bb-lenghiabk05

Lời mở: Tôi ra khỏi trại cải tạo, mười lăm năm rồi. Tôi vẫn nhủ với lòng, hãy quên những ngày khốn khổ ấy đi. Quên để mà sống. Trí nhớ của tôi bây giờ tồi lắm. Tôi quên nhiều chuyện, nhưng chuyện trong tù tôi không sao quên được. Nó hằn sâu trong tâm tôi, như cây đinh đóng vào cột xương sống, làm dấu mốc thời gian. Mỗi lần trí nhớ cục cựa, là mỗi lần đau.


Sau mỗi lần viết về trại tù CS, tôi lại tự nhủ với lòng, đây là bài cuối cùng, không nhắc đến nữa. Nhưng nó như cái bóng đen ám ảnh tôi hoài. Và tôi lại viết về nó. Tôi viết như người kể chuyện, để giải toả nỗi ám ảnh. Giải toả theo kiểu của anh thợ hớt tóc, trong truyện Một Ngàn Lẻ Một Ðêm, phải đào lỗ mà la lớn lên rằng, "Ông vua có lỗ tai lừa!" Tôi không xây dựng thành một cái truyện ngắn của người làm nghệ thuật viết văn. Tôi chỉ kể chuyện về trại tù CS. Nói bao nhiêu cũng thấy thiếu. Còn người đọc thì cảm thấy quá thừa. "Biết rồi. Khổ Lắm. Nói mãi."




Trong cái bị làm bằng bao cát của Lê Thơm mang bên hông, có xác một con chó con. Nó bị bóp cổ chết vào trưa nay. Chuyện này, chỉ hai người biết: Lê Thơm và tôi. Giết một con chó nhỏ không khó, nhưng mạo hiểm mang ra cổng trại là một thử thách lớn dành cho kẻ bạo gan.



Con chó lông trắng đốm đen, đẹp như con chó giả nhồi bông. Nó thân thiện với tất cả mọi người. Ðưa tay, tróc lưỡi vài cái, nó chạy đến quấn quít. Nó ngây thơ trong trắng lắm. Nó không có tội gì cả. Vậy mà nó bị giết. Cái số nó chết yểu, nên trời xui đất khiến nó lân la gần gũi với những con ma đói. Người ta nuôi nó để ăn thịt. Nếu nó không chết bây giờ, thì ngày 2 tháng 9, cũng chết bởi tay thằng chủ của nó. Từ đây tới ngày ấy, đâu còn bao lâu? Chỉ sáu tháng nữa thôi. Sau sáu tháng phù du, rồi cũng bị đem ra tế thần cho mấy ông cán bộ đánh chén say sưa, mừng ngày độc lập. Chết như thế là chết lãng nhách. Thôi thì hy sinh ngay bây giờ, còn được ý nghĩa phục vụ nhân sinh.



Mấy hôm trước, Lê Thơm nói: "Tao có kế hoạch ăn no, với điều kiện mày phải hợp tác."



Tưởng gì chứ được ăn no, tôi hợp tác liền. Miếng ăn bây giờ, là vấn đề quan trọng hàng đầu. Khi đói, bộ nảo tuột xuống nằm trong cái dạ dày. Mọi suy tính đều hướng về miếng ăn, phục vụ cho cái dạ dày. Từ đó, người ta bộc lộ hết bản năng sinh tồn. Mà bản năng sinh tồn, thì người và vật giống nhau.



Tuy thế, tôi vẵn hỏi lại cho rõ: "Kế hoạch thế nào?"



"Mày đấm một cú thật mạnh vào chỗ này." Hắn nghiêng đầu qua một bên, chỉ vào quai hàm.



"Chi vậy? Thằng khùng!"



"Tao muốn dưới mang tai sưng lên, để khai sưng quai bị."



"Và được nghỉ lao động?"



"Nghỉ lao động là cái chắc. Nhưng mục đích chính là kiếm ăn."



"Nói rõ hơn coi?"



Lê Thơm xít lại gần tôi: "Dạo này, sáng trưa chiều, đều sắn. Ngày nào cũng sắn. Trường kỳ sắn. Nhiều thằng ăn sắn, quai hàm bạnh ra. Có thằng ma lanh, lấy tay chà xát đỏ lên, rồi khai sưng quai bị. Y tá tưởng thật, cho nó ra ở nhà cách ly, ngoài hàng rào."



"Ở cách ly, vẫn đói."



"Bên hông nhà cách ly, hàng rào bị phá một khoảng bằng cái lỗ chó chui. Nếu được ở cách ly, ban đêm tao chui lỗ chó, đột nhập nhà kho, trộm nếp."



"Chơi trò mạo hiểm, dễ mất mạng. Mày nhớ vụ thằng Khánh nửa khuya chui rào, ra nương moi khoai lang, bị bắn bể đầu gối, phải cưa chân lên tận háng không?"



"Ðó là nó chui từ trong ra ngoài. Còn tao chui từ ngoài vô trong."



"Ngoài hay trong cũng vậy. Vệ binh đi tuần thấy bóng người lấp ló ban đêm, nó nổ súng không thương tiếc."



Vụ thằng Khánh thế này. Nó là đại uý pilot. Những thằng Không Quân thường to con. Vào tù, càng to con càng bất lợi. Ăn uống cùng một tiêu chuẩn, thằng to con đói nhiều hơn thằng nhỏ con. Vào một đêm đông miền thượng du, trăng sáng lắm. Khánh chui rào, mò vào nương moi khoai lang. Cán bộ đi tuần tra an ninh bắt gặp con ma đói. Cán bộ bảo Khánh đứng nghiêm, rồi chỉa họng súng vào đầu gối của Khánh, bóp cò. Khánh bị bể khớp xương đầu gối, quỵ ngay tại chỗ. Cán bộ vào báo động, tập họp cả trại điểm danh. Anh em tù cải tạo không hiểu chuyện gì. Một lúc sau, vệ binh khiêng Khánh vào, bỏ nằm giữa sân trại. Cấm, không ai được đến gần. Trời đông lạnh buốt. Khánh nằm đau nhức rên la suốt đêm. Sáng ra, Khánh được khiêng lên bệnh xá của đoàn 779. Bệnh xá cũng chỉ có mấy thứ lá cây hái về từ ngoài rừng, sao làm thuốc nam. Hai người tù phục vụ ở bệnh xá, là bác sĩ của chế độ cũ miền Nam, cũng đành bó tay. Phải chuyển Khánh đi nơi khác. Khánh được võng đi cả ngày đường, qua bao nhiêu sơn khê đồi núi mới ra tới bệnh viện Yên Bái. Tám tháng sau, Khánh về lại trại, với cái chân cụt gần tận háng. Anh em ngồi nghe Khánh kể chuyện, đều khiếp vía. Tại bệnh viện Yên Bái, người ta trói tay chân Khánh vào giường, rồi cưa chân mà không có thuốc tê mê gì cả. Danh từ chuyên môn gọi là "giải phẩu sống". Khánh đau quá, ngất đi mấy lần. Giải phẩu sống lần đầu, vết thương nhiễm trùng sưng tấy lên và làm mủ. Giải phẩu sống lần thứ hai, người ta cho Khánh uống rượu đế đến say mèm, rồi mới cưa. Khánh nói, có rượu vào, cảm thấy ít đau.



Nhắc chuyện của thằng Khánh, cũng không làm Lê Thơm nao núng.



"Ðừng doạ tao. Ðấm một cú đi." Lê Thơm nghiêng đầu, đưa quai hàm chờ đợi.



Tôi đẩy ra: "Cú đấm của tao, có thể làm mày tréo bản họng. Mày tự đấm mày đi."



"Tao làm rồi. Nhưng tự đấm mình, tao không dám mạnh tay. Mày giúp tao hoàn thành kế hoạch."



"Kế hoạch của thằng khùng!"



Nói xong, tôi bỏ đi. Lê Thơm cụt hứng, chửi thề.



Hai ngày sau nữa. Ăn trưa xong, anh em vào lán nằm nghỉ ngơi. Lê Thơm, và tôi còn ngồi lại ở nhà ăn. Con chó nhỏ quanh quẩn dưới chân. Nó mới xuất hiện khoảng hơn nửa tháng nay. Từ trên khung, nó hay chạy xuống trại trong giờ ăn.



Nhìn con chó một lúc, Lê Thơm chợt nẫy ý lạ: "Thịt con chó này."



Tôi trợn mắt: "Ðừng đùa. Chó cán bộ trại phó đấy."



Hắn cương quyết: "Chó cán bộ, cũng xơi."



"Làm sao ăn?"



"Tao có cách. Mày dụ nó ở đây. Tao lấy cái bao cát."



Tôi chưa kịp đồng ý hay không. Hắn chạy vụt đi.



Tôi nhìn con chó. Tội nghiệp! Nó không biết gì cả. Tôi đưa tay. Nó liếm. Tôi vuốt đầu. Nó quíu tai lại. Tôi vỗ nhẹ trên lưng. Nó nghểnh cổ, lim dim đôi mắt. Quỷ thần trời đất ơi! Nó dễ thương như vậy, ai nở lòng nào giết cho đành?



Lê Thơm cầm bao cát, hấp tấp chạy lại: "Nhanh lên!"



Tôi lắc đầu.



Hắn mở rộng miệng bao giơ ra, giục: "Nhanh! Bóp cổ, thồn vào."



Không còn suy nghĩ nữa, tôi chụp cổ con chó, siết mạnh. Nó giãy giụa, quào bốn chân trong không khí. Lê Thơm túm chân, tròng vào bao cát.



Hắn nói: "Tiếp tục bóp."



Nếu có kẻ nhìn thấy, hậu quả khốn nạn sẽ không lường nổi.



Tôi kêu lên: "Kinh quá mày ơi! Tha nó đi."



Tôi buông tay. Con chó vừa kêu "ẳng" một tiếng, đã bị Lê Thơm siết cổ lại liền.



Tới giờ xuất trại lao động buổi chiều, cả đội xếp hàng đôi, lần lượt ra cổng. Cán bộ trực trại, và quản giáo đứng ngay cổng kiểm soát. Vệ binh coi tù, mang súng đi sau cùng. Lê Thơm lảnh việc nấu nước cho đội. Hắn quảy cặp thùng, mang bị đựng chó bên hông, thản nhiên đi ra cổng. Tôi vái thầm, cầu trời cho hắn thoát. Và hắn thoát thật. Tôi thở phào, nhẹ cả người.



Ra đến hiện trường lao động, mọi người túa vào rừng chặt nứa. Rừng xanh mênh mông. Ðồi núi chập chùng. Vệ binh mang súng đi qua đi lại ngoài bìa rừng, canh tù làm việc. Lê Thơm chọn thế đất tương đối bằng phẳng. Việc đầu tiên, hắn đào một cái hố nhỏ. Ai cũng tưởng hắn đào bếp lò. Nhưng thật nhanh, hắn cho con chó xuống, và lấp đất lại. Bên trên, hắn đốt một đống lửa, nấu nước. Ðó là chuyện hắn kể sau này.



Trong giờ giải lao. Tôi tới chỗ nấu nước. Lê Thơm múc cho tôi một ca nước sôi. Nhìn quanh, không thấy có dấu hiệu gì chứng tỏ Lê Thơm nướng chó.



Tôi hỏi nhỏ: "Chó đâu?"



Hắn chỉ vào đống lửa.



Tôi lấy cớ mồi lửa đóm hút thuốc lào, dùng cái que cời than lên, vẫn không thấy chó.



Hắn bảo: "Ði khỏi chỗ này ngay. Ðừng làm tụi nó sinh nghi."



Tôi tin tưởng vào tài ứng biến của Lê Thơm. Xưa kia, hắn là thiếu tá, có thời làm quận trưởng quận Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long. Ngày nay vào tù, hắn nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh mới, lanh lợi trong mọi vấn đề. Nhất là cải thiện, hắn nhanh như sóc. Trong đội, không thằng nào qua mặt được Lê Thơm. Thoáng thấy đó, biến đó không ngờ. Hồi hắn còn trong tổ làm vườn. Giờ trưa, mọi người đều nghỉ ngơi. Hắn lúi húi moi khoai lang, đem xuống suối rửa, nhưng mắt vẫn rảo quanh quan sát. Hắn thấy Thu Sứt từ những bụi cây đàng xa, đang rình mò theo dõi hành động của hắn. Tay này mang quân hàm trung uý, có người anh vào Nam làm giải phóng, và bỏ mạng trong trận chiến mùa hè năm 72, ở Bình Long. Bao nhiêu hận thù, Thu Sứt trút lên đầu anh em tù cải tạo. Sở dĩ Thu Sứt có biệt danh này, là do cái môi bẩm sinh bị sứt, phải vá lại. Vì thế cái miệng chum chúm, làm cho cái mặt luôn luôn mang nét quạu quọ như người đang hờn giận. Có lần, Thu Sứt bắt gặp anh Năng đang cải thiện. Thu Sứt gọi về, bắt Năng đứng giữa bốn vệ binh vây quanh. Thu Sứt hạ lệnh cho bốn vệ binh bề hội đồng. Năng bị đấm văng bên này, bị đá giạt bên kia, giống như những cầu thủ giao banh. Cuối cùng, Năng gục xuống ngất xỉu, được khiêng về trại cho anh em tù săn sóc. Sau thành tích ấy, Thu Sứt nổi danh là hung thần ác sát. Trong trại còn một người nữa, cũng nổi danh không kém Thu Sứt. Ðó là chàng trung sĩ vệ binh Nương Mặt Ngạnh. Thật ra, anh ta tên là Lương, nhưng do nói ngọng thành Nương, và do xương quai hàm bạnh ra, nên có biệt danh là Nương Mặt Ngạnh. Khi dẫn tù đi lao động, anh ta cầm theo chiếc gậy bằng cây giang, trông như khúc đoản côn. Ðã nhiều lần anh ta quất thẳng cánh vào anh em tù cải tạo. Ai từng bị đòn của Nương Mặt Ngạnh cũng đều ẹo xương sống. Thành tích của Nương Mặt Ngạnh ở hiện trường lao động rất đáng gờm. Anh ta bắt tù đứng trên triền núi. Thế núi dốc, anh ta đứng phía trên. Sau vài câu đay nghiến, bỗng Nương Mặt Ngạnh đá thốc dép râu vào mặt người tù. Bất ngờ không kịp chống đỡ, người tù ngả vật ra, sặc máu mũi. Trong kỳ cả trại học tập về chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng và nhà nước, anh em tù phản ảnh chuyện này lên ông trại trưởng. Ông trại trưởng bảo: "Chính sách của đảng và nhà nước trước sau như một. Nhưng các anh quá quắc, không trừng trị không được." Thế là huề! Ðảng và nhà nước vẫn tiếp tục chủ trương khoan hồng nhân đạo. Anh em tù vẫn tiếp tục bị trừng trị.



Trở lại chuyện Lê Thơm khi bị Thu Sứt theo dõi. Hắn biết nguy tới nơi rồi. Hắn cho tất cả khoai lang vào thùng tưới, đi lên. Ở đằng xa, Thu Sứt nương theo những bụi cây đi tới, quyết bắt tại trận tên tù đang cải thiện. Lê Thơm chờ cho Thu Sứt đi khuất sau chòm cây, hắn trút thùng khoai xuống hố ủ phân bắc. Rồi quay xuống suối như đang tiếp tục xách nước tưới rau. Phân bắc là cứt người, ủ lại để bón rau. Hố phân bắc đầy giòi bọ, và mùi rất khắm.



Thu Sứt xuất hiện, khi Lê Thơm đang múc nước dưới lòng suối.



"Anh kia! Làm gì đấy?"



"Xách nước tưới rau."



"Anh rửa gì dưới suối?"



"Tôi có rửa gì đâu?"



"Láo! Anh vớt tất cả đem lên đây."



"Có gì mà vớt?"



"Khoai lang."



"Làm gì có?"



"Hãy mò xuống, vớt lên."



Lê Thơm mò xuống, vớt lên những sỏi đá."



Tức quá, Thu Sứt xăn quần lội xuống suối. Mò chỗ cạn không thấy, Thu Sứt mò ra sâu hơn, ướt cả quần, vẫn không thấy. Thu Sứt quay lên, mặt hầm hầm bảo Lê Thơm về ngay, trình diện trên khung.



Tại khung, Thu Sứt đưa tờ giấy, bình mực, và cây bút cho Lê Thơm, bảo: "Viết kiểm điểm."



Lê Thơm hỏi lại: "Chừng nào nộp giấy?"



"Chiều nay."



"Không kịp. Tôi còn phải đi lao động."



"Cho anh nghỉ việc buổi chiều. Ở lại lán viết kiểm điểm."



Lê Thơm viết, đại ý rằng từ ngày đi cải tạo, hắn luôn phấn đấu để trở thành người tốt. Cán bộ bảo viết kiểm điểm. Nhưng hắn không biết kiểm điểm về vụ gì? Mong cán bộ chỉ dẫn.



Buổi chiều. Lê Thơm đem giấy lên nộp. Thu Sứt đọc xong, vỗ bàn: "Kiểm điểm về vụ cải thiện khoai lang. Biết chưa?"



"Nhưng tôi đâu có cải thiện khoai lang?"



"Có. Anh phải viết rằng anh có cải thiện khoai lang. Nghe rõ chưa?"



"Vâng. Tôi rõ. Xin cho biết chừng nào nộp giấy?"



"Cho anh nghỉ việc sáng mai, viết kiểm điểm. Trưa hôm sau nộp."



Thu Sứt đưa Lê Thơm tờ giấy khác. Anh ta yên chí sẽ căn cứ vào nội dung tờ kiểm điểm, nện cho Lê Thơm một trận mập mình, và cùm vào nhà kỷ luật.



Lần thứ hai, Lê Thơm viết rằng: Tôi đang đứng dưới suối xách nước tưới rau. Cán bộ nghi ngờ tôi đang rửa khoai lang. Và ra lệnh cho tôi phải viết có cải thiện khoai lang. Tôi tuân lời cán bộ, nhận có cải thiện khoai lang. Nhưng thật sự tôi không dám làm chuyện vi phạm nội quy như thế."



Trưa hôm sau. Thu Sứt đọc kiểm điểm của Lê Thơm xong, xé toạc tờ giấy, giận dữ: "Viết láo lếu thế này, thì sao gọi là tự giác?"



Lê Thơm bình tĩnh: "Tôi viết theo lệnh của cán bộ."



Thu Sứt gầm lên: "Câm họng. Cút ngay! Lần sau, dù có lủi giỏi như chạch cũng không thoát."



Trong tù, Lê Thơm dám "giỡn mặt" cán bộ, quả là lớn gan. Tôi phục hắn. Nói theo Thu Sứt, hắn lủi giỏi như chạch. Hắn đã thoát không phải một lần, mà nhiều lần sau nữa. Chỉ một lần sau cùng, hắn không thoát được. Và lần không thoát được ấy, đưa Lê Thơm đến sự tử vong. Tôi đã nói về trường hợp Lê Thơm bỏ mạng, trong một truyện khác.



Tối hôm thịt con chó, trời vừa nhá nhem, Lê Thơm khều tôi ra ngoài đầu hồi. Hắn mở cái bị, lôi ra con chó cứng đơ, dính đầy đất cát. Hắn lột da, xé miếng thịt đưa tôi. Chưa bao giờ ăn thịt chó, tôi nghe nhờn nhợn trong cổ khi cầm miếng thịt.



Lê Thơm bảo: "Ăn đi. Nguồn protéin bổ dưỡng vô song."



Hắn nhai ngấu nghiến. Tôi bắt chước ăn thử, thấy ngon. Tôi nghĩ, với sự đói khát lâu ngày, bất cứ món gì cho vô miệng cũng thấy ngon. Thằn lằn, rắn mối, cào cào, châu chấu, ốc sên, dế nhủi đều ngon, và cũng là nguồn protéin cần thiết cho cơ thể. Ðặc biệt, có con sâu màu trắng thường rúc trong gỗ mục, toàn thân nó chứa một chất sữa rất béo. Con sâu vô danh này, tù đặt tên là con Magarit. Có thể nói con Magarit là sâm động vật, giá trị không thua sâm thực vật của Ðại Hàn.



Hai chúng tôi ăn đến nửa con chó, thì đụng phần thịt sống. Bởi khi chôn con chó xuống đất, phía trên nóng nhiều làm thịt chín, nhưng không đủ sức chín tới phía dưới.



Lê Thơm nói: "Ăn luôn. Người tiền sử vẫn ăn thịt sống."



Tôi đề nghị: "Cắt ra từng miếng nhỏ, cho vào lon Guigoz nấu."



"Mang ra mang vô cổng trại, nguy lắm."



"Tới phiên tao mạo hiểm. Tao sẽ nấu ngay đêm nay."



Ðêm ấy, tôi lần mò trong bóng tối, vào nhà bếp cời than đặt vào hai chiếc lon Guigoz. Xong, lại quay về lán ngồi đợi thịt chín. Khi lấy lon về, cũng phải ra vào hai bận. Công việc chỉ có thế, nhưng vô cùng nguy hiểm. Vệ binh rình rập đâu đó, thấy bóng người ra khỏi lán mà không cầm theo cây đèn dầu, chúng sẽ bắn, nếu không chết cũng bị thương. Tôi tin con người có số mạng. Dù ở tù, nhưng ngôi sao chiếu mạng của tôi còn sáng lắm. Quỷ thần che chở cho tôi trong mọi trường hợp bất trắc hiểm nguy.



Ngay trong đêm, Lê Thơm và tôi thanh toán sạch luôn hai gon Guigoz thịt. Con chó nhỏ được chôn kín vào nơi không trời không đất. Hoàn toàn mất dấu.



Khi ăn, tôi nói: "Nghĩ tội con chó quá, mày ơi!"



Lê Thơm nói: "Cũng bởi tình cảm tiểu tư sản như thế, mà hôm nay mới vào tù."



Tôi lại nói: "Miếng ăn tưởng chừng rất nhỏ nhoi. Nhưng có lúc người ta dám đem cả sinh mạng mình ra thử thách. Xem thế, đủ biết cái ăn là quan trọng vô cùng."



Lê Thơm gạt ngang: "Ðừng triết lý vặt, ăn mất ngon, con ạ!"




Vài hôm sau, ông đại uý cán bộ trại phó cầm sợi dây cột chó, xuống trại vào giờ ăn trưa. Ông đi quanh quẩn tìm kiếm.



Ông hỏi: "Các anh có thấy con chó của tôi chạy xuống đây không?"



Mọi người im lặng.



Lê Thơm lên tiếng: "Con chó nào, cán bộ?"



"Con chó trắng đốm đen."



"Có phải con chó nhỏ không?"



"Ðúng rồi."



"Ồ... Lúc trước, nó vẫn thường chạy lại đây. Hai ngày nay không thấy."



"Hôm qua, tôi còn cho nó ăn. Mới mất hôm nay thôi."



Lê Thơm sốt sắng: "Tôi sẽ để ý. Nếu thấy, tôi giữ nó lại, báo cho cán bộ."



Ông trại phó lắc đầu thất vọng: "Chắc bị cáo vồ rồi."



Nói xong, ông quay đi.



Lê Thơm thầm thì với tôi: "Mình thịt con chó đã hai ngày. Nó nói hôm qua còn cho chó ăn. Bọn này hễ mở miệng ra là nói láo. Chuyện lớn chuyện nhỏ đều láo."

Chuồng Người

Chỉ còn vài ngày nữa là thu hoạch xong vụ mùa. Tôi được miễn đi lao động, vì cái chân đau. Hôm qua lúc chuyển lúa vào bồ, tôi vô ý vấp ngã nơi bậc thềm nhà kho. Mặc dù đã được nắn bóp, sửa trặc, nhưng khớp xương mắc cá chân vẫn sưng đỏ, đau nhức.


Khi các đội đã xuất trại, tôi chống cây gậy ra cửa, đứng nhìn lên sân trại. Giữa sân có đặt ba cái thùng phuy, dùng chứa phân người. Sau một đêm bài tiết của anh em trong trại, phân được xúc từng gánh đem đổ vào thùng. Hàng ngày, người của đội rau xanh sẽ chuyển ba cái thùng này bằng xe cải tiến đến vườn rau. Ðổ phân xuống hố, lấp phủ lên một lớp đất. Ủ phân. Một thời gian sau, phân từ màu vàng như đất sét nhão, biến thành màu xám như bùn, đã tới lúc có thể dùng được, xúc lên làm phân bón rất tốt. Phân được chế biến kiểu này gọi là phân Bắc. Mới đầu, anh em đội rau xanh rất tởm phân Bắc, nhưng thời gian lâu dài, tiếp xúc mãi thành quen, thấy cũng không có gì đáng gớm ghiếc, và khám phá ra cái công dụng tuyệt vời của nó. Chỉ cần rau muống nếm một chút phân Bắc, rau trở nên xanh tốt, tăng trưởng rất nhanh.



Từ trong đội cải tạo hình sự, có hai tên cầm que đi đến thùng phuy. Nó bươi móc thứ gì trong đó. Một trong hai tên này, tôi quen. Hồi mới quen, tôi hỏi nó:



- Mày tên gì?



- Ný!



- Tên ngộ quá! Họ gì?



- Nê !



- Cái gì? Làm gì có họ Nê?



- Có chứ! Rất nhiều!Tên họ của cháu: Nê văn Ný


.


Tôi chợt hiểu, bật cười:



- Mày nói ngọng. Tên họ của mày là Lê văn Lý.



- Người miền Nam của các chú thường nói thế. Ở đây chúng cháu gọi Nê Văn Ný!



Từ đó trở đi, tôi cũng gọi nó là thằng Ný.



Thấy nó bươi móc trong thùng phuy, tôi kêu lớn:



- Ný! Mày làm cái gì đó?



Nó quay lại nhìn tôi, rồi bỏ cái que, đi lại gặp tôi.



- Hôm nay sao chú được nghỉ?



- Tao bị bong gân chân. Còn mày?



- Cháu chờ để trưa gánh đồ ăn thông tầm cho đội!



- Mày tìm gì trong thùng phân?



- Nhà bếp vừa đổ rác trong ấy. Cháu kiếm chút rau cải vụn.



- Ăn uống dơ bẩn, có ngày bỏ mạng con ơi!



- Cháu mang về rửa sạch, cho vào ca cống, đun sôi, vi trùng nào chả chết!



Tôi nhìn thân hình gầy gò, cái mặt hốc hác của nó, và nghĩ đến mình. Tôi có khác nó gì đâu. Cùng một hoàn cảnh khốn khó, người ta không cần tỏ lòng trắc ẩn cho nhau.



Ðứng tần ngần một lúc, nó hỏi:



- Chú có thuốc nào, cho cháu xin một bi!



-Vô đây!



Tôi dẫn nó vào lán, ngắt trong cái bọc nhỏ, cho nó một bi thuốc lào. Rít xong hơi thuốc, nó nói:



- Hôm nay, đội cháu có mấy thằng được chỉ định nên khung, mổ nợn cho cán bộ bồi dưỡng. Cháu không được đi. Tiếc thật!



- Mổ lợn đâu có gì thích mà mày tiếc?



- Thích chứ! Ðược xơi thịt!



- Cán bộ cho ăn hả?



- Không. Làm gì có người tốt thế!



- Vậy ăn bằng cách nào?



- Khi được chỉ định đi mổ nợn, thằng nào cũng phải măc hai nớp quần. Nớp trong được bó sát vào bìu dái như cái quần xì của người miền Nam. Ðến núc xẻ thịt thì xén vài cục, nén dấu vào quần, dưới bìu dái. Trước khi về, cán bộ bắt đứng xếp hàng, mò xét khắp ngườii, nhưng không mò dưới bìu dái. Thế nà thoát!



-Tụi mày tài thật!



- Cách này dùng mãi, bị phát giác. Chúng nó bắt cởi đồ, chỉ còn độc cái quần trong, thò tay sờ vào quần, sờ nắn trong háng, nhột bỏ mẹ. Bắt gặp có dấu thịt, chúng nó dần cho nát đòn và cùm vào nhà kỷ nuật.



- Khó khăn, nguy hiểm như vậy, tụi mày không sợ?



- Trong khó khăn nẩy sinh sáng tạo. Chúng cháu nghĩ ra được cách giấu thịt, chỉ có trời biết.



Nó ngừng lại, chỉ tay vào túi tôi:



- Chú cho cháu thêm bi thuốc!



- Mày có tài thật, đang kể chuyện tới hồi gây cấn là ngừng lại, đòi thứ này, thứ nọ.



Dù cằn nhằn nhưng tôi vẫn ngắt cho nó bi thuốc lào thứ hai. Nó cẩn thận cho bi thuốc vào nõ điếu, châm mồi lửa, rít một hơi dài...Tôi giục:



- Kể tiếp đi. Cái mánh lới giấu thịt của mày!



- Thằng nào được chỉ định đi mổ lợn, khi trở về đội cũng phải nạp cho thằng đội trưởng hai cục thịt bằng ngón chân cái. Không có, nó thụi vào bụng cho thổ huyết!



- Tao không muốn nghe chuyện thằng đội trưởng của tụi mày. Hãy kể phương pháp dấu thịt mà mày cho rằng sáng tạo.



- Vâng! Phương pháp này không cần phải chuẩn bị đồ nghề gì cả. Lúc xẻo thịt, nếu cán bộ không để ý, cứ xén từng cục, cho vào mồm xơi tươi!



- Ăn thịt sống hả?



- Vâng! Xơi thịt sống thì đã có sao?



- Tụi mày ăn uống như người tiền sử!



- Người tiền sử nà người xứ nào mà ăn uống như chúng cháu?



- Chẳng phải xứ nào cả! Ðó là tổ tiên của chúng ta nhiều triệu năm về trước. Khi chưa tìm ra lửa, loài người phải ăn thịt sống.



- Ðấy! Họ vẫn khoþe mạnh, sinh tồn đến ngày nay. Cọp beo cũng thế!



- Hãy nói vấn đề lấy thịt. Tụi mày ăn tại chỗ, nhưng làm sao lấy về cho thằng đội trưởng?



- Chúng cháu xén sẳn vài cục, khi có nệnh về nà cho vào mồm nuốt ngay. Bọn cán bộ dù có con mắt thánh cũng không bắt gặp. Xét xong, chúng cháu vội về đội, móc họng, nôn ra niền, nạp đủ số cho thằng đội trưởng.



- Rồi thằng đội trưởng ăn bằng cách nào?



- Hắn rửa cục thịt sạch chất nhớt, cho vào ca cống, đun lên nà có được bữa ăn ngon.



Nói xong, thằng Ný đứng dậy:



- Cháu phải về gánh cơm cho đội thông tầm. Cái chân chú đau, không nên đi đứng nhiều.



Nó quay lưng, ra khỏi lán.



Nhìn đôi vai gầy guộc của nó rút lại như đôi vai cuþa người bệnh ho lao, tôi gọi: -Ný! Mày trở lại lấy vài bi thuốc laòo, đêm nay hút cho đỡ lạnh!



Vào những ngày cuối năm, trời bỗng dưng trở lạnh. Mưa phùn lất phất trên những vòm cây. Ðồi nương ẩm đục. Ngày hai mưới chín tháng Chạp, được phép trại trưởng, các đội khỏi phaþi xuất trại lao động bên ngoài. Thay vào đó, anh em được giao công tác dọn dẹp và làm vệ sinh trong trại, chuẩn bị đón Tết.



Tôi đang ngồi nhổ coþ dọc theo những chân tường ngăn chia các đội. Thăng Ný đi ra. Hôm nay nó mặc bộ đồ lành lặn, sạch, mặt hiện niềm vui. Tôi nói:



- Chưa Tết mà ngó mày, tao đã thấy mùa xuân!



Nó báo tin: - Cháu được mẹ từ Vĩnh Yên nên thăm. Bộ đồ này cháu mượn của thằng bạn, để mẹ cháu không nhìn thấy cháu rách. Cháu đang chờ cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi.



- Mày ngon rồi! Vừa có đồ ăn của trại, vừa được mẹ tiếp tế thêm. Tết này mày huy hoàng!



- Vâng! Huy hoàng thật! Cháu không ngờ may mắn đến thế!



Khoảng hai giờ chiều, cán bộ dẫn thằng Ný về trại, tay ôm bụng, mặt nhăn nhó, tái nhợt. Ngờ nó bị trúng gió, tôi theo nó vào lán. Nó năm vật lên sạp, lăn lộn, kêu đau bụng và lạnh. Tôi hỏi mượn mấy thằng bạn của nó ve dầu nóng để cạo gió.



Thằng đội trưởng hình sự đứng nhìn một lúc, nói:



- Chả phải trúng gió đâu! Nó bị bội thực đấy! Móc họng nôn ra là khỏi ngay!



Nhiều thằng khác lao nhao:



- Nôn ?đi! Nôn đi!



Thằng Ný trườn về bìa sạp, rướn cổ, thò đầu ra ngoài, cho ngón tay vào miệng. Có thăng la lớn:



- Hãy khoan!



Và nó chạy ra ngoài, đem vô một cái thau bằng nhựa, bưng thau kề sát miệng thằng Ný:



- Hãy nôn vào đây!



Thằng Ný móc họng, ụa mữa. Ðồ ăn lẫn nhớt dãi tuôn trào xuống thau. Thằng bưng thau bóc lên những miếng thịt còn dính lòng thòng nhớt dãi, đưa lên miệng ăn. Một thằng khác đang đói cũng ăn.



Có thằng nhăn mặt: - Gớm quá!



Thằng bưng thau nói:



- Gớm gì? Từ bụng kia sang bụng nọ mà thôi!



Sáng mồng một Tết, mọi người quy tụ ra sân trại coi anh em văn nghệ trình diễn. Có đàn và trống xập xình vui tai. Tôi gặp thằng Ný đang lóng ngóng coi hát. Tôi hỏi:



- Mày khỏe hẳn chưa?



- Hôm sau nà khỏe ngay!



- Mẹ mày thăm nuôi, sao tao thấy mày đi vào tay không?



- Nhà cháu nghèo, không có tiền sắm sửa. Thăm nuôi là thăm cho có nệ thế thôi! Mẹ cháu chỉ mang cho cháu một con gà nuộc, và một cân xôi.



- Sao không đem vô trại, để dành ăn từ từ?



- Nếu đem vô trại, mấy thằng đầu gấu, chúng nó giành giựt cả. Thế cháu mới xơi hết tại chỗ!



Tôi trợn mắt:



- Mày ăn hết một lần hết con gà và cân xôi?



- Vâng! Không còn cách nào khác! Lúc thì dư thừa phải nôn ra, bây giờ thì đói.



Nhìn thằng Ný, tôi thấy nó đang tàn tạ, khô héo dần. Nó không có mùa Xuân.

Chuyện Bạn Tù Cải Tạo

Tác giả Sao Nam Trần ngọc Bình, cựu sĩ quan VNCH, cựu tù cải tạo, hiện định cư tại Greenville SC., đã góp nhiều bài viết đặc biệt. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.

*

Anh Đ. hiện đang ở Cali, nếu tình cờ, anh đọc được bài này thì người viết xin cám ơn anh về cái tài thuyết phục hiếm có và đã mang ra áp dụng đúng nơi, đúng chỗ, đúng lúc đúng đối tượng cũng như lòng can đảm có thừa, dám bứt "râu cọp" mà không hề ngán bị cọp vồ!

Anh L., đang định cư ở tiểu bang Vermont, Hoa Kỳ, nhưng vẫn lặng lẽ tìm cách để giúp đỡ những người kém may mắn hơn, đặc biệt là các anh em Thương Phế Binh VNCH đang sống khốn cực ở quê nhà.   

Xin phép được kể đôi chút về các anh, vì với những cựu H.O. việc hồi tưởng về những bạn tù là ký ức không thể tách rời, vẫn sống cùng chúng ta ngay trên đất Mỹ này.

*

Lúc đó là cuối năm 79, anh em tù chúng tôi đang bị tập trung ở các trại tù thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn; bỗng nhiên, bị chuyển trại về các tỉnh thuộc miền đồng bằng.                             

Tuy các cai tù cố giữ bí mật nhưng những tin tức về việc Cộng Sản Trung Quốc sắp cho Cộng Sản Việt Nam một bài học cũng không thể giữ kín mãi được, và đến tháng 1/79 thì điều này đã thành sự thật.

  Tại Trại tù Nam Hà, đội Xây Dựng đã phải làm việc mệt nghỉ để xây thêm các buồng tù mới cho kịp đón nhận các anh em tù chính trị từ các tỉnh miền thượng du ở Miền Bắc di chuyển về,  có chỗ ở tù.

Từ trại tù Phong Quang ở Lào Cai, tôi và các anh em cùng cảnh ngộ được chở bằng xe vận tải về trại tù Nam Hà thuộc tỉnh Phủ Lý, trại này có 4 phân trại được đặt tên là A, B, C và Đ.

  Mới đầu, tôi và một số anh em được đưa về phân trại B, sau một thời gian họ đưa chúng tôi về phân trại A, tại đây tôi gặp L. và hai chúng tôi trở nên bạn thân với nhau lúc nào mà không hay.

Chiều hôm đó, sau khi nhập Trại và trở về buồng tù thì L. đến chỗ tôi đang ngồi, anh nói:

- Hôm nay, bà xã tôi ra thăm, có con cua bể luộc, chút xíu nừa B. qua chỗ mình và cùng ăn với nhau nhé!

  L. là một người theo đạo Thiên Chúa thuần thành và hoà nhã.  Đối với bạn bè anh sống chân thực, tin cẩn và sẵn sàng bênh vực bạn khi cần.

  Trong tù, lúc đó anh em đói dài dài, đói đến độ nếm muối thấy muối ngọt. Thế nhưng, L. lại khác với người ta, tuy đã bị cái đói hành hạ nhưng mỗi khi có món ngon miệng là L. tìm đến anh em để chia xẻ.                                                                          

Ở trong tù thì thế, còn  ra khỏi trại tù, sau khi đã định cư ở tiểu bang Vermont, Hoa Kỳ, may mắn có sức làm giờ phụ trội,  anh đã cố gắng làm thêm và số tiền kiếm được, anh dành riêng, âm thầm  gởi về giúp các anh em thương phế binh VNCH còn ở Việt Nam.                                                                        

Từ năm 1979 trở về trước, CS không cho thăm nuôi, thân nhân của tù tìm cách dọ hỏi, tìm được đến Trại tù của người thân đều bị đuổi về.                                                          

Ngay cả đến những gói đồ tiếp tế của thân nhân gởi đến Trại tù, đều bị cai tù tập trung đưa vào bếp để nấu thành một loại chè hổ lốn phát cho tù.

Khi ăn thứ chè có một không hai trên đời này, có anh đã trúng số khi nhai phải cái gì cưng cứng, lúc mở ra thì có thể là một hoặc 2  tờ 5 hay 10 đồng mà các bà vợ hiền ở nhà đã khéo léo gói vào tờ plastic mỏng dính, rồi nhét vào trong các món đồ ăn gởi cho chồng, nhưng không may đã không đến tay được người mình thương yêu!

 Từ sau năm 79 trở đi, có lẽ nhờ vào áp lực quốc tế và gặp nhiều khó khăn, CS mới  chịu nhượng bộ, cho thân nhân đi thăm tù.                                                                                      

 Khi có thăm nuôi rồi thì không khí trong Trại tù bỗng nhiên bừng bừng sức sống.                                                                  

Mỗi chủ nhật là một “ngày hội “dù là hội trong tù, nếu chỗ này họp các anh em cùng khóa, thì chỗ kia họp các anh em cùng đơn vị ăn, uống ì sèo.       

  Hình như lúc đó ai cũng quên mất là mình đang bị tù! Có lẽ, nhờ dễ quên như vậy và nhờ dễ thích ứng với hoàn cảnh mà chúng tôi đã sống sót để trở về với gia đình chăng"

Đó là đối với tù, còn đối với cai tù thì sao " Mỗi lần có thăm nuôi hay nhận được đồ tiếp tế thì tù phải mở gói đồ cho cai tù xét, rồi mới được đem về phòng.

Từ ngày đó, hình như  lãnh đạo không cần chỉ dẫn như bây giờ là người Việt ở nước ngoài là núm ruột ngàn dậm nữa mà các cai tù đã tìm ra "chân lý”ấy, ở ngay những người tù khốn khổ mà trước khi họ được thăm nuôi các cai tù đã coi họ như kẻ thù, theo như lời dạy của Đảng!

Thế là có một màn nhỏ to anh cho tôi cái này, cái kia  v...và v.., cư "thân mật”như là người trong nhà vậy! Từ đó tù "lên giá".

Thân nhân của các tù nhân khi ra thăm người thân, trước khi trở về nhà, đã gởi lại những số tiền lớn lối 1 hay 2 ngàn đồng, so với giá gạo bao cấp là mấy chục xu một kí hồi đó.  Những số tiền đó được trại tù đổi thành tiền "bìa  " là thứ tiền chỉ để tiêu trong trại tù. Tù nhân không được xài tiền thật vì họ sợ rằng tù nhân có tiền thật thì khi trốn trại sẽ dễ dàng hơn.

 Việc Trại giữ những số tiền của tù do thân nhân gởi lại đã lọt vào con mắt "nhìn xa trông rộng" của vợ viên Trung Tá Công An, Trưởng Trại Tù, thế là cứ cuối tuần, tù nhân muốn bồi dưỡng thì đã có "tay, chân" của bà này mang thịt heo vào trại bán cho tù. Trước tiên, thì còn giữ ý chỉ dùng tiền bìa, sau thì cứ tiền thật mang ra xài tự nhiên.

Mỗi chủ nhật thì cả cái trại tù Nam Hà biến thành cái chợ với đầy đủ ý nghĩa của nó nghĩa là có đủ thịt heo, rau, củ, quả để bán cho tù. 

Hỏi anh tù hình sự bán hàng thì anh khe khẽ bật mí:     Việc mua bán này là do vợ của tù trưởng, tiền thu về mang nộp cho mụ ta.

Khi có người mua, kẻ bán thì tự nhiên sinh ra thị trường tiêu thụ và khi có thị  trường thì lại có nhu cầu.                                                                         

Thế là, do nhu cầu thị trường, trong trại tù bỗng nhiên có hai loại tù: TÙ CHA và TÙ CÔNG.                                  

Tù cha là anh em tù được anh em gán cho danh từ "tư bản", hai chữ này phải hiểu theo nghĩa của tù với nhau là có 1 hay 2 cần xé đồ thăm nuôi và có nhiều tiền bìa để mua đồ ăn.                                                                             

Còn tù công là anh em tù không thăm nuôi, "con của bà phước" được tù cha hay là tù tư bản thấy mặt mũi dễ coi bèn "nhờ nấu cơm, bưng nước" để cùng ăn với nhau.            

Khi ăn xong thì tù công lo dọn dẹp, rửa chén và làm mọi việc linh tinh, rất sòng phẳng giữa người có của và kẻ có công, cùng nương nhau mà sống.  

Phải nói thành thật rằng, nhờ dịch vụ này mà một số anh em tù con bà phước đã sống sót vì được anh em tù tư bản nuôi ăn.

Tại buồng tù nơi tôi ở có anh T. mới đầu chỉ đứng ra ghi tên anh em mua thịt heo, nhờ nhanh trí nên sau đó một thời gian, T. nghiễm nhiên là “đại lý” thịt heo và bánh mì bán cho anh em tù.

  Cứ mỗi thứ bẩy là lính canh tại chòi canh lại làm lơ cho tù hình sự trèo lên nóc tường trại tù, rồi dùng dây để chuyền bánh mì, đựng trong cần xé, vào trại, rồi giao cho T.                   

Lúc còn ở phân trại B, T. rất "nghèo “cứ nằm chèo queo vì không có thăm nuôi. Một lần T.bị cảm, sẵn có chai dầu cù là tôi đưa T. để T. cạo gió, nên khi có “ăn “T. không quên tôi.

Một số anh em tù “tư bản “được thăm nuôi nhiều nên trở nên “giàu “vì “quá giàu “nên bắt đầu giải trí bằng cách đánh bài, nhất là vào tối thứ sáu, thứ bẩy.                                  

T. dặn tôi khi họ kêu “bánh mì “thì tôi cứ lại nơi T. nằm, lấy bánh mì mang cho họ, và T. cho tôi mỗi ổ bánh 10 xu. Nhờ sự biết điều này của T. nên tôi cũng kiếm được lối 1 đồng, đủ tiền để mua 2 phần bo bo đã lột vỏ mà trại phát thay cơm, cho tôi và bác B., xếp cũ, cùng đơn vị với tôi, sống lây lất qua ngày.                                                                    

Hai phần bo bo này, do tù tư bản bán lại vì họ có tiền nên họ mua gạo mỗi khi đi lao động và tự nấu lấy, họ không cần đến khẩu phần do Trại tù phát.        

Thứ bo bo này theo như anh em cho biết chỉ để cho ngựa ăn mà thôi, bây giờ họ mang cho toàn dân ăn kể cả tù.   

Cũng đã có nhiều lần, họ cho tù ăn loại bo bo vẫn còn cả vỏ, thứ bo bo này phải nhai thiệt kỹ rồi nhả vỏ vì bao tử con người không tiêu hóa được cái vỏ của bo bo như ngựa.

Cộng Sản luôn luôn nói một đằng làm một nẻo, nói  vậy nhưng không phải vậy, vì chủ trương của Đảng Cộng Sản là dân càng đói thì càng dễ trị.

Lần tôi bị cảm kéo dài, bị mất sức trông thấy may được anh Th. một người tù cùng buồng tù tặng cho nửa chén đường.                                                                                 

Tới bây giờ cứ nghĩ đến anh Th. là tôi lại nhớ đến nửa chén đường và thấy đường lại nghĩ đến nghĩa cử của anh.

Ít ngày sau, bà xã tôi xoay sở ra sao mà ra thăm tôi được, khi nghe tin thì tim tôi đập liên hồi. Với tôi,  đây là giây phút xúc động nhất trên đời, xúc động hơn cả khi tôi còn mang cấp bậc Thiếu Úy, lần đầu cầm tay nàng miệng nói lời âu yếm rủ “nàng về dinh.”                              

Khi trở về Trại sau khi thăm nuôi, tôi gặp anh Th., thì anh lộ vẻ mừng rỡ và nói: Chị ấy ra kịp lúc để cứu anh đó!

Nhớ có lần, tôi nhận được gói đồ tiếp tế của bà xã  gởi, phía ngoài dính đầy dầu ăn, mở ra thì ai đó đã lấy lon dầu ăn và lấy hết dầu, rồi bỏ cái lon không trở lại!

Thân tù đã khổ thế mà còn bị chuột người ở đâu đó trên đường đi của gói đồ moi móc, để ăn chặn. Hình như lúc đó ông Trời đi vắng.

Một hôm, tôi nhận được gói đồ tiếp tế của chị tôi gởi, gói đồ 5 kí nhưng đã thấy có một lỗ hổng ở bên hông, mở ra thì chỉ còn một ít kẹo và hộp thuốc nhức đầu Aspro 250 viên chỉ còn có 125 viên. Tôi bán 100 viên, được một số tiền và quyết định sẽ buôn bán để kiếm sống như các cụ ta vẫn thường nói:  “Thừa cơ bên Tàu có loạn”

Một anh bạn tù có tài buôn bán, vào một buổi trưa,  anh ta đến chổ tôi nằm than là có mớ cá  bị ế, bán không được.

Tôi nói anh để tôi bán dùm cho. Thế là tay xách ba con cá, tôi qua phân trại tù nhốt toàn là  “bò ngũ “(là danh từ để chỉ những sĩ quan cấp bậc Đại Tá).  Sau một hồi chào mời có ông đại tá đồng ý mua với điều kiện là tôi phải làm dùm ông.

 Dĩ nhiên, tôi OK cả hai tay, mượn con dao nhỏ mà Ông dấu được (trong tù, tù không được giữ dao, kéo hay các vật bén nhọn) bắt tay vào làm 3 con cá trắm cỏ liền và nổi lửa lên, kho liền dùm Ông ta.

Ít ngày sau, khi gặp lại, Ông ta cho biết là cá kho rất ngon và dặn tôi khi có cá nhớ mang qua Ông mua dùm cho. Nghe lời khen tôi bỗng tự bật cười vì tôi có biết kho cá bao giờ đâu. Khi phải kho cá dùm Ông tôi chỉ lập lại những gì  ngày xưa đã từng trông thấy bà xã làm mà thôi.

Sau ngày bán cá cầm tiền về cho bạn tù, khi có mối cá là anh ta giao cho tôi đi bán và cho tôi cứ một con là một đồng.

Ngoài mối cá, tôi còn mua trứng vịt, của mấy người dân bán tại nơi hiện trường lao động quanh trại, rồi luộc chín. Mang vào trong trại, khi đi lao động trở về, để  bán cho các anh em tù "tư bản". Cứ mỗi quả trứng tôi lời được 10 xu, thế là tôi có thêm một đồng nữa, đưa cho bác B. để mua cua đồng của anh em đội nông nghiệp và chúng tôi có một nồi canh cua nóng hôi hổi qua sự khéo tay của bác B.

Chuyện tù hi hữu nhất là thành tích của anh Đ làm  anh em ai cũng thầm cảm phục. Anh ta nói khéo thế nào mà anh chàng cai tù lại mua dùm cho một cái radio. Tiền mua chiếc radio do anh em tù đóng góp mỗi người một chút khi anh Đ. đi quyên tiền và nói rõ mục đích.

Thế là, anh em tù chúng tôi hàng ngày đều có tin tức của đài BBC và VOA, nhưng chỉ sau một thời gian thì Trại tù biết được và anh chàng cai tù bị đi tù. Thế là chúng tôi không    còn có dịp nghe tin tức nữa.

Nếu thông tin là một mặt trận, thì đây quả thật là một    chiến công của anh em tù, và Trại Nam Hà  quả thật đã bị một đòn trời giáng.                                                        

Anh Đ. hiện đang ở Cali, nếu tình cờ, anh đọc được bài này thì người viết bài xin cám ơn anh về cái tài thuyết phục hiếm có và đã mang ra áp dụng đúng nơi, đúng chỗ, đúng lúc và đúng đối tượng cũng như lòng can đảm có thừa, dám bứt: "râu cọp”   mà không hề ngán bị cọp vồ!

Có lần ở trại tù Nam Hà, 2 đội tù cải tạo được lệnh ra lò gạch ở gần Trại để tăng thêm người làm gạch. Chỉ một thời gian sau,  2 đội này bị rút khẩn cấp khỏi lò gạch. 

 Lý do, ngay ngày đầu tiên, các cô thôn nữ làm tại lò gạch đã chỉ muốn nghe nhạc vàng do một anh bạn tù hát chứ không chịu tích cực sản xuất và sau một thời gian thì các cô đã biết chải chuốt và còn biết xức dầu thơm nữa. Gớm sao mà nhạc vàng Miền Nam hay quá vậy kìa!

 Cũng trong thời gian tôi bị ở tù tại Trại Nam Ha, có một phái đoàn quốc tế, nghe nói là của Thụy Điển, được CS cho thăm: ”tù cho biết sự tình “ để thấy tù”sung sướng “như thế nào.

Ngày phái đoàn tới thì buồng tù đang nhốt từ 200 đến 300 tù bỗng nhiên chì còn lối 80 chục tù, vì nơi chúng tôi nằm, CS chỉ cho để “biểu diễn“ 80 cái gối do những cái mền gấp lại để “mà mắt “phái đoàn. Chỉ có 80 cái gối nằm đó mà thôi, còn tất cả anh em tù chúng tôi thì bị đưa vào phân trại B để giấu cho kín!

Trong Trại cũng có một gian nhà dùng làm thư viện "kiểng” nghĩa là chỉ là nơi làm việc của Ban Văn Hóa mà Ban này  thực chất chỉ có nhiệm vụ phát những gói đồ tiếp tế của thân nhân gởi cho tù. Hôm phái đoàn đến, tại Thư Viện, lại có thêm bàn ghế và sách báo để cho “tù giả”là những cai tù mập mạp, có da, có thịt, ngồi đọc sách, đọc báo ung dung cứ y như là tù đang ở trên "Thiên Đàng Cộng Sản!"

Ngoài thư viện kiểng, còn có hồ cá: ”kiểng", khi có khách viếng Trại thì trong hồ  có cá vàng nhởn nhơ tung tăng vui mắt, khi phái đoàn đi khỏi thì cá vàng biến mất!

Bọn tù bệnh nằm ở trạm xá cũng được phát “sữa kiểng” để bầy chơi cho phái đoàn quốc tế thăm trại. Một anh bạn tù đã ”chơi “hết luôn hộp sữa đặc làm kiểng, khi phái đoàn ghé thăm. Sau này, khi bị vặn hỏi anh đã: ”ngây thơ“ trả lời  "tưởng Trại cho bồi dưỡng vì tôi đang bị bịnh mà"!

 Trong Trại lúc đó có một ban nhạc, do tù góp công và góp sức tạo nên, đứng đầu ban nhạc là anh Q., bậc niên trưởng. Khi phái đoàn tới, anh lập tức cho ban nhạc chơi bài "Cầu sông Kwai”như đã định trước với các anh em bạn tù trong ban nhạc.

Bản nhạc này nổi tiếng vì đây là bản nhạc trong một phim cùng tên, nói lên sự tàn bạo của quân phát xít Nhật khi giam giữ tù binh người Anh trong thế giới chiến tranh lần thứ 2, có lẽ các thành viên của phái đoàn biết rõ chúng tôi thuộc thành phần nào khi nghe ban nhạc chơi bản nhạc bất hủ này.

Khi một thành viên trong phái đoàn quốc tế hỏi, anh Q. đã trả lời, điều này đi ngược lại chỉ thị của cai tù, bị vặn hỏi anh cho biết là người ấy chỉ hỏi thăm sức khỏe. Thế nhưng, họ đâu có tin,  sau đó, ban nhạc bị giải tán.

Có lần, trong lúc chờ xuất Trại để đi lao động khổ sai, một anh chàng cai tù tính đánh một anh em bạn tù thì không ai bảo ai tất cả chúng tôi đều nhất loạt đứng lên la hét phản kháng.

Thật là may mắn mà anh  cai tù kia ngừng tay kịp lúc, nếu không, thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra!

 Tôi nói như vậy vì khi được thả ra khỏi Trại tù Gia Trung ở tỉnh Pleiku,vào tháng 10 năm 85, trên đường ra quốc lộ để đón xe, tôi gặp một anh cai tù thì anh này đã vô tình cho biết:   Các anh được tha ra là may mắn lắm đó, vì trong suốt thời gian các anh bị giam giữ, nếu các anh bạo động thì pháo binh, đã được canh sẵn, sẽ nã đạn vào các anh không thương tiếc.

*

Trở lại chuyện anh L. hiện định cư ở Vermont. Hai anh em cùng đinh cư một nơi mà đã lạc nhau có hơn 20 năm. Từ cuối năm 79 bước sang đầu năm 80, CS đã phân tán tù nhân từ miền Bắc vô các trại tù ở miền Trung và miền Nam.

Tôi và một số anh em khác bị đưa vào Trại Gia Trung ở Pleiku, còn L. thì may mắn hơn, chúng đưa anh về miền Nam và tôi mất liên lạc với anh từ lúc đó.  Mãi đến năm 2002, do sự tình cờ, khi đọc bài:  "Greenville SC, nơi bạn tôi sinh sống", đăng trên Việt Báo on line, L. kể chuyện một người bạn của L.  là anh H. , khách hàng của công ty bảo hiểm nơi tôi làm, nhờ thế, tôi mới liên lạc được với anh L.

 Anh khuyến khích tôi viết văn, mới đầu tôi còn ngần ngại nhưng khi bài đầu tiên viết và được chọn đăng, thì  cái nghiệp viết văn, dù chỉ là viết  văn tài tử, đã theo đuổi tôi cho đến bây giờ.

L. và tôi, trước 30 tháng 4 năm 75, đều không nghĩ đến viết văn và "bông hoa viết văn”của chúng tôi đã phải ẩn mình đâu đó lối gần 30 năm sau rồi mới có dịp đâm bông dưới ánh mặt trời, nơi đất  "America,The Beatiful”này.

Trích bút ký Tôi Phải Sống

Nguyễn Hữu Lễ

Người ta thường nói: "Sống lâu lên lão làng!" Tôi cũng đã có lần thuộc dạng "lão làng" vào năm 1982, sau khi nằm liên tiếp 3 năm trong nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm. Với cái vốn thời gian đó, tự nhiên tôi trở thành "đại ca" trong khu kỷ luật lúc bấy giờ.



Kể từ khi tôi bị đưa lên cùm chân sau vụ vượt ngục bất thành ngày 2 tháng 5, 1979 cho tới lúc này, tôi cứ quanh đi quẩn lại trong 6 buồng của khu nhà kỷ luật. Tôi giữ vai trò người quản gia, trong khi các người tù khác chỉ là những khách vãng lai. Có người trụ lại một thời gian khá lâu đến hàng năm trời, nhưng cũng có những người ngắn hơn, lên đây một thời gian chừng vài tháng hay tuần hoặc vài ngày rồi trở xuống dưới "làng". Cũng có người xuống "làng" ít lâu rồi lại lên khu kỷ luật như dân Âu Châu đi nghỉ hè ở vùng bờ biển hàng năm! Riêng tôi đã 3 năm rồi, nhưng chưa được đi "nghỉ hè" lần nào. Cũng chính vì được tiếp xúc với nhiều đợt tù kỷ luật, chính trị cũng như hình sự, nên yếu tố "lão làng" của tôi được nhiều người biết tới.



Nếu yếu tố "lão làng" không mang ý nghĩa gì đặc biệt đối với nhóm tù chính trị thì ngược lại nó là vấn đề quan trọng, đôi lúc là nguyên tắc sống còn đối những người tù hình sự. Nên biết điều này, giữa những người tù hình sự với nhau, sự kiêng nể các "đại ca" đã trở thành một thứ luật bất thành văn trong tù. Có những anh vì coi thường hoặc chểnh mảng việc tuân giữ quy luật này nên đã phải trả giá rất đắt. Suốt 4 năm qua tôi đã phải sống lăn lộn với tù hình sự từ trại Cổng Trời về đây, nên đã có dịp chứng kiến nhiều trường hợp trả giá đó. Tùy theo mức độ nặng nhẹ khác nhau của các hình thức vi phạm nguyên tắc mà các tù nhân vi phạm bị "đại ca" ra hình phạt tương xứng theo luật giang hồ tù. Nếu chỉ để cảnh cáo hoặc áp đảo tinh thần những lính mới để bắt phải đi vào khuôn phép thì chỉ cần sử dụng "chưởng", hoặc "bẻ ngà". Trường hợp nặng hơn thì bị "lấy cặp pha", hoặc "xin cặp nạng". Trường hợp nghiêm trọng và phải bảo vệ chử đứng thì đối phương sẽ được "cất". Những người tù hình sự có loại ngôn ngữ riêng bằng tiếng lóng. Gần như tất cả mọi người đều có một tên đệm kèm theo tên riêng. Và có một điều dường như ai cũng có thể biết được là họ chửi thề luôn miệng!



Hiện tượng ma cũ ăn hiếp ma mới trong giới tù hình sự là điều rất phổ biến và tự nhiên trong tù. Chắc hẳn nhiều người đã được nghe kể, và hơn nữa đã đọc những sách viết về đời sống ngục tù đề cập tới hình thức "tìm chử đứng" của các tù nhân cũ. Những anh tù mới vừa bước vào buồng sẽ bị những người cũ áp đảo bằng một trận đòn mềm người và bắt buộc phải bị khuất phục dưới trướng. Nếu người tù mới là tay hảo hán thì sau này sẽ "ngoi lên tìm chử đứng" bằng cách nào đó để nắm vai trò lãnh đạo. Việc ngoi lên tìm chử đứng này được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng điểm giống nhau duy nhất trong các cuộc tranh hùng đó là tính cách không khoan nhượng, nói rõ hơn là một mất một còn. Vì thế, ngoài trường hợp những "đại ca" có tầm cỡ cao, nghĩa là những tù nhân khét tiếng mà ai nghe tới cũng phải cúi đầu chịu phục và dù ở đâu cũng có đàn em các cấp thì không nói, còn những tay mới vừa ngoi lên tìm chử đứng trong tù, khi đi ngủ chỉ nhắm một mắt. Ý muốn nói lúc nào cũng phải đề phòng kẻo bị thanh toán!



Dĩ nhiên các việc đó chỉ diễn ra trong giới tù hình sự. Dù vậy hoàn cảnh đã đẩy đưa tôi, một tù nhân chính trị, vào vị thế được kiêng nể trong giới tù hình sự tại khu kỷ luật này. Một sự việc xảy ra ngoài sức tưởng tượng mà trước đó tôi chưa từng nghĩ tới. Nó đột biến xảy ra vào một buổi sáng nọ khi cán bộ mở cửa và đẩy vào buồng tôi một anh tù hình sự còn trẻ măng, chừng ngoài 20 tuổi. Buồng tôi lúc đó có 4 chử cùm nhưng chỉ có 3 người, tôi và hai anh tù Trung Quốc, còn một chử cùm trống dành cho anh tù mới này.



Chợt nghe tiếng mở khóa buồng, tôi vội lấy tấm chăn che ngang người, vì lúc đó cả 3 chúng tôi đều trần truồng. Anh tù mới vừa bị đẩy vào đứng chết trân giữa buồng, vì từ ngoài sáng vào buồng tối làm anh quáng mắt. Anh ta cố gắng định thần trong một buồng giam nóng như hỏa lò và chắc chắn là rất thối tha này. Còn tôi ở đây đã lâu và nằm trong buồng đã quen với bóng tối nên tôi nhìn ra và thấy anh ta hầu như rõ mồn một! Người anh trông nhỏ thó với mái tóc húi cao. Anh ôm trên tay chiếc chiếu cuộn tròn mà tôi biết bên trong là chăn và quần áo. Tay kia anh bưng một cái bát sắt có hoa màu đỏ và có đĩa sắt đậy lại nên tôi không biết trong bát có gì. Dưới nách anh cặp một ống điếu cày có máng lon Guigoz lòng thòng. Trong lúc anh tù mới đang chớp mắt nhìn quanh nhưng chưa thấy gì, ba người chúng tôi nói chuyện nhau bằng tiếng Phổ thông làm anh tưởng buồng này tất cả đều là tù Trung Quốc. Tôi nhận thấy trên mặt anh lộ ra vẻ sợ hãi. Có lẽ chưa kịp định thần thì cán bộ đã rút thanh sắt, xỏ chân anh ta vào cùm, khóa cùm bên ngoài buồng và đóng cửa bước ra. Cán bộ hành động nhanh như một cái máy, vì tôi biết anh ta không chịu nổi mùi hôi thối và bầu khí nóng như lò hấp của buồng giam.



Ban ngày trong căn phòng kín như cái hộp sắt có mở lò sưởi này, chúng tôi gần chết ngộp. Mửi lần mở cửa là mửi hồng ân trời ban, vì có không khí ùa vào buồng. Lúc đó chúng tôi thi nhau hít thở, càng mạnh càng tốt, càng nhiều càng tốt và cố rút vào buồng phổi không khí trong lành hiếm có để còn được tồn tại. Đợi cho anh tù mới định thần xong, tôi lên tiếng:



- "Mầy thấy rõ trong buồng chưa? Mệt thì nghỉ đi!"


Nghe tiếng tôi, anh ta rất mừng vì biết tôi là người Việt nên lễ phép nói:


- "Em xin chào anh! Thưa anh có phải là anh 'Nễ'(Lễ) không ạ!"


Anh tù này nói thiệt là ngọng. Tôi hỏi:


- "Sao mày biết tên tao?"


- "Ối giời! Anh ạ, đám bọn em có mấy thằng đi kỷ 'nuật' về, bọn chúng ca tụng anh 'nắm'. Chúng bảo anh rất tốt!"


Tôi phì cười:


- "Xạo mầy! Mày tên là gì, làm sao mà bị đi cùm?"


Có lẽ anh ta sợ khi nghe giọng nói tôi cố tình tạo ra vẻ "đại ca". Càng sợ hơn nữa sau khi đã chớp mắt làm quen với bóng tối trong buồng và nhìn thấy hình dạng tôi đang cởi trần, râu ria tua tủa rối ren vô trật tự, tóc tai bờm xờm đang ngồi cùng với hai anh Tàu to con và trần truồng như nhộng. Cảnh này ai mà chẳng sợ. Anh ta trả lời cách khúm núm:


- "Thưa anh, tên em là Huống. Em nhón một ít 'nạc' (lạc) của cán bộ, bị bể và đi cùm. À, em xin mời anh dùng bát cơm anh ạ!"



Vừa nói Huống vừa với tay cầm cái bát sắt, mở đĩa đậy ra và nhẹ nhàng đặt bát cơm cạnh tôi. Nhìn bát cơm hai anh Trung Quốc lộ vẻ thèm thuồng tột độ. Bát cơm trắng quả là một bữa đại yến trong buồng kỷ luật đói triền miên này. Ngồi nhìn cả ba anh tù, tôi cảm thất thương họ. Cuộc sống tù đày đã biến đổi họ thành những con người không còn là chính con người thật của họ. Một người tù vừa bước vào cố nhịn phần ăn sống còn của mình đổi lấy sự an toàn, còn hai người bạn Trung Quốc chỉ cần được ăn và không cần biết gì khác! Tôi hỏi Huống.



- "Cơm này ở đâu mày có?"


- "Em còn ống gạo mới thổi trưa nay".


- "Gạo mày lấy đâu ra?"


- "Em làm điếu đổi gạo anh ạ. Bọn chúng vẫn gọi em là Huống "điếu cày" mà!"


- "Nếu đưa cơm cho tao thì mày lấy gì ăn?"


- "Em không đói đâu anh ạ!"



Tôi đau lòng khi nghe câu đó, vì trong tù này ai mà không đói! Tôi bảo:


- "Huống! Tao giả vờ hù dọa mày cho vui, mày đừng nghĩ tao như một tay đầu gấu hình sự. Ăn đi mày, ở đây thằng chó nào mà chẳng đói!"


Huống ngạc nhiên khi nghe tôi nói như thế, nhưng nó cũng chưa dám ăn. Tôi giục mấy lần nó mói dám bưng bát cơm lên, miệng lí nhí nói: "Em xin anh!"


Tôi ngồi nhìn Huống "táp" vội bát cơm mấy cái đã hết sạch. Trông nó cũng đói không kém gì ba người chúng tôi trên khu kỷ luật này.



Kỹ thuật kiến trúc



Nhà kỷ luật Thanh Cẩm là một nơi được nghiên cứu và thiết kế cẩn thận để tăng hiệu quả tối đa của tính chất độc ác trong việc trừng trị con người. Ở lâu trong đó tôi mới có dịp quan sát kỹ và đi tới kết luận: Không thể có một đồ án xây dựng nào tốt hơn khu nhà mới vừa ba tuổi mà tôi là một trong số rất ít người được vinh dự là những thân chủ đầu tiên này.



Khu kỷ luật là một nhà nóc bằng, hình chữ nhật và có sáu buồng. Ba buồng phía trước trông ra một khoảng sân khá rộng và ba buồng phía sau mở cửa thông ra một lối đi hẹp chừng 3 thước, dẫn tới chân một bức tường đá xanh. Tường nhà dầy 40 phân, mái nhà được đúc bằng xi măng cốt sắt. Mửi buồng vuông vức với 3 thước mửi chiều. Cửa sắt thật kiên cố và chỉ có một cửa sổ nhỏ 50 phân vuông chắn song sắt to bằng cổ tay em bé. Điểm đặc biệt mà tôi khâm phục sáng kiến là các buồng không phải cách nhau bằng một bức tường theo như cách hiểu thông thường, nhưng buồng này cách buồng khác bằng một cái buồng xép bề ngang chừng một mét rưỡi, có cánh cửa chặn kiên cố bên ngoài. Như vậy khi muốn bước vào buồng kỷ luật phải qua 2 lần cửa, qua lần cửa gử vào buồng xép rồi mở cửa sắt vào buồng giam. Hai buồng giam có cửa sắt dối diện nhau. Tuy nhiên, vì nhu cầu có khoảng trống tráng xi măng trước cửa buồng, nên buồng 1 và buồng 6 nằm ở hai góc phía trước và phía sau chỉ cần qua một cửa sắt là vào buồng, trong khi tất cả các buồng khác phải qua hai lần cửa. Cái buồng xép nằm giữa hai buồng giam này là một sáng kiến thật độc đáo vì nó có ba công dụng thật rõ rệt. Thứ nhất là an ninh, người tù muốn vượt ngục phải qua hai lần cửa mới ra được. Thứ nhì là chặn không khí lại, vì không khí muốn vào buồng giam phải qua hai lần cửa. Và ý thứ ba quan trọng nhất, cái thanh sắt to từ trong buồng giam xỏ qua các móng cùm ngoạm vào cổ chân những người tù được luồn qua một cái lử trong tường, rồi ló đầu ra buồng xép này và có ống khóa to khóa lại ở đây. Như thế người tù ngồi bên trong buồng không bao giờ có thể đụng chạm tới cái ống khóa bên ngoài được. Chung quanh khu kỷ luật có tường cao ngăn cách với các khu vực khác trong trại, trên bờ tường có hàng rào kẽm gai. Đây chỉ là tường khu vực, chưa phải là bờ tường trại bằng đá xanh cao 5 thước bao bọc toàn thể trại tù Thanh Cẩm. Chỉ có một lối ra vào duy nhất là Cổng Trại được xây theo kiểu mẫu Khải Hoàn Môn (Arc de Triumple) của thành phố Paris bên Pháp. Cổng trại là phòng ở của cán bộ trực trại và lúc nào cũng có lính canh cổng ra vào.



Trong buồng có hai thớt nằm bằng xi măng hai bên một "phi đạo" ở giữa, mửi thớt cao 80 phân và rộng cũng 80 phân dành cho 2 người bị cùm. Thật sự tôi không nhớ rõ chi tiết về kích thước của cái thớt này, chỉ biết lúc bấy giờ chúng tôi gọi nó bằng cái tên khá dài: "Hai người thì thiếu, một người thì dư!" Như vậy sáu buồng khu kỷ luật chỉ được trang bị đầy đủ cho 24 thân chủ. Có thời gian số người bị kỷ luật đông hơn 24 thì mửi buồng có thể nhận thêm một tù nhân nằm dưới "phi đạo", dĩ nhiên là không phải mang cùm. Ở kỷ luật mà không phải mang cùm cũng là một hồng ân. Thỉnh thoảng cán bộ chiếu cố cho vài người được hưởng đặc ân này. Riêng tôi không được hưởng quyền lợi này một đêm nào trong 1020 đêm ở nhà kỷ luật.



Thông thường những người đã ở lâu thì chỉ bị cùm một chân (cám ơn sự nhân đạo của Đảng!) Thời gian 3 tháng đầu bị cùm cả ngày lẫn đêm. Về sau chỉ cùm ban đêm, từ lúc cho ăn chiều cho tới quãng 7 giờ sáng hôm. Ngược lại, "những khách vãng lại", tức là những người tù ở dưới làng bị phạt lên kỷ luật một thời gian ngắn, họ bị cùm một chân cả ngày lẫn đêm. Tuy nhiên, thời gian "tham quan" khu kỷ luật của họ chỉ kéo dài trong vòng một vài tuần lễ.



Buồng giam kín như bưng và tối đen. Chỉ phía ngoài gần cửa sổ có chút ánh sáng lọt qua song sắt, còn phía trong lúc nào cũng tối om om. Dù vậy, chúng tôi cũng không bị trở ngại vì đã quen với bóng tối. Từ bên trong buồng nhìn ra thấy bên ngoài rất rõ, nhưng từ ngoài nhìn vào qua song sắt cửa sổ thì không thấy gì bên trong. Nhất là những hôm nắng to người bên ngoài phải nhìn vào một lúc lâu mới biết có bao nhiêu người trong buồng. Trần nhà rất thấp. Đứng trên bộ nằm có thể với tay gần đụng trần nhà, trên đó có bắt một bóng điện leo lét và tắt từ 10 giờ đêm về sau.



Nhà cầu "nổi"



Buồng trống trơn không có thứ gì ngoài mấy cái ống bẩu bằng luồng, một loại tre to và rửng ruột. Đây là phương tiện toa-lét để tù nhân trong buồng đại tiểu tiện vào đó. Trước mửi lúc phát thức ăn trưa và chiều, một anh tù trực sinh vào từng buồng bưng các ống bẩu phân và nước tiểu này ra đổ vào hố phân ở góc tường ngay trước cửa buồng 3 nằm sát góc sân cập bờ tường phía trước. Hố phân này không có nắp đậy và là vương quốc của ruồi xanh.



Việc sử dụng nhà cầu nửi này không đơn giản, phải được chỉ dẫn và dĩ nhiên là cũng phải có kinh nghiệm. Lúc đó tôi đã là "con ma" trong khu kỷ luật rồi nên đã thích nghi hết mọi hoàn cảnh để sống còn. Việc sử dụng cái cầu tiêu lạ đời này không còn là vấn đề đối với tôi, trái lại những lính mới thường gặp trở ngại trong những lần đầu. Lúc bấy giờ yếu tố "lão làng" của tôi lại có giá trị, vì tôi phải mở một khóa cấp tốc hướng dẫn cách sử dụng loại nhà cầu "nửi" này như thế nào. Ban ngày lúc không phải cùm thì dễ hơn, nhưng lúc chân trong cùm mà buồn đi cầu thì không phải là chuyện đơn giản và trường hợp này "không thầy đố mầy làm nên"!



Khi đi đại tiện người tù phải dùng tới hai cái ống bẩu, mửi tay cầm một cái. Ống nước tiểu hứng phía trước và ống phân dĩ nhiên là phía sau. Trong khi thi hành bản năng sinh học tự nhiên của cơ thể con người, tù nhân phải ở thế đứng, hơi rùn người xuống một chút như thế "xuống tấn" của võ sĩ thái cực đạo. Ống phía trước có thể là ống nhỏ, nhưng ống phía sau bắt buộc phải là ống có đường kính to và nhẹ. Yếu tố này rất quan trọng, vì trong lúc "thi hành nghĩa vụ" của bản năng, nói nôm na là "đi cầu", người tù phải quàng tay ra sau để giữ cái ống bẩu. Nếu ống này nặng quá thì kẹt đủ điều! Có mấy lần ống này quá nặng, hơn nữa trong khi "đi cầu" ống đó càng lúc càng nặng vì phải chứa thêm, nên cuối cùng người tù không thể giữ ống bẩu sát vào mông và đã vuột tay làm đổ phân tung tóe trong buồng. Khổ cho người lúc đó đang ngồi ăn thì quả thật là bất tiện! Chúng tôi cố đi cầu vào buổi tối sau khi một chân đã dính vào cùm, một phần để tránh hai bữa ăn của anh em và phần khác cũng kín đáo hơn. Tuy nhiên, vào trường hợp bất khả kháng thì bất kể là ngày hay đêm, dù có phải đại tiện ngay trước mặt những người lúc họ đang ngồi ăn cũng không ai lấy thế làm phiền. Vả lại, vì đã quen với cuộc sống tù quá ư là chật chội, bẩn thỉu và thiếu mọi tiện nghi tối thiểu của con người, nên chúng tôi chẳng ai cảm thấy mùi thối tha hôi hám gì trong cái buồng giam kín như cái thùng sắt này. Việc ai người ấy làm, chẳng ai để ý tới ai. Trong khi một người đang đại tiện thì có thể một anh khác đang ngồi ăn hoặc có người đang tập thể dục, ra cửa sổ hít thở, ngồi cầu kinh, chơi cờ hay may vá. Có mấy lần một vài lính mới vì chưa rành sử dụng ống bẩu nên làm vương vẩy đầy trên sàn nhà. Nhưng không hề gì, chốc nữa tới lúc cho ăn, chúng tôi sẽ nhờ anh trực sinh quét và hốt đi!



Ban ngày không bị cùm "đi cầu" đã khó, ban đêm khi đã xỏ chân vào cùm mà muốn "đi cầu" thì cả là một cực hình! Lúc đó cần phải có một kỹ thật cao hơn và những lính mới thường không làm được. Phần vì vướng một chân vào cùm, phần khác cổ chân họ còn nhiều thịt nên rất trở ngại trong cái móng cùm bằng sắt nhỏ hẹp. Trong khi đối với tôi và những "thường trú nhân" của khu kỷ luật lúc bấy giờ, cổ chân chúng tôi không to hơn cái ống bơm xe đạp bao nhiêu nên việc xoay xở nhẹ nhàng khéo léo và lành nghề như một nhà ảo thuật.



Vào mùa Hè, trời Thanh Hóa nóng như thiêu như đốt. Nhất là những ngày có gió Lào cộng vào, buồng kỷ luật biến thành cái hộp bằng sắt có mở lò sưởi ở số cao. Gió Lào là ngọn gió từ bên Ai-Lao thổi qua dãy Trường Sơn miền Trung Việt Nam, đưa hơi nóng từ dãy núi đá này qua các tỉnh miền Trung Việt. Hôm nào gió càng to thì càng nóng. Buồng giam chỉ có một cửa sổ duy nhất và rất hẹp, khí không thể lùa vào buồng được. Do đó chúng tôi cứ phải thở ra hít vào buồng phổi mình cái hơi nóng của bầu khí trong buồng mà tôi có cảm tưởng nó đã đặc quánh lại thành một thứ chất dẻo, không còn là ở thể khí nữa! Nhất là mùa Hè về đêm, cái nhà mái bằng sau khi cả ngày tiếp nhận ánh nắng hừng hực của mặt trời, ban đêm tỏa hơi nóng xuống buồng giam và vắt cạn tới giọt nước cuối cùng trong thân thể gầy còm của chúng tôi. Những đêm kinh hoàng như vậy, mửi người trong buồng phải thủ sẵn một tô nước trích ra từ tiêu chuẩn nước trong ngày và một mảnh vải ngâm vào đó. Thỉnh thoảng lấy vải lau trên người cho da thịt tiếp xúc với sự mát lạnh của nước, sau đó vắt nước trở lại vào tô. Làm đi làm lại nhiều lần suốt đêm như thế, khi nào kiệt sức thì ngả xuống nằm một chốc rồi ngồi lên lau người tiếp. Sáng hôm sau nước trong bát đen như nước cống. Lúc bấy giờ tôi chỉ mong cho trên nóc nhà có một cái lử bằng quả cam cũng được, to hơn thì càng hay để khí nóng trong buồng có chử thoát ra và khí trong lành từ ngoài lọt vào qua cửa sổ chảy vào buồng để tôi có thể thở được. Trong cơn chết ngạt đó, tôi thấy thứ quý báu nhất trên đời này không gì khác hơn là làn khí trong lành để con người có thể hô hấp và tồn tại. Đó là điều mà dường như không mấy ai để ý tới và là hồng ân đầu tiên mà Thiên Chúa ban cho tạo vật. Lúc đó tôi cầu xin, "Lạy Chúa, nếu Chúa cho con có thể làm phép lạ thì phép lạ đầu tiên con làm là cho có một cái lử bằng hộp sữa trổ ra trên nóc buồng, để không khí có thể lưu thông và con có thể hô hấp hầu bảo vệ mạng sống!" Tôi quyết tâm là nếu sau này còn sống, tôi phải nói lên sự biết ơn và cảm tạ Thiên Chúa vì hồng ân cao cả Ngài đã ban cho con người có đủ không khí trong lành để hít thở. Đồng thời trong hoàn cảnh nghẹt thở đó, nửi niềm hối hận trào dâng cho những lần trước kia tôi than thở oán trách vì bữa ăn không ngon, chai bia chưa đủ lạnh, đĩa rau không đủ tươi, chiếc áo không đẹp, chiếc xe không đúng kiểu, nhà cửa thiếu tiện nghi.... Và đặc biệt tôi muốn chia xẻ với những người may mắn, nhất là dân các nước tư bản, sinh ra trong nhung lụa, lớn lên trong tiện nghi, cuộc đời được bao quanh bởi thú vui và tiền của. Tôi muốn nói với những người may mắn đó rằng, "Các người đang ở thiên đàng mà các người không biết. Vì thế xin đừng bao giờ than trách về một vài bất tiện trong cuộc sống đã quá đầy đủ tiện nghi của mình. Hãy biết mở tay ra bố thí và thương đến những kẻ khốn cùng!"



Những lúc nóng nực quá sức chịu dựng, chúng tôi đều trần truồng ngày đêm. Một phần vì mặc quần áo sẽ ướt đẫm và dán sát vào người không thể nào chịu được, đàng khác những người ở kỷ luật lâu như tôi không còn quần áo gì để mặc, dường như ai cũng giống nhau trong buồng giam kỷ luật. Chúng tôi chỉ chừa đủ một quần xé ống tới đầu gối và một cái áo xé tay tới sát nách, để khi cần phải ra ngoài hoặc lên cơ quan làm việc, còn bao nhiêu đều phải xé ra lau chùi khi đại tiện. Các mảnh vải được dùng xong cũng phải giữ lại để gọn vào một góc buồng, chờ lúc được xuống sông Mã tắm sẽ giặt và dùng lại. Trong thời gian kỷ luật chúng tôi được xuống sông tắm mửi hai tuần một lần. Tuy nhiên, nhiều khi cán bộ bận việc hay có gì bất thường thì phải chờ lâu tới ba tuần, nhưng ít khi nào quá một tháng mà chưa được tắm. Vì quá ba tuần mà chưa được tắm là bọn tù chúng tôi kêu la tru tréo điếc cả tai. Trong trường hợp đó buộc lòng phải cho đi tắm, nếu không phải vì lòng nhân thì ít ra để khỏi phải bị quấy rầy. Thật ra đối với tôi lúc đó, việc được đi tắm sớm hay muộn hơn một tuần lễ không có gì đáng quan tâm. Điều quan trọng đối với tôi là cái đống rác! Mửi lần đi ngang đống rác trước cổng trại là mửi lần đời tôi như lên hương. Hai con mắt hoạt động tích cực để tìm nhặt những thứ cần thiết cho cuộc sống trong buồng như vải rách dùng đại tiện, bọc nylon làm nhiên liệu chất đốt, hoặc may mắn hơn thì cái bàn chải đánh răng cũ hoặc ít giấy bao xi-măng làm vở viết học chữ Tàu, thứ ngôn ngữ tôi đang cố công học.



Cơn mưa trái mùa



Đêm đó Huống, anh bạn mới bị kỷ luật nằm chung thớt với tôi. Tôi nằm sát vách và Huống nằm bên ngoài. Hai người nằm song song và đôi chân bị xỏ xâu chung một song sắt. Tôi cùm chân phải, Huống chân trái. Một lúc khá lâu, gần tới giờ tắt đèn đi ngủ, Huống kêu đau bụng và buồn đi cầu. Tôi cảm thấy như sắp gặp rắc rối. Tôi vội ngồi lên chỉ cách cho Huống xoay người, bước một chân không bị cùm xuống sàn. Huống loay hoay cố gắng làm theo cách thức tôi bày, nhưng không được. Nó không biết xoay ngược người bước xuống sàn và quay lưng ra cửa sổ như thế nào. Tệ hơn nữa, trước đó 2 người đã đi đại tiện và các ống bẩu đã nặng hơn. Trong lúc đang bối rối như vậy thì Huống đứng thẳng trên thớt và kêu lên:



- "Anh ạ! Cố giúp em! Khẩn trương lên anh, em đau bụng 'nắm' rồi!"


Tôi đáp lời nhanh:


- "Mầy cố khắc phục, để tao bảo thằng Tàu nằm phía ngoài bên kia biểu diễn cho mày coi. Bước xuống! Mày đứng thẳng người trên bệ nằm như thế thì ỉa đái cái chó gì được! Sao không tuột quần xuống đi, còn xấu hổ à?" 



Tôi quay sang bảo anh Trung Quốc nằm bên ngoài ở thớt bên kia đứng xuống và biểu diễn màn đi cầu trong cùm. Anh Tàu bước một chân xuống và chụp lấy cái ống bẩu biểu diễn cách đi cầu với chân trong cùm một cách nhẹ nhàng và đẹp mắt. Bên này Huống ta cố gắng tối đa để làm theo, nhưng mặt mày nhăn nhó kêu đau vì móng cùm cày vào cổ chân trong lúc anh cố gắng xoay người. Cổ chân anh gần chảy máu mà vẫn không xoay người bước một chân xuống sàn được, vì cổ chân anh ta to mà móng cùm lại nhỏ. Những móng cùm to hơn một chút thì bọn tù kỷ luật chúng tôi đã thủ mửi người một chiếc như vật gia bảo của mình rồi, khách vãng lai phải chịu thiệt thòi hơn. Thấy không cách gì Huống có thể bước xuống sàn khi chân bị cùm, tôi hỏi:



- "Mầy có thể khắc phục tới sáng ngày không Huống?"


- "Chết mất anh ơi! Em chột dạ 'nắm' rồi, sắp sửa ra quần rồi anh ạ!"


- "Vậy mày đứng trên thớt làm được không?"


- "Em phải cố thôi! Em chột dạ 'nắm' rồi. Xin anh giúp chuyền ống bẩu cho em với!"


- "Ban sáng mày ăn gì mà chột dạ?"


- "Em ăn 'nạc' sống và uống nước 'nạnh' vào! Khổ thân em!"


Tôi bực mình, nhưng lại buồn cười khi nghe hắn ta nói, bèn phán to:


- "Khổ gì mày? Khổ tao thì có!"



Nghe tôi to tiếng, Huống tưởng tôi nạt nên sợ cuống cuồng vội vàng nói:


- "Em xin anh! Em van anh!"


Thái độ của Huống "điếu cày" lúc này càng làm tôi tức cười không chịu được. Mặt mày nó nhăn nhó, tay chân cuống cuồng. Thấy thế tôi bước xuống cầm hai ống bẩu lên và bảo nó:


- "Vậy thì mày đứng trên bệ, tuột quần xuống, đứng dạng hai chân và rùn người xuống như cái thế con chó đang đứng ỉa! Mầy có trông thấy con chó ỉa bao giờ chưa?"


Huống đáp vội vàng:


- "Có, có! Em còn 'nạ' gì chó ỉa cơ chứ!"


- "Được rồi! Một tay cầm ống bẩu nhỏ hứng phía trước, tay kia cầm ống bẩu to này áp sát vào sau mông. Phải nhớ áp thật sát vào mông nghe mậy, nhưng mầy thuận tay nào?"


- "Em thuận tay phải!"


- "Vậy mầy dùng tay phải cầm ống bẩu phía sau vì nó nặng và khó điều khiển hơn cái hứng nước tiểu phía trước. Nhớ phải cầm thật chặt nghe chưa?"



Tội nghiệp Huống! Anh ta vô cùng vất vả mới cầm được hai ống bẩu cho đúng tư thế. Trong khi đó sự đòi hỏi càng lúc càng khẩn trương!



Chỉ dẫn cho Huống xong, tôi nằm dài thẳng người xuống với chiếc chân trái dính vào cùm và nhìn lên. Cái ống bẩu "hậu vệ" của Huống đang chỉa thẳng vào mặt khiến tôi lo ngại. Tội nghiệp anh tù hình sự đang đứng trong một tư thế khom người rất kỳ dị. Đôi chân dang rộng, hai đầu gối co lại, người rùn xuống thấp và khom lưng cong người về phía trước. Tôi chưa trông thấy con người đứng trong tư thế đó bao giờ nên không biết diễn tả đó là cái "thế" gì! Nếu gọi là thế "xuống tấn" trong Thái Cực Đạo thì đôi chân phải dang rộng hơn, thân người phải thẳng và phải rùn người xuống thấp hơn mới đúng. Xem ra nó hơi giống cái thế của các vận động viên bơi lội trước khi lấy đà phóng xuống hồ bơi, nhưng chỉ giống ở cái lưng cong còn đầu gối các vận động viên phải thẳng, không thể như hai đầu gối của Huống trong lúc đang đứng ngay trước mắt tôi đây được. Vì sống đã lâu năm trong tù, chứng kiến quá nhiều cảnh tù kỷ luật đứng đi cầu "nổi" bằng hai ống bẩu, nên tôi mường tượng tới cảnh con chó đứng ỉa. Cũng may là Huống khá thông minh! Tôi vừa nói cái thế chó ỉa là anh ta hiểu ngay, nhưng lúc này anh ta biểu diễn không đúng lắm vì một cổ chân còn vướng vào cùm. Nhưng phải nói anh ta biểu diễn không đến nửi tệ. Tay trái Huống cầm ống bẩu nhỏ và dài phía trước coi bộ đã ổn, nhưng tay phải choàng ra phía sau dường như chưa làm chủ được cái ống bẩu có đường kính khá to và nặng, vì bên trong đã có phân. Nằm dưới nhìn lên thấy tình thế quá đe dọa, tôi lo sợ lên tiếng:



- "Huống! Huống! Đừng cầm trên miệng ống, không được đâu! Cầm ở lưng chừng một phần ba ống bẩu mới được. Mầy cầm như vậy làm sao thúc sát vào mông được!"



Tôi càng lên tiếng anh ta càng lụp chụp. Tôi nghĩ rất nhanh, phải ngồi lên cầm giúp nó mới được, bằng không sẽ phải lãnh đủ. Tôi ngồi bật dậy, một tay vừa đụng tới ống bẩu, chưa kịp nắm lấy thì bất thần tôi nghe một âm thanh lạ lùng và sắc nhọn như tiếng gió gào qua khe cửa: "Phụụụụụụt!" Đồng thời với cảm giác ấm và nặng như trận mưa đá tưới thẳng vào mặt tôi! Tiếp theo là bản hòa âm ngay bên tai tôi, nhưng chẳng giọng nào ăn khớp với giọng nào. Có tiếng thì quá trầm như ếch kêu "Uỳụụp! Uỳụụp! Uỳụup!" hòa với tiếng rít cao vút từng mây "Rooét! Rooét! Rooét!" Bằng hành động phản xạ, tôi đưa hai bàn tay che mặt và nhắm mắt lại nên không bị nước bắn vào mắt. Nhưng từ tóc, đầu, mặt, hai mu bàn tay và dài xuống tới ngực lãnh trọn những gì tự nãy giờ đã hành tội trong bụng Huống. Tôi chợt nhận ra phản xạ kỳ diệu của mi mắt. Nếu cái gì có thể làm nguy hại cho tròng mắt là nó tự động khép lại. Nếu mi mắt chờ tới khi nhận lệnh của hệ thần kinh mới làm việc thì hôm đó không biết đôi mắt tôi sẽ ra sao. Biết là tai họa xảy ra, Huống vội vàng quay người lại hốt hoảng la lên: "Ối giời ơi! Ối giời ơi!" Trong lúc đó, một chân anh bị vướng trong cùm, tay kia cầm ống bẩu phía trước, bàn tay phía sau bị ướt đẫm trơn trợt làm ống bẩu nặng tuột rơi xuống đổ tháo, cứt đái vương vãi nằm lăn lóc bét nhè trên chăn chiếu của hai người! Trời ơi là trời! Biết nói làm sao đây?



Sự việc xảy ra quá nhanh và bất ngờ khiến không ai kịp phản ứng gì. Hai người tù Trung Quốc bị cùm thớt bên kia nhìn thấy sự thể vụt ngồi lên chỉ trỏ và dùng tiếng tục tĩu nhất rong ngôn ngữ Trung Hoa để chửi Huống. Mặc dù Huống không hiểu tiếng, nhưng qua cách biểu lộ thái độ giận dữ anh ta cũng hiểu được hai anh tù ngoại quốc này muốn nói gì. Huống đứng chết trân run rẩy vì sợ hãi, luôn miệng kêu:



- "Anh ạ, em 'nạy' anh! Em 'nạy' anh xin tha cho em!"



Có lẽ trong thâm tâm lúc đó người tù hình sự đáng thương này nghĩ là anh ta đã phạm một lửi lầm quá lớn trong tù là dám ỉa vào mặt "đại ca", và tội này đáng chết! Huống ngồi bệt ngay xuống, không kịp lau chùi gì cả. Anh vội vàng cởi các nút áo ra mà tôi biết là để lau chùi cho tôi và chờ cuộc phán xét. Tôi cũng vội vàng ngồi lên và cởi cái áo đang mặc ướt đẫm ra lau mặt và lau tóc tai. Thấy tôi ngồi dậy, Huống quay lại chắp hai tay trước ngực lạy tôi như tế sao, đôi tay run rẩy, miệng lẩm bẩm:



- "Em van 'nạy' anh, xin tha cho em! Xin tha cho em!"



Tôi chợt cảm thương Huống! Anh ta có tội gì đâu! Để bù lại cho nửi lo sợ và thái độ van xin của anh, tôi buột miệng nói một câu hài hước làm Huống vô cùng ngạc nhiên. Cả hai anh Trung Quốc cũng lấy làm lạ sau khi nghe tôi nói dịch ra tiếng Phổ Thông:



- "Tao cám ơn mầy Huống! Trong kỷ luật tháng tắm hai lần, bữa nay mầy cho tao tắm thêm một lần nữa là ba!"


Nói xong tôi cười xòa, tay vử lên vai Huống và tiếp:


- "Đừng sợ! Mày chẳng có lửi gì cả. Đâu ai muốn như thế này. Chẳng qua vì hoàn cảnh mà anh em mình đành phải chịu!"


Huống cảm động nói như muốn khóc:


- "Em cám ơn anh! Em cám ơn anh thương em!"



Vừa nói anh vừa lấy áo mình lau người cho tôi. Tôi để yên cho anh làm việc đó vì muốn chứng tỏ là tôi không buồn giận gì Huống cả. Chỉ có nụ cười của sự rộng lượng mới cứu vãn được tình thế lúc bấy giờ.



Lạ một điều là mặc dù lúc đó tôi bị phân người bê bết trên mặt mày đầu tóc, trên áo quần và chăn mền, nhưng khi lau khô rồi tôi lại chẳng nghe mùi thối tha gì cả. Điều này làm tôi ngạc nhiên về sự kỳ diệu của sự bão hòa khứu giác. Vì nếu trong hoàn cảnh đó mà khứu giác chúng tôi hoạt động một cách nhạy bén bình thường thì làm sao chịu được? Đó là một tai nạn lớn, nhưng trong cái rủi cũng có cái may! May là việc này xảy ra chỉ còn cách năm ngày nữa là tới lượt chúng tôi được xuống sông Mã tắm giặt. Nếu tai nạn này xảy ra sau khi mới được đi tắm và phải chờ tới 15 ngày sau thì cũng hơi căng! Hôm ngày đi tắm, nước sông Mã thượng nguồn rất trong và mát đã giúp tôi tẩy sạch mọi thứ nhơ bẩn trên người, và quần áo chăn chiếu cũng được giặt giũ cẩn thận. Hôm đó tôi lại cảm thấy mình trở nên thơm tho và tươi mát. Tuy nhiên, nhiều người khác lại không cảm thấy như tôi. Và câu chuyện sau đây chứng minh cho điều đó.



Một buổi sáng kia, nhóm tù trong khu kỷ luật chúng tôi cũng được ra tập họp chung với tất cả những người khác dưới sân trại để cán bộ kiểm tra lại hồ sơ của từng người. Lâu ngày mới được ra sân và rất mừng khi gặp lại anh em. Tôi liền chạy tới ngồi bên cha Cao Đức Thuận mà tôi gọi là "Bố Thuận", lúc bấy giờ ở khu kiên giam. Cha Thuận rất thương tôi và chúng tôi đã từng sống và ăn uống sinh hoạt chung ở trại Cổng Trời. Lâu lắm không được gặp nhau, nên khi thấy cha Thuận tôi mừng quá. Vả lại hôm đó lại được tiếp xúc tự do, nên tôi chạy ùa ngay tới bên cha Thuận đang ngồi chung với các Linh mục khác. Điều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là thái độ của cha Thuận sao tỏ ra quá lạnh nhạt với tôi quá sức. Tôi thực sự không hiểu sao con người nhân hậu đó lại mau thay tâm đổi tính như vậy. Hay cuộc sống khổ đau trong ngục tù đã biến Bố Thuận thành con người khác rồi chăng? Lúc đầu tôi ngỡ là cha sợ cán bộ vì tiếp xúc với tù kỷ luật, nhưng khi nhìn lại, tôi thấy cán bộ cho tiếp xúc tự do. Thái độ cha Thuận làm tôi buồn nhưng không hiểu lý do. Mãi về sau này, sau khi được tha ra khỏi nhà kỷ luật về sống chung với anh em Linh mục khác, tôi mới biết lý do. Vừa gặp lại tôi, ngài nói ngay: "Chú còn nhớ hôm ra sân kiểm tra hồ sơ không?Thấy chú tôi mừng và thương quá sức. Không ngờ con người chú ra quá tàn tạ và nông nửi đó. Nhưng khi chú tới ngồi cạnh bên làm tôi buồn nôn quá. Tôi suýt ói tại chử. Tôi không thể chịu nổi nên phải quay mặt đi, nhưng càng quay đi chú lại càng sấn tới. Lúc đó tôi không tiện nói, sợ chú buồn. Trời ơi! Người chú lúc đó thối tha và tanh tưởi như một đống phân, không tưởng tượng được!" 

Trong tù, chúng tôi để tang Bác

20/01/2012

Mưa triền miên, rả rích suốt mấy ngày liền. Bầu trời Biên Hòa lúc nào cũng u ám, bọng nước và tưởng chừng như muốn đổ sập xuống cái

“Trại giam tù binh cộng sản Việt Nam”

Hố Nai.

          

Phòng

 “Biệt giam” 

số 7, cái phòng nổi tiếng vào bậc nhất, nhì trong trại về chế độ đối xử hà khắc, tàn bạo với người tù, với những tên trật tự chiêu hồi tay sai ác ôn, lưu manh như thằng Mực, thằng Mãnh, thằng Quý, thằng Út… mới nửa chiều mà đã tối om. Ngọn đèn điện bóng tròn mắc ở giữa phòng bám đầy bụi và mạng nhện bao quanh, le lói như đom đóm. Ướt át, nhớp nháp và lạnh lẽo.

Đã gần một tuần lễ, có lẽ do thời tiết nên vết thương ở chân cứ sưng đỏ lên, nhức tận óc, người ngây ngấy sốt, tôi chẳng ăn uống gì được. Địch lại chẳng cho ra ngoài khám bệnh, xin thuốc. Cổng trại giam lúc nào cũng đóng im ỉm, trừ bọn cai ngục ra, còn thì

“nội bất xuất, ngoại bất nhập”

. Tên thượng sĩ Học – giám thị trưởng và lũ đàn em, mỗi lần bước vào trại là mặt thằng nào thằng nấy cũng đằng đằng sát khí, mắt cú vọ láo liêng, xoi mói, miệng xầm xì nhỏ to bày sử cho bọn tay chân bên trong của chúng đủ điều, rắp tâm hãm hại anh em ta.

         

Đang ngồi bên cửa sổ, nép mình để tránh những luồng gió cứ ba chặp lại hắt vào, đau đầu không chịu được, nhìn ra ngoài trời suy nghĩ mông lung, thì thấy Thái từ đầu phòng kia đi tới, tôi quay lại, Thái bảo nhỏ:

         

-

Ra phía sau nhà bếp, chú Hai gặp, có việc gấp.

         

Tôi liền cắp vội đôi nạng gỗ, đi ra. Thằng Mực chặn lại ở trước cửa phòng, hỏi:

“Đi đâu?”

. Tôi trả lời:

“Đi cầu”

. Hắn nói như ra lệnh:

“Lẹ lên!”

.

         

Ra khỏi phòng, tôi nhìn trước, nhìn sau thử có

“con chó săn”

nào bám theo không, rồi nhanh chóng nhảy lò cò xuống điểm hẹn. Lúc ấy, ở nhà bếp rất đông người, kẻ lấy nước, người khiêng cơm. Anh Hai đang lui cui nướng cơm cháy trước cửa lò (anh em ta trong tù hay lấy cơm cháy đốt thành than để uống, chữa đau bụng). Biết ý, tôi bước nhanh lại chỗ anh và lắng nghe:

         

-

Bình tĩnh! Bác Hồ mất rồi, hôm mồng 3 tháng 9!

         

Tôi sững sờ, choáng váng, tay chân rã rời, tưởng như đang trong cơn ác mộng. Hiểu tâm trạng tôi, anh nhắc lại:

“Bình tĩnh”

và anh nói thêm:

“Thông báo cho tất cả đảng viên được biết, còn đối với anh em quần chúng thì để chậm lại một vài hôm. Nhưng phải chủ động làm công tác tư tưởng, đừng để xảy ra hoang mang, địch lợi dụng. Có gì sẽ gặp lại”

. Anh kín đáo bắt tay tôi thật chặt. Tôi hiểu ý nghĩa của cái bắt tay ấy. Rồi anh cầm trên tay mấy miếng cơm cháy trở về phòng

“biệt giam”

số 5. Tôi nhìn theo anh đi, người cao gầy, cái chân cà thọt, mình như nghiêng đổ hẳn về một bên mà thấy thương anh quá.

          

Anh Hai, tên thật là Lê Phước Hải, quê Điện Tiến, Điện Bàn. Anh tham gia cách mạng rất sớm. Mỹ càn, bắn anh gãy chân, rồi đưa vào bệnh viện Duy Tân (Đà Nẵng), sau đó đưa qua Trại giam tù binh Non Nước trước tôi mấy tháng. Chính anh là người tìm hiểu và giới thiệu tôi với tổ chức Đảng ở nhà lao này, và hai anh em (với một đồng chí nữa) cùng sinh hoạt một tổ Đảng do anh làm tổ trưởng. Rồi địch lại giải cả hai anh em cùng với 124 đồng chí khác, toàn là thương binh nặng vào nhà lao Hố Nai, giam mỗi nguời một nơi. Tính anh hiền, thật và chu đáo, cẩn thận. Càng thương anh, tôi càng suy nghĩ phải làm thế nào để thực hiện cho được ý kiến anh vừa truyền đạt. Làm công tác tư tưởng trong trường hợp này thật khó. Lâu nay anh em ta tin vào Đảng, vào cách mạng và kháng chiến, có một phần rất lớn là từ niềm tin vào Bác. Nay Bác mất, liệu tình hình rồi sẽ ra sao? Chắc nhiều người không khỏi suy nghĩ, lòng tin vào thắng lợi của cách mạng chắc không khỏi bị tổn thương… Tôi lại cắp đôi nạng gỗ nhảy lò cò trở về phòng mà lòng nặng trĩu. Nhưng tôi cố gắng giữ cho được nét mặt bình thường. Tôi ý thức rõ trách nhiệm của mình lúc này.

         

Bữa cơm chiều hôm ấy, cũng như mọi bữa cơm tù thường ngày, vẫn lưng nửa cà mèn cơm vừa nhão, vừa khê, vàng khè, vài ba con cá liệt khô, đắng chằng, nồng sặc, lưng nửa vá canh cải củ, nước trong veo. Tôi cố gắng lắm để ăn kẻo đói, nhưng không tài nào nuốt nổi. Thấy phần cơm của tôi hầu như còn nguyên, anh Sáu, người Duy Xuyên tỏ ra lo lắng, lại hỏi tôi, động viên tôi. Nhân tiện, tôi nói nhỏ với anh:

“Sáng mai, sau điểm danh bọn mình họp tổ Đảng đột xuất”

. Đêm đó, trời bớt gió mưa nhưng lại rất lạnh. Phần vết thương đau nhức, phần suy nghĩ đủ điều, tôi chẳng chợp mắt được, nằm nghe đủ hết mọi âm thanh xa gần. Cạnh tôi, một bên là Chí (quê ở Quế Sơn) và Nại (quê ở Tiên Phước), một bên là Sính và anh Cát (quê ở Quảng Ngãi), là những anh em rất tốt, đáng tin cậy. Mới một ngày trước đó, tôi bày cho họ học thuộc một lúc hai bài thơ của Tố Hữu viết về Bác Hồ, bài

“Hồ Chí Minh”

và bài

“Sáng Tháng Năm”

. Chí thắc mắc: Sao Tố Hữu gọi Bác là

“Người lính già”?

Anh Cát thì rất xúc động khi đọc hai câu thơ

“Vì nhân loại Người quyết dâng xương máu; Vì giang sơn Người quyết dứt gia đình”

. Còn Nại thì tràn niềm vui và tin tưởng ngâm đi ngâm lại đoạn:

                  

 Bác bảo đi là đi

                   Bác bảo đánh là thắng

                   Việt Nam có Bác Hồ

                   Thế giới có Stalin

                   Việt Nam phải tự do

                   Thế giới phải hòa bình

         

Bây giờ họ đang nằm đó, ôm nhau say sưa ngủ, chắc họ chưa biết gì về cái tin

“sét đánh”

này, cái chuyện đau buồn đến thắt ruột này. Nhưng ngày mai, ngày mốt họ sẽ nghe, sẽ biết. Mình lại phải nói với họ cái chuyện này. Một việc làm quả là khó!

         

Sáng hôm sau, như thường lệ, 6 giờ 30, kẻng điểm danh. Nhưng hôm đó chúng lại không điểm danh tập trung cả trại ở ngoài sân mà điểm danh tại từng phòng. Thằng Mực, trưởng phòng không cho anh em ta ngồi trên sạp như mọi bữa mà bắt mọi người phải xuống ngồi xếp hàng dưới đất để chúng đếm và điểm mặt. Điểm danh xong, hắn lại bắt tất cả ngồi nguyên tại chỗ, rồi cả lũ năm, sáu thằng nhảy xổ lên sạp lục lọi, bới xốc từng chỗ nằm của anh em ta. Tất nhiên là chúng chẳng tìm được gì ngoài mấy bộ bài tú lơ khơ, cờ tướng do tự tay anh em ta làm lấy. Thằng Tiến, cái thằng lấc cấc nhất trong đám, định lấy cái bàn cờ bằng gỗ mà hắn tỏ ra rất thích, anh em ta không cho, giật lại, hắn gây sự đòi đánh, anh em ta la lên, đứng cả dậy. Chú Đích, quê ở Quảng Trị, là người cao tuổi nhất trong phòng bước tới, chỉ thẳng vào mặt hắn:

“Cậu liệu mà ăn nói, còn để sau này về với gia đình, làng xóm nữa”

. Núng thế, hắn và đồng bọn đành làm thinh kéo nhau ra khỏi phòng.

         

Tranh thủ thời cơ thuận lợi, chúng tôi họp tổ Đảng. Dù đã chuẩn bị kỹ tinh thần, nội dung rồi, nhưng tôi vẫn cứ lần quần mãi mới đi vào được vấn đề, nhưng rồi nửa chừng lại nghẹn, không nói được. Các đồng chí bị

“sốc”

mạnh trước cái tin

“sét đánh”

. Đồng chí Lai (Quảng Ngãi) không kìm được, suýt nữa bật khóc. Các đồng chí Sanh (Duy Xuyên), đồng chí Tứ (Tiên Phước) ngồi lặng thinh, mặt buồn rười rượi. Nhưng rồi những giây phút nặng nề cũng qua, tất cả lấy lại bình tĩnh, mỗi người đều xác định rõ trách nhiệm của mình. Chúng tôi cùng nhau tập trung trao đổi, bàn bạc những công việc trước mắt phải làm theo ý kiến chỉ đạo của trên với một tinh thần quyết tâm

“Biến đau thương thành hành động cách mạng”

. Bốn chúng tôi phân công nhau phụ trách từng nhóm anh em cụ thể, ngày đêm gần gũi chuyện trò tâm sự với họ, làm cho họ hiểu rằng, Bác Hồ mất là một tổn thất lớn đối với Đảng ta và nhân dân ta, nhưng ta không lo, vì đường lối cách mạng, kháng chiến của Bác vạch ra, Đảng và nhân dân ta đã và đang thực hiện thắng lợi và nhất định sẽ đi đến thắng lợi hoàn toàn. Bác Hồ mất, ta còn Trung ương, còn tập thể Bộ chính trị với nhiều đồng chí sáng suốt, tài giỏi, trung thành với Bác, với cách mạng, với nhân dân, sẽ đảm bảo kế tục sự nghiệp của Bác để lại. Nhớ ơn Bác, thương tiếc Bác, chúng ta phải xứng đáng với Bác. Buồn, nhưng không hoang mang, dao động, lo sợ, mà phải vững vàng, tin tưởng, giữ vững lập trường, khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Đoàn kết, thương yêu, chết sống có nhau, cùng nhau đấu tranh chống địch để bảo vệ mình… Lúc đầu không khí trong anh em ta thật nặng nề, buồn bả. Bữa cơm trưa đó, nhiều người không ăn được. Đêm, nghe nhiều tiếng trở mình, thở ra thật vật vả. Nhưng rồi dần dần tình hình cũng trở lại bình thường.

         

Sáng ấy, tôi đang ngồi đánh cờ với Ninh, thì Sáu – bí thư chi đoàn lại bảo nhỏ tôi ra giếng nước. Tôi đi ngay. Lần này gặp tôi là anh Tứ (tức anh Ty, tên ngoài đời), quê ở Điện Nam, Điện Bàn – bí thư chi bộ. Tôi rất mừng và xúc động. Anh đang múc nước để rửa chân, tôi lại mượn cái gàu. Anh tranh thủ nói liền:

“Sáng mai, khi nghe kẻng điểm danh, anh em ta nhanh chóng ra hết ngoài sân sớm hơn mọi hôm mươi phút. Khi có tiếng hô “Đứng”, anh em ta lập tức đứng dậy nghiêm trang cúi đầu quay mặt về hướng Bắc. Ta làm lễ truy điệu Bác trước khi chúng điểm danh. Nhớ thường xuyên củng cố tinh thần anh em”

.

                                                        

*

         

Hôm sau, sáng ngày mồng 6 tháng 9 năm 1969, sự việc đã diễn ra đúng y như lời anh Tứ nói. Tụi giám thị, quân cảnh đang còn đứng lố nhố ngoài cổng trại giam thì hơn một ngàn người tù ở trong sân đã làm cái chuyện mà chúng không tài nào biết được, nghĩ tới được. Chúng trố mắt nhìn nhau ngơ ngác, bất lực. Thằng Học – giám thị trưởng thì như

“đỉa phải vôi”

, cứ đi đi lại lại, miệng lẩm bẩm chửi thề, nhưng không dám bước vào sân.Tên Mã Sanh Quy, thiếu tá, chỉ huy trưởng trại giam lúc đó cũng vừa tới, thấy hiện tượng lạ,y dừng lại hỏi, chẳng biết tên trung sĩ Nam giám thị thưa bẩm những gì mà y cứ lắc lắc cái đầu có vẻ thất vọng và bước thật nhanh về chổ làm việc.

Bé Mu

n

ái vòi nước công cộng nằm bên lề đường Lê Văn Duyệt thuộc xóm đình Hòa Hưng không lúc nào vắng người lấy nước. Từ tờ mờ sáng đến nửa đêm, đủ các loại thùng hứng nước sắp hàng dài ngoằn nghèo như con rắn lượn trên khoảng lề đường quanh vòi nước.

Ðám gánh nước thuê chuyên nghiệp trở thành chủ quản cái vòi nước ấy. Con cái họ thay nhau đặt thùng xếp hàng chiếm hầu hết thời gian ưu tiên hứng nước.

Bé Muộn vừa học hết lớp đệ ngũ thì ông bố bị tai nạn chết trong lúc làm công việc bốc vác ở bến cảng Sài Gòn. Bé Muộn đành nghỉ học đi gánh nước thuê kiếm tiền phụ giúp mẹ nuôi hai đứa em còn nhỏ dại. Với số tuổi mười bốn mười lăm, vóc dáng tiểu thư làm sao tranh nổi với mụ đàn bà nạ dòng phục phịch như con hà mã. Bé Muộn chịu dưới trướng của mụ "Tư Cai Thầu" đổ nước mướn cho từng nhà ăn chia.

Nhìn chiếc quần bà ba đen bó sát người ướt đẫm nước suốt ngày cùng đôi mông đồ sộ của mụ rung rinh đánh nhịp theo từng bước chân đi là đủ biết mụ làm việc xông xáo đến mức nào. Khuôn mặt núng nính những mỡ là mỡ thế mà mụ khỏe như con trâu nước. Ðã có nhiều lần các nhóm "cai thầu" khác đến tranh chấp dành mối đã bị mụ tả xông hữu đột bằng chiếc đòn gánh như một tay võ hiệp múa côn. Nếu chiếc đòn gánh bị giật mất thì mụ quay qua đánh xáp lá cà dùng chiêu kéo quần, xé áo, nắm tóc. Ðối phương bị lột trần ngoài đường phố đành tháo lui. Có lần đối thủ kia bị xé rách cả áo để phơi bộ ngực trần mà vẫn tiếp tục chiến đấu. Mụ Tư càng hăng tiết xông vào cứ nhằm cặp vú mướp của đối phương mà cắn mà nhay. Lần nào mụ cũng đạt được phần thắng. Cuối cùng, mưu đồ dành chỗ lấy mối của nhóm "cai thầu" khác đành nhượng bộ cho mụ làm chủ quản cái lãnh địa béo bở này.

Ðôi vai nhỏ nhắn của bé Muộn ngày ngày trĩu nặng hai thùng nước đầy dưới cơn nắng đốt. Ánh mặt trời không làm cho màu da mịn màng của bé sạm đen như những đứa bé khác. Mỗi ngày lớn lên, da bé càng bóng hồng tươi mát. Khuôn mặt tròn trịa lại thêm nụ cười duyên dáng bày ra hai hàm răng trắng đều đặn đã khiến cho các cậu quí tử của các chủ nhà đổ nước mê mẩn.

Tháng Tư năm Bảy Lăm, Sài Gòn đổi tên, đổi chủ và đảo lộn luôn trật tự xã hội. Giai cấp nghèo khó được "chính quyền cách mạng" bơm hơi nâng lên làm chủ xã hội. Mụ "Tư Cai Thầu" gánh nước thuê thẳng thừng từ chối cái chức trưởng ban phụ nữ xóm. Mụ bảo:

- " Tôi có được mấy chữ mà đề cử tôi làm cán bộ. Khả năng của tôi là gánh nước đổ cho bà con xài. Ðứa nào đến đây dành chỗ cơm gạo của tôi thì tay này sẵn sàng thí mạng."

Sáu tháng sau, mụ "Tư Cai Thầu" bị chính quyền cách mạng cấm hẳn việc gánh nước thuê với lý do: "Xã Hội Chủ Nghĩa không có người làm thuê gánh mướn, không có cảnh người bóc lột người. Ðảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Mất chén gạo nuôi con, mụ Tư tức ấm ức. Ngày đêm mượn gà, mượn chó mà chửi khéo mấy tên cán bộ trong phường. Gặp chó là mụ lấy cây phang vào lưng chửi đổng: "Ðồ chó má, chén cơm của con tao mầy cũng liếm sạch". Gặp ga, bà cầm chổi xua đuổi, mồm bô bô: "Mầy chỉ được cái tiếng gáy còn thì chuyên bươi móc, ăn dơ, ỉa bậy." Hàng xóm nghe mụ chửi bịt miệng cười. Người từng trải thì lo cho mụ có ngày chúng nó tìm cách ghép tội: "Vi phạm nếp sống mới, gây rối an ninh trật tự công cộng" rồi đẩy vào tù để cho mấy đứa trẻ bơ vơ.

Riêng bé Muộn thuộc thành phần công nhân ba đời nên được tuyển vào phụ trách công việc chị nuôi cho một cơ quan không tên, không phô trương bảng hiệu. Họ chỉ dùng ám hiệu T4, T2 gì đó nhưng việc kiểm soát người ra vào rất chặt chẽ. Cái nhóm khách thường xuyên của cơ quan này phần lớn có gương mặt lạnh lùng, kín đáo. Họ thường dùng kiến đen, xách cặp da ngoại nhập.

Ông thủ trưởng là dân ở miệt ngoài. Người ta không phân biệt được giọng nói của ông ta thuộc đia phương nào. Cũng không biết đã có gia đình hay chưa, chỉ thấy ông ăn ở ngay tại cơ quan. Màu da ngăm đen vàng tái chứng tỏ ông đã trải qua bao năm tháng trên rừng già. Trầm ngâm ít nói, nhưng cặp mắt ông khi nhìn ai như xoáy sâu vào ý nghĩ của kẻ đối diện. Ánh mắt đa nghi và quyết đoán.

Ðịa điểm làm việc nguyên là ngôi biệt thự của một cơ quan cũ của Mỹ có bốn bức tường gạch xây bao quanh kiên cố. Căn nhà có hai tầng lầu. Tầng dưới bao gồm các phòng làm việc, tầng trên có nhiều phòng ngủ dành cho nhân viên của cơ quan. Sân thượng có một phần mái che, là nơi để tổ chức những tối vui chơi cuối tuần cho nhân viên nghe nhạc và khiêu vũ. Nơi góc cuối sân thượng, có đặt chiếc container chở hàng của quân đội Mỹ.

Người cán bộ cách mạng có thói quen tận dụng những khoảng trống đất đai để tăng gia sản xuất. Ngay cả trên sân thượng của các căn nhà lầu họ cũng đổ đất trồng rau hoặc nuôi gia súc. Cái container bỏ trống thật phí phạm vì vậy cán bộ thay nhau gánh đất đổ đầy rồi trồng rau lang trên đó. Ngọn rau lang luộc chấm mắm nêm là món ăn cải thiện cho bữa ăn đầy hấp dẫn. Cứ lớp này còi đi thì thay vào đợt dây lang mới.

Hồi chín năm kháng chiến ở vùng liên khu 5 của Việt Minh, lương thực thiếu thốn trầm trọng. Họ phát động phong trào toàn dân thi đua sản xuất. An Tân, Tiên Ðỏa là vùng đất khô cằn cát trắng thuộc tỉnh Quảng Nam. Cát lấn từng ngày vào thôn xóm ruộng đồng. Không biết sáng kiến từ thời nào mà người dân vùng này có kinh nghiệm trồng khoai lang trong những chiếc bồ đan bằng tre, đổ đất thịt trộn cát và phân ủ lá cây rừng. Trong mỗi bồ người ta cắm dây lang theo từng tầng qua những kẽ hở dọc theo thành ngoài mặt bồ. Thoạt trông như chơi cây cảnh nhưng đến mùa thu hoạch ta mới ngạc nhiên trước những cũ khoai to mập màu da bóng lưởng. Trong dân gian thời đó có câu: "Ðậu phụng Ðồng Dinh, khoai lang Tiên Ðỏa". Loại khoai lang này khá giàu tinh bột. Người dân vùng này chế biến ra các loại bánh tráng khoai lang ngọt có thể ăn sống hoặc nướng phồng lên. Bánh để được lâu và dễ di chuyển. Nhất là giúp cho bộ đội hoặc dân công tiếp vận ăn loại bánh tráng này trên đường đi hay ngay cả trên chiến trường. Người phát minh phương pháp trồng khoai lang trong bồ nghe đâu được tuyên dương anh hùng lao động.

" Cơm cơ quan, sàng tập thể" bé Muộn mỗi ngày mỗi căng da, dài tóc. Cơ thể săn chắc, mượt mà. Bộ ngực vun đầy, căng tròn của tuổi mười tám là tụ điểm của bao ánh mắt đàn ông. Mùi thơm con gái tỏa hương làm ngây ngất biết bao đấng nam tử ngoài đời lẫn trong cơ quan. Từ một chức vụ chị nuôi, Muộn được đặc cách lên giữ công tác văn thư. Ðó là điều hợp lý dành cho cô gái có trình độ lớp đệ ngũ. Nàng không còn ở nơi phòng ngủ tập thể nữa mà hưởng quy chế của một nhân viên có phòng riêng. Và nghe phong phanh nàng được đưa vào danh sách dự bị đoàn viên Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Bà Bảy, mẹ nàng rất vui mừng khi nhận được tin tức này.

Từ ngày nhận công tác mới, có lẽ vì bận rộn với công việc nên Muộn ít khi về thăm mẹ và em. Dù vậy, mẹ nàng vẵn yên lòng đặt hết niềm tin vào tương lai của đứa con gái đầu lòng. Vừa đẹp người đẹp nết, biết đâu con bà lại lấy được người chồng cán bộ của chế độ hiện giờ.

Thời gian thấm thoát trôi qua hơn nửa năm. Thấy con gái không về thăm nhà, bà Bảy, mẹ bé Muộn nóng lòng đường đột đến cơ quan hỏi thăm. Vị thủ trưởng đích thân tiếp bà với thái độ rất thân tình nhưng tỏ ra sửng sốt khi bà Bảy muốn được gặp mặt người con gái. Ông lấy chiếc kính trắng gọng vàng đang đeo đặt trên mặt bàn, quan sát bà Bảy một chặp lâu rồi bảo:

- Ðồng chí Muộn xin nghỉ việc cách đây đã sáu tháng rồi thưa bà.

Ông thủ trưởng liếc mắt nhìn qua khung cửa lớn rồi đột nhiên quay lại hỏi:

- Thế cô Muộn đi theo chồng không báo cho bà biết sao?

Bà mẹ không trả lời câu hỏi ông thủ trưởng mà chỉ để rơi những giọt nước mắt trách hờn con gái mình. Bà ngỏ lời cám ơn vị thủ trưởng tử tế rồi vội vã choàng chiếc khăn rằn lên đầu quày quả ra cửa,.

Nguồn tin bé Muộn vượt biên trốn ra nước ngoài được truyền đi từ đó. Bà con láng giềng trong xóm lại thì thầm với nhau.

- "Mụ Bảy xem thế mà kín miệng đáo để. Con gái thoát được mà không hề hé răng."

- "Bà ấy khỏe rồi. Chẳng còn bao lâu nữa con Muộn gởi hàng ngoại quốc về tha hồ mà tiêu xài."

- "Này, tớ còn nghe nói là Muộn đi với thằng chồng tương lai nữa đấy."

Một đồn mười, mười đồn trăm. Bà Bảy chẳng biết ất giáp gì nhưng đã bị mấy lần lên đồn công an phường viết tờ khai báo về sự vắng mặt của con gái. Người thân tình cờ hỏi thăm, bà chỉ ậm ừ cười cho qua chuyện.

Giai đoạn này người đi vượt biên, vượt biển xảy ra hà rầm. Ðám em trai của thầy giáo Hai xóm trên, cha con lão Tư xóm dưới được sở Mỹ đưa ra hạm đội trước ngày 30 tháng 4. Giờ đây các gia đình đó cứ nằm nhà mà chờ thùng quà từ Mỹ. Họ hết bận tâm xếp hàng mua từng chai nước mắm ôi hay chút tiêu chút bột ngọt trộn đường cát gói sẵn. Ôi, đời sống con người dưới xã hội chủ nghĩa sao giống như bầy vịt cho ăn từng bữa, đếm từng hột.

Căn phòng của nữ đồng chí cán bộ Trần Thu Muộn trở thành phòng ngủ dành cho cán bộ cùng ngành công tác từ xa về tạm trú trong đêm. Phòng tuy hẹp nhưng được trang trí sáng sủa, tiện nghi. Cán bộ nào được ngủ qua đêm một lần là thế nào lần tới cũng xin đăng ký căn phòng đó. Tuy cơ quan còn ba phòng tạm trú khác nhưng anh cán nào cũng muốn dành cho được căn phòng ấy. Có điều gì xảy ra hàng đêm mà họ yêu thích cái căn phòng này đến thế. Cái gì thuộc thế giới vô hình, người Cộng Sản luôn luôn bài bác cho là mê tín dị đoan. Khi họ chứng nghiệm được thì người nào cũng giấu kín trong lòng. Họ sợ phê bình kiểm điểm và tai hại hơn cả là bị nâng hàng quan điểm đánh mất niềm tin Duy Vật của ông tổ Các-mác. Cây kim lâu ngày trong bọc cũng phải lòi ra.

Chuyện đó xảy ra thế này: Hàng đêm, sau 12 giờ khuya, một người con gái rất đẹp, thân thể trần truồng xuất hiện trong phòng ngủ của bé Muộn. Mái tóc dài buông xõa che một phần bộ ngực trắng ngần căng đầy nữ tính. Cô gái ngồi xuống giường người đàn ông đang ngủ âu yếm, vuốt ve, kích thích khiến cho họ hứng khởi đến khi hoàn toàn mất tự chủ. Sau cùng cô gái nằm đè lên người. Một sức nặng lạ lùng vừa êm ái vừa kích thích. Người nào có thần tính mạnh mẽ thì choàng tỉnh. Nhưng đa phần cô gái nắm chủ động đến khi người đàn ông xuất tinh. Cứ như thế lập đi lập lại nhiều lần trong đêm. Sáng dậy, quần lót của khách ngủ trọ ướt nhẹp một chất nước nhờn. Thân thể bải hoải, tâm trí ngu muội. Tình dục như loại kích thích tố. Một lần, hai lần thành nghiện, lâu ngày đâm nhớ. Họ thì thầm truyền miệng cho nhau, vì vậy căn phòng ngủ ấy trở thành đắt khách.

Nhân một chuyến công tác của nữ đồng chí cùng ngành từ trung ương vào thành phố Hồ Chí Minh thanh tra. Ðồng chí được cơ quan này dành cho căn phòng của bé Muộn tạm trú trong mấy ngày công tác. Bà ta rất vừa ý có được căn phòng đầy đủ tiện nghi. Vừa đặt lưng xuống chiếc giường nệm lò xo của quân đội Mỹ, chợt bà cán bộ cảm thấy có điều gì đó bất an trong bầu không khí yên ắng. Không có tiếng động, nhưng cái giường thỉnh thoảng chao nghiêng như chiếc thuyền con trên sóng nước. Bà mở mắt ngồi dậy thì chiếc giường trở lại bình thường. Nhưng khi nằm xuống thì giường lại lắc lư. Bà đứng lên đóng cửa sổ, bật đèn sáng quan sát trong tủ đựng quần áo, trong các ngăn hộc bàn. Tất cả đều ở trạng thái bình thường. Bà cán bộ nghĩ có lẽ là do mệt mỏi vì phải ngồi xe con từ Hà Nội vào đây mất một ngày hai đêm. Cuối cùng thì đồng chí cán bộ cũng rơi vào cơn mê thiếp. Chợt một tiếng động khẽ khàng, bà giật mình thức giấc. Một người con gái toàn thân không có mảnh vải che thân, tóc rối bời đứng dưới đuôi giường nắm chân bà như muốn kéo đi. Bà vùng ngồi dậy, đến bàn uống một ly nước lấy lại bình tĩnh. Nữ cán bộ là một đảng viên cao cấp, là cán bộ đã từng trải qua những tình huống bất ngờ trong các hoạt động bí mật đầy hiểm nguy. Trong đầu bà đặc sệt học thuyết Mác Lê. Bà không tin thần thánh, ma quỷ. Trên cõi đời này chỉ có vật chất là tồn tại. Ðó chẳng qua là giấc mơ.

Ðêm thứ nhì, đồng chí nữ cán bộ lại chứng kiến cảnh người con gái trần truồng nắm chân bà kéo. Lần này có tiếng khóc nỉ non, như van xin cầu khẩn một điều gì. Bà cán bộ vội vàng nhảy ra khỏi giường để chộp lấy người con gái, nhưng bóng ma lẹ làng đi qua cửa. Bà cán bộ lập tức đi theo. Bóng người con gái ra sân thượng rồi biến mất trong thùng container.

Suốt đêm không ngủ, bà cán bộ nghĩ lẩn quẩn hoài cái hiện tượng lạ lùng mà cả cuộc đời làm cách mạng của bà chưa gặp phải. Thế rồi thói quen nghề nghiệp khiến bà suy luận đến âm mưu của địch. Chúng nó có ý đồ dọa dẫm trấn áp tinh thần đối phương chăng? Ðây là một trong những hình thức dùng tâm linh của bọn ma mãnh. Bà quyết định lần sau sẽ nã đạn vào bóng ma giả dạng đó.

Ðã hai đêm mất ngủ, tâm trí rối mù, bà cán bộ không còn sáng suốt để làm việc trong ngày cuối cùng. Cơm tối qua loa, bà cần lấy lại sức lực bằng giấc ngủ để ngày mai dự cuộc họp tổng kết với cơ quan. Trước khi đặt lưng xuống giường, bà cán bộ không quên lên đạn khẩu K59, loại súng bỏ túi của Liên Xô sản xuất do trung ương cấp cho nhân viên quan trọng để phòng vệ bản thân.

Giấc ngủ vừa chập chờn thì cái giường bắt đầu lắc lư. Cùng lúc người con gái xuất hiện bên chân giường. Bà cán bộ chụp khẩu súng hướng về bóng ma bóp cò nhưng lạ thay đạn không lên nòng. Con ma vừa quay mặt ra đến cửa, bà vùng ngồi dậy đuổi theo. Bà đi như người mộng du ra sân thượng đến bên chiếc container. Gió đêm thổi lồng lộng làm ngả nghiêng ngọn cây cổ thụ ở cuối vườn, quét bóng đen trên nền sân xi-măng khiến bà cán bộ sực tỉnh thấy mình đứng bên chiếc thùng sắt vuông mọc đầy lá rau lang xanh rờn rợn tràn ra khỏi miệng thùng. Mặt trăng tròn vành vạnh tỏa ánh sáng lành lạnh trên sân thượng của tòa building. Bà cán bộ chợt rùng mình sợ toát mồ hôi lạnh. Hai chân bà run lẩy bẩy, tê cứng không bước đi được. Khuôn mặt đờ đẫn, miệng lưỡi đớ ra không thể lên tiếng gọi cầu cứu. Bà cán bộ cấp trung ương đành phải bò bằng hai tay trên mặt sàn xi-măng vào đến giường thì thiếp đi. Sáng ngày hôm sau, bà lập tức gọi điện thoại hủy bỏ cuộc họp, rời khỏi phòng. Chưa kịp dùng điểm tâm, bà đã thúc dục tài xế lên đường trở về Hà Nội,

Quãng đường dài từ Nam ra Bắc, bà cán bộ ngủ thiếp trên xe suốt một ngày một đêm.Về đến nhà, bà lên cơn sốt nằm liệt giường. Sau khi xuất viện, tinh thần bà suy kiệt. Dù được bệnh viện cấp cao điều trị, bệnh tâm thần của bà cán bộ mỗi ngày mỗi nặng.

* * *

Ðã hơn mười năm rồi. Tin đồn bé Muộn vượt biên dần dần đi vào lãng quên. Bà Bảy, mẹ bé Muộn cũng hết còn trông mong gì đến quà cáp của con gái bà từ ngoại quốc gởi về. Bà nghĩ, có lẽ chiếc tàu nó đi đã bị bão tố đánh chìm. Mỗi lần nghĩ tới con là nước mắt bà trào ra. Bà lại trách móc con mình dại khờ, nghe lời xúi bậy của ai đó bỏ cơ quan đang làm, một tương lai đầy hứa hẹn.

Trung tâm T4 thành phố Hồ Chí Minh, nay cũng được chuyển đến một ngôi biệt thự cao tầng, biệt lập, có bề thế hơn. Cơ quan cũ của Mỹ trước đây giao cho Hội Phụ Nữ thành phố. Những người mới trong cơ quan quyết định dọn dẹp sạch sẽ những vật dụng không cần thiết, trong đó có cả chiếc container trồng rau lang tự túc trên sân thượng. Ðầu tiên, họ đổ hết đất đựng bên trong trước khi cho xe cẩu mang xuống tầng trệt. Bất ngờ, một bộ xương người hiện ra nằm sâu dưới đáy thùng. Người ta đoán biết bộ xương đó là của một phụ nữ vì những sợi tóc dài chưa tiêu hết. Ðặc biệt hơn cả là một củ khoai lang to bằng đầu người đã được nuôi lớn bằng thịt người hóa mùn thành phân. Cái củ khoai lang nặng trên 10 ký lô. Xưa nay chưa có ai nhìn tận mắt được loại củ lang to đến như vậy. Ðây có thể nói là thành tích vô địch trong công cuộc cải tiến sản xuất. Thời kháng chiến chống Pháp, người dân Tiên Ðỏa Quảng Nam nổi tiếng trồng khoai lang trong bồ đan bằng tre nứa. Người sáng kiến phương pháp trồng lang đó được nhận huy chương anh hùng lao động, nhưng chưa bao giờ đạt được thành quả cao về trọng lượng như vậy. Chi bộ đảng hội phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh họp khẩn cấp để chọn quyết định nên gởi củ khoai đi dự thi lấy thành tích sản xuất hay gởi củ khoai lang này lên trung ương chúc mừng đại hội phụ nữ toàn quốc sắp tới?

Bàn tới tính lui, cuối cùng chi bộ quyết định gởi cái củ khoai lang đạt trọng lượng cao nhất từ trước đến nay lên trung ương để chào mừng Ðại Hội Hội Phụ Nữ Việt Nam sắp khai mạc tại thủ đô.

Vị thủ trưởng cơ quan T4 thành phố Hồ Chí Minh được bầu làm đại biểu tham dự Ðại Hội Phụ nữ toàn quốc. Nhân dịp này, ông thủ trưởng ghé thăm bà cán bộ đang nằm điều trị bệnh tại Hà Nội. Thời chiến tranh hai người cùng ngành làm chung trong một cơ quan cấp tỉnh. Từng hoạt động với nhau trong mật khu. Khi đất nước thống nhất, mỗi người được phân bổ đi một nơi. Ông vào Nam giữ chức trung tâm trưởng trung tâm T4 khu Nam, bà ra Hà Nội phục vụ tại trung ương.

Khi ông thủ trưởng bước vào nhà, bất ngờ bà cán bộ vùng đứng lên chỉ vào mặt ông ta quát:

"Ta là bé Muộn, nhà ngươi có nhớ không? Chính mầy đã cưỡng hiếp tao cho đến khi có thai rồi giết tao bỏ xác vào thùng container đặt trên sân thượng của cơ quan. Hồn tao đã về báo mộng cho rất nhiều người. Dựa vào thế lực mạnh nên mầy đã bịt kín đầu mối, ngăn chận mọi dư luận xôn xao trong quần chúng. Mười năm rồi, đã đến lúc mầy phải đền tội. Cái củ khoai lang to bằng đầu người trồng trong container là vật chứng đủ tố cáo tội lỗi của mầy trước trung ương".

Nói đến đây, bà cán bộ nằm vật xuống gường, thở phì phò, nước dãi chảy đầy mồm.

Ông thủ trưởng ôm đầu hét lên:

- "Ðồ điên, đồ điên!", rồi vội vàng chạy ra xe.

Xe đang phóng nhanh qua cầu Long Biên, đột nhiên ông thủ trưởng ra lệnh tài xế dừng xe lại. Một hành động khá bất ngờ. Ông thủ trưởng lao nhanh ra khỏi xe rồi tung mình qua thành cầu phóng người xuống sông. Anh tài xế hoàn toàn bị động chỉ biết gào lên cầu cứu.

Vài ngày sau, báo chí Hà Nội đăng tin: "Một đại biểu từ Miền Nam về tham dự đại hội Phụ Nữ đã bị nước cuốn trôi khi tắm dưới gầm cầu Long Biên. Qua mấy ngày tìm kiếm vẫn không thấy xác của vị đại biểu thuộc thành phố Hồ Chí Minh" .

 Đây không phải là một câu chuyện tình như cái tựa đề ướt át,nhưng chỉ là những kỷ-niệm xưa  sống lại và một đôi khi làm cho nước mắt doanh tròng.Nhớ lại những ngày đã trải qua của mình cũng như của những người cùng cảnh-ngộ,những người đã phải trả nợ cho việc phục-vụ quốc-gia bằng những năm dài cải-tạo !



Tôi không viết những dòng này với tâm-trạng thù-hận những người ở chiến-tuyến đối-nghịch với tôi hay với chúng tôi ; " Được làm vua,thua đi cải-tạo" . Thôi thì vận nước nên đành. Chỉ xin được ghi lại đôi điều trong quá khứ để «  mai sau có đốt lò hương,nhắc câu chuyện cũ để thương một đờỉ !



Đã có quá nhiều hồi-ký viết về cải-tạo.Chỉ thấy nói đến những nhục-nhằn,cơ-khổ. ?Tiếp tục làm công việc này,tôi thấy thừa.Xin được đi tìm một khảo-hướng khác.



Vấn-đề cải-tạo có lẽ có hai bộ mặt.

Một đằng là những người « bại-trận » bị đưa đi học-tập cải-tạo,trên lý-thuyết là giáo-huấn cho họ biết rõ đường lối và chánh-sách của đảng và nhà nước nhưng trên thực-tế là để cô-lập,kiểm-soát các thành-phần « phản-động » có khả-năng chống phá « cách-mạng ».Mặt khác là sự đề-kháng của phe bại trận bằng cách này hay cách khác.Một sự giao-lưu văn-hoá đã khởi đi trong yên-lặng,tù  cải-tạo biết thế nào là cộng-sản trên thực-tế và phe cộng-sản chiến-thắng  xuyên qua các chánh-trị-viên quản-giáo từ cấp sư-đoàn đến cấp trung-đội,xuyên qua các vệ-binh, đã bị thẩm-thấu từng giờ,từng ngày,từng tháng,từng năm để biết, để nhận-thức rõ về cái gọi là chế-độ tư-bản.


Qua sự giao-lưu văn-hoá này,ai sẽ cải-tạo ai ?!



1°) Cải-tạo tại chỗ, ông tổ phải chạy.



Sau cái ngày 30/4/75 thật là trời sầu đất thảm.Không kể bọn nón cối,tai bèo là bọn chiến thắng thứ thiệt,còn có thêm một lũ  « cách-mạng  ba mươi » cũng lăm le dính máu chia phần.Một số hồi nào là dân đào-binh,trốn lính cũng nhào ra lượm súng đạn rơi rớt, đeo băng đỏ vô tay để trở thành cách-mạng Một số nằm vùng cũng xuất-đầu lộ-diện,phần lớn ra nắm các tổ dân phố,trở thành gạch nối giữa chánh-quyền cách-mạng với nhân-dân.Nhưng trong những ngày đầu tiên,cái chánh quyền cách-mạng này không thấy bóng dáng ở đâu cả.  Không ai biết điạ chỉ các nha, phủ, bộ, sở.Chỉ thấy  toàn là thông cáo của ủy ban quân-quản kêu gọi nguỵ quân và nguỵ quyền ra đăng ký.Nếu địa-chỉ ủy-ban quân-quản hỏi  cùng không ai biết thì các địa-điểm đăng-ký lại được chỉ rõ. Ít lâu sau,xuất hiện ủy ban cách-mạng phường,rồi tổ dân phố,một số do cán-bộ nằm vùng,một số bị chỉ-định,ai không muốn làm thì bị hăm he chống đối cách-mạng. Bị vậy mà mấy ông tổ trưởng chạy xất bất xang bang,bất kể giờ giấc,làm việc thì không lương mà xem chừng còn tận-tâm hơn chánh-quyền « cách-mạng ».Công tác chính của mấy ông tổ trưởng là huy-động nhân-dân làm công-tác. Đủ thứ công-tác Trước mắt là công-tác vệ-sinh.Sạch phố,sạch nhà. Sạch phố cũng dễ thôi.Dân không dám tiêu xài nữa thì còn có cái gì để xả.  Sạch nhà càng dễ hơn nữa.Dân di-tản từ miền Trung vô,dân di-tản từ cao nguyên xuống,có bao nhiêu đồ đạc mang theo đâu mà không sạch nhà Chánh-quyền miền Nam đi đong,công chức quân nhân không còn ai trả lương, đương nhiên là sạch túi.Hễ sạch túi thì sạch nhà.Có cái nghề mới là nghề « chà đồ nhôm ».Không phải là chà đồ nhôm cho bóng mà là chôm đồ nhà đi bán để kiếm sống.Nghề này đóng góp tích cực cho chiến-dịch làm sạch nhà.Nhưng không thấy cách-mạng biểu-dương Chỉ có bộ-đội là bắt đầu lỉnh-kỉnh,lề mề Không có tiền mà cái gì cũng muốn có.Quý nhất là cái đồng,cái đài,cái xe đạp,cái máy may ;Không có tiền thì ta quan-hệ thôi.Gạo,thuốc lá, đồ trong kho quân tiếp vụ vụ hay của Tổng cuộc tiếp tế cứ dần dần biến mất Để bộ đội xuất hiện cảnh « tay đeo đồng,mong đeo đàỉ ». Eo ơi,miền Nam nhiều hàng hoá quá.  Ấy ấy, phồn vinh giả tạo, ế thừa của đế quốc đấy !



Nhưng không cấm bộ-đội đi bộ cả ngày kiếm đồ để đội.Rồi đến bọn con buôn chui lọt ở ngoài Bắc vào,cứ là đội đồ nhớn đồ con,thương vàng hạ cám đồ gì cũng đội về Bắc.



Trở lại công-tác của các ông ,bà tổ trưởng.Họ bị gọi đi họp liên miên.Rồi về thông-báo cho các hộ dân phố.Nào là thúc-hối nhà có nguỵ quân ngụy quyền đi đăng ký học tập cải tạo,nào là thông báo qui-định chánh sách của « cách-mạng » về quản-lý trị-an,về phân-phối nhu-yếu phẩm..Dân miền Nam bật ngửa trước việc phân phối mỗi đầu người nửa lạng thịt mỗi tháng hoặc 100 grs đường mỗi đầu người,hoặc mỗi hộ vài muỗng cà phê bột ngọt mỗi tháng.Các ông bà tổ trưởng « phấn khởỉ », « tích-cực trong công tác » : Ủy ban nhân dân phường triệu tập học tập chánh-sách vệ-sinh lúc 10 giờ, ông bà tổ lo chạy thúc giục nhân dân, đập cửa từng nhà nhắc nhở từ năm sáu giờ sáng.Cũng tốt thôi ! Tưởng học tập cái gì quan trọng,té ra là mỗi hộ phải đào một hầm xí có nắp đậy cho hợp với  vệ-sinh xã-hội chủ-nghiã.Thắc mắc nêu lên là nhà có cầu tiêu máy rồi thì sao ?Chờ phản-ảnh lên trên ! Nghe đâu có bộ đội nuôi cá trong bồn cầu mà bị mỹ-ngụy ăn cắp Anh ta chỉ giật nước một cái để có thêm nước nuôi cá mà cá bị đánh cắp ngay.Thật là tội ác mỹ ngụy đầy giời Ấy,nhân dân còn học mười bài tội ác Mỹ Ngụy nữa đấy. Ông bà tổ cứ là chạy thấy ông thấy bà. ..tổ.Mà dân ngụy cũng phản động lắm,lại phát biểu … « cứ nà ninh tinh thôi ». Thành quả cách mạng thì nhờ cách mạng thành công mà việt cộng thôi pháo kích vào thành phố ; Mỹ là con đĩa hai vòi vừa hút máu dân trong nước,vừa hút máu dân nước khác thì phản ảnh là Mỹ ngu thấy mẹ,mình chôm đồ nó dài dài mà nó không biết !



Học chánh sách tập thể hoá nông nghiệp thì «chánh-sách người cày có ruộng »  của Thiệu đã bần-cùng-hoá nhân dân,mỗi người chỉ được phép có 5 mẫu ruộng,còn với cách mạng thì nhân-dân làm chủ cả đất nước ! Chán phát biểu « ninh tinh »,dân  thấy cải-tạo tại chỗ là tổ chạy.Báo hại ông bà tổ phải chạy kiếm bắt tham dự học tập rồi bình bầu tổ viên tích cực,tổ viên tiên tiến.



Đó mới là cải tạo chung chung cho nhân dân cả nước,còn cải tạo nguỵ-quân ngụy quyền thì lại khác !



2°)Mặt ngoài cải tạo,cốt lõi tập trung,



Vừa phòng phản động,lại dùng lao-công !



Mẻ lưới tung ra để tóm ngụy quân ngụy quyền phải nói là tinh-vi.  Trước tiên là gọi học tập tại chỗ dành cho binh lính và hạ sĩ quan cũng như đối với công chức.Học có 3 ngày với yêu cầu tự túc lương thực thực phẩm đủ dùng cho 3 ngày.Sau đó là mãn khoá,cấp giấy chứng nhận đã theo học cải tạo. Ít lâu sau đó là sĩ quan từ cấp thiếu tá đến cấp tướng,công chức cao cấp chuẩn bị lương thực thực phẩm hoặc tiền để đủ dùng trong một tháng một tuần sau là đến lượt sĩ quan cấp úy chuẩn bị lương thực,thực phẩm,tiền đủ dùng cho mười ngày.Cấp tướng tá chưa hết hạn nên cấp úy không nghi ngờ gì,chui đầu vào bẫy.Nếu sau một tháng mới gọi cấp úy,thấy tướng tá chưa về,cấp úy có thể có nhiều người trốn,cho nên « cách-mạng » phải gọi ngay sau khi cho tướng tá vô tròng.Mẻ lưới tinh vi tóm gọn hết nguỵ quân nguỵ quyền Kế đó là đảng viên các đảng phái phản động.  Ấy thế là các trại tập trung mọc ra ở cùng khắp Trại giam là một nhà tù nhỏ.Trại cải tạo là một nhà tù lớn hơn. Cả nước là một nhà tù vĩ đại. Ở ngoài,nhân dân được tổ chức thành đơn vị lao động,theo phường khóm,kiểm soát bằng sổ hộ khẩu,bằng chế độ tem phiếu phân phối nhu yếu phẩm.Trong trại tập trung,tù cải tạo cũng được kiểm-soát chặt chẽ.Các trại cải tạo lúc đầu đặt dưới sự kiểm soát của ủy ban quân quản nên do quân đội kiểm soát, được tổ chức theo  cấp sư đoàn.Mỗi sư đoàn cải tạo gồm nhiều trung đoàn,mỗi Trung đoàn gồm 4 tiểu đoàn,mỗi tiểu đoàn gồm bốn đội,mỗi đội lại chia thành bốn khối.Khối lại chia làm trung đội,tiểu đội.Môi tiểu đội có một tiểu đội trưởng (A trưởng),Trung đội có trung-đội trưởng (B trưởng), đại đội có đại đội trưởng trưởng (C trưởng hoặc khối trưởng)Tù cải-tạo chúng tôi gọi đùa cấp-trưởng của mình là tù-trưởng.Về phiá « cách mạng »,tiểu đoàn gồm có tiểu đoàn trưởng vệ binh,tiểu đoàn trưởng hậu cần và chính ủy tiểu doàn.Vệ binh có nhiệm vụ bảo vệ trại,hậu cần có nhiệm vụ lo nuôi ăn và nhu yếu phẩm(nếu có),chính-uỷ lo việc cải-tạo tư tưởng.Chính ủy coi ban chánh trị tiểu đoàn gồm nhiều quản giáo, đó là những chính trị viên cấp đại đội.Các quản giáo thường xuyên sinh hoạt với đôi do mình phụ trách,mục tiêu là « động viên để an tâm học tập »,chánh yếu là kiểm soát tư-tưởng thể hiện qua ngôn từ,hành động !Cách tổ chức ở các cấp cao hơn cũng tương tự.



Tôi và một số bạn đồng nghiệp đi trình diện ở trường Nguyễn Bá Tòng, được chuyển đi cải tạo ở Trảng Lớn,tiểu đoàn ba.Chỗ chúng tôi ở là bộ chỉ huy của sư đoàn 25 BB,khi đến hãy còn bừa bãi quân trang quân dụng cá nhân vứt bỏ lại.Không có chỗ ăn,chỗ ngủ,chúng tôi phải quét dọn bằng những thứ dụng cụ « tự biên tự diễn »,Không một ai trong bọn chúng tôi nghĩ đến việc giữ lại các quần áo,ga-men,bi đông nhôm hay nhựa với cốc uống nước.Chỉ vài ngày sau những thứ này đã trở thành tài sản quý giá .



Chúng tôi được phân chia thành từng A,B,C như đã nói ở trên,mỗi C được chỉ định một khu vực, chia nhau ra một số làm vệ sinh doanh trại,một số làm công tác hậu-cần gồm đi lãnh nhai chảo đụng lớn,lãnh gạo và muôi.Nhiều sĩ quan đã tỏ ra rất tháo vát.Với hai cái chảo đụng cỡ lớn để nấu cơm và nấu thức ăn,các sĩ-quan tham gia việc nấu bếp đã cố gắng nấu cơm và nấu nước cho anh em ! Chảo kê trên mấy hòn gạch,củi chụm là vách của vài căn nhà trong khu vực Khối của chúng tôi và một khối nữa được chia cho gian nhà nguyên là phòng ăn của sư đoàn 25BB,nền tráng xi măng,vách bằng gỗ thông hai lớp.Trong ngày đầu ngủ ngay trên nền xi măng,cơm ăn với muối,ai có mang theo thức ăn khô thì  đỡ hơn.Tôi trong túi chỉ có hơn hai ngàn đồngVNCH,nghĩ là 10 ngày,mỗi ngày tiêu 200.Tới nơi mới biết là một sai lầm lớn !



Cơm trong những ngày đầu là gạo trắng (gạo Mỹ tròn) ăn với « muối mỏ »

. Đây là một thứ muối vét  ở đâu đó,lẫn bùn cát.Ngụy bén cải tạo muối đen thành muối trắng  bằng cách gạn lọc,nấu lại.Các vệ binh cộng sản xem chừng thán phục « óc sáng tạo tài tình » của sĩ-quan ngụy nhưng quản-giáo đội sau đó lên lớp là còn đầu óc tiểu tư sản.  Cả tháng trời ở tiểu đoàn ba Trảng Lớn chả học tập gì cả,lao-động cũng chưa có gì,quanh đi quẩn lại cũng chỉ vệ sinh doanh trại rồi lại vệ sinh doanh trại.Vài hôm sau khi  tới trại,các quản giáo bắt đầu cho « biên-chế » lại các đơn -vị,lập danh sách tổ,chỉ định A trưởng,B trưởng, Đội trưởng,tổ chức bếp với chức bếp trưởng và cử người trực nhật bếp,lo việc nấu nước,nấu cơm và lãnh gạo.Gạo trắng Mỹ bắt đầu được thay thế bằng « đại mễ Trung Quốc »,gạo bỏ vào nước vo nổi lềnh phềnh,gạo đầy sâu,buổi đầu anh em bếp viên còn nhặt sâu,nhưng không xuể,sau đó thì vo qua để loại bỏ đất bụi còn cứ thế cho vào chảo nấu,nói là giữ cám cho có vitamine B,còn sâu thì cho có chút protéine,trong những ngày đầu không có tiếp thế thực phẩm gì khác.Sau đó có tiếp tế nhỏ giọt,khi một tuần một lần,khi hai tuần,không có thời biểu nhất định.Tù cải tạo thắc mắc hỏi sao sau mười ngày chưa về,câu trả lời có sẵn « đã học tập đâu mà vể,cứ yên tâm học tập,nhà nước bảo đảm chánh sách đã qui-định ».Nói về gạo mục,sâu thì được trả lời « như thế là các anh phải vui vì kho tích lũy còn nhiều nên mới có gạo bị mục,nếu phải ăn gạo mới  ‘ tức nà’ ta hết dự-trữ đấy !Hỏi về tiếp tế thức ăn thì  « sau cách-mạng,nhân-dân còn nhiều khó khăn ». khẩu phần gạo tính theo đầu người lúc đầu còn là 500grs,chia làm 100grs cho điểm tâm (chủ-yếu là cháo thôi ). Cơm trưa cơm chiều « bình-quân » mỗi người được quãng hai bát ;Thỉnh thoảng có tiếp tế khi thì xe cải bắp,khi thì xe rau muống,bí đỏ…Mỗi lần chỉ một thứ hàng, để dành ăn trong một tuần (trên lý thuyết)Mỗi bếp khệ nệ lãnh độ 50 cải bắp để ăn cho cả tuần,thiếu phương tiện bảo quản,bếp chia cho 4B mỗi B 10 cải bắp tự do cải thiện,còn bếp nấu 10 cải bắp ngày đầu tiên gọi là « canh toàn quốc »,bởi vì bếp nấu cho cả trăm người,Tính ra mỗi người được chừng hơn một lá cải bắp còn thì toàn nước là nước vì thế gọi là canh toàn-quốc.Cải bắp để vài ba hôm,bị nóng nên thối ra,mùi không chịu nỗi,thế là phải thanh toán nhanh,thanh toán mạnh một hai ngày cho xong.Không thể làm dưa được vì thiếu muối.  Rau muống cũng thế,khẩu phần cả tuần phải ăn ngay vì không thể để lâu được,chỉ có món bí đỏ là có thể giữ được nhiều ngày.Hoạ hoằn lắm mới có « chất tanh » nghĩa là cá.Thời gian tôi ở Trảng Lớn trên một năm,Hình như chỉ được cung cấp ba,bốn lần chất tanh,lần nào cũng vào ban đêm.Kẻng báo động tập tọp khẩn,cử lao-động đột xuất đi lãnh cá,mỗi bếp lãnh khoảng muời con loại cá  biển không biết tên là loại cá gì,thường thì đã đạt tiêu chuẩn « ươn cao cấp ».Bếp không thể bảo đảm làm cá ban đêm,chia luôn cho B,thế là mỗi B tự lo việc làm cá,mà phải khẩn-trương vì càng để lâu càng ươn nặng !Thế là tối đó bếp con bếp nhỡ linh tinh,nấu nướng chia chác ít ra đến gần sáng mới xong,mỗi người được đến chừng..ba muỗng cà-phê cá.Về sau anh em có kinh nghiệm,lãnh cá làm sơ sơ,bỏ kho hầm nhừ cốt lấy nước,chia mỗi người khoảng nửa chén « xột xệt » để ăn dần.Trong những ngày đầu,doanh trại còn nhiều rau hoang mọc dọc theo hàng rào,anh nào tháo vát có thể kiếm được chút đỉnh chất tươi :rau sam,càng cua,rau dền dại,nhãn lồng,rau chó đẻ…Sau thì nhiều người « cải-thiện » quá,rau dại cũng tuyệt chủng luôn, đúng là tội ác mỹ ngụy :diệt sinh,diệt chủng,diệt môi trường sống Rồi,khẩu phần cơm cũng được giảm đi « vì nhân dân ta có nhiều khó khăn quá,các anh khắc phục thôỉ » thay vì 500 grs gạo thì chuyển sang 500 grs bo bo,hoặc một kí gạo đổi thành 3 kí khoai lang…sùng  hoặc 3 kí khoai mì…sượng.Thiệt là đổi gạo thấy sượng sùng ! Có lẽ trong giai đoạn này mà bình dân đã đổi lời ca của bài hát cách mạng gì đó thành « cây cuốc cong về Bình Long cây cuốc gẫy,cây cuốc thẳng mình làm rẫy thấy bà,từ giặc Bắc vô đây đầy mình đi kinh tế mới,lao động suốt ngày mà không có gạo ăn..Tổ quốc ơi, ăn khoai mì ngán lắm,tổ quốc ơi,ta lao động dài dài,từ giặc bắc vô đây,ta lao động bằng hai ».Trong thời kỳ ăn khoai mì,khoai lang,bo bo này,nhiều tù cải-tạo bị phù,bị ghẻ.Càng thuộc binh chủng hoàng-gia bao nhiêu,càng bị bịnh nặng chừng đó.Lính tàu bay,tàu thủy đa số mắc bịnh phù,chỉ có lính bộ binh là chịu đựng giỏi



.Thuốc men trong trại cải tạo hầu như không có gì cả,bịnh gì cũng cho  « bé-vi-ti-ne »,loại nhỏ bằng hột bột báng Mà muốn bịnh còn phải đăng kí trước !Trước tình trạng bịnh như vậy,ban chỉ huy tiểu đoàn đã tìm cách « khắc-phục »



 Đó là kế-hoạch trồng rau và nuôi heo Tù góp tiền lại mua hột giống và mua heo con về nuôi,mỗi đội một con.(Trên thực tế thì khi vào trại, đồ đạc đã được kiểm kê,tiền phải gởi cho ban chỉ huy trại rồi).Nhưng tù cải-tạo cũng « hồ hỡi phấn khởi » lắm vì hi vọng có rau,có thịt.Nhưng muốn trồng rau thì phải làm đất,muốn nuôi heo thì phải có thực phẩm nuôi.Tù cải tạo bắt đầu lao-động Chỗ đất nào trồng trọt được là dùng để tăng gia,ngay cả đường đi cũng được be bờ làm luống trồng rau.Một phần đất được trồng rau dền,một phần được trồng rau muống. Đất cần phải có phân bón,trông mong vào sức sản xuất phân của tù cải tạo.Nhưng trong lãnh vực này,không thể nào vượt chỉ-tiêu được vì làm sao mà « ăn ít ị nhiều được ».Tù nào ăn bậy bị tháo tỏng được đồng bạn biểu dương « vượt chỉ tiêu,thiếu chất lượng » Trồng rau thì phải tưới Phải đào giếng Tưởng tượng là làm đất bằng cọc sắt ấp chiến lược, đào giếng cũng bằng cọc sắt ấp chiến lược,vét giếng bằng nón sắt,múc nước giếng cũng vậy,giây làm bằng sợi ni lông rút từ bao cát ra xe lại Những công trình chưa từng thấy ở ngoài,nhưng trong tù cải tạo,sĩ quan ngụy đã tiếp tay nhau thực hiện.Muốn nuôi heo,phải nhịn cơm.Cơm cháy trước kia chia nhau,nay dành nuôi heo,một phần rau dành nuôi heo. Đương nhiên tù cải tạo ăn giảm rau,giảm cơm. Đã đói càng thêm đói Phản ảnh lên ban chỉ huy,quản giáo lên lớp giải-thích :  « cơ bản là các anh không đói,các anh chỉ ăn không đủ no thôỉ ».Nhờ có cái cách mạng khoa học kỹ thuật  áp dụng phân bắc phân xanh đầy đồng mà rau cũng đã xanh tươi hơn.Một nắng,một nước,một phân Rau dền rau muống,củ cải,rau khoai lang cứ mọc lan ra. Nhưng tù còn nộp rau cho ban chỉ huy trại nữa gọi là nghĩa vụ lương thực thực phẩm cho nhà nước Bởi vậy,vừa đi tưới phân cho rau,tù vừa xuyên tạc : "phân tù nuôi cách mạng"



Hỏi nhau chớ thấy vậy có buồn không,tù thủ thỉ với nhau « Sao lại buồn Mình vì mọi người mà. Ai không lao động mà ăn thì thuộc thành phần bóc lột Mình chỉ buồn khi nào đi cầu thôi. Cái đó gọi là buồn ị »Nói chung lao động ở Trảng Lớn không thấm thía gì so với Kà Tum,trại mà tôi bị chuyển đến sau Tết năm 76.Mà nghe nhiều bạn tù cải tạo ở nơi khác chuyển đến Kà Tum thì ở đó được coi như thiên đường  rồi Như vậy, ở những nơi khác còn khó khăn hơn nhiều về mặt sinh hoạt cũng như về kỷ luật.



Xét về thành phần cải-tạo tập trung ở Tiểu-đoàn 3 tại Trảng Lớn, đa số là công-chức,giáo-chức biệt-phái,trong số này có nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang,nhà thơ Mai trung Tĩnh..Tôi với Mai Trung Tĩnh (tên thật là Nguyễn Thiệu Hùng) vốn là bạn đồng sự ở ngoài đời nên đã cùng đi trình diện một ngày ở trường Nguyễn Bá Tòng nên được phân phối về cùng một tiểu-đoàn,lúc đầu ở cùng một khối.Anh Hùng này rất dễ tin,cứ quyết đoán với chúng tôi là sau 10 ngày sẽ về : « tụi nó thắng rồi,giữ bọn mình làm gì ».Sau 10 ngày vẫn chưa về,anh cũng vẫn an tâm theo lời quản giáo : « ừ,tại tụi mình chưa được học tập chính sách nên chưa về,học xong là về chứ họ giữ mình làm gì ». Trong số chúng tôi có một anh bạn mà gia đình đã biết về cộng sản đã bảo khẽ với  chúng tôi :  « chẳng có học tập rồi về đâu chúng mình cứ là dài cổ ra nhiều người ở ngoài Bắc,bị bắt sau 54 cũng chưa được thả ».Còn tôi thì diễu cợt « hãy trông ra núi Bà Đen,Bao giờ Bà Trắng thì em được vể ». Anh Hùng có vẻ thất vọng vì sự bi quan của chúng tôi.Anh cũng bị gọi lên làm việc với quản giáo của tiểu đoàn vì có huy chương của Đại Hàn,Thực tế thì đó chỉ là thứ huy chương ăn giỗ,nói theo kiểu miền bắc thì là « hữu nghị »,nghe nói anh bị quản giáo hù dọa đủ thứ tội nào là CIA của Mỹ cài lại,nào là tình báo của Đại Hàn.. Ít lâu sau anh bị  thuyên chuyển sang tiểu đoàn khác,hình như cùng một tiểu đoàn với Phan Lạc Giang Đông,một nhà thơ khác của Không Quân.



Ngoài lao động ra,Tù cải tạo ở tiểu đoàn 3 dành phần lớn thời gian để cải thiện sanh-hoạt.Một phần thời gian dành để làm đi làm lại các bản tự khai,sơ yếu lý lịch trích ngang.Trong những lần đầu tiên làm lý lịch,tù cải tạo được chiếu cố,có thêm được nhu yếu phẩm thuộc mặt hàng bồi dưỡng như thuốc lào, đường thẻ loại viên hình vuông bề cạnh độ 2cm…Vài ba hôm sau lại bắt khai lại vì lý do chưa đủ,chưa đúng,phải thành thật khai báo đầy đủ vì cách mạng biết hết nhưng để cho các anh tự giác Nhiều anh đã tự giác khai thêm,thế là được biểu dương và  tất cả lại phải làm lại theo gương anh bạn giác ngộ Nói là sơ-yếu lý-lịch nhưng phải khai rõ từ tam đại hai họ nội ngoại,bên chồng,bên vợ,con cái,quan hệ bạn bè thân…Trước khi làm tự khai sơ yếu lý lịch,quản giáo đã « lên lớp » để giải thích sự cần thiết phải khai báo thành thực,phải nói rõ chỗ chôn giấu kho tàng,vũ khí của ngụy,người hoặc tổ chức cài lại của CIA v.v.Thời gian tự khai kéo dài từ 2 đến 4 ngày,không phải lao động ngoại trừ những người bị biên chế vào tổ làm bếp.Quản giáo rất khó chịu vì việc ngụy quân chỉ dành  khoảng nửa tiếng đến một tiếng để khai báo,còn thì lè phè bếp nhỏ bếp con,thuốc lào thuốc rê.Sau thu- hoạch,quản giáo lên lớp phê bình anh em không thành khẩn khai báo,không chịu động não..Thực ra thì ở miền Bắc,khai báo có khi 4 ngày chưa xong,vì các vệ binh,cán bộ có trình độ « cao quá cỡ » vừa đánh vần vừa viết,chẳng những phải động não mà có khi tích cực quá đi tới động kinh,khai cả tuần cũng chưa xong còn phải xin thêm thời gian để dứt điểm ;vả chăng,khai  mất nhiều thời gian thì lao động ít đi. Đâu có như ngụy miền nam « tay tiên một vẫy đã mười khúc ngâm ».Một lần,sau khi khai sơ yếu lần thứ..không biết là thứ mấy,tôi đọc thầm cho anh bạn đồng tù bài thơ mới sáng tác :

« Bố biết sau này con lớn lên,
Đời con rồi sẽ lắm ưu phiền,
Bởi vì con đã là con bố,
Mang kiếp ngụy quân với ngụy quyền !
Bố thấy trong lòng bố đớn đau,
Cha làm,con phải chịu về sau,
Cho nên bố chết từng giây phút,
Khi nghĩ về con lệ bố trào »


Thực thà thì tôi cũng có nhiều lần khóc trong đêm,nước mắt dạt dào nhưng chưa bao giờ khóc thành tiếng,nhưng anh bạn này có lẽ đã quá xúc động nhớ vợ thương con nên đã bật tiếng khóc hu hu. Quản giáo đã yêu cầu anh phản ảnh trược đội « ný ro » vì sao anh khóc,vì không yên tâm học tập hay vì không tin tưởng chánh sách của cách mạng,anh đã trình bày rằng nhờ cách mạng giáo dục mà anh mới biết anh đã lầm đường lạc lối đi theo ngụy quân ngụy quyền. Sự thành khẩn của anh được biểu dương trước đội nhưng sau đó anh được biên chế Đồng Ban,một trại ở giữa Trảng Lớn và Kà Tum, để có điều kiện hôc tập tốt hơn. Khoảng trước Tết 76,có một đợt cho về vì « tiến bộ » mặc dù mới học tập có hai ba bài chi đó Trong số những người cho về này,có nhiều người đã từng bị đưa ra kiểm điểm vì mất đoàn kết,trốn lao động..nhiều tù cải tạo không biết tiêu chuẩn tốt như thế nào . Với quản giáo thì : "các anh cứ yên tâm học tập Đảng và nhà nước đã có chánh sách Trước sau rồi cũng về ».Nhưng mà khi nào ? Câu trả lời xem cũng đã có chuẩn bị « hễ tốt là về » Thế nào là tốt ? Có tiến bộ trong cải tạo tư tưởng,cải tạo lao động .Thế nào là tiến bộ ?Là có phấn đấu cải thiện bản thân ?Ai sẽ xét các trường hợp này ? Ở trên ?Trên là ai ? Là cách mạng,cách mạng biết hết,biết rõ,biết xuốt… Nếu cứ tiếp tục hỏi,thì sẽ " phản ảnh lên trên để có cái trả lời "  hoặc « các anh có vấn đề thế này là chưa yên tâm học tập đấy,chưa tin tưởng vào cách mạng đấy ».



Rồi thì những buổi học chính trị cũng được tổ chức,mỗi bài sau khi « lên lớp » xong cũng phải thảo luận,thu-hoạch tới ba bốn ngày.Ngoại trừ toán lao-động nhà bếp,tất cả được miễn công tác để « học tập cho tốt »,cơ bản là cách mạng tốt,Mỹ Ngụy xấu,khối cộng giúp csvn thì là nghiã vụ quốc tế,Mỹ viện trợ cho miền Nam là thực thi chủ nghiã đế quốc thực dân kiểu mới,các nước tự do giúp miền Nam là vi phạm trâng tráo trắng trợn vào nội tình Việt Nam,các thương vong của dân chúng trong vùng cs kiểm soát là tội ác của Mỹ Ngụy giết dân lành vô tội,còn csvn pháo kích,giật mìn hay tàn sát dân chúng trong các cuộc giao tranh thì là « cách mạng đã giệt Mỹ ngụy và bè lũ tay sai (một đôi lúc còn thêm cả ‘ác ôn’ vào cho nâng cấp căm thù,cho có giai cấp tính ).Tù cải tạo không ở chung với nhau lâu.Khoảng trên dưới một năm là bị điều đi nơi khác,người ở lại thì được biểu dương là thành phần tốt được chờ nhà nước xét,người đi được động viên là thành phần tốt được cách mạng tạo cơ hội để tiến bộ hơn nữa…Cuối cùng thì anh em tù cải tạo chỉ còn tin tưởng vào khẩu hiệu « thắng lợi,thắng lợi, đại thắng lợi »( đại thắng lợi nói lái lại thành « đợi thắng lại »,cũng như « đại thắng lợi ảnh bác Hồ lộng kiếng » tức là « đợi thắng lại ảnh bác Hồ liệng cống ») !



Sau Tết 76 vài tháng ,một số không ít tù cải tạo ở Trảng Lớn được đưa đi Kà Tum.Tôi cũng nằm trong số này.  Khi tới nơi,tù cải tạo Trảng Lớn mới thấy chỗ cũ là thiên đường. Ở Trảng Lớn dù nằm đất, ít ra cũng còn có nhà  cửa đàng hoàng,tuy chật hẹp nhưng anh em sát cạnh nhau,tù tiểu đoàn này còn thấy tù tiểu đoàn khác qua hàng rào kẽm gai.. Đến Kà Tum,quang cảnh khác hẳn Tiểu đoàn có tháp canh cao,rào  với giao thông hào có đặt chông.  Chung quanh trại là rừng xen lẫn với những trảng cỏ tranh.Trước khi chúng tôi đến vài ngày, đã có một đợt biên chế đi nơi khác,chúng tôi vào trám chỗ cho họ !  Tiểu đoàn 3 Kà Tum !.Nhà cửa do tù làm lấy,nhà tranh,vách bằng cỏ tranh bện,giường cá nhân bằng sạp tre do tù làm lấy Khi toán tù trước ra đi,các giường này đã bị các tù tại chỗ chiếm lấy,tháo rời nhét dưới gầm giường của mình.Tù mới tới được phân phối về lán,hoặc nằm đất,hoặc quan hệ để mua giường cũ..Có người đổi giừng lấy năm táng đường,hoặc tiền khoảng một đồng…Cũng không đáng trách vì trại này lúc chúng tôi đến rất uộm thuộm, tù đa số là dân tác chiến còn trẻ,cấp cao nhất là trung úy…Đa số gầy ốm,quần áo rách bươm vì phải đi lao động trong rừng bị gai tre,mây quào,công tác lao động chính là đi « cải-thiện » (thiện ở đây hiểu nghĩa là bữa ăn như ngự-thiện, cải thiện chỉ có nghiã là sửa chữa bữa ăn cho có chất tươi,món chính là măng trúc ;các bạn tù ở đây nói là một ký măng là một ký máu,vì rừng trúc có rất nhiều vắt,họ hàng của nhà đỉa,bám vào hút máu tù đi hái măng !



Vài ngày sau khi chúng tôi tới,có một buổi lên lớp để động viên anh em yên tâm học tập, đây là giai đoạn lao động cải tạo Anh em đã cải tạo tư tưởng tốt,nay phải phấn đấu tốt hơn qua lao động cải tạo để mau chóng về xum họp gia đình. Đến tối,anh em đấu láo với nhau muốn lao động tốt thì phải ăn tốt, ăn tốt thì được …ị tốt,sản xuất phân có chất lượng để tăng gia năng xuất sản xuất rau xanh để được…ăn tốt !



Công tác lao động đề ra cho những ngày kế tiếp là cải thiện nơi ăn,chốn ở.Trong đội chúng tôi có một anh vừa được biên chế về cùng đợt cũng tên là Hùng,nguyên là kiến trúc sư ở ngoài đời, được đề nghị làm « công trình sư » cho tiểu đoàn.Anh hoạch định là  cách  phối trí của tiểu đoàn,làm lại các lán cho tù ,cho vệ binh, cho quản giáo, cho hậu cần…nhưng bước đầu là làm nhà cho tù..Nhưng dụng cụ thiếu đủ thứ,có anh tình nguyện nếu được đi phép về nhà sẽ mang lên đầy đủ các dụng cụ cần thiết cho việc xây cất như cưa,bào, đục chạm…nhưng bị « cách mạng » từ chối vì trên đã có kế hoạch !



Kế hoạch cũng thần sầu quỷ khốc lắm

 . Mỗi B cử một đội đi công tác,nhà bếp nấu cơm cho mang theo.Dưới sự hướng dẫn của quản giáo và có vệ binh mang súng theo ‘bảo-vệ’,tù được dẫn đến một tiền đồn cũ của quân đội VNCH,tháo dỡ kẻm gai,cọc sắt , đai sắt các thùng gỗ đựng đạn,vĩ sắt của phi trường dã chiến.. Cứ thế ta ‘hồ hỡi phấn khởi’ mang về doanh trại thôi. Dụng cụ cung cấp cho công tác là hai cây mã tấu. Hết công tác này là công tác đi chặt cây về để làm than.Vì không có nhiều dụng cụ nên lao động tương đối còn phè,tổ năm người chặt ba cây đường kính quãng  một tấc,dài 4 thước,công tác làm độ nửa ngày là xong,còn thì vệ sinh bản thân Sau đó,tổ chức đội thợ rèn,có than,có cọc sắt,bắt đầu rèn dao,làm liềm,làm cuốc, xẻng..Không biết bằng cách nào,tổ thợ rèn đã làm ra cả cưa !Thế là cuộc cải tạo lao động đi vào qui hoạch Chỉ tiêu lao động dần dần được tăng lên,ban đầu chặt năm người ba cây,sau mỗi người một cây,rồi chất lượng cây dần dần gia tăng,từ cây đường kính 10 cm dài 4 thước thành cây đường kính 20,dài 4 thước nhưng..thẳng để làm nhà.Lần lần tù phải tổ hợp thành toán hai ba người để chặt chung với nhau,khiêng chung với nhau nếu không sức một người không vác nổi Lao động dần dân được chuyên biệt hoá,có phân công : tổ chặt cây,tổ đánh tranh, tổ cắt tranh,tổ tăng gia, tổ rèn, tổ đông y , tổ đan cót,tổ cải thiện…Trong các tổ,có tổ nấu bếp,tổ đông y là tương đối nhẹ,còn các tổ khác,lao động vất vả..Nhiệm vụ tổ nấu ăn là bảo đảm buổi sáng khi đánh kẻng báo thức phải có nước sôi phát cho tù đi lao động,có phần cháo sáng cho tù mỗi người quãng một bát,không đến nỗi là cháo toàn quốc nhưng chắc chắn không phải là cháo đặc Sau đó phải lo cơm trưa,canh rau (rau dền,rau lang,rau muống,măng trúc..mỗi người vài cọng,cơm khoảng non hai bát),cơm chiều cũng như thế Buổi trưa,buổi chiều phải lên hậu cần tiểu đoàn lãnh gạo.Có lúc không có gạo, được cấp phát khoai mì,khoai lang,bo bo,bột mì. Lúc đầu,khi lãnh bột mì,không biết làm gì để ăn,nhà bếp làm bột luộc,sau có anh biết làm bánh mì,huy động anh em đi giỡ mái tôn đồn lính VNCH về làm lò,anh em được ăn bánh mì cải tạo mới ra lò thì dòn nhưng để nửa buổi sau thì cứng nhưng cũng còn dễ ăn hơn bột luộc !Tổ đông y gồm các bác sĩ,dược sĩ ngụy,các sĩ quan trợ y..Nhiệm vụ chính là đi hái các cây thuốc nam,thuốc bắc,lúc đầu có y sĩ  ‘cách mạng’ đi kèm nhưng dần dần thì được tự do đi tìm thuốc.Mỗi ông y sĩ,dược sĩ ngụy vác theo một túi dết,một cái cuốc hay xẻng đem theo, đào các thứ cây mật nhân,hà thủ ô,hái các loại cây chùm bao,nhãn lồng hoặc leo cây hái các thứ cây như cây tổ rồng..Xong rồi phơi phóng,nấu cao…Các loại thuốc này,một phần nhỏ dùng chữa cho tù nhưng phần lớn là để nộp lên trên,chẳng biết có công hiệu không Tổ đông y này cũng coi việc chữa bệnh cho tù cải tạo,thuốc men cũng chẳng có gì ngoài ‘bé vi ti ne’ thì mật nhân..Mật nhân rất đắng,chỉ cần một chút cho vào nước là đủ đắng,cho một ít nước gạo rang cho thơm là thành ‘cà phê cải tạo’.Nếu bệnh nặng không có phương tiện thì gởi lên bệnh xá trung-đoàn nhưng thuốc men thì cũng chẳng có gì,thà ở lại trại nhiều khi lại có thuốc của anh em cho..Các tổ lao động khác thì lao động ‘bá thở’,từ bị thương tới chết.Sau khi lán trại của tù làm xong,cũng mất cả năm trời, đến lượt nhà của vệ binh,quản giáo,hậu cần.Nhất định là phải có chất lượng hơn nhà của tù cải tạo !



Rừng ở xung quanh do các lao động ‘chỉnh đốn cơ ngơi’ cứ dần dần quang ra,thế là ta chuyển thành đất tăng gia sản xuất.Chất bổi đốt các gốc cây sau khi đã đản, đốt các  bụi nhỏ,diệt cỏ…Sau đó, đến cuốc đất phá đất,trồng bắp,trồng đậu,toàn những thứ cần phải tưới nhiều..Thế thì lao động cứ tích cực thôi.Nếu không có người nhà thăm nuôi thì cứ coi như là…tiêu diêu cực lạc.Cũng trong thời gian làm nhà,tù cũng làm thêm nhà thăm nuôi để gia đình đến thăm và tiếp tế cho tù an tâm học tập Và sau thăm nuôi,sức khoẻ của tù được thăm nuôi đã  khá hẳn hơn,nhờ có tiếp tế thuốc men,lương thực như ruốc,nước mắm kho khô,tôm khô,cá khô,lạp sườn,trứng muối..Và nhất là có tiếp tế chút đỉnh tiền,có thể quan hệ với vệ binh hoặc ngay với dân khi đi ra ngoài dân làm công tác như làm cầu, đắp đường, đào rãnh dẫn nuớc..



Những công tác lao động này,chính yếu là phá rừng làm rẫy và làm đường,xử dụng rất nhiều nhân công nhưng không phải trả lương vì đó là những tù cải tạo,phải ra sức phấn đấu để lao động cải tạo tốt với hi vọng mong manh còn có ngày gặp lại gia đình.Nếu không có những biến cố ở biên giới Hoa Việt và Miên Việt,số phận tù cải tạo có lẽ sẽ « muôn đời » như  trường hợp tù cải tạo sau 54 mà mãi đến 75 vẫn chưa được thả.Ngay ở Kà Tum,tôi cũng gặp một số tù binh VNCH đã bị bắt từ 63,64 mà không được trao trả theo tinh thần hiệp định Paris 1973 !



3°) Sinh-hoạt của Ngụy trong trại cải-tạo.

« Dẫu tù,nếp cũ chẳng chừa,
Nghề ăn chơi tự ngày xưa vẫn còn "


(Trường hợp tôi,tôi chỉ được biết có 3 trại cải-tạo : Trảng Lớn,Kà Tum và Hóc Môn. Cuộc sống ở đây có thể không giống như ở những trại tù cải tạo khác,và ngay trong một trại,từ tiểu đoàn này sang tiểu đoàn khác,từ đội này sang đội khác cũng khác nhau)



Cải tạo cho ngụy được tiến hành dưới hai hình-thức là cải tạo lao-động và cải tạo tư-tưởng.Cải-tạo lao-động chỉ là lớp màu mè son phấn để che đậy thực chất là giam khổ sai (cũng có thể coi đó là một tàn dư của chế độ phong kiến thượng cổ trong đó các tù binh bị bắt làm nô lệ),còn cải tạo tư tưởng thực chất chỉ là một nỗ lực để tẩy não bọn nguỵ quân ngụy quyền.Trong cả hai « diện » cải tạo này,cộng sản việt-nam đã không đạt đến mục đích yêu cầu mà còn có thể nói bị nói là bị « ép-phê ngược ».



Về mặt lao động cải tạo,rõ ràng là bọn nguỵ không có được cái khả năng của nhà " đại xu-hào" Tố Hữu để  « vắt đất ra nước,thay trời làm mưa ».Họ chỉ có khả năng đào giếng bằng cọc sắt ấp chiến lược,nạo vét lòng giếng mùa khô cạn bằng nón sắt,kéo nước giếng bằng thừng ny lông  « tự biên tự diễn » bằng sợi ny lông rút từ bao cát ra và xe lại.Thiếu thốn đủ thứ trong các sinh hoạt hằng ngày,tù cải tạo đã chứng tỏ khả năng thích ứng cao độ của họ,chứng tỏ được tay nghề cao và óc sáng tạo tài tình vượt xa bọn tự hào là « đã đạt đến đỉnh cao của trí tuệ loài người tiến-bộ ».Từ những miếng nhôm vụn nhặt được,họ đã biến thành lược để xử dụng,thậm chí còn làm cả ra đồ trang sức như vòng,xuyến,trâm cài tóc, đươc chạm trổ để dành tặng cho vợ làm kỷ niệm không phải chỉ cho những ngày xa cách mà còn để nhắc nhở những giây phút tội tù !Từ những miếng tôn cong queo lỗ chỗ vết đạn,tù cải tạo đã biến thành ca uống nước,nồi nấu,siêu nước,chảo con để « cải thiện linh tinh ».Những tấm ván ép,những sợi dây điện thoại vứt ngổn ngang dấu tích của một cuộc tan hàng rã ngũ đã được tù cải tạo xoá sạch đi bằng cách biến chế thành những chiếc đàn ghi ta,những bình ắc quy vứt lỏng chỏng đó đây đã được ngụy quân cải tạo biến thành những quân cờ đô-mi-nô,cờ tướng. Ở Trảng lớn,vách nhà ăn sĩ quan làm bằng hai lớp ván ép dàã được tù cải tạo tháo bớt một lớp để làm giường,làm bàn,mái tôn cũng được gỡ ra rồi lợp lại cốt lấy bớt một số tôn để làm vâli,rương,hòm đủ loại.. Đây cũng là một cách để trả lời gián tiếp cho những nhiếc móc,nhục mạ của bọn vệ binh quản-giáo nào là các anh ngụy quân,ngụy quyền chỉ là bọn hút máu mủ nhân dân,trây lười lao động,chỉ biết vơ vét bóc lột đồng bào,hiếp đáp,giết chóc nhân dân, ôm chân đế quốc Mỹ để hưởng những  ế thừa cặn bã của tên sen đầm quốc tế…Đến khi thấy tù cải tạo sản xuất ra nhiều « của cải vật chất »quá thì có đội cho tập hợp kiểm kê rồi tịch thu với lý do là tù đã xử dụng trái phép các của cải tài sản của trại,có đội thì quản-giáo vệ binh liên hệ với tù,biếu xén cục đường thẻ,một ít thuốc rê,thuốc lào để nhờ « các anh cải-tạo » làm hộ cho cái va li  tôn,lại còn biểu dương trước đội là các anh cũng khéo tay đấy,hoặc tay nghề cao đấy,biết cải thiện điều kiện sinh hoạt,cơ ngơi ăn ở..Tù cải tạo thì cứ ngọt như miá lùi « ấy,nghiệp dư đấy mả » hoặc táo tợn hơn « ấy,cũng nhờ có dịp học ở nhân dân ».



Có đủ đồ nghề lệ bộ rồi,hồi ở Trảng Lớn chưa bị lao-động nhiều,tù cải tạo lại để « ngụy tính » nổi lên,nhất là từ khi được nhận quà của nhà mỗi tháng ba kí !Bắt đầu có phong trào bến bé bếp con,cờ tướng, đô mi nô ngoài giờ lao động,thêm chút chè cháo,càphê,thuốc lá.Anh em nào không có quà thì hoặc là được bạn bè chiếu cố « chiêu đãi »,hoặc tự cải thiện với « cà-phê gạo rang,nước trà cơm cháy ».Rồi thêm « phòng trà ca nhạc » với nhạc vàng,nhạc xanh đến nỗi cả các vệ binh cũng biết hát « thuở ấy,cây si,anh trồng ngay lối đi «  .. Ít lâu sau có lện cấm hát nhạc vàng,nhạc xanh,tù cải tạo lại quay ra hát nhạch cách mạng « la cum-bâsi-ta  ..của cu-ba, nhạc dòng sông xanh của…Hung-gia-lợi » rồi thì nhạc nào cũng trở thành nhạc xã hội chủ nghiã,không húng-cà-ri thì cũng bún-cà-ri . Có lẽ các quảngiáo cũng biết nhưng mà cũng thích nghe,thôi thì cứ  như là không biết,vả chăng nghe mãi « bác kính yêu đang cùng chúng cháu..hành răm » thì cũng ngán, đổi món nghe vừa thấm thía tình người « con biết xuân này mẹ chờ tin con » vừa lại tràn đầy ước mơ hi vọng « rồi có một ngày,có một ngày,anh sẽ về.. ». Buổi tối,mặc dù có lệnh cấm quan hệ từ đội này sang đội khác,các nhạc sĩ « du ca » vẫn cứ di tản chiến thuật từ bếp này sang bếp khác, đến đâu cũng được chiêu đãi tận tình không chè cháo thì cũng cà phê,nước trà « Thái Đức ».Những tiếng đàn khe khẽ,những tiếng hát nho nhỏ êm đềm quả đã có một sức nhiệm mầu đưa tù cải tạo vượt qua trạng thái bị giam cầm,vượt không gian để trở lại chốn « ngàn trùng xa cách »,tìm lại những « con đường xưa em đi » để rồi sau đó,trở về thực tế với cảm nhận chua chát « ngày về quê,xa lắc lê thê,trót nghe theo lời u-mê,làm tình yêu vỗ cánh bay đi… »Tôi không nhớ chắc là vào Noel 76 hay 77, ở tiểu đoàn ba Trảng Lớn,nhạc sĩ Nguyễn Đưc Quang đã la cà qua nhiều bếp với bài ca vì tôi là linh mục.Trong dịp này,nhiều tù cải tạo theo Thiên Chúa Giáo đã tụ họp làm thánh lễ nửa đêm,nhiều anh em tù thuộc các tôn giáo khác đã canh chừng vệ binh quản giáo hộ bằng các ngồi ngoài thềm trại hút thuốc lào,thuốc rê.Tuy không phải Thiên Chuá Giáo,họ cũng đã làm một đêm canh thức, để giữa chốn tù giam được sống một « đêm thánh vô cùng », để thấy một niềm tin nơi Thượng Đế không gì lay chuyển nổi !



Nếu cách chơi của tù cải tạo hãy càng âm hưởng của vang bóng một thời thì cách ăn uống của họ cũng rất chi là lề mề,cũng còn giữ cái phong cách đường xưa lối cũ.  Cơm,thức ăn chia ra là tù lo bếp bé bếp con để cải tạo bữa ăn.Cơm thì khoảng chưa tới hai bát con,thức ăn thường chỉ là rau luộc chấm muối.Muối phát cho tù là loại muối đỏ lẫn bùn, đất,vào tay tù cải tạo là thành muối bọt trắng tinh.Thỉnh thoảng có chút cá khô nhớn độ..một ngón tay,thế mà cũng khổ cực cải tạo một ngón tay cá khô,ba ngón tay muối,cải tạo thành bột cá mặn để ăn dần, để « có chất mặn từ đầu,có chất mặn về sau ». Khoảng trước tết 76,tù được nhận quà từ gia đình lần đầu,qui định là ba kí.Nhưng quà nuôi tù đa số có chất lượng cao,chẵng những có thịt cá dưới hình thức khô,chà bông,ruốc,lại còn kẹo,thuốc lá..Ban quản giáo,chỉ huy trại tối tăm mặt mũi kiểm tra để xem có hàng cấm kị,khổ một cái là các anh vừa đọc vừa đánh vần,phát âm thì cứ nẫn nôn « n » , « l »,tù cứ bò ra mà cười,bị chất vấn thì trả lời « được quà nuôi,phấn khời quá nên cười » Ừ,thế cũng tốt thôi,có tình có ný nắm…này,anh  nào là Đô mi ni que đây ?Giờ còn tây với u.Bảo chị Hé lè ne lần sau không được đề tên  Tây nữa nhé này anh A,gửi gì lắm thuốc thế,những mười ống bé-vi-ti-ne,trại cũng có thuốc dân-tộc mà …này,anh B,trại cũng có điện mà gửi làm gì cho anh lắm nến thế (bố khỉ,lạp- sườn của người ta đấy,cán bộ) Còn anh C này nữa,khẩu phần thuốc lào thuốc rê có bao nhiêu mà chị gửi lắm giấy thế này (Giấy đi cầu đấy,giời ơi) Này còn anh này nữa,chị gửi cho anh chai gì thế này,Dạ thưa cán bộ,thuốc phong thấp đấy,có hình ông già chống gậy cẩn thận.  Ừ,thế thì được Thế là chai Johnny Walker nhãn đen được chui lọt.  Sau khi lãnh quà gửi nuôi,anh em phấn khởi lắm Nhớ ơn Bác Đảng lắm lắm,chúng cháu bình thường có mấy khi phấn khởi với mấy thứ ế thừa của đế quốc thế lày ! Đúng là đổi đời !



Sau khi có quà  tiếp tế, đời sống của cải tạo viên đã có ít nhiều thay đổi.Bữa cơm,dù cơm không đủ no nhưng thức ăn đã được biến-cải để có phẩm chất cao hơn Một chút bột ngọt,một chút mắm kho quẹt đã làm cho ca rau luộc ngon hẳn lên,thỉnh thoảng một chiếc lạp sườn nướng hay một miếng mực nướng cũng là làm vệ binh quản giáo thấy bất mãn vì cuộc sống của họ kham khổ quá so với ngụy. Dịp tết 76 càng làm cho họ thấy sự cách biệt giữa hai nếp sống,khẩu phần trại cấp phát cho ngày tết là một con « heo hơi »,ngoài phần riêng của ban chỉ huy tiểu đoàn,họ còn  xén bớt của tù cải tạo cái thủ lợn và bộ đồ lòng,bốn đội tù cải tạo chia nhau phần còn lại Nhưng trong khi vệ binh quản giáo bồi dưỡng bằng « thịt nợn nuộc »,tù cải tạo ăn uống rất linh tinh,có đội  làm thịt kho chia đều cho cải tạo,có đội chia thịt sống cho tổ để tuỳ nghi v.v,nhiều bài gia chánh bí truyền hay tự biên tự diễn được phổ biến,nào là bếp nhỏ,bếp con kho,khìa,cà ri,xào lăn đủ kiểu, đủ cách.Một số tù ngụy còn được tiếp tế cả thuốc lá đầu lọc mà cách gọi của miền bắc là « thuốc lá có cán » như Winston,Salem và bị quản giáo phê bình là còn ôm chân đế quốc Và không ngừng quảng cáo các thứ thuốc của miền bắc như Tam Đảo,Thăng Long,Sông Hồng, Điện Biên và bỏ ra chiêu đãi ngụy,bọn này thừa thắng xông lên chỉ trong chớp nhoáng là thanh toán hết số thuốc chiêu đãi Đúng là bọn ngụy chưa thuộc bài « em chả,không dám ».



Khi được chuyển trại lên Kà Tum,quản giáo đã động viên  bọn tù chuyển trại là các anh thuộc thành phần có tiến bộ nên nhà nước tạo điều kiện để phán đấu  tốt hơn để mau chóng được về xum họp gia đình.Chắc bọn tù ở lại cũng được học tập là họ tốt nên được giữ lại chờ cứu xét ở trên,chờ cho về.  Và cứ thế mà nuôi hi vọng.



Tù Trảng Lớn lên Kà Tum thấy quang cảnh mà não nùng.Nhà lán xiêu vẹo,chung quanh còn là rừng,tù ở tại chỗ trông rất thê thảm. Được biên chế vào các lán,trại,có anh có được giừơng của người đi để lại,có anh được cái giừờng siêu vẹo,có anh phải bỏ tiền ra mua giừờng vì chưa biết cách làm,chưa biết chỗ chặt tre mây(mà có biết chỗ cũng chưa chắc đã làm nổi vì đi lấy tre,lấy mây rất cực)Nhưng cuộc sống dần dần cải thiện Nhà cửa được ngụy lần lần  xây cất lại,giếng được đào thêm,vét sâu thêm vì mùa nắng thiếu nước dùng,thêm nhu cầu tăng gia sản xuất rau xanh,phải phá thêm đất trồng rau, đào thêm cầu tiêu và làm thêm hầm ủ để có chất bón Khu rừng xung quanh các tiểu đoàn cứ thưa dần đi,thế là đến giai đoạn phá rừng làm rẫy bằng cách đốt rẩy như người Thượng (ấy,phải gọi là đồng bào thiểu số hay dân tộc ít người ! )



Tù cải tạo làm nhà,tù cải tạo làm rẫy,tù cải tạo làm than, làm lò rèn,làm bánh mì (cung cấp cả cho ban chỉ huy tiểu đoàn vì cách mạng chỉ có cái miệng còn cái tay thì để chỉ trỏ thôi). Đến giai đoạn cho thăm nuôi,tù phải khẩn trương làm khu thăm nuôi,rồi  phải làm đường dẫn ra khu thăm nuôi xa hàng chục cây số.Cán bộ cấp trung đoàn xuống chỉ đạo làm đường, được mấy ngày thì hỏi có ai ở công binh ngụy không để giao công tác vì anh chàng cán bộ này không biết cách đọc la-bàn,không biết coi bản đồ đã chỉ đạo làm đường vào khu vực có dân Ấy thế là lại phá ra,làm lại,không có gì quan trọng cả,cái đó gọi là nước sông,công tùRồi thì khu thăm nuôi cũng làm xong.Tù chờ đợi được thăm,nhưng  thăm nuôi quả là một đoạn đường chiến binh !



Có điều lạ là trong những điều kiện sinh hoạt cực kỳ khó khăn như thế,không thấy tù nào mắc bệnh tâm thần.Có lẽ tại ngụy hay bông đùa. Đi chặt gỗ làm lán,trại thì gọi là kiếm cây về xây lăng, đi làm than thì « ở với lửa hương cho vẹn kiếp,thử xem sắt đá có bền gan »,phá rừng làm rẫy thì gọi là « giành dân lấn đất », đi kiếm măng về ăn thì hát ông ổng « miệng ăn măng trúc măng mai,những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng « ,bị vắt cắn thì bảo đó là « bọn hút máu mủ của nhân dân »,Thiếu thực phẩm thì phải đi cải thiện,phải nhờ mấy anh hán(g) rộng giải thích mới biết cải thiện là sửa chữa bữa ăn chớ không phải là làm cho tốt hơn như ngụy hiểu.Miền bắc thâm nho hơn miền nam,cái đó gọi là hán(g) thâm !



Bên cạnh cái gọi là cải tạo lao động còn có cải tạo tư tưởng.Trên lý thuyết thì để xây dựng xã hội chủ nghĩa cần phải có những con người xã hội chủ nghiã.Nhân dân thuộc thành phần « cách-mạng » cơ bản là tốt rồi,là đã thấm nhuần đạo đức cách mạng rồi.Còn ngụy thì bản chất là xấu thôi,lẻ tẻ cũng có đôi ba người thuộc diện phản tỉnh biết tìm theo cách mạng Ấy thế là cải tạo thôi,cần thiết lắm để cải tạo nguỵ quân nguỵ quyền thành người tốt Cứ tốt là được cứu xét cho về Quản giáo ở đâu cũng lập đi lập lại luận điệu đó Một luận điệu đầy cạm bẫy.Thứ nhất thế nào là tốt chẳng bao giờ được định nghĩa rõ ràng Có khen ngợi,biểu dương về chỉ tiêu hay thành quả lao -động thì chung chung cũng tốt thôi,cá biệt còn nhiều  người phải phấn đấu hơn Đã nói cá biệt mà lại nhiều thì chỉ có « cách miệng »mới nói được chứ ngụy mà nói cá biệt là thuộc thành phần lẻ tẻ nhỏ lẻ Vả chăng tốt chưa phải là điều kiện cho về mà chỉ là điều kiện để cứu xét cho về,có cho hay không là tuỳ chính sách từng giai đoạn.Như trong khoảng sáu tháng đầu sau khi đi tập trung cải tạo,một số rất ít được cho về dù chưa học xong mười bài học cải ạo,dù chưa cải tạo lao động,dù có bị lên lớp phê bình về tác phong, đạo đức. Đa số những người được cho về thuộc gia đình cách mạng gộc gốc giải phóng miền nam hoặc thuộc thành phần thứ ba.Sau đó thì chỉ thấy chuyển trại và chuyển trại,còn cho về thì chỉ một vài người.Lần lần,ngụy không còn tin tưởng nơi chánh sách tốt về nữa,tình trạng trốn trại đã xảy ra ở nhiều nơi như Đồng Ban,Kà Tum.Chỗ tiểu đoàn ba Kà Tum nơi tôi ở, đã có mấy vụ trốn trại,phần lớn là những người nằm trong tổ y dược vì họ thường đi rừng và được phép đi xa cả ngày để tìm thuốc,việc đào một cây mật nhân với cuốc xẻng dã chiến cũng mất nửa buổi vì rễ ăn xâu,hái hà thủ ô thì cũng phải mất nhiều thì giờ để tìm đủ một bao về nấu thuốc,lấy ổ rồng phải trèo cây có khi cao đến cả bảy,tám thước..Các vụ trốn trại không biết có thành công không,riêng ở tiểu đoàn ba đã có một anh trở về trình diện sau cả nửa tháng trốn trại vì lạc đường và đói.Phải nói là trong giai đoạn xảy ra các vụ trốn trại,việc canh gác của vệ binh có chểnh mảng vì chính họ cũng bị lên ớp để học tập về đề tài Trung Quốc là kẻ thù truyền thống của nhân dân Việt Nam và Khmer đỏ,tay sai của Trung Quốc,bá quyền khu vực,dang có hành động thù nghịch với Việt Nam. Điều này biết được là nhờ các anh em cải tạo đi công tác tiểu đoàn như khiêng gạo,lãnh nhu yếu phẩm..cho biết Chính sách cải tạo tư tưởng,lý thuyết là để t ẩy não ngụy nhưng trên thực tế xem chừng đã có tác dụng ngược,chính vệ binh,quản-giáo đã bị tiêm nhiễm tư tưởng ngụy nhiều hơn Các đề tài cải tạo tư tưởng chỉ nhắc đi nhắc lại điều cách mạng hoàn toàn thắng lợi,ngụy quân ngụy quyền hoàn toàn tan rã, đế quốc Mỹ,tên san-đầm quốc tế là kẻ thù sừng sỏ của nhân dân tiến bộ toàn thế giới,là con đỉa hai vòi… và cuối cùng là ngụy quân ngụy quyền phải ra sức phấn đấu cải tạo để góp phần xây dựng tổ quốc Cách tổ chức học tập rất nghiêm túc,cả tiểu đoàn được tập trung lên hội trường trừ mộttổ lo việc ẳm thực.Chất lượng thực phẩm trong nhẽng ngày học tập so ra có cao hơn ngày thường như được đột xuất lãnh bột ngọt ( mì chính),có thể có cá khô, đặc biệt là lãnh « nhu yếu phẩm » như một táng đường đỏ cho mỗi người cộng thêm một ít thuốc lào,thuốc rê Sau học tập trên hội trường là thảo luận tổ kéo dài đến hai ba ngày,có khi cả tuần,có quản giáo dự khán.Mỗi tiểu đoàn chia thành nhiều bếp,mỗi bếp lại chia thành từng tổ để thảo luận,quản giáo là cà hết tổ này sang tổ khác để nghe thảo luận,góp ý để hướng cuộc thảo luận đi vào trọng tâm cho có chất lượng hơn,cơ bản cũng chỉ là tố cáo tội ác Mỹ Ngụy và thành khẩn khai báo.Trong những lần học tập đầu,có chính ủy sư đoàn,chính uỷ trung đoàn đến quan sát,có vệ binh canh gác cẩn mật súng ống có lắp băng đạn,lưỡi lê,coi rất đằng đằng sát khí.Càng về sau thì càng « giảm căng »,lèo tèo vài vệ binh canh giữ,nhưng chính ủy tiểu đoàn,quản giáo bao giờ cũng có mặt.Các chính ủy hay quản giáo được đề cử đứng lớp thao thao bất tuyệt suốt cả một buổi nói suốt ba đến bốn tiếng đồng hồ nhưng chỉ nhắc đi nhắc lại một số ý,bài phát biểu xem chừng đã được soạn sẵn,các  người đứng lớp ví như cái máy điã,cứ để đĩa vào là phát thôi Sau đó tù cải tạo được về tổ để thảo luận.



Qua các buổi sinh hoạt ,thuyết trình,mỗi anh quản giáo có một  « mỹ danh » do cải tạo đặt,anh thì mang tên « tức nà » vì nói mỗi câu là phải có chêm vào hai chữ tức nà ví dụ các anh suy nghĩ thế tức nà đúng đấy,các anh nàm thế tức nà đúng đấy Có anh  có tên là « phải không nhẩy »,có anh mang tên « tốt thôi ». Ngồi xổm học tập,cứ nghe những tiếng đếm thì thầm 50,51.. 60 Cái gì thế ? À,anh này vừa đạt tiêu chuẩn 60 lượt phát « tức nà » đấy,hoặc « cũng tốt thôi » đấy.



Trong phần thảo luận tổ,có những anh được cử làm cò mồi

.Hễ thấy quản giáo đến thì không khí trở nên nghiêm túc,phát có chất lượng lắm,quản giáo nghe cũng phải dựng tóc gáy.Này nhé,Mỹ là con điả hai vòi,một vòi hút máu nhân dân trong nước,một vòi hút máu nhân dân nước ngoài Quản giáo tới Nè,phát đi Tụi Mỹ ngu thấy mẹ.  Ai đời hút máu nhân dân trong nước để đi viện trợ nước ngoài Mà có ít đâu,mỗi nước  viện trợ cả tỉ đô la Nào Việt Nam,Miên,Lào,Phi Luật Tân,Thái Lan ;phải không bóc lột thì mỗi dân Mỹ dám có ba bốn cái ô tô con,có khi có cả máy bay hổng chừng.Mỹ ngu thấy mẹ Anh khác phát tiếp,dân Việt Nam mình nghèo thấy mẹ,trên răng dưới quần xà loỏn.Mỹ nó bóc lột được cái mẹ gì.Toàn tốn tiền chi viện.Nào là bơ,nào là sữa,nào là đồng hồ,ti vi, tủ lạnh,toàn đồ ế thừa.Anh khác phang thêm nó không đem đồ ế thừa đi cho,chẳng lẻ mỗi thằng Mỹ xàiba bốn cái ti vi,hai ba cái tủ lạnh, đeo năm sáu cái đồng hồ sao ?Chuyển qua Mỹ tàn sát nhân dân Mỹ đánh giặc dở thấy mẹ,Bỏ bom toàn là chỗ đồng không mông quạnh.Bằng chứng là cách mạng có tổn thất gì đâu Đánh Mỹ chạy tét ghèn.Như hồi Mậu Thân,cách mạng Tổng Công Kích nè.Dân chết biết bao nhiêu.Chỗ nào cách mạng cũng chiếm.Phải mấy tháng sau Nguỵ quân mới tái chiếm lại các vùng bị Mất.Cách Mạng đánh giặc hay thiệt ;(Hiểu ngược lại thì cách mạng giết dân,thua tét ghèn trận Mậu Thân)Tội ác Mỹ Ngụy ? Dám tấn công qua cục R bên Miên ,chống phá cách mạng làm chậm cuộc giải phóng miền Nam !Chuyển biến tư tưởng :Nhờ cách-mạng dạy biểu mới biết chớ hồi trước cứ tưởng ngụy tà tay sai Mỹ xài súng M16, đạn Mỹ giết địch cũng là người Việt Nam,còn cách mạng là tay sai Nga Tàu xài AK bắn giết dân ngụy,quân ngụy cũng là người Việt Nam.Có anh còn hăng tới chỗ :phải chi hồi 54 bác Hồ giữ miền Nam thay vì lấy miền Bắc.Lý do ? Thì bây giờ tui đi làm quản giáo Phát biểu đại khái là linh tinh như thế,bởi vì đã nghĩ tới điều « xưa nay cải tạo mấy ai về ». Khoảng cuối năm 78 có lên lớp Trung quốc là kẻ thù cuả nhân dân ta.Cải tạo thắc mắc đủ điều sao kỳ vậy.Nào là núi liền núi,sông liền sông,môi hở răng lạnh,nào là Việt Hoa hai nước chúng ta,vừa là đồng chí vừa là anh em,Trung Quốc hậu cần chi viện vĩ đại sao nay lại thế ?Linh tinh chất vấn quá,phải mời đến chính ủy sư đoàn,trung đoàn đến đả thông tư tưởng nhưng đả thì có đả nhưng thông chẳng hề thông.Quản giáo trước nay chỉ chuyên lý luận môt chiều theo chỉ thị của trên,nay bị chất vấn đến cùng kỳ lý,chắc không khỏi hoài nghi chế độ.



Sau những bài học chính trị,buổi tối có được giây phút thoải mái,một số anh đã thủ thỉ thì thầm những điều đã được biết về chế độ cộng sản,những cuộc cải cách ruộng đất,những cuộc đấu tố.Có những anh có trí nhớ tuyệt vời,nhắc lại,phân tích không sai sót những điều kín đáo đả kích của Phan Khôi qua bài ông Năm Chuột,hoặc đọc thơ Quang Dũng,Trần Dần,Yên Thao. ;Có anh chuyên kể chuyện chưởng như  Tiếu ngạo giang hồ vớ những lời bình thấm thiá.



Những ảnh hửơng của Ngụy đối với vệ binh quản giáo cũng có thể nhận ra.

Vệ binh ông ổng hát nhạc vàng,nhạc phản chiến.Nhiều quản giáo  khi dẫn cải tạo ra ngoài công tác cũng đã để nghỉ thoải mái hơn,không còn chỉ tiêu phải đạt tới,chưa đạt chưa cho về hoặc làm ngày không đũ,tranh thủ làm đêm,làm thêm giờ nghỉ.Có anh còn tâm sự không biết sao những người nhà di cư vào nam năm 54 lại giầu nhanh đến thế,ngoài bắc thì một tấc đấc cắm dùi cũng không mà vào nam sao dinh cơ to đến thế,cứ như nhà bộ trưởng.Có quản giáo bệnh được đưa về điều trị ở bệnh viện Bình Dân,cứ khen ngợi là to như bệnh viện hữu nghị Việt Tiệp.Có anh kể bà cô trong Nam giầu lắm,cho xe Honda mà không dám lấy,chỉ xin xe đạp Hỏi tại sao thì thẳng thắn trả lời ngoài Bắc làm gì có cây xăng như trong nam,cái gì cũng có tiêu chuẩn cả . Quản giáo nói chung cũng là một thứ tù. Có đôi chút quyền hạn với tù cải tạo nhưng thấy thua kém hơn nhiều.Văn hoá sĩ quan ngụy thì bét dèm cũng là tú tài,quản giáo nhiều anh chưa hết lớp năm lớp sáu.Kiểm tra quà thăm nuôi của tù thì thấy chất lượng quá. Quản giáo không có tiêu chuẩn đó.Kỳ thăm nuôi lần đầu ở Ka Tum,trong tiểu đoàn tôi,có anh được người nhà chi viện một xe vận tải nhỏ tiếp tê,quản giáo phải cho gọi thêm anh em trong đội ra gánh hộ,sau phải có chỉ thị chỉ được mang theo tối đa 20 kí lô quà Có quản giáo còn bảo khẻ  cải tạo bảo các chị ở nhà gửi ít thôi, ở ngoài cũng có khó khan đấy. Kiểm tra thư từ của ngụy thì thấy tình cảm quá,chỉ phớt qua sức khoẻ tốt lao động tốt,còn thì tình cảm là tình cảm.Thơ bộ đội có anh phải nhờ tù cải tạo đọc hộ Toàn là phấn đấu đạt chỉ tiêu,cả nước hồ hỡi phấn khởi tăng gia lương thực,anh phải phấn đấu để gia nhập đảng,em thì đang ba đảm đang,ba sẵn sàng.Có anh đi B từ 64,65 mà vẫn chưa được về tham nhà,than là không có tiền,về nhiêu khê lắm ;phải nào là giấy giới thiệu mua vé xe,giấy đi đường,..Có dạo Kà Tum bị gián đoạn tiếp tế lương thực,tù cải tạo được quản giáo dẫn đi tát hố bom để bắt cá .Có quản giáo tiết lộ các anh ở đây được đối xử theo dạng tù hàng binh  do quân đội quản lý.Những nơi khác do công an quản lý thì các anh theo qui chế tù nhân,khổ hơn.Có quản giáo thấy anh em vẽ khẩu hiệu cải tạo tốt,lao động tốt đã đổi khẩu hiệu thành thành thành công,thành công, đại thành công với lý do phải ăn đủ no mới lao động tốt được.Vệ binh cũng thế.Quan hệ nhờ tù đọc thư,viết thư,mua hàng hộ dĩ nhiên là có ăn lời).Từ đó,khi dắt tù đi công tác cũng dành đôi chút dễ dàng cho quan hệ với dân chúng,mua bánh quà trong khi lao động. Tuy chiến thắng,họ không thấy đời sống của họ bằng tù cải tạo.Ghen ghét cũng có thể có.nhưng không thể không đặt ra câu hỏi " sao ở miền nam chúng nó giầu thế ?"



4°)Trong cõi lao lung vẫn có người.



Trong những ngày đầu tiên trong trại cải tạo,ngụy quân đã có những tin tưởng rằng sau 10 ngày,họ sẽ được về như là binh sĩ,hạ sĩ quan đi cải tạo tại chỗ ba ngày.Với lại của đâu mà nuôi cả mấy trăm ngàn người.Nhưng ngày tháng dàn trôi!Quá mười ngày!Quá một thángQuá mười tuần!Các mốc  hi vọng thi nhau rơi rụng.Phản ảnh lên quản giáo"Các anh cứ yên tâm.Các mang “lói” nà cách mạng nàm.Học tập xong nà về!Phản ảnh về ưu tư gia đình? “Các anh cứ yên tâm. Đã có phường khóm giúp đở!Hỏi sao quá hạn chưa cho về,trả lời các anh đã học tập tốt đâu mà vềRồi thì giở mặt “ nhà nước chỉ bảo mang tiền bạc,lương thực quần áo đủ dùng cho mười ngày chứ có bảo đi học mười ngày đâu”.Thôi thì xa chân lỡ bước xuống đò,gieo mình xuống xạp còn lo nỗi gì,ngụy chỉ còn biết thắc mắc với nhau “ họ giữ mình làm gì?”Anh kỹ sư nghĩ là nhà nước mới cũng cần người trông coi máy,anh bác sĩ,dược sĩ cho là bệnh viện cũng cần người,anh thầy giáo cũng cho là trường học cần thầy,ai cũng nghĩ đến việc đóng góp vào việc ổn định và phát triển đất nước.Nhưng nhà nước xã hội chủ nghiã đã không cùng tần số với các anh.Nhà nước cần ổn định xã hội bằng cách “bảo quản tốt” các thành phần có khả năng đề kháng.Sĩ quan nằm tù thì lính sẽ không có ai chỉ huy!



“Các anh đừng có “no”,mọi việc đã có nhà nước “no”.Phải ổn định đi đả.Thế là ổn định nơi ăn chốn ở, ổn định sinh hoạt, ổn định tư tưởng. Ổn định, ổn đỉnh.Tuyệt đối tin tưởng vào đường lối cách mạng “trước sau như một”. Tuy mười ngày có thể trở thành mười năm hay lâu hơn thế nữa…



Bước đầu ổn định sinh hoạt vô cùng khó khăn.Thiếu đủ thứ. Nhiều căng thẳng phát sinh vì những chuyện trước đây coi là tầm thường.Chia cơm không đều theo kiểu “ moi chôn ngoáy đít” đã là cớ để gây gỗ nhau.Một miếng cháy chút xíu cũng là đề tài tranh chấp.Nhiều anh tranh nhau làm bếp viên để có quyền rửa chảo,vét những hạt cơm cháy dính đáy chảo. Chia phần luôn luôn là ái cớ để mất đoàn kết.Nhưng đó là điều cách mạng chờ đợi.Càng mất đoàn kết,càng dễ kiểm soát. Và lợi dụng để cài ăng ten với những bổng lộc chẳng ra gì như được cho hút thuốc lào, được hứa hẹn sẽ đề bạt lên trên cho mau về.Nhưng,số anh em bất hảo này không có nhiều, đó cũng là điều may.Và ăng tem khó kiếm như thế,cho về thì lấy ai làm ăng ten!



Trong cõi nhân gian chẳng thể ngờ đó,tôi đã có may mắn có những bạn đồng “ca rê” rất tốt. Ở Trảng lớn là những đồng nghiệp, ở Kà Tum là những sĩ quan,hoặc ra võ bị Đà Lạt vài ngày trước khi tan hàng,hoặc là viễn thám,phi công trực thăng, địa phương quân.Chúng tôi giúp đỡ lẫn nhau trong lao động,trong sinh hoạt như anh phi công trực thăng chuyên nghề dánh tranh,khi tôi cắt tranh giao anh đánh là yên chí làm ít,vì anh đánh cho tôi kiểu “mút sơ lin”,còn khi chặt cây anh bạn viễn thám và Đà Lạt phụ chặt,róc vỏ,chặt cành..ngược lại khi cải thiện tôi lo phần biến chế thực phẩm cho ăn được như măng,rau rừng. Đặc biệt tôi có “tăng giả một luống rau đắng và luống rau này không bao giờ bị thu hoạch trộm.Nhưng nhờ rau đắng mà chúng tôi có được vi ta min:chúng tôi ăn rau đắng sống và nói với nhau ngày xưa Câu Tiễn nếm mật thì cũng cỡ như mình ăn rau đắng bây giờ.Có nhữ lần không được tiếp tế gạo mà chỉ có khoai mì,lại là thứ khoai mì chạy chỉ đỏ mà chúng tôi đùa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử,lại có nhiều sơ,tôi đã cải thiện thành món lạp bát chúc,nghe rất gồ ghề nhưng thực tế là khoai mì sống nạo nhỏ bỏ nấu cháo với muối,anh thay cho canh củ,lỏng bỏng nhưng cũng tạm yên cái bụng.Tôi nhớ đến anh bạn chỉ tôi cách ăn nắm  trứng gà,một thứ nấm dị kỳ nhầy nhụa như một quả trứng bị vỡ,nhớ đến những anh bạn đã cùng tôi chia xẻ những điều thầm kín.Giờ này các anh ở đâu, đã đi tị nạn ở những phương trời xa hãy vẫn còn bám trụ ở quê nhà?Trong cõi lao lung  tù cải tạo,tôi đã gặp gỡ biết bao nhiêu người vẫn giữ mãi được tinh thần quốc gia chân chính.Chúng ta đã thân ái với nhau,chia nhau từng miếng ăn,chia nhau trong lao động, đùm bọc che chở lẫn nhau.Nếu như tôi có nói nhiều về ăn uống, đó chỉ là điều kiện để được sống còn, để còn có ngày về. Giờ đây,các bạn ở đâu? Có còn giữ mộng ban đầu hay không? Mong có ngày nào đó được tương phùng để nhắc nhở lại những chuyện mà ..chỉ có tụi mình biết với nhau./.     


kho đạn

Ai ở Đà Nẳng chắc cũng biết địa danh Kho Đạn. Thời kỳ Tây, kho dùng để chứa đạn, thời kỳ VNCH và sau này dùng để nhốt tù. Kho Đạn nắm trước mặt chợ Cồn, xung quanh là một bức thành kiên cố, chằng chịt dây kẻm gai, công an canh gác cẩn mật ngày đêm, ai yếu bóng vía đi ngang qua, nhất là ban đêm đều rợc tóc gáy. TrạI giam chia làm nhiều khu, khu B thuộc về hình sự. Trong phòng chu vi độ 4 mét vuông, hai bên là hai bục xi măng thay giường nằm, trời lạnh thì thấu xương, trời nắng, nhất là với cái nắng ác nghiệp của mùa hè Đà Nẳng thì mình như ở trong thùng chứa hàng bằng sắt Conex, mồ hôi mồ kê cứ thế mà nhể nhải.

Sau 1975, tôi xông đại vô Bệnh Viện Đà Nẳng làm việc độ một năm rồi mới bị bắt. Lần này khác với lần đi trình diện cải tạo ngày 30 tháng 4, chỉ có tập trung rồi lên xe đưa đến cải tạo ở các trại. Ngày tôi bị bắt, khoảng 30 công an đổ xe tới , vây quanh nhà. Một công an chỉa súng vào tôi và bắt tôi đứng im. Một công an khác đọc lệnh bắt. Tôi ngơ ngác, không biết mình bị bắt về tội gì. Cũng có thể vì mình khám chui không xin phép. Hay vì tôi “thiến”- vasectomy- hàng ngày quá nhiều, sai chánh sách nên bị bắt. Trước khi bị còng tay, giải ra xe, tôi xin phép công an bồng bé Dung, con gái út của tôi mới hai tuổi. Tôi bồng độ một phút, rồi nắm tay vợ tôi nghẹn ngào. Chuyến này đi có vẻ dữ hơn lành. Tôi đinh ninh đi học tập chắc tối đa cũng vài tuần, rồi sẽ trở về. Nên trong balô tôi đem giấy bút và cả mấy quyến sách triết lý Mác-Lê nữa trời. Công an dẫn tôi ra xe, rồi chở tôi vô Kho Đạn. Tôi ngao ngán nhìn quanh đường, nào phố xá, chợ búa thật tiêu điều. Sao số phận mình quá hẩm hiu! Tôi là người ở lại làm việc không biết mệt mỏi trong hơn một năm trời. Chẩn bệnh- Mổ xẻ liên tục- Chưa bao giờ cảm thấy mình lầm lổi một điều gì. Thế mà, ngày hôm nay, ngồi trong xe tù, hai tay bị còng. Thật tình chẳng biết mình bị tội gì ?!

Vô trại giam Kho Đạn, việc trước tiên là qua khâu gặp bà Giám Thị Trưởng. Bà này, sau khi lục tung các đồ dùng trong balô của tôi, nào mì gói, đường, muối…Bà thấy tôi đem sách vở nhiều, bà hỏi: “Anh đem sách vở làm gì mà nhiều thế?”. Tôi trả lời: “Tôi đi học tập, một vài tuần rồi cũng về”. Bà nói : “Các anh này ngây thơ quá! Anh đi ở tù rồi đấy nhé, đem mấy thứ đó về đi”.

Vì hết phòng, tôi được đẩy vô phòng số 11. Phòng này nổi tiếng về kỷ luật sắt. Thành phần tù được coi như là nguy hiểm về hình sự, đa số trốn trại cũng 5, 7 lần. Đi qua các phòng, tôi thấy các anh như BS Thái Thanh, BS Châu (khoa nội), BS Hậu (tai, mủi, họng) và nhiều ngườI quen nữa. Các anh quần áo xốc xếch, vẽ mặt bơ phờ, đang đu lên các thanh sắt của khung cửa sổ, chẳng khác gì mấy chú khỉ trong sở thú. Các anh bị bắt trước tôi một ngày. Tôi đặt chiếc balô trên sân xi măng ngao ngán nhìn quanh. Thật là một cảnh tượng hải hùng. Hàng mấy chục người ở truồng, người ghẻ lở mùi hôi không thể tưởng tượng nổi. Đó là những bộ xương biết đi, chỉ có hai con mắt là mở to sáng rực. Chúng nhìn tôi trừng trừng: “Ê, lính mới hả? Có đường cho tụi tao không? Cất dấu? biết tay tụi tao!? Rồi chúng xông lại, lục lọi balô tôi vung vãi. Một tên tìm được bịch đường, cười lên hô hố rồi bỏ mấy miếng đường vô miệng nhai ngấu nghiến. Đúng là mình sa vào địa ngục mà chúng nó là lủ quỷ đói. Có đứa moi ra nào sách vở, giấy bút…nó cười lên hăn hắc. “Bộ ông anh, đem sách vở vào tù để dạy tụi tôi học à?” Tôi ngây thơ: “ Dạ, họ cho tôi vô đây học độ một tuần rồi về”. Cả bọn cười ồ lên: À, nó đi ở tù mà không biết”. May mắn cho tôi, trong đám quỷ sống đó, có một tên mặt mày đanh ác, ốm tong teo, thân hình ghẻ lở có nhiều vết xăm loang lổ. Hắn nhìn tôi trừng trừng: “Ai như BS Trâm phải không?” Tôi nói phải. Hắn rú lên : “ Trời ơi! Ông Thầy của tao đây rồi. Sao ông Thầy cũng bị bắt vô đây. Tội chi rứa? Em là lính của ông Thầy đây. Tiểu Đoàn 79 Biệt Động Quân ở Thượng Đức đó. Thầy nhớ không: bửa đó em bị thương lòi ruột. Ông Thầy mổ cứu em đó”. Tôi nói với hắn: “Tôi là Y Sĩ Trưởng Liên Đoàn. Tôi đi làm Bệnh Viện một năm rồi bị bắt vô đây”. Hồi nảy bà Quản Giáo trại có hỏi tôi can tội gì trước khi bà lăn tay, chụp hình va phát áo quần tù cho tôi. Tôi có trả lời “tôi không biết”. Bà hỏi thêm: “vậy anh cấp bậc gì”- Tôi là Thiếu Tá, nhưng lon chưa về- nên tôi trả lời: “Dạ, Đại úy Bác Sĩ”. Bà ta nói: “Thế à?! Là đủ đi tù rồi đấy nhé. Làm Bác Sĩ mà cũng lên Đại Úy nửa!! Tù dài dài cưng nhé!!”

Tên Đại Bàng, lính của tôi, quay qua đám thủ hạ nói: “Đây là Ông Thầy của tao ! Tụi bây lớ xớ, tao đánh bỏ mẹ. Nghe không!” Cả bọn nhìn tôi im thin thít. Thực ra, có lẻ vì tôi ở hiền gặp lành, nên lúc nào cũng gặp hên. Như lúc hành quân Hạ Lào, tôi ngồi trên cái mủ sắc trong một phi vụ tải thương của trực thăng Mỷ, viên đạn ở dưới đất bắn lên xuyên thủng cái mủ sắc mà tôi không hề hấn gì. Đến khi vô Kho Đạn lại có Đại Bàng che chở. Nhưng chưa hết, tôi lại gặp được một cứu tinh khác. Tôi gọi là “Thầy Lốc Cốc Tử”.

Buổi sáng đầu tiên trong Kho Đạn, sau một đêm thao thức ngủ không được, phần vì suy nghĩ trăm thứ chuyện, phần vì bị rệp cắn, vừa mới chợp mắt thì tôi bổng choàng dậy vì nghe một tiếng rao lanh lãnh cất lên: “Ai đau răng, đau bụng hôn?”. Tiếng ai nghe thật quen, giọng Huế, nhìn kỷ lại thấy BS Hà Thúc Lể (Trưởng Ty Y Tế Đà Nẳng) đi trước, cầm một cái đùi gỏ lốc cốc vào cái chén nhựa, theo sau một anh y tá đeo một tráp thuốc. Có lẽ vì thói quen hay sao mà bước chân anh Lể đi trước cùng nhịp với bước chân người đi sau; hể anh Lể quay qua trái, thì anh đi sau cũng quay qua trái. Điệu đi rất nhịp nhàng, giống như cuộc diễn hành của Bộ Binh. Anh Lể cất tiếng rao nảo ruột, buồn bả, tay vẫn gỏ lốc cốc vào cái chén nhựa: “Ai đau đầu không?”

Tên Đại Bàng nằm cạnh tôi bổng vùng dậy la lớn: “Bác Sĩ ơi! Tôi đái không ra mấy ngày, có thuốc chưa Bác Sĩ?” Anh Lể dừng lại, ngó qua cửa sổ nói to: “bệnh anh phải chửa trụ sinh mạnh, mà đây không có; chỉ có xuyên tâm liên (chửa đâu đầu) và viên rửa (chửa đau bụng) thôi”. Chợt nhìn thấy tôi, anh hỏi nhỏ: “Không biết sao, mà các anh vô đây nhiều lắm? anh cần gì không, tôi gắng giúp anh một chút”. Tôi nói: “Anh coi cho tôi một quẻ, bao giờ được thả?”. Anh Lể trả lời: “Tôi chỉ giúp anh mua ít mì gói thôi!”. Nói xong, hai người quay đi chổ khác, tiếng gỏ lốc cốc lại cất lên, lần này tôi mường tượng như tiếng rao “ Phởởở” của ông Cơ, buổi tối thường hay đẩy xe phở qua nhà tôi ở Huế, với cô con gái gỏ tắc xịt trong đêm thanh vắng, khiến cầm lòng không đặng, tôi phải kêu lại, ăn một tô phở nóng ngon đáo để.

Thành thói quen, buổi sáng hể nghe anh Lể gỏ lốc cốc là tôi choàng dậy, có bửa hai người vừa đi theo điệu xàng xê, vừa gỏ dồn dập khi đi qua phòng tôi, tôi đoán anh thông báo có tin vui. Anh nháy mắt “vợ anh ngày nay vô thăm nuôi đó”. Mà quả thật, vợ tôi vào thăm nuôi lúc buổi trưa. Tha hồ mà ăn, nào mì gói, đường Trung Quốc, ăn không hết, tôi chia cho các bạn tù. Ngày vợ tôi thăm nuôi là một ngày hạnh phúc nhất.

Một buổi sáng khác, lần này anh Lể gỏ lốc cốc theo nhịp cha cha cha. Hai người bước tới, bước lui, cái trap của anh y tá hôm nay đầy những thuốc là thuốc, cứ xoay qua xoay lại theo nhịp bước. Sau này tôi mới biết: anh y tá cũng là sư tổ trong các vũ trường. Chắc anh đi bộ, sực ngứa đôi chân, nên tập một vài động tác nhót cho vui. Nét mặt anh Lể hôm nay thật vui. Anh thò mặt vào cửa sổ, nháy mắt: “anh sắp được đưa lên trại rồi”. Anh đưa cho Đại Bàng mấy viên Sulfamid dặn dò kỷ lưởng. Rồi tiếp tục khỏ nhịp đi qua các phòng khác. Tiếng gỏ nhịp xa dần, bóng chiếc áo xanh đề hai chử “cải tạo” sau lưng của anh Lể khuất qua hàng song sắt, đổi lại tiếng chưởi thề của tên Đại Bàng : “Mẹ kiếp! tao đái không được tụi bây ơi! thuốc dở ẹc- uống không hết bệnh?!!”

Sau đó ít tuần, tôi không nghe tiếng gỏ của lốc cốc tử nữa. Có lẻ anh Lể qua trại khác. Còn phần tôi, vì phải đắp chiếc chiếu toàn rệp và rệp, nên người tôi ghẻ ngứa đầy mình; Cả bọn tù gải sồn sột đêm lẫn ngày; khi công an đưa tôi lên trại giam An Điền, tôi dùng lưởi dao mổ các nốt ghẻ, rồi tẩm teinture d’iode vào. Cháy cả da. Một tháng sau mới diệt được ghẻ. Thật là rùng mình nổi gai ốc.

Câu chuyện kể tiếp cũng ở trong Kho Đạn, là chuyện về “ Mâm Trưởng” tức là tôi. Bửa cơm ở Kho Đạn rất thanh đạm. Tổ của tôi gồm 5 người. 4 Bác Sĩ là tôi, BS Điều, BS Toàn ở Hội An (Toàn nhỏ chớ không phải Vĩnh Toàn, anh của BS Vĩnh Chánh đâu!), BS Quyền và một thằng nhóc bị giam lâu ngày không ai thăm nuôi vì can tội ăn cắp. Bửa cơm gồm có cơm bo bo, phần nhiều là cơm cháy. 5 người có 5 tô canh toàn quốc nghĩa là toàn nước (nước pha muối với rau thập toàn). Tôi được giữ chức Mâm Trưởng. Tôi tự hỏi, tôi không có công trạng gì mà công anh lại cho tôi giữ chức cao vậy, chắc có lẻ vì tôi ăn ít như con gái? Đã là Mâm Trưởng thì phải chia cơm cho đều. Vì mấy lần trước, hể khi chúng tôi mới cầm đủa, là thằng nhóc lùa một mạch, cơm canh, bo bo vào miệng nhanh như chớp, thành thử chúng tôi trở thành tiên ông. Một buổi họp có công anh tham dự, BS Quyền chịu không nổi đứng lên phát biểu: “Tôi ăn chậm, lần sau chia cơm cho đều”. BS Quyền lớn tuổi, lại cà lăm, ăn chậm không đủ no nên người trông phờ phạc. Đến phiên tôi chia cơm thì thật khó xử, vì bửa cơm nào cũng có mấy miếng cơm cháy đen to tổ bố và 5 tô canh toàn quốc. Tôi chia cơm thật đều, vì nếu không đều, 5 đôi mắt nhìn hau háu sẽ có ý kiến. Thằng nhóc đề nghị: nó húp 4 tô canh trước, để dành cơm cho chúng tôi ăn. Hai ngày sau đến phiên nó sẽ ăn luôn 5 phần cơm. Nó húp hết mấy tô rồi lăn ra ngủ. Sau khi chia cơm xong, mấy con mắt trợn trạc nhìn vào 4 phần cơm, bo bo nỏn nà. Tôi hô to: “Nào bắt đầu ăn”. Như chớp, các bác dành hết 4 phần cơm. Riêng phần cơm cháy thì để lại. Lẽ dĩ nhiên, tôi phải ăn phần cơm cháy đó, vì tôi là Mâm Trưởng. Tôi ăn cơm cháy đến mấy tuần. Sau này lên trại cải tạo An Điền, bị mắt chứng táo bón kinh niên.

Đến phần 15 phút giải lao, cả bọn ào ào chạy ra cái giếng. Thành giếng bể một bên, nước đục ngầu. Vớ vội cái gàu, tôi múc nước giếng xối lấy xối để. Chao ơi là mát. Vừa tắm vừa tranh thủ vò mấy cái áo, không cần xà bong, miểng bớt hôi là được rồi. Nhưng vì cái giếng bị bể một bên, nước dơ ở ngoài chảy vào giếng. Đa số hình sự đều bị ghẻ lở. Tắm rồi nữa đêm lên cơn sốt. Cả bọn trong phòng gải sồn sột tạo một âm thanh quái đản, lẫn trong đêm tiếng thanh la báo giờ đổi gác của trạm công an nghe inh ỏi chat chúa cả tai. Khó mà dổ giấc ngủ. Ở một tháng trong Kho Đạn, người tôi phờ phạc hẳn ra. Nếu có chợp mắt ngủ một chút thì những cơn ác mộng kinh sợ lại đến.

Khi qua Mỹ, bạn bè mời ăn cơm, thịt cá ê hề. Ngay cả gia đình tôi, thức ăn, thức uống thừa thải. Tôi thường khuyên các con: “Hột cơm là hột ngọc của nhà trời. Đừng có phung phí mà ông trời không cho”. Nhớ lại cảnh tượng ở Kho Đạn, dành dựt nhau từng hột cơm mà thấy chán gán cho thế thái nhân tình.

Kí hay không kí?

Thằng Thìn người hơi cúi gập xuống, hai tay cầm tờ giấy đưa cho tôi. Tôi lấy tờ giấy từ tay hắn, liếc nhanh: "Giấy xin xác nhận thương tật".

Phút chốc, mặt tôi nóng ran lên. Tôi định to tiếng, gắt gỏng với hắn. Rồi chợt kìm nén được. Chẳng có lí do gì để gây sự với Thìn. Vả lại, chuyện đã qua đi gần 40 năm. Ai lại giận hờn chuyện đã qua ngần ấy năm. Có điều, có kí vào tờ giấy hay không lại là chuyện khác.

***

Tôi và hắn biết nhau từ cái ngày hai đứa tóc còn để chỏm. Hắn làng trên. Tôi làng dưới. Nhóm trẻ chăn trâu làng trên và làng dưới, hôm trước còn trong một đội quân đánh tan tác bọn chăn trâu bên làng Triều, ấy thế mà chiều hôm sau lại thành hai phe đánh nhau tứ tung ngay trên cánh đồng làng mình. Trẻ con mà. Vui đấy, giận hờn đấy, đổi thay như mưa nắng tháng mười.

Nhà thằng Thìn nghèo, hình như không thể nghèo hơn được nữa. Tôi nhớ, cái hồi chăn trâu, hắn chỉ có độc chiếc áo nâu. Áo sờn màu, nâu chẳng ra nâu, vàng chẳng phải vàng. Nhiều chỗ, chỉ bung cả gang tay. Chiếc quần đùi cũng vải nâu, xoắn vỏ đậu như lò xo. Có cảm giác như hắn sống cùng lũ chuột trong hang, nhớp nháp, bẩn thỉu. Khi đánh trận giả, Thìn chỉ lẽo đẽo chạy theo lũ bạn, chớ nhát gan lắm, chẳng bao giờ dám xông lên hàng đầu.

Trẻ con trong làng tôi, con nhà nghèo như thằng Thìn nhiều lắm. Cả lũ như vậy mà băm bã lớn lên. Tưởng rồi hầu hết, cả đời vẫn lẽo đẽo bám vào đít trâu. Nhưng rồi chiến tranh ập đến. Cả lũ háo hức kéo nhau ra trận. Thì ít nhất cũng thoát được cảnh cứ mở mắt ra là nhìn cái đít trâu đen nhẻm. Thìn và tôi không ngoại lệ.

***

Trạm xá trung đoàn nằm lọt thỏm giữa một thung lũng. Mùa khô, ít khi bị sốt rét nên không mấy ai lên trạm xá, nếu không bị thương. Còn mùa mưa, mấy thằng không đáo qua đấy mươi lăm ngày, đến vài tháng. Mười mấy cái lán, gần như suốt tháng ngập chìm trong mưa và buốt giá. Sương lạnh giăng mờ mịt. Trưa rồi, sương vẫn ào vào lán xám xịt, bủa vây lính sốt rét, lính bị thương. Tiếng mang tác vào chiều hoang vắng, nghe đến nao lòng. Không mưa, cây rừng vẫn rũ nước tưới tắm cái buốt giá lên khu bệnh xá. Co ro, xập xìu nỗi buồn nơi thâm sơn, cùng cốc.

Nội quy của trạm xá, bệnh nhân không được xuống khu nấu ăn. Phải chăng, họ ngăn ngừa những cái thân gầy đã cắt sốt? Những thằng đã cắt sốt, y như những con ma đói. Tuần đó, tôi nằm trong số đó. Cắt sốt rồi, cái bụng tôi lúc nào cũng léo réo, ùng ục những cơn đói. Tôi loạng choạng, thẩn thơ phía ngoài cái bếp đang nghi ngút hơi sương từ những chảo cơm bốc lên. Mùi cơm toả ra quyến rũ đến nôn nao. Lỏng khỏng, lèo khèo bên cái chảo trên bếp Hoàng Cầm cao ngang ngực là một tay lính trong bộ đồ lót của lính nhàu nhĩ. Lân la đến gần hơn. Dụi đôi mắt kèm nhèm. Thằng Thìn! Không thể là ai khác. Vẫn là mái tóc cáu bẩn ngày nào, vẫn là nước da xỉn vàng vốn có. Tôi gọi với vào:

- Ê, Thìn! Mày đấy hả? Đã gần tháng tao ở đây, vậy mà chúng ta không nhận ra nhau.

Thằng Thìn ngừng tay đảo chảo cơm, ngước mắt nhìn tôi. Đôi mắt hắn lạnh lùng, vô cảm như chẳng có chuyện gì xẩy ra khi đứng trước mặt tôi. Chỉ ậm ờ, bắt tay qua quýt rồi bỏ đi. Khi chợt nhận ra thằng Thìn, vì bản năng ham hố miếng ăn khi đói lòng, tôi bớt chợt nghĩ đến chỗ bấu víu. Chỉ là một miếng cơm cháy thôi, cũng ấm nghĩa đồng hương. Nhưng rồi, từ thái độ ngay lần gặp ấy, tia hi vọng trong tôi tắt ngúm. Là thoáng nghĩ vậy, nhưng điều lớn lao hơn là tình nghĩa đồng hương, bạn bè với nhau bao nhiêu năm lấm láp trên lưng trâu, bỗng chốt tan nhanh.

Tôi buồn. Lại la lết về đánh vật xuống chiếc sạp buốt lạnh. Trưa rồi. Trời không mưa, nhưng sương vẫn giăng mù mịt, phủ đầy khu trạm xá. Ngoài sân, bên những chiếc bàn bằng lồ ô, vẫn tụm ba, túm bảy đám lính chơi "tiến lên". Trò chơi, việc giết thời gian duy nhất của bệnh binh nơi đây là chơi "tiến lên". Có trò gì khác nữa đâu để giết thời gian nhàm chán. Ai nghĩ ra cái trò chơi này quá hay. Ai nghĩ ra cái tên cho nó cũng quá hay. Lại là hay nhất, đúng nhất với cánh lính chúng tôi. Tiến lên, chỉ có luôn thường trực ý chí tiến lên mới mong giành phần thắng. Trò chơi cũng như những trận đánh, có người thắng kẻ thua. Đứa thua, miệng cười gượng gạo trên khuôn mặt úa vàng nhưng đã loang lổ vết nhọ than bị đối phương vẽ lên. Thua rồi mới trút bỏ được cơ man nào giày dép, bi đông, thắt lưng...và có cả đá nữa, do đối phương tròng lên. Người thắng, ngạo nghễ cười, vỗ tay, đập bàn, la hét. Mới chỉ là trò chơi thôi, đã vậy. Huống chi ngoài mặt trận, lí tưởng, thắng thua, vinh nhục...nói chi hết.

***

Ra vậy! Lân la rồi tôi cũng biết thêm về thằng Thìn với những ngày hắn ở cái trạm xá tiền phương này. Ấy là ông Trạm trưởng kể tôi nghe. Tôi phải nói thật là đồng hương với hắn, nhưng không hiểu sao nó lại lạnh nhạt khi gặp nhau. Chần chừ giây lát, rồi ông cũng không giấu giếm:

- Nó là thằng đào ngũ đấy.

Tôi ngạc nhiên:

- Sao đào ngũ mà còn ở đây, thủ trưởng?

- Thì đào ngũ mới ở đây. Số là thế này. Trước nó ở một đơn vị chiến đấu. Ác liệt quá rồi chuồn. Người ta tóm cổ nó ở một bản nhỏ của người Tà Ôi trên A Lưới. Rồi sau đó được giao về cho tôi.

Chuyện lính đào ngũ trốn lên ở với đồng bào dân tộc tôi có biết. Khi đào ngũ bố thằng nào dám về địa phương. Về ngoài đó sống sao nổi. Không có con đường nào hay hơn là vào sâu trong núi, sống qua ngày với người dân tộc. Biết vậy, nhưng nghĩ là ai, chớ bạn mình chắc chẳng có ai.

Tôi tò mò:

- Hắn cũng bị thương, thấy cụt mấy ngón tay mà thủ trưởng?

- Bị thương cũng có ba bảy đường bị thương. Cụt chân, cụt tay cũng có ba bảy kiểu mà cậu. Đánh cá đấy. Phúc cho nhà nó, may chỉ cụt mấy ngón. Được cái, đánh nhau thì nhát nhưng nấu ăn chăm chỉ lắm, có trách nhiệm lắm.

***

Tờ giấy thằng Thìn đưa tôi từ chiều vẫn nằm trên bàn. Đấy là tờ giấy xin chữ kí của người cùng đơn vị để thằng Thìn được xét là thương binh. Vì hắn, gần như tôi thức trọn đêm. Tôi thức vì tức hắn, giận hắn. Tôi thức vì mấy vết thương trong người tôi lại trở chứng, trêu ngươi. Trong ánh đèn ngủ chờn vờn, tôi thấy như có hai thằng Thìn đang ngồi trân trân nhìn tôi. Một thằng, có xương có thịt, béo tốt, đang cười khinh khỉnh, như thách đố: Mày kí đi! Đã có lần tao đào ngũ đấy. Thương tật của tao là do đánh cá đấy. Mày không kí thì rồi vẫn có người khác kí".

Còn thằng khác gầy nhom, ốm yếu. Nó nhìn tôi như van lơn, cầu cứu: "Tao xin mày, kí giùm đi. Nhà tao nghèo, có cái thẻ thương binh, tao đỡ khổ". Nó không dám hối thúc, nhưng đang hồi hộp chờ giây phút quyết định của tôi...

Không thể như thế được! Khi mà tôi và đồng đội lao vào các trận đánh, bất chấp súng lớn, súng nhỏ vãi đạn như mưa thì hắn bỏ chạy. Khi mà tôi và đồng đội bất chấp bom chùm, pháo bầy vùi dập để giữ chốt, thì hắn trốn vào rừng chui lủi. Tôi và đồng đội tôi đấy, nhiều đứa bị thương nhưng vì nhiều lẽ, nào có được công nhận là thương binh. Giờ tôi kí vào tờ giấy kia, nghiễm nhiên hắn lại là thương binh. Một thằng đã có lần đào ngũ, bị mìn đánh cá làm cụt mấy ngón tay là thương binh. Vậy có bất công quá không?

Sao lại không? Thì chẳng phải hắn cũng đã một thời khổ sở, gian truân vì chiến tranh đó sao? Hắn không ra trận. Hắn không ngồi trên chốt. Nhưng hắn cũng đã một thời đầm mình trong những cơn buốt giá, những ngày nắng rát oi ả để phục vụ cho những thằng như tôi khi lên trạm xá. Dẫu đơn vị cấm, nhưng hắn đánh cá có phải cho riêng mình nó, hoặc mang về cho gia đình hắn đâu. Hắn đánh cá là để cho đồng đội hắn ăn. Hắn là thằng đào ngũ, nhưng đã biết chuộc lỗi bằng những tháng năm sau đó rồi đấy thôi.

Sao lại không? Khi mà sự cống hiến của hắn còn hơn cả vạn lần những thằng có cái thẻ thương binh nhưng không biết mùi bom đạn ra sao, và chậm chí không có lấy một ngày mặc áo lính.

***

Không thể như vậy được!

Sao lại không thể?

Trời ạ! Trên mảnh giấy kia hai thằng Thìn đang hối thúc tôi.

Kí hay không kí đây?

Mệt mỏi quá rồi. Tôi ngủ thiếp đi.

Sáng sớm, khi ngủ dậy tôi đã thấy tỉnh táo hơn. Tôi lấy điện thoại gọi cho thằng cháu ở quê:

- Cháu ạ, cháu lên bảo ông Thìn xuống nhà chú mà lấy cái giấy xác nhận.

Bà tôi ở 'nơi chín suối'...

Bà nội tôi đã về “nơi chín suối” gần 2 năm, nhưng đứa cháu trai đã gần 40 tuổi là tôi, cứ mỗi khi nhớ tới bà là nước mắt lại trào ra, có lúc chảy thành dòng. Tự đáy lòng, tôi luôn cầu mong cho linh hồn bà được nhàn hạ, sung sướng - điều mà bà nội tôi chưa bao giờ được hưởng trong suốt gần trăm năm cõi trần 

Bà nội tôi sinh năm Giáp Dần - 1914. So với các ông bà cùng lứa ở làng cổ Đường Lâm (thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội) quê tôi, có lẽ bà nội tôi khổ nhất. Bà mồ côi cha mẹ từ bé và vì quá nghèo nên anh em lưu lạc, bà chẳng còn ai thân thích, phải đi ở đợ nhà địa chủ, quần quật làm đủ thứ việc mà đến bữa chỉ được non bát cơm cháy. Sau này, chồng của bà (là ông nội tôi) cũng lại mất sớm, một mình bà bươn chải nuôi ba con nhỏ trong khi nhà chẳng có, ruộng cũng không. Lúc sinh thời, bà nội tôi nhiều lần bảo rằng: “May nhờ cách mạng Tháng Tám thành công, nếu không bốn mẹ con bà, trong đó có cả bố cháu sẽ cùng chết đói”.

Tôi là cháu đích tôn của bà, sinh ra khi đất nước chuẩn bị hoà bình. Bố tôi là thương binh, sau chiến tranh chống Mỹ thì chuyển ngành công tác xa. Thời bao cấp, bà và bốn mẹ con tôi ở nhà vô cùng vất vả. Mẹ tôi làm ruộng trong hợp tác xã, lại tham gia công tác đoàn thể nên vắng nhà cả ngày. Một mình bà lo việc nội trợ và chăm sóc ba anh em tôi. Điều tôi ấn tượng nhất thủa ấu thơ là bữa cơm nào bà cũng lựa lấy lớp sắn khô trong nồi bỏ vào bát của bà, còn cơm trắng phía dưới bà dành cho anh em tôi. Thi thoảng có thức ăn tươi như thịt rim, cá kho, bà toàn gắp bón cho chúng tôi, rồi bà chỉ ăn nước tương chan sắn…

Cả cuộc đời nhọc nhằn, lúc nào cũng phải lăn ra làm nên lưng bà nội tôi còng như chiếc đòn gánh gẫy. Năm 70 tuổi bà đã phải dùng gậy chống để không bị chúi về phía trước. Khi được 90 tuổi bà chỉ còn chống gậy dò dẫm quanh nhà. Ấy thế mà bà vẫn tham công tiếc việc, dù con cháu nhất quyết không khiến, nhưng bà vẫn cứ làm tất cả những việc có thể như nhặt rau, giặt giũ, quét dọn cửa nhà... Thế rồi bà bị ngã gãy chân khi đang chống gậy quét sân, trơn trượt.

Tôi vô cùng thương bà không chỉ bởi bà nội tôi cả đời vất vả, mà lúc nào bà cũng nhường nhịn, hy sinh, chẳng nghĩ gì cho riêng mình, chỉ lo cho con cháu. Sau này, dù cuộc sống không còn quá thiếu thốn, nhưng khi được ai biếu món gì ngon bà vẫn cứ để phần cho cháu, cho con, còn mình chỉ ăn chút đỉnh. Tôi đi lính chuyên nghiệp, đơn vị đóng quân ở xa nên vài tháng mới về nhà. Thế mà hầu như lần nào về tôi cũng được bà để phần quà, có khi chỉ là một góc bánh dẻo hoặc vài cái kẹo ngon bà gói kỹ. Những lần được phần quà như thế, nghĩ đến tấm lòng của bà, tôi cười mà nước mắt cứ trào ra…

Thương bà cả cuộc đời vất vả, chẳng được đi đâu xa và chưa một lần bước lên tàu hoả, xe hơi… Từ khi trưởng thành tôi nhiều lần nằng nặc mời bà đi ra ngắm biển và thăm Hà Nội một chuyến cho biết, nhưng bà kiên quyết từ chối với lý do “Bà chẳng thích đi xa. Mà nhà mình vẫn còn khối việc phải lo cháu ạ”! Con cháu mua biếu quần áo đẹp bà cũng trách mắng rằng lãng phí, rồi bà đem cho người khác hoặc cất kỹ, chỉ mặc quần áo cũ. Mùa đông năm 2000, tôi dành dụm mua được chiếc đệm để bà nằm êm ấm. Bà cảm động rơm rớm nước mắt, nhưng bà chẳng nằm đệm mà nhường cho đứa cháu nhỏ, với lý do “cả đời bà ngủ chiếu quen rồi, giờ thay đổi lại không ngủ được”…

Tôi biết, bà thương con, thương cháu kiếm tiền vất vả và không muốn con cháu phải tốn kém mua sắm cho bà nên bà nói thế! Kể cả tiền mọi người mừng tuổi, bà cũng chẳng giữ, chẳng tiêu mà thường cho chúng tôi mua sách vở học hành, hoặc lúc giáp hạt thì đưa mẹ tôi thêm tiền đong gạo.

Từ nhỏ cho đến lúc trưởng thành, anh em tôi thường xuyên được bà nhắc nhở: “Giấy rách phải giữ lấy lề” và “Đói cho sạch, rách cho thơm”! Bà không chỉ nhắc suông mà luôn gương mẫu thực hiện, đồng thời cương quyết rèn cháu con như thế. Ngày tôi còn bé, nhà rất hiếm khi có thịt cá, thế mà mấy lần tôi câu trộm cá ở ao hợp tác xã mang về đều bị bà tra hỏi, rồi đích thân bà đem thả, hoặc mang cho nhà hàng xóm, vì bà làm thế tôi sẽ không còn câu cá trộm.

Mùa hè năm 1985, bố tôi cóp lương mua được cái quạt trần để bà và mẹ tôi đỡ phải thức đêm quạt cho các cháu ngủ. Hôm bố tôi cùng 2 chú đồng nghiệp mang quạt trần về lắp, cả nhà rất vui sướng nhưng bà buồn ra mặt. Tối hôm ấy, bà vừa khóc vừa “chất vấn” bố tôi: “Mẹ lo quá con à! Chắc là con tham ô mới có tiền mua quạt phải không? Mẹ chẳng cần những thứ này đâu. Giấy rách phải giữ lấy lề. Con chớ làm liều mà nhục lắm”!

Ngày bà còn sống, dù thương bà vô cùng nhưng cũng có lúc bố con tôi giận bà là lạc hậu, lẩm cẩm. Song càng ngẫm tôi càng thấy thấm những lời răn của bà. Cuộc đời bà nội tôi dù nghèo khổ vô cùng, nhưng bà luôn giữ đúng quan điểm “đói cho sạch, rách cho thơm”. Thiếu thốn quá thì bà sẵn sàng ăn đói, mặc rách, hy sinh tất cả để nhường nhịn cháu con, còn không bao giờ bà làm trái đạo lý. Có lẽ vì thế mà bà nội tôi luôn nghèo và vất vả. Đổi lại là tất cả anh em họ hàng, làng xóm đều kính trọng, yêu quý bà.   

Nói ra thì cũng hơi lạ, nhưng năm nào đến ngày Quốc tế Phụ nữ 8 – 3 tôi cũng nghĩ đến bà nội tôi nhiều nhất, rồi lòng lại thầm khóc vì thương bà chịu quá nhiều vất vả, hy sinh. Gần trăm tuổi, sống đến năm 2010, nhưng có lẽ thú vui “xa xỉ” nhất của bà nội tôi chỉ là được xem “sân khấu truyền hình”. Tôi ân hận mãi vì chưa một lần thuyết phục được bà đi ô tô, đi thăm lại chợ Ba Trại trên triền núi Ba Vì, nơi cách nhà tôi hơn 20 cây số mà suốt 30 năm bà gánh gồng đi sớm, về khuya để bán rau, mua sắn mua khoai nuôi các con khôn lớn, trưởng thành.        

Bà nội tôi đã đi xa! Bây giờ thỉnh thoảng về thăm nhà tôi thấy trống vắng quá. Không còn được nằm sà vào lòng bà hỏi chuyện, tôi cứ đứng lặng trước di ảnh bà và lòng rưng rưng: Bà ơi, bà ở “nơi chín suối” có vui không? Bà có phải đi làm thuê, ở đợ vất vả nữa không? Cái lưng có đỡ còng không bà?...

Với tôi, bà nội không bao giờ cách xa mà luôn hiện hữu trong nhà, dù bà đã về “nơi chín suối”.   

          

Món ăn chính c

a lính

Tr

ườ

ng S

ơ

n - Qu

ng Na

m

Hồi tưởng của

Lê Phóng - CCB 1040

      Miếng ăn, chuyện nhỏ tý ấy mà. Bình thường thì miếng ăn đã là miếng nhục, hay "ăn để mà sống, chứ không phải sống để mà ăn". Trong chiến tranh, bên cạnh cái vĩ đại là sự hy sinh, sự chết chóc. Nhiều sự hy sinh chết chóc thì miếng ăn càng bé bỏng, không đáng phải kể - biết vậy song không kể thì ấm ức.

       Thử hỏi, một đời người được bao nhiêu ngày?  Già rồi, khi có miếng ăn ngon thì chẳng ăn được, và có ăn thì ăn cũng chẳng ngon miệng. Thế mà lúc trai trẻ, bấy nhiêu ngày ở rừng làm thằng lính công binh: lúc kéo phà, lúc mở đường, hết chiến dịch này đến chiến dich khác... Mồ hôi đổ suốt ngày từ sáng đến tối, thể xác khổ như... chó. Còn ăn uống thì sao? Không có gì nhiều để mà kể, vài cái gạch đầu dòng là hết: nghĩa là chỉ có vài món thôi, song vài món quanh đi quẩn lại ấy, đâu có phải chỉ có một ngày ba lần, rồi đổi món khác, mà một tháng 90 lần, một năm 1000 lần, vài năm ở rừng vài nghìn lần, vài nghìn bữa như thế! Thời trai trẻ, cái quỹ thời gian quý giá nhất của đời người, phải ăn để mà sống mà sống không phải chỉ đi ra đi vào, mà là làm, làm cật lực -thì vài món quanh đi quẩn lại, trong vài nghìn bữa ấy lại là chuyện đáng kẻ, chuyện không phải nhỏ mọn nữa rồi...

      Những món ấy là gì vậy -xin kể ngay đây ạ:

1- Số một, giữ vị trí không loại nào có thể thay thế được - nó hiện hữu và chiếm một khối lượng lớn trong dạ dầy của lính sau mỗi bữa ăn, không phải một ngày mà nhiều ngày, không phải môt tháng mà nhiều tháng, nó không trắng trẻo thơm tho mà nó hôi xì, đen đủi -nó được lính băm ra, không có chỗ phơi, nó được sấy trên những giàn nứa giữa rừng, giữa những tiếng mưa rơi, và tất nhiên là ám khói, người lính ghét nó, nhưng chiến trường B1 Quảng Nam biết ơn nó, vì nó nuôi sống hàng binh đoàn -tên món này là SẮN.   Có một bữa ăn, nhớ, rất nhớ -Đoàn 1040, cái "vốn quý của đất nước" sau hơn 100 ngày hành quân, dừng chân điểm cuối ở một tán rừng già, cây cao vút thuộc một nơi nào đó ở phía tây Quảng Nam. Từ đấy họ được xé lẻ đi các đơn vị quân gải phóng. Một nhóm nguyên là sinh viên khoa địa lý và vật lý đươc tăng cường cho C6 E230. Sau hai tiếng hành quân về đơn vị mới, ở đấy những tay lính cũ có thâm niên trẻ nhất là lính 68 và cựu binh nhất có lẽ là đại trưởng Khương lính 64 với cái bụng to bởi lá lách số 4 dấu tich của nhưng trận sốt rét rừng - có nghĩa là họ đã ở đây trước chúng tôi cả một vài nghìn ngày, họ đón tiếp chúng tôi thân tình, nhưng chỉ là với những cái bắt tay xiết chặt: "các đ/c ngỉ đi, đến rồi, đơn vị đây rồi".

        Nhìn quanh chỉ thấy rừng, kệ, mắc vội võng, ngả lưng cái đã. Mới nghỉ đã có tiếng ai (thật là chu đáo): "các tiểu đội cho người xuống lấy cơm". Cơm được mang lên từ dưới cái khe bên suối. Thì ra bếp đại đội ở đấy. Thức ăn và cơm được đựng trong những cái xoong tự gò hình trụ... bụng đang đói lại có cơm, hay quá, thoải mái quá -không phải sơn hào hải vị hay những sản vật của núi rừng thì việc đón tiếp những người lính toàn sinh viên các trường đại học, vốn quý của đất nước vượt hàng nghìn cây số với bao gian khổ mới đến được đơn vị ta đây, cũng phải tươm tất một chút ở cái bữa đầu tiên, âu cũng là lẽ rất thường -Ấy vậy mà... cái gì thế này... khi nhìn vào xoong chẳng ai dám hó hé... đây gọi là cơm á? Chẳng ai gọi cái thứ này là cơm cả, chắc là có sự đùa cợt nào rồi, lính với nhau mà đùa thế này thì ác thật. Hãy xem: nó nâu nâu đen đen, nó lỏn nhỏn miếng to miêng nhỏ, và cái mùi của nó, đúng là sắn rồi, song không phải là "sắn thơm trong lòng ". Một cái mùi xộc lên vừa của sắn, vỏ sắn, vừa của khói, vừa của sắn và khói... khó tả... Choáng, hơi bị choáng... thế còn thức ăn, thức ăn mâm này đâu? Một xoong gò hình trụ được chuyển tới. Gì thế này? Canh, canh gì?  Xem nào: lá, gân lá, hơi quen quen màu xanh xỉn, đúng rồi cũng sắn, canh lá sắn -cái màu canh xanh xỉn cũng như màu lá, ngó qua không cần húp cũng đã biết chất lượng rồi... Nhưng cũng vẫn không thể ngờ được, còn hơn cả tưởng tượng, đưa món canh lá sắn lên miệng -nhẽo nhèo -thì ra do nó được ngâm hơi bị lâu dưới suối, cho hết độc tố, cho chua, cho tiết dịch vị, cho trôi đi cái món cơm kia vào dạ dầy nên nó có mùi, mùi gì? Giống lắm... xin miễn cho được nói cái mùi ấy... vì nó bất lịch sự, vì đang bữa ăn, vì dù sao hôm nay cũng đang là khách, lại là khách có học... Cánh lính mới, ai cũng giống ai, chót nuốt rồi và im lặng... Bỗng nhiên, một tiếng nói -thôi chết rồi, lại thằng Cường, thằng Cường "Toác"năm thứ 3 khoa lý, thăng này "ngu" lắm, nó chẳng bao giờ chịu ý tứ: "Mẹ kiếp, canh gì thế này, bỏ miếng lá sắn vào mồm..." Nó gào lên; "chẳng khác đ... gì phải ăn cục phân cả"... Im lặng... cả cánh rừng im lặng, nghe cả thấy tiếng thở dài của gió... Rồi bỗng nhiên òa lên một trận cười của lính, cả lính cũ, cả lính mới, tất cả đều cười, cả rừng nữa, cũng cười...nghiêng ngả - tiếng cười xóa đi khoảng cách xóa đi những gian khổ hiện tại. Tôi thấy sống mũi cay cay, khi nhìn lính cũ: bụng báng, môi thâm, da tái, vừa đánh địch vừa giữ đường, mở đường, và cũng cả ngàn bữa cơm như thế trước chúng tôi... Họ là những anh hùng, trong tôi họ đều là những anh hùng...

      Bữa cơm-sắn đầu tiên với C6-E23, trung đoàn công binh, nơi tôi tới chiến trường Quảng Nam đơn vị quân giải phóng đầu tiên là như thế đấy. Sau này gạo có và dần tăng lên: hai lạng gạo "bọc thép" một ngày, rồi 3,4 lạng một ngày, nhưng suốt thời gian ở rừng, sắn vẫn là chủ yếu, là số một. Bên cạnh lá sắn còn môn dóc môn thục, loại cây mọc dọc suối thành bãi ở khe cạn ăn được cả dọc lẫn củ nấu nhuyễn có chút chất bột. Nghe lính cũ kể lại: những năm bộ đội đói, sắn không có ăn họ còn chia nhau từng vạt rừng để có kế hoạch khai thác ăn trừ bữa hàng tháng trời loại cây này. Với lính mới chúng tôi nó cũng là món canh thường trực. Ngoài ra còn có rau tầu bay, lá to ăn có nhiều mùi hắc, còn có lá tai voi nữa mùi vị loại này lâu ngày quá quên rồi, nhưng có điều tôi rất nhớ là bọn chúng đều ...chẳng ra gì

      Sau này, có hai lần gặp mặt trong ngày đại lễ của cục hậu cần quân khu 5 và buổi tổ chức 30 năm ngày đi B của đoàn 1040 do CCB ĐHSP tổ chức trên bàn ăn đều trân trọng một đĩa sắn - sắn luộc... Tôi hiểu rằng ai đã trải qua những ngày tháng gian khổ ấy, món sắn sẽ ám ảnh và đi theo họ hết cuộc đời vì vậy dù là "miếng nhục" nhưng tôi vẫn phải kể...

vào cuối năn 81, em quen 1 cô y tá bạn, lớn hơn em 3 tuổi, lúc đó cô đang phục vụ cho bí thư huyện, tên đẹp muntha, (bên k khoái chữ tha này lắm )2 hôm sau, em đang đi ra chợ, ngang qua nhà cô, cô ta gởi em lá thư , chữ viết xấu quá ,vừa đi vừa đọc mà ko ra , thì tình cờ em lại đi lộn vào chùa , ngồi bậc thêm đọc, tình cờ có 1 sư trẻ ,lớn hơn em khoảng 1 tuổi,phó chủ trì chùa ,sư thì đọc ào ào , rồi hỏi em ai viết vậy , em nói con nhỏ y tá viết , rồi sư nói chờ tý ,ông đem ra quyển sách , và cây viết , rồi viết luôn một mạch ,rồi nói em xong rồi ,em cầm coi chữ ông này đẹp, và nói em ko coi mà đưa cho cô đó, và nói em nếu cô đó gật đầu thì phải đãi ống 1 bữa... các anh biết bữa gì ko ? dạ THỊT CHÓ , em tưởng em nghe lầm,nên hỏi lại ,ông còn chỉ cho nơi bắt chó nữa ,ông nói cứ nói tên ông ,là người ta đưa cho đem về ,, dọc đường em nghĩ hoài ko ra vì em là người miên , làm gì có vụ đòi ăn thịt chó, (cơm ăn của sư miên là ăn trước 12h. buổi sáng thì đi quyên , ai cho gì ăn nấy, lúc đó mình cúng thịt chó ,họ vẫn ăn nhưng mình có tội) em về dv gọi thêm mấy anh , ra nhà dân nói họ cột con chó từ lúc nào rồi, cứ thế mang về ,con này hơn chục kí, khi đi ngang qua chùa ,ông thấy chó, ông nói luộc ,chấm muối tiêu ,ngon lắm,và chép miệng nữa chứ ,dặn làm xong lúc nào thì đem qua cho ông 1 đĩa, tụi em làm được 3 món (nấu cà ri chó , và luộc. nướng ) mấy anh nói em gọi ông qua đây ăn ,chứ đem qua bên đó ,dân thấy kì lắm. em qua gọi , ông nói ko sao ,vì ông ko đi được , nên mấy anh em rủ nhau đem hết vào chùa ăn , khi tụi em tới ông dẫn vào trong phòng , em thấy sư già đang ngủ , còn sư trẻ nói sư già có thịt chó bd vn làm ngon lắm , em tưởng sư già sẽ mắng , ai dè còn hỏi thiệt ko , và nói có rượu ko ? và nói em chạy ra xóm trên nói lấy cho sư già 5 lít , để sư tắm phật . (cha mẹ ơi tắm phật bằng rượu sao ) ra đến nơi ,dân đưa liền , về nhà  đã thấy dọn hết ra rồi , lấy chén rót rượi ra và nói xăm ma ki vn kampuchia, uống nguyên chén, ông gắp thịt chó ăn tỉnh bơ, một lúc sau ông nói tiếng vn , em nói ngay ủa sư biết tiếng vn , ông nói tao vn ko nói tiếng vn , nói tiếng anh , hóa ra là ông quê trà vinh nhập ngũ 78 , quân báo vn, ông nói thèm thịt chó lâu lắm rồi ,mấy ngày sau cô bạn đòi em đưa cô về nhà , vì cô nói ko tin em là bd vnÔng Thịnh ơi ! con lợn của ông nọ gấu quá, hay là ông thèm thịt,tôi cũng đi xuống E lấy lợn về,con lợn này ngoan đi tới nơi về tới chốn,nhưng bọn này thèm thịt quá,mấy tay quan D bộ thì thiếu gì,lính thèm bỏ mẹ đi thì không cho thịt, bảo để nuôi cho lớn,thế là bọn này phải nghĩ cách để thịt hết,mấy anh em đi lấy lợn chuẩn bị 2 cái kim ,dong lợn về gần D Bộ,đè lợn ra cắm kim vào mõm 2con lợn,về đến nơi giao cho quản lý,đến lúc cho ăn,cứ chạm vào máng hoặc rũi đất là kêu váng lên suốt ngày, đêm hôm ấy cả D bộ không ai ngủ được không rõ nguyên do,sáng ra lệnh trên ban xuống, tăng với cả gia,thịt tuốt,hôm ấy lính ta ăn trợn cả mắt,xét cho cùng ,bần cùng sinh đạo tặc.( kim nhỏ cắm sâu không ai biết được)

Rồi cứ ngày lại ngày, chúng tôi 2 lần mang Rá xuống Lũng Ngẳm ( Bếp dã chiến đại đội ) lấy cơm và thực phẩm vừa đi vừa về mất một tiếng đồng hồ ( Nâng cấp báo động ăn lại tươm ;D ). Còn canh thì chúng tôi đi hái rau rừng tự nấu. Thời gian còn lại chúng tôi củng cố lại lán, thay lá cây dải ổ. ( Vì chỉ vài ngày là lá cây ở dưới chiếu nóng và lên men ). Ngày thì nắng nóng, tối thì sương muối, có những đêm mưa lạnh, chúng tôi ngồi co do ( vì áo mưa chỉ đủ che ba lô và súng đạn, chăn chiếu ướt. Ngày hôm sau nắng chúng tôi lại vắt lên các mỏm đá để phơi, nhìn như là dân tị nạn ý. Cứ như thế hơn 1 tháng, tình hình không có gì xảy ra. Bà con dân bản thấy yên yên lại kéo nhau về nhà mình, để đi làm nương rẫy cho kịp thời vụ. Hướng Thông Nông, Cao Bằng của chúng tôi được hạ cấp báo động. Toàn Tiểu Đoàn 4 lại rút về doanh trại ở gần bản Rẻ Gà ( Lương Thông ).


- Khi về đến doanh trại vẫn tập trung ở thành đội hình tiểu đoàn ( Các C vây quanh D bộ ) Sinh hoạt Tiểu Đoàn, báo động Tiểu Đoàn. Chúng tôi làm vệ sinh doanh trại, giặt giũ chăn, chiếu, màn, cá nhân ( vì hơn 1 tháng ở Chốt dã chiến, hôi hám, bẩn thỉu lắm ). Rồi tiểu đoàn phát động tăng gia ( Trồng mía ). Chả biết trên mua giống mía ở đâu mà ô tô chở giống đến tận đơn vị. Chúng tôi lại được ăn mía một đợt thoải mái. Vì ngọn mía thì dài, mỗi ngọn chúng tôi chặt được 2 tới 3 đốt để ăn ( Ngọt thỉu ). Nhìn thằng nào cũng lên cân, béo ra trông thấy. ( hơn 1 tháng ở Chốt được ăn đầy đủ các chất giờ lại được ăn mía hàm lượng đường rất nhiều ). Mà thời điểm đó tôi khoái nhất là đến phiên chợ Lương Thông, tôi đi uống rượu không mất tiền, mà thú thật là có tiền đâu mà mất ;D. Đến phiên chợ tôi cứ cầm cái can 10 lít ra chợ ( Can phát từ thời gian ở Chốt khi nâng cấp báo động ) và mượn của quản lý Đại Đội tờ tiền 100 Đồng đi ra chợ trả vờ mua rượu về đơn vị liên hoan. Hàng rượu nào tôi cũng nếm thử 1 ít xong rồi chê không mua, cứ thế, cứ thế khắp chợ. Đến khi đã ngà ngà say tôi khất khểu sách cái can không về trả cho quản lý tiền, rồi về Tiểu Đội ngủ 1 giấc. Vì vào thời điểm đó tôi cũng hơi cùn cùn...rồi ;D


- Lúc đó vào khoảng tháng 7 hoặc tháng 8 - 1983,

Cứ như thế, một tháng 6 phiên chợ Lương Thông, tôi ra chợ uống rượu không mất tiền, và ở các C khác cũng có thằng như thế. Dân liền kiến nghị với tiểu đoàn. Sau đó, Tiểu Đoàn có lệnh cấm tất cả các chiến sĩ đến phiên chợ, ai không có nhiệm vụ thì không được ra chợ. Tiểu Đoàn thành lập một tổ quân của trợ lý tác chiến Tiểu Đoàn làm như vệ binh, ghi tên tất cả các chiến sĩ đến phiên chợ rồi về báo cáo. Những đồng chí nào được đơn vị cử ra chợ thì thôi còn ai không được đơn vị cử ra mà bị ghi tên thì bị Tiểu Đoàn gọi lên bắt đi cải tạo. Nên chúng tôi ra chợ luôn phải trốn tránh để không bị ghi tên.


- Đến phiên chợ gần ngày 02-09-1983, tôi với thằng Thanh Trố ở A CỐI cùng thằng Thịnh Voi ở Đại Liên ( Tất cả ở C1 ) bị ghi tên, đến chiều cả 3 thằng bị gọi sang bắt kỷ luật ( cải tạo ) 1 tuần. Mỗi ngày, 1 người phải đào 7m hào chiến đấu, là 7m3 đất chìm đấy các đồng chí và các bạn ạ. Vì kích thước của hào cơ động chiến đấu là sâu 1,2 m. Đáy rộng 0,8 m miệng hào rộng 1m. Mà lúc đó đơn vị khoán cho những người bình thường 1 ngày chỉ 2m hào thôi. Chỉ 2m thôi mà đào đã mệt bở hơi tai ra rồi, đằng này khi bị cải tạo phải đào 7m hào/ ngày. Nhưng chúng tôi chẳng sợ ;D


- Sáng hôm sau 3 thằng chúng tôi vác xẻng sang D Bộ gặp đồng chí Hoàn giao công việc. Anh Hoàn cầm cái gậy cắm xuống đất và bảo :" Các anh đào từ đây chạy dài vào trong vách núi kia 3 người đào đủ 21m/ 1 ngày, Lúc nào xong thì nghỉ lúc đấy. Nhớ khi nào xong thì gọi tôi ra đó nhiệm thu, ngày mai tôi lại giao tiếp ". 3 thằng chúng tôi trợn tròn mắt lên, và nghĩ bụng lẩm bẩm phản đối, tôi nghĩ :" Việc thì nhiều như thế, 3 thằng chúng tôi làm sao làm hết được, thôi kệ, để đấy xem sao ". Vì thằng Thanh Trố lính 7-1980 còn tôi với Thịnh Voi là lính 3-1981, đều là lính cựu hết rồi. Hôm đầu tiên 3 thằng đào hào đúng vào đoạn có đá gan trâu. Bình thường cuốc chim bổ xuống còn tóe lửa ra nhưng đến cuốc chim chúng tôi lại không có. Mỗi thằng một cái xẻng công binh chỉ to hơn bàn tay một tí, lắp cán dài vào nó cứ ẽo à ẽo ợt ý. Trời tháng 8 lại nắng to, chúng tôi uống nước liên tục may là ở bếp D Bộ có cái bể nước được bắc máng, nước chảy vào liên tục ở sát bếp ăn D Bộ. Đến trưa, 3 thằng chúng tôi về đơn vị ( C1 ) ăn cơm. Xong lại sang Tiểu Đoàn ngay ra vẻ rất tích cực. Đào đào bới bới cán xẻng gãy liên tục, chúng tôi lại tra lại cán. Đến tối đồng chí Lộc tiểu đoàn trưởng và đồng chí Hoàn trợ lý tác chiến ra kiểm tra để nhiệm thu thì thất vọng ;D


Toàn đá gan trâu, 3 thằng chúng tôi đào được 1 đoạn toen hoen như con chó dẫy chết ý ;D ;D ;D. Chúng tôi chả nói năng gì cả. Anh Lộc D trưởng nhìn thấy đất cứng quá nói :" Hôm nay cho nghỉ ở đây, về đơn vị ăn cơm. Mai sang đây cải tạo tiếp ".

Chỉ vì cái tội đi chợ Lương Thông uống rượu tự do 3 thằng C1 ( Tôi, Thanh Trố, Thịnh Voi ) bị Tiểu đoàn kỷ luật ( cải tạo ) bắt đào hào. Ngày hôm sau, khi ăn phụ ở đơn vị xong 3 thằng chúng tôi lại vác xẻng sang Tiểu Đoàn. Anh Hoàn trợ lý tác chiến chỉ cho chúng tôi chỗ đất khác khá ngon, chứ không đào tiếp ở chỗ hôm qua nữa. Ba thằng chúng tôi đào cật lực, mà hôm nay chúng tôi chuẩn bị xẻng pháo hẳn hoi. Đào đến trưa chúng tôi nghỉ về đơn vị ăn cơm xong lại sang đào ngay. Đến tối, đào hết sức 3 thằng chúng tôi cũng chỉ đào được khoảng 10m hào thôi. Tính ra mỗi thằng chỉ đào được khoảng hơn 3m. Anh Lộc Tiểu Đoàn trưởng ra khen ngợi, nhưng chưa hoàn thành nhiệm vụ cho nghỉ về đơn vị tắm giặt rồi ăn cơm. Mai sang đây cải tạo tiếp; Ngày thứ 3 và thứ 4 cũng chỉ đào được như thế thôi. Mỗi thằng chỉ đào được khoảng hơn 3m/ngày là hết sức rồi. Đến ngày thứ 5 và thứ 6, cứ đến buổi chiều mát là anh em cùng đơn vị nó sang đào hộ nên chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ. Rồi đến ngày thứ 7 hết một tuần cải tạo thì ở đơn vị tôi gần 20 thằng nó sang đào hỗ trợ chúng tôi nên nhiệm vụ được xong sớm. Tôi liền gọi anh Lộc Tiểu Đoàn trưởng ra bàn giao rồi xin lỗi Thủ Trưởng và hứa không vô kỉ luật, đi chợ tự do nữa. Rồi Anh Lộc Tiểu Đoàn trưởng hỏi chúng tôi :" Thế có mệt không ". Ba thằng đồng thanh đáp :" Mệt Thủ Trưởng ạ ". Anh Lộc cười rồi bảo :" Đoạn hào này gần 100 m đào trong 7 ngày là cả C1 đào chứ có phải 3 đứa chúng mày đào đâu, tôi biết chứ nhưng thôi thế là được rồi.(Ba thằng thở phào nhẹ nhõm ) Thôi, cho về đơn vị nghỉ ngơi ăn 2-9 cho ngon ( Vì hôm đó là ngày 31-8 rồi ). Bị một trận cải tạo của Tiểu Đoàn tôi chán nản, không dám đi chợ uống rượu nữa mà tìm mọi cách về nhà. Tôi liền gặp anh Tùng y tá Đại Đội, tìm mọi cách cho tôi đi giám định thương tật vì tôi bảo vết thương ở đầu của tôi tái phát liên tục ( hay bị đau đầu ) cùng với sự kiện một nhát búa vào chân nữa ( đứt phần cơ ở ngòn út và ngón áp út của bàn chân phải không cử động được ). Anh Tùng y tá bảo đi giám định thương tật phải về viện Quân Y 91 của quân khu 1 cơ.Nếu đi giám định không thì Trung Đoàn không cho đi đâu. Phải kiếm thêm cái bệnh nữa kết hợp đi thì mới được. Tôi bảo " Cho chó cắn có được không ?". Anh Tùng bảo " Tốt quá, chó cắn thì cũng phải về Viện Quân Y 91 thì mới tiêm phòng dại được. Thế là ngày 2-9 năm ấy tôi bảo A CỐI ai có tiền gom hết lại được khoảng 200 đồng. Tôi vào bản mua 1 con chó gần 15kg hết 130 đồng, còn lại là mua rượu, thuốc lào, chè, mì chính thế là hết tiền. Khi thịt chó tôi để nguyên cái đầu chó làm sạch chứ không bổ ra như mọi lần. Tôi cho vào nồi xương ninh nhừ. Khi ăn tôi gỡ rất cẩn thận cái đầu chó cho hết thịt. Rồi đánh sạch 2 cái hàm của con chó, đưa 2 cái hàm của con chó có 4 cái răng vẫn sắc nhọn hai tay vỗ mạnh bập một cái 4 răng của con chó cắm sâu vào bắp chân rớm máu. Hôm sau 4 vết răng chó đã thâm lại, tôi gọi anh Tùng Y tá lên A CỐI và làm biên bản là hôm qua Tiểu Đội tôi mua chó về thịt ăn 2-9 tôi bị con chó ý cắn. Mấy thằng A CỐI làm chứng ký vào. Thế là thủ tục tôi bị chó cắn đã hoàn tất.

Khi anh Tùng Y tá lên A CỐI làm biên bản xong mấy thằng A Cối ký vào. Tôi cầm biên bản xuống Đại Đội bảo anh Hòa C Trưởng ký vào thì anh Hòa bảo:" Con chó nó cắn phải theo dõi nó 10 ngày xem nó có ốm không "- Tôi bảo Tiểu Đội thịt ăn mất rồi. Anh Hòa C Trưởng cười và bảo cho xem vết cắn, tôi vén quần lên 4 vết răng chó cắn đã đông máu thâm lại y như thật. Anh Hòa liền ký vào biên bản cho tôi. Mấy ngày sau mới đến ngày khám bệnh ở Tiểu Đoàn, anh Tùng Y tá liền viết vào giấy giới thiệu tôi sang Tiểu Đoàn khám. Tôi cầm biên bản chó cắn và giấy giới thiệu của C1 sang gặp anh Ngọa Y Sỹ Tiểu Đoàn khám thì xong luôn và tôi cũng nói với anh Ngọa cho tôi giấy giới thiệu để xuống Trung Đoàn để trích lục bệnh án thương tật cũ của tôi luôn. Thế mà loằng ngoằng hết tháng 9-1983. Tôi mới làm xong thủ tục cuối cùng ở trạm xá Trung Đoàn


- Sáng ngày 01-10-1983, tôi xuống quản lý Đại Đội cắt 1 tháng gạo và tiền ăn cùng phụ cấp của tháng 10-1983. Tôi mang gạo vào Rẻ Gà bán luôn và anh em trong đơn vị dồn vào cho tôi được hơn 200 đồng nữa và đưa cho tôi thư từ gửi về gia đình. Chia tay anh em ở đơn vị, tôi khoác ba lô xuống trạm xá Trung Đoàn thì đã chiều rồi, tôi lấy giấy giới thiệu và đổi giấy cung cấp tài chính ở Trung Đoàn xong thì tối. Tối hôm đó, tôi ngủ ở thị trấn huyện Thông Nông. Mong ngày hôm sau có xe ô tô vào thì tôi đỡ phải đi bộ. Nhưng hôm sau là 2-10 không có xe vào, tôi khoác ba lô đi vượt qua đèo Mã Quỷnh, mỏ sắt. Đến Nước Hai thì tối, tôi đang ngơ ngác nghĩ không biết tối sẽ ngủ ở đâu để mai vào Trạm xá Sư Đoàn khám thì gặp ngay 1 anh lính của E 246 đóng quân bên Hà Quảng, cũng đi viện vì chó cắn, thế là tôi có bạn đường rồi, đỡ lo ;D. Mà tôi lại thêm một việc giám định thương tật nữa. Anh lính E 246 đó tôi không nhớ tên nữa chỉ nhớ nhà ở Yên Thế hay Nhã Lam - Hà Bắc thôi. Tôi và anh lính 246 vào bản mua gạo và nhờ thổi cơm ăn tối rồi ngủ nhờ đêm hôm đó luôn. Vì qua nói chuyện thì gia đình người dân ấy cũng biết là chúng tôi ở trên Chốt xuống và đi bộ mất 2 ngày nữa, xin ngủ nhờ để mai vào Trạm Xá Sư Đoàn khám bệnh nữa. Nên nhà dân ấy cũng chẳng lấy tiền cơm gạo của chúng tôi làm gì. khi ăn cơm xong 2 thằng được chủ nhà chỉ cho một cái giường, chúng tôi bỏ màn và đi ngủ ngay vì đi bộ cả ngày mệt lắm rồi. Sáng hôm sau chúng tôi dậy sớm chào chủ nhà rồi khoác ba lô ra phòng khám của Trạm xá Sư Đoàn khám và đổi giấy giới thiệu ra trạm xá Quân Đoàn 26 ở Nguyên Bình hay Cao Bình gì đó, tôi cũng không nhớ nữa. Tôi với anh lính E 246 lại khoác ba lô ra thị trấn Nước Hai thuộc huyện Hòa An ăn sáng và mua bánh Trưng cho vào cóc Ba lô lại lên đường. Vừa đi vừa hỏi đường xuống trạm xá Quân Đoàn

Da trâu thành... l

u bò



TTC - V

i “công ngh

” ch

ế

bi

ế

n c

c kỳ đ

ơ

n gi

n, ng

ườ

i ta đã bi

ế

n nh

ng mi

ế

ng da trâu v

n, nh

ng th

“đ

u th

a đuôi th

o” c

a con bò sau khi làm th

t, thàn

h món khoái kh

u c

a dân nh

u v

a hè mi

n Tây: l

u bò.



“Lò” ch

ế

bi

ế

n





N

m ven theo Qu

c l

61 (thu

c xã Phú Th

nh, Ph

ng Hi

p, H

u Giang), “lò” n

m th

t sâu trong v

ườ

n, sau m

t căn nhà xây t

ươ

m t

t. Khi chúng tôi h

i “có đ

nh

u ch

ư

a?”, m

t ch

ph

n

nhanh nh

u ch

ra sau nhà: “Ra ngoài lò đi. Ch

c gi

này có r

i”.





Lò là m

t cái chòi lá n

m trên b

đ

t h

p, gi

a hai cái ao tù n

ướ

c đ

ng, màu xanh lè, b

c mùi tanh rình ng

i m

c ói. B

ướ

c vô chòi là th

y ngay cái h

xi-măng nham nh

có 3 ngăn, n

ướ

c đen ngòm, trong là nh

ng c

c da màu đen trông gi

ng nh

ư

c

c than. M

t anh than

h niên vác t

i bên h

m

t cái bao (gi

ng nh

ư

bao lúa) r

i m

mi

ng đ

vô h

nh

ng mi

ế

ng da “l

c c

c lòn hòn” c

ng nh

ư

… g

ch. Anh nói: “Ngâm cho nó m

m, n

b

ra”. Tôi th

y l

n trong đó có khá nhi

u… tai trâu, mõm bò khô kh

c, c

m ch

i trúng dám… l

đ

u ch

y máu ch

ch

ng ch

ơ

i.





R

i anh v

t da

ngăn th

hai đ

ư

a vô m

t cái thùng phuy n

m ngang, đang quay l

o r

o b

ng m

t cái môt

ơ

đi

n 4 ng

a. Ngó vô trong, th

y h

m bà l

ng đ

th

da trâu, bò cùng tr

n l

n v

i đá nhuy

n, c

v

y mà tr

n đ

u, gi

ng nh

ư

m

y cá

i máy tr

n bê-tông dã chi

ế

n c

a th

u xây d

ng. Anh thanh niên nói r

ng: “Làm v

y là đ

chà xát cho tróc l

p da đen, còn l

i da tr

ng” (?).





Sau khi “xay xát” ch

ng 1 ti

ế

ng đ

ng h

, anh v

t da ra. Qu

nhiên th

y l

p đen b

tróc h

ế

t, còn l

i đ

u là da tr

n

g, nh

ư

ng màu c

a nó cũng còn xanh tai tái. Anh cho t

t c

vô cái ngăn h

th

ba, r

i đ

n

ướ

c m

i vô, không quên b

thêm m

t ít ch

t b

t màu tr

ng, r

i tr

n đ

u. Ch

ng 1 ti

ế

ng sau n

a, anh v

t da t

ngăn h

đó ra. Nh

ng mi

ế

ng da “ch

i l

đ

u” khi nãy bây gi

tr

nên tr

ng t

ươ

i, m

m m

i, mà l

i n

ph

ng lên y nh

ư

mi

ế

ng da m

i ra th

t.





cu

i căn chòi lá có m

t cái lò n

u b

ng đ

t, trên đ

t cái ch

o b

, có

ng khói thông lên tr

i. Anh thanh niên lùa h

ế

t nh

ng mi

ế

ng da t

ngăn h

v

a ch

ế

bi

ế

n vô lò. Lò đang

sôi ùng

c, khói b

c nghi ngút. Đ

ng c

nh lò là m

t “th

n

u” mình tr

n trùng tr

c, tay c

m cây v

t x

c vô ch

o xáo qua xáo l

i nh

ng th

m

i đ

vô. R

i anh đóng n

p l

i, ch





Kho

ng 15 phút sau. Anh m

n

p lò ra, v

t nh

ng th

v

a n

u khi nãy. Th

t kỳ

di

u, chúng tr

thành nh

ng mi

ế

ng da m

m m

i,

ng h

ng, no đ

y nh

ư

da v

a lu

c chín. Đ

c bi

t, bây gi

thì trong s

nh

ng th

“l

c c

c lòn hòn” lúc ban đ

u “hi

n hình” ra là nh

ng mi

ế

ng tai bò, mõm trâu, mõm bò có màu vàng t

ươ

i, gi

ng nh

ư

l

tai heo lu

c,

dòm vô là th

y… mu

n nh

u li

n.





Nh

ng th

“m

i” b

t m

t đó đ

ượ

c đ

lăn lóc xu

ng sàn g

ch Tàu. M

t ch

ph

n

ch

s

n, li

n ng

i xu

ng l

y dao lam c

o s

ch nh

ng m

ng lông còn dính trên da. Sau đó, ch

cho vô b

ch ni-lông, đóng gói c

n th

n, s

p g

n gàn

g vô nh

ng thùng mút x

p, r

i

ướ

p đá, ch

ch

đi. Dù h

ơ

i

n, tôi cũng gi

b

nói gi

ng hùng h

n: “L

y 2kg đem v

nh

u đi!”, r

i tr

ti

n cái r

p: 15.000đ/kg.





Đ

ườ

ng vô quán nh

u





Kho

ng 2 gi

chi

u tr

đi, nh

ng thùng mút x

p đ

ượ

c mang ra l

. Xe ch

đi

có đ

lo

i, đi g

n v

Cái Răng, Phong Đi

n (C

n Th

ơ

), Ph

ng Hi

p, V

Th

y (H

u Giang) thì xe g

n máy ch

t sau yên. Đi xa h

ơ

n t

n Sóc Trăng, B

c Liêu thì ch

t lên xe đò, có khi xe t

i nh

. Anh Lê Văn Sáu, ng

ườ

i dân g

n “lò” nói trên cho bi

ế

t: Có l

đ

… trá

nh ti

ế

ng, nên xe ra vô ch

lai rai hà, c

cách ch

ng 1 ti

ế

ng là có m

t vài xe, m

i l

n ch

ch

ng 2 - 3 thùng r

i kh

p quán nh

u quanh vùng.





V

y ch

m

i ngày cũng ph

i vài trăm ký lô à! Đó là xe đi, còn xe “v

” thì ph

i đ

i t

i đêm, nh

ng chuy

ế

n xe khuya

cũng lai rai th

xu

ng m

i l

n ch

ng 2 - 3 bao. Nó đ

ng đ

“c

ng” không hà, b

xu

ng nghe l

p c

p nh

ư

v

d

a khô. Nghe nói mua đâu t

n biên gi

i Campuchia, nh

ng lò m

trâu bò sau khi l

y th

t ngon, lóc b

da ra bán làm đ

thu

c da, còn da “d

t” b

đi thì

đem ph

ơ

i khô. Đó là ch

ư

a k

nh

ng lúc trúng mánh, ng

ườ

i ta mua đ

ượ

c nh

ng cái giò, đ

u, l

tai r

t… hoành tráng. Anh Sáu ti

ế

t l

: “Nói nào ngay, t

i tôi vô mua h

không bán, nói là th

này ăn h

ng đ

ượ

c đâu, hàng xóm g

n gũi nên h

nói thi

t, ch

bán cho q

uán nh

u thôi!”.





M

t bu

i chi

u mát m

, tôi r

thêm vài anh b

n t

p vô m

t quán l

u bò

c

p mé l

vô Phong Đi

n (C

n Th

ơ

). Sau khi kêu cái l

u th

p c

m, tôi lò dò ra sau b

ế

p, th

y treo l

ng l

ng đ

th

d

m, đuôi, gân, lòng trâu, bò r

t b

t m

t. Anh th

n

u b

ng b

lăng xăng x

t m

i b

vô l

u r

t thành th

o. R

i anh thu

n tay lôi trong h

c bàn ra m

t cái l

tai bò vàng t

ươ

i, m

m x

m. Tôi dòm k

, th

y sao… quen quen. Nh

l

i thì hóa ra: Gi

ng

d

ướ

i “lò” b

a h

m. Anh th

l

i lôi ra m

t mi

ế

ng da bò vàng ho

e x

t nh

r

i b

vô l

u. Nó sôi sùng s

c, b

c mùi th

ơ

m ph

c.





B

a đó, tôi không dám g

p mi

ế

ng nào, l

y lý do đang… ăn chay, ch

nh

u toàn chao v

i đ

u b

p. Tôi cũng ti

ế

t l

m

y mi

ế

ng da béo ng

y kia xu

t x

t

“lò” ra sao, v

y mà m

y ông b

n d

ướ

i quê c

không tin. Anh Năm Phê, m

t ng

ườ

i trong nhóm còn nói: “Lu

c qua 3 - 4 b

n n

ướ

c sôi, vi trùng vi tri

ế

c gì ch

ế

t cha nó h

i 8 ki

ế

p. V

i l

i t

i tui nh

u th

này 3 - 4 năm nay, có ch

ế

t th

ng Tây nào đâu!”.





Tôi thì c

b

ám

nh hoài m

y cái h

n

ướ

c đen dùng

đ

ngâm, r

a, xay xát, và c

m

b

t trăng tr

ng qu

y vô m

t cái là da nó tr

ng t

ươ

i lên li

n. Nh

l

i m

y cái ao tù n

ướ

c đ

ng quanh “lò”, cây c

gì ch

ế

t héo ráo tr

i, ng

m th

ươ

ng cho cái b

đ

lòng c

a mình. Ăn th

đó vô lâu ngày, s

ph

n c

a nó ch

c cũng

gi

ng nh

ư

cây c

quanh lò. Thôi, thà nh

n thèm còn s

ướ

ng h

ơ

n!


Đặc sản" của lính QS (tiếp)

Học làm thịt cóc

Cái trò này cũng do mấy ông bộ đội tập kết bày cho. Cuối năm 1972, C343, C353 (khi đó chúng tôi đã lên Khoa Vô tuyến) sơ tán về Đại Tự, Yên Lạc, Vĩnh Phúc. Sát bờ sông Hồng, bên kia là Phố Gạch, Sơn Tây.

Vừa tới vài hôm, bác Phôi, bác Hay đi “ba tui” về khoe: “Sát bờ sông có bãi ngô rộng lắm, tới vài chục mẫu. Ngoài ấy tha hồ là cóc. Đêm nay đi bắt cóc về làm thịt”. Từ bé đến giờ nhìn con cóc xấu xí, da xù xì toàn mụn mà ghê. “Ăn thế quái nào được”, tôi né. Đêm ấy, anh em đi rồi tha về hàng bao tải cóc, ném xuống hầm tăng-xê. Trưa hôm sau, các bác lính già trổ tài làm thịt. Tôi chỉ dám đứng ngó xem.

Bác Trần Hay nhặt từng chú cóc, kê đầu lên thớt rồi dùng dao sắc chặt 1 nhát ngay sát cái u (giống như mang tai ta). Anh bảo, mất đấu là phần điều khiển để phóng mủ ra bị cắt. Những chú cóc mất đầu giang chân xếp đống tướng. Bác Bích thì lấy dao lam rạch một lối ở dưới cẳng chân rồi khéo lột toàn bộ phần da vứt đi. Sau đó cho tay nhúm vào rốn (ngay chỗ bẹn) bóc đi cả phần ruột. Chặt nốt 4 chấm đen (chắc là móng) ở mỗi chân thì cả con cóc sạch, trắng nõn nà được thả vào bát nước muối. “Nước muối (nặng hơn) sẽ đẩy mủ cóc (nhẹ hơn) lỡ còn dính trên thịt lên trên, sau vài lần thay nước là sạch mủ. Mủ cóc ăn vào sẽ bí đái”, ông Chí Hòa (cây lý luận của lớp) giải thích. Cái nhà bác Bích khéo lắm, làm mấy trăm con cóc mà chỉ bẩn đúng có ba đầu ngón tay mỗi bàn tay. Làm xong không thấy có tí mùi tanh như thịt lợn, thịt gà.

Rồi chế biến. Nào đùi rán, nào cóc xào chua ngọt, nào chả cuốn lá xương xông, nào cháo cóc … Đến bữa, chúng tôi mời gia đình cùng ăn. Bà chủ và các con khen thịt cóc ngon, ngọt. Riêng ông chủ thì sợ chết, chỉ dám thử miếng canh cải nấu cóc. Ăn xong thì khen: “Các chú cho mì chính phải không? Sao ngọt thế?”. (Kì thật làm chó gì có mì chính mà bỏ vào. Ngọt do thịt cóc đấy! Sau này đọc sách mới biết thịt cóc là loại cao đạm nhất. Chả thế dân ta có câu “Thối như cóc chết”).

Sau này, khi lên làm giáo viên, ông Chí Hòa còn bắt cóc làm ruốc và tận dụng phần xương hai

 chi trên rang cháy cạnh, giã ra, làm bột cóc để giành. Hai thằng nhỏ nhà Hòa được ăn ruốc cóc và cháo với bột cóc nên sau này to vật.

Riêng trong bụng cóc có hai chùm mỡ như chùm hoa ngọc lan, màu vàng hoặc trắng. Chúng tôi tiếc nên đã bóc ra, cho ngâm nước muối, sau đó dùng thay mỡ lợn. Thơm ra phết. Ấy là nói chuyện khi đã thành thao, chứ cái đêm đầu đi theo các bác già “nhặt” cóc, tôi cứ phải giả vờ vồ trượt vì “nó nhảy nhanh quá”. (Sờ vào con cóc vẫn cứ thấy rờn rợn, lỡ nhựa cóc dính ra tay thì ngứa chết và có khi thành mụn cóc(?!). Thực ra động vào cóc nhẹ nhàng thì nó không tiết ra nhựa. Nhựa chỉ dùng khi phòng vệ. Về sau nhặt cóc chả khác gì nhặt sỏi. Ngon. Đêm về cũng xách sau lưng bao tải tướng. Thả xuống tăng-xê, nghe chúng kêu lóc cóc cả đêm.

Sau đó dân Đại Tự nhà nào cũng biết làm thịt cóc. Mấy bụi xương xông, lá lốt ngày xưa không ai them hái, nay chả còn tí lá nào. Bà con chắc còn lưu truyền chuyện mấy chú bộ đội bầy cho dân làng làm thịt cóc?

Có người hỏi: Ăn gan cóc có chết? Chúng tôi xin trả lời: Chưa thử nên chưa biết(!). Nhưng khi làm cóc, cứ vứt bộ lòng có cả mật, gan, trứng ra sân liền bị mấy chú gà lượm ngay. Tranh nhau ăn mà chả thấy chú nào chết. Hay là chúng được “miễn dịch”?

Sau này còn nghe có bài thuốc: ngâm rượu cả con bìm bịp có thể chữa ung thư vì bìm bịp toàn ăn thịt cóc. Các chất kháng sinh từ cóc đã ngấm sang bìm bịp. Chả hiểu có đúng?

Được đăng bởi

TranKienQuoc

vào lúc

05:39

Đặc sản của lính QS": Làm thịt rắn

Anh Hà Trọng Tuyên có tài bắt rắn. Cứ thấy con rắn bò lướt dưới cỏ là anh nhanh tay tóm lấy đuôi, rồi quay mấy vòng là giãn hết xương cốt, con rắn chịu thua. Rắn mang về làm thịt, nấu cháo. Chí Hòa cũng học bài bắt rắn này nhưng không dám áp dụng.

Lần đó đi giảng về, từ dốc Ông Bảo xuống, bỗng thấy con rắn cạp nong nằm phơi nắng ngay vệ đường về đồi Chuồng Ngựa (doanh trại 2 khoa Vô tuyến và Công trình thời trước 1945 là trại ngựa của lính Nhật). Hắn vội nhặt viên gạch, nhằm đầu phang chí tử. Dập đầu, chú rắn chết tươi.

Xách rắn về, hắn treo ngược lên xà nhà lột da. Chú rắn dài đến mét rưỡi, đuôi gần chạm đất được lột từ trên đầu xuống. Rạch một đường dọc cổ rồi từ từ lột da, phần thịt trắng lộ dần ra. Lột đến tim thấy vẫn đập thoi thóp. Anh em dọa phải vứt xác rắn ra xa kẻo rắn vợ nó về báo thù. (Hồi đó chưa biết làm món da rắn chiên giòn). Riêng Hòa thì cười: “Với Hòa này còn lâu mới báo thù được!” rồi bóc quả tim cho vào cốc rượu: “Đây là phần thưởng cho kẻ bắt được rắn” và ngửa cô tu một hơi hết cốc.

Rắn được băm ra quấn chả xương xông hoặc chả lá lốt. Đông người thì xào lên rồi cho cả vào nồi nấu cháo. Mỡ, hành có được nhờ “chị nuôi vận”. Bình “dị” đạp xe ra chợ mua thêm kí đậu xanh về nấu cháo. Xì xụp húp bát cháo đậu xanh nấu thịt rắn, mồ hôi mồ kê ướt đầm cả lưng. Sướng!

Nghĩa tình của lính hậu cần

Cuộc chiến ngày càng căng nhưng đời sống anh em lại ngày càng đỡ hơn do khâu hậu cần lớn mạnh.

·

                                

Giữ mình trọn vẹn

·

                                

Những cuộc se duyên

·

                                

Những dòng chữ mật

Để bộ máy của Trung ương Cục miền Nam (TWCMN) hoạt động hiệu quả có vai trò rất lớn của những người làm công tác hậu cần. Làm sao để đảm bảo cái ăn cho cả ngàn người tại căn cứ đóng giữa rừng, cách xa địa bàn dân cư vài ngày đường trong thời chiến? Nhiều câu chuyện khổ mà vui được những người lính hậu cần thời ấy kể lại…

Vượt biên tìm hàng

Những ngày tháng 4 này, căn chòi lợp lá dừa nước của ông Nguyễn Hữu Danh (Sáu Danh) ở cuối phường Long Trường, quận 9 (TP.HCM) thường rộn rã tiếng cười nói của những nhân viên hậu cần ở Văn phòng TWC trước đây. Tháng 4, tháng nhắc nhớ họ về những kỷ niệm khó quên của thời phục vụ kháng chiến. Mọi người nhắc nhau về món đặc sản thượng hạng của những ngày đầu căn cứ dọn về Tây Ninh là muối tiêu, tiếp đến là món trứng rồng (đậu phộng rang) và thái tử lưng gù (khô cá nóc)…

Để đảm bảo sức cho lãnh đạo và các đơn vị khác trong văn phòng phục vụ lâu dài cho kháng chiến, cánh hậu cần lội biên giới sang đất Campuchia để mua lương thực mang về. “Ngày đầu đi mua hàng, chúng tôi trao đổi với nhau bằng tay-chân-miệng vì chưa biết tiếng nước bạn. Tôi mua trứng gà thì vẽ xuống đất hình êlip như cái trứng rồi ngồi khum người trong đó đưa hai tay đập vào mông, miệng thì kêu cục ta cục tác. Mua sữa bò thì đưa tay lên ngực thị phạm vắt sữa, miệng kêu ụm bò. Vậy chứ có lần cũng xảy ra chuyện dở khóc dở cười, tôi muốn mua cá trê, vẽ hình con cá dưới đất rồi đưa hai cái tay lên đầu minh họa cho hai cái râu đặc trưng của cá trê. Ai dè sau đó bạn lại dắt xuống một… con trâu” - ông Phan Dũng, cựu nhân viên hậu cần của Văn phòng TWC, kể.

Hàng thu mua xong sẽ được tập trung về trạm cấp phát lương thực để chuyển vào căn cứ. Vì để đảm bảo an toàn cho căn cứ nên các trạm này phải ở cách xa căn cứ hơn một ngày đường. Khi văn phòng còn trú đóng ở Chiến khu Đ thì đường đi lấy lương thực phải mất ba ngày hoặc hơn. Vừa rót trà, ông Sáu Danh vừa kể: “Những ngày đầu, chưa có lực lượng chuyên nghiệp vận chuyển lương thực mà chủ yếu là huy động cán bộ ở các bộ phận khác. Vậy mà ai cũng xung phong, cả chánh văn phòng cũng tham gia. Ngày đi tải, đêm về phải thức khuya làm bù công việc chuyên môn trong ngày. Mỗi người đeo bao gạo từ 30 đến 40 kg trên lưng, hai quai bồng căng kéo như muốn xé đôi lồng ngực, lưng khum sát đất, mồ hôi nhễ nhại, khát khô cả cổ”.

Trong mỗi lần ôn chuyện của những người lính hậu cần luôn có những khoảng lặng khi nhớ về người đồng đội đã hy sinh có tên Linh. Linh là con nhà giàu, học giỏi, dáng dấp bạch diện thư sinh tình nguyện xin vào căn cứ. Trên đường tải các loại nhu yếu phẩm, ông hay cố sức làm. Ông Sáu Danh kể: “Tướng nó thư sinh nhưng cứ muốn mang vác nặng, nhiều lần tôi bảo mày rinh phần nhẹ, để phần nặng đó cho tao nhưng nó cứ không nghe, lúc nào cũng muốn cố hết sức, mặt mày đỏ như gấc, oằn người sát đất mà vác đi. Mãi sau này, khi nó bệnh mới biết những khớp đầu gối của nó long lở hết. Nghe nói nó bị lao xương, đau nhức lắm. Vậy mà không một lời rên la cho đến khi mất tại trạm xá…”.

Câu chuyện tải gạo 50 kg

Trong một lần đi tải gạo, ông phó văn phòng Nguyễn Văn Đậu phát động: “Đứa nào tải được 50 kg tao… gả con gái cho!”. Con gái của ông là cô y tá Nguyễn Thị Mẫn (sau này làm phó giám đốc Sở Y tế TP.HCM). Không bao lâu sau, những bao gạo 50 kg về đích quá nhiều, mọi người nhìn nhau cười xòa, khí thế tải gạo từ đó bỗng dưng hăng hái lên.

Có lần đang vận chuyển giữa đường thì gặp bom bi rải vàng hết một quãng rừng, ông Sáu Danh, lúc này là đội trưởng, kêu mọi người tản xuống phía sau để ông đi gỡ bom bi. Mọi người chờ lâu không thấy về, nghĩ ông lần đầu tiên chạm vào trái bom bi chắc không thoát khỏi cái chết nên ngồi khóc ầm ĩ. Khi ông về đến nơi, cả đội ôm ông mừng trong nước mắt. Về sau, trong những chuyến vận chuyển dần chuyển có thêm xe đạp thồ, xe bò kéo và xe cơ giới.

Ngoài nguồn thu mua lương thực thì bộ phận hậu cần còn tăng gia tại chỗ. Ông Lê Hồng Quang, bác sĩ phục vụ trực tiếp cho đồng chí Nguyễn Văn Linh, kể rằng phía sau nhà ông Linh là trảng tranh, mọi người đào giếng nước và trồng rau đủ loại. Hai bên đường đi giữa trảng là hai hàng đu đủ. Đợt trái đầu năm 1975 trái đu đủ ra trĩu cây như chuẩn bị đón mừng chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Trong cuộc họp với bộ chỉ huy chiến dịch, mọi người mang đu đủ tặng cho các đồng chí từ miền Bắc vào như một món quà quý khiến ai cũng ngạc nhiên về thành quả hậu cần của căn cứ. Từ đó, những vần thơ ra đời:

“Đu đủ ngọt thắm tình Nam Bắc/ Chiến dịch này chắc thắng Bác ơi!/ Tương lai, hy vọng sáng ngời/ Bắc Nam sum họp đời đời xuân vui”.

Tháng 4 lên biên giới...

Thứ Hai, 30/04/2012 14:24

Tháng tư là mùa đẹp nhất ở Tây Nguyên. Mùa này trời trong và cao, mây nõn phơ phất, gió lúc diu diu lúc lộng lẫy, một mùa khô rất đặc trưng, và nó cũng có cái hơi ung ủng của sự tích tụ mùa mưa sẽ bắt đầu chừng sau tháng nữa.

Thì đã nói, giờ lên với các đồn biên phòng ở Gia Lai, dẫu có xa nhất như 731 thuộc huyện Chư Prông đi chăng nữa thì cũng chỉ vài ba tiếng, đường ngon phẳng lì, thông thoáng chứ không như thời xưa vừa đi vừa vạch rừng và lạc giữa rừng. Các đồn đều rất khang trang, hiện đại, tiện nghi và sạch đẹp. Lên đồn thích nhất là thoáng đãng, đêm ngủ thấy cứ trong veo, dù ngủ ở giường của lính nhường cho, lạ chiếu lạ chăn, chiếu và vạt giường cứng chứ không mềm êm như nệm ở nhà, và tắm thì ra bể, dùng gàu múc nước dội ào ào như thời sinh viên.

Nhớ hồi nào lên Đồn 729 mà kinh, nước nấu xong cứ vón cục lại ở dưới đít nồi đít ấm, nó còn ăn thủng cả đồ nhôm. Nhìn cái bể chứa thấy toàn các cạnh sắc nhọn như san hô chìa ra. Ấy là nước vùng này có vôi. Thế mà lính vẫn phải dùng dù đã được xây bể chứa nước mưa nhưng nào có đủ. Muốn dùng nước thì phải cất như chưng nước cất qua ba bốn bận mà vẫn còn cặn. Giờ đồn chuyển sang chỗ khác, dùng nước khoan, nhưng nước khoan cũng chỉ dùng để tắm rửa, còn nước ăn thì đã có một hệ thống bể nước mưa, dùng quanh năm không hết.

Cái thích nữa khi lên đồn là ngắm các đặc sản tăng gia. Chó thì khỏi nói, chúng là lính canh chứ không phải thực phẩm, đồn nào cũng vài chục con. Rau thì mơn mởn sạch, nhìn đã thấy mê, đủ loại. Hôm ở Đồn 729, nghe anh em kêu háo, trung tá Lê Xuân Kế đồn phó quân sự, trực chỉ huy còn cho người đi hái cả rau sam, loại rau tưởng chỉ còn trong ký ức, trồng trong vườn về luộc mấy đĩa tướng.

Suối cũng là một đặc sản của các đồn biên phòng. Tất nhiên không phải đồn nào cũng có suối, nhưng nếu đồn nào đã có suối thì thế nào khách lên cũng được vác ra để giới thiệu món “của nhà giồng được”. Và đương nhiên là tắm, là bắt cá nướng tại bờ, là mắc võng ngả lưng mà nghêu ngao cùng lính...

Nhưng đấy là mùa khô. Mới mùa mưa năm ngoái, tại Đồn 731 này có một chiến sĩ bị thương. Chỉ huy biên phòng tỉnh điều 1 xe vào, kèm 2 tài xế, 2 quân y và “5 chiến sĩ đặc nhiệm to khỏe, mặc áo mưa nhận nhiệm vụ khẩn”: Vào đưa một chiến sĩ bị thương ra bệnh xá. Xe chạy từ 9 giờ sáng hôm nay đến... trưa hôm sau mới ra đến bệnh xá biên phòng tại thành phố Pleiku. Đại úy quân y Nông Thị Hài kể với tôi: May là tình trạng chiến sĩ ấy không quá nguy kịch, chứ không thì với từng ấy thời gian tải thương đủ cho bệnh nhân chầu trời rồi! Lái xe Trưởng, cũng hàm đại úy, người trực tiếp lái xe hôm ấy thì kể, có lúc xe chìm trong bùn, không thấy cả... đèn, ống xả cũng bị bùn vào bịt luôn đến nỗi có người trên xe kêu lên: xe chết máy rồi trong khi thực ra là xe vẫn nổ máy.

Các chiến sĩ cùng 2 lái xe kéo xe nhích từng tí một, chạy được dăm cây lại sa lầy, lại loay hoay kéo đẩy... đến khi ra đến bệnh xá không ai nhận ra ai vì tất cả nhuộm một màu đỏ từ đầu tới chân. Và đấy là chuyện mới xảy ra, ai cũng nhớ, còn trước đó ư, nhiều lắm, ai mà nhớ được. Nhưng lính mà, chuyện ấy là thường, hầu như ai cũng nói vậy khi tôi gợi chuyện, và những người có mặt trên chuyến xe tôi vừa kể kia khi kể lại chuyện cũ cũng rất thản nhiên, không có vẻ gì như đã trải qua một cuộc đi khủng khiếp cả, dù con đường ấy khi đi vào mùa khô, như chúng tôi đang đi bây giờ chỉ mất hơn 3 tiếng đồng hồ.

Một nỗi ám ảnh nữa của lính biên phòng là... rắn cắn. Y sĩ Nông Hiền Lương người dân tộc Tày của Đồn 731 tụt giày ra khoe với tôi ngón út đã được tháo khớp giờ là 1 cái hố sâu hoắm vào bàn chân. Anh kể anh phải tháo khớp ngón chân đến 3 lần. Rồi anh kêu đồng đội mở va li lấy cho tôi xem hạt đậu Lào mà bây giờ người lính biên phòng nào cũng thủ ít nhất là một hạt. Nó là 1 hạt đậu màu nâu hơi giống hạt cao su, to bằng ngón tay út. Nghe nói nó xuất xứ từ Lào chứ một số vùng ở Việt Nam có cây này thì gọi là hạt rắn cắn. Đấy là cây họ dây leo hơi giống cây mắt mèo. Thế nó có công dụng gì? Đơn giản thôi, khi bị rắn cắn thì ngay lập tức bổ đôi hạt ra (ai hào phóng thì để nguyên hạt) úp vào chỗ bị cắn.

Vết thương rắn cắn ấy sẽ hút cái hạt này khiến nó dính khít vào. Và cái hạt này sẽ hút hết chất độc trong nọc rắn ở vết thương ra. Khi nào nó nhả ra thì lại lấy dao cắt chỗ ấy đi tiếp tục úp vào đến khi nào nó hết dính thì thôi. Nhưng đấy chỉ là sơ cứu bước đầu, còn sau đấy thì vẫn phải ngay lập tức đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế, mà ở đây là đưa thẳng vào Bệnh viện 211 của Quân đoàn 3, chứ bệnh xá biên phòng cũng chưa đủ điều kiện xử lý. Thì rõ là cái hạt ấy có công dụng rồi, nhưng lạ là chưa thấy ai phổ biến hoặc là ươm nhân giống thử, mà hiện tại mới là kinh nghiệm của một số anh em biên phòng và những người hay đi rừng khai thác gỗ. Tôi kiến nghị các chuyên gia y tế nghiên cứu và thẩm định công dụng của hạt đậu Lào trong việc chữa trị rắn cắn để có kết luận chính thức và nếu đúng nó công dụng như thế thì nên nhân giống ra để phổ biến cho toàn xã hội.

Đường tuần tra có thể được gọi là một trong những “tác phẩm” vĩ đại của bộ đội ta. Nghe nói nó đã khít được toàn bộ biên giới cả trên núi đồi và bờ biển. Với con đường này, lính đi tuần sẽ đỡ khổ hơn rất nhiều,  và nếu có hữu sự thì cơ động cũng rất nhanh. Đường bê tông phẳng lỳ nhấp nhô ẩn hiện trong rừng, vực suối, thung lũng, núi cao. Các đồn biên phòng chính là điểm nối của con đường dằng dặc bao quanh đất nước ấy. Một chiều muộn, tôi mượn xe máy của đồn, một mình chạy trên con đường tuần tra ấy để tự nghe cảm giác của mình. Mấy trăm bước chân bên kia là nước bạn, cái cảm giác chạy trên khoảng cách bấp bênh trong và ngoài nước nó vừa thiêng liêng vừa lạ lẫm.

Gió lồng lộng và chênh chếch trăng khiến cứ nao nao như đang ở miệt đồng bằng. Gặp một cậu biên phòng phóng xe ngược lại, hỏi đi đâu, bảo em đi tắm suối nhưng... quên mang xà phòng, vừa chạy sang Đồn biên phòng 703 của cảnh sát Campuchia mua. Tôi tò mò hỏi có đến đấy được không, cậu chiến sĩ bảo em dẫn anh quay lại. Một cái chốt chứ không phải đồn, đơn sơ hơn bên ta nhiều. 3-4 chiến sĩ da đen đặc trưng nói tiếng Việt bập bẹ. Nhìn là thấy ngay công tác tổ chức đời sống của họ thua ta xa, có một anh chàng mua một số hàng hóa nhu yếu phẩm về đây... bán lại. Hình như chủ yếu là bán cho nhau và một số thợ rừng vì tôi thấy dân ở khá xa, năm bảy cây số chi đó chứ không quây quần như bên ta. Hỏi thì được biết cán bộ chiến sĩ hai đồn khá thân thiết với nhau, có việc gì cũng... hú nhau, chủ yếu là ta hú vì như đã nói, ta có điều kiện hơn. Gặp mùa mưa, bên họ không tiếp tế được, quân ta san cả gạo mắm muối ra giúp bạn...

Chỉ ba tiếng đồng hồ xe chạy, vừa về lại phố, lại đã thấy nao nao nhớ rừng..   

Lính trinh sát ăn đặc sản hàng ngày

Theo

www.qdnd.vn

- 10 tháng trước

QĐND Online

- Với các đơn vị khác, “bão giá” hiện nay có thể làm lung lay chất lượng các

bữa ăn

của bộ đội nhưng với Đại đội Trinh sát, Bộ CHQS tỉnh Đắk Lắk thì từ cán bộ đến chiến sĩ đều khẳng định “không hề gì!”. Câu trả lời được tiếp sức từ mảnh vườn xanh tươi và khu chăn nuôi hiệu quả mà đại đội đang sở hữu.

Đứng chân ở thành phố Buôn Ma Thuột, đất phố 100% nhưng cơ ngơi tăng gia của Đại đội Trinh sát có thể ngang cấp tiểu đoàn. Ngoài 1,1 ha vườn ao chuồng, những gốc điều sum suê quả, đơn vị còn tận dụng hàng trăm m2 đất của Đài phát sóng, phát thanh tỉnh tăng gia tạo nguồn thu đồng thời bảo đảm phát quang chống cháy, tạo hành lang an toàn cho “nhà đài”. Vòng quanh một khu tăng gia mới thấy “ngợp” bởi màu xanh của các luống rau như su hào, súp lơ, xà lách son, rau gia vị... Chỗ trũng đơn vị trồng rau, bắp; chỗ cao hơn thì trồng tre lấy măng; tận dụng cả bờ mương thoát nước để trồng củ tím, khoai môn, các loại bí, bảo đảm đủ rau quả dự trữ để ăn khi làm nhiệm vụ dài ngày trong rừng. Khu chăn nuôi được rào bằng lưới, thả hơn 100 con gà, 30 con heo cỏ và heo đen trong đó có 5 con heo nái đang sinh sản. Trong các hồ, chậu còn nuôi ếch, lươn, mùa mưa thêm cá trong ao. Ngoài bảo đảm bộ đội ăn “mệt nghỉ”, mỗi tháng đại đội xuất ra ngoài khoảng 1 tấn rau, củ. Rau của trinh sát đã có “thương hiệu”, Trường Cao đẳng nghề, Đại học Tây Nguyên rất ưa chuộng, duy trì “mối” thường xuyên.

Ban chỉ huy đại đội kể rằng, đất này trước đây trồng cây điều nên bạc màu, trồng rau cứ trơ ra. Cán bộ đơn vị đã liên hệ với trại nuôi heo xin phân bón về ủ với vỏ cà phê cải tạo đất dần dần. Nguồn nước giếng không đủ, anh em thay phiên canh 2 tiếng bơm một lần; tận dụng nước tắm của bộ đội và nước mưa, xây hố, làm đường ống tưới rau. Cùng với học hỏi kinh nghiệm của nhân dân trong vùng, đơn vị còn lấy ý kiến của chiến sĩ có kinh nghệm trồng trọt; học cả trong chương trình buổi sáng “Nhà nông làm giàu” trên ti-vi. Đơn vị cử đại đội phó Ngọc làm “kế toán vườn” theo dõi, hạch toán từng loại rau trồng, tính lãi, lỗ, kịp thời điều chỉnh. Anh còn được đặc cách trông coi đàn heo nái sinh sản. tạo nguồn giống bổ sung liên tục vào đàn heo đơn vị.

Chuyện ăn của Đại đội Trinh sát khá “sành điệu”. Những món lươn om chuối, ếch hấp bầu, gà rắc lá chanh... đều nằm trong thực đơn của lính trinh sát. Hai tháng nay, giá cả tăng cao, đơn vị quyết định cứ 3 ngày mổ một con heo đen (mỗi con chừng 20kg) làm thức ăn cho bộ đội. Nguồn thu từ tăng gia mỗi năm từ 60-70 triệu đồng giúp đơn vị mua các thiết chế văn hoá, sắm cây cảnh, xây dựng cảnh quan môi trường, tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao. Nhiều lần Bộ Tư lệnh Quân khu 5, Bộ CHQS tỉnh Đắk Lắk về kiểm tra đều khen ngợi Đại đội Trinh sát không chỉ huấn luyện tốt mà còn tăng gia giỏi.

Khi chúng tôi vào chiến trường, mỗi người được cấp phát hai bịch thuốc lào. Người ta nói rằng “thuốc lào chống ngã nước và kháng sốt rét”. Có thể lắm vì hàng trăm năm trước cha ông ta cho rằng “Thuốc lào là một thứ lá cây tên chữ gọi là tương tư thảo. Kỳ thủy ta cho thuốc ấy trừ được sơn lam chướng khí” (Phan Kế Bính – Phong tục Việt Nam, NXB văn hóa Thông Tin, trang 450). Chẳng biết sao nhưng đối với lính ta nó là “heroin” của con nghiện.
+ Còn nhớ trên đường vào, khi còn ở Quảng Bình dân ở đó trồng nhiều cây thuốc lá. Bọ, Mệ hút thuốc lá rất diệu nghệ, vê lá thuốc lại, ngậm môi, đưa lưỡi là có điếu sâu kèn. Ngậm môi, châm lửa là hút cho đến lúc vứt đi, không cần tay mà điếu thuốc cứ qua lại trên môi như làm xiếc. lính ta không bắt chước được, thuốc rất nặng, nặng hơn cả thuốc lào nên mua (hoặc xin) lá thuốc về, thái mỏng, cho nước vắt bớt cho đỡ nặng, phơi khô rồi lại phun nước đường vào, sao tẩm để hút. Khi hút thì hoặc là hút kiểu thuốc lào hoặc đi mua giấy cuốn thuốc lá về cuộn để hút. Giấy mua ở cửa hàng thì hai hào được 10 mét (phụ cấp lính binh nhì là 5 đồng). Chỉ cần mua 4 hào thì đo và cuộn giấy cũng hết cả giờ; lính ta anh nào sát gái cũng “đã đi được hết bài” rồi. Hồi đó khác với bây giờ, bởi cả xóm cả xã “bói” đâu ra thanh niên trai tráng, chỉ rặt người già, phụ nữ và trẻ con thôi. Cánh thanh niên trai tráng còn hiếm hơn cả “mì chính cánh”. Có cô em (thực ra là chị vì nhiều tuổi hơn) thấy mình “nghiêm” quá, đánh bạo “em đây, anh muốn gì thì tùy , chỉ xin không coi khinh em thôi”. Nào ai giám nói xấu phụ nữ bao giờ, đó là thực tế, vả lại có xấu không nhỉ? - hoàn toàn không, nó là nhu cầu bình thường như cơm ăn nước uống hàng ngày. Cũng khoan nghĩ tới “tình dục” vội. Ngay với lính ta hàng nửa năm không nhìn thấy phụ nữ khi gặp dù chỉ tà lưa tán tỉnh chòng ghẹo một lúc cũng đã vơi đi “cơn khát giới tính rồi”. Vậy nên với họ khi gặp thanh niên trai tráng thì có “liếc mắt đưa tình” hay “lấm la, lấm lét” như “quạ vào chuồng lợn” cũng là lẽ thường tình thôi.

+ Còn nhớ khi thủ trưởng xuống thăm anh em ở trận địa chỉ cần có thuốc lào thôi cũng xôm lắm rồi “hoan hô thủ trưởng”, “nhất thủ trưởng”, thậm chí “thủ trưởng muôn năm”, tuy có thể có thuốc lá điện biên, tam đảo, nhưng chỉ nhất thời thôi. Chỉ có thuốc lào là nhất. Hèn chi hôm nay người ta toàn cúng thuốc lào và “mỗi bàn một bao thuốc lá điện biên” (tam đảo đã mất thương hiệu rồi). Tâm lý của lính ta ít quan tâm tới chiến lợi phẩm trừ khi là “cái ăn” và “cái hút”. Còn lại chỉ lo đánh nhau ít ai quan tâm. Vả lại nó không “an toàn” nhất là khi bị thương nặng phải cáng ra sau. Cùng lắm là gửi lại cho vận tải và “nhắn nhe” trả lại thuốc lào.


+ Còn nhớ chính tôi đã đổi hai gói thuốc lào lấy hai khẩu súng AK. Chuyện là khẩu đội tôi chỉ được trang bị một AK cho tôi và một K63 cho khẩu đội phó, còn lại vác súng và đạn pháo. Khi ở ngoài chẳng ai “ôm” thêm. Nhưng khi vào trong chốt thì muốn hay không cũng cố trang bị cho mình một khẩu súng và vài trăm viên đạn coi như bất ly thân. Hai băng đạn buộc đầu đuôi ở súng với 60 viên, hai băng và ít đạn rời ở lưng. Kể cả khi đi vệ sinh thì cũng phải gác súng trên vai nếu không dễ bất ngờ thành tù binh ngay. Khi khẩu đội ở Triệu Thuận chuẩn bị vào chốt thì gặp phải một nhóm “tàn quân” từ chốt ra. Họ có thừa hai khẩu AK (của đồng đội hy sinh), chớp lấy cơ hội tôi xì ra hai gói thuốc lào đổi được luôn. Nói là đổi thuốc lào lấy AK là thế thôi, súng vẫn trong tay quân mình chẳng mất đi đâu, chẳng phạm luật. Sau trận đầu tiên chúng tôi đã có đủ AK cho anh em.


Lính ta hay dùng ống pháo sáng làm điếu (dễ làm, thuận tiện và gọn nhẹ). Do hiếm thuốc nên nếu vê điếu to cỡ hạt ngô thì bao con mắt nhìn, lúc đó phải hút chung, nghĩa là nửa chừng phải buông cho anh sau hút, lắm lúc xì xái ra còn nhặt lại. Nếu không thì vê diếu bằng hạt đỗ, kéo hết mình, càng say càng sướng. 


Vì sao thế ư? Hồi đó như vậy chỉ là phản xạ tự nhiên, giờ ngẫm lại may ra lý giải chút nào. Thuốc lá không có, thuốc lào không đủ. Một tổ hay hai chốt trong một căn hầm, cả ngày liên tục 24/24, kéo dài nhiều ngày căng thẳng. Ăn thì chủ yếu lương khô, thỉnh thoảng được nắm cơm vất, có khi lại đổi bằng chính mạng của đồng đội mang vào. Uống thì lấy nước vũng (có khi chính nơi đồng đội vừa hy sinh), cho viên thuốc lọc nước vào để lắng mà uống. Biết làm sao bây giờ, chỉ có vậy. Ngủ thì thay nhau chợp mắt khi yên tiếng súng, mà nào có được nhiều nhặn gì đâu. Thường xuyên phải canh giữ, phỏng đoán tình hình, lựa kế đối phó. Chọn tình huống nổ súng, ném lựu đạn. Lúc đó chính điếu thuốc lào đã tạo ra sự thăng hoa, đê mê những lúc căng thẳng. Có thể nói điếu thuốc lào (hay nói đúng hơn là cái chất ni cô tin trong nó) đã làm chai lỳ các đầu dây thần kinh cảm giác, làm cho lính ta quên đi những căng thẳng của hoàn cảnh, tạo sự bình tĩnh xác quyết, vượt mọi khó khăn hoàn thành nhiệm vụ. Không biết các nhà khoa học quân sự của ta lúc đo do “vô tình hay hữu ý” đã vận dụng sáng tạo hiệu ứng gây tê giảm đau của chất ni cô tin mà các bộ tộc da đỏ châu Mỹ đã tìm ra từ trước công nguyên. Bởi khi đó cái chết rình rập, tiến cũng khó, lui cũng khó. Không ít đồng đội khi trong chốt không sao nhưng trên đường ra lại hi sinh dưới dòng Thạch Hãn hoặc trên đường ra khi dính pháo giàn. Có thể nói thuốc lào đã góp phần làm nên chiến thắng, thuốc lào vạn tuế.


Tôi viết những dòng này cho mình, cho đồng đội mình (còn và mất). Ai không là người trong cuộc xin chia sẻ cùng vì rằng khó hình dung. Nhưng “sự thực vốn không ưa trang trí”.


Thuốc lào – đặc sản lính thành cổ là vậy


Thuốc lào muôn năm

Quả Trứng Luộc và Lòng Mẹ

Trải qua những năm tháng lao tù nghiệt ngã và bây giờ sống tạm dung tại hải ngoại với bao nỗi khó khăn, nhưng may mắn là trí óc của tôi chưa bị hủy diệt. Tôi còn nhớ hầu hết những chuyện đã xảy ra về cuộc đời mình, về bè bạn anh em và những giai đoạn lịch sử đã qua. Nhưng, càng nhớ càng mệt óc vì trong vườn trí não đâu phải chỉ toàn là hoa hồng, thược dược, hướng dương, mà còn chen chúc quá nhiều cành gai và cỏ dại.



Tại các nước tư bản, cứ đến Chủ Nhật thứ nhì trong tháng Năm thì thiên hạ tổ chức Ngày Lễ Các Bà Mẹ, có lẽ xuất phát từ sáng kiến khai thác thị trường của các doanh gia để tăng kim ngạch thương mại. Có nhiều người con, đến ngày này mới chợt nhớ là mình có mẹ, vội vàng báo hiếu với một bó hoa tươi hoặc một tấm thiệp mừng gửi qua bưu điện. Một năm chỉ có một ngày thoáng nhớ đến ân đức sinh thành. Riêng tôi, Lòng Mẹ Việt Nam bao la nhân ái và hình bóng của người mẹ đã tạo ra tôi thành người là hơi thở ban cho tôi nguồn sống từng phút từng giây.



Sau mùa Thu tháng Tám 1945, chiến tranh vẫn còn tiếp diễn trên khắp nẻo quê hương. Từ Đà Nẵng, cha tôi dẫn bầy con tản cư về làng cũ. Cẩm Kim (thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam) bên kia bờ sông Hội An với bến đò bà Ba Nữ khuất sau một lùm tre già cằn cỗi. Chiến dịch tiêu thổ kháng chiến, bài Phong đả Thực, tiếp nối nhau khốc liệt, ngay đến cỏ cây cũng không dám ngẩng cao đầu. Thôn xóm được lệnh giết chó để ban đêm du kích đi qua không còn tiếng sủa.



Ban ngày máy bay chuồn chuồn của Pháp quanh quẩn bay sát ngọn tre, loại máy bay, mà lũ trẻ chúng tôi thường gọi là Bà Già. Mỗi lần nghe tiếng máy bay lượn qua lượn lại quanh làng, cả nhà ùa chạy xuống hầm đất sâu dưới lùm tre để trốn. Tôi cố ý chạy sau cùng, lén núp bên gốc mít, dùng chiếc ná cao su mà lúc nào tôi cũng giấu sẵn sau lưng quần, lắp đạn là một viên đá mài nhọn để bắn lên máy bay. Nhịp tim tuổi ấu thơ đập thình thịch, hồi hộp chờ đợi máy bay rụng xuống. Tôi lại bị một trận roi toét đít vì tội chọc giận Bà Già và bị phạt phải đi đào củ nén đem rải xuống hầm để trừ rắn. Lại được dịp chui xuống hầm ngồi chơi với mấy con cóc. Bác và cha tôi trao quyền quản trị gia đình gần hai chục miệng ăn cho người anh cả của tôi. Anh có tính hay phòng xa, sợ cả nhà bị đói trong thời kỳ tản cư cơ cực, cho nên từ ang gạo tẻ đến thúng khoai sắn đều phải tiết kiệm để ăn lâu dài. Cha tôi thường nói ăn rồi ngồi không, của biển của sông cũng cạn. Ban đầu mỗi ngày ăn hai bữa, một cháo một cơm, rồi dần dần đến một cháo một khoai mà cũng không đủ sống.



Chúng tôi tuy tuổi còn thơ dại, được sinh ra trong nhung lụa, nhưng đến lúc này cũng phải làm việc lam lũ suốt ngày. Hừng sáng tôi phải xách nồi đi mua nước hến, chạy lúp xúp qua các đường mòn quanh lũy tre xanh, nhọ đen dính đầy hai bắp chân khẳng khiu. Rồi ra gò mả tìm hái rau dền rau sam mọc hoang đem về nấu canh. Lấy bẹ chuối khô làm bù đài khoanh hai bàn chân để trèo lên mấy thân cau cao vút, hái quả đem bán với lá trầu mọc sau vườn.



Qua đò đến chợ Hội An mua thức ăn rồi về nấu cơm, còng lưng thổi lửa rơm, khói đùn lên chảy nước mắt. Xay lúa, giã gạo, bằm chuối nấu cám heo, hái dâu nuôi tằm. Đến mùa thì làm phụ cấy phụ gặt, lén lấy lúa đem đổi bánh bèo ăn bên bờ ruộng. Anh em chúng tôi làm quần quật suốt ngày nhưng có lẽ tôi siêng nhất và dễ bị sai khiến nhất nhà. Nhỏ con mà nhanh như sóc. Thoáng một cái là chạy đi bắt bọ rầy (quê tôi gọi là bù rầy), câu ếch, thộp châu chấu, bẫy chim về nướng ăn, độn thêm muối ớt cho nhiều để vừa ăn vừa hít hà cho đã thèm. Mỗi lần bẩy con chim sẻ, (dùng cái rổ có chống que tre cột sợi dây dài, rải vài hạt gạo, ngồi núp sau cánh cửa thấy chim nhảy lò cò vào giữa rổ là giật sụp) tôi đem nướng mời cha ăn, phần tôi chỉ nhai cái đầu chim bé tí. Trưa nào tôi cũng rình bẩy được ít nhất một con chim sẻ. Cha tôi nằm ngủ lim dim trên ghế trường kỷ, chỉ cần nghe tôi nói nhỏ, Ba hả miệng ra, là người vẫn nhắm mắt mà hả miệng, nhai con chim nướng. Với đầu óc ngây thơ, tôi sung sướng nghĩ rằng mình đã nuôi được cha bằng thịt chim sẻ.



Tôi bắt cả nhện mang đầy bọc trứng trắng và luôn cả thằn lằn (thạch sùng), rắn mối, để nướng ăn chơi, thường hối lộ một phần cho người anh kế để khỏi đánh lộn nhau. Tuổi thơ đầy cơ cực vì chiến tranh nhưng cũng ngập tràn kỷ niệm thương yêu, suốt đời không quên được. Buổi tối, bên ngọn đèn dầu leo lét hoặc ngồi ngoài sân sáng trăng, cha và chú tôi dạy chúng tôi học, không có giấy bút phải dùng chiếc đũa tre vót nhọn viết lên lá chuối già đã hơ qua lửa để khỏi bị rách. Cha tôi thường ẵm tôi ngồi trên đùi, mặc dù tôi đã trên 10 tuổi, và bắt học thuộc lòng cửu chương, từ hai lần hai là bốn đến chín lần chín là tám mươi mốt. Học tiếng quốc ngữ rồi đến chữ Hán và chữ Pháp, nhưng không dám đọc to vì sợ có ai nghe được thì chết, riêng về chữ Pháp là điều cấm kỵ, bị kết tội Việt gian, mặc dù tôi chẳng hiểu nghĩa Việt gian là gì. Cha tôi dạy học chữ Pháp theo cách học thuộc các câu ve,ợ có vần điệu, lên xuống, trầm bổng như giỡn chơi. Bớp (boeuf) bò, sư tử li ông (lion), sơ vanh (cheval) con ngựa, mu tông (mouton) con cừu. Hoặc cái nhà thì gọi me-dông (maison), la se (la chaise) cái ghế, xa-lông (salon) để ngồi. Cứ như thế mà tôi lải nhải suốt ngày, thuộc không biết bao nhiêu tên thú vật và những ngữ vựng thông thường trong tiếng Pháp. Mấy chục năm sau, mỗi lần tôi ghé lại Paris trên những bước đường công tác, tôi thường đứng yên lặng nhìn tháp Eiffel hay soi mình bên dòng sông Seine để thấy lại hình bóng người cha già bên lũy tre xanh đã âm thầm dạy tôi những câu vè đầy sáng tạo, ơn dưỡng dục này đã thấm vào máu thịt hôm nay. Lúc bấy giơ, mẹ tôi bị bệnh lao phổi cho nên phải ở riêng ngoài một chòi lá, cũng trong khu vườn, để khỏi lây bệnh cho con. Những đêm trăng sáng, khi chúng tôi quây quần bên cha để học, tôi thấy mẹ nhẹ nhàng từ chòi bước ra, yên lặng ngồi cách xa chúng tôi vài bước.



Nụ cười của mẹ đầy hạnh phúc trong ánh trăng vàng vặc. Dường như mẹ chỉ có một ước mơ duy nhất là được chạy đến ôm từng đứa con vào lòng cho thỏa tình mẫu tử. Tôi ngồi trên đùi cha, lẩm nhẩm mấy câu vè Pháp ngữ, chợt nghe tiếng ho khúc khắc của mẹ, tiếng ho như đang cố dằn xuống, nghẹn đầy cuống họng. Tôi ngừng bặt, nhìn mẹ và chợt thấy mẹ hóa thành một bà tiên thật đẹp, ngồi dưới ánh trăng sáng mỏng như lụa. Trong trí óc ngây thơ và qua bao nhiêu chuyện cổ tích cha tôi kể lại, bà tiên lúc nào cũng đẹp và hiền.



Cha tôi cũng thường khoe trước đây mẹ là hoa khôi của vùng trời Đà Nẵng. Suốt đời tôi vẫn tin điều đó và mẹ mãi mãi là bà tiên của tôi. Bà tiên đã sống bên tôi qua bao nỗi thăng trầm của cuộc đời sáu mươi năm lẻ và đã từng hiện về trong chốn lao tù biệt giam để xoa dịu cho com những vết thương tra tấn đọa đày.



Cuộc sống tản cư gian khổ của gia đình chúng tôi cứ thế trôi qua, tuy tận cùng cơ cực nhưng đầy cả tình thương êm ấm. Chỉ có bác và cha tôi vẫn thường lộ vẻ trầm ngâm lo lắng và mẹ thường lén nhìn chúng tôi chúng tôi với tiếng thở dài dứt ruột. Một đêm, vào khoảng giữa năm 1947, cô ông Diên – người quản gia già trước đây của gia đình – rụt rè đến thì thầm chuyện gì đó với bác và cha tôi. Tôi đứng bên cửa gian nhà trên, qua ánh sáng vàng vọt và chập chờn của ngọn đèn dầu phọng, thấy mắt cha tôi bừng lên, gật đầu nhưng không nói. Mấy ngày sau, bầu không khí trong nhà tôi đầy vẻ bí mật bao trùm. Chúng tôi bị cấm không được đùa giỡn như trước, buổi tối ăn xong phải đi ngủ sớm để cho người lớn bàn việc riêng. Tôi tò mò, cố tìm hiểu câu chuyện vì thấy mẹ tôi vì thấy mẹ tôi và hai người chú ruột cũng được mời lên nhà trên, thì thầm bàn luận.



Đây là lần đầu tiên, kể từ ngày mẹ tôi bị bệnh phải sống riêng ngoài nhà chòi, tôi thấy mẹ ngồi bên cha. Hình ảnh cha mẹ già như đôi chim bên ánh đèn dầu, gật gù âu yếm.Tôi muốn chạy đến chen vào giữa cha mẹ, nhưng bị người anh cả trừng mắt ngăn cấm. Chuyện người lớn, không được xen vô. Vài ngày sau, ông Diên lại đến ở chung nhà, có mang theo ít áo quần và im lặng giở một mớ gạo bọc vào gói nhỏ. Một buổi tối, tôi đang ngủ trên tấm ván kê sát bàn thờ ông bà nội, chợt có ai lay chân, tôi giật mình mở mắt ra, lờ mờ thấy bóng mẹ đang ngồi bên cạnh tự bao giờ. Bầu trời khuya đầy sao đêm với ánh sương chiếu qua khung cửa nhỏ. Tôi quên mất lời bị cấm không được gần mẹ vì sợ lây bệnh, vùng ngồi dậy ôm cứng cổ mẹ, người anh nằm kế bên cũng thức giấc. Trong bóng đêm, mẹ tôi nói nhỏ: – Má sắp đi xa rồi, mấy con ở nhà chờ má về. – Má đi đâu? – Má đi với hai chú ra Đà Nẵng đòi lại nhà mình, Tây chịu trả rồi. Má cũng đòi lại tiền nhà mấy năm nay, đem về nuôi mấy con. Má thấy mấy con khổ cực quá, má chịu không nổi nữa. Rồi má tìm cách đem mấy con ra lại Đà Nẵng mà sống và đi học. – Tôi cứ ôm cổ mẹ, không nói gì hết. Cổ mẹ có mùi dầu cù là thơm thơm. Tôi ôm bà Tiên của đời tôi, chỉ sợ mẹ biến mất.



Mấy ngày sau, cha tôi lộ vẻ bồn chồn, đi lên đi xuống trong nhà và thúc nấu một nồi cơm trắng nhỏ. Trời sập tối, có tiếng chim cú kêu sau vườn. Cha tôi bảo chúng tôi ra ném đá cho nó bay đi, sợ bị xui xẻo. Lại có tiếng chim tu hú bên đụn rơm. Ông Diên ngồi sau bếp chẻ tre, bó thành cây duốc. Vào khoảng giữa khuya, theo thường lệ thì chúng tôi đã đi ngủ từ lâu rồi, nhưng hôm ấy chẳng có người lớn nào để ý đến đám trẻ con. Cho thức, nhưng không được nói chuyện ồn. Mẹ tôi từ nhà chòi bước ra, mặc bộ áo quần đen theo kiểu Tàu, tay cầm chiếc nón lá và một bọc vải nhỏ, đi thẳng xuống nhà bếp tìm tôi. Cha tôi vội bước xuống, liếc mắt nhìn quanh không thấy ai, chỉ có tôi đang đứng bên cạnh cối xay, người vịn vai mẹ tôi và nói khẽ: – Mình có nhớ mang đủ giấy tờ chưa? Đi rồi về mau nghe. – Mẹ tôi mỉm cười gật đầu. Tôi chạy đến, cha tôi vội rụt tay lại, không còn vịn vào vai mẹ tôi nữa rồi từ từ bước lên nhà trên. Sau này khi khôn lớn tôi mới thấu hiểu mối tình kín đáo đầy lễ nghi kia của cha mẹ tôi, thương nhau ngập lòng nhưng chẳng hề lộ ra bằng cử chỉ âu yếm. Có tiếng bác tôi giục: – Thôi hè, ăn miếng cơm rồi đi kẻo khuya quá rồi. – Bác tôi chỉ nói trống không như vậy. Mẹ tôi vội vắt một nắm cơm đưa cho tôi. Lần đầu tiên từ mấy năm nay tôi mới được thấy cơm gạo trắng. Mẹ tôi thì ăn một chén cơm với nước mắm và lấy lá chuối khô gói một nắm cơm với muối, bỏ vào gói vải rồi uống một ngụm nước mưa trong lu sau hè.



Đến giờ ra đi, bác tôi lần mấy ngón tay bói một quẻ nhưng không nói gì. Mẹ tôi, hai người chú, ông lão Diên dẫn đầu, tay cầm bó đuốc nhưng chưa đốt lên. Chỉ có mình tôi lén chạy theo cha ra cổng để tiễn mẹ đi. Trong đầu óc thơ dại, tôi cứ tưởng mẹ đi chợ rồi mai về, Đà Nẵng gần hay xa, tôi không hiểu thấu, chỉ biết là mai mốt mẹ về thì mình được ăn cơm no và có áo quần mới để mặc. Mà sao mẹ lại đi chợ vào đêm khuya? Tôi suy nghĩ lung tung.


Từ ngôi miếu bên kia đường mòn chợt có bóng lửa bay lên. Cha tôi nhìn sững qua bóng đêm rồi nói thầm nhưng tôi nghe được: lửa là ly. Ly biệt. Tôi im lặng nhìn theo bóng mẹ và hai chú đi theo sau ông Diên. Chợt mẹ tôi quay trở lại nói nhỏ với cha tôi: – Thôi, ông đi vô đi, cho con nó ngủ, khuya lắm rồi. Tôi đi nghe. – Rồi mẹ kéo tay tôi, dẫn ra hàng rào dâm bụt.



Mẹ lần tay vào lưng quần lấy ra một quả gì tròn tròn, trăng trắng nhét vào tay tôi, khẽ nói: – Má để dành cho con cái trứng vịt luộc đây, con ăn đi rồi vô ngủ. Hồi nãy má ăn cơm với nước mắm rồi. Má không có đủ để cho mỗi con một trứng. Thôi, má đi nghe, mai mốt má về. – Mẹ tôi cúi xuống ôm hôn tôi rồi vùng chạy theo hai chú đang đứng chờ. Bóng bốn người khuất sau lũy tre làng đang rủ ngọn xuống như những bóng ma khổng lồ trong đêm khuya vắng. Đêm hôm ấy tôi cầm chết quả trứng vịt trong tay mà ngủ say lúc nào không biết. Mấy ngày sau, ông lão Diên trở về, cho biết mẹ tôi và hai chú đã đi được đến làng Cổ Lưu (nay là Điện Nam) ngủ tạm nhà dân, chờ ít hôm nữa thì theo đường cái mà ra Đà Nẵng. Nhưng, mẹ tôi đã đi biền biệt, cả nhà chờ mong vẫn không có tin tức gì. Bặt tăm người thân yêu nhưng gia đình không dám hở môi hỏi thăm ai vì sợ bị lộ, làng xã biết được thì nguy. Có mấy chú du kích xã, trước đây có người từng làm công cho nhà tôi, mỗi lần gặp cha tôi là khúm núm đứng ngoài sân, bây giờ vào nhà ngồi gác chân lên ghế trường kỷ, vờ hỏi mẹ tôi và hai chú đi đâu không thấy ở nhà. Cha tôi ấp úng trả lời đi qua Phố (Hội An).



Họ nhếch môi cười rồi ra về. Hai ba lần như vậy. Thời gian bình thản trôi qua trong gian khổ và tuyệt vọng của mọi người trong gia đình. Cha tôi trông già khọm đi, mỗi ngày ngồi yên trên ghế nhìn ra cổng, chờ mong. Cặp mắt người đờ đẫn. Hai năm sau, 1949, người anh cả của tôi có việc đi qua vùng cát trắng Cổ Lưu, đêm ngủ nhờ nhà một người dân trong làng. Tình cờ, hay là sự mầu nhiệm thiêng liêng nào đã đưa đường dẫn lối tới đây, anh tôi nhìn thấy chiếc ví nhỏ bằng da của mẹ tôi nhét trên trần nhà tranh. Hỏi người chủ nhà mơi biết là mẹ tôi và hai người chú đã từng ngủ tại đây một đêm mấy năm trước và đã bị Việt Minh (sau này đổi thành Cộng Sản) giết chết, kết tội đi liên lạc với Pháp. Cả ba người bị giết một cách dã man, chôn chung một hố cát bên cạnh bờ sông. Mười hai năm sau, 1949, khi khu vực này, thuộc tỉnh Quảng Nam, được bình định thì chúng tôi mới có dịp về đây để cải táng cho mẹ và hai chú. Chín người con còn lại, có người tương đối thành đạt trong đời, đã quỳ khóc bên bãi cát. Không dám dùng cuốc xẻng để đào vì sợ động, mười tám bàn tay của những người con mất mẹ cào xới từ từ hố cát sẫm vàng. Chỉ còn mái tóc dài của mẹ và ba bộ xương khô, có khúc bị gãy vụn. Chứng tích của sự tàn sát dã man mà vũ khí trên tay của kẻ thù – người đã giết mẹ tôi và hai chú là lưỡi cuốc chém ngang lưng. Khi chiếc sà lan chở ba quan tài qua sông về làng Cẩm Kim thì cha tôi đã đứng chờ trên bến từ lâu. Tôi đã lớn khôn, đứng kèm cha già để người khỏi ngã. Cặp mắt cha tôi mờ lệ – những dòng lệ còn sót cuối đời – và khi sà lan cặp bến, tôi nghe người run run kêu lên: – Mình ơi! Mình ơi!



Hơn nửa thế kỷ trôi qua, giờ đây tóc tôi đã bạc. Quả trứng vịt luộc ngày xưa mẹ cho tôi trước khi lên đường đã nuôi tôi nên người hôm nay. Từ một đứa trẻ sớm mồ côi mẹ mà không biết, mãi cho đến bây giờ, đã có bao nhiêu cái chết oan khiên tức tưởi do người CS gây ra? Người mẹ chỉ vì lòng thương con vô bờ mà đã bị kết tội oan ức, đến chết vẫn không hiểu vì sao? Và hôm nay, trong cõi đời này, có bao nhiêu người con đã mất mẹ vì một chế độ phi nhân, có còn cảm thấy hơi ấm của quả trứng luộc trong tay? Tôi lại tiếp tục lên đường cùng những người con hiếu thảo của Mẹ Việt Nam để cố góp công sức nhỏ nhoi vào đạo nghĩa phục quốc, và riêng tận đáy lòng luôn mong ước có ngày thỉnh rước hình bóng


ôn nghèo kể khổ

by

Hieu

Thỉnh thoảng em thường nói, sao anh không kể chuyện ngày xưa đi. Nhưng anh cứ lần khất mãi, hoặc hiếm hoi lắm kể được một lần thì cũng kể dè sẻn. Chẳng phải tại vì anh ghét ngày xưa, hay là không thích … “ôn lại quá khứ”, có khi còn ngược lại, chưa biết chừng :) Anh không tự hào, nhưng cũng chẳng có gì phải xấu hổ về nó cả. Với anh, ngày xưa chỉ là ngày xưa, trong khi hiện tại còn quá nhiều điều để quan tâm, để mà hưởng thụ.

Có lẽ tâm lý ngại kể chuyện ngày xưa một phần xuất phát từ cái cảm giác tẻ nhạt, khó chịu của anh mỗi khi phải nghe những người thế hệ trước (các bậc ông cha chú) kể về thời kỳ gian khổ, nghèo đói của họ. Những câu chuyện lặp đi lặp lại, nghe một lần thì thú vị, hai lần thì dửng dưng, ba lần thì chán và mười lần thì nghe cũng như là không nghe vậy. Những tình tiết quen thuộc, để rồi cuối cùng sẽ kết luận một câu đại ý như … đấy, ngày xưa chúng tao khổ sở vất vả như thế, còn chúng mày bây giờ thì … blah blah blah. Hay là … được như này là sướng lắm rồi, chúng mày phải biết … blah blah blah. Có lẽ ý của các cụ là muốn răn dạy các con, các cháu phải biết chịu đựng, và phấn đấu vươn lên? Trong khi đó, rất có thể anh đã nghĩ, ờ, khổ thế còn sống được, mình giờ ít khổ, chắc vẫn sống tốt, thôi khỏi cần vươn lên nữa, hì hì. Nhưng đã có ko chỉ một lần, tự dưng anh nghĩ, quái thật, giàu có khoe đã đành, đằng này khổ đau cũng khoe. Chắc chắn là khoe rồi, không thì sao lại có cái giọng kể đầy cảm hứng và tự hào như thế. Tại thời điểm của vài chục năm trước đó, khi đang vật lộn với nghèo đói, họ không thể có cảm giác hào hứng như thế, có khi ngược lại, đó là nước mắt, là nỗi đau, là buồn chán, tủi nhục v.v. Cảm hứng đó chỉ có khi họ đứng ở hiện tại nhìn về quá khứ, như một người mới leo lên khỏi vực thẳm vậy. Khi đó họ tự cho mình cái quyền được xếp trên những người đang đứng ở đó, những người mới sinh ra đã đứng ngang với họ rồi? Chẳng ai lại không thích kể về những chiến tích của mình, nhưng dùng nó để so sánh, để tự đặt mình lên trên người khác thì quả là không ổn. Dường như người ta coi khổ đau trong quá khứ là một thứ bằng cấp, thứ giấy thông hành cho hiện tại? Dường như chỉ có những ai trải qua khổ đau, nhục nhã thì mới được quyền đứng trên người khác? Liệu họ có biết rằng trước mắt người thanh niên kia cũng có cả một vách đá để leo lên, rằng vách đá đó cũng gồ ghề, gian khổ chẳng kém gì vực thẳm của họ hồi trước. Có một điều chắc chắn, đó là vách đá đó xếp trên một mức so với những gì họ đã trải qua, càng lên cao biên độ dao động càng lớn càng đòi hỏi những người có phẩm chất và có sức lực — một thứ mà có lẽ đã cạn kiệt ở họ.

Ôi, lại lạc đề rồi. Sơ sơ thế này nhé. Anh sinh ra ở một bệnh viện huyện mà cho đến bây giờ (sau mấy chục năm xây dựng, nâng cấp), mỗi khi về quê đi qua nhìn vào anh lại cảm thấy ngại ngại vì sự tồi tàn, bẩn thỉu của nó. Anh đã từng sống 2 năm liền (trước khi đi học) ở miền quê đó, giữa đồng bằng sông Hồng, không quá xa trung tâm theo đường chim bay, nhưng cảm giác xa xôi và lạc hậu thì … không bút nào kể xiết. Đại loại là chục năm trước mới có điện, năm nay mới có nước sạch để phục vụ sinh hoạt hàng ngày, cả làng thuần nông không có nghề phụ nào hết. Hai năm ở với ông bà, cảm giác còn lại có lẽ chỉ là một vài lần cùng bà ngoại đi chăn vịt ngoài đồng, và những lần bị ông bà mắng đứng ra ngoài ngõ ngóng mẹ. Xuất thân của anh là như thế đó, em ạ, cho nên nếu anh ghét những ai khoe khoang nguồn gốc, ghét những thứ elite kiểu

HN

gốc nọ kia thì cũng là chuyện bình thường, phải không? I was not born one of them! Hê hê.

Chuẩn bị vào lớp một thì anh được ra thị xã sống với mẹ và em gái. Bây giờ lên chức thành phố rồi, đúng ra là từ hơn chục năm trước, nhưng anh vẫn quen gọi nó là thị xã (mình còn như thế chả trách sao các cụ cứ mãi kể chuyện ngày xưa, hic hic). Khu tập thể anh sống là của trường cao đẳng, nằm ở rìa thị xã, một bên là trường học, một bên là ao hồ, nhà dân và đồng ruộng, trước mặt là một sân vận động to đùng, đi ra ngoài ngõ một chút là một khu hàng quán chợ búa, là trạm dừng chân của những chuyến xe chở hàng trên đường quốc lộ. Vị trí địa lý tạp nham như thế nên con người cũng tạp nham, và nếu anh có tạp nham thì đó cũng là điều hợp lý, em nhỉ ;) Hồi mới ra, anh ghét dân thị xã lắm, đúng hơn là ghét bọn trẻ con ở đó. Người gì mà chậm chạp, yếu đuối — đấm phát đã trúng, vật phát đã ngã rồi. Thế nên suốt mấy năm cấp một, anh cứ đánh nhau triền miên (bây giờ lớn thì đỡ rồi), khi thì cầm đầu bọn trẻ con khu mình đánh nhau với khu khác, khi thì cầm đầu lớp mình đánh nhau với lớp khác. Hoành tráng nhưng cũng quân tử chẳng kém gì các trận Hàm Tử, Xích Bích ngày xưa đâu. Ôi, quả là tuổi thơ dữ dội :-D Nhà anh hồi đó chẳng có TV, càng không có đầu video (cái này thì bây giờ … vẫn không có), nhưng được cái là có nhiều sách, lại không tiết kiệm dầu với điện, nên cứ buổi tối là trẻ con tụ tập rất đông. Anh không nhớ là hồi bé anh có đọc nhiều lắm không, nhưng mà vì mất nhiều sách quá nên mẹ phải đi làm thêm một cái dấu có chữ tủ sách + tên của hai anh em, bây giờ vẫn còn. Bây giờ nghĩ lại, chắc hồi xưa mình cũng là tòng phạm nên mới bị thất thoát sách báo truyện nhiều như thế chứ, chỉ không biết là đổi lại được cái gì — sách, hay là bánh kẹo, đồ chơi?

Còn buổi chiều tối, khi mẹ chưa đi dạy về, thì anh có nhiệm vụ … e hèm, đó là cơm nước, cho lợn, cho gà ăn, đánh vật với cái bếp trấu. (Tự hào vật! Hồi nhỏ mình chăm ko kém ai, bây giờ thì mình cũng lười ko kém ai!) Em còn nhớ cái bếp trấu không nhỉ? Mỗi lần nó mà tắt thì khói cay xè, mịt mù trời đất. Đầu tiên là cho gà ăn cám khô trộn với ít rau (sống) thái nhỏ. Sau đó là đun một ít nước sôi, trộn với cám lợn (đã nấu chín từ hôm trước), cho thêm tí mắm tép vào nữa thì đỉnh, đảm bảo lợn ăn tồm tộp, nhưng con lợn cũng cáo già, ăn được một lát hết mùi mắm là nó lại ỳ ra đấy, thế là lại phải lấy đầu đũa chấm tí mắm cho vào máng lợn ngoáy ngoáy, cu cậu lại chén tiếp, ngon lành =)) Sau này anh cứ gọi chó là lợn, ko phải gì thù ghét gì nó, chỉ là vì nhớ con lợn mình đã nuôi hồi trước. Còn chuyện cơm nước, khoe thì có vẻ hoành tráng thôi, chứ hồi đó đơn giản, chỉ có nấu cơm và luộc rau, không còn món gì khác, vì có thịt đâu mà nấu, mẹ làm một bữa thì có mà ăn dè cả tuần. Đầu tiên là nấu cơm bằng nồi gang, đến khi cạn nước thì bỏ xuống dưới phủ than trấu lên ủ, nồi gang giữ nhiệt tốt nên cứ như thế cơm cũng chín được, tiếp tục là tiết mục luộc rau, rau thì đã được nhặt trong lúc nấu cơm và đun nước rồi, chỉ đợi nước sôi bỏ tỏm phát vào, đảo 2 lần vớt ra là chín. Quá gọn! Nhìn thì có vẻ nhiều, nhưng cũng chỉ có thế, lại ôm đồm một công hai ba bốn việc nên ào ào nửa tiếng 45 phút là xong. Mẹ anh qui định, cứ học xong, cơm nước xong thì được đi chơi. Cả sân vận động to đùng trước mặt, cám dỗ thế thì bố ai mà chịu nổi :-)

Nói chung bản chất của anh là cực kỳ ham chơi, nhưng mọi người lại hay hiểu nhầm, nghĩ anh ít chơi bời. Thực ra là vì anh ham chơi quá nên đôi khi … không thèm chơi vớ vỉn, để dành sức chơi tới bến luôn một thể cho đã. Hê hê. Sống ở đó chơi còn chưa đủ, cứ mỗi dịp ba tháng hè là anh lại “được” đi chơi khắp nơi, đại loại là biên cương hải đảo đủ cả (đùa đấy, hihi). Sau này cấp 3 ngày đạp xe 2x10km, nhưng tính cả 3 năm đi học chắc vẫn không dài bằng những con đường … tuổi thơ của anh. Nghe kể thì sông dài biển rộng lãng mạn lắm, hihi, nhưng có bị buộc phải đi như thế, suốt 3 tháng hè, xa bố mẹ, em gái, thì mới biết thế nào là đau khổ. Thôi thì chắc tại cái số mình có nốt ruồi ở chân :-D

Sơ sơ bề nổi những năm tháng tuổi thơ (đến hết cấp 1) yêu dấu chỉ có thế. Đi sâu chi tiết kiểu như một cái tóp mỡ cắn làm tư ăn dè, gạo mới xát ăn không cũng ngon, hay chuyện cái hố xí công cộng mỗi lần bước vào ko tìm được chỗ để chân thì … hơi bị khiếm nhã. Thôi thì ta để dành cho những colloquial talks dịp khác vậy. Tiếp theo, hết năm đầu cấp 2 (tức là hết thời kỷ cổ đại) thì anh chuyển lên ở hẳn trung tâm đô hội (tức là thủ đô yêu dấu của chúng ta) thì coi như là bắt đầu của một giai đoạn mới rồi, đêm trường trung cổ hay còn gọi là thời kỳ căm ghét người

HN

. Cuộc đời anh thực ra chẳng phải là cái gì cao xa, to tát, chỉ là một chuỗi những đau khổ và căm ghét nối tiếp nhau mà thôi. Sau này tha hồ mà tiếp tục ôn nghèo kể khổ để hành hạ con, hành hạ cháu, em nhỉ :-D

Hồi bé nhà tớ cũng nuôi lợn, đến giờ tớ vẫn ác cảm với lợn là thế, sợ nhất là khi bố mẹ mua về bã đậu, mùi kinh không thể chịu được. Nuôi lợn chỉ thích nhất là lúc bán lợn, để lại mấy kg thịt để ăn, thế là cả tuần ăn thịt lợn thỏa thích, không phải dè xẻn, một bát hai miếng thịt như ngày thường. Cái tục một bát hai miếng thịt ấy trở thành một thói quen cho tới mãi tận sau này mình mới bỏ được, sợ thật, mà nghĩ lại thì cũng thấy buồn. Nhà còn nuôi gà nữa chứ, mỗi anh em nhận một con gà là con gà của mình và tới sinh nhật sẽ được mẹ làm thịt con gà đó và ưu tiên phần ngon : tim, đùi cho người có sinh nhật. Một năm chắc được ăn thịt gà chỉ vào các dịp: Tết, sinh nhật ba anh em và các ngày giỗ trọng. Nói chung tớ thích gà, thấy bọn chúng dễ thương nhưng rất ghét lợn, vừa xấu xí vừa tham ăn vừa có mùi kinh.

Hồi trẻ con, tớ cũng hay bị tống về quê. Hồi còn bé tí thì cũng hay chơi với đi lang thang với bọn trẻ ở quê, nhưng lớn lên một chút thì mình không hòa nhập được với bọn đó nữa nên toàn chơi một mình. Nói chung là tớ không thích về quê nhưng hầu như hè nào cũng phải về mà về lâu nữa chứ, thế mới bực mình. Ấn tượng về một miền quê mênh mông sông nước, những chiếc xà lan ù ù trên sông mỗi sáng, con đê dài tít tắp mà mình thường nghĩ cứ đi dọc con đê này là về tới Hà Nội “nhà mình” – một ý nghĩ lúc đó thấy rất amusing, những người dân quê mộc mạc và thuần chất nông thôn Bắc bộ cũng là những dấu ấn khó quên trong tuổi thơ của tớ.

Nghe kể chuyện ngày xưa



Miên man với lời giải thích của nhà sử học đáng kính, tôi lạc vào khu rừng bán thực phẩm phục vụ Tết lúc nào không hay. Dân Sài Gòn ăn Tết không cầu kỳ như Hà Nội. Mâm cỗ mời ông bà về ăn Tết cũng không bày biện nhiều món như ở

Huế

. Người

Sài Gòn

ăn Tết bằng bành tét, phong phú thức ăn từ thượng vàng đến hạ cám. Và ngày nay, người Sài Gòn ăn Tết bằng cách đi du lịch.



Tết ông Táo. Theo truyền thống, trưa 23 tháng Chạp, nhiều gia đình đã sắm lễ đưa ông Táo về trời, trình Ngọc Hoàng cách ăn cốt ở của gia chủ tại trần gian. Chiều 30 Tết, người ta lại lục đục sắm lễ bàn thờ mời ông Táo về.



Trong tâm tưởng của người Việt, Tết cổ truyền với những phong tục truyền thống vẫn là một điều gì đó thiêng liêng và đáng được trân trọng. Ngày 30 Tết. Các gia đình truyền thống ở nông thôn bắt đầu dựng cây nêu trừ tịch. Với người Việt, bữa cơm cúng ông bà cuối năm rất được coi trọng. Đó không chỉ đơn thuần là mâm lễ cúng mời ông bà (người âm) về ăn Tết với gia đình mà còn là thời điểm để cả gia đình (người dương) sum họp.



Sau lễ cúng giao thừa, người Hà Nội có thói quen tràn ra đường, đi chùa hái lộc, chúc Tết ngay trong đêm và về nhà vào sáng sớm mồng 1. Giới trẻ Sài Gòn vài năm sau này cũng có thói quen đi chùa hái lộc. Tất nhiên, ý nghĩa những cuộc đi của 2 miền khác nhau. Tại cố đô Huế, người dân không có thói quen ở ngoài đường sau giờ khắc giao thừa.



Theo quan niệm của các cụ, nếu không về nhà trước giao thừa, cả năm chỉ biết lông bông ngoài đường, không dành nhiều thời gian cho gia đình… Nên nếu có việc ra khỏi nhà vào đêm cuối năm, những đứa con ngoan (dù đã trưởng thành) cũng cố gắng chạy về nhà để đón giao thừa tại gia. Truyền thống này ngày nay đã phai dần, song nhiều gia đình vẫn giữ như một thói quen hơn là điều bắt buộc. Và cách cảm về một không khí Tết nặng nghi lễ cũng ngày càng nhạt dần.

Ăn Tết Xưa

Chiều 27 Tết. Nhiều nhà đã lục đục hái lau lá chuối, lá dong gói bánh. Nghèo thì dăm ba lon nếp, khá hơn một chút trên chục lon. Cảnh thức đêm ngoài vườn trong cái rét ngọt cuối đông trông nồi bánh nghi ngút khói thơm lừng mùi lá, nếp, đậu xanh những hương vị ngọt ngào của đồng quên… đã trở thành kỷ niệm đẹp, khó quên trong tâm khảm nhiều người. Tết của những năm trước và sau 1980 chỉ là nồi bánh chưng, vài ba lạng thịt mỡ. Còn hạt dưa, mứt bánh thì nhà có nhà không. Cái nghèo khó bao trùm cả ba miền. Những năm 90, giới trẻ, chủ yếu nữ giới có phong trào ngâm các loại trái cây với đường để tạo thành loại thức uống lên men mời bạn bạn bè. Ngày đó, vài thùng bia để sẵn trong nhà mời khách 3 ngày Tết là quá xa xỉ. Song, dăm năm trở lại đây, một gia đình có mức sống tầm tầm cũng thừa sức rinh đôi ba thùng bia chất ở góc nhà.



Ăn Tết thời nay đã khác xưa. Ở xứ lạnh, cái rét cắt da của mùa đông nhiều khi chưa kịp ra đi để nhường chỗ cho nắng ấm của mùa xuân. Chính vì thế, ở miền Bắc và Trung, ta dễ cảm nhận không khí Tết với chút se lạnh, âm ấm của buổi giao mùa… hơn ở miền Nam. Có lẽ, đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến người Sài Gòn thích uống bia hơn là những loại rượu có rồng độ cồn cao. Để chuẩn bị ăn Tết thời nay, người Sài Gòn thường có thói quen kho nồi thịt với trứng và nấu một nồi canh khổ qua nhồi thịt để ăn dần trong ba ngày Tết. Trong khi đó, dân Hà Thành lại thích giò chả hơn. Họ nấu một nồi măng với giò để ăn Tết. Người Huế lại không có thói quen nấu dự trữ thức ăn nhưng lại thích thịt bò dầm nước tương, thêm dăm ba xâu nem tré nổi tiếng của địa phương làm thức nhắm. Siêu thị và chợ là nơi cung cấp phần lớn các loại thực phẩm ngày Tết: từ bánh cổ truyền như bánh tét, bánh chưng cho đến các thùng kẹo ngoại, cao cấp.



Người thành phố ngày nay không còn thói quen làm bánh ăn Tết nữa, mà thay vào đó là mua sắm ăn Tết. Âu cũng là điều dễ hiểu. Khó khăn về không gian buộc người ta phải từ bỏ (hoặc kìm hãm) niềm vui lãng mạn một thời vậy. Không chỉ vấn đề ẩm thực, người Việt còn ăn Tết bằng hoa. Nếu kể đến loài hoa chủ lực dành cho ngày Tết phải kể đến đào và mai. Người Hà Nội phải sắm bằng được một cành đào để trưng trong ba ngày Tết, dù giá mỗi cành có thể lên bạc triệu vào những năm đào mất mùa. Người miền Nam và Trung thích trưng mai hơn. Giá mai cũng ngày càng tăng bởi phong trào bứng nguyên cây đi bán ở nhiều cùng quên đang nở rộ. Sau đào và mai, vạn thọ, lay ơn và cúc là các loại hoa được cả dân 3 miền ưa thích. Tuy nhiên, trong cái sung túc thời nay, người Sài Gòn và Hà Nội sành chơi đã tìm đến các loài hoa cao cấp hơn như lily, lan ngoại. Người Huế đặc biệt thích lủng lẳng với nhánh lan rừng chưa kịp trổ hoa trước hiên nhà.



Ngoài hoa, quả là món quan trọng không thể thiếu trong ngày Tết của người Việt. Mâm ngũ quả được người miền Nam chú trọng với 5 loại trái: cầu-sung-dừa-đủ-xoài. Với cách phát âm của miền Nam được hiểu thành: cầu sung (túc) vừa đủ xài. Và mọi người nghiễm nhiên chấp nhận điều đó như một nét văn hóa. Cũng liên quan đến lỗi phát âm, người miền Nam không bao giờ trưng chuối vào ngày Tết, bởi theo họ, chuối có nghĩa là “chúi nhủi” cả năm, không cất mặt lên được. Tuy nhiên, người miền Trung và Bắc lại tìm bằng được một nải chuối có quả no tròn, cân xứng, đẹp mắt để chưng ở gian nhà chính như chứng tỏ sự thịnh vượng, sung túc, đề huề.



Và chơi Tết

Cụm từ chơi Tết theo đúng nghĩa “Tết Holiday” đang được các gia đình trẻ áp dụng triệt để. Dăm năm trở lại đây, giới trẻ Việt Nam bắt đầu hình thành thói quen đón xuân bằng những tour du lịch dài ngày.



Ngày xưa, người Việt rất kiêng cữ khi đóng cửa nhà vào 3 ngày Tết. Ở các vùng quê, đây là điều cấm kỵ. Năm mới đã không mở toang cửa đón lộc thì thôi, sao lại đóng cửa then cài? Tuy nhiên, với dân thành phố, điều này hoàn toàn trái ngược. Dân thành phố đi chơi Tết nhưng tâm trạng thì đề phòng kẻ gian nên nhà cửa luôn trong tình trạng rào dậu.



Nay, khi các gia đình trẻ quyết định phá cách bằng việc khóa nhà đi du lịch, những lo ngại về đóng cửa then cài cũng dần dần được bỏ đi. Về món quà biếu Tết trong 30 năm qua cũng có những thay đổi lớn. Quà tặng là những chai rượu nội và những gói mứt bánh nội cho sếp nay đã lỗi thời. Rượu ngoại, bánh ngoại, hoặc bèo nhất là vài thùng bia chở đến tận nhà người mình muốn tặng mới là hợp mốt.



Người miền Trung nay cũng không thua dân Sài thành, Hà thành trong việc vung tay cho khoản quà cáp. Những mòn quà tặng nhau ngày càng giá trị hơn, song, tình cảm gói ghém bên trong bao nhiêu thì người viết bài này không dám chắc. Xa xỉ hơn khi mua quà, chứ không phải vì tình nghĩa. Chỉ duy món ăn chơi này, với những ai coi trọng văn hóa Tết đã là một điều khó chịu. Không phải sự lược bỏ nào cũng được chấp nhận. Tuy nhiên, những thay đổi trong tư duy chơi Tết, đón Tết chứ không phải ăn Tết đang được nhiều người khuyến khích và áp dụng. Còn rất nhiều chuyện bàn về sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại giữa một cái Tết Việt đúng nghĩa với… Thế nhưng, tiếng nhạc xuân ở nhà bên đã cất lên rộn rã quá: “Tết tết tết tết đến rồi”.

Hì hì, định post bên 7x, nhưng cũng là dân Hà Nội, phải đóng góp cho box mình một bài viết chứ nhỉ. (Tớ vừa đua đòi nấu phở, lúc chờ nồi nước dùng sôi lơ đãng thế nào làm nó trào gần hết. Hơi điên tiết, ăn xong quay vào máy tính gõ lại những suy nghĩ của tớ lúc ấy, bù cho nồi phở nghiệp dư bị mất chất)



Có một bài viết nào đó trong TTVNOL nói rằng đặc trưng của Hà Nội là quá trình chuyển đổi từ làng thành đô thị. Tớ thấy như thế thật. Ngay cả bây giờ, đầu thế kỷ 21, Hà Nội đang tiếp thu vào mình những khu vực mà cách đây không lâu đúng là những làng thật sự: Ngọc Hà, Cổ Nhuế, Vĩnh Tuy, Nhân Chính? Khi nhớ lại thời thơ ấu của mình, tớ cũng thấy nó giống ở ?olàng? hơn là giống ở thành phố, nếu so sánh với trẻ con ở các thành phố lớn khác trên thế giới. Thậm chí cũng có đổ dế, đào củ mài, câu cá, bắt lươn, bắt rắn? chả giống gì ở Vienna, mặc dù nhà tớ chẳng xa trung tâm Hà Nội bao nhiêu, đi xe đạp 20 phút đến Hồ Gươm. Thế hệ bọn tớ là một thế hệ chuyển tiếp.



Ngõ nhỏ phố nhỏ, nhà tôi ở đó.

 


Đêm nằm nghe trong gió, tiếng sông Hồng thở than.



Và thế là, tớ được sinh ra trong thời chiến. Nhưng trong đầu không còn chút ý ức nào về bom đạn. Kể ra lúc lớn lên cũng thấy gần nhà có một cái vỏ bom to tướng, làm nơi trẻ con ẩn nấp khi chơi trốn tìm. Nhà tớ còn một tấm bản đồ năm 75. Tổng động viên, cha đang là giáo viên cũng nhập ngũ, bí mật quân sự không cho phép mẹ biết cha ở đâu. Mẹ bèn đánh dấu những nơi quân giải phóng tiến vào Nam. Rồi cha trở về nguyên vẹn, may mắn hơn nhiều người khác. Mẹ tớ là người Sài Gòn, đất nước thống nhất còn đem đến niềm vui đoàn tụ. Nhưng rồi những lo toan trong cuộc sống nhanh chóng lấn át sự vui mừng khi đất nước thống nhất.



Bây giờ, khi đã lớn, tớ mới hiểu những nỗi lo toan của cha mẹ. Như nhiều gia đình ở Hà Nội khác, lúc này miếng ăn đã không còn là nỗi bận tâm hàng ngày nữa. Lớp thanh niên bọn tớ đã trưởng thành nhòm ngó công ty nọ công ty kia, nhà nào khá giả còn bàn tính chuyện đất cát, chuyện cho con cái du học? Những ?ogiấc mơ con? bây giờ đã vượt qua khỏi chuyện chiều nay ăn gì, phiếu vải đã đến chưa, gạo mới hay gạo cũ. Nhưng ngày ấy? Những ngày cửa hàng mậu dịch có bán thịt phiếu, gạo sổ là cả một sự kiện. Cả ngõ cùng xôn xao bình phẩm, đi ra đi vào mùi mỡ rán, hành phi, mùi thịt kho thơm nức, dân mình vốn có tài trong việc tạo mùi (tớ đã làm điếc mũi các chú Tây mấy lần bằng những kinh nghiệm này). Tiêu chuẩn mấy lạng thịt một tháng được chế biến ngay với mọi sáng tạo. Người lọc hết mỡ rán ăn dần, người đem rang thịt giã ruốc cho trẻ con, có người luộc tất ăn một bữa rồi cả tháng ăn chay. Niêu tóp mỡ sau khi rán có khi dùng được cả tuần, nào rim, nào xào tỏi xào rau. (Ờ, 10 năm sau tớ lại một lần nữa nếm mùi tem phiếu, nhưng không phải ở Hà Nội, mà ở? nước Nga). Tớ có lần đọc một bài báo trong đó các phi công Mỹ bị bắt than phiền chế độ ăn uống trong nhà tù không chấp nhận được, nhưng tớ chỉ cười ruồi. Đâu chỉ tù binh Mỹ, bữa cơm của họ còn có chất đạm, cả Hà Nội hồi ấy thiếu thốn, cơm độn mỳ, su hào kho ăn cả tháng là chuyện bình thường.



Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay...

câu ấy trong một bài hát nào đó tớ nghe rất nhiều thời bé.



Trước cửa nhà tớ có một giàn mướp, mùa hè hoa vàng rực rỡ. Canh mướp ăn trưa hè mát ruột. Có nhà không trồng mướp thì cũng bầu bí sắn dây, mỗi lần đào sắn dây là cả một ngày vui. Nhà nhà tăng gia, khắp nơi vườn rau tự cấp, rau cải rau muống rau ngót rau đay, nhà này bán cho nhà kia (bây giờ tớ đang thèm một đĩa ngọn bí xào tỏi đây) Không thể tưởng tượng được Hà Nội ngày ấy khác bây giờ nhiều thế nào. Tớ còn vài tấm ảnh đen trắng, trông chang một miền quê nào đó, con đường đầu ngõ vết lốp xe đạp chằng chịt, cây cối dây leo um tùm. Có lần đi học, tớ còn bắt gặp một đám đông đuổi lợn rơi từ? ban công tầng 3 xuống đất. Kết quả của kế hoạch nuôi 2 triệu con lợn để phát triển nền kinh tế chăn nuôi gia đình

Ờ, mà ở Hà Nội lúc ấy còn có cả củ mài nhé, hoặc là một loại củ gì đó tương tự như thế, không hiểu sao lũ trẻ bọn tớ gọi là củ Hoài Sơn, tớ đào được hẳn một củ to đùng, dễ phải đến 4-5 ký. Hồi ở Nga có lần tớ gặp một bụi ngải cứu xanh rờn ngay sau khoa, hái về đúc trứng được mấy ngày, mấy chú Tây toàn trêu là mày giống... thỏ.



Thời ấy tớ chỉ biết vô tư chơi bời nghịch ngợm. Con trẻ con thường hay chơi đuổi bắt giữa những đường hào, những công trường cả năm vẫn thế. Buổi sáng đi học, trong túi có một cái rút dép, chạy nhiều quá đứt quai là hì hục rút, cho đến khi không còn rút được nữa thì vắt vai vác về nhà. Đi học về là quẳng ngay cặp sách lên giường, dép vào gậm giường, rồi biến. (Sau này có mốt gò trắng, nhựa trong có quai hậu hẳn hoi, ?oquân khu? đi cải tạo về thường trưng diện cùng với áo bay mũ cối nhập từ Liên Xô. Nhìn từ xa thấy một anh trông chân chất ngồi quán nước đang rít thuốc lào là phải lảng, lôi thôi ?onhìn đểu? là bị trấn khăn quàng đỏ như chơi). Việc nhà duy nhất là buổi sáng đi đá bóng về được mẹ sai ra cửa hàng rau gần Bạch Mai mua về một bó rau muống. Rau muống mậu dịch chở bằng xe tải vào đổ xuống cả một vỉa hè, xanh xanh, vàng vàng, trông xấu nhưng mà rẻ, tấp nập người xông vào chọn. Buổi trưa sau khi nghe tiếng còi báo yên lúc 12 giờ, vắt chân lên cổ chạy ra nhà bát giác để xếp hàng lĩnh bánh mỳ, đến nơi đã thấy người đứng người ngồi, người không có mặt xếp hàng bằng những viên gạch vỡ, nón rách, nón mà úp mấy viên gạch là những mấy người đã chiếm chỗ. Tiêu chuẩn 13 cân gạo một tháng, thường là 7 cân gạo 3 cân mỳ và 3 cân đổi bằng bánh mỳ. Vừa nghe câu chuyện cảnh giác vừa ngồi nhặt thóc. Vào thời ấy cái gì cũng quy ra phở, cái này được hai bát phở, cái kia năm bát.



Xếp hàng man rợ nhất có lẽ là xếp hàng mua gói đồ ngày tết (btw, cái hàng xếp dài nhất trong đời mà tớ đã nhìn thấy có lẽ là hàng người mong vào cửa hàng McDonals đầu tiên ở Matxcơva năm 92, dễ đến cả cây số, vòng quanh công viên). Nhịn ăn nhịn mặc cả năm nhưng có 3 ngày tết, trẻ con nhà nào cũng quần mới áo mới. Tính toán sắp đặt trước đó cả tháng. Ba nhà chung một nồi bánh chưng, tối 27 ánh lửa bập bùng, khoai vùi trong tro lấy ra vừa ăn vừa thổi. Lợn tiết kiệm đổ ra. Kéo nhau ra công viên Thống Nhất. Chụp ảnh. Nhặt pháo rơi. Vây quanh ông già nặn tượng. Không khí thật náo nhiệt, bây giờ ngày tết cũng không khác ngày thường bao nhiêu, giống như mấy ngày nghỉ cuối tuần.



Những trò chơi trẻ con thuở ấy rất đa dạng, phần nhiều là bằng những đồ tự tạo, nhiều khi thành mốt, cả Hà Nội rộ lên và cùng chơi. Khắp nơi trẻ con cầm một cái que đẩy một cái vòng sắt chạy leng keng, đến vỉa hè giật lên một cái điệu nghệ chạy tiếp, oai không để đâu cho hết. Mùa hè những cây nhãn trong khu đầy bọ xít, trẻ con lại có một trò chơi mới, đua bọ xít, vặt chân dán nhựa đường vào một miếng tôn. Đua xe 1 động cơ, hai động cơ, thậm chí đến 10 động cơ, trong đó có vài động cơ không thèm vỗ cánh. Rồi dính ve bằng crếp ngâm xăng. Đấy là những trò tớ thấy lạ lạ, chứ chơi bi đánh dáo, nuôi cá chọi, thả diều, chơi chun... thì chắc trẻ con ở đâu cũng chơi. Bây giờ thì thôi rồi, thằng em họ tớ chỉ có ngồi bắn Half Life suốt cả ngày thôi.



Buổi tối nằm trong cái chái nhà lợp giấy dầu, nhìn qua khe vách thấy một bầu trời đầy sao, kể cũng thú vị và lãng mạn. Nhưng nỗi khổ đến khi trời mưa, khắp nơi trong nhà là chậu, là nồi, có nơi chỉ là một cái ly để hứng những giọt mưa tý tách. Năm 84 thì phải, Hà Nội ngập lớn, cha vẫn tại ngũ, ba mẹ con ngồi lên giường, nước ngập mấp mé, nhìn thấy cả rắn nước loăng quăng bơi lượn trong nhà. Anh em tớ còn thích thú thả câu, mẹ thì lo lắng. Đi học tàu điện chết gí không chạy qua Trại Găng được, cặp sách đội trên đầu, cứ thế lội nước đến trường. Thế nhưng có một điều là bọn tớ hồi ấy lại rất chăm học, toàn rủ nhau đi mượn tạp chí Kvan về ngồi giải toán.



Không khí chiến tranh duy nhất mà tớ còn nhớ là những ngày tháng hai năm 79. Còn bé tý, tớ phải đội mũ rơm và đeo túi cứu thương đến lớp. Xung quanh nhà xuất hiện những hố cá nhân và giao thông hào được thanh niên xung phong đào bới. Không khí thật khẩn trương, radio phát bài

tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới?. Trẻ con bọn tớ lại lôi súng gỗ ra chơi. Chiến tranh với lũ trẻ con ngây thơ bọn tớ giống như một trò chơi. ?oLệnh bắt sống?, ?otrên từng cây số?, những Dianov với Popov lúc ấy là những thần tượng. Ôi, giá như con người chỉ...

make love, not war

thì hay nhỉ



Lớn lên một chút, tớ biết yêu. Cô bé thật xinh, thích Dianov, và tớ cũng thật lỳ. Dù tớ vốn nhút nhát, không có thể hình cũng như năng khiếu gì đặc biệt, tình yêu đã là động lực để tớ học (hy vọng gây ấn tượng). Mà đã nói yêu gì đâu, cầm tay cũng không. Nhưng cả hai biết rằng có một cái gì đó lớn hơn tình bạn,

vì mắt trong mắt nói rất nhiều

Kỷ niệm trong hành trang lên đường là một tấm hình 6x9 đen trắng. Tấm hình đã theo tớ rong ruổi ở xứ người.



Nhét vào đây thêm hai cảm nghĩ của tớ:



Ngày đặt chân đến nước ngoài: Cảm giác ấy vẫn còn trong đầu tớ như mới ngày hôm qua vậy. Thằng tớ lần đầu tiên bước chân lên cái máy bay IL86 to vật lúc mới 16 tuổi, nhìn cái gì cũng lạ, cũng thơm một mùi sang trọng. Thậm chí tớ sợ làm rớt đồ ăn ra khay, sợ sẽ làm bẩn một cái khay đẹp như thế. Các bác thông cảm, Việt Nam lúc ấy còn nghèo, chưa được như bây giờ. Máy bay xuống Sheremetievo 2, sân bay quốc tế, từ sáng sớm. Mùa hè nhưng nhìn qua cửa sổ thấy sương mù dày đặc. Bị bỏ đói cho đến trưa, bọn tớ được ùa ra canteen, nhìn món ăn nào cũng ngây ngất, có điều khi ăn thì không thể nào nuốt nổi, món nào cũng đầy váng sữa, kể cả súp và Salad (mấy năm sau ăn như điên, còn đổ thêm cả váng sữa vào đó nữa). Bước ra ngoài trời, mịa kíp, cái gì thế này, không gian trong không chịu nổi. Chả bù cho ở nhà, khói và bụi trên đường B52 đi học hàng ngày đã thành quen trong tiềm thức. Không khí trong vắt, tớ nhìn thấy cả những cái cây xa tít ở chân trời, trong đến mức tớ cảm thấy choáng, cứ ngỡ như ảo ảnh, phải ra đứng sau? cái ống xả xe buýt một lúc mới bình tĩnh lại được (j/k). Con đường vào thành phố thì dài, nhưng tớ thấy cũng như đường Nguyễn Trãi nhà mình thôi, nhà tập thể giống nhau như đúc, cứ một đoạn lại cảm giác mình lặp lại. Có điều, sao mà chúng nó to đến thế, lại sạch như lau như ly. Đầu buổi chiều, tớ trốn vào thành phố chơi, lang thang khắp nơi trong những bến tàu điện ngầm hai ba tầng được xây như những cung điện, dạo bước trên những viên gạch của phố cổ Arbat, đứng nhìn nhà thờ trên quảng trường Đỏ, cái mà tớ vẫn nhìn thấy từ bé qua tranh ảnh. Chắc là những người xung quanh lúc ấy có nhìn tớ thì sẽ thấy buồn cười. Một cảm xúc nổi bật trong muôn vàn cảm xúc mà tớ có lúc ấy, bây giờ tớ vẫn nhớ. Đó là mong muốn có bên cạnh mình một người, giá như người ấy có mặt ở đây cùng với mình, cùng chia sẻ bao nhiêu những cảm giác mình đang có, thì hay biết bao.



Ngày về: trên máy bay tớ cứ bồi hồi, chỉ mong cho mau đến nhà. Cô bạn gái tớ đã đi lấy chồng. Máy bay phải đổi rất nhiều chặng, càng gần Việt Nam thì càng đông người Việt, mấy tiếng đồng hồ cuối cùng từ Sài Gòn vào Hà Nội máy bay giống y cái xe buýt. Nhốn nháo, khạc nhổ, trẻ con khóc í éo, người lớn cãi cọ. Hành lý để khắp nơi, nào khăn mặt, nào giấy báo, nào mũ nón. Ấy là mùa hè năm 96. Trên máy bay đã thấy ruộng đồng nhà cửa nhom nhem. Đến Nội Bài, sân bay quốc tế lụp xụp. Ra đến cửa thì thấy người là người. Sao mà nhiều thế, vẫy, gọi, la hét. ?oCô ơi? ?obác ơi? ?ođi đằng này đằng này? ?onhìn cái vali kìa? ?oxê ra nào? ?oem về Hà Nội hả, để đấy anh xách cho?. Đường cao tốc Bắc Thăng Long bé tý, có đàn trâu đi ngang qua. Tay bám chặt vào ghế, tớ hoảng sợ trước những tiếng còi xe.



Nhưng tình cảm của tớ về quê hương thân yêu nhanh chóng thay đổi. Ký ức hiện về rõ nét. Tớ thì thầm với mình tên những con đường quen thuộc khi xe đi ngang qua. Đây Cầu Giấy, đường Láng, Ngã Tư Sở, Ngã Tư Vọng. Kia rồi hồ Bảy Mẫu rợp bóng cây, Đại Cồ Việt với những rặng Bằng Lăng tím... âm thanh phố phường mới hấp dẫn làm sao, ai cũng nói tiếng Việt, nghe cái hiểu ngay. Đến khi gặp mẹ già thì tớ đã hiện nguyên hình là đứa con trai Hà Nội. Những ngày sau đó tớ không nén nổi xúc động khi gặp lại bạn xưa. Cô hàng xóm bé nhỏ ngày nào, rất thích mài sắn dây, giờ đã là hoa khôi trường Ngoại Ngữ. Thầy giáo cấp hai tóc đã bạc trắng, sau một lúc vẫn nhận ra thằng học trò cũ. Bọn đồng lứa vẫn đá banh, đuổi bắt có thằng bây giờ vợ con đùm đề. Tớ cảm thấy thời gian ở VN là quá ít.



Quay lại châu Âu, tớ lại choáng lần nữa, lần này có điềm đạm hơn. Khi nhìn những phong cảnh bên này, tớ hậm hực một điều là người VN mình vẫn chưa được hưởng những sung sướng ấy. Bây giờ tớ đã quyết định, tương lai của tớ là ở VN.



Bên box ITC có một bác nào sống ở nước ngoài lâu mới về, post rằng ai bảo là sống ở Việt Nam là khổ, ở nước ngoài họ lo lắng đủ thứ, ở nhà tha hồ ăn chơi. Tớ lại thấy ngược lại. Những nỗi âu lo của người Việt mình, nó cứ bám lấy suốt đời, như một định mệnh. Thằng bạn trong một buổi chiều ngồi uống cà phê giữa quảng trường đầy chim bồ câu đã than thở ?osao tao thấy những khuôn mặt Tây ở đây nó sáng sủa hạnh phúc quá, cuộc sống thật đơn giản, không phải nghĩ ngợi nhiều, người Việt lo đủ thứ?. Một buổi sáng đi qua Ngã Tư Sở, giờ đi làm bị tắc đường, cả một biển người kẹt cứng, khói xe máy um cả lên, tớ có dịp ngắm nhìn những khuôn mặt người Hà Nội, đăm chiêu. Những nỗi lo muôn thuở, vụn vặt, lo đến cơ quan đối phó với xếp, lo học này học kia, lo lương lo thưởng, sáng sớm đẩy cái xe máy ra đường đã bắt đầu phải lo. Hát karaoke đấy, uống bia đấy, nhưng vẫn là khuôn mặt của những lo toan không dứt.



Thôi vậy nhỉ, kết thúc một cái:



Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường


Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ


Ai bảo chăn trâu là khổ...

Nắm xôi ngày ấy


    Trong cuộc đời mình, không nói đến những bữa cỗ bàn, cưới hỏi, giỗ chạp, những bữa ăn nhậu thả sức với bạn bè; tôi đã từng dự những cuộc chiêu đãi lớn tại các nhà hàng, khách sạn nhiều sao sang trọng trên khắp các miền với đủ các món ăn đặc sản Á, Âu... Những bữa ăn ấy thật ngon lành, thật ấn tượng! Nhưng những bữa ăn như vậy cũng chỉ để lại dư vị trong một vài ngày, cùng lắm là vài tuần rồi quên. Thế nhưng có một bữa “tiệc” đã qua đi hơn bốn mươi lăm năm mà tôi không thể nào quên được, cứ như vừa chỉ mới hôm qua...


    Dạo ấy, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc, quê tôi bước vào một cuộc "cách mạng" mới - cuộc “Cải cách ruộng đất”. Tôi mới lên học lớp 5. Như bao bạn nhỏ khác, tôi tham gia tất cả các việc phục vụ cho công cuộc "cách mạng" lớn lao này với một niềm phấn khởi và hăng say nồng nhiệt. Nhưng rồi tai hoạ bỗng ập đến với gia đình tôi và với chính bản thân tôi. Gia đình tôi bị quy sai là địa chủ, mặc dầu chỉ có hơn mẫu ruộng! Cái sai lầm từ nhận thức ấu trỉ của cán bộ Đội Cải cách đã mặc nhiên đẩy gia đình tôi sang phía “kẻ thù giai cấp”, bị cô lập với mọi người. Mẹ tôi đã mất trong kháng chiến, các anh tôi đều thoát ly nên chỉ có cha tôi và tôi là chịu mọi hậu họa. Là một nhà Nho lại từng là cán bộ lãnh đạo Mặt trận Liên Việt nên cha tôi được coi là “địa chủ kháng chiến”, không bị đấu tố, nhưng phải đi tập trung học tập cải tạo. Tài sản bị tịch thu, chẳng còn gì ngoài một căn nhà bị địch đốt cháy dở dang, một cái chõng tre khập khểnh và một cái niêu đất sứt mẻ. Tôi bỗng trở thành đứa trẻ bơ vơ, một mình thui thủi! Tôi đi mót khoai, mót lạc, cố sống qua ngày. Dù vậy tôi không chịu bỏ học. Ngày nào cũng như ngày nào, sáng cuốc bộ hơn 5 cây số đến trường, chiều đi mót, tối co rúm một mình trong căn nhà tối om. Mỗi ngày chỉ được ăn một bữa mà chẳng mấy khi đủ no. Thường thì buổi trưa sau giờ đi học về tôi lại trèo cây hái trái bần ăn cho đỡ đói. Trái bần xanh thì vừa chua vừa chát, càng ăn càng xót ruột. Nhưng dù vậy cũng còn hơn là rỗng bụng! Ban đêm không dầu đèn, ngồi thu lu trong xó tối nghe từng tiếng động của dơi của chuột; từng tiếng kêu của ếch của dế và thấp thỏm dõi nhìn ánh lân tinh lúc ẩn lúc hiện của bầy đom đóm hoặc những bóng ma trơi từ phía bãi tha ma vụt khuất vụt hiện. Không ai ra lệnh nhưng tôi hiểu vô hình chung mình cũng như đang bị quản thúc, không thể rời nhà đi đâu một bước. Bạn bè càng không thể đến đây chơi.  Gần góc vườn nhà tôi có một cây mưng (tức lộc vừng) cổ thụ mà bọn trẻ chúng tôi từ chập tối là hầu như không bao giờ dám bén mảng tới gần vì nghe đâu có một con yêu tinh áo trắng đêm đêm ngồi vắt vẻo trên ngọn cây. Nhiều hôm một mình trong nhà, nghe xa xa tiếng trống mõ, hát hò vẳng lại, tù cẳng không chịu được, tôi định ra sân chạy nhảy ít vòng, nhưng khi nhìn về phía cây mưng lại vội rụt cổ vào! Giá như không có cây mưng thì tôi đâu tù túng và khổ đau đến thế! Và giá như tôi đã đủ lớn khôn để không phải sợ ma!... Khi mới hơn chục tuổi đầu liệu có được mấy ai không run sợ trước những điều huyễn hoặc ? Khi ấy, với tôi ban ngày là đói khổ, vất vả, tủi nhục; ban đêm là nỗi cô đơn, hoảng sợ, tuyệt vọng đến triền miên! Giấc ngủ chỉ đến khi đã hoàn toàn suy kiệt cả thể lực lẫn tinh thần!


    Vào một đêm tối trời, mưa lâm thâm não nuột, tôi cứ ngồi nhìn ra cánh đồng qua khe liếp. Đêm ấy ma trơi ra nhiều quá, từng quả cầu lửa lân tinh cứ chập chờn như trẻ con đùa bỡn. Ban chiều tôi mót được rất ít khoai, tuy ăn rồi mà bụng vẫn đói meo, nằm mãi cũng không ngủ được, đành dậy ngồi nhìn... ma trơi! Trời mưa nên làng xóm im ắng như không người. Thỉnh thoảng tôi lại lén nhìn về phía cây mưng. Trời tối quá nhưng thoáng có cái gì trăng trắng chập chờn trên ngọn cây. Tôi run bắn người, không dám nhìn tiếp, nằm úp vào trong, lấy chiếu che kín mặt...   


    Đêm đã khuya lắm. Hình như có một tiếng gì động khẽ ngoài cánh cổng. Lại thêm một tiếng, rồi một tiếng nữa. Tôi ngửng đầu lên nghe ngóng, lo sợ và cảnh giác. Ma?! Tôi quờ tay vớ được thanh củi, cố nắm chặt nhưng run quá suýt đánh rơi. Bỗng có một tiếng gọi rất khẻ, chỉ như một làn gió thoảng nhưng cũng đủ để tôi nhận ra một tiếng người thân đang gọi. Đó là chị Liên, con bà bác ruột tôi. Chị là cán bộ nông hội, lại là đảng viên nên lâu nay không thể gặp tôi, càng không thể giúp đỡ tôi, mặc dầu tôi biết là chị rất thương tôi. Không hiểu có việc gì mà đêm hôm mưa gió thế chị lại đến tìm tôi? Tôi không dám lên tiếng, đẩy cánh liếp chạy ra nhưng không còn thấy ai nửa. Hay là... ma? Tôi chạy vội vào nhưng được một đoạn lại quay trở ra. Có một cái gì đó như một lời mách bảo tôi quay lại cổng vườn. Tôi đến bên cánh cổng tre, cúi xuống lần mò dưới đất và tìm được một gói lá chuối. Tôi cầm lên chạy vụt vào nhà, trống ngực đánh loạn xị.


    Không có đèn nhưng bằng khứu giác và xúc giác tôi nhận ra ngay đó là một gói xôi và 2 miếng thịt. Đúng là “buồn ngủ gặp chiếu manh”, “mèo mù vớ cá rán”! Hơn nửa năm qua tôi chưa hề biết đến hột cơm, giọt mỡ, nói gì đến xôi, đến thịt. Mùi nếp sao mà thơm, mùi mỡ sao mà ngậy! Tôi cứ mân mê trong tay, vừa muốn ăn vừa muốn để dành. Nhưng cái đói, cái thèm không thể nào kìm được. Tôi ăn ngấu ăn nghiến, tưởng như có thể nuốt trôi cả nắm xôi một lúc. Mới ăn được hai ba miếng, tự  nhiên tôi như bị tắc nghẹn, nước mắt trào ra không cách nào kìm được. Tôi nấc lên từng hồi như bị ai đánh mắng nhục mạ, uất ức đến quặn lòng. Tôi bỗng thấy tủi thân, thấy mình khổ cực đến tột cùng. Cuộc đời sao ác độc, sao lại xô đẩy tôi vào cảnh ngộ này! Tôi chợt nghĩ đến những ngày no đủ dường như đã xa xưa lắm. Tôi nghĩ đến mẹ tôi, chắc hồn người còn quanh quẩn bên tôi mà không thể làm gì được cho đứa con trai út bé bỏng của mình. Tôi nghĩ đến cha tôi, ở nơi tập trung cải tạo, không biết ăn uống ra sao khi tuổi đã cao, răng rụng không còn một chiếc. Chắc lúc này cha tôi cũng đang hết sức lo nghĩ về tôi. Tôi nhớ đến những ngày kháng chiến, theo cha mẹ chạy giặc khắp nơi, nhiều lần chết hụt mà sao vẫn hạnh phúc đến tràn trề. Rồi tôi nghĩ đến bóng đêm dày đặc xung quanh và những con ma chập chờn lẩn quất ngoài ngõ tối... Nắm xôi trên tay, thỉnh thoảng tôi mới nhấm nháp từng tý một. Tôi cứ sợ nếu ăn hết thì có lẽ mình không bao giờ còn được biết đến mùi vị thơm ngon ấy nữa! Cho đến rạng sáng, khi sắp đi học tôi mới nhặt nhạnh nốt những hột xôi cuối cùng còn dính trên lá chuối. Đêm ấy tôi không hề chợp mắt. Một bữa “tiệc” có một không hai, chỉ riêng mình tôi dự, chỉ riêng mình tôi biết, chỉ riêng mình tôi ghi nhớ suốt cuộc đời! Ngay cả bà chị tôi chắc cũng không thể nào biết được mình đã “chiêu đãi” cậu em một bữa tiệc tuyệt vời đến thế!


    Bốn mươi lăm năm rồi mà tôi cứ tưởng như mới hôm qua. Dấu ấn của một thời đói khổ cứ in đậm mãi trong tôi. Vợ tôi nhiều khi không hiểu tại sao tôi thường cố ăn hết cơm thừa khi đã rất no, lại còn vét sạch đáy nồi không chừa một hột cơm nào dính sót! Với tôi, mỗi hột cơm thật sự là một hột vàng. Tôi đề ra một nguyên tắc mà các con tôi rất miển cưỡng chấp nhận. Đó là cuối bữa ăn, nếu còn thừa nhiều thì cất đi để hôm sau rang hoặc hấp; còn nếu thừa dưới một bát thì phải cố ăn bằng hết, không được đổ đi. Lúc no đủ cần nghĩ về lúc thiếu đói, điều mà ông cha ta thường dạy bảo, điều mà chính bản thân tôi từng chiêm nghiệm từ thuở thiếu thời!



Tình cờ ghé vô trang Quangtrionline đọc bài viết của Hoàng Công Danh,một cựu học sinh của trường mình mà thấy cảm động quá nên muốn chia sẻ với các bạn,hảy bỏ một ít thời gian để trải lòng cùng HC Danh,để cảm thấy được giá trị đích thực của cuộc sống nha mọi người..Và có bao giờ bạn chợt hỏi giống HC Danh chưa"Trưa ni mạ miềng ăn chi hè?".Một chút sâu lắng tâm hồn để hoài niệm về một thời bé nhỏ lúc mạ chạy đôn chạy đáo lo từng bửa ăn cho chúng ta....Hảy để lại một chút tình cảm trong sáng của tâm hồn khi ghé chân vô đây các bạn nha,để bạn hiểu rằng: "Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chử hiếu mới là đạo con"

"Trưa ni mạ miềng ăn chi hè?".

(Hoàng Công Danh)



Xưa mình đi xem tranh Lê Bá Đảng, không hiểu vì răng ông hay vẽ hạt gạo dữ rứa (?) mặc dù ông ở tận bên Pháp. Giờ thì mình biết rồi! Bởi cái hạt gạo Triệu Phong quê miềng chua chát lắm, khổ cực cay đắng lắm, đi mô rồi cũng không thể quên được. Gạo đã nuôi mình khôn lớn, nhưng hơn thế, gạo còn ám ảnh mình về một quá khứ những ngày đói nghèo.

Năm mình học lớp 7, mạ sinh thêm em Hưng. Vậy là nhà có ba thằng con trai. Tam nam bất phú, ông bà ta nói cấm có sai. Những ngày mạ ở cữ là những ngày cái nghèo cái đói ập tới. Thật ra trước đó nhà cũng nghèo, nhưng mạ chạy chợ được nên mượn đây đập đó. Những chuyện nợ nần mạ giấu cả, không cho bất cứ ai biết. Mới sinh xong chưa mần được việc chi, mạ cứ nằm trên giường rứa thôi. Gạo trong thùng cạn dần, rồi hết. Hôm đó mình thấy hết gạo, hỏi sáng mai ăn chi mạ? Mạ không nói chi cả, nước mắt trào ra. Rứa mà sáng hôm sau mạ vẫn thổi được cơm cho hai anh em ăn đi học.


 Trưa về mình giở cái nắp thùng ra, lại thấy hết gạo, hỏi tối ni ăn chi mạ? Mạ lại không nói chi, nước mắt trào ra...



Cứ thế, cái thùng chả bao giờ có gạo nhưng cơm thì đến bữa anh em mình vẫn có để ăn mà học. Một hôm mình núp sau vách ngó vô, thấy mấy o đến thăm mạ thì mạ hỏi mượn gạo.



Ngày mô có người đến thăm, mạ cũng hỏi mượn gạo. Làng nghèo, gạo ăn đúp vá qua ngày qua tháng, nên có cho mượn cũng chỉ độ vài lon thôi.


Hôm còn lại ít gạo, nấu chín, mạ múc ra cho mình và anh Trứ ăn, còn mạ thì nhịn. Mình hỏi răng mạ không ăn? Mạ nói mạ ăn hồi sáng rồi, nhưng mình biết mạ nhịn, nhà có chi nữa mô mà ăn. Đến chiều cả mình và anh Trứ đói vì ăn ít cơm quá, mạ cũng đói lắm nhưng mạ không nói gì. Mạ lục dưới chân gác mấy củ khoai còn lại, đem ra nấu chín rồi cùng ăn. Vừa ăn mạ vừa nói, không có cơm ăn mần răng hai đứa đi học hè? Anh Trứ nói e nghỉ học mạ hè? Và thế là có mấy buổi đói quá mình ở nhà luôn.



Mình đến lớp thầy hỏi răng nghỉ học hoài, mình sợ ngại nên nói mấy bữa ni bị đau. Bây giờ nghĩ lại không biết vì răng hồi đó mình nói dối thầy mần chi, đói thì nói đói không đi học được.



Năm mình học lớp chín thì mạ mang thai em Như, lại thêm một lần sinh vì nhà chưa có con gái. Khổ! Đã nghèo còn gắng. Mình đi học trời lạnh, áo ấm không có. Cái áo ấm cũ mang mấy năm rồi nên nó chả còn giữ ấm nữa. Hôm lạnh quá nói mạ ơi mần răng đi học? Mạ nói ra chợ Thụn, tới quầy o Nguyệt thích cái áo nào thì mua, rồi mạ trả tiền sau. Mình tới quầy o Nguyệt, nói o bán cho cái áo ấm mô rẻ nhất ấy! Đó là lần đầu tiên trong đời mình được mặc một chiếc áo ấm mới, trước đây toàn mặc đồ cũ của anh Trứ thôi.



Cũng giai đoạn đó, mạ mình đau ốm luôn, không chạy chợ được. Lại đói! Mình đi thi học sinh giỏi giải Toán Casio cấp huyện. Thầy hiệu trưởng cho 5 đứa 50 nghìn nói để ăn quà. Nhưng không đứa mô ăn, đem đổi ra chia mỗi đứa chục ngàn. Mình cầm chục ngàn về cho mạ, nói con đi thi học sinh giỏi, không biết có giải không nhưng thầy cho mười ngàn nên đưa cho mạ mua gạo.



Gần tết năm đó nhà đói meo, cả xóm ai cũng hết gạo, chạy xúng xoắng mượn quanh mà chả có. Mình lúc đó được điều đi bồi dưỡng đội tuyển. Mỗi ngày đạp xe 5 cây số lên Triệu Thành học mà cái bụng thì đói. Ra năm giêng hai còn đói hơn nữa, cũng là lúc mình đi thi liên tiếp ba cuộc thi. Mình nhớ mãi cứ mỗi lần ra Đông Hà thi, cả đoàn vào quán ăn cơm, nhìn thấy cơm thịt đầy đủ tự dưng nghĩ, không biết trưa ni mạ miềng ăn chi ở nhà hè? Gạo hết sạch bách rồi còn mô nữa. Và chảy nước mắt, đi ra sau lưng quán khóc một mình.



Đến cuối năm trường lại phát thưởng cho mình 120 nghìn. Mình lại cầm về cho mạ đi đong gạo. Mỗi lần có tiền là thùng gạo có đầy lên một tí, nhưng rồi lại cạn. Năm đó huyện kêu lên thưởng cho mình chiếc xe đạp. Mình đem xe về cả làng đến xem, ai cũng khen. Còn mình lại buồn, mình nói, mạ ơi răng họ cho xe đạp mà không cho tiền để mua gạo hè? Mạ mình chảy nước mắt!



Đó là những ngày đói nhất trong cuộc đời mình. Cái nghèo cứ ám ảnh mình một chữ Gạo to đùng. Nhưng ngày đó cả làng cả xóm nhà ai cũng nghèo nên mình chẳng thấy buồn lòng, chỉ thấy đói lòng thôi.



Năm ngoái. Mình từ Huế ra buổi sáng thì đến chiều nhận được tin bay đi học gấp, mình nói với mạ. Mạ bối rối, chừ kiếm mô tiền để đem đi hè? Cũng phải mang theo một ít chơ. Rồi mạ xắng xít chạy quanh suốt đêm để vay. Hôm sau tiễn mình lên thị xã Quảng Trị, mạ dúi vô tay ba trăm đô la, mạ không nói gì mà chỉ chảy nước mắt! Mình biết tiền đó là mạ chạy đi vay nóng tối hôm qua. Mình cầm mấy trăm đô ra Hà Nội, may mà có Bộ GD cấp tiền trước. Mình nhét gần một ngàn đô của Bộ bên túi trái, ba trăm đô của mạ bên túi phải, và thấy cái túi phải nặng hơn. Có lẽ đó là ba trăm đô Gạo chứ không phải tiền!



Bây chừ ở đây, mình thò tay vào túi nào cũng có tiền, Đô la có, tiền Rúp cũng có, chợt nhớ về những ngày cũ mà chảy nước mắt. Tự dưng nghĩ, trưa ni mạ miềng ăn chi hè?

NGƯỜI QUÊ TÔI


Tôi đã từng kể cho các bạn trong lớp họccủa tôi, cũng như nhiều người khác nữa về cá nhân của mình, về gia đình, quêhương Xuân Dục của mình. Tôi vẫn thường hay kể cho họ một cách say sưa, tự hào về con người văn hóa của làng tôi.


Ngày ấy, làng tôi nghèo lắm. So với cáclàng xung quanh thì làng tôi phải nói thua họ về nhiều mặt lắm cả về kinh tếcũng như công việc làm ăn đặc biệt là về học vấn. Trong làng, những người họchết cấp II đã là hiếm lắm, còn cấp III chỉ có một hoặc vài người. Phần lớn nhữngngười con gái thường chỉ học hết lớp 5 đã là cao thậm chí có những người chỉhọc hết lớp 1 hoặc lớp 2 đã phải nghỉ học. Còn cánh con trai, phần đa là chỉ học hết lớp9 là nghỉ vì gia đình không có điều kiệnvà đi lao động kiếm tiền phụ giúp gia đình. Sở dĩ có tình cảnh ấy, phải nóinguyên nhân chủ yếu do cái nghèo cái đói mà ra, cơm ăn hằng ngày còn không đủno, huống chi nói đến chuyện học tập. Mặc dù làng tôi còn có một nghề truyềnthống đó là dệt chiếu, nhưng cái nghèo vẫn hoàn nghèo. Nhiều cô gái phải nghỉhọc sớm là để phụ giúp cha mẹ. Khi tôi nói điều này nhiều người không tin vìcho rằng các cô gái còn nhỏ thế thì đã làm được gì mà nghỉ học? Nhưng sự thậtlà thế đó. Thế hệ các cô gái 7x ở trong làng tôi nào có mấy người đi học đến cấp2. Cứ như chị tôi thôi, mới học có lớp 4là đã phải nghỉ học rồi. Các bạn của chị tôi cũng thế, không thấy có người nàođi học cấp 2 cả, nhà nghèo có người biết giúp cho mình một tí việc là tốtrồi, cha mẹ cho con đi học, biết đọcbiết viết là đủ rồi, ở nhà giúp gia đình được tí nào hay tí đó vừa có ngườigiúp đỡ việc nhà lại không phải tốn phí tiền học. Cứ thế, làng tôi chìm vàotrong một vòng luẩn quẩn Nghèo-Thất học- Nghèo. Điệp khúc ấy có lẽ sẽ còn theomãi nếu như không có người nào đó dám bứt phá ra khỏi cái vòng luẩn quẩn ấy.Cũng có nhiều người đã nói vui về cáinghề này “ cái cói nó trói chân tay” hoặc “ cái go nó gò con người”…. (Cái“cói” là sợi được chẻ ra từ cây cói, nhiều sợi dệt thành chiếu. Cái “go” haycòn gọ là cái “khổ”, vật dùng để dệt cói thành chiếu). Chẳng những nó “tróichân trói tay” mà nó còn “trói” cả cái “đầu”. Ấy là tôi chỉ nhìn trên một mặtnào đó thôi, chứ nếu như không có nghề dệt chiếu thì làm gì có văn hóa đặc biệtcủa làng tôi. Cũng từ nghề này mà cũng nhiều gia đình có “ của ăn của để”.Nhưng nó cũng khiến cho nhiều người rơi vào cái vòng quanh “nghèo-thất học-nghèo” ấy. Để rồi từ chính cái vòng quanh quẩn ấy, nhiều người đã có những cáinhìn xa, nhìn rộng thoát ra khỏi vòng quanh đó, ấy là dám bỏ đi cái lợi trướcmắt, “ liều mạng” cho con em mình đi học thay vì đi làm kiếm tiền. Tôi cứ lấymốc thời gian trước năm 90 vì lúc này tôi cũng đã có trí khôn và cũng biết đượcnhiều người đang đi học và hoàn cảnh của nhiều gia đình. Ngày ấy làng tôi cũngchỉ có được một vài người làm nghề giáo viên như Ông Mai Đức Sinh ở xóm 2; ông Tuyênở xóm 3, tôi cũng có người dân làng nói ngày trước có người cũng từng làm nghề nhàgiáo này nhưng đói quá đành bỏ nghề đi làm nghề khác, nào ai nghĩ đến chuyệnhọc hành. Vậy thì học với hành cao để làm gì cơ chứ, vẫn đói, vẫn khổ? Chẳngthế mà trong dân làng vẫn còn nhiều người dè môi bữu mỏ và tự hào “ văn hay chữtốt, không bằng thằng dốt lắm tiền”. Thế nhưng vẫn có những người dám vượt rakhỏi cái khó ấy vẫn quyết chí tìm riêng cho mình một con đường.


Vẫn chỉ những năm 90 và trước đó thôi,trong làng cũng chẳng mấy được học hành , phần đông thì nghỉ học sớm, thậm chícó những người mù chữ. Tình cảnh ấy có lẽ sẽ còn kéo dài lắm, nếu như không cómột người mà tôi thường hay kể cho mọi người tôi gặp gỡ khi họ hỏi về quê hươngxứ sở, quê hương yêu dấu của tuổi thơi tôi.


Chuyện về một cậu thanh niên, sinh ratrong một gia đình nghèo như bao gia đình nghèo của làng tôi. Là con trai útnên mọi người trong gia đình hy sinh cho cậu được học hành nhiều hơn các anh cácchị trong nhà. Ngày cậu còn nhỏ học cậu hành ra sao tôi không được biết, nhưngcó một điều tôi biết ấy là khi cậu ấy đang là sinh viên học tại Hà Nội. Ngàyngày ngoài giờ học, cậu ta đạp xích lô ( Làng tôi sau này cũng nhiều người raHà Nội làm nghề này lắm, như chính bối tôi và anh trai tôi và nhiều người khácnữa, chuyện về nghề này thì nhiều lắmtôi không thể biết và kể hết được, nhưng có một điều nhiều gia đình trong làngtôi cũng thoát ra được cảnh nghèo từ chính nghề này). Quay lại chuyện của cậusinh viên đạp xích lô ấy, tiềm kiếm được cậu chẳng nghĩ đến chuyện học riêngcủa mình mà nghĩ đến những người con của quê hương cậu. Ở nơi đó còn nhiềungười thất học quá, làm sao cho họ được học đây? Và rồi cậu âm thầm nhờ mấyngười trong làng cũng đang có tâm huyết như mình. Chung lòng, họ mở mấy lớp họcbổ túc vào buổi tối, mục đích là để cho con em không có điều kiện đến trườngvẫn có thể học ở đó để khỏi mù chữ. Lớp bổ túc, dần đông, dân làng cũng ủnghộ. Tâm nguyện của nhiều người bấy lâu,nay đã có dịp để thực hiện, nhờ sự giúp đỡ của mọi người, đã có một ban khuyến học trong thôn.Cũng những năm ấy làng tôi xây lại nhà thờ, có lẽ Thánh bổn mạng Vinh sơn muốntrả công cho làng, nên Ngài đã cho cái tâm sáng kia của cậu sinh viên có dịplàm tốt hơn nữa. Cậu được sang pháp du học, một chuyện dẫu có nằm mơ thì tôinghĩ cậu ta cũng không bao giờ dám mơ tới. Nhưng đó là sự thật, sang Pháp đượcthời gian, vẫn mang trong mình nỗi canh cánh về tương lai của quê hương. Tôikhông biết gì nhiều lắm, nhưng chỉ biết rằng khi ấy có một số người trong hiệphội “ENFANTS DU MEKONG” (các trẻ em vùng sông Mekong). Những người trong tổ chức này (người Pháp) giúpđỡ nhận một số trẻ em trong làng tôi làm con nuôi, mỗi tháng họ sẽ giúp đỡ vôvị lợi một số tiền để những em này có thể tiếp tục đến trường. Nhà tôi nghèo,tôi cũng có may mắn được một gia đình nhận làm con nuôi. Mỗi tháng họ điều gửicho tôi một số tiền, nhưng phải nói rằng có một điều hết sức đẹp và thấm tình XuânDục, ấy là số tiền mà những ai có hạnh phúc có được người trong hiệp hội“ENFANTS DU MEKONG” nhận làm con đỡ đầu sẽ không nhận hết, mà chỉ nhận 50%. Sốcòn lại sẽ dùng để trả học phí cho tất cả con em trong làng đang theo học, từlớp 1 trở lên. Như vậy là tất cả con em trong làng đi học không mất học phí,bên cạnh đó nhờ lòng quảng đại và hy sinh của nhiều người, phong trào khuyếnhọc của làng cũng phát triển. Các bác trong ban khuyến học tìm đủ mọi cách đểcho con em mình được đến trường.


Rồi những năm sau đó, lác đác đã có mộtsố anh em đã thi vào đại học. Thế hệ 8X “đời đầu” cũng đã có nhiều người “đặtchân” mình vào các trường đại học có tiếng như Bách khoa, Y dược, ĐH Mở, rồichỉ sau đó vài năm thôi lần lượt các trường khác như Kiến trúc, Sư Phạm Âm Nhạc……bầu không khí “ảm đảm tri thức” của làng tôi giờ đây như đang khởi sắc. Ngày hèvề, các anh em Sinh Viên “mở” những lớp dạy học để ôn luyện cho các em học sinhtừ lớp 6 tới 12. Tối nào tại Trung tâm Mẫu giáo Xóm 2 cũng đông vui như ngàyhội. Anh chị sinh viên nào có khả năng “dạy” được môn học nào là nhận “dạy”. Toàndân nghiệp dư, nhưng với lòng hăng say, ai cũng đem hết tâm huyết của mình ramà “truyền lại” cho các thế hệ đàn em. Ngày ấy tôi cũng được trổ tài dạy vàimôn học. Ngoài ra vào các dịp lễ tết, anh em sinh viên cũng có những hoạt độngnho nhỏ, như tổ chức hái lộc đầu năm, các trò chơi có thưởng, đốt lửa trại,giao lưu văn nghệ… Cũng có thể từ đó mà mọi người cũng quý và chú ý đến việchọc tập của con em mình hơn.


Nếu như trước đây, trước thế hệ 8x cảlàng hơn 3000 người chỉ có ít vài người được học hành thành đạt và là “hạtgiống trí thức của làng”. Tới gần những năm 2000 khi ấy cả làng được một người con gái thế hệ 8X “đời đầu” tốt nghiệp lớp 12 và đi học tiếp, người ấy được Thầy Trấn(bây giờ làcha Trấn)gọi vui là “bà thánh Đê” cộngthêm vào đó cả làng cũng chỉ có dưới mười người con trai tốt nghiệp 12. Thì ngày nay, kể từ thế hệ 8x “đời cuối” vàcác thế hệ tiếp theo, số “hạt giống” ấy đã nhiều lắm rồi và con số ấy ngày lạingày vẫn cứ tăng thêm.


Mùa gặt đã đến, có những anh em giờ đâyđã ra trường có những công việc ổn định. Gia đình có thể được gọi là thành đạt,hạnh phúc. Nhiều ước mơ đã được thành sự thật. Nếu như trước đây các đấng sinhthành của các anh em đã phải hy sinh nhiều, thì giờ đây các ngài em đang hạnhphúc vì nhìn thấy được những giá trị của sự hy sinh ấy.


Hôm nay đây khi ngồi viết lại các dòngnày, tôi thấy mình mang ơn nhiều quá. Ơn sinh thành thì hiển nhiên rồi, nhưngơn đối với người đã giúp khơi lên ngọn lửa của tri thức cũng không kém. Tôi đãviết trong bản tường trình về biện phân ơn gọi của mình cho Cha Giáo Tập củatôi về hình ảnh con người ấy. Nhiều khi tôi cứ tự nhủ giá như không có sự hysinh của người ấy, làm sao tôi có thể tiếp tục theo học, làm sao có thể tiếnđến chân trời của niềm ước mơ thuở đầu đời của tôi. Và còn nhiều điều khác nữa.


Cũng hôm nay đây, khi nghe được tinngười cha thân yêu của “ cậu thanh niên đạp xích lô” ngày nào giờ đã làm Linhmục của Chúa. Ông cố được Chúa gọi về nhà Cha trên trời. Nơi phương trời xa không cho phép tôi được vềđể chia sẻ nỗi mất mát vô cùng đau thương của Cậu và của gia đình. Tôi xin ghi lại những gì tôi đã kể cho bạn bètôi, về quê hương về con người của làng mình.Tất cả như một nén hương, một lời xin lỗi, một lời cám ơn sâu xa, một lời cầunguyện trước linh hồn Ông Cố. Tôi nghĩ Ông cố cũng như nhiều đấng bậc làm chamẹ khác cả cuộc đời đã “ liều mạng” cho “Cậu út” được đi học để bứt ra khỏivòng “ nghèo-thất học- nghèo” ấy. Nguyện xin Lòng Thương Xót Chúa thứ tha mọilầm lỗi mà Ông Cố đã vấp phạm trong thân phận yếu hèn của con người. Để đượchưởng niềm hoan lạc muôn đời trong Nước Trời mà Ngài đã hứa ban.


Vincent

Sống qua cơn đói

Những người đói cướp lại thóc gạo do Nhật chiếm, bị quân đội Nhật hành hung (1945) - Ảnh: Võ An Ninh

Gia đình ông bà tôi thuộc lớp trung lưu. Bà nội và mẹ tôi rất căn cơ, tiết kiệm. Thế mà không thoát đói. Sau này lớn lên tôi mới biết đó là cái đói Ất Dậu - cái đói mênh mông trùm khắp bao vùng miền, bao tỉnh huyện, không đâu và không ai thoát khỏi được.

Cái đói không của riêng ai

Tôi là cháu trai nên được bà rất chiều, còn mẹ - khỏi phải nói. Chợ về bao giờ cũng có quà. Quà phiên chợ đói mẹ đưa về cho chúng tôi lúc tấm mía gầy, lúc mấy củ khoai lang còi cọc. Mấy đứa em xúm quanh nhìn tôi bóc khoai, bóc cẩn thận cho thật hết vỏ.

Khoai được chia cho hai em phần lớn, còn tôi phần nhỏ hơn bởi tôi còn được tất cả phần vỏ còn lại, vun một nắm cho vào miệng nhai ngon lành. Vỏ khoai là thứ xưa nay không ai ăn vì nào có tiêu được, ăn vào bụng rồi trả lại cho đất mà thôi. Mấy anh em xúm quanh mấy củ khoai, trịnh trọng bóc và hăm hở nhai cả vỏ - đó là kỷ niệm về đói tôi không bao giờ quên.

Cả làng hiu hắt, vườn cổng đóng kín. Thế mà vẫn có người chui được vào nhà vì không còn chó. Người không có cái ăn thì chó cũng chết hết để làm cái ăn cho người. Người làm mướn cho ông bà tôi, một người đàn bà góa rất nghèo, đến thăm ông bà, ngồi ở góc nhà, mắt nhìn khắp trần nhà, dưới nhà. Không phải đến bây giờ mà ngay từ lúc ấy tôi đã thấy mắt của người đói rất đặc biệt.

Quan sát bà làm mướn và quan sát những người trong làng tha thẩn ngoài đường, ngoài ngõ tôi thấy họ thân hình thì khô quắt, chỉ còn da bọc xương, đi đứng không vững, cử động thì chậm chạp, nhưng mắt lại rất tinh. Cặp mắt săm soi nhìn khắp mặt đất và đảo khắp chung quanh để tìm.

Tìm một mầm xanh của cây lá để ngắt; tìm một cái gì còn động đậy để vồ lấy, bất kể đó là con chuột, con nhái, con cào cào, thậm chí là con kiến, con gián. Tôi nhớ lần ấy bà làm mướn có nói với mẹ tôi là gián ăn cũng được, và còn ngon là đằng khác. Người đói ăn được cả gián, đó là tri thức của tôi trong năm đói 1945.

Sau này xem phim

 Papillon - người tù khổ sai 

khi thấy Papillon nằm bẹp trên nền đất, tay quờ quạng, ráo riết bắt cho được một con gián dưới quầng sáng của ánh đèn phòng biệt giam, tôi lại nhớ đến câu chuyện mẹ tôi được nghe từ một người đói ngày ấy.

Rồi lại nhớ đến lần đón khách Cộng hòa dân chủ Đức, năm 1972, ở khách sạn Métropole, Hà Nội, khi thấy một con gián lấp ló ở góc phòng, ông bạn giáo sư Hans Kortum bỗng kinh hãi và đòi đổi phòng ngay. Bởi, với ông, gián là thứ insecte (côn trùng) kinh tởm nhất.

“Nghệ thuật làm no”

Cái năm Dậu ấy tôi được thấy, hoặc được nghe kể biết bao người trong làng đã cố níu lấy sự sống bằng tất cả những gì có thể ăn được. Thân và gốc cây chuối và cây đu đủ. Gốc củ ráy (ngứa vô cùng). Rau má và tất cả các loại rau dại mọc ở rìa làng. Kể cả cây choóc - ngứa không kém củ ráy, ở ngoài đồng. Tất cả bỗng dưng trơ trụi, rồi biến hết. Bởi rau cỏ là thứ lành bụng.

Nhà tôi còn có cơm ngày hai bữa, mỗi bữa một lon sữa bò hai lạng rưỡi gạo, cho trộn với một rổ rau má to, xóc đều, rồi chia ra bốn cái bát lùm lùm, ai nấy lào xào ăn, chỉ một lúc sau lại đói meo. Một loại thức ăn khác là cám và khô dầu. Cám là thứ cho lợn, bây giờ làm thành bánh cho người. Cám được xem là bùi bùi, thơm thơm và nhất là no lâu. Ăn một cái bánh cám, uống một bát nước thì cứ là lưng lửng cả ngày.

Cũng như cám, khô dầu là bã của các loại hạt béo như lạc, đỗ sau khi đã ép hết nước dầu. Khô dầu đóng thành bánh bán ở chợ để chăn nuôi gia súc, bây giờ người tranh nhau mua để thay cơm. Khô dầu ăn nhiều tức bụng, ăn ngày này qua ngày khác có thể sưng bủng ra mà chết. Không phải chết đói mà là chết... no. Tôi lại nhớ Một bữa no của Nam Cao.

Tôi đã thấy bao người đói đi lại quanh quẩn, vùng này qua vùng khác để tìm cái ăn. Đồng ruộng bạc phếch, không một màu xanh. Vườn tược hoang phế, không còn cây cối. Làng mạc hết cả tiếng chó sủa, tiếng gà gáy. Những người chết thì đã được bó vào chiếu đưa ra đồng. Cho đến lúc chiếu cũng không còn để mà bó. Những người sống thì tha thẩn trong nhà ngoài ngõ, hoặc vất vưởng trên đường, đi đứng liêu xiêu, dáng hình lểu đểu... mới thấy khủng khiếp đến thế nào cái đói của cả làng, cả nước.

Bây giờ nghĩ lại chuyện đời thấy sao dân ta khổ quá. Đọc truyện

Một làng chết

của Thanh Tịnh (trong tập truyện

Quê mẹ

) và

Quái dị

của Nam Cao ta hiểu cái chết do dịch tễ gây ra cho một làng. Dịch tễ như đậu mùa, dịch hạch, dịch tả, kiết lỵ... khiến cả “một làng chết”, ít còn ai sống sót, không còn người đi chôn.

Đọc

Nghệ thuật làm no

... của Ngô Tất Tố ta biết người nông dân quê ông đã có cách ăn đất sét để đánh lừa dạ dày khi cả một vùng đồng bãi phía bắc sông Hồng bị nhận chìm trong lũ lụt - một thứ lũ lụt ngâm rất lâu khiến cây cỏ khó mà sống sót...

Còn cái đói và chết năm Ất Dậu là đói và chết trên cả một địa bàn rộng lớn gồm cả trung du và đồng bằng Bắc bộ, lan vào cả một nửa miền Trung, trong đó có quê tôi. Cái chết của 2 triệu người do hậu quả của biết bao chính sách thâm hiểm và tội ác của Nhật - Pháp nhằm dồn cả một dân tộc vào thảm họa diệt chủng.

Hai triệu người, tức là ngót 1/10 dân số VN lúc ấy; và có thể còn chết thêm nữa nếu không có khẩu hiệu phá kho thóc do Việt Minh đưa ra - vậy là thóc vẫn còn ở các kho; rồi tổng khởi nghĩa tháng tám, cả dân tộc từ Bắc đến Nam rùng rùng chuyển động trong cả một rừng cờ đỏ sao vàng. Một nạn đói khủng khiếp, và tiếp đó, một cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc - đó là ấn tượng và ký ức Ất Dậu 1945 mà một đứa trẻ lên bảy như tôi đã được chứng kiến và trải nghiệm để in sâu vào bộ nhớ cho đến suốt đời.

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khai sinh giữa những ngày tháng thương tâm ấy của năm Ất Dậu. Chỉ một ngày sau khi ra mắt toàn thể quốc dân, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, vấn đề cứu đói đã được đưa ra: “Nhân dân ta đang đói... Những người thoát chết đói, nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống”.

Và nhà nước non trẻ đã tìm ra giải pháp...

CÁI MUỖNG

Văn Quang



I.

Tôi không nhớ rõ năm đó là năm thứ mấy chúng tôi "học tập cải tạo", chỉ biết rằng đã có những người "quen" với những ngày tháng cực khổ, dài lê thê trong những căn nhà giam được "xây dựng" bằng đủ thứ kiểu giữa những vùng rừng núi âm u. Ở Sơn La thì "trại" được làm trên những nhà tù từ thời xa xưa, chỉ còn lại những cái nền nhà lỗ chỗ, người ta dựng vách đất trộn rơm, mái lợp bằng các kiểu lá rừng, miễn sao che kín được khung trời.

Nơi này xưa kia, Pháp dùng để giam giữ tù chính trị, rồi một thời gian sau, VN giam những người tù Thái Lan và trong chiến tranh đã có khi người ta dùng làm "công binh xưởng" chế tạo lựu đạn. Vì thế nên thỉnh thoảng chúng tôi nhặt được một cái vỏ lựu đạn ở đâu đó quanh khu vực này. Ở Vĩnh Phú thì nhà tranh vách đất, ngoại trừ một khu người ta gọi là khu "biệt kích" gồm vài căn nhà "xây dựng kiên cố" bằng gạch lợp tôn xi măng. Chúng tôi "được học tập cải tạo" trong dãy nhà này. Cũng nghe người ta nói lại là khu này trước kia dùng để giam giữ những người lính biệt kích đã từng nhảy dù ra Bắc rồi bị bắt giam ở những khu đặc biệt đó. Muốn vào khu này phải qua hai lần cổng có tường gạch bao quanh. Nhưng có lẽ khi giam giữ biệt kích thì khác, còn khi chúng tôi "được giam" ở đây có vẻ như "cởi mở" hơn vì những cánh cổng thường không đóng bao giờ. Họ để cho chúng tôi đi lao động hàng ngày cho khỏi phải mở ra mở vào.
Cuộc sống dù cực khổ đến đâu, sống mãi rồi người ta cũng phải quen. Nhịp sống hàng ngày cứ thế trôi đi dù là trong đói rét, thiếu thốn và trong những cấm đoán vô cùng khe khắt. Nhà tù nào chẳng thế, nó có những quy luật và quy định riêng. Những ngày đầu người ta cấm luôn cả trà, cà phê, thậm chí cấm cả đeo kính cận. Nhưng sau này nới dần, những thứ như thế không bị cấm nữa. Chỉ còn những thứ đã thành "luật" thì luôn bị cấm và cấm ở bất cứ đâu. Cấm "mua bán đổi chác linh tinh", cấm dùng thức ăn lâu ngày bằng bột, cấm tỏi và cấm tất cả những dụng cụ sinh hoạt bằng sắt như dao, kéo, muỗng nĩa… Tuy vậy có anh tù nào lại ngây thơ ngoan ngoãn đến nỗi tuân theo hoàn toàn những quy định ấy. Mua bán đổi chác linh tinh vẫn cứ diễn ra, dao kéo vẫn cứ được lén lút xử dụng hàng ngày nhưng đó là những thứ đã được "cải biên" thành dao kéo mini nhỏ nhắn cho dễ cất giấu. Nó là những vật dụng cần thiết cho đời sống hàng ngày, dù có bị bắt thì cũng chỉ bị tịch thu chứ không đến nỗi bị cùm một hoặc hai chân –tùy theo tội– đưa vào "thiên lao" tức là thứ phòng giam đặc biệt trong trại tù.

II. Ngày qua ngày, cái "không khí êm ả" của trại giam trở nên phẳng lặng nhưng dĩ nhiên là không thể nào nói rằng đó là thứ "an tâm, hồ hởi phấn khởi" mà bất kỳ anh "trại viên" nào cũng cứ phải viết khi phải làm những "bản kiểm điểm", mặc dù kể cả người viết và người đọc đều chẳng ai tin.
Nhưng cái không khí ấy đôi khi bỗng nhiên bị xáo trộn. Vào một buổi sáng tinh mơ, khi chúng tôi đang ngồi ở cái sân đất giữa trại, chuẩn bị gọi tên từng đội đi lao động để "một ngày lại vinh quang như mọi ngày" thì bỗng đâu toán lính gác trại tù sồng sộc chạy vào. Họ chạy rầm rập như ra trận, súng ống chĩa về phía "quân thù", mặt mũi "khẩn trương" rõ rệt. Họ sộc thẳng vào phòng giam trống hốc cứ làm như có địch ẩn nấp đâu trong đó.

Chúng tôi ngẩn ngơ đứng nhìn, không hiểu họ giở trò gì. Có những khuôn mặt lo lắng, một nỗi lo bâng quơ. Chuyển trại hay có một ai đó trốn trại? Chưa biết. Toán lính lục tung hết mọi thứ đồ đạc ít ỏi mà mỗi người tù có được trong gói hành trang của riêng mình. Sau đó chừng nửa giờ, một vài gói đồ bị tịch thu được vác lên "phòng thi đua". Lúc đó thì chúng tôi mới hiểu rằng đó chỉ là một kiểu khám phòng để tìm ra những thứ đồ "quốc cấm" của trại đã quy định.

Thật ra, đó cũng là cái cung cách mà ở những "trại cải tạo" thường dùng để khuấy động cái không khí trầm lặng dễ phát sinh ra những "tiêu cực". Bởi trong cái sự yên bình của một trại giam, người tù có thể liên kết với nhau làm một chuyện gì đó như tổ chức trốn trại hoặc có thể có những vụ xúi giục "tuyệt thực", bàn bạc chống đối… Và nếu nói đến sự chống đối thì có hàng trăm thứ để có thể chống đối được. Thí dụ sự ăn đói, sự đối xử bất công, sự oan ức vô lý, sự trù dập của một vài anh "quản giáo", sự hỗn hào của mấy anh lính võ trang. Chuyện gì cũng có thể chống đối được. Vì thế thỉnh thoảng họ phải làm cho cái không khí đó mất hẳn cái vẻ trầm lặng để chứng tỏ lúc nào họ cũng đề phòng, lúc nào họ cũng "đề cao cảnh giác", lúc nào họ cũng sẵn sàng đối phó với mọi "mưu đồ".

Các anh tù đừng có tưởng bở, chẳng bao giờ yên đâu. Cứ sau mỗi lần như thế, chắc chắn thế nào họ chẳng vớ được một anh nào đó giấu những thứ vớ vẩn như dao kéo, thư từ, sách vở tiếng nước ngoài, tiền bạc, đồ dùng ngoài quy định. Tất nhiên sẽ có những cuộc "kiểm điểm, phê bình" mà chúng tôi gọi là những "buổi tối ngồi đồng" để từ đó hy vọng lòi ra một vài cái "tội". Đội nào khôn ngoan thì cứ ngồi im, ai "phê" thì cứ mặc, còn cãi là còn "ngồi đồng". Đi làm suốt một ngày mệt mỏi đến thở không ra, tối về còn ngồi đồng, còn "phê bình" còn "kiểm thảo" thì chịu sao nổi. Nay "làm chưa xong" thì mai lại ngồi tiếp, ngồi cho đến khi nào tìm ra tội mới thôi. Tội nặng, tội nhẹ tùy theo tình hình của từng thời điểm.
Thời điểm "căng" thì vào nhà kỷ luật đặc biệt nằm "treo một chân", thời điểm nhẹ nhàng thì cảnh cáo, ghi tội vào biên bản. Và họ sẽ có những biện pháp an toàn như chuyển đổi năm bẩy anh từ đội này sang đội khác để phòng tránh những chuyện thông đồng, những tổ chức, những phe nhóm có thể gây nguy hại đến an ninh của trại tù.

Chung quy đó chỉ là một cách đào xới tung cái tinh thần "tưởng rằng yên ổn" của mấy anh "trại viên" còn tỏ ra cứng đầu, còn có mưu toan lôi kéo người này người kia vào trong phe mình để từ đó có những yêu sách hoặc toan tính bất lợi cho trại tù. Quả là mỗi lần như thế trại tù cũng rối tung lên và làm cho những anh yếu bóng vía thường phải sống dựa vào tinh thần bè bạn càng thêm rụt rè, chẳng biết tin vào ai được nữa. Nhưng riết rồi trò gì cũng thành quen và đối với một số người "chẳng có gì để mất" thì họ trơ như đá, muốn làm gì thì làm, chỉ có cái thân tù đói này thôi, sống cũng được mà chết cũng chẳng sao.

Có lẽ tôi cũng đã học tập được cái tinh thần ấy của những anh bạn trẻ, bởi tôi cũng chẳng có gì để mất. Vợ con nhà cửa đều đã mất tất cả rồi, chẳng có gì phải lo. Đôi khi tôi sống tưng tưng, ông anh rể ở Sàigòn gửi cho cái gì thì nhận cái nấy. Và một sự thật không thể quên là nếu không có ông anh rể tốt bụng đó thì tôi cũng đã trở thành một thứ "caritas" như một số anh em ở trong trại tù rồi. Tức là những người chẳng có ai thăm nuôi.

Những bà vợ đau khổ với những gia đình đói rách lầm than, họ lo cho chính họ còn không xong thì lấy gì đi "thăm nuôi" người ở trong tù mà lại tù ở tuốt tận miền Bắc xa tít mù tắp. Thậm chí có người còn vui mừng khi thấy vợ mình bước đi bước nữa với một anh nào đó đưa các con ra được nước ngoài. Tôi nói thế để chứng minh rằng không nên trách cứ bất kỳ một ai trong hoàn cảnh cay nghiệt này. Theo tôi thì những anh "mồ côi" không ai thăm nuôi trong trại tù mới chính là những anh hưởng trọn vẹn được cái "thú đau thương".

III.

Trở lại chuyện buổi sáng tinh mơ, khi toán lính chạy sồng sộc vào trại. Đó là một buổi sáng cuối mùa đông, trước Tết âm lịch chừng vài ngày. Đây cũng là biện pháp an ninh thông thường của các trại tù trước những ngày lễ tết lớn. Tôi thảnh thơi theo đội đi làm ở ngoài đồng. Tôi vẫn cứ yên trí rằng chẳng có gì để mất, chẳng có gì quan trọng.
Vào mùa đông cái thứ quan trọng nhất chỉ là rau. Mùa này thiếu rau đến… khô quắt cả dạ dày, rau muống bầu bí không trồng được, chỉ còn rau cải và trồng cải thì lâu ăn và năng suất không cao, cho nên có được tí rau là hạnh phúc nhất. Tôi ngồi lê la trước mấy luống xu hào, đó là thứ "thực phẩm cao cấp" nhất trong khu vườn rau của toàn đội. Những củ xu hào bắt đầu to hơn nắm tay nằm tròn trĩnh dưới những tàu lá xanh mượt mà, tôi trông coi chúng vì cái công sức tôi bỏ ra hơn một tháng trời. Tôi coi chúng cũng như một tác phẩm nào đó mà tôi đã từng viết ra, ở đây không có gì để coi như tác phẩm thì coi nó là tác phẩm vậy, để có cái mà thú vị và để có cái mà quên đi những thứ quanh mình.

Cứ như thế tôi tha hồ đặt tên từng luống xu hào, có khi là một cái tên nghe có vẻ "lả lướt" như tôi đã gặp ở phòng trà tiệm khiêu vũ, có khi là một cái tên rất dung tục. Âu cũng là một trò "nghịch ngầm" giữa vùng rừng núi âm u, hầu như không có mặt trời mùa đông này. Nhưng tôi biết rằng trò chơi của tôi sẽ phải chấm dứt trong một hai ngày nữa. Bởi Tết đã đến, dù 12 luống xu hào còn non chưa đến ngày "thu hoạch" nhưng cần thức ăn trong ba ngày Tết nên họ sẽ nhổ. Nếu tù không ăn thì cai tù ăn, chứ không đời nào họ chịu để đến mùa xuân. Nhưng vui chơi được giờ nào hay giờ ấy trong cuộc sống phù du này.

Buổi trưa về đến trại, trong khi bạn bè xung quanh đang xôn xao, kẻ bị tịch thu cái này, người bị mất cái kia thì tôi vẫn nhởn nhơ vì tôi chẳng có gì để mất. Tôi xách tô đi lấy cơm, gọi là phần cơm, nhưng thật ra chỉ có đúng một bát bo bo tương đối khá đầy đặn. Tôi ăn thì tạm lưng lửng, nhưng những người bạn tôi thì không bao giờ đủ. Họ thường nói "Vừa ăn xong mà vẫn cứ tưởng như mình chưa ăn". Cái đói cứ lửng lơ mãi ngày này qua ngày khác, thế mới là khó chịu. Có những ông bạn tôi ăn theo cái kiểu câu dầm, tức là lấy cái muỗng tre nhỏ xíu, hoặc một cái gì đó lớn hơn cái đầu đũa, múc từng muỗng ăn rả rích suốt ngày để có cảm tưởng lúc nào cũng được ăn, nó làm lu mờ cái cảm giác đói, đó là cách tự đánh lừa mình.

Tôi cũng "ăn dè hà tiện" nhưng tôi ăn bằng muỗng. Cái muỗng rất đặc biệt bằng inox hẳn hoi, có chạm trổ tinh vi và luôn được chùi rửa sáng bóng. Nhưng sáng nay, được chia hai củ khoai lang ăn sáng nên tôi để cái muỗng ở nhà. Tôi thường cất nó vào trong chiếc lon Guigoz – một loại vỏ hộp sữa được chế biến thành đồ dùng rất thông dụng và nhiều lợi ích của hầu hết những anh tù, nó có thể dùng "trăm công ngàn việc" từ đựng các loại thức ăn, thức uống đến đun nấu, câu móc, đựng mắm muối, chứa đồ để dành, tắm rửa đánh răng, rửa mặt. Nhưng hôm nay thì cái muỗng biến mất, tất nhiên là nó đã bị tịch thu trong buổi khám xét trại sáng nay.

Đây là thứ "gia bảo" tôi đã cất giấu nó suốt mấy năm nay chưa hề lơi lỏng. Nó luôn nằm sát bên tôi, lúc đi lao động cũng như khi nằm ngủ. Có thể ví như cái nạng của một anh què, cái gậy của ông lão chín mươi, một thứ đã thành thói quen bám vào cuộc sống.
Sau một buổi trưa mưu toan tính kế, chiều hôm đó tôi quyết định đến gặp Dực, anh chàng trưởng ban thi đua của trại. Dực cũng chỉ là một "trại viên", nhưng trước đây anh ta là cán bộ, "thoái hóa tiêu cực" sao đó nên bị đi tù. Những anh cán bộ và quân nhân trong trại tù thường được gọi là "phạm binh phạm cán" tức là tội phạm thuộc binh sĩ hoặc cán bộ cũ. Họ có một chế độ đãi ngộ riêng và thường được dùng vào trong các công việc cần đến sự tin cậy của giám thị.

Bữa khai lý lịch, thấy tôi khai là dân huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, Dực liền hỏi quê quán và nhận là người cùng quê. Một lần Dực dẫn chúng tôi đi lấy quần áo ngoài trại chính, qua khoảng đồi núi quanh co, anh ta chỉ tay lên mảng cây cối thưa thớt, nói với tôi rằng "cậu huyện Nhụ nằm ở đó".
Tôi hỏi anh có họ hàng thế nào với ông Huyện Nhụ, anh ta nói là cháu gọi ông Nhụ bằng cậu, nhưng gia đình cụ Nhụ vào Nam còn gia đình anh vốn là nông dân nên ở lại miền Bắc.

Cụ Nguyễn Mạnh Nhụ trước năm 75 làm chánh án ở tòa án Sài Gòn và tôi nghe nói là cũng có họ hàng với gia đình tôi, nhưng là họ xa. Cụ làm tri huyện từ khi còn rất trẻ. Sau này tôi có gặp cụ vài lần. Tôi kể cho Dực nghe đôi ba chuyện về cuộc sống của cụ huyện Nhụ khi còn ở Sài Gòn. Sau này đi "cải tạo" cụ mất ở trại này. Dực nói là trước khi cụ chết, cụ chỉ thèm được ăn một cái bánh dò. Dực nhắn người nhà ở Thái Bình khi đi thăm nuôi thì ghé qua Hà Nội mua lên vài cái, nhưng khi bánh dò mang lên thì cụ mất rồi.
Từ đó, đối với tôi, Dực có phần dễ chịu hơn. Nhưng dĩ nhiên cái khoảng cách giữa một bên là "ngụy" một bên là "cán" thì khó mà san lấp được...

Nhưng hôm nay thì tôi cần đến hắn. Suốt buổi trưa tôi không gặp được Dực. Cho đến hai hôm sau, khi trại đã xôn xao chuẩn bị cho những ngày Tết tôi mới gặp được Dực. Trong khi đó tôi dò hỏi mấy tay làm văn hóa xem những thứ bị tịch thu còn để trong phòng thi đua không. Họ nói còn để trong kho lẫn lộn với những thứ đồ dùng khác. Tôi mang cho Dực một ít thuốc đau dạ dày của ông anh tôi gửi vào. Rất may cho tôi là hắn cũng bị đau dạ dày. Mà cái thứ thuốc trị bệnh dạ dày ở miền Bắc hồi đó chỉ là tí mật ong trộn với nghệ nên không công hiệu. Tôi có thứ thuốc "cao cấp" hơn là Maalox, uống vào là cơn đau dịu xuống ngay. Thuốc Mỹ đàng hoàng, người ta ghét Mỹ nhưng thuốc của nó tốt thì cứ thích, có sao đâu.

Tôi gạ chuyện để xin lại cái muỗng. Dực trợn mắt:
- "Anh làm cái gì mà cần cái muỗng đến thế? Bây giờ để trong kho, chui vào đấy mà trực trại nó biết thì tôi vào
nhà đá."

Tôi nằn nì:
- "Đấy là đồ gia bảo của tôi đấy. Anh biết không, tôi mất nhiều thứ lắm, một cái bằng lái xe ba dấu, một cuốn tự
điển. Nhưng tôi không cần, chỉ cần cái muỗng thôi."

Dực nhìn tôi nghi ngại:
- "Hay là mày giấu tiền trong đó?"
Dực hơn tôi hai tuổi nên hắn có gọi tôi bằng mày tôi cũng không tự ái, mà dù hắn có kém tôi vài ba tuổi mà lúc đó gọi tôi bằng mày tôi cũng cho qua luôn.

- "Cái muỗng đặc và nhỏ như thế làm sao giấu tiền được?"

Dực nửa đùa nửa thật:
- "Bọn mày thì lắm trò lắm, cái gì chúng mày chẳng làm được. Chưa biết chừng mày giấu cả cái máy quay phim
trong đó cũng nên. Tao nghe nói mày có sách làm phim phải không?"

- "Đúng, nhưng là tôi viết truyện rồi người ta lấy làm phim chứ tôi biết cái cóc khô gì."

- "Vậy sao mày chỉ đòi lấy cái muỗng, mày mua chuộc tao bằng hai vỉ thuốc đau dạ dầy, không bõ. Khéo không
chết cả đám. Tao không chơi."

Tôi thất bại, nhưng vẫn không chịu bỏ cuộc. Chiều hôm đó, Dực lại được lệnh phải làm một cái phòng đọc sách vào dịp Tết. Tôi đang loay hoay dán mấy cành hoa đào lên tấm phông trên hội trường thì Dực kéo tôi xuống. Nó bảo tôi đi khuân sách trên thư viện về hội trường, kê bàn ghế, trang trí thành khu đọc sách báo trong ba ngày Tết cho ra vẻ "có văn hóa". Nhưng nếu coi thư viện thì không được ăn tết ở phòng mà phải ngồi trực ở hội trường. Tôi nhận lời ngay dù biết rằng sẽ mất cái thú dự những ngày Tết với anh em trong phòng và mất cái thú ngồi đánh mạt chược bằng những con bài gỗ do chúng tôi tự làm lấy.

Thế là tôi lại có dịp lân la nói chuyện với Dực về cái muỗng của tôi. Dực vẫn nghi ngờ rằng tôi có cái gì giấu trong đó. Tôi đành kể cho Dực nghe:
- "Buổi sáng hôm tôi phải đi "học tập cải tạo", vợ tôi chuẩn bị một số đồ dùng hàng ngày đưa vào túi xách. Đứa con gái của tôi, khi đó mới hơn ba tuổi, thấy mẹ nó bỏ vào túi xách nào là quần áo, khăn mặt, thuốc men… nó đang ăn sáng, cũng bỏ vào xách tay của tôi cái muỗng nó đang ăn và dặn: "con cho bố mượn, khi nào bố về, phải trả lại cho con đấy".

Tôi ôm con gái gật đầu hứa khi về bố sẽ trả. Nhưng quả thật tôi vẫn nghĩ chẳng bao giờ tôi trả lại được cho nó. Lần chia tay này có thể là vĩnh viễn… Chúng tôi ngậm ngùi chia tay, không thể hẹn được ngày về vì có biết ngày nào về đâu mà hẹn!
Thế là từ đó, cái muỗng theo tôi suốt trong những bữa ăn, suốt trong những giấc ngủ. Hình ảnh con gái và gia đình tôi hiện lên qua cái muỗng đó. Tôi vẫn đánh lừa tôi rằng tôi đang được ăn bên con gái, bên những người thân. Dù tôi biết rất rõ sự lừa dối ấy là một niềm ước vọng không bao giờ thành hiện thực, nhưng vậy mà đôi lúc tôi cũng thấy ấm lòng.

Nghe câu chuyện ấy, Dực tỏ ra chần chừ, nhưng hắn vỗ vai tôi:
- "Thôi được, nếu đã là như thế thì tôi giúp cậu. Tối nay, khi ngồi coi phòng đọc sách, tôi sẽ giữ phần bánh chưng lại cho cậu, tôi sẽ gọi cậu xuống phòng thi đua cho cậu ngồi ăn ở đó, trong khi tôi gọi ban thi đua lên phòng hội thì tôi giả vờ để quên chìa khóa kho. Cậu mở cửa vào lấy, có gì thì cậu chịu trách nhiệm. Nó mà vớ được thì ‘kỷ luật’ suốt cái Tết này đấy, chưa biết chừng suốt mùa xuân."

Chẳng còn cách nào khác, tôi đành làm theo cách "ăn trộm" này. Tối đó tôi mở khóa mò vào gian nhà kho. Ánh điện từ nhà ngoài hắt vào, vừa đủ soi sáng cái đống hầm bà làng đủ thứ đồ dùng lặt vặt vừa bị thu mấy hôm trước. Tôi sục ngay vào cái đống linh tinh đó, quả là những anh bạn tù của tôi có lắm trò chơi thật.

Thôi thì đủ thứ, cái điếu cày được làm bằng những ống hỏa châu hoặc những cáng băng ca được cắt ngắn, chạm trổ rồng phượng, khắc gọt rất tinh vi. Những cái trâm cài đầu, những cái lược cho con gái hay cho người yêu, làm bằng nhôm được khắc những cái tên "Hồng Hoa, Bích Phượng, Thúy Hường…" nghe nao cả lòng. Những con dao nhỏ xíu, những cái muỗng gò bằng tôn cũng có hoa lá cành xinh xắn. Tất cả những cái gì bằng sắt đều nằm gọn ở đó.

Sách vở tiếng Anh tiếng Pháp và đủ thứ giấy tờ lộn xộn. Cái mà tôi kiếm được trước tiên lại là cái bằng lái xe của tôi. Tôi không dại gì mà không đút vào túi, dù chẳng biết để làm gì. Tôi lại hì hục lục tiếp, vừa hồi hộp vừa phải thật nhanh tay, tôi đâm ra lính quýnh. Dù chỉ một tiếng động nhỏ cũng khiến tôi giật mình. Cái muỗng của tôi vẫn chưa tìm thấy. Ruột nóng như lửa đốt, tôi bới tung hết cả cái đống ấy và đâm hốt hoảng nếu cái muỗng không còn ở đó nữa. Nhưng may quá, cái muỗng kia rồi, nó nằm dưới cuốn sách dày cộm của "thằng chết tiệt" nào đó. Nó chỉ thò ra có mỗi cái đuôi, tôi cũng nhận ra nó ngay. Lúc đó tôi có cảm tưởng như "con có ở xa hàng cây số thì bố cũng cứ nhận ra con như thường".
Tôi vồ lấy nó như sợ bị người ta giật mất. Tôi nhìn cái hoa văn chạy dọc theo cán muỗng mà tôi đã quá thân thuộc như chính cái nét mặt con gái tôi khi nó "nhí nhảnh" đưa cái muỗng vào trong túi xách. Nó vẫn cứ tưởng là một chuyện vui, bố đi chơi rồi mai bố về. Ừ thì vui. Tôi cười trong nụ cười mếu máo của mẹ nó và trong nụ cười hồn nhiên của nó. Không hiểu sao trong lúc gay cấn như thế mà hình ảnh xưa lại hiện lên rất nhanh như một ánh chớp. Tôi vọt ra khỏi phòng khóa cửa lại, biến nhanh vào bóng tối trên con đường về "khu biệt kích". Thoát nạn! Cái Tết ấy tôi lại được vui chơi với cái muỗng của tôi, dù tôi đã phải hy sinh suốt ba ngày, trong khi mọi người được nghỉ ngơi thì tôi cứ phải quanh quẩn trong cái "phòng đọc sách" chẳng có ma nào thèm ngó đến ấy.

Những dịp nghỉ ngơi như thế cũng hiếm hoi như chuyện được ăn một bữa cơm đúng là cơm chứ không phải khoai sắn hay bo bo. Nhưng quả là tôi thấy hạnh phúc dù ngồi thui thủi một mình. Tôi có cái muỗng rồi, còn cần gì vui chơi nữa. Đó chính là mùa xuân của tôi.
Nhưng không phải đó là một lần duy nhất tôi phải "cứu lấy" cái vật gia bảo của mình. Hai lần sau cũng tương tự, cũng bị tịch thu rồi cứu lại được cứ như sắp ra pháp trường rồi lại được cứu. Chỉ tiếc rằng người cứu tôi không phải là người bạn đồng minh đã từng chiến đấu với các đồng ngũ của tôi trong những năm qua, người đồng minh đó đã "gan dạ" cuốn cờ chạy nhanh và chạy xa quá rồi. Thôi thì tôi tự cứu lấy cái muỗng của tôi vậy.

Một lần khác, tôi lội qua con suối sau cơn mưa lớn. Chỗ chúng tôi làm phải đi qua một con suối, gọi là suối lạnh. Bình thường nó cạn, dòng nước trong vắt dịu dàng trôi lờ lững trên những tảng đá xanh. Chúng tôi thường dùng nơi này làm bến tắm. Nhưng cứ có một cơn mưa lớn là nước từ những triền đồi vây quanh bốn hướng ào ạt đổ xuống, chỉ cần nửa giờ sau là con suối trở nên hung hãn, nước chảy cuồn cuộn và mang theo những cành cây, những khúc gỗ lao băng băng. Chúng tôi phải gấp rút lội qua con suối trở về trước khi con suối trở thành hung dữ. Sang gần tới bờ bên kia, tôi loạng chọang làm đổ cái túi đồ đựng những thứ lặt vặt trong đó có cái muỗng. Ở đây tôi thuộc từng khe đá nên tôi không ngần ngại nhoài người xuống mò. Anh bạn nhảy dù, la lên:
- "Bộ ông điên sao?"

Tôi điên thật, hy vọng mình mò được. Nhưng nước chảy xiết quá tôi lại thua. Anh bạn nhảy dù trẻ, què một tay vì bị thương ngoài chiến trường, rất hiểu tôi nên anh đi xa hơn một chút và khom người xuống, thò một tay ra cái khe hòn đá là tìm được lại cho tôi được cái muỗng. Đôi mắt anh rất tinh, anh mỉm cười:
- "Tôi biết ông mất cái gì rồi."

IV.

Chuyện trớ trêu là hơn 12 năm sau, tôi đã trở về, nhưng chưa trả lại cái muỗng cho con tôi được vì mẹ con nó đã vượt biên, định cư ở nước ngoài. Hơn hai mươi năm, tôi chưa hề gặp lại con gái tôi. Tính đến năm nay là 27 năm, con gái tôi đã 30 tuổi. Ngày 29 tháng 9-2002 vừa qua, cháu đã lập gia đình ở Miami Florida.

Nhận được thiệp báo tin, tôi không biết mình vui hay buồn. Hình như không phải là vui hay buồn mà là một thứ cảm giác kỳ lạ cứ lơ lơ lửng lửng lẫn lộn. Chú thím nó và các anh chị nó ở Mỹ đều hẹn nhau đi dự đám cưới. Tôi thì không, chẳng hẹn hò được điều gì cả và chẳng làm được cái gì cả. Tôi có cảm giác như mình thừa. Rất may là trước ngày đám cưới, cô chú nó về Sàigòn, chính tay tôi gửi được tấm thiệp mừng con gái. Tôi gửi theo cái muỗng trả lại cho con gái tôi như lời hứa 27 năm về trước. Vật đó có thể thay cho sự có mặt của tôi không? Tôi không biết. Nhưng tôi chỉ nghĩ rằng gửi cho cháu để cháu hiểu rằng lúc nào tôi cũng coi như cháu còn nhỏ lắm, như mới hôm qua hai bố con còn ở bên nhau. Tôi đi chơi đâu đó và hôm nay trở về. Nhưng cháu đã đi xa và tôi còn ở lại Sàigòn, nơi nó đã sinh ra. Cháu sẽ nghĩ gì, tôi không biết.

Nhưng vài hôm sau thì có một điều tôi biết rất rõ là từ khi cái muỗng được gửi đi, tôi cảm thấy trống trải như mất mát một cái gì, xa vắng một cái gì thân thiết hàng ngày ở bên mình. Tôi cho rằng nó cũng giống như cái cảm giác của những ông bố bà mẹ khi cho con gái mình đi lấy chồng xa. Nỗi buồn lâng lâng bay chập chờn khắp nơi. Nhưng đó chính là sợi dây vô hình nối liền mãi mãi tình thương yêu dù ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh này. Cuối cùng người ta chỉ còn lại cái tình. Cái tình ấy dù gửi đi tới đâu cũng vẫn còn lại, đôi khi lại mạnh mẽ và sâu sắc hơn, chỉ khi nào người ta tự đánh mất nó thì nó mới mất mãi mãi. Tôi chắc chẳng ai dại gì làm mất cái thứ báu vật đó trên đời không gì có thể so sánh được.

Lẽ ra chuyện này tôi đã viết ngay từ tháng 9/2002 nhân dịp cháu lập gia đình. Nhưng tôi ngồi mãi trước computer, không gõ được chữ nào, đầu óc lung tung. Dường như khi cảm xúc quá đầy, người ta không thể làm gì được ngoài việc cứ để cho nó tuôn trào lênh láng như ngồi dưới cơn mưa. Không nghĩ ngợi gì cả, không làm gì cả, cứ ngửa mặt lên cho mưa đầy mặt, thế thôi! Đúng là chuyện của người thì nhanh mà chuyện của mình thì nghẹn. Mãi đến hôm nay tôi mới ghi lại được những dòng chữ này, nhưng tôi cho rằng chẳng bao giờ muộn vì nó là thứ chuyện của cả một đời hay là của muôn đời.

Nhớ về ngày ấy !

Theo

suckhoedoisong.vn

- 1 năm trước

... Những năm trước, tôi không dám trả lời câu hỏi: Tôi nhớ gì về ngày ấy bằng một bài báo, bởi trước sự kiện lịch sử này, tôi chỉ là một đứa trẻ may mắn được chứng kiến. Nay xét thấy những người trực tiếp biết sự kiện này cứ thưa đi dần, thì sự nhìn và thấy của mình dù có nhỏ nhoi đến mấy cũng có thể góp chút gì cho bạn đọc hình dung  một phần không khí những ngày tháng Tám lịch sử 1945...

Mười một tuổi, tôi đã chứng kiến cảnh Nhật đảo chính Pháp, những ông Tây thất thế trước mũi súng của quân đội Nhật, đồng hành với các diễn biến chính trị  là nạn đói thảm khốc. Nhà tôi ở gần chợ Hôm (phố Huế, Hà Nội) thỉnh thoảng lại có tiếng người la to "Cướp! Cướp!" Mà nào có gì đâu! Có khi chỉ là chiếc bánh đúc ngô, người đói đói quá, cướp lấy nhét ngay vào miệng, chạy không vững, ngã xoài trên hè phố, miệng vẫn nhai...

Hàng xóm nhà tôi có anh Đắc, là một hướng đạo sinh. Một hôm, anh sang nhà tôi, thuyết phục chị tôi tham gia đoàn khất thực khu phố. Có nghĩa là đi quyên góp bất cứ cái gì ăn được, mặc được, rồi phân phát cho những người ăn xin sắp chết vì đói, vì lạnh. Tôi rụt rè hỏi: Em muốn vào Đoàn Hướng đạo, có được không anh? Anh bảo: Tuổi của em chỉ được sinh hoạt  Sói con, Hướng đạo sinh phải từ 12 - 18 tuổi. Hay là anh giới thiệu em vào Sói con? Rồi như động lòng trước sự nài nỉ của tôi, anh đã khai thêm tuổi cho tôi vào Đoàn Hướng đạo Thăng Long của anh.

Đoàn trưởng Đoàn Hướng đạo là anh Nguyễn Như Kim, 23 tuổi, đang là sinh viên năm thứ ba Trường cao đẳng khoa học Hà Nội. Anh Kim như một thần tượng với lũ trẻ chúng tôi với hàng chục  bằng chuyên môn của hướng đạo sinh, biểu thị bằng những chiếc huy hiệu gài trên ngực áo: huy hiệu bơi lội, truyền tin, nấu ăn, dựng trại... Anh làm chúng tôi phục sát đất về sự tháo vát, linh hoạt của một huynh trưởng.           

Khoảng tuần đầu tháng Tám năm đó, anh Đắc trao cho tôi một gói giấy bảo đưa cho chị tôi. Trước khi đưa, anh bắt tôi hứa lời hứa của hướng đạo sinh, không được cho ai biết những gì trong đó. Hoá ra trong gói là tấm vải đỏ và những ngôi sao lụa vàng đã cắt sẵn, nhờ chị tôi máy vì nhà có chiếc máy khâu cũ. Chị tôi  thức rất khuya may cờ, ngày lại giấu biệt đâu đó, đến tôi cũng không tìm ra.    

hỉ bằng vào ghi nhận của trí nhớ non nớt, chắc tôi không xếp sắp chính xác được các sự việc. May mà cách đây 5 năm, dịp kỷ niệm 60 năm Cách mạng tháng Tám, anh Nguyễn Như Kim có một bài báo in trên bản Tin hoạt động các Hội Khoa học và Kỹ thuật, số 08/2005 mà lúc ấy anh là Chủ tịch Hội Thông tin - Tư liệu khoa học và Công nghệ VN. Bài báo giúp tôi nhớ lại cụ thể những ngày này. Thì ra cái cuộc mít-tinh tôi được dự ngày 17/8 lại do các công chức của chính quyền thân Nhật tổ chức. Các diễn giả Cách mạng đã cướp diễn đàn, tuyên truyền ủng hộ Việt Minh. Khi khẩu hiệu "Ủng hộ Việt Minh!", "Nước Việt Nam của người Việt Nam" được tung ra khắp quảng trường Nhà hát Lớn xuất hiện những lá cờ đỏ sao vàng đủ các kích cỡ. Tôi sướng run lên, nhận ra chúng giống hệt những chiếc cờ chị tôi máy đêm nào...

Theo hiệu triệu của một diễn giả cách mạng, cuộc mít-tinh biến thành cuộc tuần hành thị uy rầm rộ ủng hộ Mặt trận Việt Minh. Đoàn tuần hành đi đến đâu hút người theo đến đó, người trên các phố như một dòng sông...

Hai ngày sau đó, cả Hà Nội như một biển dầu sôi, mọi người công khai bàn bạc, bộc lộ chính kiến, lên án những kẻ thân Nhật. Lúc này, may cờ gần như hoạt động công khai. Có thể nói không khí chuẩn bị "nóng" lên nhanh chóng từng ngày.         

Cũng sáng sớm hôm đó, mấy anh đội trưởng hướng đạo đưa chúng tôi vào cửa bên của Nhà hát Lớn, rồi đưa lên thẳng nóc Nhà hát. Tôi choáng cả người khi   bước lên sân trời trên tầng cao lộng gió. Một sân trời rộng thênh thang, từng quãng nhô lên những khối vuông dựng đứng có lắp kính, lợp mái bằng đá xám. Nhìn xuống quảng trường thì ngợp vì độ cao đến chóng mặt, các đoàn người nhỏ xíu từ các ngả dần dần kéo tới.

Một toán người ăn mặc như những công nhân mắc điện, khoác những cuộn thừng lớn, lại khiêng theo một bao tải khá nặng. Chúng tôi ùa đến xem, các anh dốc ngược bao tải, một lá cờ đỏ sao vàng khổng lồ rơi ra, chúng tôi xúm vào phụ giúp rải lá cờ trên sân trời. Mấy anh đội trưởng cùng nhóm công nhân loay hoay buộc, tìm cách cố định  hai góc lá cờ vào hai điểm trụ hai bên nóc Nhà hát. Một anh không làm gì, nhưng mắt đăm đắm nhìn xuống quảng trường như chờ một hiệu lệnh, rồi anh bỗng quay lại, hô to "Các anh em, thả cờ xuống!".

Tất cả chúng tôi khoảng hơn chục người lớn và vài chục hướng đạo sinh nhỏ tuổi xúm lại, đẩy "khối cờ" khỏi sân trời. Nhưng khối cờ rơi xuống mặt tiền Nhà hát chưa kịp mở hết thì gặp một trận gió mạnh thổi tung lên. Chưa bao giờ tôi được chứng kiến một lá buồm khổng lồ hồng rực trong nắng sớm bốc bay lên như vậy! Dù còn trẻ thơ, tôi vẫn linh cảm từ lá cờ này sẽ xuất hiện những ngày mới, không còn cảnh lính Nhật nhục hình những người trộm thóc ngựa, cảnh người chết đói ngay trước cửa mỗi nhà...

Ở trên cao như thế, lại gặp những ngọn gió lớn đầu thu, chúng tôi thành những người may mắn tiếp nhận biểu tượng của Cách mạng trong một bối cảnh kỳ lạ như vậy! 

Hôm ấy, tôi ngỡ anh Nguyễn Như Kim được điều đi làm nhiệm vụ gì khác, hoá ra 60 năm sau mới biết anh cũng làm nhiệm vụ treo cờ ở ngay trước mặt Nhà hát Lớn. Nhiệm vụ đặc biệt của anh Kim chỉ diễn ra sau này, giai đoạn đầu kháng chiến: Giữa tháng 6/1948, anh đang làm Phó giám đốc Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam phụ trách kỹ thuật thì được giao nhiệm vụ sang Thái Lan, liên hệ với tổ chức Việt kiều yêu nước bên đó, nhờ mua sắm các thiết bị kỹ thuật cho Đài phát thanh. Điều đặc biệt của chuyến đi là anh đã một mình mang 18 ki lô vàng xuyên rừng, qua Campuchia, qua  Thái Lan, qua mặt bao nhiêu đồn bốt, mật thám Pháp, giao lại nguyên vẹn cho tổ chức của ta ở Thái Lan.

Để tiện cho các nhà làm sử có điều kiện đối chiếu sự việc với người tham dự ngày lịch sử ấy, tôi nói thêm vài thông tin về mấy anh đội trưởng của Đoàn Hướng đạo Thăng Long kể trên: Anh Đắc, tức Trần Văn Đắc (bí danh là Phi) nghỉ hưu từ Ban Tuyên huấn Trung ương; anh Mỹ sau lấy tên là Nguyễn Đình Sơn, trước khi nghỉ hưu, từng là Đại tá tư lệnh binh chủng Rađa bảo vệ Hà Nội trong 12 ngày đêm B52 (1972) đang sống ở Hà Nội; anh Sơn (sau lấy tên là Nguyễn Hoàng Dũng). Anh Sơn nghỉ hưu từ Bộ Tổng tham mưu, hàm Thiếu tướng, hiện sống ở TP. Hồ Chí Minh... Tôi không nhớ thật rõ một, hai anh hay cả ba anh đã có mặt, tham gia việc treo cờ trên nóc Nhà hát Lớn?

Tôi chỉ là một đứa trẻ trong những ngày lịch sử, nhưng nhờ được hoạt động trong Hội Hướng đạo mà những huynh trưởng cấp cao như Hoàng Đạo Thuý, Tạ Quang Bửu và gần gụi hơn là những người anh như Nguyễn Như Kim đã tạo cho tôi cơ hội chứng kiến sự kiện lịch sử trên. Và quan trọng hơn nữa là: đặt tôi vào cái nền nhân văn, hướng thiện trong những ngày đầu Cách mạng bằng chính nhân cách của các vị ấy!

Mùa này là mùa ớt rừng chín đỏ. Cũng là mùa bẫy chào mào. Chào mào đít đỏ nhỏ con nhưng ăn thịt ngon hơn chào mào xanh. Cây ớt rừng mọc dại sống lưu niên. Riêng về muà này là tàn lá hết quả nên đúng vào mùa mưa dầm gió Bấc lại ko có mà ăn. Thằng nào cẩn thân thì đi hái phơi ko sau ngâm nước ăn dần. Gần 30 năm em vẫn nhớ mùi cơm hẩm với mùi hăng hăng muối ớt rừng. Khổ nhát là cửa ra. Vừa cay nóng lại rát . Khiếp! ;D ;D ;D


 Cây ớt cảnh trên chợ Bưởi không phải giống ớt rừng.


HP10/76@:Cái thứ gạo lính hồi ấy nó đóng tảng đóng cục. Mỗi khi về kho lương thực Vôi - Lạng giang bọn em phải mang cuốc, cuốc chim đi bổ. Gạo ko mốc nhưng vàng khè. Nấu cơm nở tưng bừng, rời từng hạt . Phải xới lên mở vung cho hả mùi hôi mới ăn được. Dân thích gạo này vì rẻ, nấu rượu ko bị khê.


 Cái liêm khiết của mấy thằng bếp thì lính biết cả. Có thằng quản lý, nửa đêm khó ngủ. Lấy thùng gánh nước suối đổ vào hang chuột dưới gầm sàn kho gạo. Mấy thằng tiếp phẩm tiền đâu mà suốt ngày ngồi quán. Nó uống rượu thịt chứ ko thèm uống với mấy cái bánh đa, củ lạc như bọn mình.

Nghe kể chuyện các bác quân lực ở K hay tuyển lính trinh sát bằng câu lên sư đoàn đá bóng lại nhớ chuyện ở đơn vị em lúc tân binh. Một hôm trong buổi sinh hoạt đại đội định kỳ tối thứ tư, hay thứ năm hàng tuần gì đấy, đại trưởng hỏi trong anh em tân binh có ai muốn đi học lái xe không. Chuyện đi học lái xe thì quá là mơ lên tiên cho nên bọn e cảnh giác cũng không nói gì chỉ có mấy cậu thật thà cũng giơ tay xung phong. sau khi mời các chú xung phong lên trên đại trưởng mới thong thả nói "các ông lái cái đ.. gì, lái c... vào lỗ còn đ... xong còn đòi lái xe, mấy ông này được ưu tiên đi dọn nhà vệ sinh" . Những thằng khác lúc đấy mới được thể lăn ra cười và trêu chọc bọn kia. Đúng là quả dưa bở của Tưởng Giới Thạch.

kính báo các bác chuyện chữa đói vặt của em là như thế này . Cũng vì cái đói nên con người ta phải động não để tìm kiếm cái miếng ăn cho mình . Các anh em lính có thân nhân gia đình khá giả và có tiền thì hàng tháng hay nhận được giấy gọi đi lĩnh tiền hay bưu kiện ở ngoài bưu điện . Vậy là chúng nó tươi cười hớn hở ngay ra mặt . Vì có giấy đi nhận bưu kiện là nó được ra ngoài doanh trại hợp pháp vào thứ 7 này rồi . Nhiều thằng o có giấy bưu kiện nhưng có giấy đi nhận thư bảo đảm thì cũng vẫn được đi . Thường thì sau bữa cơm sáng 1 lúc , thì bác trực ban đơn vị hôm đó đi 1 vòng đơn vị hô và gọi các bác có giấy đi nhận bưu phẩm , phải đi ra cổng trại xếp hàng 1 theo 1 bác cán bộ khác để đi ra bưu điện nhận quà . Số còn lại thì phải ở trong doanh trại đợi cơm trưa hay tự đi tắm đi giặt , hay chơi bóng chuyền với nhau , hay nằm phủ phục trên phản viết thư về gia đinh . Có 1 số lính được điều đi xuống bếp để giúp anh nuôi . Cuối tuần thì chỉ có 1 anh nuôi chính nấu bếp , phần còn lại là lính được cử xuống giúp .


 . Để chữa đói thì em thỉnh thoảng phải báo ốm . Đau đầu hay sổ mũi . Vậy là được trực ban báo cho anh nuôi nấu cho 1 xuất cháo hôm đó . 1 xuất cháo hôm đó thì phải đến nửa cái chậu quân dụng ấy . Lại có chút hành cộng thịt . Vậy là em được 1 ngày no . Ăn không hết thì em đưa cho thằng bạn nó ăn hộ .


 - Còn chuyện các bác đi lĩnh nhu yếu phẩm thì đúng như là 1 ngày hội . Trước khi đi , các bác ấy dặn bạn bè của mình là nhớ lấy hộ  xuất cơm trưa và mang về mà ăn . còn các bác ấy thì cơm no , giò lạc , rượi bia , bánh trái đầy bụng ở phố ngoài bưu điện rồi .

ếu tôi nhớ không nhầm hồi, lúc tôi mới vào lính tiêu chuẩn gạo là 21 kg/1 tháng nhưng mà ăn vẫn đói lắm chả biết gạo đi đâu mà mỗi bữa chỉ được độ 2 bát cơm còn chất lượng gạo thì khỏi phải nói. Chuyện đội nồi cơm thường chỉ xảy ra trong 1, 2 tuần đầu lúc thành lập đơn vị thôi còn về sau toàn anh em quen ngồi chung mâm nên nhường nhịn nhau lắm. Có những lúc cán bộ sợ anh em sống cục bộ nên đi ăn xếp hàng ngang anh em quen chọn cùng hàng nhau đến cửa nhà ăn cán bộ bắt vào mâm theo hàng dọc nhưng đã đến nỗi ấy rồi những thằng ăn hỗn cũng không giám làm quá. May cho lính là có cây ớt dại, bây giờ tôi vẫn thấy người ta bán ở chợ Bưởi làm cây cảnh. Trước khi đi ăn làm một nắm ăn cũng trôi cơm. Kể ra cũng còn sướng hơn các đàn anh phải ăn bo bo. Đang ở nhà với mẹ ăn mỗi bữa 6, 7 bát cơm vậy mà sau 3 tháng tân binh về nhà cũng chi mỗi bữa 2 bát bố mẹ tôi cứ ngạc nhiên mãi nhưng quả thực lúc đó quen dạ cũng chả ăn thêm được chứ có khách khí gì đâu.



- Nghe bác nói đến cây ớt , giờ em mới nhớ ra . Trong lính bọn em lại chẳng có thằng nào mộ cái món ớt ấy mới lạ . Em chỉ thấy nó được trồng ở sau nhà C bộ và  sau vườn B em . Có lẽ nó được trồng từ tay các bác lính trước 1975 . Dù các bác ấy đã ra quân nhưng những cây ớt thì vẫn sống tươi tốt đâm hoa kết trái . Nó cũng ra quả ngược lên trời . Bọn em gọi là ớt chỉ thiên . Có quả nhỏ như đầu đũa mà cũng có quả nhỏ , đỏ mà hơi tròn ở phía dưới . Có lẽ là nó được các bác lính ta tham gia chiến dịch HCM 1975 mang từ Saigon ra rồi trồngEm chỉ thấy hồi đói nhất là thời kỳ huấn luyện khi mới vào lính , thời kỳ đầu những thằng lính HN bọn em khi lên đường nhập ngũ thằng nào cũng ít nhiều được gia đình cho tiền mang đi , dù khi đó ở hậu phương đang ở trong thời kỳ khó khăn , gia đình nào cũng phải làm thêm một công việc gì đó để cuộc sống bớt khó khăn . Nhưng khi con em mình lên đường nhập ngũ chẳng ai tiếc tiền cho con mình để nó phòng thân khi đứt bữa , lúc ốm đau . Những thằng lính trẻ lên đường vô tư , vào đơn vị bữa cơm đầu tiên không một thằng lính HN nào thềm ngó đến , tất cả nhường hết cho anh em lính ở nông thôn ăn còn mình thì lủi lên quán uống rượu ăn nhậu hết . Ròng rã nửa tháng trời thì hầu như thằng nào cũng hết "xiền" , thằng nào còn cũng chỉ đủ cầm hơi vài ba cái bánh rán bẻ chia đôi cho đồng đội . Và khi hết hẳn thì ôi thôi cái đói lúc này mới thật sư là tàn ác , nó gặm nhấm cơ thể lính mới ở mọi nơi mọi lúc , trên thao trường , khi lấy củi , lúc sinh hoạt , trong lúc ngủ . Cơm C chia về mâm 6 mức cơm chưa đầy đầy cái xoong 20B, mỗi thằng chỉ được 2 bát , gạo hẩm mốc ăn cùng mắm kem , rau xanh lèo văn tèo , cá mắm là chủ lực nhưng nào có được nguyên con vì mục nát .Cá biệt những hôm có thịt thì là thứ thịt dự trữ mà anh nuôi kho cả tảng ướp muối ăn dần , mà khi chia về đến mâm thì mỏng dính .


   Trong suốt thời kỳ huấn luyện , mặc dù là tân binh được hưởng chế độ hơn lính cũ , nhưng thật sự bọn em thấy quá cực mặc dù biết là đời lính sẽ rất gian khổ , chỉ thấy ái ngại cho anh em nông thôn , bọn em dù sao cũng có điều kiện hơn họ , đói quá không chịu được thì thay nhau về thăm mẹ , qua một loạt nhà anh em mang tiền và thực phẩm khô như ruốc ,muối vừng , đường lên cầm cự, họ thì không được như vậy mỗi lần lên E tải cá mắm về anh em thường lấy một ít , sợ C biết nên toàn ăn sống nên bị tiêu chảy , từ một người sau lây sang cả C rồi cả D , C nào cũng có lính bị dính rất khổ .




  


Bọn em ít nhiều biết bị quản lý C bớt xén khẩu phần nhưng chẳng một thằng nào dám nói he he vì ban chỉ huy C biết mà có dám nói đâu ?? Họ ngang nhiên vác vài bao tải gạo đi đổi chó về thịt trước mặt tân binh là chuyện quá bình thường , chỉ mong họ thương tình cho mỗi mâm một bát nước xáo chó mà lính mới dài cổ chờ đơi và hy vọng mà chẳng được he he thế mà thằng nào cũng tưởng bở bàn bạc ,đồn thổi  rì rầm từ sáng tới chiều !!??


   Tất cả chỉ là cái đói nên sinh ra rất nhiều chuyện , từ ăn cắp vặt của đơn vị , của đồng đội , của dân , đảo ngũ , đánh nhau , bệnh tật , nợ nần cắm quán , bán quân tư trang ôi rõ khổ !!


   Sau này về đơn vị mới thì ôi , cơm ăn không hết nhiều lúc chẳng muốn ăn chỉ chăm chăm đi kiếm cái gì cải thiện cho thêm thắm tình đồng đội , rau xanh tự tăng gia trồng trọt , dùng không hết đơn vị bán bớt cho dân mua thịt cho anh em ăn , lính mới về đơn vị lính cũ nhường cho ăn cơm thoải mái cho các em nó lại người he he !!. Ngẫm lại thời tân binh thật không thể hiểu : sao lại đói thế và sao lại có một số người lính cũ lại đối xử nhiều khi không có tình đồng đội với chính những người đồng đội của mình như vậy ???


   Quả thực thời tân binh là thời ấn tượng nhất em nghĩ đối với mọi thằng lính lác , thằng cháu em vừa nhập ngũ năm 2008 , vừa rồi về chơi em hỏi nó nói không cực như thời bọn cậu và rất ngạc nhiên khi em kể một vài kỷ niệm thời tân binh của em . Thôi thì cũng mừng cho những người lính trẻ bây giờ ít nhiều gì thì cũng đỡ hơn những lớp cha anh đi trước !!

Thời kỳ khoảng giữa 1980 chúng tôi tác chiến dài ngày trong rừng nên chuyện vận chuyển gạo xuống cho lính đánh nhau giữa mùa mưa cũng là một vấn đề lớn , lính thì nằm tít trong sâu xa xe tải không vào được đến nơi nên anh em vận tải của E hay D gần như cõng bộ vất vả lắm , hạt gạo vào đến nơi cho lính có cái ăn mà cầm súng cũng nhiều gian nan nên gạo có đủ cũng là mừng rồi , thực phẩm khác có nhưng ít hon so với tiêu chuẩn ăn của lính , cơm cũng chỉ đủ ăn vì lính phía Nam ít khi thiếu cơm bởi vậy anh em phải nghĩ cách kiếm thực phẩm để nuốt số cơm đó , săn bắn thì lính chúng tôi chẳng thấy ai săn bắn bao giờ , nhìn mấy con kỳ đà to như cho Rồng đất của Indo rúc đầu vào bụng xác chết thằng Pốt thối dữa thì ai dám ăn thịt nó , rùa vàng trong rừng cũng nhiều nhưng lính kiêng , tác chiến gặp rùa chỉ cần thấy nó là tránh cho xa và mỗi lần gặp rùa trên đường tác chiến là thế nào chúng tôi cũng khiêng vác nhau rồi thế mới lạ , bởi vậy thịt rùa là ế chẳng thằng nào dám xơi . Ngoài 2 thứ không ăn được đó thì nhiều còn những con khác thì chẳng thấy bao giờ , lính thiếu chất nên tẩn cơm cũng ác , có cái cho dạ dày co bóp và chặt lọc chất từ cơm vậy . Thế là cơm thiếu , xong cũng chỉ những thằng ăn khỏe thiếu còn loại ăn uống làng nhàng như tôi là vừa đủ , lính cũng nhường nhịn nhau chuyện ăn uống , biết thằng A ăn khỏe mình bớt chút cho nó khỏi chịu đói .


  Chúng tôi có loại thực phẩm cây nhà lá vườn ăn cũng tiêu cơm lắm , thường mỗi thằng lính có 2 cái bình tông đựng nước , 1 cái đun nước muối sôi lên rồi cho vào độ 1/3 bình tông , đi đâu thấy ớt dại hái bỏ vào , măng rừng bẻ về luộc qua cắt nhỏ bỏ vào khoảng 3 ngày là ăn được , mỗi bát cơm 1 quả ớt hoặc một khúc măng muối thế là cơm đi ầm ầm . Sau này mỗi lúc nhớ đến thấy cũng thèm nên mỗi lần đi Lạng sơn đều ghé qua mua 1 2 bình măng ớt với quả mắc mật nhưng họ cho nhiều quả mắc mật quá nên ăn không thấy ngon nữa chỉ toàn mùi hắc của mắc mật

Bác đúng là lính cậu rồi . Kỳ Đà mà không thèm bắn không thèm ăn . Chả bù cho lính đơn vị em chút nào . Kỳ Đà mà bọ em muốn bắn để ăn cũng không được . Cái sông mực Thanh Hóa sát dưới núi Trường Sơn sang Lào thì vô kể là Kỳ Đà . Nhưng bọn em bắn xong là nó phi xuống sông Mực mất tiêu . Bố thằng nào trong bọn em dám liều mình phi xuống để mò vớt nó lên . Đợi nó nổi lên mặt nước thì đến bao giờ . Ngược lại thì bọn em có 1 món cua rừng để cải thiện . Nó đỏ lòm , tuy nhỏ nhưng càng thì rất to . Khi mưa xuống ngập lỗ , thì nó mới bò lên , bọn em tha hồ bắt . Nhưng nó hôi như nước đái . Ăn không nổi . Có bác nào đã nếm thử cái món cua đỏ này chưa . Em chịu không ăn được . Nhưng nhiều bác vẫn ăn ngonNhững năm 80 ấy,đói toàn diện,gạo mậu dịch hôi mù,gạo tấm của Ấn độ viện trợ cho ta(có khi cho lợn ăn) cũng chẳng có mà ăn.Người nông dân phải ăn cơm độn(+khoai lang,sắn,bo bo-Đông âu viện trợ).Bọn em con nhà nông dân,ăn khoai lang è cổ,làm gì có gạo mà ăn,lúa bị sâu tim chết sạch,ăn khoai lang xong ợ chua liên tục,nóng ran cả bụng(xin lỗi các bác,cái loại này nhuận tràng tốt,tốt lắm).Bộ đội ở nhờ nhà dân,nhưng các anh có bếp riêng,gia đình và bộ đội ăn riêng.Các anh ấy chắc cũng đói lắm.Trước khi phải lên Lạng sơn các anh nói nhỏ với em:Mang cho anh rổ củ doải(khoai lang to bằng ngón tay,loại này vứt đi dân không thèm ăn).Nhìn mấy anh ăn ngon lành,em đã khóc thầm:Ớ các anh ơi,bao nhiêu tháng ở nhờ nhà em,đâu có biết các anh thèm cái món của nợ này,sao các anh không nói trước,mai các anh đi rồi!


(Sau khoảng 1 năm,mấy anh này ra quân,về nhà em chơi,chẳng ai bị thương vong gì.Chỉ nói:Pháo Tàu nó bắn khiếp lắm)

Món măng ớt ngâm cùng quả mắc mật trên Lạng sơn hồi bọn em ở đó , quả mắc mật em thấy đồng bào khi ngâm thường chọn những quả không xanh quá mà cũng không chín quá , nhiều khi vào bản chơi gặp họ ngâm có hỏi nhưng họ chỉ cười không trả lời chắc là giấu bí quyết ?? Theo những người Kinh lên sinh sống trên đó họ nói thường chọn những quả như vậy vì những quả xanh khi đem ngâm thường có vị chát và không thơm còn những quả chín quá thì ngâm lâu sẽ vữa nát và mất mùi thơm nhanh , vì vậy họ chỉ chọn những quả vừa chín tới để ngâm . Nhưng quả thực khi ăn thì măng ớt ngâm mắc mật của người dân tộc khác hẳn người kinh mình ngâm , nó có mùi vị rất đặc trưng có thể lúc đầu khi ăn cảm thấy hơi khó nuốt , nhưng sau ăn quen khi dùng của người Kinh mình ngâm thấy không ngon bằng . Đợt bọn em làm đường cho dân trong Đèo Bén có vào ở trong nhà dân được họ cho ăn thường xuyên món này, khi làm xong về đơn vị ra quán ăn thử thấy đúng như vậy .


   Lá mắc mật họ dùng để nhồi vào trong bụng lợn sữa khi quay , mà thịt lợn của chính tay họ quay thì  miễn chê , Để từ sáng đến quá trưa mà vẫn không bị ỉu , vẫn ròn tan và thơm nức . Hai món đó là đặc sản của xứ Lạng , nhưng giờ món măng ớt ngâm cùng mắc mật có thể do nhiều công ty trên đó kinh doanh ồ ạt nên chất lượng bị giảm sút nhiều không ngon như trước . Còn món thịt quay bán ở chợ Đông kinh bây giờ mà dân HN hay mua về làm quà mỗi khi đi chợ Tân thanh theo em thì không thể bằng món thịt quay của những người dân trong bản sâu ngày trước được . Đi lên thăm đơn vị cũ 2 năm trước bọn em có thử ăn nhưng quả thật không được như trước nữa , lại nhớ đến miếng thịt quay ngày nào mà mình đã được ăn !!

Những năm 80 ấy,đói toàn diện,gạo mậu dịch hôi mù,gạo tấm của Ấn độ viện trợ cho ta(có khi cho lợn ăn) cũng chẳng có mà ăn.Người nông dân phải ăn cơm độn(+khoai lang,sắn,bo bo-Đông âu viện trợ).Bọn em con nhà nông dân,ăn khoai lang è cổ,làm gì có gạo mà ăn,lúa bị sâu tim chết sạch,ăn khoai lang xong ợ chua liên tục,nóng ran cả bụng(xin lỗi các bác,cái loại này nhuận tràng tốt,tốt lắm).Bộ đội ở nhờ nhà dân,nhưng các anh có bếp riêng,gia đình và bộ đội ăn riêng.Các anh ấy chắc cũng đói lắm.Trước khi phải lên Lạng sơn các anh nói nhỏ với em:Mang cho anh rổ củ doải(khoai lang to bằng ngón tay,loại này vứt đi dân không thèm ăn).Nhìn mấy anh ăn ngon lành,em đã khóc thầm:Ớ các anh ơi,bao nhiêu tháng ở nhờ nhà em,đâu có biết các anh thèm cái món của nợ này,sao các anh không nói trước,mai các anh đi rồi!


(Sau khoảng 1 năm,mấy anh này ra quân,về nhà em chơi,chẳng ai bị thương vong gì.Chỉ nói:Pháo Tàu nó bắn khiếp lắm)




 - Bác và gia đình bác là diện những gia đình có ăn rồi . Vì có cơm rồi khoai lang mà ăn . Bọn em đóng quân ở nhà dân em biết . Họ còn không có cơm và khoai để ăn nữa kia . Bọn em tuy đói nhưng cũng còn có bát cơm , hay 1 khúc mì Nga được anh nuôi luộc dài như khoang giò rồi cắt ra đoạn 1 . Chủ nhà em ở họ chỉ ăn đúng có 1 món sắn đồ . Hết ngày này tháng nọ họ ăn . Không muối , không rau , cũng không thịt . Người nào cũng xanh lét , môi thâm . Em đã có lần xin ăn thử bà chủ 1 miếng . Mẹ ơi ! nó đắng , nó thâm và nhớt của nhựa  . Họ hòa bột với nước rồi cho vào ống tre bầu rồi buộc lại . Để dựng đứng trên cái nồi có nước , bịt kín rồi đun sôi lên . Hơi nước xuyên qua ống tre và bột sắn . Thế là chín . sau đó hạ xuống tách ống tre ra . 1 khoanh giò sắn được cắt ra . cứ thế là ăn . đó là món sắn đồ đó . Nhưng ăn vài lần cũng quen

Em hơi lan man 1 chút,vì em cũng xuất thân từ nông dân.Trước 1979 thuốc trừ sâu TQ viện trợ cho bà con là DDT(Điclo-Đifenyl-Tricloetan),666(Hecxancloran) cực độc,rắc xuống ruộng lúa ở dạng bột,sâu,cua,cá chết sạch.2 loại này hiện nay đã cấm.Ngoài ra còn có đạm,lân,kali...của bác Mao viện trợ,nông dân mùa màng tốt tươi.
-Sau 1979 quan hệ cắt đứt hoàn toàn.Cây lúa của người nông dân,bị sâu bệnh,nhất là sâu tim nó hoành hành,cùng với nạn bọ rầy.Tóm lại cây lúa chết dần,mất mùa liên tiếp.Chỉ có cây khoai lang,khoai tây là không bị ảnh hưởng.
-Các bác có thể thèm 2 món khoai trên,nhưng với em là 1 nỗi kinh hoàng thời thơ ấu(khoai luộc,nướng,sấy,hấp cơm,cháo...)
-Với em thì buộc phải ăn.Biết đâu mấy anh lính kia vừa thèm,vừa đói(Toàn lính Hà nội đấy)

- Đã vào lính thì ai cũng phải chấp nhận cái khổ . Không khổ thì không phải là lính . Đã đi lính thì phải đi xa nhà , xa bố xa mẹ và xa người yêu . Nếu đơn vị không thương lính và quản lý tiêu chuẩn lương thực và thực phẩm cho tốt , thì lính đói dài dài . Mình còn biết vá cả quần áo cho mình nữa cơ .
 - Còn món khoai lang là món ăn giải cứu cho người nông dân ta rồi . Tớ đã ăn khoai lang luộc trừ bữa . Khoai lang cạo vỏ sắt đoạn nấu chung với gạo . Khoai lang hấp trên mặt nồi cơm . Khoai nấu nhừ với tỏi làm canh để chan ăn với cơm , Khoai lang cắt mong phơi khô cất đi để sau này nấu độn với cơm . Hay say tán nhỏ ra để hòa nước nặn thành bánh hấp lên ăn thay cơm . Đi chăn trâu thì moi dưới cái mầm khoai lên cái củ còn sót rồi rửa đi nhai ngọt như đường . Tớ có oai bằng bạn không hay vẫn còn kém bạn món khoai nào ?


 . Còn ngày xưa thì Hà-nội cũng phải về quê hết . Cả Hà- nội từ già trẻ trai gái phả đi sơ tán về quê hết . Chỉ những đơn vị hay cơ quan không thể đi được thì trụ lại Hà -nội thôi . Nhưng đi sơ tán thì vẫn được đong gạo ở kho của xã hay của huyện . Mãi sau năm 1972 thì dân sơ tán mới dần dần quay về Hà-nội .

Lại nhớ món măng ớt. Người ta lấy quả mắc mật mới chuyển sang màu trắng nhạt thì ngâm ngon hơn. Ngâm ớt, mắc mật , măng với tỉ lệ vừa phải thì chúng có vị the the của mắc mắc mật, cay cay của ớt, hơi inh ỉnh và giòn của măng.Cái này cũng chỉ ăn ngon trong thời gian nhất định. Để lâu quá cũng kém ngon. Lính mình thiếu thức ăn. Mỗi khi vào dân rớ được ăm cho thỏa cái mồm con ma đói. Lúc đứng đậy, mồ hôi mồ kê vã ra. Bụng cồn cào cả buổi.Thằng nào ngu đi ăn mía hay mít dứa vào càng chết.


 Lợn quay của dân Lạng sơn thuộc dạng siêu đặc sản. MT tôi đã từng thực hiện.


 Bây giờ ăn ko thấy ngon là do chăm cầu đền lễ miếu nên con ma đói nó tha. Thịt lợn quay bán ở chợ, ở nhà hàng là lợn siêu nạc, nuôi theo lối công nghiệp chứ không còn lợn cỏ thả rông. Thay cho mật ong rừng quyết lên bì lợn là mật mía hoặc mật ong nuôi nên bì không giòn thơm như xưa. Ngoài ra than, củi để quay cũng rất quan trọng. Có người nói dùng cây quế rừng để xiên qua con lợn quay càng ngon. MT chưa được làm như vậy.


 Lá mắc mật còn một công dụng bí truyền trong chế biến thực phẩm. Đố bác nào biết. Bác nào nói đúng em hầu bữa vịt quay với rượu Mẫu sơn chính hiệuTôi nhớ cái ngày 9 thằng lính HN được phân về D12E108 pháo binh.Vì chưa kịp phân chúng tôi ra từng C lên tập trung tất cả 9 thàng tại C8.Hôm ấy 9 thằng nằm dài tại lán B thì có chú gà nhép của dân viếng thăm.Chỉ 1 cái phất tay,chú gà kia lìa trần bay vào nồi cháo.Chuyện đáng nói là 9 cái miệng háu đói cứ chăm chăm vào nồi cháo.không thể cả 9 thằng ăn,nồi cháo chỉ có vốc gạo với con gà nhép.Thằng nào ăn,thằng nào không,bài toán không có câu trả lời.Cường bò nhanh trí giải quyết vấn đề.Nó khạc 1 cái rõ dài,1 cục đờm xanh nét bắn bào nồi cháo.Bốn, năm thằng văng tục rồi nui lại.Tôi nhanh tay cầm cái môi,hớt cục đờm của Cường bò .Lúc này việc đã quá rễ,còn 4 thằng ăn cháo trong đó ,tôi có 1 xuất.




 - Kkhông biết bác Cường Bò nhà bác là nhà phát minh sáng kiến hay mấy thằng ở đơn vị em là nhà phát minh . Nhưng giống nhau quá . Hôm đó nhà ăn có cho lính ăn thêm 1 nồi quân dụng nước lòng luộc ngon lắm . Khi nhà ăn mở cửa thì lính ào vào để tranh nhau múc được bát nước lòng . Lính ta vòng trong vòng ngoài tranh nhau múc . Nước tung tóe lên cả đầu mấy ông cúi gần . Có ông múc được thì cũng o ra nổi . Mấy ông chạy vào sau không len vào được bèn trèo qua đầu anh em rồi thi nhau nhổ bọt , đờm , xì mũi rồi khạc ầm ĩ qua đầu vào nồi nước lòng . thế rồi bỗng dưng tất cả lính đứng im và cùng nhau đổ lại bát nước lòng đã múc được . chẳng ai bảo ai . tất cả im lặng rút lui . trong khi nồi nước lòng vẫn đầy nguyên đang lung linh óng ánh nước mỡ .

Các bác mất tác phong quá. Chuyện ăn, chuyện ị của lính còn dài. Sáng nay, thứ Hai đầu tuần em đưa các bác đi tham quan nhà phạt giam xem bác nào còn vô kỷ luật nữa không !


Chuyện lính vệ binh


Có lẽ đi quân cảnh đêm là cái mà đám vb chúng tôi khoái hơn. Đi cả đêm tuy vất vả một chút nhất là khi phải tới mấy làng xóm xa e bộ. Mỗi dịp ‘’có mầu’’ của lính, hàng quán tấp nập hẳn. Lính ra vào như hội. Mang đồ ra bán chác ì xèo.


 Nói là hàng quán cho hoành tráng. Thực ra chỉ là mấy nhà dân quanh đv. Bình thường thì bán ấm chè, túm thuốc, chai rượu với ít nông sản cho lính. Có khi lính ăn hút tại chỗ, có khi mua về đv, cũng có khi mua xong mang ra bờ suối, sườn đồi đánh chén với nhau. Người bán, kẻ mua chỉ là người nông dân chất phác với anh lính xa nhà thèm một chút men say hay đơn giản là củ sắn, bắp ngô bù vào chỗ thiếu của bữa cơm chiều. Biết là vi phạm quy định của địa phương, biết là vi phạm điều lệnh nhưng cái quy luật cung-cầu nó cứ phải diễn ra như vậy. Vb thì vẫn là lính. Thông cảm cho nhau.Mỗi toán quân cảnh thường bố trí thằng HN, thằng TB, thằng HNN ,thằng BTT. Chúng tôi  bắn súng đì đòm từ xa đánh động cho anh em tránh mặt. Đám nào đang dở dang thì nhắc nhở chút xíu. Lính ăn nhậu thì như mổ bò. Rượu vào rồi trời bé tí nói gì mấy thằng vb. Từ ngoài, nghe giọng anh em , chúng tôi cho thằng đồng hương vào khuyên anh em về sớm. ‘’ Ăn nhậu’’ . Nói nghe cho oai. Chỉ là ấm trà, mười điếu thuốc ‘’ con gà’’ trói ngang lưng bằng miếng giấy đỏ gọi là một ‘’túm’’. Chai rượu sắn với vài cái bánh đa. Sang thì được bơ lạc rang cả vỏ. Tất cả bày trên chiếu trải dưới nền nhà. Dăm bảy thằng lính xúm xít . Vb vào, lúc đầu có vẻ ngỡ ngàng, gượng gạo. Sau túm tay túm cẳng mời ‘’ đồng hương làm tí’’. Chúng tôi không bao giờ nhận lời. Có lần anh Thắng ở c vận tải dúi cho tôi túm thuốc . Tôi không lấy, anh mắng :’’ Đan mạch. Huấn luyện rít chung điếu thuốc lào. Giờ làm vb sĩ vừa thôi. Của anh anh cho. Mày có bắt anh về nằm cùm thì ctr anh xin chứ anh đé thèm xin mày’’. Nhiều khi chủ quán vì nhiều lí do cũng mời. Tất nhiên chúng tôi cũng không bao giờ nhận.


Thường thì anh em chia tay vui vẻ. Cũng có lúc phải bắt vài thằng. Những thằng quậy phá, ăn chằng ăn bửa của dân trị tới nơi tới chốn. Vô phúc cho thằng liên lạc nào ra mua đồ cho thủ trưởng. Gặp là tó ngay. Khỏi trình bày. Cho thầy mày đi giao ban hết kêu vb ko chịu duy trì kỷ luật khu vực. Cũng có khi bắt hàng loạt. Âý là khi e bộ có việc cần cửu vạn.


 Có một điều đặc biệt. Lính bị bắt trình bày lý do qua quýt. Được thả thì vui vẻ cảm ơn rồi về. Không được thả cũng vui vẻ chịu giam chứ không hề xin xỏ lèo nhèo. Trên đường về dù trời tối, địa hình hiểm trở cũng ko thèm trốn chạy. Một lần bắt chừng 10 lính, tôi bảo thằng Tùy đếm xem đủ chưa. Nó đếm bảo đủ. Trong đám lính bị bắt có thằng nói:


-   Đủ rồi thì cho bộ đội về nằm cùm sớm cho phẻ mai còn công tác. Để tôi cử một đồng chí về báo d tr khỏi báo động đv. Mai đồng chí ấy có mặt trên e bộ.


 Qủa thật, cái thằng về báo dtr ấy sớm hôm sau đã ngồi ở cổng vb.


                                     


                                           *  *  *


 Chuyện cái cùm.


 Cái gây ấn tượng nhất cho người ta mỗi khi đến b vb là cái cùm. Đó là hai tấm gỗ dày khoét các lỗ bán nguyệt. Khi hai tấm gỗ khớp vào nhau thành một khối chắc chắn. Các lỗ bán nguyệt đớp gọn cổ chân thật khít khao cho thằng lính phạm yên giấc. Chỉ những thằng cứng cổ tội nặng có tiềm năng bỏ trốn hay những thằng coi thường kỷ luật mới được hân hạnh tra chân vào cùm. Thằng nào ít thì một chân, thằng nào hơn ít một tí thì hai chân. Thằng nào nhiều thì cũng hai chân nhưng chéo nhau. Với cái bản gỗ dày chỉ có nước nằm sấp hoặc nửa nằm nửa ngồi mà nhắm món ‘’ gà năm vị’’. Hôm nào vắng còn đỡ, hôm đông năm sáu thằng tranh nhau nằm một cái cùm. Ken sít vào nhau không cựa được. Cả đêm càu nhàu cãi cọ .Khỏi ngủ.


 Cái cùm cũ xộc xệch lắm rồi. Nó được Hợp bọ đẽo nham đẽo nhở trông như một con quái vật bệnh tật. Trải qua năm tháng phục vụ quân đội, cái hỗn hợp mồ môi và lớp vảy bần của da mà ta hay gọi là ‘’ghét ‘’ đã phủ cho nó một lớp keo đen bóng. Cái hương gỗ sau sau thơm nhẹ ban đầu đã phôi phai. Nay nó đã dợm mùi khăn khẳn. Thật là bôi bác. Bôi bác quá. Cái cùm không còn thể hiện tính chính quy của quân đội .Nó càng không tương xứng với một đv được trang bị hiện đại nhất nhì lục quân lúc bấy giờ. Sứ mệnh của nó đã hết. Không nỡ vứt đi, người ta cố cho nó cơ hội cống hiến cuối cùng bằng cách biến thành nhiệt năng làm chín những nắm rau cải thiện của mấy thằng vb. Nhưng nó, cái cùm cưỡng lại thuyết vạn vật chuyển hóa. Vừa chạm vào lửa, cái lớp keo liền bốc mùi khét lẹt gây gây đến lộn mửa. Và người ta đành vứt nó vào xó nhà giam như một chứng tích vang bóng một thời.


 Những phát minh của loài người luôn được cải tiến để phục vụ loài người hữu hiệu hơn. Cái vật giam giữ người bằng gỗ ấy thì không thay đổi là bao kể cả ngàn đời nay. Sau khi bàn đi tính lại, cuối cùng người ta đành thay cái cùm bằng một cái ….cùm mới. ‘’ Nhưng trông nó phải  có chất văn hóa một chút’’ . Đó là câu kết của trưởng ban tác chiến khi giao nhiệm vụ cho Thế già.


  Vốn là một tay thợ mộc chuyên đóng đồ gia đình,Thế già vừa qua lớp tân binh HN biên chế về b vb. Được dịp thể hiện tay nghề lại là chế tác một sản phẩm đặc biệt có một không hai trong toàn e. Thế già tận tâm tận lực ngày đêm lao động. Đầu tiên, Thế già chọn trong đống gỗ lấy ra tấm gỗ ưng ý. Sau những ngày lao đông miệt mài . Thế già cho ra một chiếc cùm phải nói là tuyệt tác. Hai tấm gỗ màu đỏ au khi khép lại trông như một. Đường vân nổi tựa mây vờn lấy cái đầu rồng là tay cầm được cách điệu . Hàm rồng treo cái khóa Trung quốc mới coóng tựa như đang giữ một báu vật. Các mộng, chốt, cá cực kỳ chắc chắn, khít rịt. Một người lính có lương tâm người thợ. Hai trong sáu lỗ  cùm được Thế già  tạo hình côn, lấy mảnh chai cạo nhẵn lì. Thế nói với đám vb : ‘’ Để anh em mình có bị cùm thì đỡ cắn chân’’.


 Để tăng thêm phần ‘’ văn hóa ‘’, cũng là để lưu danh một thời trai trẻ , đôi bàn tay vàng  tỉ mẩn chạm dòng chữ ‘’ ĐỜI CÒN KHỔ’’.


 Thế già le te lên báo công với trưởng ban tác chiến. Bụng nhủ thầm ‘’ phen này thế nào cũng được đóng giường tủ cho các thủ trưởng’’. Những bữa cơm rượu, những ngày tự do,những lời khen nịnh thời còn gánh hòm đồ bòn cơm thiên hạ dậy lên trong lòng. Thế già khoái lắm. Trưởng ban tác chiến rất ưng ý với cái cùm đầy chất văn hóa ấy. Anh cho khiêng vào kê đúng chỗ mà chỉ có cái cùm đáng được ngự.


-   Ô ! Cái gì thế này ? Chữ gì đây ?


Thế già bẽn lẽn, mắt cười tít tay gãi gáy.


-   Anh khắc lên đây phải không?


 Thế già cười hì hì như công nhận.


-   Vào ! Vào !


 Thế già ngồi đấy. Cái miệng méo xệch. Cái ống tay áo cắt ngắn để cưa, bào cho đỡ vướng chốc chốc đưa lên quyệt hai hàng nước mắt. Đôi bàn chân run rẩy qua hai cái lỗ  ‘’ Để anh em mình có bị cùm thì đỡ cắn chân’’. Thế già ơi! Thật nực cười cho thằng cha làm ra cái cùm rồi bóc tem nó !

Đợt đó cả D em đi làm công trình , toàn d rút hết chỉ để lại mỗi c 3 thằng trông coi đơn vị và mấy thằng quản lý , thủ kho anh nuôi trên D bộ , ban chỉ huy d lúc này chỉ để lại một thủ trưởng là d phó ở lại trông coi mấy thằng lính lác tụi em . Thực ra công việc trông coi doanh trại cũng chẳng có gì , chỉ trừ mấy kho quân khí và quân lương ra thì trống hơ trống hoác , gần 20 thằng ở lại chỉ có mỗi việc gác đêm là không dám bỏ , còn lại bỏ tuốt he he bởi chẳng có việc gì . Bọn em ngày chỉ vật vờ vào dân chơi kiếm đồ tươi cải thiện , lợp lại vài cái mái tranh bị gió làm tốc , cuốc đất tưới rau , ngày ba bữa ăn xong lại trà thuốc tán phét , tối thì đánh tiến lên bôi nhọ nồi rồi lăn ra ngủ , đến phiên gác thì dậy thế thôi . Mà d phó thấy bọn em như vậy cũng yên tâm phần nào , cả d còn mỗi mình bố ấy nên cũng buồn , tán phét với mấy thằng lính mãi cũng chán nên hay vào bản chơi với dân cho tình quân dân thêm thắm thiết .!


   Đúng là sướng mà không biết đường sướng , các cụ nhà ta nói không sai bao giờ rằng : " nhàn cư vi bất thiện " , cũng bởi chẳng còn trò gì , trời xui đất khiến thế nào mà hôm đó thằng Dũng béo là quản lý kho quân khí hứng lên bảo muốn xăm hình môt con thuyền buồm lên ngực để làm kỷ niệm , nó biết em là thằng vẽ đẹp nên cứ nằn nì , của đáng tội từ hồi đi học em là thằng chuyên đảm trách báo tường của lớp và cũng được học qua trường lớp nên có tý nghề , nghĩ cũng ngại nhưng nó cứ nằn nì vả lại lâu không vẽ vời gì cũng muốn thử xem tay nghề của mình ra sao nên tặc lưỡi vẽ cho nó . Thằng Long quản lý D thì xung phong xăm hình , nó lấy một đoạn dây thép mài nhọn đốt chiếc dép cao su lấy muội  trộn với kem đánh răng để xăm cho đồng đội, thằng Dũng cởi trần mặc quần đùi nằm ngửa dù đau nhưng vẫn khoái chí lắm , xong việc nhìn lại tác phẩm thì đep thật , he he có một con tàu cánh buồm no gió tung tảy ra khơi chiếm dt gần hết ngực của nó . khi ngồi trà lá nó cứ cởi trần khoe tác phẩm và rồi tiếng lành đồn xa những thằng lính lác còn lại thi nhau nhờ em với thằng Long tạo hình nghệ thuật . Bố khỉ thằng thì xăm hình nàng tiên cá , thằng thì khẩu AK cái mũ cối, thằng thì dãy núi chập trùng , quả lựu đạn mỏ vịt liên xô , trái mìn tăng kèm theo những chữ rất ấn tượng như : Nhớ mẹ ! Thương em ! Lính phong sương ! Đời rẽ ngoặt ! Em ở đâu ? !Vvv...


   Sướng lắm ! ra ngoài bản chơi các ông con cũng đều khoe khéo cho đám trai bản biết , nhưng về đơn vị thì giấu biệt vì sợ D phó biết , nhưng cái kim trong bọc mãi cũng phải lòi ra , đầu tiên là thằng Dũng béo , đi tắm bị D phó tóm được và rồi nó phải phun ra tất , bố khỉ gần 20 thằng cởi trần bị đứng giữa sân nắng của D để nghe D phó  : he he đ..mịa chúng mày là cướp hay là bộ đội ? Đ..mia bộ đôi đ..gì chúng mày ! chúng mày chỉ làm hỏng quân đội hỏng lính mới của tao . Muốn vào tù  mai tao điện cho vệ binh sư xuống cho chúng mày nằm hầm ...ôi trời ơi bọn em hồn xiêu phách lạc chỉ mong d phó nói dọa ...he he mà dọa thật mới phúc chứ , bố ấy chỉ tức một lúc thôi xong thì : Đ...mịa hẹn cho chúng mày phải xóa ngay lập tức , mai tao kiểm tra thằng nào còn thì Đ..mịa kéo dài thêm 6 tháng tuổi quân Đ..mia cho chúng mày nhớ !! Còn thằng vẽ và thằng xăm Đ..mia mai  chúng mày vào công trình vác" kẹo lạc " ở đó tha hồ mà vẽ mà xăm .


   Hu hu , khổ cho cái thân em làm gì lên tội thủ trưởng ơi , không vẽ cho bọn


   nó thì bọn nó chửi mà vẽ cho chúng thì mang họa vào thân !! Họa cái nối gì Đ..mịa mày xem chúng nó còn họa hơn mày , chúng nó phải xóa hết hình xăm trên người kia kìa !


   He he Dũng béo ơi chỉ thương mày !! Cái thuyền buồm trên ngực của mày to quá Dũng ơi !!

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: