậy qua hết nhà này tới nhà khác. Lại vào

một nhà. Trong nhà, một bà mẹ và một cô gái đang sắt khoai lang.

Tôi nhận ra cô gái này là một đoàn viên hợp pháp có dự buổi họp

chi bộ, chi đoàn bữa trước. Cô gái lựa khoai đem nấu, bà mẹ bảo cô

lấy dầu đốt lò sô nấu cho đỡ sáng. Anh Thiệt trách:

- Không có địch mà không đốt đèn sáng lên, để anh em phải

bám miết!

Bà mẹ nói:

- Hồi chiều phía trong còn lính, biết nó kích ở đâu mà đốt đèn?

A nhận công văn ở cô gái và đưa cô 2 quyết nghị của xã điều

động dân công.

Gia đình cho biết hôm qua và ngày nay bọn địch khoanh vùng,

thanh lọc, bắt đi ba người và khui một công sự.

Khoai chín, Thiệt đùm vào một đùm ni lông để dành ăn ngày

mai.

Tới một nhà nữa. Một bà già và một phụ nữ trung niên dậy đốt

đèn. Lúc này đã gần 11 giờ khuya rồi. Tôi ra sân, nằm bên một

316

đống rạ nghỉ một lát. Muỗi quá, không ngủ được. Vào nhà đã thấy

gia đình dọn một mâm cơm.

Hai người đàn bà vừa coi chúng tôi ăn, vừa trò chuyện. A nhìn

vào hầm pháo, nói:

- Lũ mình có cái hầm to từng ấy mà ở thì sướng.

Bà già hỏi:

- Cũng làm bằng thứ này ne?

- Làm bằng thứ này, nhưng nhỏ hơn. Lỗ chui vào chút chun,

luồn như trạch.

Bà già lại hỏi:

- Mưa có vô nước không?

- Vô chứ, có khi ngập tới cần cổ.

Bà băn khoăn:

- Vậy làm sao?

- Thì ráng chịu chớ làm sao!

- Mùa khô chắc khoẻ hơn hỉ.

- Mùa khô lại nóng. Mồ hôi ra nhờn cả người, ướt đẫm quần áo,

vắt ra nước.

Bà già chép miệng:

- Thôi, cực một chút cũng được, miễn là còn sống!

Sống với những người du kích, tôi càng hiểu rõ sự thương yêu,

đùm bọc của đồng bào đối với họ. Kẻ địch làm sao có thể tách được

317

quan hệ máu thịt giữa họ và đồng bào. Bởi vì, hầu hết các gia đình

ở đây đều có con em đi tham gia cách mạng. Thằng Hương, ấp

trưởng, từng đe doạ: "Cả thôn này chỉ trừ nhà ông Thức là không

vào sổ đen của tôi!". Chính lời đe doạ ấy lại nói lên sự cô lập, bất lực

của chúng.

Nghĩ thật thương đồng bào. Cuộc chiến tranh đã kéo dài quá

rồi. Lòng người dầu có từng chai sạn đi trước những đau thương,

uất hận, vẫn không tránh khỏi bồn chồn ngóng đợi ngày chiến

thắng. Bà con mong cuộc khởi nghĩa nổ ra thật sớm, mong có cú

đấm quân sự thật mạnh. Có bà nói:

- Sao bay? Bay nói khởi nghĩa sao chưa thấy? Tháng chạp qua,

tháng một sắp hết, sao chưa thấy khởi nghĩa? Hay là bay phỉnh lũ

tao?

Hôm nọ, khi gặp một phụ nữ, tôi được nghe chị nói:

- Sao không đưa bộ đội xuống đánh đi? Bay sợ không có gạo ăn

à? Có, sẽ có đủ thôi. Như năm trước đấy, lũ tao nuôi hết, có để bộ

đội đói đâu?

Và những người du kích cũng thật đáng yêu. ở mỗi một con

người đều có những nét thật độc đáo, có những câu chuyện làm

người nghe phải rưng rưng cảm động. Hồi nãy, sau khi về nhà trở

lại, Nương kể:

- Vào nhà gặp mẹ, hỏi: "Có gì ăn không má?". Bả lật đật đưa

một túm củ lang. "Ô, củ lang má nấu khi nào?". Bả mới nói: "Củ

lang sống". Tôi nhăn nhó: "Cả ngày không có chút cơm mà đưa củ

lang sống, trời ạ!". Bả vội trút nồi cơm nguội ra rá: "Bưng ra sân ăn

mau, con, lỡ lũ nó đến!".

Kể tới đó, Nương cười:

- Bả càng sợ, tôi càng doạ. Tôi bày cơm ra giữa nhà, ăn đàng

hoàng, làm bả cứ chạy quanh dòm chừng!

318

Cậu ta chặc lưỡi:

- Bả thương thì thương, nhưng bả sợ quá. Bả sợ, mình phát bực.

Hiếu kể:

- Má tôi bảo: "Lũ thằng Hương nắm được danh sách lũ mày hết

rồi. Bọn lính cũng biết tên bọn bay". Tôi liền nói: "Tưởng nó nắm

danh sách người hợp pháp, chớ nắm danh sách lũ bất hợp pháp này

mà làm gì? Má thật khéo lo. Nó có biết tên hay không thì khi giáp

mặt nó cũng một sống một chết, chứ cần năn nỉ gì nó mà sợ?".

Trong số những người hoạt động lâu năm ở đây, chỉ còn A và

Bốn Thiệt. Anh Bốn chạc bốn chục tuổi, người thấp, đậm. Hồi trước,

anh bị địch bắt tù 5 năm. Khi trở về, anh để râu dài, khai 49 tuổi,

sống hợp pháp.

Thằng Hương kêu anh lên hỏi:

- Anh bao nhiêu tuổi?

- 49 tuổi.

- Sao không khai 50 tuổi cho tròn?

- Tôi sinh sao nói vậy, khai lên một tuổi không được!

- Anh mà 49? Tóc còn đen, răng còn chắc. Anh nhận lấy 37 tuổi

và lựa đây: Cộng hoà, Nghĩa quân, Bảo an, lựa lấy một sắc lính mà

cầm súng!

- Không, tôi 49, khai 49, không biết khai khác!

Bọn địch bắt nhốt anh. Thằng Hương ra vẻ thương hại, nói

riêng với anh: "Thôi, để tôi xin cho anh về. Rồi anh phục vụ ở xã, đi

với tôi hử!" Anh phỉnh nó: "Được, tôi sẽ cầm súng đi theo chú".

Khi địch thả về, anh mới thử vợ:

319

- Bây giờ tôi ở nhà không được nữa. Vậy mình lựa cho tôi đi.

Một là đi với thằng Hương - có lương, có xe, có khi muốn đi máy bay

cũng được. Hai là đi theo "mấy ổng" - không có lương, phải nuôi,

cực.

Vợ anh ngậm ngùi:

- Thôi, cực ráng chịu cực, tôi nuôi, đi theo "mấy ổng" đi!

Tuy có nhiều điểm tốt cơ bản như vậy, thôn này cũng còn có

nhiều mặt yếu. Khâu đoàn kết trong cán bộ, đảng viên kém. Một

thôn mà như là 2 thôn: Lý Trong và Lý Ngoài. Hai Lý này hoạt

động tách biệt nhau. Mỗi lần cán bộ ở Lý Ngoài vào đứng chân ở Lý

Trong rất khó khăn vì cán bộ nơi này không chịu nhận, không cho ở

công sự. Hôm trước, khi tôi và A đến, họ nêu khó khăn và còn moi

móc chuyện từ thuở nào, nói rằng trước đây thằng Xê đau, nằm nhờ

bên Lý Ngoài mà không ai cho nhờ, vân vân. Ngay tối hôm qua, khi

gặp chúng tôi, họ cũng từ chối rồi chuồn sạch, sau đó lại ra đầu xóm

chọc chó làm chúng sủa vang, để chúng tôi tưởng địch đến, sẽ rút

đi. Họ co thủ, chỉ trốn địch. Lẽ ra tối hôm qua họp quân dân chính

để triển khai chỉ thị hoạt động tháng 3, nhưng nghe bọn Cộng hoà

lùng sục ở các xóm, họ vội lánh mất, không tổ chức họp được.

Ngày 8/3/1972

Công sự chật, lại ở nơi vắng vẻ, kín đáo nên chúng tôi chỉ để 2

người xuống, còn một người ngồi trên cảnh giới.

Lúc này là 10 giờ, tôi vừa ngồi cảnh giới vừa ghi chép. Trời

nắng. Gió thổi làm bụi tre xào xạc. Phía ngoài đường, ầm ĩ tiếng xe

ô tô, mô tô. Sau một loạt pháo cấp tập, không gian tạm yên ổn.

Nhìn ra đồng, thấy đồng bào đội nón trắng đang lúi húi làm cỏ, be

bờ. Mấy chú bé cưỡi trên lưng trâu, lặng lẽ cho trâu ăn cỏ ở bờ

ruộng. Đôi chim chào mào đậu ngay trên cành cây trước mặt tôi,

kêu ríu rít.

320

Kẻ địch vẫn đang ráo riết thanh lọc quần chúng. Chúng đã bắt

14, 15 người, đánh đập rất dữ. Bà Hoa không chịu nổi đã khai ra tổ

khởi nghĩa của mình có 10 người. Chúng càng đánh hung, mong

khui trục được tổ chức của ta. Thằng Hương dẫn bọn "Cộng hòa" la

lết hết xóm này qua xóm khác. Bọn này rất hung dữ, cướp giật

trắng trợn. Một bà già nói rằng hôm nay có thằng cướp 3 con cá của

một bà gánh cá, bà giật lại, nó liền đánh bà. Ghê gớm hơn nữa - bà

nói - chúng còn chặt phứt tay những phụ nữ đeo xuyến, nhẫn để

cướp vàng. Một bà mẹ tức giận tố cáo: "Bữa qua nó mổ bụng tôi.

Chiều chạng vạng, nó bắt tôi cởi hết quần áo, nó cầm dao rạch một

đường từ trên ngực xuống nhưng chỉ rạch doạ. Nó nói: "Bữa hổm có

3 cộng sản vào nhà bà". Nó bắt tôi chỉ hầm bí mật. Tôi nói: "Hầm bí

mật, các ổng làm bí mật, ai thấy được mà chỉ. Như mấy ông làm chỗ

ở bí mật, mấy ông có cho ai hay không?".

Nghe chúng tôi khua động ở ngoài, một bà già trong hầm hỏi

vọng ra: "Ai đó?" và cằn nhằn: "Người ta ngủ mà còn làm ầm ầm

không cho ngủ". Mấy cậu du kích trả lời: "Mấy con đây". Bà cụ lần

ra khỏi hầm, đến nhìn sát vào mặt chúng tôi. Nhìn nhận kỹ càng

rồi, bà mới vỗ một cái vào vai Thiệt: "Cha bay! Bước vô, bước vô" và

cười móm mém. Bà hỏi chị Tám: "Sao, mấy bữa nay đi đâu im ắng

đi, bây giờ mới về?". Bà mách với chúng tôi tội ác của bọn địch và

hỏi: "Làm sao chứ bay, căng như thế này mãi sao?". Bà bảo: "Thôi,

tình hình căng quá, bọn bay kiếm chỗ nào yên yên ở ít tháng, khi

nào bớt căng hãy về. Bọn tao ráng chịu đòn cũng được". Chị Tám

cười: "Chết sống chúng con cũng bám lại làm công tác, chứ lánh đi

sao được?".

Địa phương chưa có biện pháp gì để chống thanh lọc. Suốt từ

khi chúng thanh lọc đến nay, chưa có một tiếng súng nào bắn vào

chúng. Du kích công khai có thể đánh được, nhưng đánh rồi sẽ

không có chỗ đứng chân, sẽ bị tổn thất hết. Lúc này, chính là lúc du

kích mật phát huy tác dụng. Bọn lính chia nhỏ ra la lết xóm này

qua xóm khác, ngủ bừa bãi trong nhà dân, du kích mật rất dễ đánh

- chỉ cần lén ném một quả lựu đạn là có thể diệt được mấy tên địch,

sẽ làm chúng co lại. Tiếc rằng du kích mật ở đây hoạt động yếu quá,

không đánh địch.

321

Ngày 9/3/1972

Bọn Cộng hoà đã rút hết. Các xóm đều le lói những ngọn đèn

dầu. ở một sân nhà tập trung mấy cô gái đi dân công về. Mấy cô

chừng 17, 18 tuổi thật hiếu động, cứ cười rúc rích hoài.

Ngày 10/3/1972

Vừa vào nhà vợ chông ông lão đầu xóm, đã thấy bà già chạy ra

thì thào: "Thằng Muôn đi chiêu hồi rồi!". Muôn là du kích thôn, mấy

bữa nay cùng đi với chúng tôi, ngày hôm nay nằm công sự cùng

Thiệt. Bà nói tiếp: "Bọn bay đừng lên, sợ nó dẫn lính tới bao". Bà

kéo chúng tôi vào nhà, bắt ngồi ăn cơm. Bà gắp cá, gắp gan cá

nhám liên tiếp vào bát tôi, nói: "Gan cá nhám đấy, chắc ngoài đó

không có, ăn đi con". Bà chép miệng: "Cái thằng dại dột vậy, thế mà

đi chiêu hồi rồi". Ông lão căm tức: "Biết thì thọc cho mấy gậy cho

chết đi!" Bà già cười: "Rồi nó lại dẫn lính đến đánh mình cho coi.

Cho nó ăn, nó đi chiêu hồi, nó quay lại đánh mình!".

Nghe bà già nói, tôi thấy vô cùng xót xa. Những thằng phản bội

gây biết bao tác hại cho cách mạng. Chúng làm ảnh hưởng đến

thanh danh của những người chân chính, làm tổn hại đến lòng tin

của dân. Bà già vẫn săn sóc cho chúng tôi từng miếng ăn, nhưng

trong lời nói đó có ẩn một câu nhắn nhủ: "Má nuôi các con đây, má

không tiếc gì các con hết, nhưng các con đừng phản bội nghe!". Ăn

cơm xong, chị Tám định dọn chén đũa, ông già giằng lấy và nói:

"Bay để lũ tao. Lũ bay có trách nhiệm làm việc nước. Lũ tao có

trách nhiệm lo cho lũ bay!".

Ông bà lão năm nay đã trên dưới 70 tuổi. Ông già tên là Phu.

Con cháu đi thoát ly hết, ông bà mời một ông già nữa về ở cho vui.

Đã nhiều lần bọn địch tập kích ngôi nhà này, đánh một số đồng chí

hy sinh. Sau mỗi lần ấy, chúng lại bắt ông bà lão ra đánh đập tàn

nhẫn. Tết vừa rồi, chúng đến cướp cả nếp, cả vịt của gia đình. Tuy

nhiên, hai vợ chồng ông lão vẫn một lòng một dạ với cách mạng.

Tới đâu, chúng tôi cũng nghe đồng bào bảo: "Thằng Muôn đầu

hàng rồi!". Một phụ nữ nói: "Từ chiều tới giờ hết muốn ăn uống,

322

nghe nó ớn quá!". Một cô gái chân thọt, khập khiễng chạy theo

chúng tôi: "Thằng Muôn đầu hàng rồi, mấy anh đi coi chừng nó dẫn

lính về bao đó". Cô níu lấy tay A và cứ nói mãi một câu: "Bãi cha nó

đi, bãi cha nó đi". Cả thôn xóm xôn xao. Mấy cô gái hợp pháp vội

vàng sửa soạn đồ đi lánh, vì sợ thằng Muôn dẫn ác ôn về bắt. An -

du kích mật -người nhỏ chút, cũng khăn gói lên núi. Hồi sáng, cậu

ta vui miệng kể hết những trận đánh của mình cho thằng Muôn

nghe.

Chúng tôi cũng phải lánh đi hết. Những công sự và đường đi lối

lại của chúng tôi, thằng Muôn đã biết hết.

Thằng Muôn chừng 17 tuổi, gầy, trán hơi dô, mới vào du kích

chừng hai tháng nay. Mấy ngày nay, nó có than khổ, nhưng vẫn

làm mọi công việc chúng tôi giao. Chiều nay, khi cảnh giới cho anh

em ngủ, nó nói với Thởng:

- Mày ở đây, tao vô nhà bà Trọng coi thử địch ra sao, chú Bốn

biểu tao vậy.

- Thiệt không? Để tao xuống hỏi chú Bốn hử?

- Dỡn thôi.

Ngồi một lát, thằng Muôn lại nói:

- Anh Tài phân công mỗi đứa cảnh giới 2 tiếng - Bây giờ tao

cảnh giới, mày đi ngủ đi.

Thởng không đi ngủ mà xuống cảnh giới ở phía sau.

Muôn lén chạy ra đường cái, chuồn một mạch. Về nhà, má nó

hỏi:

- Sao hôm nay mày lên sớm dữ vậy?

Nó cười, chuồn ra cửa sau. Qua nhà ông Kiên, ông đang cúng

cháo, mời nó:

323

- Vô ăn cháo, con!

- Cháo mà ăn!

Nó cười cười, nói nhỏ câu ấy rồi đi thẳng xuống ga. Tới đó, nó

gặp bọn lính, hỏi gặp thằng Hương - ấp trưởng An Quý. Đồng bào

không ngờ nó đi đầu hàng, đến khi biết thì đã muộn, không bắt

được nó nữa. Một cô gái hợp pháp vội chạy về báo tin ghê gớm đó.

Ngày 12/3/1972

Nghe tin hồi 9 giờ sáng hôm qua, thằng Muôn đã dẫn một

trung đội Dân vệ và bọn nguỵ quyền ấp về khui công sự của chúng

tôi. Chúng khui cái ngoài đồng trước. Không được gì, chúng liền

đánh đá túi bụi thằng Muôn và trói lại. Tới chòm rừng, khi khui

công sự thứ nhất, lựu đạn củ chúng tôi gài nổ làm chết 2 lính, bị

thương một lính và chết cha của tên ác ôn Đàm. Bọn lính cay cú

càng đánh thằng Muôn dữ.

Đang đi từ rìa Tuy An xuống thì nghe súng nổ rộ phía Thành

Sơn - rất gần chúng tôi. Lập tức, cả đoàn người lao nhanh về phía có

súng nổ - nếu ở rìa, sẽ bị đội pháo. Chạy ra đồng, anh em du kích

xách súng lao tới chỗ đang nổ súng, chúng tôi tạt qua trái một chút,

chạy vào một xóm. Pháo từ đồi Mười bắt đầu câu tới. Nhìn thấy

những chớp lửa kế tiếp bung ra ở rìa núi và những tiếng nổ ầm

vang. Pháo cũng bắn đèn dù tới. Quả đèn dù lao vùn vụt trong

không khí rồi nổ bung ra, sáng bừng lên.

THƯ ĐỒNG CHÍ

Vũ Đảo. Ngày 12 tháng 3 năm 1972

Long, Chi thân mến!

Trước Tết, mình có viết thư cho Long, Chi thông báo một số

tình hình ở nhà. Hôm vừa rồi nhận được thư của Long viết trước

324

khi đi Hoài Nhơn. Đáng lẽ mình viết thư sớm hơn cho Long, Chi,

nhưng vì bận họp lu bù, thành thử hôm nay mới viết được.

Tết năm nay ở nhà tổ chức tốt và vui hơn năm ngoái về vật

chất cũng như về tinh thần. Suốt đêm giao thừa, anh em ở nhà thức

trắng, đi thăm hỏi và chúc tết nhau, kẹo, cà phê, trà thuốc rôm rả.

Mình cũng đi chúc tết khối dân vận, binh vận, đấu tranh chính trị

cũng nhằm gây quan hệ lâu dài. Trừ Lý và Đồng nhận được thư gia

đình, còn anh em ta chưa ai nhận được. Qủa có về báo cáo tình

hình, mang số tin và ảnh về, ở nhà 10 ngày, lên đường 5/3. Lần này

Quả về được anh em trong cơ quan, đặc biệt là Văn phòng - Quản

trị lo chu đáo về ăn uống, cấp hàng tết, sổ sách, giấy, lương khô chu

đáo, nên ra đi Quả phấn khởi lắm.

Đại hội chi bộ họp đầu tháng 3, bầu lại ban chi uỷ mới - anh Lê,

bí thư - thêm anh Hồng, Khoa vào Ban mới.

Hội nghị liên hoan chiến sĩ thi đua toàn Ban cũng họp 2 ngày

10,11/3, rất có kết quả, có cổng chào, phòng triển lãm. Tiểu ban

Thông tấn xã ta vinh dự có Việt Long được lựa chọn là chiến sĩ thi

đua (trong tổng số 12 CSTĐ), được tặng thưởng Huy chương Giải

phóng hạng nhất (mình giữ tặng phẩm của Long), 1 huy hiệu Bác

Hồ... mình và Hồ Ca là cá nhân xuất sắc. Riêng Thông Tấn Xã được

đề nghị khen thưởng Huân chương Giải phóng hạng hai. Đây là sự

động viên, cổ vũ anh em ta rất lớn, càng làm cho anh em mình thấy

vinh dự, nhưng trách nhiệm càng nặng nề hơn, phải vươn lên mạnh

hơn nữa trong giai đoạn mới.

Hội nghị cũng đã phát động đợt thi đua mới từ nay đến 2/9,

chia ra 2 đợt, đợt một sơ kết vào 19-5, đợt 2 từ 19-5 đến 2/9 thì tổng

kết.

Phương hướng thi đua của toàn Ban: nỗ lực phi thường, xoáy

vào nhiệm vụ chính trị, bám sát nghị quyết, bám sát thực tiễn,

quyết đạt khối lượng công tác lớn nhất, chất lượng cao nhất, tốc độ

nhanh nhất. Phải thực hiện "3 hoá": chuyên môn hoá nhiệm vụ, kế

hoạch hoá công tác và hợp lý hoá lao động...

325

Phương hướng cụ thể của Tiểu ban ta:

- Nâng cao chất lượng tin và ảnh (sát nhiệm vụ chính trị, kịp

thời, chính xác, bảo mật).

- Phản ánh toàn diện (3 quả đấm trên 3 vùng chiến lược).

- Xây dựng hệ thống Thông tấn xã ở tỉnh, mạng lưới thông tín

viên, hệ thống đài minh ngữ...

Cuộc vận động thi đua này phải gắn liền với cuộc vận động

nâng cao chất lượng đảng viên...

Sau khi nhận được thư này, Long và Chi cũng trao đổi và lập

chương trình thi đua, kiểm điểm kết quả đăng ký nâng cao chất

lượng đảng viên... và lập đăng ký trong năm nay và gửi về nhà;

đồng thời quá trình công tác, tích luỹ nhiều kinh nghiệm trong thực

tiễn, Long và Chi cũng hình thành dần bản báo cáo về đợt công tác

này, giữa tháng 5 thì về báo cáo chung trong Tiểu ban để trao đổi

kinh nghiệm, học tập lẫn nhau, để làm tốt công tác hơn nữa

Cơ quan cũng vừa nhận được điện báo là TW đã gửi vào một số

hàng theo yêu cầu. Đợt này, bộ phận ta có máy phóng và một số

phim, thuốc, giấy ảnh. Sắp tới cơ quan sẽ cử người đi đón nhận. Bác

Tân mà về chậm là "lạc hậu" với tình hình đó.

Anh Phượng cũng đã điện vào hỏi mình xin bao nhiêu dép cao

su, kính đeo mắt... mình đã kê xin cho cả 2 bạn, mỗi người một đôi

loại số 39, chưa biết là có vào đến nơi không? Mình đoán có lẽ anh

em ta vào sẽ áp tải vào thôi, và như vậy là khi nào Long, Chi về

cũng gặp anh em mới vào thôi. Chắc lần này sẽ nhận được thư của

gia đình.

Thế Kỷ cũng vừa gửi thư cho mình, gửi lời hỏi thăm Việt Long

và tỏ ý cảm động khi nhận được thư Việt Long.

Anh em ở nhà biết tin Việt Long bị mất tiền cũng chia sẻ niềm

"bất hạnh" đó.

326

Riêng mình thì cũng chia sẻ niềm "bất hạnh" đó, nhưng nhắc

lại với Long và Chi rằng: trong sinh hoạt phải hết sức gọn gàng,

ngăn nắp và quân sự hoá để tránh những việc đáng tiếc lớn hơn

nữa cơ.

Thôi nhé, chúc Long, Chi thành công trong nhiệm vụ mới.

Rất thân thương

Vũ Đảo

Ngày 13/3/1972

Muốn đi từ rìa Hoài Sơn này xuống núi phải đi bán hợp pháp.

Thảo và Thiệu đứng nhìn xuống đồng, thấy 2 cô gái đi ra. Hai chiếc

nón trắng đang nhấp nhô trên đồng, đột ngột hạ xuống thấp rồi lại

trồi lên, nhấp nhô. Thiệu gọi chúng tôi đi xuống. Ra tới đường lớn

thì gặp hai cô gái gánh đôi giỏ đi tới. Vào một xóm nhỏ thay đổi

hình thức. Các cô đưa chúng tôi nón lá, ni lông, cuốc, còn chúng tôi

cởi quần dài, đưa bao súng cho các cô gánh. Thảo - xã đội phó - mặc

chiếc áo trắng, đội chiếc mũ phớt trắng, bị các cô cười ầm lên, kêu là

"ấp trưởng". Cậu ta băng ra đồng, bóng cao lêu nghêu nổi bật lên

giữa đồng lúa xanh thắm. Đứng chờ ở xóm, thỉnh thoảng cho một,

hai người đi ra - không nên đi đông, vì địch rất gần, chúng dễ nghi

ngờ.

Chiều, tập dượt cách tổ chức quần chúng đi nổi dậy. Tập trung

được khoảng hơn 100 người, có gậy, dao, dây. Có những người ở gần

chốt điểm địch cũng đến. Trong hoàn cảnh một xã có 11 thôn mà có

14 chốt địch và 2 tiểu đoàn Cộng hoà đang hành quân lùng sục như

hiện nay, tập trung được như vậy thể hiện sự cố gắng lớn của cán

bộ và tinh thần cách mạng cao của quần chúng.

Ngày 14/3/1972

Tôi, Hà Huệ (phóng viên quay phim) và Khanh (cán bộ Huyện)

cùng nằm một công sự. Ngủ một giấc tới gần 7 giờ sáng. Đột ngột

thức dậy vì thấy ngột ngạt quá. Tôi thấy mũi hơi nóng, ngực hơi

nặng. Còn Huệ thì thở ào ào, mồ hôi toát ra đầm đìa. Không khí

327

mỗi lúc một nặng hơn. Huệ kêu: "Ngợp quá!". Khanh quạt "phành

phạch" một lúc rồi cũng nằm im, thở phì phò. Tôi cầm miếng bìa,

quạt mạnh về phía lỗ thông hơi. Thấy vương vướng, tôi đưa tay sờ

thấy đầu Huệ đã trồi lên sát miệng lỗ thông hơi. Tôi đẩy anh ta lui

xuống và quạt mạnh. Không khí có nhẹ đi chút ít. Huệ thở nhẹ đi

chút ít.

Nằm lắng nghe, trên mặt đất vẫn lặng lẽ. Huệ nói:

- Có lẽ chị Tám đi chợ mất rồi. Chà, chị ấy đi tới trưa thì chết

mất!

Lát sau, Huệ lại nói hổn hển:

- Hôm nay sao ngợp hơn hôm qua. Chắc chị Tám đậy nắp hầm

chặt quá!

Tuy đang mệt, nghe Huệ nói vậy, tôi cũng không tài nào nín

được cười. Bậm môi, cắn răng lại, tiếng cười vẫn bật ra. Huệ nói

thật là kỳ cục. Nắp hầm lúc nào chẳng phải đậy chặt, đậy kín -

thậm chí phải lấp thêm đất, phủ rơm rác lên. Tôi hiểu rằng trận

mưa ngày hôm qua đã khiến đất cát, rơm rác trôi xuống làm nghẹt

lỗ thông hơi.

Huệ nằm im, thở dữ dội. Tôi cố thở sâu, theo nhịp và ra sức

quạt. Đã có trường hợp chết dưới hầm vì thiếu không khí. Chết vì

thiếu không khí thì đau khổ biết chừng nào, bởi vì không khí tràn

đầy cả trái đất, không khí hào phóng đối với tất cả các loại sinh vật,

không khí có bủn xỉn đâu? Nhưng lúc này đây thì rõ ràng là thiếu

không khí. Phải giành lấy không khí mà sống. Cách tích cực nhất là

quạt, quạt cho mạnh để lùa cácbonníc trong hầm ra, hút không khí

trong lành từ bầu trời vào.

Gần mười giờ rồi. Nghe những bước chân rậm rịch trên mặt

đất. Có tiếng chân bước lại gần miệng hầm. Một luồng ánh sáng ập

xuống, kéo theo những hạt cát rơi thoang thoáng như mưa bụi. Và

không khí, không khí rơi xuống, không khí bay xuống, không khí

328

tràn xuống, không khí ùa tới bọc kín chúng tôi làm chúng tôi tỉnh

táo lại.

Cửa hầm vừa nhấc lên, Khanh đã nhỏm dậy, nói:

- Ngợp quá chị ơi!

Chị Tám nói vọng xuống:

- Hôm nay không có lấy một chút gió!

Chị cúi xuống dặn dò:

- Mở nắp ra cho thoáng chứ không lên được đâu. Lính đi cùng

ngang hết.

Chúng tôi nằm xuống theo lời chị. Lúc này, chị là vị chỉ huy tối

cao của chúng tôi. Cuộc sống của chúng tôi nằm trong tay chị. Khi

xuống hầm, tức là anh đã trao cuộc sống của anh cho người đậy nắp

hầm. Người đó thông minh, ngoan cường, thì anh được sống, sống

dễ chịu. Còn người đó nhút nhát thì có khi anh bị nhốt dưới hầm cả

ngày, có khi bị địch khui công sự. Trường hợp bị địch khui công sự

vì người đậy nắp nó phản bội, khai báo rất hiếm có. Nhưng trường

hợp bị nhốt cả ngày, tối mới lên thì nhiều. Chị Tám không vậy. Biết

chúng tôi nằm dưới hầm rất mệt, chị để gần sáng mới đậy nắp hầm

và luôn coi chừng, khi địch dãn ra là mở nắp cho hầm thoáng.

Tới trưa thì chị gọi chúng tôi lên ăn cơm. Thằng ửng - con chị -

đi cảnh giới về cũng bưng chén cơm ăn ngon lành. Con ánh chạy ra

ngõ làm nhiệm vụ thay anh nó. Chị Tám kể:

- Sáng nay tụi lính bắt đồng bào vô điểm gánh đồ cho chúng

chuyển quân. Chút nữa nó bắt tôi - lo quá, nó bắt cả ngày, để các

anh nằm dưới đó tội chết. Tôi vội lẩn đi, về được.

Hơn 2 giờ chiều, anh Đức tới. Anh mặc chiếc áo trắng, quần đùi

trắng, bưng một cái rổ - đựng cái thắt lưng, khẩu súng ngắn. Huệ

thay bộ quần áo đen của mình bằng một bộ quần áo trắng - kiểu

329

của người già. Chiếc máy quay phim của anh đựng trong một cái

túi, do thằng ửng xách. Lúc này, bọn lính đang rập rình ở cái nhà

tôn trước mặt - cách mấy đám ruộng. Anh Đức vạch rèm cửa, nói:

- Tôi đi đây này. Anh Huệ cứ theo tôi!

Ba người bước đi, còn tôi và Khanh thì tìm cách xuống công sự.

Nhà chỉ có một cửa, phía trước lại có lính, làm sao ra khỏi nhà để

xuống hầm được? Chúng tôi đang lúng túng thì chị Tám dựng một

cái nong, bảo chúng tôi núp phía sau. Chị Tám lăn cái nong qua

giữa sân. Chúng tôi lom khom núp sau cái nong ấy mà đi...

Xế chiều, nghe chị Tám gọi, tôi vội chui lên. Chưa kịp đứng

thẳng người thì đã nghe một cô gái nói lớn:

- Lính lên kia!

Lại chui xuống. Chị Tám nhanh chóng nghi trang công sự. Lại

nằm trong một khối đen đặc. Cũng may, lúc nghỉ, tôi đã moi ở 2 lỗ

thông hơi mấy vốc cát nên đỡ ngột ngạt.

Nghe tiếng nhiều bước chân chạy rậm rịch trên mặt đất. Có

những bước chân dậm thình thịch ngay trên nóc hầm và tiếng

người nói lao xao.

Nghe chị Tám nói lớn ở phía xa: "Mía của tôi từng ấy mà nó

cũng bẻ nó ăn". Chúng tôi hiểu rằng bọn lính đang đứng trên nóc

hầm, bẻ mía của chị Tám - những cây mía mới lớn bằng ngón chân

cái - mà ăn. Chúng tôi nằm im thin thít.

Gần 6 giờ, chị Tám bật nắp hầm, gọi:

- Để đồ dưới đó, lên nhanh!

Cô Bảy - du kích - đã chờ sẵn, giục:

- Cởi quần dài, đội nón, theo tôi mau!

330

Chị Tám vừa nghi trang lại công sự, vừa nói:

- Thôi, giao cho cô đấy, tôi xong trách nhiệm.

Trong khi tôi cởi quần dài thì Khanh mặc vào một cái áo trắng

cũn cỡn. Riêng tôi, vẫn phải mặc chiếc áo mầu bộ đội, vì không có

cái nào để thay. Chúng tôi rảo bước theo Bảy. 120 thằng lính nguỵ

đang tràn lên. Bên trái, bên phải, đằng sau đều có lính. Đi qua một

ngôi nhà nhỏ, thấy một ông già đang cuốc vườn, Bảy nói với ông:

- Bác cho cháu mượn cái áo!

Ông già cởi vội cái áo bà ba đen đang mặc, móc túi lấy lại chùm

chìa khoá, rồi đưa áo cho Bảy. Cô đưa tôi mặc trùm lên cái áo mầu

bộ đội cho địch khỏi chú ý. Lại đi qua các xóm nhà. Tới đâu, cũng

thấy đồng bào đứng dặn: "Cẩn thận nghe" và nhìn chúng tôi bằng

cặp mắt vừa thương yêu, vừa ái ngại, lo lắng. Bước ra đồng, Bảy

dặn:

- Nếu xóm trước mặt có lính thì tạt mau ra đồng nghe!

Nhìn ở đồng, phía nào cũng có những cô gái đi qua đi lại như

thoi đưa. Đó là những cô du kích xã. Họ đi như vậy để quan sát địch

và yểm trợ cho chúng tôi. Tôi yên tâm bước theo Bảy.

Xóm không có địch. Vào ngồi ở nhà một bà già. Bà hỏi:

- Ăn cơm chưa? Vào ăn!

Bà đi dọn cơm, giục:

- Cứ vào ăn đi con, không sợ đâu.

Bà gọi mấy đứa nhỏ ra ngoài cảnh giới.

Lúc tôi chan nước cá, bà bảo:

- Đừng ăn nước, ăn cái đi con, gắp cá ăn đi chớ.

331

Bà vừa ngồi coi chúng tôi ăn, vừa kể:

- Bữa mình đánh mìn nó chết 1, bị thương 4, nó kéo tôi ra đánh

nhừ đòn. Mình cũng ráng chịu chớ biết làm sao.

Bà chép miệng:

- Trước kia ở đây vui lắm, tối nào bộ đội cũng về cõng gạo. Thiệt

tội, mấy đứa, đứa nào cũng vui vẻ, dễ thương cả. Đi từ trên núi

xuống đem từng trái ươi chia cho lũ nhỏ. Bao giờ lại được vui như

thế nữa.

Một ông già đi chậm rãi từ sân vào. Bà già chỉ ra, nói:

- Bữa trước nó cũng đánh ông ấy không đi được. Uống thuốc

miết, bây giờ mới đi được như vậy đấy.

Ông già gọi chúng tôi lên nhà chơi. Ông bảo tôi:

- Chú cũng người nghĩa vụ hả?

Tiếng "nghĩa vụ" chỉ anh em miền Bắc.

Ông tiếp:

- Anh em nghĩa vụ với tôi như con với cha.

Ông lại chỉ ra sân:

- Khu trục Mỹ thả bom giết chết 3 đứa con tôi tại đây - hai đứa

ngồi trong hầm, một đứa ngồi bên thềm. Khi ấy, nhà còn lớn lắm

chứ không nhỏ như bây giờ.

Ở mảnh đất này, đau thương, căm thù và yêu thương thể hiện

rất rõ ràng, rành mạch.

Ngoài sân, mấy đứa nhỏ đang dỡn nhau. Chúng ném những

miếng nhựa trắng bọc đầu đạn M79 rồi duổi theo, giành nhau, cười.

332

Ngày 15/3/1972

Xuống Tam Quan. Vượt đường số một khá dễ dàng. Qua từng

thôn đều có du kích dẫn chuyền. Tới địa phận Tam quan thì có 2 cô

gái dẫn tôi đi. Từ đây bắt đầu có hơi hướng của biển. Gió thổi về

nghe nồng nàn, hào phóng. Lội qua những con sông nước mặn làm

sủi lên những bọt lân tinh sáng xanh trong. Mặc dù 2 cô gái xắn

quần cao, tôi cũng không thể nhìn thấy mầu trắng của đôi chân vì

trời tối quá. Chỉ nhận thấy hai đôi chân ấy qua những bọt lân tinh

sáng xanh. Những bọt nước ấy sủi lên từ bàn chân tới ống chân, tạo

thành những khối lân tinh đẹp như ngọc bích. Tôi có cảm tưởng

rằng đôi chân của hai cô chính là ngọc bích được tạo hoá tạo thành

những hình khối diệu kỳ, vừa có cái mãnh liệt của cuộc sống, vừa có

cái huyền ảo của thần thoại.

Tới một xóm nhỏ bên sông, tôi được anh em du kích dùng

thuyền chở đi. Mái chèo làm những bọt lân tinh xao động, nhảy

múa. Nép vào những hàng cây đước dọc bờ sông bơi thuyền tới chứ

không dám đi giữa sông vì sợ địch phát hiện.

Tới bờ, Thu dẫn tôi đi. Anh dặn rất cẩn thận là phải theo sát

anh, nếu không kịp thì đứng lại, anh sẽ quay lui đón chứ đừng đi

lung tung vì ở đây gài rất nhiều đạn pháo, cối. ở cái xóm tôi vừa đi

qua, hôm trước một đại đội Cộng hoà đổ quân xuống càn bị vướng

lựu đạn chết 3, bị thương 1. Chúng hoảng sợ đứng tại chỗ gọi máy

bay vớt đi, không dám lùng sục tìm khẩu súng bị mất bữa trước.

Đi dưới những hàng dừa tư lự. Thu đi rất nhanh. Thỉnh thoảng

anh lại đâm sầm vào một cành tre rấp ngang đường. Anh cằn nhằn

rồi ráng sức dỡ cành tre lên, đi qua. Có lẽ anh em rấp đường để hạn

chế địch đi tập kích. Đi qua đi lại nhiều nhà rồi cũng tìm thấy Thưa

- bí thư xã.

Tối thui, chỉ nghe tiếng nói của nhau. Thưa bảo tôi cứ cột võng

ngủ, sáng hẵng hay. Vừa nằm được một lúc thì nghe một tiếng mìn

nổ ầm, tiếng súng nổ ran. Thưa kêu: "Thôi rồi, chết ông Thởng rồi".

Tất cả trở dậy, ra sân nhìn. Địch bắn đèn dù sáng rực. Quả đèn này

vừa tắt, đã nghe tiếng cối 60 nổ ùng, thấy một đường lửa đỏ mờ

333

rạch trên bầu trời rồi bung ra thành một ngọn đèn lớn. Thưa cứ

than thở mãi: "Thôi chết ông Thởng rồi! Đúng hướng ông Thởng đi,

ổng chớ ai!". Anh gọi một du kích bảo rủ thêm người tới ngay nơi

mìn nổ xem sao.

Ngày 16/3/1972

Vào một xóm của thôn Công Thạnh. ở đây tập trung rất nhiều

cán bộ "bất hợp pháp" (cán bộ cách mạng thoát ly). Chị Cẩn - bí thư

chi bộ Tân Thành - người mập trắng, vui tính, hay nói đùa. Chị rất

sốt sắng kể chuyện đấu tranh của đồng bào cho tôi nghe.

Đi tới các cửa ngõ đều gặp những thanh niên nam nữ cầm lựu

đạn, súng tiểu liên đứng cảnh giới. Chính những cô cậu đó đã nhiều

lần ném lựu đạn diệt địch giữa vùng chúng kiểm soát. Một thanh

niên chừng 17, 18 dẫn tôi đi kể chuyện rằng mới đây cậu ta liệng

lựu đạn làm chết 2, bị thương 1 tên địch giữa ấp Tân Thành. Ham

diệt địch, cậu liệng lựu đạn quá gần làm chính mình cũng bị thương

nhẹ. Ngay lúc đó, đồng bào đưa cậu về nơi an toàn.

Hai cô gái dẫn tôi về thôn An Thái. Tới bờ một con sông, một cô

nói: "Đồng chí cởi quần dài choàng lên cổ, lại lội sông nữa!". Từ hôm

qua đến nay, tôi đã qua 5 con sông rồi. Đây chính là "quê hương 9

áo 1 quần". Lội ra giữa sông, cô Mới ré lên một tiếng và cười khúc

khích: "Cua cắn em". Cô tạt nước vung lên trời cho rơi xuống lộp

bộp rồi quay lại tôi: "Mưa đấy anh" và lại cười. Cô Lan đang khoác

súng im lặng đi, cũng chợt kêu lên: "Cua cắn chân". Còn tôi thì chỉ

nhìn thấy phía trước 4 khối ngọc bích sáng xanh đang chuyển động.

Hai cô vừa đi vừa nói, giọng nói rất dịu dàng, nghe có phần hơi

kịch: "Anh nghe lời em nhé. Vì ai mà xóm làng tan hoang, có phải vì

giặc Mỹ không anh?". Có lẽ hai cô đang tập nói binh vận.

Đi qua một cánh đồng rộng hoang vu, mọc đầy cỏ tranh. Con

đường nhỏ mấp mô. Mỗi lần qua một chỗ khó, Lan lại quay lại nhắc

tôi: "Đồng chí bước vào chỗ này này, đừng bước lên chỗ ấy, ngã đấy".

Vào một túp lều nhỏ. Mới bảo tôi bật máy lửa lên. Vừa nhìn thoáng

thấy ngôi lều trống trơn không một chút đồ đạc, Mới đã kêu: "Tắt đi

anh!". Mới nói nhỏ: "Hay là địch tập kích, mấy anh dọn đồ đi hết?'.

334

Lúc này, chỉ còn Lan khoác súng dẫn tôi đi. Cô không gọi tôi

bằng "đồng chí" xưng "tôi" nữa. Cô nói: "Nếu không có anh, em cũng

về một mình thôi. Trước đây em sợ ma lắm, nhưng bây giờ quen rồi.

Làm cách mạng mà sợ gì?". Cô rất cởi mở kể chuyện gia đình bằng

giọng nói trong, êm, khá dễ chịu. Cô khoe:

- Gia đình em đi cách mạng hết, không có ai làm cho địch. Mới

rồi, bọn địch bắt anh Sáu em vào Nghĩa quân, đưa đi tận Phù Cát.

Nhưng ảnh nói ảnh sẽ tìm cách về.

Lan tiếp:

- Em đi công tác, má em rầy la hoài. Bả nói chỉ còn bả với anh

em cụt chân ở nhà, lấy ai gánh nước, giặt đồ. Bả doạ chụp cổ em cạo

hết tóc. Nhưng em vẫn cứ đi. Hồi đầu hợp pháp, nhưng sau tụi ấp

về kiếm bắt, em chạy bất hợp pháp rồi vào du kích xã luôn.

Tôi hỏi:

- Em bao nhiêu tuổi rồi?

Cô trả lời và kể luôn:

- Em 19 tuổi. Có người đã đến nói em, má em nhận lời nhưng

em không chịu, em đem trả lễ. Bởi vì người con trai đó không chịu

đi làm cách mạng, ngày ngày cưỡi Honda đi chơi. Em bảo anh ta đi

làm cách mạng, anh ta nói sợ khổ, không dám đi. Em liền hỏi: "Khổ

là khổ thế nào?". Anh ta trả lời: "Khổ là nằm bờ nằm bụi, ăn uống

thiếu thốn". Em lại nói: "Anh chỉ nhìn thấy cái khổ trước mắt mà

không thấy cái sướng lâu dài. Đi làm cách mạng có cái vinh dự là

người cầm súng bảo vệ đất nước, đấy là cái sướng nhất".

Lan kết luận:

- Sau này, có lấy chồng, em cũng lấy anh em cách mạng thôi!

Tôi hỏi:

335

- Từ ngày vào du kích, em đã đánh trận nào chưa?

Vừa lúc ấy, một quả đèn dù nổ bụp ở hướng Đông. Lan chỉ về

đó:

- Có chứ, đánh ở chỗ thả đèn dù ấy. Mật tập anh à. Nhưng em

chỉ được đánh một trận thôi, còn chủ yếu là bám tuyến dẫn khách.

Ngày 17/3/1972

Cả vùng An Thái chưa xoá sạch dấu tích của sự hoang vu. Hồi

tháng 8/1970, 36 xe ủi và gần 200 xe quân sự Mỹ nguỵ đã tập trung

cày ủi nơi này. Giờ đây không còn một bóng cây to. Chỉ có những

đám điền thanh và bãi cỏ tranh mênh mông. Xen vào đó, lưa thưa

những túp lều. Từng chòm, từng chòm có những khóm chuối, bụi

mía, vườn rau. Lúc này đã cuối mùa rau rồi. Rau cải, rau cúc đều

đã ra hoa vàng tươi hoặc đã kết quả lăn tăn. Những cây cà chua

đầy những quả xanh và những bông hoa vàng. Một đoá hoa hồng

bẽn lẽn nép bên đám cỏ, nở nụ cười hồng tươi. Gió thật tinh nghịch,

chọc ghẹo hết thảy cây cỏ làm chúng cười xào xạc mãi.

Anh Nở - bí thư chi bộ - có đôi mắt hơi mờ, đục, dáng chậm

chạp, nói chậm chạp. Anh có vợ và 6 con. Lúc này, anh chỉ còn 4

đứa con gái tuổi 13, 14 trở lại. Anh nói:

- Có 6 đứa, nhưng đất nước mới chia một đứa, Mỹ cướp một

đứa, còn bốn.

Anh dẫn tôi ra một nơi vắng vẻ, giữa đồng không mông quạnh

mà làm việc. Qua câu chuyện, cho thấy anh nắm rất chắc địa bàn,

địch, ta. Tại thôn An Thái nhỏ bé này, địch tập trung đủ các loại lực

lượng để kìm kẹp dân. Thường xuyên có 1 đại đội Cộng hòa, 6 cố

vẫn Mỹ,1 trung đội cảnh sát, 1 đại đội Bảo an, 2 đoàn Bình định, 3

toán Thanh niên chiến đấu, 3 toán Phòng vệ dân sự, 12 tên ngụy

quyền xã, 4 tên ngụy quyền thôn, có lúc lên đến 1 tiểu đoàn Cộng

hòa, 1 trung đội Mỹ. Hiện nay, chúng vẫn duy trì lực lượng như

trên, đóng 5 chốt điểm, tăng cường 1 đại đội Bảo an. Đồng bào ở đây

chủ yếu sống bằng nghề nông, nghề buôn. Trước đây, vì nơi này có

336

thị trấn Tam Quan, có đường số một chạy qua nên dân số khá đông

- gần 4.000 người, nhưng do chiến tranh, chạy tứ tán, nay chỉ còn

trên 2.000 người. Từ trước tháng 4 năm 1971, phong trào còn yếu,

cán bộ không trụ bám tại chỗ được mà chỉ bám quanh rìa, nhưng từ

tháng 5 năm 1971 đã bám được. Các đồng chí Trì, Tiếp, Khánh,

Tăng, Thảo gài đạn pháo 2 lần diệt 19 tên Bảo an, làm bị thương 7

tên. Địch phải co lại. Tuy nơi này cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt,

nhưng cán bộ không một ai đầu hàng, đầu thú, chỉ có một số ít bỏ

việc, trốn đi vùng khác làm ăn. Hiện lực lượng ta có 7 đảng viên, 30

cán bộ, 12 đoàn viên, 1 đội du kích thôn, 5 tổ gồm 15 du lích mật.

Tuy lực lượng ít, ta vẫn luôn luôn bám tuyến, diệt địch, hỗ trợ đồng

bào đấu tranh.

Nghe tiếng súng nổ gần, tiếng trực thăng quần lượn, Nở đứng

dậy nghển cổ nhìn, rồi nói: "Đi ra công sự". Anh dẫn tôi đi vòng vèo

trong bãi tranh, tới một nơi có mấy cây điền thanh mọc cụm lại, chỉ

xuống đất, nói: "Ngồi xuống đây". Chúng tôi lại tiếp tục làm việc.

Anh dặn tôi đạp nhẹ chân, đừng để lại dấu vết. Có lẽ công sự nằm

quanh đây, nhưng tất nhiên tôi không thể phát hiện ra nắp nó.

Chừng 9, 10 giờ, anh lại dẫn tôi về nhà. Chị vợ anh đã đi chợ

về, đang ngồi bó rau muống. Con Sáu đang đau, ngồi cù rù cạnh mẹ

nó. Con Bốn đang ngồi chặt cây cải giống. Hồi nãy, con Bốn và con

Năm cứ đánh bi ăn cõng với nhau miết. Hễ đánh trúng 3 lần liền là

được cõng. Con Năm luôn ăn gian, dúi hòn bi vào sát hòn bi của con

Sáu mà đánh, làm con Sáu phải cõng hoài. Chúng không được đi

học và cũng chẳng có trò chơi gì hấp dẫn hơn trò chơi ấy, nên mặc

dù phải cõng chị nặng tới ngã dúi xuống, con Sáu vẫn cười như nắc

nẻ. Xen vào tiếng cười của chúng là tiếng máy bay trực thăng bay

phành phạch rất thấp.

Anh Nở lại đưa tôi qua ngồi ở một nhà khác, dặn:

- Anh cứ ngồi đây, có chuyện gì tôi sẽ chạy tới. Ngồi đây kín

hơn, chạy dễ.

Anh tranh thủ ra cưa hom trồng sắn. Tuy bị thương nhiều lần,

sức yếu, mắt mờ đi, ống xương tay trái bị mẻ một miếng lớn, anh

337

vẫn có cái rắn chắc của người nông dân. Đám đất mới thu hoạch rau

xong được anh xới tung lên, vun thành từng vồng thẳng tắp. Chị Nở

đang gánh một gánh rau muống nặng trĩu, kĩu kịt đi tới.

Chiều tối, đi về phía ấp công tác. Vẫn đi qua cánh đồng. Loại

cây trồng lớn nhất, nhiều nhất ở đây là chuối. Thỉnh thoảng mới có

một cây dừa cao vút, lá tơi tả. Có những cuộn dây thép gai bùng

nhùng bò lạc lõng trên đồng, đã bị mưa gió làm hoen rỉ. Cách không

xa lắm là khu dồn và đồn địch với những mái nhà tôn và mấy cái

pha đèn loá nắng. Một con kênh nhỏ nước chảy lặng lờ với cái cầu

sắt bắc ngang bị gẫy gục, rỉ đỏ nhem nhuốc. Muốn qua con kênh ấy

phải leo lên những cây đước. Những cây đước thật lạ, cành, rễ

nghênh ngang mọc kín cả mặt kênh, tạo thành những cái cầu cheo

leo. Qua kênh, đi vào một cánh đồng lúa nhỏ. Những khóm lúa lùn

nở to, cây mập, xanh đậm đà.

Ngày 18/3/1972

Đang ngủ say thì giật mình choàng dậy vì tiếng đạn cối nổ. Hị

nói: "Coi chừng nó tập kích". Tất cả trở dậy cuốn võng, thu dọn đồ

rồi vào hầm núp. Tiếng cối 60 vẫn nổ "Pốc... đùng! Pốc... đùng!".

Nở dẫn tôi tới công sự. Có khả năng địch càn. Đi một hồi, rẽ vào

một đám đất, Nở ngồi xuống. Lát sau anh than thở: "Chết cha rồi,

họ đào củ ngay trên nắp hầm mình!". Anh dẫn tôi tới một công sự

khác. Chỗ này, nhiều người tới lui quá nên đất bị mòn thín đi, địch

dễ phát hiện dấu vết. Nở lại dẫn tôi về công sự hồi nãy. Anh ngồi

thừ một lúc rồi đứng lên, nói: "Không được, không được! Đất mới

quá, phải có người nghi trang chứ không tự nghi trang được". Nở

thật là cảnh giác. Anh bảo tôi xuống hầm rồi đi kêu một anh khác

xuống ở cùng. Còn anh thì đi cảnh giới.

Hầm hơi chật nhưng có tới 4 lỗ thông hơi rộng nên rất thoáng,

mát. Tới 10 giờ nghe 3 phát súng nổ liên tiếp, anh Sáu nói: "Nó rút

đấy!". Lát sau, nghe có tiếng gõ đều đều trên miệng hầm và tiếng

anh Nở gọi: "Lên hử".

Hồi sáng sớm, địch cho 20 tên mò lên nhưng chỉ ở ngoài tuyến.

Chúng gây nên những đám cháy ở gần, khói ùn ùn bốc lên.

338

Ngày 19/3/1972

Dự đại hội Đảng uỷ xã. Lúc giải lao, chợt nghe một tiếng nổ

ầm. Chị Cẩm kêu: "Chết rồi, mìn mo". Một loạt súng rộ lên, có kèm

cả tiếng M.79 "Tập kích! Tập kích!". Mọi người vội vàng vơ đồ đạc,

chạy về phía đã định trước. Cũng may, tôi đã khắc phục được tính

luộm thuộm, đồ đạc để gọn trong một bao nên không bị thất lạc gì.

Ngày 21/3/1972

Tiểu đoàn một Cộng hoà càn ở An Thái. Chúng đốt cỏ cây cháy

rừng rực suốt ngày. Chúng bắt một ông già dẫn đường. Tới một khu

vực, ông già ngồi lại, nói:

- Ở khu vực này Cộng sản gài nhiều lựu đạn lắm, tôi không biết

đường. Các ông đi thì đi!

Bọn địch lướ quớ mò đi. Một quả cối 81 cải tiến nổ tung làm

chết hai tên, bị thương một tên.

Khắp nơi trên xã này đều cắm những bảng cấm địa. Khi địch

tới, những bảng ấy lập tức biến mất và đất dưới chân chúng trở

thành bom mìn giết chúng.

Ngày nào địch cũng có chết lẻ tẻ 2, 3 thằng. Khi thì bị du kích

mật dùng lựu đạn đánh. Khi thì bị xuông mìn, lựu đạn. Hôm chúng

tập kích chúng tôi ở Xuân Lạc, chính chúng bị xuông lựu đạn chết

3, bị thương 1 chứ không phải chúng đánh mìn như chúng tôi

tưởng. Du kích đang gác, thấy nổ liền trốc M.79, quạt tiểu liên qua.

Bị thất thế, mấy thằng còn lại lặng lẽ rút lui.

THƯ ĐỒNG CHÍ

Ngày 1/4/1972

Thân gửi Long, Chi, Tân

Trước tiên, mình báo để Long và Chi biết là thời gian về không

phải như trước là tháng 5 mà khi nào có điện gọi về thì về. Như vậy

339

là nếu có người trong Tuyên huấn ra lĩnh máy, tin cậy thì gửi phim

ra. Còn anh Tân thì cũng cố xoay xở xem ở địa phương có người ra,

cùng với Nên, mang máy móc về làm. Ngoài này người phần thì đi

công tác, người đi bổ sung theo yêu cầu phía trước, người ra Bắc xin

hàng, nay lại thêm một số đi nhận hàng và sắp sửa đi chuyển hàng

nữa. Thế là hết người. Mình được tin là máy phóng và phim, thuốc

giấy đã vào. ái cũng đã trên đường áp tải hàng vào. Dồn dập nhiều

việc, đòi hỏi nhân lực khá căng.

Anh Huy Minh vừa gửi thư vào cho biết là đã gặp ông cụ của

Việt Long, ông cụ phấn khởi nghe tin Long mạnh khoẻ, tiến bộ, gia

đình vẫn khoẻ. Ông cụ có gửi cho Long lá thư đề ngày 1/11/1971

kèm theo bức ảnh của em Long là Việt, hiện đang đi Công an vũ

trang.

Mình giữ một trong số nhiều ảnh hôm chúng ta chụp ở thôn

Tư, anh Phò mang ra đưa cơ quan, nay phóng xong gửi vào. Chị

Sáu có viết thư hỏi thăm anh em mình, (gửi tháng 9/1971), trong đó

kèm một lô ảnh gia đình mình.

Anh Huy có đến thăm gia đình chị Hà ở Thuỵ Khuê, anh chị có

hỏi thăm nhiều về anh Tân.

Còn Chi không biết có ai là người thương ở ngoài đó không thì

không biết?

Hồ Ca đã về đến địa phương công tác, tương đối có nhiều thuận

lợi, được gặp phần lớn cán bộ quê đều ở Bình Định. Hồ Ca ăn cái tết

to nhất từ khi vào trong này.

Hữu Quả có tạt qua về nhà gần 10 ngày đưa một số tin và bài,

mang một số phim ảnh của Hoàng Chung về, mình đã gửi anh Long

(Huấn Học) ra chữa bệnh mang ra. Trên đường trở lại địa phương

công tác, Quả bị sốt, phải nằm ở trạm mất ít ngày, nhưng Quả phấn

khởi lắm.

Quảng thì hơn một tháng nay không viết thư về; tin tức cũng

không thấy gửi về vì đường liên lạc bị đứt (do địch càn). Mình hỏi

thăm thì thấy vẫn an toàn, nhưng phải lẩn hơi vất vả. Tình hình

340

chỗ Quảng công tác có khó khăn về địch, khó khăn hơn chỗ các bạn

công tác.

Mình và Chu vẫn khoẻ, đôi khi hơi bận vì Chu thỉnh thoảng

phải đi gùi, sản xuất đột xuất, công việc ngày càng nhiều.

Ở nhà rất mong anh Tân về để làm một số ảnh phục vụ phong

trào chung toàn miền. Khi về, nếu có thể được, anh Tân xin được

phim thì càng tốt, nếu không thì chọn những ảnh có thể tuyên

truyền được, chụp lại, để dùng triển lãm. Những ảnh đấu tranh của

đồng bào trong các thành thị rất cần. Nhưng nhớ ghi cả chú thích

cho rõ.

Ở nhà có nhận được thư của Tuyên huấn tỉnh gửi ra, nói về

tinh thần làm việc của anh em mình tốt, ca ngợi sự tận tuỵ của anh

Tân. Mình cũng rất mừng và tự hào về anh em mình. Anh em cố

gắng phát huy thêm tinh thần công tác hơn nữa để xứng đáng với

sự tin cậy của cơ quan.

Mình nhờ anh Tân, nếu có thể được và có điều kiện, mua giúp

cho chiếc đài như chiếc đài anh mua cho Tứ. Đài của mình Chu lấy

lại rồi.

À quên, xin báo cho Việt Long biết là "người cùng chụp ảnh với

Long" đã lên đường đi công tác ở địa phương mà Quả hiện nay đang

công tác, thời gian 3 tháng. Có gửi lời hỏi thăm anh em, nhất là

Việt Long đó.

Các bạn nhớ luôn viết thư nhé.

Vũ Đảo

Ngày 5 - 8/4/1972

Một loạt tin chiến thắng từ Trị Thiên, Nam Bộ, Tây Nguyên

đưa về làm náo nức lòng người. Nghe những bài tường thuật, ghi

nhanh về những trận đánh cao điểm 544, gặp tù binh Huỳnh Thúc

Mẫn... càng thấy chộn rộn, muốn được lao tới chiến trường, muốn

được tận mắt thấy chiến thắng và được viết về những chiến thắng

ấy. Đã tới lúc chúng ta giáng vào đầu kẻ địch đòn quyết định để

giành chiến thắng.

341

Ngày 9 - 11/4/1972

Tới làm việc ở Ban chỉ huy Mặt trận Tiền phương.

Tại đây, các bộ phận đều ở theo kiểu dã chiến - dựng khung,

dăng tăng chứ không lợp lá, che dừng. Anh Ba, anh Lợi cũng ở như

vậy. Tuy nhiên, vệ binh đã đào cho hai anh những căn hầm rất

rộng, chắc chắn để chống phi pháo, có thể ngủ và làm việc dưới đó

được.

Đủ các bộ phận phục vụ cho bộ não của chiến dịch: tham mưu,

chính trị, đài 15 Wat, đài 2 Wat, K.63, cơ yếu, liên lạc, vệ binh...

mỗi người đều bận túi bụi với công việc của mình.

Mỗi ngày giao ban 3 lần nên nắm tình hình rất chắc. Bao giờ

cũng vậy, tới giờ giao ban là một tấm bản đồ quân sự lớn có đánh

dấu sẵn được trải ra trên chiếc bàn lớn giữa nhà. Mọi người ngồi

quây xung quanh, theo dõi. Một đồng chí phụ trách bộ phận "đài kỹ

thuật" (đài theo dõi đài địch) đứng báo cáo tình hình địch qua theo

dõi báo cáo của chúng: các vị trí đóng quân, hoạt động của địch,

địch phát hiện ta. Rồi đến phần văn phòng báo cáo tình hình ta qua

tin của địa phương. Rồi anh Lợi khái quát lại tình hình, nhận xét

và ra chỉ thị. Anh là Thường vụ Khu ủy, còn có tên là Bảy râu. Anh

cao to, râu quai nón lúc nào cũng cạo nhẵn, da hồng hào, trán hói,

có giọng nói trầm trầm, chắc chắn, rất ít nói, nói rất ngắn, gọn. Anh

thường ngồi chống hai tay vào cằm nhìn qua nhìn lại trên bản đồ,

đôi lúc có vẻ lơ đãng nhìn lên trần nhà nhưng nắm rất chắc bản đồ

và tình hình. Đôi khi báo cáo viên chỉ sai bản đồ hoặc nói lộn, anh

chỉ lại, nói: "Sao còn thanh niên mà lẩm cẩm dữ vậy?". Có lúc, báo

cáo viên nói 12 xe bọc thép xuống An Túc mà chỉ tuốt xuống phía

dưới, anh nói: "Sao ? Sao, xuống tới gần thị xã rồi à? Đang trông nó

xuống mà không được đây!". Khi chỉ thị về việc sắp tới, anh nói

chậm - chậm như người đọc chính tả vậy.

Đêm 8 rạng 9-4, quân ta đã đánh Gò Loi - vị trí tiền tiêu của

Hoài Ân, mở đầu cho hàng loạt trận tiến công dữ dội vào các vị trí

địch trong toàn tỉnh. Địch phản ứng rất yếu ớt. Sau 29 phút, Gò Loi

342

với một đại đội, ban chỉ huy liên đội Bảo an số 48 bị diệt gọn - chỉ

sống sót một tên.

Anh Lợi đánh giá cao chiến thắng này. Gò Loi, từ khi Mỹ xâm

lược tới nay, luôn là một vị trí tiền tiêu quan trọng của địch, nay là

căn cứ tiểu đoàn địch, lực lượng địch được củng cố vững, gây tội ác

dai dẳng, gom dân, kẹp quần chúng, khống chế cả một vùng từ Ân

Hữu qua Ân Nghĩa. Với ta, Gò Loi là vị trí đầu cầu, làm bàn đạp để

tiến công các vị trí khác. Cần kết hợp tốt điệt địch, chốt lại, tảo trừ

địch, phát động quần chúng.

Những ngày sau, địch điều quân lung tung để đối phó: đưa tiểu

đoàn một Cộng hoà từ Hoài Nhơn vào, bị diệt 2 đại đội, vội vàng

dùng trực thăng bốc ra Thành Sơn (Hoài Châu) và điều Tiểu đoàn 3

thuộc Trung đoàn 40 vào. Các đồn khác bị bộ đội, đồng bào bao vây,

đã bỏ chạy.

Trong vùng địch kiểm soát ở Hoài Nhơn, chúng giới nghiêm,

không cho người nhà vào thăm lính, cấm nghe đài cách mạng.

Chúng mở chiến dịch "Lòng mẹ", bắt gia đình cách mạng phải tập

trung học tập. Chúng phát động quần chúng viết đơn tình nguyện

di dân, ai đi đầu được chúng cấp 600.000 đồng. Nhưng du kích vẫn

hoạt động - du kích Tam Quan Bắc kết hợp với binh sĩ ngụy làm

binh biến diệt 12 tên.

Tuy quân sự đánh mạnh, nhưng do cán bộ địa phương không

xáp nên quần chúng nổi dậy kém. Ngày đầu, đồng bào còn chui

xuống hầm, để bò chạy ra đồng ăn lúa... Anh Ba, anh Lợi liền phái

người xuống uốn nắn. Tinh thần chỉ đạo của Ban chỉ huy Mặt trận

tiền phương là: Nhanh chóng phá các khu dồn, tấn công các đồn còn

lại, thuần khiết nội bộ, xây dựng thôn xã chiến đấu. Liên tiếp tổ

chức hội nghị cán bộ các ngành, giới của từng thôn với thời gian họp

rất ngắn (từng đêm một) để hướng dẫn nhiệm vụ, cách làm việc.

Không được tổ chức những cuộc họp dài ngày trong thời kỳ nổi dậy

này. Với những thôn mới mở ra chưa có đảng viên, đoàn viên, thì

lựa quần chúng tốt dự các cuộc họp này, hướng dẫn họ về cách phổ

biến tình hình, chính sách, nhiệm vụ, phát động quần chúng, phát

hiện và truy tróc tề điệp. Nhanh chóng dãn dân và tổ chức phòng

343

không ở những khu vực đông đảo; nơi nào chậm trễ để dân bị thiệt

hại thì cấp ủy nơi đó phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Với những

nơi địch đang bỏ trống, phải nhanh chóng xây dựng thôn xã chiến

đấu. Cùng với bao vây đồn bốt phải chiếm và phá các trục giao

thông, bao vậy quận lỵ. Nhanh chóng khắc phục sự chậm chạp của

công tác binh vận. Những ai làm việc cho địch đều phải trình diện.

Tất cả mọi người đều tham gia các tổ chức cách mạng, ra sức phục

vụ, liên tục tiến công. Tổ chức ổn định đời sống nhân dân: ăn ở, sản

xuất, trật tự, vệ sinh, y tế, giáo dục, đoàn kết, tương trợ nhau. Kêu

gọi binh lính về với nhân dân.

Nhiều đồn địch - trong đó có đồn đồi Xã - bỏ chạy. Đó là thiếu

sót của ta. Yêu cầu bây giờ là phải tiêu diệt hoặc bức hàng. Anh Ba

xuống Hoài Ân trực tiếp kiểm tra, chỉ đạo.

Ngày 12/4/1972

Cần có những bài ghi nhanh ngắn, sôi nổi phản ánh khí thế

hiện nay, tôi đi Hoài Nhơn.

Anh Lợi gặp riêng, dặn dò thêm tôi một số vấn đề. Ngoài việc đi

viết, tôi còn phải truyền đạt một số ý kiến của anh cho Huyện uỷ và

nắm tình hình về báo cáo cho các anh. Anh cho biết: Đêm nay sẽ

tổng công kích. Hoài Nhơn sẽ đánh lớn, trong đó có Đồi Mười, thị

trấn Tam Quan, Trung đoàn bộ Trung đoàn 40. Khi ta đánh mạnh,

địch sẽ co về giữ quận lỵ, căn cứ và các trục giao thông. Ban chỉ huy

mặt trận tiền phương chỉ thị cho Hoài Nhơn: Giải phóng đại bộ

phận nông thôn, tiến lên giải phóng hoàn toàn địa bàn. Tám xã

phía Bắc có phong trào cao, cần phát triển xuống phía Nam. Không

trông chờ các cú đấm quân sự mà phải chủ động hoạt động, từng xã

chủ động tổ chức binh vận, tấn công và nổi dậy cho kịp thời cơ. Truy

bắt cho hết bọn điệp ngầm. Trong 2 ngày 1 đêm phải tổ chức đào

xong hầm hố chống phi pháo, rào làng chiến đấu. Ngày đêm đều cho

quần chúng thanh viện, phát loa uy hiếp tinh thần địch. Huy động

hàng loạt thanh niên vào việc vận chuyển lương thực lên căn cứ

cách mạng. Du kích phải đứng trên đường số một, cắm biển ghi rõ

"Vùng giải phóng", hoặc "Quân Giải phóng đang kiểm soát". Tôi ghi

chép đầy đủ ý kiến chỉ đạo của anh Lợi và lên đường.

344

Trạm giao liên nằm ở một nơi thấp, bị núi chắn nên đêm nay

tôi không thể nhìn xuống đồng bằng mà xem những chớp lửa tiến

công của ta được.

Ngày 14/4/1972

Về tới Hoài Châu, gặp dân, lại được sống trong không khí tấn

công sôi nổi và trong tình thương yêu sâu sắc. Chốt Gò Vàng đã bị

diệt. Chốt Liễu An đã tháo chạy. Bởi vậy, chúng tôi xuống núi rất

sớm. Nghe tiếng súng nổ ròn ở phía đường cái - du kích đang đánh

bọn địch rút chạy. Đồng bào thể hiện niềm phấn khởi ra mặt, cười

nói hể hả. Tuy nhiên, cán bộ thì đang lo sốt vó. Thế là để xổng mất

một chốt địch rồi! Nếu cứ để tiếp tục như vậy, sau này sẽ khó khăn

cho ta, nhiệm vụ khởi nghĩa của địa phương không hoàn thành.

Anh Đức chạy xuôi chạy ngược, đôi khi phải hò hét nữa, để đốc thúc

công việc.

Khuya, xuống Tam Quan Bắc một cách dễ dàng.

Ngày 15/4/1972

Đi tìm gặp bộ phận tiền phương của Huyện uỷ. Đang đi thì

thấy từ phía thị trấn Tam Quan bùng lên một chớp lửa đỏ đậm và

một tiếng nổ lớn. Tiếp đó, hàng loạt tiếng nổ hoà theo rộn rã: súng

liên thanh, lựu đạn, B40... Lúc ấy là 1 giờ 10 phút. Địch hốt hoảng

bắn đèn sáng rực.

Cùng với tiếng súng tiến công của quân Giải phóng, khắp nơi

vang lên tiếng trống mõ, thanh la, thùng thiếc thanh viện của quần

chúng.

Tiếng nổ vẫn rộn vang. Vào khoảng phút thứ 15, 20, một tiếng

nổ lớn lại bùng lên, một khối lửa đỏ đậm phụt lên cao rồi khói đen,

khói vàng cuồn cuộn bốc lên. Bầu trời đang được pháo sáng hắt vào

tạo thành mầu trắng xanh bỗng mờ đi, chuyển thành mầu nâu sẫm.

Khói bao phủ cả bầu trời thị trấn Tam Quan.

345

Ở một nhà, tôi thấy một bà già người nhỏ, ốm, cầm ra một

miếng tôn lớn. Bà kêu: "Thanh viện đi chớ! Vả, sao không đánh đi?".

Bà dùng cây đập rất mạnh vào tấm tôn. Có lúc mỏi quá, bà đặt

xuống nghỉ rồi lại đánh. Một ông già đem cái chuông đồng ra ngõ

đánh kêu keng keng. Mọi người nói "Đem đến gần điểm đánh cho

nó nghe rõ, nó sợ!" và xách dụng cụ ra ngõ đánh.

Khoảng 25 phút, trận địa im đi một lúc rồi lại rộ lên. Tiếng nổ

nổi bật là tiếng mìn hoặc B40 - nổ rất to, bùng lên những khối lửa

lớn. Rồi đến tiếng AK nổ đanh, gọn mà ấm. Có những tiếng đại liên

xổ từng tràng dài.

Khoảng 4 giờ sáng thì cơ bản im tiếng súng. Địch phản ứng

pháo rất dữ. Có 2 chiếc Đa cô ta bay cao tuốt trên trời, bật đèn đỏ

lập loè, xổ ra hàng dây đạn lửa đỏ rực, rống lên ồng ộc.

Chúng tôi ra Trường Xuân để giảm bớt số người ở phía trước,

đề phòng phi pháo. Trời gần sáng rồi. Vội vàng leo lên xuồng chống

đi. Nước cạn quá, phải lội xuống đẩy. Lúc sâu lại leo lên chống.

Người ướt mèm. Hừng đông rồi. Con sông nằm trong tầm mắt của 2

chốt địch. Súng nổ rộ khắp nơi. Chúng tôi cột thuyền, chạy lên bờ,

vượt một bãi đất nữa rồi chạy dọc một mép sông. Nghe bên bờ bên

kia có tiếng gọi: "Qua đây!". Chúng tôi chạy qua. Đồng bào đã chờ

sẵn. Giữa sông có một chiếc thuyền nhỏ đặt một mô hình khẩu súng

lớn - có lẽ để nghi binh địch.

Vào xóm Xuân Lạc. Đồng bào đang chuẩn bị nổi dậy. Một phụ

nữ vác một cái giáo dài, kêu: "Mau mau đi chứ!". Có những tiếng gọi

nhau, tiếng chỉ thị tập trung đại đội, trung đội... Tất cả sắp xếp vào

đội ngũ để có lệnh là tiến tới vây đồn địch.

Chiều, tôi làm việc với các đồng chí trong bộ phận tiền phương

của Huyện uỷ, truyền đạt tinh thần chỉ đạo của Ban chỉ huy mặt

trận tiền phương và nắm tình hình chung trong toàn huyện. Có

những tin tức từ thị trấn Tam Quan báo về: Nhiều khu địch ở trong

thị trấn đã bị đánh nát. Ta đánh tiêu diệt toàn bộ chi khu, đánh

thiệt hại nặng quận lỵ. Diệt gọn 1 đại đội pháo Cộng hòa của tiểu

đoàn 30 gồm 6 khẩu pháo. Diệt 1 đại đội Bảo an giữ chi khu. Tên

346

thiếu tá chi khu trưởng, 2 tên cố vấn Mỹ và tên phó quận trưởng bị

chết. 2 kho đạn, 1 kho xăng bị phá huỷ. Nhiều tên Bảo an khác bị

diệt. Đồng bào xôn xao bàn tán, hả hê vui mừng trước thắng lợi của

ta. Những bà mẹ, cô gái kể tội bọn ác ôn trong thị trấn cho chúng

tôi nghe: đánh đập, lột quần áo, giam giữ, hạch sách...

Ngày 16/4/1972

Ở tại thôn An Thái. Mới hôm qua, đồng bào chuyển thương

binh tới đây chăm sóc để chuyển về tuyến sau. Ai cũng thấy rõ sức

mạnh của ta, thấy sự suy yếu của địch. Bà con so sánh sự phản ứng

của chúng bây giờ đã yếu hơn trước nhiều: "Trước kia mà đánh thế

thì chúng vãi bom vãi đạn vào đây. Bây giờ thì chỉ có ít quả pháo".

"Trước kia mà đánh thế thì trực thăng nó chụp quân liền. Bây giờ

cả ngày không có một chiếc!".

Cô Canh về báo: du kích, đồng bào đã vây chặt chốt Tân

Thành, Cống Thạnh.

Đêm 15 rạng 16-4, ta cũng đánh vào khu Nhà thờ Dốc (trụ sở

của Trung đoàn bộ Trung đoàn nguỵ số 40). Sáng nay địch còn bắn

pháo về phía đó, có lẽ ta còn làm chủ trận địa. Đường số một đã bị

cắt đứt.

Ngày 17/4/1972

Bộ đội đóng trong thôn. Anh em đều trẻ, khoẻ, chắc nịch. Sau

khi đánh Tam Quan, anh em lại về phối hợp với du kích đi đánh

bọn địch trài (nống ra xung quanh), đánh những đồn lẻ. Ngày nào

địch cũng chết. Hôm kia, du kích bắn B40 vào chốt Công Thạnh,

sập một số lô cốt, chết 6 tên. Hôm qua, du kích bắn cối vào Trung

đội Dân vệ số 4 (người ta gọi là Trung đội thằng Trà, thằng ác ôn

khét tiếng), chết và bị thương 6 tên. Các chốt khác cũng bị du kích

ém, bia tỉa suốt. Địch rất hoảng sợ, xoay xở lung tung mong thoát

chết. Chúng ra ngoài rào hoặc rúc trong bờ trong bụi mà trốn.

Chúng kêu pháo, cối bắn lung tung. Sau nhiều năm im ắng, bây giờ

pháo, cối lại nổ giữa thôn xóm. Một quả cối nổ trước sân bà Tịnh

làm Bích bị thương.

347

Ngày ngày, đồng bào vẫn đi vây đồn bốt. Hai ngày đầu khí thế

tốt, địch xoa dịu. ở Mỹ Lộc, đồng bào đã giật lựu đạn của một tên

lính. Nhưng hôm nay thì chúng quay ra đàn áp. Hai người đã bị

thương vì chúng bắn. Nhiều người bị chúng đánh.

Ở miền Bắc, giặc Mỹ cũng leo thang bằng không quân, đánh tới

Hà Nội, Hải Phòng, bị ta bắn rơi 12 chiếc, có một B52.

Gần đến ngày chết, kẻ địch dãy dụa thật điên cuồng. Nhưng

chúng ta quyết làm quyết liệt hơn nữa. Đồng bào nói: "Cứ đánh tới

đi, đừng dừng lại, đừng để chúng quay lại giày xéo bà con!".

Tôi gặp gỡ bà con, du kích, bộ đội, lấy thêm tài liệu, viết một

bài ghi nhanh như sau:

Tam Quan, những ngày đầu tấn công và nổi dậy

Đêm nay, đồng bào Tam Quan không ngủ. Mọi người ùa ra các

sân nhà, leo lên các nóc hầm vui sướng nhìn về phía thị trấn đang

rung chuyển trước đòn tiến công của quân Giải phóng. Hàng loạt

tiếng nổ vang lên ròn rã như pháo tết. Một tiếng nổ lớn vang lên

giữa thị trấn làm cho những mái nhà tôn khẽ rung lên, kêu ken két.

Một cột lửa bốc cao, cuộn khói mù mịt, chuyển bầu trời thị trấn từ

mầu sáng bạc qua mầu nâu sẫm. Một người đàn ông kêu lên:

- Rồi đó! Kho xăng, kho đạn nổ tung rồi đó!

Mọi người nhón gót cao lên như muốn nhìn tận mắt sự đền tội

của kẻ thù. Trong niềm vui đột ngột, mọi người quên bẵng đi công

việc mà mình phải làm. Lúc ấy, một bà má bỗng kêu lên:

- Ủa, im khô vầy sao? Thanh viện đi chớ!

Bà chạy vô nhà, xách ra một cái kẻng làm bằng mảnh bom,

dang tay dùi gõ mạnh. Tiếng kim khí vang lên lanh lảnh. Những

người khác cũng vội vàng xách thùng thiếc, chuông, trống ra gõ liên

hồi. Một ông già xách cái chuông đồng vừa gõ vang vừa nói:

348

- Xịch ra ngoài này, gần chốt điểm, gõ cho bọn nó nghe rõ, bọn

nó càng hoảng.

Mọi người đi theo ông ra sát rào, tay vẫn gõ mạnh những dụng

cụ gây tiếng động. Bọn địch trong các chốt điểm quanh đó hoảng sợ

bắn như vãi đạn ra tứ phía. Nhưng bao trùm lên hết thảy, rộn rã

khắp xóm làng, vẫn là tiếng trống, mõ, thanh la của đồng bào, tiếng

động báo hiệu những ngày nổi dậy bắt đầu.

Ở Tam Quan, chưa bao giờ bình minh lại đến bằng cái huyên

náo, sôi nổi, vui hoạt như những ngày giữa tháng 4 này:

- 1 giờ 10 phút, quân Giải phóng tiến đánh vào tận hang ổ địch

trong thị trấn.

- 1 giờ 20 phút, toàn dân thanh viện.

- Từ đó đến sáng, du kích bắn bia tỉa và bắn cả đạn cối, đạn

B40 tiêu diệt bọn Bảo an.

- 5 giờ sáng, các đội quân khởi nghĩa sẵn sàng lên đường bao

vây đồn bốt địch.

Khi chúng tôi đến thôn Công Thạnh thì gặp mấy du kích xách

súng chạy tới. Một du kích trẻ măng, dáng người chắc nịch, vác

khẩu B40, vừa cười vừa khoe:

- Quả B.40 của em phá sập 1 lô cốt rồi!

Anh kéo bạn chạy tới chỗ Tì - Chính trị viên xã đội. Tì bị

thương ở tay trái vào những phút đầu tiên của giờ nổ súng. Nhưng

anh nhất định không chịu về tuyến sau. Tì gặp mấy du kích, truyền

lệnh:

- Ngay bây giờ, các đồng chí áp sát các mục tiêu đã được phân

công. Đúng 5 giờ, bắn 5 quả cối 60 và 15 phút sau bắn 2 quả B.40

vào chốt Công Thạnh!

349

Chúng tôi lội qua con sông nước mặn, vào thôn Trường Xuân.

Lúc này, trong thôn chỉ có một số trẻ em, người già và thấp thoáng

bóng mấy phụ nữ chạy qua chạy lại. Hầu hết đồng bào ở đây đã tập

trung về nơi quy định để thực hiện mệnh lệnh khởi nghĩa. Một phụ

nữ trạc ngoài 30 tuổi vác một cây đòn xóc nhọn hoắt chạy theo một

ông già, nói gấp gáp:

- Bác về kiểm tra lại Trung đội của bác xem còn thiếu ai thì kêu

gấp tới cho kịp.

Chúng tôi nhìn theo hướng chị chạy, thấy một đoàn người vác

giáo, mác, gậy gộc đang đổ về phía Nam...

Chúng tôi trở lại nơi làm việc của Ban Khởi nghĩa xã. tại đây,

lúc nào cũng bận tíu tít công việc. Mọi người thắp đèn làm việc cả

đêm, mắt trũng sâu xuống nhưng vẫn phấn chấn lạ thường. Mới

qua ba ngày tấn công và nổi dậy, tình hình đã biến chuyển khác

thường. Nổi bật lên là hoạt động của du kích xã, thôn. Lúc này, lối

tính nhẩm số địch do du kích diệt trở nên bất lực, vì nó luôn luôn

tăng vọt. Ngay cả việc ghi vào sổ cũng không kịp, chỉ ghi được mấy

trận chính:

- Trưa 15/4, du kích diệt 7 tên Bảo an tại chốt Công Thạnh.

- Ngày 16/4, du kích vây chặt đồn An Thái, đồng thời đánh tan

tác trung đội Dân vệ số 4 khét tiếng gian ác. Cùng ngày, du kích

phối hợp với bộ đội đánh và làm chủ phố Tân Thành, làm chủ vùng

2, vùng 3 và nhiều thôn khác.

- Chiều 16/4, du kích bắn cối 60 diệt 6 tên thuộc Trung đội Dân

vệ số 4.

Bọn địch quay cuồng chống đỡ, nháo nhào trốn chạy. Lúc thì

chúng chui vào lô cốt bắn vãi đạn ra tứ phía. Lúc thì chúng bỏ đồn,

chui rúc trong bờ bụi để tránh đòn mật tập khủng khiếp của du

kích. Nhưng, Ban Lãnh đạo khởi nghĩa đã kịp thời ra những mệnh

lệnh trừng trị chúng:

350

- Trung đội số 4 đang dã ngoại. Điều cối 60 tới dập khi chúng

qua đồng.

- Đêm nay, lũ Bảo an chốt Thiện Chánh cụm trong lô cốt, cho

B40 bắn vào lô cốt trung tâm.

- Lũ Bảo an đóng ở cầu đã bỏ chốt xuống trốn dưới chân cầu.

Cho một tổ vòng vào hướng Nam bắn lên.

- Tạm dừng việc bắn vào chốt Thạnh Mỹ, đưa đồng bào tới vây,

có khả năng bức chúng hàng.

Anh Thưa, Trưởng ban Khởi nghĩa xã, vừa làm việc xong với

cán bộ các thôn thì anh Bình, chỉ huy trưởng đơn vị X quân giải

phóng Bình Định, đến nói:

- Anh cho dân công đi chuyển đạn lớn về.

Bình nhìn đồng hồ lo lắng:

- Mà lúc này khuya rồi, sợ nước lớn.

Thưa cười:

- Nước lớn đã có thuyền, lo gì. Mà các anh cần bao nhiêu dân

công nào?

Binh đứng dậy:

- Để tôi cho bộ đội cùng đi.

Thưa níu lại:

- Khoan đã, cho anh em ăn cháo vịt rồi hãy đi. Cháo, đồng bào

ủng hộ đó!

Công việc của một ngày tưởng đã hết, bỗng có người đến báo:

351

- Báo cáo anh có 20 dân công phía trong ra.

Thưa nhíu mày:

- Chà, dân công tải thương, tải đạn đều có đủ cả rồi. Hay là cho

số này về?

Nghĩ một lát, anh lại nói:

- Đưa 20 dân công mới đến ra đào hào tác chiến tại thôn Công

Thạnh.

Lát sau, tiếng cuốc đã vang lên thình thịch. Xen vào đó là tiếng

những bước chân rậm rịch, hối hả. ở một xóm nào đó, tiếng gà đã

gáy rộn rã. Nhưng tiếng gà không còn tác dụng báo thức nữa, bởi vì

mọi người không ngủ. ở đây, ngày và đêm đã được nối liền bằng

những hoạt động tấn công và nổi dậy sôi nổi của con người.

Ngày 18/4/1972

Tôi về lại Hoài Châu. Tại các thôn An Quý, Liễu An, Tuy An, ta

đã làm chủ vững, ở suốt ngày. Ngày hôm nay, ta đưa gia đình binh

sĩ lên đồn Hy Thế đấu tranh. Mấy ngày nay, đồng bào vẫn kéo lên

vây đồn bốt địch. Hôm vây chốt Hội An, có tới 6.000 người. Hôm vây

chốt Hy Thế, đồng bào đã xông vào giật súng địch nhưng chưa được.

Địch bắn chết 1, bị thương 2 người. Đồng bào kéo lên hỗ trợ cho Hy

Thế, bọn Bình Đê bắn qua làm chết 2 phụ nữ. Hôm nay, đồng bào

đưa xác chết lên Bình Đê đấu tranh.

Lúa ngoài đồng đang chín vàng. Một số đồng bào tạm nghỉ đấu

tranh để đi gặt, đập. Trên mấy thửa ruộng, tiếng đập lúa đã vang

lên thì thụp.

Ngày 19/4/1972

Du kích bắn M.79 trúng vào một kho đạn của chốt Tân An. Bọn

này vội bỏ chạy xuống chốt Hội An.

352

Hồi trưa, địch dùng ô tô chở quân và tre, cọc sắt xuống lăm le

chốt lại Liễu An. Du kích bắn ra, chúng vội bỏ tre, cọc, lên xe chạy

một mạch. Chúng gọi pháo bắn tới làm bị thương hai em nhỏ, chết

một con bò.

Ngày 20/4/1972

Gần sáng, đang ngủ tại An Quý thì nghe có những tiếng nổ lớn

phía đồn địch. Choàng dậy nhìn về phía ấy. Những chớp lửa vẫn

liên tiếp loé lên kèm theo những tiếng nổ vang. Không thấy tiếng

súng nhỏ đáp lại. Nhưng khoảng 10 phút sau, nghe những tiếng

súng của địch phản ứng rất dữ. Cây đại liên nổ hàng tràng dài.

Tiếng M.79 nổ "Pốc...Đùng! Pốc... Đùng!". Pháo từ Đồi 10, Nhà thờ

Dốc bắn tới nổ chát chúa. Thỉnh thoảng lắm mới nghe tiếng lựu

đạn.

Khoảng hơn một tiếng sau, nghe tiếng gọi người đi cáng

thương. Ca thương đầu tiên đã về: đó là Đức. Gần sáng bạch rồi, vội

chuyển về tuyến sau. Đức được đưa về trạm sơ phẫu. Đức nằm

trong võng, đắp một tấm dù mỏng, người, mặt bôi nhọ nồi đen thui.

Hai vết thương ở bên sườn và đùi còn chảy máu. Cô y tá rửa vết

thương, Đức kêu:

- Nóng quá!

- Không nóng đâu, rát đấy!

- Không, nóng quá, rát tôi chịu được!

Đức cắn răng nằm im cho cô y tá rửa.

Lát sau, một cáng nữa về: Tài. Nghe có những tiếng xôn xao:

"Chết rồi, chết rồi". Có một người gọi: "Chết thì để lại cấp táng,

đừng khiêng đi". Tài chưa chết, chỉ lịm đi vì mệt quá - Tài đã bò từ

đồn địch ra tới nhà cô Đượm - đoạn đường dài khoảng 1 km.

Chờ mãi vẫn không còn người nào về nữa. 5 đồng chí kia đã hy

sinh!

353

Được tin địch khiêng xác 5 du kích lên Đồi 10. Bọn địch thường

lấy xác anh em ta, bắt gia đình chuộc 5 - 7.000 đồng mới cho đem về

chôn. Ban binh vận xã cho người đi tìm cách đưa xác 5 anh em về.

Xế chiều thì đã khiêng được về hết.

Lòng quặn đau khi nhìn những xác đồng chí mình đầy vết đạn,

loang lổ máu. Thảo - xã đội trưởng - bị một viên đạn xuyên vào gò

má bên phải. Mới cách đây ít lâu thôi, Thảo còn ngồi kể cho tôi nghe

về chiến công của đội du kích xã tiêu diệt chốt An Quý, chốt cầu 99.

Đứng quanh xác đồng chí, những cô du kích khóc nức nở. Ai mà

cầm lòng cho đậu khi phải vĩnh biệt những người đồng chí từng sát

cánh chiến đấu với mình, từng chung vui, chung lo, nhường cơm xẻ

áo cho nhau? Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, tôi không khóc - tôi chưa hề

khóc trước một cái tang nào, mặc dù những lúc ấy tôi thấy tim

mình đau nhói, lòng mình quặn thắt. Có điều, tôi suy nghĩ, suy

nghĩ triền miên. Suy nghĩ sâu nặng về cái sống và cái chết, về tình

đồng chí, về công việc của mình. Đã nhiều lần tôi đi thẳng tới

những nơi mà cái chết đang rình mò, lòng vẫn thanh thản và tự đặt

cho mình 3 cách xử lý: một là, diệt địch để sống, hai là chạy thoát,

ba là chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

Những người du kích đã hy sinh, nhưng quê hương còn ghi nhớ

mãi chiến công của họ. Đêm ấy, họ không có B.40 vì cho xã bạn

mượn - nên không diệt được lô cốt đại liên. Tuy nhiên, họ đã diệt

được 6 lô cốt với 2/3 số địch trong Trung đội Bảo an đóng ở đây.

Tình hình vẫn phát triển rất thuận lợi. Ngày 19-4 quân ta đã

giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Ân. ở ba xã phía Tây Bắc Hoài

Nhơn này, địch rút chạy khỏi hàng loạt chốt, dồn xuống phía đông.

Du kích An Quý kết hợp với du kích xã vẫn liên tục bao vây,

bia tỉa địch ở Trường Cơ bản (chốt An Quý). Bọn địch đã bổ sung

một số quân về đây, đang xây lại công sự. Bốn phát M.79 của du

kích bia vào diệt được 2 tên địch. Chúng kêu pháo dập tới liên hồi.

Chúng tôi nhìn thấy một ngôi nhà tôn tung lên rồi tan biến đi trong

khói bụi. Thiệt dẫn mấy cậu du kích chạy về, thở hào hển rồi xây

354

qua cười đùa ầm ĩ. Các cậu đua nhau kể lại cái nháo nhác của kẻ

thù khi chúng bị bắn tỉa.

THƯ GIA ĐÌNH

Ngày 20/4/1972

Long yêu quý của me!

Hôm nay được tin anh San vào chỗ con, cả nhà viết thư thăm

con, trừ có em Ngọc vắng nhà và em Việt đi bộ đội là không viết

thôi. Thư trước bố gửi vào ngoài tết không biết con đã nhận được

chưa, hôm nay mẹ gửi vào cho con 1 ảnh của mẹ và 4 em vì hôm tết

cơ quan mẹ có đến chúc tết gia đình B+C và chụp ảnh cho gia đình

để làm kỷ niệm, vì chụp trong nhà nên không đẹp lắm nhưng cũng

cần gửi cho con vì là kỷ niệm. Tết, cơ quan con có đem thiếp chúc

tết và kẹo bánh đến gia đình ta, như thế là tết nhà ta được 3 cơ

quan biếu quà, cơ quan bố con tức là ở Bộ và cơ quan mẹ, cơ quan

con. Tết đến làm cho mẹ lại càng nhớ và thương con nhiều, tết năm

nay mẹ cũng buồn vì lại vắng thêm em Việt nữa, tuy nó ở Sơn Tây

nhưng cũng không được về.

Em Việt đi công an võ trang đã được 7 tháng rồi và khi em đi

bố đã gửi thư và ảnh bộ đội của em vào cho con rồi chả biết con có

nhận được không. Đến nay em mới vào khu 4 rồi, em mới đi được 1

tuần thôi, chưa biết em ở đâu vì từ Nghệ An đến Vĩnh Linh chưa

biết chỗ nào chính xác cả, mẹ đang sốt rột chờ thư của em vì hôm

em đi đã có máy bay bắn phá rồi

Con ạ, nhiều khi mẹ sốt ruột quá nhưng chả biết làm thế nào.

Bây giờ mẹ kể tình hình cụ thể của gia đình cho con nghe. Nhà

ta bố mới được phân phối nhà ở khu Kim Liên, nhà mới xây, nhà

C11, số nhà 5, rộng 21m2, có bếp, nhà tắm, hố xí chung 4 nhà 1, và

cái mừng nhất là nhà ta đã chuyển cả hộ khẩu cả nhà lên khu Đống

Đa và nhập vào Kim Liên rồi. Mẹ và các em cố gắng nuôi lợn năm

vừa rồi cũng bán được hơn 300đ tiền lợn, nhưng nếu về Kim Liên

thì lại không nuôi được nữa, mẹ chỉ định nuôi lợn khi nào con được

355

ra là dù to nhỏ mẹ cũng thịt để liên hoan ăn mừng nhưng chả biết

bao giờ mới đến ngày ấy con ạ. Nhà ta bây giờ cứ đến tối thứ bẩy và

ngày chủ nhật là quây quần đông đủ, còn ngày thường chỉ có mẹ và

Diệp - Lan - Thuỷ ở nhà thôi, còn em Phúc khoảng tháng 11 dương

lịch này thì em về; mẹ gửi cả ảnh của người yêu của em vào cho con,

tên nó là Thành, trông người cũng được trắng và cũng tháo vát nội

trợ, khâu vá cũng khá, nó cũng ngoan. Hàng tháng nó vẫn đến nhà

ta thường xuyên, thấy gì thì làm như con trong nhà thôi. Có lẽ em

Phúc về cũng lo cho em cho yên trí, còn việc gia đình của anh Đức

thì bây giờ chưa dứt khoát.

Đấy mẹ kể qua tình hình thế để con nắm được, kỳ này mẹ định

gửi cho con 100đ, nhưng vì nhà mới có, phải sắm đồ đạc cần thiết và

còn lo tiền cưới vợ cho anh và cho em Phúc cho nên mẹ gửi vào cho

con 50đ, con tiêu tạm vả lại mẹ thấy con nói được tăng mức sinh

hoạt nên mẹ cũng an tâm. Anh San bảo mẹ không mua bút nữa là

vì anh San nói là anh có cái bút Kim Tinh để làm quà cho con, kỳ

này mẹ không đổi được tiền mới nhưng anh San bảo cũng được vì

vào đấy sẽ đổi tiền Miền Nam cho con.

Mẹ gửi thêm cả ảnh của Việt và của bố, em Việt trông ở ngoài

khoẻ hơn trong ảnh.

Dạo này giặc Mỹ lại bắt đầu leo thang ra Miền Bắc, các cơ quan

đang chuẩn bị sơ tán, mẹ chưa biết bao giờ đi sơ tán.

Vừa qua, bố mẹ và tất cả các em kéo cả về Ninh Bình, quê bố,

nhưng về nhà quê Phát Diệm chứ không ở thị xã, về quê chỉ còn các

bác con nhà bác Tứ và các cháu thôi, đông lắm và vui lắm. Như thế

là 26 năm bố mẹ lại mới về quê, còn hè vừa rồi, bố mẹ và anh Đức

lên Hà Giang, lên bà trẻ và nông trường chỗ cậu Hiếu, cụ nội vẫn

khoẻ năm nay cụ 93 tuổi rồi, còn bà vẫn khoẻ. Nói chung là cả nhà

vẫn khoẻ cả, cậu Hiếu đã có 3 em rồi. Cô Chung, nhà vẫn ở chỗ cũ,

còn công tác thì cô đổi sang Bệnh viện E rồi, hôm nay mẹ vội quá

không ra báo cho cô viết thư cho con được. Em Tiến đã về dưới này ở

rồi và đã đi học lớp công nhân nguội rồi, nó to lớn lắm, cũng khám

nghĩa vụ rồi, có lẽ cũng sắp đi bộ đội rồi.

356

Thôi mẹ viết cho con đã tương đối đầy đủ. Mẹ chỉ mong con

khoẻ mạnh và giữ gìn sức khoẻ cho tốt để khi giải phóng miền Nam

con được về sum họp gia đình, con cần phải cẩn thận, đừng chủ

quan con ạ.

Con gửi ít thư về nhà quá làm mẹ lo lắm.

Thôi mẹ chúc con công tác tốt và cho mẹ gửi lời thăm tất cả anh

em trong ấy.

Mẹ

Hạnh

Hà Nội ngày 20/4/1972

Long thân yêu của bố!

Lần trước, bố đã viết thư cho con khá dài, lần này nhân có anh

San vào trong đó, bố lại viết vài dòng để con biết tin gia đình. Bố đã

nghe báo con viết, đọc trên đài, và đăng trên báo Quân đội nhân

dân, nhất là bài "Phá đồn"được phát thanh nhiều lần. Bố cũng biết

tin con đi công tác ở Bình Định, chắc là để góp phần vào việc chuẩn

bị cho thắng lợi "vĩ đại" hiện nay.

Ở ngoài này công cuộc xây dựng hậu phương lớn đạt được nhiều

thành quả đáng mừng. Đời sống nhân dân được nâng cao hơn so với

hồi con ở nhà. Vừa qua Đế quốc Mỹ lại oanh tạc Hà Nội, Hải Phòng,

nhất là Hải Phòng. Điều này chỉ chứng tỏ Níc Xơn hoảng hốt làm

liều.

Gia đình ta vẫn được bình yên. Bố mới được phân phối một

phòng ở Kim Liên. Cả gia đình đều được chuyển hộ khẩu về Kim

Liên (Nội thành Hà Nội).

Hiện nay gia đình vào tạm ở Mễ Trì, chỉ có Bố và anh Đức ở

Kim Liên. ít ngày nữa, nếu tình hình yên hơn, mẹ và các em sẽ

chuyển sau. Nếu con có dịp ra thăm gia đình, con sẽ đến khu Kim

Liên.

357

Mẹ và các em tăng gia lợn liên tục. Anh Đức dịch thêm tài liệu

và sách. Bố dịch và duyệt sách, viết bài cho một vài tập san. Thu

hoạch gia đình khá hơn trước.

Thôi nhé, thư trước viết dài rồi. Chúc con mạnh khoẻ, lập nhiều

thành tích mới.

Thân mến

Bố

Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 1972

Anh Long kính mến

Hôm nay, nhân lúc anh San bạn anh đến báo là anh ấy sắp đi

vào trong chỗ anh nên em vội ngồi viết thư để hỏi thăm sức khoẻ

của anh. Anh có khoẻ không, nếu khoẻ thì em cũng rất mừng.

Ở nhà, em và bố mẹ cùng anh chị vẫn khoẻ cả. Bây giờ em, chị

Diệp và em Thuỷ đang chuẩn bị ôn thi để thi hết năm, nên cũng rất

bận. ở nhà mình vừa bán lứa lợn rồi anh ạ, mẹ lại mua tiếp một đôi

nữa anh ạ, đôi này nuôi cũng rất chóng lớn. Mẹ bảo đôi này nuôi

thật to để đợi anh về là mổ lợn ăn mừng đấy anh Long ạ. Tuần vừa

rồi em cùng bố và em Thuỷ lên thăm anh Việt (ở Sơn Tây) vì anh

Việt cũng sắp đi vào khu bốn để công tác. Thời gian rất gấp nên anh

ấy cũng chả về nhà được. Anh Việt vẫn khoẻ và béo ra rất nhiều.

Hôm nọ, tàu bay địch nó cũng đến Hà Nội anh Long ạ, nhưng cả gia

đình vẫn bình yên, chúng em đang đào hầm đấy anh ạ. Thôi! Em

tạm dừng bút ở đây vì thư đến đây đã dài.

Cuối cùng, em chúc anh cùng các bạn anh có sức khoẻ tốt, công

tác tốt và em cũng xin hứa với anh là học tập giỏi, chăm cho đôi lợn

thật to, béo để khi nào anh về thì mổ để ăn nhé!

Người em ngoan của anh

Phạm Thuý Lan

358

Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 1972

Long thân mến!

Nhân có người bạn Long trở lại trong ấy, anh biên mấy dòng

thăm Long. Hôm nay nhẽ ra anh không về nhà, nhưng tình hình

khẩn trương, anh về qua nhà xem các em có đi sơ tán đâu không?

Nhà rất mong thư em. Mỗi lần được thư, cả nhà đều mừng,

nhất là bố mẹ mừng vì em vẫn khoẻ mạnh và lại có nhiều cố gắng

trong công tác, trong tu dưỡng, có tiến bộ đáng kể. Cả nhà vẫn khoẻ

mạnh. Phúc thực tập ở Liên Xô đến khoảng cuối năm thì về. Việt đã

nhập ngũ từ tháng 9/1971, đã qua 6 tháng luyện tập, vừa rồi vì tình

hình khẩn trương nên đã được lệnh vào Thanh Hoá rồi, từ đó cũng

chưa được tin tức gì.

Mấy ngày hôm nay giặc Mỹ bị thua đau ở trong Nam đã điên

cuồng cho máy bay đánh phá miền Bắc và cả Hà Nội nữa. Đối với

anh thì ngày 16/4 vừa qua là lần đầu anh được chứng kiến trận

chiến đấu của ta đấy. Giặc Mỹ đã bị trừng trị đích đáng. Tình hình

vẫn căng thẳng, tất cả đều chuẩn bị tinh thần, chuẩn bị sơ tán để

quyết chiến. Tổ anh có 12 chị nữ thì 10 chị có con nhỏ, từ mai sẽ bắt

đầu nghỉ việc đi sơ tán đấy. Tình hình gay go, nhưng thực ra mọi

người không hề lo sợ mà lại có một niềm phấn khởi lớn, vì hành

động điên cuồng của giặc Mỹ chỉ nói lên thất bại nặng nề của

chúng, và sự chuẩn bị của ta, như vậy cũng nói lên rõ quyết tâm

của ta hứa hẹn trước những thắng lợi rất lớn trong thời gian tới.

Ngày chiến thắng sẽ chẳng còn xa, em lại trở về, cả gia đình lại

đoàn tụ, ngày ấy sẽ vui biết mấy.

Thôi Long nhé, anh dừng bút ở đây. Chúc em công tác ngày

càng kết quả, góp sức được nhiều vào thắng lợi chung. Anh em ta sẽ

gặp lại nhau trong ngày hội chiến thắng.

Anh

Mạnh Đức

359

Ngày 21/4/1972

Đang đi trên một bãi đất trống rộng thì thấy một quả đạn khói

do cối bắn đến nằm giữa đường cái, cách chúng tôi không xa. Tưởng

địch bắn điểm để kêu pháo, chúng tôi vội chạy xa chỗ đó, lao thẳng

về phía luỹ tre bìa làng trước mặt, kiếm chỗ núp pháo. Chợt nghe

hàng tràng đại liên nổ thẳng vào mình. Chúng tôi vội bật qua phải,

chạy ngược về thôn Tân An. Tiếng súng nổ như bắp rang điên loạn:

"Tốc... Tốc... Tốc... Tốc... Chíu... Chíu... Tốc..." Phần lớn đạn đi vọt

qua đầu chúng tôi. Một quả M.79 rơi cách tôi chừng 2 mét, tung cát

lên. Quái lạ, sao không thấy mảnh nào văng vào tôi cả. Bãi đất quá

rộng, chạy muốn đứt hơi. Mãi đến khi chúng tôi chạy lọt vào xóm,

tiếng súng mới dứt. Bác Tá mệt quá, vấp cái hè nhà ngã xóng xoài.

Chúng tôi nằm dài trên giường, vừa tức vừa buồn cười. Thật tụi

lính ngu như bò, đến giờ này rồi mà còn cầm súng theo giặc, còn

ngoan cố bắn bừa bãi. Nhưng bọn mày bắn cũng dở ẹc. Nằm một

lúc, nghe pháo nổ ùng oàng phía trong xóm. Có lẽ bọn địch đoán

chúng tôi đã chạy tới đó nên kêu pháo bắn chặn. Sau loạt pháo,

chúng tôi ra ngõ nhìn qua bãi trống. Phía xóm nhà bên kia, có

những tốp lính mang ba lô đi vào cấm. Chúng đi vào lại đi ra,

quanh quẩn 3, 4 vòng. Có một mũi tiến vào cấm, đi về phía xóm

chúng tôi ở. Chúng tôi chào gia đình, đi lên giữa xóm. Nghỉ một lúc

lâu, nghe một chị phụ nữ kêu: "Ai mặc đồ xanh đi ngoài kia kìa".

Tôi nhìn thấy ngoài rào cách nhà này mấy chục mét có một thằng

lính cõng ba lô đi ngang qua. Lại rủ nhau chạy ngược lên Thành

Sơn.

Đồng bào cho biết chính bọn này hồi trưa kéo lên Liễu An bị du

kích bắn chết 2 tên. Mấy cậu du kích xách súng rượt bọn địch đông

gấp mấy mình chạy tán loạn trên đồng, rượt tuốt tới đập nước.

Có lẽ địch muốn chốt lại Liễu An. Xã triệu du kích các thôn về

bàn kế hoạch trị chúng.

Ngày 25/4/1972

360

Về làm việc tại căn cứ của Xã ủy. Nhận được Chỉ lệnh của

Tỉnh:

- Các gia đình quanh thị trấn về nông thôn.

- Đào hầm hào.

- Sắp tới có xe tăng của ta, chú ý tránh lầm với xe tăng địch.

Xã ủy họp gấp nghe sơ kết 10 ngày đầu của chiến dịch A1:

- Diệt, bức rút, bức hàng 42 chốt của địch.

- Trung đoàn 40 ngụy đại bộ phận bị diệt. Địch điều về Tam

Quan 1 Liên đội Bảo an. Địch co cụm trong các chốt, phản ứng chủ

yếu dùng cối, pháo bắn. Bọn Bảo an, Dân vệ chưa bị diệt gọn nhiều

nên còn hung hăng, bị lừa bịp, thúc ép giữ chốt. Ngụy quyền: một số

bị diệt, bị bắt, một số trốn sâu trong quận lỵ.

- Ta: Các thứ quân đều đồng loạt nổ súng. Quần chúng bao vây

nhiều chốt điểm. Khá nhất là phía Đông - Nam, trong đó xã Hoài

Hương đồng bào tước được súng địch, giải phóng toàn bộ địa bàn.

Bộ đội chủ lực khi tiến công mới diệt được sinh lực địch nhưng chưa

làm chủ được trận địa, chưa đánh ban ngày, thương vong nhiều. Bộ

đội huyện diệt chưa gọn mục tiêu. Du kích xã, thôn: có lúc sử dụng

còn lãng phí lực lượng, bổ sung quân chậm. Nổi dậy chưa liên tục,

chưa thực hiện đầy đủ mục tiêu là bức hàng mà đại bộ phận là bức

rút các chốt địch.

- Nguyên nhân: Cấp ủy còn đánh giá địch cao, chưa thấy hết

khả năng của quần chúng và sự tan rã mau chóng của địch, sự phát

triển mau chóng của tình hình. Xuất hiện tư tưởng thỏa mãn, mệt

mỏi, ỷ lại lực lượng trên. ý thức tổ chức, kỷ luật còn lỏng lẻo.

Huyện ủy chỉ đạo như sau:

- Quân sự: Đánh liên tục vào các mục tiêu và chống phản kích.

Diệt ác. Xây dựng làng chiến đấu. Xây dựng đội ngũ dân quân.

361

- Quần chúng: Nổi dậy, dứt điểm từng xã một. Tước súng, phá

đồn địch. Khi đã giải phóng được xã rồi thì cho 2/3 lực lượng sang

hỗ trợ xã bạn. Đảm bảo chỉ tiêu đi dân công, thanh niên tòng quân

(Dân công lúc nào cũng phải sẵn sàng - dân công dài hạn đi 2

tháng, ngày 27 tháng 4 phải có mặt, dân công thường trực ngày 30

có người nhận). Tiến hành thu nghĩa vụ lương thực trong 10 ngày,

sau đó mua; Cấm chuyển gạo ra vùng địch.

- Binh vận: Chỉ thị cho các binh sĩ đã theo cách mạng hành

động ngay. Phá rã các lực lượng quân sự phụ trợ.

Anh Đức phổ biến tinh thần chỉ đạo nói trên cho cán bộ xã và

các thôn và mọi người nhanh chóng tỏa về địa bàn của mình để

triển khai thực hiện.

Tôi hiểu rằng tình hình còn căng thẳng và quyết liệt nhưng

trận bão tấn công và nổi dậy sẽ không kẻ địch nào ngăn chặn nổi.

Ngày 27/4/1972

Bọn lính đóng ở chốt An Quý đã bỏ chạy. Khi chúng tôi đến,

đồng bào đã san xong các lô cốt, đang vác cây về. Gặp một bà già

người gầy, má hóp vác tới 2 cây lớn. Bà nói: "Tôi mừng quá, vác 2

cây". Bà con đang rũ các bao công sự đổ cát ra, san lấp các chiến

hào, dỡ rào thép gai chuyển đi rào làng chiến đấu. Mấy cô gái chỉ

vào một cái tủ sắt lớn, nói:

- Bữa trước lũ nó bắt chúng em nhốt trong đó, nóng muốn chết.

Các cô phá banh cửa tủ, lật nhào nó xuống.

Ông già Mường mời bằng được chúng tôi về nhà ăn cơm. Ông

cho biết ông có 4 người con, trong đó có một con gái đã hy sinh và

nhà ông đã cháy 9 lần. Ông nói, hồi trước có lần ông phải đi moi

mót từng củ sắn sượng mà nuôi con và bộ đội. Còn bây giờ, lúa rất

nhiều, ông muốn 5, 7 bộ đội về ở nhà để ông nuôi.

Anh ông Mường khoe năm nay hoa sen nở nhiều. Ông Mường là

trưởng xóm 3. Hồi trưa, tôi thấy ông tới hỏi anh Mai: "Số cây lớn để

362

tập trung lại chỗ anh?" và chạy đi hô hào đồng bào vác cây dồn vào

một đống.

Ngày 28/4/1972

Hôm nay đồng bào đi vây đồn Quy Thuận. Tôi đi với đoàn của

Hoài Sơn và Bình Đê. Tôi đem theo máy ảnh, muốn ghi cho được

những hình ảnh về nổi dậy của đồng bào, đồng thời muốn đi cùng

đồng bào để có tư liệu sống, viết cho chân thực và sinh động. Khá

đông. Có cờ, băng rầm rộ. Khi đoàn đến gần chốt thì địch bắn cối 60

tới. Tôi đang đứng bên đường, vừa nói: "Bà con bình tĩnh, đừng chạy

tản mát" thì nghe một tiếng nổ bụp. Nằm vội xuống, thấy bên kia

đường cát bụi bay mù mịt. Tai ù lên. Quả cối chỉ nổ cách tôi 5, 6

mét nhưng nhờ nó nổ dưới lề đường nên tôi vô sự. Tình hình căng

quá, phải tạm lui đội quân chính trị để đưa đội quân quân sự đến

trấn áp bọn trong đồn.

Ngày 29/4/1972

Nhận được lệnh về tiếp quản Bồng Sơn. Đi qua Hoài Hảo được

biết đồng bào đang vây chặt đồn Mỹ Bình. Số đông đã vào được

chốt. Lãnh đạo khéo có thể bốc hàng (tức là vận động được bọn địch

đầu hàng).

Qua Hoài Thanh được biết có một Trung đội Dân vệ đã cầm

súng về tập thể và một số khác khoảng 2 Trung đội về lẻ tẻ.

Pháo biển bắn vu vơ dọc đường, tiếng nổ rền hơn pháo đất.

Quân ta vây chặt khu Nhà thờ dốc và lệnh cho địch 48 giờ sau

phải đầu hàng. Chúng tôi đi gần nơi ấy, thấy điện vẫn sáng. Trên

trời, một chiếc đa cô ta bay lượn dai dẳng, thả đèn dù liên tục và

liên tiếp bắn xuống hàng dây đạn quanh cứ điểm.

Gặp anh Vân, Thường vụ Tỉnh ủy, được biết tình hình toàn

huyện Hoài Nhơn từ đêm mở màn (12 tháng 4) đến nay như sau:

+ 10 ngày đầu: Đêm 12 tháng 4, bộ đội chủ lực đánh bọn Bảo

an ở chốt Gò Vàng ( Hoài Châu) nhưng không gọn, đánh thiệt hại

363

nặng 2 trung đội Bảo an, diệt 22 tên, làm bị thương 17 tên. Đêm 14

rạng 15 và đêm 15 rạng 16 đánh vào các vị trí then chốt như Tam

Quan, Đệ Đức. Tại Tam Quan, ta đánh thiệt hại nặng 1 đại đội

pháo binh, 1 đại đội Bảo an, tiêu diệt 80 tên. Đã tấn công 1 phần 5

số vị trí địch; riêng tại Đệ Đức, ta diệt 200 tên. Bộ đội địa phương

diệt dược 1 chốt là đồi Giang Quang. Du kích xã chưa đánh chốt

nào. Về nổi dậy, 10 xã phía Bắc đã họp quần chúng, phát lệnh khởi

nghĩa, làm lễ ra quân ở 50 thôn. Ngày 13, quần chúng đã ra quân,

bao vây 86 chốt và 5 trung đội địch trài ra ở các thôn xóm. 6 xã phía

Nam, vùng địch kẹp chặt hơn, đồng bào cũng vây chốt Đồi Thường,

Phú An và các thôn có bọn địch trài. ở Đồi Thường, 7 trung đội Bảo

an, Dân vệ ngoan cố dùng mù cay, đạn thẳng phản ứng, nhưng

đồng bào kiên trì bao vây, binh vận suốt 2 ngày đêm, cuối cùng bọn

địch phải chạy qua chốt Kim Giao; quần chúng san bằng đồn, thu

chiến lợi phẩm. Quần chúng tấn công bọn địch ở Diêu Quang, chúng

gọi pháo bắn bừa bãi, làm chết 3, bị thương 1 người. Quần chúng

vác xác người hi sinh, xông tới, cho đạn vào lon, đốt quăng vào đồn,

đạn nổ, địch tưởng là bị pháo kích, cuối cùng, chúng phải bỏ chạy.

Tới 22 tháng 4, đã bức rút, san bằng 39 chốt và 4 điểm thôn trài.

+ Những ngày tiếp theo: Ngày 25 tháng 4, bộ đội chủ lực diệt

gọn 1 Tiểu đoàn của Trung đoàn 41 chủ lực ngụy. Tới sáng 27, ta đã

làm chủ đầu cầu nam Bồng Sơn. Chiều 27, một bộ phận quân ta

đánh thọc từ phía Bắc xuống. Các đơn vị chủ lực đã ém sát các thôn

quanh Bồng Sơn: Trung Lương, Thiết Đính, An Bình, Đệ Đức.

Chiều 28, nổ súng tấn công một số đơn vị địch, như đồn Quân cảnh,

Đại đội Bảo An ở An Tây. Ngày 29, các mũi tiến rất nhanh, nổ súng

lùa địch chạy như vịt, có một số chạy về Đệ Đức, Tam Quan. Bọn ở

đồn Quân cảnh, chi Công an ngoan cố đánh trả, bị ta tiêu diệt. Ta

phong tỏa tất cả các địa bàn phụ cận, bọn địch chạy ra tên nào bị

bắt tên nấy. Trong khi đó, đồng bào ở Bồng Sơn đình công, bãi thị,

đồng bào các xã xung quanh dấu thuyền, không cho bọn địch dùng

để tháo thân. Quần chúng phía Tây ém xuống, phía Bắc ém lên

đường số một, chặt đứt giao thông của địch. Từng xã chịu trách

nhiệm làm chủ từng đoạn đường chạy qua xã mình, không cho địch

sử dụng.

17 giờ ngày 29 tháng 4, ta giải phóng Bồng Sơn.

364

Ngày 30/4/1972

Có điện của anh Ba: Phải tổ chức trong quần chúng những đội

cứu lính, dẫn lính, xáp vô các chốt dẫn lính ngụy về với cách mạng.

Không khí ngoại vi thị trấn Bồng Sơn đã khiến tôi náo nức. Bộ

đội đào hầm dọc đường. Du kích cưỡi Honda ra vào thị trấn. Một

toán tề, lính bị trói tay giải ra, nối nhau thành một dây dài. Số này

còn rất trẻ, khoẻ.

Chiều, tôi nhờ người chở Honda vào thị trấn. Đầu thị trấn có

một trạm kiểm soát người ra vào. Có nhiều người cưỡi Honda, xe

đạp, gồng gánh sơ tán về Mỹ Thành.

Thị trấn là một dãy phố dài nằm dọc 2 bên đường số một. Nói

chung, lúc này còn thưa thớt người -phần lớn đã sơ tán khi cuộc

chiến xảy ra.

Gặp một xác lính nguỵ nằm ngửa bên hè. Xa đó một chút có

một xác chết mặc quần áo thường dân, nằm úp mặt giữa ngã ba

đường. Anh em bộ đội cho biết đó là tên thiếu uý đại đội trưởng đại

đội cảnh sát quận Hoài Nhơn. Khi bị bắt, nó đập đầu vào tường tự

sát. Lúc này, máu còn chảy xuống đường. Gặp một xác lính nguỵ

khác ở một hè phố. Tên này mang một bao đồ nhỏ, ngã úp mặt

xuống rãnh. Có lẽ nó muốn chạy trốn nhưng không thoát.

Cờ của ta được treo trước một ngôi nhà. Đó là nơi làm việc của

Uỷ ban Nhân dân cách mạng thị trấn. Một lá cờ khác nhỏ hơn được

treo trước Chi thông tin quận. Chi cảnh sát ngổn ngang ảnh, tài

liệu. Một chiếc xe gíp cháy còn bốc khói. Tôi vòng ra sau nhà, thấy

có 2 hầm dài địch dùng để ngủ. Đồ đạc, màn vải... vứt bừa bãi.

Những bao súng vứt lung tung.

Gặp 2 thanh niên bị thương nhẹ. Họ nói họ là Dân vệ, bị

thương vì pháo, đã ra trình diện với cách mạng. Một người khác dẫn

chúng tôi đi tiếp quản Chi thông tin. Anh ta nói anh ta làm nhân

viên kỹ thuật của Chi này, cũng đã trình diện với cách mạng.

365

Ba tên khác hỏi thăm nơi đến trình diện. Một tên mặt to, da

láng bóng. Đồng bào cho biết đó là tên thiếu uý cảnh sát rất gian ác.

Bắt về 3 tên nữa. Một tên có bộ ria mép con kiến, bị còng.

Chúng nói chúng là dân thường. Đồng bào báo chúng là cảnh sát.

Chúng tôi giải thích: "Bây giờ chưa rõ, chúng tôi tạm giữ các anh,

để kiểm tra sau. Nếu các anh là dân thường, các anh sẽ được thả".

Phía cầu, có một số bộ đội gác. Dây thép gai dăng ra một phần

đường, chỉ để một lối đi nhỏ.

Tôi đi nhờ một xe lam. Xe này chạy tới nhà thương chở thương.

ở đây còn một số người bị thương, địch không chuyển đi. Người ta

khiêng ra một thanh niên. Một người đàn ông nói: "Nhờ Cách mạng

cứu mới sống đây". Xe vội vàng chuyển bánh về phía Long Mỹ -

vùng giải phóng -chở người bị thương về nơi cứu chữa.

Tôi ở tại ấp Thiết Đính. Ông già chủ nhà có một con trai đi Dân

vệ, một con trai và một con dâu chạy lạc. Còn vợ ông và 4 đứa con

nhỏ mới đi sơ tán về. Ông hỏi tôi: "Lá cờ này trót vẽ, bây giờ xoá đi

chứ?". Tôi gật đầu. Ông lấy xẻng nạo tường cho tróc nước sơn vẽ lá

cờ nguỵ đi.

Hồi chiều, vào một nhà gặp mấy bộ đội đang ngồi uống nước.

Đồ đạc trong nhà còn nguyên vẹn. Mấy anh nói:

- Chúng tôi chiếm khu phố này ngay từ đầu. Ngôi nhà này

chúng tôi ở suốt nên đồ đạc không bị phá phách.

Trên đường phố, có những thanh niên khoác súng, đeo băng đỏ:

"Trật tự viên" đi lại. Một Honda chở 2 người vừa đi vừa gọi loa:

"Lệnh không ai được lục lọi, phá phách các nhà". Một xe lam của

thông tin chạy trên đường phố gọi loa binh vận, loan tin chiến

thắng.

Ngày 1/5/1972

366

Con trai ông già chủ nhà tôi ở đã về. Cả nhà đều vui mừng.

Anh ta có lẽ đã quen sống với bộ đội qua mấy ngày được dẫn đi nên

đối xử với chúng tôi khá tự nhiên. Anh ta nói tên Trung đội trưởng

ngăn anh ta đã bị anh ta bắn cho một băng đạn, gục trước cửa hầm.

Ngay buổi chiều, anh Ngô - anh lính dân vệ mới trở về - xoay

trần ra mà làm thịt vịt liên hoan. Ngô có vẻ thành thạo về việc nấu

ăn. Còn vợ anh ta cứ chạy lăng xăng bên cạnh. Không khí gia đình

vui, cảm động như bất cứ gia đình nào có người đi xa về. Vợ anh

Ngô nói anh Ngô đã trốn lính suốt 4 năm - 4 năm nằm hầm - cuối

cùng cũng bị bắt.

12 giờ trưa hôm nay, Tam Quan đã được giải phóng.

Ngày 2 đến 3/5/1972

Bộ đội tiếp tục tảo trừ. Nhiều nơi còn địch lẩn trốn. Nhà thuốc

Vinh - nhà của tên đại uý kiêm tư bản - không biết vì cớ gì đó cháy

đùng đùng, nổ bôm bốp. Vẫn còn những người tay đùm tay mang

chạy tất tưởi trên đường. ở nơi đón tiếp ngụy quân, ngụy quyền,

tiếp tục có những người làm cho địch đến trình diện. Nhiều tên thực

thà khai báo - trong đó có ấp trưởng Hoài Mỹ - đã được thả tại chỗ.

Suối 2 ngày nay, số người trình diện về nườm nượp, ghi không kịp

nữa.

Trưa 2 tháng 5, ta làm chủ căn cứ Đệ Đức. Chiều, bọn tàn binh

tập hợp nhau lại được 2 tiểu đoàn, dắt díu nhau chạy về phía Hoài

Xuân. Anh Sơn - cán bộ Tỉnh đội - chỉ huy bộ đội địa phương chặn

bọn chúng lại. Chúng chạy thành từng tốp, vừa chạy vừa giơ tay

đầu hàng, nhưng nếu thấy ít bộ đội thì chúng bắn trả và chạy tiếp,

thấy nhiều bộ đội thì mới hàng thật. Chúng bắn anh Sơn hy sinh.

Du kích diệt một số, bọn còn lại chạy về Hoài Hương. Lập tức, ta

trang bị súng cho cán bộ và quần chúng. Đồng bào các xã Hoài

Hương, Hoài Thanh, Tam Quan Nam chặn đánh địch suốt đêm, mỗi

xã diệt trên 30 tên địch. Tuy nhiên, bọn tề điệp vẫn còn có tên

ngoan cố, dùng thuyền chở 6 chuyến giúp bọn tàn binh ngụy chạy

trốn.

367

Gặp một số binh lính của Trung đoàn 40 nguỵ đóng tại căn cứ

của trung đoàn ở Đệ Đức ra hàng. Họ mặc quần áo thường dân. Họ

cho biết hầu hết lính đều muốn ra hàng nhưng bị bọn chỉ huy o ép

rất dữ, rào lại, gài lựu đạn, mìn ở cửa, cấm không cho ra ngoài.

Trong khi đó pháo của ta bắn tới rất dữ dội - tối qua, sáng nay pháo

đã làm nổ tung kho xăng, đạn. Ngồi tại đây, tôi nghe rất rõ tiếng

pháo ta đề pa, bay đi vun vút, nổ ùng ùng ở căn cứ địch.

Chừng 4 giờ chiều 2/5, có 3 chiếc khu trục và một chiếc L.19

quần lượn ở bầu trời thị trấn Bồng Sơn. Tôi phóng xe lao về phía

Thiết Đính thì nghe bom rơi xoèn xoẹt. Xuống xe, nằm xuống, nghe

bom nổ rền trước mặt, cách vài trăm mét, khói bụi tung lên mù mịt.

Chưa kịp tìm thấy hầm hố đã nghe máy bay lao xuống. Bom lại nổ

trước mặt. Tôi nhìn rõ cùng với khói, bụi, các mảnh tôn, bìa, gạch

ngói bay tung lên như bươm bướm. Mảnh bom rơi rào rào. Lợi dụng

lúc máy bay quần lượn, tôi lên xe phóng về phía đường số một, quặt

ra Tam Quan. Lát sau, thấy một ông già đứng ngoài cửa, tôi hỏi:

- Có hầm không?

- Có!

Tôi xuống xe, dắt xe vào nhà và chui vào hầm. Chỉ nghe một

tiếng "thịch", và thấy đất rung chuyển. Sau đó, chỉ nghe máy bay

bay lượn trên cao. Ra đường nhìn, thấy bầu trời đầy những tàn lửa

đen thui bay chấp chới. Một ngôi nhà bên đường cách nhà chúng tôi

mấy chục mét đang cháy rừng rực, nổ đùng đùng. Lá, gạch phủ đầy

đường. Có nhiều người dân kêu khóc, chạy về phía chúng tôi. Tôi

chạy tới một ngôi nhà sập, thấy một phụ nữ mình đỏ máu, bồng một

đứa nhỏ, kêu:

- Cứu con tôi với.

Một thằng nhỏ chừng 6, 7 tuổi khóc, níu lấy tôi:

- Chú ơi, chú cứu em cháu dưới hầm với!

Tôi tới hầm, thấy một em trai 3, 4 tuổi bị thương ở trán đang

khóc. Chui xuống bế nó lên. Nó ôm chặt lấy tôi, nín khóc, một mắt

368

bị dính đầy máu. Chúng tôi chạy ra xa nơi nhà sập. Tôi lấy băng, xé

đôi, băng cho chị phụ nữ và thằng nhỏ. Còn đứa bé bế trên tay bị

thương nhẹ vào sườn, không có băng để băng. Đứa bé mặt xanh

mét, nằm im, không khóc. Chỉ có mẹ nó và thằng anh 6, 7 tuổi là

khóc. Tôi cố an ủi cho họ nín. áo tôi dính đầy máu.

Trở về. Qua ngôi nhà cháy. Trước ngôi nhà, một xe lam cháy

rụi. Trong thùng xe, một xác đàn ông cháy đen.

Một phụ nữ bị thương nhờ tôi chở đi. Đi ra xa thị trấn, tôi dừng

lại, xin băng của anh em băng cho chị. Chị bị thương ở gần bả vai

và bên hông.

Nghe tin ta đã chiếm khu Nhà thờ Dốc ( căn cứ Đệ Đức) và tin

ta đã giải phóng hòan toàn tỉnh Quảng Trị.

Kẻ địch sắp đến ngày diệt vong. Nhưng như con chó điên rẫy

chết, chúng cắn càn. Đồng bào ra 2 bên đường đào hầm hào.

Hà Huệ, Từ Quốc Hoài, Đoàn Tử Diễn lần lượt trở về. Diễn bị

một mảnh bom nhỏ làm chảy máu ngón chân cái, bị gạch rơi sưng

đầu và rơi mất chiếc đồng hồ. Huệ và Diễn đều bị mất xe đạp.

Con gái và con rể ông già cũng đã về. Thế là gia đình này được

đoàn tụ. Cô con gái vừa cười vừa kể những ngày chạy lạc vất vả:

nằm trên nền xi măng không có chiếu, muỗi nhiều, lạnh, không có

củi nấu ăn có bữa phải nhịn, pháo biển bắn vào không ngủ được...

Anh con rể kể cảnh chạy lộn xộn, cảnh bọn lính chạy lộn vào để

thoát thân. Anh nói:

- Chúng tôi chạy vào nhà Mỹ ảnh, đóng cửa lại. Tụi lính kêu

mở cửa. Thày Chùa la: "Lạy các ông, các ông đi nơi khác không có

làm chết lây chúng tôi". Chúng chĩa súng bắn vào rẹt rẹt. Thày

Chùa bàn: "Nếu không mở cửa, chúng sẽ bắn chết. Thôi, mở rồi

chạy". Cửa vừa bật ra, chúng tôi chạy vội ra, tụi lính ập vô. Không

nhà nào dám mở cửa vì sợ tụi lính chạy vô. Chúng tôi chạy lung

tung, ra tới Kim Giao.

369

Trong ngày 1/5, tôi thấy một ông già vứt từ trong nhà ra một

đống súng, đạn, áo quần lính. Tôi hỏi:

- Có kẻ nào lẩn trốn trong nhà không?

Ông già ghé miệng qua kẽ cửa (cửa nhà vẫn đóng chặt), nói:

- Tôi có thương các ông mới đưa súng đạn ra. Nếu có kẻ nào lẩn

trốn, đời nào tôi lại để im?

Trên đường phố đã có những cổng chào, những khẩu hiệu của

ta.

Mấy ngày nay, địch vẫn tiếp tục oanh tạc thị trấn. Cầu dài

Bồng Sơn đã bị sập một nhịp.

Trong đợt tổng tấn công và nổi dậy này, chúng ta đã phá rã 56

trung đội Phòng vệ dân sự, 30 trung đội Thanh niên chiến đấu, bắt

190 ác ôn quận, 40 ác ôn xã, 15 ác ôn quân đội (cấp úy), 15 ấp

trưởng, bức hàng, tước súng 447 tên, diệt tại chỗ 23 ác ôn, thu 2.736

súng, thu nhiều đạn, bức rút 62 chốt, bức hàng, tước súng 3 chốt,

phá rã 3 chốt. Tính chung cả 3 thứ quân, đã đánh 23 trận, diệt

2.263 tên địch, làm bị thương 1.708 tên, bắt và diệt 550 tên ác ôn,

diệt gọn ban chỉ chuy Trung đoàn bộ trung đoàn 40 chủ lực ngụy

cùng nhiều đơn vị khác, phá hủy và thu hàng nghìn khẩu súng các

loại. Về nổi dậy, chỉ từ 25 tháng 4 đến 2 tháng 5, quần chúng đã bắt

500 tên ác ôn, có 190 tên cấp quận, gọi hàng 800 tên, bắt 180 tên

tàn quân, tước 500 khẩu súng. Trong thành tích diệt địch và tước

súng, một nửa là của quần chúng và một nửa thuộc các lực lượng vũ

trang. Toàn bộ hệ thống ngụy quyền xã, thôn đã tan rã và ra trình

diện với chính quyền cách mạng. Trong khi đó, tỉnh và huyện đều

chú ý chỉ đạo xây dựng vùng giải phóng: thu mua được trên 150 tấn

gạo, huy động gần 2.000 lượt người đi dân công, bổ sung cho tỉnh

một đại đội bộ binh, huy động được 377 thanh niên đi bộ đội chủ

lực, bổ sung cho bộ đội địa phương 338 chiến sĩ. Các xã Hoài Châu,

Hoài Hảo, Hoài Hương, Hoài Tân, Hoài Xuân, Hoài Sơn, Hoài

Thanh, Hoài Mỹ, Hoài Đức, Bồng Sơn, Tam Quan Bắc, Tam Quan

Nam, mỗi xã đều có 2 trung đội du kích xã. Trong 83 thôn của

370

huyện có 80 trung đội và 20 tiểu đội du kích thôn, với 2.800 chiến

sĩ. Phát triển được gần 10 nghìn hội viên các hội nông hội, phụ nữ,

công đoàn, thanh niên, thiếu niên.

Ngày 4/5/1972

Sáng sớm, chúng tôi đi Tam Quan. Con đường số một vẫn

nườm nượp người và xe cộ. Qua trụ sở Trung đoàn 40. Khu vực này

rất rộng. Nằm sát đường có lẽ là khu gia binh. Bom đạn cày tung

lên tất cả. Tất cả biến thành tro bụi. Còn nhiều đám cháy nghi

ngút. Còn nhiều xác nguỵ nằm ngổn ngang. Người gồng gánh, xe cộ

chen nhau mà đi tản cư. Suốt mầy ngày nay, máy bay thi nhau

oanh tạc khu vực này.

Tuy giải phóng sau, Tam Quan vẫn có nhịp sống sôi nổi và đĩnh

đạc hơn ở Bồng Sơn. ở Bồng Sơn còn có vẻ gì đó hơi ngơ ngác, sợ sệt.

Còn ở đây, người ta hớn hở, cởi mở, vui ra mặt. Điều nổi bật là dọc

phố có rất nhiều băng lớn với những dòng chữ:

- Hoan nghênh quân giải phóng đánh mạnh thắng to.

- Nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ chính quyền cách mạng.

- Toàn dân kiên quyết giữ vững vùng giải phóng.

Các nhà đều treo cờ, các tường đều dày đặc khẩu hiệu. Người ta

vẫn giữ nhịp sống bình thường: sửa đồng hồ, bán giải khát, chữa xe.

Bên cạnh đó, có cái mới: nắn nót viết khẩu hiệu, bản tin, hì hục đào

hố cá nhân dọc đường. Một số thanh niên biết lái xe thì hăm hở ra

lái xe lam, xe Zép, GMC tới dốc thu chiến lợi phẩm cho bộ đội. Hảo -

con trai nhà ảnh Kim Môn - kể rằng tại đó còn rất nhiều đồ dùng

quân sự: xe tăng, pháo, máy bay, lương thực, thực phẩm... Một quả

bom xăng nổ giữa đường, cách xe cậu ta chừng vài mét, phụt lửa

lên. Nếu là bom mảnh chắc đã chết - cậu ta cười, bảo vậy.

Tôi vào một nhà. Nhà có 2 vợ chồng và mấy đứa con. Hai vợ

chồng ngoài 40 tuổi, khá cởi mở. Họ nói, một nửa gia đình họ ở miền

Bắc. Ông chồng kể: "Bữa ấy, 8 giờ sáng chúng rút, bắn lọan xạ mà

371

chạy. Mọi người đều đóng cửa chặt, nằm trong nhà. Tôi đứng trên

bàn ghé mắt qua khe tường, thấy chúng xô nhau chạy. Tiếc quá,

nếu bộ đội tới sớm, chắc chúng không chạy thoát. Một số du kích

chặn chúng nhưng không nổi. Có chừng một Trung đội chủ lực là

diệt gọn bọn này". Bà vợ cãi: "Chỉ cần một Tiểu đội thôi!".

Ông già chủ nhà tôi ở đã ngoài 70. Ông nói: "Bữa ấy uổng quá,

tôi không kịp lấy khẩu súng ngắn của thằng lính. Nó chết ngoài

đường. Tôi bò ra, gần tới nơi thì phải quay vô vì có hai thằng lính

dìu một thằng khác tới. Hai thằng lượm mất. Lên tới quận, chúng

cũng chết".

Ngày 6/5/1972

Tới Đệ Đức, căn cứ của Trung đoàn 40 thuộc sư đoàn 22 quân

chủ lực nguỵ. Khu vực này rộng hàng mấy cây số vuông, trọc lốc cây

cối, nát nhừ gạch ngói vì bom, đạn. Trên đường đi vào "Trại Bắc

Tiến", không thể nào không bịt mũi và vẫn không thể nào cản được

mùi hôi thối khăn khẳn xộc vào mũi - có nhiều xác lính chết rập

dưới các đống tôn, gạch. Gặp mấy bộ đội. Họ đòi bằng được chúng

tôi chụp ảnh cho để kỷ niệm những ngày vinh quang này. Rồi họ

nói:

- Các đồng chí làm gì thì làm cho nhanh rồi về sơm sớm kẻo

máy bay sẽ tới ném bom đấy.

Đi trên những con đường trải nhựa rộng thênh thang, lỗ chỗ

những vết đạn pháo. Gặp hai chiếc xe tăng còn nguyên vẹn nằm im

lìm bên trận địa pháo. Thấy 2 khẩu pháo 105, một khẩu đã xẹp lốp,

gục nòng xuống và một khẩu còn nguyên vẹn. Đạn pháo rất nhiều,

đạn trần có, đạn để trong hòm có.

"Trại Quang Trung" cũng bị tan nát như thế. Nhiều xe Zíp,

GMC cháy đen, đổ ngổn ngang. Nhiều đạn cối 60, 81 nằm lung

tung. ở một căn hầm sập, tôi thấy chất đầy những hòm đạn AR15.

Gần một ngôi nhà, xác một tên lính nằm chổng mông lên trời, cháy

vàng như chó thui. Thỉnh thoảng còn nghe những loạt súng, những

tiếng lựu đạn nổ - bộ đội tảo trừ. Rải rác trong các hầm ngầm còn

địch lẩn trốn. Thỉnh thoảng có những tên chui lên đầu hàng.

Ngày 7 - 9/5/1972

372

Trên đường phố, đồng bào tiếp tục dựng lên những cổng chào

bằng gỗ chắc chắn và kẻ khẩu hiệu bằng sơn. ở chiếc cổng chào gần

quận, người ta treo cả đèn nêông. Lại được sống những ngày na ná

như ở Hà Nội. Có nước đá, chè đậu xanh, có điện, có phở, có xe đủ

loại... Đến các hiệu may đều thấy đang bận rộn may cờ Giải phóng.

Ngày 10/5/1972

Xẩm tối, đi xe Lam về Bồng Sơn. Thêm những ngôi nhà sập vì

bom. Nhiều xe lam chở đầy ắp hàng hoá hối hả chạy về Tam Quan.

Có những xe Honđa cột cồng kềnh những hòm xiểng, gỗ, tôn chạy

về phía Mỹ Thành.

Ngày 11 - 14/5/1972

Đi về tỉnh. Qua các vùng trắng trước đây của Hoài Ân thấy đã

có những thay đổi. Có những ngôi nhà tranh sơ sài được dựng lên

và những vạt đất mới phát.

Tất nhiên, trong những ngày đầu này, cuộc sống còn nhiều khó

khăn. ở chân đồi Thánh Giá, khu chuồng bò lúc này trở thành khu

tạm cư của một số đồng bào bị dồn trong các ấp Long Mỹ, Long

Khánh... Số này trên đường về Ân Hoà, Ân Hảo dừng lại để ra đồng

mót lúa, kiếm thêm lương ăn cho những ngày sắp tới - những ngày

chiến đấu với sự hoang vu mà làm nên cơ đồ.

Ngày 15 - 25/5/1972

Về tới Ban Tuyên huấn tỉnh. Vùng này hồi sau Tết bị B52 thả

bom làm nhà cửa hư một số - nay ta sửa lại ở.

Gặp đầy đủ bạn cùng Khu: Văn Chi, Hà Xuân Phong, Cao Duy

Thảo, trừ Bùi Thị Chiến bị ngã gãy chân còn nằm ở Phù Mỹ. Gặp

Bích Anh trong niềm đau thương của chị: bom B52 đã giết mất đứa

con gái bé bỏng của chị - cháu Thảo, mới 4 tuổi đầu. Hôm ấy, B52

dội bom trúng khu vực Ban Tuyên Huấn ở. Có quả trúng ngay cửa

hang. Người hy sinh duy nhất là cháu Thảo. Anh Mai -phó Hiệu

trưởng trường Đảng - bị thương vào tay.

373

Anh Lợi, anh Ba dành cho chúng tôi sự đón tiếp ân cần, niềm

nở và thoải mái. Riêng anh Ba dành cho tôi cả một ngày để chuyện

trò, phổ biến nghị quyết mới của Khu uỷ, Tỉnh ủy và yêu cầu của

công tác tư tưởng thời gian tới. Anh chỉ rõ: Sắp tới, cần phát động

quần chúng nổi dậy, tấn công về chính trị. Đặc biệt là phải chịu ác

liệt, trụ lại làng cũ, đào hầm hố tránh phi pháo, ổn định đời sống, lo

làm ăn. Cán bộ phải trụ bám, dũng cảm, giải quyết công việc có lý,

có tình. Du kích xã, thôn cần chú ý tác phong đúng đắn trong quan

hệ với nhân dân. Hướng phục vụ là nông thôn và cao trào cách

mạng ở thị xã. Trước mắt, cần mở ra giành dân và làm chủ ở nông

thôn, đồng thời làm chủ ở thị xã bằng cán bộ cơ sở, chuẩn bị thời cơ.

Phát huy mạnh phương thức đấu tranh hợp pháp, chống bắt lính,

đòi lật đổ Thiệu, vãn hồi hòa bình. Cần giải quyết tư tưởng trông

chờ, ỷ lại cú đấm quân sự của bộ đội chủ lực. Chuẩn bị tổng công

kích, tổng khởi nghĩa.

Là Bí thư Tỉnh ủy, anh Ba có tầm nhìn xa trông rộng, lại cũng

rất gần gũi cán bộ cấp dưới. Giọng nói anh êm, ấm và thái độ anh

rất cởi mở. Qua làm việc với anh Ba, tôi nắm tương đối toàn diện

tình hình trong tỉnh cũng như ý đồ chỉ đạo của Khu ủy, Tỉnh ủy.

Tới nay, quân và dân Bình Định đã đánh quỵ một nửa quân số

địch, giải phóng 25 vạn dân, với diện tích trên 1.000 km2. Lực

lượng vũ trang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Quần chúng nổi

dậy bức hàng, bức rút 107 chốt, bắt gọn 1 trung đội dân vệ, thu vũ

khí. Riêng ở Đệ Đức, quân Giải phóng bắn vào 400 quả pháo, diệt

nhiều tên địch, vây chặt 3 phía nhưng để một ngõ phía núi cho gia

đình binh sĩ vào vận động, dẫn dắt được 800 binh sĩ ngụy ra vùng

giải phóng. Phía Nam khó khăn hơn, nhưng cũng đã giải phóng

hoàn toàn 6 xã, nối liền đông bắc Bình Khê với đông và tây An

Nhơn. Toàn Khu Năm làm tan rã và bắt 5.000 tên địch thì Bình

Định chiếm 4.000. Toàn tỉnh tăng được 2.500 du kích; huyện An

Nhơn trong suốt 6 năm qua không có du kích, nay mỗi xã đều có 1

trung đội. Thành tích nổi bật của Hoài Nhơn là nổi dậy đồng loạt,

chủ động (hình thành thế bao vây 66 chốt địch trong một lúc), chỉ

trong 7 ngày giải phóng xong toàn huyện (dự kiến 20 ngày), cơ bản

giữ được dân. Hoài Ân xây dựng lực lượng nhanh. Phù Mỹ, từ 20

tháng 4 trở đi khí thế khởi nghĩa lên cao. An Nhơn nổi dậy đúng

374

khâu then chốt, phát triển nhanh lực lượng. Thị xã Quy Nhơn, lực

lượng cách mạng phối hợp với chiến trường chung, làm địch rối

loạn, bị tê liệt, tên tỉnh trưởng hô hào thành lập Chiến đoàn bảo vệ

Quy Nhơn nhưng không có lính. Bình Khê, quân ta bám được trong

dân, dân tự giải phóng, bung về, làm chủ quê cũ. Nét nổi bật chung

toàn tỉnh là giải phóng phía Bắc nhanh, chọc thủng được tuyến

phòng thủ phía Nam, cắt được đường 19 trong nửa tháng. Như vậy,

Bình Định đã đánh bại căn bản chương trình bình định và làm thất

bại nghiêm trọng kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh của địch, làm

chuyển biến rõ toàn bộ cục diện chiến trường. Bọn địch đang trong

tình trạng lực suy, tư tưởng thất bại chủ nghĩa lan tràn. Nguyên

nhân của tình hình trên là: Sự chỉ đạo đúng đắn, chặt chẽ của Khu

ủy. Toàn đảng bộ và quân dân trong tỉnh quyết tâm cao, nỗ lực lơn,

chấp hành nghiêm mệnh lệnh của trên. Có sự hỗ trợ đắc lực của cú

đấm quân sự - mà vai trò nòng cốt là Nông trường 3 (quân chủ lực).

Có tác động của chiến trường chung. Tổ chức chỉ đạo, chỉ huy trực

tiếp, linh hoạt, chuyển biến kịp, bám sát chiến trường, bám sát

trọng điểm. Tuy vậy, chiến thắng chưa tương xứng với khả năng. Tổ

chức tiếp thu và phát huy thành quả chậm, có mặt bị động, không

đáp ứng kịp yêu cầu sau giải phóng (tiếp thu địa bàn, quản lý tù,

hàng binh, truy tróc tàn quân chậm, không chặt. Chậm ổn định đời

sống nhân dân vùng thị trấn, quận lỵ mới giải phóng).

Bài học mà anh Ba rút ra là: Tốc độ càng nhanh thắng lợi càng

lớn. Biết lợi dụng đúng thời cơ thì nơi yếu, nơi không có bộ đội chủ

lực cũng giành được thắng lợi lớn. Tập trung cho trọng điểm,

chuyển nhanh điểm ra diện. Tấn công, nổi dậy liên tục - liên tục cho

tới khi dứt điểm.

Anh Ba đưa ra lời nhận xét chắc nịch: Địch đang trên đà suy

sụp nặng, tiến tới tan rã hoàn toàn, không có khả năng hồi phục.

Tuy vậy, chúng có thể lợi dụng sơ hở của ta, đổ quân chớp nhoáng

vào vùng giải phóng. Chúng sẽ rút bớt chốt, co cụm lớn, cố giữ lực

lượng để khỏi bị tiêu diệt, tăng cường đàn áp phong trào cách mạng

ở thành thị, tăng cường phi pháo đánh phá vùng giáp ranh, trục

giao thông, vùng giải phóng, thị trấn.

375

Trong khi tôi ngồi chăm chú ghi, anh Ba đứng dậy, châm một

điếu thuốc rồi chuyển qua vấn đề phương hướng, nhiệm vụ thời

gian tới: Đẩy mạnh tốc độ tác chiến, võ trang để liên tục tiến công,

liên tục nổi dậy nhằm giải phóng toàn bộ nông thôn, đưa phong trào

cách mạng ở thành thị lên thành cao trào. Phải nắm vững hướng

tấn công và nổi dậy. Yêu cầu cao nhất lúc này là giải phóng thị xã.

Động viên cao nhất nhân tài vật lực cho tiến công và nổi dậy. Anh

chỉ rõ 6 công tác phải làm như sau:

1. Quân sự: Tác chiến tập trung, diệt sinh lực địch. Xây dựng

lực lượng. Đảm bảo vật chất.

2. Nổi dậy: Không phải nổi dậy từng đợt, mà liên tục, cuốn

chiếu, tiến tới dứt điểm. Không chờ cú đấm quân sự. Tiếp tục truy

tróc tàn quân ngụy, thuần khiết nội bộ quần chúng. Bức hàng, bức

rã các lực lượng kìm kẹp của địch tại chỗ, bung dân về. Phía Nam:

bao vây chặt các thị trấn, chi khu, làm chủ từng đoạn đường chiến

lược. Quân sự tạo cú đấm làm đòn xeo cho quần chúng nổi dậy.

Càng sâu về phía Nam càng phải chú ý khâu binh vận. Đánh tới

đâu giữ tới đó. Vấn đề then chốt là phải phát động quần chúng nổi

dậy.

3. Thành thị: Chuyển lên cao trào công khai cách mạng. Khoét

sâu mâu thuẫn trong nội bộ địch.

4. Xây dựng vùng giải phóng: Biến mỗi thôn xã thành một pháo

đài cách mạng. Truy tróc sạch tàn quân ngụy, trấn áp bọn phản

cách mạng. Thuần khiết quần chúng. Nhanh chóng ổn định đời

sống. Nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Chính trị phải mạnh

- quần chúng giác ngộ cao, căm thù địch sâu sắc, có ý thức trách

nhiệm, làm chủ. Phát động quân sự hóa toàn dân. Đẩy mạnh du

kích chiến tranh, tòng quân nhập ngũ; chú ý tuyến du kích ven

biển. Dân công thường trực. Đón và nuôi thương binh. Đẩy mạnh

sản xuất - chuẩn bị tốt cho vụ tháng 8, giải quyết tốt vấn đề ruộng

đất, thu mua lương thực. Làm tốt công tác văn hóa xã hội - thực

hiện nếp sống văn minh, xóa sạch tàn tích của địch.

5. Binh vận: Tấn công ra phía trước làm tan rã hàng mảng lớn

lực lượng địch. Cải tạo, sử dụng tốt tù, hàng binh, không để địch

bắt trở lại hàng ngũ của chúng.

376

6. Xây dựng Đảng: Làm cho cán bộ, chiến sĩ chuyển biến mạnh

mẽ, có nhận thức phù hợp tình hình - đánh giá đúng địch, ta, thấy

rõ thời cơ lớn đang tiếp tục đến. Có quyết tâm giành thắng lợi quyết

định - quyết tâm cao nhất, khẩn trương nhất, triệt để nhất. Khắc

phục tư tuởng chủ quan, thỏa mãn, dừng lại xả hơi, hòa bình hưởng

lạc, mất cảnh giác, ỷ lại, thiếu tự tin, sợ chết.

Phải chuyển nhanh về tổ chức và tổ chức thực hiện, phải đạt 4

yêu cầu: Có niềm tin vững chắc, nhận thức, hành động nhảy vọt.

Hết sức khẩn trương. Táo bạo, làm việc quy mô, tập trung. Phải

nhanh chóng hình thành và phát triển bộ máy quân, dân, chính,

đảng.

Anh Ba dặn tôi khi viết phải thể hiện rõ chính sách của Mặt

trận dân tộc giải phóng, chú ý đến vấn đề dân tộc, qua đó thuyết

phục về giai cấp chứ không viết trực diện vấn đề giai cấp, thể hiện

đúng tinh thần hòa giải dân tộc.

Tinh thần chỉ đạo nói trên của Đảng ta đã được Tỉnh ủy Bình

định quán triệt đến từng cơ sở, cán bộ chủ chốt. Hôm nay, tôi được

anh Ba phổ biến riêng, thể hiện sự tin cậy và chu đáo của anh đối

với tôi, cũng thể hiện sự coi trọng của đồng chí lãnh đạo Đảng đối

với công tác thông tấn - báo chí, càng làm cho tôi phải có trách

nhiệm hơn đối với nghề nghiệp, đối với sự nghiệp cách mạng.

Anh Ba tiễn tôi về ban Tuyên huấn. Đi đến đỉnh đồi, nơi có

những bụi sim, mua mọc lúp súp, không còn rừng cây lớn ngăn cản

gió đồng bằng đang thổi về nhè nhẹ, anh Ba đưa tôi xem một chiếc

quạt làm bằng một loại gỗ thơm mùi trầm. Anh cười: "Cậu hít thử

coi, một mùi thơm thoát tục, mình rất thích". Tôi thầm cảm phục

anh, một bộ óc lãnh đạo thật sáng suốt và một tâm hồn thật thanh

bạch. Tôi cũng thầm cảm ơn anh đã giúp tôi có nhận thức mới, toàn

diện, hết sức bổ ích đối với nghề làm báo.

Tôi sẽ đi vùng Đông, chuẩn bị vào Quy Nhơn.

Ngày 26, 27/5/1972

377

Lên đường đi vùng Đông.

Ghé lại trường "Tổng hợp" của tỉnh. Tại đây có khoảng 50 học

sinh của các địa phương gửi học làm công tác tuyên huấn và mấy

đội "Tuyên truyền vũ trang" của tỉnh mới đi công tác về. Hầu hết là

người của hai huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân. Phía Bắc đã được giải

phóng là nguồn cung cấp nhân tài, vật lực lớn cho toàn tỉnh.

Chúng tôi lên đường vào sáng 27. Một số nữ học sinh ở lại học

tiếp đứng tiễn mà khóc sướt mướt. Những người ra đi thì hăm hở,

tươi roi rói. Họ gồm những đội viên tuyên truyền vũ trang, binh

vận, trinh sát võ trang... Cả tỉnh đang dồn sức cho phía Nam, cho

vùng Đông, cho Quy Nhơn.

Những năm tháng khó khăn, vùng Đông nổi tiếng là ác liệt

"Vùng Đông đi dễ, khó về", "Vùng Đông gạo trắng, nước trong. Đã

đi đến đó, không mong ngày về". Nơi này dày đặc khu dồn, dầy đặc

đồn bốt. Còn bây giờ, mở ra, vùng Đông có bớt sự kìm kẹp của địch,

nhưng vẫn còn đầy nguy hiểm.

THƯ ĐỒNG CHÍ

Vũ Đảo. Ngày 27/5/1972

Thân gửi Văn Chi, Việt Long !

Mình đã nhận được thư của Chi và Việt Long. Thư của Long có

gửi kèm cả 2 mẩu chuyện. Hồi này chắc là Chi và Long có nhiều

việc đáng làm lắm, giải phóng rồi, nhiều vấn đề mới nảy ra, không

suy nghĩ kỹ thì búi lên đó.

Anh em lại vừa làm một chuyến hành quân nữa, đến nay căn

bản làm xong chỗ ở. Tuy vậy, công việc tin tức hàng ngày vẫn bảo

đảm. Mình, Chu, Lợi vào chỗ chị Văn (Văn phòng Khu uỷ) từ đầu

tháng, còn lãnh đạo thì lúc anh Huấn, nay anh Phương. Công việc

khá bận nên viết thư không được nhiều cho Chi và Long, thông cảm

nhé.

378

Anh Toàn đã về tới nhà 10/5, bị sốt mất mấy ngày. Hoàng Chu

đi đón hai chuyến mới hết hàng.

Anh Hà cũng đã vào 14/5 (ra đi 14/4), xin được khá nhiều hàng,

nhưng chưa chuyển về nhà được vì thiếu nhân lực, anh em lại yếu

nhiều. Anh Bình ra Bắc chữa bệnh. Anh Hồng, Đồng đi bệnh xá từ

gần hai tháng nay rồi, tình trạng sức khoẻ cũng không tiến triển

bao nhiêu- Anh Hoài, Phò cũng bị teo chân hoặc tay (bác sĩ khám

nói là bị vôi xương và thoái hoá).

Anh Hà về có mang thư của anh Đỗ Phượng, chị Sáu. Vì thời

gian gấp rút nên anh Phượng và chị Sáu viết thư chung, thông báo

một số tình hình gia đình anh em. Cơ quan có gửi chung một số

thuốc bổ, bệnh, một số thuốc hút... nhưng hãy còn ngoài đầu mối,

chưa mang về. Dép cao su cơ quan cũng gửi vào một ít (mình xin 9

đôi, bên Hồng Sinh xin 10 đôi nhưng vì trọng lượng trên xe hạn chế

nên có 9 đôi cả 2 bộ phận). Riêng mình nhận được thư gia đình và

ảnh - cơ quan chụp, anh Hà chụp mang vào.

Cơ quan điện vào cho biết có 6 đồng chí đã lên đường vào: Hồng

Phấn, Thanh Tụng, Phước Huề... và 2 cô nữ cho bộ phận Hồng

Sinh; có lẽ cũng sắp vào tới nơi.

Chung, Quả, Ca, Quảng thường xuyên viết thư về. Quả có đi

Đắc Tô. Quảng bị sốt trận kịch liệt.

Còn công việc thì Long và Chi chú ý nghiên cứu tìm hiểu những

nét mới nhất thể hiện: xây dựng vùng giải phóng, sản xuất... sinh

hoạt của nhân dân ở nông thôn, thành phố.

Nếu thiếu tiền thì Chi, Long mượn của cơ quan Tuyên huấn sau

thanh toán. Bây giờ gửi về không bảo đảm. Khi nào có điện thì về.

Thân thương.

Ngày 28/5/1972

Lại xuống trạm giao liên ở Cát Sơn, nơi mà cách đây một năm

tôi đã đi qua. Hồi ấy, tôi đến trạm lúc tối đen, và phải hưởng một

379

trận pháo cấp tập. Hồi này, xuống khi còn ráng chiều, vừa lúc một

chiếc trực thăng bay tới, rất thấp, chỉ cao hơn mái nhà một chút,

nhưng không bắn phá gì. Hồi ấy, đi qua những xóm nhà đìu hiu

không một bóng người. Bây giờ, nhà vẫn như xưa và người đông

đúc: đồng bào đã phá khu dồn trở về, làm ăn, buôn bán; bộ đội, cán

bộ mua hàng, đi công tác.

Tới gần đường số một, ngồi chờ giao liên đón ở một đám ruộng -

không vào xóm vì địch có thể phục kích. Trăng sáng vằng vặc. Mong

có mây đến che cho trăng bớt sáng để vượt đường cho kín đáo. Tôi

ngồi ở một bờ ruộng, ướt nước sương. Ruộng lởm chởm những gốc rạ

khô gần mục. Nhìn ra đường số một, thấy phía trái có một cụm cứ

điểm địch sáng lên với những pha đèn điện. Cụm này rất lớn, bao cả

một khu vực từ dưới thấp lên lưng chừng núi. Từ phía đó, phát ra

tiếng máy điện chạy mạnh, nghe như tiếng Honda rồ ga lên dốc.

Thỉnh thoảng, cây pháo đặt trong đó lại bắn một phát, tiếng nổ

mạnh làm tôi giật mình. Hình như đó là Sư bộ Sư 22 nguỵ hoặc căn

cứ của bọn Pắc Chung Hy.

Gió vi vu, lành lạnh. Vẳng từ phía Nam lên tiếng kêu gì đó

nghe trầm trầm, âm ấm, âm âm như tiếng kêu của một cây đàn

dương cầm lớn mà hòm dây bị mở tung ra, đặt trước một trận gió

lớn. Lắng nghe lắm mới nhận ra đó là tiếng động cơ Đa cô ta - nơi

ấy là sân bay Gò Quánh.

Gần 9 giờ, giao liên lên, phổ biến:

- Mấy hôm nay, địch kích liên tục ở đường cũ, do vậy, bữa nay

phải đi đường khác. Đường này chỉ cách căn cứ địch 50 mét và cách

cầu 20 mét. Khi vượt đường sắt, vượt đường số một, phải chui qua

cống. Không được chạy qua mặt đường, mà phải chui qua cống.

Bám sát đội hình, vượt nhanh, im lặng.

Sau khi nhấn mạnh mấy câu cuối, anh dừng lại một chút rồi

dặn rất kỹ:

- Bọn lính gác cầu và trong cứ điểm hay hô tầm bậy, bắn tầm

bậy. Đừng tưởng nó phát hiện ra mình mà chạy.

Bắt đầu đi hàng một, thưa.

Chạy theo một lòng suối khô thấp hơn đường tới hơn một thước,

chui vào một cái cống ngầm xây bằng gạch. Cống thấp, phải lết.

380

Chui khỏi cống, lại theo lòng suối cạn chui vào một cống khác luồn

qua đường số một. Cả hai cống đều dài tới hơn chục thước, lòng

thấp, phải lết đi. May không có nước, nếu không chắc ướt hết. Tất

cả đều yên tĩnh.

Vượt qua một cánh đồng. Vào rìa núi. Bầy te te đánh hơi người

bay túa lên, kêu ầm ĩ. Một cứ điểm địch bắn loạn xạ. Từng dây đạn

đỏ lừ vạch sáng bầu trời.

Ngày 29/5/1972

Đặt chân lên núi Bà. Cụm núi to nổi tiếng vì hồi trước (1969) cả

sư đoàn Pắc Chung Hy càn quét và đã đụng độ dữ dội với quân cách

mạng. Núi độc một loại cây thấp, cỏ tranh.

Nắng, nóng, mệt.

Đêm, trời tập kích một cơn mưa dữ dội làm nhiều người ướt

sũng, phải trùm ni lông ngồi.

Ngày 31/5/1972

Vẫn đi trên đỉnh núi Bà. Có nơi đi cách một căn cứ Pắc Chung

Hy chỉ một cánh đồng, thấy rõ tháp canh, lô cốt. Nhìn xuống thấy

rõ vùng đồng An Nhơn, Phù Cát.

Đường vắt qua những tảng đá cheo leo, gập ghềnh thật khó đi.

Ngày 1/6/1972

Tới một trạm nằm tại xã Cát Chánh (Phù Cát). Sát biển rồi. Đi

trên đồi trọc nhìn xuống thấy biển xanh rờn đằm thắm.

Chiều, theo trực (giao liên) về Quỳnh Tiến 2. Đi qua những

cánh đồng mênh mông, hoang vu. Ruộng ở đây tốt nổi tiếng nhưng

bây giờ không ai cấy trồng, cỏ mọc um tùm. Đi thẳng ra biển. Gặp

lại những dấu tích cũ của một làng: nền nhà gạch, giếng nước,

chum ghè bị tàn phá vì bom đạn, chìm dưới cỏ. Qua một rừng dương

381

dày, có nhiều cây bị pháo bắn đổ ngổn ngang, cháy đen hoặc vàng

úa.

Theo dọc bờ biển. Ngoài khơi có hai chiếc tàu thuỷ lớn đậu nép

vào 2 hòn đảo lớn. Sóng ì ầm. Tầm mắt được mở rộng, ngực được hít

thở không khí khoáng đãng.

Cơ quan dựa vào các hang đá mà ở.

Ngày 2/6/1972

Anh Toàn, Phó bí thư Tỉnh uỷ phụ trách khu Đông, đón chúng

tôi bằng sự nhiệt tình, niềm nở. Với vóc người hơi cao, nước da hồng

hào, khuôn mặt vuông, trán cao, mái tóc hơi quăn tạo thành nếp

gọn gàng, anh có dáng vẻ của một trí thức. Anh rất hiểu rõ tầm

quan trọng của công tác báo chí. Anh rất mê chụp ảnh. Anh nói:

- Ước mơ của tôi là ra được một tờ báo cho thị xã Quy Nhơn. Tờ

báo là tiếng nói, là bộ mặt của chúng ta mà. Tôi muốn các anh giúp

cho thị xã ra được tờ báo.

Anh bàn thẳng vào những việc cụ thể để ra báo. Nhiệt tình của

anh lôi cuốn tôi và Cao Duy Thảo vào không khí chiến đấu ở chiến

trường mới một cách mau chóng.

Khu Đông nổi tiếng về muỗi. Bọc võng trở nên bất lực: mặc dù

nó được phủ nắp kỹ, muỗi vẫn bò theo thành nó mà luồn vào được,

mỗi đêm ít nhất có mấy chục con muỗi nhờ thủ đoạn đột kích ấy mà

hút được máu người. Ngủ thiếp đi một lúc, muỗi cắn đau lại choàng

dậy, nắm 2 thành bọc võng mở ra, khép lại tạo thành những luồng

gió quạt chúng ra.

Ngày 4/6/1972

Ở với Tuyên Huấn thị xã, ngày ngày qua dự trực báo bên

Thường vụ Thị ủy. Chúng tôi đều ngóng một tin từ Quy Nhơn ra: từ

hôm qua, đã nghe đài địch nói đến một vụ nổ giữa thị xã, có đúng là

vụ nổ do ta bố trí không?

382

7 giờ 5 phút, một phụ nữ người nhỏ nhắn bước vào phòng họp

và mọi người đều ồ lên mừng rỡ. Anh Toàn nói:

- Cô đem tin phấn khởi đến cho anh em chứ, cô Kiên?

Kiên cười, bước lại ngồi ở ghế và nói luôn:

- Chà mừng quá, nổ đúng như kế hoạch. Khi tôi tới gặp anh L,

anh ấy nói: "Phải đánh ngay trong sáng hôm nay vì tất cả bọn chỉ

huy cao cấp của Bình Định đều tập trung họp ở Trung tâm hành

quân Bình Định". Nhưng không có kíp 4 giờ. Tôi đưa kíp 2 giờ. Anh

ấy nhận, rất phấn khởi, nói: "Thôi, may rủi. Kíp 2 giờ, cấn quá

nhưng ráng đánh. Có đổi bằng gì cũng phải đánh trong ngày hôm

nay". 5 rưỡi sáng 2/6, anh ấy đem vào đặt giữa phòng họp dưới hầm

ngầm, 7 giờ 15 nổ. Sập hết hầm, chết hết bọn nó. Cuộc họp này do

tên đại tá Chức, tỉnh trưởng, chủ trì. Không biết có nó dưới ấy

không nhưng từ hôm đó đến nay không thấy nó, bọn chúng đang đi

kiếm. Chúng rào chặn đường không cho ai tới coi và cho 3 máy bay

cần cẩu tới trục hầm, lấy xác. Đợt đầu mới khiêng được 15 xác phía

ngoài. Sau đó tôi đã gặp lại anh L, anh rất phấn khởi và cho biết

không bị tụi nó nghi gì. Tụi nó bắt một nửa số lính bảo vệ trong khu

này.

Mọi người sôi nổi bàn về ý nghĩa thắng lợi của vụ này. Tôi nhìn

chị Kiên, hết sức thán phục. Chiến công này thuộc người lính nguỵ

nội ứng kia một phần, nhưng phần lớn, phải dành cho người phụ nữ

nhỏ nhắn, bình dị ấy. Chính chị xây dựng anh thành cơ sở, cùng

anh xây dựng phương án và đưa thuốc nổ vào giữa thị xã đầy quân

địch.

Chị Kiên kể tiếp:

- Sợ rủi ro, tôi đưa cả 6 kíp cho anh L. đánh một lượt.

Một anh nói xen vào:

383

- Tôi dành cả phần của chiếc tầu cho vụ ấy đấy. Tàu chở vũ khí

đến, đánh ngon mà phải dừng, chưa đánh.

Chị Kiên lại nói:

- Anh L. nói, lúc 10 giờ anh tới coi, thấy hầm tung ra hết. Trụ

sắt, máy móc biến thành những mảnh vụn. Lúc tôi vô, nghe 2 thằng

lính nói chuyện với nhau: "Mày có vô Trung tâm hành quân chưa?"

- " Có, dễ sợ quá!". Biết là vụ của mình, tôi cố lắng nghe nhưng

chúng không dám nói nữa. Tới Đập Đá, ngứa cổ, chúng lại nói:

"Hầm ngầm của bộ chỉ huy ở Trung tâm mà còn sập, nói chi đến lũ

mình". Chúng rùng mình, nói mãi: "Dễ sợ quá, dễ nể quá!". Còn

thằng Lân, thiếu tá tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/10, mới thoát chết

ở Hoài Nhơn về, cứ ngồi gục mặt than: "Không còn biết tin ai nữa".

Nghe chị Kiên kể chuyện, tôi lại tức cười cho sự tuyên truyền

lừa phỉnh của địch. Đài BBC, đài Manila đưa tin về vụ này: "Đặc

công Cộng sản đặt chất nổ làm sập một hầm ngầm ở Quy Nhơn,

chết 3, bị thương 15 người. Tên đặc công mặc giả sĩ quan không

quân đã bị chết tại trận vì quả mìn nổ quá sớm. Chính phủ còn bắt

được 9 đặc công khác!". Thật là dựng đứng chuyện mà không biết

ngượng mồm.

Khi mọi người vừa thảo luận xong thì anh Châu - cán bộ binh

vận tỉnh - tới. Anh Châu được cử đi công tác ở vùng ven, không biết

tại sao lại về. Anh Toàn hỏi:

- Sao, ông Châu nghe gì chưa?

- Có chứ, nghe một vụ nổ ở thị xã.

- Thấy thế nào?

Anh Châu lúng túng, cười trừ.

- Thấy thế nào, có bàn bạc gì không?

384

- Dạ có, anh Vương có báo tin cho anh em bộ đội và phát động

hoạt động mạnh để phối hợp, tôi có họp một số cơ sở động viên họ

hành động.

- Hoạt động ra sao?

Anh Châu trả lời ngắc ngứ, rề rà, vòng vèo, đại ý: đơn vị bộ đội

đi đánh mục tiêu đã định nhưng địch cho quân kích đường nên phải

dừng lại, địch tập kích 2 lần vào xóm Đăng, có cả tàu rọ phối hợp.

Anh em tản khai hết, chỉ để một số ở lại bố phòng, nhưng chúng tới

nhanh quá, không kịp...

Anh Toàn ngắt lời:

- Thế có loan tin chiến thắng cho đồng bào nghe không? Có đưa

đồng bào vào thị đấu tranh không?

- Dạ không!

- Đó, thế mới chết. Các ông chỉ thấy tầu rọ quần, lính kích mà

lo cuống lên, không dám hoạt động. Anh biết không, cú đánh vừa

rồi là cú đánh lớn lắm, làm bủn rủn hết bọn địch, nhất là bọn chỉ

huy. Nó phối hợp với Phù Mỹ rất tốt. Nó giáng vào bọn đầu xỏ, làm

cho số còn lại rụng rời tay chân. Cũng còn phải rất lâu chúng mới

sắp xếp lại được tổ chức, ổn định lại được tinh thần. Anh biết

không, chúng cho rằng đó là cú đánh mở màn để ta chiếm Quy

Nhơn mà, chúng đánh giá ta cao lắm mà, chúng hoang mang dữ

vậy mà. Nhưng, Quy Nhơn là chỗ cuối cùng của chúng, chúng phải

cố giữ chứ, do vậy chúng mới đẩy quân ra giữ rìa. Làm vậy, mà

trong bụng run lắm. Lẽ ra, ta phải hoạt động mạnh lên chứ. Đánh

điểm không được thì phải chia ra đánh nhỏ chứ. Phải đưa đồng bào

vào thị làm xôn xao dư luận, tấn công tư tưởng binh lính địch chứ.

Chỉ cần kéo vào, hỏi thăm thôi: "Sao, mìn nổ thế nào mà dữ vậy?

Ông tỉnh trưởng đâu không thấy lên ti vi nói, hay là bị lấp dưới

hầm rồi?" v.v.. thì cũng đủ làm cho địch hoang mang rệu rã thêm

rồi. Vậy, mà làm không được. Bỏ qua mất 2 ngày rồi.

Anh Châu cứ ngồi im mà nghe.

385

Những ngày tiếp theo, tôi tranh thủ gặp một số cơ sở từ trong

thị xã ra khai thác tài liệu để viết tin, bài. Đồng thời cùng Cao Duy

Thảo, Mai ái Trực biên tập số báo đầu tiên cho thị uỷ Qui Nhơn. Bài

vở cũng khá phong phú. Chúng tôi cố gắng viết ngắn cho phù hợp với

tờ báo khổ nhỏ và với điều kiện lưu hành bí mật trong vùng địch kiểm

soát. Việc in ấn được tổ chức ngay tại chỗ, vì nhà in tỉnh đã chi viện

cho vùng Đông cả máy móc, chữ, khuôn, cả công nhân in.

Tại đây, tôi được nghe nhiều chuyện cảm động của vùng Núi

Bà này những năm gian khổ, ác liệt. Có thời gian, địch bao vây dữ

quá, hết cả thức ăn, phải xoay đủ thứ mà nuôi thân. Hồi ấy có anh

Sang nổi tiếng về bắt chuột: đêm, anh nằm trong hang đá, để bàn

chân nhử chuột - lũ chuột ở đây rất dữ, dám gặm cả chân người -

khi chuột tới gặm bàn chân, anh nhanh chóng co gối, làm sập chiếc

bẫy làm bằng chiếc thau nhôm lớn. Có đêm, bắt được 5 - 7 con chuột

to sù. Có trận, bom làm sập một lèn đá, nhốt chặt một cô gái trong

đó. Lèn đá không sập hẳn, không đè chết cô, nhưng bịt chặt mọi ngõ

ra. Anh em phải đưa thức ăn, nước uống qua khe đá vào cho cô.

Nuôi cô trong sự bất lực, chỉ là sự an ủi khắc khoải của một sự sống

không lối thoát. Được gần một tuần lễ, địch càn lên, đành đặt vào

miệng hang những khẩu phần cuối cùng, nắm bàn tay gầy guộc của

cô lần cuối cùng, rồi gạt nước mắt chuyển sang ngọn núi khác. Khi

địch rút, quay lại, chỉ còn nhận được mùi tử thi...

Đài tiếng nói Việt Nam phát lại nhiều lần bài viết sau đây của

tôi đăng trên Bản tin đấu tranh thống nhất của Việt Nam Thông

tấn xã:

Hoài Nhơn, bão táp và ngày mùa

Hà Nội (VNTTX 4-6-1972) - Lòng tràn ngập niềm hân hoan

phấn khởi, chúng tôi hăm hở tiến về thị trấn Bồng Sơn vừa được

giải phóng. Ngay từ vùng ngoại vi thị trấn, không khí đã vô cùng

sôi nổi. Đây là ấp chiến lược T vừa được giải phóng, chính quyền

cách mạng đã thành lập. Ngày cũng như đêm, ở đây rầm rập bước

chân người. Đồng bào đào hầm hố trú ẩn, hào giao thông dọc đường.

Buổi sáng trên đường, hàng đoàn tù binh từ thị trấn kéo ra. Hàng

chục chiếc xe ô tô, Hon đa chở đầy những vũ khí thu được của địch.

Người cưỡi xe, kẻ đi bộ, người gồng gánh, kẻ khoác ba lô... tất cả

đều hối hả. Ai nấy mang trong lòng niềm vui tràn ngập...

386

Trên đường phố Bồng Sơn đầy những mũ sắt, giầy vải, những

băng đạn, những đống quần áo lính, và những khẩu súng của quân

địch vứt lại.

Nổi bật trên những tường nhà là những khẩu hiệu mới viết còn

tươi nét mực: "Không có gì quí hơn độc lập tự do", "Toàn dân kiên

quyết giữ vững vùng giải phóng"... Ngay ngã ba bên Chi Thông tin

cũ, hai cổng chào lớn được dựng lên. Cờ Cộng hoà miền Nam Việt

Nam phấp phới trước các ngôi nhà, dọc đường số một. Trước một

ngôi nhà gạch có treo tấm biển "Trụ sở Uỷ ban Nhân dân cách

mạng thị trấn Bồng Sơn". Kề bên đó là nhà "Đón tiếp binh lính, sĩ

quan nguỵ trở về với nhân dân". Cả hai nhà đều chật ních những

người.

Những người trước đây làm cho địch lần lượt đến trình diện với

chính quyền cách mạng. Họ gồm đủ loại: binh sĩ Cộng hoà, Bảo an,

nhân viên hành chánh, đại diện xã, ấp trưởng...

Rời thị trấn, chúng tôi vào nhà ông Ngô. Ông có người con trai

thứ hai đi lính vừa mang súng trở về. Anh ta kể:

- Em muốn về từ bữa đầu nhưng bọn chỉ huy kẹp chặt quá.

Hôm sau vừa thấy em lên khỏi hầm, thằng Trung đội trưởng đã

quát: "Lên tao bắn!". Em liền lia cho nó một băng đạn. Nó gục trước

cửa hầm. Em chạy thoát. Thấy vậy, nhiều anh em khác cũng chạy

theo.

Lực lượng địch tan ra từng mảng. Chỉ sau mấy ngày bị tấn

công, hơn 100 trung đội dân vệ, phòng vệ dân sự đã tan rã. Đồng

bào ở nhiều xã đã vào tận đồn bốt địch, thậm chí vào cả trong trận

địa, kêu gọi binh sĩ bỏ hàng ngũ địch về vùng giải phóng.

Trong khi chúng tôi ngồi nói chuyện thì ở phía tây nam, tiếng

pháo 105 ly vẫn gầm dữ dội. Ông Ngô bảo:

- Pháo của ta bắn vào Đệ Đức đấy!

387

Những quả đạn pháo lao vun vút qua đầu chúng tôi, dội bão

lửa xuống căn cứ địch đang bị vây chặt.

Trưa hôm sau, tôi gặp một đoàn hàng binh từ căn cứ Đệ Đức

tới. Nguyễn Chất, binh nhì, thuộc đại đội 1, tiểu đoàn 40, kể lại

những giờ phút kinh hoàng ấy:

- Bị bao vây, chúng tôi rất khiếp sợ, pháo của các ông bắn quá

trời. Hôm qua pháo nổ trúng kho đạn, máy bay tới thả dù tiếp tế

nhưng bay quá cao, thả ra ngoài đồn hết...

Câu chuyện đang dở dang thì có người tới báo tin căn cứ Đệ

Đức đã bị quân ta tiêu diệt. Thế là toàn huyện Hoài Nhơn đã được

giải phóng. Chúng tôi theo đường số một tiến thẳng về Tam Quan.

Kỳ diệu biết bao, chiến công của 22 ngày tiến công và nổi dậy, quân

dân Hoài Nhơn đã cuốn 80 chốt điểm và 2 chi khu quân sự vào

hàng kiên cố nhất của địch tại tỉnh Bình Định.

Thị trấn Tam Quan rực rỡ cờ và khẩu hiệu cách mạng: "Nhiệt

liệt hoan hô quân giải phóng đánh mạnh, thắng to!", "Hễ còn một

tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu

quét sạch nó đi!".

Trên cột cờ giữa thị trấn, lá cờ Cộng hoà miền Nam Việt Nam

cỡ lớn tung bay phần phật, nổi bật lên giữa màu xanh đằm thắm

của những vườn dừa. Dừa êm ả toả bóng mát xuống đường phố,

nườm nượm người qua lại. Các nhà hàng, hiệu buôn vẫn mở cửa.

Bận rộn nhất có lẽ là các hiệu may và các nghiệp đoàn xe lam. Đồng

bào đua nhau may cờ Cách mạng, các thợ may phải làm việc ngày

đêm và phải vét hết vải màu ra mà vẫn không đủ. Còn các thanh

niên lái xe lam thì rất hãnh diện được lái xe phục vụ cho yêu cầu

của Cách mạng. Công nhân xe lam cũng như những người đánh cá,

những thợ tiểu thủ công... đã lập những tổ công đoàn để giúp đỡ

nhau và phục vụ Cách mạng tốt hơn. Một thanh niên vui vẻ nói:

- Sớm nào chúng tôi cũng lái xe tới Đệ Đức để chờ súng đạn,

gạo. Chu cha, nhiều lắm! Hàng dẫy kho. Cả xe tăng, pháo và những

hòm đạn còn nguyên vẹn nữa.

388

Đường phố Tam Quan nô nức, nhộn nhịp trong khí thế chiến

thắng và cảnh giác. Có chiếu phim, có văn công, có cả những lớp

huấn luyện về sử dụng vũ khí, cứu thương và xây dựng chiến hào.

Rời thị trấn, chúng tôi về vùng nông thôn. Qua mỗi thôn xã,

chúng tôi đều gặp những trụ sở Uỷ ban Nhân dân cách mạng, có

cán bộ đang giải quyết công việc cho dân. Chính quyền cách mạng

từ huyện đến xã, thôn nhanh chóng phát huy hiệu lực của mình.

Về Hoài Châu, những thay đổi trong các thôn xóm làm tôi càng

ngạc nhiên và sung sướng! Những con đường từ đồng vào thôn xóm

được dọn sạch sẽ. Các rìa làng được rào kỹ lại. Trên trục đường, cứ

5,7 thước lại có một hố trú ẩn. Rất nhiều đường hào chạy ngoằn

ngoèo dọc các con đường lớn hoặc len lỏi trong những vườn dừa. ở

những vị trí xung yếu đều có du kích gác.

Gặp chúng tôi, anh Huỳnh Chí Đức, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân

cách mạng xã, vồn vã mời tới họp. Uỷ ban đang phải lo giải quyết

hàng loạt công việc của chính quyền cách mạng. Các anh các chị

đang bàn tổ chức Đại hội nghĩa binh của những người trước đây ở

trong quân nguỵ đã lập công trở về với nhân dân.

Anh Đức nhắc cán bộ trong thôn chú ý lãnh đạo đồng bào gieo

đủ mạ để cấy vụ tám, khẩn trương cấy cho kịp thời vụ giống lúa

ngắn ngày và chú ý trồng thêm rau màu. Tôi nhớ lại cách đây ít

ngày, khi xã huy động toàn dân đi vây đồn địch thì lúa đang chín

rộ, vàng rực cả cánh đồng. Lúc ấy, đồng vắng tanh, vắng ngắt. Cầm

bông lúa nặng trĩu, vàng khô, tôi không khỏi lo lúa bị rụng hết.

Nhưng khi đồn địch đã bị san bằng thì Hoài Châu lại dốc toàn lực

ra đồng, làm không kể ngày đêm, thu vụ lúa tốt chưa từng có.

Trời tháng 5 vẫn dội nắng lửa xuống và cánh đồng vẫn rợp

bóng người. Từ những cánh đồng Liễu An, An Quý, Thành Sơn,

Bình Đê... tiếng cười nói của những người cày bừa, gieo cấy vang

lên rộn rã.

389

Một mùa lúa bội thu đã được gặt và cất giấu kỹ lưỡng, gọn

gàng. Người dân Hoài Nhơn lại bắt tay vào vun xới cho một vụ mùa

tới với niềm tin sẽ được thu hoạch những thành quả to lớn hơn, rực

rỡ hơn.

Việt Long

(Phóng viên Thông tấn xã Giải phóng)

Ngày 8/6/1972

Theo các anh ở Thị Uỷ, bài viết nói trên có sức cổ vũ lớn đối với

vùng Đông, ngay cả đồng bào trong Quy Nhơn cũng nghe, và mong

sớm đến ngày tấn công, nổi dậy giải phóng quê hương như đồng bào

Hoài Nhơn.

Thứ sáu 16/6/1972

11 giờ rưỡi, sau bữa cơm trưa, tôi cầm quần áo đi tắm. Mới tới

quá hang đá nhà bếp, nghe 2 tiếng nổ rầm rầm. "B.52!" - thoáng

nghĩ vậy, tôi bật trở lên. Bom nổ rền hàng dây. Chạy vấp đá, ngã

mấy lần. Lượng sức không chạy kịp lên cửa hang, tôi nhìn qua phía

tay trái, thấy một cửa nhỏ thông vào hang. Vội vứt hết quần áo,

khom người, đưa 2 tay ra phía trước, nhảy phóng tới như người

nhảy xuống nước để bơi. Vừa chạm đáy hang, nghe một tiếng nổ

"Rầm" nữa. Tối tăm hết thảy. Những vật gì đó nặng trịch đè lên

đầu, lên mình tôi. Những tiếng nổ vẫn dội lên liên tiếp. Tôi nghĩ:

"Rồi đó, chuyến này chắc đi đời rồi!". Im lặng. Tôi vùng lên. Mở mắt

ngó quanh thấy khói bụi bốc lên mù mịt. Quanh tôi, mấy cô gái bò

lê, quần áo rách bươm, máu me bê bết. Mấy cô la lên:

- Chết thôi anh ơi, bây giờ làm sao!

Tôi nói:

- Cứ ngồi im!

Nhìn quanh, thấy hang trống rỗng, tôi nói:

390

- Các em lên hang phía trên đi.

Phía cửa hang phía trên, Hạnh nằm gục, kêu "Khò! Khò!" như

tiếng rống quái dị. Tôi không thấy đầu cô ta đâu, chỉ thấy nửa thân

mình phía dưới của cô trần truồng, lấm bụi đất. Trong khi 5 cô gái

kia dắt díu nhau chạy lên hang trên thì tôi lại moi đất, kéo Hạnh

dậy. áo Hạnh rách bươm hết. Quần Hạnh chỉ còn 2 ống chân. Tôi

thấy một vết thương lớn sau lưng cô. Hạnh kêu:

- Gì mà tội thế này anh ơi!

Tôi đặt Hạnh nằm ngay thẳng, vơ một chiếc khăn mặt rách

băng vết thương lại, lấy mấy miếng dù rách phủ lên thân thể loã lồ

của cô. Tôi chạy lên gọi thêm người xuống thì gặp Mai ái Trực. Hai

người trở xuống. Lúc này, tôi mới thấy cánh tay trái của Hạnh bị

gãy nát. Tôi mở một cái ba lô nằm lăn lóc dưới đất lấy một cái quần

đưa Trực mặc cho Hạnh và kiếm giẻ buộc tạm cánh tay Hạnh lại.

Tôi và Trực vực Hạnh dậy, nhưng đuối sức quá. Trực lên gọi Hà

xuống. Chúng tôi khiêng Hạnh lên hang đá lớn, đặt nằm ở giường,

băng lại cho kỹ hơn. Nhìn cánh tay, tôi đau lòng quá: nó nát hết

xương rồi, chỉ còn lại một ít thịt bầy nhầy. Tôi bẻ que, bó cố định.

Máy bay địch tiếp tục đến oanh tạc. Bom phá. Bom xăng. Bom bi.

Các loại bom tiếp tục dội xuống. Pháo biển bắn tới rầm rầm. Hạnh

vừa rên, vừa nói:

- Bắn nó rớt mấy cái cho nó hoảng! Anh ơi giúp giùm em với!

Hạnh kêu khát nước. Chúng tôi không cho Hạnh uống.

Xế chiều, địch ngừng bắn phá. Chúng đưa tàu chiến, bo bo, xà

lan cặp sát bờ biển, đổ bộ chừng 2 đại đội. Súng nhỏ nổ rộ phía núi

sát biển. Trực thăng cũng quần lượn, phóng pháo dưới đó. Chúng

tôi thu dọn đồ đạc, đưa hết anh em lên hang đá Hội trường. Hang

đá rộng, đông người

Hai quả bom nổ cách nhà bếp từ 5 đến 10 mét làm tanh bành

tất cả. Quần áo bay tung lên, mắc vào cành cây. Những ống đạn

pháo dùng đựng nước biến mất hết. Gạo đổ vung vãi trong hang.

391

Kiểm tra lại, tổn thất của chúng tôi gồm: Hương (công nhân in,

vừa ở tỉnh xuống với tôi) hy sinh, Hạnh bị thương nặng, Hoa, Tuyết

bị thương vừa, Nào, Thanh, Thuỷ bị sức ép làm tức ngực, mệt.

Hương định đi tắm, vừa tới cửa hang dưới thì trúng bom! Hương là

con trai của anh Đức - Bí thư Xã Uỷ Hoài Châu, người mà tôi rất

khâm phục, đã ghi chép chân dung khá kỹ. Tôi giở sổ vẽ sơ đồ khu

vực bị bom, hang đá, nơi chôn Hương để nếu có dịp thì trao cho anh

Đức.

Tôi cũng bị sức ép làm bùng tai, mệt nhoài. Từ hôm nay, tôi bắt

đầu được tiếp xúc thêm với một thế giới lạ lùng, thế giới của những

tiếng kêu liên tục: tiếng o o như ve sầu, như dế mèn kêu, tiếng xạo

xạo như tiếng những bước chân trên cát, tiếng u u như tiếng máy

biến thế điện. Còn những âm thanh ở bên ngoài dội tới trở nên xa

xăm hơn, nghe văng vẳng. Khái niệm về âm lượng bị lu mờ làm cho

tôi không rõ mình nên nói tới mức nào cho mọi người vừa nghe.

Ngày 17/6/1972

Hạnh tiếp tục rên la vì đau đớn, vì khát nước. Suốt buổi sáng,

cô tỉnh táo, nói nhiều. Cô đòi uống nước, đòi thay quần áo, đòi tắm,

đòi mở băng. Cô la mọi người làm biếng, nước ở suối mà không chịu

vác về. Cô rủ Tuyết đi xuống suối. Cô gọi tên tôi, Trực.

Tôi đến ngồi bên, an ủi Hạnh. Thương vô cùng. Cô bé này 18

tuổi, ở Phước Hậu (ven thị xã Quy Nhơn), mới đi thoát ly ít tháng.

Hồi mới ra, cô luôn khóc, đòi về, nhưng qua những ngày sống với

tập thể, được giáo dục, cô rất phấn khởi, luôn vui hát và đang học

đánh máy.

Hạnh đòi xuống đất nằm, vì nằm võng tức. Tôi lấy tấm đệm và

tấm ni lông trải cho Hạnh nằm. Hạnh vật vã kêu đau, kêu khát,

đói. Tôi hoà bột đậu xanh với đường cho Hạnh uống. Hạnh mửa ộc

ra. Tôi lấy lon hớt vào, lấy khăn lau cho Hạnh. Hạnh nhìn tôi, nói:

- Tội anh Long quá!

392

Thay băng cho Hạnh. Vết thương bị bẩn quá, rất hôi. Lúc này,

tôi tìm ra thêm một vết thương nữa ở mông trái của Hạnh. Vội chỉ

cho y tá rửa, băng lại. Vết thương này đã nhiễm trùng. Phải lấy kéo

cắt đi những chỗ thịt thối. Kéo tụt một bên quần Hạnh xuống.

Hạnh cứ nắm lưng quần, kéo lên, kêu:

- Người ta đông um sùm mà, đậy lại cho em, anh!

Tôi lấy tấm dù phủ ngang bụng cô, nói:

- Em nằm im cho chị Tùng chữa mới lành, anh đắp kín cho em

rồi.

Sau khi rửa vết thương, Tùng dùng kéo cắt lưng quần để cởi ra,

thay quần khác. Hạnh níu không được, la:

- Thôi rồi, bắt tôi ở truồng!

Rửa qua vết thương ở lưng. Vết thương sâu quá, thọc panh vào

lút đến 2, 3 phân. Hạnh kêu, khóc:

- Trời ơi, làm thịt tôi đấy à! Thương dùm tôi với, anh Long đỡ

em dậy.

Băng lại vết thương ở tay. Hạnh vật vã. Tôi hiểu Hạnh đau đớn

vô cùng. Lòng tôi như có muối xát. Tôi nắm tay Hạnh, vuốt tóc, vuốt

má Hạnh, dỗ dành cô mong làm dịu được chút nào nỗi đau đớn ấy.

Lại dùng kéo cắt áo Hạnh, cởi ra. Cô cũng níu lại, kêu:

- Thôi thế là quần không có, áo không có.

Mặc quần rộng, áo rộng cho Hạnh, Hạnh kêu:

- Mặc gì lạ vầy? Như ông thày chùa!

Gần tối, đưa Hạnh, Hoa, Tuyết đi bệnh xá. Riêng Hạnh thì đi

mãi mãi! Tới gần trạm xá, Hạnh đã tắt thở!

Ngày 18/6/1972

393

Đã thu dọn xong đồ đạc, bắt tay vào công tác chuyên môn. Anh

Khiết hướng dẫn một số thanh niên nhặt xếp lại chữ máy in. Bom

hất đổ mất mấy bát chữ. Đó là những bát chữ chuẩn bị cho số báo

đầu tiên của Thị uỷ Quy nhơn. Đã hốt lại, chữ lẫn với đất cát. Dù

sao, mấy ngày nữa sẽ ra báo.

Thư gia đình

Phạm Hùng Việt. Miền Tây, 18/6

Anh Long thân mến!

Đã lâu, hôm nay em lại nhận được thư anh gửi vào cùng với

thư của gia đình. Đọc thư anh em rất phấn khởi với tình hình công

tác cũng như sức khoẻ của anh

Sau khoá huấn luyện tân binh em được bổ sung về đồn biên

phòng 53 Công an vũ trang Nghệ an, nằm giữa vùng biên giới Việt

Lào, giáp với tỉnh Bu Li Khăm Xay của bạn. Thời kỳ đầu chắc anh

cũng hiểu em cảm thấy rất vất vả trong mọi mặt công tác cũng như

sinh hoạt. Vùng em ở ngay dưới chân Trường Sơn, leo qua Trường

Sơn là sang nước bạn, do vậy đường đi rất khó khăn, ra khỏi cổng

đồn là phải trèo núi. Dân ở đây toàn đồng bào dân tộc gồm Thái,

Tày, Mèo. Công tác trung tâm của đồn em là làm công tác cơ sở,

nắm tình hình chung để bảo vệ biên giới, hàng tháng có đi công tác

ngoại biên sang bạn. Cho đến nay, trải qua hơn một năm em đã

tương đối quen với công tác và có thể chịu đựng được gian khổ, kể

cả việc đi bộ hàng 7-8 ngày đường rừng. Do học tiếng dân tộc nhanh

nên em đã nói chuyện được bằng tiếng dân tộc với mọi người nên

phục vụ được tốt cho công tác. Dân ở đây rất tốt nên công tác tiến

hành cũng thuận lợi. Ăn uống, sinh hoạt ở đây gặp nhiều khó khăn,

hiếm rau, em đã gặp và phải chịu đựng nhiều cái thiếu thốn như

thời gian đầu tiên mới vào trong đó anh đã gặp. Lúc đầu, những cái

đó đối với em rất vất vả.

Tình hình biên giới ở đây cũng tương đối phức tạp vì bên bạn

mới giải phóng, chính quyền còn non yếu. Từ tháng 10-12 tình hình

394

càng rắc rối vì địch đổ quân về chiếm lại, dân đó là dân Mèo nên đại

đa số theo địch, hồi đó cơ động ở đồn em phải đi hết, tỉnh cũng phải

điều cơ động lên, vất vả đến 3- 4 tháng mới yên được.

Về sức khoẻ, em vẫn giữ được như thời gian mới lên. Cũng như

anh, em chưa hề bị sốt lần nào cả, trong khi đó đơn vị sốt rét rất

nhiều, có đồng chí mới đến đã sốt liên tục, phải đi điều trị hàng

tháng. Qua những bỡ ngỡ ban đầu, đến nay em đã quen với công tác

cơ sở, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Trong thư anh trao đổi với em về việc tu dưỡng, phấn đấu,

những điều anh nói rất có ích cho bản thân em. Hồi đầu mới về,

nghe hai tiếng "sinh viên", một số đồng chí có những ấn tượng nọ

kia với em (sau này em mới hiểu) nhưng rồi qua công tác, lao vào

thực tế, em đã cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao như làm

công tác trị an, vận động quần chúng, củng cố các đoàn thể thanh,

thiếu niên... dần dần em đã được tập thể tin tưởng. Đúng như anh

nói, phấn đấu vươn lên Đảng rất khó, nếu động cơ không đúng đắn,

tỏ ra nóng vội thì dù tích cực đến mấy, nói hay biết mấy anh cũng

không đạt được, em sẽ ghi nhớ lời anh, coi đó là những kinh nghiệm

trong cuộc sống. Về bản thân, đầu năm nay em đã được chi đoàn đề

nghị và Chi bộ đã công nhận vào hàng ngũ đối tượng Đảng. Đó là

nguồn động viên lớn đối với em nhưng đó cũng chỉ là những cái ban

đầu. Em hiểu muốn đạt được ước mơ của mình, em còn phải chịu

khó rèn luyện hơn nữa, học tập và phấn đấu hơn nữa. Rất tiếc là ở

xa anh quá, em không được sự giúp đỡ và trao đổi thường xuyên của

anh.

Một số thằng bạn cùng đi với em đã được gọi về trường tiếp tục

học hết chương trình để sử dụng chuyên môn. Về việc này, nghĩ lại

quá trình học tập em nghĩ nếu được học thêm thì càng tốt nhưng

nếu không em vẫn tin tưởng, yên tâm phục vụ lực lượng, phấn đấu

cho sự nghiệp của mình. Về viết, vì ít thời gian quá, tuy vậy em vẫn

viết bài gửi cho báo Công an vũ trang, mới đây hồi tháng 1-2 em

được Ban chính trị tỉnh điều về đi công tác trong 2 tháng ở một đơn

vị Công an vũ trang, viết về những con người, những thành tích của

đơn vị đó. Em viết được 3 bài thuộc thể loại người tốt, viẹc tốt, có lẽ

395

cuối năm nay bài mới được in, khi đó gửi được để anh góp ý thì hay

quá.

Về gia đình ta, chắc bố mẹ, các anh và các em đã gửi thư kể cho

anh nghe, em không nhắc lại nữa, chỉ mong khi nào anh em được về

gặp nhau, gia đình sum họp đông đủ thì vui quá. Về chuyện riêng,

anh đã nghĩ đến việc xây dựng gia đình chưa? ở hoàn cảnh như anh

bây giờ cũng khó, cả em cũng vậy, tuy nhiên em còn ít tuổi nên

chưa phải lo đến chuyện đó.

Em luôn mong nhận được thư của anh, nếu gửi ra được anh cứ

gửi theo địa chỉ hòm thư cho em thì rất tốt.

Cuối thư, chúc anh luôn khoẻ mạnh, dày dạn trong cuộc sống,

vững vàng trong nghề viết.

Luôn nhớ tới anh

Em trai

Hùng Việt

ĐC: HT:6256.VG

Từ 22 đến 30/6/1972

Dự hội nghị Thị uỷ mở rộng.

Anh Toàn phân tích tình hình: Thế của địch đã bị đảo lộn

nghiêm trọng. Cả một hệ thống phòng ngự của chúng ở phía Bắc

tỉnh đã bị quét sạch. Đường số một bị cắt đứt từ Bình Khê tới Đèo

Nhông. Đường 19 bị ta khống chế một thời gian dài. Địch bị bao

vây, chia cắt không sao gỡ nổi. Trong toàn tỉnh, địch có 2 trung

đoàn Cộng hòa - bị đánh tan tác, nay tập hợp lại tương đối đủ về số

lượng nhưng ô hợp, binh lính hoang mang dao động, cầu an, số đào,

rã ngũ tăng. Quân số địch trước chiến dịch A1 là 4 vạn, bị ta diệt

khoảng 2 vạn tên, số còn lại phần lớn là địa phương quân. Quân giữ

thị xã Quy Nhơn phần lớn là địa phương quân, với cấu trúc công sự

không phải mạnh. Về lực lượng cách mạng tại Quy Nhơn: thế càng

cao, lực càng mạnh, tạo được thế tấn công, chia cắt địch, có hậu

396

phương gần gũi, vững chắc là các huyện phía Bắc tỉnh, đồng thời có

nhiều vùng giải phóng nằm sâu trong lòng địch.

Anh Toàn nhấn mạnh về quyết tâm của chúng ta: Tiến tới giải

phóng toàn bộ tỉnh Bình Định. Dốc toàn bộ lực lượng cho phía Nam,

giành toàn bộ nông thôn. Binh vận phải đưa lên quy mô lớn hơn.

Kết hợp với phong trào quần chúng phải tổ chức được binh biến ly

khai trong quân đội Ngụy. Với Quy Nhơn, sẽ giải phóng bằng 3 mũi

giáp công. Cú đấm quân sự sẽ mạnh chưa từng có. Trách nhiệm của

địa phương là phải đưa cú đấm nổi dậy và binh vận lên mạnh tương

ứng.

Suốt mấy ngày thảo luận để quán triệt tình hình, nhiệm vụ và

xây dựng phương án. Gay nhất là phương án - làm sao phải truyền

được hơi thở mới này vào quần chúng, xây dựng thực lực nhanh,

đưa quần chúng vào tổ chức và hành động mạnh mẽ? Những cán bộ

hợp pháp hoạt động trong Quy Nhơn phát biểu rất sôi nổi.

Ở đây, tôi gặp một cô gái 18 tuổi, hoạt động hợp pháp tại Quy

Nhơn: Phương. Người Phương nhỏ bé như con gái 14, 15 tuổi. Cô có

đôi bàn tay rất đẹp với những ngón tay búp măng trắng hồng.

Phương hồn nhiên, nhí nhảnh nhưng lại bị địch tra tấn ảnh hưởng

tới thần kinh. Ngày nào Phương cũng lên cơn, sau đó nói nhảm như

người mất trí chừng 2 giờ. Từ năm 12 tuổi, Phương đã nghi trang 8

công sự cho cán bộ. Có lần địch nghi có công sự, xăm khắp nhà

Phương, ném lựu đạn vào hầm pháo rồi bắt Phương vào kiểm tra.

Phương lấy lưng che chỗ vách hầm sạt để các anh trong công sự

nghi trang lại và nói với địch "Không có gì". Địch đem Phương ra

đánh đập, treo lên ngọn dương. Khi địch rút, các anh đi kiếm mãi

mới thấy Phương đã chết ngất trên đó. ở xã Mỹ An của Phương có

thằng thiếu uý Thành gian ác có tiếng. Nó bắt đồng bào kêu nó là

"Ông Thần". Ai kêu là chú, là ông... nó đánh liền. Có lần nó bắt phụ

nữ tập trung, kêu những chị có con đang bú ra vạch vú, vắt sữa cho

nó coi. Phương tức quá, nói "Hồi giờ ông ấy không thấy vú hay

sao?". Nó nghe thấy, lôi Phương ra đánh cho một trận tơi bời.

Nhưng sau đó, nó đã bị Phương trừng trị. Phương để trái mìn mo

trong rổ, đem tới đặt ngay trong góc nhà nó ở. Mìn nổ, nó nằm trên

võng mà chết, 4, 5 đứa khác cũng chết theo nó. Phương bị bắt.

397

Nhưng Phương đã thoát khỏi tù. Phương lại dùng mìn mo diệt 12

tên Bảo an khác và lại bị bắt cùng 5 cô bé khác. Địch tập trung dân,

đưa các cô ra tuyên bố xử bắn. Chúng đưa cho mỗi cô một bát mì

tôm, một cốc côca để ăn, uống trước khi chết. Các cô hốt cát bỏ đầy

bát, cốc. Địch kéo các cô tới bãi bắn. Đồng bào ùa tới giằng súng của

bọn lính, cởi trói cho các cô. Phương chạy thoát, trốn vào một nhà

dân. 18 tuổi, Phương đã bị bắt 4 lần, bị hành hạ đủ kiểu. Phương

nói lần bị bắt thứ 2 "thảm nhất". Nhưng Phương không thể kể với

tôi "thảm" như thế nào, vì Phương sợ quá xúc động, lại lên cơn. Đòn

thù không làm Phương mất hồn nhiên, mất sôi nổi, hăng say công

tác. Họp, Phương phát biểu rất sôi nổi. Khi hăng hái quá, Phương

bị cà lăm, cứ ngấp ngứ mãi mới nói được một tiếng - chính vì bị tra

điện nhiều quá mà Phương bị tật này.

Chào tạm biệt Phương, tôi nắm mãi đôi bàn tay nhỏ nhắn, có

những ngón búp măng xinh xinh. Chúc đôi bàn tay đẹp làm nên

những chiến công mới xuất sắc. Phương lại trở vào thị xã xây dựng

cơ sở, tổ chức những vụ đấu tranh chính trị, và quan trọng hơn nữa,

sẽ cùng với các đồng chí của mình góp gió thành bão trong mùa nổi

dậy sắp tới.

Thứ 7 ngày 1/7/1972

Kỷ niệm 26 năm ngày sinh của tôi

Trời cao xanh, nắng vàng óng ả.

Gió biển thổi về lồng lộng.

Cùng Trực, Thảo duyệt, sắp xếp bài cho tờ "Quy Nhơn", tờ báo

đầu tiên của thị xã. Mai mốt, báo sẽ ra đời và chắc sẽ đem lại cho

người Quy Nhơn tình cảm, suy nghĩ mới. Nghĩ vậy, thấy vui vui.

Đây là một trong những bài trong tờ báo Quy Nhơn:

Mẫu chuyện chống bắt lính

398

Giữa những ngày bọn tay sai của Thiệu ở tỉnh Bình Định ráo

riết bắt lính, thì trên đường Lê Lợi, trong thị xã Qui Nhơn, xảy ra

một việc làm xôn xao cả dư luận công chúng.

Hôm ấy, một thanh niên bị một cảnh sát chặn lại:

- Ê! Đưa giấy tao coi!

Anh thanh niên vội vã móc túi, nhưng không đưa ra tờ giấy

hoãn quân dịch, mà là một khẩu súng ám sát đã lắp sẵn đạn. Tên

cảnh sát hét: "A, muốn trốn lính hả?" và hùng hổ xông lại. Anh

thanh niên chĩa súng bắn liền. Tên cảnh sát hoảng sợ lùi lại. Anh

thanh niên nhanh chân leo tuốt lên lầu cao. Cùng lúc, đồng bào hai

bên đường ùa tới, vây lấy tên cảnh sát:

- Này, đừng đuổi theo anh ta nữa, anh ta lắp thêm đạn rồi, coi

chừng mà toi mạng, bỏ vợ bỏ con đó!

Một bà già khuyên:

- Thôi, bắt cậu ấy vào lính làm gì cho khổ gia đình cậu ấy, mà

có lợi gì cho ông? Ông đi chỗ khác đi, để cậu ấy về nhà.

Mọi người đồng tình:

- Phải đấy, ông đi nơi khác đi. Ông mà dồn anh ta vào thế bí,

anh ta bắn lại thì uổng mạng đấy.

Tên cảnh sát ấp úng mấy câu rồi lảng ra.

Anh thanh niên leo xuống khỏi lầu, đi vào giữa đám đông. Một

chị phụ nữ ghé vào tai anh ta, nói nhỏ:

- Trốn mãi rồi cũng không thoát. Ra ngoài vùng giải phóng là

hơn hết.

Ở thị xã này có rất nhiều thanh niên đã chống bắt lính một

cách quyết liệt như anh thanh niên nọ. Đồng bào cũng đã bằng

399

nhiều cách chỉ cho nhiều thanh niên lối thoát hay nhất là ra vùng

giải phóng học tập hoặc tham gia cách mạng.

Ngày 2/7/1972

Chuẩn bị lên đường về Khu - ngoài ấy điện gọi về.

Đêm, ngồi trên hòn đá cao gần đỉnh núi mà nhìn về Quy Nhơn.

Thị xã chạy dài với hàng dãy đèn điện sáng nhấp nháy. Phía đông,

biển và trời nối liền nhau, không phân biệt được. Chỉ thấy nổi bật

lên là những đốm sáng lấp lánh của hàng chục ngọn đèn măng sông

của đồng bào làm biển - trông chúng như những ngôi sao.

Thật tiếc, chưa làm được gì mấy, đặc biệt là chưa nuôi dưỡng

được tờ báo bao lâu, đã phải về. Anh Toàn và các anh chị trong Thị

uỷ đều rất tiếc và rất lưu luyên tiễn chúng tôi ra đi.

Ngày 3, 4/7/1972

Lên đường. Lại leo núi Bà. Hồi này, địch bắn pháo dữ dọc

đường nên đi khá căng. Nhiều đoạn phải chạy, mệt đứt hơi. Nắng

và nóng. Những hố đạn pháo. Những cây đổ, cành gẫy. Những lỗ

bom bi.

Địch càn Tây đường nên chưa qua được, phải nằm chờ ở trạm

Huệ.

Ngày 5/7/1972

Trưa, pháo địch dội tới rầm rầm. Một quả nổ trúng hòn đá

trước cửa hang. Ngồi dưới hang, thấy lửa chớp rồi tất cả bỗng tối

đen. Một lát sau mới thấy sáng dần. Từng cuộn khói thuốc pháo đen

đặc lùa vào cửa hang đang tan dần. Mùi thuốc pháo pha lẫn mùi

đá, lá cây tạo nên mùi khét, tanh, nồng dễ sợ làm chúng tôi ngột

ngạt, nôn nao.

Pháo hết bắn. Ra ngoài hít thở không khí trong lành. Hòn đá

trước cửa hang vỡ tung ra. Cũng lạ, những đồ đạc chúng tôi để cách

đó mấy mét gồm chén sứ, ăng gô, sữa lon... đều không bị sứt mẻ.

400

Chiều, đi xuống. Trời dội cho một cơn mưa tầm tã. Ướt mèm.

Vẫn phải vác lá nguỵ trang đi lom khom. Địch mới chốt thêm 2 chốt

gần đây, rất dễ thấy chúng tôi. Chờ ở rìa núi, tối hẳn mới xuống.

Phía Tây Nam, địch dội pháo nổ vang rền. Pháo bắn liên hồi, tôi

đếm được khoảng 6, 700 quả. Phía đường chúng tôi đi thì tĩnh. Rất

gần đồn địch. Thấy tên lính gác lia đèn pin qua lại. Đèn dù cũng thi

nhau nổ bụp, phát sáng. Mỗi lần như thế, lại phải nằm rạp xuống

ruộng.

Qua đường một cách bình yên. Tới đường sắt, gặp một tốp du

kích đang nằm chờ đánh lính tuần.

Lên tới Tây đường, phải chờ rất lâu. Địch đang càn quét vùng

rìa núi. Chúng mới đưa thêm lên 2 cây pháo, 13 xe tăng. Giao liên

phổ biến: phải lách giữa 2 cánh quân Cộng hoà và Pắc Chung Hy

mà đi, do vậy, phải im lặng tuyệt đối.

Chúng tôi lặng lẽ theo giao liên. Mới ra khỏi làng một lúc, anh

Giang đã không theo kịp. Anh hét tướng lên: "Chờ với chứ!". Mọi

người đều rợn tóc gáy. Tuy nhiên, anh chàng phá bĩnh ấy đã khiến

giao liên phải đi chậm lại. Nếu không, anh ta lại hét tướng lên nữa

và nếu địch nghe thấy thì trời mà đoán được hậu quả sẽ tai hại thế

nào? Lầm lũi đi. Đường vòng rất xa. Không gian im ắng. Không một

tiếng pháo. Không một tiếng súng nhỏ. Lên đến đèo Nguỵ. Đèo này

vốn nổi tiếng là trọng điểm pháo kích của địch. Cây cối hai bên

đường tơi tả, gãy gục. Tuy nhiên, lúc này cũng im ắng lạ lùng. Đi

tới 4 giờ sáng mới đến trạm.

Ngày 6 - 10/7/1972

Về tới Ban Tuyên Huấn tỉnh.

Mưa rào. Gió đùng đùng. Trời bão mấy ngày.

Ngày 11/7/1972

Lên đường đi Hoài Nhơn để về Khu. Qua khu nhà cũ. Vắng đìu

hiu.

Ngày 12/7/1972

401

Tới thôn Bình Sơn (xã Ân Nghĩa, Hoài Ân). Nơi này, cuộc sống

đang xanh tươi lại và thật náo nức. Hồi trước, đi qua chỉ thấy cây

cối, bụi rậm. Bây giờ đã thấy nhà tranh mọc lên san sát, thấy

những vạt bắp xanh mượt bồng con. Con đường được mở rộng, xe

GMC chạy được. Một anh thợ cắt tóc cho biết ở đây đã thực hiện

việc làm hợp tác. Cả thảy có 90 lao động. Trâu bò, cuốc rựa được

chính quyền chu cấp đầy đủ. Hiện nay, bà con đang bừa lần cuối để

cấy. Mạ cũng đã đủ. Xẩm tối, tôi mới thấy bà con vác cuốc từ đồng

về.

Ngày 13/7/1972

Sáng sớm, đạp xe đi Bồng Sơn. Qua những xóm bị địch đánh

cháy rụi.

Thị trấn vắng vẻ, đổ nát.

Riêng các thôn ngoại vi thì đời sống vẫn nhộn nhịp. Đồng bào

đang tập trung làm cỏ lúa.

Ngày 14/7/1972

Tôi tranh thủ làm việc với ủy ban thị trấn Bồng Sơn. Ngày 8

tháng 5, ta đã công bố bộ máy chính quyền cách mạng gồm 7 người;

ngày 9 đã hình thành bộ máy các ngành, giới ở xã, thôn. Đã thanh

lọc, đảm bảo không còn tề điệp chui trong hàng ngũ cách mạng. Lực

lượng du kích từ số không, nay đã có 50, còn bổ sung cho bộ đội 20

người, đã hình thành xã đội, thôn đội. Về đời sống, nông thôn tương

đối ổn định, tăng thêm diện tích canh tác, chính quyền giúp cho dân

4 máy bơm nước. Đã tích cực thực hiện các biện pháp chống phản

kích: 80% địa hình đã được cải biến, có giao thông hào, chông - ngày

đi sản xuất, tối về đào hào. Về an ninh, đã quét ráp hết từ dân vệ

trở lên, hiện đang tổ chức cho bọn ngụy cũ - từ liên gia, xóm trưởng

tới phòng vệ dân sự - học tập cải tạo. Về văn hóa, cấp một có 5 lớp,

với trên 1.200 học sinh. Chuẩn bị mở lớp bình dân học vụ.

Ngày 16/7/1972

402

Thị trấn Tam Quan cũng bớt nhộn nhịp. Một số gia đình đã dỡ

nhà, dời về vùng nông thôn ở.

Sáng, mấy chiếc trực thăng quần lượn sát ngọn dừa. Ngồi trong

nhà, chúng tôi cũng nhìn thấy tụi giặc lái lăm lăm súng ngồi trong

máy bay nhìn xuống. Khi máy bay vòng về phía Nam, nghe có

những loạt súng bắn lên.

Ngày 17/7/1972

Về Hoài Thanh họp. Được tin du kích Bồng Sơn đã bắn rơi một

trong những chiếc trực thăng bay thấp hôm qua. Năm du kích leo

lên lầu cao - có đại liên, AK, AR15... trực chiến. Lúc máy bay bay

ra, không ai kịp bắn. Họ tiếc quá, nghênh súng chờ. Khi máy bay

bay vào, họ đồng loạt nổ súng. Chiếc máy bay bị trúng đạn, lạng về

phía Tây. Phía đó, súng lại nổ. Nó lạng về phía Hoài Xuân. Năm du

kích Hoài Xuân kê súng vào thân dừa, đồng loạt bắn. Khắp trời

vùng giải phóng đều dăng lưới lửa hạ nó. Nó rơi ở vùng Hoài Xuân.

Đồng bào, du kích liền tràn tới cưa súng, tháo rốc két đem về rồi đốt

máy bay. Bọn địch hèn hạ cho phản lực tới thả bom làm chết 17

đồng bào.

Đêm đêm ở đây vang lên tiếng trống mõ. Đó là cách dùng âm

thanh uy hiếp tinh thần địch mà bà con gọi là thanh viện.

Bom, pháo vẫn nổ rền ở phía Nam.

Ngày 18/7/1972

Dự cuộc họp Huyện ủy. Tình hình chung toàn huyện Hoài

Nhơn đến nay như sau: Đã truy bắt căn bản hết tàn binh ngụy.

Thuần khiết nội bộ, đưa 271 tên ngụy đi cải tạo, giáo dục 400 tên

tại xã. Đã phá căn bản hết đồn bốt địch, lấy vật liệu xây dựng thôn,

xã chiến đấu. Quần chúng đóng góp nhân lực, trong 10 ngày chuyển

được 450 tấn lương thực. Trên 3.000 ngươì đã đi dân công. Các xã

đều huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật quân sự cho du kích. Tuy vậy,

về thực lực của ta, đủ về số lượng nhưng chưa bảo đảm về chất

lượng. Chưa hình dung ra biện pháp tiến hành 3 mũi giáp công cho

phù hợp.

403

Một con số thống kê làm tôi suy nghĩ mãi: Trong đợt tổng tấn

công, nổi dậy từ 12 tháng 4 đến 2 tháng 5 năm 1972, Hoài Nhơn có

36 quần chúng hy sinh, trong khi đó du kích, bộ đội địa phương hy

sinh 27 người! Tôi càng thấm thía bài học về nhân dân - nhân dân

bao giờ cũng chịu đựng khó khăn, ác liệt nhất, hy sinh nhiều nhất

và nhân dân chính là nền xây nên những tượng đài chiến thắng!

Ngày 19/7/1972

Kẻ địch muốn nống lấn, chiếm lại vùng giải phóng. Chúng đưa

quân ra vùng Phủ cũ, Hoài Đức. Bị đánh, chúng bật lui, kêu bom

pháo. Sáng nay, B.52 Mỹ dội bom 7 đợt với 21 lượt chiếc. Tiếp đó,

phản lực, pháo cũng nã tới. Chúng đổ quân ở một số điểm cao. Pháo

binh ta, 8 khẩu bố trí thành một đường vòng cung, dội bão lửa

xuống đầu chúng. Chúng ta quyết giữ vững vùng giải phóng. Người

già, trẻ em ở những nơi xung yếu được sơ tán về vùng nông thôn.

Toàn dân sẽ vũ trang đánh địch.

Từ 21 đến 24/7/1972

Địch liên tiếp dội B.52: Hoài Hảo 5 đợt, Hoài Châu 2 đợt, giáp

Quảng Ngãi 2 đợt, nhưng chỉ rải trên rìa núi, trong khi quân ta đã

áp xuống đồng bằng, nên chẳng ai chết cả. Tiếng rằng nhiều đợt,

nhưng số lượng bom đạn cũng chỉ bằng một đợt của những năm 68 -

69 vì máy bay hồi này chở ít bom quá. Sau khi B.52 oanh tạc, đến

phản lực, pháo, trực thăng bắn phá. Rồi địch đổ quân ở một số điểm

cao. Chúng đã có mặt ở Tam Quan, Hoài Thanh, Hoài Tân, Bồng

Sơn. Chúng ta đang chặn đánh chúng. Bom, pháo ùng ùng suốt

ngày đêm. Trong những ngày đầu, ta diệt một đại đội ở Thiết Đính,

2 đại đội ở Hoài Thanh và Hoài Ân. Nghe đồng bào nói lại, bọn lính

rất bạc nhược, có thằng bị đẩy ra khỏi máy bay là khóc. Chúng chỉ

dựa vào bom đạn Mỹ. Không biết lũ máy bay, pháo binh đã dội

xuống những vùng đất mới giải phóng này bao nhiêu tấn bom đạn?

Nhà sập đổ. Người chết. Thị trấn tan hoang. Vùng nông thôn đông

đặc những đồng bào ở thị trấn sơ tán về.

Ngày 25/7/1972

404

Tạm biệt Bình Định, về Khu. Đứng trên núi, nhìn thấy phía

biển Tam Quan mấy chiếc tầu chiến đứng hầm hè. Còn phía biển

Quảng Ngãi thì vắng lặng.

Ngày 26/7 đến 4/8/1972

Về Khu theo đường dưới - đường Tây Quảng Ngãi. Phần lớn

đường chạy qua những đồi sim, đồi trọc hoặc rừng cây thưa thớt,

thỉnh thoảng chạy qua những khu ruộng bậc thang. Theo trạm ít

ngày rồi chúng tôi tách, rẽ về phía sông Sà Lò, sông Tang. Gặp lại

con đường hồi năm 1970 tôi đi cõng gạo với Tạo, Nghị. Nhớ như in

từng chỗ nghỉ, chỗ lội sông, chỗ nấu ăn. Sống lại những kỷ niệm

thân thương, trong đó đầy vất vả.

405

Chương 4

ĐI TỚI TOÀN THẮNG

Từ ngày 5 tháng 8 năm 1972

Về tới Ban. Cơ quan hồi này rất đông, có hàng chục cán bộ mới

ở miền Bắc vào. Phân xã chúng tôi có 12 người với đủ bộ phận: tin,

ảnh, buồng tối. Chuyến công tác vừa rồi, Hồ Ca hy sinh tại đường

19 (Gia Lai). Anh đã bám sát cuộc chiến đấu của đơn vị Quân giải

phóng đánh đoàn xe địch trên đường, cùng đào hầm, chĩa ống kính

máy ảnh chờ chộp được cảnh đoàn xe địch bốc cháy. Một quả đạn

DKZ của địch đã rơi trúng công sự của anh!

Anh em khác đều khoẻ mạnh. Tôi nhận được thư gia đình, đều

là những tin vui.

Tôi làm tin đều đều, đồng thời viết một số bài ghi chép, truyện

ngắn. Sau đây là một tuỳ bút tôi viết về những cô gái Bình Định mà

tôi đã gặp trong chuyến công tác vừa qua:

Những người con gái quê hương

Phù Mỹ, mùa hè.

Đến một xã thuộc vùng Đông, tôi được xem một lá thư của một

người con gái từ trong tù gửi ra:

406

"Các anh ơi, lũ nó tra hỏi em dữ lắm. Em chỉ nói: "Tôi là đàn

bà, biết gì chuyện súng đạn mà các ông bắt? Các anh cứ yên tâm,

chúng nó chẳng có bằng cớ gì đâu, em sẽ về với các anh.

Các anh ơi, em nhớ các anh lắm. Quê ta nhổ được mấy chốt rồi?

tiếc quá, không được về góp sức với các anh giải phóng quê hương.

Em gái

Hai."

Tôi đọc đi đọc lại lá thư ngắn ngủi, nhàu nát với những dòng

chữ nguệch ngoạc ấy. Tôi chăm chú nghe Nhu - Bí thư xã - kể về

Hai. Vào một ngày đẹp trời của mùa xuân, Hai lên đường làm

nhiệm vụ. Với chiếc nón trắng duyên dáng trên đầu, với khẩu súng

ngắn dấu trong cái xắc ni lông, Hai đi sâu vào vùng địch, tới giữa

chợ đông dày lính tráng, mật vụ, tìm diệt thằng xã trưởng ác ôn

khét tiếng. Với 2 phát súng, cô bắn gục nó. Lẽ ra, Hai có thể chạy

thoát nhưng thấy nó còn dãy dụa, sợ nó chưa chết, Hai quay lại, nã

thêm đạn vào đầu nó. Cô chỉ kịp dấu khẩu súng ngắn, bọn địch đã

bâu lấy cô. Sáng hôm ấy, cả phiên chợ xôn xao. Đồng bảo hởi lòng

hởi dạ. Kẻ thù bàng hoàng khiếp sợ.

Thế là Hai bị bắt - Nhu kể tiếp - chúng nó đánh Hai dữ lắm,

vậy mà Hai không kể vào thư. Cơ sở nói lại, bọn chúng dằn ngửa

Hai, dấp một cái khăn mặt bông lên mặt, đem một bình nước ớt xối

từ từ xuống làm cô sặc sụa muốn chết. Chúng thay nhau đấm đá

làm người cô sưng mọng lên như quả bồ quân chín. Thế mà cô ấy

không kể vào thư. Thường ngày cũng vậy, Hai không bao giờ nói

đến khó khăn của mình, chỉ lo cho đồng chí!

Lá thư cứ vang lên mãi trong lòng tôi như có ai thủ thỉ hoài bên

tai và một niềm tin cứ đinh ninh trong óc tôi: nhất định Hai sẽ

chiến thắng trở về. Người con gái đầy nghị lực, đầy niềm tin ấy sao

lại không chiến thắng trở về được!

Đem theo niềm tin ấy, tôi đi tìm Hai trên khắp quê hương giải

phóng. Tôi chưa được gặp Hai, nhưng lại gặp bao cô gái khác có

những nét giống Hai kỳ lạ...

* * *

407

Thuý năm nay ngoài 20 tuổi , người thấp, lưng hơi gù. Về hình

thức, cô là một cô gái khá xấu. Nhưng chính trong cái hình thức hơi

thô kệch ấy lại chứa đựng một tâm hồn tinh tế, đẹp đẽ lạ lùng, một

tâm hồn đầy chất thơ. Tôi nhớ mãi buổi chiều hôm ấy, buổi chiều có

những cơn mưa dông dữ dội, chúng tôi ngồi nói chuyện với Thuý.

Thuý đòi chúng tôi đọc thơ cho nghe. Trong khi chúng tôi chậm rãi

đọc thơ thì Thuý ngồi im lặng, lưng gù gù như sắp chồm lên phía

trước, đôi mắt hơi lé nhìn vàomột điểm nào đó xa xăm. Chúng tôi

vừa ngừng đọc, Thuý bỗng ngẩng lên, đôi mắt bừng sáng đầy hạnh

phúc. Cô nghiêng nghiêng đầu, miệng lẩm nhẩm - thật là một đầu

óc thông minh kỳ lạ, cô đọc lại nguyên văn bài thơ chúng tôi mới

đọc cho cô nghe lần đầu. Rồi cô lại đòi chúng tôi đọc cho cô nghe bài

khác. Khi anh Thu Hoài đọc một bài thơ do anh ấy sáng tác xong,

Thuý suy nghĩ một lát rồi dụt dè nói:

- Cho em nhận xét nghen!

- Ồ, tốt quá, cứ nhận xét đi.

Thu Hoài hào hứng trả lời.

Đôi má Thuỷ ửng hồng lên:

- Trong thơ có câu : "Chiếc sóng con bằng giấy. Anh thả vào

dòng mưa". Em thấy dùng chữ "thả theo - anh thả theo dòng mưa"

hay hơn, chữ "theo" có tình cảm hơn, có phải không anh?

Tôi lặng đi trong niềm xúc cảm. Thật khó mà không xúc động

được trước một tâm hồn phong phú, ý nhị như vậy, nhất là lại biết

rằng người có tâm hồn đẹp đẽ ấy là một cô gái đã từng vào tù, ra tội

bao lần, đã từng chiến đấu giữa lòng địch và chiến thắng trở về. Tôi

hỏi Thuý:

- Em có làm thơ chứ!

- Dạ, có. Hồi bị địch giam, em có làm thơ. Tiếc quá, em không

chép lại được. Em không còn nhớ bài nào nữa. Bọn địch tra tấn làm

em ngớp luôn, đầu óc rối mất, không nhớ nổi.

408

Thuý thoáng trầm ngâm, rồi lại vụt trở lại cái hồn nhiên của

tuổi trẻ:

- Nói là thơ nhưng đâu phải thơ, em viết dở lắm, nếu có nhớ,

cũng chẳng dám đọc cho các anh nghe.

- Những bài thơ ấy viết về những gì?

- Ôi, có được gì mấy? Chỉ quanh quẩn chuyện hoạt động của

chúng em thôi.

- Chắc chuyện hoạt động của Thuý có nhiều cái hay lắm nhỉ, kể

cho anh nghe đi.

Thuý khiêm tốn:

- Ôi cha, không, chuyện vụn vặt, có gì mà kể.

Chúng tôi phải động viên mãi và thậm chí phải doạ thôi không

đọc thơ nữa nếu Thuý cứ từ chối như vậy, Thuý mới chịu kể. Qua

câu chuyện của Thuý, tôi hình dung ra một người con gái hoàn toàn

khác Thuý lúc này. Người con gái ấy mặc áo rộng cổ, mặc quần chật

ống. Ngoài những lúc cười nói bả lả với tụi lính, người con ái ấy

luôn khinh khỉnh, ít nói và nếu có nói thì cũng chỉ bằng những lời

cộc cằn dễ ghét. Người ta chỉ thấy Thuý là một cô gái ngông

nghênh, khó chịu, thế thôi. Người ta không hiểu rằng đêm đêm

Thuý lần mò vào những ngóc ngách mà địch hay đi, đặt mìn giết

chúng. Có hôm, Thuý đặt mìn rồi trốn vào một đám mía, ngồi đợi

thằng ác ôn khét tiếng trong vùng đi qua để diệt. Quy luật của nó là

hay qua đoạn đường này vào buổi sáng. Nhưng chờ tới trưa rồi vẫn

không thấy nó. Trời mùa hè nóng bỏng như chảo rang. Những lá

mía khô đi, quăn lại, phả hơi nóng hầm hập. Thuý vẫn kiên nhẫn

chờ. Giữa lúc ấy thì Thuý bị ngớp, đó là hậu quả của những trận tra

tấn của địch. Thuý nằm lăn dưới gốc mía bất tỉnh. Thuý nấc nấc,

ngáp ngáp như cá lên cạn. Nóng, khát, trời vẫn dội lửa xuống. Đầu

óc Thuý muốn nổ tung ra. Thuý dãy dụa. Chỉ có một mình Thuý

thôi. Và nắng, nắng dữ dội. Hàng trăm ngàn đốm lửa xao động

trước mắt Thuý. Những thằng ác ôn hiện lên với những khuôn mặt

409

quái dị. Roi vọt. Nước ớt, nước xà phòng sặc sụa. Thuý lăn lộn. Nửa

giờ, rồi một giờ qua đi, vẫn chỉ mình cô vật vã trong đám mía, dưới

ánh nắng gay gắt. Mồ hôi ướt đẫm áo quần, đọng thành giọt trên

mặt Thuý. Cuối cùng, cơn ngớp qua đi. Thuý ngồi dậy, ngơ ngác ngó

quanh. Phải mất một lúc bàng hoàng, Thuý mới nhớ lại được những

việc vừa xảy ra. Và ngay lúc ấy, Thuý nhớ tới nhiệm vụ của mình.

Thuý lại căng mắt nhìn ra đường. Một cơn khát dữ dội hành hạ

Thuý. Không có nước. Không thể rời khởi chỗ này đi kiếm nước

được, vì như vậy sẽ bị lộ. Thuý có cách rồi: uống nuớc tiểu của chính

mình. Với ý chí sắt đá ấy, Thuý đã hoàn thành nhiệm vụ. Sau nhiều

vụ đánh địch khác, Thuý bị lộ. Huyện chuyển cô về vùng khác, làm

công tác đấu tranh chính trị.

Kể đến đấy, Thuý đột ngột cười:

- Có lần tụi địch kêu em là con điên anh à.

- Sao vậy?

- Hôm ấy, em cùngmột số cơ sở tổ chức một cuộc đấu tranh ở

cầu Cương. Bọn địch ngoan cố lắm anh à, nó bắt mấy chị đi đầu lột

hết nón rồi lại định lột áo. Chúng nó đánh, mấy chị ấy không ngán,

nhưng chúng nó làm thế, mấy chị ngán quá, chạy lùi hết lại. Nòng

cốt đã lùi thì cả đoàn biểu tình cũng lùi. Lúc ấy em ở phía sau chỉ

đạo. Không thể để cuộc đấu tranh bị mất thế. Em vượt lên hàng

đầu. Có mấy chị quát em:

- Mi điên hay sao mà chạy lên đó, chúng bắt thì sao?

Có chị cơ sở nói: "Thuý, chớ lên, phải giữ thế hợp pháp chớ!"

Em vẫn chạy lên. Em nghĩ, hợp pháp là để đấu tranh, chớ

không phải để đứng sau cuộc đấu tranh. Thằng đồn trưởng thấy em

vừa xông tới, vừa hô khẩu hiệu thì tức giận hét bọn lính níu chặt

lấy em. Nó trợn trừng mắt: "Mày ưng khẩu hiệu lắm hử? Thì cho

mày khẩu hiệu". Bọn lính dằn em xuống, viết khẩu hiệu phản động

lên áo em, rồi đẩy em nhào trở lại.

Thuý dừng lại một lúc, ngập ngừng như đắn đo điều gì, rồi lại

nói:

410

- Em liền cởi áo ra, vứt vào mặt bọn nó. Mấy thằng lính cười hô

hố: "Con nhỏ điên bay ơi!". Nhưng thằng đồn trưởng thì tím mặt lại,

há hốc mồm mà nhìn em. Và lúc ấy, đồng bào lại xông lên.

Cuối câu chuyện, Thuý thích thú đưa ra một nhận xét: "Anh

thấy không, con gái chúng em sướng hơn các anh nhiều. Này nghen:

biết đường nhựa, biết thị xã, lại biết cả đường dốc, biết cả núi rừng,

biết hông đa lại biết cả cõng ba lô leo núi". Lời nhận xét ấy quả là

một cách tổng kết cô đọng về phương thức hoạt động của những cô

gái hợp pháp giữa lòng địch, những người luôn luôn thay đổi về

hình thức và phong cách sống, duy chỉ có một điều không thay đổi:

lòng căm thù Mỹ nguỵ, ý chí quyết thắng và niềm tin tuởng mãnh

liệt đối với cách mạng, đối với chính mình. Tuy nhiên, tôi biết Thuý

dùng chữ "sướng" ở đây là theo một khía cạnh khác chứ không đơn

thuần ở cái nghĩa thông tục. Bởi vì những cô gái hoạt động trong

vùng địch, sống va chạm với địch có rất nhiều nỗi khổ, khổ cả về thể

xác, và khổ rất nhiều về tinh thần. Câu chuyện của Thu đã cho tôi

những ấn tượng mạnh mẽ về nỗi khổ đó.

Căn cứ Bình Định, tháng 6.

Mới di chuyển đến nơi này, chúng tôi phải ở nhà tăng. Không

có bàn ghế, phải cột võng mà ngồi trò chuyện. Trời lại dội mưa xống

sầm sập. Tôi gặp Thu trong hoàn cảnh như thế. Thỉnh thoảng,một

cơn gió thổi thốc tới làm tạt nước mưa vào lạnh ngắt, làm ngọn đèn

dầu chao đi, muốn tắt. Những con mối theo ánh đèn bay tới bu đầy

cổ làm tôi khó chịu vô cùng. Vậy mà Thu, cô gái ở thị xã mới về họp,

thì lại hết sức thích thú trước cái cảnh sống tùm hum chật chội ấy.

Nhìn tôi nhăn nhó, vơ mấy con mối bay sà trước mặt, Thu cười ngặt

nghẽo và đôi mắt ánh lên sự hồn nhiên.

- Anh để cho nó bay, tội nó mà, đừng giết nó.

Tôi với tay đập con mối từ phía ngoài đang lao thẳng vào mặt,

làm chiếc võng tôi ngồi chao đi, ngôi nhà tăng rung lên. Chiếc võng

của Thu cũng chao theo. Cô đung đưa người theo nhịp võng và vừa

lắc đầu, vừa cười, cười ròn khanh khách. Tôi chăm chú nhìn Thu,

không khỏi ngạc nhiên. Khi mới được các đồng chí trong ban Binh

411

vận giới thiệu thành tích của Thu, tôi cứ hình dùng cô là một người

con gái sắc sảo, nghiêm nghị, có giọng nói đĩnh đạc của người từng

trải. Không ngờ cô lại hồn nhiên, ngây thơ như vậy. Chà, thật hiếm

có một người con gái có điệu cười thoải mái như thế. Thu bỗng

ngừng bặt tiếng cười, bối rối như mình vừa làm một điều gì lố bịch.

- Chu cha, anh! Dị quá à! Em.... em cười quá nhiều hả anh?

Rồi Thu nói tiếp, giọng êm êm, tha thiết:

- Anh à, đừng rầy em nghen. Sống với tụi nó, không khi nào em

được cười thật sự. Về căn cứ, gặp các anh, em thấy sung sướng quá,

em chỉ thích nô dỡn thật nhiều. Lắm khi em đuổi nhau với lũ bạn,

chạy huỳnh huỵch. Đến khi nhớ lại, thấy các anh ngó, mắc cỡ quá,

lại sợ các anh rầy nữa!

Tôi vội giải thích:

- Không, các anh không rầy em đâu em à. Không những thế,

được thấy các em vẫn giữ được lối sống hồn nhiên, tươi trẻ, các anh

rất vui. Chắc em sống trong đó ngột ngạt lắm hả? Em kể chuyện đi.

Thu ngồi im lặng, hai tay nắm mép vòng, mắt chăm chú nhìn

ngọn đèn. Ngọn đèn lung linh, nô dỡn trong đôi con ngươi đen láy

của Thu. ánh đèn dầu hắt vào mặt, làm làn da bánh mật của Thu

hồng lên. Thu bắt đầu bằng giọng nói âm ấm, đều đều, thủ thỉ như

dòng sông La Tinh dịu hiền của quê hương cô:

- Cha em đi tập kết. Mẹ em làm công tác trên tỉnh. Em còn nhỏ,

ở với bà. Em nhớ mẹ, khóc hoài, đòi bà đi tìm mẹ. Bà em phải lôi em

vào buồng, dỗ: "Im đi con, rồi má con sẽ về. Con nói tới má, thằng

xã trưởng bắt cả nhà bây giờ". Chính những lúc ấy, má em về hoạt

động tại xã. Sau này nghe nói lại, em mới biết. Có hôm má em ngồi

trong bụi cây, thấy em đi ngang mà không dám gọi. Má bặm miệng,

ngó theo em hoài. Rồi một lần đi công tác, má em bị địch phục kích,

bắn chết. Lúc ấy em đã biết nghĩ rồi. Em xin vào du kích để trả thù

cho má. Mấy chú không cho, nói em còn nhỏ, yếu quá. Mấy chú giao

cho em nghi trang công sự cho mấy anh. Hôm ấy, em vừa cảnh giới,

412

bám sát thằng xã trưởng, vừa nghi trang công sự cho ba anh du

kích. Khi nó sơ hở, em bật nắp công sự cho mấy anh lên. Diệt thẵng

xã trưởng xong, mấy anh lại xuống công sự an toàn. Còn em thì bị

tụi nó bắt. Chúng nó đánh em dữ lắm, nhưng em chỉ nói: "Chuyện

tai bay vạ gió, tôi không biết". Cuối cùng, chúng phải thả em. Em

nhớ lại lúc em bị đánh mê man bất tỉnh, có một người lính tới xoa

dầu cho em. Em liền liên lạc với anh ta, xây dựng anh ta thành cơ

sở binh vận. Mấy chú bảo em làm công tác binh vận giỏi, đưa em

vào luôn ngành đó. Em vẫn giữ được thế hợp pháp của mình nên

các chú đưa em vào hoạt động thị xã. Em quen sống ở nông thôn,

phải chuyển qua hoạt động thị, bỡ ngỡ lắm. Phải học đủ cách ăn

mặc, khi thì mặc theo lối "híp pi" quái gở, khi thì nón mê áo rách,

gánh hàng rong. Chị Kiên bày vẽ cho em từng chút một, từ cách

nhìn nhận, đánh giá binh lính nguỵ đến cách đi đứng để tránh sự

theo dõi của bọn mật vụ. Hai chị em thường ra bãi biển gần thị xã.

Em không muốn ra đó chút nào hết, ở đó dơ dáy lắm. Lũ lính Mỹ,

lính Nguỵ nô dỡn với bọn gái điếm như ở trong buồng nhà nó. Em

kinh tởm quá. Nhưng chị Kiên cứ dẫn em đi. Chị bảo: "Nơi đó tập

trung nhiều cái ô uế, nhưng lại cũng có những người chán ghét

hàng ngũ địch!". Chị nói quả không sai. Có một hạ sĩ quan nguỵ đi

một mình trên bờ biển, đầu cúi nặng nề. Đôi mắt anh ta thâm

quầng, rầu rĩ. Hai chị em lại làm quen. Biết anh ta tên là ý. Quả

vậy, ý đang chán nản, buồn rầu: cha anh bị tụi lính bắn chết, em

gái anh lại mới bị xe của bọn Đại Hàn cán gẫy tay, mẹ anh phải

sống trong khu đồn ngột ngạt. Qua nhiều lần gặp gỡ, chị Kiên phân

tích cho anh ý vì sao mà khổ, chuyển hoá anh thành một người có

cảm tình với cách mạng. Chị nhận nhiệm vụ mới, trao lại cho em

nhiệm vụ tiếp tục giác ngộ người lính nguỵ ấy. Một buổi tối, đi bên

anh ta, em hỏi:

- Anh ý, anh có biết vì sao mà gia đình anh khổ như vậy không?

Anh ý trả lời:

- Vì chiến tranh.

- Chiến tranh do ai gây ra?

413

- Do ngoại bang.

- Anh đang cầm súng chiến đấu cho ai?

Anh lặng im. Em liền nói:

- Anh à, gia đình anh khổ, gia đình bao bà con ta khổ, đều do

thằng Mỹ xâm lược gây ra. Anh cầm súng ấy, vô tình đã làm hại gia

đình, bà con mình.

Anh ý trầm ngâm:

- Lỡ rồi, biết làm sao.

- Anh có muốn thoát khỏi con đường đen tối ấy không?

- Có chớ.

Cứ như vậy, em chỉ cho anh những việc làm có lợi cho cách

mạng. Lúc đầu chỉ là nắm tình hình đi lại của địch trong căn cứ

anh đóng. Sau đó là rải truyền đơn, rồi vẽ sơ đồ. Em kiểm tra thấy

anh ấy làm đều tốt. Đến một hôm em nói với anh:

- Anh có muốn làm chiến sĩ Giải phóng quân không?

- Tôi mà làm được chiến sĩ Giải phóng quân à? - Anh ngạc

nhiên hỏi.

Em giải thích:

- Bấy hôm anh vẫn làm công việc của chiến sĩ Giải phóng quân

đấy.

Mắt anh sáng lên sung sướng:

- Thiệt na?

- Thiệt chớ. Các anh ở trên khen anh lắm. Các anh ấy có ý định

kết nạp anh vào quân Giải phóng, muốn anh trở thành chiến sĩ Giải

phóng hoạt động trong lòng địch, anh thấy thế nào?

414

- Được vậy thì sướng quá!

Rồi em đưa anh ấy ra vùng ven tổ chức kết nạp vào "đội nghĩa

binh". Buổi lễ có ảnh Bác, có cờ Mặt trận, có cấp trên về dự, tuy đơn

sơ mà rất trang trọng. Anh ý lên đọc lời thề: chiến đấu cho sự

nghiệp cách mạng. Anh ấy rất xúc động. Em cũng vậy, sung sướng,

bồi hồi lắm. Trước nay, em đã xậy dựng được khá nhiều cơ sở binh

vận, nhưng chưa lần nào lại có ý nghĩa như lần này: xây dựng cơ sở

giữa hang ổ kiên cố nhất của địch, có điều kiện đánh những trận

lớn.

Từ đó, để tiện việc bàn bạc, em đến thẳng nhà riêng gặp anh

ấy. Nào ngờ, một chuyện gay go đến với em. Vợ anh ấy ghen. Mấy

lần đầu em tới, chị ấy còn hấm hứ. Nhưng rồi một lần chị ấy chỉ

thẳng vào mặt em mà nói giận dữ: "Tôi không ưa những người như

cô. Cô ra khỏi nhà đi. Cô định cướp chồng tôi hả?". Lần ấy, em

không thể kìm chế nổi, em bỏ đi. Ra ngoài gặp chị Kiên, em khóc:

"Thôi chị ơi, xấu hổ lắm, em không đến nữa đâu, giao cho em nhiệm

vụ khác". Chị Kiên phân tích: "Em đừng lo, chị ấy nói như vậy đủ

biết chị ấy là người tốt. Em đã thấy mấy con vợ lính đánh ghen

chưa? Chỉ mới thoáng thấy một cô gái đi bên chồng thôi, nó đã xông

ra cào cấu vào mặt mà hét rầm lên giữa phố: "Con đĩ cướp chồng

tao". Đằng này chị ấy không vội, chị ấy chỉ nói với em. Em cứ từ từ

và xây dựng đi, chị ấy sẽ có ích cho chúng ta đấy!". Em lại trở vào

thị xã. Đợi những lúc anh ý không có nhà, em đến thăm chị ấy. Chị

ấy không mắng em nữa, nhưng thái độ rất lạnh nhạt. Em lại

chuyện trò với lũ con chị, tắm rửa cho chúng. Lần lần, chị nói

chuyện với em. Em phân tích cho chị hiểu vì sao gia đình chị khổ.

Em nắm tay chị, nói thẳng: "Em biết gia đình chị cũng nghèo, có

thù với lũ giặc, em muốn giúp đỡ anh ý đi vào con đường đúng đắn

để trả thù nhà, nợ nước". Chị ôm lấy em, khóc: "Trời ơi, sao cô

không nói vói tôi từ trước. Tội nghiệp quá!". Thế là chị trở thành cơ

sở đáng tin cậy của em.

Sau nhiều ngày điều tra, em vạch kế hoạch cho anh ý đánh một

trận lớn ở khu vực X. Anh hứa sẽ tiếp tục điều tra và sẽ trình bày

với em phương án đánh cụ thể.

415

Thế là kế hoạch tỉ mỉ cho trận đánh được vạch ra. Hôm em đưa

chất nổ vào và bày cho anh ấy cách dùng, kiểm tra lại phương án

đánh của anh ấy, anh ấy cười: "Thật chịu cô! Chính trị đã giỏi mà

quân sự cũng tài nữa!" Ngay trong đêm ấy, kho xăng giữa thị xã nổ

tung. Em vui vô cùng, thế là ngọn lửa hai anh em cùng nhau nhen

nhóm đã bùng cháy thành khối lửa dữ dội giữa hang ổ địch. Cuộc

đời chúng em những lúc ấy là vui nhất.

- Em ra vào thị xã luôn, có hay bị lục soát không? - Tôi hỏi:

Thu mỉm cười:

- Tránh sao khỏi anh? Không những chúng lục mà chúng còn

bắt ẩu nữa - hơi nghi là bắt, là đánh.

- Em bị bắt mấy lần rồi?

- Dạ, không nhớ nổi nữa anh à. Riêng năm ngoái em bị bắt 5

lần, tết cũng bị nhốt trong xà lim. Chúng nó tra nước dữ quá, em bị

ngớp hoài.

Vẫn với giọng bình thản, Thu kể tiếp:

- Chuyến trước lên trên này họp, khi qua khỏi khẩu, em đi với

mấy anh bộ đội. Tối ấy mấy anh em ở chung một nhà tăng. Chẳng

dè em lên cơn ngớp, đang nằm trên võng bỗng nhào xuống đất.

Người em mệt dữ dội, mắt quáng, miệng khát. Mấy anh mới vực em

lên võng và cuống quýt hỏi nhau:

- Cô ấy bị trúng gió hay sao ấy! Dầu đâu?

Em nghe hết, nhưng lưỡi cứ cứng lại không nói cho các anh rõ

được. Thế là các anh ấy nắm tóc mai em giật, rồi lấy nước tiểu đổ

vào miệng em. Trời ơi, khai quá!".

Kể đến đó, Thu đột nhiên cười rúc rích như vừa nói đến một

chuyện vui nào đó chứ không phải là nói đến nỗi đa truân của chính

mình. Còn tôi, tôi thấy tràn ngập một sự xúc động, tràn ngập tình

416

thương và lòng kính trọng. Kẻ thù đã gây bao tội ác trên quê hương

chúng ta, đã dày vò biết bao người con gái đáng yêu của quê hương

chúng ta. Nhưng, sức sống của quê hương chúng ta vẫn ngời ngời

lên, vẫn vượt lên hết thảy. Chỉ cần nhìn vào những người con gái ấy

thôi, chúng ta cũng có thể thấy rất rõ quê hương chúng ta đau

thương và bất khuất như thế nào.

Tôi gặp Thuỳ trong một trường hợp đặc biệt: chị đang lên cơn

động kinh. Chị ngã lăn trên một tảng đá lớn, giãy giụa. Anh em vội

xúm vào giữ chị. Phải 4 người ghì 2 chân, và 2 tay, một người giữ

đầu chị mới giữ cho chị khỏi dãy tung ra. Mắt chị nhắm nghiền.

Miệng chị la:

- Ươi trời ơi! Nóng quá chịu sao nổi? Các ông biểu tôi tiếp tế cho

Cộng sản, tui không biết đâu!

La rồi chị cố chồm dậy. Các anh phải ráng hết sức ghì cho chặt

mới giữ cho chị nằm im. Mặt chị nhăn lại, đỏ bừng như người say

nắng, mồ hôi thấm ra lấm tấm. Chị nằm im, nấc nấc như bị ngạt.

Đột nhiên chị hét ré lên, giãy giụa, la vang:

- Các ông biểu tui là Cộng sản. Tui không biết Cộng sản là gì!

Nếu tui là Cộng sản thì cả nước Việt Nam này là Cộng sản! Nước

Việt Nam này rộng lắm, đông lắm. Các ông có đi bắt hết được

không? Trời ơi, nóng quá chịu sao nổi. Hồi mai giờ các ông đánh tui,

cây gỗ phải gẫy, cây sắt phải cong, thịt da nào chịu nổi? Khát nước

quá, đưa tui một hớp nước lạnh. Không, đưa cô ca làm gì? Tôi không

uống! Các ông có biết tiền mua cô ca ở đâu ra không? ở máu bà con

tui đây này. Các ông biểu tui uống nước đái, các ông khôn hơn, các

ông đem về cho cha mẹ các ông uống...

Chị oằn mình, rú lên một tiếng rồi lịm đi. Anh em cho biết chị

sẽ lên cơn suốt 3 tiếng đồng hồ. Trận đánh dữ nhất của địch kéo dài

bao lâu thì cơn động kinh kéo dài chừng ấy. Chị là giao liên hợp

pháp. Chị dẫn đường cho anh em ra vào, chị chở vũ khí, tài liệu ra

vào một vùng quan trọng. Với chiếc xuồng nhỏ bé, chị đi lại như con

thoi nối liền những con đường chiến đấu. Một tên phản bội khai báo

ra chị. Trước khi bị bắt, chị đã kịp nhận chìm xuồng, giấu hết vũ

khí. Địch đánh chị bằng đủ mọi đòn dã man: đổ nước, tra điện, đóng

417

đinh vào tay. Chúng không tài nào làm được tờ cung. Chúng bèn tự

viết ra một tờ cung, bảo chị ký vào. Chị cầm bút, gạch một đường

lớn vào giữa tờ cung. Chúng lại đánh chị. Nhưng chúng vẫn thua.

Bây giờ, chị đã trở về với chúng tôi. Chị nằm đó, thở phập phồng.

Với khuôn mặt bầu bầu, sống mũi dọc dừa, trông chị thật hiền từ,

đôn hậu. Nhưng với kẻ địch, chị dữ dội thế đấy. Theo dõi cơn động

kinh của chị, ta có thể hình dung rất rõ cuộc chiến đấu của chị

trong phòng tra, thấy rõ thằng ác ôn đang làm gì, chị chống trả ra

sao.

Bốn lăm phút trôi qua. Chị hơi cựa mình, tay bắt đầu nắm lại.

Phải thay 5 người khác vào giữ chị. Chị lại sắp giãy. Vừa kịp ghì lấy

người chị, thì chị nắm chặt tay lại, oằn oại. Đôi mắt chị nhắm

nghiền và miệng chị lại la:

- Đánh tôi quá chừng quá đỗi chịu sao nổi! Sao mà ngu dữ vậy?

Còn một cái cung nữa mà đánh dữ vậy. Các ông đánh vợ con các ông

vậy được không? Thôi! Đưa cây đây tôi đánh các ông thử coi! ứ ớ!...

Chị giãy đùng đùng, lặng đi một lúc chị lại hét lên:

- Để tao chết luôn, chích kim làm chi? Bay đánh tao chết còn

bày chích thuốc làm chi? Đừng có đạo đức giả! Thả ra, thả ra, tôi

đạp đây nè.

Chị nấc nấc một lát rồi tiếp:

- Đánh đi! Các ông có giỏi thì đánh miết tới 12 giờ khuya. Ba,

bốn đứa đánh chết chứ chịu sao nổi? Bay lấy gậy sắt đánh tao gẫy

tay. Bay trở roi điện đánh tao cháy da. Nhưng bay mới lóc tới thịt,

chớ chưa tới xương tao. Bay đánh cho chết luôn đi rồi xả thịt làm

mắm cho vợ con bay ăn. Sao bay ngu quá chừng vậy.

Chị ngừng lại, nấc nấc như người bị ngợp nước, ngực giật giật

từng hồi và thở hổn hển. Rồi chị nằm im, thở đều đều như người

ngủ say. Một lát sau, chị kéo chiếc võng mà chúng tôi đắp cho chị

lên ngửi rồi nói:

- Chu cha, tanh quá, máu tanh quá.

Chị ném chiếc võng đi và lại kêu:

418

- Lính, đem nước tao uống! Đồ quỷ, nó bỏ, nó đi hết.

Chị nằm im một lúc, nói giọng tỉnh táo hơn: "Đau đầu quá".

Đồng chí y sĩ lấy thuốc trợ sức tiêm cho chị. Chị không biết gì. Chị

duỗi bàn tay ra. Anh em cũng buông chị ra. Chị ngồi dậy, đầu tóc bơ

phờ. Chị nhìn chúng tôi, vuốt sợi tóc loà xoà trước trán, thoáng cười

và bảo: "Các anh ngồi lâu lắm rồi hả, có mệt không? Thôi, vô nghỉ

đi!" Chị đưa tay sửa lại áo, hai cổ tay bị giữ chặt lâu quá, bầm tím.

Tôi ngồi lặng im nhìn chị mà muốn hỏi chị nhiều chuyện.

Nhưng tôi không dám hỏi. Bởi vì, nếu chị kể lại chuyện đời mình,

chị sẽ không tránh khỏi xúc động và rồi chị sẽ lại lên cơn. Tôi không

cầm lòng được trước cơn động kinh của những người con gái ấy. ở

Bình Định này, tôi đã gặp biết bao cô gái như vậy. Người làm công

tác võ trang, người làm công tác binh vận, người làm công tác đấu

tranh chính trị, giao liên - mỗi người trên một mặt trận thầm lặng

và mỗi người đều vượt qua những đau thương, gian khổ mà lập nên

những chiến công thầm lặng nhưng vô cùng lớn lao. Kẻ thù tàn bạo,

dã man quá, chúng hành hạ chị em của chúng ta bằng những dụng

cụ hiện đại nhất của "văn minh Huê kỳ" và bằng phương pháp tồi

tệ nhất của thời trung cổ. Nhưng, chúng không khuất phục được

những người con gái ấy.

* * *

Khi tôi viết những dòng chữ này, tôi đã ở xa những người con

gái ấy hàng trăm cây số. Tôi ân hận mãi là chưa gặp được Hai -

người con gái Phù Mỹ kiên cường. Khi được tin cô đã chiến thắng

trở về, tôi ở xa quá, không đến thăm cô được. Khi tôi về thăm Hai

tại quê hương cô thì Hai đã được điều lên huyện nhận công tác mới.

Những người con gái ấy vẫn đang trên đường chiến đấu vẻ

vang của mình. Hai làm công tác an ninh. Thùy trở về chiến trường

với chiếc thuyền nhỏ xuôi ngược trên các dòng sông, luồn lách giữa

hang ổ địch. Thu đang tiếp tục chiến thắng những thử thách lớn lao

mới trong trại giam của địch. Còn Thuý, người con gái có tâm hồn

419

đầy chất thơ, đã đi xa rồi, xa mãi, để lại trong tôi những hình ảnh

trong sáng, những suy nghĩ cháy bỏng.

Sống giữa những người con gái như thế, sống giữa cuộc chiến

đấu hào hùng như thế, tôi thấy mảnh đất mà mình mới đặt chân

lên ít lâu, bỗng trở nên gắn bó, đầy tình sâu nghĩa nặng. Đã bao lần

tôi thầm gọi Bình Định - mảnh đất "dẫu chẳng nơi đây cất tiếng

chào đời" là quê hương với cái nghĩa thân thương và trân trọng

nhất.

Xin cảm ơn những người con gái quê hương.

Ngày 2 - 6/9/1972

Cơn bão số 5 đã ảnh hưởng trực tiếp đến mảnh đất này. Suốt

mấy ngày nay mưa sầm sập.

Quân ta đã mở mặt trận mới ở chỗ địch không ngờ: Tiên Phước

- có cả xe tăng xuất kích. B52 thả bom phía đó, rung cả đất ở đây.

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội, ngày 9/9/1972

Việt Long yêu dấu của bố mẹ.

Đã gần 1 năm, kể từ khi anh San, bạn con, ra ngoài này đến

thăm bố mẹ và đưa thư của con, bố mẹ chưa nhận được thư của con.

Tuy nhiên bố mẹ cũng được biết tin con xuống công tác ở Bình

Định. Tháng vừa qua, anh ổn và chị Sáu ở VNTTX đến thăm bố,

báo tin con vẫn được mạnh khoẻ, công tác tốt, và mới được tặng

thưởng Huy chương Giải phóng. Bố mẹ và các em rất mừng. Bố rất

vui vì có đứa con tiếp tục được sự nghiệp cách mạng của cha, nối

tiếp được truyền thống cách mạng của dân tộc. Bố thường nói với

các em con, anh Long có lý tưởng cách mạng rõ rệt, có tinh thần

quyết tâm vượt khó khăn gian khổ để thực hiện lý tưởng đó và có

phương hướng mục tiêu phấn đấu rõ ràng. Bố cũng hình dung được

420

những gian khổ, khó khăn con vừa trải qua, góp phần bé nhỏ vào

thắng lợi lớn lao của Bình Định kiên cường.

Về tình hình ngoài này, chắc con theo dõi qua đài và báo chí

cũng rõ, toàn dân miền Bắc đang ra sức đánh thắng cuộc chiến

tranh phá hoại điên rồ của Níc Xơn. Chiến đấu, sản xuất, sơ tán,

vất vả hơn lần trước, song mọi người cảm thấy thắng lợi gần hơn.

Mỗi khi được tin thắng lợi của Bình Định, Quảng Nan, bố lại nói

chuyện đến con đang hoạt động trong đó cho các em nghe.

Gia đình ta cũng sơ tán từ tháng 4/1972, lần này sơ tán gần

thôi, không xa như lần trước. Thuỷ, Lan, Diệp sơ tán với mẹ cách

thị xã Hà Đông 5 cây số, vào phía trong làng. Ngọc hiện nghỉ hè

cũng ở đấy. Cho đến nay gia đình vẫn bình yên, mạnh khoẻ. Anh

Đức vẫn công tác tại Trung tâm Hà Nội, anh vẫn khoẻ, công tác tốt.

Gia đình mới nhận được thư của Phúc. Anh chàng Phúc đang

chuẩn bị về nước công tác sau 3 năm rươĩ thực tập ở Liên Xô, trong

cái tỉnh bé nhỏ, nước cộng hoà Ucraina.

Anh lính trẻ Việt đang làm nhiệm vụ của một chiến sĩ công an

vũ trang vùng núi Nghệ An. Việt đã quen được với cuộc đời chiến sĩ,

đôi lúc nhớ nhà, có chiều hướng công tác tốt.

Ngọc thi lớp 10 đậu, và thi vào Đại học đạt điểm số rất cao (20

điểm; 13 điểm là đạt tiêu chuẩn). Nhẽ ra Ngọc được chọn đi Liên Xô

để học ngoại ngữ, nhưng đã có 2 anh vừa đi nước ngoài, nên phải

dành chỗ cho bạn khác. Ngọc sẽ vào học trường Đại học Sư phạm

ngoại ngữ, và sẽ trở thành cô giáo dạy tiếng Anh. Ngọc học giỏi toàn

diện (văn hoá tiên tiến, ngoại ngữ tiên tiến, đoàn viên tiên tiến)

phong thái vẫn cù mì, cục mịch như khi con còn ở nhà.

Diệp năm nay lên lớp 9, học đạt loại A3, khá về toán, lý hơn cả;

nhanh nhẹn, tháo vát, khoẻ và luôn luôn lạc quan yêu đời. Em sẽ sơ

tán theo trường của em.

421

Lan lên lớp 6, cũng học khá loại A3, đã gánh được 2 thùng nước

đầy mà bố xách không nổi, giống Ngọc về vóc người, sẽ to lớn như

chị, song sôi nổi hơn chị.

Thuỷ năm nay lên lớp 5, là học sinh cấp II rồi mà trông vẫn còn

bé như đứa lên lớp 7, đêm nằm thỉnh thoảng còn sờ vú mẹ. Vẫn gầy

tuy ăn khoẻ, càng lớn lên càng giống mẹ.

Lan và Thuỷ sẽ học tại trường cấp II, nơi trường sơ tán.

Mẹ con vẫn khoẻ, vẫn công tác ở trường Ngoại ngữ, thường

xuyên nhớ con, thương con và nhắc đến con luôn, đặc biệt là khi gia

đình có dịp sum họp đông đủ, chỉ vắng con.

Thấm thoát bố đã 56 gần 57 tuổi rồi, sức khoẻ gần đây có yếu

hơn trước, song bố vẫn công tác bình thường. Bố rất mừng vì đã

nhận được phòng ở tại khu Kim Liên, chiếc phòng trên 25m2, song

có đủ tiện nghi nhà tắm, bếp ăn, hố xí... như vậy là bố có nhà ở lâu

dài, về hưu trí không còn phải lo đến chỗ ở.

Gia đình nhà ta như thế là tạm ổn định; 4 con trai đều công tác

cả. Ngọc trở thành sinh viên đại học. Bố mẹ chỉ còn phải lo cho 3

em, mà với đà học tập, đạo đức và tác phong của các em, bố thấy em

nào cũng có triển vọng cả. So với trước kia, bố mẹ phải nuôi và lo

cho 8 con, thì nay rõ ràng là một bước tiến lớn.

Bình quân thu hoạch cao hơn trước gấp 2. Bố, anh Đức, em

Ngọc, em Diệp đều có xe đạp tốt. Nhà có đài điện, đài bán dẫn, máy

khâu. Cùng với sự tiến triển của cách mạng, gia đình ta cũng được

tiến thêm về chính trị + kinh tế.

Mẹ con trước lo cho con nhiều, chỉ mong con chóng trở về miền

Bắc, có dịp sum họp gia đình đông đủ, nay sự suy nghĩ đã khác,

mong con dũng cảm, mưu trí trong công tác, và đạt nhiều kết quả

lớn hơn. Mặt khác, trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, đâu

cũng có khó khăn nguy hiểm, nên mẹ con cũng thấy công tác ở đâu

cũng thế, miễn là tích cực song thận trọng.

422

Bố chúc con khoẻ mạnh, vượt mọi gian khổ khó khăn, linh

hoạt, sáng tạo, thận trọng trong công tác cách mạng, đạt nhiều

thành tích mới. Có dịp biên thư cho bố mẹ và các em, nhờ phòng Tổ

chức VNTTX chuyển cho, địa chỉ biên thư cho gia đình như cũ.

Bố của con

Phạm Đức Hoá

Từ giữa tháng 9 đến đầu tháng 10/1972

Những ngày này, hoạt động của ta được đẩy mạnh ở vùng ven

Sài Gòn, Tây Nguyên. Trên mặt trận ngoại giao, ta tiếp tục lên án

lập trường ngoan cố của giặc Mỹ ủng hộ chế độ Việt gian Nguyễn

Văn Thiệu. Vụ giặc Mỹ cho máy bay đánh vào trung tâm Hà Nội, bỏ

bom phá hủy tổng lãnh sự Pháp bị ta tố cáo mạnh. Các nước cũng

rộ lên một phong trào phản kháng Mỹ. Kít Sin Giơ chạy lung tung,

hết qua Pari lại qua Sài Gòn. Chúng tung dư luận sắp đạt được một

giải pháp. Đài, báo của ta luôn luôn phát đi những bài bình luận, xã

luận vạch trần thủ đoạn lừa mị của chúng, khẳng định quyết tâm

chống Mỹ cứu nước của ta.

Nhưng, ở bên trong, chúng tôi được phổ biến: sắp tới, có khả

năng đạt được một giải pháp theo đúng yêu cầu của ta. Lúc ấy, có

khả năng tồn tại hai Chính phủ, hai quân đội. Bên trên, có Ban hoà

giải dân tộc và Uỷ ban quốc tế. Vấn đề đặt ra bây giờ là phải bố trí

thế trận sẵn sàng, khi có thời cơ là tấn công ào ạt, chiếm nhiều đất -

đại bộ phận nông thôn và một số thị trấn, quận lỵ, chiếm trục giao

thông - giành nhiều dân, giành lòng dân. Được tin, bọn địch đang

chuẩn bị ráo riết để đấu tranh chính trị với ta khi có giải pháp.

Chúng bắt nhân dân mua tôn có vẽ cờ 3 que cả hai mặt về lợp nhà.

Chúng chuyển nhiều sĩ quan cấp uý về làm cán bộ thôn, xã. Chúng

ta cũng phải chuẩn bị rất khẩn trương. Nhiều cán bộ đã được tung

đi các địa phương làm công tác phong trào. Nhiều tài liệu, truyền

đơn được viết, nhiều áp phích được vẽ để tuyên truyền đại thắng lợi

của dân tộc. Điều đáng lo là cán bộ - chắc sẽ thiếu. ở phân xã,

không ai biết tiếng Anh, đó là một điều gay go.

423

Hôm nay, trong bữa ăn, một anh nói: "Miền Bắc bắn rơi 4000

máy bay rồi". Anh khác cướp lời: "4 nghìn lẻ 2 chớ 4.000?". Dương

Hương Ly cười: "Giá mà khi có giải pháp, bắn rơi tròn 4.000 thì hay

nhỉ". Đặng phê phán: "Quan điểm của ông Quốc là muốn dừng lại,

đừng bắn nữa hả?" . Quốc lại cười: "4.000 để làm thơ cho hay - 4.000

năm dựng nước, bắn rơi 4.000 máy bay".

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Bố mẹ kính mến!

Mùa mưa lại đến với căn cứ chúng con. Lúc này đây, trời mưa

sầm sập. Tuy vậy, tiếng động của đất trời vẫn không át tiếng súng

tiến công từ Tiên Phước vọng về. Hôm nào nơi ấy cũng rền vang

tiếng pháo 130mm của ta, xen cả tiếng súng các loại. Chiến trường

rất sôi động.

Chúng con học tập ở hậu cứ mà cứ bồn chồn muốn lao ngay ra

tiền phương. Đến hôm nay, rất đông anh em trong cơ quan đã đi

công tác. Nhưng con vẫn phải ở nhà, lần này, con nhận trách nhiệm

thường trực bộ phận để biên tập. Con tiếc lắm, vào những ngày cuối

của cuộc chiến tranh này lẽ ra phải được xông xáo ở mũi nhọn của

cuộc chiến đấu để được đóng góp nhiều nhất sức mình vào cuộc

chiến đấu và đặc biệt với nguời viết, để chứng kiến những chuyển

biến trọng đại nhất của lịch sử, làm giàu thêm nhận thức, hiểu biết

thực tế. Tuy vậy, con vẫn xác định phải yên tâm làm tốt nhiệm vụ ở

tuyến sau.

Bố mẹ ạ, con vẫn khoẻ, sức khoẻ khả quan lắm. Bác sĩ khám

cho con phải thốt lên: "Chà, đồng chí không sốt hay sao mà gan,

lách tốt thế?"

Thể trạng của con vẫn gầy giống khi ở ngoài đó vậy, nhưng

không thể coi nó là biểu tượng của sức lực bên trong được, cho nên

khi xem ảnh con, bố mẹ thấy có xương xẩu đôi chút cũng đừng lo

nhé. Con khoẻ lắm, ăn khoẻ, ngủ khoẻ, làm việc khoẻ.

424

Trong công tác, con vẫn tiếp tục cố gắng phấn đấu. Những công

việc hàng ngày, con đều giải quyết kịp thời và không phạm sai sót

gì. Con đang sắp xếp thời gian để viết một ít bài thuộc thể loại văn

nghệ - tập sáng tác. Con đang cố tập để viết cho được, cho tốt. Về

mặt Đảng, thế là con đã trở thành đảng viên chính thức hơn 1 năm

rồi. Trong Đại hội chi bộ vừa rồi, con được bầu vào Chi uỷ chi bộ cơ

quan, chuyên trách về thanh niên. Thực ra, trong cuộc sống, cả về

bên Đảng cũng như chính quyền, con không có ý muốn nhận một

chức vụ nào cả, chỉ muốn là một đảng viên 4 tốt, một cán bộ chuyên

môn tốt thôi. Nhưng bây giờ, con không thể từ chối trách nhiệm mới

này được, con sẽ cố gắng học tập các đồng chí đi trước, cố gắng làm

tròn nhiệm vụ. Ước mơ lớn nhất của con, con vẫn phải dùng ngòi

bút để thực hiện chứ không phải là dùng bậc thang...

Về sinh hoạt, đời sống chúng con ngày càng no ấm, vui tươi.

Vừa rồi, miền Bắc có gửi cho chúng con một số quà. Do vậy, những

trang bị cho cuộc sống, con khá đầy đủ, chẳng phải lo gì. Phân xã

Thông tấn xã của chúng con cũng lớn mạnh hơn nhiều. Bố mẹ cứ

xem những cái ảnh phóng ở núi rừng này cũng hình dung về kỹ

thuật, chúng con đã có những bước tiến thế nào (hồi trước, con chỉ

gửi ra những ảnh in bé tý chứ không phóng to). Từng đợt, chúng

con toả đi các tỉnh công tác rồi 5, 6 tháng sau lại về - ríu rít trong

một nhà như bầy chim về tổ ấm. Chúng con hiểu nhau, quan tâm

đến nhau, thương yêu nhau như ruột thịt. Chúng con trang bị lẫn

cho nhau những gì bạn còn thiếu, ăn chung nhau, đi xa về lại đem

quà cho nhau, chăm sóc nhau khi đau ốm... Những tình cảm ấy đã

bù đắp rất nhiều cho sự thiếu thốn tình cảm gia đình.

Vừa rồi, bọn Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc, gia đình ta có

sơ tán không? Anh Đức đã có vợ chưa? Bà, cụ, cậu mợ Hiếu, ông bà

trẻ và cô chú Phương cùng các em có khoẻ mạnh, vui tươi không?

Con hết sức mong thư của gia đình nhưng chỉ nhận được thư bố mẹ,

anh Đức (trong năm nay, con chỉ nhận được 2 lá thư do bố gửi vào

thôi).

Cuối cùng, cho con gưỉ lời thăm các cô, chú trong cơ quan bố,

mẹ.

425

Gửi đến Ngọc, Diệp, Lan, Thuỷ tình thương yêu, nhớ da diết

của người anh.

Còn Việt, hiện đang chiến đấu ỏ đâu?

Con gửi một số ảnh của con cho bố, mẹ, có gì bố mẹ gửi lên cho

bà, trẻ trên nhà, cho các em ở xa.

Sắp tới, anh Hà có thể ra. Nếu vậy, khi ah ấy vào mẹ có thể gửi

thư và những thứ cần thiết. Mẹ hỏi xem anh San và anh Thành có

vào không để gửi các anh ấy. Có gì, mẹ hỏi thêm anh Đồng sẽ rõ.

Mong thư, ảnh gia đình

Con

Việt Long

Bài đăng báo Cờ giải phóng và Bản tin Đấu tranh thống nhất:

Ba cha con chung một chiến hào

Hà Nội (VNTTX 22-10-72) - Cuộc chiến đấu đang diễn ra quyết

liệt, bọn địch cố xông lên hòng đánh bật các chiến sĩ bộ đội, du kích

ra khỏi xóm nhà phía Tây Nam Phước Lý (vùng ven Quy Nhơn,

Bình Định). Chúng bị đẩy lùi, để lại mấy xác chết và nhiều tên bị

thương nằm rải rác trên đường. Chúng phải cầu cứu đến phi pháo.

Những chiếc máy bay lên thẳng sà tới, bắn như vãi đạn xuống trận

địa. Những chiếc "bo bo" cũng cập sát bờ biển nã cối tới như mưa

rào. Nhưng, bọn bộ binh vẫn nằm chết dí tại chỗ.

Trong khi đó, ở phía sau, bọn ác ôn nguỵ quyền đang cùng bọn

chỉ huy nguỵ quân bóp đầu bóp trán tìm cách gỡ thế bí. Tên Trầm,

xã trưởng, chỉ vào hai người đàn ông bị trói ngoài sân, nói:

- Người nhà Cộng sản đó. Đưa chúng vào khiêng những thương

binh ra!

426

Tên thiếu uý Bảo an đồng tình:

- Được đấy, đưa thằng con nó ra trước, còn lão già này để lại

làm con tin.

Bọn lính xông tới, xốc anh thanh niên dậy, mở dây trói, đẩy đi.

Thằng Trầm doạ:

- Mạnh, mày mà chạy thì cha mày sẽ chết!

Mạnh bước đi trước mũi súng của lũ Bảo an qua những hàng

dương xơ xác vì bom đạn. Phía trước kia đã là trận địa của bộ đội,

du kích. Mạnh vẫn bước tới. Tụi lính bước chậm lại. Một thằng

quát:

- Lên cõng thương binh rồi chạy trở lui mau!

Mạnh lầm lũi bước đi. Tụi lính dừng hẳn lại, tản khai sau

những gốc dương. Trận địa im lặng. Mạnh ngước nhìn lại phía sau

rồi vụt chạy. Những loạt AR15 nổ rộ lên. Mạnh vẫn chạy tới. Một

loáng, anh đã khuất sau những hàng dương. Anh lao vào một giao

thông hào. Các chiến sĩ bộ đội và du kích theo dõi sát từng hành

động của anh, niềm nở đón anh. Một du kích trẻ từ một góc chiến

hào đứng sững nhìn anh rồi chạy bổ tới, reo lên:

- Anh Mạnh!

Mạnh cũng reo lên:

- Phúc, em Phúc!

Hai anh em ôm chặt lấy nhau.

Người em đi du kích, người anh còn sống trong vòng kìm kẹp

của địch, không ngờ lại gặp nhau trên chiến hào giữa cuộc chiến

đấu quyết liệt này. Mạnh nói:

- Ba còn bị chúng giữ. Súng đâu, đưa anh một cây!

427

Anh em du kích đưa Mạnh một khẩu AR15 mới thu được của

địch. Phúc hướng dẫn anh cách sử dụng. Hai anh em lại cùng đồng

đội bám chiến hào, đánh lui các đợt phản kích của địch.

Được tin Mạnh chạy trốn, tên thiếu uý Bảo an tức giận định

giết ông Châu, cha của Mạnh. Nhưng thằng Trầm ngăn lại.

- Khoan, bắt lão lên kêu con lão về, lão mà lôi thôi, trảy đầu

vẫn chưa muộn.

Nó túm ngực ông lão, lôi dậy, gằn giọng.

- Lên kêu con mày về!

Ông Châu gượng đứng cho vững. Những quả đấm, cú đá bọn

lính mới nện trên khắp cơ thể làm ông nhức nhối. Ông nhìn xoáy

vào mặt thằng ấp trưởng. Những ngày tháng đau khổ lại hiện lên,

quặn thắt lòng ông. Ông vốn không phải người Phước Lý. Quê ông ở

Cát Chánh, làng ông nằm bên bờ biển lộng gió, có những hàng

dương xanh thắm. Gia đình ông làm ăn lương thiện bằng nghề cá.

Nhưng máy bay, pháo biển của địch thi nhau dội bom đạn xuống,

phạt cụt ngọn những hàng dương, phá trụi xóm làng. Bọn địch

dùng bom đạn và hành động tàn sát hòng thực hiện âm mưu "bình

định" của chúng. Gia đình ông cùng bà con bật chạy lên núi. Bọn

lính càn theo, bắt từng người dồn về Phước Lý. Sống trong vòng kìm

kẹp của chúng, mất tự do, cuộc đời cực khổ trăm chiều. Người dân

biển vốn cần cù, dậy sớm, thức khuya, lênh đênh trên biển. Nhưng

bọn địch buộc họ phải đi muộn về sớm, sáng 8 giờ chúng mới cho ra

khơi, chiều 4 giờ đã bắt về. Đánh được con cá ngon, chúng cũng

cướp giật. Bây giờ, chúng còn muốn hành hạ ông. Ông nghĩ: "Được,

dù chết tao cũng chạy khỏi vòng kìm kẹp của bọn bay. Sống tủi

nhục chừng ấy quá đủ rồi!".

Bọn lính thúc ông đi. Ông giả bộ sợ sệt: "Các ông đi trước, tui sợ

quá!". Bọn lính quát: "Đi! Muốn ăn đạn hả?". Chúng đẩy ông đi theo

con đường nhỏ len lỏi giữa làng. Con đường quanh co, gấp khúc qua

những ngôi nhà. Ông mừng thầm: "Tao chỉ cần chạy qua ngôi nhà

kia là thoát!". Đang đi, ông bỗng dừng lại, núp sau một vách nhà,

428

kêu: "Chết! Chết rồi mấy ông ơi! Họ đông quá, đang chĩa súng về

đây!". Bọn lính sợ xanh mắt, chạy lùi lại. Ông Châu vụt chạy tới.

Được anh em du kích đón tiếp, ông Châu sốt sắng bắt tay ngay

vào việc phục vụ anh em chiến đấu.

Trời đã tối, anh em bộ đội, du kích thu dọn chiến lợi phẩm, trở

về căn cứ. Trên bến đò, ba cha con ông Châu gặp lại nhau, vui

mừng khôn xiết. Tất cả đều lên đường. Ông Châu đứng cầm lái, hai

con ông cầm chèo, đưa con thuyền chở nặng vũ khí lướt tới.

Việt Long (Thông tấn xã Giải phóng)

Ngày 23 - 25/10/1972

Một số kế hoạch chuẩn bị cho ngày lễ mừng đại thắng phải tạm

hoãn. Số người đi làm khán đài nay ở lại. Ngày 23, 24, máy bay Mỹ

vẫn tiếp tục đánh phá miền Bắc. Ngày 24 Thiệu đọc diễn văn trước

vô tuyến truyền hình với giọng điệu lưu manh, hiếu chiến, điên

cuồng và sợ hãi. Có lẽ, nó rất sợ một giải pháp hoà bình. Còn Mỹ thì

vẫn đang lập lờ. Ngay lúc này, khó có thể dự đoán chắc chắn là khả

năng nào trong hai khả năng sẽ xảy ra? Thời gian sẽ trả lời chúng

ta. Thời gian ủng hộ chúng ta. Chúng ta khẳng định quyết tâm của

chúng ta một lần nữa: kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống

Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Chúng tôi nghe rất kỹ bài xã luận báo

Nhân dân và bình luận báo Quân đội Nhân dân nói về quyết tâm

ấy.

Bây giờ là mùa mưa. Song, năm nay mưa nhỏ và mưa rất ít.

Thường là trời nắng, bầu trời xanh hoặc dày mây trắng.

Ngày 26/10/1972

Trưa nay, trong buổi phát thanh đặc biệt, Đài Tiếng nói Việt

Nam truyền đi bản tuyên bố của Chính phủ Nước Việt Nam dân

chủ cộng hoà về tình hình cuộc đàm phán về vấn đề Việt Nam hiện

nay. Chúng tôi nghe kỹ 2, 3 lần. Tối, cơ quan tổ chức mít tinh.

Chúng tôi đều thấy rõ bộ mặt xảo trá, lật lọng, đê hèn của đế quốc

429

Mỹ, thấy rõ thiện chí của ta, đồng thời khẳng định quyết tâm: kiên

trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Trong

công tác, chúng tôi vẫn chuẩn bị hai khả năng: làm ảnh, nghiên cứu

chính sách để làm việc thật tốt khi có giải pháp, đồng thời lo đi gùi

cõng lương thực, thực phẩm, lo sản xuất, di chuyển để đảm bảo sức

chiến đấu lâu dài.

Ngày 27/10/1972

Trời mưa lớn. Rồi tạnh. Lại mưa. Lúc thì chói nắng, lúc lại mưa

sầm sập.

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Ngày 29/10/1972

Bố mẹ kính mến! Các em thân!

Con viết thư này về gia đình giữa những ngày cả nước ta đang

sôi nổi hưởng ứng bản tuyên bố mới đây của Chính phủ ta. Con

nghĩ càng thấy căm thù thằng Mỹ, nó thật lật lọng, đê hèn, nếu nó

tôn trọng lời cam kết thì đất nước ta đã được hoà bình trong độc lập,

tự do rồi. Lúc ấy, tuy cuộc đấu tranh còn diễn ra gay go và quyết

liệt, nhưng đã mở ra hy vọng đoàn tụ cho nhiều gia đình, trong đó

có gia đình ta. Còn bây giờ, chắc bố mẹ đều nghĩ như con: chiến đấu

đến cùng để giành độc lập, tự do, lúc ấy sẽ có vui đoàn tụ.

Chúng con vẫn đứng vững trên vị trí công tác, khẩn trương tiến

hành mọi việc, vừa chuẩn bị triển khai công tác thật nhanh, mạnh

khi có giải pháp, vừa chuẩn bị tốt để kiên trì và đẩy mạnh chiến

đấu. Con vẫn khoẻ, phấn khởi. Bây giờ, con vẫn ở căn cứ, vừa biên

tập tin, bài các nơi gửi về vừa viết thêm một số theo tài liệu đã ghi

chép được trong chuyến công tác trước.

Chúng con vẫn khoẻ. Nhờ khâu tổ chức của cơ quan tốt và tình

hình thuận lợi, chúng con đỡ lao động vất vả, có nhiều thời giờ làm

công tác chuyên môn.

430

Con xin giới thiệu với gia đình, người đưa thư này đến nhà là

anh Vũ Hồng - cán bộ trong cơ quan con ra Bắc chữa bệnh. Chắc

anh Hồng sẽ kể nhiều chuyện cho bố mẹ và các em nghe.

Còn gia đình ta hiện nay ra sao? Các em có sơ tán không? có

ngoan, học giỏi không? Bố, mẹ có khoẻ không? Mà mẹ đã bỏ thuốc lá

chưa đấy? Con chẳng thấy mẹ nói gì về chuyện này cả. Mẹ vốn

không khoẻ lắm, nếu hút thuốc càng có hại, điều đó làm con không

yên tâm chút nào cả. Thư sau, mẹ phải nói cho con rõ về chuyện

này đấy! Con vào đây vẫn như ở nhà, không nghiện trà, thuốc,

rượu, bia... gì hết. Chỉ tranh thủ bồi dưỡng sức khoẻ để làm việc tốt

thôi.

Bố mẹ cho con gửi lời thăm cụ, bà, ông bà trẻ, cậu mợ Hiếu, cô

chú Phương và các chú, bác trong cơ quan.

Con mong thư gia đình

Anh mong thư các em

Con

Việt Long

Ngày 5/11/1972

Lại một tin đau đớn nữa đến với chúng tôi: Hoàng Chung,

phóng viên ảnh, đã hy sinh tại Kỳ Thịnh (Tam Kỳ, Quảng Nam).

Như vậy, trong cả 3 đợt ra quân của phân xã chúng tôi, đều có hy

sinh: Lần thứ nhất - Lê Viết Vượng, lần thứ hai - Hồ Ca, và lần này

- Hoàng Chung.

Bao giờ cũng vậy, cứ nghe tin đồng chí mình hy sinh, tôi lại

nghĩ về những kỷ niệm thân thương với đồng chí. Hoàng Chung vào

đây năm 1971. Anh người Hà Tĩnh, dáng bé nhỏ. Chung thẳng

thắn, trung thực, sống rất rộng rãi. Trong chuyến đi công tác Công

Tum vừa qua, anh sắm được một số đồ dùng. Về nhà, anh lại cho

431

anh em hết: võng dù cho Quảng, anh nằm võng kaki cũ, mấy chéo

dù hoa cho Chu và anh Đảo, anh đắp tấm dù nhỏ. Anh thể hiện rất

rõ thiện cảm với tôi. Tính nóng, nhưng khi nói với tôi, bao giờ anh

cũng dành cho tôi những lời dịu dàng, thân ái. Anh thường nói rất

mong được đi công tác với tôi một chuyến. ý đồ ấy chưa được thực

hiện thì anh đã mất. Lòng tôi lại thêm một nỗi trống trải. Trong

cuộc chiến đấu ở tiền tuyến này, xa gia đình, anh em trong phân xã

chúng tôi đã mặc nhiên coi nhau như anh em ruột, thương yêu, lo

lắng cho nhau. Anh Đảo thưởng nói: "Thả các cậu về địa phương

ngày nào là mình lo ngày ấy". Tôi cũng vậy, lúc nào cũng lo lắng

đến từng bước đi của đồng chí mình, cầu mong họ sẽ thắng lợi trở

về, tuy rằng tôi vẫn biết lăn lộn ở tiền phương, sự hy sinh khó tránh

khỏi.

Bây giờ chính là mùa mưa. Cơn bão số 8 đã đến. Nhưng trời

không mưa dầm dề dai dẳng như các mùa mưa trước mà chỉ có

những cơn mưa lớn ào ạt dội nước xuống trong mấy giờ hoặc một vài

ngày rồi lại nắng rực rỡ. Cơ quan rục rịch di chuyển.

Ngày 8/11/1972

Nhận được điện của Quảng Nam: "Theo tin cơ sở Bắc Tam Kỳ

báo, đồng chí Chung bị địch bắt sống ở thôn Tư Kỳ Mỹ. Tất cả đồ

dùng, máy móc, tài liệu bị địch lấy mất hết". Anh Đảo đọc xong

điện, cả nhà đều trầm lặng. Trong lòng dấy lên những cảm xúc

mãnh liệt nhưng không rõ ràng gì hết: buồn hay vui? Lẽ ra phải

vui, vì như vậy là Chung chưa chết. Tuy nhiên, anh lại sa vào tay

giặc, chúng tôi không buồn sao được? Mà đôi khi, thà chết còn nhẹ

nhàng hơn - chết là hết biết mọi chuyện. Đằng này lại bị bắt, thoát

sao khỏi những cực hình của địch, rồi còn bao chuyện phức tạp

khác!

Trong bữa cơm, sau khi nghe tin Chung bị bắt, có đồng chí bàn

tán với vẻ trách móc: "Tại sao có súng lại không bắn, lại để bị bắt

sống?". Nghe câu nói đó, tôi thấy chạnh lòng. Tại sao, điều đầu tiên

anh lại không nhìn vào mặt tích cực của đồng chí để suy xét, mà lại

cứ xoáy vào mặt tiêu cực? Anh nói như vậy, có nghĩa là bảo Chung

thủ tiêu chiến đấu chứ gì? Tôi công nhận một điều: trong cuộc chiến

432

đấu gay go và phức tạp này, phải đánh giá con người toàn diện,

không những nhìn vào mặt tích cực, mà còn phải nhìn vào mặt tiêu

cực. Tuy nhiên, bao giờ cũng vậy, cần phải nắm chắc mọi diễn biến

rồi hãy đánh giá, và cứ đánh giá mọi sự việc theo góc cạnh tích cực

trước đã rồi hãy hay. Tôi nhận thấy trong cơ quan, có nhiều đồng

chí khi đánh giá việc làm của đồng chí mình, bao giờ cũng đứng ở

góc cạnh xấu của đồng chí chưa chắc đã có, mà do họ cảm thấy có,

để rồi suy diễn, vặn vẹo. Tôi không tán thành chút nào lối nhìn ấy.

Ngày 14/11/1972

Nhận được bài ghi nhanh "Lòng dân đã quyết" của Dao Thuỷ

từ Bình Định gửi về, ghi lại vài nét dư luận và hành động hưởng

ứng bản tuyên bố ngày 26-10 của Chính phủ ta. Bài ghi nhanh

ngắn, gọn và cũng có những chi tiết bình thường thôi, nhưng tôi và

anh Đảo đánh giá rất cao. Khi Chính phủ ta mới ra tuyên bố, chúng

tôi rất mong có một bài như thế. ở đây thể hiện sự nhạy bén của

người làm báo, thông tấn. Chỉ cần một vài bài kiểu nhạy bén chính

trị như thế đã có thể đáp ứng rất tốt yêu cầu tuyên truyền của

Đảng trong từng giai đoạn, hơn cả những bài dài dòng, "cỡ lớn".

Không biết tại sao mấy phóng viên nhà mình chưa có một bài ghi

nhanh nào như vậy? Dao Thủy tức Cao Duy Thảo (còn có bút danh

là Cao Duy Thao) ở tiểu ban Văn nghệ cùng đi công tác Bình Định

với tôi. Đợt trước, thấy tôi viết được nhiều tin, bài, các anh ở Ban

Tuyên huấn tỉnh có ý chê anh em Văn nghệ thiếu nhạy bén, làm ăn

thiếu năng suất. Tôi hiểu, các anh chưa thấy sự khác biệt về nghề

nghiệp giữa thông tấn và văn nghệ. Thông tấn đòi hỏi nhanh nhạy,

ngắn gọn. Văn nghệ lại đòi hỏi lắng đọng, đi sâu vào lòng người. Có

lẽ Thảo đã suy nghĩ nhiều, thấy rằng do yêu cầu của cách mạng,

phải biết kết hợp cả hai nghề, nên đã làm thêm "tay trái" như vậy.

Thế mà Thông tấn ra trò!

Trời thoắt mưa, thoắt nắng, ỡm ờ như một cô gái mới lớn bắt

đầu yêu: thoắt vui, thoắt buồn, thoắt tinh nghịch, thoắt hờn giận.

Từ 15/11/1972

Huề đang ngồi làm việc, chợt nhìn ra rừng, nói:

433

- Chà, nàng Kỳ nhông đến tình tự với chúng ta !

Chúng tôi nhìn theo tay anh, thấy một con kỳ nhông mầu gạch

cua đang bám vào một thân cây. Huề và Phấn vội chạy ra, mỗi

người cầm một cây gậy, dò tới. Con kỳ nhông thấy động, ngỏng cao

đầu làm những cái gai trên gáy dựng lên. Nó bò xung quanh cây.

Huề đến sát gốc cây. Phấn dặn: "Cẩn thận nhé, chứ như chàng kỳ

nhông hôm nọ, mới tát yêu một cái đã giận dỗi bỏ đi luôn là buồn

lắm đấy". Huề dơ cao gậy, đập mạnh làm con kỳ nhông văng xuống.

Phấn nhào theo đập lấy đập để. Huề xách vào, đưa lên lửa đốt, rồi

lột da, rửa sạch. Rồi xát muối, nướng lên vàng rộm. Con kỳ nhông

bé bằng nửa cổ tay được chia làm 4 cho 4 anh em. Dù sao, đó cũng

là chất đạm. Bác sĩ Phi đã từng nói: "Không kể con gì, cứ có chất

đạm là nên ăn để bồi dưỡng cơ thể!". ở căn cứ thiếu thốn, chúng tôi

đã tìm ra nhiều thứ thịt, trong đó thịt rắn, thịt kỳ nhông được liệt

vào hàng ngon nhất trong những sinh vật nhỏ dễ kiếm.

Bắt đầu những ngày mưa dầm. Trời lúc nào cũng có nước rơi

xuống, khi thưa, khi mau, khi bay nhè nhẹ, khi dội sầm sập. Cơ

quan đau ốm nhiều, phần lớn là cúm. Có lẽ đến 20 người phải nằm

rồi. ở nhà, tổ y tế chỉ có Thuý Ngân - cô y tá mới bên quân đội

chuyển sang. Cô bận túi bụi với công việc: xách thuốc đi các nhà

tiêm cho bệnh nhân, bưng cơm cho những bệnh nhân nặng, đun

nước xông cho một số bệnh nhân khác. Lúc nào người Ngân cũng

ướt lướt thướt. Bàn chân cô bị nước ăn bợt trắng. Chúng tôi bảo:

"Coi chừng y tá cũng gục đấy!". Cô cười: "Chừng nào đau hãy hay,

bây giờ phải làm vậy chứ biết sao?". Quả thật, chỉ mấy ngày sau là

Ngân bị cúm. May có bác sĩ Sâm mới về.

Trời mưa mãi, nước sông lên cao, không đi gùi cõng được. Gạo

nhà bếp sắp hết. Nhung và Sang phải xông pha xuống nước Y, bơi

qua sông, cõng về 2 cõng. Mưa ít ngày nữa, sẽ gay về lương thực.

Định đi vòng phía Trà Niêu, nhưng nước suối cũng lớn, không lội

được. Xông pha lắm, giỏi lắm cũng chỉ có thể lấy gạo từ kho đột

xuất về - mà kho ấy cũng chỉ còn 3, 4 cõng. Cơ quan không có lương

thực dự trữ, gay thật.

434

Một số bộ phận làm thêm hoặc sửa nhà ở. Chật chội quá, mưa

lép nhép, ai mà chịu nổi!

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội ngày 1/12/1972

Long yêu dấu!

Từ khi bố lên Bộ đại học công tác, sức khoẻ nói chung tốt hơn

trước tuy tuổi ngày càng cao, thấm thoắt đã sắp sang tuổi 57 rồi

đấy con ạ. Còn 2, 3 năm công tác nữa, bố đang cố gắng giúp Bộ tổng

kết kinh nghiệm dạy và học ngoại ngữ ở ngành đại học để tìm ra

phương hướng, biện pháp nâng cao chất lượng ngoại ngữ của toàn

ngành đại học lên một bước, đồng thời chuẩn bị cho miền Nam.

Cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật mới, lượng thông tin

khoa học thế giới rất lớn, nếu không có ngoại ngữ thì làm sao tiếp

thu nổi. Bố nghĩ đến con, chắc con không có đủ thì giờ mà học ít

nhất một ngoại ngữ. Giá con tranh thủ mà học một thứ tiếng ví dụ

như tiếng Anh hoặc tiếng Nga thì tốt. Bố đã biết 5 ngoại ngữ mà

thấy vẫn thiếu, có lẽ bố sẽ tự học thêm tiếng Tây Ban Nha nữa. Một

kết luận bố rút ra được sau 27 năm cách mạng là, trong bất cứ hoàn

cảnh nào, ở bất cứ vị trí nào, cần phải có một mơ ước và đem hết

tâm sức, với lòng say mê thực hiện, thì sẽ đạt được. Bố thường nghĩ

phải làm được cái gì phục vụ tốt cho cách mạng để khi về hưu, nhất

là khi về già, không có chút gì hối hận khi nhìn lại quãng đời cách

mạng đã đi.

Bố rất mừng với những thành tích con đã đạt được. Thành tích

tuy ở bước đầu nhưng rất tốt. Tuổi con còn trẻ, con còn sức để bay

cao nhiều hơn nữa. Con đã có ước mơ chính đáng và lòng say mê để

thực hiện. Bố tin rằng con sẽ đạt được ước mơ đó.

Tình hình gia đình mẹ con và em Ngọc đã nói rõ. Nói chung là

rất đáng phấn khởi về mọi mặt. Song còn vất vả trong hoàn cảnh sơ

tán do sự phản bội của bè lũ Níc Xơn đối với bản thoả hiệp đã được

ký kết, song các em con đã khôn lớn đã biết tự túc được về mặt đời

435

sống, nên cũng đỡ lo. Mẹ đã nói rõ về tình hình các em con. Thời

gian qua, cả gia đình sống vui vẻ, ở nhà mới, song hiện nay lại

chuẩn bị sơ tán đề phòng âm mưu thâm độc của Mỹ, Thiệu.

Mong thư này và ảnh chóng đến tay con, và rất mong thư của

con

Bố

Từ 19 đến 25/12/1972

Nghe tin máy bay Mỹ lại đánh phá phía Bắc miền Bắc - đặc

biệt dã man là chúng cho cả B.52 tập trung đánh ồ ạt có tính chất

huỷ diệt Hà Nội, Hải Phòng. Nhưng chúng đã bị quân và dân ta

trừng trị đích đáng: từ 18 đến 24-12, bắn rơi 53 máy bay, có 17 B52,

5 F.111, bắt sống nhiều giặc lái. Chúng tôi chăm chú nghe đài, theo

dõi tin và các bài tường thuật, xã luận, bình luận... Nghe những tin

này, chúng tôi đều thấy tràn lên đau xót, đồng thời thấy quá kinh

tởm kẻ thù, thấy vô cùng cảm phục đồng bào miền Bắc. Tôi nhớ đến

Hà Nội, nơi tôi đã được học hành suốt 10 năm phổ thông, đã từ đó

mà bước vào đời. Khi bọn địch tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại

thì tôi đang học lớp 10 - lúc ấy, cả trường lập tức bừng lên một khí

thế mới: thi đua học tập và xây dựng nếp sống quân sự hoá. Tôi nhớ

mãi những buổi tối chúng tôi tập hành quân: ba lô nho nhỏ, nhè

nhẹ sau lưng, cành lá nguỵ trang nối hàng hai hăm hở đi qua đường

Ô Chợ Dừa, đường Nam bộ, vòng mãi qua bệnh viện Bạch Mai,

vòng về Ngã Tư Sở. Đi trên đường bằng, cõng ba lô nhẹ, vậy mà

người vẫn đẫm mồ hôi và lòng rộn ràng lên với ý nghĩ rằng mình đã

bước đầu bước vào cuộc sống của người lính chiến. Tôi hiểu, không

bom đạn ác liệt nào có thể khuất phục được người Hà Nội. Khi một

viên đạn xuyên qua trái tim một con người, trái tim ấy ngừng đập

và cả cơ thể sẽ chết theo. Nhưng khi hàng trăm nghìn quả bom

xuyên vào trái tim của một Tổ quốc, thì trái tim ấy càng đập nhịp

nhàng, mãnh liệt, và Tổ quốc càng vươn lên với sức sống kỳ diệu.

Hà Nội là trái tim bất tử của Tổ quốc chúng tôi. Nghĩ đến Hà Nội là

nghĩ đến đau thương - không đau thương sao được khi hàng trăm

máy bay các loại đã và đang đánh phá huỷ diệt cả thiên nhiên và

con người ở đó -đồng thời, nghĩ đến thương yêu và tự hào, tự hào tới

436

mức có thể nghĩ rằng con người Hà Nội sinh ra là để chiến thắng kẻ

thù.

Kẻ thù ngoan cố và chúng ta quyết tâm chiến đấu đến cùng vì

độc lập, tự do! Chúng tôi sẵn sàng chiến đấu lâu dài và đang bước

đi với phong thái vừa hào hùng quyết liệt, vừa ung dung đĩnh đạc.

Trên mặt trận nghiệp vụ, chúng tôi vẫn tiến công: ra đều đặn bản

tin hàng ngày gửi về miền Bắc và phổ biến trong Khu bộ, làm hàng

chục bộ ảnh phát huy khí thế chiến thắng của quân và dân trong

miền. Tôi tìm tài liệu viết thêm bài, mẩu chuyện. Còn trong sinh

hoạt, chúng tôi cũng tiến công: kiến thiết lại nơi ăn ở cho đàng

hoàng, sạch sẽ, làm cho cuộc sống ở căn cứ thêm tươi tắn, lạc quan.

Hà Xuân Phong - hoạ sĩ - là người đầu tiên phát minh ra cách làm

bàn bằng rễ cây. ở rừng già, thật lắm rễ cây lạ: mỏng thôi nhưng to

như tấm phản. Chúng tôi làm theo Phong, chặt về một rễ cây lớn,

làm một cái bàn, hình từa tựa một con cá quẫy đuôi. Rồi đóng ghế

chí cha chí chát. Nhà cửa được lợp lại, che thêm bằng gỗ, vừa đẹp,

vừa kín. Chúng tôi lại còn lấy phong lan về treo quanh nhà. Trông

nơi ở thấy sáng sủa, đẹp đẽ thật đáng yêu.

Cùng dự buổi trao đổi về tình hình, nhiệm vụ với một số đồng

chí viết văn ở Ban và Quân khu. Anh Vương Linh nói rằng trước

tình hình này, trong lòng thấy tràn ngập cảm xúc và thấy phải viết,

viết để góp phần vào cuộc chiến đấu này. Anh làm thơ, thấy chưa

đủ, xoay qua viết văn. Tuỳ bút, bút ký viết chưa quen, xoay qua

viết nhật ký. Mấy ngày này anh viết 50 trang rồi, chưa biết tác

dụng ra sao, nhưng cứ viết ra đó, viết để thể hiện tấm lòng mình.

Tôi cũng có chung tình cảm như thế. Có điều viết gì, viết như thế

nào quả là một việc hắc búa. Phải suy nghĩ nhiều, đầu tư trí tuệ vào

đó thật nhiều!

THƯ GỬI NGÂN

Ngày 20.12.1972

437

Ngân thân mến!

Tuy không nhận được thư em viết về, anh vẫn viết thư cho em

đây. Lẽ ra, người đi phải viết về trước mới phải. Đừng nên im lặng

như thế em nhé.

Thật đáng tiếc, hôm em ra đi, chúng ta không một lời chào

nhau. Sáng hôm ấy, anh lên nhà, lấy sẵn ảnh mà em thích, chờ em

lên sẽ đưa. Nhưng chờ mãi không thấy, anh xuống tìm em thì em

đã đi rồi. Có lẽ, em vội theo cho kịp mấy anh cõng gạo phải không?

Ngân ơi, anh và em biết nhau chưa lâu, sống với nhau chưa

nhiều, nhưng những giây phút hiếm hoi sống bên nhau đã để lại

trong anh những kỷ niệm dịu êm và trong sáng. Những nét hồn

nhiên, tươi tắn và tác phong làm việc cần cù, tận tuỵ của em làm

anh rất mến. Anh nhớ mãi những hôm trời mưa dầm dề, em chạy

hết nhà này đến nhà khác chăm sóc bệnh nhân, người ướt lướt

thướt mà đôi môi vẫn nở nụ cười hồng tươi. Anh nhớ mãi những câu

chuyện em nói về gia đình, về sự tan nát của gia đình em do quân

thù gây ra, về những nỗi vất vả mà em đã vượt qua. Em thân yêu ạ,

chính những điều ấy đã đưa em lại gần anh rất nhiều, làm cho anh

bỗng cảm thấy rằng anh hiểu biết em đã lâu rồi, đã thân thiết với

em từ lâu rồi. Không biết em nghĩ thế nào về mối quan hệ ấy?

Ngân ạ, anh rất tiếc là chúng ta không được tiếp tục sống gần

nhau. Tuy nhiên, anh nghĩ rằng, không phải chỉ khi sống bên nhau,

người ta mới thực sự gần nhau, nhiều khi, sống xa nhau hàng vạn

dặm, người ta vẫn thấy gần gũi nhau, nếu như người ta luôn nghĩ đến

nhau. Em có nghĩ như thế không? Mong rằng, anh và em sẽ tiếp tục

liên hệ thường xuyên với nhau qua thư từ và cả hai đều hy vọng ở

ngày gặp lại. Anh luôn nghĩ đến em. Em thân yêu của anh ơi, nói

riêng với em điều này, em đừng cười anh nhé: nhớ em, nhớ em, nhớ

em biết mấy! Ngồi trên võng, bên bếp lửa hồng, anh nhớ buổi tối hôm

nào em ngồi nói chuyện bên anh trong ánh lửa bập bùng và lại thấy

ngọn lửa lung linh như ánh mắt em nhìn lưu luyến...

Hôm nay, anh làm một điều trái với lời em dặn: gửi ảnh tới chứ

không chờ gặp mới đưa ảnh cho em. Mong em vui lòng. Em nói rằng

khi gặp hãy đưa ảnh, ở đây anh lại gửi ảnh lên, thì chúng ta cứ coi

như được gặp nhau, em nhé! Anh không hài lòng về những tấm ảnh

438

anh chụp - nó chưa phản ánh trung thực những nét xinh tươi của

người đứng trước ống kính. Nhưng thôi, cứ tạm giữ lấy làm kỷ niệm

nghe em. Hẹn một ngày nào đó, chúng ta sẽ có những tấm ảnh thật

đẹp, thật vừa ý. Số ảnh chụp lần này, anh mới phóng mỗi thứ một

tấm, gửi em xem thử, nếu thích thì viết thư nói anh phóng thêm,

em có thích phóng to gấp đôi loại này không? Có 2 kiểu anh thích,

anh gửi lên 4 ảnh, em giữ 2, còn 2, em viết vào đó những chữ lưu

niệm rồi gửi lại cho anh nhé. Nhớ viết thư và gửi ảnh về đấy. Sau

khi gửi thư đi là anh đã mong thư em về rồi (chẳng khác nào mong

gặp em vậy).

Em thân thương, hôm em đi chắc vất vả lắm nhỉ. Ngồi nhà

nhìn trời mưa mãi, biết nước suốt rất lớn, anh thật lo ngại cho em.

Mãi đến khi gặp anh Hồng Anh, biết em đã tới nơi, anh mới yên

lòng. Đến nơi, đã bắt tay vào công việc chưa em? Mong em mau

chóng hoà mình vào tập thể mới, công tác và phấn đấu tốt, luôn

sống vui khoẻ. Theo anh biết, ở bên ấy đỡ bận rộn hơn ở Ban. Nếu

em tranh thủ thời gian học thêm văn hoá thì tốt, nếu không, cũng

nên chăm đọc sách, báo. Sách, báo sẽ giúp người ta mở rộng tầm

hiểu biết của mình và đem lại cho người ta những tình cảm tốt đẹp.

Anh cũng vậy, luôn tranh thủ thời gian để đọc sách, càng đọc càng

thấy mình dốt và càng muốn đọc nhiều hơn nữa.

Ở gia đình anh, mọi công việc vẫn tiến hành nhịp nhàng và sôi

nổi. Anh Đảo, Phấn và anh vẫn khoẻ. Anh Huề đang sốt. Các anh

ấy luôn nhắc đến em với mối thiện cảm đặc biệt.

Còn lá thư em gửi ra Bắc, anh đã nhờ người chuyển đi. Chắc nó

sẽ đến tay ba em.

Thôi nhé, chúc em khoẻ, công tác tốt.

Mong thư em,

Thân thương.

Ngày 24 tháng 12 năm 1972

Em nhớ thương!

439

Anh mới viết thư cho em, chưa kịp gửi thư đi thì nhận được thư

em. Vui lắm em ạ. Anh vội bóc ra đọc ngay, rồi đọc đi đọc lại mãi,

cảm thấy như đang nói chuyện với em vậy. Anh viết tiếp lá này gửi

kèm với lá cũ, em chịu khó đọc nhé!

Ở gia đình Thông tấn của anh hồi này khá vui. Mấy hôm nay

trời nắng rực rỡ, con người cũng thấy thoải mái hơn nhiều. Bọn anh

dẹp việc chuyên môn, xúm vào sửa nhà. Nếu em đến chơi, sẽ thấy

nhà bọn anh khác nhiều: sáng sủa ra, có bàn ghế xinh xắn, ngồi

khá thoải mái. Còn tối tối, mấy anh em lại quây quần bên bếp lửa

mà trò chuyện. Vẫn ấm cúng lắm em ạ. Chỉ có điều, anh cảm thấy

hơi trống trải đi, vì thiếu em đấy! Từ khi em vắng nhà, anh vẫn để

phần cho em đầy đủ: niềm vui và cả những gì đầm ấm nhất của

tình cảm. Không khi nào anh muốn em buồn. Anh nhận thấy em ít

dấu được tình cảm, có gì buồn là lộ ra trên nét mặt, ai cũng biết.

Đừng nên buồn em nhé. Em nên tin rằng, phía trước cuộc đời em là

cả một bầu trời trong sáng và hạnh phúc. Em thân thương ạ, anh

rất thông cảm với hoàn cảnh gia đình em, ai chẳng thấy cô đơn khi

đã mồ côi cha mẹ, lại không còn anh em? Nhưng hoàn cảnh bắt

buộc vậy, biết làm sao khác được? Chỉ còn cách lấy công tác làm vui

và lấy tình cảm đồng chí, bè bạn làm tình gia đình. So với em, cuộc

sống của anh êm ấm hơn nhiều: còn đầy đủ bố, mẹ, anh em. Anh

mới nhận được thư và ảnh gia đình, cả nhà đều khoẻ mạnh, vui vẻ.

(Khi nào gặp, anh đưa em xem). Giá như anh san sẻ được phần nào

sự ấm cúng của gia đình ấy cho em nhỉ!

Anh muốn gửi cho em nhiều sách để em đọc, nhưng khó kiếm

quá. Sách của Văn nghệ có, nhưng chỉ mượn đọc tại chỗ được thôi,

xong phải trả ngay. Anh chỉ có mỗi cuốn sách nhỏ này (Văn nghệ

giải phóng), không hay lắm, gửi em xem tạm. Em giữ lấy nó làm kỷ

niệm vì trong đó có một truyện ngắn anh viết về một chuyện ở quê

hương em. Sau này, nếu tìm được sách, anh sẽ gửi tiếp cho em.

Ngân thân mến! Đọc thư em, các anh ở nhà đều vui. Vì bận

quá, các anh ấy không viết thư thăm em được, bảo anh viết thay.

Anh Huề khỏi sốt rồi. Anh Đảo, Phấn khoẻ lắm, vi khuẩn cúm sợ

không dám đến làm thân. Anh thì vẫn vậy, gầy nhưng không đau

ốm gì, ăn ngủ điều hoà.

440

Bây giờ đã gần 11 giờ khuya rồi, anh dừng bút nhé. Chúc em ngủ

ngon. Có thể trong giấc mơ anh sẽ gặp em đấy, em thương yêu ạ.

Anh rất mong thư em. Có anh Nhị đi cõng sẵn qua, em tranh

thủ viết gửi anh ấy đem về cho anh là tốt nhất. Như thế là chiều em

nhận thư, thì tối em phải viết rồi, để sáng gửi cho kịp. Chịu khó em

nhé.

Anh của em

Ngày 27/12/1972

Nghe tin đêm 26-12, giặc Mỹ cho máy bay B.52 ném bom huỷ

diệt phố Khâm Thiên. Trong lòng lại nhói đau. Nơi ấy, biết bao

thân thiết: nơi tôi thường đi xe đạp qua trên đường từ nhà tới Bờ

Hồ, nơi tôi đã tập hành quân nhiều tối. Nơi ấy rất đông vui, sầm

uất, nhà cửa san sát. Đánh vào đó, giặc Mỹ đã giết bao nhiêu đồng

bào của tôi? Vậy mà chúng xoen xoét chối cãi, nói rằng chỉ đánh vào

mục tiêu quân sự. Ai có thể tin lời chúng được? Trừng trị chúng,

quân và dân Hà Nội đã bắn rơi 5 máy bay B.52!

441

Năm 1973

Chủ nhật 1/1/1973

Năm nay bắt đầu bằng một ngày trời trong xanh, nắng rực rỡ

và lại hơi lạnh. Đến đêm, trời hơi mưa lắc rắc.

Từ 2 đến 15/1/1973

Nghe tin Mỹ đã buộc phải ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra

và lại nối tiếp các cuộc mật đàm với ta. Rõ ràng bọn chúng đã bị

thất bại nặng nề. Khả năng một vẫn còn.

Ngày 16/1/1973

Theo tin tham khảo, Mỹ đã phải tuyên bố chấm dứt đánh phá

miền Bắc. Chúng tôi vui, một niềm vui nao nao khó tả. Nó không

sôi động, náo nức vì đây chưa phải là tin phổ biến chính thức, mà

nó trầm trầm, sâu lắng bên trong. Buổi sáng, vui đến mức không

muốn ăn cơm.

Chúng tôi ráo riết chuẩn bị để làm việc tốt khi khả năng một

xảy ra. Bộ phận ảnh phóng nhiều bộ ảnh cỡ lớn để triển lãm.

Anh Phi (Phó ban), Hoài Nam (Tuyên truyền) và Lợi (đánh

máy) đã vào thường trực ở Thường vụ Z11.

THƯ GIA ĐÌNH

Phạm Đức Hoá

Long yêu dấu

Chắc con nóng lòng mong tin của bố mẹ và các em. Bố vừa ở nơi

sơ tán về, vội biên mấy dòng để con yên tâm. Qua 11 ngày giặc Mỹ

điên cuồng oanh tạc miền Bắc, đặc biệt là Hà Nội, Hải Phòng, gia

442

đình ta đều bình yên cả. Hôm 2/1/1973, mẹ và các em lại tiếp tục sơ

tán ở Mỹ Hào, Hải Hưng, đề phòng giặc Mỹ tráo trở. Còn bố về Hà

Nội vài ngày, xong lại đi sơ tán theo cơ quan Bộ. Gia đình cô Chung

vẫn bình yên và ở nơi sơ tán. Các bà về ăn cưới các em Phúc +

Thành đã về Hà Giang cuối 11/1972 và gia đình trên ấy vẫn được

bình yên.

Hà Nội tuy bị oanh tạc, nhân dân tuy bị thương vong, song vẫn

hiên ngang sau chiến thắng vĩ đại. Gia đình lại mới nhận được thư

và ảnh của con đề tháng 10/1972. Gia đình rất phấn khởi, chỉ tiếc

không được gặp Hoàng Trà, bạn của con, vì gia đình đi sơ tán cả.

Gia đình ta đã dọn về phòng mới ở Kim Liên, sum họp được 2

tháng thì sơ tán.

Bố mẹ, anh Đức và các em vẫn được khoẻ mạnh. Còn em Ngọc

thì đến 5/1/1973 vào năm thứ nhất trường Đại học Sư phạm ngoại

ngữ ở nơi sơ tán. Em học tiếng Anh đủ 3 năm (lớp năng khiếu tiếng

Anh) và nay tiếp tục học. Nhẽ ra em đi học ở Liên Xô, song gia đình

đã có 2 anh đi nước ngoài rồi nên phải nhường cho các bạn.

Bố gửi cho con mấy tấm ảnh do em Phúc chụp và rửa để con

làm kỷ niệm.

Bố đang vội giải quyết một số việc nên viết thư ngắn. Chúc con

mạnh khoẻ, dũng cảm nhận thêm nhiệm vụ cách mạng.

Thân yêu

Bố

Phạm Đức Hoá

Ngày 24/1/1973

Đài Phương Tây đưa tin trưa nay Nixơn sẽ đọc một bài diễn

văn về Việt Nam. Chúng tôi đều bảo nhau chú ý nghe đài TNVN vì

có thể sẽ có nhiều tin quan trọng.

443

Quả vậy, 10 giờ rưỡi, buổi thời sự đã đọc một bản thông cáo của

Bộ Ngoại giao nước ta nói rằng Mỹ và ta đã ký tắt Hiệp định chấm

dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam.

Tối, cơ quan họp. Anh Nhớ - Phó Ban - nói lại thông báo trên và

cho biết cơ bản thì bản Hiệp định này vẫn như bản Hiệp định thảo

ra hồi tháng 10.

Nửa đêm, đài công bố Hiệp định và 4 Nghị định thư kèm theo.

Chúng tôi nằm trên võng, bên bếp lửa lắng nghe và bàn tán sôi nổi.

Các văn kiện nói lên rất rõ sự thất bại của Mỹ, Thiệu. Nghị định

thư về việc Mỹ tháo gỡ mìn ở các hải cảng, sông ngòi làm chúng tôi

thật thú vị.

Chúng tôi chụp chung với nhau một tấm ảnh ngồi bên bếp lửa.

Ngày 25/1/1973

Huề lên đường đi Bình Định - ở đó có một địa điểm trao trả tù

binh hai bên.

Tôi nóng lòng sốt ruột muốn lao ngay xuống địa phương để

được cùng đồng bào đón ngày đại thắng. Thật gay, nhà chỉ còn tôi

và anh Đảo làm tin, biên tập, không thể đi được.

Tôi xuống chỗ hội nghị của Khu để gặp đại biểu một số tỉnh lấy

phát biểu cảm tưởng của họ trước tình hình mới.

Ngày 27/1/1973

Hôm nay, Hiệp định Pari về Việt Nam đã được ký kết. Chỉ sáng

mai thôi, hoà bình, niềm ước vọng tự ngàn đời của dân tộc Việt

Nam, sẽ đến với Tổ quốc thân yêu của chúng ta.

Nhận được tin địch lấn chiếm vùng giải phóng, ta chặn đánh

quyết liệt, đồng thời tấn công chiếm thêm một số vùng. Đêm, súng

nổ rền vang khắp nơi. Chỉ mấy tiếng nữa thôi là hoà bình đến.

Nhưng các chiến sĩ của chúng ta vẫn chiến đấu ngoan cường, vẫn

444

hy sinh. Tôi nghĩ, cái chết lúc này đắt giá gấp mấy cái chết những

lúc trước.

Ngày 28/1/1973

Ngày hoà bình đầu tiên.

Sáng sớm, mưa lắc rắc, trời lành lạnh.

Nghe anh Tường giải thích về hiệp định và anh Năm chúc Tết

(Anh Năm Công, tức Võ Chí Công, là Bí Thư Khu Uỷ). Anh Năm

cười vui vẻ nhưng nói rất rắn rỏi, biểu hiện niềm sung sướng, tự

hào nhưng rất quyết tâm, cảnh giác. Cuộc chiến đấu sắp tới sẽ hết

sức gay go, phức tạp.

Buổi chiều, trời lại hửng nắng. Tôi và hai Cường ra nước Y.

Dòng suối vẫn chảy đều đều và reo róc rách. Những tia nắng xuyên

qua những bông lau làm chúng óng lên, mỡ màng. Không còn nghe

tiếng máy bay chiến đấu, chỉ có tiếng máy bay vận tải nặng nề.

Nằm trên đá ngắm thiên nhiên, lại nhớ Hà Nội, nhớ gia đình da

diết. Ôi, mới ngày nào, nghĩ đến hoà bình còn thấy xa vời quá. Vậy

mà nó đã đến, đến thực sự rồi. Nghĩ lại cứ thấy ngỡ ngàng như vừa

ngủ mơ xong! Tuy nhiên, cho tới nay, tôi vẫn hiểu rằng ngày về

thăm nhà (thăm thôi) vẫn còn xa xôi lắm! Biết bao công việc đã bầy

ra trước mắt. Không thể vắng mặt trong cuộc chiến đấu mới này.

Gặp đoàn cán bộ tập trung để đi Quảng Ngãi phục vụ việc trao

trả tù binh. ở đây có Xuyến, y sĩ ở bệnh viện một. Cô người Phú Thọ

nhưng sống ở Hà Nội từ nhỏ. Cô gái 22 tuổi ấy có vóc người khoẻ

mạnh, có tác phong mạnh bạo. Lần này là lần thứ 3 tôi gặp và nói

chuyện với Xuyến. Buổi tối, cùng ngồi xem phim với Xuyến, nói

chuyện nhiều. Tất nhiên, chỉ nghe tiếng nói nhẹ nhàng, thanh

thoát của con gái Hà Nội thôi, cũng đủ thấy ấm áp và êm dịu rồi.

Cô gái này có những nét độc đáo: đối với một số người thì rất bướng

bỉnh, với một số khác lại rất tình cảm; yêu nhạc, thích thể thao và

tâm hồn cũng khá lãng mạn.

Ngày 29/1/1973

Sáng sớm Xuyến đã đi. Không kịp bắt tay tạm biệt Xuyến.

445

Trời rực nắng một chút rồi lại u ám.

Về nhà. Anh Đảo đang cúm, nằm trong võng, phủ bọc kín mít.

Tin để ùn lại, tôi cầm cả tập. Nổi bật là tin Mỹ nguỵ vi phạm Hiệp

định.

Đang ăn dở cơm thì phải chạy xuống nghe điện thoại. Đỗ Phú

hổn hển đọc tin: lại tin vi phạm Hiệp định. Tôi không hài lòng lắm

vì tin viết lộn xộn, không có những chi tiết tốt. Tôi nhắc Phú nhớ

khai thác kỹ điện: tố cáo thằng địch phải có bằng chứng cụ thể, do

vậy tin phải hết sức chi tiết, rõ ràng.

Mưa nặng hạt. Lạnh.

Vừa biên tập tin, tôi vừa khai thác các tài liệu ghi chép được

trong chuyến đi Bình Định vừa qua, viết một số bài, mẩu chuyện.

Bài viết sau đây vừa đăng ở báo Cờ giải phóng Khu Năm, vừa đăng

ở Bản tin Đấu tranh thống nhất:

Lớn lên với sức sống mùa xuân

Hà Nội (VNTTX 29-1-1973). Từ sau ngày tết Nhâm Tý, Hoài

Ân đi vào mùa xuân với nhịp điệu thật sôi nổi, rộn rịp ở khắp các

thôn ấp. Bà con học tập, thảo luận về tình hình, nhiệm vụ, tổ chức

đội ngũ, sẵn sàng nổi dậy. ở các khu dồn dân, bà con đấu tranh buộc

địch để đồng bào về làng sản xuất. Bằng mọi cách, bà con chuyển

dần tài sản về quê hương, nơi vườn xưa, ruộng cũ. Dần dần, những

vùng đất trắng đã trở lại màu xanh và đây đó mọc lên những ngôi

nhà nho nhỏ, xinh xinh.

Đến tháng 4-72, phong trào tấn công và nổi dậy đã bùng lên,

đem lại những thay đổi lớn nhất. Quân và dân Hoài Ân giành toàn

bộ chính quyền về tay mình. Từ các khu dồn dân, đồng bào trở về

làng cũ tổ chức lại đời sống, xây dựng thôn xã chiến đấu. Chỉ trong

thời gian ngắn, đồng bào đã đẩy lùi cảnh đen tối, hoang vu do Mỹ

Nguỵ gây ra. Suốt từ Ân Hoà, Ân Hảo đến Kim Sơn, Ân Nghĩa, đâu

đâu cũng thấy dựng nhà, khai hoang, trồng tỉa tấp nập. Bà con thi

446

đua sản xuất, đào hầm hào tránh phi pháo, lập làng chiến đấu nhộn

nhịp.

Giữa những ngày ấy, Mỹ Nguỵ lại điên cuồng pháo kích, hòng

chiếm lại Hoài Ân. Chúng gây thêm tội ác mới bằng máy bay B.52,

bằng những cuộc càn quét. Nhưng quân địch dù hung hãn, cũng

không thay đổi được tình thế. Đồng bào Hoài Ân càng thêm dày

dạn, càng đứng vững trên quê hương giải phóng, giáng cho chúng

những đòn quyết liệt.

Ở mũi nhọn của cuộc chiến đấu, lực lượng vũ trang Giải phóng

huyện không ngừng lớn mạnh, đã lập nhiều thành tích vẻ vang.

Mùa xuân năm ngoái, đội pháo binh gái của huyện chỉ có ít cô gái

trẻ và một khẩu cối 50 ly. Hồi ấy, các cô mới làm quen với súng, lấy

tầm chỉnh hướng còn ngượng ngùng, lúng túng. Hiện nay, đội đã

trưởng thành vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng. Trừng trị bọn

địch lấn chiếm vùng giải phóng, đội bám sát bãi đổ quân của chúng,

rót những quả đạn chính xác, diệt 20 tên, phối hợp với các đơn vị

bạn đánh tan 10 đợt phản kích của địch, diệt gần hết một tiểu đoàn

nguỵ, bắn cháy 10 xe tăng. Các đơn vị vũ trang Giải phóng khác

đều lập nên những chiến công chói lọi, và những tên gọi quen thuộc

của Hoài Ân như Du Tự, Cầu Bến, Phú Vân, Thế Thạnh... đã trở

thành mồ chôn xác giặc.

Vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa phục vụ bộ đội Giải phóng,

đồng bào Hoài Ân đã góp phần to lớn vào công cuộc bảo vệ và xây

dựng quê hương. Đồng bào tổ chức đổi công và bước vào chiến dịch

sản xuất Đông xuân sôi nổi.

Các chiến sĩ du kích vác súng lên đồi cao sẵn sàng đánh địch

bảo vệ đồng bào sản xuất.

Những tấm gương sáng về tinh thần tấn công địch đua nở như

hoa mùa xuân. Chị Mười, khi quê hương mới giải phóng, còn bỡ ngỡ

với công việc, nhưng chỉ sau một thời gian đã cùng đồng bào và du

kích đánh bại 5 đợt phản kích điên cuồng của địch, giữ vững quê

hương giải phóng. Hai vợ chồng cụ Năm mặc dù địch đốt nhà,

447

khủng bố, vẫn bám trụ ở vùng sát nách địch, theo dõi hoạt động của

chúng báo cho bộ đội, du kích.

Cùng với những người cha, người mẹ anh dũng, những chiến sĩ

giải phóng kiên cường, lớp lớp thanh niên Hoài Ân, mang nặng mối

thù nhà, đã hăng hái lên đường tòng quân để bảo vệ quê hương,

làng xóm.

Xuân Quý Sửu đang tới, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh,

lập lại hoà bình đã được ký kết, nhưng nhân dân Hoài Ân vẫn cảnh

giác với hành động lật lọng của địch. Năm ngoái, đồng bào và chiến

sĩ Hoài Ân lấy hoa mai trang trí cho buổi lễ xuất quân. Đầu xuân

này, những người cha, người mẹ, những chiến sĩ du kích, bộ đội địa

phương, lớp lớp nam nữ thanh niên anh dũng kiên cường lại đem

những cành mai nở rộ đem cắm trên những chiến hào chiến thắng.

Việt Long

(Thông tấn xã Giải phóng)

Ngày 30/1/1973

Nhận được điện của anh Đỗ Phượng ngoài VNTTX báo tin gia

đình bình an, mạnh khoẻ sau những trận B.52 dữ dội vừa qua. Đây

là món quà đầu năm quý báu nhất. Vô cùng biết ơn cơ quan trước

sự quan tâm chu đáo ấy.

Ngày 31/1/1973

Nhận được tin: đi theo đoàn Liên hiệp quân sự 4 bên làm tin,

ảnh, đóng vai sĩ quan. Chưa biết cụ thể ra sao.

Ngày 1/2/1973

Chạy nháo khắp nơi để liên hệ về việc đi công tác. Mệt bã ra,

không muốn ăn uống gì cả.

448

Gặp Như Cảnh - thiếu tá - anh quen tôi từ trước và chuyến này

cùng đi trong đoàn Liên hiệp quân sự 4 bên vào Đà Nẵng. Vui quá.

Anh cho biết: sẽ chuyển qua sinh hoạt quân đội - trang bị cũng vậy.

Sáng mai sẽ đi Trà Mi - có máy bay lên thẳng đón ở đó.

Các anh lãnh đạo căn dặn khá nhiều. Vinh dự lớn lao, trách

nhiệm nặng nề - tôi sẽ cố gắng hết sức mình để hoàn thành nhiệm

vụ.

Trời xám xì mầu xi măng.

Ngày 2 đến 10/2/1973

Những ngày chờ đợi sốt ruột. Nằm ở gần sân bay mà đón Tết,

một cái Tết long đong, nghèo về vật chất mà háo hức. Đêm 30, ngồi

trên võng, dưới những lùm chuối, đón giao thừa. Bắt đầu từ ngày

một, sáng nào cũng ba lô gọn gàng chờ ra sân bay mà hụt mãi. Cơm

thì chỉ có rau với mắm.

Trong những ngày rỗi rãi này, có dịp ngồi suy nghĩ về những

niềm riêng. Giữa những ngày xuân này, tôi có bước ngoặt khá lớn:

bước vào một tình yêu! Thuý Ngân đã trở thành người yêu của tôi.

Nghĩ lại mối quan hệ giữa hai đứa, cũng có nhiều cái lạ: hình như

chẳng có khi nào tán tỉnh, tấn công lẫn nhau, như nhiều đôi trai gái

khác, mà chỉ phát triển dần dần từ sự thông cảm lẫn nhau thành

tình yêu. Cũng như nhiều cô gái miền Nam khác, Ngân không có

được niềm hạnh phúc gia đình toàn vẹn và phải vất vả từ nhỏ. Má

chết sớm, ba bị bom đạn Mỹ giết hại, Ngân chỉ còn ba nuôi hiện

đang ở miền Bắc. Thoát ly địa phương từ 15, 16 tuổi, Ngân đã lớn

lên với cuộc sống đầy gian khổ ở căn cứ. Khi ở quân đội chuyển qua,

Ngân làm y tá ở cơ quan này và tỏ ra rất siêng năng, tận tâm với

công tác. Trong những ngày mưa, thấy Ngân chạy hết nhà này đến

nhà khác chăm sóc anh em đau, người ướt lướt thướt, tôi thấy

thương cô bé quá. Ngân thỉnh thoảng cũng lên chỗ tôi chơi. Cô rất

mến anh em trong bộ phận này và cũng được anh em rất mến.

Ngân hay kể chuyện về gia đình, về người cha nuôi nghiêm khắc, về

những năm tháng gian truân bên quân đội. Ngoài những lúc

chuyện trò chung với anh em khác trong nhà, tôi và Ngân rất ít khi

449

nói chuyện riêng với nhau. Vậy mà thấy có cảm tình với nhau đặc

biệt. Rồi Ngân chuyển về Xưởng phim. Xa, thấy nhớ lạ lùng. Trong

những lá thư gửi Ngân, tôi cũng chẳng rào đón, giấu giếm gì tình

cảm đặc biệt của mình với Ngân.

Mãi tới gần Tết chúng tôi mới lại được gặp nhau. Khi ấy, tôi

sắp lên đường công tác. Ngân cuống quýt lên khi biết tin ấy. Nhưng

chúng tôi không có thời giờ để nói chuyện riêng với nhau - tôi phải

giải quyết gấp nhiều công việc, mà thời gian thì quá ít. Khi chia tay

nhau, Ngân đưa tôi một lá thư và một chiếc khăn tay. Trong thư,

Ngân đã đáp lại tình cảm của tôi bằng tình cảm thật đằm thắm, sôi

nổi. Ôi, giá như chúng tôi được ngồi chuyện trò với nhau trong ít

chục phút thì hạnh phúc biết mấy. Vậy mà không được, cuộc sống

khắc nghiệt quá.

Chính trong những ngày này, khu V chúng tôi lại diễn ra cuộc

đấu tranh quyết liệt với kẻ địch. Chỉ sau khi Hiệp định Pari về Việt

Nam có hiệu lực 3 ngày, địch dã giở mặt, lấn chiếm vùng giải

phóng. Ta phải chống lấn chiếm. Địch nống ra vùng giải phóng. Ta

tổ chức nhiều mũi nhọn thọc sâu vào các thị trấn, thành phố tạm

thời dưới quyền kiểm soát của chúng, làm cho hậu cứ của địch mất

ổn định. Khẩu hiệu của chúng ta là Một tấc đất, một tấc vàng - Một

góc gíang san, một dòng máu đỏ, quyết giữ các chốt điểm, nơi cắm

cờ Mặt trận dân tộc giải phóng. Chiến sự diễn ra phức tạp và ác

liệt. Địch đã chiếm được chốt điểm Bàn Tân - Lâm Phụng trên

tuyến đường 14 của ta, nằm trên vùng đất Đại Lộc. Chiến sự tiếp

tục ác liệt. Mười ngày sau, chúng chiếm chốt điểm trên đồi Dương

Thông thuộc huyện Duy Xuyên.

Ngày 11/2/1973

Được thông báo trước, anh em vệ binh đem vải trắng ra sân bay

làm dấu hiệu cho máy bay xuống: căng thành một hình chữ thập,

mỗi chiều dài 30 mét. Hôm nay, máy bay lên thẳng Mỹ sẽ đưa anh

Diễm, sĩ quan liên lạc của đoàn đại biểu quân sự của Chính phủ

Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền nam Việt Nam trong ban Liên

hợp quân sự 4 bên ở Trung ương đến.

450

12 giờ 45 phút, có tiếng động cơ phành phạch, lượn rất thấp. Vì

ở xa, khuất cây, chúng tôi không nhìn thấy máy bay. Tiếng động cơ

cứ nổ rền vang mãi. Khoảng 10 phút sau thì nhỏ dần và tắt hẳn.

Ngoài sân bay gọi điện thoại vào cho biết: chúng chỉ đưa anh Diễm

xuống, hẹn ngày 12 sẽ đến đón anh Diễm và ngày 13 tới đón cả

đoàn đi.

Mãi vẫn không nghe tiếng máy bay cất cánh. Anh Dũng nói:

"Hơn nửa giờ rồi, bọn này ở lâu hè, thiện chí hè". Anh cười, nói

thêm: "Bọn nó thường chỉ xuống bắt tay mình rồi xin lỗi, đi luôn,

đâu có dám ngồi lâu nói chuyện với mình?"

Gần 2 giờ sau, anh Diễm đến. Anh xách một cái túi du lịch nhỏ,

đi giày đen, mặc bộ quân phục bay bằng vải K.T khá đẹp. Anh em

xúm lại thăm hỏi anh. Anh cho biết bọn Mỹ, nguỵ lái máy bay rất

sợ hãi khi phải bay vào vùng giải phóng. Trước khi đi, chúng đòi

anh ký vào biên bản bảo đảm an toàn cho chuyến bay. Anh không

chịu ký, với lý do: "Tôi đi từ Sài Gòn ra đây, đi trong vùng các ông

kiểm soát rất nhiều mà có cần các ông viết giấy bảo đảm đâu?". Bọn

chúng đùn nhau, không thằng nào chịu lái đi. Có lẽ chúng không

muốn là kẻ chết cuối cùng của cuộc chiến tranh này.

Khi bay, chúng luôn giở bản đồ chỉ đường bay cho anh Diễm

xem và hỏi: "Liệu phía các anh có bắn lên không?". Anh Diễm trả

lời: "Tôi cùng ngồi trên máy bay nên cũng không trả lời chắc chắn

cho các anh được. Nhưng lực lượng vũ trang của chúng tôi rất tôn

trọng Hiệp định".

Tới sân bay, chỉ một chiếc hạ cánh, còn một chiếc chỉ quần lượn

quanh sân bay. Các sĩ quan liên lạc Mỹ, Sài Gòn, cả phi công, đều

vội vàng bắt tay, chào ta rồi lên máy bay đi, không vào nhà uống

nước.

Anh Diễm cho biết, khi từ Lộc Ninh vào Tân Sơn Nhất, anh và

đồng chí trưởng đoàn vừa xuống khỏi máy bay, liền bị bọn quân

cảnh vây quanh. Chúng nhìn chòng chọc vào mặt và chụp ảnh lia

lịa, chụp từ đầu tới chân. Phải phớt lờ, coi như không có chúng.

451

Anh em tiếp tục nghiên cứu Hiệp định và các Nghị định thư,

đồng thời bàn kỹ phương án đấu tranh với đối phương.

Ngày 13/2/1973

Máy bay đến chở anh Diễm về.

Sân bay của ta có 2 cột cờ cắm cờ cách mạng miền Nam Việt

Nam và cờ hoà bình. Nhà tiếp khách lợp tranh nhưng trang trí

cũng khá đẹp mắt.

12 giờ 50 phút, có tiếng máy bay từ hướng Đông. Sau đó, xuất

hiện 2 chiếc bay khá thấp. Anh em vệ binh ném một quả mù, toả

khói vàng mù mịt. Vẫn như hôm qua, chỉ một máy bay hạ cánh, còn

một chiếc quần lượn quanh sân bay. Các sĩ quan và phiên dịch Mỹ,

Sài Gòn bước xuống, chụp ảnh lia lịa. Một phiên dịch Sài Gòn mượn

cái mũ cứng của anh phiên dịch ta, có gắn quân hiệu Sao vàng trên

nền xanh đỏ, để đội vào chụp ảnh kỷ niệm. Lần này thì họ vào nhà

tiếp khách trong khi phi công vẫn ở máy bay và máy bay vẫn nổ

máy.

Ta tiếp đón cũng khá lịch sự. Mọi người đều bắt tay nhau, cười

vui vẻ. Sĩ quan liên lạc Mỹ là đại uý Đanien, người không cao to

lắm, tóc mềm, màu hung, da đỏ hồng, hay cười. Còn sĩ quan liên lạc

Sài Gòn là đại uý Lộc, người nhỏ bé - anh ta có một cái máy ảnh

nhỏ, chụp rất nhiều. Phía ta, có anh Diễm và anh Thanh, thiếu tá.

Bia, kẹo, thuốc bày ra nhiều nhưng dùng ít. Trong tiếng máy bay

rền vang, câu chuyện tiếp diễn khá khó khăn và vội vã. Cuối cùng,

đã giải quyết chớp nhoáng mấy vấn đề:

- Trao đổi tần số, giờ liên lạc máy PRC 25.

- Đồng ý để anh Thanh và Hanh (phiên dịch) vào Đà Nẵng

trước, bàn về chỗ ăn ở. (Điều này tưởng sẽ khó khăn nhưng lại khá

dễ dàng được giải quyết).

- Đanien hẹn sáng mai, 8 giờ, sẽ đưa máy bay đón đoàn đi (nếu

ta đồng ý). Mỗi chuyến 3 chiếc - cứ 2 giờ 45 phút một chuyến. Chở

452

đến hết thì thôi và Đanien sẽ ở lại sân bay điều khiển việc lên

xuống máy bay.

Anh em đem thuốc và bia ra cho phi công Mỹ - 3 đứa. Lái chính

là một tên khá già, ria mép màu hung, rậm, dài, người cao to sù sụ.

Hai tên kia còn rất trẻ, cao nhưng không to lắm. Chúng uống bia,

hút thuốc và cám ơn ta. Anh Kháng đưa một bao Thăng Long cho

một tên, nó đưa lại một bao thuốc Mỹ và nói: "Hoà bình! Hữu

nghị!". Nói chung, bọn Mỹ rất sốt sắng trong việc liên lạc với ta, rút

quân. Có lẽ chúng cũng quá ê ẩm với cuộc chiến tranh thua thiệt

này. Tuy nhiên, chúng không chịu phá bỏ căn cứ quân sự mà

chuyển giao cho quân nguỵ.

Trời nắng nhưng nhiều mây.

Ngày 14/2/1973

Theo hiệp đồng, hôm nay máy bay Mỹ sẽ đưa anh Thanh trở

lại.

Đêm trước, trời tập kích một trận mưa dữ dội. Hôm nay cũng

mưa lắc rắc. Đợi mãi không có máy bay.

Một số vị đến định tiễn đoàn đi: anh Hồ An và một số ở Mặt

trận, Phụ nữ, cả anh Phú và Trần Đống (điện ảnh) nữa - vì tưởng

hôm nay đoàn lên đường, sẽ quay phim làm tài liệu.

Theo điện của anh Diễm, sự việc diễn biến như sau: máy bay

không đáp tại nơi ở của đoàn mà đáp tại sân bay Đà Nẵng. Bọn

nguỵ bắt thiếu tá Thanh và thượng sĩ phiên dịch Hanh làm giấy

căn cước và gửi 2 anh lại sân bay - 2 anh không chịu làm - đòi đưa

trở lại Trà Mi - chúng đồng ý và hẹn sẽ đưa về trong ngày nay -

nhưng tới tối, vẫn không thấy máy bay lên.

Phải dự kiến trước phương án đấu tranh nếu địch bắt giữ 2

đồng chí của ta. Anh Chính được phân công viết điện báo cáo lên

trên. Anh Cảnh viết sẵn tuyên bố về việc đó, khi cần là công bố để

đấu tranh.

453

Các đơn vị, địa phương đang chuẩn bị để tiễn đưa đoàn vào Đà

Nẵng cho có khí thế: tổ chức đội ngũ, cờ, hoa, khẩu hiệu. Đoàn cũng

đã chuẩn bị diễn văn để đọc tại sân bay.

Trong khi đó, chiến sự vẫn diễn ra sôi động ở khắp nơi. Ngồi

đây, nhìn thấy cờ hoà bình bay phấp phới trên cột cờ đầu sân bay,

và vẫn nghe rõ tiếng pháo nổ uỳnh oàng phía Bắc, thỉnh thoảng

nghe mấy loạt B52 nổ rền phía xa.

Ngày 15/2/1973

Anh Thanh điện về: hôm đến sân bay bị đối phương bắt làm

thủ tục, anh không làm. Tới đó, các anh ở chỗ đoàn quân sự Mỹ.

Sáng hôm sau, Đanien và Lộc đến báo giấy tờ đã làm xong, mời về

chỗ Ban Liên hiệp quân sự 4 bên ở. Anh Thanh đến kiểm tra, thấy

chỗ ở chưa ổn: nhà trưởng, phó đoàn chưa có, cán bộ thì xếp ở tập

thể. Đang tiếp tục bàn, đòi tạo điều kiện ở tốt hơn. Sáng mai, máy

bay sẽ đưa anh Thanh về.

23/2/1973 - Lần thứ 3 giáp mặt

Theo hợp đồng, hôm nay đối phương đưa đồng chí Thanh về

báo cáo với đoàn. Đồng chí Thanh sẽ làm việc khoảng 3 - 4 tiếng,

sau đó lại vào Đà Nẵng. Trong khi đó, sĩ quan liên lạc và phi công

đối phương sẽ chờ tại sân bay.

9 giờ 45, có tiếng máy bay phành phạch. Lát sau, từ phía Bắc

xuất hiện một chiếc trực thăng. Nó bay thẳng tới hướng sân bay với

cái vẻ hăm hở và thành thạo. 4 khoanh mầu đỏ da cam sơn quanh

đuôi, quanh bụng nó nổi lên khá rõ. Nó sà tới, vòng một vòng rồi hạ

xuống sân bay. Khác hẳn mấy lần trước, lần này không có một chiếc

khác quần trên bầu trời yểm trợ cho nó và nó không nổ máy rền rĩ

trong khi chờ đợi nữa. Nó đứng im lìm giữa sân bay, cánh quạt

giang rộng, hơi trùng xuống, như con chuồn chuồn khổng lồ đang

ngủ.

Anh Thanh về thẳng nơi làm việc.

454

Sĩ quan và phi công đối phương được mời vào nghỉ ở phòng

khách. Những chiến sĩ bảo vệ được phân công gác máy bay, bồng

súng đứng nghiêm túc. Thái độ thiện chí của ta làm những phi công

Mỹ yên tâm và họ mau lẹ rời khỏi máy bay, vào nhà khách. Trời

nắng và nóng điên người. Trong nhà có bia, nước trà "Thanh Tâm",

rất cần thiết cho họ.

Đầu tiên vẫn là những câu chuyện xã giao. Thiếu tá Giôn Pi

Kennơđi - trưởng phi hành đoàn - nói anh ta 32 tuổi, có vợ, con bên

Mỹ, nhà có cả ô tô. Anh ta tóc đen, mày rậm, mắt xanh đậm đà, môi

đỏ chót - nói chung, trông mặt anh ta màu sắc loè loẹt như một con

vẹt. Đại uý Lộc - sĩ quan liên lạc nguỵ - hỏi đến lương, anh ta khoe

được 2.000 đôla một tháng. Nhân đó, Thành - phiên dịch viên nguỵ

- hỏi:

- Còn lương các ông bao nhiêu?

Một sĩ quan ta trả lời:

- Quân đội Giải phóng không ăn lương. Đồng bào cung cấp bao

nhiêu thì chúng tôi có bấy nhiêu.

Lộc nói rằng anh ta đã đóng quân nhiều ở miền núi: Tu Lang,

Bến Giằng, Tiên Phước, Trà Mi. Một sĩ quan ta hỏi:

- Về đời sống, anh thích gì?

- Tôi thích hội hoạ.

Anh ta cười, trả lời bằng giọng Huế khá lịch thiệp. Anh ta nói

tới những bức tranh đẹp. Với con mắt nhìn ra xa, hơi mơ mộng, có

vẻ đang quay về với dĩ vãng, anh ta nói:

- Trước tôi làm đại đội trưởng, đóng đồn ở Trà My, trên gò cao

kia. Tôi muốn trở lại thăm nơi ở cũ, xem còn kỷ niệm gì, các anh cho

phép chứ?

Anh Tiết, phụ trách sân bay, vội đáp:

455

- Cũng được thôi!

Thiếu tá Nhung - phụ trách vấn đề bảo vệ của đoàn - cười cười:

- Đại uý đi cũng được, nhưng bây giờ lau lách mọc đầy, sợ phải

chui rúc, mệt.

Lộc hỏi lại:

- Vậy ra không có đường lớn?

- Đại uý coi đấy, trước đây có ai ở vùng này, lau lách, cỏ dại mọc

đầy cả. Bây giờ có chuyện đón đoàn, chúng tôi mới về đây phát sân

bay, dựng tạm mấy ngôi nhà.

Lúc này, Thành chăm chú lắng nghe. Anh ta khá cao, mặt đầy

những mụn trứng cá, trông sù sì và đỏ như da gà trọi. Anh ta chợt

đề xuất:

- Nóng quá, chúng ta ra sông tắm được chứ?

- Vâng, mời các anh đi!

Sĩ quan ta đáp ứng ngay lời yêu cầu ấy. Mọi người đi dọc sân

bay, rẽ qua phải, xuống bờ sông. Qua mấy hố bom mà bọn B.57 thả

cách đây ít ngày, khi lệnh ngừng bắn sắp có hiệu lực, không ai nói

một lời nào. Những phi công liếc nhìn những hố bom với đám cây cỏ

nát nhừ còn xám ngoét màu thuốc nổ, rồi vội nhìn ra sông. Còn sĩ

quan của ta thì nhìn thẳng vào mặt họ. Lúc này, tốt nhất là để sự

thật nói lên lời.

Bãi sông trắng loá, trống trải, chẳng có gì hấp dẫn cả. Nhìn

xuôi, nhìn ngược cũng chỉ thấy cát và đá trắng cùng với làn không

khí bị nung nóng khẽ xao động. Mọi người đi dạo trên bờ sông chứ

không tắm. Rồi lại quay về.

Càng về trưa, câu chuyện càng sôi nổi. Lộc có vẻ cởi mở:

456

- Tôi nhập ngũ năm 1952, nhanh thật, 21 năm rồi!

Có lẽ vì cái không khí cởi mở ấy mà một sĩ quan ta buột miệng:

- Anh cũng giống tôi, cùng năm nhập ngũ, cùng cấp bậc!

Lộc cười rộng miệng, nheo cả mắt lại.

Tới giờ ăn cơm, đoàn để 2 sĩ quan tiếp "khách". Bữa ăn khá

đàng hoàng: gà quay, khoai rán, miến xào, canh cải.

Khi chúng tôi trở lại, hai phi công đã ra máy bay và mọi người

vẫn đang nói chuyện rôm rả. Thấy tôi, Thành khoe:

- A, anh có cái ảnh chụp với tôi rất đẹp.

Tôi nhớ hôm nọ lúc tôi đứng gần Thành, Lộc có đưa máy lên

chụp. Tôi cười:

- Vâng, cảm ơn anh!

Lộc ngồi tận phía trong, nói to:

- Chà, ảnh đẹp lắm, ai coi cũng nói anh Thành chụp chung với

con gái. Bây giờ thì thấy đó, con trai chứ không phải con gái đâu

nghe!

Hai sĩ quan Mỹ ngơ ngác nhìn và khi được nghe dịch lại, họ

cũng cười thích thú.

Câu chuyện lại tiếp diễn và Lộc cứ khen mãi bữa cơm thịnh

soạn. Anh ta xuýt xoa:

- Rô ty gà thật giỏi, vừa ngon. Rô ty gà là khó lắm nghe, quá là

cháy, còn không lại sống!

Thành vừa san sẻ 2 cốc nước qua nhau cho mau nguội, vừa gật

gù:

457

- Khó thật đó! Không biết là có bàn tay phái đẹp trong ấy

không? Chà, cũng muốn thấy mặt các cô quá!

- Tới hôm đoàn đi, ở đây tiễn đưa, sẽ thấy!

Một sĩ quan ta trả lời và biết mình lỡ lời, anh vội im.

Rót một cốc nước khác, lại san sẻ qua cốc khác cho mau nguội,

Thành tấm tắc:

- Nấu nướng khéo thiệt đó. Ngay cả mấy lát khoai cũng cắt

thành hình ngôi sao, rán vàng thật đẹp.

Thiếu tá Nhung cười:

- Anh em chúng tôi cũng yêu mỹ thuật lắm. Tuy ở rừng núi,

chúng tôi làm việc cũng có giờ giấc, vẫn vui hát, chơi thể thao.

Lộc tán dương:

- Tôi cứ nghĩ các ông ở rừng chắc xanh xao lắm, không ngờ lại

đỏ đắn, mạnh khoẻ vậy. Các ông cũng có chơi ban à?

- Có chứ, bữa tết, anh em chúng tôi tổ chức đấu bóng chuyền,

vui lắm.

Thành mừng rỡ:

- Vậy à? Vậy thì chúng ta tới sân bóng, đánh chơi!

Lộc tán thành:

- Phải đó, nếu cần thì phía Việt Nam mình ở một đội, cho phía

Hoa Kỳ một đội, đấu thử!

Đanien khoái chí:

- Được, chúng ta đánh bóng với nhau!

458

Anh Nhung cười:

- Vâng vâng, chúng tôi sẵn sàng đánh ban với các anh, nhưng

để khi xuống đó đã. Chứ sân ban ở xa lắm, lại sắp tới giờ các anh

phải đi rồi, làm sao kịp?

Thành xoa xuýt vẻ tiếc rẻ:

- Vậy à, ra các anh ở xa lắm à!

Chúng tôi tiếp tục mời "khách" ăn kẹo, bánh. Thành và Lộc

ngắm nghía mãi những chiếc kẹo "Hải Châu" sản xuất ở Hà Nội. Cả

hai đều chọn trong đĩa kẹo lộn xộn các loại, cả miền Bắc, miền

Nam, lấy mấy cái. Lộc nói:

- Xin các anh mấy cái về làm quà cho các cháu!

Thành tiếp:

- Xin cho mỗi đứa nhỏ một chiếc thôi, tôi 5 đứa, 5 chiếc.

Lộc nhón lên một cái kẹo chuối của miền Nam sản xuất, hỏi:

- Cái này có phải không hè? Tôi muốn mỗi thứ một loại.

Thành có vẻ thành thạo:

- Không phải, ông cứ xem cái nào có chữ "Quốc doanh" là đúng!

Lộc cười:

- Đem về cho lũ nhỏ coi, rồi cất kỹ làm kỷ niệm thôi, đâu dám

ăn?

Tôi nói:

- Cứ cho các cháu ăn cho chúng biết vị ngọt của kẹo chúng tôi,

rồi giữ giấy làm kỷ niệm cũng được chứ sao.

459

Thành nói:

- Sau này quan hệ bình thường, chắc những thứ này sẽ nhiều!

- Vâng, chúng tôi đều mong muốn quan hệ Bắc Nam chóng trở

lại bình thường.

Chúng tôi trả lời vậy và đưa Thành một gói trà miền Bắc. Anh

ta cầm gói trà, ngắm nghía, đọc nhãn hiệu "Thanh Tâm" và gật gù:

- Uống trà này thì tâm hồn lúc nào cũng thanh bạch.

Anh ta đưa cao gói trà về phía Lộc, nháy mắt rồi với cái áo

khoác vắt ở thành ghế, đút vào túi. Trong câu chuyện, Thành luôn

ca thán nhà đông con, nghèo, làm ăn vất vả. Anh ta nói:

- Trước tôi ở bên dân sự, có Hiệp định mới qua bên quân sự làm

thông dịch.

Với giọng phân bua, anh ta tiếp:

- Cũng không muốn qua bên này, nhưng vẫn phải qua, vì làm

nghề này có tiền nuôi các cháu - nhà tôi đông con, nghèo lắm.

Để phụ hoạ thêm cho giọng nói, anh ta ngửa hai bàn tay, đưa

ra phía trước. ánh nắng bên ngoài rọi vào chiếc đồng hồ loại hảo

hạng đeo trên cổ tay trái anh ta, loé lên như một tia chớp.

12 giờ 30 phút, Đanien sốt ruột hỏi:

- Thiếu tá Thanh đã làm việc xong chưa?

- Có lẽ còn phải làm việc một thời gian nữa.

- Vậy đến giờ, chúng tôi về, ngày mai sẽ tới đón thiếu tá được

không?

460

- Chắc thiếu tá làm việc khoảng một tiếng nữa thôi, đại uý có

thể chờ được chứ?

- Vậy để tôi cho máy bay cất cánh lên cao, báo về Đà Nẵng cho

thượng cấp chúng tôi biết?

- Vâng, nhưng đại uý chờ chúng tôi gọi điện thoại hỏi ý kiến cấp

trên chúng tôi!

Ngoài sân bay, hai phi công Mỹ đang lúi húi, chỉ trỏ vào bộ

phận nào đó ở đầu máy bay. Họ có vẻ tận tâm với nghề nghiệp. Để

giảm bớt sự sốt ruột của Đanien, anh Nhung hỏi:

- Chiếc máy bay kia trị giá bao nhiêu đô la?

Thành trả lời:

- Đắt lắm, tới mấy vạn đô la.

Anh ta nói thêm:

- Đây là loại mới, đã cải tiến, cái ống xả hơi của nó làm vểnh

lên chứ không cụp xuống như loại cũ.

Lộc giải thích:

- Như vậy, hơi nóng toả lên trên sẽ được cánh quạt quạt phân

tán hết, giảm nhiệt, chống được tên lửa tìm nhiệt.

Và Lộc lại khoe:

- Cái ghế bên cạnh dùng cho xạ thủ đại liên.

- Ồ, hẹp vậy thì để đại liên chỗ nào?

- Không, đại liên gắn phía ngoài, xạ thủ ngồi ghế, chúc súng

xuống đất mà bắn.

461

Liên lạc về báo cấp trên đồng ý để máy bay lên cao liên lạc với

Đà Nẵng.

Đanien đề nghị:

- Mời các anh cùng lên máy bay với chúng tôi.

Đanien đứng dậy kéo anh Tiết cùng đi. Mọi người cùng đứng

dậy. Cả Lộc và Thành đều sốt sắng:

- Đi, mời các anh cùng đi chơi!

Tôi lưỡng lự:

- Thôi, để một số đi, kẻo chật.

Thành dắt tay tôi:

- Không, không chật đâu, đi cho vui.

Tôi liếc nhìn anh Nhung. Thấy anh cười và bước ra cửa, tôi

cũng bước theo. Thành tỏ vẻ rất cởi mở, thân mật với tôi. Làm như

vô tình, anh ta hỏi độp một câu:

- Anh vào đây năm nào?

Tôi trả lời:

- Tôi sinh sống ở đây lâu rồi anh ạ!

Khi lên máy bay, Thành cẩn thận buộc người tôi vào ghế bằng

dây bạt có móc sắt.

Máy bay rồ máy. Bao quanh mang tai tôi là một mớ âm thanh

ồn ào, náo động. Không còn nói chuyện được nữa. Cánh quạt quay

tít, làm bụi cuộn thốc lên. Máy bay bốc lên cao khá nhẹ nhàng. Lên

được một đoạn, nó đứng sững lại rồi quay từ từ 180o. Sau đó, nó

vừa lên cao vừa tiến tới phía trước. Tôi có cảm giác như đang ngồi

462

xe ô tô leo ngược lên dốc, có điều êm hơn chứ không xóc lộn ruột như

khi đi ô tô.

Tôi chú ý quan sát dưới đất xem lũ giặc lái phát hiện quân ta

như thế nào. Bây giờ mới hiểu rằng trước mình "điếc không sợ

súng", quá chủ quan. Tôi nhìn rõ sân bay với chữ thập trắng, với

những đường đi ngang dọc, với mấy ngôi nhà tranh, với lá cờ bay

phấp phới và thấy rõ cả mấy đồng chí vệ binh đứng nghiêm bồng

súng. Máy bay lên cao, lượn vòng theo hướng tay trái. Thân máy

bay nghiêng đi, muốn đổ mọi thứ ra ngoài. Nhìn về bên phải thấy

điệp trùng những núi - những dẫy núi cũng chênh đi như sắp đổ.

Nhìn xuống dưới thấy rất rõ mặt đất. Mặt đất đẹp, hiền và đáng

yêu quá. Những thửa ruộng lúa xanh rì, những vạt rừng non thưa

thớt, và dòng sông nước trong vắt chảy gợn sóng lăn tăn xen vào

nhau, nổi bật lên như một bức tranh màu đẹp đẽ. ồ, ở độ cao 7 - 800

thước mà nhìn rõ cả gợn nước, những phiến đá và mấy người đi trên

bãi sông. Kia nữa, thấy rõ hai chiếc áo trắng ai phơi trên bãi cỏ,

thấy một anh bộ đội đang đi ngoái lại ngước nhìn lên. Thấy căn nhà

tôn, mấy ngôi nhà tranh nấp dưới mấy bụi chuối, lùm cây. Máy bay

vòng lại sân bay. Thấy bóng máy bay in trên sân bay với cái cánh

quạt quay tít mù ngồ ngộ. Thấy gần bờ sông một ngôi nhà và rất

nhiều người đứng ở sân. Được 20 phút, máy bay hạ cánh. Người

cảm thấy bị hẫng, nhưng không nôn nao. Mát quá, vì suốt quá trình

bay, gió lùa vào lồng lộng.

Ra khỏi máy bay, Đanien kéo Lộc và Thành lại bàn bạc gì đó.

Vào nhà, Thành báo:

- Đại uý Đanien nói rằng đã liên lạc về Đà Nẵng, thượng cấp

đồng ý để chúng tôi 2 giờ rưỡi về.

- Vâng, vâng, đúng một giờ rưỡi chúng tôi, thiếu tá Thành sẽ

ra.

Thành giải thích:

463

- Hồi này Hoa Kỳ thực hiện chương trình rút quân, việc nhiều

mà máy bay ít nên bố trí giờ giấc xít xao lắm.

Lộc nói thêm:

- Sợ rằng sau phi vụ này phải thực hiện phi vụ khác nên phải

báo về trên.

Thành hỏi:

- Các anh bay thấy ngợp không?

- Gió quá, lúc bay thường chắc phải đóng cửa lại chứ?

- Đóng bí hơi lắm.

Thành giảng giải:

- Hồi nãy phải quần và phải bay cao để liên lạc nên bay mệt,

chứ khi thường chỉ bay 5 - 600 mét, bay thấp là là, êm lắm.

Lộc hỏi:

- Hồi nãy thấy cái nhà nào phía sau cột cờ đó hè?

- Nhà anh em ở đó anh ạ.

- Phía ấy là gì mà thấy đông người quá?

- Đường anh em đi lại đó mà.

- À, thấy cả phụ nữ nữa, tôi muốn qua chụp ảnh với các cô ấy

được không? - Lộc hỏi.

Thành phụ hoạ:

464

- Ồ, có cả phụ nữ. Bữa trước bay lên thấy mấy cô tắm ở suối

nữa (vừa nói anh ta vừa cười thích thú), giá được sang chụp ảnh thì

hay đó!

Thiếu tá Nhung trả lời:

- Chắc các anh cũng biết tính nết phụ nữ Việt Nam hay e thẹn,

sợ các anh lạ, mấy cố ấy không chịu chụp, đi mất công chớ.

Thành tán:

- Hay đại uý muốn thì xin ở lại luôn!

Lộc cười:

- Sợ nhà đương cục địa phương không cho phép.

Anh Nhung nói:

- Sợ các anh không có thời gian thôi. Khi nào có điều kiện thì

mời các anh ở chơi.

Thành nháy mắt, vỗ vai Lộc:

- Mà ở đây thôi, chứ không được qua với mấy cô đâu nghe!

Anh ta hất hàm về phía bờ sông và nói thêm:

- Ở thì vui, chỉ tội mấy con gà chết oan!

Anh Nhung đáp:

- Gà anh em chúng tôi tự nuôi đấy. Chắc chúng nó cũng vui

lòng khi được chết vì mối tình thân thiện của chúng ta.

Sắp tới giờ cất cánh, mấy sĩ quan Mỹ và anh em ta trao đổi với

nhau những vật kỷ niệm nhỏ. Anh Nhung tặng Đanien một quyển

lịch "Quân giải phóng", anh ta cảm ơn và cười:

465

- Nhưng ông nhớ là tôi vẫn có những cú đập rất mạnh khi gặp

ông trên sân bóng đấy!

Anh ta có vẻ quan tâm thực sự tới chuyện thể thao.

Tôi và Bé - phiên dịch - ra máy bay nói chuyện với phi công Mỹ.

Hỏi chuyện viên phi công có bộ ria mép dài hung hung mà bữa

trước tôi cho là già mới biết anh ta có 25 tuổi thôi. Với giọng ồm ồm,

anh ta kể:

- Tôi có 1 vợ, 1 con lên 4 tuổi. Tôi qua Việt Nam năm 69, 70 rồi

về nước, sau đó lại qua, được 3 tháng rồi.

Anh ta cười, nụ cười có vẻ bình dị. Nhìn nụ cười, nghe giọng nói

thấy anh ta có vẻ nông dân. Anh ta là chuẩn uý. Bé đưa tặng anh ta

quyển lịch, anh ta cảm ơn, mở ra coi và hỏi:

- Hồ Chí Minh?

Anh ta chỉ vào tấm ảnh Bác và chữ Hồ Chí Minh dưới một câu

ghi lời Bác. Anh ta ngắm nghía, gật gật đầu và cười. Anh ta tên là

Hogan.

Tôi qua hỏi chuyện Henson - 19 tuổi. Anh ta cao nhưng không

to, có nét mặt thư sinh và tính tình có vẻ e dè, hay thẹn. Hồi sáng,

khi mọi người xúm đến hỏi, anh ta lúng túng ngó quanh và ấp úng

không biết nói gì. Lúc này anh ta đang ngồi trên ghế, cầm cái mũ bộ

đội Giải phóng ngắm nghía rồi đội lên, gật đầu vui thú. Anh ta ra

hiệu cho Kennơđi chụp ảnh anh ta với chiếc mũ đó. Tôi lại ngồi bên

cạnh và nhờ Bé hỏi chuyện. Henson cho biết anh ta sang Việt Nam

2 năm rồi. Tôi hỏi:

- Anh có thể cho biết cảm tưởng của anh khi tới gặp chúng tôi

tại đây?

Anh ta cười và nói nhỏ một câu gì đó. Lúc ấy, Hogan chuyển

xuống một can nước bằng nhựa. Henson đỡ lấy, dùng nắp hứng và

466

ấn nút cho nước chảy ra mời tôi uống. Đó là thứ nước máy nồng nặc

mùi Clo, tanh vô kể. Bé dịch lại lời anh ta:

- Thật khó nói quá!

Kennơđi đang ở buồng lái cũng chồm người qua ghế góp chuyện

với chúng tôi. Có lẽ anh ta sợ anh chàng Henson ngây thơ nói

những điều hớ hênh với chúng tôi chăng?

Đúng 1 giờ 30' anh Thanh ra. Chúng tôi nắm tay anh, chúc anh

hoàn thành nhiệm vụ. Mọi người tiễn biệt nhau. Lộc, Thành bắt tay

tôi. Lộc chỉ vào tôi và Thành, nói:

- Đôi này có vẻ ăn ý với nhau lắm!

Tôi cười và thầm nghĩ: "Cuộc chiến đấu trên mặt trận ngoại

giao thật phức tạp, tế nhị, phải hết sức cảnh giác".

Bắt tay và chào nhau lần cuối, Lộc nhắc lại lời cảm ơn: "Quý vị

đã cho chúng tôi một bữa ăn thật thịnh soạn". Có lẽ, đó là câu nói

chân thành nhất của anh ta trong ngày hôm nay.

Về nhà tổng kết về buổi tiếp xúc này, rút ra nhiều điều hay.

Anh em dự đoán Thành là tình báo CIA, cấp bậc có thể ngang hoặc

cao hơn Lộc, Lộc là tình báo quân đội. Cả hai đều tìm cách dò hỏi và

muốn đi quan sát nơi ăn, chốn ở của ta. Riêng tôi, tôi thấy Thành có

vẻ muốn dùng đòn ngọt với tôi để lợi dụng khai thác những gì có lợi

cho hắn. Có thể hắn đánh giá tôi "ngon ăn" bởi thái độ ôn hoà, "cởi

mở" của tôi.

Trong buổi tiếp xúc, anh em ta cũng có nhiều chỗ hớ: nói lộ lý

lịch mình, lộ việc, chưa thực hiện nghe nhiều để tìm hiểu địch,

phiên dịch chưa lắng nghe xem bọn Mỹ - Nguỵ bàn riêng gì với

nhau, cảnh vệ chưa chú ý quan sát bọn địch khi chúng đi vệ sinh

xem chúng có làm gì khác không...

Trong khi tiếp xúc với địch, cần phải biết hỏi để moi tin, biết

trả lời có vẻ cởi mở mà chung chung. Hanh - phiên dịch, mới đi Đà

467

Nẵng về - cho biết câu chuyện giữa Hanh và tên lính nấu ăn của

bọn sĩ quan nguỵ như sau:

- Các anh ăn bao nhiêu tiền một ngày?

- Cấp trên chúng tôi cấp bao nhiêu thì chúng tôi nấu ăn bấy

nhiêu.

- Thường thường nhà ăn này có bao nhiêu người ăn?

- Dạ, lúc thì nhiều, lúc thì ít người ăn.

Một tên lính còn biết trả lời như vậy, nói chi đến những tên sĩ

quan, nhất là những sĩ quan được phân công tiếp xúc với ta.

Chân tình là bản tính của anh em ta - quen sống với nhau cởi

mở, thương yêu nhau mà! Nhưng với kẻ địch thì phải biết sống cho

có thủ đoạn, biết nói dối như thật.

Từ tháng 3 năm 1973

Tiếp tục những ngày chờ đợi, nhưng chưa thấy triển vọng gì về

hoạt động của đoàn Liên hiệp quân sự. Đối phuơng vẫn cố tình phá

hoại việc thi hành Hiệp định.Tôi vẫn làm việc theo dõi tin tức qua

đài và qua các báo cáo để tổng hợp tình hình thời sự giúp đoàn. Chỉ

trong vòng nửa đầu tháng 2, ở các tỉnh đồng bằng Trung Trnng bộ

đã có 648 vụ địch vi phạm Hiệp định, trong đó có 323 vụ bắn pháo

vào vùng giải phóng (có những trận dùng 8 đến 20 khẩu pháo bắn

từ 1.000 đến 3.000 quả đạn vào một thôn), 224 vụ dùng bộ binh từ 1

đại đội đến 4 tiểu đoàn có xe tăng, bọc thép đánh phá vùng giải

phóng. Chiều mùng một tết âm lịch vừa qua, tại Quảng Ngãi, một

đoàn thiếu nhi xã Nghĩa Thuận xuống Mỹ Lợi, Nghĩa Kỳ huyện Tư

Nghĩa tổ chức đón binh sĩ ngụy về mừng xuân hòa bình, bọn pháo

binh ở Gò Huỳnh dùng cối 82 và súng DKZ bắn vào xã Mỹ Lợi, làm

chết 2 em, bị thương một số em. Bọn bộ binh còn tới bắt một số em.

Tại Quảng Đà, bọn ngụy huy động pháo binh, bộ binh, xe tăng, xe

bọc thép lấn chiếm các xã Xuyên Hòa, Xuyên Thanh, Xuyên

Khương (Tây Duy Xuyên) dài ngày, có ngày máy bay thả bom phá,

468

hàng trăm bom bi vào xã Xuyên Thanh làm chết và bị thương hàng

trăm thường dân, phá hoại hoàn toàn nhà cửa, hoa mầu. Tại Tây

nguyên, có 178 vụ địch vi phạm Hiệp định, với 57 vụ bắn pháo, 59

vụ máy bay, 62 vụ bộ binh; riêng trục đường 14, 19 có ngày chúng

bắn tới 1.202 quả đạn pháo.

Tôi mở một lớp đào tạo cấp tốc về nhiếp ảnh cho anh em trong

đoàn. Mọi người rất hăng hái theo học và nhanh chóng nắm bắt

những kiến thức cơ bản, biết chụp ảnh, tráng phim.

Ngoài Hà Nội vẫn tiếp tục sử dụng tin, bài do Khu Năm gửi ra,

trong đó có bài của tôi gửi ra cách đây ít lâu:

Bài đăng trên Bản tin đấu tranh thống nhất

Một cuộc dàn xếp

Hà Nội ( VNTTX 1-3-1973) - Hòng thực hiện âm mưu lấn đất,

bọn chỉ huy quân đội Sài Gòn ở Quảng Nam đã thúc ép đơn vị X

hành quân lấn chiếm vùng giải phóng của ta sau ngày lệnh ngừng

bắn có hiệu lực. Kiên quyết bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân

dân, các chiến sĩ Giải phóng đã chặn đánh quyết liệt, buộc chúng

phải cụm lại trên các điểm cao. Đơn vị X quân đội Sài Gòn lâm vào

tình trạng nguy kịch, thương binh không được chuyển đi cứu chữa,

lương thực không được tiếp tế, trong khi đó, tiếng loa của các chiến

sĩ Giải phóng vẫn vang lên.

- Hỡi anh em binh sĩ Sài Gòn! Hiệp định Pa ri đã ký, hoà bình

đã được lập lại. Anh em hãy trở về vị trí của mình, đừng cầm súng

đánh nhau nữa!

Toàn bộ binh sĩ đều im lặng lắng nghe. Anh em binh lính yêu

cầu chỉ huy phải ra dàn xếp với quân Giải phóng. Trước tình hình

ấy, ban chỉ huy đơn vị quân Sài Gòn đã liên lạc với quân Giải

phóng.

Tới chỗ hẹn, viên sĩ quan được một cán bộ quân Giải phóng dẫn

vào nhà. Đồng chí cán bộ mời viên sĩ quan ngồi và hỏi:

469

- Chắc anh mệt và đói lắm?

Viên sĩ quan khẽ thở ra, đáp:

- Cảm ơn ông. Suốt mấy ngày nay chúng tôi không được tiếp

tế...

Đồng chí cán bộ rót nước đưa anh ta uống rồi lấy gói cơm nắm

đưa anh ta:

- Mời anh ăn bữa cơm của quân Giải phóng.

Trước thái độ chân tình của đồng chí cán bộ, anh ta cám ơn rồi

cầm lấy nắm cơm ăn ngon lành.

Sau đó, viên sĩ quan nói:

- Thưa ông, tôi được cử đến đây để dàn xếp với các ông về việc

đổi khu vực trú quân.

Với giọng vừa ôn tồn vừa kiên quyết, đồng chí cán bộ nói:

- Có lẽ anh lầm. Anh phải nói là đến để bàn giao đất cho chúng

tôi mới đúng vì đây là vùng giải phóng. Các anh lấn chiếm sau khi

lệnh ngừng bắn có hiệu lực.

Viên sĩ quan lúng túng:

- Dạ, tôi cũng không nắm vững việc này.

Đồng chí cán bộ hỏi:

- Có lẽ anh chưa được nghiên cứu Hiệp định và các Nghị định

thư?

Viên sĩ quan vội đáp:

- Vâng, cấp trên chúng tôi chỉ phổ biến sơ qua.

470

Đồng chí cán bộ rút trong cặp ra mấy xếp giấy đánh máy, đưa

anh ta và căn dặn:

- Đây là các văn bản của Hiệp định, anh đem về cùng anh em

đọc cho kỹ. Thật tai hại, cấp trên các anh cố tình bưng bít sự thật,

cố tình đẩy các anh vào chỗ chết.

Ngừng lại một chút, đồng chí cán bộ hỏi:

- Chắc các anh gặp nhiều khó khăn trong việc cứu chữa thương

binh?

Viên sĩ quan gật đầu:

- Bị các ông vây chặt, chúng tôi không chuyển thương binh về

hậu cứ được, thuốc men cũng thiếu.

Đồng chí cán bộ lấy ra một số thuốc, bông bằng rồi nói:

- Chúng tôi biết rất rõ tình trạng nguy khốn của các anh. Bây

giờ, chúng tôi có đủ điều kiện để tiêu diệt các anh. Nhưng thi hành

đúng đắn chính sách hoà giải và hoà hợp dân tộc, chúng tôi muốn

cứu các anh. Anh cầm số thuốc này về tạm băng bó cho anh em và

báo cáo với chỉ huy các anh là chúng tôi đồng ý cho các anh chuyển

số thương binh về nơi an toàn theo hành lang chúng tôi qui định.

Mặt khác, trong khi chờ bàn giao đất, các anh phải nằm tại chỗ,

không được bắn phá bừa bãi.

Trước lý lẽ đúng đắn và thái độ thiện chí của quân Giải phóng,

binh lính và sỹ quan đơn vị X. quân đội Sài Gòn nhận ra lẽ phải,

hết sức cảm động. Họ nói với nhau:

- Hoà bình rồi, tội gì mà đi đánh nhau cho chết uổng mạng?

Nếu mấy ông Giải phóng mà làm hung, chắc bữa nay mình không

còn mà đón xuân!

- Phải đó. Rút đi. Thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định là tốt nhất!

471

Qua một ngày bàn bạc với các chiến sĩ Giải phóng, ngày hôm

sau, cả đơn vị quân Sài Gòn đồng loạt rút theo con đường mà quân

Giải phóng đã vạch sẵn.

Việt Long (TTXGP)

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Ngày 8/3/1973

Bố mẹ kính mến !

Đáng lẽ ra con phải viết thư cho bố mẹ vào đúng ngày hoà bình

đầu tiên cho bố mẹ mừng mới phải, nhưng vì bận nhiều việc quá, vả

lại không có người ra nên bây giờ con mới viết. Hồi tết, trong bức

điện chung gửi ra VNTTX có tên con, anh Phượng có báo cho gia

đình biết không?

Bố mẹ yêu quý ạ, điều đáng mừng là cho tới ngày toàn dân tộc

giành được đại thắng lợi, con vẫn tiếp tục đóng góp được sức mình,

vẫn tiếp tục tiến bộ và rất khoẻ. Bây giờ, con được cử đi công tác ở

một nơi khá đặc biệt, với trách nhiệm nặng nề hơn. Con rất phấn

khởi lên đường nhận nhiệm vụ, đã hứa sẽ công tác thật tốt, xứng

đáng với sự tin cậy của Đảng.

Hôm Hiệp định được ký chính thức, anh Đỗ Phượng có điện vào

báo tin gia đình ta vẫn bình yên, mạnh khoẻ. Điều đó làm con vui

mừng hết sức. Hồi bọn Mỹ tập trung B52 ào ạt dội bom Hà Nội, con

lo cho gia đình quá! Bây giờ, chắc cả nhà đã về Hà Nội rồi? Căn nhà

mới nhà ta được cấp ở Kim Liên có bị máy bay Mỹ phá mất không?

Các em Thuỷ, Lan, Diệp, Ngọc đã về Hà Nội học chưa? Anh Đức đã

cưới vợ chưa? Còn Phúc, sao bố mẹ đã lo chuyện vợ con cho nó sớm

thế? Em Việt hiện ở đâu?

Con đang viết thì có người đến lấy thư đi vội, con gửi cho gia

đình đỡ mong.

Con.

472

Ngày 1/4/1973

Thời hạn hoạt động của Ban Liên hiệp quân sự bốn bên đã hết.

Vậy mà chúng tôi vẫn ở căn cứ. Nay sẽ chuyển qua hai bên, nhưng

khi nào triển khai công tác thì chưa rõ, còn phải đấu tranh nhiều ở

Trung ương.

Có việc về Xưởng phim, đinh ninh sẽ gặp Thuý Ngân, sẽ có dịp

gần em một chút.

Thấy tôi đến, Đệ gọi ầm lên: "Ngân ơi, mày có khách nhé!"

Song, không thấy Ngân đáp lại. Thật thất vọng: Ngân đi lấy lá, có

lẽ chiều mới về.

Thế là những giây phút rỗi rãi của buổi sáng chủ nhật này trở

thành những giây phút trông đợi - ngong ngóng mãi không biết bao

giờ Ngân về. Em ạ, giá như biết em làm ở chỗ nào, anh sẽ đến tận

nơi đón em!

Mãi chiều Ngân mới về. Trong khung cảnh nhà cửa đang làm

ngổn ngang, đông đúc người đang làm việc, chúng tôi không thể vồ

vập nhau được. Cũng không có thì giờ để mà ngồi nói chuyện với

nhau nữa: tôi sắp phải đi cho kịp giờ tới đơn vị, Ngân phải tiếp tục

với công việc. Ngân nói với tôi rằng em không có gì buồn cả, và em

cười thật tươi. Nhìn Ngân cười, thấy thương vô hạn. Anh biết, em

cũng có những day dứt trong lòng, nhưng cố tươi cười cho anh vui

lòng. Bắt tay tạm biệt nhau, muốn nắm mãi tay em.

Ngân đưa tôi một chiếc khăn trắng, thêu rất đẹp. Thật không

ngờ em lại thêu giỏi đến thế. Biết rằng em rất bận, muốn thêu được

như vậy chắc em phải dành mọi giờ rỗi mà ngồi cắm cúi thêu. Chiếc

khăn chứa đựng biết bao tình cảm tha thiết của em!

THƯ GỬI NGÂN

Ngày 1 tháng 4 năm 1973

Ngân ơi!

473

Gặp em, anh vui, song cũng buồn. Thương em nhiều!

Anh cứ nghĩ mãi, tại sao chúng ta lại chỉ có thể gặp nhau, nói

chuyện với nhau như hồi chiều? Lẽ nào chúng ta không có quyền

sống với nhau đàng hoàng? Không, trăm lần không phải như thế!

Anh không muốn như thế! Chúng ta yêu nhau, tình yêu ấy là chính

đáng. Cho nên, em của anh ạ, không có gì đe doạ được tình yêu ấy.

Tất nhiên, bây giờ còn là vào thời gian tế nhị, chưa có thể để tất cả

mọi người biết được. Cho nên, còn phải có những sự kín đáo cần

thiết. Nhưng không nên vì thế mà phải đặt quan hệ của chúng ta

vào tình trạng lén lút, vụng trộm. Khi có những điều kiện thuận lợi,

anh muốn sẽ đưa tình yêu của chúng ta ra công khai để mọi người

chứng nhận và vun đắp cho. Em có muốn như vậy không? Hãy suy

nghĩ cho chín chắn, em nhé!

Em yêu thương! Chỉ khi nào trực tiếp nói chuyện với em, anh

mới có thể bộc lộ được hết những suy nghĩ của anh về em, về mối

quan hệ giữa hai đứa, giải thích vì sao anh yêu em và những ước

muốn vun đắp hạnh phúc với em! Nhưng em hãy tạm hiểu rằng:

trong cuộc đời, anh chỉ muốn yêu một người, khi đã yêu thì gửi trọn

tình cảm vào người ấy, và bây giờ thì người ấy là em!

Em ạ, với anh Đảo, anh Phấn, anh không dấu diếm điều gì cả -

trong tất cả mọi chuyện của cuộc đời, ngay cả chuyện này cũng vậy.

Đó là hai người bạn, người anh, người đồng chí hết sức yêu quý,

thân thiết của anh, chẳng khác nào ruột thịt. Các anh ấy đều tán

thành việc của chúng ta, đều nhiệt tình muốn vun đắp cho chúng

ta. Em nên có quan hệ mật thiết với các anh ấy. Chắc các anh ấy sẽ

có những lời khuyên bảo, tâm tình cần thiết cho em. Nếu không có

điều kiện gặp, em nên viết thư cho các anh ấy! Có gì vướng mắc,

khó khăn cũng nên nói với các anh ấy, các anh ấy sẽ giúp cách giải

quyết.

Em thân yêu! Em nói đã thêu cho anh một cái khăn thật vừa ý.

Song, anh chưa vừa ý đâu. Không phải vì xấu - em của anh thêu

đẹp quá, không thể chê được. Nhưng vì em thêu tên anh đứng trơ

trọi một mình, thế thì buồn chết. Tìm mãi không thấy tên em đâu?

Bắt đền em đấy!

474

Em đừng buồn mà hãy vui, sôi nổi lên nhé. Yêu em nhiều. Anh

của em.

TB: Viết thư cho anh, gửi qua anh Đảo hoặc anh Phấn.

Chủ nhật sau nữa (15/4) có thể anh sẽ về. Nếu em sang bên

Ban thì tốt.

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Ngày 10/4/1973

Bố mẹ Yêu quý của con!

Thật vui mừng hết sức, con đã nhận được thư của bố đề tháng

1/1973. Biết được tình hình gia đình bình an, mạnh khoẻ, con rất

phấn khởi. Chắc chắn sẽ có ngày gia đình ta được đoàn tụ, liên hoan

mừng đại thắng của dân tộc, của gia đình.

Bố mẹ kính yêu! Xa gia đình, con luôn nhớ gia đình và muốn

biết tường tận tình hình gia đình. Con tiếc là anh Đức cũng như các

em ít chịu viết thư cho con quá, và có viết thì cũng viết sơ sài, ít có

tính chất tâm tình về cuộc sống riêng tư. Con cũng không rõ hiện

nay việc xây dựng gia đình của anh Đức tới đâu rồi, có trở ngại gì?

Phúc cũng vậy, từ khi về nước đến nay, nó không viết cho con lá thư

nào. Ngay cả việc tìm hiểu rồi xây dựng gia đình của nó, con cũng

không được nghe nó nói lấy một câu. Tuy nhiên, qua thư mẹ viết,

con cũng biết sơ qua và mừng cho nó là đã chọn được cô vợ tốt, đem

về cho gia đình một đứa con ngoan. Bây giờ 2 em ở chung với gia

đình, tuổi lại còn non, chắc không khỏi có những bỡ ngỡ, lúng túng.

Con cũng rất mừng khi được biết các cô em gái của con lớn, học giỏi,

chăm ngoan. Con thương nhất Việt, cậu em sớm bước vào đời, chịu

vất vả, rất giầu tình cảm. Tuy nó cũng ít viết thư cho con, nhưng

con hiểu rằng vì nó khó kiếm chỗ gửi được, và thư nó viết rất tỷ mỉ,

rất tâm tình. Qua thư nó, con hiểu được tình hình gia đình, nhất là

tình hình riêng tư của mấy anh em một cách cụ thể hơn. Qua thư

nó, con cũng thấy rõ bước tiến bộ dài của nó: cả trong suy nghĩ và

475

hành động - nó suy nghĩ khá sâu sắc, có nhiều triển vọng. Không

biết bây giờ nó đóng quân ở đâu, công tác và phấn đấu ra sao?

Bây giờ, con xin nói về con cho gia đình rõ. Sức khoẻ của con

tiếp tục tốt, lâu lắm rồi con không sốt. Nếu như bố mẹ thấy ảnh con

gầy, thì đó không phải điều đáng lo, vì tạng người con từ nhỏ vậy

mà, không phải yếu đâu. Về công tác, phấn đấu, con tiếp tục đi lên.

Vừa qua, con được cử đi trong đoàn đại biểu quân sự của ta tham

gia Ban Liên Hợp quân sự 4 bên khu vực 2 (Đà nẵng) với cấp bậc

thiếu uý. Kể ra cũng ngược, người ta vào quân đội thời chiến, thì

nay hoà bình, mình lại vào quân đội. Nhưng con vẫn làm chuyên

môn cũ chứ không phải chuyển hẳn ngành. Nếu như mọi công việc

triển khai tốt, thì con đã được vào Đà Nẵng mà viết rồi. Do bọn địch

không thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, đoàn của ta chưa triển

khai được. Nay thì thời hạn của 4 bên đã hết, đoàn chuyển qua 2

bên. Tuy nhiên, vẫn là thời kỳ chờ đợi chứ chưa triển khai công tác.

Có thể con sẽ đi với đoàn một thời gian, sau đó lại về cơ quan cũ,

cũng có thể con đi khá lâu. Như vậy là nhiệm vụ của con đối với

cách mạng miền Nam càng nặng nề và còn lâu dài, con chưa dám

nghĩ tới ngày về thăm gia đình, tuy con tin rằng ngày ấy sẽ đến.

Vừa qua, nghe các anh ở ngoài vào nói, con biết là Đảng có đề

ra chính sách mới đối với gia đình đi B: Số anh em chưa có vợ con

cũng được để lương ngoài đó (lương chính + 25% khu vực - 18đ với

cán bộ cơ sở hoặc 24 đ với cán bộ sơ cấp. Bắt đầu thực hiện từ tháng

7/72).

Hồi bắt đầu đi, lương con 52đ, vào trong này được xếp là cơ sở.

Nay thì con đã được đề bạt lên thẳng sơ cấp (không qua hưởng sơ

cấp) nên nếu so sánh ra thì mức lương ngoài đó sẽ phải tăng theo.

Bố mẹ chú ý hỏi phòng tổ chức cơ quan con xem sao nhé.

Bố, mẹ ạ, tuy không có điều kiện gửi thư cho gia đình trên nhà,

con vẫn luôn nhớ da diết cụ, bà, ông bà trẻ, cậu mợ Hiếu và các em.

Con biết, bên cạnh công ơn của bố mẹ, chúng con mang rất nặng

công ơn của các bà. Từ khi bắt đầu đi làm, con đã có ước vọng được

đền đáp công ơn ấy, đặc biệt là đối với ông, bà trẻ - những người đã

dành cho chúng con tình cảm đằm thắm và đã hy sinh rất nhiều

cho chúng con. Tiếc rằng vì việc nước, con không được ở gần các bà

476

mà làm tròn chữ hiếu. Nghe bà, cậu mợ Hiếu sinh sống khá khó

khăn, vất vả, con hết sức băn khoăn. Còn ông, bà trẻ nữa, nay đã

già yếu rồi, lại không có con cái gì, lấy ai nuôi dưỡng, chăm sóc? Con

biết bố, mẹ cũng rất chu đáo trong việc này, nhưng con vẫn cứ nói

với bố mẹ như vậy, vì đây là điều thôi thúc trong tình cảm của con

từ lâu, không nói ra không được...

Bố mẹ ạ, hồi này đời sống chúng con khá hơn trước nhiều. Đường

ô tô đã làm tới nơi chúng con ở, vui tấp nập. Nếu đi xe con ra đó chỉ

mất khoảng 8-9 ngày. Như vậy, thư từ sẽ dễ hơn. Con chỉ mong thư

gia đình thôi. Bố mẹ không cần gửi cho con tiền, quà gì hết. Nếu bố,

mẹ được lĩnh tiền con để lại thì bố mẹ dùng để chi tiêu trong gia đình

và nuôi dưỡng bà, ông, bà trẻ chứ đừng lo gì cho con cả.

Nhìn ảnh gia đình, con vui lắm. Anh em ở chỗ con đều chung

vui với con, khen bố, mẹ vẫn trẻ, khoẻ, các em lớn, dễ thương. Ngọc

lớn quá rồi, ra dáng một thiếu nữ rồi còn gì. Diệp thì vẫn gầy song

đã lớn nhiều. Lan còn hay hát không? Thuỷ hết sún răng chưa? Mẹ

bỏ thuốc lá chưa? Sao mẹ không trả lời con về việc ấy? Con không

muốn mẹ hút thuốc một chút nào hết, vì rất hao sức khoẻ.

Cô chú Phương đã đưa các em về Hà Nội chưa? Con rất nhớ cô,

chú và các em.

Cuối thư, con chúc gia đình mạnh khoẻ, hạnh phúc và gửi lời

thăm các cô, chú trong cơ quan.

Con của gia đình.

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội, ngày 15/4/1973

Long yêu dấu của bố mẹ!

Trong một trường hợp đặc biệt, bố mẹ gặp đ/c Thắng, thủ

trưởng của con, người đã cùng con sống và chiến đấu trong những

năm gian khổ của cách mạng miền Nam. Đồng chí Thắng kể cho bố

477

nghe nhiều chuyện về con kể từ năm gian khổ 1968 đến khi đồng

chí Thắng ra ngoài này. Qua nhiều lần nghe kể chuyện về con, bố

cũng hình dung được cuộc sống của con trong ấy, nhất là tinh thần

phấn đấu của con, sự đoàn kết của con với đồng bào, đồng chí. Con

thật đã cố gắng nhiều lắm, nên trong thời gian không lâu đã trở

thành Đảng viên của Đảng Lao động quang vinh, lại mới được vào

cấp uỷ với sự tín nhiệm của đa số. Bố mẹ và các em rất mừng rỡ

trước sự trưởng thành nhanh chóng của con trong thực tế cách

mạng.

Hiện nay, bố mẹ và các em có một mong muốn là được gặp con

một số ngày cho bõ nỗi nhớ nhung. Mong con được ra ngoài này

điều dưỡng sau mấy năm công tác gian khổ.

Gia đình ta đã về ở khu tập thể Kim Liên. Buồng ở tuy không

rộng, song ấm cúng, tiện nghi đầy đủ. Con biên thư cho gia đình,

thường quan tâm đến sức khoẻ của mẹ, mong mẹ đừng hút thuốc lá

nữa. Con ạ, mẹ con vẫn khoẻ mạnh, vẫn "chưa chừa" được thuốc lá,

song ngày càng béo khoẻ, hết lòng hết sức chăm sóc gia đình và là

người nhớ đến con nhiều nhất, thường nói chuyện đến thằng Hai, lo

cho nó lúc bé ăn như người "ăn chay", bây giờ sống trong hoàn cảnh

mới thì làm sao mà kiêng được. (Đ/c Thắng nói cho bố biết con biết

ăn đủ mọi các thứ mắm, các thứ rau, kể cả mướp đắng).

Bố mẹ rất phấn khởi vì nhìn thấy đàn chim 8 con đã trưởng

thành. Những ngày chủ nhật và ngày lễ là những ngày gia đình

sum họp đông đủ.

Anh Đức vẫn làm công tác ở uỷ ban khoa học kỹ thuật, gắn bó

với Phòng tính toán, cả mấy đợt giặc Mỹ oanh tạc Hà Nội đều có

mặt ở Thủ đô, lại mới đi cùng đoàn cán bộ sang công tác tại Cộng

hoà dân chủ Đức hơn hai tháng, mới trở về nước ngày 3/4/1973, mẹ

thường nói anh Đức nghiêm nghị, đứng đắn, "ra vẻ anh cả", chỉ có

cái là chậm đường vợ con.

Em Phúc từ khi thành lập gia đình trở nên chín chắn, tay nghề

của em rất vững, nhất là sau khi đi thực tập 3 năm ở Liên Xô trở

về. Thành, vợ Phúc, công nhân kỹ thuật cơ khí, cùng công tác với

478

Phúc ở Đại học Bách Khoa. Hai vợ chồng sống vui vẻ, đầm ấm,

trong một gia đình công nhân kỹ thuật. Đến độ tháng 9/1974 hai vợ

chồng em Phúc sẽ có đứa con đầu lòng, bố sẽ được sống thêm trong

tình cảm của người ông đối với cháu nội. Con sẽ thêm trách nhiệm

của một người bác ruột. Còn Việt, đứa em gầy còm của con trước

kia, đã trở thành chiến sĩ công an vũ trang ở biên giới Lào Việt. Em

cũng phấn đấu rất tốt, đã trở thành đối tượng của Đảng, và đang

tiếp tục phấn đấu để được trực tiếp chiến đấu dưới lá cờ của Đảng,

và theo lời em viết "tiếp tục truyền thống của cha, anh, của gia

đình".Một số bạn của em ở đơn vị mới qua Hà Nội, đến thăm gia

đình cho biết tin em rất khoẻ, vượt được nhiều thử thách và hiện

nay là một trong những chiến sĩ cốt cán của đơn vị.

Còn em Ngọc càng lớn càng khoẻ, càng to, đã trở thành sinh

viên khoa tiếng Anh trường Đại học Sư phạm ngoại ngữ. Em học

tiếng anh vào loại giỏi và đang học thêm nhạc (ghi ta). Bố mẹ không

phải lo về mặt học tập và đạo đức của em Ngọc. Ngọc lì sì bao nhiêu

thì bé Diệp hoạt bát bấy nhiêu. Lúc nào Diệp cũng hoạt động, học

xong là làm, học rất chăm chỉ, phải cái hay trêu trọc các em nên

mọi người gọi cô ta là "cái dầm". Tuy vậy rất dễ thương và hồn

nhiên, vui tính.

Em Lan học lớp 6, hiện nay trở thành cô quản lý gia đình về

các mặt tem phiếu, đi chợ, nấu ăn. Học ít nhưng chóng nhớ, kiến

thức tương đối vững, khoẻ và vững, rất thương bố, thường giặt quần

áo cho bố.

Bé Thuỷ cứ vẫn chậm lớn, đêm thường quên, sờ tí mẹ tuy đã

làm "sinh viên lớp 5" rồi. Em học tiến bộ hơn trước, cả nhà đều yên

tâm và chiều con gái út.

Cụ nội, trẻ Nghiêm, ông Thành, cô cậu Hiếu và 4 cháu vẫn

được khoẻ mạnh. Còn cô Chung đã 2 lần chuyển công tác, Chồng cô

Chung đã về hưu non, 3 đứa con đều nghịch ngợm, học kém.

Bố đã cảm thấy cái già đã tới, 57 tuổi rồi. Tuy nhiên bố vẫn đi

làm đều đặn, chưa có tư tưởng về hưu, phấn khởi với đàn con đang

trưởng thành. Trước còn lo chưa có nhà, các em con còn bé... nay

479

tình hình gia đình đã tương đối ổn định, kinh tế gia đình ngày một

tốt, nhất là khi được nhận phụ cấp của con để lại (chính sách mới,

mỗi tháng 47đ). Tuy nhiên theo sự suy nghĩ của bố, bố chưa muốn

nghỉ ngơi, mà nếu 2,3 năm nữa có về hưu thì cũng tìm việc làm

thêm hoặc viết, hoặc dịch, hoặc dạy ngoại ngữ ở đại học...

À bố thường tự hỏi: "Con đã lớn, tại sao không thấy con nói

chuyện về việc vợ con". Hình như con có người yêu ở ngoài này phải

không? Nếu có, con cứ giới thiệu với gia đình để giữ mối liên hệ cho

bền vững.

Nhớ con nhiều lắm

Bố

Chủ nhật 22/4/1973

Không biết nên nói rằng hôm nay là một ngày vui hay một

ngày buồn? Hôm nay gặp Ngân -vừa thấy thật thân thương, gần

gũi, vừa thấy thật xa lạ, lạnh lùng.

Gặp Ngân lần này tại Điện ảnh trong khung cảnh đỡ bề bộn

hơn trước vì nhà cửa đã tạm xong. Chúng tôi có nhiều thời giờ riêng

để nói chuyện với nhau. Từ lúc đi đường, tôi cứ đinh ninh rằng lần

này chúng tôi sẽ được sống với nhau những giây phút thật đầm ấm.

Không ngờ Ngân lại đưa tôi một lá thư Ngân đang viết dở dang.

Trong thư, Ngân nói với tôi rằng Ngân rất quý, rất thương, rất kính

trọng tôi, nhưng "không dám" nhận là người yêu của tôi, mà chỉ

mong là một người em, người bạn, người đồng chí mà thôi. Ngân lý

giải rằng hoàn cảnh sống của hai đứa có những sự cách biệt nhau,

trình độ lại chênh lệch nhau quá, Ngân không xứng đáng là người

yêu của tôi. Ngân lo rằng rồi đây gia đình tôi sẽ chê bai Ngân, bè

bạn tôi sẽ dèm pha Ngân, do vậy tôi sẽ chán nản và hạnh phúc giữa

hai đứa sẽ không được bảo đảm.

Đọc thư, bối rối trăm chiều, lòng bề bộn những câu hỏi, những

sự day dứt, những cách lý giải. Ôi, biết nói thế nào với Ngân để

Ngân hiểu và tin tôi bây giờ? Em ơi, tuy sống với em không được

480

bao lâu, nhưng anh đã tìm hiểu em khá kỹ, đã tham khảo những ý

kiến của những đồng chí thân cận anh về em rất nhiều và từ đó đặt

ra cơ sở vững chắc để xây dựng tình yêu với em. Rồi anh yêu em với

tất cả tình cảm mãnh liệt, thiết tha của mối tình đầu. Tình yêu ấy

thật là sôi nổi nhưng lại chín chắn chứ không bồng bột đâu em ạ!

Khi nhận được thư em đáp lại tình yêu của anh, anh sung sướng,

hạnh phúc biết bao nhiêu và đã thầm nhủ mãi rằng: anh sẽ yêu em

trọn đời, chúng ta sẽ chung sống với nhau thật đầm ấm như bố mẹ

anh đã chung sống với nhau. Ước mơ cháy bỏng như vậy đấy, có thể

nào anh lại từ bỏ tình yêu của anh, từ bỏ em được? Trong cuộc đời

anh, anh đã gặp nhiều người con gái, đã có những lần cảm thấy

yêu, nhưng chưa bao giờ anh thổ lộ tình yêu, rồi do nhiều điều kiện,

anh lại gạt bỏ nó đi, do vậy chưa một lần nào anh nói trực tiếp với

một người con gái hai chữ "yêu em". Nhưng lần này anh đã nói với

em, đã được nghe em nói lại hai chữ "thương yêu". Anh đã nói ra

như vậy và anh sẽ giữ mãi nó, sẽ thể hiện đầy đủ ý nghĩa của nó

trong quan hệ với em - và chỉ với em mà thôi, không thể với bất kỳ

một người con gái nào khác! Lẽ nào anh không thể thực hiện được

ước mơ chính đáng của mình chỉ vì những lý do rất xa xôi như em

đã nêu ra?

Nghĩ như thế nhưng không thể diễn đạt thành lời được. Ngân

thì vẫn vui vẻ nói chuyện với tôi. Không biết nói với Ngân như thế

nào bây giờ. Tôi bảo Ngân:

- Anh mong rằng những điều em viết cho anh là những lời nói

đùa!

Ngân đáp:

- Không phải đùa, em nói thật đấy.

- Anh không muốn em so sánh như thế.

- Không, trong quan hệ nếu không có so sánh thì không thực

với lương tâm!

481

- Em so sánh cũng được, nhưng cần so sánh cho đúng và giải

quyết cho đúng. Em hãy rút lui ý kiến của em đi. Anh chỉ có thể

chấp nhận những điều em nói trong lá thư trước tết.

- Bây giờ anh nghĩ như thế, nhưng sau này anh có thể nghĩ

khác.

- Hay là do em không yêu anh nên em nói tránh ra như thế?

- Không, không phải như vậy.

- Em thật khó hiểu, em làm khổ anh!

- Không đâu, anh làm khổ anh đấy!

- Em ạ, em đừng lo về gia đình anh, gia đình anh sẽ hoàn toàn

đồng ý với anh. Anh chỉ lo ba không đồng ý thôi, ba nghiêm khắc

lắm mà.

- Không, ba tình cảm lắm anh ạ, khi mới gặp thì ba ít nói,

nhưng khi đã quen, đã thân thì ba nói chuyện tình cảm lắm.

Buổi chiều qua đi. Ngân hẹn tôi tối sang gặp em. Lúc này, tôi

không còn đủ sáng suốt để nhận định vấn đề gì hết.

Tối, Ngân sang C8 tiêm thuốc cho Đệ. Thấy tôi ở dưới bếp, Đệ

gọi: "Lên đây em bảo cái này!" Khi tôi đến, Đệ bảo Ngân ngồi lên

võng, bảo tôi ngồi vào chiếc ghế cạnh đó, còn Đệ ngồi xuống đất, với

lý do "cho đỡ mỏi". Chắc Đệ đã rõ phần nào quan hệ giữa tôi và

Ngân. Cô gái Hà Tây này rất hồn nhiên song cũng khá tế nhị, tâm

lý. Ngoài 3 chúng tôi, còn một anh chàng nào đó nằm võng tận

ngoài đầu hè.

Tất nhiên lúc này câu chuyện không có gì đặc biệt cả. Ngân

nằm trên võng, để một cánh tay qua phía tôi, đu đưa võng. Tôi cầm

lấy bàn tay Ngân. Ngân rụt lại và nói: "Tay em nông dân đầy chai

chứ không như tay anh trí thức!" Ôi, sao em cứ cố tìm ra những sự

ngăn cách giữa 2 đứa? Tôi nắm lấy tay Ngân, khẽ vuốt ve và bảo:

482

"Không, em xem đây, tay anh cũng đầy chai. Anh phát rẫy giỏi lắm

chứ!".

Sau khi nói chuyện một lúc, Đệ cầm đèn pin đi ra ngoài: "Tao

có việc ra ngoài một tý, khi nào tao về mày mới được về đấy Ngân

nhé!". Ngân xuống võng. Tôi bảo nhỏ: "Khoan hãy về em!". Ngân lại

nằm lên võng. Tôi lại cầm lấy tay Ngân vuốt nhẹ và đưa lên môi

hôn. Ngân không nói gì hết. Không kìm nổi tình cảm tha thiết của

mình, tôi choàng tới, hôn lên má Ngân, hôn lên môi Ngân - làn môi

mọng và ấm. Tôi thì thầm: "Yêu em, yêu em, yêu em biết mấy". Tôi

không nhớ rõ thái độ của Ngân lúc ấy như thế nào? Lẽ ra, chúng tôi

phải ôm hôn nhau thật thắm thiết, chúng tôi yêu nhau cơ mà?

Nhưng còn chuyện lá thư Ngân viết cho tôi hồi chiều? Tôi bối rối,

băn khoăn, lo lắng. Em, em có giận anh không? Lát sau thì Đệ về.

Ngân cũng về và dặn tôi: "Lát nữa anh qua nhé".

Khoảng gần 9 giờ tôi sang. Gặp Ngân ở nhà ăn, Ngân bảo: "Anh

đến nhà anh Thanh chơi!". Tôi đi đến nhà Thanh. ồ, lúc này tôi

không còn tỉnh táo gì cả, tôi chỉ làm theo Ngân như một cái máy.

Trong nhà, anh em đang nói chuyện vui vẻ. Anh Tầm bảo Ngân:

"Em đi lấy nước mời khách chứ!".Ngân cầm ấm chạy đi. Khi Ngân

về, anh Tầm nói: "Nào, pha đường sữa mời khách chứ". Ngân cười:

"Nghèo quá, không có nhà, không có đường, có bạn đến chẳng biết

làm sao cả!".

Tôi cầm đàn ghita, dạo nhạc. Tôi và Thanh hát mấy bài hát

Nga. Âm điệu của những bài hát gợi lại trong tôi những ngày còn đi

học cấp 3 thường cùng bè bạn đàn hát. Ôi, tuổi trẻ, tuổi trẻ hồn

nhiên thích quá. Bây giờ làm sao tôi có thể trở lại hoàn toàn với sự

hồn nhiên, vô tư ấy? Tránh làm sao khỏi những sự phức tạp, va

vấp? Tôi đã bước vào đời từ lâu rồi mà. Và bây giờ thì tôi đang yêu.

Tình yêu đem đến cho tôi hạnh phúc, song cũng đem đến cho tôi nỗi

đau buồn và nhiều loại cảm xúc gì đó rất phức tạp, rất khó tả nữa.

Mới hay rằng yêu không phải là dễ và xây dựng một tình yêu thật

chân chính, thật đẹp đẽ lại càng khó.

Nghe âm điệu buồn buồn của bài "Sulicô" tôi thốt lên: "Bài hát

đầy mầu tang, lúc này mình không thích nghe!". Ngân vẫn ngồi đu

đưa võng. Tôi ngắm nhìn Ngân mãi qua ánh đèn dầu mờ nhạt. Tôi

483

có cảm tưởng Ngân như con chim vàng anh xinh đẹp và đáng yêu

đang vỗ cánh chuẩn bị bay vút lên vượt khỏi tầm tay tôi, bay lên

cao mãi.

9 rưỡi, tôi bắt tay mọi người, ra về. Thấy tôi không bắt tay

Ngân, anh Tầm nói đùa một câu gì đó làm mọi người cười ầm lên.

Đã ra đến sân, tôi nói lại: "Còn đồng chí Ngân muốn gửi gì cho anh

Đảo thì gửi nhé".

Tôi bước đi trong màn đêm. Đi thật ư? Lại xa Ngân ư? Bao giờ

gặp lại? Không có thể nói với Ngân những suy nghĩ của mình ư? Tôi

đứng lại nhìn qua phía nhà anh Thanh. Có ánh đèn pin rọi ra phía

cửa. Chắc Ngân về. Tôi đứng chờ.

Trong nhà bếp, chỉ cột có 2 võng: võng Ngân và võng Hải. Hải

đi chơi bên C8 chưa về. Ngoài nhà ăn, mọi người đều nghỉ ngơi trên

võng của mình. Ngân đốt đèn, lục tìm trong ba lô, lấy cuốn an bom,

lấy mấy cái phim đưa tôi. Tôi hỏi: "Đưa anh xem cuốn anbom được

không?". Hồi trước tết, tôi có gửi cho Ngân một cái ảnh 2 đứa -

nguyên là ảnh tôi phóng tách từ ảnh chụp chung với đông đảo anh

em khác ra. Không hiểu Ngân còn giữ không? Ngân cất cuốn

ambom đi và bảo: "Không, em không đưa anh xem đâu".

Mỗi đứa ngồi một võng nói chuyện với nhau. Nối liền 2 đứa là

một vùng ánh sáng khá lớn của ngọn đèn dầu. Tuy vậy, tôi cũng

không nhìn Ngân thật rõ được.

Tôi nói:

- Ngân ạ, anh không ngờ em lại viết cho anh lá thư như thế.

Khi đi đường chuẩn bị vào gặp em, anh nghĩ đến bao nhiêu chuyện

vui...

Ngân ngắt lời tôi:

- Đúng, vui là đúng chứ anh, gia đình anh ấm cúng thế mà!

484

- Gia đình anh ấm cúng, nhưng anh không thể vui nếu như

trong đó không có em!

- Thì trước đây vẫn không có em!

- Đó là trước đây! Chẳng thà đừng gặp em, đừng yêu em, đừng

được em yêu. Đằng này mới yêu như thế mà bỗng chốc thay đổi hết

cả, anh vui sao được? Tại sao hồi trước tết em lại viết cho anh lá thư

như thế?

- Hồi ấy khác, bây giờ khác.

- Mới có mấy tháng mà tình cảm em đã thay đổi vậy sao?

- Không phải thay đổi, nhưng phải lường cho sâu anh ạ. Không

biết anh có nghe người ta nói những chuyện về em trước đây không?

- Ồ, anh biết chứ, anh nghe rất nhiều, trong đó có những điều

nói về em thật tệ hại. Nhưng, nghe thì phải điều tra, chứ tin ngay

sao được? Em không biết đấy thôi, anh Phấn, anh Đảo đã giúp anh

điều tra những chuyện ấy. Anh biết có những người ác ý, ghen ghét,

cố tình nói xấu, dèm pha em. Thấy thực tế không có gì nên anh

không nói gì với em đó thôi.

- Anh ạ, không phải là em thanh minh, nhưng anh xem đấy, từ

nhỏ em sống với ba, sống trong quân đội, mãi tới tháng 6 năm 72

em mới qua Văn công rồi về Ban, làm gì tệ đến như thế được? Thực

ra em sống có rất nhiều người mến, có những anh đặt vấn đề với

em. Không phải là em kén chọn, nhưng em thấy không phù hợp cho

nên em không đồng ý do vậy có những anh đã nói xấu em.

- Anh biết chứ. Anh nghĩ bên quân đội kỷ luật rất nghiêm

minh, làm sao lại có thể xảy ra những điều xấu xa như vậy được?

Ngân tỏ ra yên tâm khi tôi nói những điều như vậy. Rồi Ngân

lại nói:

485

- Bây giờ ở rừng núi chỉ có anh và em thì được. Nhưng sau này

xuống đồng bằng, em già đi, xấu đi, lại dốt, rồi gia đình anh mỗi

người nói một câu, anh sẽ khổ.

Tôi đáp:

- Em ạ, thực ra khi quyết định yêu một người không thể không

đắn đo, suy nghĩ, so sánh. Nhưng anh nghĩ không thể lấy tuổi tác

và sắc đẹp làm cơ sở cho tình yêu - tuy nó cũng quan trọng. Bởi vì

nếu đặt cơ sở như vậy thì không vững chắc - thời gian sẽ làm cho

tuổi trẻ và sắc đẹp phôi phai đi. Anh muốn đặt tình yêu trên cơ sở

hiểu biết, thông cảm, thương nhau và chung thuỷ với nhau. Và anh

đã đến với em với tình cảm như thế.

- Nhưng nếu người ngoài dư luận dèm pha thì anh nghĩ thế

nào?

- Khi đã xác định rõ mọi chuyện, anh sẽ đạp trên dư luận xấu

mà đi đến mục đích của mình. Cũng có thể có một số người tung ra

dư luận xấu đấy, nhưng anh không ngại. Ngược lại, có rất nhiều

người ủng hộ chúng ta. Em biết không, hôm nọ anh Nguyễn Khắc

Phục đưa thư của anh cho em, anh ấy đứng chờ em suốt từ 10 giờ

đến 11 rưỡi khuya đấy. Bạn bè thân thiết của anh đều tôn trọng

tình yêu này và vun đắp cho nó.

- Bây giờ thì tôn trọng, nhưng sau này...

Câu chuyện còn tiếp diễn, nhưng chung quy lại Ngân vẫn

không rút lui ý kiến của mình.

10 giờ Ngân bảo tôi về nghỉ và đưa tôi một hộp đường bảo đem

về ăn. Tôi cất nó lại chỗ ba lô Ngân.

Đêm, nằm trăn trở mãi trên võng, không thể nào ngủ được. Suy

nghĩ mãi về Ngân. Xuất phát từ đâu Ngân nêu ra những ý kiến

trên? Ngân lo lắng thực sự đến quan hệ với tôi sau này hay do Ngân

đã có sự thay đổi về tình cảm?

486

Nếu Ngân đã thay đổi tình cảm với tôi, đã có một người nào đó

vừa ý hơn, thì có lẽ tôi sẽ rút đi một cách nhẹ nhàng thôi, tuy không

tránh khỏi đau buồn. Cái đó hoàn toàn do Ngân quyết định. Tôi

không có quyền ép buộc Ngân. Tình yêu là một thứ tình cảm hoàn

toàn tự giác, không thể dùng sự thúc ép bên ngoài mà kéo nó đến

mình được. Tôi cũng không ghen tuông. Ghen tuông là biểu hiện

cho sự bất lực của tình yêu. Mối tình mới bắt đầu và đang phát

triển. Nếu Ngân thuỷ chung với mối tình ấy, tôi sẽ nâng niu và dồn

cả tình cảm của mình vào vun đắp cho nó phát triển lên mãi. Còn

nếu như Ngân đã vội thay lòng đổi dạ, tôi sẽ hoàn toàn không tìm

cách ngăn cản Ngân.

Nếu như Ngân thực sự lo lắng là trong tương lai, do những

hoàn cảnh khách quan, tôi sẽ thay đổi tình cảm, thì tôi sẽ phải tìm

mọi cách làm cho Ngân yên tâm về điều đó. Trong cuộc đời, đây là

lần thứ 3 tôi tự quyết định những bước ngoặt lớn cho mình.

Lần thứ nhất: tôi quyết định không học đại học. Khi ấy, tôi tốt

nghiệp lớp 10, được chọn vào học khoa Xây dựng, trường đại học

Bách khoa. Nơi ấy là mơ ước của nhiều thanh niên. Nhưng riêng

tôi, tôi không phấn khởi chút nào khi đến nơi ấy, vì không hợp

nguyện vọng của tôi, tôi chỉ yêu ngành văn thôi. Nghe VNTTX mở

lớp phóng viên, tôi liền đến xin vào học. Bố tôi nói với tôi: "Tuỳ con

đấy. Nhưng con hãy suy nghĩ cho kỹ". Tôi nói: "Con suy nghĩ kỹ rồi.

Đi vào ngành ấy phù hợp với con hơn, con sẽ phát huy được năng

khiếu của mình". Bố tôi lại hỏi: "Nếu như trên gọi con đi học nước

ngoài, con có bỏ lớp phóng viên không?" -"Không, con đã theo thì

con không bỏ". Bố tôi dặn: "Được, con hãy làm theo quyết định của

con và làm tới cùng, đừng bỏ giữa đường". Thế là tôi rời trường đại

học, đi học lớp báo chí. Cho tới nay đã 7 năm trôi qua, tôi vẫn thấy

quyết định của mình là hoàn toàn đúng đắn và ngày càng thấy yêu

nghề của mình hơn.

Lần thứ 2, tôi quyết định vào Nam công tác. Khi ấy, khí thế tấn

công và nổi dậy trào dâng khắp miền Nam. Tiền tuyến cần người.

Đồng chí Tố Hữu đến VNTTX nói chuyện với chúng tôi: "Bây giờ

phóng viên phải đứng trên 4 phương thành Huế mà viết tin, chụp

ảnh". Tôi viết giấy tình nguyện vào Nam. Bố tôi lại nói với tôi: "Tuỳ

487

con, con suy nghĩ kỹ đi". Bao giờ cũng vậy, bố tôi chỉ gợi ý cho tôi

suy nghĩ sâu hơn và tự quyết định chứ không bao giờ quyết định

thay tôi những việc tôi sẽ làm. Bố tôi nói tiếp: "Thanh niên ngày

nay sống phải có lý tưởng, phải sôi nổi. Con xung phong vào tiền

tuyến là đúng. Nhưng con phải thấy trước những khó khăn, ác liệt

sẽ đến với con để chuẩn bị tinh thần mà vượt qua. Khi đã quyết

định đi, thì đừng vì gặp khó khăn, ác liệt mà chùn bước, thối lui".

Thế rồi bố tôi tiễn tôi đi. 5 năm đã qua, tôi đã chịu đựng bao nhiêu

khó khăn, gian khổ, ác liệt, có lúc tưởng đuối sức không vượt qua

nổi và tôi vẫn lớn lên về nhiều mặt. Chính ở nơi đây tôi đã được kết

nạp Đảng. Chính ở nơi đây tôi đã có những tiến bộ đáng kể về

nghiệp vụ, về chính trị và đã thu lượm được kha khá tài liệu thực tế

để nâng cao nhận thức và để phục vụ cho ý đồ viết sau này. Tới nay

hoà bình rồi, tôi vẫn thấy rất cần thiết phải có mặt tại đây, thấy rất

gắn bó với mảnh đất này. Tuy nhớ da diết gia đình, tôi vẫn xác định

rằng còn phải chiến đấu trong này rất lâu dài và rất thanh thản

chấp nhận thực tế ấy. Vậy là trong lần thứ 2 này, tôi cũng hoàn

toàn đúng đắn, không có gì phải ân hận cả.

Còn trong bước thứ 3 này? Thuý Ngân đã gợi ý cho tôi suy nghĩ

lại cho chín chắn. Đó là điều cần thiết. Song cũng như 2 lần trước,

tôi đã quyết định rồi sau khi suy nghĩ, đắn đo, tôi theo đuổi nó đến

cùng.

Suy nghĩ lại, tôi thấy chắc rằng Ngân không có sự thay lòng đổi

dạ nào đâu. Ngân đối xử với tôi vẫn thân thiết như buổi đầu. Nếu

đặt mình vào hoàn cảnh Ngân, sẽ thấy những điều Ngân nói là có

cơ sở thực tế. Thường phụ nữ hay tính toán, lo xa hơn đàn ông. Có

lẽ Ngân sợ tôi xốc nổi, say đắm quá mà không nhìn vào thực tế?

Người ta thường nói khi người phụ nữ đã yêu, thì họ muốn cho

người yêu của mình có đầy đủ hạnh phúc. Ngân sợ rằng Ngân

không có khả năng đem lại hạnh phúc đầy đủ cho tôi sao? Không,

Ngân ơi, em hãy nhìn lại em đi, em không thấp như em tưởng đâu.

Tuy học hành không được mấy, nhưng em rất thông minh và tỏ ra

biết nhận thức đúng đắn cuộc sống, có hiểu biết về xã hội, về quan

hệ giữa con người với con người, về cái đúng, cái sai. Nhiều người đã

nhận xét về em như thế và anh cũng thấy đúng như thế. Riêng việc

488

em sợ sau này anh sẽ khổ nếu như lấy em thôi cũng đủ cho anh

thấy hạnh phúc rồi. Điều đó nói lên em quan tâm đến anh biết mấy.

Kỳ lạ thật, chuyện này xảy ra, về hình thức thì hầu như đã đẩy

tôi ra xa Ngân, nhưng thực ra về nội dung lại kéo tôi lại gần Ngân

rất nhiều. Thật sung sướng khi phát hiện thêm những điều tốt đẹp

của người yêu của mình. Thấy yêu Ngân hơn nữa, yêu một cách sâu

sắc và đậm đà. Càng thấy gắn bó với Ngân hơn, càng thấy rằng từ

đây trong cuộc đời không thể nào thiếu Ngân được.

Một đêm sắp qua rồi.

Ngân hẹn chủ nhật này sẽ về ban.

Chủ nhật, 29/4/1973

Về thăm cơ quan. Phân xã TTX chúng tôi có thêm hơn 30 người

- phần lớn là sinh viên đại học Tổng hợp ra, học lớp phóng viên rồi

vào đây. Với lứa tuổi 22 - 25, những anh chị em này rất sôi nổi.

Trong số này lại có 4 cô gái nữa - 1 phóng viên ảnh, 3 phóng viên

tin. Nhà đông vui, nhộn nhạo hẳn lên. Mọi người bắt tay ngay vào

việc gùi cõng gạo và làm nhà ở, tạo cơ sở vật chất đầy đủ để rồi bước

vào công tác chuyên môn.

Khoảng 8 rưỡi sáng, Thuý Ngân và Đệ đến. Anh em trong phân

xã đều vui vẻ đón tiếp 2 người.

Đặc biệt anh Đảo, Phấn, Quảng đã chiều tôi rất nhiều, đã đón

Ngân như đón một đứa em trong gia đình, tạo cho Ngân không khí

vui vẻ, thân mật. Tôi rất hài lòng và rất hàm ơn trước cách đối xử

ấy.

Tôi cũng rất hài lòng ở thái độ của Ngân. Ngân đến thăm hỏi

anh Đảo, thăm hỏi mấy cô bạn gái trong nhà, gây được cảm tình với

những người bạn mới một cách nhanh chóng.

Khoảng 10 rưỡi, nhớ đến ảnh Ngân còn phơi ở sân gần buồng

tối, tôi đi lấy. Ngân chạy theo. Tôi hỏi:

489

- Sao, đồng chí em, đã suy nghĩ lại những điều trao đổi với

nhau hôm nọ chưa?

Ngân trả lời lấp lửng:

- Em thì trước sau như một.

- Anh cũng trước sau như một.

Thuỳ - cô phóng viên ảnh mới - đang chọn ảnh. Thấy chúng tôi

xuống, cô vội cầm mấy cái ảnh, đi lên. Tôi ngồi xuống cầm ảnh

Ngân lên cắt cạnh. Ngân nói dịu dàng:

- Anh, vào trong mát ngồi cắt không có đau đấy.

Chúng tôi đem ảnh vào trong nhà phóng ảnh, ngồi bên nhau

vừa xem ảnh, vừa nói chuyện. Tôi bảo:

- Em sợ anh đau, anh gầy mà lại viết cho anh lá thư như hôm

nọ à? Hôm ấy anh thức suốt đêm. Riêng chuyện đó cũng đủ làm anh

gầy đi bao nhiêu.

- Ai bảo anh nghĩ, anh thức cho khổ?

- Không nghĩ sao được?

Chúng tôi ngồi sát lại nhau.

Tôi hỏi:

- Ngân, em sinh năm 1952 phải không?

- Dạ!

- Thế ai bảo là em ít hơn anh 4 tuổi?

- Em không hỏi nhưng nghe mấy anh nói anh 25 tuổi.

490

- Không phải đâu nhé, anh 27 rồi, hơn em 6 tuổi cơ đấy. Em có

biết Các Mác và vợ như thế nào không?

- Có, vợ Các Mác hơn Các Mác 4 tuổi.

- Vậy mà hai người sống rất hạnh phúc.

- Dạ.

- Em thấy đấy, tuổi tác có quyết định được hạnh phúc vợ chồng

đâu? Còn ở đây, chúng ta lại không nằm trong tình trạng ấy, em

nhỏ hơn anh nhiều, em rất trẻ. Điều quyết định cho hạnh phúc vẫn

là sự hiểu biết, thông cảm nhau sâu sắc, hợp nhau, chung thuỷ với

nhau.

Ngân ngồi im lặng bên tôi. Cầm tấm ảnh Ngân lên, tôi nói:

- Ai cũng khen ảnh em đẹp!

- Đẹp gì, già gần chết rồi mà đẹp gì?

Tôi quay sang ngắm nhìn Ngân. Khuôn mặt em thân yêu biết

bao. Đây này, đôi mắt em to vừa phải, trong sáng lạ lùng, rất đẹp.

Anh có thể ngồi ngắm đôi mắt em suốt ngày không chán. Sống mũi

em hơi cao, thẳng, thật thanh tú. Làn da em mịn màng, hồng hào.

Đôi môi em mọng đỏ. Em nhìn lại em đi. Với anh, em là người đẹp

nhất trên đời.

Tôi choàng qua Ngân. Ngân hơi cười... Cơ thể Thuý Ngân săn

chắc truyền sang tôi một sức sống mãnh liệt...

Gần 3 giờ chiều, Ngân chuẩn bị về. Tôi sửa soạn gùi cho Ngân.

Ngân quấn quýt bên tôi. Tôi lấy khăn gói số thuốc Ngân lĩnh, lấy

dây dù buộc gùi cho Ngân. Tôi băn khoăn:

- Dây dù nhỏ thế này đau vai đấy em ạ.

- Không, mang thế này là sướng lắm rồi.

491

Được chăm sóc người yêu thật là một điều hạnh phúc. Chúng

tôi ít được ở gần nhau để chăm sóc lẫn nhau, cho nên những giây

phút này thật quý giá. Ngân đứng bên tôi. Tôi nhìn Ngân. Ngân

nhìn tôi. Ngân bảo:

- Hôm nào anh qua lấy cái quạt nhé.

Bữa trước, Ngân khâu cho tôi một cái quạt mà chưa xong.

Tôi hỏi:

- Sao em không đem qua cho anh?

- Đem ngại quá. Anh sang nhé.

Trời xầm xì muốn mưa. Mấy hôm nay chiều nào cũng mưa

giông. Tôi tiễn Ngân đi một quãng đường...

Trời chỉ dậm doạ mà không mưa.

Ngày 30/4/1973 - Thứ 2

Kỷ niệm 5 năm ngày tôi rời miền Bắc vào Nam.

Bầu trời mùa hè cao xanh vời vợi. Nắng vàng óng ả. Nhưng đến

chiều thì giông nổi lên, gió cuốn ào ào vít cây cối xuống. Một cành

cây to gẫy răng rắc, suýt nữa rơi trúng nhà tiểu đội quân sự làm

mọi người hốt hoảng chạy dạt ra. Đã sắp đến mùa mưa giông rồi.

Buổi chiều, trời hay dở chứng, làm mặt giận dữ.

Nhớ lại cách đây 5 năm, cũng vào buổi chiều, chúng tôi lên ô tô

bắt đầu cuộc hành quân lớn. Khi ấy, tôi còn là một thanh niên

măng sữa, lòng đầy nhiệt tình, nhìn cuộc đời lúc nào cũng thuần

khiết một mầu hồng. Những năm gian khổ đã dậy tôi nhìn sâu vào

cuộc sống hơn, thấy mặt phải và cả mặt trái của cuộc sống. Nhiều

lúc phải rùng mình ghê sợ vì thấy những biểu hiện đê tiện, xấu xa

quanh mình, ngay trong đồng chí mình. Nhiều lúc thấy sung sướng,

ngạc nhiên trước những biểu hiện đẹp đẽ, cao cả mà mình không

492

hình dung ra được. Và phải nói, cũng có những lúc thấy xấu hổ với

chính mình, vì những việc làm không tốt của mình mà mọi người

không biết. Nhưng điều cơ bản là tôi vẫn giữ nguyên được bầu máu

nóng, giữ được nhiệt tình sôi nổi của tuổi trẻ và cũng không để hoài

để phí những ngày đã qua.

Năm năm, so với cuộc đời không phải là dài. Nhưng năm năm

qua là một giai đoạn rất quan trọng đối với tôi, 5 năm đặt nền móng

cơ bản cho tôi xây dựng cuộc đời. Trong khoảng thời gian ấy, tôi đã

bước vào vị trí chiến đấu và đứng vững ở vị trí ấy, đã phấn đấu tốt,

được kết nạp đảng và trở thành đảng viên chính thức, được bầu vào

chi uỷ, đã rèn luyện về nghiệp vụ và cống hiến khả năng chuyên

môn của mình cho cách mạng. Tuy nhiên, về nghiệp vụ mà nói,

bước tiến của tôi còn chậm quá. Đứng trước một thực tế rất phong

phú và đã lăn lộn trong thực tế ấy, lẽ ra tôi phải viết được nhiều,

được hay hơn. Tôi vẫn chưa đầu tư nhiều thời gian cho việc viết,

nhất là viết văn.

Nhìn về tương lai, tôi thấy lòng đầy tin tưởng. Khó khăn còn

nhiều, song thuận lợi lại rất nhiều. Điều kiện sống dễ chịu hơn, đỡ

phải lo xoay xở về vật chất cho cuộc sống, chúng tôi có nhiều thời

gian để đi sâu vào công tác chuyên môn. Bên những người bạn đồng

nghiệp lớn tuổi, giàu kinh nghiệm, tôi có thêm một đội ngũ đông

đảo bạn đồng nghiệp trẻ tuổi, xốc nổi. Sống trong không khí ấy,

nhiệt tình viết sẽ luôn được hâm nóng và luôn rút được kinh

nghiệm.

Về đời tư, tuy xa gia đình, nhưng tôi vẫn luôn được sống trong

tình gia đình đầm ấm. Anh Đảo, anh Nhị, những người anh cùng

vào Nam một đợt với tôi, thương yêu tôi như một người em, luôn

quan tâm đến hạnh phúc của tôi. Anh Phấn, Quảng, Quả... cũng

sống với tôi thật chân tình, đằm thắm. Bên tôi lại có Thuý Ngân, cô

gái miền Nam mà tôi yêu quý, đã đem lại cho tôi những niềm hạnh

phúc riêng biệt. Tất cả những điều đó đã khiến tôi thực sự coi cơ

quan là gia đình thứ hai, miền Nam là quê hương thứ hai của tôi,

an tâm sống và chiến đấu lâu dài ở đó.

Nhớ lại ngày lên đường, cùng Vượng ngồi một ghế trên xe. Nay

Vượng đã hy sinh rồi. Thương nhớ Vượng vô hạn. Chắc rằng nếu

493

còn sống, Vượng sẽ rất nhiệt tình xây đắp cho tình yêu của tôi.

Trước khi chết, Vượng tỏ ra rất quan tâm đến điều đó, đã đi thăm

dò để tìm "đối tượng" cho tôi mà chưa được. So với tôi, Vượng vất vả

hơn nhiều. Suốt từ 1968 đến 1971, anh đã phải đánh vật với bệnh

tật, với sự đối xử tệ của một số người và phần lớn thời gian phải lăn

vào sản xuất, gùi cõng. Đến khi điều kiện khách quan có nhiều

thuận lợi để phát huy khả năng chuyên môn, được đi công tác, thì

anh lại hy sinh. Hình ảnh Vượng luôn luôn rõ nét trong tôi: dáng

người cao cao, gầy gầy, tính tình bộc trực thẳng thắn, hay châm

biếm, yêu ai thì chăm sóc hết mức, ghét ai thì như đào đất đổ đi,

dám bênh vực kẻ yếu, tuy bản thân không phải là người mạnh. Hồi

mới vào, tôi đưọc phân công chép Bản tin đọc chậm của Đài Tiếng

Nói Việt Nam. Một hôm, đài hết pin, anh Hầu - cùng Tiểu ban, chi

uỷ viên -lĩnh pin thay cho tôi. Đài vẫn bắt sóng yếu, cứ bập bà bập

bõm, tôi ghi chữ được chữ mất. Anh Hầu trách cứ tôi, cho rằng tôi

thiếu trách nhiệm. Vừa hay hôm ấy Vượng ở bên Quân khu về. Anh

bảo tôi đưa đài rồi mở ra, kiểm tra lại pin. Anh kéo tôi lại chỗ anh

Hầu, đưa hai viên pin ra và bảo: "Pin này cũ rồi, có phải anh đổi

không?". Anh Hầu chưa kịp trả lời, Vượng đã cầm chiếc đài của anh

ấy, bật bao, lấy pin ra. Rõ ràng, đây là những cục pin mới. Anh Hầu

ngượng ngùng trả lại pin cho tôi, không nói được câu nào. Vượng bị

một số anh trong chi uỷ thành kiến, suýt nữa không được chuyển

Đảng chính thức, may có anh Huỳnh Ngọc Lý và mấy anh khác

trong Đảng uỷ và Chi uỷ bênh vực nên mới khỏi bị thành "bạch vệ"-

như anh nói. Vượng ra đi còn để lại ở quê hương một vợ, một con

nhỏ. Tôi nhớ hồi hành quân qua Hà Tĩnh, đoàn dừng lại, Vượng

được phép về thăm nhà - vợ anh mới sinh. Khi Vượng trở lại, tôi hỏi

thăm, anh lúng túng không biết trả lời tôi con anh là trai hay gái.

Anh cười: "Mình ngó nó đỏ hỏn, có dám bồng đâu mà biết nó ra sao".

Đứa con đầu và là đứa con cuối cùng ấy của anh nay đã 5 tuổi,

nhưng không bao giờ nó có thể được thấy mặt cha nó! Tôi cứ tâm

niệm một điều: khi nào có dịp ra Bắc sẽ đến thăm gia đình Vượng,

kể lại cho gia đình Vượng nghe về những năm tháng đầy gian khổ

và cũng đầy yêu thương mà chúng tôi sống với nhau.

Ngày 10/5/1973

Vì một vết bỏng ở chân, tôi phải đi bệnh xá C.12.

Bây giờ, đường ô tô đã chạy vào tới Khu bộ. Đi theo đường xe ra

sông Tranh. Gặp mấy chiếc commăngca đi vào hoặc đang đậu dọc

494

đường. Sau mấy cơn mưa chiều, con đường có nhiều đoạn bị đọng

nước, lầy lội.

Tới sông Tranh, gặp con đường ô tô lớn. Một cái ngầm được đắp

qua sông. Phía bên này, con đường đỏ tươi chạy bên bờ sông, bám

theo các triền núi. Người ta đang làm thêm một con đường vòng lên

trên ngầm, ở đoạn sông sâu - có lẽ bến phà sẽ là nơi ấy. Tiếng mìn

phá đá nổ ầm vang, nối theo nhau.

Tôi đi nhờ một chiếc xe tải - nó chở đầy chất nổ đóng bánh.

Đường xóc vô kể. Có những đoạn đường chui qua những vạt rừng

già râm mát thật đẹp. Gặp khá nhiều trạm xe và nhiều xe. Xen vào

tiếng xe chạy ì ì, thỉnh thoảng lại ầm vang tiếng mìn phá đá. Chúng

ta tiếp tục mở đường và củng cố đường.

Từ 11/5/1973

Bắt đầu bản trường ca nhàn rỗi với những điệp khúc tẻ nhạt:

sáng tập thể dục, ăn cơm, yên tĩnh, tiêm thuốc, trưa uống thuốc, ăn

cơm, chiều thay băng, ăn cơm, tối tập "Cốc đại phong" và ngủ sớm.

Cứ như vậy ngày tiếp ngày trôi qua. Tuy nhiên, sinh hoạt đảng và

sinh hoạt hội đồng thương bệnh binh được duy trì đều.

Bệnh viện là nơi tập trung của các loại vi trùng, đặc biệt là vi

trùng sốt rét. Chúng đến đây và đua nhau trổ tài hành hạ con

người: có tên làm người ta sốt đùng đùng, có tên làm người ta sốt

hâm hấp nhưng sưng lách, có tên làm người ta nằm liệt, mê man.

Đặc biệt, đầu tháng 6 có một ca nguy kịch: đồng chí Hải, một thanh

niên người miền Bắc, bị sốt ác tính. Bệnh viện cứu chữa Hải với đầy

đủ thuốc và cho người trực suốt ngày đêm. Song, tình hình chưa có

gì sáng sủa cả. Bệnh nhân gầy rộc đi, nằm thoi thóp. Cái chết đã

hiển hiện trên khuôn mặt: má hóp, răng nhô ra, môi khô lạnh và

đặc biệt là đôi mắt, đôi mắt mở, không chớp, bạc mầu, dài dại,

dường như không còn nhận biết gì mọi hình ảnh ngoài đời nữa.

Nằm ở đây nơm nớp lo bị vi trùng sốt rét tấn công. Do vậy phải

chủ động tấn công nó trước và phòng ngự tích cực. Xẩm tối nào cũng

đốt một đống lửa to rồi tấp lá tươi lên tạo thành đám khói dữ dội

495

bao trùm cả nhà, lùa vào các ngõ ngách xua muỗi đi. Rồi đi bít tất,

thả tay áo cho dài và phủ bọc võng cho kín. Các cô y tá luôn đi kiểm

tra bọc võng bệnh nhân. Rồi uống thuốc phòng nữa. Mong rằng ta

sẽ thắng.

Ngày 13/5/1973

10 giờ 15', Đoàn Văn Hải từ trần. Vi trùng sốt rét đã đầu độc

trung ương thần kinh và phá huỷ hồng huyết cầu với mức độ quyết

liệt. Chúng tôi đưa Hải đi vào buổi chiều trời đầy mây. Hoàn cảnh

tương đối thuận lợi này khiến chúng tôi có thể chôn cất Hải một

cách đàng hoàng. Lòng bùi ngùi thương xót người đồng chí chưa

từng quen ấy. Người thanh niên 24 tuổi ấy đang học năm thứ nhất

Đại học thì xung phong đi bộ đội và vào đây chiến đấu.

Có lẽ, ở chiến trường, bệnh sốt rét là kẻ thù lớn nhất trong các

kẻ thù không vũ khí cướp đi sự sống của chúng tôi. Tôi còn nhớ,

Thuý Ngân đã kể cho tôi nghe rằng, vào năm 1969, trung đội của

Ngân đóng ở núi cao, giá lạnh, cả đơn vị bị sốt rét, sáng nào cũng có

một hai cô gái qua đời. Đâm ra ai cũng sợ giấc ngủ - cứ ngủ là thiếp

đi luôn. Nguyên nhân chỉ vì sốt rét, kèm với bệnh ghẻ và cái lạnh

hoành hành.

Trong chiến trường, qua 5 năm đối mặt với chiến tranh, tôi đã

chứng kiến bao nhiêu cái chết, với bao nhiêu kiểu chôn cất khác

nhau: Bị sát thương do bom đạn: bom bi, bom phá, bom na pan, đạn

pháo, đạn súng cối, đạn súng cá nhân... Bị ốm đau mà chết: sốt rét,

thương hàn, suy kiệt. Bị nạn: rắn cắn, hổ vồ, lũ cuốn, cây đè, núi

lở... Lại có bao nhiêu cảnh huống chết khác nhau: Đang ngủ bị

trúng bom, tan xác giữa giấc nồng. Đi đường bị địch phục kích, ngã

gục bên vệ cỏ. Lãnh trọn một quả pháo, tan xác. Thiếp đi trên võng

trong cơn sốt và lạnh dần, lạnh dần để rồi thầm lặng đi vào cõi vĩnh

hằng. Vượt sông trong mùa nước lớn, bị nước nhấn chìm. Lại có biết

bao kiểu chôn cất: Bọc trong võng, trong ni lông, hạ huyệt - đây là

kiểu chôn cất chu đáo nhất có thể có được ở chiến trường, vì không

thể nào tạo ra được bộ hòm áo quan. Mộ đá: có vùng toàn đá, không

thể đào hố chôn cất được, đành để xác đồng chí nằm trên đá rồi

khuân đá xếp dần, xếp dần thành ngôi mộ. Mộ nổi: đồng chí bị địch

496

phục kích hy sinh, khi đến thì thi thể đã thối rữa, không thể đi

chuyển, đành tấp ni lông lên, lấp đất, đắp dần thành ngôi mộ. Lại

có trường hợp bị chết trôi trong mùa bão lũ, xác vướng vào ngọn

cây, khi nước rút, xác gác trên ngọn cây. Chết nhiều kiểu. Chôn

nhiều cách. Nhưng có một điều chung: Hy sinh vì Độc lập, Tự do

của Dân tộc.

THƯ GỬI NGÂN

Ngày 5 tháng 6 năm 1973

Ngân thương yêu của anh!

Nếu như em đang buồn, thì bây giờ em hãy vui đi nhé. Anh của

em lại về nói chuyện với em đây. Như anh đã nói với em, không khi

nào anh muốn em của anh buồn, dù chỉ là buồn thoảng qua! Hơn

thế nữa, không khi nào anh muốn em của anh phải khóc, anh

không muốn những giọt nước mắt của em phải rơi hoài rơi phí, nếu

em có để rơi thì hãy đợi anh về, anh hứng lấy mà uống vào lòng. Bởi

vì anh yêu em lắm, Ngân ạ!

Thế mà chúng ta đã yêu nhau gần nửa năm rồi Ngân nhỉ! Trên

100 ngày yêu nhau mà chỉ được gặp nhau 3 lần, và nếu gom lại thì

sống với nhau chưa trọn một ngày! Cuộc sống khắc nghiệt như vậy

đấy. Nó thử thách tình yêu của con người một cách khá phũ phàng.

Song, em thân yêu ạ, dù xa em bao nhiêu chăng nữa, anh vẫn luôn

nhớ em và lúc nào cũng yêu em tha thiết. Biết bao nhiêu lần anh

thầm gọi tên em trong giấc ngủ trăn trở. Anh ước ao mãi những

giây phút sống bên em. Khi ấy, anh tha hồ yêu chiều em, đồng thời

cũng có những điều khuyên bảo em nữa. Nhưng đó vẫn chỉ là mơ

ước! Còn thực tế thì anh vẫn xa em và không biết đến bao giờ mới

được đoàn tụ. Anh được biết đoàn của anh sắp triển khai công tác

rồi, bây giờ ở vùng ranh (Hiệp Đức), chứ không vào Đà Nẵng nữa.

Hôm trước Ban có viết thư sang Ban Hiệp định "đòi" anh về. Song

bên Hiệp định nói rằng anh chính thức là người của đoàn, chính

thức chuyển sang quân đội nên không cho về. Bây giờ lại bắt đầu

vào công việc.

497

Hiện nay vết bỏng chưa lành, có thể nửa tháng nữa anh mới ra

viện. Nếu em hứa rằng khi anh đến, em không đưa anh một lá thư

nào như "lá thư viết dở" bữa trước, thì anh sẽ vào thăm em.

Anh đang viết thì anh Thanh vội đi. Anh tạm dừng bút nhé.

Hôn em nhiều. Anh của em!

Suy nghĩ trong những ngày xa em

Tháng sáu.

Bầu trời mùa hè cao xanh vời vợi. Không gian khoáng đãng,

song vô cùng oi bức. Ánh nắng chói chang muốn thiêu đốt con

người. Trong lòng anh cũng có một mùa hè cháy bỏng, đó là niềm

thương nhớ em trong những ngày xa cách, em thân yêu của anh ạ!

Nỗi nhớ nhung ấy vời vợi hơn bầu trời cao xanh, bao la hơn không

gian khoáng đãng, rừng rực hơn ánh nắng mùa hè, muốn thiêu

cháy trái tim anh.

Vào những năm trước đây, khi anh đang còn niên thiếu, những

mùa hè đến với anh khác bây giờ rất nhiêu. Em biết không, vào

những năm ấy, mùa hè đến với những hàng cây phượng vĩ trổ hoa

đỏ rực trời, với tiếng ve kêu râm ran khắp các đường phố, với niềm

vui rộn ràng của những người học sinh như anh: kết thúc một năm

học, bắt đầu những ngày nghỉ ngơi thoải mái. Người ta nghĩ đến

chuyện đi nghỉ mát ở những miền biển phóng khoáng, những vùng

rừng núi xanh tươi, hoặc về quê thăm nơi chôn rau cắt rốn của

mình.

Riêng anh thì không nghĩ đến chuyện về thăm quê được. Biết

gọi thế nào là quê của anh được nhỉ? Quê bố ở Ninh Bình, một tỉnh

thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Quê mẹ ở mãi Móng Cái, một tỉnh thuộc

vùng biển gần biên giới Trung Quốc. Còn anh thì lại sinh ra ở tận

phố Ngô Khê, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang, một vùng rừng núi

hẻo lánh nằm ở phía Bắc Tổ quốc, cách Hà Nội đến gần 400 cây số.

Quê hương, nếu theo nghĩa thông thường người ta hiểu, thì đó là

nơi mình sinh ra và lớn lên, đồng thời ở đó có một ngôi nhà, một

498

mảnh vườn và có những người họ hàng thân thích của mình. Còn

Ngô Khê? Đúng nó là nơi anh sinh ra, song anh không lớn lên. Mới

sinh ra, còn đỏ hỏn, anh đã được bố mẹ đưa lên thị xã Hà Giang.

Sau đó là những ngày rong ruổi trên đường kháng chiến.

Lúc ấy bố là một cán bộ quân đội, luôn luôn cơ động theo yêu

cầu chiến đấu, do vậy gia đình cũng di chuyển theo. Anh đã từng

ngồi trong quang thúng do bà, mẹ gánh, hoặc ngồi sau yên ngựa

của bố mà đi qua Tuyên Quang, Phú Thọ, rồi lại từ Phú Thọ qua

Tuyên Quang sinh sống, cũng có khi phải lẽo đẽo đi bộ hàng chục

cây số nữa. Thời gian ấy, việc học hành của anh bị gián đoạn luôn,

nên mặc dầu học khá thông minh, anh vẫn chẳng qua được lớp nào

cả, Xem ra như vậy thì thời thơ ấu của anh cũng khá vất vả chứ

chẳng được "bọc đường" như người ta tưởng đâu em ạ.

Mãi tới khi hoà bình lập lại anh mới cùng gia đình về Hà Nội ở,

và từ đó mới được học hành tử tế. Anh cùng gia đình bắt đầu sống

trong môi trường tập thể: cả gia đình đều sống trong khu tập thể

của cơ quan. Mỗi lần cơ quan di chuyển là gia đình lại di chuyển

theo, hết ở Bạch Mai lại qua Cầu Giấy, sau đó qua Gia Lâm rồi Mễ

Trì. Nghĩa là anh đã sống cả 4 phương trời của Hà Nội, mỗi nơi

sống một ít, nhưng chẳng sống ở đâu lâu để mà "bắt rễ" ở đó.

Suốt thời niên thiếu anh đã sống trong môi trường tập thể như

thế, ngay trong những ngày hè, anh cũng nghỉ ngơi, vui chơi ở đấy

chứ không đi các nơi như bè bạn khác. Đặc biệt mùa hè nào anh

cũng dành ra một vài tháng đi lao động ở công trường hoặc nông

trường để rèn luyện mình, mặt khác để có tiền tự mua sắm áo

quần, sách vở, anh ít thích phụ thuộc quá vào gia đình. Có khi anh

gọi đùa những chuyến đi lao động ấy là những chuyến về thăm quê.

Anh nói những điều như trên là để em hiểu rõ thêm về anh,

đồng thời để lấy cơ sở mà giải thích cho em về một số quan niệm

của anh về cuộc sống.

Như em đã biết đấy, anh cũng có một nơi sinh, nhưng lại chẳng

có một quê hương cụ thể nào cả. Anh sinh sống và lớn lên ở nhiều

vùng của Tổ quốc, trên mỗi mảnh đất ấy anh đều có những kỷ niệm

499

yêu thương, đều thấy gắn bó với nó và đều có thể coi nó là quê

hương của mình. Anh quan niệm rằng mảnh đất nào mà tại đó

mình sống những ngày có ý nghĩa, mình có những kỷ niệm thân

thương, thì mảnh đất ấy là quê hương của mình. Sở dĩ anh nói với

mọi người quê anh ở Hải Dương là vì đó là địa bàn công tác đầu tiên

của anh, từ đó anh thực sự bước vào đời. Cũng với quan niệm ấy,

bây giờ anh có thể nói rằng miền Trung Trung Bộ là quê hương

anh. Không gọi nó là quê hương sao được, khi mà tại đó, anh đã

sống những năm tháng sôi nổi nhất của tuổi trẻ, đã bước những

bước tiến quan trọng nhất của cuộc đời, đã cống hiến một phần nhỏ

bé sức lực và trí tuệ của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc?

Bên cạnh đó, bây giờ anh lại có em, một cô gái anh rất yêu và cũng

rất yêu anh. Điều đó càng làm anh gắn bó hơn với mảnh đất này.

Anh rất biết ơn mảnh đất đã rèn luyện anh, đồng thời đã đem lại

cho anh hạnh phúc.

Em là một trong những nguồn hạnh phúc lớn lao của anh đấy,

em thân yêu ạ. Cứ mỗi lần nghĩ tới em là anh lại thấy lòng mình

dào dạt tình yêu, cháy bỏng nhiệt tình và anh thấy cuộc đời đẹp đẽ

quá, đáng sống quá. Trong những giờ phút ngắn ngủi bên em, anh

muốn ngắm nhìn em thật kỹ để in sâu hình ảnh em vào trái tim

anh, để khi xa em, hình ảnh ấy lại hiện lên rõ nét trong óc anh.

Trong những ngày nằm điều trị, không có việc gì làm, anh càng

nhớ em da diết và dường như đêm nào anh cũng thầm nói chuyện

với em, thấy như em đang ở bên anh. Biết rằng em cũng rất thương

nhớ anh, luôn luôn nghĩ đến anh, anh thấy trái tim mình được sưởi

ấm lên rất nhiều.

Nghĩ về em, anh lại nghĩ đến tương lai của chúng ta, ngày ấy

không phải gần lắm, nhưng cũng không xa xôi lắm và nhất định sẽ

đến. ấy là khi cuộc đấu tranh của chúng ta để gìn giữ và xây dựng

hoà bình đã giành được những thắng lợi to lớn hơn bây giờ, khi anh

hoàn thành nhiệm vụ trở về, chúng ta sẽ ở bên nhau. Khi ấy nhất

định anh sẽ đưa em về Hà Nội thăm gia đình, anh sẽ nói với bố mẹ

rằng:"Thưa bố mẹ, con đã đem về gia đình ta một người con đấy", và

rồi bố mẹ sẽ đón em bằng tình cảm nồng thắm, bằng không khí ấm

áp thực sự gia đình. Anh sẽ đưa em đến thăm ngôi trường cấp 3

500

Trưng Vuơng, nơi đã chắp cánh cho những ước mơ của anh, đưa anh

bay bổng vào cuộc đời. Anh sẽ dẫn em đi dạo mát ở đường Thanh

Niên, ngắm nhìn những chiếc thuyền của những đôi trai gái êm trôi

trên mặt Hồ Tây, giữa ánh trăng thanh, đón làn gió mát rượi của

mặt hồ bao la. Trong làn gió ấy có hương thơm ngan ngát của hoa

sen, lại có lời thủ thỉ tâm tình của những đôi trai gái yêu nhau.

Chắc rằng chúng ta sẽ hoà vào làn gió ấy lời ân ái dịu ngọt của

chúng ta - của anh, của em - của hai người đang yêu nhau tha thiết.

Anh sẽ dẫn em đi dạo chơi ở công viên Thống nhất. Tại đó có nhiều

hoa lắm: hoa hồng, hoa cúc, hoa thược dược, hoa huệ, hoa lay dơn,

hoa nhài... hoa nào cũng khoe mầu sắc rực rỡ, toả hương thơm ngào

ngạt. Hoa cứ nhởn nhơ trước gió như thế, yêu chiều hết thảy mọi

người như thế, nhưng chẳng về với riêng ai cả bởi vì hoa là của

chung xã hội. Đi giữa vườn hoa ấy, em cũng là một bông hoa xinh

đẹp, nhưng có điều khác là bông hoa ấy chỉ biết chiều anh thôi,

bông hoa ấy là của riêng anh,

Em hãy tin tưởng vào tình yêu, tin tưởng vào tương lai em nhé.

Tương lai đầy hạnh phúc sẽ đến với chúng ta, nếu chúng ta biết yêu

nó một cách thực sự, biết chiến đấu, hy sinh vì nó. Anh nghĩ rằng

nỗi đau xa cách hiện nay của chúng ta cũng là một sự hy sinh cho

tương lai. Chắc rằng rồi đây chúng ta sẽ còn phải xa nhau, sẽ còn

phải hy sinh tình cảm riêng tư nhiều hơn nữa. Anh tin rằng cả anh

và em đều sẵn sàng hy sinh như vậy, đều có đầy đủ khả năng vượt

qua mọi thử thách của nó để giữ vững mối tình này. Em sẽ đợi anh

nhé. Chúng ta sẽ đợi nhau nhé. Chúng ta còn rất trẻ, còn có nhiều

thời gian để đợi nhau. Trước đây nhà thơ Liên xô Ximônốp có viết

bài thơ "Đợi anh về":

"... Em ơi đợi anh về

Đợi anh hoài em nhé

Mưa có rơi dầm dề

Ngày có dài lê thê

Thì em ơi cứ đợi..."

Ngày nay chúng ta cũng đợi nhau như vậy. Nhưng chúng ta sẽ

không phải đợi nhau trong "mưa dầm dề", "ngày dài lê thê" mà là

trong những ngày ấm nắng mặt trời, những ngày sôi nổi của cuộc

501

đời. Xa nhau, thương nhớ nhau, nhưng chớ sầu bi mà hãy biến nỗi

nhớ thương thành nhiệt tình công tác, học tập để rút ngắn thời gian

xa cách lại.

Biết nói sao nữa em nhỉ. Chuyện yêu đương dài như năm

tháng, chẳng bao giờ nói hết được. Đọc những dòng trên, em hiểu

thêm về anh, em có thấy anh gần gũi với em hơn trước không? Đấy,

anh cũng sinh ra từ một gia đình lao động, cũng đã từng chịu khổ

từ nhỏ, cho nên anh rất quý những người lao khổ khác. Hoàn cảnh

gia đình em chẳng những không làm cho em cách biệt anh, làm cho

em hổ thẹn như em tưởng, mà ngược lại lại đáng làm cho em tự hào

và càng làm cho em hoà hợp với anh. Em đừng nghĩ rằng đồng bào

miền Bắc đều là những người giầu sang, đều sống cuộc sống phú

quý như bọn tư bản trong này, cách biệt hẳn những người lao động.

Hoàn toàn không phải như vậy. Hầu hết những học sinh, sinh viên,

cán bộ, kỹ sư... ở ngoài ấy đều xuất thân từ đồng ruộng, nhà máy,

đều đã chịu những nỗi cay đắng của cuộc đời, đều chịu chung cảnh

nước mất nhà tan. Chỉ từ khi miền Bắc được giải phóng, xây dựng

xã hội chủ nghĩa, thì cuộc đời họ mới được sáng sủa lên, được học

hành, lúc này học hành trở thành niềm vinh dự, đồng thời là trách

nhiệm của mỗi một người dân đối với Tổ quốc, học là để tiếp thu tri

thức khoa học mà xây dựng đất nước chứ không phải học là để xây

dựng chỗ đứng cao cho cá nhân mình, để khinh miệt và đè nén

những người khác.

Rồi đây, quê hương chúng ta cũng sẽ tiến lên như miền Bắc.

Nhịp độ xây dựng phát triển mạnh mẽ đòi hỏi có nhiều người lao

động có kiến thức khá. Muốn đáp ứng tốt yêu cầu ấy, mỗi người

chúng ta đều phải tích cực học tập em ạ. Anh cũng phải học, học

nhiều hơn nữa vì anh mới học đưọc ít lắm. Em cũng phải học, học

cho siêng năng. Khi chưa có điều kiện vào trường lớp chính quy thì

chúng ta tự học: học các lớp bổ túc văn hoá, học qua sách báo, tài

liệu khoa học. ở bệnh xá có những quyển sách về y rất hay, vừa dễ

hiểu, vừa bổ ích, anh đã đọc và anh lại nghĩ đến em: giá như em có

những quyển sách đó thì rất có lợi cho công tác chuyên môn của em.

Tiếc rằng anh không xin được về cho em. Tuy nhiên, bây giờ miền

Bắc cũng đưa vào khá nhiều sách, nếu chịu khó tìm kiếm thì cũng

có những sách cần thiết mà đọc.

502

Em thương yêu! Đã có lúc nào em nghĩ đến ngày chúng ta sẽ

chung sống với nhau chưa? Anh đã nghĩ như vậy đấy em ạ, ngày đó

tất nhiên sẽ đến. Anh nghĩ rằng muốn cho khi về ở với nhau chúng

ta sống hoà thuận, hạnh phúc, thì trong quá trình yêu nhau, chúng

ta phải tìm hiểu nhau thật nhiều, thấy được ưu điểm và cả nhược

điểm của nhau, thấy được những điểm phù hợp và cả những điểm

chưa phù hợp nhau để cùng tìm cách giải quyết, đưa đến chỗ phù

hợp nhau hoàn toàn. Có điều trở ngại là chúng ta ít được ở gần

nhau quá, ít có thời giờ ngồi trò chuyện với nhau. Để vượt qua trở

ngại đó, anh nghĩ cách tốt nhất là chúng ta sẽ viết cho nhau thật

nhiều: viết về mình để người yêu hiểu, viết về những suy nghĩ của

mình, về quan hệ giữa hai người, về tình cảm yêu thương và cả

những điều băn khoăn của mình, những điều mình chưa hài lòng ở

người yêu.

Trong thư gửi em, anh có nói rằng anh cũng thấy ở em có một

số nhược điểm, song không phải là nhược điểm cơ bản, có thể sửa

chữa được. Bây giờ anh xin nói về một số nhược điểm ấy nhé.

Nhưng trước hết, anh mong em hiểu rằng anh nói ra những điều

sau đây không phải là để chê bai em, mà là để em thấy rõ thêm mà

thôi. Điều đó cũng thể hiện niềm tin yêu của anh đối với em, thực

sự muốn chung sống với em (nếu không thì anh nói làm gì phải

không em?):

Trong quan hệ với mọi người, em hồn nhiên cởi mở, được nhiều

người mến, điều đó rất tốt. Song như thế vẫn chưa đủ em ạ, vì bên

cái hồn nhiên, cởi mở, còn phải có sự dịu dàng, ý tứ, hay như các cụ

thường nói là phải nết na. Người ta nói rằng em hơi "lanh chanh" -

anh thì chưa thấy như thế, nhưng cũng phải nhận rằng trong cách

đối xử, có lúc em chưa được khéo léo, ý tứ. Có lúc người khác viết

thư, em lại đứng xem rất tự nhiên, thậm chí đứng sau lưng, vịn vào

vai người ta mà xem (mặc dù người đó là con trai). Không nên như

thế em ạ. Cần thể hiện tính tự trọng mình và tôn trọng người khác.

Em thử nghĩ xem, nếu em đang viết thư cho anh mà có anh chàng

nào đứng xem thì em có khó chịu không? Do vậy phải giữ ý em ạ,

thấy người khác đang đọc hay đang viết thì không nên xem, có khi

phải tránh đi cho người ta viết tự nhiên là khác, trừ trường hợp

người ta cho phép mình xem. Anh đã gặp trường hợp một người

503

chồng nhận được thư người khác gửi cho vợ, anh ta giữ nguyên như

vậy về đưa cho vợ chứ không tự ý bóc ra xem, như vậy là anh ta biết

tôn trọng vợ đấy em ạ.

Có những lần đến nhà, em đã làm anh không vui, tuy đó là

những chuyện nhỏ nhặt thôi, nhỏ nhưng cũng cần xử xự cho đúng.

Tại sao em vào nhà, anh mời em ngồi mà em cứ đứng mãi, đưa nước

em uống mà em không chịu cầm, cứ dùng dằng mãi trước mặt mọi

người? Làm như vậy anh không vui đã đành, lại còn mọi người nữa

chứ, họ sẽ nhìn vào mà chê cười cả hai đấy! Chắc em cũng biết đấy,

trong phép lịch sự thông thường, thì khi có khách đến nhà phải mời

khách ngồi, uống nước (đó là lịch sự cần thiết, không phải là khách

sáo đâu) và khi mình vào nhà người khác, họ mời thì mình phải

ngồi, họ đưa nước thì mình phải cầm lấy -nếu mình không muốn

uống thì cũng cầm lấy rồi để xuống, nếu mình thấy cần để người

khác uống thì cũng cứ cầm lấy và đưa mời người ấy uống - như vậy

có phải là vui vẻ cả không? Có khi anh bảo em mà em không nghe,

anh nói với em những lời thân ái mà em đáp lại bằng những lời khô

khan (có khi anh biết em nói nhỏ như thế nhưng không nghĩ như

thế, nhưng đã không nghĩ như thế thì nói làm gì? ). Anh nghĩ rằng

khi đã yêu thì cần trải lòng chân thật với người yêu, nghĩ sao nói

vậy, yêu nói yêu, giận nói giận, khi yêu thì âu yếm nhau, khi giận

thì phê phán nhau, chứ đừng có thái độ nước đôi, thoắt thế này,

thoắt thế khác, khó hiểu. Có người con gái khi sắp yêu thì rất ngoan

ngoãn nghe lời người con trai, nhưng khi yêu rồi, được người yêu

chiều chuộng thì trở nên hợm hĩnh, bướng bỉnh, luôn luôn làm khổ

người yêu. Lẽ ra phải biết nghe lời người yêu hơn nữa và cũng phải

chiều chuộng lại người yêu mới phải chứ em nhỉ. Em không phải là

người con gái như thế, nhưng anh nhắc em trước để em tránh, em

có đồng ý không? Thực ra khi yêu thì người ta có thể làm nũng

người yêu tý chút, nhưng phải trong điều kiện có riêng hai người

thôi và dứt khoát không phải là sự nhũng nhẽo, bướng bỉnh. Anh

nói như vậy không phải là anh khô khan đâu, trái lại anh sẵn lòng

chiều em rất nhiều nếu sự chiều chuộng đó không làm hại em.

Còn có chuyện này, anh thấy cần nhắc em để em chú ý. ở trong

này anh gặp rất nhiều cô gái rất vô ý: khi nói chuyện với con trai lại

đứng dựa hẳn vào võng người ta, có khi lại tựa hẳn vào người ta,

504

khi cần lấy một vật gì nằm khuất sau người con trai thì không đi

vòng để lấy mà với qua mặt người ta, thậm chí lại áp cả những bộ

phận cần giữ kín vào lưng, vào đùi người ta nữa chứ. Đó là hành động

không đẹp mắt, anh thấy rất khó chịu. Những người con gái nết na

không bao giờ đụng chạm vào người con trai và không bao giờ để

người con trai đụng chạm vào cơ thể mình (tất nhiên là trừ quan hệ

với người yêu, hoặc vợ chồng, nhưng cũng trong điều kiện là chỉ có hai

người thôi). Em đừng nghĩ là anh quá phong kiến nhé, trong nếp sống

mới, người ta cần xây dựng những điểm như thế đấy.

Trên đây là một vài điểm cụ thể của cuộc sống mà thôi. Nhìn

chung lại, theo anh nghĩ, một con người, nhất là một người con gái,

biết cởi mở nhưng lại biết kín đáo, biết hồn nhiên nhưng lại biết ý

tứ, tế nhị, biết vui tươi nhưng lại biết tránh ồn ào, phô trương thì sẽ

được mọi người quý mến và tôn trọng.

Bây giờ anh nói đến mặt hình thức. Em có biết em là một cô gái

đẹp không Ngân? Thực đấy, em đẹp lắm Ngân ạ. Không phải vì anh

yêu em mà anh khen em đẹp đâu, nhiều người khen em như vậy

đấy. (Cũng nói thêm rằng không phải chỉ vì em đẹp mà anh yêu em

đâu, tuy đó cũng là phần quan trọng). Mọi vẻ đẹp sẵn có trên cơ thể

em, từ khuôn mặt đến đôi mắt, sống mũi, hàm răng, làn tóc... đối

với anh đều là vẻ đẹp hoàn hảo rồi, không cần tô vẽ gì thêm nữa. Ôi,

giá như em cũng cạo lông mày cho nhỏ đi, cũng bịt răng vàng hoặc

cũng tô vẽ diêm dúa như một số cô gái khác thì anh buồn lắm đấy.

Đáng mừng là em không như thế. Hãy tiếp tục sống giản dị như em

đã sống nhé! Những mầu áo em mặc, anh đều rất ưa nhìn. Đặc biệt

anh rất thích cái áo xanh mầu nước biển của em vì đó là mầu anh

ưa thích, vì cái áo đó anh thấy em mặc khi anh mới quen em. Chiếc

áo ấy đã trở thành kỷ niệm của anh rồi, mỗi lần gặp ai mặc áo mầu

ấy anh lại nhớ đến em với tình cảm đằm thắm lạ lùng. May quần,

em đừng may bằng loại vải bóng láng nhé. Trong này có loại vải sa

tanh ni lông bóng nhẫy anh rất ghét nhìn. Người mặc quần vải ấy

đi ngoài nắng trông cứ bóng nhẫy lên, làm anh có cảm giác là bao

nhiêu mỡ trong cơ thể họ đều chảy ra thấm ướt đẫm quần ấy, dễ sợ

quá. Nói chung, trong đồ trang sức không nên dùng thử gì quá sặc

sỡ, hào nhoáng. Em thử quan sát xung quanh mà xem, nhìn vào

một vật có mầu rực rỡ, chói loà, cảm giác đầu tiên là thấy hấp dẫn,

505

muốn nhìn ngay, nhưng sau đó là cảm giác nhức nhối, khó chịu,

không muốn nhìn nữa, nó có một sức đẩy đối với ánh mắt của con

người, trái lại, một vật có mầu sắc dịu dàng, có bề mặt mịn màng,

khi mới đến, người ta ít để ý nhưng khi đã thấy thì muốn ngắm

nhìn mãi, ngắm nhìn không mỏi mắt - nó có một sức hút đối với ánh

mắt của con người. Trong tính tình con người cũng vậy đấy, một cô

gái nói to, cười lớn, nô dỡn ồn ào dễ làm cho người ta quen, biết,

nhưng lại rất ít làm cho người ta yêu, còn một cô gái nói năng nhỏ

nhẹ, kín đáo, không khoe mình ra trước mọi người thì khó được người

khác để ý đến trong những lần gặp đầu, nhưng sau đó sẽ làm cho

người ta quý mến, để lại những ấn tượng đậm đà trong tình cảm

người ta khiến người ta muốn gặp, muốn nói chuyện mãi.

Anh nói thêm một điểm nữa về phong cách sống. Trong công

tác cũng như trong đời sống riêng tư, biết độc lập suy nghĩ, hành

động là đúng, mặt khác lại phải biết lắng nghe ý kiến của những

người xung quanh thì mới dễ tiến bộ. Cần phải biết xem xét cách

sống của những người xung quanh, thấy cái xấu của họ mà tránh

cho mình, thấy cái tốt của họ mà làm theo. ở chỗ em có Hải được

nhiều người khen về tính nết. Riêng anh cũng thấy cô ấy rất khéo

léo trong cách đối xử, nói năng thì dịu dàng, lễ độ, quan hệ với mọi

người thì đúng mực. Em nên học tập những điểm tốt ở cô ấy.

Em yêu thương của anh! Em đã nói với anh rằng khi đoàn tụ,

em sẽ chiều anh gấp bội. Anh tin đó là lời nói chân thực của em,

chắc chắn em sẽ làm đúng lời nói ấy. Những điểm anh nói trên đây

là những điểm anh muốn được em chiều đấy. Em thấy có khó

không? Chắc không khó đâu em nhỉ. Ngược lại, anh cũng sẽ chiều

em rất nhiều. Có những điều gì em chưa hài lòng ở anh, có những

điều gì em mong muốn, em cứ nói, anh sẵn sàng tiếp thu và sẵn

sàng đáp ứng đầy đủ yêu cầu của em.

Anh nói những điều như trên, em có cho là anh quá xét nét,

nhỏ nhặt không? em có cho là anh khó tính không? Anh thì thấy

cần phải như thế em ạ. Đó mới là yêu thực sự. Nếu thấy những

nhược điểm của người yêu mà cứ nhắm mắt bỏ qua hoặc bao che

cho nó thì chỉ làm hại người yêu mà thôi. Rồi đây trong quá trình

sống với nhau, anh cũng sẽ làm như vậy đấy! Anh sẽ rất chiều

506

chuộng em và cũng sẽ rất nghiêm khắc với em. Đấy, anh đã giãi bày

cho em rõ con người anh là như thế đấy, em có thông cảm được

không?

Viết tới đoạn trên, anh bỏ bẵng mấy ngày vì anh say mê đọc

cuốn tiểu thuyết của E-lê-na I-li I-na nhan đề "Tuổi trẻ Các Mác".

Đọc xong cuốn sách đó, anh cầm bút tiếp tục viết cho em đúng ngày

1-7, ngày sinh của anh, ngày anh vừa tròn 27 tuổi. Vào tuổi này,

nhiều thanh niên đã có vợ, có con rồi đấy, còn anh thì mới yêu, đang

yêu tha thiết. Anh lại nói với em về tình yêu, nhưng không nói về

anh nữa, mà nói về tình yêu cao thượng của hai con người mẫu mực

trong nhân loại: Các Mác và Gien ni. Khi Các Mác hỏi Gien ni

"Gien ni có yêu Các không? "và Gien ni trả lời: "Có, Gien ni rất yêu

Các" thì Các 18 tuổi và Gien ni 22 tuổi. Từ đó hai người càng gắn bó

mật thiết với nhau hơn, giữ gìn tình yêu như một thứ quý giá nhất

trên đời, tuyệt đối trung thành với nhau. Họ đã xa nhau, chờ đợi

nhau đằng đẵng 7 năm trời rồi mới được chung sống với nhau. Hai

người yêu nhau với tình yêu cao thượng lạ thường: không bao giờ họ

nghĩ về mình, vì mình, mà chỉ nghĩ về người yêu; vì người yêu, họ

sẵn sàng hy sinh và thực tế đã hy sinh rất nhiều cho nhau. Các Mác

đã nâng cái vẻ đẹp sẵn có của Gien ni lên mức tuyệt vời - cả về thân

thể lẫn tâm hồn và lý tưởng. Còn Gien ni là người vợ vô cùng thân

yêu, cao cả, là người bạn tuyệt đối trung thành, người cộng tác đắc

lực của Các. Chính Gien ni đã đem lại hạnh phúc tràn trề suốt cuộc

đời Các và đã góp phần chắp cánh cho tư tưởng vĩ đại và phẩm chất

sáng ngời của Các lên đỉnh cao tuyệt đối của nhân loại.

Anh và em cùng đọc một đoạn trong tác phẩm tuyệt hay này

nhé:

"... Lại không có thư từ gì của Gien ni.

Các khổ sở đoán già đoán non đủ thứ. Có việc gì xẩy ra chăng?

Gien ni có khoẻ không? Hay Gien ni không yêu anh nữa rồi?

Cứ nghe tiếng chuông gọi cửa anh lại chạy ra... May ra có thư

chăng? Nhưng bác đưa thư dường như quên hẳn anh...

507

Và bỗng một hôm ra phố gặp một người quen ở Tơ re vơ đến (Tơ

re vơ là quê hương của Các Mác và Gien ni, nơi Gien ni sống), Các

được biết qua người này rằng ở Tơ re vơ mọi sự đều vẫn như cũ,

nhưng "Cô Gien ni, theo cách nói thông thường, đang có một "đám"

khá chững chạc đến hỏi".

Các không nói gì, nhưng cảm thấy máu bốc lên nóng bừng cả

mặt.

Trở về phòng, anh vơ lấy bút, giấy và hối hả viết cho Gien ni

một bức thư đầy đau buồn và tuyệt vọng. Viết xong, anh lại ngẫm

nghĩ một lát, xé vụn bức thư ra rồi viết một bức thư khác vắn tắt dè

dặt. Anh nghĩ:

"Nếu đã thế thì tốt hơn là nên biết rõ hết mọi sự càng sớm càng

tốt. Còn trong trường hợp như thế này thì thuyết phục hay van nài

đều vô ích".

Anh cố gắng hết sức dằn lòng được để đợi thư trả lời. Hai tay

run bắn lên vì xúc động, anh mở chiếc phong bì đang cất giấu

những gì sẽ quyết định số phận của anh.

Đây rồi, những trang đầy những nét chữ thân yêu.

Gien ni viết:

"Các thân yêu, Các duy nhất của Gien ni!

Các rất yêu quý, Các không giận Gien ni nữa chứ! Không lo

lắng nữa chứ?..

... Gien ni thật đến chết điếng đi được vì những nỗi ngờ vực của

Các đối với tình yêu và lòng chung thuỷ của Gien ni. Các ơi, nói đi:

Làm sao Các lại có thể viết cho Gien ni một cách lạnh nhạt như

vậy, làm sao Các lại tỏ ý nghi ngờ chỉ vì Gien ni im lặng lâu hơn

thường lệ một chút?... Chả nhẽ Các không tôn trọng Gien ni, không

tin Gien ni?

508

... Ôi, Các ạ, cái khổ của Gien ni là ở chỗ mối tình đẹp đẽ, cảm

động, nồng nàn của Các, những hình ảnh bay bổng tuyệt vời trong

trí tưởng tượng của Các. Tất cả những cái đó có thể làm cho bất cứ

người con gái nào cũng phải say sưa thán phục,nhưng riêng Gien ni

lại thấy hoảng sợ và nhiều khi tuyệt vọng nữa. Gien ni càng buông

mình trong niềm cực lạc ấy thì Gien ni lại càng lo sợ hơn cho số

phận của mình khi tình yêu nồng nàn của Các sẽ qua đi và Các sẽ

trở nên lạnh nhạt và dè dặt. Và chính nỗi lo âu ấy, Các ạ, chính nỗi

lo sợ sẽ mất tình yêu của Các làm cho Gien ni không còn biết vui là

gì. Gien ni không hưởng được hạnh phúc được Các yêu, vì Gien ni

không dám tin chắc rằng tình yêu ấy vững bền. Mà đối với Gien ni

không có gì đáng sợ hơn là mất tình yêu của Các.

Chính vì vậy mà Gien ni không được bồng bột như lẽ ra Gien ni

có thể bồng bột, và trong lòng Gien ni không có được một niềm biết

ơn tình yêu của Các đúng như nó xứng đáng được biết ơn. Chính vì

vậy mà Gien ni hay nhắc cho Các nhớ đến thế giới bên ngoài, đến

thực tại, trong khi lẽ ra phải toàn vẹn hiến mình cho tình yêu của

chúng ta như Các muốn... Giá Các có thể cảm biết được tâm trạng

day dứt của Gien ni, chắc Các sẽ đối xử với Gien ni một cách nương

nhẹ hơn... Gien ni cảm thấy Các hoàn đúng về mọi phương diện,

nhưng Các hãy tự đặt mình vào tình cảnh của Gien ni, hãy nhớ cho

Gien ni rằng Gien ni dễ rơi vào những ý nghĩ u ám, hãy nghĩ cho kỹ

một chút về hoàn cảnh chúng ta, rồi Các sẽ không quá khắc nghiệt

đối với Gien ni như thế này nữa.

Các yêu quý, Gien ni thật khổ tâm sau khi đọc bức thư vừa rồi

của Các. Chỉ cần thoáng nghĩ rằng sự tình có thể đưa đến một trận

đấu kiếm, Gien ni đã thấy hoảng hốt lên rồi. Đêm ngày hình ảnh

Các cứ sừng sững trước mắt Gien ni: Các bị thương, máu Các chảy

ròng ròng... nhưng xin Các tin cho rằng những ý nghĩ ấy chính lại

không làm cho Gien ni đau khổ. Gien ni đã trở thành một người

không thể có ai thay thế được bên cạnh Các. Gien ni sẽ cần thiết

cho Các mãi mãi, và Các sẽ mãi mãi quý Gien ni. Các phó thác cho

Gien ni những tư tưởng cao cả nhất, Gien ni sẽ ghi lại cho Các, và

mãi mãi sẽ có ích cho Các.

509

Tất cả những điều đó Gien ni hình dung rất rõ rệt đến nỗi

tưởng chừng như đang nghe thấy tiếng Các, đang lắng nghe tất cả

những điều Các nói và cố ghi lại, giữ lại những tư tưởng của Các

cho người sau.

Các đã thấy Gien ni tự vẽ ra cho mình những hình ảnh như thế

nào chưa? Nhưng trong những giây lát như vậy Gien ni thấy hạnh

phúc lắm, vì Gien ni biết rằng Gien ni là người duy nhất của Các.

... Các yêu quý, hãy viết ngay cho Gien ni, hãy nói cho Gien ni

biết rằng Các khoẻ mạnh và vẫn quý Gien ni như trước.

Nhưng Các ạ, Gien ni phải hỏi lại Các một lần nữa, hỏi nghiêm

trang: Làm sao Các có thể nghi ngờ lòng trung thành của Gien ni

đối với Các? Chả nhẽ Gien ni lại có thể cho phép một người khác

làm lu mờ hình ảnh sáng lạn của Các hay sao? Không phải Gien ni

cho Các là người không ai bì kịp, nhưng bởi vì Gien ni yêu Các một

cách không thể có lời lẽ nào diễn đạt được. Thế mà Gien ni lại đi tìm

ở một người khác một cái gì xứng đáng được yêu hay sao?

.... Ôi Các ơi, Gien ni chưa bao giờ lừa dối Các một điều gì, ấy

thế mà Các vẫn không tin Gien ni! Mà kể cũng lạ: người ta nói với

Các về một người hầu như không bao giờ đến Tơ re vơ và chẳng ai

có thể quen biết người đó cả, trong khi đó thì ai nấy đều thấy Gien

ni giao thiệp với nhiều người khác. Gien ni biết cách tỏ ra vui vẻ và

tinh nghịch, biết cười đùa với những người quen sơ, biết nói chuyện

sôi nổi, nói tóm lại là biết cư xử với mọi người một cách mà Gien ni

không thể có được khi ở bệnh cạnh Các, Các đừng ngạc nhiên nhé,

sự thật là như thế đấy, Gien ni có thể nói chuyện thoải mái với bất

cứ ai, nhưng chỉ cần Các đưa mắt một cái, là Gien ni đã cuống lên

vì sợ hãi không thể thốt ra một lời nào, máu như thể ngừng lại

trong các huyết quản, và tâm hồn Gien ni rung động hẳn lên".

Các à lên một tiếng. Điều này thật mới mẻ và bất ngờ đối với

anh. Tưởng đâu kỳ vừa qua ở Ni đơ bơ ren, Gien ni cư xử tự nhiên

và thoải mải, đó là chưa nói đến những lần gặp trước kia. Nhưng té

ra với những người khác cô tự cảm thấy tự chủ hơn, tự tin mình hơn

510

hay sao? Có lẽ tình yêu nồng nàn, cuồng nhiệt của anh đè nén Gien

ni chăng?

Gien ni như thế đấy! Các không thể tưởng tượng rằng Gien ni

nhìn anh như một người đã từ lâu vượt xa cô về trình độ phát triển.

ấy thế mà trong mỗi bức thư của cô vẫn chan chứa bao nhiêu tình

săn sóc ân cần như mẫu tử!

"Nhiều khi - Các đọc tiếp bức thư - hễ bắt đầu nghĩ đến Các, là

Gien ni im bặt, và lòng tràn đầy một nỗi sợ hãi khiến cho Gien ni

không thể nói ra một tiếng nào. Và bản thân Gien ni cũng không

biết tại sao như vậy nhưng quả khi Gien ni nghĩ đến Các là mọi sự

đã trở nên phi thường đối với Gien ni. Cả cuộc sống của Gien ni vỏn

vẹn chỉ là một ý nghĩ hướng về Các không ngừng.

... Đôi khi Gien ni nghĩ đến lúc Gien ni sẽ được ở với Các, và

Các sẽ gọi Gien ni là người vợ nhỏ của Các.

... Các ơi, thật là kỳ diệu khi người ta có một người được mình

yêu! Giá Các biết điều đó, Các sẽ không thể dung thứ được ý nghĩ

cho rằng Gien ni có thể cảm tình với một người nào khác.

... Các của Gien ni, đừng giận Gien ni nữa nhé. Mà cũng đừng

quá lo cho sức khoẻ của Gien ni như vậy. Bây giờ Gien ni đã thấy

trong người khoẻ hơn trước. Gien ni uống thuốc, đi dạo, và làm việc

rất chăm suốt ngày. Nhưng đáng tiếc là Gien ni không đọc được, bởi

vì Gien ni không đủ sức dứt ra khỏi những ý nghĩ của mình.

Giá Gien ni tìm được một cuốn sách nào có thể lôi cuốn và

khuây khoả Gien ni thì hay quá!

Nhiều khi Gien ni ngồi hàng giờ trước một trang sách duy nhất

mà chẳng hiểu hút gì.

Các yêu quý của Gien ni ạ, sau này liệu Gien ni có học bù được

không? Các sẽ giúp Gien ni tiếp tục học thêm nhé? Gien ni cũng

sáng dạ Các ạ.

511

Các biết có sách gì Gien ni có thể đọc được không? Có điều nó

phải là thứ sách thật đặc biệt cơ. Sách khoa học, nhưng đừng khó

quá. Dù trong sách không phải cái gì cũng dễ hiểu, cũng được,

nhưng phải sao cho Gien ni có thể có được một khái niệm chung

chung về đối tượng.

Còn truyện cổ tích với thơ thì Các đừng gửi nữa.

Gien ni đọc những thứ đó đã no nê rồi.

Gien ni nghĩ rằng mình nên có cái gì cho đầu óc nó làm việc thì

mới có ích. Trong khi thêu thùa trí óc chẳng biết làm gì cả.

Thôi, Các khoẻ nhé..."

Các đọc đi đọc lại mãi bức thư từ đầu chí cuối.

"Không, tuyệt nhiên mình không nhất thiết phải cụt mất tay

phải" - Các mỉm cười nghĩ thầm trong khi thận trọng xếp thư cho

vào phong bì cất. Anh hiểu rằng Gien ni sẽ là người bạn trung

thành của anh suốt đời.

Làm sao anh lại có thể nảy ra cái ý nghĩ là Gien ni không yêu

anh nữa nhỉ?

Hình như chưa bao giờ Các yêu Gien ni như lúc này, sau khi

anh đọc bức thư giống như một bản tự thú ấy.

Và giờ đây Các còn hiểu rõ thêm một điều này nữa: ngay đến cả

một tình yêu nồng nàn nhất, tưởng chừng như vững chãi nhất, cũng

vẫn có thể dễ dàng mất đi, nếu không biết cách giữ gìn nó, nếu ngày

này sang ngày khác không luôn luôn nuôi dưỡng nó.

Và anh liền viết cho Gien ni một bức thư trả lời để cho cô hoàn

toàn yên tâm...."

Em thân yêu! suy nghĩ trên những trang sách đó, anh càng

hiểu em hơn, hiểu lý do vì sao em viết cho anh lá thư ngày 22/4 vừa

512

qua. Anh hiểu rằng em đã nghĩ đến anh rất nhiều, đã vì anh mà

nén tình cảm của mình lại rất nhiều. Và em cũng hãy hiểu cho anh

rằng sở dĩ có lúc anh hờn giận em, và anh nói với em quá nhiều về

lòng chung thuỷ để đến nỗi em có thể nghĩ rằng anh nghi ngờ lòng

trung thành của em đối với anh, thì cũng chỉ vì anh yêu em vô bờ

bến mà thôi, anh sợ hãi tình yêu ấy ngày nào đó sẽ bị tan vỡ đi! Khi

người ta yêu quá cuồng nhiệt thì người ta dễ mất tỉnh táo. Nhưng

khi bình tâm suy nghĩ lại, người ta mới thấy hết cái cao đẹp của

người yêu, và người ta hoàn toàn yên tâm.

Em, nàng tiên kiều diễm của anh, con thiên nga xinh đẹp của

anh, mặt trời nhỏ thân yêu của anh! Và hơn thế nữa, sau này em sẽ

là người vợ hiền hậu và trung thành của anh.

Viết trong những ngày hè nóng bỏng.

Tháng 7/1973

THƯ CỦA NGÂN

Ngày 24/6/1973

Anh Long yêu!

Chắc giờ này anh của em đang nóng lòng mong thư em lắm

nhỉ. Hôm nay chân đã khoẻ chưa. Chắc đau nhiều, nằm viện lâu

anh khổ tâm lắm phải không anh. Em ở nhà cũng khá sốt ruột ghê,

không biết sao mà lâu thế không thấy về. Biên cho anh thật nhiều

thư rồi em huỷ đi, không biết anh về ở đoàn rồi hay nằm viện mà

gửi thư. Sợ gửi không đến tay lại đến tay người khác, buồn lắm.

Đúng gần 2 tháng xa anh rồi anh nhỉ, em cứ hình dung như đã 2

năm rồi. Long, em cảm thấy bồi hồi thương nhớ, cứ mong ngày anh

khoẻ anh về. Từ ngày 5/6/1973 đến nay là 24 ngày dài trông anh.

Đúng thật khó hiểu anh phóng viên quá, chắc bận hay đau nhiều

mà không thấy biên thư cho em.

Anh Long yêu! Có nhớ em không, có buồn không, em nhớ anh

nhiều, thương anh, mong anh khoẻ, anh về. Bao nhiêu hy vọng vào

513

ngày anh về. Anh Việt Long yêu, tuy thời gian quen anh, yêu anh

gần 180 ngày rồi song những ngày gần em quá ít song em cảm thấy

một niềm hy vọng khá lớn chiếm vào trái tim em và nhìn vào cuộc

sống chắc sau này thì hạnh phúc và đẹp đôi lắm. Anh thương, thật

ra mà nói yêu anh, thương anh nhiều lắm, ước gì những ngày đau

ốm này sẽ có em bên cạnh để chiều chuộng anh một tý đỡ bận tâm

anh . Hôm nay chân đã khỏi chưa anh, ăn uống được không, có nhớ

nhà không? Chân có dấu hiệu xấu không anh. Sau này có xấu về em

đổi hộ chân em cho nhé....

Chủ nhật ngày 1/7/1973

Đúng ngày này vào năm 1946 tôi đã cất tiếng khóc chào đời lần

đầu tiên. Nhanh thế đấy, 27 mùa xuân của cuộc đời đã trôi qua rồi.

Hôm nay xứng đáng là một ngày của mùa hè. Những đám mây

trắng xốp cuồn cuộn trên vòm trời cao rộng không ngăn cản ánh

nắng, trái lại càng làm cho nó rực rỡ, chói chang hơn. Đầy rừng

vang tiếng ve ngân. Phía dưới kia, nơi con đường xe chạy qua, tiếng

động cơ luôn luôn rù rì, có khi gầm gừ như tức giận. Riêng trên mặt

trận giao thông vận tải này thôi cũng thấy cách mạng tiến một bước

khá dài. Các con đường lớn - chứ không phải đường mòn nữa -xẻ dọc

Trường Sơn vươn tới và đua nhau xẻ ngang xuống phía Đông, phơi

mình đỏ chói hoặc trắng lốp dưới ánh mặt trời, rất kiêu hùng. Ô tô

đầy rừng đầy núi. Có cả những chú xe xích nặng nề kéo theo những

cỗ pháo 130mm đồ sộ nữa. Hàng hoá từ hậu phương lớn ùn ùn kéo

vào. Bệnh xá C12 này được xe đổ xuống tới chục tấn hàng, vừa

lương thực, thực phẩm, vừa thuốc.

Thỉnh thoảng có những chiếc máy bay trinh sát phản lực Mỹ

bay xoèn xoẹt dọc đường xe hoặc những chiếc trinh sát OV10A quần

lượn nhòm ngó đường xe. Có lẽ chúng ta chẳng cần giấu giếm gì

những con đường ấy, và sự phơi bầy này càng làm kẻ thù hằn học

và run sợ. Những con đường cứ vươn dài dần xuống phía Nam và

toả xuống đồng bằng.

THƯ GỬI NGÂN

Ngày 3 tháng 7 năm 1973

514

Thương em hơi thở cũng thương

Một làn tóc cũng vấn vương tơ lòng

Em thân yêu!

Em duy nhất của anh!

Không ngờ hôm nay anh lại nhận được thư em, lá thư chứa

đựng biết bao tình yêu thương nồng thắm. Anh tưởng như không

phải là đọc thư em, mà đang ngồi nói chuyện với em, em ngả vào

lòng anh, phả hơi thơm và ấm áp vào anh, còn anh thì nhẹ vuốt làn

tóc mượt mà của em, hít lấy hơi thở nồng nàn của em. Em ở xa,

nhưng em vẫn gần gũi với anh quá!

Em của riêng anh ơi! Em có biết không, lá thư của em gửi anh

đề địa chỉ chẳng rõ ràng gì hết, vậy mà vẫn đến tay anh. Có lẽ tình

người gửi tha thiết quá nên lá thư đã chiều lòng người, cố tìm đến tận

tay người nhận. Và cũng vì người đi xa thương nhớ người ở nhà vô

hạn nữa đấy. Đêm hôm qua là đêm anh nghĩ đến em nhiều nhất, và

đến trưa hôm nay thì anh được đọc thư em - hình như lá thư em gửi

đã nghe tiếng gọi của anh nên đã bay gấp tới tay anh ấy em nhỉ?

Anh rất mong được gặp em trong giấc ngủ. Nhưng thật buồn,

chẳng khi nào anh gặp cả. Có mỗi một lần anh mơ thấy em, nhưng

sắp đến gần em thì em lại vụt đi mất. Ôi, giấc mơ sao lại giống thực

tế đến thế, nó khắt khe với chúng ta quá. Thế là anh không dám mơ

gặp em trong những giấc mơ nữa. Anh tìm gặp em trong ý nghĩ của

anh vậy. Bắt đầu nằm là anh nghĩ về em, dòng suy nghĩ dài vô tận

xuyên hết màn đêm, và anh cũng chẳng muốn bắt nó dừng -anh

thầm nói chuyện với em, thầm gọi tên em. Còn ban ngày thì anh

đọc đi đọc lại những lá thư của em, kể cả lá thư đã làm anh mất

ngủ hẳn một đêm vì lo buồn ấy! Đối với anh, không một tác phẩm

văn học nào hấp dẫn bằng những lá thư của em, tuy rằng anh rất

mê đọc sách. Anh nói thế không phải vì anh cho rằng em viết hay

quá, không ai viết được như thế, mà vì những dòng chữ ấy là tình

em dành riêng cho anh, chỉ có anh mới được hưởng thôi. Sau khi đọc

thư, anh đem ảnh em ra ngắm mãi. Bực quá đi, không một tấm ảnh

nào đẹp bằng em bên ngoài cả, tuy rằng so với ảnh của biết bao cô

515

gái anh quen nó vẫn trội hơn hết. Anh ngắm mãi và anh lại hôn lên

ảnh em nữa. Em thì cứ cười hoài, dường như chỉ biết cười thôi,

chẳng hôn lại anh gì hết. Này, nếu cứ như vậy mãi thì anh giận

đấy, cô gái xinh đẹp của anh ạ. Nhưng anh nói đùa thôi, anh chẳng

giận gì em đâu, bởi vì anh hiểu rằng em yêu anh biết bao, tình yêu

của em cao quý biết bao.

Thật là tuyệt diệu khi được cùng một người con gái vun đắp

một mối tình. Anh thấy lòng mình tràn trề hạnh phúc, dường như

không ai được hạnh phúc như anh. Em có nghĩ như vậy không? Giá

như chúng ta cùng đọc được suy nghĩ của nhau như cùng nghĩ bằng

một bộ óc, giá như những dòng suy nghĩ ấy là những sợi dây để

chúng ta bện chặt nó vào nhau thì thú vị biết bao nhỉ. Nhưng thôi,

chẳng cần đọc được suy nghĩ của nhau, chúng ta vẫn hiểu nhau rồi

cơ mà, chẳng cần biến những ý nghĩ ấy thành sợi dây, chúng ta vẫn

làm cho chúng quyện chặt vào nhau rồi cơ mà!

Đọc thư em, anh hiểu rằng em đã hoàn toàn yên tâm về những

điều mà trước đây làm em lo lắng nhiều. Biết vậy, anh rất vui. Anh

thương em vô bờ bến em ạ, và chính vì vậy mà khi thấy em vui,

thấy em hạnh phúc là anh thấy mình sung sướng vô hạn. Anh yêu

em với tình yêu không sao diễn đạt hết đưọc, anh tưởng rằng chỉ có

cách hoà tan cơ thể anh vào cơ thể em mới có thể biểu hiện được

một cách rõ ràng tình yêu nồng thắm ấy. Em thân yêu ơi! Tại sao

em lại nghĩ rằng anh không nhớ đến em, anh thờ ơ với em? Có lẽ

nào như thế được! Có lẽ nào anh lại lãng quên em! ý nghĩ của anh

luôn luôn quấn quýt bên em, dõi theo từng nhịp thở của em. Có lúc

anh nằm nghĩ: không biết giờ này em của anh đang làm gì nhỉ, có

phải cũng đang suy nghĩ về anh không? Hình ảnh em như ánh

trăng ấy, càng về khuya càng sáng tỏ trong tâm hồn anh. Anh

không gửi thư cho em bởi vì cái đường dây của chúng ta lôi thôi

quá, chạy linh tinh, sợ lạc mất thư. Mà thư viết cho em thì chỉ để

cho em đọc thôi, chứ có phải bài báo đâu mà có thể công bố cho mọi

người đọc? Không gửi nhưng vẫn viết, rồi em sẽ được đọc no nê. Em

hãy tin rằng dù có cách em bao xa, xa em bao lâu, anh vẫn luôn

luôn thương nhớ em và tình anh vẫn luôn luôn ấp ủ em, sưởi ấm

trái tim em.

516

À này, cô bạn nhỏ, yên tâm về sức khoẻ của mình nhé! Gầy vẫn

gầy song khoẻ lắm, máy móc chạy khoẻ, đều đặn và chính xác, đạt

tiêu chuẩn quốc tế đấy! Chưa chắc cô bạn đã khoẻ bằng mình đâu,

đừng chủ quan đấy !

Riêng cái chân thì xấu, rất xấu, này nhé: trên đùi 4 vết sẹo do

bị lấy da, còn dưới ống chân thì một sẹo lớn. Tuy nhiên, đó là những

bông hoa trời ban cho, anh chẳng đổi cho em đâu. Anh nói như vậy

không phải là anh giàu tính hy sinh, luôn nhận phần xấu về mình

đâu, mà là anh rất ích kỷ đấy! Em biết chứ, em là của anh, những

gì đẹp trên cơ thể em đều thuộc quyền sở hữu của anh, do vậy nó

càng đẹp thì anh càng được hưởng thụ nhiều và vì vậy nên anh dại

gì mà đổi cho em những thứ xấu cơ chứ?

Ngược lại, nếu anh có gì đẹp là anh đổi cho em liền để em càng

đẹp thêm. Tiếc quá, anh chẳng có gì đẹp cả, mà em lại đẹp lắm rồi.

Tuy thế, em đừng chê anh, đừng chê anh nhé!

Con bồ câu nhỏ của anh ơi, đôi hàng mi em đã dài và cong lại

như trước chưa? Anh rất oán trách ai đã xui em cắt nó đi. Mong

rằng nó sẽ chiều lòng anh mà mọc lại như cũ. Đôi hàng mi cong

cong, lúc nào cũng như một dấu hỏi về tình yêu ấy.

THƯ CỦA GIA ĐÌNH

Hà Nội, ngày 10 tháng 7 năm 1973

Long thân mến!

Mẹ mới đến Thông tấn xã được biết tin có đoàn vào mẹ vội viết

mấy chữ về tình hình gia đình cho con biết. Hồi tháng 4, mẹ mới

nhận được thư của con, cả gia đình cũng mừng cho con là con vẫn

khoẻ và lại nhận công tác mới hiện nay.

Hôm qua ngày 9/7 mẹ đến Thông tấn xã để gặp anh ổn và

muốn gặp anh Tùng nhưng anh đi vắng, anh ổn cho mẹ gặp anh gì,

tên mẹ không nhớ chỉ biết anh ổn bảo anh Phó Tổng biên tập, mẹ

517

nói chuyện cũng gần một tiếng và cũng đề nghị là muốn con ra

thăm gia đình ít lâu vì hoà bình đã nửa năm rồi, và mẹ cũng được

tin là con mới sốt và phải nằm quân y 20 hôm, mẹ cũng thấy lo cho

sức khoẻ của con vì nếu sốt lại thì cũng gay go, nhất là đề phòng

bệnh gan.

Em Việt có gửi cho con lá thư mẹ gửi vào đấy, mẹ mới gửi cho

em 30đ để nó bồi dưỡng, độ đến tháng 10, 11 em sẽ được về phép

thăm gia đình.

Còn vợ chồng Phúc thỉnh thoảng vẫn ra nhà. Hôm nay mẹ viết

thư vội, nó không biết mà viết, vì mẹ bảo nó là chuẩn bị khi nào gửi

thì mẹ bảo.

Còn tình hình công tác của con thì thế nào? Mẹ thấy hoà bình

rồi những gia đình có chồng con đi xa phần nhiều là về thăm gia

đình cả rồi.

Còn con xem có hoàn cảnh thuận tiện thì con cũng nên tranh

thủ mà về thăm gia đình ít bữa, chứ bố thì cũng già yếu rồi, mẹ thì

tuy chưa già nhưng sức khoẻ cũng sút đi nhiều, công tác cách mạng

còn lâu dài con ạ, mẹ thấy liên miên lắm, không bao giờ nói là hoàn

thành hoặc là xong cả, chỉ có cái là người ta biết tính toán thời gian

làm sao cho vừa công tác mà vừa có lúc xả hơi hoặc là tình cảm gia

đình, chứ mẹ thấy nhiều khi ai vùi đầu vào công tác cứ vùi, còn ai

không vẫn không vì mẹ thấy kinh nghiệm bố con còn thanh niên,

công tác cũng say sưa hơn con ấy chứ. Mẹ nói thế để con tự suy nghĩ

và sắp xếp thời gian, kẻo một ngày kia tình thế thay đổi rồi con lại

ân hận mãi là không được về thăm gia đình. Còn số tiền 50 đồng mẹ

gửi anh San vào từ năm 72 con đã nhận được chưa? Con trả lời cho

mẹ biết mấy. Nếu con gửi thư về con cứ gửi về Kim Liên hoặc chỗ bố

cũng được.

Bố có cố gắng cũng chỉ hết năm nay thôi, sang 74 có khi về hưu

thôi.

Gia đình chúc con khoẻ mạnh, công tác tốt.

Mẹ

Hạnh

518

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Ngày 15/7/1973

Bố mẹ kính yêu của con!

Người chuyển giúp con lá thư này là anh Tấn Thành, người

quen của con. Anh ấy ra công tác một thời gian rồi lại vào, do vậy bố

có thể gửi anh ấy đem thư gia đình vào cho con. Anh Thành sẽ nói

chuyện thêm với gia đình, và anh ấy sẽ là cái hòm thư đáng tin cậy

của con đấy.

Con cứ hình dung rằng trong những ngày tháng này, gia đình

ta đang được sum họp, đông vui và con thấy lòng con tràn đầy hạnh

phúc, tuy rằng trong không khí ấm áp ấy thiếu mặt con. Giá như

con, em Việt cũng có mặt trong những ngày này, cùng gia đình vui

liên hoan thì gì bằng nữa. Con vẫn hằng ao ước như vậy. Song, con

chưa thể thực hiện được niềm ước ao đó.

Bố mẹ kính yêu! Hiện nay, cùng với đồng bào miền Nam, chúng

con đang ra sức xây dựng lực lượng, củng cố hoà bình. Trước sức lớn

lên vùn vụt của căn cứ, con thấy sung sướng vô cùng. Nhớ lại những

ngày chui rúc trong gai góc kiếm từng bụi sắn, bị giặc càn lên tận

căn cứ phải chạy lên tận vùng cao, nhớ lại những người bạn thân

của con bị chết gục trước làn đạn của tụi biệt kích trên những con

đường mòn vắng vẻ giữa rừng sâu, nhớ lại tất cả cảnh cơ hàn ấy,

con càng thấy vô cùng yêu quý cuộc sống hiện nay. So với những

ngày ấy, những ngày này đã trở thành thần tiên rồi bố mẹ ạ. Bây

giờ, chúng con xuống ở vùng thấp hơn, được tự do tiếp xúc với ánh

nắng chan hoà, được tự do dựng nhà cao cửa rộng. Con đường ô tô

xẻ dọc Trường Sơn đã chạy suốt từ hậu phương lớn, dọc sau lưng

chúng con, vào sâu hơn nữa và vươn dài những cánh tay xuống

đồng bằng. Các cơ quan quanh Khu đều có đường xe đến tận nơi, có

xe ô tô để vận chuyển. Nhờ đó mà việc lao động bằng chân tay được

giảm nhẹ đi, lương thực, thực phẩm có dồi dào hơn, đời sống được

cải thiện rất nhiều. Các cơ quan đều có hội trường lớn để họp hành,

chiếu phim, biểu diễn văn công, có sân bóng chuyền, bàn bóng bàn

để rèn luyện và giải trí... Cuộc sống vui sôi động và đang đi vào nền

519

nếp chính quy. Các khu tập thể cơ quan được xây dựng khá đàng

hoàng, nhà nào cũng cao ráo, sạch đẹp, không những có bàn ghế

hẳn hoi mà còn có hoa phong lan làm cảnh nữa. Cuộc sống thay đổi

như vậy là nhờ sự nỗ lực rất lớn của mọi người ở đây, và nhờ sự chi

viện rất mạnh mẽ của hậu phương lớn. Rồi đây, những người ở căn

cứ sẽ tiếp tục xây dựng lực lượng vũ trang thật lớn mạnh, xây dựng

cả những nông trường và đẩy mạnh các mặt kinh tế khác để giải

quyết thật tốt, thật cơ bản đời sống ở vùng căn cứ và vùng giải

phóng đồng bằng. Những công việc đó đòi hỏi mỗi người chiến sĩ -

trong đó có con - phải nỗ lực rất nhiều. Không trực tiếp đóng góp

vào những công việc đó, nhưng với khả năng chuyên môn của con,

con có thể đóng góp một phần động lực nhỏ bé, thúc đẩy nó phát

triển lên. Nhất là lại được đi trong đoàn đại biểu quân sự của ta

làm nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh với địch nhằm bảo vệ và củng cố

hoà bình, con càng thấy trách nhiệm nặng nề của mình. Con tin

rằng sự có mặt của con trên trận tuyến đó là rất cần thiết, rất có

ích. Con không thể cho phép mình vắng mặt trong đội ngũ vào

những ngày này. Bởi vậy, tuy thương nhớ gia đình da diết, con vẫn

chưa thể xin phép về thăm gia đình được. Rồi đây, khi tình hình cho

phép, con sẽ về thăm gia đình, nhất định như thế rồi, nhất định là

khi nào con xin phép, khi ấy cơ quan con sẽ đồng ý cho con đi và bố

mẹ sẽ được đón con trở về, người vẫn khoẻ mạnh và hoạt bát như

xưa. Con biết rằng bố mẹ rất mong con về, nhưng chỉ mong con về

với tư thế của người chiến thắng, có đúng không bố? Chắc rằng khi

gặp con, bố mẹ sẽ thấy con tuy có già dặn hơn (năm năm trôi qua

rồi còn gì), đã cứng cáp lên về nhiều mặt nhưng đặc biệt vẫn cứ hồn

nhiên, tươi trẻ y như hồi còn học sinh - con vẫn giữ được tính lạc

quan, yêu đời mà bố đã truyền và nuôi dưỡng cho con.

Con cũng có thể nói cho mẹ hoàn toàn yên tâm là tuy thể trạng

bẩm sinh của con là gầy còm, song con rất chắc chắn, con là một luỹ

thép rất khó đột nhập đối với các loại vi trùng. Qua 1, 2 năm đầu

lao đao trước những đợt tấn công ào ạt của ký sinh trùng sốt rét,

con đã rút được nhiều kinh nghiệm chiến đấu và bây giờ đã đánh

bại nó rồi. Thế là con không còn bị một bệnh tật nào hết, kể cả bệnh

sốt rét là bệnh phổ biến ở căn cứ. Vì mẹ ở ngành Dược -Y, con có thể

khoe với mẹ mấy con số để mẹ yên lòng: Hồng cầu 4 triệu 20 vạn,

bạch cầu 7..500, huyết sắc tố 105%, phản ứng Hero của gan: 1,7,

520

Mạch 83, nhiệt 37oC. Như vậy, mẹ có thể cấp cho con huân chương

chữ thập đỏ rồi chứ?

Chắc gia đình ta đã về ở khu tập thể Kim Liên rồi phải không

bố? ở mãi đó, mẹ đi làm tận Mễ Trì, xa quá, mẹ lại không đi được xe

đạp thì làm thế nào? Chắc mẹ yếu hơn trước phải không mẹ? Mẹ đã

bỏ hút thuốc lá chưa? Sao mẹ không nói gì về việc này cho con biết.

Con tha thiết yêu cầu mẹ bỏ thuốc lá và tích cực bồi dưỡng bằng

chất ngọt, chất đạm. Bố hàng ngày về khu Kim Liên hay chỉ chủ

nhật mới về? Con nghĩ bố nên ăn ngủ tại cơ quan, chủ nhật hãy về

nhà để giữ sức khoẻ, vì bố cũng luống tuổi rồi.

Anh Đức đã cưới vợ chưa? Trong mọi chuyện anh đã ít lời,

trong chuyện này anh càng ít lời. Em chẳng có thể góp ý với anh gì

về cái việc mà anh nói là "ít được mọi người tán thành" ấy - em chỉ

biết chúc anh hạnh phúc.

Phúc và Thành có ở riêng không, hay vẫn ở chung với gia đình?

Hai em sắp có cháu bế chưa? Thế là cô cậu đã đoạt giải nhất trong

cuộc đua không tuyên bố đến cái đích lớn của cuộc đời rồi đấy. Đã

đến đích ấy rồi thì cần củng cố lực lượng mà tiến lên các đích quan

trọng khác chứ đừng dừng tại chỗ nhé.

Em Việt con hiện đóng quân ở đâu, có viết thư về gia đình

không? Đọc thư nó, con rất mừng vì nó đã tiến bộ rất dài về tư

tưởng, sức khoẻ.

Các cô Ngọc, Diệp, Lan, Thuỷ chắc lớn lắm rồi nhỉ, học hành

chắc vẫn giỏi chứ? Cô Ngọc 19 tuổi đã có thể coi là lớn rồi đấy, song

chớ vội nghĩ đến chuyện gia đình riêng nhé, để tốt nghiệp đại học,

ra công tác hẵng hay.

Còn Diệp, Lan, Thuỷ thì anh chẳng phải dặn gì nữa vì anh biết

các em rất chăm ngoan, chăm ngoan hơn anh hồi bé (thực ra hồi bé

anh hư lắm, lười và hay làm phiền bố mẹ). Các em tiếp tục học cho

giỏi nhé.

521

Bố mẹ có nhận được thư của trên nhà không? Nhiều khi nằm

nghĩ, con thấy thương các bà và ông vô hạn, thương đến quặn thắt

lòng lại. Ông, bà vất vả quá, đến cuối cuộc đời vẫn còn vất vả. Nhất

là ông bà trẻ, khi còn khoẻ thì làm đầu tắt mặt tối nuôi các cháu,

khi già rồi lại sống cô độc trên rừng núi hiu quạnh, lấy ai chăm sóc

khi đau yếu? Không hiểu ông, bà trẻ bây giờ sinh sống bằng công

việc gì, có túng thiếu lắm không? Thương vậy, nhưng con cũng chỉ

biết để trong lòng hoặc nói ra miệng mà thôi chứ không thể biến

thành việc làm được. Bởi vì con biết rằng, con còn phải ở miền Nam

lâu dài - thời gian cống hiến còn lâu dài, chưa đến thời gian vừa

cống hiến vừa hưởng thụ để lấy cái phần được hưởng thụ của mình

san sẻ cho người ruột thịt.

Cô Chung, chú Phương và các em có khoẻ không? Cô Chung đã

công tác ổn định hẳn ở một cơ quan chưa? Nếu công tác không ổn

định, nay cơ quan này, mai cơ quan khác thì khó tiến bộ lắm. Cháu

không biết rõ địa chỉ của cô ở đâu nên không biên thư riêng cho cô

được. Cô biên thư cho cháu với nhé.

Bố mẹ yêu quý của con! Trong khung cảnh hoà bình của đất

nước, bố mẹ hãy tin rằng không còn có gì đe doạ tính mạng đứa con

của bố mẹ nữa nhé. Trong chiến tranh, nó đã vượt qua được nhiều

bước hiểm nghèo rồi, và nay nó vẫn cảnh giác, biết xông pha nhưng

cũng biết tự bảo vệ tính mạng của nó. Nó hiểu rằng đó là trách

nhiệm đối với chính nó và đối với cả những người mà nó yêu quý vô

bờ bến nữa. Nó không có quyền cẩu thả để đến nỗi làm tắt hy vọng

của những người ruột thịt của nó ở nơi xa đang ngóng về nó từng

giờ, từng phút.

Về mọi mặt đời sống, con trình bày như thế, bố mẹ yên tâm rồi

chứ? à, nếu như sau này con gặp một cô gái nhỏ dễ thương, con kết

nạp vào gia đình ta thì bố mẹ có cho phép không?

Con sống khá đầy đủ, mẹ đừng gửi gì cho con ngoài thư và ảnh.

Cho con gửi lời thăm các cô chú ở cơ quan. Con vẫn chờ đợi để

triển khai công tác theo đoàn đại biểu quân sự của ta trong Ban

522

Liên hiệp quân sự hai bên khu vực hai - Đà Nẵng. Bố mẹ nhờ anh

Thành chuyển thư cho con. Địa chỉ như cũ.

Kính chúc bố mẹ mạnh khoẻ.

Đứa con lúc nào cũng yêu quý gia đình.

Việt Long

THƯ ĐỒNG CHÍ

Hữu Quả - Bình Định, ngày 18/7/1973

Thân gửi các anh Vũ Đảo, Dương Đức Quảng, Hồng Phấn -

Thông tấn xã Giải phóng.

Tổ phóng viên Bình Định hành quân đã tới đích an toàn, viết

thư này về báo cáo với anh mấy nét:

Anh em ở nhà ra đi ngày 20/6 và tới Bình Định (Ban Tuyên

huấn) ngày 13/7. Như thế là quá chậm có phải không anh? Lý do

chậm là anh em bị sốt dọc đường. Cả 4 anh em đều sốt. Thoa sốt

một lần đi được, Minh sốt 2 lần, có một lần phải nằm lại mất 5

ngày, Quả sốt kéo dài, lách sưng to nhưng vẫn ăn được và đi được;

còn Mạch thì sốt 3 lần rồi, có một lần phải dừng lại 3 ngày. Hiện

nay sức khoẻ anh em: Quả, lách vẫn còn sưng, Minh và Thoa đã

bình thường, riêng Mạch khá gay. Theo y sĩ cơ quan sơ chẩn thì

Mạch có thể bị sưng gan, có lẽ vài hôm nữa phải cho Mạch đi bệnh

xá nằm điều trị đã, bao giờ khoẻ về mới phân công công tác, như thế

cơ bản hơn.

Hôm đi xuống đường lo quá anh ạ, cứ sợ có đồng chí nào sốt ác

tính thì nguy. Nay đến nơi có cơ quan, có địa phương rồi nên bớt lo

hơn.

Anh em về Bình Định đúng vào thời kỳ cơ quan đang di

chuyển, nhà cửa chưa làm được, chỗ ăn, chỗ ở chưa ổn định, 4 anh

em tự làm một cái nhà tăng để ở. Tình hình sức khoẻ anh em như

523

vậy, cộng với tình hình khách quan là địa phương đang di chuyển cơ

quan nên chưa thể bắt tay ngay vào công việc được. Thông cảm

hoàn cảnh của địa phương, tất cả anh em đều phấn khởi khắc phục

khó khăn, không hề kêu ca phàn nàn gì và bước đầu tranh thủ được

thiện cảm của anh em trong cơ quan.

Các đồng chí trong cơ quan Ban Tuyên huấn tỏ rõ sự quan tâm

đối với anh em. Ngay khi nghe tin đoàn mới về, mặc dầu cả cơ quan

mới chỉ dựng xong một cái nhà ăn, nhưng các đồng chí trong ban

lãnh đạo cho người ra đón anh em vào. Tất cả các đồng chí có trách

nhiệm tỏ vẻ ái ngại, lo sức khoẻ anh em, lo chưa có nhà cho anh em

ở để anh em phải tự làm, lo chưa ổn định nên ăn uống kham

khổ.v.v.. Kể ra Bình Định mà ăn uống như thế cũng kham khổ thật,

chưa bằng mức ăn ở nhà (Ban Tuyên Huấn Khu). Nhưng vấn đề

quan trọng là ở chỗ: "Một lời nói chân tình còn hơn nghìn mâm cao

cỗ đầy". Tất cả anh em trong tổ đều thấy rõ điều đó và nhắc nhau

lấy chuyện đó làm nguồn động viên nhau, khích lệ mạnh trong công

tác. Riêng Quả thì có lẽ đây là lần đầu tiên được tiếp xúc với cơ

quan địa phương K5 chân tình như vậy cho nên không thể không

xúc động.

Sau vài ngày tắm giặt nghỉ ngơi, ban lãnh đạo cơ quan đã làm

việc với anh em trong tổ: Truyền đạt nghị quyết Thường vụ Tỉnh

uỷ, báo cáo một số nét về truyền thống và phong trào, địa phương.

Xong, Quả và đồng chí phụ trách Ban sang gặp Thường vụ để báo

cáo nội dung công tác và xin ý kiến giúp đỡ .

Qua mấy ngày tiếp xúc và làm việc với cơ quan địa phương,

Quả thấy rõ sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo đối với công tác

thông tấn báo chí, bước đầu tạo thuận lợi cho anh em hoàn thành

nhiệm vụ. Quả đã kịp thời lấy ngay chuyện này họp anh em lại

nhắc nhở nhau cố gắng hết sức mình làm tốt công tác, góp phần

tuyên truyền cho phong trào địa phương, đáp lại sự chân tình mong

mỏi của cấp uỷ, của ngành ở đây. Xin nói thêm là trong khi làm việc

với các đồng chí trong ban lãnh đạo Ban, các đồng chí có nêu lên 3

yêu cầu là: sau khi đoàn công tác của ta ra về xin để lại cho địa

phương 3 cái: một là tập phim có giá trị tuyên truyền cho địa

phương, hai là một tập các mẩu chuyện và người tốt việc tốt, ba là

524

giúp tỉnh đào tạo được một lớp thông tin viên và cộng tác viên biết

làm công tác thông tấn báo chí.

Nói chung 3 yêu cầu của các đồng chí nêu lên trên đây cũng là

phù hợp với công tác của mình nên bọn tôi hứa sẽ đáp ứng anh ạ.

Tôi nghĩ làm được cái gì có lợi cho ngành, có lợi cho cách mạng thì

cứ làm thôi, không nề hà từ chối.

Tuy vậy cũng lo, lo tài liệu thành văn không có, không biết

chuẩn bị "giáo án" như thế nào đây để "lên lớp". Lâu quá lý luận

cũng quên dần hết rồi.

Căn cứ nhiệm vụ, căn cứ tình hình sức khoẻ của anh em trong

tổ cùng với sự gợi ý của địa phương, tôi tạm phân công công tác hai

tháng 7 và 8 như sau:

Thoa + Mạch (nếu Mạch khoẻ) hoạt động các ngành xung

quanh tỉnh, viết tổng hợp các vấn đề: Đấu tranh thi hành hiệp định

(tố cáo địch nống lấn vùng giáp ranh và vùng giải phóng, tố cáo địch

lập ấp gom dân, bắt bớ bình định, không thực hiện 12 điều dân chủ

ở vùng địch kiểm soát. Đặc biệt nêu bật, sau 1 tháng có tuyên bố,

địch vẫn không thi hành được khoản nào của Hiệp định mà còn gây

nhiều vụ vi phạm mới). Viết về phong trào nhân dân trong vùng

địch tạm kiểm soát rời bỏ khu dồn trở về làng cũ làm ăn, hoặc trài

ra sản xuất ở những vùng trắng. Viết tổng hợp về các mặt xây dựng

như sản xuất (chủ yếu là nông nghiệp mà trước mắt là khai hoang

phục hoá), thương nghiệp, y tế giáo dục, xây dựng lực lượng vũ

trang giữ gìn hoà bình (tòng quân nhập ngũ). Riêng Minh thì đi

giao thông vận tải, vừa lấy hình ảnh công trường làm đường (hiện

có vài nghìn dân công tập trung làm), vừa giao Minh viết luôn tin

tổng hợp về giao thông. Sau khi đi giao thông về Minh sẽ đi thể

hiện một số ảnh phong trào sản xuất nông nghiệp, trước mắt là

khai hoang và thuỷ lợi.

Riêng Quả thì lúc đầu Quả định ở tại tỉnh khoảng 1 tháng, ít

nhất cũng nửa tháng, vừa để viết một vài mặt tổng hợp, vừa để

nắm tình hình chung đã. Thế nhưng Ban Tuyên huấn tỉnh yêu cầu

Quả đi Hoài Nhơn với lý do là sắp tới có Uỷ ban Quốc tế về điều tra

525

vụ Tam Quan cho nên cần có phóng viên ở đó, mà đi thì cần có đồng

chí có kinh nghiệm chứ mới e khó khăn. Mặt khác các đồng chí ấy

nói Hoài Nhơn là nơi có phong trào khá nhiều mặt cần được báo chí

phản ánh. Với hai lý do trên nên Ban Tuyên huấn tỉnh và Thường

vụ nhất trí yêu cầu Quả đi Hoài Nhơn, vậy báo cáo để anh rõ. Một

lý do phụ nữa cũng cần cân nhắc là, Hoài Nhơn cũng có ác liệt hơn

một chút so với các nơi khác nên nếu mình chần chừ do dự, e địa

phương sẽ hiểu một cách tế nhị lắm anh ạ.

Thời gian ít, công việc đang thúc sau lưng, anh cho phép Quả

tạm dừng đây, chúc anh luôn mạnh.

Thân yêu!

Xiết chặt tay anh

Địa chỉ:

Hữu Quả TTXGP đang công tác tại

Ban tuyên huấn Hùng Cường.

Ngày 24/7/1973

Ra viện, ồ ra viện mà cũng trở thành một niềm vui sướng. Tạm

biệt, không, vĩnh biệt mới phải, cái khu rừng tù túng với bầu không

khí sặc mùi thuốc tây. Vọt ra đường đón bầu trời khoáng đãng, nắng

vàng rực rỡ, đi trên con đường ô tô đỏ tươi và thở phào khoan khoái.

Muốn ghé về thăm Ngân nên tôi đi theo đường mòn xuyên núi.

Nằm mãi một chỗ nay mới đi bộ thấy mệt ghê gớm. Chật vật leo lên

cái dốc lách nắng hầm hập. Khoảng 10 - 15 phút lại phải nghỉ lấy hơi.

Sự việc không diễn biến đúng theo điều tôi dự kiến: anh San

không có nhà mà vẫn ở bệnh viện, Ngân đi thăm anh ấy chưa về.

Xế chiều Ngân về, song không qua C8 gặp tôi. Cô bé của tôi sao

lại ngại ngần làm vậy? Buổi tối Ngân mới qua và tôi đã được sống

những giờ êm ấm bên em - tới mãi 11 giờ khuya.

Sáng 25, đến bệnh viện thăm San. Tôi giật mình sửng sốt đến

mức hoảng sợ vì thấy San gầy hốc hác, già xọm đi. Chiếm ưu thế

trên khuôn mặt anh là đôi mắt to và đôi gò má cao. San nắm tay

526

tôi, khóc rưng rức. Tôi ngồi bên võng anh, vuốt nhẹ bàn tay anh và

an ủi: "Đừng khóc, đừng khóc". Anh nói: "Không, từ ngày vào viện,

mình không khóc, thấy Việt Long mình thích quá mới khóc!".

Thương San quá, lòng rưng rưng cũng muốn khóc theo.

Trưa lại về Điện ảnh và tất nhiên lại được quấn quít bên người

yêu. Hôm nay, Ngân kể lại tường tận cuộc đời của mình, từ những

ngày thơ ấu tới những ngày lớn lên trên căn cứ và đặc biệt đã nói

lên cả những điều thầm kín của mình nữa.

Trước đây, trong quan hệ với Ngân, tôi có nhận xét rằng chắc

Ngân đã từng có những va vấp trong tình yêu và chắc em đã từng

chịu khổ đau trong những va vấp ấy. Tôi nghĩ thế, song không khi

nào tôi hỏi Ngân về chuyện này cả - vì đó là chuyện cũ, tôi không có

quyền bới móc ra, và nếu tôi hỏi, chắc sẽ xúc phạm đến lòng tự

trọng của Ngân. Khi nghe mọi người dư luận xấu về quá khứ của

Ngân, tôi không tin, song cũng có phần băn khoăn, thắc mắc!

Nhưng tôi lại nghĩ chắc rồi sẽ có ngày Ngân kể cho tôi nghe về

những điều đó.

Bây giờ thì Ngân đang kể về những chuyện ấy. Hồi ở với Ba,

Ngân quen anh Truyền, công vụ của Ba. Anh ấy khá lớn tuổi nên

Ngân gọi bằng chú. Sau này Ngân lớn mới gọi bằng anh. Anh

Truyền rất cần cù, rất hiền nên Ngân rất mến. Tôi hiểu rằng trong

quan hệ giữa một người con gái và một người con trai, khi quá thân

tiết với nhau, thì dù không có quan hệ yêu đương, cũng không thể

khẳng định là không yêu - Tình yêu ở đây không thể hiện rõ ràng,

nhưng vẫn in bóng trong tình cảm 2 người, lúc ẩn, lúc hiện, trộn lẫn

vào tình cảm anh em, đồng chí. Đúng là Ngân cũng có một tâm

trạng như vậy. Khi anh Truyền sắp đi nơi khác nhận công tác mới,

Ngân đưa cho anh ấy một chiếc nhẫn, sau đó lại một chiếc bút máy

của Ba. Ba phát hiện ra, hỏi dồn mãi và cuối cùng thì Ngân trả lời:

"Con yêu anh ấy!". Ba hỏi: "Tại sao mày lại yêu anh ấy?" Ngân trả

lời: "Anh ấy đã phục vụ ba trong bao nhiêu năm, anh ấy rất tốt,

chắc con yêu anh ấy Ba cũng đồng ý". Ba nổi giận, la mắng và đưa

Ngân ra chi đoàn, ra đơn vị kiểm điểm. Tiếng xấu về Ngân bay

khắp Trung đoàn. Sau đó Ba ra Bắc, Ngân ở lại. Lúc này, cuộc đời

527

Ngân đầy mây đen, Ngân sống bơ phờ, chán đời, quần áo rách

không vá mà chỉ lấy dây cột lại. Lúc này, anh Truyền cũng đã đi xa.

Về sau, được cơ quan động viên, Ngân mới trở lại được với cuộc

sống bình thường. Sau này, có một số người muốn yêu Ngân, song

Ngân không yêu họ. Tuy nhiên, Ngân vẫn nhận thư của họ và

không tỏ rõ tình cảm của mình cho họ rõ nên họ vẫn hy vọng. Đó là

một nhược điểm của Ngân. Chính điều đó lại đưa thêm những điều

tiếng xấu đến cho Ngân. Gần đây, khi Ngân đã yêu tôi, vẫn có một

anh bác sĩ viết thư tấn công Ngân. Tôi không ngăn cấm Ngân gì

hết, song yêu cầu Ngân phải tỏ thái độ rõ ràng: "Có yêu thì nói rằng

yêu, Không yêu thì nói một điều cho xong", đừng để anh ta hy vọng

một cách vô ích. Còn nếu muốn yêu anh ta, cứ tự do, tôi sẵn sàng

rút lui. Ngân khẳng định rằng Ngân không yêu anh ta, Ngân chỉ

yêu tôi mà thôi, yêu trọn đời, nếu không lấy được tôi thì chỉ có chết

mà thôi.

Tôi hiểu rằng Ngân nói rất chân thực, Ngân yêu tôi rất tha

thiết. Trong 2 tháng rưỡi xa tôi, Ngân viết tới 14 lá thư dào dạt tình

yêu và chứa đựng bao nỗi lo ấu phấp phỏng, riêng điều đó cũng tỏ

rõ Ngân yêu tôi biết nhường nào. Chà, bây giờ tôi mới hiểu rằng

một người con gái lại có thể yêu một người con trai một cách dữ dội,

nồng nhiệt như thế. Bây giờ đây tôi đã hoàn toàn yên tâm, hoàn

toàn tin tưởng ở Ngân. Không một người con trai nào có thể thay

thế tôi trong cuộc đời của Ngân cả. Tôi yêu Ngân vô bờ bến, không

lời nào diễn tả hết được, và cũng không một người con gái nào có

thể thay thế Ngân trong cuộc đời của tôi.

Tối, lại ở bên Ngân tới 11 giờ khuya.

Thứ 7 - 27/7/1973

Tôi trở về Ban công tác, do địch lật lọng, chúng ta không triển

khai được hoạt động của Đoàn Liên hiệp quân sự hai bên.

Ở Ban, ai cũng hỏi tôi về quan hệ với Ngân, đều tỏ ra quan

tâm, muốn vun đắp cho tình yêu của chúng tôi. Đã đến lúc cần báo

cáo việc này ra cơ quan, chi bộ, đưa tình yêu của chúng tôi ra công

khai. Tôi viết thư nhắn Ngân sang. Tối, Ngân đã tới.

528

Tối, chúng tôi dẫn nhau đi thăm những anh quen thân, dẫn

nhau đi xem văn công. Rồi tôi đưa Ngân về ngủ với mấy cô gái khác

ở một ngôi nhà cạnh nhà tôi.

Ngân nằm trên võng, còn tôi ngồi trên một chiếc ghế cạnh đó.

Chúng tôi thủ thỉ tâm tình với nhau trong màn đêm tịch mịch,

trong ánh sáng dào dạt của tình yêu. Bây giờ tha hồ mà ngắm nhìn

khuôn mặt thân yêu của Ngân. Tôi vuốt nhè nhẹ trên mái tóc

Ngân, trên má Ngân, trên sống mũi Ngân, trên làn môi âm ấm của

Ngân. Em thân yêu, cả tâm hồn cháy bỏng yêu thương của em đã

thuộc về anh, cả thân thể ngọc ngà của em đã thuộc về anh, thuộc

về riêng anh tất cả. Anh sẽ giữ gìn, nâng niu nó suốt cuộc đời anh!

Tôi hỏi ý kiến Ngân về việc báo cáo với cơ quan, chi bộ quan hệ

giữa 2 đứa, Ngân bảo: "Em đồng ý với anh, song em sợ người ta

cười!"

Chủ nhật - 28/7/1973

Sáng, cùng Ngân sang nhà Nguyễn Khắc Phục, Dương Hương

Ly và các anh trong chi Hội văn nghệ chơi. Lần đầu tiên dẫn người

yêu đến nhà bạn bè, đón nhận nhiệt tình vun đắp của bạn bè với

tình yêu của mình, sống trong không khí vui vẻ, thân mật, thấy

thật sung sướng. Có những bạn gặp tôi, chào: "Chào con người hạnh

phúc nhất cơ quan!"

Hơn 8 giờ sáng, Ngân ra về.

Tôi bắt đầu tiến hành công việc báo cáo. Thật là ngại ngùng,

biết nói thế nào với các đồng chí lãnh đạo bây giờ? Tôi nhờ anh Nhị

nói giúp. Anh Nhị nhận lời ngay. Sau đó, anh đã nói chuyện với anh

Phi và Nam Sơn. Tình hình nói chung là ổn. Tôi nói chuyện với anh

Hoài Nam - Bí thư chi bộ Thông tấn - Tuyên truyền. Anh Hoài Nam

tán thành nhiệt liệt, tỏ ý sốt sắng giúp chúng tôi xây dựng quan hệ

ngày một bền đẹp hơn. Bây giờ chỉ còn chờ Ngân báo cáo với cơ

quan bên ấy thôi. Mong rằng mọi việc sẽ tốt đẹp.

529

Tối, đến nhà Nguyễn Khắc Phục chơi với mấy cậu bạn văn

công. Tiếng đàn ghita bập bùng, tiếng viôlông réo rắt, tiếng hát êm

đềm tạo nên một không khí âm nhạc thật hay, làm cho tâm hồn con

người vừa bay bổng lên, vừa đi vào chiều sâu thăm thẳm, gợi nên

nhiều suy nghĩ tốt đẹp. Giá như Ngân còn ở đây nhỉ. Tôi vừa nghĩ

thế thì Phục đã nói: "Cô Ngân mà được sống trong không khí này

nhỉ". Cảm ơn Phục, người đã quan tâm rất nhiều đến việc làm đẹp

cho tâm hồn người yêu tôi. Đi vào thế giới âm nhạc, tâm hồn người

ta như được tắm bằng một thứ nước trong mát, trở nên sạch sẽ,

thơm tho hơn. Rồi đây, tôi sẽ cố tìm cách làm cho Ngân được sống

trong không khí âm nhạc, văn học, giúp Ngân nâng bổng tâm hồn

của Ngân lên.

Những ngày này được tin Hoàng Chung không chết mà bị bắt,

hiện đã được địch trao trả và đang ở Hà Nội.

THƯ GỬI NGÂN

Ngày 3 tháng 9 năm 1973

Em thân yêu của anh!

Anh gửi trả em lá thư của anh Bản, nó nằm lạc trong cuốn sổ

của anh. Nhân đây, anh nói thêm một số suy nghĩ của anh về tình

yêu.

Về tâm lý mà nói, anh cũng như mọi người con trai khác, đều

muốn yêu một người con gái ngây thơ, chưa trải qua mối tình nào.

Tuy nhiên, nhiều khi cuộc sống không cho phép như vậy, thì cũng

vui lòng yêu một người con gái đã trải qua đôi lần yêu thương và

được yêu thương. Nhưng phải là người con gái có quan niệm đúng

đắn về tình yêu, nghiêm túc và có trách nhiệm trước tình yêu chứ

không coi tình yêu là một thú vui, muốn hưởng tình yêu của tất cả

mọi người con trai.

Đọc thư anh Bản viết cho em, quả thực là anh không thích thú

gì. Anh cứ nghĩ: Không hiểu quan hệ trước đây giữa em và anh ấy

530

thân thiết đến mức nào mà bây giờ anh ấy còn tha thiết đến thế?

Không hiểu trước đây em đã hứa hẹn với anh ấy những gì mà anh

ấy hy vọng nhiều như vậy, oán trách lắm như thế?

Chuyện cũ của em, thuộc về em, anh không có quyền ghen tức.

Song, để xây dựng hạnh phúc với anh, em cần phải làm theo những

lời khuyên của anh. Với người yêu, phải trung thực, có vậy mới

chung thuỷ với người yêu. Có nghĩa là trong mọi chuyện, từ chuyện

cũ đến chuyện mới, đều không nên dấu người yêu, càng không nên

nói dối người yêu. Đã có người yêu rồi thì trong quan hệ với người

khác, phải hết sức thận trọng, nghiêm khắc, tránh sa ngã, tránh cả

chuyện hiểu lầm. Tuy chưa cưới em, song từ khi yêu em, anh vẫn tự

coi mình là trai đã có vợ cho nên anh đã tự kiềm chế tình cảm của

anh để giữ mối quan hệ trung bình (không quá thân thiết) đối với

bạn gái. Do vậy, ngay trong chuyện thư từ, tâm sự, đi thăm hỏi với

bạn gái, anh cũng giảm bớt, để thời gian và tình cảm dành riêng

cho em, dành thật nhiều cho em. Phải nói rằng vì vậy mà anh ít

nhận được thư bạn gái, hoặc nhận thì lời thư có phần nào lạnh nhạt

hơn trước, ít có bạn gái thăm hỏi, đến chơi... Nghĩ qua thì thấy có

lúc cũng buồn đi chút ít, song nghĩ kỹ thì lại thấy đó là điều đúng

đắn, cần thiết. Còn nếu như cứ mơn trớn bạn gái, thì biết đâu, khi

điều kiện cho phép, lại chẳng mắc phải sai lầm? Và thế có nghĩa là

tự đập phá hạnh phúc của mình. Với cách công bố về người yêu của

mình cho bạn gái rõ, thực sự anh đã tự lập một hàng rào để giữ cho

mối quan hệ với họ được ở một khoảng cách cần thiết.

Với em, anh nghĩ đó cũng là điều cần thiết. Em hãy tự coi mình

là gái đã có chồng, tự nghiêm khắc với mình và với bạn trai hơn nữa.

Trong quan hệ hàng ngày, hoặc trong thư từ, đừng để cho họ hiểu lầm

mình, tưởng rằng mình yêu hoặc có cảm tình đặc biệt với họ.

Em có lúc tỏ ra thương hại người con trai yêu thương mình mà

thất vọng, muốn an ủi họ, làm họ đỡ tủi thân. Em nên nhớ rằng, với

những người con trai đứng đắn, tự trọng, họ không cần sự thương

hại đó. Họ chỉ cần tình yêu của em. Khi không được yêu, thì họ cần

sự dứt khoát. Khi có sự dứt khoát rồi, họ sẽ tự rút lui và đi tìm

hạnh phúc cho họ. Thái độ thương hại của em không đem lại hạnh

531

phúc cho họ, chỉ đem lại nỗi hy vọng khắc khoải rồi thất vọng, đem

lại sự phiền hà cho họ, cho em, cho người yêu của em.

Anh không cấm em có quan hệ với anh Bản, song anh không

cho phép em quan hệ một cách mập mờ với anh ấy. Khi người ta đã

chịu sự vuốt ve của người con trai bằng lời, thì khi gặp, họ cũng dễ

dàng chịu sự vuốt ve của người con trai bằng hành động.

Khi đã không yêu, thì cách tốt nhất là hãy dập tắt hy vọng ở

người con trai yêu mình,

Chuyện về anh Bản chỉ là một trường hợp cụ thể, em nên từ đó

mà rút ra bài học chung của cuộc đời để từ đó có một cách sống

đúng đắn.

Với anh Bản, em nên viết thư giới thiệu anh cho anh ấy, nói rõ

quan hệ của chúng ta, anh sẵn sàng làm một người bạn tốt của anh

ấy. Khi cần, anh có thể viết thư cho anh ấy.

Em suy nghĩ cho kỹ đi, rồi nói cho anh nghe.

Hôn em rất nhiều

Anh của em.

THƯ ĐỒNG CHÍ

Triệu Thị Thuỳ. Ngày 6/9/1973

Anh Phấn, anh Long kính mến!

Ngày qua chúng em ra tới sông Tranh thì đi nhờ được ôtô. Đêm

qua chúng em tới đây lúc 10 giờ. Trời đã khá chu đáo cho bọn em

một trận ướt hết quần áo. Các chú muỗi, vắt đón tiếp chúng em rất

tốt. Em bị ngã hai cái điếng người. Tuy nhiên em vẫn béo như cũ.

Chỗ mình ở trong tương lai thì đẹp đấy hai anh ạ, còn giờ thì

cũng hơi ngán vì rận, vắt, dốc và nghe nói là có cả hổ nữa. Quả là

532

cũng không ngon lắm. Tuy nhiên chỗ ở của mình ngay sát sông Trà

Nô, nuớc trong vắt, lắm sỏi đá nên cũng rất thú vị.

Mọi tình hình chắc anh Quảng đã kể với 2 anh cả, em chỉ muốn

báo thêm cho hai anh biết một tin buồn nhất trên đời là 13 bé gà

xinh của nhà mình trên đường đi ôtô đã "hy sinh" cả. Em buồn đến

phát khóc lên ấy. Mặc dù thịt gà kho với khế, em cũng không làm

sao nguôi được. Các anh làm sao xin được gà đem lại để nuôi chứ

còn trên này chúng em không biết xoay xở vào đâu cả.

Bữa cơm chúng em gồm có canh chuối, canh khế, ốc thì rất

nhiều, nghĩa là cũng khá tươi. ổ đây nắng ghê gớm hai anh ạ, mà

anh Quảng thì trêu em suốt ngày. Đến phát khóc lên được. Nếu có

hai anh ở đây chắc sẽ bênh em, còn bây giờ thì chẳng ai bênh em cả,

họ lại còn cười rất thú vị nữa.

Em đã được bầu là béo ngang ấn rồi (nghĩa là nhất Thông tấn

xã đấy).

Em định gửi khế cho các anh nhưng không kịp, thôi để lần

khác vậy.

Em ngừng bút, mong hai anh khoẻ, chóng lên với chúng em.

Em

Triệu Thuỳ

Tối 23 - 24/9/1973 (Thứ 7-CN)

Sang với Ngân - ở bên em để rồi tạm biệt, sẽ di chuyển đến chỗ

mới, còn Ngân vẫn ở chỗ cũ. Sống với nhau những giây phút thiết

tha, nồng cháy.

Không khỏi băn khoăn khi biết rằng Ngân gặp những trở ngại

khi yêu tôi. Trở ngại lớn nhất là anh bí thư chi bộ đơn vị Ngân công

tác. Anh ấy lớn tuổi hơn tôi, đã có vợ, con, nhưng vợ đã chết. Anh ấy

tấn công Ngân nhưng không được, bèn gây khó khăn đối với Ngân

533

trong công tác, phấn đấu. Mặc dù làm việc đầy trách nhiệm, Ngân

vẫn chưa được đưa vào diện đối tượng kết nạp Đảng.

THƯ GỬI NGÂN

Ngày 25 tháng 9 năm 1973

Thuý Ngân thương yêu của anh ơi!

Chỉ còn 2 ngày nữa thôi anh sẽ tạm biệt mảnh đất đã nuôi

dưỡng biết bao tình cảm yêu thương của chúng ta. Anh sẽ xa em để

rồi sẽ mang nặng trong lòng mình niềm thương nỗi nhớ em da diết

Những ngày ngắn ngủi gần gũi em đã để lại cho anh biết bao

kỷ niệm êm đềm và ấm áp. Chắc rằng trên đời này không có ai yêu

thương em như anh. Chắc rằng trên đời này không có ai yêu thương

anh như em. Ôi, em đã yêu chiều anh biết bao, em đã cho anh đắm

mình trong một biển sóng yêu thương. Sống trong biển sóng ấy, anh

vừa thấy đắm say, ngây ngất, vừa thấy tỉnh táo, sáng suốt!. Anh đã

làm tất cả những gì mà một người con trai có thể làm đối với người

yêu, làm bằng một tình cảm rất cuồng nhiệt, cuồng nhiệt tới mức có

thể làm em phát sợ lên. Nhưng, em thân yêu của anh ạ, chỉ đến

mức ấy thôi, chưa bao giờ anh có ý định vượt quá cái mức ấy, ngay

cả trong lúc anh gần gũi em nhất. Bởi vì anh muốn giữ cho tình yêu

của chúng ta thật trong sáng, thật đẹp đẽ, để cho ngày cưới của

chúng ta sẽ là ngày huy hoàng nhất của hạnh phúc lứa đôi, là ngày

cả hai anh em đều bước vào bước ngoặt lớn nhất của cuộc đời riêng

tư. Chắc em cũng mong muốn như thế.

Em yêu thương vô bờ bến của anh! Có phải chăng trong khi yêu

anh và xa anh, em vẫn mang trong lòng một nỗi lo sợ, day dứt?

Chắc rằng em đã lường đến những khó khăn sẽ đến với em? Đúng

vậy, em ạ, trên đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn của chúng ta còn

nhiều khó khăn lắm, nhất là đối với em. Giá như anh ở bên em, anh

sẽ cùng em suy nghĩ, hợp sức lại để vượt qua nó. Tiếc rằng anh lại

đi xa. Nhưng em đừng vì thế mà cảm thấy bị cô độc. Quanh em còn

có nhiều người tốt có thể giúp đỡ em. Chỉ cần em biết tin, mến họ,

534

tranh thủ được tình cảm của họ. Em ơi, nếu như sắp tới em có gặp

điều gì buồn, thì em hãy đừng quá bi quan, em hãy nghĩ rằng đó là

điều phải đến và rồi sẽ phải đi. Em tin rằng anh vẫn luôn luôn theo

dõi, giúp đỡ em, đem hết khả năng của anh để tạo điều kiện tốt

nhất cho em đi lên trong cuộc đời. Em vô vàn yêu thương của anh

hãy nghĩ rằng bây giờ em sống không phải chỉ vì em, mà còn vì anh

nữa, cuộc sống của em là nguồn sống của anh, bởi vậy trong bất kỳ

hoàn cảnh nào em cũng nên sáng suốt, đừng bi luỵ hoặc làm liều...

Khó khăn sẽ đến, rồi khó khăn sẽ qua và sau đó là hạnh phúc.

Chúng ta đã vượt qua một phần khó khăn rồi. Chúng ta sẽ vượt qua

phần khó khăn còn lại. Rồi chúng ta sẽ đi đến hạnh phúc toàn vẹn.

Em cứ tin rằng rồi cuộc đời em sẽ sáng sủa, hạnh phúc. Đó là sự

thật. Không một kẻ xấu xa nào có thể phủ nhận sự thật ấy. Em hãy

tin vào anh, tin vào những người tốt, tin vào cuộc đời, tin vào tương

lai tươi sáng của em.

Thật kỳ lạ là tình yêu của con người. Bước vào rồi anh mới hiểu

rằng đó là mảnh đất đầy hoa thơm quả ngọt, song cũng đầy gai góc,

rác rưởi. Muốn hái hoa và ăn quả, thì chúng ta phải quét rác, nhặt

gai đi. Cho nên, khi yêu rồi, gặp khó khăn thì chỉ còn có cách vượt

qua nó thôi. Đừng vì sợ khó khăn mà sợ tình yêu. Đừng vì gặp khó

khăn mà quay ra oán trách tình yêu. Không, một tình yêu chân

chính không bao giờ có lỗi cả, không bao giờ đáng trách cả. Chỉ

những người ngăn cản nó, muốn phá vỡ nó thì mới có lỗi và đáng

trách. Anh nghĩ chắc rằng trên đời này không có một đôi lứa nào

xây dựng hạnh phúc lại không gặp khó khăn. Cho nên, việc chúng

ta gặp khó khăn là lẽ thường tình, chúng ta cứ thản nhiên bước qua

nó em nhé!

Em yêu thương duy nhất của anh. Trong giấc ngủ trưa nay,

anh nằm mơ thấy anh và em đang ở nhà thì bố mẹ vào. Anh ôm lấy

mẹ mà khóc. Sau đó thì mẹ nói với anh rằng mẹ đã biết hết chuyện

của chúng ta, mẹ gọi em là con. Cả nhà đều cười sung sướng. Rồi

anh chợt tỉnh, tiếc ngẩn tiếc ngơ. Anh lại nhớ bố mẹ vô vàn. Anh lại

nhớ em vô cùng.

Đến xẩm tối hôm nay anh đem chiếc áo của em ra mặc thử. Thế

mà anh mặc chật đấy em ạ. Rồi anh nằm trên võng ôm ấp chiếc áo

535

ấy, hít hơi thơm của chiếc áo ấy, tưởng rằng đang ở bên em. Đêm

nay anh sẽ đắp chiếc áo ấy mà ngủ. Chiếc áo ấy sẽ ủ ấm cho anh.

Bởi vì nó là chiếc áo của em, đem theo hơi thơm và ấm của em.

Còn có bao điều muốn nói với em mà anh không thể nói hết

được. Anh mong muốn em khoẻ, vui, luôn tiến về phía trước của

cuộc đời. Anh luôn luôn ở bên em.

Gửi tặng em mấy tấm ảnh anh chụp trong những ngày sắp xa

em.

Tạm biệt, tạm biệt và hẹn ngày gặp lại.

Hôn em nhiều như biển sóng mênh mông.

Anh duy nhất của riêng em.

TB: Em cố gắng học hết chương trình văn hoá. Nếu kiểm tra,

lấy giấy chứng nhận được thì tốt.

Ngày 28/9/1973

Lên đường đi chỗ mới - vùng sông Trà Nô. Tạm biệt Trà My,

nơi đã sống những ngày êm đẹp của tình yêu. Tạm biệt em thân

yêu, bao giờ gặp lại?

THƯ CỦA NGÂN

Ngày 14/10/1973

Anh Long của em!

Kể từ ngày tạm biệt xa anh 23/9/1973 từ đấy em mang gạo

Bình Sơn đến 31/9/1973 em mới về. Anh đi chỗ mới anh ạ, đi đường

em đã có ý định là về tới nhà em sẽ biên thư cho anh thật dài, thế

mà không đạt yêu cầu. 1/10/1973 em về ở nhà 1 ngày song bận việc,

đến chiều cơ quan liên hoan, đông lắm, gần 70 người cả khách tuy

536

thế song em cảm thấy thiếu buồn vì vắng anh. Tối đến họp cơ quan

đến 9 giờ 30 mà sáng mai Đệ lại phải đi xa nên em nói chuyện với

Đệ, thế thì không biên thư cho anh được, chắc Đệ đến nơi anh mong

thư của em lắm thì phải. Ngay sáng 2/10/1973 em phải đi ngay vì có

người cơ quan ốm nằm dưới kho, chiều 2/10/1973 em đến khỏi đèo

Ba Hương ở lại đấy đến khoảng 4-5 ngày thì bị lụt, ngoài trời mưa

gió tầm tã một màu đen buồn bã thê lương lại nhớ khoảng cách đây

tháng 10 năm ngoái hình ảnh của anh phảng phất vào trái tim em.

Tưởng đâu mùa mưa này em lại sưởi ấm trái tim anh nhưng lại

nằm tại đây 11 ngày, là 11 ngày đêm nhớ anh. Xong trận mưa bão

đấy em lại chuẩn bị đồ đạc về cơ quan thì lại mắc sông Trường

không về được, phải nằm lại 3 ngày 2 đêm. Đúng vào chiều thứ 7

em lại bơi sông về đến nhà mà lại tin nữa là anh Nam - Sơn đi họp,

ngoài ấy chắc anh sẽ đoán em có biên thư cho anh. Có trông không

hả anh yêu thương của em? Tối thứ 7 không làm gì chỉ móc võng

nằm sớm nghĩ không biết giờ phút này anh đang làm gì hay nghĩ về

em. Đến chủ nhật em lại đến viện thăm anh San. Sáng từ nhà đi cứ

nghĩ may chi ngày này anh Việt Long cùng em đi đến viện. Đúng 7

giờ em và Hải đi viện thăm cả anh Hạnh nữa. Đến khoảng gành đá

gần sản xuất có một đoàn khoảng 4 người họ đánh cá, em và Hải bắt

hôi cũng được 1 cân vậy, mà không may ướt đến cổ thế coi như quần

áo như con mèo, vào sản xuất lại gặp anh Hạnh ra chơi, em và Hải

nấu cơm ăn, coi như ăn cơm trưa tại đây. Cá đưa anh Hạnh đem về

cho anh San. Em về nhà, quần áo ớn quá, em không vào viện.

Anh Long yêu của em, xa anh bao nỗi niềm thương nhớ, chỉ

mong ngày gần nhất bên anh. Bữa nay còn giận em hết hả anh

phóng viên ơi! Như tất cả nỗi lòng em đã nói với anh. "Dù xa anh

nơi tận miền duyên hải, song tim anh và em vẫn cùng nhịp đập",

không một giây phút nào em không nghĩ đến anh của em và còn

một nỗi là lo cho anh yếu khi thời tiết thay đổi.

Cứ nghĩ từ ngày em yêu anh, chưa có gì mà chiều theo ý muốn

của anh cả, thôi để dành nhé, khi nào có điều kiện gần em sẽ chiều,

khi đau ốm, buồn, da diết lương tâm.

Anh của đời em!...

537

Em vẫn biết anh rất tha thiết yêu em và thương yêu, hiểu hết

nỗi khổ của đời em và đã đạp vào chông gai. Như thế nếu sau này

ta đã trở thành vợ chồng thì ơn ấy không gì sánh bằng đâu anh ạ!...

"Ơn cao bể rộng, đất dày", ơn anh của em sánh như núi Thái Sơn.

Anh của em, còn về sức khoẻ từ ngày xa anh, em vẫn khoẻ như

xưa, dạo này trời mưa khỏi phải ra nắng nên lại trắng gần bằng

thời kỳ Dốc Voi, môi son, da trắng chỉ tội người hơi to không giống

hồi Dốc Voi. Còn cuộc sống ở đây tất cả sự việc như hồi anh còn ở

nhà, không gì thay đổi.

Nhiều lúc em nghĩ dại, hay hồi ấy yêu anh để im đừng báo cáo

tổ chức để phản cho người ấy một trận cho biết mặt. Kẻo tức quá.

Thư biên cho anh khá dài song chưa hết, hẹn thư sau em biên

tiếp cho anh nhé.

Lâu nay có nhận thư của bố mẹ không, anh Đức và các em

không. Khi nào biên thư cho bố mẹ các em cho em gửi lời thăm gia

đình có được không ?

Cuối cùng chỉ mong anh khoẻ, em vui nhất

Hôn anh rất nhiều

TB: Qua anh, em gửi lời kính thăm anh Phấn, anh Hường, anh

Huề, Phú cùng tất cả gia đình anh nhé, em bận không biên kịp thư,

hẹn dịp sau.

THƯ GỬI NGÂN

Ngày 16/10

Thuý Ngân, em vô cùng thương yêu của anh!

Có người ở chỗ em ra, anh mong được nhận thư em như mong

gặp em.

538

Khi không có thư, anh thất vọng và buồn chẳng khác nào khi đi

tìm em mà không gặp. Biết rằng em đang trên đường công tác gặp

lụt chưa về nhà được, anh rất lo cho em. Thương em vất vả nhiều.

Những lời tâm tình này có làm vợi được chút nào nỗi khó nhọc của

em hay không?

Trời cứ mưa mãi thôi. Những con sông chảy quanh nơi anh ở

nước dâng cao, đỏ ngầu, chảy cuồn cuộn. Nhìn dòng sông hung dữ,

anh lại nhớ đến sông Trường êm ả trong ngày chủ nhật mà chúng

mình ra chụp ảnh với nhau. Em có nhớ ngày hôm ấy không? Đó là

một ngày thật đẹp: trời trong sáng, sông phẳng lặng, em ngoan

ngoãn và lòng anh thì dào dạt tình yêu. Còn bây giờ, sông Trường

cũng hung tợn lắm phải không em? Và em, chắc trong lòng cũng

không tránh khỏi những cơn sóng gió. Em hãy nhớ lấy câu mà

người đời vẫn răn nhau nhé:

"Sông sâu chớ lội

Đò đầy chớ qua"

Nói chung, trong cuộc đời thì phải như thế đấy, và nói cụ thể

trong mùa mưa này em càng phải cẩn thận, đừng lội sông, suối ẩu

mà nước cuốn mất thì khổ anh lắm đấy!

Bây giờ anh nói về anh cho em yên tâm nhé! Anh rất khoẻ em ạ

- ăn, ngủ đều khoẻ, không có gì tỏ ra là muốn sốt cả. Công việc kiến

thiết chỗ ở đã xong, chỉ còn một số việc vặt thôi và lo chuyển lương

thực về dự trữ. Hồi này công tác chuyên môn bận, anh ít có thời

gian tham gia vào các việc khác. Nói chung, anh vẫn cứ làm việc

theo nếp ở trong ấy: ngày, tối đều làm, ít có thời giờ rảnh - và khi

rảnh thì lại nghĩ đến em. Ra đây, anh mất đi cái sung sướng của

ngày chủ nhật đi thăm em. Thay vào đó là công việc, nếu không làm

chuyên môn thì cũng dọn dẹp vệ sinh, trồng rau... cho nguôi nỗi nhớ

em. Mới đây chỗ anh có làm được một bàn bóng bàn, lúc rỗi anh hay

chơi nên người cũng thoải mái, vui thêm một chút. Các anh, chị

trong gia đình ta cũng khoẻ, vui, hay hỏi đến em.

Từ hồi tháng 8 đến nay anh không nhận được thư gia đình.

Chắc là do mưa lụt, đường đi lại trở ngại nên thư không vào được.

539

Em thương yêu của anh có nhớ anh nhiều không? Thư này là

thư thứ 3 anh viết cho em kể từ lúc xa em đấy nhé. Vậy mà anh

chưa nhận được thư nào của em cả. Thiệt thòi quá nhỉ. Em phải bù

cho anh 100 cái hôn đấy nhé!

Em có nhận được thư của Ba và cô Lương không? Có lẽ nên nói

chuyện cho gia đình biết dần đi em ạ, không nên giữ kín làm gì

nữa. Chắc em vẫn khoẻ. Còn công tác và sinh hoạt ra sao, có nhiều

khó khăn không?

Em đừng nên bi quan nhé! Anh có thể nói với em một cách chắc

chắn rằng những khó khăn do những kẻ xấu cố tình gây nên để cản

trở em sắp qua rồi. Em sẽ lại được sống trong sự công bằng và giúp

đỡ của mọi người. Lúc ấy, con đường đi của em sẽ rộng rãi hơn và

nếu em thật nỗ lực phấn đấu thì sẽ đạt được mục đích của mình.

Thuý Ngân yêu dấu của anh ơi! Lắm lúc anh chỉ muốn gọi em

là vợ thôi, chẳng muốn gọi là em, bởi vì gọi là vợ thì mới biểu hiện

được rõ tình sâu nghĩa nặng của mình. Em có muốn như vậy

không? Em có tin rằng chúng ta sẽ sống với nhau hạnh phúc

không? Chắc là tin chứ Ngân nhỉ.

Em có nhận được thư anh Bản không? Anh nghe nói anh ấy

muốn tìm cách đến thăm em đấy! Còn anh Minh, Trinh thì thế nào?

Mọi việc tuỳ ở em. Mong rằng em biết giải quyết đúng đắn theo lời

anh đã khuyên.

Em thương yêu của anh! Có lẽ chưa bao giờ anh nghĩ nhiều về

tình yêu, hạnh phúc như thời gian anh yêu em và được em yêu. Em

có biết anh mong muốn những gì ở người yêu của anh không? Điều

trước hết là lòng chung thuỷ đấy em ạ. Anh nghĩ rằng bất kỳ một

người đứng đắn nào cũng đều mong muốn như vậy. Anh nghĩ rằng

trong cuộc sống riêng tư, người hạnh phúc nhất, sung sướng nhất là

người chỉ yêu một người và được một người yêu. Muốn thế, nhiều

khi phải biết tước bỏ đi một số quan hệ với một số người khác, phải

biết từ chối thẳng thắn tình yêu của họ (có khi việc từ chối ấy đem

lại sự phiền phức hoặc không vui cho mình, song vẫn cứ phải từ

chối). Thế mà trong cuộc đời, anh biết có những người không nghĩ

thế! Có cô gái tỏ ra thích thú, tự hào khi được nhiều người đặt vấn

540

đề yêu. Do vậy cô ta không từ chối tình yêu của ai cả, cô ta chấp

nhận sự ve vuốt của tất cả, song thực chất cô ta lại không yêu ai. Cô

ta cảm thấy rằng nếu cô ta chính thức yêu một người, từ chối tình

yêu của những người khác, thì cô ta sẽ trở nên nghèo nàn, cô độc.

Cô ta cứ phung phí tuổi xuân của mình trong thứ tình cảm rộng rãi

đó và rồi tuổi xuân qua đi. Giật mình quay lại muốn xây dựng một

tình yêu chân chính thì đã muộn rồi. Lại có cô gái có người yêu hẳn

hoi, yêu người yêu tha thiết nhưng đồng thời vẫn cứ cảm mến

những chàng trai khác, không phản đối tình yêu của họ, trái lại còn

vui thích mà đón nhận nó, coi đó là một sự giầu sang về tình cảm.

Anh nghĩ rằng nếu sống với quan niệm ấy, nhất định sẽ không có

hạnh phúc. Nếu anh là một cô gái đã có người yêu thì khi một người

con trai khác đã biết thế mà vẫn cứ lao vào yêu anh, vẫn viết thư

tán tỉnh anh, thì không những anh không vui thú, mà anh còn xấu

hổ vì bị xúc phạm và anh thấy căm giận chính con người đã yêu

mình một cách mù quáng ấy. Trước đây em đã có lần nói với anh về

những gương xấu cần tránh. Ví dụ sự tan vỡ trong tình yêu của chị

Toàn và anh Sin. Em đừng nhìn đơn thuần về hình thức mà nói

rằng do sự chênh lệch nào đó mà anh Sin chê chị Toàn. Thực ra,

anh ấy chê chị ấy vì chị ấy đã yêu anh ấy, song lại rất "dễ dãi" với

những thanh niên khác, quan hệ với những thanh niên khác chẳng

khác nào với người yêu của mình. Vậy thì anh ấy phải bỏ, chứ còn

cách nào khác?

Em thương yêu của anh! Thư đã dài rồi, anh tạm dừng bút.

Cho anh gửi lời thăm anh Hạnh, Hải, Thôi, Thanh.

Mong thư em và những lời tâm tình của em.

Hôn em nhiều và tha thiết như anh đã hôn em.

Anh của em

THƯ ĐỒNG CHÍ

Hoàng Chu

Việt Long thân!

541

Mình vẫn đang ở Sơn Tịnh và thường xuyên phải di chuyển chỗ

ở. Công tác ở một số xã chưa làm được vì địch càn. ảnh chụp dạo

này khó khăn quá vì trời liên tục mưa, bão. Mình ở Tịnh Trà liền 1

tuần mà không chụp được tổ vần công số một. Mình mới chụp có 2

ảnh: Tổ cày và gia đình bác Mai đóng đảm phụ. Còn một số chủ đề

nữa chưa làm được, mình sẽ cố gắng làm. Tất cả số phim mình gửi

về cộng với phim của anh em trong phân xã ở các nơi nữa có thể làm

thành bộ ảnh về vùng giải phóng. Nếu được, bàn với anh Đảo xem

sao. Nếu thiếu mặt nào thì điện minh ngữ xuống phố 108 để cuối

tháng 12 mình có thể về trên đó nắm một số tình hình và xem có

thể di chuyển địa bàn công tác được không. Lần này về mình sẽ

quăng chiếc máy ảnh Exerta đi cho xong vì nó làm đứt phim dữ

quá, mỗi lần như vậy không có túi tháo lại phải đưa cuộn khác vào,

mặt khác mình chụp chưa quen máy Exerta nên phim không nét

mấy. Có lúc mình chán phát bực lên và muốn quẳng máy đi cho rồi.

Long thân! Anh em mình ở nhà dạo này có khoẻ không, có "cải

thiện" hay "tụt tạt" được gì không? Còn mình thỉnh thoảng vẫn bị

sốt rét. ở đồng bằng mà ít được ăn rau tươi quá Long ạ, có tuần liên

tục ăn mắm cái. Thỉnh thoảng di động mình được ăn cá đồng nướng

dầm với nước mắm - ăn ngon.

Mình cảm thấy công tác chạy chậm chạp quá, không hiểu anh

em ta ở Quảng Đà, Quảng Nam ra sao, làm ăn có khá không. Viết

thư gửi về phố 108 cho mình biết với nhé.

Cuối thư chúc Việt Long khoẻ.

Gửi lời thăm các đồng chí trong phân xã

Chào tạm biệt

Hoàng Chu

Từ tháng 10/1973

Thời gian này, anh Vũ Đảo đã được chuyển ra Bắc vì sức khoẻ

kém. Tôi được Ban cử phụ trách Tiểu ban Thông tấn xã. Thông tấn

xã của chúng tôi đã lớn mạnh, đông hơn, hiện đại hơn và vẫn giữ

được truyền thống thương yêu, đùm bọc nhau. Chúng tôi có buồng

542

tối làm ảnh, có đài minh ngữ. Anh em tập hơp thành từng tổ phóng

viên toả đi khắp cả 6 tỉnh Trung Trung Bộ và 3 tỉnh Tây nguyên.

Tôi ở nhà theo dõi công việc chung, trực tiếp biên tập tin, bài, ra

Bản tin đều đặn phục vụ Khu và gửi ra Bắc. Lại như anh Đảo ngày

xưa, mỗi khi nhận thư của ngoài Bắc gửi vào cho anh em Thông

tấn, tôi bóc ra xem rồi tóm tắt nội dung báo cho đồng chí mình biết.

Chúng tôi coi nhau như người ruột thịt, chẳng có gì phải giấu nhau

cả, mặt khác sợ rằng gửi bản chính đi, dễ thất lạc.

THƯ ĐỒNG CHÍ

Hoàng Chu. Ngày 24/10/1973

Việt Long thân!

Mình vừa nhận được thư của Long và tiền gửi xuống. Mình rất

phấn khởi khi được biết tình hình phân xã, anh em vẫn khoẻ. Được

Long tóm tắt thư của Ngọc Điệp gửi cho mình và quà nàng gửi càng

làm cho mình phấn khởi hơn. Mình đã mất ngủ và đau đầu kéo dài,

được tin này lại thức trắng đêm (Long hiểu chứ).

Mình đang công tác ở cánh Nam, Tuyết Trinh + Oai ở cánh

Bắc. Mình đang chuẩn bị tài liệu để cho 3 ngày lễ lớn: 19, 20, và

22/12.

Tình hình ở Quảng Ngãi hiện giờ nhìn chung có yên hơn trước,

nhưng địch cũng đang có kế hoạch mới để càn quét, lấn chiếm. Bị ta

đánh, địch co lại giữ đất đã chiếm. Chúng tập trung quân giữ chốt,

đánh chốt của ta, giữ trục đường số một và các cửa khẩu. Đồng thời

liên tục tung gián điệp biệt kích vào sâu vùng hậu cứ để nắm tình

hình và phá hoại. Đất hoạt động của anh em mình quá hẹp, duy chỉ

còn miền núi mà thôi.

Mình đã chạy được một số ảnh về xây dựng vùng giải phóng

nhưng phim phải mua và mượn của Tuyên huấn tỉnh.

Phim Trung Quốc mốc hết, chụp phim Trung Quốc làm máy

mình hóc liên tục. Mỗi cuộn phim chỉ được một vài kiểu là bỏ và kéo

543

ra vì rất bức xúc. Số phim chụp được để mình mang về vì gửi sợ

mất, mà có gửi cũng không cần thiết lắm (vì ít).

Nếu cậu Phạm Biết xuống công tác lại Quảng Ngãi thì nên

phát cho phim mới (nếu có). Tôn đã chụp ảnh ở sông Hrê được đến

đâu rồi, mình định về đó làm một số vấn đề về thuỷ lợi, nhân giống

mới, và cách làm ăn mới của đồng bào Hrê trong sản xuất và xây

dựng đời sống.

Làm tin ảnh tố cáo rất khó, sự việc và điển hình thì có nhưng

không có cách nào làm được. Địch đánh phá rồi chốt lại, dân phải

chạy như Phổ An, Phổ Hiệp, Đức Hoà...

Về việc riêng: Quà của Ngọc Điệp gửi cho mình Long giữ hộ để

khi về mình nhận. Duy chỉ có cái áo sơ mi trắng thì Long mang ra

mà "diện" nhé. Vì như Long nói "chúng mình là một". Long có quần

Pôlite mà dường như chưa có áo. Còn mình thì thế nào cũng xong vì

"vắng nàng trang điểm với ai, nàng ở miền Bắc chàng thì miền

Nam".

Việc riêng của Long mình đã rõ, như vậy là cậu đã xây thành ở

quê hương Quảng Nam. Mình chúc cậu + Ngân sẽ mãi mãi hạnh

phúc.

Qua thư cho mình thăm sức khoẻ các anh và các đồng chí trong

phân xã.

Thân nhớ

Hoàng Chu

Chú ý: Nếu Phạm Biết trở lại Quảng Ngãi công tác thì đi đường

Sơn Hà - Sông Hrê cho đỡ vất vả.

THƯ GỬI NGÂN

Ngày 1 tháng 11 năm 1973

Em thương yêu của anh!

544

Lẽ ra anh vào khu B triển khai công tác của Đoàn và... gặp em.

Song công việc bận quá, anh Quảng lại đi sông Tranh cõng hàng,

không có người làm thay anh, nên anh đành ở lại. Em có tiếc

không?

Anh đã nhận được thư em do Biết chuyển. Đọc thư càng nhớ

em. Nhớ những kỉ niệm nho nhỏ nhưng rất thú vị khi chúng mình

gần nhau. Song lại nhớ tới cả những chuyện không vui nữa. Nhiều

khi anh cứ tự hỏi: mình có đòi hỏi quá nhiều ở người yêu hay

không? Mình có quá khó tính hay không? Song, suy nghĩ kỹ lại, anh

thấy những điều anh mong muốn ở em chỉ là những đòi hỏi rất bình

thường và chính đáng của một người biết yêu đối với một tình yêu

mà thôi.

Trước hết em hãy đừng hiểu lầm anh giận em vì em đã không

âu yếm, chiều chuộng anh hết mức. Anh đã nhiều lần nói với em

rằng anh chưa hề đòi hỏi như vậy. Anh thấy em chiều anh như vậy

là đầy đủ lắm rồi, anh hài lòng lắm rồi. Còn thì phải để dành cho

ngày chúng ta thành vợ thành chồng. Điều đó thì còn phải "để

dành" cũng như em nói. Và khi gần em, rất gần em, anh vẫn để

dành đấy thôi?

Tuy nhiên, còn có những điều em nói là "để dành" nhưng anh

không đồng ý với em như vậy, đó là những chuyện thuộc về tình

cảm, thuộc về chuyện xây dựng tình yêu.

Muốn cho sau này quan hệ vợ chồng thật tốt đẹp, thì khi mới

yêu, người ta đã phải làm tốt những điều thuộc về quan hệ tình

cảm. Tình vợ chồng là kết quả và là sự nâng cao của tình yêu. Tình

yêu nào sẽ dẫn đến tình vợ chồng ấy. Ví như người trồng cây ấy, chỉ

khi chọn giống tốt, gieo hạt trên đất tốt, chịu khó vun xới, tưới tắm,

bắt sâu cho cây, thì sau này cây mới xanh tốt, mới ra quả ngon. Còn

nếu cứ gieo hạt bừa ra đấy, kệ cho cỏ rác lu lấp, kệ cho sâu bọ phá

hoại, thì làm sao bỗng nhiên lại có quả ngon được? Chẳng lẽ nào ta

lại để dành khi quả chín rồi mới bắt sâu ? Lúc ấy bắt sâu sẽ vô ích,

bởi vì có bắt thì quả vẫn cứ không ngon lại được.

545

Khi chưa yêu, anh cứ nghĩ rằng tình yêu là cả một vườn hoa

rực rỡ, chỉ có sắc đẹp và hương thơm. Nhưng khi yêu rồi anh mới

hiểu rằng không phải chỉ có thế, mà còn có nhiều gai góc, dây nhợ

nữa. Tuy nhiên, điều đó không làm anh thất vọng. Anh vẫn cứ tin

tưởng ở tình yêu. Điều đó giúp anh có thêm sự sáng suốt và sức

mạnh vượt qua những trở ngại.

Ngân ơi, anh thương em biết bao nhiêu. Có lẽ chính em cũng

chưa hiểu được anh thương em đến mức nào. Em đã khổ nhiều quá,

khổ từ tấm bé khổ đi, đến lớn vẫn cứ còn khổ. Anh không muốn em

phải khổ nữa. Anh cố gắng tìm mọi cách đem lại niềm sung sướng

cho em. Em cũng đừng cam chịu sự khổ cực, mà cũng phải tìm cách

gạt bỏ nó đi..

Em thương yêu của anh! Khi xa em là lúc anh nghĩ đến em

nhiều nhất. Chắc em cũng đang nghĩ về anh phải không? Trong

những điều anh nói với em, có điều gì em không đồng ý? Nếu có thì

cứ nói thẳng với anh, chứ không thì anh biết đằng nào mà sửa

chữa?

Anh yêu em là vì anh yêu em, chứ không phải anh muốn làm

ơn đối với em, anh muốn em biết ơn anh. Đừng biết ơn anh nhé, vì

như vậy sẽ làm cho quan hệ của chúng ta thiếu bình đẳng. Anh

không phải là người cứu vớt em đâu. Anh chỉ là người bạn đời tận

tuỵ của em. Khi đem lại hạnh phúc cho em thì chính anh đã đem lại

hạnh phúc cho anh.

Anh Phấn, anh Huề đều gửi lời thăm em đấy.

Còn những khó khăn do bên ngoài đem lại, đừng lo, vì nó sẽ

phải đầu hàng chúng ta. Khi yêu em, thì không một trở lực bên

ngoài nào ngăn cản được anh.

Thư này là thư thứ 5 anh gửi cho em. Có nhận được đầy đủ

những thứ anh gửi cho em không, sao không nói?

Anh vẫn khoẻ, em đừng phải lo cho anh.

546

Chúc em vui, hạnh phúc.

Hôn em rất nhiều

Anh của em

12 giờ trưa, trời nắng

Ngày 3/11/1973 (Thứ bẩy)

Có việc vào Trà My - thế là lại được gặp Ngân. Hồi này Ngân

khoẻ, người to béo, má đỏ hây hây. Chưa bao giờ Ngân thể hiện tình

yêu với tôi một cách mạnh mẽ, tha thiết và lại tế nhị như lần này.

Chỉ được sống với nhau một tối thứ 7, một ngày và một tối chủ

nhật, thực ra chỉ được bên nhau mấy tiếng đồng hồ, vì Ngân bận

việc cơ quan, song thấy thật hạnh phúc. Muốn quấn quít mãi bên

nhau.

Ngày 6/11/1973 (12/10 âm lịch)

Suốt mấy ngày nay trời mưa sập sùi mãi. Nước các con suối bắt

đầu dâng cao.

Buổi trưa, trên đường ô tô, tôi thấy một cô gái ngồi bệt bên

cạnh một gùi sắn, người ướt sũng. Tôi thầm nghĩ: "Cô nào mà tội

nghiệp thế kia?". Đến gần mới nhận ra đó là Đệ - cơ công trong bộ

phận kỹ thuật của chúng tôi. Cô người Hà Tây, vào đây năm 1972.

Đệ ngước nhìn tôi, miệng cười, chào, mà mắt thì khóc đỏ hoe. Tôi

phải tránh không nhìn vào đôi mắt ấy. Tôi bảo Đệ để tôi gùi giúp

sắn, Đệ nói:

- Gùi bẩn lắm, để em gùi!

Phải nói mãi, Đệ mới đồng ý đổi gùi cho tôi. Đệ đi chân hơi

khập khiễng vì vừa trượt ngã. Nói chuyện một lúc, Đệ đã cười khúc

kha khúc khích. Cô gái ấy thật hồn nhiên, nỗi buồn tủi không đọng

được lâu trong tâm hồn.

547

Càng về chiều, trời càng mưa. Đoàn 5 anh em lúc nào cũng đi

sát bên nhau. Suối nước dâng cao tới ngực, tới cổ. Dìu nhau qua cả

chục con suối như vậy. Nhìn Đệ người ướt sũng, quai ba lô chằng

kéo bộ ngực, tôi thấy thương vô cùng. Lại liên hệ đến người yêu của

mình - hôm nay em cũng đi cõng gạo, chắc cũng vất vả thế này.

Gần về đến nhà, lạnh quá, tôi đi trước. Tôi đi theo đường thồ.

Con đường này chạy vòng nên không phải lội qua suối. Thực ra,

dòng suối bây giờ nước đã dâng tràn bờ, còn hung dữ hơn cả những

con sông. Đệ và 3 người kia đi theo đường C.9 (nhà máy In), tuy gần

hơn nhưng phải lội qua suối. Rồi, trong khi anh em còn nghỉ, Đệ ra

bờ sông trước. Không ngờ Đệ mất tích luôn. Lúc ấy là 4 giờ chiều.

Anh em nháo nhác đi tìm. Hai người bơi dọc theo suối, dọc theo

sông tới 2km. Song, Đệ không còn nữa.

Ngày 9/11/1973

Sáng nay, tiếp tục đi tìm Đệ dọc sông Trà Nô. Tôi và Huề đi

theo bờ trái sông. Bên kia có ái và Minh. Đường đi, chỗ thì gai góc,

chỗ thì ghềnh đá, thật khó đi. Nhiều chỗ không đi được, phải lội

xuống sông, bơi xuôi theo nước. Nước đục ngầu, đầy rác rưởi, ngầu

bọt và lạnh ngắt. Dọc bờ sông, tiếng quạ kêu ai oán, nghe âm u và

tang tóc. Chắc rằng tiếng quạ lúc này sẽ ăn sâu vào tâm khảm tôi,

giữ mãi trong tôi một xúc cảm thê lương, không thể nào phai mờ.

Đến trưa mới thấy Đệ: cô nằm mắc vào một bụi rù rì giữa dòng

nước, đầu chìm dưới nước, chân phơi trên mặt nước.

Chúng tôi kéo Đệ lên. Mình mẩy Đệ bị đập vào đá sưng tím,

mặt sưng to, tròn, không thể nhận ra. Cánh tay phải bị gãy nơi

khuỷu. Lúc đưa xác Đệ lên bờ, từ mũi cô, máu trào ra thành hai

dòng, sủi ngầu bọt. Đau lòng quá Đệ ơi!

Chúng tôi tổ chức mai táng Đệ khá chu đáo. Thực ra, cũng chỉ

bằng cách quấn thi hài vào võng, vào tấm ni lông và tăng rồi hạ

huyệt trên sườn đồi. Chỉ có điều khác là trên ngôi mộ, chúng tôi

căng ni lông thành một cái lều nhỏ che mưa che nắng. Thôi nhé, Đệ

ơi, em hãy ngủ yên trong cánh rừng non quạnh vắng này! Lối mòn

548

chạy ven sườn đồi, xuyên cánh rừng non này nối liền Ban vói Nhà

máy in và Đài minh ngữ, thỉnh thoảng có bạn bè qua lại, em sẽ bớt

cô đơn!

Dòng sông nhấn chìm Đệ, cuốn trôi luôn cả ba lô của tôi với hầu

hết đồ dùng của cuộc sống. Tiếc nhất là chiếc máy ảnh Pentax do cơ

quan ngoài Bắc gửi vào với một cuộn phim đã chụp, nó là vũ khí

chiến đấu, là người bạn thân thiết của tôi.

Từ ngày 10/11/1973

Suốt trong thời gian này trời mưa tầm tã. Nước sông Trà Nô đỏ

ngầu, dâng lên cao kinh khủng. Lòng sông bỗng nhiên rộng ra một

cách lạ lùng. Nước tràn qua phía tả ngạn. Dòng chính bỗng trở

thành dòng phụ, còn nơi trước đây là bãi đá, lau lách, bỗng trở

thành dòng chính. Nước cuộn băng băng, vít các ngọn cây xuống lúc

thì chìm nghỉm, lúc lại nổi bập bềnh, rung bần bật. Nước cuốn

những cây gỗ to hàng người ôm, những bè rác rưởi trôi veo veo,

nhìn chóng mặt. Thỉnh thoảng, một cây gỗ lại đâm sầm vào một bụi

cây, mắc kẹt ở đó, cản rác rưởi lại thành đống lớn. Nước ngập lút

mái nhà bếp, lút bàn nhà ăn, chia cắt cơ quan thành 3, 4 khu vực.

Phải lấy gạo về nấu ăn riêng. Có nơi phải chạy sang C.8 ở vì nước

đã tràn vào nhà. Thỉnh thoảng nghe tiếng nổ rền, âm - đó là tiếng

núi lở. Cây cối càng trôi xuống nhiều hơn, thân xơ xác như bị đánh

bom. Nước đỏ ngầu, đặc quánh lại. Nhiều đoạn đường đã bị lấp do

núi lở. Cả một tiểu đội hậu cần đi cõng gạo, ngủ bên suối đoạn gần

sông Trà Nô, bị đất núi vùi lấp, không còn một dấu tích.

Nước rút để lại phía tả ngạn một bãi bằng phẳng, đầy phù sa

và phía hữu ngạn một bức thành rác rưởi cao mấy mét.

THƯ GỬI NGÂN

Ngày 12 tháng 11 năm 1973

Thuý Ngân, em yêu dấu của anh!

549

Tuy chưa có người vào trong đó để gửi thư cho em, anh vẫn cứ

viết. Anh đang rất buồn, và càng buồn lại càng nhớ em.

Đệ không còn nữa rồi, Ngân ạ! Phải chứng kiến cái chết thê

thảm của Đệ, anh đau lòng vô hạn. Tạm biệt em ra về, trưa hôm

sau anh gặp Đệ đi cõng sắn về. Từ xa, anh thấy một cô gái ngồi bệt

giữa đường, bên cạnh là một gùi sắn lớn. Tuy chưa rõ là ai, song

nhìn thấy thế, anh cũng thấy thương thương. Đến gần mới nhận ra

Đệ. Đệ cười chào anh, nhưng mắt lại khóc đỏ hoe. Anh cũng cười,

tránh không nhìn vào đôi mắt Đệ với những giọt nước mắt long

lanh. Rồi anh bảo Đệ để anh cõng giúp gùi sắn. Đệ nói: "Gùi bẩn

lắm, anh cõng lấm hết quần áo, để em cõng". Phải nói mãi Đệ mới

đổi gùi cho anh. Đi nói chuyện một lúc, Đệ đã lại cười khúc khích.

Đệ thật hồn nhiên, ít u buồn lâu. Trời vẫn mưa dầm dề. Nước suối

mỗi lúc một dâng cao. Anh, Đệ và 3 người nữa ở C8 đi bám lấy

nhau, dìu nhau qua khoảng hơn chục khúc suối sâu, nước tràn tới

cổ hoặc ngực, chảy rất xiết. Khi gần về đến nhà, hết suối lớn rồi,

anh lạnh quá nên đi trước. Anh đi theo đường thồ, không phải lội

suối nữa. Còn lại 4 người đi theo đường C9, phải lội một con suối

nữa. Lúc vào C9, anh em nghỉ, Đệ nói Đệ đau chân, đi dần ra bờ

sông trước. Anh em đi sau có mấy phút, vậy mà tới bờ sông đã

không thấy Đệ đâu nữa. Tất cả vội nháo nhác đi tìm Đệ. Anh Sinh

+ Tùng bơi dọc theo sông 2 cây số cũng không thấy gì. Sáng hôm

sau lại đi tìm cũng không thấy. Lúc này sông nước mênh mông, đục

ngầu, rất hung dữ. Sang ngày thứ 3, nước rút, anh, anh Huề và 2

anh nữa lại đi dọc theo sông tìm - đến 11 giờ trưa mới thấy xác Đệ

tấp vào gần bờ, mắc ở một bụi cây nhỏ. Em ạ, trông Đệ thảm

thương lắm... Sau đó, cơ quan đã tới tổ chức mai táng Đệ chu đáo.

Em ơi! Cho đến lúc này, những cảm xúc đau thương trước cái

chết của Đệ vẫn còn đè nặng trong trái tim anh. Hôm ấy, nhìn Đệ

cõng ba lô, quai ba lô chằng kéo, đè bộ ngực xuống, anh thấy thương

vô cùng. Anh lại nghĩ đến em, hôm ấy em cũng đi cõng gạo, dây gùi

chắc cũng lại đè nén bộ ngực của em như thế. Bao giờ những người

con gái ở Miền Nam mới hết phải khổ cực như thế này? Anh nhớ lại

những kỷ niệm nhỏ mà sâu sắc với Đệ. Anh vẫn thường nói với em

đấy, Đệ rất hồn nhiên, ngoan ngoãn, anh rất mến. Đối với Đệ, anh

không phải ngần ngại, e dè như đối với các cô gái khác. Khi Đệ

550

thiếu thốn, anh cho Đệ một cách tự nhiên, không sợ Đệ tự ái. Khi

cần Đệ giúp, anh hỏi thẳng, không ngần ngại. Đến việc may quần

lót anh cũng nhờ Đệ làm, thậm chí có chiếc quần lót mặc quá rộng,

anh cũng nhờ Đệ chữa hộ. Những lần ấy, Đệ đều vui vẻ nhận, sốt

sằng làm và làm rất nhanh, chu đáo, không để anh phải đợi lâu.

Anh thấy ít có cô gái nào lại tạo được sự thông cảm với anh như thế,

lại nhiệt tình, chu đáo và vô tư với anh như thế.

Em thương yêu của anh! Ngay trong tình yêu của chúng ta, Đệ

cũng rất nhiệt tình vun đắp. Thấy có việc gì có hại đến tình yêu của

chúng ta, Đệ đều nói cho anh biết để anh ngăn chặn. Anh nhớ mãi

hôm anh ở viện về, em làm anh không vừa lòng, anh ngồi chơi với Đệ,

không sang với em, Đệ cứ giục anh: "Anh sang bên đó đi". Lát sau Đệ

lại giục: "Hay anh cứ sang đó một lúc. Anh giận được mãi à?"

Em yêu thương của anh! Nói với em về tình cảm của anh với

Đệ, anh muốn giải thích thêm nguồn gốc của tình yêu của anh đối

với em. Sống ở chiến trường, anh rất thông cảm với đồng chí, thấu

hiểu những khó khăn, gian khổ của đồng chí mình, và từ đó xác

định cho mình cách đối xử đúng đắn với đồng chí. Chính anh đã đến

với em bằng tình cảm như thế đấy. Lúc đầu, nghe em kể về hoàn

cảnh gia đình, anh thấy thông cảm, dễ chan hoà. Khi gần em, hiểu

em hơn, anh càng thông cảm hơn. Và khi yêu em, hiểu sâu sắc

những chi tiết của cuộc đời em, thì anh thấy rất thông cảm với em,

rất thương em, muốn bù đắp cho em những gì em thiếu thốn. Cho

nên, em hãy tin ở tình yêu của anh, nó bắt nguồn từ những suy nghĩ

sâu sắc, nó vững bền. Nếu em nghĩ rằng vì em đẹp rực rỡ mà anh

yêu em, thì đó là ý nghĩ không đúng! Em hãy đừng tự hào khi được

yêu như thế, mà em phải ghê sợ nó, vì nó không có cơ sở vững chắc,

nó dễ tan vỡ. Anh không bao giờ yêu bằng một tình yêu như thế và

anh không muốn người khác yêu anh bằng một tình yêu như thế.

Ngân ạ, trong chuyện rủi ro của Đệ, anh cũng chia xẻ một phần

nhỏ: anh bị nước cuốn mất toàn bộ ba lô (vì Đệ mang của anh).

Chiếc máy ảnh mới toanh ngoài Bắc gửi vào cho anh cũng mất theo.

Chiếc khăn kỷ niệm của ba mà em đưa anh cũng mất theo. Em

đừng trách anh vì anh đã làm mất vật kỷ niệm ấy nhé. Em thương

yêu ạ, mỗi một vật dụng của em đưa anh, dù là nhỏ bé, bình

551

thường, anh đều quý trọng vô cùng, anh đều nâng niu, giữ gìn nó

cẩn thận - vì anh nghĩ rằng nó chứa đựng tình cảm của em, nó biểu

hiện sự chăm sóc của em đối với anh. Nhất là chiếc khăn ấy, anh

càng quý, vì nó còn chứa đựng tình cảm của Ba nữa. Vậy mà anh

không giữ được nó, anh tiếc ngẩn ngơ.

Trước sự việc này, em đừng quá lo cho anh nhé! Những gì cần

thiết nhất cho cuộc sống của anh bị mất đi thì đã có cơ quan, anh

em bù đắp cho. Chỉ có cái áo len là chưa có! Em xem nếu được thì

đến Lan lấy cái áo xanh của em về, để rồi anh kiếm thêm len, đan

thành cái áo của anh. Và nếu không khó khăn, thì em nhờ may cho

anh một cái mũ. Vậy thôi, em đừng lo gì nhé.

Mấy hôm nay trời vẫn mưa sập sùi suốt. Nước sông dâng lên

cao chưa từng thấy. Nước ngập tràn cả nhà bếp. Bọn anh phải nhận

gạo về tự nấu ăn. Với sức mạnh điên cuồng như thế, chắc nước còn

giết chết nhiều người. Hôm vừa rồi, Đào (ở đấu tranh chính trị) đã

bị nước cuốn chết rồi. Thật tội nghiệp cho cô gái "hồng nhan bạc

mệnh". Nước càng lớn bao nhiêu, anh càng lo cho em bấy nhiêu.

Anh luôn luôn sống trong tâm trạng nhớ em, nơm nớp lo sợ những

điều bất trắc đến với em. Em phải hết sức chú ý nhé. Trước một con

suối nhỏ cũng phải đắn đo, lường xét kỹ rồi hãy lội qua. Trước

những con suối lớn, chỉ lội qua khi đi cùng các anh khoẻ, biết bơi

giỏi. Trước dòng nước lũ, tuyệt đối không được lội qua - dù có phải

ngồi bên bờ chịu đói chịu rét cũng đành chịu chứ đừng lội qua. Hôm

trước em ngồi trên bè chuối bơi qua sông Trường là quá liều mạng

đấy, anh rất phiền lòng. Trong việc này em phải tuyệt đối làm theo

lời anh, nghe không em?

Chị Nga, Lan đã học xong chưa, có đến chỗ em không? Sau khi

2 chị ấy về đây họp rồi, em có thể sẽ có chuyện vui. Song, trước mắt,

em phải yên tâm công tác, làm thật chu đáo mọi việc được giao, từ

lời nói đến việc làm đều phải giữ ý, đừng để xảy ra đụng chạm với

người kia. Những việc ấy để anh làm. Hôm nọ Hải lên nhà ấy nói

chuyện khuya mà em lên gọi là rất hư, không làm theo lời anh -

việc của người khác kệ họ, mất gì mà dính vào cho phiền, nhất là

em lại đang ở trong thế bất lợi. Tốt nhất là em hãy nhớ kỹ mọi

552

chuyện, thu thập bằng chứng cung cấp cho anh, anh ở thế lợi hơn,

anh sẽ có cách...(Những lá thư của hắn mà em giữ lại là tốt nhất).

À, em nhớ đổi sợi dây chuyền mà đeo nhé. Em trắng, đeo dây

chuyền sẽ đẹp.

Em hãy đọc lại những thư trước của anh, có chỗ nào không

thống nhất với cách nghĩ của anh thì nói cho anh biết.

Rất mong thư em.

Hôn em rất nhiều

Anh của em, của riêng em.

THƯ CỦA NGÂN

Anh Long yêu của đời em

Chắc có lẽ, ngày chúng mình sống bên nhau thì còn xa anh nhỉ,

thôi thế cũng được, chỉ mong khoảng 1 tháng chúng mình gặp nhau

1 lần là hạnh phúc lắm rồi. So với những đôi trai gái khác còn hơn

chán.

Anh yêu của em!

Tuy thế song anh vẫn thấy ở em cái gì anh chưa hiểu phải

không anh. Chẳng hạn như anh bảo em không thích sống gần anh

mà khi được gần nhau thì lại xa lánh anh đi, hoàn toàn không phải

thế đâu anh ạ, người em chứ dễ như chiếc bánh thì em sẽ bóc cho

anh xem nhé! Chắc anh không hiểu nỗi tha thiết ngày gần nhất ta

sẽ được bên nhau. Nếu không yêu nhau thì thôi chứ đã yêu nhau

thì thích sống gần người yêu sưởi ấm tâm hồn nhau, chăm sóc chiều

chuộng nhau, trong lúc đau ốm, buồn tẻ hả anh.

Đúng sự thật em không muốn xa anh nửa bước, chỉ muốn rằng

chúng mình có điều kiện cưới nhau như cảnh hoà bình đàng hoàng.

Cùng làm, cùng ăn, cùng ngủ với nhau một phòng kia anh ạ!

553

Anh yêu thương! Sáng hôm ấy trời mưa nước sông lớn, đường

xa hẻo lánh chỉ một mình lặn lội. Giá như ở nhà chỉ một mình em

và anh thì em không cho anh đi đâu song vì nhiệm vụ cách mạng

nên ta tạm gác mọi tình cảm riêng tư một bên. Từ sáng 4/11 ta chia

tay nhau, anh đi cánh nam sông Tranh, em ra tận cây số 68 sông

Nước Mỹ nhận gạo, từ nhà ra đi một ngày đến sáng hôm sau trời

tiếp tục mưa tầm tã, hạt mưa tranh nhau rơi, không biết anh của

em đã đến đâu rồi, từ đó em phải tiếp tục hành trình hai ngày nữa

mới đến nơi. Đến nơi xong khi về khoảng 10 cây số theo đường ô tô

thì bị mắc lụt phải nằm lại đấy một ngày mà lòng dạ phải lo không

biết có về nhà được không, đường về cơ quan còn xa quá. Sao mùa

mưa này dữ tợn quá, các cơn mưa cứ tiếp nhau, và các con sông thì

càng ngày càng cuồn cuộn chảy, đã cuốn đi bao nhiêu người và bao

nhiêu gùi hàng. Anh yêu của em ạ!... tâm trạng của anh hay của em

lúc này cứ lo nghĩ cho nhau. Sau đó về sông Nước Oa các anh về

hết, chỉ một mình em và anh Tám Tuyên ở lại giữ gạo, còn mọi

người thì bơi sông về hết. Mãi đến sáng 21/11 nước cạn trở lại đón

em và anh Tuyên, thế là chiều 21/11 em mới về đến nhà. Tổng cộng

chuyến đi mang gạo là 17 ngày mới về nhà nghe ngóng tin anh. Về

nhà mọi người họ bảo em là anh bị nước cuốn mất, cả Đệ nữa. Đầu

tiên chưa hiểu là sự thật chỉ tin là anh của em đã xuống suối vàng,

không cầm được nước mắt khi nghe tin "sét đánh ngang tai", thế là

từ đây xa nhau mãi mãi mà nghĩ trời đã không định cho chúng

mình hưởng một cuộc đời trọn vẹn.

Anh Long ơi! Đi về lúc này qua trận lụt 20 ngày người trở nên

nhếch nhác, tiều tuỵ lắm, tâm hồn em lúc này chẳng nghĩ ra chút gì

nữa. Mãi đến tối anh Hạnh nói anh bị mất hết ba lô song người vẫn

còn. Lúc ấy vui buồn lẫn lộn, đêm 21/11 này em không sao ngủ được

vì thương anh mà chưa lúc nào em nghĩ về anh nhiều như lúc bây

giơ, ước gì lúc này em sẽ có đôi cánh bay đến ấp ủ, sưởi ấm anh

trong những giây phút đáng yêu thương.

Anh yêu của em!

Cảm thấy anh yêu thương em quá nhiều. Mà chẳng lấy gì làm

vui lòng anh cả và nhận được thư nào cũng chỉ thấy tình yêu

thương nồng cháy và mẫu mực đến thế và luôn suy nghĩ về em.

554

Anh Long yêu, mà cũng thời gian này là thời gian anh suy nghĩ

về em hở anh. Trước tiên chỉ thấy có dịp mình cùng công tác mà ôn

lại những ngày dĩ vãng... Đầu tiên nói việc chung là niềm tin yêu

của em thì mơ ước vậy. Còn hiện tại ta vẫn xa nhau. Từ hôm đi về

đến nay có khoẻ không anh. Buồn lắm không anh. Còn đồ đạc thì

nghe đâu mất hết cả hả anh, chắc những ngày này thì em ở xa song

vẫn biết anh buồn và lo nghĩ. Thôi anh ạ! đừng nghĩ gì việc mất

mát nữa nhé. "Còn người còn tất cả, còn những ngày vui đạt mọi

nguyện vọng".

Anh yêu của em! nói thì vậy song chỉ mong làm sao gặp được

anh để chia bớt nỗi buồn lo ấy, và chỉ ước ngày này mà có em thì ấm

thêm để giải bớt mùa đông giá lạnh, em hỏi anh có khoẻ luôn không

chứ em biết anh không khoẻ lắm mà lại gầy thêm. Nếu có gầy đau

yếu thì hãy hoãn lại để ngày ta bên nhau đã nhé.

Đáng ra em còn biên thật nhiều cho anh nhưng em phải đi

ngay nên em tạm dừng ở nơi đây, chỉ mong anh khoẻ mạnh, em vui

nhất. Còn mất mát anh đừng lo nhé. Ta sẽ sớm trở lại nhé.

Trong này không có gì mà gửi cho anh hết, còn tiền thì như em

đã nói với anh là đổi dây chuyền hết rồi, nếu có ai đi đồng bằng thì

em sẽ bán đồng hồ sắm lại tất cả cho anh nhé.

Em gửi Hạnh mang giúp đến cho anh chiếc khăn len, khăn

mặt, một hộp dầu cao còn em khoảng hết tháng này em về Ban, em

sẽ mang các thứ cho anh, à gửi anh cây bút anh làm việc nhé.

Anh chuyển lời em đến thăm toàn thể gia đình nhé và em gửi

thư của chú và cô em cho anh đây.

Mong anh ngủ ngon đêm nay, ngày mai khoẻ mạnh.

Tất cả hẹn ngày vui đạt mọi nguyện vọng.

Em. Thuý Ngân

555

À anh thay mặt em thăm Lệ nhé, em định gửi bọc võng sang

em chợt nhớ anh còn màn tuyn.

THƯ GỬI NGÂN

Ngày 30/12/1973

Em thương của anh!

Anh gửi em xem quyển "Sống lại" - một quyển sách rất hay.

Em xem xong, gửi qua, anh sẽ gửi tiếp tập hai cho đọc. Còn sách

văn hoá anh Mai nói bên ấy có, nên anh không gửi qua.

Thuỳ có gửi cho em một chút quà nhân dịp năm mới, anh

chuyển cho em đây.

Vừa rồi, anh Hà, Mai, Tuấn đã mời anh H.A đến gặp, giải

quyết chuyện liên quan đến em. Nói chung là đạt yêu cầu của ta.

Anh H.A sẽ gặp em để nói chuyện cho thanh thản. Nếu em gặp anh

ấy, thì trước tiên gặp anh hoặc anh Tuấn để thống nhất với nhau

những điều sẽ nói với anh ấy cho phù hợp. Phải gặp hai anh trước

mới được, nếu không thì chưa nên nói chuyện gì hết.

Em đừng gửi thuốc cho anh, anh không tiêm đâu. Anh vốn rất

ghét tiêm. Hiện nay vẫn còn khá nhiều thuốc bổ, song anh chỉ bỏ xó

thôi. Tiêm không phải là cách tốt nhất để nâng cao sức khoẻ đâu.

Mặt khác, vì em là y tá, cho nên anh không muốn nhận bất kỳ thứ

thuốc gì em đưa - cho dù đó là thuốc em mua hay xin riêng. Chúng

ta cần phải giữ ý trong việc này.

Còn tiền, anh vẫn muốn em mua đài. Hôm nào gặp anh sẽ đưa

lại. Anh vẫn có tiền để mua các thứ cần thiết, em không lo. Em

chăm sóc anh về đời sống vật chất, anh rất quý. Song, điều anh

mong muốn hơn nhiều, là sự chăm sóc về tinh thần, tình cảm. Anh

phải nói thật với em rằng em đã làm anh phiền lòng nhiều. Em hãy

giải thích cho anh rõ: tại sao ảnh của bố mẹ, anh em anh, anh để

cẩn thận trong sổ, em lại lấy ra, để lộn đầu xuống? Do vậy, anh đã

556

lấy lại, cất đi, vì không muốn để ảnh những nguời mà anh kính yêu

nhất trên đời bị em quăng quật như những lá thư của anh. Có lẽ

những nỗi bực bội ấy làm anh gầy đi nhiều. Anh chưa bị bệnh gì

mà! Em chúc anh "Vạn sự như ý" - Vậy em hãy làm như thế đi.

Thôi, chúc em khoẻ.

Hôn em. Anh của em

Việt Long.

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Ngày 4/1/1974

Bố mẹ kính yêu của con!

Món quà đầu năm, con gửi đến gia đình là: con rất khoẻ, có lẽ

quên sốt rồi! Hồi này con ở nhà làm công tác biên tập, khó được đi

xa, vì anh em mới vào viết nhiều, tin, bài lắm, cần có người biên

tập. Được bầu vào Đảng uỷ, trực tiếp làm bí thư chi bộ, con càng

thêm bận. Con muốn dành nhiều thời gian cho công tác chuyên

môn, đọc sách, đi sâu vào đời sống của quần chúng, tích luỹ vốn

sống, song nay được giao trách nhiệm như trên, con không dám

thoái thác, phải hoàn thành tốt. Con còn có một điều mong muốn là

được đi học - học đại học, hoặc học lý luận, chính trị càng tốt, qua đó

có dịp về với gia đình thân yêu. Tuy nhiên, nhìn vào tình hình thực

tế, con thấy hiện nay và trước mắt chưa phải là giai đoạn thực hiện

mong ước ấy! Kẻ địch ngoan cố phá hoại hiệp định Pari, chúng con

cũng như đồng bào miền Nam nói chung, chưa được hưởng một

ngày hoà bình thực sự. Và chúng con, lòng thanh thản, lại tiếp tục

truyền thống kháng chiến gian lao...

Bố mẹ yêu quý của con! Thấm thoắt xa nhà đã gần 6 năm rồi.

Sáu năm qua, con có những bước trưởng thành đáng mừng, mặt

khác con cũng già dặn thêm nhiều, đó là quy luật của cuộc sống.

Cũng chính theo quy luật của cuộc sống, con không thể không nghĩ

đến chuyện xây dựng gia đình. Ôi! Đó là cả một loạt vấn đề phức

557

tạp, khó khăn, nhất là trong hoàn cảnh ở chiến trường. Suốt 5 năm

qua, con đã cố gắng dẹp nó đi, song nó vẫn cứ đến với con. Giá như

con ở bên bố mẹ, được bố mẹ chỉ bảo, được xin ý kiến bố mẹ về người

con gái nào đó mà con muốn yêu thương... Giá như con có một người

bạn gái, người bạn gái ấy thường đến với gia đình, quen biết rồi

thân thiết gia đình và cuối cùng được gia đình yêu mến, được bố mẹ

gọi là "con"... Giá như thế thì con sung sướng biết bao! Nhưng đằng

này, con không được như thế. Con đành lấy cơ quan làm gia đình,

lấy đồng chí làm bố mẹ, anh em và con hỏi ý kiến những người ấy

như hỏi ý kiến gia đình vậy. Và rồi, khi đã tham khảo ý kiến đầy

đủ, đã quyết định dứt khoát, con mới báo tin để gia đình rõ. Sự việc

nó lại đi ngược như thế. Song chắc bố mẹ tha thứ cho con về sự

quyết đoán ấy - hoàn cảnh không cho phép con làm xuôi chiều. Do

vậy, hôm nay con xin chính thức báo cho gia đình về chuyện ấy:

hiện nay con đã có người yêu, tên là Thuý Ngân, y tá trong cơ quan

con. Việc này được toàn thể anh em xung quanh, được tổ chức cơ

quan tán thành. Bây giờ con xin giới thiệu để bố mẹ và gia đình

hiểu qua về Ngân.

Ngân sinh năm 1952 (nhỏ hơn con 6 tuổi) tại Phước An, huyện

Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam trong một gia đình nông dân. Má của

Ngân chết vì đau đã lâu. Ba Ngân là liệt sĩ - hy sinh trong giai đoạn

tổng tấn công tết Mậu Thân. Các em đứa thì bị bom đạn chết, đứa

thì lưu lạc, hiện không còn ai. Trong họ hàng có một số người đi

tham gia cách mạng, trong đó có một người cô hiện đang công tác ở

Hội phụ nữ huyện Tiên Phước.

Ngân còn một người ba nuôi, trước làm Phó Chính uỷ một

Trung đoàn quân Giải phóng trong này, sau đó ra Bắc, là trung tá,

vừa qua đi trong đoàn Liên hiệp quân sự 4 bên vào Sài Gòn, rồi lại

ra Bắc, hiện chưa rõ ở đâu. Ngân lên căn cứ từ cuối 1966 - lẽ ra ra

Bắc học, song do đau ốm, trắc trở, không đi được nên ở lại tham gia

công tác ở bên quân đội. Tới giữa năm 1972, Ngân chuyển về cơ

quan con. Qua quá trình tìm hiểu, chúng con có sự thông cảm nhau

thực sự, và đã thương yêu nhau. Tuy sống ở rừng núi lâu, Ngân vẫn

rất khoẻ mạnh, người mập, chắc, trắng trẻo, có phần cục mịch. Về

tính nết, Ngân chân thật, vui vẻ, có phần vụng về, không được khéo

léo, tinh tế như con gái miền Bắc. Con gửi ảnh Ngân cho bố mẹ đây

558

nhé! Mong rằng bố mẹ và gia đình sẽ coi Ngân là người con thực sự

của gia đình. Được con nói chuyện về bố mẹ, gia đình, Ngân rất quý,

mong có ngày về trong tình thương của những người ruột thịt. Song

khi con bảo viết thư thì cô ấy ngại, không dám viết. Chắc bố mẹ

thông cảm về sự ngại ngùng ấy của một người con gái vốn e dè, hay

tự ti. Con rất mong bố mẹ viết thư cho Ngân trước, cho phép cô ấy

là con của bố mẹ, tạo cho cô ấy cái đà để vượt qua những nỗi ngại

ngùng, e sợ ban đầu.

Bố mẹ ạ, vừa rồi con đã sống trong trận bão lụt lớn nhất từ khi

con vào đến nay. Núi lở, nước dâng thật dữ dội. Nhưng khu vực con

ở vẫn an toàn. Do một sơ suất của người khác, con bị trôi mất toàn

bộ ba lô (con nói rõ là do sơ suất của người khác, chứ không phải do

con, để bố mẹ khỏi hiểu lầm là con suýt chết đuối).

Trong ba lô, nói chung là những thứ khá tốt của con: máy ảnh

Pentax (anh Đỗ Phượng mới gửi cho con), quần áo, áo len... Hiện

nay, được sự giúp đỡ của cơ quan, bè bạn, con đã bù đắp lại tương

đối đầy đủ số tài sản bị mất. Con chỉ còn thiếu một cái áo len và

một bộ quần áo tương đối đẹp để mặc trong ngày lễ, trong các cuộc

hội nghị... Trước đây con đã điện nhờ VNTTX báo giúp gia đình như

thế. Nếu dễ dàng thì bố mẹ hãy mua áo len cho con, nếu khó, đắt

thì thôi, con có thể tìm cách mua ở trong này được. Con thích loại

len xốp, mịn, mầu tím than hoặc xanh đậm, đan thường, cổ chữ V

(chứ không phải cổ quả tim, cổ lọ). Còn quần, con thích vải symyly

pha nilon, mầu tín than hoặc ghi xám (nói chung màu đậm), áo

pôpơlin pha ni lông mầu xanh da trời, hoặc trứng sáo, hoặc nước

biển (nói chung là mầu sáng một chút, song nhã, không phải là

màu trắng). Nếu có, bố mẹ gửi vào cho con càng sớm càng tốt. Bố

mẹ cứ nhờ chị Sáu (tổ chức VNTTX) chuyển là tốt nhất, chị ấy phụ

trách vấn đề cán bộ B, mặt khác chị ấy biết chỗ gặp cán bộ trong

này ra vào, gửi nhanh.

Các cô em gái của con ra sao? Cô Ngọc lớn quá rồi. Vào thời kỳ

mà các em đang lớn, chuẩn bị bước vào đời, con rất muốn được gần

gũi các em, lấy kinh nghiệm khi mình bước vào đời để chỉ bảo cho

chúng. Điều đó không có nghĩa là con lo lắng ở sự dạy bảo của bố

mẹ với các em. Song những kinh nghiệm khi bố mẹ bước vào đời lại

ở giai đoạn khác của xã hội, ít phù hợp với bây giờ. Mặt khác, con là

559

anh trai, dễ tâm tình hơn. Đặc biệt với em Ngọc, con muốn nó tập

trung vào việc học hành, đừng vội nghĩ đến chuyện yêu đương. Theo

con biết, hầu hết các học sinh trường đại học khi đã tới năm thứ 2,

thứ 3 đều bước vào con đường yêu đương, và hầu hết tình yêu của

họ đều không bền vững, không dẫn đến tình vợ chồng. Con không

muốn để các em gái con đi vào tình trạng chung ấy! Trước đây, bố

mẹ cũng thường giáo dục con về việc này. Song theo nhận thức của

con, thì khi ấy, bố mẹ, đặc biệt là bố, dùng biện pháp nghiêm khắc,

làm con sợ nhiều hơn là dùng biện pháp tâm tình, làm con hiểu,

hiểu sâu sắc để có hành động đúng trong việc này. Con mong rằng

trong việc giáo dục các em con, bố mẹ chú ý về mặt chỉ bảo, phân

tích, tình cảm nhiều hơn nữa.

Các em Diệp, Lan, Thuỷ chắc cũng lớn nhiều rồi. Nhớ các em

quá, song làm sao bây giờ!

Mong thư các em gái. Các em có muốn có một người chị miền

Nam không? Anh đưa về cho các em một người chị nhé, các em vui

đón chị của các em đi.

Cuối thư, con gửi lời thăm cụ, bà, ông bà trẻ, cô chú Phương.

Con mong thư gia đình.

Việt Long

Ngày 22/1/1974 (Thứ ba - 30 tết Quý Sửu)

Đêm giao thừa này tôi ở C.9 (Nhà máy in của Ban) - nơi mà

Ngân mới chuyển về công tác. Anh em tổ chức đón xuân thật vui.

Cùng đón giao thừa, vui văn nghệ. Sau đó về nhà. Lần đầu tiên

được cùng Ngân đón giao thừa. Ngân nói rằng đây là giao thừa đầu

tiên Ngân không khóc. Thức với nhau tới 2 rưỡi sáng.

Ngày 23/1/1974

Cả ngày và đêm này Ngân vui xuân với tôi. Trời nắng và ấm

áp.

560

Ngày 10 - 11/2/1974

Gia đình tôi viết thư cho tôi. Mọi người đều quan tâm đến quan

hệ của tôi với Ngân và ngày tôi về thăm gia đình..

Mẹ tôi viết: "Mẹ rất buồn ngồi viết cho con bức thư này, vì rằng

lần này mẹ nhận được thư của con mẹ thấy ngày về thăm gia đình

của con mờ mịt quá, mẹ thấy rằng nếu còn chiến tranh thì mẹ

không yêu cầu đâu nhưng vì hoà bình rồi, mặc dầu trong Miền Nam

vẫn chưa được hoà bình nhưng mẹ thấy bao nhiêu người họ cũng

biết tìm về gia đình quê hương thăm hỏi thời gian ngắn còn con

hình như con có trách nhiệm với tập thể quá cao cho nên con quên

cả gia đình, chứ mẹ thiết tưởng xe cơ quan con cũng có vào đấy được

mà gì con chả về nhà được thời gian, mẹ thấy như bộ đội còn chả

đến nỗi thế nữa là con.

Cộng vào việc bây giờ cơ quan con họ lại giục con lấy vợ người

trong ấy, như thế là coi như cơ quan họ đã xây cho con một cái

móng rất chắc trong ấy rồi.

Rồi một ngày kia vợ con rồi thì có lẽ con là người trong ấy thôi

chả còn ý nghĩ gì về gia đình đâu. Trước đây mẹ đã viết cho con một

thư nói về chuyện xây dựng gia đình của con, nhưng chắc con không

nhận được, con còn đang trẻ do đó sức cống hiến của con còn tốt, mẹ

cũng không dám nói gì chuyện ấy, mà mẹ cũng không phải là lạc

hậu lắm đâu nhưng về mặt tình cảm thì mẹ hay đòi hỏi vậy con

cũng đừng trách mẹ, không một bà mẹ nào mà nuôi con 20 năm trời

rồi đi biệt không được trách nhiệm lo lắng gì cho con mình về một

gia đình riêng mà lương tâm không cắn rứt con ạ. áo len gửi vào nó

không được đẹp lắm, nếu sau này có hoàn cảnh, có áo len khác thì

để áo ấy cho em Việt mặc chứ đừng cho ai, mẹ dặn thế là vì mẹ biết

tính con hay phóng khoáng quá, con nhớ rằng bố mẹ còn phải nuôi

3 em. Ngọc cũng chưa hết nhiệm vụ phải nuôi đâu, em Việt ở bộ đội

thiếu thốn, thỉnh thoảng mẹ cũng phải gửi tiền cho nó thêm.

Đến cuối tháng 2 này em cũng mới được về phép. Thế là em

cũng đã xa nhà 3 tết rồi.

561

Bố con dạo này ốm yếu nửa người gần như sắp bị liệt và bố rất

buồn vì con không được về thăm gia đình. Bố bị nhiều bệnh lắm,

trông người thì không đến nỗi nhưng bệnh trạng thì chết lúc nào

không biết.

Mẹ thì cũng yếu nhiều, cả tuần mẹ ở trong trường đến chiều

thứ 7 mới về nhà sáng thứ 2 lại đi.

Vợ chồng Phúc cứ cách một tuần lại cho con ra ông bà một

ngày. Con bé cháu hay lắm, kỳ này gửi cả ảnh vào cho con đấy.

Thôi mẹ viết thế để con suy nghĩ thêm, còn việc gia đình riêng

nếu mà con còn ở trong ấy lâu thì tuỳ con lo liệu lấy, chúc con khoẻ

mạnh.

May quá anh đi tìm 2 ngày mua được cho con một bộ quần áo

chả biết có vừa ý con không nhưng không thể hơn được nữa, phải

mua ở hiệu ngoài đấy, mậu dịch không có."

Cô Chung tôi viết: "Sao độ này cháu vẫn khoẻ chứ? Cô khẳng

định như vậy (còn công tác của cháu nhất định phải tiến bộ nhiều

theo cô hiểu). Song cô cũng nhắc cháu vài điều và nói lại tình hình

hiện nay để cháu rõ. Hiện nay cô rất bận, và bận lắm. Cô công tác

tại bệnh viện E, thuộc hệ B - cô ở khoa ngoại sản còn chú thì đã về

hưu rồi, em Tiến đang đi học công nhân cơ khí, em Quang đang đi

học cơ khí ô tô, chuẩn bị đi công nhân nước ngoài, còn em Chiêu

đang học lớp 5. Hiện nay cô chú đỡ vất vả hơn trước, còn cô chú hiện

nay cô đã về ở khu Kim Liên cùng chỗ ở của bố mẹ cháu nên cũng rõ

về cháu nhiều hơn, cô chú thực là rất lười viết thư, nhưng không

phải thế mà quên hết cả đâu, cô nhớ lắm, nhớ cháu nhiều nhất. Và

rất thương cháu vì cháu bé quá, còn non trẻ mới bước vào đời đã

phải xa gia đình, xa tình thương, xa tất cả mọi người thân thiết

nhất, và sức khoẻ của cháu cũng chẳng lấy gì làm khoẻ cho lắm nên

cô rất lo cho cháu. Long ạ, trong lúc như thế này cháu nên tranh

thủ ra thăm gia đình thì tốt hơn vì đang có điều kiện thuận tiện

nhiều, cô nghĩ như vậy không biết có đúng hay không, hay cháu cho

là cô lạc hậu. Nếu như vậy thì cũng được, cô thấy rất nhiều người ở

trong ấy, họ ra điều dưỡng ngoài này, ở ngay bệnh viện của cô,

562

khám và chữa khoẻ rồi bác sĩ quyết định là đủ sức khoẻ để vào B

thì họ nhất định không vào. Đấy là người quê ở Quảng Đà rất nhiều

ra đây, và Quảng Nam cũng nhiều, hầu hết là Khu 5 không, còn

người Bắc mà vào đấy công tác thì khó được ra Bắc trở lại lắm là vì

có nhiều khả năng, chẳng hạn như cháu! Có khi lại xin xung phong

ở lại trong ấy là đằng khác.

Long của cô, cô cũng như mẹ cháu, rất muốn nói nhiều với cháu

nhưng cũng rất khó, thật là khó quá. Vài hôm nay mẹ cháu và các

em cháu cũng như cô nhận được thư của cháu, cả nhà rất buồn,

buồn vì cháu vừa qua mất mát quá nhiều, mẹ phải đi lo mua bán

gửi vào cho cháu, buồn về cái thứ hai không hy vọng gì về cháu có

thể được ra ngoài này để thăm lại bố mẹ cháu và các em cháu, và

hơn nữa lại nghe thấy cháu có người quen là gái người Khu 5, thật

là gia đình chẳng ai bằng lòng cả, cô nói thật. Bố cháu bây giờ chân

tay gần như bại liệt đi lại khó khăn lắm, yếu lắm không biết có

sống để chờ ngày nào đó may ra cháu có được ghé qua Bắc để thăm

lại người thương không? Còn mẹ cháu vẫn hút thuốc.

Long của cô, chắc cô nói quá thực với cháu, chắc cháu không

tán thành lắm về lời nói của cô, nhưng cô có thể nói rõ để cháu hiểu

hơn. Nếu cháu không có ý định ra quê hương thì cháu lấy vợ ở trong

ấy thì tuỳ, còn nếu cháu còn có tí gì ý nghĩ về gia đình, muốn gặp

lại bố mẹ và anh em, thì theo cô chưa nên xây dựng vội vã rồi sau

này khó khăn lắm. Cô nói thực đấy, cô công tác ở cái bệnh viện này

hàng ngày cô tiếp xúc với những người như vậy, thật là khó chịu

lắm !!!

Không có tí gì là tế nhị cả, nói chung là không ưa gì được cả, cả

những cô gái chưa có chồng cũng vậy, người nào họ cũng mang

trong người họ ít nhất là 5 thứ bệnh, trông bình thường thì khó mà

ai có thể hiểu được họ là có bệnh gì, nên cô rất sợ, còn nếu như cháu

thấy là cô gái ấy khoẻ mạnh mà vừa ý thì tuỳ cháu. Còn gia đình

thì thú thực chẳng ai có ý kiến gì cả đâu. Cô nói thực đấy, riêng cô

thì cô rất là buồn, và không muốn cháu lấy vợ vội quá như vậy.

Cô rất thương và nhớ cháu lắm, rất mong cháu ra thăm lại gia

đình.

563

Thôi nhé để thư sau cô nhận được thư trả lời rồi cô sẽ chuẩn bị

lá thư sau cho chu đáo. Thôi nhé cậu nhà văn nếu tôi có viết sai hay

không hay thì cậu đừng cười nhé.

Cô đang bận lắm, chú thì đi vắng nên không có thư cho cháu."

Anh Đức tôi viết: "Long thân! Qua những thư từ em viết về,

biết em đã có rất nhiều tiến bộ trong công tác và trưởng thành

nhiều về mặt chính trị, anh rất mừng. Nhất là bố thì rất hãnh diện

về điều đó, thường vẫn nói đến những tiến bộ lớn đó của em với các

chú, các bác bạn bố, bố rất mừng về điều đó.

Đấy là phần trả ơn, trả nghĩa rất lớn của em đối với bố mẹ.

Thư vừa rồi em có giới thiệu với gia đình về người con gái mà

em thương yêu. Anh cũng đồng ý rằng ở hoàn cảnh công tác như

em, không thể làm khác được. Mà ở tuổi như anh em mình thì việc

lo nghĩ đến chuyện đó là điều tất nhiên. Anh cũng tin rằng em đã

suy nghĩ và cân nhắc đầy đủ rồi, vì ở lứa tuổi của chúng ta thì sự

suy nghĩ cũng đã chín chắn, không còn bồng bột, sốc nổi như ngày

xưa nữa. Anh có lời mừng cho em, mong cho hạnh phúc của em

được trọn vẹn, cho anh gửi lời hỏi thăm Thuý Ngân nhé. Bảo với

Ngân rằng gia đình ta là một gia đình đoàn kết thương yêu nhau,

bất cứ ai là thành viên trong gia đình cũng đều sẽ được quý mến

như nhau.

Chuyện nhà ta, bố mẹ chắc đã viết cho em nhiều rồi, anh không

phải viết nữa. Chỉ có bố mẹ đều đã già yếu hơn trước và mong có

ngày cả gia đình đoàn tụ, vui vẻ. Nếu trong thời gian tới, em về

thăm nhà được, cả Ngân cũng ra được thì bố mẹ sẽ sung sướng biết

bao nhiêu. Cuộc đấu tranh của chúng ta còn dài, nhiệm vụ còn nặng

nề, anh nghĩ rằng không thể chờ đến ngày thắng lợi hoàn toàn

được. Ta có làm việc, công tác và sống một cách đàng hoàng, có lao

động, có nghỉ ngơi thích đáng và hợp lý.

Còn về phần anh! So với trước đây anh cũng có nhiều thay đổi.

Cũng già đi, và cũng có trưởng thành lên. Giờ đây anh không còn là

một cậu bé rụt rè, dút dát như xưa đâu. Tuy vẫn còn giữ được phần

564

nào những nét ấy, khiến người mới gặp đều có nhận xét anh là một

người hiền lành, nhưng hiền một cách khác đi rồi (các cô gái khi đã

biết rõ anh thì đều nói: anh bạo lắm!) Giờ đây anh có thể kể qua cho

Long và cả Ngân nữa nghe về những điều anh đã vấp váp trong

những năm qua, bù lại cho thời gian dài im lặng nhé. Anh bắt đầu

từ thời gian đi học em nhé. Long cũng đã biết, hồi ấy anh có một

người bạn gái thật dễ thương và cũng rất xinh, đó là Nga. Bọn anh

thân với nhau vô cùng, thân nhau vì có nhiều điều phù hợp trong

cách sống, trong suy nghĩ và trong tâm hồn. Chỉ một năm học với

nhau, thời gian thật ngắn ngủi, rồi xa cách nhau 6 năm trời mà đến

bây giờ tình bạn vẫn không hề kém phần thân thiết thì em có thể

hiẻu tình bạn ấy đã được xây dựng trên cơ sở vững chắc như thế

nào. Hồi ấy bọn anh đều còn rất trẻ, tuổi trẻ thật là thơ mộng, thật

là hồn nhiên và vô tư. Chính vì vậy mà dù xa nhau thì nhớ, học

hành chỉ muốn ngồi bên nhau suốt, nhưng thực tình thì hồi ấy

những mơ ước xa xôi về một cuộc sốg lứa đôi chưa hề hình thành.

Cũng không thể tránh khỏi có những giờ phút bâng khuâng, nhưng

còn thật là mơ hồ. Rồi thì thời gian xa cách đến, thư từ qua lại với

những lời lẽ tâm tình, thủ thỉ với nhau những suy nghĩ riêng tư.

Hồi ấy Nga đã có một người bạn trai rất thân khác, thân từ khi còn

học lớp 6, thân vì là người bạn láng giềng. Và giờ đây Nga không

được đi, có điều kiện ở gần người bạn ấy, chính vì vậy mà Nga đã

nhận lời yêu người bạn ấy. Khi biết chuyện, qủa thật anh cũng

buồn, một nỗi buồn thật lạ lùng. Nhưng cũng chính trong lá thư ấy

Nga đã nói nhiều đến tình bạn giữa anh và Nga, rằng không vì có

tình yêu mà phai nhạt tình bạn, rằng cả Viện, tức là người yêu của

Nga, cũng sẽ tôn trọng và quí mến những người bạn của Nga. Thế

rồi cho tới nay khi Nga đã cưới, đã có con, tình bạn giữa anh và Nga

vẫn thắm thiết, trong sáng và cũng vẫn hồn nhiên như xưa. Anh

yêu quý vô cùng tình bạn đó, và do vậy đối với người con gái nào mà

anh yêu, anh cũng yêu cầu phải tôn trọng tình cảm đó.

Trong thời gian học tập ở bên Đức, em cũng có thể hiểu là đối

với một người sống nặng về những xúc cảm bên trong chứ không

phải bằng sự ồn ào bên ngoài, thì anh cảm thấy buồn như thế nào.

Thời kì ấy anh quen một người con gái quê Sài Gòn. Chị ấy học sau

anh một lớp, nhưng nhiều tuổi hơn, học lại vất vả. Gần nhau thì

phải giúp nhau học tập, đó là điều thật hợp lẽ tự nhiên. Chính

565

trong sự gần gũi ấy, với tình cảm bồng bột của một thanh niên trẻ

chưa hề biết tới hạnh phúc của tình yêu mà tình yêu giữa anh và

chị Mây, tên người con gái đó, đã nảy nở. Nội quy cấm yêu, nhưng

tình yêu thì nó vẫn đến. Biết làm sao, khi nó đến thì nó phải đến,

thật nực cười với cái nội qui quá trẻ con đó! Dù sao thì nội qui đó

vẫn tồn tại, người ta vẫn bắt mình phải tuân theo, và thế là những

người yêu nhau phải yêu lén lút, phải đưa ra những chiêu bài này

khác. Ngay cho tới bây giờ, anh cũng không nhận và sẽ không bao

giờ nhận rằng yêu như vậy là sai cả. Học tập của anh không hề bị

ảnh hưởng: anh vẫn luôn đạt điểm tốt và được nhà trường khen

thưởng. Người ta vẫn nói, vẫn muốn đưa chuyện anh ra, nhưng đều

thất bại và bất lực vì không có một lý do nào cả. Chỉ có một điều mà

anh phải ân hận, đó là hậu quả của sự bồng bột đã lao vào yêu

đương mà chưa có sự suy nghĩ đầy đủ, không hề có một sự tham

khảo ý kiến nào của ai khác. Biết làm sao! Người ta chỉ thực sự

nhận ra sai lầm khi đã thấy rõ những hậu quả do sai lầm đó gây ra

mà thôi.

Sơ qua về chị Mây: Người gầy dong dỏng, không đẹp nhưng có

những nét đáng yêu, có duyên. Thế nhưng gần nhau nhiều thì mới

hiểu hết tính nết của nhau. Dần dần anh mới thấy rõ rằng chị Mây

là một cô gái thật dễ tự ái (chứ không phải tự trọng cao), hay giận

dỗi, nhất là đối với người thân. Đã giận thì lại giận rất lâu và không

quên chuyện đó. Tóm lại: bụng dạ nhỏ hẹp, hay chấp nhặt, sự độ

lượng thấp hơn mức bình thường ở một người con gái. Tuy vậy, đã

yêu nhau nhiều năm, anh nghĩ đến trách nhiệm, nghĩ đến thời gian

nặng tình nghĩa đã qua, nên anh đã quyết sẽ duy trì tình cảm đó,

biết những nhược điểm của Mây để chiều Mây. Thế nhưng khi về

nước thì lại có những phức tạp mới: Bố mẹ, các em đều không tán

thành mà má của Mây thì cũng kiên quyết không tán thành, lại

nữa Mây hay ghen bóng gió, không tôn trọng tình bạn của anh với

Nga, còn ghen với tình bạn đó, rồi lại không có quan hệ bình thường

với những người cùng phòng với anh, nhất là số các cô gái. Anh cố

chịu đựng những chuyện đó, khuyên giải nhiều lần nhưng đều vô

hiệu quả. Quả thật tính nết của một con người thật khó sửa.

Thế rồi mối tình ấy cứ kéo dài mãi, không nỡ cắt đứt, mà cũng

không đẩy tới được. Mãi cho tới đầu năm 1973, anh và chị Mây mới

566

đi tới một quyết định dứt khoát: mỗi người sẽ đi con đường riêng

của mình, tuy nhiên vẫn đối xử với nhau tử tế, quên đi, bỏ qua cho

nhau những điều dở, giữ lại trong tình cảm những điều hay. Vừa

rồi Mây đã lấy chồng: một người cùng quê Sài Gòn, cũng quen biết

với gia đình Mây, đã để ý tới Mây từ một thời gian trước, cũng biết

Mây đã có người yêu và biết cả rằng tình yêu ấy có nhiều vưỡng

mắc khó đi đến kết quả cho nên đã chờ đợi Mây cho tới giờ phút

này. Anh cũng mừng cho Mây, còn phần anh cũng thấy thanh thản,

thoải mái và thoả mãn với kết thúc của sự việc. Mọi người ai cũng

cho rằng giải quyết như vậy là hợp lý.

Sau chuyện này, anh muốn nghỉ ngơi một thời gian, giải phóng

đầu óc khỏi những chuyện hao phí tinh thần đó: anh đi học đàn

ghita, một thứ đàn anh rất yêu thích. Anh cũng không thể biết được

rằng chính ở nơi đây anh đã tìm được hạnh phúc. Một tối nọ đang

giờ học, chợt có người mở cửa, một cô gái còn rất trẻ bước vào với

một nụ cười thật đáng yêu. Vì sao mà anh lại thấy rung động trong

lòng vậy? Cô gái bước vào không nhìn ai, gặp thầy giáo ( anh Tạ

Đắc, em Tạ Tấn, anh Đắc còn là đấu thủ bóng bàn loại cứng, Long

còn nhớ chứ) rồi về ngay. Về nhà anh cứ thấy vấn vương: chỉ một

cuộc gặp gỡ tình cờ như trăm nghìn cuộc gặp gỡ khác, hay đây

chính là hạnh phúc? Thế rồi qua hỏi thăm, qua những lần tới nhà

trò chuyện, anh càng thấy có nhiều điểm, rất nhiều điểm trùng hợp

nhau. Rồi hạnh phúc đã đến, cô gái ấy sau một thời gian hiểu anh,

hiểu gia đình ta, được ý kiến đóng góp vào của bố mẹ cô gái ấy, của

các anh con ông bác, đã nhận lời yêu anh. Anh kể sơ qua cho em

biết về cô gái ấy nhé: tên là Hoà, sinh năm 1954, quê ở Vân Đình -

Hà Tây. Hoà người nhỏ nhắn, trắng hồng, học sư phạm 10+3 về

nhạc, hiện dậy ở trường cấp II Tân Trào ngay ở phố Hàng Bông -

Nhuộm. Tính Hoà rất dịu dàng kín đáo và hay e thẹn, một tâm hồn

còn rất trong trắng và thơ ngây. Hoà còn 3 em: 2 gái, 1 trai, em trai

út 6 tuổi. Cha mẹ Hoà đều còn sống và còn làm việc. Bố Hoà làm ở

Bộ Văn hoá (phụ trách vật tư), mẹ Hoà làm ở cửa hàng Mậu dịch

may mặc (số 4), nhà Hoà cũng nghèo, sống giản dị, chân thành. Cả

bố mẹ và các em Hoà đều rất quý mến anh, đó là điều thuận lợi rất

lớn. Nhà Hoà cũng từ kháng chiến ở Việt Bắc trở về, có nhiều điểm

giống với gia đình mình. Trước khi đặt vấn đề với Hoà, anh có rất

nhiều điều phải đắn đo. Anh đã từng trải nhiều, còn Hoà là một cô

567

gái hoàn toàn còn ngây thơ trong trắng, như vậy liệu anh có xứng

đáng với tình yêu của Hoà không? Nhưng rồi anh tin rằng với

những vấp váp đã qua, với những kinh nghiệm đã trải, anh sẽ đảm

bảo cho Hoà một cuộc đời hạnh phúc, không chịu một thiệt thòi gì

trong tình yêu dù anh không thể dành cho Hoà mối tình đầu được

nữa. Tất cả những điều ấy anh cũng đều đã nói với Hoà, không dấu

Hoà điều gì. Có vậy thì tình yêu mới bền chặt được, phải không?

Anh và Hoà cũng rất nhất trí với nhau về một số điểm cơ bản: hoàn

toàn bình đẳng về mọi mặt, tôn trọng nhau, tôn trọng những tình

cảm riêng mà mỗi người yêu quý.

Chắc rằng với những sự phù hợp, với những thuận lợi về mọi

mặt như vậy thì ngày cưới cũng sẽ không còn xa lắm. Có điều duy

nhất Hoà còn đang e ngại: Hoà còn trẻ quá, trẻ nhất lớp mà lại cưới

trước các bạn khác thì xấu hổ chết!

Thôi Long nhé, Anh kể sơ qua như vậy cũng đủ để em hiểu

phần nào. Có dịp gặp nhau thì sẽ còn có thể nói nhiều chuyện khác

nữa. Còn các mặt khác: hiện nay vẫn rất thích đá bóng và bóng

bàn. Suốt 6 năm học tập, không bao giờ anh vắng mặt trong đội

bóng của đoàn lưu học sinh Việt Nam ở Dresden với chân số 9 hoặc

10. Về đây anh vẫn còn tham gia đội bóng cơ quan. Bóng bàn vẫn

ham, nhưng ít có điều kiện chơi (ở chỗ ở không có bàn, mà bây giờ

cũng không thể mua đâu được một quả bóng). Ghi ta cũng chơi

được, nhưng chỉ chơi được nhạc viết sẵn (không có Fantasie).

Thôi anh em ta tạm biệt ở đây nhé! Anh gửi lời hỏi thăm anh

em, đặc biệt là thăm Ngân, chúc hai em hạnh phúc"

Em Bích Ngọc viết: "Hiện nay chúng em vẫn khoẻ. Riêng em đã

bước sang học kỳ II của năm thứ 2, vừa rồi em đã học quân sự, cũng

hành quân, cũng bắn súng, lăn lê bò toài... trời rét nhưng em cũng

vẫn cố gắng tập tốt. Sang đến tuần này thì em bắt đầu bước vào học

tập chính thức, nói chung học cũng vất vả, sống nội trú thì tất

nhiên thiếu thốn nhiều, nhưng được cái ở tập thể rất vui, cùng giúp

đỡ nhau học tập... cho nên cũng đỡ buồn.

568

Đọc thư anh, thấy anh vẫn khoẻ và công tác tốt, em rất mừng.

Chúng em cũng rất mong có dịp gặp mặt "chị dâu tương lai" của

chúng em.

Thôi nhé, em còn phải nhường lời cho 3 cô em gái của anh nữa

cơ. Cuối thư chúc anh mạnh khoẻ, luôn vui vẻ và công tác thật tốt."

Em Thúy Lan viết: " Hôm qua (10/2) nhà mới nhận được thư

của anh mới gửi ra, cả nhà rất mừng vì thấy anh được khoẻ mạnh.

Em cũng thế, em càng mừng khi biết anh sắp có "tin vui". Em đã

được xem ảnh của chị ấy. Em vẫn còn khoẻ lắm, học hành vẫn bình

thường. Năm nay ở trong ấy anh ăn tết có vui không, năm nay cả

nhà ăn Tết vui lắm, chỉ hơi buồn vì anh không được ra để ăn Tết với

gia đình. Chị Thành với anh Phúc cũng bế cháu ra ăn Tết, nó khoẻ

mà ngoan lắm anh ạ. Thôi, em chỉ viết mấy dòng cho anh mừng.

Thư sau em viết dài hơn. Cuối thư em chúc anh mạnh khoẻ, công

tác tốt để cả nhà mừng. Cà nhà mong anh về lắm. Khi nào tiện anh

về nhà chơi anh nhé, mà chắc anh cũng chả về được vì còn bận công

tác. Thôi em chúc anh mạnh khoẻ."

Ngày 31/3/1974

Hậu phương lớn đang chuẩn bị xây dựng Lăng Bác. Khu Năm

lập ra Ban khai thác gỗ miền Trung Trung bộ, gồm các đồng chí Võ

Chí Công (tức Năm Công - Bí thư Khu ủy), Bình, Sáu, Thể, Quyết

và tổ chức khai thác, vận chuyển gỗ ra Bắc đóng góp vào việc dựng

Lăng. Một công trường khai thác gỗ đặc biệt được mở ra ở khu vực

suối Blau, xã Phước Hiệp huyện Phước Sơn. Anh Tô Đình Cơ, Phó

trưởng Ban Lâm nghiệp Khu, được cử làm Chỉ huy trưởng công

trường. Hôm nay, Khu ủy tổ chức lễ khai mạc công trường, chặt cây

gỗ đầu tiên. Anh Năm Công chặt những nhát rìu đầu tiên vào cây

gỗ hương, một trong những loại cây gỗ quý nhất của rừng núi khu

Năm. Ba lực lượng chính được huy động vào việc này: Lâm trường

Trà Mi - chuyên chặt hạ gỗ. Bộ đội các binh chủng và lực lượng giao

thông vận tải chịu trách nhiệm cưa xẻ. Lực lượng công binh làm

đường. Ngoài ra, còn có lực lượng nhân dân đi tìm gỗ và khiêng gỗ.

Tôi đến công trưòng chụp ảnh và làm tin về những ngày đầu sôi nổi

của công trường.

569

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Ngày 8/4/1974

Bố mẹ kính yêu của con!

Hôm nay có anh Phấn ra, con gửi thư này nhờ anh ấy cầm đến

tận nhà. Anh Phấn là một trong những người con thân nhất ở đây.

Con vẫn khoẻ, công tác tốt. Con rất thương nhớ gia đình, rất

mong được ra thăm bố mẹ, song điều kiện ra không phải dễ dàng.

Bố mẹ gặp những người ra thì biết đấy, đó là những anh lớn tuổi,

sức quá yếu, vào đã quá lâu hoặc ra có công tác đặc biệt. Con không

nằm trong những trường hợp ấy. Còn nói đến chuyện phép tắc thì

phải vài ba năm nữa may ra mới có thể có được. Vì bố mẹ hiểu cho

con rằng tuy đất nước ta đã có hoà bình trên danh nghĩa, nhưng

chúng con - những người ở chiến trường - vẫn phải sống trong cảnh

chiến tranh, do vậy phải chịu đựng những thảm hoạ của chiến

tranh. Việc hy sinh tình cảm cũng là một trong những sự chịu đựng

ấy. Trước tình cảnh chung ấy, con không thể vượt ra ngoài được,

con đành nén tình cảm lại, chịu đựng một sự hy sinh ngấm ngầm.

Giá như con được động viên, thì con sẽ vợi bớt nỗi đau xót trong

lòng đi. Song, nhận những lời trách móc của mẹ, con chỉ thấy đau

xót thêm mà thôi.

Con cứ nghĩ rằng sống trong một đất nước đầy đau thương này,

thì gia đình ta là một gia đình hạnh phúc vô cùng. Nếu chỉ kể trong

nhà, thì chưa có người nào phải đổ máu cho đất nước. Trong khi đó,

bao nhiêu người đã ngã xuống rồi. Gia đình người ta tan tác mỗi

người một ngả. Gia đình mình chỉ có con và Việt phải đi xa thôi.

Con và Việt coi như được gia đình phân công đóng góp cho đất nước

phần trách nhiệm phải đi xa ấy. Thế là nhà ta đã đoàn tụ lắm rồi.

Tất nhiên, con cũng như mọi người, đều muốn sống đoàn tụ, ấm

cúng. Song khi chưa được vậy thì phải chịu chứ làm sao?

Còn thèm khát được nhìn thấy bố mẹ, thấy Việt, Ngọc, Diệp,

Lan, Thuỷ còn hơn thèm khát những gì sung sướng nhất của vật

chất.

570

Con nhận quá ít thư gia đình, trong khi anh em người ta nhận

đủ loại thư.

Buồn vô hạn.

Con: Việt Long

Những ngày tháng 4/1974

Trong khi chỉ đạo đẩy mạnh tấn công trừng trị bọn địch vi

phạm Hiệp định, giữ vững vùng giải phóng, Khu ủy cũng chỉ đạo

tăng cường xây dựng căn cứ cách mạng. Đánh giá tình hình, Khu

ủy tự thấy chưa có kinh nghiệm về lãnh đạo và xây dựng kinh tế,

quản lý sản xuất theo tình hình mới. Khu ủy cũng phê phán chế độ

quản lý hành chính phân phối hiện không còn phù hợp, cần từng

bước vững chắc chuyển qua chế độ quản lý có kế hoạch, hạch toán.

Hướng phát triển về kinh tế là xây dựng một nền kinh tế dân chủ

nhân dân, độc lập tự chủ, xóa bỏ mọi ảnh hưởng của kinh tế thực

dân kiểu cũ, đáp ứng yêu cầu chiến đấu, đời sống, làm giàu cho Tổ

quốc. Lấy nông nghiệp và lâm nghiệp làm then chốt, sản xuất lương

thực, thực phẩm làm trọng tâm.

Năm nay, toàn Khu có bước tiến khá dài về xây dựng vùng giải

phóng: Đồng bằng phát triển ruộng vườn, miền núi định canh định

cư. Khai hoang, phục hóa 2 vạn héc ta ruộng (kể cả năm 1973).

Trồng gần 24.000 héc ta sắn, cao nhất từ trước đến nay. Chăn nuôi

53.800 con trâu, bò (tăng 20%), 180.000 con lợn (tăng 30.000 con).

Trồng 2,5 triệu cây quế, 2 vạn cây dừa, 50 vạn cấy mít, 20 vạn cây

cam. Phát triển nghề tiểu thủ công nghiệp. Có 2 lâm trường, 2

xưởng gỗ. 8 tỉnh có màng lưới điện thoại... Miền núi đã vượt khỏi

đói, rách, nhạt muối.

Đoàn 773 được thành lập từ năm 1973, với trách nhiệm sản

xuất, huấn luyện quân sự (lực lượng hậu bị), giúp địa phương sản

xuất, có cơ sở ở Khâm Đức, Hiệp Đức, Đak Lon, Đức Cơ, đã khai

hoang được gần 1.500 héc ta để trồng lúa, chăn nuôi gần 1.000 trâu

bò, lợn giống, đắp 7 đập, đưa lò vôi vào hoạt động, mỗi tháng cho ra

lò 12 tấn vôi...

571

Tôi đến một đơn vị sản xuất viết bài về việc thực hiện chủ

trương đó.

Những người gieo mầm xuân

trên vùng kinh tế mới

Hà Nội (VNTTX 10-4-74) - Họ là 85 người trong đội sản xuất 10

thuộc đoàn 773, lên thung lũng T (Tây Nguyên) quyết biến đất

hoang thành ruộng cày, cấy, đồng thời giúp đỡ những đồng bào

bung từ khu dồn dân của địch về xây dựng cả khu vực rộng lớn trở

thành vùng kinh tế mới.

Việc đầu tiên khi đoàn quân đặt chân lên "trận địa" mới này là

phát, dọn, chuẩn bị đất cho máy cày hoạt động. Vũ khí của họ là

dao, cuốc, và ý chí sắt đá quyết hoàn thành nhiệm vụ của người

chiến sĩ cách mạng.

Đồng ruộng bị bỏ hoang 7,8 năm, đã biến thành rừng cỏ, lớp

này chồng lên lớp khác dày đặc. Mảnh bom, đạn của địch còn vương

vãi khắp nơi. Dao chém xuống gặp phải dây kẽm gai bùng nhùng,

văng trở lại, có nhiều chỗ phải 3,4 nhát rựa mới đứt một lớp cỏ. Có

những lúc trời mưa dầm dề, buốt lạnh thấu xương.

Nhưng, những khó khăn, gian khổ ấy không làm chùn bước

những chiến sĩ chỉ biết chiến thắng. Phong trào thi đua "Bám đồng

ruộng như bám chiến trường", cải tiễn kỹ thuật, nâng cao năng suất

lao động phát triển rầm rộ, đều khắp. Ban chỉ huy đội bám sát các

tổ, vừa trực tiếp lao động, động viên anh em, vừa nghiên cứu kế

hoạch sản xuất cho thích hợp. Đội trưởng có sáng kiến dùng rựa cán

dài thước hai, dang thẳng tay phát, đưa năng suất từ 80 lên 200

mét vuông một ngày.

Tổ anh Ký, anh Tề phát huy sáng kiến, đưa năng suất phát gai

lên gấp đôi lúc đầu. Các đồng chí Chính, Đoàn, Bảy, Thông, Tề, Ký,

Nhiệm... luôn luôn đạt ngày công và năng suất cao, được nêu gương

cho toàn đội học tập.

572

Nạn lụt bão hồi tháng 11 năm ngoái đã cuốn trôi hết cả nhà

cửa của đội, nay anh em phải vừa dựng lại nhà, vừa tranh thủ dọn

những bãi đất cao. Khi nước rút, mọi người lại tràn xuống thấp dọn,

phát...

Giành được thắng lợi bước đầu, đội tiếp tục đẩy mạnh chiến

dịch "Tấn công đồng cỏ". Các tổ dàn quân trên đồng cày, cuốc. Tổ

máy kéo bắt đầu ra quân. Chỉ trong thời gian ngắn, thung lũng T

đầy cỏ hoang, gai góc đã trở thành cánh đồng rộng bát ngát.

Cùng với việc làm đất, đội 10 khẩn trương xây dựng các công

trình thuỷ lợi. Những hố bom của địch được cải tạo thành những hồ

chứa nước nhỏ. Một con đập nước chắn ngang dòng suối lớn, dâng

nước lên cao, chảy theo con mương dài trên 2 ki lô mét uốn quanh

sườn đồi, tưới mát cho hàng chục héc ta ruộng đất.

Cùng thời gian này, mạ được gieo xuống, khoai được lên luống.

Đến ngày cấy, toàn đội đổ xuống đồng, đông vui như hội. Anh Tuân,

cán bộ kỹ thuật, cùng các cô Ngát, Đạo, Bảy... làm nòng cốt trong

việc cấy chăng dây, thẳng hàng. Những hàng lúa thẳng tắp thi

nhau mọc lên phủ kín dần cánh đồng./.

Việt Long (TTXGP)

Từ 22 đến 25/4/1974

Tôi được cử đi dự đại hội Đoàn thanh niên Khu bộ lần thứ nhất.

Ban chấp hành mới của đoàn Khu bộ có 17 người, trong đó tôi là ủy

viên, phụ trách công tác Tuyên huấn .

Từ 28/4 đến đầu tháng 5 năm 1974

Quân khu Năm tổ chức Đại hội liên hoan Anh hùng, Chiến sĩ

thi đua toàn Quân khu. Tôi thay mặt Phân xã vào dự Đại hội, được

gặp nhiều anh hùng, chiến sĩ thi đua từ khắp các địa phương về,

thu thập được nhiều tài liệu quý. Anh Nguyễn Chí Trung chủ trì

việc biên soạn một cuốn sách loại gương điển hình chiến đấu của

573

các lực lượng vũ trang Khu Năm. Chúng tôi hăng hái tham gia, mỗi

người một bài - tôi viết bài về bệnh xá 78 ở Quảng Nam.

THƯ ĐỒNG CHÍ

Trần Hồng Cơ

Anh Việt Long kính mến!

Thư trước viết vội cho anh, thư này lại "vội viết" (cái số rứa đó).

Chỉ vài phút nữa, Đồng, Phú về, Cơ viết vài điều sau:

- Tình hình Quảng Đà: Sau cái Nông Sơn - Trung Phước, vừa

rồi Thượng Đức, người ta chờ đợi một An Hoà - Đức Dục nhưng

mãi... nên "bà con" cũng hơi... Nói chung Quảng Đà đã nổi dậy tốt

nhưng cũng nhiều cái gay go lắm.

- Anh Quảng, Thụ đi Điện Bàn và Duy Xuyên nhưng không

thấy gửi bài, phim gì về cả.

Anh Quảng đi Điện Bàn hơi căng. Thụ đi Duy Xuyên quá "lạ

nước lạ cái" nên nghe nói là không làm gì được (có phần nguy hiểm

nữa). Đán thì không có tin tức gì cả.

- Cơ: vẫn ở nhà trực, làm tin, nhưng bài thì bí quá vì Cơ không

đi đâu.

- Đồng, Phú xuống nằm chờ mấy ngày nhưng không làm gì

được. Anh Chu không biết ở đâu cả. F bộ thì Cơ cũng chịu thôi vì

vậy đành để 2 cụ lên đường về nước vậy.

Tình hình sơ lược về Quảng Đà:

- Duy Xuyên: nổi dậy tương đối tốt ở một số vùng (chủ yếu là

Trung Duy Xuyên) bức rút khá nhiều chốt, dân làm chủ chốt.

Nhưng bà con lo địch phản kích.

574

- Đại Lộc: chủ yếu là dân từ An Hoà - Thượng Đức - Đức Dục -

Nông Sơn... "tự giải phóng" về làng được khá nhiều (tất nhiên có ta

tổ chức đưa về).

- Điện Bàn: Quân phản kích đông quá, căng thẳng.

Vài nét để anh nắm thêm tiện biên tập cho Quảng Đà.

Dân họ bảo "Quảng Đà ngày xưa là túi chứa Mỹ, nay là túi

chứa nguỵ".

Thôi Cơ dừng bút, chúc anh khoẻ. Tình hình Quảng Đà chỉ có

thế thôi.

THƯ NGÂN

Ngày 11/5/1974

Anh Long yêu quý của em!

Xa anh 1 tháng rồi làm sao khỏi nhớ anh. Chắc anh không thể

hình dung được sự trông mong anh về, và nhớ anh đến đâu anh nhỉ.

Em bị ốm xuống nằm tại y xá Ban hôm nay đã 1 tuần rồi. Đau

nhiều, ăn rồi chỉ nằm võng khóc thôi vì nhớ anh. Mà rất trách cho

số phận từ lúc yêu anh chưa bao giờ em ốm có anh ở nhà. Lần này

đau có khác nhiều lần khác anh ạ! Bị phù thận, đi kiểm tra bệnh

viện đề nghị ăn nhạt 20 ngày, thế có khổ không. Mỗi bữa chỉ ăn

được 1 bát cơm thôi, người xanh xao, chiều đến em cũng hay đến

nhà các anh Thông tấn chơi song em cảm thấy mình lạnh lẽo quá vì

vắng anh, em ước gì anh về ngay lúc này chắc em sẽ bớt đau, vì nhớ

anh nhiều.

Anh Long yêu nhất của em! Chắc lúc này anh đang bận và

mong thư em lắm thì đúng. Vì em biết anh rất yêu em, anh nghỉ

tay một lúc nhé. Anh ngồi xích lại gần em, em kể chuyện cho anh

nghe nhé, kẻo em giận đấy. Em đang đau, nằm trên võng thì bỗng

575

thấy thư của anh, em vô cùng sung sướng, hình dáng anh đang hiện

ra trước mắt em và đang hôn em trong lúc em khóc. Đọc thư anh,

em lại thêm phần nghị lực đấu tranh với bệnh.

Một tháng xa nhau rồi - 30 ngày không ít đâu anh nhỉ, vì em cứ

nghĩ rằng khi đã yêu nhau rồi thì không thể rời nhau một bước mà

nay đã hàng tháng xa nhau rồi mà, trong lúc đó lại đau nữa.

Anh yêu của em!... Khi vắng bóng anh, em đem thư ra đọc hết

từ cái thư mà đã làm cho em suốt đêm không ngủ, đem ảnh ra xem,

xem hoài, xem kỹ, có đoạn em thuộc lòng mà ngẫm nghĩ trên đời

này chưa có ai có thể yêu em như anh cả, từ đó em cảm thấy em rất

khuyết điểm với anh, rất nhiều, điều đó anh sẽ tha thứ tất cả cho

em anh nhé. Mà mong anh lần này về hãy thương em hơn bao giờ

hết. Anh có đồng ý với em không nào. Khi về anh hãy hôn em ngay

nhé!

Em rất yêu anh, và hiểu anh. Trong lúc anh dỗi với em thì anh

lại lạnh nhạt và không bao giờ hôn em, em rất đáng sợ anh chồng

nghiêm khắc và chiều chuộng đó, em cứ nghĩ chắc lúc cưới nhau rồi,

em biết điều và ngoan hơn, thì có thể nói rằng em là một cô gái có

số phận chưa ai từng có, vì em thấy anh chiều em quá, anh cưng em

quá nên có lúc em lên mặt với anh, điều đó em rất nghiêm khắc.

Trong lúc xa nhau này em sẽ mong anh hãy quên đi những sai sót

của em anh nhé!...

Từ lúc anh đi em ở nhà cứ trông anh mau về. Em chóng khỏi để

anh khỏi buồn. ở nhà bạn bè của anh cũng hay đến đây lắm, trưa

hôm nay có anh tên là Lài người Thanh Hoá ở tiểu đoàn 773 cũng đến

thăm anh. Qua chuyện trò với em, thấy anh nói chuyện tử tế lắm anh

ạ!... Vừa rồi em lại nhận của anh thư nữa, em biết anh quan tâm đến

tình cảm của em quá, chỉ có anh Việt Long mới có cái đạo đức mẫu

mực như thế. Trong lúc này em yêu anh hơn bao giờ hết.

Thôi nhé, vì em còn phải biên thư đi Bắc nên em tạm dừng bút.

Chúc anh ngủ ngon nhé!

Em

576

TB: Vừa rồi bố mẹ gửi cho em đôi dép, em gửi cho cô Lương,

anh chuyển giúp em nhé và nghe tin cô bị đau gan, em gửi 2 lọ

sirepa, 2 cái kẹp, gói đẳng sâm anh chuyển hộ em cho cô ấy nhé.

Về đây em sẽ thưởng.

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Ngày 16/5/1974

Bố mẹ kính yêu của con!

Con đã nhận được thư của bố mẹ, anh Đức, các em, 7 cái ảnh và

đầy đủ quà mẹ gửi cho con.

Nhìn ảnh gia đình, con thấy mừng vì các em đã lớn vọt lên rồi,

đứa nào cũng mạnh khoẻ, khôi ngô, song con cũng lo là vì thấy bố

đã già yếu đi nhiều. Con muốn có mặt ngay tại nhà để chăm sóc bố

trong những ngày này. Chưa thực hiện được mong ước đó, con thấy

lòng đau như cắt. Mẹ và nhất là cô Chung thì trách móc đến gần

như mắng mỏ con vì con "không chịu" về thăm gia đình. Con đành

chịu đựng lời mắng ấy. Con hiểu, con đã bất hiếu rất nhiều, đã làm

cho gia đình lo âu, buồn khổ rất nhiều.

Song, con chưa biết làm thế nào để chuộc lại tội lỗi của mình.

Do vậy, con càng đau khổ. Con dằn vặt, suy tính, có lúc muốn từ bỏ

tất cả để trở về với gia đình. Song con không được phép làm như

vậy, và chắc bố cũng không tán thành con làm như vậy. Còn xin

phép ra thăm một thời gian rồi lại vào? Đó là điều có thể thực hiện

được, song cũng còn phải chờ thời cơ nữa chứ. Vừa rồi cơ quan con

có giải quyết một số trường hợp như vậy, song ít lắm, đếm không

hết đầu ngón tay, mà cơ quan lại rất đông.

Trong cái chuyện "xếp hàng" này, lẽ nào con lại lấn lên trước

được, khi còn có nhiều người đi trước mình rất nhiều, cần được ưu

tiên. Do vậy, tuy nguyện vọng rất tha thiết, con vẫn nén lại, chờ

thời cơ. Chắc bố mẹ không nghi ngờ gì lòng tha thiết của con mong

577

về gia đình, song nếu bố mẹ hiểu rõ hơn những khó khăn cụ thể của

con trong này thì bố mẹ sẽ thông cảm cho con nhiều. Ai mà chẳng

muốn gần gia đình, muốn được sống ở hậu phương - đã được hưởng

hoà bình, sự dễ chịu về vật chất, lại có điều kiện thể hiện sự hiếu

thảo của mình.

Còn việc con xây dựng gia đình riêng thì không có mâu thuẫn

gì với việc con trở về quê hương cả. Ngân là một đứa trẻ mồ côi,

không có gì ràng buộc cô ấy hết. Mặt khác, nếu về gia đình ta, con

tin rằng Ngân sẽ biết sống phải phép gia đình, không làm bố mẹ

phải phàn nàn đâu.

Nhiều khi, con nhớ gia đình quá, đem giấy ra viết thư, tuy

không biết gửi ai cả, viết để giải quyết tình cảm cho chính mình.

Cuối thư, con kính chúc bố mẹ mạnh khoẻ.

Con

Việt Long

Từ 22/5 đến 20/6/1974

Các cánh quân Thông tấn xã tỏa đi các tỉnh Quảng Đà, Quảng

Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Gia Lai, Đắc Lắc... đều bám sát

chiến trưởng, tích cực viết tin, bài phản ánh khí thế tấn công và nổi

dậy ở địa phương. Bên cạnh việc chuyển tin qua hệ thống điện đài,

anh chị em còn gửi thư từ, phim ảnh qua đường giao bưu. Tôi quí

trọng từng lá thư, đọc đi đọc lại, rồi lại ngồi viết thư trả lời cho các

bạn. Tổ Bình Định viết thư nhiều nhất, tỉ mỉ nhất. Tổ này do Hồ

Phước Huề làm tổ trưởng, cùng các phóng viên trẻ là Cao Tân Hòa,

Nguyễn Long Phi, Nguyễn Thành Vinh. Giống như tôi hồi năm

1972, các bạn hăm hở lao xuống đồng bằng, đằm mình trong tình

thương yêu, đùm bọc của đồng bào Bình Định, trong đó có các

huyện Hoài Nhơn, Hoài Ân, Phù Mỹ, Phù Cát.

Thư của Cao Tân Hòa có đoạn: "Từ ngày 20/5 Hoài Nhơn bắt

đầu nổ súng bước vào cao điểm. Anh Huề đã mang máy ảnh đi xã

578

Hoài Châu, còn em thường xuyên ở Văn phòng Huyện uỷ để trực

tin. Thỉnh thoảng em xuống xã Hoài Châu nắm tình hình quần

chúng chuẩn bị nổi dậy và xuống đường đấu tranh. Cả ngày nay em

ở xã Hoài Châu định đi theo một mũi tấn công chính trị của quần

chúng nhưng địch bắn phá ngăn chặn dữ dội, quần chúng chưa xáp

vào được.

Lần đầu tiên sống trong không khí sôi động của chiến trường

em cứ rạo rực hồi hộp thế nào ấy. Mấy đêm nổ súng em không thể

nào ngủ được. Lúc nào em cũng cảm thấy vội vã."

Thư của Long Phi viết: "Từ ngày 18/5 chiến dịch bắt đầu mở,

tôi và Vinh cũng đi với ban chỉ đạo, chỉ huy hoạt động, có bám sát

chiến trường, nhất là ở các vùng trọng điểm như Mỹ Tài, Mỹ

Chánh. Tin, bài, ảnh có làm được kịp thời và đã gửi về tỉnh. Chiến

trường bom đạn nhiều và nhiều lần bị phục kích, chúng tôi vẫn

công tác. Tất nhiên trong tư tưởng có phần lo chưa quen với cảnh

đánh nhau thật sự. Song, tiếng bom, đạn, súng ống, đồng bào.... dần

dần nó cũng quen đi và trở thành lẽ tất nhiên.

Cho đến hôm nay, 3 xã trọng tâm Minh, Tài, Chánh Cát đã giải

phóng hoàn toàn cộng với 2 xã Cát Tài, Cát Minh (Phù Cát) cũng

trong khu vực 4 đã giải phóng rồi. Chúng tôi đều làm việc tốt.

Thỉnh thoảng, cũng về qua 1,2 ngày ở hậu phương làm việc, phản

ảnh phong trào phục vụ chiến đấu, xây làng chiến đấu...

Tình hình lớn, công việc nhiều, chúng tôi tuy vậy cũng cố gắng

làm, dù là mình chưa lành nghề lắm.

Kết quả: Tôi đã viết 17 cái cả tin và bài gửi về tỉnh. Vinh có gửi

40-50 kiểu phim về và một số bài nữa. Có số lượng vậy đó, song chất

lượng còn chờ ý kiến các anh. Nhiều lúc chúng tôi nghĩ mình làm

tưởng hung vậy, song có đáp ứng được yêu cầu ở trên không. Chúng

tôi rất lo. Tin chiến thắng, tin quần chúng nổi dậy gửi về tỉnh cả

rồi. Nhưng sao đài Hà Nội, Giải Phóng chưa đưa tới Phù Mỹ. Mặt

khác ở Tuyên huấn tỉnh gửi tin tổng hợp về huyện thì trật hết. Có

xã giải phóng như Mỹ Thọ, lại nói diệt 2 ác ôn, có xã chưa nổi dậy

lại nói là đã nổi dậy".

579

Thư của Phước Huề viết: "H đi Hoài Nhơn được 20 ngày. Dự

định thì lớn nhưng thực tế diễn ra chưa theo mong muốn. H chỉ

chụp được một số phim và tráng gửi về phân xã. Các đồng chí

nghiên cứu sử dụng. Máy hỏng, tôi ức quá, mở ra chọc bậy, thế rồi

cũng chụp được. Không đến nỗi nào. Thật là chó ngáp phải ruồi.

Xuống Hoài Nhơn tôi có đi với E12, D6 dự một trận đánh đề

chụp trận địa. Nhưng đến phút thứ 7 của trận đánh pháo, cối địch

dập vào trận địa ghê quá. Sau đó lại máy bay ném bom. Suýt nữa

tôi bỏ xác tại trận. Tôi cùng đơn vị rút ra và chạy một bữa bở hơi tai

(5km hành quân chạy). Rút cục không chụp được cảnh ta làm chủ

trận địa, thu vũ khí, san bằng chốt của địch.

Tình hình Bình Định diễn ra rất sôi nổi, đánh khắp nơi. Sôi nổi

nhất là từ Phù Mỹ (phía Nam) và Bắc Phù Cát. Ta giải phóng 5 xã

liền mảng với trên 30.000 dân, bức rút, san bằng hàng chục đồn

bốt. Phá banh 3 khu đồn lớn. ở đây có Vinh - Phi làm ăn được. Vinh

- Phi có gửi một số tin, bài về rồi. Vinh có phim gửi luôn với tôi đây.

Các anh, chị em thân yêu! Bình thường thì không sao nhưng

lúc chiến sự nổ ra thật là nhiều vấn đề mà mình không sao làm xuể

được. Được cái này, bỏ mất cái kia. Thời cơ quan trọng lắm. Tôi

nhiều lúc ước gì 3 đầu, 6 tay để làm. Hơn nữa điều kiện đi lại khó

khăn và vất vả quá nên cũng bỏ lỡ nhiều cơ hội tốt.

Hiện nay địch đang tập trung nống lấn trở lại. Ta đang tích cực

đánh địch kiểu du kích, giữ vững vùng giải phóng, bảo vệ tính

mạng và tài sản của nhân dân. Giờ đây tin tức tuyên truyền của tổ

Bình Định sắp tới cũng tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm

đó. Tin ở tỉnh đưa được nhiều và nhanh hơn các huyện. Tin huyện

về đưa quá chậm do đường dây mặc dù mỗi phong bì có 2 chữ đỏ là

"Thượng khẩn" hay "Hoả tốc".

Nhiều lúc phát hiện thấy một vài tin, muốn lao đi ghê gớm.

Nhưng lúc anh em xuống đó thì gợi ý, viết gửi xuống chừng gần 10

ngày mới nhận được thì chậm mất rồi. Còn những huyện anh em

không có thì không biết khai thác ở đâu được. Màng lưới thông tin

viên, cộng tác viên ở đây tôi chưa tổ chức được. Tôi có ý định sắp tới

580

Ban Tuyên truyền mở lớp cho các huyện xã, mình sẽ tranh thủ tổ

chức cộng tác viên. Nhưng chiến sự nổ ra, lớp học hoãn, chưa biết

bao giờ mở được.

Tôi đành thất vọng chờ dịp khác. Tôi quyết tâm làm bằng được

dù bây giờ chưa biết kết quả thì sau này các tổ khác xuống cũng có

cơ sở ban đầu đi bước tiếp thuận lợi hơn".

Thư của Thành Vinh viết: " Phù Mỹ vừa qua có phong trào tiến

công nổi dậy rất tốt. Đánh, bức hơn 10 chốt trái phép. Quần chúng ở

5 xã (Mỹ Chánh, Mỹ Cát, Mỹ Tài thuộc Phù Mỹ, 2 xã Cát Minh,

Cát Tài thuộc Phù Cát) nói chung rất phấn khởi tin tưởng cách

mạng nhưng cũng có một số hoang mang dao động. Nổi dậy lần này

rất khác hồi năm 1972: dân đông và bám trụ cả. Riêng một số ít có

chạy vào vùng địch. Sau khi giải phóng ta đã vào làm công tác

ngay: bề nổi rất nổi, bề chìm cũng làm tốt. Quần chúng ủng hộ

nhiều cho cách mạng.

Thời gian sau, địch có nống lấn, đổ quân và đánh phá trở lại rất

ác liệt. Hiện nay chiến sự xảy ra rất căng.

Vùng sau thì cũng làm tốt công tác như vận chuyển hàng, cổ

động, tuyên truyền thắng lợi, cũng nổi.

Đặc biệt vừa rồi (9-6) địch đã tập kích vào hậu cứ (xã Mỹ Thọ)

bằng xe tăng, bộ binh. Hiện nay coi như vùng Mỹ Thọ đang bị nó

kiểm soát.

Em và Phi đi theo Ban Chỉ đạo, chỉ huy chiến dịch, vào trong

lòng địch làm nhiệm vụ. Cũng rất nguy hiểm vì bom pháo suốt ngày

và cũng rất vui vì được chứng kiến tiến công nổi dậy.

Em đã làm được một số ảnh quí về nổi dậy và một số tin bài

mẩu chuyện.

Theo ý kiến của anh B (thường vụ tỉnh, chính uỷ mặt trận) bọn

em về rút kinh nghiệm, thì ngay ngày hôm sau là địch tập kích. Đời

chinh chiến cũng có cái may phải không anh? Chứ bọn em ( Vinh,

581

Phi), cũng nói cho các anh biết để vui thôi, cũng bị chết hụt nhiều

lần, số cũng đang còn nhợt nhợt chứ chưa phải bạc, ha ha!..."

Qua thư Hoàng Dục, Lâm Quý, Nguyễn Thụ, tôi được biết hoạt

động nghiệp vụ của các tổ phóng viên Gia Lai, Đắc Lắc, Quảng

Nam khó khăn hơn ở Bình Định, nhưng đội quân Thông tấn vẫn

tràn đầy nhiệt tình, xoay xở đủ mọi cách để viết tin, chụp ảnh.

Nguyễn Thụ viết: "Đi gần nửa tháng trời mà chưa làm được chi

hết, mấy ngày tôi qua Xuyên Phú (vùng Tây Duy Xuyên) nhưng chỉ

chạy càn mất nhiều thời gian. Sau khi mất nhiều cứ, địch điều

nhiều quân tràn vào các xã vùng này cho nên các đơn vị vũ trang

địa phương và lực lượng chính trị đã phải rút ra, tôi cũng phải ra.

Đã ở ngoài này (Tuyên huấn) gần một tuần rồi, bây giờ lại trở lại

vùng cũ để tiếp tục làm việc. Mấy bữa trước "kén chọn" nhiều quá

cho nên chưa lấy được gì hết. ở vùng Tây này cũng có một số khu

dồn, trong thời kỳ vừa rồi cũng nổi dậy về quê cũ (nói quê cũ nhưng

ra các vùng xung quanh) và địch thì vẫn đóng ở các vùng đó, chỉ

hoạt động ban đêm được cho nên không được bức ảnh theo ý đồ nào

cả. Kỳ tới nếu tình hình mở ra khá thì điều kiện làm ăn cũng có.

Bây giờ thì vẫn trong giai đoạn mai phục đã và theo dõi tình hình,

chiều hướng sẽ xảy ra".

Hoàng Dục viết: " Khi đến đất Tây Nguyên, chúng tôi bị ốm

đau, chủ yếu là sốt. Gia Lai sốt rét rất hung lại hay xẩy ra bệnh

cúm. Anh em chúng tôi, những lính mới, cũng khó khăn trong việc

phòng bệnh, vì sức khoẻ phần nhiều đã giảm khi đi trên đường từ

Khu vào đây.

Hiện nay chúng tôi đã khoẻ. Thời gian đầu chúng tôi nắm tình

hình chung ở tỉnh một vài tuần, sau đó sẽ xuống các vùng trọng

điểm của tỉnh. Nhưng thực tế diễn ra không theo ý muốn. Đã gần

một tháng rưỡi nay, tình hình ở huyện 5, huyện 4 - nơi trọng điểm

của tỉnh về chống lấn chiếm, bình định - đi lại rất khó khăn. Vì trên

các đoạn đường 19, 21, 14 - những cửa ngõ đi xuống các huyện này -

địch kiểm soát rất gắt, việc đi lại hầu như bị gián đoạn.

582

Anh em cán bộ của tỉnh xuống công tác ở những nơi này cũng

phải nằm lại. Anh em bảo vệ đường không cho đi. Trước tình hình

đó, chúng tôi tiến hành đi nắm tình hình một cách sâu hơn ở những

cơ quan, đơn vị chủ yếu của tỉnh. Qua những đơn vị này có thể hiểu

thêm những vấn đề cơ bản của tỉnh, đồng thời cũng sẽ có tài liệu để

viết được một số tin, bài tổng hợp".

Lâm Quý viết: " Sau 50 ngày vất vả hành quân vượt 3 con

đường của địch nay đã đến nơi bình an vô sự, không ai sốt dọc

đường. Tình hình sức khoẻ của tôi, Nhân, Khang đều khoẻ cả. Trên

đường đi có thuận lợi và cũng có khó khăn. Song anh em chúng tôi

đều khắc phục được, ai cũng vui vẻ lên đường đi đến nơi. Sau hai

ngày nghỉ ngơi sáng nay chúng tôi có họp, rút kinh nghiệm đi

đường và bàn phân công công tác. Thời kỳ đầu chúng tôi nhờ xe ôtô

xuống đến Bình Định, sau đó cuốc bộ từ đó lên đây. Chúng tôi nghĩ

thật là một chuyến đi kinh khủng - xa và nắng. Như vậy là qua 6

tỉnh rồi còn chi."

Cô phóng viên ảnh Triệu Thị Thùy "béo nhất Thông tấn" và

hay làm nũng chúng tôi, cũng xông vào trận địa ở Quảng Ngãi để

chụp ảnh và đã bị thương. Liên tiếp, tôi nhận được 2 thư của Thùy:

"Đáng lẽ em phải viết thư về báo tin trước để các anh biết trường

hợp em bị thương. Song vì lúc mới bị thương em cũng không biết

tình trạng ra sao, sợ báo tin về các anh lo thì cũng phiền nên mãi

đến tận hôm nay, sau một tháng nằm viện, vết thương của em về cơ

bản đã lành, em mới viết thư về để các anh được rõ.

Ngày 28/4 em từ Tịnh Minh sang Tịnh Trà làm việc với Văn

phòng Huyện uỷ Sơn Tịnh. Sau khi nắm tình hình, em thấy có Tịnh

Bình nam nổi về 3 mũi giáp công và Tịnh Sơn về phong trào du kích

chiến tranh nên ngày 2/3 em về Tịnh Sơn. Làm việc được một ngày

thì địch nống lên, em và cán bộ xã phải nhảy hết sang Tịnh Bình

nam, ở đây em làm việc với cán bộ xã Tịnh Sơn, em định sang Tịnh

Sơn chụp ảnh nhưng đi được nửa đường phải quay về vì các ngả

đường vào, địch bia tỉa, không cho dân đi lại. Em chuyển sang làm

việc ở Tịnh Bình nam, ở đây về 3 mũi giáp công họ đang làm chứ

kết quả chưa có nên em định làm một số ảnh. Ngày 8/5 em theo bộ

đội và du kích xã lên trận địa bắn sang đồn địch. Trận địa hẹp,

583

xung quanh có gài nhiều mìn. Em vừa chụp được một pô bắn đại

liên địch bốc cháy, em định đưa máy sang chụp phía đồn địch thì

quả B41 của ta bắn sang. Dưới sức ép của B41 mìn gài trên trận địa

nổ tung. Em bị thương 2 chỗ vào chân trái. Em tê dại chân không

thể làm việc được, vừa lúc ấy pháo địch bắn sang. Chúng em phải

rút lui. Đêm đó họ đưa em vào bệnh xá huyện. Gần chục ngày đầu

em nằm liệt giường không đi lại được. Sau đó đi lần đến hôm nay

em đi lại đã tương đối bình thường, nhưng ở vết thương mảnh vẫn

còn nằm trong đó nên cũng hạn chế."... " Em đã ra viện được vài

ngày nay, em và anh Quả anh Huynh gặp nhau ở Sơn Tịnh rồi cùng

về Tư Nghĩa ngày 14/6/1974. Đáng lẽ em về cùng anh Quả về tỉnh

song vì hiện nay cái chân em chưa bình thường, đi ở đồng bằng

cũng rất chậm và đau nên không thể leo dốc về tỉnh được vì thế

hiện nay anh Quả phân công em và anh Huynh ở lại cánh Bắc. Em

ở lại làm việc Tư Nghĩa và điều trị luôn. Em gửi về 10 kiểu ảnh em

chụp trong thời gian qua.

Theo bình thường thì cuối tháng 9 này em phải về khu nhưng

hiện nay do hoàn cảnh sức khoẻ, hơn nữa thời gian em đi xuống đây

chưa làm được gì cả, nên mặc dù em cũng muốn về (vì nhiều lý do

lắm) song do điều kiện nên em xin các anh được ở lại để làm việc đã.

Mong các anh cho em biết ý kiến trong lá thư gửi cho em sắp tới."

Sát cánh bên nhau trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến

trường, của núi rừng Trường Sơn, chúng tôi có tình đồng chí thắm

thiết, như ruột thịt, không giấu nhau điều gì.

Nỗi khao khát về gia đình, tình cảm thắm thiết với vợ của Lâm

Quý trở thành nỗi khao khát chung của chúng tôi, khi Quý viết: "à!

Anh Chu, anh Long, dạo này có thấy thư của tôi không anh? Nếu có

thư của bà xã tôi anh cứ xem, bí mật cũng được, rồi anh giữ kỹ cho

tôi nhé! Nếu có thể anh viết nội dung lên cho tôi thì hay quá."

Còn Hồ Phước Huề thì tâm tình: "Thật buồn cho tôi khi nghe

tin Thuỳ bị thương. Tin đó do Hữu Quả viết cho và mãi một tháng

sau tôi mới nhận được (6/6/1974).

584

Tôi chưa có điều kiện để nói với các đồng chí rõ nhưng Việt

Long và các anh, chắc biết rồi. Với lại tôi cũng định để một thời gian

tìm hiểu nhau thêm. Nếu thuận lợi thì hết đợt công tác này về tôi sẽ

báo cáo chi bộ (Tức là đầu năm sau).

Chưa nói ra nhưng chúng tôi đối xử với nhau đã vượt cao lên

trên tình bạn.

Nhận được tin này tôi bàng hoàng, sửng sốt và không thể tin

được, dù đó là có thật. Rồi tôi lo lắng, bồn chồn mãi, không biết sự

việc cụ thể ra sao. Thú thật với các đồng chí là không an tâm mà

ngồi làm việc được. Cứ muốn đi thăm rồi mới xuôi xuôi được. Nhưng

vì nhiệm vụ của mình tôi không thể đi được. Tôi phải cố nén tình

cảm của mình lại. Tôi viết thư động viên Thuỳ yên tâm điều trị cho

vết thương chóng lành và đừng lo nghĩ gì ảnh hưởng đến sức khoẻ.

Lúc này tôi thấy mình phải chăm lo cho Thuỳ nhiều hơn và trách

nhiệm phải nặng nề hơn. Đường sá cách trở quá không biết những

bức thư của tôi có đến tay Thuỳ không? Tôi đành trông cậy vào các

đồng chí trong tổ Quảng Ngãi và các đồng chí ở nhà lo liệu thôi. Tôi

tin rằng Thuỳ sẽ khỏi và trở về vị trí chiến đấu. Niềm tin đó giúp

tôi an tâm công tác. Thuỳ bị thương cũng là một điều nhắc nhở cho

tôi và cho các tổ khác đi các tỉnh phải có trách nhiệm hơn nữa đến

các đồng chí phóng viên của chúng ta.

Các đồng chí ở nhà nhớ nhắc nhở luôn các đồng chí mới vào

phải hết sức cẩn thận, không nên chủ quan khinh thường. Cuộc

chiến đấu còn tiếp diễn, bom đạn, quân thù còn đó, chúng ta vẫn

còn cùng đồng bào, chiến sĩ đứng ở vị trí tuyến đầu. Máu chúng ta

còn đổ. Đó là tất nhiên. Nhưng chúng ta phải hạn chế được đến mức

tối đa sự mất mát, hy sinh do chiến tranh gây ra, có phải không các

đồng chí."

Thông tấn xã chúng tôi cũng tích cực tham gia những công việc

cố hữu ở căn cứ: gùi cõng và sản xuất. Cao Tiến ất, Trần Minh

Phượng, Phan Đình Khôi chăm chỉ với công việc nhà nông. Khôi

viết thư kể: "Từ hôm Phượng vào đây, rồi anh Việt Long về ngoài

đó, ở đây anh em đều mạnh khoẻ cả. Công việc nhà nông cứ đều đặn

tiến hành. Trước đây định đắp đập làm ruộng nhưng kế hoạch

585

không thực hiện được nên anh em làm việc có nhàn hơn. Ngoài việc

chính làm cỏ cho sắn, thu hoạch ngô khoai thì xay lúa, giã gạo...

Không khác gì cảnh gia đình, nên nhớ nhà ghê anh ạ.

Phong trào đoàn thanh niên sôi nổi hơn và vui hơn trước nhiều.

Đời sống cũng có phần được cải thiện. Rau cỏ thì đảm bảo đầy đủ."

Qua hệ thống điện minh ngữ, tôi truyền đạt ý kiến chỉ dạo của

Ban Tuyên Huấn Khu:

Gửi các tổ Quảng Đà, Quảng ngãi, Phú Yên:

Ban nhắc: Ngoài việc đưa tin nổi dậy, chống Bình Định, lấn

chiếm thường xuyên, cần viết thêm tin về các mặt khác. Trước mắt

viết tin về một số xã có thành tích khá về sản xuất, về văn hoá giáo

dục, tin về vùng mới giải phóng, các vùng dân về, tin hoạt động của

chính quyền, của các đoàn thể. Nội dung tin có so sánh với trước để

thấy sự đổi mới.

Mỗi tuần điện về ít nhất 2 - 3 tin về các mặt trên. Chú ý đưa

tin tổng hợp về nổi dậy, binh vận, đấu tranh chính trị tháng 6, 2

tháng qua, 6 tháng qua.

- Đã nhận thư, điện của Hữu Quả, phim của Huynh.

- Trinh chờ Thuỳ cùng về

- Đã nhận thư, tin của anh Thạnh. Không thêm người vào Phú

Yên..

Ngày 21/6/1974

Tôi dự giao ban của Ban, tổng hợp tình hình tình miền Trung

Trung bộ từ 21 tháng 4 đến 15 tháng 6 năm 1974 như sau: Ta tấn

công tiêu diệt và làm bị thương 12.500 tên địch, 13 tiểu đoàn, 47 đại

đội, 113 trung đội, san bằng 250 cứ điểm, phá bung 30 khu dồn, giải

phóng 10 vạn dân. Bản tin Thông tấn xã của chúng tôi ra đều,

trong đó đưa tin khá tốt về binh vận, tố cáo tội ác của địch, chiến sự

586

và xây dựng lực lượng cách mạng. Có những tin nổi bật như: Bình

Định, Quảng Nam - binh lính ngụy chống lệnh hành quân. Hàng

ngàn đồng bào người nhà binh sĩ ngụy ở Bình Định đấu tranh đòi

chồng con em về nhà làm ăn. Trong 10 ngày (18 - 28 tháng 5),

15.000 đồng bào Hoài Nhơn, Phù Mỹ bao vây, bức rút 11 đồn bốt,

thu hồi về vùng giải phóng 3 xã. Ngành Nông nghiệp miền Trung

Trung bộ giúp đồng bào mới ở khu dồn về nông cụ, giống để sản

xuất: 6.000 lưỡi rựa, 1.000 lưỡi cuốc, 55 ki lô gam hạt rau giống, 1

tấn phân đạm. Có một số bài đã tập trung cho trọng điểm tuyên

truyền: nêu bật khí thế nổi dậy của đồng bào (Đẩy lùi xe tăng địch,

San bằng đồn bốt địch, Như chim sổ lồng), công tác binh vận (Sự

tỉnh ngộ của trung úy K'Rông, Con đường sống duy nhất của người

lính Sài Gòn, Cuộc hành quân phải bỏ dở). Bài về xây dựng cũng

khá (Thăm trường cấp một nội trú đầu tiên của tỉnh Gia Lai, Một

buổi tập luyện đánh chốt).

Ngày 1 tháng 7 năm 1974

Sinh nhật lần thứ 28 của tôi trong không khí sôi động của toàn

chiến trường. Trời trong xanh, nắng vàng dịu.

Thư từ, tin tức của anh em từ khắp nơi của miền Trung gửi về

truyền cho tôi cái hừng hực của phong trào, giúp tôi có thêm "lửa"

cho trái tim đồng thời giữ được cái "lạnh" của đầu óc để biên tập tin

cho có chất lượng (các thầy dậy tôi: nghề làm báo vừa phải có trái

tim nóng đầy nhiệt tình với cuộc sống, lại phải có cái đầu lạnh để

tỉnh táo xem xét hiện thực).

Phân xã của chúng tôi đã có tới 42 người, gồm phóng viên, biên

tập viên, kỹ thuật ảnh, kỹ thuật máy ảnh, trong đó 22 đồng chí

được biên chế vào các tổ phóng viên tỏa về 9 tỉnh làm nghiệp vụ.

Trong 6 tháng đầu năm 1974, toàn Phân xã của chúng tôi phát

được 493 tin, bài (có 97 bài, mẩu chuyện), trong đó có 47% về quân

sự, 34% về chính trị, 7% về binh vận, 7% về kinh tế, còn lại là về

văn xã, 7.295 tấm ảnh các loại, trong đó phát cho các báo Cờ giải

phóng, Văn nghệ, Hình ảnh Việt Nam 135 tấm và triển lãm 1.602

tấm. Tin, bài, ảnh của chúng tôi gửi về Tổng xã phần lớn được phát,

là nguồn phong phú cho các báo, đài ở Miền Bắc và Đài Giải phóng,

587

cho các cuộc triển lãm và cho yêu cầu tuyên truyền của các địa

phương.

Ngày 7/7/1974

Xuân Quang, phóng viên ở tổ Quảng Nam viết thư cho tôi. Có

lẽ đây là lá thư duy nhất tôi nhận được nói đến chuyện không vui

trong quan hệ công tác: "Nhân tiện đây, em muốn tâm sự với anh

một chuyện trong thời gian qua mà theo em được biết, dường như

các anh và các bạn ở nhà quá quan tâm và lo lắng. Đó là chuyện

giữa em và cơ quan mình đến công tác trong mối quan hệ. Những

khuyết điểm của em như anh đã biết. Có! Em mạnh dạn dám nhận

là thời gian qua em có mắc một vài thiếu sót: tự động dùng máy chữ

mấy lần (trong đó có một lần nặng tự ý bỏ tập giấy đang đánh dở ra

mà không hỏi ý kiến của ai, chỉ cốt làm được việc mình), có lần làm

việc mệt quá ngủ thiếp trên bàn, đi khỏi nhà ít khi báo cho cơ quan.

Những thiếu sót đó em đã nhận và sửa chữa. Còn quan hệ với cơ

quan, với các đồng chí lãnh đạo như thế nào cho đúng mực, phải tôn

trọng địa phương... thì những cái đó em không mắc khuyết điểm gì.

Cho đến nay sự quan hệ giữa em và mọi người ở đây vẫn bình

thường, trên tình đồng chí. Ngoài công việc của mình, em vẫn tham

gia những việc làm ở cơ quan thấy hợp với sức khoẻ và thấy cần

thiết. Anh có thể yên trí rằng: Em vẫn yên tâm công tác được ở đây.

Anh dạo này vẫn khoẻ đấy chứ, hơn 3 tháng nay chưa được gặp

anh, mong một ngày gần đây về nhà chơi để tâm sự với anh. Em

nghe tin anh Chu, Minh, Mùi đã đi chiến dịch. Các bạn ở nhà vẫn

khoẻ và rất bận. Tuyết Trinh đi đón Thuỳ về, không hiểu tình hình

Thuỳ ra sao, lo cho Thuỳ quá... Còn Phú thì đi viện. à, nghe Yên nói

em còn sữa hộp ở nhà, anh nhớ gửi hộ em cho Phú một hộp nhé.

Thôi chào anh.

Chúc anh và các bạn ở nhà khoẻ.

Thân.

TB. Anh Long ạ!

Rất buồn là cho tới hôm nay, Minh ngữ vẫn chưa hoạt động

được (hết pin), thành thử đã từ lâu chúng em phải gửi tin, bài về

588

bằng đường dây, do đó rất chậm và hình như có phần không bảo

đảm (không hiểu sao lâu lắm không có một tin nào nói về Quảng

Nam. Vừa qua, bên cạnh đưa tin về chiến sự, chúng em có đưa tin

về vùng giải phóng.)

Ở trên này, giữa cơ quan có trách nhiệm và người làm việc phát

tin thiếu sự thông cảm với nhau về nghề nghiệp, cho nên lâu nay

thường trắc trở về khâu này. Mấy hôm nay, anh điện báo viên đài

minh ngữ đã về Khu để trình bầy tình hình thực tế dưới này cho

anh Sinh biết. Không biết kết quả ra sao. Em rất lo khi chiến dịch

nổ ra, mà tình trạng ngừng trệ hoạt động của bộ phận phát tin như

hiện giờ kéo dài mãi thì thật là phiền phức, không hay ho gì cả, sẽ

ảnh hưởng tới công việc chung."

Ngày 11/7/1974

Tôi làm việc với anh Phương, Phó trưởng Ban Tuyên huấn khu.

Anh còn có tên là Hồ Dưỡng, nguyên là Phó Tổng biên tập báo

Nhân Dân. Là một người đầy kinh nghiệm trong khâu biên tập,

anh đã sửa từng dòng tin do tôi trình duyệt, với độ chuẩn mực về

chính trị và sắc sảo về nghiệp vụ đến lạ lùng. Bao giờ tôi cũng đọc

kỹ chỗ anh sửa để rút kinh nghiệm cho bản thân về cách viết, cách

biên tập. Anh căn dặn tôi: Đối với phóng viên, cần giúp anh em nắm

được nhiệm vụ, yêu cầu tuyên truyền chung, yêu cầu tuyên truyền

trong từng thời gian (tổ chức cho anh em nghiên cứu Nghị quyết

của Khu ủy, Tỉnh ủy...) Cần thường xuyên trao đổi, bồi dưỡng, rút

kinh nghiệm cụ thể về nghiệp vụ với từng phóng viên - tổ ở tỉnh xa

có thể đi lâu, tổ ở tỉnh gần thì một vài tháng tổ trưởng về Khu làm

việc với phân xã một lần. Chú ý đưa tin đều về 3 mũi giáp công, 3

vùng chiến lược (nông thôn đồng bằng, miền núi, đô thị), cân đối tin

chiến đấu và xây dựng. Về ảnh, nên có phương hướng cung cấp cho

tỉnh, tiến tới dùng ảnh làm phương tiện giáo dục, tuyên truyền

quần chúng (có thể giúp tỉnh có ảnh để triển lãm).

Anh Phương vào trong này đã lâu, có vợ công tác bên Phụ nữ

Khu - chị tên là Lụa. Vốn tính hài hước, anh Phò hay đùa là anh

Phương thích nhất điệu múa Lụa! Anh Phương rất hiền, chỉ cười.

589

Ngày 12/7/1974

Cơ quan chúng tôi tổ chức đào ao thả cá. Tới hôm nay, các bộ

phận đã góp được 338 công. Cùng với 5 đơn vị bạn, Thông tấn xã

của chúng tôi được Ban biểu dương về tinh thần đóng góp và hiệu

quả lao động. Chúng tôi đã tạo thành hình ao, đang làm mương dẫn

nước, thoát nước để ngày 15 này đưa nước vào. Chúng tôi cũng lập

được một đội bóng chuyền, tập luyện thường xuyên vào chiều thứ

bẩy và các sáng chủ nhật.

Ngày 18/7/1974

Họp Phân xã. Chúng tôi bàn biện pháp phát huy tác dụng

tuyên truyền của ảnh Thông tấn. Cử người đi quanh Khu nắm và

điện cho ban Tuyên huấn các tỉnh nắm nhu cầu về ảnh để đáp ứng.

Chúng tôi dự kiến sẽ cung cấp cho mỗi huyện trong Khu một bộ ảnh

vào dịp này. Không những chúng ta triển lãm ảnh ở vùng giải

phóng, mà còn phải đưa ảnh cách mạng vào sâu trong vùng địch

kiểm soát. Chúng tôi cũng điện ra Hà Nội xin Tổng xã cấp cho giấy

ảnh số 3 có độ đen trắng tốt, phù hợp với điều kiện in, phóng ảnh

trong này.

Từ 20 đến 25/7/1974

Anh em ở các tổ phóng viên và gia đình liên tục biên thư cho

tôi.

Những lá thư của các bạn từ Bình Định, Quảng Đà, Quảng

Nam... không những phản ánh tình hình thực tế mà còn thể hiện

nỗi trăn trở về nghiệp vụ, thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của

đội ngũ nhà báo trẻ trước cuộc sống. Cao Tân Hòa bị sốt suốt một

tuần, nhưng dứt sốt lại lần xuống xã Hoài Châu để viết tin. Hòa đề

nghị được ở thêm địa phương, tới tháng 12 mới về. Hoàng Chu viết

sôi nổi: "Như vậy là cứ điểm Nông Sơn đã được giải phóng, mình đã

viết bài tường thuật về trận chiến đấu diệt gọn 2 tiểu đoàn địch

này. Bài viết gửi ngày 19/7/1974, ngay sau khi Nông Sơn giải

phóng. Nhưng đồng chí Văn - báo quân giải phóng - ở A4 nói chưa

có, mình viết lại có cụ thể hơn một chút để gửi tiếp một đồng chí

590

cán bộ về A4. Nhưng sợ không về tới nơi, mình lại gửi bài viết này

có chữa lại và gửi qua Tuyên huấn Quảng Đà để điện về nhà (Bài

này mình viết để phục vụ cả cho sư đoàn, để sư đoàn đánh máy gửi

xuống các đại đội).

Mình đang ở Phòng Tham mưu F để tiếp tục theo dõi, chuẩn bị

tài liệu viết bài tổng hợp chiến dịch. Có thể chiến dịch phát triển

đánh trận quyết định, mình sẽ đi chứ không ở Phòng Tham mưu F

nữa. (F: Sư đoàn).

Bộ chỉ huy tiền phương chuyển luôn nên làm nhà, đào hầm

thường xuyên và mệt (mình cũng phải đi cõng gạo).

Tuy vậy viết bài không biết gửi về nhà bằng cách nào cả, mình

tìm mọi cách, hỏi mọi nơi để tìm cách gửi nhanh nhất mà cũng khó

khăn. Anh Trung có hứa sau khi Nông Sơn giải phóng sẽ có công vụ

đến đưa bài đi nhưng không thấy.

Còn ảnh thì không hoàn thành được (Khi về mình sẽ báo cáo lại

vấn đề này). Giờ mình trình bày sơ lược thế này:

- Hà không thực hiện chương trình, phương hướng công tác của

tổ (mình và anh Trung bàn). Hà tự do đi làm theo ý của mình nên

mình hẹn ngày phải có mặt ở D8 đánh cứ điểm Nông Sơn, Hà đã

không có. Hà đi mũi của một E dự bị của chiến dịch nên không làm

được ảnh. Khi Nông Sơn đánh xong mình hẹn phải về sư đoàn bàn

công tác, không về. ở chỗ này Hà đã làm cho anh Trung và mình

băn khoăn và khó chịu (Tất nhiên có vấn đề ý thức, về tư tưởng

ngại gian khổ).

Như vậy Hà đã không có ảnh về Nông Sơn. Mặc dầu trận đánh

Nông Sơn rất đẹp và có đủ điều kiện làm ảnh. Mình đang xin phim

của đồng chí Thôi, phóng viên của F. Đồng chí Thôi chụp được 6

cuốn, đủ các vấn đề: từ lúc nổ súng đến khi giải phóng, dân trở về.

Mình sẽ gửi phim về để ở nhà kịp tuyên truyền cho Nông Sơn.

591

Đến hôm nay E1 và D31 đã đánh giải tỏa diệt 2 tiểu đoàn,

nhưng Hà vẫn chưa thấy về, mình đã viết thư gọi về. Mình rất buồn

vì ảnh Nông Sơn ta không làm được.

Tình hình có vậy, mình có bàn với Yên cố gắng đến nơi dân về,

trại tù binh để khai thác, chắc ở nhà cũng cử phóng viên đi rồi.

Mình rất khó đi vì đường xá không biết, hơn nữa đi rồi cơ quan

chuyển, lại không về kịp thì rất gay. Mình chỉ làm được một việc về

chiến đấu mà thôi."

Nguyễn Thụ vừa đến Quảng Đà là lao xuống huyện Duy Xuyên

ngay. Tuy vậy, " khu vực đó khó làm ăn quá, nhất là ảnh nữa. Hoạt

động chủ yếu vùng này về quân sự tập kích lẻ tẻ, phát động quần

chúng, tuyên truyền và chỉ hoạt động ban đêm. Một số ý đồ khác

nữa thì thấy cứ nằm ở rừng thì không làm ăn gì được. Tôi quyết

định lên vùng tây Duy Xuyên. Hiện nay chiến sự đang diễn ra lớn ở

An Hoà - Đức Dục (chưa biết cụ thể). Số dân đưa về vùng giải phóng

cũng đang có chiều hướng tốt, còn phương thức hoạt động thế nào

nữa thì phải xuống đó nắm cụ thể. "

Nguyễn Xuân Quyết đến Quảng Nam là "bay" ngay về Nông

Sơn mà vẫn không kịp, dân đã ra hết rồi, chỉ còn một số ở lại giữ

của thôi. Mấy hôm nay ở Nông Sơn vui lắm. Bộ đội, du kích vẫn một

mặt đón đánh bọn địch tới giải toả, một mặt truy lùng tề điệp, ác ôn

và tàn binh. Dân chưa ổn định lắm, mật độ bom pháo vẫn dày, trị

an còn gặp khó khăn. Hôm tôi xuống không kịp làm về dân bung ra,

mà chỉ ra ngay được phía truớc gặp số phòng vệ dân sự mới quay

súng trở về đang làm công tác ở ngoài đó để chụp một số ảnh tại

chỗ.

Đợt vừa rồi đi Nông Sơn cũng chưa kịp đi sâu tìm hiểu gì nhiều

lắm, qua tìm hiểu sơ bộ tại chỗ, và qua những điều tai nghe mắt

thấy từ hôm 20/7 đến nay, tôi có viết 3 bài gửi kèm về đây để các

anh xem xem có sử dụng được không. Đó chỉ mới là những ghi chép

sơ bộ, có gì các anh sửa chữa lại cho thích hợp. Viết hơi vội không

kịp chép lại, tôi gửi nguyên cả bản gốc về để kịp với yêu cầu, các

anh thông cảm. ở nhà có gì góp ý hoặc có chỉ thị gì mới các anh cứ

592

gửi xuống HT 435 Quảng Nam (Cổ Vũ) nhờ họ chuyển cho tôi (nhất

là về ý đồ tuyên truyền)".

Riêng Hồng Tiếu, cán bộ Ban Hiệp Định, tỏ ra rất quan tâm

đến hạnh phúc riêng của tôi. Anh viết: "May chiều nay lại gặp Ngân

vào công tác, anh em gặp nhau vui vẻ, tình cờ gặp được đồng hương.

Trước đây thú thật mình không hiểu tại sao chàng thanh niên

thủ đô Hà Nội mà có thể đặt chân tại xứ Quảng với một quyết tâm

vững chắc như thế. Bây giờ được giải đáp rồi, qua câu chuyện với

Ngân rất cởi mở, vui vẻ như anh em quen thân từ lâu. Bây giờ thì tớ

hoàn toàn nhất trí và chúc hạnh phúc trăm năm của cậu và Ngân."

Bố mẹ, anh Đức và các em tôi đều có thư cho tôi, đặc biệt là thể

hiện sự đồng tình vun đắp cho hạnh phúc của tôi với Ngân.

Anh Đức viết: "Anh vừa nhận được thư Long. Đọc thư, biết là

em đang buồn phiền vì ý kiến của mẹ, của cô. Anh viết cho em ít

dòng để em hiểu rõ việc đó mà yên tâm. Thực ra thì vấn đề không

có gì là gay gắt đâu. Chính em đã dùng cái chiến thuật nặng nề như

vậy kia mà! Chẳng qua gia đình mong em được ra đây, được về

thăm nhà, gia đình có ngày sum họp đầy đủ nên có lẽ mẹ và cô mới

nói hơi nặng như vậy thôi. ở nhà mọi người đều rất thương nhớ và

thông cảm những khó khăn, thiếu thốn về vật chất và tinh thần của

em ở trong đó. Nhất là anh cũng đã từng đi xa, tuy cũng chịu đựng

những thiếu thốn về tình cảm nhưng về vật chất thì lại quá đầy đủ,

mà thời gian không lâu lắm nên anh càng phải và càng có thể thông

cảm với em hơn. Anh biết là ở nơi em công tác, thiếu thốn nhiều,

sinh hoạt gặp nhiều khó khăn thì tất nhiên sức khoẻ cũng không

thể nào tốt được. Nếu thực em khoẻ, không bị bệnh tật gì là điều

đáng mừng lắm rồi.

Về chuyện riêng của em, dù em lấy ai thì bố mẹ, anh và các em

sẽ vẫn quí mến người đó, coi đó là người con, người em, người chị

mến yêu trong gia đình ta.

Anh gửi lời chào Ngân nhé, chúc hai em hạnh phúc. "

593

Mẹ tôi còn gửi quà cho tôi và Ngân. Mẹ tôi viết: "Còn về việc 2

con tổ chức thì mẹ cũng đã viết thư gửi anh Hường nói rõ cho 2 con

biết rồi, mẹ chỉ gửi thêm cho 10 bao thuốc để anh em liên hoan vui

thôi, à mẹ có gửi cả 5 ảnh của các em và gia đình cho 2 con kèm cả

phim nữa, có điều kiện con rửa to ra thì tốt.

Con gửi mỳ chính ra hợp thời quá vì rằng thời gian này rất

hiếm, phải mua ngoài 25đ 1 lạng để ăn, mẹ thấy con cũng chả có

tiền cho nên mẹ cũng chả dám nhắn con mua gì cả mà mẹ cũng chả

nắm được tình hình thế nào cả.

Còn mẹ mấy cô Chung có trách con chẳng qua là xuất phát từ

chỗ thương nhớ con quá thôi, chứ mẹ lại không biết con thì còn ai

biết nữa. Thư Ngân gửi ra gia đình chưa nhận được có lẽ đến chậm

thôi.

Bố mẹ, anh Đức, Phúc mới về qua Phát Diệm ra xong. Như thế

là chỉ thiếu có con và Ngân chưa về quê thôi. Bao giờ con và Ngân

được về thì mẹ sẽ cho về nốt. ở quê các chú, các bác mong lắm,"

Bố tôi viết: " Gia đình ta nói chung bình yên, riêng có bố trong

2 năm trở lại đây sức khoẻ có giảm sút, tự nhiên bị liệt nhẹ nửa

người bên phải, bác sĩ chẩn doán là do sơ nghẽn động mạch não bên

trái. Có thể cũng là do quá trình công tác trong gian khổ, thiếu

thốn, trong suy nghĩ đêm ngày, qua 2 cuộc kháng chiến, và nhất

trong trong 3 năm vừa sơ tán, vừa xây dựng trường Ngoại Ngữ

thành trường đại học với 5 khoa tương đối hoàn chỉnh. Bố đã dùng

nhiều thuốc, kể cả thuốc Tây, Nam, Bắc... đến nay cũng thấy đỡ

được một phần, vẫn đi lại được, song chậm chạp hơn trước, gần đây

thấy có chuyển biến tốt hơn.

Mẹ con vẫn khoẻ, và vẫn quán xuyến việc gia đình. Anh Đức và

vợ chồng Phúc công tác tốt. Em Việt vẫn ở Công an vũ trang nhân

dân, vừa mới nghỉ phép hơn nửa tháng về thăm gia đình. Em công

tác rất tốt, phấn đấu với lý tưởng rõ rệt, đang là đối tượng kết nạp

Đảng. Ngọc vào hè là sinh viên năm thứ 3 đại học, em học tiếng

Anh vào loại giỏi. Diệp đang chờ kết quả thi đại học, Lan đang

chuẩn bị thi vào lớp 8 sau khi đã tốt nghiệp cấp 2. Bé Thuỷ được lên

594

lớp 7. Cứ cách một tuần, nhân ngày chủ nhật, Phúc và Thành lại bế

bé Trang về thăm ông bà, cả gia đình sum họp trong chiếc buồng

tuy hẹp nhưng ấm cúng, chỉ thiếu các con và Việt thôi. Chắc chắn

sau một năm nữa thì Việt hết hạn nghĩa vụ, trở về với gia đình để

tiếp tục hoàn thành bậc đại học. Bố mẹ và các em mong sắp tới đây,

hai con sẽ được phép ra ngoài này sum họp với gia đình. Gia đình

nhớ các con, thường đem ảnh ra xem, mẹ con và các em thường xem

ảnh Thuý Ngân và nói rằng Ngân hiền lành, thuỳ mị, và nhìn ảnh

con đều có cảm tường rằng con gầy, yếu, nên rất lo cho sức khoẻ của

con.

Hai con ạ! Thấm thoát đã 6 năm rồi, bố mẹ không được gặp

Việt Long, nên lòng mong muốn của bố mẹ và các em là trong thời

gian gần đây, được may mắn sum họp với các con, dù là chỉ một ít

ngày trong gian phòng chật hẹp và ấm cúng này.

Bố mẹ có dịp dẫn các con về quê nội để nhận họ hàng và quê

hương."

Vẫn với đức tính chu đáo, luôn luôn lo lắng cho người thân, mẹ

tôi căn dặn tôi: "Mẹ thấy anh em trong ấy ra nói rằng các thứ bánh

kẹo, thuốc hoặc hàng tiêu dùng trong ấy hay bị thuốc độc cho nên

mẹ sợ lắm, con cũng phải cẩn thận."

Tôi gửi một bức điện cho Ban tuyên Huấn Bình Định:

"Đồng chí Hoà tiếp tục ở lại công tác. Khi nào về sẽ báo trước

nửa tháng.

Hoà trả lời gấp: trong tin 6 tháng về Hoài Nhơn, có con số du

kích diệt gần 10 trung đội địch. Vậy cụ thể là mấy, 7, 8 hay bao

nhiêu? Những con số loại này nên đưa số tròn.

TTXGP - K5"

Ngày 4/8/1974

595

Trong tháng 7, phân xã chúng tôi phát 149 tin, bài (25 bài), có

42 % về quân sự, 25% về chính trị, 14% về binh vận, 1.280 tấm ảnh,

chữa 3 máy ảnh. Chúng tôi còn góp 42 công đào ao (vượt định mức 7

công), 7 công gùi cõng (vượt 1), cử 2 người tham gia sản xuất ở Trà

Mi, 1 người tham gia xây dựng trường Tuyên huấn.

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Ngày 5/8/1974

Bố mẹ kính yêu của con!

Con mới nhận được thư bố viết tháng 7, mọi thứ gia đình gửi từ

thư, ảnh đến quà, con đều nhận đầy đủ và sớm. Như vậy là đường

liên lạc tương đối thông suốt phải không bố?

Hiện nay, sức khoẻ của con bình thường, vẫn gầy. Công việc

cũng khá bận, nhất là bây giờ đang thời kỳ chiến dịch. Con và Ngân

thỉnh thoảng vẫn gặp nhau, tình cảm ngày càng gắn bó. Chúng con

thông cảm với nhau và rất thương nhau. Trước đây Ngân đã viết

thư cho bố mẹ, gia đình đã nhận được chưa? Ngân đọc thư bố, thấy

bố hỏi thăm thì rất mừng. Ngân rất khao khát tình cảm gia đình.

Do đó, một lá thư ngắn của bố mẹ cũng là nguồn động viên lớn đối

với Ngân.

Hiện nay anh Hường vẫn chưa vào. Chiến dịch đang tiếp diễn.

Do đó chúng con chưa tổ chức được. Đành lui lại một thời gian, song

chưa biết là bao lâu.

Biết bố mẹ già yếu, con rất lo lắng bồn chồn, muốn ra thăm,

chăm sóc bố mẹ. Song con chưa có điều kiện đi vì có nhiều cái khó.

Cho nên bố mẹ hiểu cho con và tha thứ cho con vì sự xa cách này.

Con nghĩ cái gì cần đến rồi sẽ đến, song phải qua một quá trình vận

động. Không thể nôn nóng được, vì như thế sẽ dễ hỏng việc.

Con gửi lời thăm các em. à vừa qua con đã gặp Minh Đức - con

chú Dư - chuyện trò, biết rõ thêm tình hình ngoài ấy. Hiện nay Đức

596

ở trường Y, cách con 2 ngày đường. Con gửi lời thăm gia đình chú

Dư.

Mong thư bố mẹ

Con của gia đình

Việt Long

Từ 7 đến 10/8/1974

Những đồng chí ở tuyến trước lại gửi một loạt thư cho tôi.

Từ Quảng Đà, anh Hồ Điển, cán bộ Công đoàn Khu viết: "Tôi

xuống Quảng Đà gần 20 ngày nay, hôm nay xin gửi về các anh bài

"Nỗi kinh hoàng của bọn lấn chiếm ở quân đoàn I" (viết theo phản

ánh của cơ sở ta ở Đà Nẵng đã lượm lặt được).

Chỗ tôi là bộ phận phía trước của Liên hiệp Công đoàn Quảng

Đà. ở đây, thỉnh thoảng lại có "khách" từ Đà Nẵng ra. Mười ngày

nay, bị thua đau, địch kiểm soát gắt đường đi. Thành thử vắng

"khách".

Xin báo tin để các anh rõ:

- Tập ảnh (5 bộ) được các anh cung cấp và in giúp đã được phân

phối cho cán bộ ta đem ra các bàn đạp gần sát Đà Nẵng để các

"khách" từ nội thành ra xem. Anh em cán bộ ở Ban Công vận và

Ban Mặt trận - Thành phố của Quảng Đà rất hoan nghênh mấy tập

ảnh, cho rằng đấy là những tài liệu rất có giá trị đối với quần chúng

đô thị; tuyên truyền bằng hình ảnh có sức thuyết phục rất nhạy.

Các anh ấy chỉ tiếc một điều: hình ảnh miền Bắc quá ít (đồng

bào trong đó - đô thị - nhất là giới trí thức - rất mong mỏi được thấy

tận mắt một số hình ảnh miền Bắc XHCN).

- Phim chụp lại hình ảnh Bác và phim chụp lại hình ảnh Võ

Thị Thắng (do anh chụp) đã vào lọt Đà Nẵng rồi. Ta có một cơ sở bí

597

mật làm ảnh nghệ thuật ở trong đó. Cơ sở nhận được phim, lấy làm

mừng lắm và hứa sẽ in phóng thật đẹp để phát cho nhiều nơi.

Họ đã đưa tôi chụp lại 4 tấm ảnh 9x12 vừa gửi từ Đà Nẵng ra.

Hôm nay, tôi xin gửi về anh 4 tấm phim ấy. Nội dung của 4 phim

như sau:

1. Phim số 14-15: Tuổi thơ Đà Nẵng bơ vơ lạc lõng bên rào thép

gai của chế độ Thiệu.

2. Phim số 16-17: Trên bờ biển Đà Nẵng: Đây, những nạn nhân

được gọi là "Việt cộng" trong cuộc chiến tranh ghê tởm của đế quốc

Mỹ! (hai em bé cụt chân).

3. Hè phố Đà Nẵng không thiếu gì cảnh nức nở của những em

bé mất cha, mất mẹ vì cuộc chiến tranh của Mỹ - Thiệu, như em bé

trong ảnh này (Phim 18-19).

4. Phim 20-21: Đà Nẵng trong tủ kính và Đà Nẵng của những

em nhỏ lòng không dạ đói (Em bé đói bụng thèm thuồng đứng nhìn

những món ăn bày trong tủ kính của một hàng bánh mì gà, pa-tê,

chả).

Rất tiếc là xoay mãi mới có 1/2 cuộn phim và chỉ 1/2 mà thôi,

nên không thể chụp thêm những cảnh khác.

Đây là 4 tấm phim duy nhất, xin gửi cả về anh để xem có thể

phát ra Bắc được không? Dù được hay không cũng đề nghị anh và

các anh phóng hộ 4 tấm ảnh 9x12 để tôi báo cáo những hình ảnh

thật của Đà Nẵng với các anh lãnh đạo. Nhờ các anh giữ hộ phim.

Có một chiếc mấy ảnh trong tay, nhưng không phim, nên có

nhiều hình ảnh tốt muốn chụp để gửi về các anh sử dụng mà không

sao làm được. Quanh chỗ tôi ở, quân ta đánh dữ quá! Phim vùng

địch không ra được. Và cũng chưa được duyệt tiền mua. Tiếc quá!

Hôm trước, tôi ngỏ ý xin 1-2 cuộn phim với anh Hà, nhưng anh Hà

bảo hết. Có lẽ anh Hà chưa hiểu tôi xin phim làm gì, cực thế!

598

Nếu nhận được bài và phim, xin anh báo cho tôi biết ngay. Địa

chỉ: Hồ Điển đang công tác ở Công đoàn Quảng Đà. Mong thư anh,

xin gửi lời thăm anh và các anh chị em đồng nghiệp.

Hẹn gặp anh

Vẫn với giọng bỡn cợt, nhưng với suy nghĩ hết sức nghiêm túc,

Trần Hồng Cơ viết: "Thủ trưởng của ..."em"

Nhận thư thủ trưởng lâu rồi mà hôm nay mới thực sự ngồi viết

thư trả lời được. Đầu thư chân thành chúc thủ trưởng vui, khoẻ,

mau mau chung... võng với phu nhân N (mà nghe nói chi đoàn làm

cho thủ trưởng cái giường to lắm mà - nhưng giường to quá không

lợi đâu, giận nhau khó làm lành).

Đùa cho vui tí, bây giờ Cơ nói chuyện với anh Long nhé!

Đọc thư anh Long, Cơ vừa vui vừa buồn, cũng chả hiểu vì sao

nữa. Anh Long có nhã ý động viên Cơ ghê quá. Nhưng Cơ cần một

cái gì đó chứ những lời khen và động viên thì... nghe cũng vui tai

nhưng chẳng vui lòng được. Nhưng Cơ rất vui là qua những lời

khen ngợi, động viên ấy Cơ thấy quả thật anh Việt Long rất quan

tâm đến Cơ - một điều Cơ không ngờ tới. Cơ quí tấm lòng đó thôi

còn lời khen hay lời an ủi kia Cơ không thích lắm.

Anh Long có nói với Cơ về nghề nghiệp. Cơ cũng tưởng là Cơ

nói giữa cuộc họp vậy thôi chứ ai ngờ, có người lại nghĩ và nhớ lời

Cơ nói đến như vậy. Trừ bì đi cái phần "trách nhiệm thủ trưởng" thì

vẫn còn nguyên vẹn một tấm lòng rất thành thực. Cơ rất cảm động.

Cơ chẳng biết nói gì hơn. Cơ tin tưởng một cách chắc chắn rằng anh

Long rất hiểu Cơ.

Nói về tình yêu nghề nghiệp thì đó là chuyện cả đời người chứ

đâu phải chuyện một vài lời nói (dù rất thâm thuý). Không dễ gì có

được lòng yêu nghề thực sự đâu, chắc anh Long hiểu rõ hơn Cơ về

việc đó.

599

Nghề "ta" Cơ nói, là "hời hợt" là theo cách cảm nghĩ của Cơ.

Còn tác dụng khách quan của nó thì Cơ không phải không hiểu

đâu. Nhưng dù sao thì ý thức trách nhiệm vẫn là yếu tố tốt nhất có

thể đem thay thế cho tình yêu (tất nhiên tình yêu gắn với ý thức

trách nhiệm). Còn cái nghề xưa kia em yêu thì nó "xưa kia" lắm rồi,

em không nghĩ tới nữa đâu. Khi em nói ra ước mơ xưa kia của em có

nghĩa là em đã từ bỏ nó rồi. Ước mơ bao giờ cũng sống với nội tâm

thôi anh Long ạ (em nghĩ vậy). Anh cũng đừng lo gì về lòng yêu

nghề của Cơ cả. Cơ rất yên tâm nghề nghiệp và cố gắng làm tròn

trách nhiệm anh Long ạ.

Tình hình công tác của Cơ: Tin bài thì Cơ không nói gì vì ở nhà

nhận được cả rồi. Công tác cụ thể dưới này thì Cơ nói vắn tắt thôi.

Xuống Quảng Đà được một đêm (đêm 28/3) sáng hôm sau đi họp

Tuyên huấn 3 ngày rồi đi Điện bàn luôn (Đi Điện bàn hôm 2/4). Đợt

ấy đi 1 tháng. Dạo ấy Điện bàn chưa vui như bây giờ vì chả có ai

xuống cả và không khí còn "phát quang cày ủi" lắm. Trở về ở nhà

trực được 2 tuần Cơ lại tiếp tục đi Điện bàn 1 tháng nữa. Lần này

Cơ đi chủ yếu giúp Đán chụp ảnh chiến sự. Đi 2 lần 2 tháng trời ở

một mảnh đất ác liệt nóng bỏng như thế mà Cơ chả viết được gì cả

ngoài mấy mẩu chuyện con con, Cơ tức quá mà không biết làm sao

được. Cơ sống ở Điện bàn 2 tháng, đi rất nhiều, ghi đặc cả mấy cuốn

sổ, nghĩ rất nhiều, và cảm thấy biết được cũng kha khá, đặc biệt Cơ

rất xúc động. Đi xuống gặp dân, Cơ khóc luôn (nhiều người đi với Cơ

dạo ấy cũng thế thôi). Dân cực lắm và anh hùng lắm. Chúng ta

chưa nói được gì nhiều về dân lắm đâu, anh Long ạ (Cơ nghĩ vậy).

Thôi, chuyện đó hôm nào về Cơ sẽ nói chuyện. Đấy, thời gian đi 2

tháng đó Cơ lấy nhiều tài liệu mà không viết được gì cả. Chỉ vì Cơ

chưa biết viết thôi anh Long ạ (nói thiệt đó). Đến nay Cơ chỉ thấy

mang máng là viết tin và mẩu chuyện thế nào thì ra tin ra mẩu

chuyện. Còn bài (phóng sự, ghi nhanh, tường thuật gì đó) Cơ chưa

biết xoay xở thế nào cho nó ra bài cả.

Tất nhiên đó là điều rất bậy và cũng là sản phẩm của cách nghĩ

về cái nghề "hời hợt" mà ra thôi. Biết sao được, Cơ sẽ cố gắng học và

tập.

600

Lần này ở nhà trực gần 2 tháng, Cơ mới viết được mấy cái tin

(mà luộm thuộm quá đi mất). Hôm nay anh Quảng về rồi, Cơ lại

được đi. Cơ thích đi lắm, đi lâu bao nhiêu cũng được, đi đến đâu

cũng thích, không nghĩ gì đến chuyện hiểm nguy ác liệt đâu.

Lần này đi Cơ sẽ cố tập viết mấy cái bài xem cái sự viết lách

của mình ra làm sao.

Công tác đoàn thì chỉ được dự một buổi lễ kết nạp còn chả thấy

họ họp hành gì cả. Quan hệ với địa phương thì tốt thôi. Nhưng mà

cũng không phải "êm đẹp" hết. Cơ đã nổi tự ái mấy bữa rồi. Nói

năng, cư xử thì cũng hơi "tự do bừa bãi" chút ít. Nhưng mà không có

tội gì tày đình cả đâu, anh yên tâm. Còn tội nhỏ và vừa thì hôm nào

về họp Cơ sẽ "xưng tội" hết.

Không viết thư cho anh Cầm và các bạn ở nhà được. Anh Long

thông cảm hộ em nhé. Vả lại có gì mà phải viết. Công tác đoàn thì

cũng chả có gì để báo cáo.

Thôi anh Long nhé. Cơ dừng bút."

Dương Đức Quảng, tổ trưởng tổ phóng viên Quảng Đà, viết:

"Mình vừa đi công tác Điện bàn về. Chuyến đi vừa rồi của mình khá

vất vả và nguy hiểm nhưng công việc làm chưa được bao nhiêu.

Mình đi theo bộ đội và quyết tâm làm về nổi dậy nhưng cứ "đuổi"

theo sự kiện mãi mà chưa "bắt" được. Điện bàn vừa rồi hoạt động

tốt, có khí thế, nhưng địch phản ứng cũng rất quyết liệt, tập trung.

Mình đã sống những ngày vất vả, nguy hiểm nhất trong suốt tất cả

các đợt mình ra công tác Quảng Đà từ trước đến nay. Nhưng được

cái là rất vui.

Mình đi theo đơn vị chủ công của tỉnh đánh căn cứ tiểu đoàn và

một đại đội Bảo an địch đóng trái phép tại ngã 3 Trùm Giao.

Chuyến đi có nhiều kỷ niệm. Trước khi đánh, kế hoạch bị lộ, địch đề

phòng rất kỹ. Tối hôm tiếp cận có đồng chí lại vấp mìn địch do đó

địch càng đề phòng. Nhưng với quyết tâm cao, bộ đội vẫn vào sát

đồn bí mật, an toàn ngoài dự kiến. Nhưng cũng chính vì bảo đảm

tiếp cận thật bí mật nên vào đến vị trí nổ súng thì đã 4 giờ. Cuối

601

cùng phải tới 4h30 mới nổ súng được. Vừa nổ súng độ 3 phút pháo

địch đã bắn cấp tập vào điểm và chung quanh điểm. Ta làm chủ

được nhưng vì pháo dập quá (có thể nói như mưa mà không sợ

ngoa) nên sau phải rút. Lúc đó trời đã sáng rõ. Bọn mình được một

bữa chạy "tương đối" ngay dưới mắt bọn địch ở trên núi Cấm, núi

Bồ Bồ mà không ai sứt mẻ gì, chỉ riêng có Nguyễn Xuân Thâm (Văn

nghệ) bị mất khẩu súng K.59 thôi! Tối hôm nổ súng đó mình có

chụp độ 10,12 kiểu phim gì đó nhưng không biết kết quả ra sao?

Mình hy vọng được 1 hay 2 kiểu chụp đúng lúc đang nổ súng (vì

mình ở sát điểm - cách độ 100m), nhưng không hiểu kỹ thuật chụp

ảnh loại bét của mình có đáp ứng được hy vọng đó của mình hay

không? phim đó mình vẫn đang giữ mà không dám tráng lấy, sợ

hỏng.

Sau chuyến đi Trùm Giao, mình về các xã Điện thọ, Điện Hoà,

Điện An - sát đường Một. Tưởng rằng có thể "làm ăn" được, nhưng

kết quả cũng không làm được bao nhiêu. Ban ngày phải mặc hợp

pháp mà lại không được đi lại vì rất gần địch, ban đêm thì chịu

không thể chụp ảnh được. Hơn nữa mấy hôm mình xuống dưới đó là

mấy hôm Trung đoàn 54 nguỵ và 2 Tiểu đoàn Bảo An nó càn (giải

toả) khu vực mà mình đứng công tác hòng bao vây, tiêu diệt lực

lượng ta. Suốt ngày dội bom, pháo. Dân một số lớn bị bom pháo,

địch đánh quá nên chạy dạt ra Đà Nẵng và các xã khác, số còn lại

không bao nhiêu cũng chạy "xà quần" suốt ngày; còn dân ở thành

phố và khu đồn thì hầu như không về trong những ngày đó. Vì vậy

công việc của mình cũng không được thuận lợi. Thằng địch thì nó

quyết liệt đánh vào dân để dân không về, còn ta giành từng người

dân, thật giằng co, quyết liệt. Trước đó mấy ngày, hôm dân Điện

Thọ đấu tranh bức rút đồn sau đó phá đồn Dốc Ba Lê thì mình lại

đi theo mũi chủ công của tỉnh, không có mặt. Lúc mình có ở đấy thì

dân lại tạm thời dạt đi tránh pháo. Thật chụp được cái ảnh nổi dậy

quả là khó!"

Nguyễn Long Phi viết: " Tôi đã nhận được thư anh và tin, bài

anh gửi lại để rút kinh nghiệm. Qua thư biết cơ quan năm nay làm

việc khoẻ và vui tôi rất mừng. Nhân tiện đợt này, có người về K, tôi

giúp anh mua 1m80 vải may áo cưới, và gửi về.

602

Riêng tôi, thời gian tháng 8, 9 có đi vô Phù Cát, đi nhiều nhưng

làm được ít việc. Tôi thấy cũng buồn. Vả lại Vinh cứ ốm hoài và

nặng, mà tư tưởng nó cứ quanh co ở Vinh. Vinh càng bi quan với

sức khoẻ, tôi càng thấy ngại... Đi có 2 anh em, tôi không rời Vinh

lâu được. Gặp Vinh lại chạy mua thuốc men, mua đường sữa, ra,

vào trạm luôn mệt quá.

Sức khoẻ tôi vẫn không mạnh lắm. May mà nó không sốt rét,

nên còn đi lại được.

Về tình hình công tác:

Vinh những ngày đầu tháng 9 tuy có sốt song vẫn cố viết hoàn

chỉnh một số tin, bài về Phù Mỹ, còn ảnh không làm được.

Tôi trở lại Phù Cát, chống phản kích mạnh, tự mình, tôi thấy

cần phải xông xáo ở đó để lấy tin tức. Lần này đi một mình, có buồn

hơn các lần đi trước, song tôi vẫn bám được với bộ đội và địa phương

mà làm việc. Có điều bom, đạn liên tục, dữ dội vả lại những ngày

này riêng cán bộ, du kích địa phương ở 2 xã Cát Minh, Cát Tài bị

tổn thất bất ngờ quá, chỉ một đêm mất 5, 6 đồng chí liền, trong khi

đó, dân chạy không còn một người. Đi đến các tiểu đoàn, anh em bộ

đội đánh phản kích tốt, tuy vậy công tác tư tưởng cũng có phần kém

hơn những ngày đầu chiến dịch.

Tự kiểm điểm, tôi thấy chỉ viết được tin thôi.

Thôi, chuyện báo cáo tạm thời vậy, các anh góp ý cho."

Nguyễn Xuân Quyết viết: "Đợt vừa qua tôi đi hai điểm ở phía

trước để cố làm cho được ảnh nổi dậy mà vẫn không được. Nay theo

ý kiến anh Thành (Thường vụ Quảng Nam) đứng cánh ở đây, tôi lại

mấy xã vùng Trung (tức phía dưới đường 105, sâu trong vùng địch)

để may ra có thể kiếm được mấy miếng phim nổi dậy.

Về công tác, ở dưới này có nhiều khó khăn, nhiều địa phương

ngại ác liệt và thiếu công sự nên không dám nhận anh em phóng

viên xuống công tác, họ viện đủ lý do và kiên quyết từ chối. Mấy

603

anh quay phim xuống đây cũng đang nằm dài. Mặt khác càng đi ra

phía trước thì càng không mua ra gạo ăn. Muốn có gạo phải về tận

Sơn - Long mới lấy được thành ra căng lắm, trong lúc đó đi phía

trước và vượt đường đòi hỏi trang bị gọn nhẹ và không phải lúc nào

cũng an toàn.

Vừa qua lấy được một số tài liệu tôi cũng đang cố gắng viết để

kịp gửi về. Tôi gửi kèm đây hai bài, bài Bức chốt ghi lại xã Phú

Hương, sự việc xảy ra xong rồi tôi mới được biết thành ra chỉ khai

thác ở những người có tham gia đó thôi còn ảnh không chụp được vì

hôm tôi xuống họ không cho ở như đã nói ở trên. Bài Em bé dũng

cảm thì lấy tài liệu ở xã Phú Thọ, do một số cơ sở ta và một số cán

bộ địa phương kể lại, các chi tiết hoàn toàn đúng sự thật (bọn địch

cũng thừa nhận là em này gan, các anh xem và chữa giúp)"

Trong các địa bàn công tác, Phú Yên là nơi xa xôi và gian khổ

nhất. Từ Phú yên, Nguyễn Hưng Thạnh viết: "Tôi đi xuống huyện

Tuy Hoà 1 về được 1 tuần nay. Tôi đi từ 13/6, đáng lẽ đầu tháng

7/1974 về nhưng bị kẹt đường liên tiếp 2 lần không về được, thành

ra đi suốt 1 tháng 20 ngày. Từ khi vào đây đến nay tôi vẫn khoẻ,

không đau ốm gì.

Về phần công tác, có một số vấn đề phải trao đổi với các anh ở

Ban Tuyên huấn tỉnh để làm việc được. Thường sang văn phòng

tỉnh thì các anh ấy bảo tài liệu đã tổng kết gửi sang Tuyên huấn.

Về TH thì có khi có, có khi tìm không ra. Mà các anh ở Ban cũng

làm tin dựa vào tài liệu đó để gửi về K.

Đi sang các cơ quan quanh tỉnh cũng có ít tài liệu thôi, do đó

công việc đưa tin, bài nói chung là không làm được bao nhiêu.

Một nhận xét của tôi là các anh ở đây muốn mình đi địa bàn

nhiều.

Tất nhiên đi các huyện, xã nhiều là mong ước của tôi. Song

nghĩ đến nhiệm vụ của mình, nếu đi nhiều thì mất tin ở tỉnh, lại

không sao quét hết các nơi. Tôi sẽ cố gắng giải quyết tốt bằng cách

604

đi tranh thủ chừng 10-15 ngày thì về, khi ở tỉnh đi qua văn phòng,

các cơ quan xung quanh tỉnh... như vậy sẽ tốt hơn.

Quan hệ với các anh chị em ở trong cơ quan bình thường, không

có gì đáng ngại. Tôi làm như phương hướng của Ban ta: góp phần

sản xuất, cõng gạo, cải thiện đời sống cơ quan... việc gì làm được là

tôi làm, do đó không có sự cách biệt gì cả. Mong là các anh yên tâm.

Các anh thân mến, nghe tin anh em ta ở các nơi làm ăn khá, tôi

nóng ruột lắm. Kể ra một mình ở trong này cũng buồn, song cũng cố

làm việc trong khả năng và điều kiện mình có thôi.

Cuối cùng chúc tất cả anh em vui, khoẻ, công tác tốt nhất."

Việc phối hợp với Ban Hiệp định để làm tin tiến triển tốt. Bản

tin của chúng tôi cung cấp cho các cơ quan quanh Khu đã trở thành

món ăn tinh thần không thể thiếu. Anh hào Hiệp ở Ban Hiệp định

viết: " Từ 2/8 đến nay chúng tôi (Hiệp định) chưa nhận được Bản tin

hàng ngày của TTXGF, chưa rõ lý do nào mà gián đoạn, bản tin ấy,

chúng tôi rất cần, ghi lại những tư liệu trong đó để phục vụ cho

nhiệm vụ lâu dài của Liên hiệp Quân sự 2 bên.

Đề nghị anh kiểm tra lại và cho gửi sang chúng tôi thật đều

đặn, coi như công văn "có phong bì, có địa chỉ" để tránh thất lạc.

Hết sức mong các anh lưu ý cho.

- Tội ác mới của E4 ở Quảng ngãi

+ Phá chùa xã Bình Thanh - Đông Sơn.

15h00 ngày 27/7/1974 E4 cho HU1A bắn 50 rốc két và hơn

ngàn đạn 20ly và đại liên xuống chùa.

Sáng 28/7 các trận địa pháo Bạc Hà, Bình Liễn và quận lỵ Sơn

Tịnh bắn gần 1000 quả vào chùa, sau đó C2, D2/4 xông vào đập

phá, cướp... Chúng đã phá huỷ 5 ngôi chùa, 1 mả tổ, toàn bộ tượng

Phật, bàn thờ, đốt hết kinh phật, bắn chết 6 bò, phá hoại vườn chùa

hơn 1 mẫu tây, hàng ngàn cây ăn quả, đánh bà sư chết ngất, cướp

605

100.000 đồng tiền mặt của nhà sư, của chùa, cướp phá các tài sản

khác trị giá trên 8 triệu đồng.

+ 2 ngày 27, 28/7/1974 D1/4 còn phá thôn Nhơn Hoà(xã Bình

Tân), đốt 6 nóc nhà, đánh sập 100 hầm trú ẩn, giết chết 6 người

dân, bắn bị thương 6 người, cướp phá nhiều tài sản khác trị giá trên

500.000 đồng.

Đề nghị kết hợp tố cáo tội ác của bọn nguỵ quân trên đài."

THƯ GIA ĐÌNH

Hà Nội, ngày 11 tháng 8 năm 1974

Hai con yêu quý !

Mẹ gửi quà cho hai con qua anh Hường vào chắc đến 15 này là

2 con đã nhận được rồi, nếu không trắc trở gì.

Nếu con nhận đủ viết thư ngay cho bố mẹ yên tâm. Việc học

của mấy em con, em Lan đỗ lớp 7 và được lên thẳng lớp 8 không

phải thi lên, còn em Diệp thì cũng đạt được điểm vào đại học rồi,

như thế là mẹ cũng khỏi phải lo nữa, mẹ chỉ sợ 2 đứa không đỗ thì

khổ. Vừa rồi có anh Lưu - cán bộ Phòng Tổ chức VNTTX - đến Bộ và

có báo cho bố biết là đoàn xe anh Hường vào, khi nào xe ra thì Việt

Long sẽ ra, chả biết anh ấy nói có đúng không mà làm cả nhà mừng

quá. Còn mẹ sang anh Sâm chơi có nói chuyện, muốn xin cho 2 con

ra thăm nhà ít bữa thì anh Sâm có nói là anh đã nói với các anh ấy

vào sẽ sắp xếp cho cả Ngân và con ra với điều kiện là nếu cưới rồi,

mẹ chắc lần này anh Hường vào thì 2 con tổ chức chứ gì. Kỳ vừa rồi

mẹ định gửi anh Hường thêm tiền vào để con xem có mua được đài

Nhật, mua cho mẹ một cái vì cái đài pin ngoài này bị hỏng rồi

nhưng mẹ chả biết cụ thể ra sao đành thôi, con xem nếu ra được thì

thôi mà nếu không có ai ra thì viết thư cụ thể cho mẹ biết và gửi

tiền ai chắc chắn, cần bao nhiêu thì cho mẹ biết nhé. Kể cả len tốt

nếu không đắt lắm thì mẹ cũng muốn mua, đan một cái áo dài tay,

len ngoài này xấu mà đắt lắm.

606

Còn quần đen con cứ tưởng tượng hồi con ở đây, con có tiền con

còn mua cho mẹ được cái quần lụa chứ bây giờ thì không thể có

được. Nhưng nói thế thôi chứ điều kiện đâu ra mà con mua tất cả

những thứ mẹ cần được.

Bố, mẹ các em vẫn khoẻ, anh Đức định cuối năm nay cưới

nhưng chưa biết có được không.

Chúc 2 con vui khoẻ, công tác tốt, hạnh phúc tốt.

Cả nhà mong gặp 2 con ngày gần đây.

Mẹ

Hạnh

Ngày 17/ 8/1974

Được tin ta đánh thắng trận Thượng Đức vào 5 giờ sáng ngày 7

tháng 8. Đây là Chi khu quân sự đồng thời là quận lỵ nằm trên

thôn Hà Tân cách Đà Nẵng 45 Km, là vị trí xung yếu của địch.

Trong đêm đầu, ta chỉ bóc được lớp vỏ bên ngoài. Sau đó, suốt 8

ngày đêm, ta dùng chiến thuật bao vây đánh lấn mới giải phóng

được hoàn toàn khu vực này, bắt sống trên 300 tên địch, giải phóng

20.000 dân.

Ngày 18-21/8/1974

Các tổ phóng viên Bình Định, Quảng Đà, Quảng Nam đều viết

thư cho tôi.

Bình Định vẫn là mảnh đất sôi động nhất và hoạt động nghiệp

vụ ở đây có điều kiện phát triển tốt nhất. Tổ Bình Định có ý thức

phấn đấu tốt, trong đó thể hiện rõ tinh thần phấn đấu trở thành

đảng viên của Đảng Nhân dân cách mạng.

Nguyễn Thành Vinh viết: "Tình hình Bình Định chắc anh đã

biết, rất sôi động, nhất là sự nổi dậy của quần chúng. Phi đã đi

607

Nam Phù Cát. Anh Huề cũng đi phía trước. Hoà mới về trực. Em

lên tỉnh làm phim. Vừa qua em đi Phù Mỹ có nhiều chuyện hay.

Em đã làm được một số phim nổi dậy đợt 2 này và đã gửi về .

Như thư anh nói về tin bài của em, em phấn khởi quá, càng

động viên cho em lao vào công tác. Thời gian qua ở Phù Mỹ em cũng

gắng làm hết sức anh ạ, nhiều lúc kể ra cũng khá nguy hiểm nhưng

nghĩ về nghề nghiệp, trách nhiệm nên em chẳng quản. Về công tác

ở xã Mỹ Lợi, em cũng hút chết mấy lần. Các anh ở xã Mỹ lợi hỏi

thăm anh nhiều. Anh Nhu thường vụ P gửi lời thăm anh và kể

chuyện hồi năm anh về đó. Đầm Trà năm nay nhiều cá chép vô kể,

đó là thực phẩm chính của bọn em. Đường sá năm nay căng nhiều

vì bị đánh các nơi, địch tập trung xung quanh trục đường Một. Em

phải đi luôn nên cũng chờn.

Anh Việt Long - chuyện kế hoạch tháng 8 hoãn thì anh đã có ý

định đến bao giờ chưa. Em hỏi Năm (Điện ảnh đi Bình Định) thì

nghe nói anh gầy đi nhiều vì công tác quá bề bộn. Về phần em dạo

này bị ốm đau luôn nên gầy và đen nhiều. Có thể anh không nhận

ra khi gặp lại. Song trước tình hình cách mạng biến chuyển từng

giây, từng phút em cũng quên hết ốm đau. Hơn nữa thư nhà gửi

vào báo mọi sự tốt lành là một nguồn động viên lớn đối với em. Giờ

em chỉ lo công tác, phấn đấu để đứng trong hàng ngũ tin cậy của

Đảng. Gặp được anh cũng là điều vô cùng thuận lợi đối với em, có gì

nhờ anh tận tình chỉ bảo em như người em của anh vậy.

Em mong anh khoẻ."

Cao Tân Hòa viết: "Em đã nhận đượcthư, tin bài của anh gửi

cho tổ Bình Định và đã gửi xuống huyện cho Phi, Vinh cùng rút

kinh nghiệm. Em mới được nghe anh Chi ở tiểu ban tuyên truyền

xuống kể chuyện ở nhà và lại mới nhận điện động viên của phân xã,

em rất phấn khởi.

Đọc thư anh em rất cảm động, em biết anh bận rộn nhiều vì

công việc nhưng vẫn quan tâm săn sóc từng phóng viên ở các địa

phương. Anh gầy lắm à anh Long, anh còn đau nhiều không? Em

không thể hình dung ra anh nếu như anh gầy đi nữa. Nghe anh Chi

608

tả lại anh em rất thương và lo cho anh. Anh sống bằng sức mạnh

tinh thần sao? Dù thế nào anh cũng cố gắng tu bổ cho lại sức anh

nhé (anh cứ không chịu khoẻ lên thì em Ngân của anh đến chuyển

nghề mất).

Những ngày cuối tháng 6+7 ở dưới Hoài Nhơn em bị đau đầu

liên tục nên gầy tong, thật hổ mặt người nuôi, anh ạ; mấy hôm nay

về tỉnh em khoẻ dần, có lẽ vì năm nay tuổi hổ nên em phải về rừng

mới hợp. Anh Quảng thì lại ngược với em, cũng đúng luật bù trừ

thôi, anh L nhỉ. Em về trực tin ở tỉnh để anh Huề đi Phù Cát, Phù

Mỹ. Hiện nay anh Huề và Phi đang ở Phù Cát. Vinh cũng mới về

Ban 3 hôm nay để làm ảnh. Vinh cũng mới bị sốt rét dậy, nay khoẻ

rồi, anh Huề bình thường, Phi suýt chết ở Cát Nhơn. Hôm ấy P đi

cùng 5 người đến một đám tre có mấy lùm rơm ở Cát Nhơn thì máy

bay đến bắn phá, rơm cháy, 5 người bị thương nặng còn Phi thì bị

một bữa hú vía.

Bình Định đang họp sơ kết chiến dịch Hè thu nhưng em không

được dự, cũng tiếc. Trước đó em đã nhận lời mời đi dự hội nghị này

nhưng sáng hôm khai mạc khu vực họp bị bắn phá và thành phần

dự phải thu hẹp. ở các vùng mới mở ra địch đang phản kích tuy

chưa mạnh nhưng việc đi lại làm việc khó khăn hơn hồi trước.

Riêng Hoài Nhơn đồng bào vẫn giữ khí thế đấu tranh, giá như em

còn ở đây đến bây giờ thì hay quá. Trận càn ở Hoài Hương khá lớn

nhưng khai thác tài liệu qua báo cáo làm tin tố cáo bị hạn chế. Tin

tố cáo bọn địch giết đồng bào ở Tuy Phước sáng nay điện về, em rất

áy náy vì không biết được tên của em bé bị giết đó. Em đã nhờ văn

phòng điện hỏi nhưng không kết quả, em cũng gửi về để các anh

nghiên cứu thêm.

Hồi tháng 6, đi Đông đường Hoài Nhơn em viết một số bài đến

khi về tỉnh chỉ nhận 1 tin; tin bài của Phi cũng bị thất lạc một số.

Em mong anh mau khoẻ. Anh nói Ngân, em gửi lời hỏi thăm,

em vẫn nhớ Ngân, nhớ hết cả anh em phân xã."

Hồ Phước Huề viết: " Xa Long và Ngân 4 tháng rồi, nhớ Long,

Ngân và các bạn ở nhà quá.

609

Ở nhà thì thấy thường thường thế mà xa nhau ít bữa là đã thấy

nhớ kinh khủng Long ạ. Bởi vì cái "gia đình lớn" đó đã gắn bó cuộc

đời ta trong những năm tháng chiến đấu ở chiến trường này. Nhiều

lúc mong nhận được một lá thư của anh em phân xã, nhìn nét chữ

quen thuộc là gợi nhớ trong ta bao kỷ niệm đã qua, lưu luyến nhớ

thương. Mặc dầu bức thư chỉ là vài lời thăm hỏi bình thường, mong

và cầu chúc cho nhau mọi sự bình an.

Có lẽ mình cũng thuộc phái "tình cảm mạnh hơn lý trí".

Đọc thư Long thấy các anh ốm, sức khoẻ giảm sút, H thấy lo

quá. Một ông tướng đã gần 2 năm nay "khinh sốt" lại bị quật ngã,

coi chừng đấy không lại bị quật liên tiếp thì gay. Long đã gầy mà bị

cơn sốt, mất bao nhiêu hồng huyết cầu thì không làm được việc đâu

và "việc cưới xin" cũng phải "hoãn" lại thôi. Không được "sốt ruột"

Long ạ.

Ngân cũng vậy nhưng nếu Ngân gầy đi lại "hoá xinh" hơn, thon

thon hơn chứ không là "mình bé nhỏ của tôi ơi" như Long hay đùa.

Nói đùa cho vui vậy, H mong Long và Ngân cần giữ gìn sức khoẻ tốt

hơn, bây giờ là "Hai anh chị" phải bồi dưỡng vào. Có bao nhiêu

đường sữa, thuốc bổ là phải chén bằng hết, uống bằng hết. Vừa rồi

Long gửi thuốc cho mình làm gì. ở đồng bằng ăn một con cá biển

tươi là đủ chất rồi. Sữa đường cứ đem bồi dưỡng đi, không để dành

gì ráo. ở đây hàng hoá tuy có đắt hơn trước nhưng đủ thứ, không

thiếu đâu. Chỉ khát khao 2 chữ "Miền Bắc" lấy hơi vậy thôi.

Nếu có gì tiêu chuẩn Long cứ tự ý sử dụng, đừng ngại gì hết.

Long nhắc Ngân giữ gìn sức khoẻ cho tốt nhé, đừng phí sức. Long

bảo là mình cũng nhắc thế.

Long, Ngân thân yêu! Công việc của 2 bạn đủ điều kiện thì cứ

tiến hành. Chắc H khó về được, Long, Ngân thông cảm nhé! "Cách

mạng Miền Nam" mà .

Nếu H biết được trước ngày đó thì dưới này tổ Bình Định cũng

mở tiệc liên hoan đúng ngày vui của 2 bạn. H dự định thế. Tổ Bình

610

Định gửi điện chúc mừng niềm vui của 2 anh chị. H mong buổi liên

hoan phải thật vui vì đây là "đám cưới đầu tiên" của Thông tấn xã

Giải phóng Trung trung bộ mà lỵ. H tin chắc anh em ở nhà sẽ bày

ra nhiều sáng kiến hay, vui, dí dỏm. Nếu có thể H lại vác cái "máy

thâu băng" ni vi cô au to stop đến phỏng vấn 2 anh chị rồi phát ra

loa cho buổi liên hoan được bữa cười thoải mái.

Long thân yêu! Hôm nay H vừa nhận được điện Phân xã báo

tin Thùy đã về đến nhà, khoẻ và nhận được 2 thư anh Quả, 1 thư

của Trinh báo ở Quảng Ngãi. H yên tâm lắm.

Nói thật với Long lúc đầu H cũng áy náy, nóng ruột lắm, làm

việc cứ bồn chồn. Nhưng H đã đấu tranh với bản thân mình trong

điều kiện thực tế của chiến trường. H hiểu rằng không thể rời vị trí

chiến đấu của mình được. Cái "hoàn cảnh chiến trường" và cái

"không gian ngăn cách" nhiều lúc tai ác đối với lòng người vậy đấy,

có phải không Long. Một cách "đổ lỗi" cho khách quan. Nếu chúng

ta hiểu nhau nhiều thì làm gì lại dám trách cái hoàn cảnh như vậy.

Long ơi! Trong thời gian Thuỳ bị thương, T không hề cho H hay

một tin gì cả. Từ hôm xa nhau đến giờ T viết cho H một lá thư trước

lúc đi cánh Bắc mà viết trong điều kiện "bắt buộc". H hơi "tự ái"

nhưng thấy T bị nạn thương quá viết thư động viên liên tục, có đến

6,7 lá gì đó. Thế mà lúc lành ra viện, về Phân xã. H cũng biết qua

thư của anh Quả, Trinh, và điện ở nhà. H buồn quá

Nghe tin T đã khoẻ nhưng cũng buồn và thắc mắc không nhận

được thư T. Về nhà có anh, có em vui rồi, H sẽ không viết thư cho T

nữa đâu chừng nào chưa nhận được thư T. T về nhà cũng vui nhưng

cũng suy nghĩ nhiều về công tác chưa làm được gì đã bị thương, rồi

về nhà công việc quanh quẩn nếu Long không giao việc cho T mà cứ

để nhàn như hồi trước bên kia sông thì T buồn đấy. Long động viên

T nhé. Động viên cô "cháu gái" hay mách "ông" ấy là động viên H

đấy. Cô bé ấy có nhiều tình cảm, hay xúc động lắm nên coi chừng

nước mắt chảy quanh mỗi khi buồn đến. Cho T làm việc nhiều

nhiều vào bù lại thời gian Long ạ. H mong thế.

Bình Định đang chuẩn bị đợt "làm ăn" mùa thu. H và tổ đã rút

kinh nghiệm đợt qua, phấn đấu đợt này làm ăn khấm khá hơn.

611

Vinh, Phi đi Phù Mỹ. H trực ở nhà khoảng cuối tháng 8 nữa mới đổi

địa bàn được. Hoà, Vinh, Phi thỉnh thoảng có sốt rét cơn nhưng

không ảnh hưởng công tác mấy. H sức khoẻ thường lại đi đồng bằng

là "cơn sốt " chạy đâu mất từ hôm Tết đến giờ. Còn Hoà, Vinh, Phi

do chưa quen khí hậu đồng bằng thôi, thay đổi môi trường sống mà.

Hẹn ngày gặp nhau tâm sự nhiều

Thân yêu."

Dương Đức Quảng viết: " Công việc của bọn mình ở ngoài này

vẫn bình thường. Tuy có khó khăn về địch nhưng tất cả đều phấn

khởi và đã triển khai được công tác hết. Mình về được ít bữa, sau

khi trao đổi với Cơ công việc xong và Cơ đã viết hết những tài liệu

có trong thời gian qua, ngày 16/8 vừa rồi Cơ đã đi công tác vùng B -

Đại Lộc. Mình đã viết thư lại cho Đán (Cơ mang theo) trao đổi với

Đán về công việc của bọn mình ở dưới này và đề nghị Đán tiếp tục ở

trên đó hết tháng 9, cùng Cơ chụp ảnh, viết tin bài về tiến công

quân sự, chương trình binh vận ở vùng Đại Lộc - nhất là chụp ảnh

nổi dậy trên đó. Từ bữa Đán lên trên đó mình đã viết thư lên luôn

nhưng chưa nhận được tin tức gì của Đán cả. Mình sốt ruột, không

hiểu có làm ăn được gì trên đó không (nhất là ở Thượng Đức). Còn

Thụ thì vừa về nhà được một tuần nay. Chuyến đi của Thụ vừa qua

vất vả lắm, gặp địch luôn. Anh ta về cười hì hì: "Cứ ngỡ là ở Kông

Tum; may quá, tý nữa mang cả ba lô xuống đó thì thật gay, không

chạy nổi!" Thụ chưa chụp được một cái ảnh nào. Mình trao đổi với

Thụ là cứ chụp ảnh các mặt (kể cả chiến đấu, sản xuất, xây dựng

vùng ta...) không nhất thiết là chỉ chụp về nổi dậy (mà ngay trong

nổi dậy cũng chỉ chờ chụp quần chúng với dao, mác, gậy gộc đi phá

các hình thức kìm kẹp của địch như một số anh em mình, ngay cả

mình lúc đầu quan niệm thôi, cũng khó có được ảnh). Thụ nhất trí

và cũng thấy tiếc là chuyến đi vừa rồi vất vả quá mà chưa làm được

gì. Mình có trao đổi với Thụ đề nghị Thụ viết tin bài và Thụ đã viết

1 bài, 1 mẩu chuyện điện về rồi, mình xem thấy viết tốt. Có gì Long

trao đổi và động viên thêm để Thụ có thể viết tốt hơn.

Sau khi đã làm xong việc ở nhà, hôm qua Thụ đã lại lên đường

ra ngoài khu Tây Duy Xuyên.

612

Còn mình, hiện ở nhà trực và viết về những gì đã suy nghĩ và

khai thác trong chuyến đi vừa qua. Mình định hôm nào tranh thủ

về kết hợp một lúc giải quyết một số việc cần thiết khác và nhất là

nếu được, ta họp chi bộ rồi tổ chức kết nạp luôn cho Trinh và Cầm.

Thời gian ra sao thì Long bố trí rồi điện cho mình biết để về.

Bây giờ mình nói qua tình hình địa phương và trao đổi vài việc

liên quan đến tuyên truyền cho Quảng Đà.

Tình hình địch thì Long biết rồi, chúng tăng đột ngột cả quân

bộ lẫn phi pháo. Từ tháng 7 đến nay nó đã điều thêm quân về

Quảng Đà 2 lữ dù, 1 liên đoàn biệt động, 2 trung đoàn bộ binh và

khoảng gần 100 khẩu pháo từ 105 đến 175 ly. Hiện nay nó đang cố

đánh lấy lại những vùng đã mất, đổ quân chủ lực quét dọc núi từ

Hoà Vang qua Đại Lộc tới Duy Xuyên. Chỗ mình ở một tuần nay bị

địch uy hiếp liên tục, ngày, đêm nào cũng có pháo, bom, còn bộ binh

chúng thì ở quả đồi trước mặt. Dưới đồng bằng Điện Bàn thì địch

đánh phá quyết liệt, một số xã du kích cũng tạm thời bật lên núi. ở

tỉnh đang tiếp tục động viên khí thế quần chúng, cán bộ để tiến lên

giành và giữ thắng lợi. Trong cái chung và cái riêng ấy nên hiện

nay tình hình rất phức tạp, do đó có ảnh hưởng tới công việc chung

của anh em mình trong Khu ra đây, khó có thể thực hiện được đúng

ý định từ ở nhà.

Đài, điện ảnh và ngay cả anh em mình nữa cũng đang xà quần

ngoài này, chưa dễ chi làm được đâu.

Còn mình có theo dõi tin trên đài đưa về Quảng Đà thì thấy tin

chiến sự nhiều khi đưa không đúng, và không thống nhất, ví dụ

như có tin nói là Quảng Đà đánh sập Cầu Giáng (mình xem trên

báo ND và QĐND cũng thấy đăng như vậy) thì thật là lạ, vì ở

Giáng La không có chiếc cầu nào, ngoài chiếc cầu... tre bắc qua một

khe nước rất cạn mà mình đã được đi qua. Hay là những trận đánh

xung quanh An Hoà, Đức Dục, Thượng Đức v.v... lúc thì nói là của

Quảng Nam, lúc thì nói là của Quảng Đà.

Thôi, mình sơ qua tình hình cho Long biết. Mình chúc Long và

anh em mạnh khoẻ.

613

Quảng.

TB: Tình hình có khó khăn như vậy nhưng anh em vẫn khoẻ,

phấn khởi, lại được các anh ở Tỉnh uỷ, ở Ban Tuyên huấn quan

tâm, tạo mọi điều kiện để làm việc nên cũng thuận lợi và vì thế công

tác chung vẫn tốt, ở nhà cứ yên tâm (viết vội, ngoáy, thông cảm

Long nhé!)."

Trần Hồng Cơ viết: " Thư của anh em đã nhận được rồi. Định

viết thư cho anh thật dài nhưng lại lắm "đột xuất" quá nên hẹn anh

thư sau em sẽ nói nhiều.

Quảng Đà hiện nay chỉ còn mỗi mình em ở nhà trực thôi. Gọi là

hậu cứ nhưng căng thẳng lắm. Bom pháo suốt, không yên tĩnh gì

cho lắm. Hôm nay ban Tuyên huấn (cùng Thường vụ) chuyển chỗ ở,

để "trốn pháo bom". Chuyển nhà, đồ đạc mấy hôm nay mệt quá.

Điện báo Quảng Đà bị kẹt. Cường bị thương đi viện. Dũng thì

đi tiền phương. Hiện nay chưa có ai làm việc cả. Nóng ruột lắm. Em

gửi các tin về cho anh (vớt vát). Anh Chu có đến chỗ em nhưng em

đi vắng không gặp được. Anh ấy ở F bộ, tiếng là "tiền phương"

nhưng lại ở phía sau em đó (cũng vui).

Thôi anh nhé. Mai 4 giờ em lại phải mang đồ đạc đến chỗ ở mới

rồi (đi 3 tiếng - 2 dốc). Em xin dừng bút chúc anh khoẻ. Em gửi kèm

thư anh Chu gửi anh.

Cơ.

TB: Anh Thụ đi tây Duy Xuyên rồi (nổi dậy ghê lắm). Anh

Quảng đi Điện Bàn, còn Đán em không rõ đi đâu, em phải ở "tù"

cho hết chiến dịch".

Ngày 22/8/1974 (5/7 giáp dần)

Bước vào bước ngoặt nữa của cuộc đời: cưới vợ.

Rối tinh rối mù, chạy lung tung mà chẳng làm được việc gì cả.

Anh em thật nhiệt tình, làm giúp hết. Cầm lo vật chất, lo bù cả

614

đầu, thật tội. Đoàn Nguyên vẽ thiếp và trang trí phòng cưới. Các cô

gái trong Tiểu ban làm hoa giấy. Chỉ gần 2 ngày, mọi việc đã đâu

vào đấy.

Gần đến giờ hẹn đón dâu về, tôi cứ lúng túng mãi. Thông tấn

xã sẽ có một đoàn đi đón dâu -tất nhiên rồi, họ nhà trai mà. Nhưng

tôi? Hoàng Chu thì bảo phải đi đón. Thanh Tụng lại bảo rằng theo

phong tục thì không. Dùng dằng một lúc rồi đi... cho vui.

Xẩm tối, gặp nhau giữa đường. Thanh Tụng chụp ảnh, còn

Nguyễn Soạn thì xách máy ghi âm theo, làm phóng viên "nhà đài".

Tối nay, trời thanh tao. Sông Trà Nô khẽ rì rào đổ nước về xuôi.

Phòng cưới lớn, ngập tràn ánh điện. Trang trí không sặc sỡ, song

đẹp, nổi. Nổi bật trên tấm phông nhung màu huyết dụ là hình cắt

bình hoa lớn, có những bông sen toả ra, bên cạnh có một dòng nhạc

và một dòng chữ: "Chúc mừng hạnh phúc". Vậy thôi, không phô

trương, công thức. Người đông quá, tràn ra cả ngoài phòng - phải kê

thêm nhiều ghế. Các cô trong Tiểu ban Thông tấn xã hát tốp ca bài

Cây trúc xinh đẫ được đổi lời nói về mối tình của chúng tôi. Bạn bè

thay nhau hát, hô bài chòi... Buổi lễ kéo dài khoảng 45 phút, vui

náo nhiệt.

Anh em đã làm cho 2 đứa một ngôi nhà xinh xinh bên gốc cây

muồng có hoa vàng. Tình bè bạn thật bao la, sâu nặng.

Ngày 24/8 - 3/9/1974

Anh Ba, Bí thư Tỉnh ủy Bình Định, đã chuyển về Khu làm

Trưởng Ban An Ninh, với tên mới là Tám Lý. Không đến dự đám

cưới của chúng tôi, nhưng với tính chu đáo, anh viết thư cho chúng

tôi:" Rất tiếc là tôi nhận được thiếp mời dự lễ thành hôn của 2 đồng

chí quá muộn (lúc 7 giờ tối ngày 22/8 mới nhận được), vì vậy không

có cách nào đi kịp được nữa, mong 2 đồng chí thông cảm cho.

Hôm nay, viết thư này cho 2 đồng chí để tỏ sự vui mừng của tôi

về hạnh phúc của các đồng chí, chúc 2 đồng chí dồi dào sức khoẻ,

615

tận hưởng hạnh phúc, tiếp tục chiến đấu, công tác hăng say, việc

chung việc riêng đều trọn vẹn...

Nhân dịp vui mừng này, tôi gửi tặng 2 đồng chí 2 đoá hoa để

làm kỷ niệm. Ngoài ra, không biết tặng gì khác.

Hôm nào rảnh, tôi sẽ đến trực tiếp thăm 2 đồng chí, hoặc 2

đồng chí có dịp thì đến nhà tôi thăm chơi càng tốt. Đừng ngại đến

An ninh gì cả nhé.

Một lần nữa, chúc 2 đồng chí hạnh phúc

Thân"

Bình Định, Quảng Ngãi cũng có thư cho tôi. Riêng Quảng Ngãi,

không phải là thư của phóng viên mà là của anh Hồng Nhân, phụ

trách ban Tuyên Huấn tỉnh: "Nhân có anh Hữu Quả về K, tôi tranh

thủ viết thư này trước hết kính thăm anh và tất cả anh chị em

trong cơ quan Thông tấn K. Kính chúc anh và anh chị em luôn luôn

dồi dào sức khoẻ. Qua anh, cho tôi và anh em Quảng Ngãi gửi lời

thăm sức khoẻ Hoàng Chu, Tuyết Trinh, Triệu Thuỳ, Quốc Oai...

Quảng Ngãi mãi nhớ những đồng chí đã có những ngày tháng lăn

lộn cùng công tác chiến đấu, cùng hoà xương máu với mình. Sức

khoẻ của các đồng chí ấy, nhất là đồng chí Thuỳ, hiện nay ra sao

anh?

Anh Việt Long kính,

Vừa qua, các đồng chí Thông tấn K về Quảng Ngãi công tác nói

chung là tốt, nhiệt tình, xông xáo vào các trọng điểm, giúp đỡ địa

phương được nhiều. Riêng anh Quả, ngoài hiệu xuất công tác cao,

còn có quan hệ tốt với cơ quan, giúp đỡ Đoàn văn công tốt. Mới đây,

anh Quả có theo chủ lực vào tận chiến trường Minh Long lấy được

nhiều hình ảnh tấn công và nổi dậy.

Để phát huy chiến thắng, động viên quân dân toàn tỉnh tiếp

tục xông lên giành thắng lợi mới, chúng tôi rất thiết tha mong các

anh giúp đỡ Quảng Ngãi:

616

- Có được một áp phích ảnh về chiến thắng Minh Long.

- Một số ảnh bảng kẽm về Quảng Ngãi để dùng cho báo tỉnh.

- Một máy ảnh và một số phương tiện làm ảnh.

Kính mong được anh quan tâm giúp đỡ. Chúng tôi rất biết ơn.

Có điều kiện, mời anh ghé ngang về Quảng Ngãi một chuyến để

anh em mình được biết nhau chứ anh.

Một lần nữa, kính chúc anh khoẻ, tôi mừng."

Phước Huề viết: "Nhận thư Long sau khi H vừa rời chiến

trường khu Đông ác liệt và nắng gió về. Đọc thư Long, Trinh, Thoa

được biết tình hình phân xã vẫn bình thường, ngày càng làm ăn tốt,

H phấn khởi quá.

H vừa đi khu Đông về (nam Phù Cát). Lực lượng vũ trang đánh

thì khá mà dân chạy ráo nên khó viết quá. Phi cũng đi với mình 15

ngày. Đợt này để Hoà trực ở tỉnh, H tranh thủ đi với Phi, Vinh một

thời gian để rút kinh nghiệm về phong cách của phóng viên với các

đồng chí mới. Đồng thời làm một số ảnh. H chụp được 2 cuộn, tráng

phim rồi và gửi về luôn đợt này. Phim hết nên H phải về tỉnh mượn

hoặc mua để chụp vì chưa biết ở nhà có gửi vào không. Cũng là mới

tập chụp nên còn yếu quá, cả chủ đề và bố cục kỹ thuật. Mong được

sự góp ý của bộ phận xử lý ảnh. Phim chụp thì nhiều nhưng phim

đạt ít quá. Xong đây H định đi Hoài Nhơn - Phù Mỹ để hiểu thực tế

hơn vì từ hôm xuống đến nay trực miết ở Tỉnh, có đi một số nơi

nhưng thời gian ngắn quá.

Phi sau khi đi khu Đông, sẽ ra Bắc Phù Cát (Cát Tài, Cát

Minh) ở đây dân đang lần lượt về nhà cũ làm ăn, trụ bám.

Về công tác, Phi khai thác tài liệu tương đối sâu nhưng khi viết

cứ lúng túng chọn chi tiết, bố cục và thể loại còn bỡ ngỡ nên viết còn

yếu quá. H phải sửa rất nhiều trước lúc điện và góp ý kỹ mỗi tin

617

bài. Đấy là bước đầu thôi chứ Phi xông xáo, chịu khó đi sâu vào

thực tế (nhiều phen suýt "quắp tai").

Một điểm tồn tại của Phi cũng như một số đồng chí là chưa

"thông tấn" mấy, tài liệu có nhưng đưa tin, bài chưa nhanh. Chưa

giải quyết tốt mối quan hệ giữa đi và viết. Nhiều lúc để lâu quá, tài

liệu không dùng được nữa. Sức khoẻ Phi thường thường, không

khoẻ lắm, thỉnh thoảng có sốt.

Vinh thì khoẻ nên xông xáo hơn. Phim chụp gửi về nhà H

không được xem hết, còn tin bài thì đã sửa, góp ý và điện về nhà cả.

Tin, bài là việc làm thêm nhưng Vinh làm khá tốt. Nhiều lúc H

nhắc nên cố gắng đầu tư thời gian hơn nữa để thể hiện ảnh tốt hơn.

Vì đó là nhiệm vụ chính của Vinh. Vinh có sự tiến bộ đáng kể. H

thay mặt tổ Bình Định đề nghị chi bộ, chi đoàn động viên Vinh phát

huy kết quả của mình, cố gắng đạt kết quả cao hơn.

Hoà đi Hoài Nhơn về trực ở nhà đã rút được nhiều kinh

nghiệm, nhất là quan hệ công tác và khai thác tài liệu viết. Trong

thời gian ở Hoài Nhơn, Hoà bị đau mất một thời gian nên tin, bài

viết có ít. Ở Hoà có nhược điểm giống Phi là thiếu nhạy bén và

nhanh chóng chớp thời cơ viết, gửi tin bài về ngay. Bài Hoài Nhơn

tháng 8 là một ví dụ. Hoà về nhà, H cung cấp tài liệu, lập dàn bài

chi tiết và gia hạn trong 2 ngày viết xong. Nếu Hoà cứ ở Hoài Nhơn

chắc không viết được vì thời gian đó Hoà sốt, cơ quan huyện xuống

Đông đường, tài liệu không nắm cụ thể, Hoà lại ở Tây đường.

Tồn tại chung của tổ Bình Định vừa qua là ít viết tin quá, nhất

là các đồng chí đi các huyện. Cách tổ chức, khai thác tài liệu để đưa

tin thường xuyên về một huyện, các xã còn nhiều vấn đề rút kinh

nghiệm, cả điều kiện khách quan và chủ quan.

H gửi lời chào thân thiết đến cả gia đình Thông tấn ta."

Nguyễn Long Phi viết: "Đến bữa nay cũng vừa một tháng, tôi

đứng chân tại Phù Cát, ngày 1/9 không may ở Cát Minh, lại thấy

một chồng 4,5 lá thư của anh và Thuỳ, Hoà... gửi cho.

618

Nhận được thư anh, biết các anh ở nhà bận và công tác tốt, tôi

rất mừng. Hai nữa qua một số tin, bài các anh biên tập rồi gửi lại

cho tôi rút kinh nghiệm, nhận được tôi thấy phấn khởi lắm.

Một thời gian công tác ở Phù Cát, nhất là gần 20 ngày sống ở

phía Nam, công tác có nhiều vất vả lắm, tôi cố gắng làm việc nhưng

cuối cùng thấy không sao làm được như hồi ở Phù Mỹ được. Có lẽ

cũng do ngoại cảnh là chính, nó ác liệt quá, dân không có mà quân

cũng tổn thất... Hiện nay anh Huề đi tỉnh rồi. Hẹn tháng 9 gặp

nhau ở Phù Mỹ sẽ rút kinh nghiệm đợt vừa qua và triển khai đợt

khác.

Ngày nay 3/4 về Phù Mỹ, gặp Vinh còn đang ốm, ảnh chụp ít,

song Vinh vừa viết được nhiều tin, bài...

Tình hình Phù Cát vẫn còn đang căng thẳng, chống phản kích

và kéo dân về. Tôi đang định viết một số mặt phản ảnh không khí

xây dựng làng chiến đấu của một số gia đình cách mạng ở lại. Tình

cảm của gia đình cách mạng với anh em bộ đội, cán bộ mình sâu

nặng lắm. 9,10 năm nay vắng bóng bộ đội miền Bắc, nên bây giờ có

bộ đội miền Bắc vô, họ nghe, họ nói, họ thương... đủ mọi chuyện. Tôi

và Hưng đã phải mất một tuần liền thức gần sáng kể chuyện miền

Bắc và chuyện cách mạng "ở núi" cho bà con nghe...

Ngoài ra, do bị "chết hụt" nhiều lần quá nên thời gian ở Phù

Cát, không có lúc nào yên cả để mà viết tin, bài. Tôi định xin ý kiến

anh Huề sẽ trở lại Phù Cát ít ngày nữa, lấy thêm tài liệu để làm

việc cho hoàn chỉnh ý đồ của mình hơn.

Anh cho tôi gửi lời thăm anh em toàn cơ quan. Nhắn tin là tôi

đã nhận được thư Thuỳ, phấn khởi lắm. Còn Hoà, cũng 4 tháng nay

không gặp nhau. Vừa rồi tôi có gửi một cái gương soi ở Phù Cát cho

Hoà nhưng tiếc rằng gương về thì Hoà đã cắt mất tóc cụt lủn mất

rồi...

Chào các anh "

Ngày 14/9/1974

Việc các tổ trưởng phóng viên ở các tỉnh về Phân xã trao đổi

kinh nghiệm đã thành nền nếp. Hôm nay, tổ Quảng Nam về làm

619

việc với chúng tôi. Tuy anh em đã bám sát chiến trường, thâm nhập

sâu vào đời sống chiến sĩ, nhưng chỉ viết được, còn chụp ảnh rất khó

khăn, vì không có ánh sáng, vì đạn pháo nổ mạnh, gây chấn động,

ảnh bị nhòe. Đặc biệt, chụp ảnh về nổi dậy chưa được, vì anh em

chưa nắm vững nổi dậy là thế nào. Kinh nghiệm rút ra là trang bị

phải gọn nhẹ, bám sát trọng điểm, nắm chắc ý đồ chiến dịch, bám

sát mũi chủ công. Riêng về nổi dậy, có rất nhiều chủ đề, như sự

chuẩn bị của quần chúng, việc phá khu dồn, san đồn bốt, xây dựng

vùng giải phóng. Ngoài ra, rất cần ống kính tê-lê cho anh em chụp

cảnh chiến đấu - cần phải điện gấp xin Tổng xã.

THƯ ĐỒNG CHÍ

Nguyễn Thành Vinh.

Ngày 18/9/1974

Anh Việt Long kính nhớ!

Em gắng ngồi dậy ghi vài dòng báo tin tình hình để anh rõ.

Thời gian ở Phù Mỹ, em bị đau nặng, không làm được công tác.

Phi nay về Phù Mỹ sau một thời gian ở Phù Cát. Còn anh Huề và

Hoà ở tỉnh sau không thấy biên thư xuống, nghe đâu anh Huề bị

đau.

Anh Việt Long! Lần trước em có nhận được thư anh. Em đã trả

lời, anh nhận được thư chưa?

Anh ạ, còn phần em rủi quá. Em ốm đau lai rai từ 11/8 nhưng

cứ thấy việc bề bộn nên làm cố. Sức khoẻ ngày càng yếu và từ ngày

2, 3/9 là sốt nặng (41oC). Sau 5 ngày không ăn uống chi, thế là

đành phải vào bệnh viện quân y tiền phương. Các thầy thuốc cho

biết vì sốt rét ác tính nên ảnh hưởng lớn làm rối loạn tiêu hoá và

sưng gan. Suốt mấy ngày em chỉ uống được vài thìa sữa thôi.

Những ngày đầu vào các thầy thuốc thấy rất lo ngại về bệnh gan

620

của em. Nay có đỡ đi một ít. Đang tiếp tục tiêm sirepa và truyền

huyết thanh ngọt.

Anh Việt Long, thật em không ngờ bệnh lại đến hiểm nghèo

như vậy. Em quá bi quan, may có Phi động viên, giúp đỡ nên ít lo,

phiền não.

Anh!... Có thể giữa tháng 10 mới có thể ra viện. Lúc nào ra thì

em về ngay K để có thể điều trị kịp thời. Em nóng ruột quá.

Nhận được thư này anh biên thư kẻo em mong anh nghe. Em

gửi lời thăm chị và các bạn.

Em. Vinh.

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Ngày 24/9/1974

Bố mẹ và các em yêu mến!

Có lẽ sau lá thư này, gia đình sẽ lâu nhận thư con, vì đã bắt

đầu mùa mưa rồi, xe không chạy được.

Hiện nay con và Ngân đều khoẻ. Sau khi cưới, Ngân lại về nhà

in công tác, cách chỗ con khoảng 3,4 cây số. Chúng con vẫn hay gặp

nhau, sống vui, hoà trong cuộc sống tập thể. Anh em có làm cho con

ngôi nhà tranh xinh xắn, cũng có bàn, ghế, giường chiếu đàng

hoàng. ở chiến khu này, được như thế là sung sướng lắm rồi.

Dạo này do ta đánh mạnh, địch co lại, nên tình hình yên hơn.

Tại cơ quan thì chúng con được sống trong không khí khá hoà bình.

Đời sống vật chất được cải thiện dần. Nhờ có cơ giới, chúng con khỏi

phải gùi cõng vất vả. Tuy nhiên, nhằm tiến tới tự túc hoàn toàn

lương thực, thực phẩm, chúng con cũng tham gia sản xuất khá

nhiều.

621

Con đỡ bận hơn trước, các anh ngoài cơ quan tăng cường vào

đảm nhận nhiều việc, bây giờ con chỉ còn lo việc chuyên môn và chi

bộ thôi. Con mong có nhiều thời giờ để viết. Vừa rồi mất nhiều thời

gian vào công việc sự vụ quá, chẳng viết được gì.

Thời gian càng trôi đi, con càng thương nhớ gia đình da diết. Do

hoàn cảnh chưa cho phép con phải nén tình cảm lại. Và càng nén

lại, càng đau xót. Có lẽ, trên đời này không một ai lại không mong

được sum vầy trong gia đình. Nhưng, cuộc đời cũng ít chiều theo sự

mong muốn của con người. Tuy nhiên, con vẫn hy vọng có ngày sẽ

về gặp lại gia đình. Chắc rằng tổ chức sẽ không quên những người

đáng nhớ.

Chắc bố, mẹ, anh Đức và các em đã xem ảnh, nghe băng ghi âm

buổi lễ thành hôn của chúng con. Gia đình có hài lòng không? Hôm

nay con gửi thêm mấy cái ảnh nữa.

Nghe gia đình vẫn sống hoà thuận, vui vẻ, các em tiến bộ, con

rất mừng. Mong rằng tất cả các em đều tiến vững chắc. Còn anh

Đức đã "vận động" được chị Hoà tiến hành xây dựng tổ ấm chưa?

Viết thư nói kỹ cho em biết và mừng với. Cháu Trang mũm mĩm

quá nhỉ. Tuy nhiên, chú Phúc phải đi vào kế hoạch đấy nhé, kẻo mà

vất vả lắm, Phúc có học hàm thụ đại học không?

Cứ nhìn hàng hoá - từ cây kim sợi chỉ - ở miền Bắc ùn ùn vào,

con biết hậu phương phải thắt lưng buộc bụng lo cho chiến trường,

con cũng hiểu phần nào những khó khăn mà đồng bào, trong đó có

gia đình ta ngoài ấy, phải vượt qua.

Bố mẹ có đi xem phòng triển lãm một số hình ảnh miền Nam

đấu tranh và xây dựng vùng giải phóng không? Con có ảnh "Nhân

dân miền Nam trong vùng địch kiểm soát phá ấp chiến lược Mỹ -

Thiệu trở về làng cũ làm ăn" trưng bày ở đó đấy. (Báo Nhân dân

ngày 9/6/1974 có đăng ảnh giới thiệu).

Gia đình đừng gửi gì cho con cả, con sống tương đối đầy đủ rồi.

Cuối thư, con hẹn sẽ có ngày sum họp trong gia đình.

622

Con gửi thư này nhờ anh Phương, phó Ban Tuyên huấn khu,

chuyển. Gia đình hỏi thêm anh Phương, sẽ biết thêm nhiều chuyện.

Anh Phương đã xa vợ và con 15, 16 năm trời, nay mới được ra đấy.

Con của gia đình.

THƯ NGÂN GỬI GIA ĐÌNH

Bố mẹ kính yêu!

Thư này là thư thứ tư con viết cho bố mẹ, nhưng chưa có thư

nào con viết dài và thư riêng cho anh Đức và các em.

Lần này, cơ quan có người ra, con viết thư cho bố mẹ đây. Trước

tiên con xin gửi đến bố mẹ lòng chân thành, mong bố mẹ mạnh

khoẻ vui tươi trong tuổi già.

Bố mẹ ạ! Tuy chưa gặp mặt bố mẹ, anh Đức và các em, song

con cảm thấy tình cảm của gia đình ấy vẫn sưởi ấm tâm hồn con

trong những ngày sống công tác nơi chiến trường.

Bố mẹ của con!... Chắc về phần con thì anh Việt Long đã biên

thư và nói cụ thể cho gia đình rõ về con rồi nhỉ?... Con sinh ra và

lớn lên trong hoàn cảnh trong vùng tạm chiếm, cha hoạt động cách

mạng đã hy sinh, mẹ bị ốm chết năm 1962. Được 4 anh chị em, tất

cả sống cùng ông bà nội. Con đã thoát ly gia đình từ hồi 15 tuổi.

Trong điều kiện khó khăn của tập thể đã nuôi con lớn, rèn luyện

cho con nhiều năm, nay con đã 22 tuổi, cho nên sự học tập như mọi

người khác ở Bắc thì không có, con chỉ học hết 4 thôi.

Bố mẹ kính yêu!...

Chắc trong thâm tâm của ai cũng vậy, gia đình đàng hoàng thì

cũng muốn tìm cô con dâu đàng hoàng như chị Hoà hay chị Thành

chẳng hạn, và con thì học hành thì ít, cuộc sống va chạm thì không

có mới lại sớm sống công tác nơi chiến trường nên bệnh tật khá

nhiều. Trước anh Việt Long con cảm thấy con quá kém cỏi. Bên

623

cạnh lúc con quen anh Việt Long thì con cảm thấy rất quý anh ấy,

nhưng thấy anh ấy cũng rất quý con từ đó chúng con thân nhau,

hiểu nhau nhiều, từ đó con được xem ảnh và thư của gia đình bố

mẹ, các em, lòng con rộn lên bao niềm vui sướng.

Ước mơ sẽ có ngày con được đứng vào bên cạnh tấm ảnh ấy.

Thế ước mơ đã đem đến sự thật ngày nay con đã nhận được những

cái thư của bố mẹ, anh Đức viết cho con hay là thư của các em nữa.

Bố mẹ của con!... con viết thư cho gia đình làm sao con nói lên

hết tình cảm của con đối với gia đình hả bố mẹ, con rất biết ơn bố

mẹ đã đẻ ra và nuôi dưỡng trưởng thành cho con một nguời chồng

đáng yêu quí. Chúng con sẽ sống và công tác thật xứng đáng công

nuôi dưỡng và sự mong ước của bố mẹ.

Anh Long nhận quá nhiều quà và thư, sự quan tâm lớn của gia

đình rồi, nên lần khác bố mẹ cũng đừng nên gửi gì cho con cả để bố

mẹ ăn uống cho khoẻ, các em ăn bận đầy đủ. Con trong này chỉ

khao khát tình ấp ủ của bố mẹ và các em còn vật chất thì không

thiếu thốn lắm đâu.

Chỉ vậy, con chúc bố mẹ, anh Đức, các em khoẻ .

Con dâu

Nguyễn Thị Kim Ngân

TB: Qua thư Bố mẹ cho con gửi lời đến thăm gia đình cô Chung

và bà con nội ngoại.

THƯ ĐỒNG CHÍ

Nguyễn Long Phi. Phù Mỹ ngày 26/9/1974

Anh Long và các anh kính mến!

Nhân tiện có anh Phong (Ban Binh vận huyện Phù Mỹ) lên K

họp, tôi có mấy lời thăm các anh và các đồng chí trong cơ quan.

624

Cho đến bữa nay 26/9, tôi và Vinh vẫn ở Phù Mỹ. Vinh còn điều

trị ở phẫu tiền phương. Hiện giờ địch đang lấn chiếm 2 xã Mỹ

Thành, Mỹ Thọ là vùng quản lý của ta. Đến đêm qua 25/9 chúng đã

đóng quân có tăng yểm trợ tại ngã tư Chánh Trực (Mỹ Thọ). Có thể

ngày nay và vài ngày tiếp nữa chúng phát triển mạnh hơn vào cả

các xã giáp Mỹ An, Mỹ Thắng...

Không khí chống địch càn quét rất khẩn trương. Dân các xã Mỹ

Thành, Mỹ Thọ đã được đưa hết ra Mỹ Thắng, Mỹ Đức. Còn lại lực

lượng D50, D55 của tỉnh chống, giữ.

Cuộc chiến đấu diễn ra 3 ngày nay ở 2 xã này rồi. Còn ở mảng 5

xã Nam Phù Mỹ, Bắc Phù Cát không có súng nổ. Địch đang tập

trung vào "Bình Định".

 m mưu địch đánh sang vùng ta, và nhân lúc lực lượng ta yếu

chúng phát triển hòng tiêu diệt sinh lực.

Tôi vẫn bám chiến trường ở 2 xã này. Vinh có giao cho máy ảnh

từ tháng 8, tôi đang làm và có làm một số ảnh. Càng tin tưởng làm

một số ảnh về xe tăng địch bị ta bắn cháy (2 chiếc, 5 chiếc hỏng

trong 3 ngày,) và một số ảnh về tù binh, ảnh về chúng đốt phá...

Vì tình hình còn đang căng, nên mò theo các đơn vị cũng ở tình

trạng cơ động chạy nên khó quá.

Bây giờ súng còn nổ và đang căng. Tôi vội có mấy lời báo cáo

các anh như vậy.

Tin tức tôi gửi về tỉnh rồi. Không biết nhà nhận được chưa.

Ta địch còn đang tranh chấp ở các cao điểm Đá Tân, Đá Hoa,

Mỹ Thành....

Thôi vội quá. Có gì báo cho các anh sau.

Còn một mình làm không xuể các anh ạ.

Sức khoẻ tôi gầy và đen (cháy nắng) nhiều.

625

Nhớ nhà quá. Chào các anh.

Nguyễn Long Phi

Ngày 26 - 28/9/1974

Làm việc với tổ trưởng các tổ Quảng Đà, Quảng Ngãi, Quảng

Nam, Bình Định. Lần này, ngoài việc trao đổi về kinh nghiệm

nghiệp vụ, anh em còn cung cấp cho Phân xã tư liệu về từng địa

phương - khá đầy đủ và chi tiết, rất có ích cho công tác biên tập. Nói

chung, các tổ phóng viên bám sát nhiệm vụ, gắn bó với địa phương,

được sự giúp đỡ và phối hợp của Ban Tuyên huấn các tỉnh. Riêng tổ

Quảng Nam gặp khó khăn hơn, còn có một số cán bộ lãnh đạo chưa

hiểu rõ vai trò, tác dụng của công tác báo chí - tuyên truyền nên

chưa nhiệt tình tạo điều kiện cho phóng viên nắm tình hình làm tin

tức. Anh Sĩ - Phó trưởng ban Binh vận tỉnh - nói: "Có phóng viên

Khu xuống thì Quảng Nam vẫn là mảnh đất trung dũng kiên

cường, không có phóng viên Khu xuống cũng vẫn kiên cường trung

dũng". Có một việc cần rút kinh nghiệm là phải giải quyết tốt mối

quan hệ giữa phóng viên và điện báo viên, làm sao cho phóng viên

viết thật nhanh, nhậy, còn điện báo viên thì phải nhanh chóng

chuyển về Khu bằng máy 15 WAT. Có lẽ do ngại đánh mooc dài,

cậu Huệ - điện báo viên ở Quảng Nam -đã tự "sáng tác" ra điện của

Phân xã gửi xuống: Quảng Nam viết dài lê thê, cần viết thật ngắn!

Vừa buồn cười vừa giận anh bạn điện báo viên trẻ người non dạ, đã

dám làm cái việc tày đình ấy. Một mặt, tôi dặn anh em phóng viên

phải viết cô đọng, tránh dài lê thê, mặt khác bàn với anh Hồng

Sinh, trưởng Đài Minh ngữ, động viên anh em điện báo viên phối

hợp chặt chẽ với phóng viên để làm thật tốt công tác.

Ngày 1 đến 4/10/1974

Ban Tuyên huấn tổ chức nghiên cứu Nghị quyết 02 hội nghị

A15.2 của Khu ủy. Chúng tôi được nghe phổ biến khá sâu vê tình

hình, nhiệm vụ, phương hướng của toàn Khu trong thời gian tới.

626

Về tình hình địch - ta trong Khu:

- Từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1973, địch tiếp tục chủ nghĩa

thực dân mới, tiến hành chiến tranh, dùng chiến thuật bình định,

lấn chiếm. Ta chưa thấy hết âm mưu địch; bộ đội chủ lực của ta đi

vào huấn luyện. Ta có khuyết điểm trong chỉ đạo - đối phó ít, kết

quả ít, biện pháp chưa thật thích hợp. Địch đạt được một số kết quả

- lấn chiếm được một số vùng, giành được một số dân, "bình định"

được một số vùng mới.

- Từ tháng 4 đến tháng 7 năm 1973: Khu ủy có Nghị quyết 21.

Thấy rõ địch hơn, nhất là về âm mưu chiến lược và bản chất ngoan

cố của đế quốc Mỹ, đặt nhiệm vụ trung tâm là chống bình định, lấn

hiếm. Địch tiến hành chiến tranh, ta phát động chiến tranh nhân

dân đánh lại địch.

- Từ tháng 9 năm 1973 trở đi: Có bước chuyển biến mới, thắng

lợi lớn. Tình hình đã sáng tỏ về khả năng ta đánh bại bình định lấn

chiếm của địch, nhất là các thủ đoạn cơ bản như đóng chốt, dồn

dân. Bộ đội chủ lực của ta có khả năng tiêu diệt đơn vị tương đối

lớn, chi khu quan trọng có công sự khá vững, giữ được trận địa, mở

ra từng mảng vùng giải phóng, căn cứ cách mạng được củng cố,

phát triển. Bộ đội địa phương và quần chúng tấn công tiêu diệt, áp

đảo địch. Trong chiến dịch hè - thu, ta loại khỏi vòng chiến đấu

41.000 tên địch, 40 tiểu đoàn, 549 lượt đồn bốt, giải phóng 31 xã, 99

thôn. Tính chung 8 tháng của năm 1974, toàn Khu loại khỏi vòng

chiến đấu 55.000 tên địch (có 13.000 tên rã ngũ, trong đó có 700

người về vùng giải phóng), 4 quận lỵ, chi khu, nổ ra 85 vụ binh biến

trong quân ngụy, 14 vạn dân được giải phóng, giành quyền làm

chủ. Đây là thời kỳ mà bọn địch xuống dốc ngày càng nhanh hơn.

Trong vùng giải phóng, chúng ta khai hoang, phục hóa 6.700

héc ta, gieo trồng 100.000 héc ta, chăn nuôi 47.000 con trâu bò, thu

nghĩa vụ 600 tấn lương thực, mua 3.000 tấn gạo, làm mới 1.224 ki

lô mét đường giao thông, 5 vạn người đi học, có 118 bệnh viện, bệnh

xá.

627

Dự kiến tình hình sắp đến: Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu

cơ bản - giữ miền Nam trong quỹ đạo chủ nghĩa thực dân mới,

nhưng trước mắt không đưa quân vào miền Nam. Địch tiếp tục suy

yếu về chính trị, quân sự, kinh tế, mâu thuẫn nội bộ phát triển

thêm. Ta có điều kiện tiếp tục giành thắng lợi lớn hơn, tạo ra so

sánh lực lượng có lợi cho ta. Phải qua nhiều nỗ lực nữa ta mới tạo

được ưu thế rộng rãi hơn đối với địch.

Hướng sắp tới của chúng ta: Phải nắm vững quan điểm bạo lực.

Phát động chiến tranh cách mạng đánh bại Việt Nam hóa chiến

tranh của địch. Phải nắm vững tư tuởng tấn công, tấn công ở phía

trước, tấn công trong xây dựng. Phải bám dân, bám địa bàn. Quần

chúng phải nổi dậy bằng 3 mũi giáp công. Phải kết hợp 3 thứ quân,

đẩy mạnh 3 mũi giáp công, 3 quả đấm, đánh bại một bước quan

trọng âm mưu bình định lấn chiếm của địch.Từng bước hoàn chỉnh

căn cứ cách mạng ở miền núi. Đưa phong trào cách mạng ở thành

thị lên, tiến tới tạo ra một cuộc khủng hoảng sâu sắc của địch ngay

trong lòng địch.

Mục tiêu trước mắt của chúng ta là: Đánh bại bình định, lấn

chiếm. Mở rộng và xây dựng vùng giải phóng, vùng căn cứ cách

mạng. Nhiệm vụ trọng tâm số một là tấn công, nổi dậy, số hai là

xây dựng vùng ta.

Nói chuyện với chúng tôi, anh Bảy Hữu - ủy viên thường vụ

Khu ủy - hệ thống hóa lại vấn đề giành dân trong lịch sử Khu Năm

thời chống Mỹ như sau: Từ năm 1961 trở về trước: Phá rào vi, đánh

tháp canh, đánh dân vệ. Từ 1961 đến 1962: Diệt kẹp, giành dân,

phá khu dồn, đánh bọn ứng chiến. Từ khi Mỹ đưa quân vào miền

Nam: Diệt ác, phá kèm, phá khu dồn, đập vỡ tuyến phòng thủ,

đánh bại mọi cuộc ứng chiến. Anh nhấn mạnh: Thời cơ hiện nay,

chúng ta tạo ra sau 19 năm kháng chiến và 15 tháng thi hành hiệp

định Pari, là vô cùng thuận lợi, phải chớp lấy để giành thắng lợi

mạnh mẽ nhất, đầy đủ nhất, tiến tới toàn thắng. Tôi nhận ra anh

Bảy chính là anh Lợi, người cán bộ lãnh đạo mà tôi đã được gặp và

làm việc trong thời gian ở Bình Định năm 1972 tại Ban chỉ huy tiền

phương - vẫn dáng người cao to, khuôn mặt vuông cương nghị, bộ

râu quai nón cạo nhẵn và đôi mắt sáng, giọng nói sang sảng... Còn

628

anh Ba, Bí thư Tỉnh ủy Bình Định hồi đó, bây giờ lấy tên là Tám

Lý, được giao trách nhiệm Trưởng ban An ninh khu.

Cả căn cứ rộn ràng lên trong không khí thi đua thực hiện bằng

được Nghị quyết của Khu ủy, biến tinh thần Nghị quyết thành

hành động cụ thể. Đối với Phân xã Thông tấn xã của chúng tôi, đây

là ánh đèn pha tập trung soi rọi thực tiễn để chúng tôi làm tin,

chụp ảnh có kết quả cao.

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Việt Long - 3105 Vinh Quang. Ngày 4/10/1974

Bố mẹ yêu quý của con!

Các em thân yêu của anh!

Con mới nhận được thư của mẹ viết cho con (mẹ gửi tháng 7).

Được biết gia đình vẫn mạnh khoẻ, êm ấm, con rất mừng.

Hôm nay có anh Nghĩa - cùng cơ quan với con - ra chữa bệnh,

con gửi lá thư này cho gia đình.

Điều đầu tiền con cần nói cho mẹ yên tâm là con rất khoẻ.

Đúng là vừa rồi con có đi bệnh xá một thời gian, nhưng là vì một

vết bỏng ở chân chứ không phải do sốt. Cả năm nay con không bị

sốt. Cả thời kỳ bệnh sốt rét hoành hành dữ dội, hầu như mọi người

trong cơ quan con đều sốt, con vẫn khoẻ mạnh. Gan, lách con chưa

bị sưng bao giờ. Nếu như bệnh viện cần một người đến để họ huớng

dẫn cho các học sinh y tế cách gõ, nghe và kết luận là gan, lách tốt,

thì nhất định họ phải mời đến con.

Hiện nay, do việc triển khai của đoàn Liên hợp quân sự gặp

nhiều trở ngại, con đã trở về Ban Tuyên huấn công tác. Con lại làm

công tác biên tập, rất bận vì công việc nhiều mà người thì ít. Công

tác của con vẫn gặp thuận lợi, tiến bộ.

629

Vừa rồi, con được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ cơ quan,

đồng thời làm Phó bí thư Đoàn uỷ cơ quan, do vậy càng bận. Con

nghĩ, khi đã được tín nhiệm, trao nhiệm vụ thì phải hoàn thành

thật tốt.

Mẹ thân yêu của con ơi! Đọc thư mẹ, con hiểu rằng mẹ thương

nhớ con biết bao, mẹ mong gặp con biết bao. Có lẽ vì thế mà mẹ

thoáng có ý trách con chỉ lo công việc mà ít nhớ đến gia đình chăng?

Đúng là bây giờ con rất bận rộn, rất lo công việc. Con chưa thể về

thăm gia đình được. Mẹ cứ nhìn những người đã ra ngoài ấy thì

hiểu rằng con chưa ra là phải. Vì đó là những anh lớn tuổi, có người

có tuổi đảng bằng chính tuổi đời của con, đã cống hiến nhiều gấp

mấy chục lần con, bây giờ gần kiệt sức rồi, cần nghỉ ngơi, hoặc

những người trẻ tuổi thì bị bệnh tật huỷ hoại cơ thể quá rồi, phải ra

chữa, một số khác thì cần ra để học. Con thì sao? Còn trẻ, mới cống

hiến được ít năm, sức khoẻ tốt, (nếu con ra mà sức khoẻ tàn tạ, chắc

mẹ cũng không thích) vậy thì con ra sao được trong lúc này. Nhất là

trong điều kiện có hàng chục thanh niên vào thêm, cần có người

tương đối có kinh nghiệm công tác kèm cặp, con càng chưa thể ra

được. Chính vì thế mà con chưa dám nghĩ đến chuyện đi nghỉ phép.

Nhưng không phải vì thế mà con nguôi thương nhớ bố mẹ kính

yêu, nguôi thương nhớ những đứa em ngoan ngoãn. Nhiều khi con

chỉ ước được gặp gia đình trong giấc mơ, mơ cho thật rõ, thật lâu.

Có khi con nghĩ rằng con có thể đổi một vài năm sống của đời con để

lấy một vài tháng sống trọn vẹn với gia đình trong tình thương yêu

của bố mẹ, trong tiếng nói cười ríu ran của bầy em. Nghĩ lại những

ngày còn sống trong sự chăm sóc của bố mẹ, con thấy quý giá vô

cùng, con khao khát, con ước mong được trở lại những ngày đó. Và

nếu được phép về thăm gia đình, con có thể vứt bỏ tất cả đồ dùng,

có thể đi bộ vượt trạm để băng về nhà cho thật nhanh. Rồi nghĩ lại,

thấy rằng còn phải xa gia đình nhiều năm nữa, con thấy đau nhói

trong lòng, có lúc tưởng như không chịu đựng nổi nữa! Song con cứ

nghĩ đến muôn vạn người xung quanh, con lại cảm thấy cứng rắn

lên. Có gia đình nào không tan nát đâu, ở Miền Bắc có gia đình nào

không có con em vào Nam hoặc đi bộ đội, hy sinh đâu? Gia đình ta

so với nhiều gia đình còn hạnh phúc lắm - còn toàn vẹn, được làm

việc thuận lợi, được ăn học đàng hoàng - nghĩ như thế, con lại thấy

630

phấn khởi, yên tâm công tác. Và mẹ hãy yên tâm, rồi nhất định con

sẽ được ra thăm gia đình, cơ quan con không quên con đâu, khi nào

thấy có thể được, nhất định cơ quan con sẽ cho con về thăm mẹ,

thăm bố, thăm anh em ruột thịt của con. Lúc ấy, con trở về mạnh

khoẻ, đàng hoàng và gia đình ta sẽ vui như hội.

Mẹ ạ, tiền mẹ gửi cho con, con đã nhận được. Con không thiếu

áo len đâu, vì con đã có một áo len rất tốt, mới đây lại được lĩnh một

chiếc mới, thế là thừa. Ngoài ra, các đồ dùng khác của con khá đầy

đủ. Mẹ đừng gửi gì cho con ngoài một chiếc vợt mút và một tá bóng

bàn để con chơi thể thao cho vui.

Anh gửi tới các em tình thương yêu tha thiết.

Con của bố mẹ. Việt Long

Ngày 12/10/1974

Phân xã đã tổ chức các bộ phận chuyên môn để có điều kiện

hoạt động tập trung hơn, có hiệu quả hơn: Tổ tin phổ biến, Tổ tin

tham khảo, Tổ ảnh... Tôi vừa phụ trách chung, vừa trực tiếp làm tổ

trưởng Tổ tin phổ biến.

Chúng tôi họp Tổ tin phổ biến để bàn biện pháp thực hiện Nghị

quyết 02 A15.2. Tổ có tôi, Hoàng Chu, Hồ Phước Huề, Kim Thoa,

Thế Phương, Nguyễn Xuân Soạn, Phạm Đức Yên. Nhiệm vụ cụ thể

đưọc xác định là:

- Ra Bản tin hàng ngày phục vụ Khu và điện ra miền Bắc. Tin

quân sự khai thác từ nguồn của Quân khu. Tin nổi dậy dựa vào các

tổ phóng viên và tổng hợp tình hình của Khu ủy. Tin binh vận chú ý

cả tin thời sự, mẩu chuyện và tin tổng hợp. Tin kinh tế chú ý tin

thời sự, điển hình về sản xuất, xây dựng vùng giải phóng. Tin

thành phố dựa vào các tổ phóng viên, vào Ban đấu tranh chính trị.

Tin văn hóa xã hội khai thác từ nhiều nguồn, cần đều hơn, có tổng

hợp. Chú ý đưa tin về hoạt động của Chính phủ và các đoàn thể.

631

- Liên hệ chặt chẽ với các cơ quan quanh Khu. Dự đều giao ban

Khu ủy. Cử phóng viên trực ở 2 khối - chính quyền và dân vận, mặt

trận, vừa làm tin chung vừa đi chuyên đề.

- Biên tập viên phải nhận xét từng tin, nhận xét chuyên môn

của phóng viên theo định kỳ và thông báo cho các tổ phóng viên.

Hướng dẫn các tổ phóng viên về hoạt động nghiệp vụ.

- Xây dựng tư liệu.

- Tổ chức thông tín viên, cộng tác viên.

Tôi trực tiếp phụ trách Bản tin hàng ngày, và cùng với Xuân

Soạn biên tập tin. Phước Huề phụ trách khối chính quyền. Hoàng

Chu phụ trách khối dân vận, mặt trận.

THƯ GIA ĐÌNH

Ngày 2/11/1974

Long Ngân yêu quý!

Mẹ đã nhận được đủ quà con gửi anh Tầm về rồi, và hôm vừa

rồi bác Nhung ra cũng lại đưa quà và thư con gửi. Bác Nhung có nói

chuyện là con đến chỗ bác và bác bảo là con gầy nhưng khoẻ, bác

chỉ tiếc là chưa gặp được Ngân thôi, có thể ngoài tết Bác mới vào,

dạo này, mẹ chậm thư cho 2 con là vì bố đi chữa bệnh ở Quế Lâm -

Trung Quốc đã được một tháng rưỡi rồi bố đi từ 15 tháng 9 thành ra

không có ai liên hệ với TTX được, bố con sang Trung Quốc như thế

là chữa về thần kinh là chủ yếu vì bên tay phải đã bắt đầu hơi run

và chân đi thì lệt xệt, sang được một tháng đã lên được 5kg và điều

kiện chữa bệnh thì tốt lắm, ăn uống thoải mái, bố viết thư về nói là

tay đã đỡ run và bàn tay đỡ cong rồi, chân cũng đỡ. Sang đấy chữa

ít nhất cũng phải nằm 4 tháng như thế đến gần tết thì bố về, bố đi

như vậy chỉ trừ tiền ăn 21đ/một tháng, còn sang Trung Quốc thì

được lĩnh 8đ tiền Trung Quốc để tiêu vặt nhưng bố bảo chả phải

tiêu gì, chỉ để khi về sắm các thứ cần thiết thôi, mà tiền bạn thì giá

632

trị lắm, họ tiêu từ 1 xu cho đến 1 hào. Như thế các con cũng mừng

cho bố mẹ là trước khi về hưu được đi chữa bệnh thời gian và được

bồi dưỡng sức khoẻ để về hưu cho phấn khởi.

Con gửi cao gấu và mật gấu về chắc bố mừng lắm, mẹ đã ngâm

rồi, mẹ chắc cao gấu thì ngâm rượu uống như các loại cao khác, còn

mật gấu thì tất nhiên là phải dùng cẩn thận rồi, nó chỉ dùng vào

loại xoa cho tan máu là tốt nhất còn về uống thì mẹ phải hỏi cẩn

thận, cao con mua có đắt không, giá có cao hổ cốt tốt thì tốt nhất vì

nó chữa thấp khớp công hiệu nhất, còn mật gấu thì thôi con đừng

mua nữa, bao giờ cần mẹ sẽ nhắn sau.

Mẹ thấy 2 con gửi quà ra mất nhiều tiền quá thế còn tiền đâu

mà bồi dưỡng nữa, bao giờ bác Nhung vào mẹ lại gửi quà vào và gửi

ít tiền vào cho các con để thêm và có khi nào mua quà ra còn có tiền

mà mua. Mẹ thấy con nói đài thích quá nhất là cái đài loại 500đ ấy

nhưng làm thế nào mà đổi tiền ở ngoài này được, mà gửi tiền vào

thì con có đổi được không?

Anh Hà từ hôm ra có mỗi lần đến đưa quà ngồi được vài tiếng

bố mẹ mời ở lại ăn cơm anh cũng không ở. Hôm nào mẹ đến 103

Quan Thánh để tìm xem có gặp anh ấy không Cô Chung nhận phần

mua áo con cho Ngân nhưng chưa biết có ai vào không mà gửi, con

còn gửi sữa ong chúa ra làm gì, 2 con không để mà dùng, thuốc bổ

trong ấy cần dùng hơn ngoài này vì bố cũng có đủ thuốc rồi, con

không phải lo nữa. Từ nay con đừng gửi thuốc bổ nữa, con để mà

uống.

Bố mẹ và cả gia đình đều mong làm sao 2 con tranh thủ ra chơi

được ít lâu, nhất là nửa tháng cũng được, mẹ thấy nói đi ra có 5,6

ngày mẹ lại càng sốt ruột, cứ nghĩ là thời gian đi có thế mà tại sao

cơ quan không thông cảm mà tạo điều kiện cho 2 con đi kết hợp thời

gian ngắn thôi cũng được thế mà càng mong càng thất vọng, có lẽ

sang năm 75 con nên đề nghị xem vì gay go như bộ đội trong ấy mà

họ cũng còn được về phép nữa là.

Em Diệp đang chờ vào Sư phạm Ngoại ngữ, còn em Lan và

Thuỷ học lớp 8, và 7 gần nhà, cháu Trang đã cai sữa rồi, cháu được

633

một năm ngày 2-10-1974. Cháu mặc 2 bộ quần áo bác gửi về vừa

quá và trông xinh lắm. Còn việc anh Đức có lẽ đầu năm 75 mới cưới

được vì một là bố đi vắng vả lại chị Hoà cũng chưa muốn cưới vội. à

con đừng mua áo chăn nhé, mẹ mua rồi, còn vải quần cũng vậy

đừng mua nữa ngoài này mới mua đủ rồi. Các con để tiền mà tiêu,

cái quần con gửi ra vải đẹp đấy nhưng chỉ phải cái may hơi chật, mẹ

mặc tạm cũng được.

Thôi mẹ chúc hai con khoẻ mạnh.

Mẹ. Hạnh

Ngày 7/11/1974

Họp tổ tin phổ biến. Trong tháng 10, chúng tôi phát 87 tin, nội

dung tương đối bám sát tinh thần chỉ đạo của Khu, tương đối kịp

thời, tuy vậy, tin còn ít, tin về xây dựng lực lượng vũ trang còn yếu.

Chúng tôi cũng đã hoàn chỉnh một bộ tư liệu về thành phố. Hướng

đưa tin tháng 11, 12 là: Phải làm nổi vấn đề văn hóa, xã hội, kinh

tế. Đưa nhiều tin tổng hợp, trong đó có tổng kết thành tích các đơn

vị, cá nhân tiêu biểu. Chú ý đưa tin về phong trào đấu tranh ở

thành phố. Xây dựng tư liệu về phong trào cách mạng ở thành phố

và về hoạt động tấn công, nổi dậy toàn Khu năm 1974.

Từ cuối tháng 12/1974

Năm nay mưa muộn lạ kỳ. Tháng 10, 11 là tháng mọi năm

mưa sầm sập thì năm nay mưa rất ít. Cuối tháng 11 mới có lụt.

Nước thấp hơn mọi năm. Vậy mà cũng cuốn mất Hà Xuân Phong.

Hôm ấy nước bắt đầu rút, Phong cùng Thảo đi thuyền do

Nghiêm, Thi chở qua sông Trà Nô. Nước xiết quá, thuyền vừa được

đẩy ra, chưa kịp chèo thì đã lật nhào. Thảo không biết bơi, được

Tiến vớt. Phong bơi giỏi, vượt qua bờ bên kia. Vậy mà gần đến bờ

thì chìm mất luôn. Đoạn sông này có nhiều ghềnh đá. Hơn một tuần

sau mới vớt được xác.

634

Vậy mà từ 7/12 - mọi năm bắt đầu dứt mưa - lại mưa dầm dề,

dai dẳng. Mưa không to hạt nhưng liên tục, làm nước dâng lên cao

không kém mưa lớn.

Tôi vừa biên tập, vừa xử lý những tài liệu đã khai thác được

trong khi dự Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua Khu, trong đó có bài

như sau:

Dũng sĩ Trương Văn Hoà

sau khi được tuyên dương anh hùng

Hà Nội (VNTTX 17-12-74) Gặp Trương Văn Hoà trong đại đội

liên hoan đơn vị anh hùng, anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng

vũ trang nhân dân giải phóng khu Trung Trung Bộ lần thứ tư, tôi

nhớ ngay tấm ảnh anh, với nụ cười hồn nhiên, in trên báo Quân đội

Nhân Dân cách đây mấy năm. Hồi ấy cả nước biết tên anh với danh

hiệu dũng dĩ diệt Mỹ và thành tích diệt 167 tên Mỹ trong 6 tháng.

Năm 1967 anh được Chính phủ Cách mạng lâm thời tuyên dương

danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng.

Sau đó, trong một trận chiến đấu tại quê hương Quảng Đà, anh bị

thương, rồi bị địch bắt. Bọn Mỹ - Thiện đã đưa anh qua khắp những

trại giam của chúng từ Đà Nẵng vào Nam Bộ, ra tận đảo Phú Quốc.

Chúng không thể ngờ rằng chính tại hòn đảo chơi vơi giữa biển này,

anh đã tự thoát khỏi nanh vuốt của chúng, trở về đội ngũ, cầm súng

tiếp tục chiến đấu tiêu diệt chúng. Bây giờ, anh lại đã đứng trên

mảnh đất quê hương. Những chặng đường mà người anh hùng đã

vượt qua biết mấy gian truân... vậy mà anh kể lại bằng giọng nói

trầm trầm, hiền hiền, nghe thật bình dị.

"... Sau khi đánh đập, tra khảo đủ cách, buộc tôi phải ký vào

bản cung không được, cuối tháng 8-1968, bọn địch đưa tôi ra đảo

Phú Quốc. Chúng bắt tôi phải khai là "tù phiến cộng". Tôi đáp:

- Tôi làm cách mạng, không phải làm phiến loạn, các ông không

được gán tầm bậy!

Chúng xúm vào hành hạ tôi. Vẫn những ngón đòn tàn ác mà

quen thuộc: quay điện, đổ nước vôi, nước ớt, đấm đá... hồi nớ, người

635

tôi rất mập, mạnh, nên sau những trận đòn của chúng tôi chưa đuối

sức. Nhìn vào tình hình chung ở trại giam, tôi thấy đáng lo. Ngày

nào bọn địch cũng sục vào trại giam đánh đập tù nhân. Phong trào

đấu tranh trong tù yếu. Do vậy chúng càng thả sức hoành hành. Có

ngày, chúng đánh chết 3,4 tù nhân một lúc. Phải tổ chức đấu tranh.

Muốn vậy, phải tìm được những đồng chí trung kiên nhất lập ban

lãnh đạo trại giam. Tôi bắt đầu theo dõi. ở trong tù, khí tiết người

cách mạng được biểu hiện rất rõ, ngay trên những hành động cụ

thể: chịu đựng mọi cực hình, không khai báo, không khuất phục kẻ

thù, thương yêu, chăm sóc đồng chí. Chẳng bao lâu, tôi liên lạc được

với 5 đồng chí trung kiên khác và lập ban lãnh đạo trại giam.

Chúng tôi nhận định: "Phong trào đấu tranh còn gặp khó khăn vì

tình hình trại giam còn phức tạp. Ngoài thì bọn quân cảnh đàn áp.

Trong thì bọn "chiêu hồi" (tức bọn đầu hàng) chỉ điểm. Muốn đẩy

phong trào lên, phải diệt bọn chỉ điểm trà trộn trong tù nhân".

Chúng tôi phân công nhau phụ trách từng khu vực rồi bố trí tiêu

diệt địch. Tối hôm ấy, chúng tôi phục trên đường ra cầu tiêu, dùng

cọc lều đập chết 6 tên, gồm 1 trưởng ban an ninh, 1 đại diện "chiêu

hồi" và 4 tên chỉ điểm khác. Sau một thời gian, chúng tôi đã diệt

sạch bọn chỉ điểm trà trộn trong tù nhân. Phong trào đấu tranh lên

mạnh. Trong suốt quá trình này, tôi đều ở trong ban lãnh đạo trại

giam...".

Trương Văn Hoà ngừng kể, đứng dậy hít liền mấy hơi dài. Biết

anh mệt, tôi không hỏi gì thêm. Lát sau, anh ngồi xuống, kể tiếp:

"Chắc anh rõ, ai ở trong tù mà chẳng khao khát được trở về

cuộc sống tự do. Chúng tôi luôn luôn tìm cách vượt ngục. Lần đầu

tiên, vào đầu năm 1971, tôi và một số đồng chí định vượt rào ra

ngoài. Bọn địch giăng tới 11 lớp rào. Chúng tôi bò. ánh đèn pha luôn

quét qua, quét lại. Và bọn lính gác thỉnh thoảng lại bắn vu vơ mấy

tràng đại liên. Tôi trườn tới, trườn tới. ý nghĩ duy nhất của tôi lúc

này là trườn cho khéo, mau mau ra khỏi hàng rào. Nhưng, thật

không may, một đồng chí làm lộ. Đèn pha tập trung rọi tới, sáng

như ban ngày. Đại liên rít chiu chíu, đan dày sát hàng rào. Mặc, tôi

cứ bò. Qua khỏi hàng rào thứ 5 rồi. Cố lên! Song không được, bọn

địch đã đến...

636

Bọn địch đưa tôi về trại giam, đánh đập, hỏi:

- Tại sao mày dám vượt ngục?

Tôi trả lời:

- Con người có một lần chết. Vượt ngục, nếu thoát, lại được cầm

súng chiến đấu diệt bọn bay. Còn không, thì thà chết ngoài rào còn

hơn sống trong rào.

Địch tăng cường kiểm soát trại giam. Nhưng chúng tôi không

chịu bó tay. Chúng tôi đào địa đạo. Lần này lại bị lộ. Địch bắt 2

đồng chí, đánh đập thậm tệ, bắt khai ra người lãnh đạo. Hai đồng

chí này còn non nớt, có thể sẽ không chịu đựng được. Nhận định

như thế, tôi bàn với ban lãnh đạo để tôi đứng ra nhận, bảo tồn cơ sở.

Các đồng chí nhất trí. Từ trong khám, tôi bước ra cửa rào, nói:

- Đừng đánh hai anh ấy nữa. Chính tôi là người tổ chức, chỉ

huy.

Như bầy thú dữ bắt được mồi, bọn địch nhào cả lại xâu xé tôi.

Gậy giáng lên lưng. Gậy giáng vào ống chân. Một trận mưa gậy phủ

kín người tôi. Tôi lịm đi. Chúng đưa tôi lên phòng nhì, dẫn 8 đồng

chí khác đến, hỏi:

- Những người này ở trong tổ chức của mày, mày có biết không?

Tôi lắc đầu:

- Không phải! Chỉ có 2 người kia thôi.

Chúng đe doạ:

- Mày không khai thì phải chịu đòn của cả 8 thằng này.

Tôi nói:

- Bọn bay đánh cả ngàn gậy ta cũng chẳng nề hà.

637

Chúng xô đến đánh tôi ngã ngửa ra, lấy dây điện quấn vào

chân tôi, quay máy. Luồng điện truyền nhanh quất vào từng mạch

máu, thớ thịt tôi. Tôi không nói một lời. Chúng đánh chừng chừng

cho thấm đòn. Chúng gõ côm cốp vào gót chân tôi, bảo:

- Đánh thế này cho mày hết cách chạy.

Rồi bọn quân cảnh tới, đứng bao quanh tôi, đánh tôi nhào qua,

nhào lại.

Không khai thác được gì ở tôi, chúng đưa tôi đi biệt giam. ở

đây, điều kiện sống thật khắc nghiệt. Riêng chuyện chật chội, thiếu

không khí cũng đủ làm những đồng chí yếu bị ngất xỉu. Chúng tôi

lại tìm cách vượt ngục. Lần này thì thành công. Tôi và 27 đồng chí

khác ra tới khu du kích trên đảo. Liền sau đó, chúng tôi phối hợp

với anh em địa phương lập đơn vị chiến đấu. Tôi được cử vào ban

tham mưu, chuyên đi chuẩn bị chiến trường và vạch phương án tác

chiến".

Trương Văn Hoà ngừng nói, suy nghĩ một lát rồi hỏi tôi:

- Dạo cuối năm 1971, anh có nghe đài nói ta tấn công vào thị

trấn Phú Quốc không?

Tôi trả lời:

- Có, nhưng chưa rõ đơn vị nào đánh vào.

Anh kể tiếp:

- Chính là đơn vị chúng tôi đấy. Suốt 29 năm nay, bọn địch ở

thị trấn Phú Quốc chưa bị tấn công lần nào. Rứa là chúng tôi quyết

định vào nơi mà bọn địch tưởng là an toàn nhất, đánh vào bọn trùm

ác ôn trên đảo. Tôi được phân công đi trinh sát, chuẩn bị chiến

trường. Tuy đi vào địa bàn lạ, bỡ ngỡ, dày đặc quân địch, song tôi

vẫn lợi dụng được những sơ hở của chúng, vẽ sơ đồ tỉ mỉ về cùng

anh em lập phương án tác chiến rất cụ thể. Trận này, chúng tôi đã

638

giành thắng lợi: tiêu diệt 2 đại đội Bảo an, 1 trung đội "chiêu hồi",

giết chết tên quận trưởng cùng vợ hắn là thiếu tá an ninh, và tên

quận phó, phá huỷ 1 tàu quân sự.

- Sau đó, các anh hoạt động ra sao? - Tôi hỏi:

Trương Văn Hoà đáp:

- Chúng tôi đánh lai rai suốt, lúc thì chặn bọn địch đi lùng sục,

lúc thì tập kích vào nơi chúng sơ hở. Tính ra, trong khoảng hơn 2

năm, lực lượng vũ trang đảo đã loại khỏi vòng chiến đấu 700 tên

địch, thu 400 khẩu súng.

Câu chuyện của TrươngVăn Hoà đã để lại trong lòng tôi những

ấn tượng thật sâu sắc. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người anh hùng

ấy cũng ở tư thế tấn công và luôn luôn chiến thắng. Giờ đây, anh

đang sát cánh cùng đồng bào, đồng chí tại quê hương chiến đấu

đánh bại bọn "bình định" lấn chiếm.

Việt Long (TTXGP)

Sắp tết, gia đình hết sức chu đáo, gửi thư và cả quà cho tôi và

Ngân.

Mẹ tôi viết: "Hôm nay có anh Sâm vào, gia đình gửi ít quà vào

cho 2 con gọi là quà Tết, vì anh Sâm cho biết tin muộn quá, thành

ra mẹ nấu vội gửi cho 2 con ít mứt. Mứt sen, 2 con ăn trước, còn

mứt mẹ nấu gừng, dừa, khoai tây để ăn dần sau cũng được, mẹ đã

viết sẵn một thư từ khi bố đi Trung Quốc chữa bệnh mà chưa gửi ai

vào được, đến nay bố đã về rồi mới có người vào mẹ lại viết thêm

một lá thư nữa và mẹ gửi cho Ngân 3 cái áo con, còn cô Chung gửi

cho mấy cái mẹ không biết, mẹ nhờ cô mua đấy chả biết mặc có vừa

không.

Gia đình thấy anh Sâm nói là đã làm việc cho con ra ngoài này,

rồi kỳ này anh Sâm vào thì hai con có thể ra được đấy, còn thời gian

thì chưa biết, mẹ có đề nghị mới anh Sâm là cho cả 2 vợ chồng con

ra đấy, giá mà được ra kịp tết thì vui quá nhỉ.

639

Mẹ định ngoài tết bác Nhung vào mẹ gửi vào 500 đồng, cho con

đổi mua đài cho mẹ được không, anh San có đến thăm gia đình, anh

ấy bảo đổi tiền ở ngay bến ô tô dễ lắm, con xem thế nào viết thư cho

mẹ biết nhé. Bác Nhung là bác ở cạnh nhà ta mà con gửi quần và

mật gấu cho mẹ ấy mà, gửi tiền bác ấy vào là chắc nhất.

Mẹ gửi anh Sâm vào cho 2 con 50đ, gia đình thấy nói con sắp

được ra thì mừng quá, nhất là các em, các con làm sao đề nghị ra

sớm ngày nào hay ngày ấy.

Thôi mẹ chúc hai con khoẻ mạnh, gia đình rất mong ngày gần

đây được gặp lại 2 con."

Bố tôi viết: " Ngân, Long yêu dấu của bố mẹ !

Bố viết thư thăm hai con nhân dịp đồng chí Sâm vào trong đó

công tác, cũng là ngày bố mới đi chữa bệnh ở Trung Quốc về. Bố đi

chữa bệnh ở Quế Lâm, Trung Quốc từ ngày 15/9/1974 đến ngày

19/12/1974, vừa được 3 tháng. Bệnh tật có thuyên giảm được một

phần, lên được 4kg và sở dĩ bố không ở lâu bên đó vì bệnh của bố,

bệnh sơ cứng động mạch là một loại bệnh của người già, nên không

chữa khỏi hẳn được, chỉ chữa đến mức tương đối mà thôi, phương

hướng chữa bệnh hiện nay của bố là tiếp tục uống thuốc kết hợp với

chế độ ăn kiêng mỡ và thể dục, đi bộ. Bố vẫn nghỉ ở nhà đến 1975

lại tiếp tục đi làm. Bố dự định năm 1975 là năm vừa công tác, vừa

chuẩn bị thủ tục để đầu 1976 thì về hưu, cũng vừa kết hợp với nghỉ

ngơi dưỡng bệnh.

Khi bố ở Quế Lâm, bố gặp rất nhiều cán bộ trẻ của Khu 5 ra

điều trị, song các đồng chí phần lớn ở Bình Định, Quảng Ngãi nên

không biết con. Bệnh sơ cứng động mạch ảnh hưởng đến tim và tay

chân, nên bố sức khoẻ giảm sút tương đối nhiều so với trước, khi

còn sức đánh bóng bàn với Long ở Mễ Trì. Sau 3 tháng điều trị ở

Trung Quốc, bệnh có giảm, sức khoẻ có lên, chân phải đỡ, và tay đã

gần hồi phục. Bố đang nghiên cứu cách dùng mật gấu của con gửi

ra, vì mật gấu có tác dụng làm tản máu tụ trong các động mạch.

640

Gia đình ta vẫn yên vui. Việt mới biên thư ra, em vẫn khoẻ

mạnh, công tác ở đơn vị cũ.

Vắn tắt vài lời, chúc các con mạnh khoẻ, hạnh phúc, công tác

tốt."

Anh Đức tôi viết: " Hai em Long, Ngân!

Gia đình đã nhận được thư, quà và ảnh, băng ghi âm lễ cưới

của hai em. Mọi người đều vui mừng cho hạnh phúc của hai em, chỉ

tiếc là không có điều kiện góp phần tổ chức cho hai em thôi. Cả nhà

đều nhớ và mong có dịp hai em ra ngoài này thăm gia đình. Long

đã 7, 8 năm nay không được ăn tết ở nhà rồi đấy, còn Ngân thì gia

đình cũng chỉ mới biết qua thư và ảnh thôi. Cố gắng đừng bỏ lỡ dịp

ra thăm bố mẹ, anh em nhé. Ra nghỉ một thời gian, thăm lại người

thân, lấy thêm sức lực để còn làm việc tiếp nữa, công việc làm suốt

đời cũng không thể hết được.

Ngoài này, tình hình cũng có nhiều chuyển biến đấy hai em ạ.

Tình hình sau chiến tranh có nhiều phức tạp, đời sống của cán bộ,

công nhân còn gặp nhiều khó khăn, nhưng ta đang cố gắng khắc

phục từng bước. Riêng gia đình ta thì mọi việc không có gì thay đổi

lớn cả. Bố già yếu đi nhiều, vừa rồi Bố được đi chữa bệnh 3 tháng ở

Trung Quốc, kết quả tương đối tốt, sức khoẻ cũng phục hồi được

một phần. Mẹ vẫn làm trong trường Ngoại ngữ, đi lại cũng vất vả

nên một tuần mẹ chỉ về nhà được 2 lần thôi, mọi công việc nhà đều

do các cô em gái quản lý.

Còn anh thì vẫn khoẻ mạnh, công tác bình thường. Thực sự thì

công việc không làm anh hứng thú lắm, nhưng không thể giải quyết

cách khác được. Công việc không hợp ngành nghề lắm, ngành nghề

bọn anh học thì ở ta lại chưa có cơ sở công nghiệp. Đó cũng là tình

trạng chung, là thiếu sót trong kế hoạch đào tạo của ta, bây giờ

nhiều người đi học về không bố trí được công tác. Nước ta đang ở

thời kỳ quá độ, còn nhiều khó khăn lúng túng lắm.

Còn việc riêng của anh thì vẫn chưa dứt điểm trong năm nay

đâu. Gia đình chị Hoà giục cưới trong năm nay, nhưng chị Hoà

641

muốn để sang năm để chuẩn bị cho kỹ, đỡ vội vàng cập rập. Nếu

sang năm hai em ra thăm gia đình được thì rất hay. Năm 75 cũng

là năm có nhiều ngày kỷ niệm lớn đấy.

Hai em thân mến! Chỉ còn một tháng nữa là tết rồi. Anh nhớ

lại những cái tết anh phải xa gia đình trước đây, anh rất thông cảm

với hai em. Hồi ấy anh tuy xa gia đình nhưng lại được sống trong

điều kiện đầy đủ sung túc. ấy thế mà chính những ngày vui ngày lễ

lại là những ngày bọn anh cảm thấy buồn, cảm thấy thiếu thốn tình

cảm nhất. Những ngày ấy thì sự đầy đủ về mặt vật chất cũng

không thể nào bù đắp lại được sự thiếu thốn không khí thân mật,

đầm ấm trong gia đình. Năm nay đón xuân, hai em có niềm vui của

hạnh phúc mới mẻ, song anh chắc rằng các em cũng không thể quên

được tình cảm gia đình.

Thôi, anh viết ít dòng thăm hai em vậy nhé. Mong rằng, một

ngày không xa, anh và gia đình sẽ được đón các em trong ngày đoàn

tụ cả gia đình ta.

Chị Hoà gửi lời hỏi thăm và chúc mừng năm mới cho hai em."

Em Diệp viết: "Anh chị ạ, hiện nay em đã vào học ở Đại học Sư

phạm ngoại ngữ (khoa Pháp). Em ở nội trú. Tất cả ăn, ở nhà trường

đều lo liệu. Bọn em sống ở trường cũng vui lắm. Sáng ra mỗi đứa

lĩnh một nửa chiếc bánh mỳ, còn trưa, chiều ăn cơm. Mà anh biết

đấy, học trò thì thiếu gì trò ma quỷ, nghịch ngợm. Có dịp là bọn em

trêu nhau chết thôi, rồi ôm bụng mà cười, vui lắm. Cứ chiều thứ

bẩy là bọn em chỉ mong chóng "vù" về nhà thôi. Nói qua tình hình

của em như vậy cho anh chị biết. Còn tình hình gia đình thì vẫn

bình thường

À, mà bố đi an dưỡng về béo khoẻ lên nhiều, chân bố đỡ sệt

hơn, anh có thể yên tâm về sức khoẻ.

Còn tình hình của anh, chị dạo này thế nào? Chắc là vui vẻ hơn

xưa nhỉ. Mà khi nào anh chị về nhà được thì vui vẻ quá, có khi lại

thêm cô cháu nữa ấy chứ lại.

642

Anh Phúc, chị Thành dạo này cũng vẫn mạnh khoẻ, mà cái

Trang thì thích lắm, biết đi, biết nói rồi, hay lắm cơ. Hôm nào anh,

chị ra rồi biết.

Thôi, cuối thư em chúc anh chị mạnh khoẻ, vui vẻ, hạnh phúc "

Chú Lê Phương, chồng cô Chung tôi, viết: "Đã mấy năm qua rồi

Long nhỉ. Chú chẳng một lá thư nào thăm đứa cháu thương đã phải

xa nhà vì nhiệm vụ, thiếu mất tình cảm ấm êm của gia đình, chú

nhận khuyết điểm nhưng sửa chữa kể ra cũng rất khó đấy Long ạ!

đừng cười chú nhé vì là bản chất chú vốn là ngại và lười viết thư.

Long cháu thông cảm cho chú nhé.

Chú nghỉ làm việc nhưng vẫn tiếp tục tham gia công tác khối

phố vì cuộc sống chú cũng phải làm thêm sản xuất thủ công để có

đôi chút thu nhập nên chú cũng bận nhiều, còn cô và các em thì vẫn

làm việc và học tập. Tiến thì em đang chuẩn bị học nghề còn cậu

Quang học cơ khí ô tô, cậu Chiêu thì còn dẫm chân ở lớp 5, em của

cháu học dốt lắm, thích chơi hơn học, nhưng nói chung gia đình cô

chú đều mạnh khoẻ, thuận lợi nhất là hiện nay 2 gia đình bố mẹ

cháu và cô chú ở cùng một nhà. Gần nhau chạy lên chạy xuống

hàng ngày.

Hai gia đình rất mong nhớ cháu và đang hy vọng và chờ đợi

ngày gần nhất sẽ đón hai cháu ra Bắc về thăm gia đình để thoả nỗi

mong nhớ trong mấy năm qua. Bố mẹ cháu ngày càng có tuổi, sức

khoẻ cũng suy kém hơn trước nhiều, các em thì lớn cả cũng như đối

với Long, cháu cũng đã nhớn và trưởng thành trong khói lửa và

cách mạng. ở chiến trường là nguy hiểm là gian khổ - nhưng hiện

nay cô chú đỡ lo lắng và tạm yên tâm hơn trước vì bên cạnh cháu

nay đã có Ngân - người bạn đời thân yêu nhất của cháu - ngoài tình

thương và sự giúp đỡ của lãnh đạo, của tập thể còn có tình yêu của

Ngân. Hai cháu sẽ dẫn dắt nhau, giúp đỡ an ủi và động viên trong

công tác trong vui buồn và gian khổ. Ngân là y tá cũng là đồng

nghiệp với cô chú và cũng là người cháu dâu đồng hương. Tuy có

quan niệm và ấn tượng với một số anh chị em người miền Trung,

nhưng riêng đối với chú có khác, từ khi Long biên thư về lần đầu kể

qua về Ngân. Qua kinh nghiệm, hoàn cảnh cũng như tâm tư của

643

người đi chiến đấu xa gia đình và quê hương, chú rất đồng tình với

Long, chú chỉ hơi ngại là Long có cân nhắc, đắn đo và suy nghĩ kỹ

về tình yêu và xây dựng hạnh phúc gia đình chưa? - Nếu đã quyết

tâm thì tốt thôi, và Long và Ngân đã trả lời cho chú rõ rồi - nghĩa là

hai cháu đã thành vợ chồng. Một lần nữa chú chúc hai cháu Long

và Ngân hạnh phúc, luôn mạnh khoẻ và tiến bộ nhiều trong công

tác. Nhớ đến gia đình và cô chú là nhớ đến gìn giữ sức khoẻ và sự

tiến bộ trong công tác Long, Ngân nhé.

Chú cô chúc hai cháu luôn vui trong hạnh phúc

Chú Phương

Cô Chung tôi viết: "Hai cháu thông cảm cho cô, độ này cô quá

bận, nên chỉ gửi kèm theo vài hàng trong thư chú. Cô quá nghèo

nên cô chỉ gửi cho Ngân có 2 cái xu chiêng, 1 cái số 2 và 1 cái số 3.

Cháu mặc xem cái nào vừa gửi thư ra bảo nhé, nếu cái nào

không mặc vừa thì xem ai cần cho họ cũng được, thôi chúc hai cháu

khoẻ và hạnh phúc. Cả nhà lúc nào cũng chờ mong 2 cháu ra và rất

mong."

Cô Chung

644

Năm 1975

Ngày 14/1/1975

Trời hửng nắng.

Thế là mưa ròng rã hơn một tháng rồi, nay mới chịu tạnh.

Đáng sợ thật, hơn một tháng trời không một ngày ngừng mưa!

Liệu đã kết thúc mùa mưa chưa?

Trong Nam Bộ, tình hình phát triển tốt quá. Ta đã giải phóng

tỉnh lỵ Phước Long - lần đầu tiên tiêu diệt được cả tiểu khu quân sự

địch. Chắc Trung Bộ cũng sắp đánh.

Chúng tôi đi Trà Mi vào đầu năm 1975. Vẫn mưa. May có

đường ô tô nên khỏi phải vượt nhiều suối sâu. Đường lép nhép, đỏ

quạch. Đến sông Tranh, nước lên lớn quá, mấy vị lái đò không chịu

chở. Cà rà tán mãi mà chẳng ăn thua. Bên kia bờ, có mấy người

đứng, gọi tên anh lái đò ầm ĩ. Anh ta càu nhàu: "Qua đây, ai biết

tên tôi mà chẳng cố nhớ mà kêu!". Mãi sau, nhận ra người quen,

anh mới lấy thuyền ra bến.

Thuyền cao su bơm căng hơi, chở được 4 người, kể cả lái. Anh

lái thuyền to, mập, khoẻ mạnh. Ra giữa dòng, nhìn nước chảy chóng

cả mặt. Anh lái quạt mạnh mái chèo, mũi thuyền vừa hơi quay

ngược với dòng nước thì đã tạo ra một con sóng lớn muốn chồm vào

thuyền. Anh bảo: "Cứ ngồi im". Thuyền tiến vào bờ, cập đúng bến.

Anh chèo khoẻ thật, chỉ trôi chừng mấy mét thôi.

Từ 8/3//1975

Suốt mấy hôm nay không khí chung cũng như cơ quan thật sôi

động. Chuẩn bị một đoàn công tác gồm nhiều bộ môn để xuống

vùng mới giải phóng.

Ngày 4, ta đánh, cắt đứt đường 19.

645

Ngày 8, ta giải phóng quận Thuận Mẫn (Đắc Lắc)

Ngày 9, ta giải phóng quận Đức Lập (Đắc Lắc)

Sớm 10/3, đánh Phước Lâm, Tiên Phước, diệt 17 điểm chốt

xung quanh. Chiếm 2 đường phố của thị xã Buôn Mê Thuột. Các thị

xã Kon Tum, Plâycu nằm chơ vơ, không còn đường bộ tiếp tế. Trong

khi đó, các sư 3, 2, 22 nguỵ đang rải ra ở đồng bằng (Quảng Đà,

Quảng Ngãi, Bình Định). Việc điều bọn này đi ứng chiến đâu phải

chuyện dễ.

Ngày 10/3/1975

Tôi được phân công tham gia chiến dịch: làm Phó trưởng đoàn

đội quân tuyên truyền khu xuống vùng mới giải phóng làm nhiệm

vụ tuyên truyền, vận động quần chúng, ổn định tình hình.

Đoàn chúng tôi có 72 người, do anh Nguyễn Văn Bình làm

trưởng đoàn. Cùng đi, có 2 đoàn Dân ca và Tuồng của Khu. Nhà

văn Phan Tứ được Thường vụ Khu ủy cử cùng đi với đoàn chúng tôi.

Tôi đi trước bằng xe con để kịp thời nắm tình hình làm tin.

Buổi trưa, tạm biệt hậu cứ, với những người đồng chí thân mến và

người vợ trẻ, tôi khoác ba lô bước lên xe để tiến về Tiên Phước - quê

hương của vợ tôi, cũng là cửa ngõ chiến dịch xuống đồng bằng của

quân Giải phóng. Xe bon bon trên những con đường ô tô ta mở

xuống tận cơ quan huyện. Dọc đường, đầy những xe tải chở vũ khí,

quân đội, có cả những chiếc xe tăng hùng dũng.

Chiều, thấy 2 chiếc AD6 quần thả bom Tiên Phước. Chúng bay

trên cao. Những chùm đạn cao xạ của ta nổ bùm bụp, toả khói

trắng xung quanh.

Đêm, một C130 quần lượn, bắn ò ò một hồi rồi cũng cút. Địch

phản ứng yếu.

Ban chỉ huy tiền phương của chúng tôi đóng ở một vùng rừng

thưa, không dân, cách Tiên Phước khoảng trên chục cây số. Phải

646

đào hầm phòng phi pháo. Tối, làm việc sơ với Huyện ủy mới. Tình

hình phát triển rất nhanh. Toàn bộ địch ở Phước Lâm bỏ chạy. Ta

cũng đã tiến vào quận lỵ Tiên Phước. Kiểu này sẽ có nhiều tàn binh

lẩn trốn.

Có buổi, chúng tôi đang họp nghe báo cáo tình hình chiến sự

thì địch dội pháo tới, mảnh văng sàn sạt quanh hầm. Tôi muốn lao

ngay vào Tiên Phước, nhưng Ban chỉ huy vẫn trụ lại nơi này.

Ngày 11/3/1975

Trời nắng. Nghe pháo nổ ì ầm phía Tiên Phước. Nghe đã bắt

trên 100 tù binh, thu 10 pháo, 11 xe.

Ngày 12/3/1975

Ra trại tù binh. Trại này nhốt toàn lính Bảo an, Dân vệ.

Gặp anh Duk, người dân tộc Ka dong, du kích Bắc Bền, đang

đứng đón tù binh vào trại, tôi hỏi có bao nhiêu tên, anh cười hồn

nhiên: "Nhiều quá, mình không biết đếm!"

Anh em trong trại mời tôi nói chuyện với bọn tù binh. Tôi nhấn

mạnh rằng tình hình chiến sự đang sôi động, quân cách mạng đã

toả xuống đồng bằng, làm chủ hầu hết địa bàn, do vậy, tốt nhất là ở

yên trong trại, đừng tìm cách trốn chạy mới mong an toàn tính

mạng. Có một tên chuẩn uý Bảo an mắc bệnh xã hội, lở lói cùng

mình, tôi bảo anh em coi trại thả ra, cho nó về nhà chữa bệnh.

Từ ngày 13/3/1975

Sốt ruột quá, tôi rời Ban Chỉ huy tiền phương để vào Tiên

Phước. Không thể cứ ngồi ở căn cứ mà nghe ngóng mãi. Phải tận

mắt chứng kiến những biến động lịch sử hiện nay, tận mắt chứng

kiến cảnh nhân dân phá khu dồn, về vùng giải phóng và làm chủ

vùng mới giải phóng. Hai xe của đoàn anh Bình đã đi Tiên Phước

trước tôi rồi.

Nghe tin cả 2 xe của đoàn bị đổ. Chắc chạy đường rộng, tốc độ

nhanh, không quen! May không ai chết.

647

Hồi nửa đêm về sáng nghe pháo ta nổ cấp tập hướng Dương

Con. Bọn Biệt động lên phản kích đóng ở chân núi này.

Thị trấn dưới quyền kiểm soát của chúng ta có gương mặt sáng

lạn, hồ hởi. Tôi viết một bài ghi nhanh gửi về Khu, sau đó nghe trên

đài Tiếng nói Việt Nam đã thấy phát sang sảng. Tôi làm việc cật

lực: khai thác tài liệu, viết tin, rồi ngồi quay ragono (máy phát 15

Wat) để điện báo viên chuyển tin về Khu... Khoẻ mạnh và hồ hởi, ít

ăn, quên ngủ, lòng tràn ngập niềm vui.

Thật là sung sướng, Thuý Ngân, vợ tôi, cũng được tham gia

chiến dịch và dịp này đã nhập vào đoàn quân của tôi. Thế là không

những chúng tôi được kề vai sát cánh trên chiến khu cùng nếm trải

mọi nỗi nhọc nhằn, mà còn được gắn bó với nhau trên đường giải

phóng quê hương đầy vinh quang. Chúng tôi gặp được người nhà

của Ngân vừa bung từ khu dồn về, mừng mừng tủi tủi, ôm nhau

khóc hoài. Má Nga - mẹ kế của Ngân, người đã có công nuôi Ngân

từ tấm bé - đang ở tạm nhà của một người dân ở xã Phước Kỳ, gần

thị trấn Tiên Phước, kể cho chúng tôi nghe chuyện khổ cực những

tháng năm nằm trong vùng kìm kẹp của địch. Vậy mà Má vẫn giữ

nguyên 5 chỉ vàng do ba Ngân giao cho lúc Ông sắp hi sinh, và dúi

vào tay Ngân! Ôi, lòng người mẹ nào cũng mênh mông như trời

biển, không ai lường hết được tình yêu thương, đức hi sinh cao cả

của Người! Chúng con xin nhận ở Má trọn vẹn tình cảm sâu nặng,

còn hơn ruột thịt, nhưng xin Người giữ lấy chút của để về quê gây

dựng cuộc sống mới! Bây giờ, Má thiếu mặc, thiếu cả muối. Chúng

tôi đang trên đường đi chiến dịch, chỉ kiếm được cho Má 3 lon muối

và mấy bộ quần áo cũ!

Tình hình dân bung từ các khu dồn về cũng giống gia đình má

Nga: thiếu gạo, muối, mì chính. Chính quyền cách mạng đã tổ chức

cho quần chúng mua lương thực, mở các cửa hàng bán lương thực,

thực phẩm cho dân ở Phước Hiệp, Kỳ Sơn. Tuy vậy, nhiều người

cũng không có tiền để mua hàng hóa. Chính quyền giải quyết bằng

cách vận động nhân dân giúp nhau, trường hợp quá khó khăn thì

cho mua chịu.

THƯ GIA ĐÌNH

648

Hà Nội, ngày 17/3/1975

Long yêu dấu của bố mẹ!

Ngân dâu hiền của bố mẹ!

Dịp Tết gia đình đã nhận được thư của hai con. Đọc thư của

Ngân, bố mẹ rất cảm động vì thấy rõ tính chân thật và hiền lành

của con. Bố mẹ rất mừng vì đã có dâu hiền. Bố được nghe 2 lần

băng ghi âm lễ cưới của các con trong ấy, nghe được tiếng của con

trai và con dâu của bố mẹ. Chân thành cám ơn sự quan tâm của các

đoàn thể trong đó trong việc xây dựng hạnh phúc và tương lai của

hai con, chỉ còn mong các con được nghỉ phép một số ngày để ra

thăm bố mẹ, các em và họ hàng. Mong thì mong như vậy, song cũng

thấy rõ ràng cách mạng miền Nam, đặc biệt trong lúc bố viết thư

này, đang có một sự chuyển biến lớn. Miền Nam đang cần có những

cán bộ có đạo đức và khả năng, như vậy việc con nghỉ phép ra ngoài

này khó mà có thể thực hiện được. Tuy nhiên mong thì vẫn mong,

nhất là mẹ con thì mong ngày mong đêm, mong sao được gặp con

trai và con dâu, dù chỉ trong một ít ngày. Bác Nhung ở trong đó ra

ngoài này đã kể chuyện gặp Long cho bố mẹ nghe. Các thứ con gửi

ra ngoài này như khăn voan, bít tất, quần áo cho cháu Trang... mẹ

đều nhận được đủ cả.

Bố đi chữa bệnh ở Quế Lâm (Trung Quốc) từ 15/9 đến

19/12/1974 thì về nước. Lúc mới về, sức khoẻ có hồi phục được một

phần, đi lại cũng khá, nhưng đến nay bệnh lại trở lại. Bệnh chính

là xơ cứng động mạch kèm theo xơ nghẽn mạch não. Chân tay phải

bị yếu và hơi bị liệt. Bố đã dùng cao gấu con gửi ra. Bố thấy sức

khoẻ chung có đỡ, song chân tay mỗi ngày một yếu thêm.

Bố rất lo nếu bệnh phát triển theo hướng xấu thì sẽ bị liệt hẳn.

Mẹ cũng lo chạy thuốc cho bố nhiều lắm.

Từ khi đi chữa bệnh ở Trung Quốc về bố vẫn nghỉ và chữa bệnh

ở bệnh viện Việt Xô, ngoại trú, thuốc men mỗi ngày một hiếm con ạ.

Hết năm nay bố sẽ về hưu đúng tuổi.

649

Các em ở nhà vẫn đi học như thường. Thuỷ năm nay hết cấp 2,

học lực yếu, nên cũng lo. Lan học khá, em được vào thẳng lớp 8,

không phải thi. Em học khá lại quán xuyến được việc nhà.

Em Diệp đang học tiếng Pháp ở Khoa tiếng Pháp trường Đại

học Sư phạm ngoại ngữ Hà Nội. Em học tốt, tiến bộ nhanh, có triển

vọng. Bố vẫn phù đạo thêm cho em.

Ngọc vẫn học tiếng Anh ở Đại học Sư phạm ngoại ngữ. Em vẫn

học tốt, song chưa có từ điển Anh Việt, em cũng bị hạn chế.

Con xem trong đó có từ điển Anh - Việt và Anh - Anh con mua

cho em, tạo điều kiện tốt cho em đọc sách.

Thư con gửi nên đề địa chỉ về khu tập thể Kim Liên, đừng gửi

về Bộ Đại học vì bố được phép làm việc ở nhà, chỉ lên Bộ khi có hội

nghị, hay họp làm việc mà thôi.

Vợ chồng em Phúc và cháu Trang vẫn khoẻ mạnh, sống hoà

thuận vui vẻ. Còn em Việt từ Tết đến giờ chưa biên thư về, mẹ hơi

sốt ruột.

Anh Đức đến 22/3 này thì cưới vợ. Anh đã chọn chị Hoà, sau

một thời gian tìm hiểu và tự anh quyết định.

Các con nên năng biên thư cho bố mẹ. Long có đi công tác lâu

thì Ngân biên thư về. Tuy chưa gặp mặt song bố thấy Ngân có

nhiều đức tính tốt, qua thư Ngân viết cho bố mẹ.

Chúc hai con khoẻ mạnh, hạnh phúc.

Bố mẹ

Phạm Đức Hoá

TB. Anh Sâm vào, mẹ gửi cho con 50 đ + hơn 1 kg mứt mẹ làm.

650

Bài đăng trên Bản tin đấu tranh thống nhất, trên báo Cờ giải

phóng, phát trên đài Tiếng nói Việt Nam:

Tiên Phước những ngày sôi động

Hà Nội (VNTTX 21-3-1975) Suốt mấy ngày nay, cả huyện Tiên

Phước sống trong bầu không khí sôi động lạ thường. Cái ổ ung nhọt

lớn của bọn Thiệu gây nhức nhối bấy lâu trên vùng đất này, đã bị

quân và dân ta phá vỡ. Hai chi khu quân sự, 74 chốt điểm địch đã

dày công xây dựng bỗng chốc biến thành tro bụi. Sáu tiểu đoàn bảo

an, 39 trung đội dân vệ, 32 liên toán phòng vệ dân sự, cùng toàn bộ

hệ thống kìm kẹp của bọn Thiệu bị đánh tả tơi.

Trong những ngày đầu giải phóng, đi trên những con đường ô

tô xuyên huyện hoặc những con đường mòn xuyên xã, tôi gặp nhiều

tù binh lếch thếch kéo nhau về trại. Bên bờ sông Tiên, chừng gần

trăm tên đang ngồi chờ dẫn lên tuyến trên. Tôi gặp một tù binh tên

là Lê Trường Sổ, 17 tuổi, cấp bậc binh nhì, thuộc đại đội 1, tiểu

đoàn 135 địa phương quân, đóng ở Dương Bàn Quân. Sổ cho biết

trước khi bị tấn công, đơn vị hắn đã nhịn đói hai ngày vì sợ nấu cơm

có khói, quân Giải phóng pháo kích. Hôm bị tấn công, ngay từ mấy

loạt pháo đầu, cả đơn vị hắn đã bỏ chạy, vậy mà cũng không tránh

khỏi những đòn trừng trị. Hẳn kể: Sáng ngày 10-3, đạn pháo của

quân Giải phóng nổ trúng ngay giữa đồn, giết chết 20 tên. Tên

Truyền, tiểu đoàn trưởng, nói với bọn hắn: "Pháo quá trời, chịu chi

thấu, chạy bớ tụi bay". Rồi tên Truyền biến mất. Đơn vị hắn chạy

tan tác mỗi đứa một ngả. Hắn mò đến chân núi thì vì mệt và đói,

không chạy nổi nữa.

Được biết trong số tù hàng binh có tên thiếu uý Thê, phân chi

khu trưởng phân chi khu Phước Lộc, sau khi bị bắt, đã dùng loa

kêu gọi đồng bọn ra hàng, tôi liền đến hỏi chuyện. Thê cho biết, tuy

đồn hắn chưa bị tấn công, nhưng thấy đồng bọn ở Dương Ươi bị tê

liệt trong phút chốc và bị mất liên lạc với chi khu, hoảng sợ quá,

đơn vị hắn đã bỏ chạy. Tôi hỏi hắn nghĩ thế nào mà kêu gọi đồng

bọn ra hàng, hắn nói, trước đây hắn bị lừa dối, nay bị bắt, được cách

mạng đối xử nhân đạo nên làm việc đó để lấy công chuộc tội, và

cũng để đồng ngũ được hưởng lượng khoan hồng như hắn.

651

Tôi còn hỏi chuyện các tên trung uý Phan, thiếu uý cảnh sát

Nguyễn Minh Cứ, thiếu uý Trần Văn Song và nhiều tên khác, tên

nào cũng thể hiện sự khiếp sợ của mình trước sức tiến công vũ bão

của quân Giải phóng, và oán trách cấp trên của chúng đã cưỡng

bức, lừa dối. Họ đều biết ơn cách mạng đã đối xử nhân đạo với binh

sĩ Sài Gòn bị bắt.

Rời đám tù binh, tôi đi tới trạm lương thực của huyện. ở đây,

công việc thật nhộn nhịp, xe tới lui, người qua lại chuyển gạo như

thoi đưa. Tôi gặp đồng chí Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cách mạng

huyện, đẫm mồ hôi, đang vác một bao gạo lớn chất lên xe. Đồng chí

Chủ tịch tuy bận việc suốt ngày đêm, nhưng hôm nay cũng tranh

thủ ra giúp đội công tác chuyển gạo về vùng mới giải phóng. Vùng

giải phóng mở ra rộng, thật phấn khởi, đồng thời cũng thật nhiều

công việc phải lo toan. Việc trước mắt là phải thu xếp nơi ăn, chốn ở

cho đồng bào từ các khu dồn về, hoặc sơ tán từ những nơi ác liệt

đến. Gạo trên đã cấp, huyện phải lo chuyển tới tận tay bà con. Công

sức dồn vào đây không phải ít. Hàng chục thanh niên xung phong

và cán bộ phía sau của huyện hăng hái làm việc đó.

Với tấm lòng "nhiễu điều phủ lấy giá gương", đồng bào vùng

giải phóng cũ đã cùng cán bộ dựng nhà giúp đồng bào mới giải

phóng. Những ngày trước đây, bà con đã chuẩn bị sẵn mỗi nhà 10

cây tre, tranh, hom, lạt... Bởi vậy nhà cửa cứ đua nhau mọc lên.

Trong khi ấy, đồng bào cũng đua nhau bung về. Từ 10, 20 tăng lên

50, 55 người. Lo cho dân ăn ở, chính quyền cách mạng còn chăm lo

sức khoẻ cho dân nữa. Anh Hoàng, phụ trách y tế huyện, cho biết:

huyện đã tổ chức được một nhà thuốc, lập hai đội phẫu, một đội sơ

cứu, 10 tổ y tế lưu động đi khắp các xã, thôn chăm nom sức khoẻ

cho đồng bào. Tới một khu nhà mới dựng, xung quanh quét dọn

sạch sẽ, tôi gặp hai cán bộ y tế đang phun thuốc trừ muỗi. Anh

Hoàng cho biết đồng bào ở trong khu đồn sống cơ cực nên sức khoẻ

yếu. Vì thế, chính quyền cách mạng đã lo ngăn chặn dịch bệnh cho

đồng bào từ đầu. Tất cả bà con mới về đều được uống thuốc phòng

sốt rét kèm thuốc bổ để trợ sức.

Đem theo niềm vui của những người dân mới được giải phóng,

tôi rảo bước theo con đường tiến về quận lỵ. Nhìn cảnh những chốt

652

điểm, đồn bót địch như Dương Dẽ, Dương Ươi, điểm cao 211 v.v..

tan hoang xơ xác, nằm phủ phục dưới bầu trời trong xanh, nhìn

cảnh những xóm làng vừa thoát khỏi ách kìm kẹp của địch đang đổi

sắc thay da, lòng người nào chẳng bồi hồi xúc động. Cuộc sống thay

đổi nhanh quá. Chỉ vài ngày sau khi bọn địch bị quét sạch, chính

quyền cách mạng các thôn, xã đã ra mắt, lãnh đạo nhân dân ổn

định đời sống. Cán bộ tỏa đi tìm dân tạm lánh khi xảy ra chiến sự,

đưa về nhà cũ. Cán bộ trông nom, bảo vệ tài sản cho dân. Đồng bào

trở về nhà ngày càng nhiều; khắp các xã đều có những cuộc mít tinh

chào mừng ngày Giải phóng. ở xã Phước Lâm - nơi bọn tề lưu vong

của quận Hậu Đức đặt làm quận lỵ - có tới trên 700 người dân dự

mít tinh. Mọi công việc nhanh chóng vào nề nếp. Bà con cuốc khoai,

xắt khoai, sửa lại bờ xe nước, đào hầm, dựng lại nhà cửa...

Và đây, quận lỵ Tiên Phước đã hiện ra trước mắt tôi với bộ mặt

thật rạng rỡ. Đường tấp nập xe, người qua lại. Chợ quận và các cửa

hàng tạp hoá, thực phẩm, gạo... người tới lui, mua bán tấp nập.

Trên nóc nhà thông tin của địch trước đây, lồng lộng tung bay lá cờ

xanh đỏ sao vàng. Nổi bật trên cổng chợ tấm băng đỏ mang dòng

chữ lớn: "Kiên quyết đánh bại âm mưu phản kích lấn chiếm của

địch, bảo vệ và giữ vững thành quả cách mạng". Tôi được biết băng

khẩu hiệu đó do chính tay những thanh niên ở quận lỵ mới giải

phóng này căng lên. Những thanh niên ấy giờ đây không còn phải

trốn chui trốn lủi nữa. Họ hớn hở tự do đi trên đường phố làm

những việc có ích cho quê hương. Họ xoá các dấu tích của địch, viết

khẩu hiệu, treo cờ, dán thông báo, mệnh lệnh của cách mạng. Họ

nhanh chóng đứng vào các tổ chức cách mạng. ở đây vừa thành lập

bốn chi hội thanh niên giải phóng.Trong buổi lễ, thay mặt cho các

bạn, cô Phấn phát biểu: "Em không nói nhiều nhưng những hành

động của em và các bạn em sẽ nói lên tình cảm của chúng em đối

với cách mạng". Tôi biết, trong mấy ngày qua, Phấn không nề hà

một việc gì khi cán bộ phân công: nào viết khẩu hiệu, dán mệnh

lệnh, nào vận động, tổ chức thanh niên vào đội ngũ. Cứ như thế,

Phấn và lớp thanh niên ở đây đang mạnh bước tiến theo con đường

mà cách mạng mở ra cho họ - con đường của người thanh niên thế

hệ Hồ Chí Minh.

Cùng với thanh niên, các đoàn thể quần chúng khác như thiếu

niên, phụ nữ, phụ lão... đã được thành lập. Đội Thiếu nhi giải

phóng mới thành lập đã trống dong cờ mở, đi cổ động, mừng cuộc

653

sống mới. Các bậc cha mẹ, anh chị gấp rút tiến hành những công

việc góp phần giành giữ quê hương. Bà con nhanh tay đào nhiều

hầm hào phòng tránh bom đạn. Bác Lê Tới là người đầu tiên đào

hầm phòng tránh và vận động bà con trong phố cùng đào. Từ dãy

phố ấy, hầm hố lan ra khắp nơi. Mỗi suy nghĩ, mỗi việc làm của

người dân Tiên Phước đều nói lên lòng tin tưởng và quyết tâm giữ

vững quê hương giải phóng của mình. Khi kể cho tôi nghe những

chuyện trước đây về bọn địch, như chuyện một người lính nguỵ tự

chọc kim và đổ mủ xương rồng vào mắt để khỏi phải ra trận,

chuyện cả đại đội Bảo an góp tiền lo lót cho tên chỉ huy tiểu đoàn để

khỏi phải đóng quân ở nơi nguy hiểm, chuyện vừa qua có đơn vị đã

bỏ chạy trước khi bị ta tấn công, một công nhân xe thồ kết luận:

"Chúng nó nhất định phải thua trước sức mạnh tấn công và nổi dậy

của ta".

Tin vào chính sách khoan hồng của cách mạng, những gia đình

có người thân cầm súng cho địch đã đi kêu gọi chồng con còn lẩn

trốn trở về. Chị Vân ở thôn Bình An gọi về một lúc sáu lính dân vệ.

Anh Niệm đã dẫn 7 lính tới đăng ký và nộp vũ khí cho cách mạng. ở

các địa điểm đăng ký, lúc nào cũng có người đến xin được tiếp nhận.

Tại nơi đăng ký ở trung tâm quận lỵ, một lính dân vệ xin trở lại nơi

lẩn trốn để lấy vũ khí về nộp, sau đó đã về nộp 1 súng M.79 và

nhiều đạn. Anh ta được cấp giấy và trở về nhà. Lúc tôi đến, bà mẹ

vợ anh ta mừng mừng tủi tủi nói: "Thiệt may phúc, tôi tìm gặp, kêu

được hắn về".

Bà con ở đây hiểu rằng, những người đã lầm đường lạc lối theo

địch, nay ra đăng ký với cách mạng thật là có phúc lớn, nếu không

sẽ chết uổng mạng. Con số người ra đăng ký tăng lên vùn vụt, từ

hàng chục lên hàng trăm. Đến nay, toàn huyện đã có gần 600 binh

lính, sĩ quan, cảnh sát và nhân viên nguỵ quyền Sài Gòn đem theo

nhiều vũ khí, tài liệu ra đăng ký với cách mạng và đã được đối xử tử

tế.

Về chiều, quận lỵ Tiên Phước càng đông vui. Mọi người ra

đường nghe loa truyền thanh, xem tranh ảnh, áp phích của cách

mạng.

654

Tiên Phước sôi động, náo nức và cảnh giác. Trưa hôm nay 17-3,

một máy bay A37 của địch mò đến xâm phạm vùng giải phóng đã bị

quân và dân trong vùng quật tan xác, đâm đầu dưới chân núi Sấu.

Đòn trừng trị lũ giặc trời, bảo vệ vùng giải phóng càng làm nức lòng

quân dân Tiên Phước - động viên họ thừa thắng xốc tới lập những

chiến công vang dội hơn nữa.

(Ghi nhanh của Việt Long - Phóng viên TTXGP).

Ngày 24/3/1975

Nghe tin giải phóng Tam Kỳ.

Dân túa ra đường vỗ tay reo hò. Có người khóc vì vui mừng.

Những chiếc Honda lao vùn vụt về phía đường số một.

Ngày 25/3/1975

Tiến vào Tam kỳ. Đông vui tấp nập.

Lại gấp rút lấy tài liệu làm một bài ghi nhanh đầy không khí

sôi động ở nơi này.

Ngày 26/3/1975

Đoàn công tác sẽ chia làm hai: một về Khu để chuẩn bị cho kế

hoạch tuyên truyền lớn hơn, một tiếp tục ở lại Tam Kỳ. Vợ chồng tôi

cũng chia hai - tôi về Khu. Bây giờ, Ngân trở thành người tiền

tuyến, tôi là người hậu phương, lo cho Em nhiều.

Ngày 28/3/1975

Nghe tin sắp giải phóng Đà Nẵng. Lên ô tô xuôi xuống. Đường

xấu, tắc luôn. Dọc đường, hàng hàng lớp lớp bộ đội hành quân

xuống đồng bằng. Đêm mới tới đường số một.

655

Ngày 29/3/1975

Sớm tinh mơ. Đường đầy người, dân có, lính có, từ Đà Nẵng

tràn về.

Mưa tầm tã.

Qua cầu Bà Rén.

Tắc đường, phải để ô tô lại. Đón Honda đi. Người chở tôi đi là

một trung niên, anh tự giới thiệu anh là y tá ở bệnh viện Đà Nẵng.

Anh hết sức vui vẻ, tự giác chở tôi vào Đà Nẵng. Mưa như roi quất

vào mặt. Qua cầu Câu Lâu. Cầu bị địch đánh sập khi sắp rút chạy.

Xuồng máy đầy sông. Sóng nước dào dạt. Anh y tá mua dưa hấu

mời chúng tôi. Dưa đỏ au, đầy cát, ngọt lịm.

Bon bon trên đường số một. Qua Duy Xuyên, Vĩnh Điện. Vào

thành phố. Đông vui lạ thường. Còn nguyên vẹn cả. Vào các nhà

dân, bà con xúm lại thăm hỏi, đón mừng. Bỗng đó mà đã ở thành

phố rồi, đã được sống trong lòng dân rồi. Rất nhiều người muốn

biếu tôi đồng hồ, quần áo, máy ghi âm, tôi cảm ơn và từ chối. Bây

giờ được hưởng cái vinh quang của người chiến thắng, thật bõ

những ngày gian khổ, ác liệt. Đoàn công tác của Ngân từ Tam kỳ

cũng đã về đến Đà Nẵng. Thế là hai chúng tôi được đi với nhau đến

tận cùng cuộc chiến!

Tôi viết nhiều tin, bài, trong đó có bài sau:

Phường nam phước giành chính quyền về tay nhân dân

Hà Nội (VNTTX 8-4-75) - Tới phường Nam Phước (Đà nẵng), tôi

ghé vào thăm thím Học, công nhân khuân vác. Nghe tôi hỏi về cuộc

sống trước đây dưới chế độ Thiệu, thím than vãn: "Tôi đi khuân vác

kiếm tiền, lang thang rứa đó, bữa có việc thì có ăn, bữa không có

việc thì đi mượn gạo không nổi!". Tôi hỏi tiếp:

- Trước lúc giải phóng, tình hình Đà Nẵng ra sao?

656

- Lúc đó cả thành phố các sắc lính nguỵ thua chạy tràn đường,

ăn cướp, bắn giết không gớm tay. Nhưng bà con nổi dậy đồng thời

phối hợp với quân Giải phóng nên bọn Thiệu phải thua...

Vừa lúc đó, nhà thím Học có khách và đó là dịp may để tôi được

biết rõ mọi chuyện hơn. Trước khi nhận lời kể chuyện, ông khách có

mái tóc bạc từ tốn nói với tôi:

- Xin lỗi, đồng chí cho xem giấy.

Sau khi xem kỹ tờ giấy giới thiệu có con dấu đỏ của Uỷ ban

Nhân dân cách mạng thành phố, bác nói :

- Tôi là Sum, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cách mạng khóm

Đinh Thọ. Đồng chí thông cảm, hiện nay thành phố mới ổn định,

cũng phải đề phòng bọn phản động đội lốt cán bộ.

Và bác kể cho tôi nghe chuyện phố, chuyện phường những ngày

hỗn độn rồi những ngày sôi nổi vừa qua.

Cuối tháng 3, thị xã Tam Kỳ và thành phố Huế được Giải

phóng làm cho bọn địch ở Đà Nẵng vô cùng khiếp sợ. Binh lính

nguỵ các loại từ "Cộng hoà", "Thuỷ quân lục chiến", biệt động quân

tới địa phương quân, vốn đã vô chính phủ càng vô chính phủ, tha hồ

cướp bóc, phá phách trước khi rút chạy. Ngoài đường, trong nhà

luôn luôn xảy ra những vụ cướp, giết trắng trợn. Chỉ trong hai ngày

27 và 28-3, ở khóm Đinh Thọ đã có 8 đồng bào bị tụi lính bắn chết

giữa đường để cướp của. Ngoài ra, số bị đánh đập, bị thương không

kể xiết. Tại chợ Cồn, chợ Hàn và khu thương mại Diên Hồng, tất cả

các sạp hàng đều bị nậy nắp lấy đồ. Không hiệu buôn nào không bị

phá cửa, cướp của. Tiếng kêu khóc, rên xiết và nguyền rủa của đồng

bào vang lên khắp các đường phố, các ngõ hẻm.

Giữa lúc ấy thì được nghe lời kêu gọi ngày 28-3 của Uỷ ban

Nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà nẵng và tin

quân Giải phóng đang từ ba hướng tràn về thành phố.

657

Đồng bào Nam Phước vô cùng phấn khởi. Thời cơ nổi dậy giành

chính quyền về tay nhân dân đã đến. Tại làng Nam Dương, các bác

Chính, Sum, Lực, Ba, Tấn, Liễu - những cán bộ và cơ sở cách mạng

hoạt động bí mật trong lòng địch hàng chục năm nay - họp bàn kế

hoạch hành động. Sau đó, từng người về các khóm trực tiếp chỉ đạo

quần chúng nổi dậy. Dọc các đường phố, các ngõ hẻm, nhà nhà vẫn

đóng cửa, nhưng bên trong đều chứa đựng một sự chuyển động như

sóng ngầm. Súng do bọn địch cấp cho lực lượng gọi là "Nhân dân tự

vệ" được tập trung lại, trang bị cho những thanh niên giác ngộ. Vải

mầu được chuyển về gấp. Nhiều máy may được dựng lên, chạy liên

tục không nghỉ, may hàng loạt cờ Cộng hoà miền Nam Việt Nam.

Từng băng khẩu hiệu lớn viết bằng sơn đỏ nhanh chóng xuất hiện.

Và trưa ngày 29-3, lúc quân Giải phóng xuất hiện, tiến vào thành

phố, thì nhân dân Nam Phước cũng xuống đường. Hai chiếc ô tô con

chở cán bộ cách mạng và lực lượng tự vệ phường có vũ trang chạy

chầm chậm trên đường phố. Tiếng loa phóng thanh vang vang:

"Đồng bào hãy vùng dậy cướp chính quyền!", "Hãy lật đổ Thiệu!".

Tiếng reo hò, hô khẩu hiệu của đồng bào lan khắp các đường phố,

náo động cả không trung.

Chiếc xe đi đầu do anh Lượm, công nhân xe lam, lái chạy dọc

đường Huỳnh Thúc Kháng. Bên cạnh lá cờ cách mạng và dòng chữ

đỏ trên nền vải trắng "Hoan hô chiến thắng của Quân Giải phóng"

là 10 chiến sĩ tự vệ súng chắc trong tay. Xe dừng lại trước trụ sở

nguỵ quyền phường Nam Phước. Một thanh niên vác cờ cùng một

phụ nữ xuống xe. Đó là Bùi Xuân Lan, 17 tuổi, học sinh lớp 11

trường Kỹ thuật, và chị Lê Thị Liễu, 30 tuổi, tù chính trị mới phá

ngục ra sáng nay. Chị Liễu giúp sức em Lan leo lên hàng rào. Trong

phút chốc, lá cờ Chính phủ cách mạng tươi thắm nở xoè trước gió,

tung bay trên hàng rào trụ sở nguỵ quyền phường Nam Phước. Một

tên nguỵ quyền ngoan cố chạy ra lên đạn, giương súng về phía em

Lan, lập tức anh Lượm đập cửa, xông tới cướp khẩu súng của nó.

Cùng lúc ấy chiếc ô tô thứ hai lách lên, tiến qua cửa, vào đỗ giữa

sân trụ sở. Bác Mai Xuân Lực, công nhân điện nước, và bác Đỗ Văn

Kính, giáo viên, bước tới cột cờ hạ lá cờ ba que xuống, kéo cờ của

Chính phủ Cách mạng lên. Lá cờ bay phấp phới vẫy gọi đồng bào

khắp các phố ùa đến. Ông Đỗ Văn Kỉnh đứng vươn cao người, trịnh

trọng đọc lời kêu gọi của Uỷ ban Mặt trận dân tộc Giải phóng và Uỷ

658

ban Nhân dân cách mạng tỉnh Quảng Đà và thành phố Đà nẵng.

Ông vừa dứt lời, tiếng hoan hô của đồng bào dội lên như biển động:

- Hoan hô Quân Giải phóng!

- Hoan hô Chính quyền Cách mạng!

Tiếng reo hò, tiếng hô khẩu hiệu quyện vào nhau, truyền lan

khắp các phố.

Chiếc xe tiếp tục chạy giữa hai hàng người nối dài vẫy chào. Xe

bon bon lướt trên đường Phan Chu Trinh, Chu Văn An, quặt qua

đường Hoàng Diệu, vượt lên đường Lê Đỉnh Dương, thẳng tới đường

Trưng Nữ Vương. Cờ cách mạng lần lượt xuất hiện trên nóc trụ sở

nguỵ quyền các khóm. Hình cờ ba que vẽ trên tường nhà máy điện

cũng được thay thế bằng lá cờ đỏ xanh sao vàng tươi thắm.

Đồng bào xuống đường mỗi lúc một đông. Anh Sơn, cán bộ cơ

sở, và anh Chính, công nhân, cưỡi xe Hon - đa, từ làng Nam Dương

tới thằng toà Thị chính thành phố treo cờ cách mạng. Lá cờ lộng gió

tung bay trên nóc toà Thị chính, đánh dấu giờ phút trọng đại: chính

quyền phản động tại thành phố Đà nẵng đã bị đánh đổ, nhân dân

Đà Nẵng đã hoàn toàn làm chủ thành phố quê hương. Lúc đó là 15

giờ 30 phút ngày 29 tháng 3 năm 1975.

Phường Nam Phước chuyển ngay qua nhịp sống mới. Uỷ ban

Nhân dân cách mạng phường và các khóm được thành lập, đặt trụ

sở tại các trụ sở nguỵ quyền phường, khóm cũ. Những người trước

đây cầm súng hoặc làm việc cho địch lần lượt kéo đến các trụ sở Uỷ

ban Nhân dân cách mạng trình diện, nộp vũ khí, tài liệu và nhận

giấy chứng nhận của chính quyền cách mạng. Trong ngày 30 - 3 có

tới 1.009 người tới trình diện, nộp vũ khí, tài liệu.

Lực lượng cách mạng vùn vụt phát triển. Mỗi nơi đều thành lập

một trung đội thanh niên võ trang, thường xuyên canh gác, tuần

tra, giữ gìn trật tự an ninh. Anh chị em công nhân, lao động phấn

khởi đến nhà máy, xí nghiệp làm việc theo tinh thần mới, tinh thần

xây dựng, làm người chủ thật sự. Anh em công nhân lái xe chạy

659

không biết mệt, chở đồng bào bị giặc cưỡng bức di cư trở về quê cũ.

Thanh niên, học sinh hăng hái tham gia lực lượng sinh viên học

sinh bảo vệ thành phố Đà nẵng, làm nhiều việc cụ thể như cổ động,

tuyên truyền chiến dịch, dọn vệ sinh đường phố v.v... Các mẹ, các

chị tự động bảo nhau đem quà đến trụ sở Uỷ ban Nhân dân cách

mạng để chuyển đến các chiến sĩ Giải phóng. Trước đây, trong giờ

phút tàn lụi của chế độ Thiệu, bà con phải đóng chặt cửa bao nhiêu,

thì nay sống với chính quyền cách mạng, bà con mở rộng lòng bấy

nhiêu, chăm lo cho các chiến sĩ cách mạng.

Tạm biệt bác Sum và thím Học, tôi bước đi trên đường Huỳnh

Thúc Kháng trong bầu không khí tĩnh mịch cuối đêm. Qua mỗi ngã

ba, tôi lại gặp một tốp thanh niên đeo băng đỏ, bồng súng đứng

canh cho giấc ngủ của thành phố. Phường Nam Phước và cả thành

phố Đà Nẵng đang ngủ ngon để chuẩn bị bước vào một ngày mới sôi

nổi, khẩn trương ./.

Việt Long (Phóng viên Thông tấn xã Giải phóng)

Ngày 10/4/1975

Báo Cờ giải phóng, cơ quan của ủy ban Mặt trận giải phóng

khu Trung Trung Bộ, liên tiếp đăng tin, bài phản ánh khí thế tấn

công và nổi dậy khắp nơi. Trong số 207 ra ngày 10 tháng 4, báo

đăng tin ta đã giải phóng hoàn toàn khu Trung Trung Bộ. Báo đăng

tin tổng hợp nêu rõ: Trong thời gian 1 tháng (từ ngày 4 tháng 3 đến

ngày 3 tháng 4 năm 1975), quân và dân Trung Trung Bộ đã liên tục

tấn công và nổi dậy, giành thắng lợi lịch sử: giải phóng hoàn toàn

Khu, gồm 9 tỉnh, 3 thành phố và tất cả các thị xã, thị trấn với 5

triệu dân, loại khỏi vòng chiến đấu 30 vạn tên địch, thu hàng vạn

súng các loại, thu và phá hủy 4.000 xe quân sự, bắn rơi, phá hủy và

thu hồi 300 máy bay. Báo còn đăng bài, ảnh của anh em phóng viên

Thông tấn xã chúng tôi từ khắp các chiến trường gưỉ về: Việt Long

với bài Đà nẵng tưng bừng ngày hội giải phóng cùng 2 ảnh về sinh

hoạt ở vùng giải phóng, Dương Đức Quảng với bài Thị xã Quảng

Ngãi ngày giải phóng vui như hội, Phước Huề với bài Số phận bi

thảm của Sư đoàn 23 ngụy, Hồng Phấn với ảnh Công nhân nhà

máy điện Công Tum kiên quyết bảo vệ nhà máy không cho địch phá

660

hoại và nhanh chóng đưa nhà máy trở lại hoạt động bình thường,

và Quang cảnh trước hội trường Diên Hồng thị xã Plây - cu...

THƯ GIA ĐÌNH

Ngày 12/4/75

Anh Long, chị Ngân kính mến!

Chắc dạo này anh Long bận lắm nhỉ! Đi luôn để viết tin mà lị,

bận nhưng chắc là vui lắm, nhưng dù bận đến đâu anh cũng hãy

tạm vui lòng dừng lại để đọc những dòng tình cảm của em, đứa em

gái nhỏ của anh, anh nhé.

Anh Long, chị Ngân ở trong đấy dạo này có được mạnh khoẻ

luôn không? và đã sắp có cháu bế chưa? Lần sau viết thư ra anh

phải nói rõ đấy nhé. Còn ở ngoài này thì gia đình vẫn mạnh khoẻ,

duy có bố là hơi yếu thôi. Hôm vừa rồi cưới anh Đức, cậu Hiếu, cậu

Minh cũng về dự, còn trước đó độ nửa tháng bà và bà trẻ cũng về

chơi. Hai bà thương anh, chị lắm và chỉ mong gặp được mặt anh, chị

thôi.

Hôm 4/4 anh Việt lại được về thăm nhà nên gia đình lại càng

vui vẻ hơn và lại càng nhớ, nhắc anh, chị nhiều hơn. Chắc ở trong

ấy anh, chị phải hắt hơi luôn ấy nhỉ? Dạo này anh Long đi được

nhiều nơi lắm nhỉ, hết Quảng Nam, đến Đà Nẵng... tha hồ mà toại

nguyện. ở ngoài này cả nhà đón nhận tin anh trong những tờ báo

hay buổi phát thanh của đài. Mỗi khi đài phát bài của anh thì cả

nhà lại ngồi im lặng để nghe anh ạ. Mừng cho anh, mà cũng lo cho

anh nhiều.

Còn trong thời gian anh đi công tác chắc chị Ngân ở nhà một

mình nhỉ, hẳn là cũng hơi buồn và luôn luôn lo lắng, đó là điều tất

nhiên thôi, nhưng càng lo lắng bao nhiều thì càng làm cho anh

Long phải cẩn thận, càng tốt chị Ngân nhỉ.

661

Hôm vừa qua em đã thi hết học kỳ I rồi và kết quả thì cũng

tương đối, không đến nỗi tồi lắm anh ạ, còn Thuỷ thì cũng chuẩn bị

thi hết cấp đấy. Anh chị tưởng tượng xem nó bé tí như học sinh lớp

5 ấy, bé mà gầy lắm, không biết nó có thi nổi không! Độ này ở ngoài

này lấy đi bộ đội nhiều lắm anh ạ, các thầy giáo cũng lấy đi. Thầy

giáo em cũng sắp đi rồi. Chắc là người ngoài này bớt đi thì người

trong ấy đông lắm và chắc là vui hơn trước nhiều anh chị nhỉ.

Thôi, em tạm dừng bút, chúc anh chị luôn luôn mạnh khoẻ,

hạnh phúc, công tác tốt. Bao giờ được gặp lại mặt anh chị thì vui

quá anh chị nhỉ.

Em của anh chị Bích Diệp

Long + Ngân của cô

Hôm nay nhân tiện có bác Nhung ở cạnh nhà lại vào tiếp tục

công tác, cô tranh thủ viết thư cho hai cháu, và cũng là báo tin để

hai cháu biết tình hình gia đình hiện nay. Câu đầu tiên cô không

quên chúc hai cháu thật hạnh phúc. Long Ngân! Trước đây cô tưởng

là chú Phương chỉ khi nào hoà bình thực sự thì chú mấy có ngày

mong trở lại quê hương nhưng không, hiện nay chú đã không còn ở

trên mảnh đất Bắc này nữa, mà đã ở đất của miền Nam từ ngày

21/3/1975 rồi. Thật là một sự không ai có thể ngờ được, một ông già

đã về hưu mà lại ra công tác, trở lại về Nam một cách dễ dàng...

Thế mới gọi là thời buổi chiến tranh. Chú đi vào vùng Tây Ninh

đấy, gọi là đoàn xây dựng B2, chú đi công tác chuyên môn của mình

thôi không phải vất vả gì. Khi nào Long có đi công tác qua đấy hỏi

thăm xem may ra gặp chú, hỏi là ông Lê Phương - Y sĩ. Ban thống

nhất TW gọi đấy. Còn hiện giờ các em vẫn ở gần cô. Tiến đang học

điện ở Ba Vì, còn Quang đang học sửa chữa ô tô ở Bộ Giao thông -

Hà Nội, ở ngay cạnh trường chỗ mẹ cháu làm. Còn Chiêu lại đúp ở

lại lớp 5, học dốt lắm, em mải chơi nhiều hơn là học. Trước tình

hình này có lẽ em Quang phải đi bộ đội thôi vì ở ngoài này hiện nay

đang lấy bộ đội nhiều lắm. ở ngoài này có được xem mấy bài báo của

Long viết, nói chung là được, đọc bài báo thấy phản ánh sự thực,

cuộc sống thực tế. Còn Ngân độ này có khoẻ không? Đã có bụng

chưa? Trong dịp này các cháu có ra cũng khó, là vì đang mùa làm

ăn của Long phải không cậu. Nhưng thôi muốn thế nào đi nữa cháu

662

cũng cố ra thăm bố mẹ và cô, cùng các em, bố cháu độ này yếu lắm,

nếu cháu không cố gắng ra rồi sau này lại ân hận suốt đời. Cô chỉ

nhắc thế thôi, còn ở trên Hà Giang cụ nội vẫn còn sống - 100 tuổi

rồi. Bà và bà trẻ độ này vẫn khoẻ, cậu mợ Hiếu cũng rất khoẻ, cậu

sang lái xe ô tô rồi, như vậy cậu đã được 5 em rồi, 2 gái 3 trai đấy,

đứa nào cũng xinh đẹp cả. Khi nào có viết thư thì viết hỏi thăm trên

đấy.

Thành cũng hỏi thăm đến cháu luôn đấy.

Thôi nhé, cố thu xếp ra Bắc một lần. Long Ngân, cô chú thì

nghèo nên không có gửi cho cháu gì cả, hôm nay nhân tiện có tiền

cô gửi cho hai cháu chút ít để tiêu tạm. Cô để dành tiền mới gửi cho

hai cháu, chỉ có số tiền rất ít nhưng nó chứa đựng tình thương các

cháu không tả nổi. Tuy tiền ít nhưng lòng thương không bến bờ.

Vậy cô gửi vào cháu (30đ) ba mươi đồng để cháu thêm thắt vào, chứ

cô cũng biết các cháu cũng chẳng thiếu thốn gì! Hơn nữa việc cưới

cho các cháu nếu là ở ngoài này thì chắc cũng tốn kém đấy. Vừa qua

cưới anh Đức cũng hết độ 1500đ đấy, còn nhiều cái phức tạp lắm,

nhưng thôi cháu cũng không nên nhắc vấn đề ấy làm gì.

Thôi nhé để thư sau cô tiếp tục.

Chúc hai cháu hạnh phúc.

Cô Chung

Từ 13/4/1975

Những ngày này, ngoài Tổng xã đã cử thêm cán bộ vào phụ

trách cơ quan Thông tấn xã Khu, nhưng tôi vẫn bận rộn với công

việc của một cán bộ từ chiến khu về, phải giải quyết bao nhu cầu

của cuộc sống mới. Hàng tuần dự giao ban với Ban Quân quản

thành phố Đà Nẵng, chỉ đạo việc làm tin và trực tiếp viết tin, bài.

Lo đi tìm trụ sở cho cả Phân xã. Phát hiện nhà số 14 phố Lê Thánh

Tôn của một viên tướng nguỵ bỏ chạy, đồng bào từ Huế di tản vào ở

tạm, tôi dặn dò đồng bào khi rút đi phải giữ nguyên trạng. Sau đó,

tôi làm việc với Uỷ ban Quân quản thành phố Đà Nẵng và Uỷ ban

663

đã làm giấy cho phép Thông tấn xã Giải phóng Khu Trung trung bộ

sử dụng nhà này cùng với ngôi nhà số 36 Quang Trung liền ngay

đó. Cũng vui, thấy tôi đi tìm nhà, một bác trung niên ở phường

Thạch Gián chỉ cho tôi căn nhà ngay mặt phố, đang là cửa hàng

gạo, bảo hiến cho cá nhân tôi, có giấy tờ đầy đủ. Tôi cảm ơn và từ

chối, chỉ nhận ở bà con tấm lòng thơm thảo. Qua các phương tiện

thông tin, tôi biết rằng tại Sài Gòn, tình hình đang náo loạn. Đồng

bào hàng ngày hàng giờ đóng kín cửa nhà, mở máy thu thanh nghe

đài Giải phóng. Để giúp bà con không mắc mưu tuyên truyền của

địch mà chạy theo chúng, yên tâm đón chờ quân Giải phóng, tôi

nghĩ cách tốt nhất là phản ánh không khí thanh bình ở thành phố

mới giải phóng này. Và tôi đi đến gặp dân, viết bài ghi nhanh sau:

Một ngày chủ nhật ở Đà Nẵng

Hà Nội (VNTTX 20-4-75) Sáng chủ nhật 13-4, đồng bào theo

đạo thiên chúa khắp thành phố Đà nẵng nườm nượm đến các nhà

thờ làm lễ. Tại nhà thờ lớn thành phố, mặc dầu đã qua buổi lễ thứ

2, người đến dự vẫn chật cả phòng cầu nguyện, tiếng linh mục vang

vang giảng đạo.

Sau buổi lễ, mọi người tràn ra cửa, cười, nói vui vẻ. Tôi thấy

trong số đồng bào này cùng với phụ nữ, trẻ em còn có rất nhiều

thanh niên. Cao Sĩ Đài, 22 tuổi, trước đây là lính không quân nguỵ,

dừng lại nói chuyện với tôi ở hành lang:

- Khi thành phố giải phóng, em ra trình diện, được cán bộ cách

mạng giải thích chính sách khoan hồng, chính sách tự do tín

ngưỡng. Rồi em được về nhà lo làm ăn và lại đi lễ nhà thờ đều đặn.

Bác Đặng Hoạt vui vẻ kể với tôi:

- Từ khi giải phóng đến nay, ngày chủ nhật nào gia đình tôi

cũng đi lễ.

Tôi hỏi:

664

- Khi chưa giải phóng, gia đình bác có đi lễ đều và đầy đủ

không?

Bác lắc đầu:

- Đâu có được! Tôi có thằng con trai phải trốn lính, đâu dám ra

đường, đâu dám đến nhà thờ làm lễ.

Bác cười hồn hậu, nói tiếp:

- Cũng may phước là thành phố được giải phóng, con tôi khỏi

trốn lính, cả nhà tôi được giữ đạo vẹn toàn, bà con tôi tự do đi lễ,

không có ai chặn bắt cả.

Trở ra đường Độc lập, hoà vào dòng người náo nức, ngược lên

phố Lê Đình Dương, tôi vào thăm chùa Tỉnh Giáo. Một bầu không

khí thanh tịnh bao trùm cả khu chùa. Dưới bóng cây bồ đề toả bóng

mát trước sân, mấy chú tiểu qua lại lo việc chùa. Ông Hoàng Hữu

Khai, phụ tá đặc uỷ hoàng pháp thuộc tỉnh hội Phật giáo Đà nẵng,

và hai tín đồ vui vẻ đưa tôi vào phòng khách. Nghe tôi hỏi việc lễ

bái, ông Khai trả lời:

- Nói thiệt tình, khi cách mạng mới đến, một số tín đồ còn chưa

hiểu nên nghi ngại, chưa dám đi lễ chùa. Nhưng chỉ vài ngày sau,

nghe phổ biến chính sách tự do tín ngưỡng và trước sự thực diễn ra

trước mắt, bà con đạo hữu yên tâm, lại đi lễ như thường.

Ông cười rồi nói tiếp:

- Trước đây chính phủ Thiệu tuyên truyền là giải phóng đến

đâu thì ở đấy không còn tôn giáo. Nhưng thực tế vừa qua đã xoá

sạch những lời tuyên truyền ấy. Từ khi vào thành phố đến nay,

quân đội Giải phóng không hề vào chùa lục soát, không hề cấm

đoán việc lễ bái.

Tiễn tôi ra khỏi chùa, ông Khai căn dặn:

665

- Các ngày mồng một, ngày rằm là ngày bà con phật tử tới chùa

làm lễ, anh nhớ đến chùa vào các ngày ấy, đông vui lắm.

Tôi bước ra đường. Hôm nay hầu hết số đồng bào Huế, Quảng

Trị và các nơi khác bị bọn Thiệu cưỡng ép "di tản" vào Đà Nẵng đã

được chính quyền cách mạng tạo điều kiện trở về nguyên quán. Tuy

thế Đà nẵng vẫn nhộn nhịp, đông vui. ở chợ Hàn, đã gần trưa mà

người mua bán vẫn đông, các dãy hàng rau, hàng cá bán la liệt, nào

sò huyết, cua bể, cá mực, cá chuồn, nào cà chua, bắp cải, rau

muống... Các dãy bán tạp hoá, bán vải... hàng cũng khá đủ. Đợi chị

chủ một quầy hàng đo vải cho một thiếu nữ xong, tôi đến nói

chuyện. Chị cho biết chị là Trần Thị Dược, bán vải ở chợ này từ

nhiều năm nay. Chị than thở:

- Trước khi chạy, lính Thiệu ăn cướp dữ quá. Chúng cậy cửa

quầy hàng này lấy mất phần nửa số vải của tôi. May phước mà

quân Giải phóng vô liền, nếu không, bà con ở đây còn mất của, chết

người nhiều lắm.

Tôi hỏi:

- Chị mở lại quầy hàng vào ngày nào?

Chị đáp:

- Nghe cách mạng biểu đồng bảo trở lại buôn bán, làm ăn bình

thường, tôi bầy hàng ra bán liền. Tôi thiệt không ngờ mới đó còn

cướp bóc bắn giết loạn, mà khi quân Giải phóng vừa vào đã yên ổn

ngay.

Buổi chiều, tôi tiếp tục đi thăm các phố phường ở Đà nẵng. Tôi

rẽ vào số nhà 34 phố Phan Chu Trinh. Đó là hiệu uốn tóc Hoàng

My, một trong những hiệu lớn của thành phố. Trong căn phòng dài

sáng ánh đèn có nhiều dãy ghế, bày đầy gương và những máy sấy,

máy hấp. Tôi thấy nhiều thợ uốn tóc đang chăm chú làm tóc cho

khách. Anh Nguyễn Vĩnh Ký cho tôi biết, ngay sau hôm giải phóng,

phòng này đã mở cửa. Anh Lê Từ Hường nói xen vào:

666

- Trước đây bọn địch tuyên truyền là cách mạng không cho uốn

tóc, cách mạng sẽ đập phá các tiệm uốn tóc, chừ so sánh những

luận điệu ấy với thực tế trước mắt mà tức cười.

Tôi lại bước ra phố. Dòng người trên đường vẫn nối dài. Trên lề

đường, mấy em nhỏ cầm từng chùm bóng đủ màu. Tới đường Hùng

Vương, tôi rẽ vào một quán hàng.

Ông chủ quán nói rằng trước đây ông làm nghề may, nhưng

thua lỗ quá, trù tính mở lại, nhưng sợ bọn lính trả lựu đạn thay

tiền nên đang loay hoay, vừa khi ấy thì giải phóng, không còn cướp

bóc, quỵt tiền nữa nên ông mở tiệm này. Các tiệm khác như Lộc

Ngọc, Quỳnh Giao, Quỳnh Loan và hàng loạt tiệm ăn như Mây

Hồng, Đồng Phượng, Mỹ Lệ Hoan cùng bao nhiêu quán nước ngọt

nữa đều mở cửa đón khách.

Ngày chủ nhật cũng là ngày người dân Đà Nẵng đi dự những

hoạt động giải trí bổ ích. Đồng bào rủ nhau đến Ty Thông tin đọc

sách báo, xem hình ảnh của cách mạng hoặc đến các rạp xi nê xem

chiếu phim. Tôi đến rạp Li Đô vào cuối giờ chiếu của buổi thứ hai.

Xe đạp, Hon da xếp đầy ngoài cửa rạp. Trên biển quảng cáo ghi tên

các phim: Em là thợ xây, Chỉ một con đường, Anh bộ đội xe tăng,

Bác Hồ của chúng em.

Trước cửa rạp, tôi gặp hai bác công nhân lái xe Trần Thanh

Cẩn và Lê Hữu Phúc. Bác Phúc tâm sự:

- Coi phim thấy Bác Hồ ngỡ là gặp Bác, tôi ứa nước mắt. Tôi

muốn nhỏ lại để được Bác ôm vào lòng như các cháu bé trong phim.

Bác Cẩn so sánh:

- Tôi đã coi nhiều phim Sài Gòn, chỉ nhồi sọ sự đe doạ, chém

giết lẫn nhau, còn phim của ta thì giáo dục thật toàn vẹn. Coi phim

của ta, tôi thấy mình thay đổi hẳn, không còn phải băn khoăn về

tương lai của mình và con cháu mình nữa.

Hai bác vội vã dắt xe xuống đường và giải thích:

667

- Phim Giải phóng hết là bọn tôi ra trước để qua rạp Tân

Thanh coi phim khác ngay. Chủ nhật này tôi muốn đi khắp các rạp

xem các loại phim của cách mạng cho thoả lòng mong ước.

Tôi đi tới đường Bạch Đằng thì thành phố lên đèn, tiếng

chuông chùa vọng đến ngân nga, gió sông Hàn lồng lộng. Bên kia

sông, đèn điện từ các dãy nhà toả sáng lung linh. Bên này sông, đèn

trên các cột đèn cũng toả sáng. Xa xa, những ngọn đèn đỏ trên hai

cột phát sóng của đài phát thanh Đà Nẵng nhấp nháy như những

đôi mắt nhìn xuống thành phố cảng thân yêu này.

Tôi gặp nhiều cặp vợ chồng dắt con đi dạo mát bên sông. ở mấy

hàng ghế đầu nằm bên những gốc dừa tư lự có những đôi nam nữ

đang ngồi tâm sự. Không gian khoáng đạt và bình yên. Cả Đà Nẵng

đang hưởng trọn một ngày chủ nhật đầy thoải mái và bổ ích để rồi

lại bước vào một ngày mới với nhịp sống khẩn trương, sôi nổi./.

Việt Long (Phóng viên TTXGP tại Đà nẵng).

THƯ GỬI GIA ĐÌNH

Ngày 18/4/1975

Bố mẹ và các em yêu quý!

Anh Hà đã vào đến nơi, nói gia đình ta vẫn vui khoẻ, con rất

mừng.

Con vừa nhận thư bố viết ngày 13/3 - chắc bố gửi đường dây.

Con và Ngân vẫn khoẻ. Cũng may mà cơ quan phân công 2

chúng con đi chiến dịch một đoàn, nên khi về Đà Nẵng là được ở

một chỗ ngay, có một phòng riêng khá xinh với khá đầy đủ tiện

nghi.

668

Tình hình chung trong này phấn khởi và yên ổn. Bây giờ chúng

ta đang tập trung sức xây dựng kinh tế. Lo đời sống cho dân. Có lẽ

chuyến này Miền Bắc sẽ phải dốc sức cho Miền Nam nhiều hơn

nữa.

Con của gia đình.

Ngày 22/4/1975

Sơ kết lại, thấy rằng tài sản quốc gia thu được rất lớn, gần như

nguyên vẹn. Quần chúng rất phấn khởi. Đời sống trước mắt bình

thường, có khả năng giữ được và nâng dần lên. Chúng ta triển khai

lực lượng phòng thủ tương đối tốt nhưng chưa sâu trong quần

chúng. Công tác phát động quần chúng, tuyên truyền chính sách

tương đối tốt, nhưng chưa sâu. Tổ chức bước đầu tương đối tốt.

Những mặt cần chú ý là: Lực lượng phản động còn đông, còn ẩn núp

chờ thời (Đà Nẵng có 8 vạn quân ngụy ra khai báo, trong đó có

khoảng 7.000 sĩ quan), nguời làm cho địch cần phải bắt thì bắt chưa

hết. Còn hầm ngầm chưa khui. Vũ khí thu chưa hết, nhất là súng

ngắn, mìn. Điện đài địch còn hoạt động. Hệ thóng tổ chức của các

đảng phái phản động còn. Có hiện tượng giả bộ đội, làm giấy thông

hành giả, làm con dấu giả. Một số tài sản quốc gia bị phá (chủ yếu

do quân ta), lãng phí. Thiếu cán bộ. Cán bộ thiếu kinh nghiệm. Nếu

không có biện pháp về điều hành kinh tế thì đời sống đồng bào sẽ

xuống. Tư tưởng đang tốt, nhưng đã xuất hiện tư tưởng công thần

(nhất là quân nhân - quân phiệt rõ), tản mạn, cá nhân, hưởng lạc,

an nhàn, trì trệ.

Khu ủy chỉ đạo thời gian tới phải làm tốt các nhiệm vụ sau: ổn

định tình hình vùng mới giải phóng. Tiếp tục chiến đấu, giải phóng

toàn bộ miền Nam. Xây dựng vùng giải phóng vững mạnh. Một số

công tác cụ thể phải tập trung thực hiện là: Truy tróc địch, gắn với

trật tự trị an. Tiếp tục đi sâu phát động quần chúng để quần chúng

có nhận thức đúng, phân biệt được địch - ta, hiểu biết về chính sách

khoan hồng và chuyên chính vô sản. Đưa nông dân trở lại ruộng

vườn ở nông thôn để sản xuất. Tạo công ăn việc làm ở thành phố. ổn

định nội bộ. Công tác kinh tế được coi là công tác lớn nhất. Tổ chức

một đợt tuyên truyền tập trung về các hoạt động nói trên.

669

Ngày 1/5/1975

Nghe tin giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam đúng vào ngày

30 tháng 4 năm 1975. Vui, nhưng không phải là niềm vui bất ngờ.

Ngẫu nhiên, hay có hẹn trước mà chính ngày tôi cất bước đi

chiến trường, sau 7 năm, lại là ngày toàn thắng của dân tộc.

Sáng, Khu và Thành phố tổ chức mít tinh mừng chiến thắng.

Buổi lễ diễn ra tại sân vận động Chi Lăng, có diễu binh và diễu

hành quần chúng. Đứng trên khán đài nhìn xuống những đội quân

hùng dũng diễu qua, chợt nhớ da diết những người đồng chí đã hi

sinh, trong đó hình ảnh Vượng và Nghị hiện lên rõ mồn một trong

tôi. Rồi nước mắt cứ trào ra, nhoè hết mọi hình ảnh hiện tại, đưa tôi

về quá khứ...

670

ĐÔI LỜI TÂM SỰ

Tìm mãi, tôi vẫn không thấy phần ghi chép giai đoạn nửa cuối

năm 1971. Nhớ lại, lúc ấy sổ ghi bị hết, tôi xin một tập giấy để viết

Nhật ký. Rồi trong một trận tập kích của địch, cái túi đồ của tôi,

trong đó có tập Nhật ký, bị thất lạc. Rất tiếc, trong đó chứa đựng

bao nhiêu chất liệu qúy, nhất là phần ghi lại cảm xúc của tôi khi

nghe tin Lê Viết Vượng, Nguyễn Mỹ hy sinh. Đành để trống giai

đoạn này. Vẫn may là còn lại khá đầy đủ những gì tôi đã thu lượm

bấy lâu nay. Đọc kỹ lại, nhất là các thư từ, tôi thấy rõ rằng hồi ấy

cả mấy thế hệ đều đi vào cuộc chiến với lý tưởng rõ ràng, với ý thức

dân tộc sâu sắc, với niềm tin ở chiến thắng và với tình cảm chân

thành, nồng hậu. Những người như tôi hồi ấy chưa có gia đình

riêng, đi B nhẹ tênh, cũng như những đồng chí cán bộ tập kết sống

độc thân trở lại miền Nam, hoặc những người từ đồng bằng thoát ly

lên căn cứ, đều được gọi là Bê trọc, không để lại cho người thân một

chút quyền lợi nào. Mà ngay cả những Bê thường, có nghĩa là

những người có gia đình, đi B được để lại phần lương ít ỏi cho gia

đình, thì lại phải chịu đựng nỗi day dứt lớn hơn lớp trẻ chúng tôi bởi

trách nhiệm của người chồng, người cha, người vợ, người mẹ, người

chủ gia đình. Vậy mà tất cả đều hăm hở lên đường đóng góp sức

mình cho cách mạng. Trong số đồng chí mà tôi quen biết suốt gần 7

năm kháng chiến ấy, một số đã hy sinh, một số ít do tuổi cao, sức

yếu phải ra hậu phương chữa bệnh, số còn lại đã đi đến cùng cuộc

kháng chiến. Vừa qua, chúng tôi đã tổ chức gặp mặt truyền thống,

ai cũng nhớ đến những ngày ấy với niềm tự hào và với tình cảm hết

sức đằm thắm.

Gần đây, tôi đã trở lại chiến trường xưa, thăm lại bà con, bạn

bè. Riêng việc lên Núi Bà (vùng ven Quy Nhơn), không hiểu sao, mãi

mà các anh ở Sở Văn hoá - Thông tin không bố trí đưa tôi lên được. Có

671

anh đùa với tôi: "Trở lại nơi xưa, để tìm người cũ sao? Nơi xưa còn đó,

người cũ đã già rồi!". Đúng vậy, những cô gái mà tôi quen thời chinh

chiến giờ đã luống tuổi rồi thật, nhưng tôi đâu có tìm họ vì cái lãng

mạn tuổi xuân, mà để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm kháng chiến

sâu nặng tình người, cái đó không lúc nào già đi cả.

Tôi trở lại Hoài Châu, thăm lại gia đình Má Phùng cùng hai

con của Má là các chị Thi, Vinh. Hồi đó, nhà Má Phùng nằm ở rìa

núi - vùng ranh. Không xẩm tối nào không có cán bộ, bộ đội từ trên

núi xuống ghé nhà ăn uống. Cứ vậy, ngày này qua tháng khác,

ngày nào cũng một hai mâm cơm gia đình sắp sẵn nuôi bộ đội, cán

bộ. Tôi cũng ăn ở đó nhiều bữa cơm, và đã được các chị canh chừng

cho trong khi ăn, đề phòng lũ địch tập kích. Bao nhiêu miệng ăn,

biết mấy núi đã lở rồi? Bây giờ, Má Phùng đã là bà mẹ Việt Nam

anh hùng. Má hỏi chúng tôi đi vô bằng gì. Biết chúng tôi đi bằng

máy bay, Má bảo: "Tao lo cho lũ bay quá, máy bay rớt thì làm sao?".

Chúng tôi cười, mà lòng ứa lệ. Các chị Vinh, Thi nay còn khoẻ

mạnh, làm ăn cũng khá, gia thất đề huề. Các chị lại tíu tít kêu con

cháu leo dừa lấy trái cho chúng tôi uống nước. Thứ nước trong vắt,

mát ngọt, đậm đà ấy lúc nào cũng tràn đầy, bởi vì nó có nguồn từ

thẳm sâu trong lòng Tổ quốc ta, Nhân dân ta.

Hà Nội, mùa xuân năm 1999 Phạm Việt Long

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top