Lạc thư trong lĩnh vực quân sự
Đôi khi chúng ta thường gặp những câu như đối diện , nghĩa là ai cũnghiểu đối diện là mặt đối mặt , nhưng kỳ thực từ ngữ nầy xuất phát từtrong binh thư ( binh thư là tài liệu thuyết trình về nghệ thuật điềukhiển quân sự ) . theo nguyên tắc tiền nhân người Việt vẻ hình vuôngtrên giấy ( gọi là bảng ) xin nhắc lại đời xưa , trước khi lâm trận , thìban tham mưu của vị tướng soái , nếu ở trong phòng làm việc thì vẻtrên giấy ( gọi là Phóng Đồ Hành Binh ) đời nay gọi là Lập Kế HoạchHành Quân .
Trên hình vuông đó có 9 cung ( vị trí ) gọi là cửu cung Lạc Thư ( tàiliệu Lạc Thư : là tài liệu của dân Lạc Việt ) trong chín cung đó phânchia ra 4 phương và 8 hướng . 4 phương hoăc là hai trục chính . Bắc ,Nam , Đông , Tây , mà ta thường quen miệng nói Đông , Tây , NamBắc . 8 Hướng gồm 4 phương Bắc , Nam , Đông , Tây . Các bạn nênchú ý viết hay nói như thế nào thì viết hay vẻ như thế ấy .Đây là một trong những quy tắc , mà chúng ta không cãi được , vì khinói về nguyên tắc ; quy tắc , thì hầu như đã thành quy luật . Vì ai aicũng biết khi gia nhập vào quân đội , ít khi có chuyện cãi nhau khimệnh lệnh đã được ban hành . như khi di chuyển về ban ngày thì lấyhướng mặt trời mọc và mặt trời lặn để xác định hướng đông và Tây .Điều nầy hiển nhiên đến nỗi muốn cãi mà không thể cãi được .Theo phương pháp trên , chúng ta thử tập vẻ tren giấy , giống ngàycòn đi học , khi học về toán , ta thường nghe thấy , ta vẻ một đườngthẳng tưởng tượng . Trước hết ta vẻ đường dọc từ trên xuống dướitrang giấy , trên đầu đường thẳng ta ghi chữ Bắc , ở cuối đường thẳngta ghi chữ Nam , sau đó ta vẻ tiếp theo một đưởng hàng ngang , rồi taghi từ trái Tây và bên phải là Đông , vì vẻ như thế nầy tức là vẻ theođúng như địa hình thực tế bên ngoài .Như thế chúng ta có được đường hàng dọc thẳng đứng từ trên chạyxuống dưới đó là trục Bắc Nam . Bắc thuộc Thuỷ và nam thuộc Hỏahay bắc cung Khảm , Nam cung Ly . Kế tiếp theo , là đường vẻ hàngngang từ đông qua Tây . Còn được gọi là Trục Đông Tây hay là Chân Đoài ; Đông là Chân , Tây là Đoài .
Như thế chúng ta có Hai trục Bắc Nam và Đông Tây xuyên qua vòngtròn tâm Ô. Theo nguyên lý Bắc đối với Nam và Đông đối với Tây ,Như vậy khi nói đối tượng , là ý muốn nói đến hai người đối diệnnhau tư hai phương hướng đối xứng nhau qua tâm O vòng tròn . Đâycũng chính là thuật ngữ toán học hoặc hình học về không gian . Khichung ta đi vào hệ thống kinh dịch thì thường thường ta bở ngỡ và đôikhi lúng túng như lạc vào trong rừng cây .Sở dĩ vậy là vì học thuật kinh dịch vốn dĩ là một hệ thống đa chiều đanguyên (đa là nhiều , nguyên là nguồn gốc ) không phải là học thuậtbình thường , cho nên đi vào bộ môn nầy , người học sẽ vô cùng vấtvã , vì thời nay không có ai hướng dnẫ , munố tìm tài liệu thì khôngbiết làm cách nào ? Rồi môn học nầy đòi hỏi chúng ta người muốnhọc hỏi nhiều đức tính . Nói tóm lại những người đã từng kinh qua ,họ đều hiểu rằng Dịch tức là truyền , chớ không chỉ đơn giản là học .Đúng như vậy kinh dịch chính là truyền , chứ không phải là học , vìkhi đi vào kinh dịch thì chúng ta sẽ như đi vào khu rừng .
Nếu nhưkhông có hướng dẫn , thì chúng ta sẽ lạc lối .Theo học thuyết kinh dịch được chia ra làm hai phần , phần lý thuyếtqua các bộ kinh dich , chỉ nói thoáng qua về lý thuyết ( Théorie ) vàphần khác là kỹ thuật thực hành , chính vì thế người xem nếU chỉ xemqua bộ kinh dịch của cụ Phan Bội Châu hoặc Nguyễn Mạnh Bão , haycụ nghè Ngô Tất Tố , th ìkhông thể iđ xa hơn đi sâu hơn được , vìnhững người lảo thành đó viết là viết cho những ai đã từng có kiếnthức căn bản, vì thế cho nên người đi sau chưa từng biết đến kiến thức căn bản , gặpcái trở ngại lớn . Từ từ kinh dịch trở nên bí truyền và rồi sẽ mai một đi
Trở lại phần trên , khi chúng ta đã có hai trục chính là trục Bắc namhay Khảm thuỷ ly hoả , và trục Đông Tây hay chấn Đoài, chúng ta cònlại 4 phương phụ , như Đông Bắc Cấn , Tây Nam Khôn , và Tây BắcCàn , Đông Nam Tốn , chúng ta thấy qua Bắc Thuỷ Khảm , Nam HoảLy . Đó là đối xứng nhau từng cập , nếu không đối xứng nhau thì coinhư không có vấn đề .Trên đây chỉ mới nói sơ qua về Hai Trục và các phương hướng đốixứng nhau từ cặp . còn lại đó là những cái gọi là Tam Hiệp ( hợp ) tứhình , tam hình .
Học thuyết kinh dịch chú trọng đến việc có tính chất lợi hại , còn mất , thắng bại sống chết , điều mà trong kinh văn nói làcách tránh họa tìm phúc , lánh dữ tìm lành .Học thuyết kinh dịch chú trọng đến họa hay phúc – ( phước ) sốngchết, lợi hay hại . Có khi chọn Tối ưu, hoăc có khi chọn dĩ hòa vi quý( hòa là thượng sách ) sách tức là mưu kế ( có thượng sách là cao nhất, thượng là cao , trung là bình thường và hạ là thấp nhất ) Vitế như thếnầy thì hơi đi sâu vô học thuật hoặc vô phẩn kỹ thuật tâm pháp .
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top