Bàn về nội dung của một bản Hiến pháp
Nội dung của một bản Hiến pháp là mặt bên trong của Hiến pháp, là những gì chứa đựng và thể hiện trong một bản Hiến pháp. Lịch sử Lập hiến hơn 200 năm nay của nhân loại chỉ ra rằng tuy có sự khác nhau về những quy định cụ thể trong một bản Hiến pháp của các quốc gia khác nhau, nhưng nội dung tổng thể của một bản Hiến pháp theo quan niệm truyền thống bao gồm bốn phần cơ bản sau đây:
Một là, Chính thể của một nước;
Hai là, Các quyền cơ bản của con người, của công dân;
Ba là, Tổ chức quyền lực Nhà nước;
Bốn là, Quy trình ban hành và sửa đổi Hiến pháp.
Nhân dịp sửa đổi Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001), chúng tôi xin có một số ý kiến bàn về nội dung của một bản Hiến pháp.
Về chính thể của một nước hay chế độ chính trị
Đây là nội dung thường được bố trí chương đầu tiên của một bản Hiến pháp dẫu là theo Hiến pháp nguyên thủy hay hiện đại. Bởi, nội dung của nó là những tuyên bố trang trọng mang tính nền tảng của một quốc gia về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; về bản chất của quyền lực nhà nước (theo hình thức chính thể nào); và về một số nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và đời sống xã hội. Đây là những nội dung được thể hiện xuyên suốt toàn bộ Hiến pháp. Các chương sau của Hiến pháp là sự cụ thể hoá thêm một bước nội dung của chương này. Tư tưởng và quan điểm trong chương này, quyết định nội dung của các chương tiếp theo của Hiến pháp, nó là cơ sở bảo đảm sự thống nhất của toàn bộ bản Hiến pháp. Vì thế, đây là chương không có nhiều điều khoản, nhưng lại là chương đặc biệt quan trọng quyết định nội dung của toàn bộ bản Hiến pháp.
Hiến pháp năm 1992 hiện hành của nước ta cũng đã thể hiện những nội dung này ở chương I: Nhà nước CHXHCN Việt Nam - chế độ chính trị. Tuy nhiên, theo chúng tôi còn một số điểm cần phải tiếp tục nghiên cứu để đổi mới và hoàn thiện trong lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp lần này.
Một là, Hiến pháp cần phải quy định rõ nước ta theo hình thức chính thể nào? Bởi hình thức chính thể sẽ quyết định cách thức tổ chức các cơ quan nhà nước tối cao và xác lập những mối quan hệ giữa các cơ quan đó. Tại điều 1 Hiến pháp năm 1992 mới chỉ quy định nước ta là nước Cộng hòa XHCN. Điều đó mới chỉ nói lên được tên nước mà chưa nói nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là một nước theo hình thức chính thể nào? Nên chăng viết theo cách thể hiện Điều 1 của Hiến pháp năm 1946: Nước Việt Nam XHCN là một nước dân chủ cộng hòa.
Hai là, Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, hay chủ quyền nhân dân là nguyên tắc nền tảng chẳng những được quy định trong chương I mà còn phải xuyên suốt toàn bộ nội dung của Hiến pháp. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Tất cả quyền lực nhà nuớc thuộc về nhân dân”. Đây là một quy định chỉ rõ nguồn gốc, bản chất và mục đích của quyền lực nhà nước là thống nhất thuộc về nhân dân. Nguyên lý này không những được quy định trong Hiến pháp nước ta mà còn được quy định trong hầu hết Hiến pháp của các nhà nước dân chủ và pháp quyền… Điều 2 nói trên là đúng và phù hợp. Tuy nhiên, tại điều 6 Hiến pháp năm 1992 hiện hành lại quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân”. Nội dung của điều khoản này mâu thuẫn với điều 2 nói trên. Bởi nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ thông qua các cơ quan đại diện mà còn phải thông qua các cơ quan nhà nước khác như hành pháp, tư pháp và các hình thức thực hiện quyền lực nhà nước một cách trực tiếp như phúc quyết Hiến pháp, trưng cầu dân ý…
Ba là, có một số quy định trong Chương I, không phù hợp với đối tượng và phạm vi điều chỉnh của chương chính thể. Ví dụ Điều 7 quy định quyền bầu cử và quyền bãi miễn ĐBQH và đại biểu HĐND là các quyền chính trị cơ bản của công dân thuộc đối tuợng quy định ở chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (Chương V). Hay Điều 12 quy định về quyền làm chủ của công dân ở cơ sở cũng không phù hợp với chương này.
Bốn là, có một số điều luật quy định quá cụ thể, thiếu khái quát chưa ngang tầm Hiến pháp và còn trùng lắp. Ví dụ về nhà nước có đến 5 điều, quy định cả chính sách dân tộc (điều 5), chính sách đối ngoại (điều 14); quy định nguyên tắc (điều 2, điều 12, điều 8); vừa quy định bản chất nhà nước (điều 2) vừa quy định mục tiêu của nhà nước (điều 3)… Có thể nói các quy định về nhà nước trong Chương I không theo một lôgíc nào cả, lộn xộn cần phải được sắp xếp lại và bỏ bớt các yếu tố trùng lắp hoặc chưa xứng tầm được quy định trong Chương I Hiến pháp. Điều 9 quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Điều 10 lại quy định công đoàn. Hai điều này có sự trùng lắp.
Từ những tồn tại nói trên, chế độ chính trị, cần được thể hiện trong việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, theo định hướng sau:
Một là, xác định phạm vi, nội dung những vấn đề cần phải thể hiện trong chương này. Theo tôi có các vấn đề cơ bản sau đây nhất thiết phải thể hiện trong chương I:
Nhà nước ta theo hình thức chính thể gì? Hiến pháp hiện hành chưa viết rõ điều này;
Tính thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ;
Bản chất, vai trò và các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của nhà nước ta và xã hội ta.
Hệ thống chính trị nước ta gồm Đảng lãnh đạo và các tổ chức chính trị xã hội.
Hai là, kỹ thuật lập hiến thể hiện theo cách viết bao quát, không quy định quá cụ thể. Theo đó, tên Chương I chỉ nên viết là chế độ chính trị hay chính thể như Hiến pháp năm 1946.
Về các quyền cơ bản của con người, của công dân ghi nhận trong Hiến pháp
Đây là một nội dung quan trọng, cơ bản thường được quy định trong các chương đầu của một bản Hiến pháp. Bởi sự ra đời và tồn tại của Hiến pháp theo quan niệm truyền thống bắt nguồn từ lý thuyết về chủ quyền nhân dân. Nhân dân được xem là chủ thể của quyền lập hiến và với tư cách là một khế ước xã hội, trước hết Hiến pháp thể hiện chủ quyền của nhân dân. Mà một trong những nội dung quan trọng của chủ quyền nhân dân là người dân trong một nhà nước có những quyền gì? Nội dung của các quyền con người, quyền công dân trong các bản Hiến pháp theo mô hình Hiến pháp truyền thống thường là các quyền tự nhiên do tạo hóa ban cho con người, chứ không phải Hiến pháp hay nhà nước ban phát tặng cho. Đó thường là các quyền dân sự - chính trị tức là các quyền tự do, bình đẳng cho cá nhân con người mà nhà nước phải tôn trọng và có nghĩa vụ bảo vệ. Từ thế hệ một với các quyền dân sự và chính trị của cá nhân, đã dần dần phát triển lên thế hệ thứ hai về quyền con người, bao gồm các quyền kinh tế - xã hội và văn hóa, các quyền dân tộc cơ bản, tự quyết bình đẳng giữa các quốc gia và dân tộc. Và ngày nay, thế hệ thứ ba về quyền con người, với các quyền mới như: Quyền được phát triển, quyền được thông tin, quyền được sống trong môi trường trong sạch… đang được ghi nhận và khẳng định trong nhiều bản Hiến pháp của các nước. Ngoài việc liệt kê các quyền con người, quyền công dân, theo xu hướng ngày càng mở rộng và phát triển, Hiến pháp còn quy định trách nhiệm và giới hạn của nhà nước trong việc bảo đảm và tạo điều kiện cho con người và công dân thực hiện các quyền và làm tròn các nghĩa vụ.
Nghiên cứu nội dung về quyền con người, quyền công dân, qua 4 bản Hiến pháp của nước ta, có thể rút ra một số nhận xét sau đây làm cơ sở cho việc sửa đổi bổ sung Hiến pháp sắp tới:
Một là, quyền con người, quyền công dân ở nước ta gắn liền với sự ra đời của nhà nước kiểu mới, với việc xác lập chủ quyền quốc gia, chủ quyền dân tộc, đưa con người từ thân phận nô lệ trở thành người chủ của đất nước và mưu cầu hạnh phúc. Do đó, có thể nói rằng quyền con người, quyền công dân ở nước ta ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nhà nước sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến nay và quan hệ chặt chẽ với nhà nước. Dường như nhà nước là điểm khởi đầu để con người và công dân Việt Nam được hưởng quyền. Hơn nữa, Hiến pháp trong chủ nghĩa xã hội hiện thực trước đây được quan niệm là của nhà nước, phục vụ cho việc quản lý nhà nước. Do vậy, trong nhận thức của xã hội nói chung, của nhà nước nói riêng coi các quyền và nghĩa vụ của công dân là do nhà nước quy định, dường như là một sự ban phát tặng cho từ phía nhà nước. Vì thế, nội dung của các quyền ghi nhận trong Hiến pháp quá lý tưởng cao hơn điều kiện kinh tế - xã hội nên nhiều quyền không có điều kiện và cơ chế thực hiện trong thực tế (như Hiến pháp năm 1980); cách thể hiện còn mang tính chất ban phát tặng cho từ phía nhà nước mà không phải là quyền của chính con người, của chính công dân: chưa xem các quyền Hiến định của công dân là một phạm vi giới hạn pháp lý đối với công quyền. Với những tồn tại đó, sửa đổi Hiến pháp lần này, cần có một sự đổi mới cơ bản về nhận thức và cách thức thể hiện các quyền con người và quyền công dân trong Hiến pháp.
Trước hết về nhận thức cần có quan niệm đầy đủ, thống nhất về quyền con người, quyền công dân trong mối quan hệ với nhà nước. Trước đây, trong quan niệm của các học giả tư sản đã tồn tại hai khuynh hướng đối lập nhau trong việc giải quyết mối quan hệ này. Một khuynh hướng cho rằng cần phải thu hẹp quyền lực nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công dân mà đại biểu là Joi Lốc Cơ (nhà triết học chính trị người Anh 1632-1704). Đây là điều kiện để thỏa mãn quyền của từng cá nhân con người, nhằm bảo đảm sự an toàn cho từng cá nhân khỏi bị quyền lực nhà nước xâm hại. Ngược lại, có khuynh hướng đòi hỏi được mở rộng quyền lực nhà nước trong mối quan hệ với cá nhân con người và công dân. Theo quan điểm này, quyền lực nhà nước cần được tăng cường, cần được thiết lập để bảo đảm và thoả mãn các yêu sách về các quyền của con người. Đại diện cho khuynh hướng này là Tô Mát Hốp Xơ (nhà triết học 1588-1679). Trong điều kiện ngày nay, việc quan niệm đúng đắn quyền con người, quyền công dân phải hướng đến việc giải quyết các quan hệ giữa cá nhân với xã hội; giữa tính nhân loại với tính giai cấp; giữa lợi ích quốc gia và quan hệ quốc tế; giữa giá trị đạo đức với giá trị pháp luật và quyền lực nhà nước; giữa lợi ích quốc gia và quan hệ quốc tế, giữa khả năng và nhu cầu tự nhiên. Như vậy, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và toàn cầu hóa, nội dung quyền con người, quyền công dân ghi nhận trong Hiến pháp theo chúng tôi cần quan tâm đến các vấn đề sau:
Quyền con người là những giá trị gắn liền với mỗi con người vừa với tư cách cá nhân vừa với tư cách là thành viên của xã hội, thành viên của một nhà nước nhất định. Vì vậy, quyền con người vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng.
Quyền con người là những giá trị phải được thừa nhận chung bằng cách thể chế hóa trong Hiến pháp và Luật thành các quyền năng cụ thể, có tính phổ cập, cần thiết cho mọi người không phân biệt chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, giới tính.
Quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, vừa là những giá trị nảy sinh trong đời sống cộng đồng gắn liền với một nhà nước cụ thể, với một chế độ chính trị - pháp lý cụ thể. Ghi nhận các quyền con người trong Hiến pháp phải thể hiện được các nhu cầu và khả năng khách quan phù hợp với chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử, dân trí cụ thể… Chỉ có thông qua Hiến pháp và pháp luật thì các giá trị của con người với tư cách là tự nhiên và xã hội mới trở thành quyền được xác định và mới bảo đảm trở thành hiện thực trong thực tiễn. Với nhận thức đó, việc thể hiện trong Hiến pháp trước hết phải khẳng định chủ thể của quyền là con người và công dân trong nhà nước. Đồng thời đó chính là nghĩa vụ của nhà nước trong việc bảo đảm và tạo điều kiện cho con người và công dân thực hiện các quyền.
Hai là, quyền và nghĩa vụ của công dân được thể hiện một cách thống nhất và nhất quán trong cả 4 bản Hiến pháp nước ta. Hiến pháp sau có bước phát triển so với Hiến pháp trước về nội dung các quyền của công dân. Thế hệ thứ ba về các quyền, cơ bản của con người của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 như quyền được thông tin (điều 69). Hiến pháp năm 1992 thừa nhận thuật ngữ quyền con người, chưa có sự phân biệt giữa quyền con người với quyền công dân và cho rằng quyền con người thể hiện ở quyền công dân (điều 50). Theo đó, các quyền con người, quyền công dân được quan niệm đồng nhất trong Hiến pháp nước ta. Quan điểm đó cần được khắc phục trong việc sửa đổi Hiến pháp lần này. Theo chúng tôi, mặc dầu quyền con người và quyền công dân không tách rời nhau một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, việc thừa nhận quyền con người và quyền công dân với tính cách là các khái niệm vừa mang tính độc lập vừa có mối liên hệ biện chứng là hoàn toàn phù hợp. Quyền con người và quyền công dân trong mối quan hệ thống nhất biện chứng đều ghi nhận các quyền của cá nhân. Song không vì thế mà đồng nhất hai khái niệm đó xét cả về phương diện chủ thể của quyền và nội dung của quyền. Quyền con người là khái niệm rộng hơn, nó vừa ghi nhận trạng thái pháp lý về quyền cá nhân ở phạm vi quốc tế, vừa là quyền công dân ở trong phạm vi từng quốc gia nhất định. Do vậy, nội dung, số lượng và chất lượng quyền công dân ở mỗi quốc gia thường không giống nhau. Một mặt, quyền con người không loại trừ khái niệm quyền công dân, bao hàm quyền công dân như là một bộ phận, nội dung cơ bản của quyền con người; song, mặt khác cũng không thể thay thế được khái niệm đó. Ngược lại, quyền công dân là khái niệm hẹp hơn. Trong ý nghĩa pháp lý, khái niệm quyền công dân để chỉ trong phạm vi từng quốc gia nhất định, không bao quát hết tất cả các quyền của cá nhân con người. Về phương diện chủ thể quyền con người ngoài những cá nhân được xác định là công dân còn bao hàm những người không phải là công dân (người nước ngoài, những người không có quốc tịch, người bị pháp luật tước quyền công dân); những người này tuy không được hưởng các quyền công dân, nhưng vẫn có các quyền về con người với tính cách là một thành viên của một quốc gia mà còn là thành viên “công dân” của cộng đồng loài người. Mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa quyền con người và quyền công dân thể hiện trong nội dung của quyền con người trên bình diện quốc tế và quyền công dân trong phạm vi từng quốc gia. Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền đã đề ra nguyên tắc:
Tất cả mọi người đều có những quyền bình đẳng và không thể chuyển nhượng, đó là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới.
Sự phủ nhận và coi thường các quyền con người đều dẫn đến các hành vi man rợ, làm công phẩn lương tâm của loài người. Một thế giới mới ra đời, trong đó mọi người sẽ có quyền tự do ngôn luận và tín ngưỡng, được giải phóng khỏi mọi khủng bố và nghèo khổ, xã hội đó được nêu lên thành khát vọng cao nhất của con người.
Từ nhận thức nói trên, chẳng những trong Hiến pháp phải viết rõ tên chương là quyền con người và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân mà còn phải thể hiện đầy đủ nội dung của các quyền, bao gồm:
Các quyền tự do dân chủ về chính trị bao gồm: quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, quyền bầu cử, ứng cử, quyền bình đẳng nam nữ, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền được lập hội, quyền biểu tình, bãi công, quyền tự do tín ngưỡng.
Các quyền dân sự (quyền tự do cá nhân) bao gồm: quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền được an toàn bí mật về thư tín, điện thoại; quyền tự do đi lại và cư trú trong nước; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền khiếu nại, tố cáo…
Các quyền về kinh tế - xã hội bao gồm: quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền thừa kế; quyền sáng chế phát minh; quyền được bảo vệ sức khỏe; các quyền mang tính chất ưu tiên như quyền trẻ em; quyền của người già, người cô đơn không nơi nương tựa; quyền được sống trong môi trường trong sạch không bị ô nhiễm, quyền được phát triển của cá nhân…
Cách thức tổ chức quyền lực nhà nước
Đây là một nội dung căn bản của Hiến pháp. Bởi Hiến pháp ra đời và tồn tại bắt nguồn từ chủ quyền nhân dân. Thông qua quyền lập hiến, nhân dân thỏa thuận giao quyền, ủy quyền cho nhà nước, để cho nhà nước thay mặt mình sử dụng quyền lực nhà nước theo ý chí của mình. Vì thế, Hiến pháp được quan niệm là một văn bản thỏa thuận chung của nhân dân trong một quốc gia, về những cách thức tổ chức quyền lực nhà nước mà theo họ là phù hợp và đem lại hạnh phúc cho mình. Thông thường trong một bản Hiến pháp của các nhà nước dân chủ và pháp quyền tổ chức quyền lực nhà nước bao gồm các nội dung cơ bản sau:
Vị trí, vai trò; chức năng, nhiệm vụ quyền hạn; các nguyên tắc cơ bản; các mối quan hệ giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
Cơ chế vận hành và kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm phòng chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước;
Hiến pháp nước ta cũng đã dành năm chương để quy định về tổ chức quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, dưới ánh sáng của đường lối xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (sửa đổi và phát triển năm 2011), việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 sắp tới, về nội dung tổ chức quyền lực nhà nước, theo chúng tôi cần tập trung vào những vấn đề sau đây:
Một là, phân công quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một nội dung rất quan trọng trong tổ chức quyền lực nhà nước của Nhà nước pháp quyền XHCN nước ta. Nó là nhân tố bảo đảm cho quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bảo đảm cho nhà nước tổ chức và hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, phòng chống được sự dựa dẫm ỷ lại giữa các quyền. Tuy nhiên, Hiến pháp hiện hành chưa phân công, phân nhiệm một cách phù hợp, rõ ràng, minh bạch trong việc thực hiện quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ví dụ chủ thể phân công quyền lực nhà nước chưa phù hợp. Nhân dân là chủ thể phân công quyền lực chưa được quy định rõ trong Hiến pháp.
Bằng việc thực thi quyền Lập pháp, nhân dân ủy thác quyền lập pháp cho Quốc hội, quyền hành pháp cho Chính phủ và quyền tư pháp cho Tòa án. Theo đó, có thể thấy rằng quyền lập hiến là quyền lực tối cao so với quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong lúc đó, Hiến pháp năm 1992 hiện hành lại quy định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến” (điều 83). Quy định này không thống nhất với điều 2 của Hiến pháp: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lập hiến là quyền thể hiện một cách trọn vẹn nhất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Vì thế, trong nhà nước dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước thuộc về ai thì chủ thể đó có quyền Lập hiến và khi nhân dân có quyền lập hiến thì nhân dân trở thành chủ thể phân công quyền lực nhà nước.
Mặc dầu đã có những đổi mới, nhưng những quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi một số điều năm 2001) và Luật Tổ chức QH hiện hành còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của nguyên tắc tập quyền với một số nhiệm vụ, quyền hạn phân công cho QH chưa thật phù hợp. Ví dụ QH cơ quan duy nhất có quyền Lập hiến (điều 83); quyền giám sát tối cao văn bản quy phạm pháp luật dưới Luật thuộc quyền tư pháp lại giao cho QH; quyền giải thích chính thức Hiến pháp, luật và pháp lệnh giao cho UBTVQH cũng không phù hợp (vì đây là hoạt động vi mô gắn liền với sự kiện pháp lý trong lúc đó UBTVQH là cơ quan hoạt động mang tính chất vĩ mô ở tầm quốc gia).
Chính phủ không được Hiến pháp phân công là cơ quan hành pháp cao nhất mà là cơ quan hành chính cao nhất đã làm cho việc phân công quyền lực nhà nước cho Chính phủ không đầy đủ. Bởi vì, hành chính (administratinon) là chấp hành và điều hành chính sách mang tính thụ động; còn hành pháp (exucutire) là hoạch định, khởi xướng và điều hành chính sách, mang tính chủ động, năng động và sáng tạo gắn liền với hoạt động của các chính khách.
Hiến pháp hiện hành của nước ta không phân công rõ cơ quan nào là cơ quan tư pháp. Tòa án được phân công quyền xét xử nhưng không được gọi là cơ quan tư pháp. Vì thế, việc phân công quyền xét xử cho tòa án với phạm vi thẩm quyền còn hạn chế. Có một số thẩm quyền thuộc quyền xét xử nhưng lại không được giao cho Toà án. Ví như xét xử tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật thay vì quyền này lại giao cho nhiều cơ quan khác nhau như QH, UBTVQH, Thủ tướng Chính phủ.
Mặc dầu Hiến pháp không quy định cơ quan nào là cơ quan tư pháp, nhưng lại phân công cho Viện kiểm sát nhân dân nhiệm vụ và quyền hạn là kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Hai là, Kiểm soát quyền lực nhà nước là một nội dung mới được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ bổ sung trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI vừa qua; chẳng những phải được ghi nhận thành nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước quy định ở chương I của Hiến pháp mà các chương về tổ chức quyền lực nhà nước cũng cần phải được thể hiện một cách xuyên suốt: bởi đây là một nội dung trung tâm trong tổ chức quyền lực nhà nước nhằm khắc phục sự tha hóa của quyền lực nhà nước, đưa quyền lực nhà nước trở về đúng nghĩa của nó là quyền lực của nhân dân. Tuy nhiên, Hiến pháp hiện hành chưa được quan tâm đầy đủ về nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước.
Trước hết, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước theo Hiến pháp hiện hành ở nước ta chủ yếu được giao cho QH bằng phương thức giám sát tối cao. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện phương thức này cũng còn bộc lộ một số hạn chế. Đó là hiệu lực và hiệu quả giám sát không cao do đối tượng giám sát quá rộng, nội dung giám sát bao gồm: “toàn bộ hoạt động của nhà nước” (điều 83 Hiến pháp) và chế tài giám sát cũng không đầy đủ và rành mạch.
Kiểm soát quyền lực nhà nước trong hệ thống các cơ quan hành pháp chủ yếu mang tính chất nội bộ, phục vụ quản lý nhà nước của thủ trưởng chủ yếu bằng kiểm tra, thanh tra. Mới chỉ có cơ chế kiểm soát hoạt động của hành pháp thông qua khởi kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính của người, cơ quan hành chính có thẩm quyền.
Kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cơ quan tư pháp chưa được coi trọng nên quyền con người, quyền công dân chưa được bảo hộ triệt để và đến cùng.
Từ những nhận xét nói trên có thể thấy rằng: việc kiểm soát quyền lực nhà nước đặc biệt là giám sát Hiến pháp và phán quyết vi phạm Hiến pháp không được Hiến pháp quy định cho một cơ quan chuyên trách mà theo chức năng nhiệm vụ của mình, tất cả các cơ quan nhà nước phải có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp. Đây là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ Hiến pháp phi tập trung, không mang tính chất phán quyết theo một thủ tục tố tụng riêng thống nhất. Khi phát hiện hành vi vi phạm Hiến pháp, các chủ thể có thẩm quyền tự mình hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý. Với cơ chế này, thẩm quyền bảo vệ Hiến pháp không được phân định trách nhiệm rõ ràng. Vì vậy, hiệu quả bảo vệ Hiến pháp không cao.
Trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay ở nước ta, chưa có cơ chế để “phán quyết những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động Lập pháp, hành pháp và tư pháp” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X trang 127). Kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân còn mang tính hình thức, chưa có cơ chế hữu hiệu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân một cách triệt để khi quyền lực nhà nước xâm hại đến. Ví như chưa có quyền khởi kiện đối với văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp… Vì thế, trong lần sửa đổi Hiến pháp này cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, góp phần bảo đảm cho nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân được kiểm soát một cách đầy đủ.
Quy trình lập hiến
Đây là nội dung sau cùng của môt bản Hiến pháp theo mô hình Hiến pháp truyền thống. Tuy là nội dung sau cùng nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong một bản Hiến pháp. Bởi, quy trình Lập hiến là điểm khởi đầu bảo đảm cho nguyên tắc Hiến định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” được thực hiện ngay từ thủ tục ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp.
Lịch sử Lập hiến hơn 200 năm của nhân loại cho thấy quy trình ban hành Hiến pháp có sự khác nhau, nhưng xu hướng chung là quy trình ngày càng dân chủ, chất lượng của một bản Hiến pháp phụ thuộc phần lớn vào việc nó được làm ra theo quy trình công nghệ như thế nào. Để có một bản Hiến pháp có chất lượng tốt, phù hợp với thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, mở cửa và hội nhập quốc tế, cần phải đổi mới quy trình ban hành và sửa đổi Hiến pháp của nước ta hiện nay. Nội dung của quy trình ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp được quy định ngay trong bản Hiến pháp, thông thường bao gồm các vấn đề sau đây:
Hiến pháp xác định ai là chủ thể có quyền ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp. Đây là điểm đầu tiên và cũng là điểm mấu chốt trong quy trình Lập hiến nói chung, sửa đổi Hiến pháp nói riêng. Bởi đây là vấn đề liên quan đến quan niệm về Hiến pháp. Nếu Hiến pháp được xem là một văn bản của nhà nước, một hình thức để nhà nước quy định tổ chức bộ máy nhà nước của mình, củng cố sức mạnh của nhà nước, xác định các mục tiêu của nhà nước thì Hiến pháp do nhà nước ban hành. Cơ quan nhà nước được Hiến pháp quy định có quyền Lập hiến như hiến pháp nước ta hiện hành, điều 84 xác định QH có “quyền làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp”. Ngược lại, nếu quan niệm Hiến pháp là một văn bản của nhân dân thì nó không thể sửa đổi chỉ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà trước hết quyền lập hiến phải thuộc về nhân dân. Như vậy, đổi mới quy trình lập hiến ở nước ta, trước hết cần đổi mới quan niệm về Hiến pháp trên cơ sở đó, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến và sửa đổi Hiến pháp.
Thiết lập quy trình sửa đổi Hiến pháp: Hiến pháp năm 1992 của nước ta hiện hành quy định: “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội quyết định tán thành” (điều 147). Ngoài điều đó ra Hiến pháp không quy định một chi tiết nào về việc thực hiện quyền đó ra sao? Ví như ai là người có quyền trình dự án sửa đổi Hiến pháp, có cần thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp không? Công bố Hiến pháp sửa đổi như thế nào? Dưới hình thức nào? Giới hạn của việc sửa đổi Hiến pháp gồm những gì? Hơn nữa, quy định nói trên của Hiến pháp cũng không rõ ràng minh bạch “việc sửa đổi Hiến pháp phải được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành” có nghĩa là vấn đề sửa đổi Hiến pháp được đặt ra khi có 2/3 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành hay dự án sửa đổi Hiến pháp chỉ trở thành một bộ phận của Hiến pháp khi có 2/3 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Nói cách khác, việc “tán thành” đó là việc “tán thành” phải sửa đổi Hiến pháp hay là “tán thành” thông qua bản Hiến pháp sửa đổi. Hiện nay việc “tán thành” đó được hiểu là cả trong việc đề xuất phải sửa Hiến pháp lẫn cả trong việc phê chuẩn dự án Hiến pháp sửa đổi.
Kinh nghiệm Lập hiến của các nước chỉ ra rằng do tính chất của Hiến pháp là một văn bản thiết lập quyền lực gốc, ấn định các quan hệ nền tảng của một quốc gia, nên nội dung quy định quy trình sửa đổi Hiến pháp thường khó khăn và sự khó khăn đó được quy định ngay trong Hiến pháp. Đối với quy trình sửa đổi Hiến pháp nước ta, không thể xem phải có đủ 2/3 số ĐBQH biểu quyết tán thành là thể hiện sự phức tạp khó khăn trong sửa đổi Hiến pháp. Bởi sự khó khăn này chỉ bằng quy định việc bãi nhiệm một ĐBQH (mà việc bãi nhiệm ĐBQH thông thường là do đại biểu đó vi phạm pháp luật không xứng đáng tư cách đại biểu, theo Luật hiện hành của nước ta cũng phải có 2/3 tổng số ĐBQH tán thành). Từ đó, chúng tôi đề nghị kế thừa quy trình lập hiến và sửa đổi Hiến pháp quy định trong Hiến pháp năm 1946 để xác định quy trình lập hiến của nước ta theo các bước sau:
Một là, quyền đưa sáng kiến sửa đổi Hiến pháp: quyền này được trao cho QH. Theo đó 2/3 tổng số ĐBQH có quyền đặt ra yêu cầu sửa đổi Hiến pháp. Điều 70 Hiến pháp năm 1946 nước ta quy định 2/3 tổng số Nghị viện có quyền yêu cầu sửa đổi Hiến pháp.
Hai là, soạn thảo và thảo luận Hiến pháp sửa đổi. Ủy ban sửa đổi Hiến pháp cũng là một hình thức thảo luận và soạn thảo Hiến pháp sửa đổi. Hiến pháp năm 1946 của nước ta quy định ở điều 70 rằng: “Nghị viện bầu ra một ban dự thảo những điều thay đổi”. Mặc dầu Hiến pháp năm 1992 hiện hành không có quy định này, nhưng trên thực tế các lần sửa đổi Hiến pháp, QH đều thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp.
Ba là, phê chuẩn hiến pháp sửa đổi. Trưng cầu dân ý trong quy trình lập hiến hoặc sửa đổi Hiến pháp là một xu hướng phổ biến của chủ nghĩa hợp hiến hiện đại. Hiến pháp sửa đổi sau khi được QH thông qua với đa số tuyệt đối, còn cần phải đem ra cho nhân dân cả nước phê chuẩn. Ở nước ta, Hiến pháp năm 1946 cũng đã quy định trưng cầu dân ý trong quy trình sửa đổi Hiến pháp. Điều 70 quy định:“Những điều đã được thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp chẳng những thể hiện lòng tin vào nhân dân mà điều quan trọng hơn là xác lập chủ quyền nhân dân đối với quyền lực nhà nước; nhân tố góp phần giữ vững sự ổn định và bền vững của chính quyền khi có sự biến động ở bên trong cũng như bên ngoài đất nước.
Bốn là, quy định giới hạn sửa đổi Hiến pháp trong quy trình ban hành hoặc sửa đổi Hiến pháp. Sửa đổi Hiến pháp khác với ban hành Hiến pháp ở chỗ sửa đổi Hiến pháp là một quyền có giới hạn. Nếu lập hiến (ban hành Hiến pháp) là một quyền không có giới hạn, nghĩa là các chủ thể có quyền lập hiến không bị ràng buộc bởi một thủ tục pháp lý nào và không hạn chế về nội dung của Hiến pháp, thì ngược lại, sửa đổi Hiến pháp là một quyền bị hạn chế bởi nó phải tuân theo Hiến pháp. Nói cách khác, quyền sửa đổi Hiến pháp là do Hiến pháp quy định nên bị giới hạn bởi Hiến pháp. Điều đó có nghĩa là quyền sửa đổi Hiến pháp chỉ bao gồm quyền thay đổi, bổ sung, mở rộng, loại bỏ những điều khoản của Hiến pháp những vẫn giữ lại bản thân bản Hiến pháp. Đó không phải là quyền thiết lập một bản Hiến pháp mới, cũng không phải là quyền thay đổi nền tảng của quyền lập hiến. Sửa đổi Hiến pháp phải giữ lại bản sắc của Hiến pháp, tính chỉnh thể của một bản Hiến pháp, nghĩa là không được thay đổi cấu trúc cơ bản của chính quyền hay hệ thống chính trị mà Hiến pháp đã xác lập. Thông thường sửa đổi Hiến pháp không được thay đổi chính thể tức là mô hình tổng thể về cấu trúc của nhà nước. Bởi vì chính thể tức là mô hình tổng thể về cấu trúc nhà nước. Quyền sửa đổi Hiến pháp là một quyền giới hạn không những về nội dung mà cả về hình thức. Tức là còn phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp về quy trình sửa Hiến pháp.
Ở nước ta chưa đặt một giới hạn nào trong việc sửa đổi Hiến pháp. Sửa đổi Hiến pháp năm 1992 lần này, theo chúng tôi cần phải có quy định về vấn đề này trong quy trình sửa đổi Hiến pháp. Những quy định của Hiến pháp ở Chương I về chính thể như sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, chính thể dân chủ cộng hòa XHCN, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là những giới hạn đối với sửa Hiến pháp nước ta.
Từ việc thiết lập quy trình sửa đổi Hiến pháp nói trên, chúng tôi đề nghị trong Hiến pháp sửa đổi lần này cần có nội dung quy định về quy trình sửa đổi Hiến pháp. Theo đó, điều 147 của Hiến pháp hiện hành có thể sửa đổi như sau:
Việc sửa đổi Hiến pháp được tiến hành theo cách thức sau:
Do 2/3 tổng số ĐBQH yêu cầu;
QH sẽ bầu một Ủy ban sửa đổi gồm ĐBQH và các chuyên gia tiêu biểu của đất nước. Một Nghị quyết của QH quy định nhiệm vụ quyền hạn của Uỷ ban này;
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do Ủy ban sửa đổi Hiến pháp soạn thảo trước khi trình QH thông qua phải được toàn thể nhân dân tham gia ý kiến rộng rãi;
- Dự án sửa đổi Hiến pháp được QH xem xét thông qua với 2/3 tổng số ĐBQH tán thành phải được đưa ra toàn dân phúc quyết;
- Không thể sửa Hiến pháp để thay đổi sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đất nước, chính thể dân chủ cộng hòa XHCN, cấu trúc của hệ thống chính trị và bản thân điều khoản này.
Nội dung quy định về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại trong Hiến pháp
Theo mô hình Hiến pháp nguyên thủy, các bản Hiến pháp đều có nội dung xoay quanh 4 vấn đề cơ bản nói trên. Tuy nhiên, trong sự phát triển, các Hiến pháp ngày nay, nhất là Hiến pháp các nước XHCN trước đây, đều có khuynh hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp. Các vấn đề về chế độ kinh tế; văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ; an ninh quốc phòng và đối ngoại đều được đưa vào Hiến pháp. Mở rộng phạm vi điều chỉnh của Hiến pháp là khuynh hướng phổ biến của nhiều bản Hiến pháp ngày nay. Lịch sử Lập hiến của nước ta cũng theo khuynh hướng đó. Trong Hiến pháp năm 1992 hiện hành đã dành đến 3 chương để quy định về những vấn đề kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại. Tuy nhiên nhìn vào nội dung của các chương, điều này có thể rút ra một số nhận xét sau đây:
Phạm vi các quy định trong các chương này quá rộng, không những quy định mục đích, vai trò, vị trí mà còn cả những chính sách cụ thể về kinh tế; văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ; an ninh và quốc phòng; mà những chính sách này không phải lúc nào cũng ổn định.
Các quy định còn mang tính tuyên ngôn, cương lĩnh với ngôn ngữ, chính trị; ít tính pháp lý nên một số quy định chưa ngang tầm được ghi nhận trong Hiến pháp nên hiệu lực điều chỉnh trực tiếp không cao.
Với những hạn chế đó, nghĩ rằng trong Hiến pháp sửa đổi lần này cần gộp tất cả các nội dung về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ; an ninh, quốc phòng và đối ngoại thành một chương. Nội dung của chương này quy định những vấn đề có tính nguyên tắc, những định hướng mục tiêu những giá trị ổn định về tất cả các lĩnh vực nói trên. Lược bỏ những chính sách cụ thể, những quy định chưa thật ổn định, chưa ngang tầm được quy định trong Hiến pháp, để bảo đảm cho một bản Hiến pháp vừa có nội dung theo các quan điểm truyền thống lại vừa có nội dung phát triển của một bản Hiến pháp hiện đại nhưng gọn gàng, súc tích có hiệu lực thực thi cao.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top