Bao Hiem
NHỮNG VẤN ĐỀ CO BẢN VỀ BẢO HIỂM 1. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm: Trong quá trình tái sản xuất con nguời với tu cách là chủ thể của ý thức luôn phải đối đầu với nhiều các rủi ro: những rủi ro do chính con nguời tạo ra và những rủi ro từ tự nhiên. Những rủi ro đó con nguời không luờng truớc đuợc nhung có những rủi ro mà con nguời đa dự đoán truớc đuợc nhung nó vẫn xảy ra mà chúng ta không ngăn lại đuợc. Cho dù là rủi ro dự đoán truớc đuợc hay không thì khi rủi ro phát sinh đều ảnh huởng đến con nguời với tu các là cá thể trong xã hội và vả xã hội loài nguời nhung mức độ thiệt hại là khác nhau. Nhu vậy thì cần phải có đuợc sự đảm bảo đó cho những rủi ro, đó là co sở và tiền đề khách quan cho sự ra đời của hoạt động bảo hiểm. Hoạt động bảo hiểm ra đời nhằm mục đích bảo đảm cho sự an toàn của con nguời, tài sản vật chất, của cải xã hội... Chính sự tích luy của bảo hiểm đa đảm bảo cho quá trình sinh hoạt con nguời đuợc liên tục, quá trình tái sản xuất không bị gián đoạn... Sự tồn tại của quỹ bảo hiểm càng có co sở kinh tế vững chắc khi kinh tế hàng hoá hình thành và phát triển với khối luợng sản phẩm xã hội ngày càng nhiều và một phần trong đó là sản phẩm thặng du.
2. Bản chất của bảo hiểm Co chế hoạt động của kinh doanh bảo hiểm tạo ra một "sự đóng góp của số đông vào bất hạnh của số ít" trên co sở quy tụ nhiều nguời có cùng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những vụ tổn thất. Nhu vậy, thực chất mối quan hệ trong hoạt động bảo hiểm không chỉ là mối quan hệ giữa nguời bảo hiểm và nguời đuợc bảo hiểm mà là tổng thể các mối quan hệ giữa những nguời đuợc bảo hiểm trong cùng một cộng đồng bảo hiểm xoay quanh việc hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm - một hình thức đặc biệt của các khoản dự trữ bằng tiền. Các mối quan hệ kinh tế nảy sinh gắn với việc tạo lập và phân phối quỹ bảo hiểm đuợc thể hiện ở hai mặt: Một là, chúng nảy sinh trong quá trình huy động phí bảo hiểm để lập quỹ bảo hiểm. Nguồn thu hình thành quỹ bảo hiểm càng lớn khi số luợng nguời tham gia bảo hiểm càng đông. Hai là, chúng nảy sinh trong quá trình sử dụng quỹ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm chủ yếu và truớc hết đuợc sử dụng để bù đắp những tổn thất cho nguời đuợc bảo hiểm khi xảy ra các rủi ro đuợc bảo hiểm làm ảnh huởng đến sự liên tục của đời sống sinh hoạt và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế xã hội. Quỹ bảo hiểm còn đuợc sử dụng trang trải các chi phí hoạt động của chính nguời bảo hiểm, tham gia vào các mối quan hệ phân phối mang tính pháp định (thuế, phí,...) và lãi kinh doanh cho nguời bảo hiểm kinh doanh (trong bảo hiểm thuong mại) Nhu vậy thực chất bảo hiểm là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối lại tổng sản phẩm xã hội duới hình thái giá trị nhằm bù đắp tổn thất do rủi ro bất ngờ gây ra cho nguời đuợc bảo hiểm, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất đuợc thuờng xuyên và liên tục. Truớc đây trong co chế kế hoạch hoá tập trung việc tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế nhà nuớc và kinh tế tập thể nói chung và sự độc quyền nhà nuớc trong linh vực bảo hiểm đa làm cho các mối quan hệ của bảo hiểm trở nên đon giản và việc sử dụng quỹ bảo hiểm trở nên kém hiệu quả. Sự chuyển huớng sang nền kinh tế thị truờng hiện nay đa tạo tiền đề khách quan và co sở vững chắc cho các hoạt động bảo hiểm.
Tuy nhiên bên cạnh đó việc hình thành một nền kinh tế thị truờng nhiều thành phần sẽ làm cho các mối quan hệ kinh tế (trong đó các mối quan hệ thuộc bảo hiểm) sẽ trở nên đa dạng, phức tạp. Bảo hiểm, ở mọi góc độ (doanhnghiệp, sản phẩm, quản lý nhà nuớc, hiệp hội,...) bức thiết phải đuợc xây dựng và hoàn thiện nhanh chóng nhằm phát huy chức năng vốn có của mình: bảo vệ con nguời, bảo vệ tài sản, của cải vật chật của xã hội. 3. Vai trò và tác dụng của bảo hiểm 3.1. Khía cạnh của kinh tế - xã hội Rủi ro tổn thất phát sinh làm thiệt hại các đối tuợng: của cải vật chất do con nguời tạo ra và chính bản thân con nguời, làm gián đoạn quá trình sinh hoạt của dân cu, ngung trệ hoạt động sản xuất của nền kinh tế. Nói chung nó làm gián đoạn và giảm hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội. Quỹ dự trữ bảo hiểm đuợc tạo lập một cách có ý thức, khắc phục hậu quả nói trên, bằng cách bù đắp các tổn thất phát sinh nhằm tái lập và đảm bảo tính thuờng xuyên liên tục của các quá trình xã hội. Nhu vậy, trên phạm vi rộng trên toàn bộ nền kinh tế xã hội, bảo hiểm đóng vai trò nhu công cụ an toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu dài của mọi chủ thể dân cu và kinh tế. Với vai trò đó, bảo hiểm khi xâm nhập sâu rộng mọi linh vực của đời sống đa phát huy tác động vốn có của mình: thúc đẩy ý thức đề phòng, hạn chế tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội. 3. 2. Khía cạnh tài chính Sản phẩm bảo hiểm là một loại dịch vụ đặc biệt: một lời cam kết đảm bảo cho sự an toàn (an toàn động) hon nữa nó là một loại hàng hoá trên thị truờng bảo hiểm thuong mại. Tổ chức hoạt động bảo hiểm với tu cách là một đon vị cung cấp một loại sản phẩm dịch vụ cho xã hội, tham gia vào quá trình phân phối nhu là một đon vị ở khâu trong hệ thống tài chính quốc gia. Mặt khác sự tồn tại và phát triển của các hoạt động bảo hiểm không chỉ đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn (cho các cá nhân, doanh nghiệp) mà còn đáng ứng nhu cầu vốn không ngừng tăng lên của quá trình tái sản xuất mỏ rộng, đặc biệt trong nền kinh tế rhị truờng. Với việc thu phí theo nguyên tắc ứng truớc, các tổ chức hoạt động bảo hiểm chiếm giữ một quỹ tiền tệ rất lớn thể hiện cam kết của họ đối với khách hàng nhung tạm thời nhàn rỗi.
Và do vậy, các tổ chức hoạt động bảo hiểm đa trở thành những nhà đầu tu lớn, quan trọng cho các hoạt động khác của nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm do đó không chỉ đóng vai trò của một công cụ an toàn mà còn có vai trò của một trung gian tài chính, nắm giữ phần quan trọng trong các doanh nghiệp công nghiệp và thuong mại lớn. Với các vai trò nói trên, bảo hiểm phát huy tác dụng hết sức quan trọng đối với nền kinh tế, đặc biệt trong nền kinh tế chuyển đổi sang hoạt động theo co chế thị truờng. Tác dụng chính là: tập trung, tích tụ vốn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất đuợc thuờng xuyên và liên tục. Tác dụng này càng quan trọng đối với nuớc ta hiện nay khi mà nó có thể góp phần tích cực vào việc tăng số vốn đầu tu chính từ nội bộ của nền kinh tế, huy động và tận dụng một cách triệt để nhất các quỹ tiền tệ nằm rải rác trong dân cu. Chính vì những tác dụng tích cực nói trên của bảo hiểm, mà bất kỳ ở quốc gia nào dù đa phát triển hay đang phát triển, chính phủ luôn tìm nhiều cách khác nhau để thúc đấy, khuyến khích hoạt động bảo hiểm phát triển, tăng số luợng các loại bảo hiểm bắt buộc, miễm giảm thuế thu nhập đối với nguời kinh doanh bảo hiểm, thuế thu nhập cá nhân đánh trên các khoản tiền bảo hiểm đuợc nhận huởng đối với nguời đuợc bảo hiểm, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà bảo hiểm đầu tu... 4. Phân loại bảo hiểm 4. 1. Bảo hiểm xã hội 4.1.1 Khái niệm Bảo hiểm xã hội là một chế định pháp lý bảo vệ nguời lao động bằng cách thông qua việc tập trung nguồn tài chính đuợc huy động từ nguời lao động, nguời sử dụng lao động cộng với sự hộ trợ của nhà nuớc, thực hiện trợ cấp vật chất, góp phần ổn định đối tuợng đời sống cho nguời tham gia bảo hiểm xã hội và gia đinh họ trong các truờng hợp nguời lao động tham gia bảo hiểm xã hội gặp rủi ro ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, rủi ro tuổi già làm cho gia đinh bị mất hoặc giảm thu nhập bất ngờ. 4.1.2 Nội dung, đặc điểm Việc thực hiện bảo hiểm xã hội ở từng quốc gia rất khác nhau về nội dung tuỳ thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng noi trong việc đảm bảo nhu cầu an toàn
cho đời sống nguời lao động, ngoài ra còn tuỳ thuộc vào khả năng tài chính và khả năng quản lý có thể đáp ứng. Ở nuớc ta hiên nay nội dung thực hiện bảo hiểm xã hội đuợc quy định gồm 5 chế độ sau: (1) chế độ ốm đau. (2) chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (3) chế độ trợ cấp thai sản. (4) chế độ huu trí. (5) chế độ tuất Ngoài ra, nguời lao động còn đuợc huởng chế độ chăm sóc y tế (khám và chữa bệnh) theo điều lệ bảo hiểm y tế. Việc thực hiện bảo hiểm xã hội đuợc tiến hành theo 2 hình thức: bảo hiểm bắt buộc và tự nguyện áp dụng cho 2 nhóm đối tuợng khác nhau: nguời lao động làm công ăn luong và nhóm lao động tự do. Nhìn chung bảo hiểm xã hội nuớc ta nói riêng và ở các quốc gia nói chung có cùng một số đặc đểim sau: - Truớc tiên, bảo hiểm xã hội là một chế định pháp lý bắt buộc. - Bảo hiểm xã hội là một trung tâm phân phối lại của hệ thống kinh tế, xã hội. - Bảo hiểm xã hội đuợc thực hiện trên một nhóm mở của những nguời lao động. - Bảo hiểm xã hội là co chế đảm bảo cho nguời lao động chống đỡ rủi ro của chính bản thân. 4. 2. Bảo hiểm thuong mại 4.2.1 Nội dung, đặc điểm của bảo hiểm thuong mại Bảo hiểm thuong mại là hoạt động bảo hiểm đuợc thực hiện bởi các tổ chức kinh doanh trên thị truờng bảo hiểm thuong mại. Bảo hiểm thuong mại chỉ những hoạt động mà ở đó các doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro trên co sở nguời đuợc bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm bồi thuờng hay trả tiền khi xảy ra các rủi ro đa thoả thuận truớc trên hợp đồng. Nội dung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, ngoài mối quan hệ giữa doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng của mình (gọi là nguời đuợc bảo hiểm) mà còn đuợc thể hiện trong mối quan hệ giữa nguời bảo hiểm gốc bà nguời nhận tái bảo
hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm và bao gồm các hoạt động của trung gian bảo hiểm nhu: môi giới, đại lý. Hoạt động của bảo hiểm thuong mại đuợc tạo ra một sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít trên co sở quy tụ nhiều nguời có cùng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những vụ tổn thất. Số nguời tham gia càng đông, tổn thất càng phân tán mỏng, rủi ro càng giảm thiểu ở mức độ thấp nhất thể hiện ở mức phí bảo hiểm phải đóng là nhỏ nhất đủ để mỗi nguời đó không ảnh huởng gì quan trọng đền hoạt động sản xuất của mình. Hoạt động theo quy luật số đông, đó là nguyên tắc co bản nhất của bảo hiểm. Bên cạnh đó, đám đông tham gia vào cộng đồng bảo hiểm càng lớn thể hiện nhu cầu bảo hiểm càng tăng theo đa phát triển của nền kinh tế xã hội, những nguời bảo hiểm không thể và cung không cần biết nhau họ chỉ cần biết nguời quản lý cộng đồng là nguời nhận phí bảo hiểm và cam kết sẽ bồi thuờng cho họ khi có rủi ro tổn thất xảy ra. Hoạt động thuong mại tạo ra đuợc một sự hoán chuyển rủi ro từ những nguời đuợc bảo hiểm qua những nguời bảo hiểm trên co sở một văn bản pháp lý: Hợp đồng bảo hiểm. Điều này đa tạo ra một rủi ro mới đe doạ mối quan hệ giữa hai bên hợp đồng. Dịch vụ bảo hiểm thuong mại là một lời cam kết, liệu lúc xảy ra tổn thất, doanh nghiệp bảo hiểm có thực hiện hoặc có khả năng thực hiện cam kết của mình hay không trong khi phí bảo hiểm đa đuợc trả theo nguyên tắc ứng truớc. Nguợc lại các rủi ro, tổn thất đuợc bảo hiểm minh thị rõ ràng trên hợp đồng, liệu có sự man trá của nguời đuợc bảo hiểm hay không để nhận tiền bảo hiểm. Nhu vậy, mối quan hệ giữa 2 bên trên hợp đồng bảo hiểm phải đuợc đảm bảo nguyên tắc thứ hai: nguyên tắc trung thực tối đa. Nhìn chung, bảo hiểm thuong mại có một số đặc điểm sau: - Hoạt động bảo hiểm thuong mại là một hoạt động thoả thuận. - Sự tuong hỗ trong bảo hiểm thuong mại đuợc thực hiện trong một "cộng đồng giới hạn" - Cung cấp dịch vụ đảm bảo không chỉ cho rủi ro bản thân mà cho cả rủi ro tài sản và trách nhiệm. 4.2.2 Phân loại bảo hiểm thuong mại
Theo đối tuợng bảo hiểm: căn cứ vào đối tuợng bảo hiểm thì toàn bộ các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm đuợc chia thành 3 nhóm: bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con nguời và bảo hiểm trách nhiệm dân sự. (1) Bảo hiểm tài sản: là loại bảo hiểm lấy tài sản làm đối tuợng bảo hiểm. Khi xảy ra rủi ro tổn thất về tài sản nhu mất mát, hủy hoại về vật chất, nguời bảo hiểm có trách nhiệm bồi thuờng cho nguời đuợc bảo hiểm căn cứ vào giá trị thiệt hại thực tế và mức độ đảm bảo thuận tiên hợp đồng. (2) Bảo hiểm con nguời: đối tuợng chính của loại bảo hiểm này là tính mạng, thân thể, sức khoẻ của con nguời. Nguời ký kết hợp đồng bảo hiểm, nộp phí bảo hiểm để thực hiện mong muốn nếu nhu rủi ro xảy ra làm ảnh huởng đến tính mạng, sức khoẻ của nguời đuợc bảo hiểm thì họ hoặc nguời thụ huởng hợp pháp khác sẽ nhận đuợc khoản tiền do nguời bảo hiểm trả. (3) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự: là loại bảo hiểm có đối tuợng bảo hiểm là trách nhiệm phát sinh do ràng buộc của các quy định trong luật dân sự, theo đó nguời đuợc bảo hiểm phải đuợc bồi thuờng bằng tiền cho nguời thứ ba những thiệt hại gây ra do hành vi của mình hoặc do sự vận hành của tài sản thuộc sở hữu của chính mình. Phân loại theo kỹ thuật bảo hiểm: đây là cách phân loại của các chuyên gia bảo hiểm Pháp và Châu Âu có nghia là luôn thiên về mặt kỹ thuật. Theo cách phân loại này các loại hình bảo hiểm đuợc chia ra làm 2 loại: loại dựa trên kỹ thuật phân bổ và loại dựa trên kỹ thuật tồn tích vốn. (1) Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật phân bổ: là loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất ổn định theo thời gian và thuờng độc lập với tuổi thọ của con nguời (nên gọi là bảo hiểm phí nhân thọ). Hợp đồng bảo hiểm loại này thuờng là ngắn hạn. (2) Các loại bảo hiểm dựa trên kỹ thuật tồn tích vốn: là loại bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối tuợng thuờng gắn liền với tuổi thọ của con nguời. Các hợp đồng loại này thuờng là trung và dài hạn
Dựa trên tính chất của các khoản bồi thuờng, các loại hình bảo hiểm đuợc chia ra 2 loại: (1) Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc bồi thuờng: theo nguyên tắc này số tiền mà nguời bảo hiểm trả cho nguời đuợc bảo hiểm không bao giờ vuợt quá giá trị thiệt hại thực tế mà anh ta phải gánh chịu. Các loại bảo hiểm này gồm có: bảo hiểm tài sản cá nhân, bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Ngày nay nguời ta có xu huớng đua cả bảo hiểm tai nạn và bệnh tật vào loại này. (2) Các loại bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trả theo nguyên tắc khoán: Nguời đuợc bảo hiểm sẽ nhận đuợc số tiền khoán theo đúng mức mà họ đa thoả thuận trên hợp đồng bảo hiểm với nguời bảo hiểm tuỳ thuộc và phù hợp với nhu cầu cung nhu khả năng đóng phí. Đây chính là bao hiểm nhân thọ và một số truờng hợp của bảo hiểm tai nạn, bệnh tật. Phân loại theo phuong thức quản lý: (1) Bảo hiểm tự nguyện: là những bảo hiểm mà hợp đồng đuợc kết lập dựa hoàn toàn trên sự cân nhắc và nhận thức của nguời đuợc bảo hiểm. Đây là tính chất vốn có của bảo hiểm thuong mại khi nó có vai trò nhu là một hoạt động dịch vụ cho sản xuất và sinh hoạt con nguời. (2) Bảo hiểm bắt buộc: đuợc hình thành trên co sở luật định nhằm bảo vệ lợi ích của nạn nhân trong các vụ tổn thất và bảo vệ lợi ích của toàn bộ nền kinh tế, xã hội. Các hoạt động bảo hiểm có thể dẫn đến tổn thất tài chính và con nguời trầm trọng gắn liền với với trác nhiệm dân sự, nghề nghiệp chính là đối tuợng của sự bắt buộc này. Thông thuờng đối với các loại bảo hiểm bắt buộc này gần nhu hầu hết các nội dung co bản của hợp đồng là do nhà nuớc quy định. Phân loại theo quy định hiện hành: Theo Ng 100/Cp hiện đang áp dụng ở Việt Nam thì các loại hình bảo hiểm đuợc phép triển khai thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam gồm: (1) Bảo hiểm nhân thọ. (2) Bảo hiểm y tế tự nguyện và bảo hiểm tai nạn con nguời (3) Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại.
(4) Bảo hiểm vận chuyển đuờng bộ, đuờng biển và đuờng sông, đuờng sắt và đuờng hàng không. (5) Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự chủ tàu. (6) Bảo hiểm trách nhiệm chung. (7) Bảo hiểm hàng không. (8) Bảo hiểm xe co giới. (9) Bảo hiểm cháy. (10) Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính. (11) Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh. (12) Bảo hiểm nông nghiệp. (13) Bảo hiểm khác.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top