BÀI SOẠN THI HẾT MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG (TỰ LUẬN)
Câu 1. Chứng minh Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là tất yếu của lịch sử. Liên hệ quá trình lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay?
Học thuyết Mác- Lênin khẳng định rằng, Đảng Cộng Sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác -Lênin với phong trào công nhân. Quy luật chung này được Nguyễn Ái Quốc vận dụng sáng tạo vào điều kiện nước ta, nơi giai cấp công nhân còn ít về số lượng, nhưng người vô sản bị áp bức, bóc lột thì đồng. Và sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nông và phong trào yêu nước dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp đã từng bước thiết lập bộ máy cai trị ở Việt Nam. Có áp bức ắt có chiến tranh. Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống và ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất đã tồn tại suốt chiều dài lịch sử, nhân dân ta không cam chịu ách nô lệ và đã đứng lên chống giặc ngoại xâm. Vì thế, vào thời điểm lúc bấy giờ, rất nhiều phong trào đấu tranh đã nổ ra, tuy nhiên đều không hoàn thành nhiệm vụ. Các phong trào này đều thất bại và không giải quyết được vấn đề của đất nước: đánh đuổi thực dân, giành độc lập dân tộc. Từ đó, vấn đề đặt ra cho cách mạng Việt Nam là tìm ra một lực lượng lãnh đạo đưa cách mạng đi đến thắng lợi.
Bên cạnh đó, lúc bấy giờ ở nước ta còn tồn tại phong trào yêu nước tồn tại hai khuynh hướng cơ bản: phong kiến và tư sản. Những phong trào này rất lớn mạnh, lôi cuốn được mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Nổi bật của khuynh hướng phong kiến là Chúng đã thể hiện được tinh thần yêu nước lớn lao, ý thức dân tộc và cổ vũ mạnh mẽ cho các phong trào khác trên mọi miền đất nước. Nổi bật của phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến là phong trào Cần Vương (1885 – 1896) kéo theo đó là các cuộc khởi nghĩa Ba Đình, Bãi Sậy, Hương Khê, Yên Thế. Tuy nhiên, cuối cùng chúng đều bị đàn áp đẫm máu. Sự thất bại của phong trào này chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc mà lịch sử đặt ra. Khuynh hướng tư sản tiêu biểu là Phan Bội Châu với phong trào Đông Du và Quang Phục Hội, phong trào yêu nước của Phan Châu Trinh,... Tất cả là do hạn chế về mặt lịch sử, giai cấp, các sỹ phu yêu nước đã không tìm ra một phương hướng giải quyết hợp lý cho các cuộc đấu tranh và sau một thời gian đã thất bại.
Có thể thấy, hai phong trào đấu tranh ở Việt Nam lúc bấy giờ đều thất bại bởi chúng nổ ra rời rạc, không có một đường lối, chủ trương đấu tranh thống nhất. Và tất nhiên, thất bại còn ở chỗ không có một lực lượng lãnh đạo, tiên phong đi đầu.
Sau khi nghiên cứu và chứng kiến sự thất bại của các phong trào đấu tranh yêu nước, ngày 5/6/1911 Nguyễn Ái Quốc đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Người Đi nhiều nơi tìm hiểu các cuộc cách mạng, Người đã không lựa chọn con đường CMTS và khẳng định sự nghiệp cách mạng GPDT chỉ có thể dựa vào sức của chính dân tộc mình. Tháng 7/1920, Người đọc được sơ thảo Luận cương của Lê nin và khẳng định: muốn cứu nước và GPDT chỉ có con đường CMVS. Cách mạng muốn thành công trước hết phải có Đảng. Có Đảng để trong thì vận động đồng bào ngoài thi liên lạc với vô sản giai cấp. Tháng 12/1920, Người tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp và trở thành người đảng viên Đảng CS đầu tiên của Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc tích cực nghiên cứu, vận dụng và truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin vào Việt Nam và chuẩn bị các điều kiện về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925), Đường cách mạng” (1927) và thành lập Hội VN CM Thanh niên (6/1925)
Tháng 2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản được diễn ra ở Hương Cảng-Trung Quốc từ quá trình tìm ra con đường cứu nước đã được NAQ khảo nghiệm từ thực tiễn Việt Nam và cách mạng thế giới. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản chứng tỏ con đường CMVS đã đi vào quần chúng, được quần chúng chấp nhận, đi vào phong trào công nhân và trở thành tư tưởng chiến đấu của công nhân Việt Nam. Sự ra đời đó là sự phát triển biện chứng từ một tổ chức trung gian là Hội VNCM Thanh niên, qua sự phát triển về lượng dẫn tới những biến đổi về chất.
Với các điều kiện đó chứng minh rằng Đảng CSVN được thành lập tháng 2/1930 là tất yếu lịch sử.
Công cuộc đổi mới toàn diện tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở đất nước ta hiện nay diễn ta trong bối cảnh quốc tế phức tạp, đan xen những thuận lợi và những khó khăn lớn. Trong bối cảnh, thời cơ và thách thức đan xen như hiện nay, vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng càng cực kỳ quan trọng và luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong để xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo khoa học... Muốn vậy, cần tập trung vào một số vấn đề trọng tâm sau:
Một là, Đảng ta cần tiếp tục nâng tầm trí tuệ và đổi mới tư duy để lãnh đạo toàn diện đất nước phù hợp với diễn biến nhanh chóng, mau lẹ của thực tế; phù hợp với đường lối đổi mới của cách mạng Việt Nam.
Hai là, nêu cao vai trò, trách nhiệm nhất là người đứng đầu cấp ủy có vai trò, trách nhiệm quyết định đối với hoạt động và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và cũng là biểu hiện tập trung Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng. Do đó, việc lựa chọn đúng người, xếp đúng việc là việc quan trọng hàng đầu trong tổ chức cán bộ.
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội một cách toàn diện trên các mặt phong cách, nội dung, phương pháp. Về phong cách lãnh đạo phải gần dân, nghe dân, học dân và trọng dân theo đúng tư tưởng "lấy dân làm gốc" và "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát".
Bốn là, mở rộng dân chủ ngoài xã hội; thực hành dân chủ thật sự trong Đảng. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Năm là, tăng cường giữ gìn kỷ luật, tạo sự đoàn kết nhất trí của Đảng là sức mạnh vô địch của Đảng. Đảng điều chỉnh hành vi của các tổ chức đảng, đảng viên bằng kỷ luật của mình. Buông lỏng kỷ luật, sớm hay muộn Đảng sẽ bị suy yếu, tan rã.
Lịch sử đã trao quyền lãnh đạo cách mạng cho giai cấp công nhân mà Đảng Cộng Sản Việt Nam là đại biểu. Những đóng góp của Nguyễn Ái Quốc trong cuộc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và truyền bá vào Việt Nam là hết sức to lớn. Chủ nghĩa Mác - Lênin truyền bá vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam đã đưa đến sự ra đời của Đảng ta, bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng. Từ đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng Mác- Lênin chân chính với đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo là cơ sở lý luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc phát triển của đất nước./
Câu 2: Vì sao Đảng thay đổi chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, chứng minh sự chuyển hướng là đúng đắn phù hợp CMVN trong giai đoạn đó.
Mục tiêu của Đảng khi thành lập là lãnh đạo nhân dân đánh đổ thực dân Pháp xâm lược và phong kiến tay sai giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày. Thời kỳ những năm 1936 – 1939. Do phải hạn chế sự đàn áp của kẻ thù và tranh thủ các điều kiện dân chủ của chính phủ bình dân Pháp nên Đảng quyết định chỉ tập trung vào nhiệm vụ dân sinh, dân chủ, tam gác mục tiêu độc lập dân tộc Ngày 1/9/1939, Đức tấn công Ba Lan, cuộc chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ, đây là bước ngoặt lớn của lịch sử thế giới và ảnh hưởng sâu sắc đến cách mạng Đông Dương trong nước: Thực dân Pháp ra lệnh tổng động viên, tăng cường khủng bố. Các thành quả giành được trong thời kỳ Mặt trận dân chủ bị xóa bỏ.
Thực dân Pháp bị cuốn vào guồng máy chiến tranh. Ở Đông Dương thẳng tay đàn áp những người cách mạng và buộc nhân dân Đông Dương đứng lên cầm vũ khí chiến đấu giành lại quyền sống. Đối với cách mạng Việt Nam sau giai đoạn dân chủ 1936-1939, tổ chức Đảng, cán bộ đảng viên và phong trào đấu tranh của quần chúng cơ bản đã phục hồi và đã có được những kinh nghiệm trong lãnh đạo và tổ chức chỉ đạo đấu tranh.
Trước yêu cầu lịch sử của cách mạng, ngày 29/9/1939 Đảng quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam. Coi nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cơ bản, chủ yếu của cách mạng, tất cả phải phục vụ nhiệm vụ GPDT.
Tại Hội nghị Trung ương 6, họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939, Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương. Đảng ta chỉ rõ: "Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì không giải quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại không giải quyết được cách mệnh phản đế thì không giải quyết được cách mệnh điền địa... Hiện nay tình hình có đổi mới. Đế quốc chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát-xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc thành một vấn đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư sản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết". Nhờ vậy, chỉ trong thời gian ngắn, một làn sóng cách mạng phản đế đã dấy lên, tiêu biểu là ba cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, làm rung động bộ máy thực dân.
Sau sự điều chỉnh bước đầu này dảng ta tiếp tục có những thay đổi phù hợp với những diễn biến mới của đk lsử đặt ra.
Hội nghị TW đảng lần 7 tháng 11/1940. Bước sang năm 1940, tình hình qtế và trong nc có những chuyển biến mau lẹ hơn. Ctranh t/giới thứ 2 bước vào gđoạn quyết liệt, nc pháp thất bại nhanh chóng. ở đông dương thực dân pháp một mặt đẩy mạnh chính sách thời chiến, trắng trợn đàn áp phong trào cm của ndân ta. mặt khác we thoả hiệp với Nhật nhưng những thoả hiệp đó khong làm dịu di tham vọng xâm chiếm đông dương của phát xít nhật.
Từ 6-9/11/1940 hội nghị TW đảng đã họp tại đình bảng bắc ninh. hội nghị khẳng định sự đúng đắn chủ trương cmạng của đảng vạch ra tại hội nghị tW tháng 11/1939 và hoàn chỉnh thêm 1 bước sự điều chỉnh chủ trương cm của đảng.
Từ sự phân tích đặc điểm kt xh việt nam, hội nghị chỉ rõ tính chất của cm đông dương vẫn là cm tsản dân quyền.cm phản đế và cm thổ địa là hai bộ phận khăng khít, phải đồng thời tiến hành không thể cái làm trc cái làm sau.
Hội nghị đã quyết định hai vấn đề quan trọng về việc duy trì đội du kích bắc sơn và hoãn cuộc khởi nghĩa nam kỳ.
Hội nghị là sự tiếp tục cho sự điều chỉnh chủ trương cm of đảng, từng bước đặt cuộc vận động gphóng dtộc & giai đoạn trực tiếp .
Hội nghị TW đảng lần 8 tháng 5/1941:
Bước sang năm 1941 tình hình cách mạng trong nc có nhiều biến đổi quan trọng. ngày 28/1/1941 lãnh tụ NAQ trở về nc sau 30 năm hoạt động ở nc ngoài. Người tích cực xúc tiến việc chuẩn bị tổ chức hội nghị ban chấp hành tW đảng.
Họp từ ngày 10-19/5/1941 tại pắc bó (cao bằng) do đồng chí NAQ chủ trì. Trên csở phân tích tình hình t/giới và tình hình đông dương về mọi mặt ktế, ctrị , chính sách của nhật, ptrào cm đông dương hội nghị đã có những nhập định và quyết định quan trọng, xác định giải quyết dtộc trong phạm vi từng nc đông dương giúp đỡ việc thành lập mặt trận ở các nc Ai Lao và Cao miên,. hội nghị xác định hình thức of khởi nghĩa nc ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, chuẩn bị khởi nghĩa là nvụ trung tâm of toàn đảng, toàn dân ngoài ra hội nghị còn quyết định vấn đề về xây dượng llượng ctrị, lực lượng vũ trang thành lập Mặt trận Việt Minh và căn cứ địa cách mạng chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến.
Với những ndung trên hội nghị là bước ptriển và hoàn thiện căn bản sự điều chỉnh chủ trương cm of đảng ta trong tình hình mới. hội nghị là sự trở lại đầy đủ tinh thần chiến lược cm of hội nghị hợp nhất của đảng (2/1930) nhưng ở mức độ cụ thể hơn, hoàn chỉnh hơn.
Qua các hội nghị TW 6 tháng11/1939 và hội nghị TW 7 tháng 11/1940 đặc biệt là hội nghị TW 8 tháng 5/1941 cũng như các hội nghị ta đã chủ động chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tổng khởi nghĩa. Quần chúng nhân dân đã sẳn sang cho một cuộc chiến đấu lớn với kẻ thù qua khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, binh biến Đô Lương. Nhật đầu hàng và thời cơ đã đến Cách mạng tháng Tám nổ ra và giành được thắng lợi. Ngày 2/9/1945 Việt Nam Tuyên bố Độc lập
Sự chỉ đạo chuyển hướng có ý nghĩa định hướng mang tính quyết định cho thắng lợi of cuộc vận động gphóng dtộc of các địa phương trong toàn quốc. Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo clược của đảng có ý nghĩa quyết định đvới sự ptriển của phong trào cm đi tới thắng lợi của cm tháng 8/45. Chủ trương là sự hoà huyện giữa trí tuệ toàn đảng với tư tưởng NAQ với đường lối cm dtộc dân chủ VN, góp phần bổ sung, ptriển làm phong phú thêm kho tàng lý luận mác-lênin về cm giải phóng dân tộc. Với sự linh hoạt trong chỉ đạo đã đưa Việt Nam trở thành nước thuộc địa giàng được độc lập đầu tiên sau chiến tranh thế giới thứ hai.
.Câu 3: Nghị quyết Trung ương 15 (1/1959) đã xoay chuyển cục diện chiến tranh miền Nam. Bằng lý luận và thực tiễn hãy chứng minh điều đó.
Chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử đã buộc thực dân Pháp và đế quốc Mỹ phải chấp nhận thất bại. Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Đông Dương được ký kết, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Theo tinh thần của Hiệp định, tháng 7/1956, “một cuộc Tổng tuyển cử tự do trong cả nước phải được tổ chức để thống nhất nước ta”, nhưng đế quốc Mỹ đã coi “giải pháp” Giơnevơ là một thảm họa. Mỹ nhanh chóng nhảy vào miền Nam Việt Nam.
Miền Nam Việt Nam sau năm 1954 trở thành nơi ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam Á và Châu Á Thái Bình Dương vì vị trí của Miền Nam Việt Nam nằm trên tuyến hàng hải nhôn nhịp bậc nhất thế giới. Sau thắng lợi của Điện Biên Phủ Việt Nam đã đánh bại chủ nghĩa thực dân Pháp và làm sụp đổ hệ thống thuộc địa kiểu cũ Miền Nam Việt Nam trở thành nơi tập trung các mâu thuẫn của thế giới.
Đây là giai đoạn đquốc mỹ từng bước thiết lập chế độ chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở miền nam và xây dựng chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, dùng tiền và tay sai để biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, làm nơi ngăn chặn chủ nghĩa xã hội, từng bước xé bỏ hiệp định giơnever đàn áp ptrào đâu tranh of ndân ta.
Tuy nhiên trc những đòi hỏi of ptrào CM mnam Đảng ta đã từng bước tìm tòi để xdựng đường lối CM ở mnam và đc đánh dấu bằng nghị quyết hội nghị TƯ lần 15 tháng 1 năm 1959. Với tính chất là cuộc đụng đầu lịch sử của TK XX, do đó cuộc chiến tranh Việt Nam có tính ảnh hưởng rất lớn và rất phức tạp. Hoạch định đường lối cách mạng miền Nam như thế nào để không xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới thứ 3. Do đó Hội nghị Trung ương 15 diễn ra trong bối cảnh hết sức phức tạp
Nội dung cơ bản của Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 dựa trên cơ sở phân tích kỹ điều kiện cách mạng cả nước và điều kiện cụ thể của hai miền Nam Bắc; phân tích kỹ tình hình thế giới, xu thế phát triển của cách mạng thế giới; tương quan so sánh lực lượng ta và địch, v.v.., từ đó chỉ rõ nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước, và con đường phát triển cách mạng của mỗi miền.
Về mâu thuẫn xã hội : Trên cơ sở phân tích đặc điểm tình hình cách mạng ở miền Nam có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Mỹ xâm lược và tập oàn tay sai Ngô Đình Diệm và mâu thuẫn giữa nhân dân ,trước hết là nông dân với địa chủ phong kiến .
Về lực lượng tham gia cách mạng : Nghị quyết xác định gồm giai cấp công nhân , nông dân, tư sản dân tộc và tiểu tư sản lấy liên minh công-nông làm cơ sở.
Về đối tượng của cách mạng : Đế quốc Mỹ . tư sản mại bản, địa chủ phong kiến và tay sai của đế quốc Mỹ.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam: là giải phóng miền Nam thoát khỏi ách thống
trị của đế quốc và phong kiến , thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thốg nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nhưng trên con đường dài thực hiện nhiệm vụ cơ bản ấy, cách mạng miền Nam phải đi từng bước từ thấp đến cao.
Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam: là “đoàn kết toàn dân đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập chính quyền liên hiệp dân tộc , dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ , cải thiện đời sống nhân dân , thực hiện thống nhất nước nhà; tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam á và thế giới.
Nghị quyết nhấn mạnh: Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là con đường cách mạng bạo lực, giành chính quyền về tay nhân dân . Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và phong kiến , dựng lên cơ quan cách mạng của nhân dân.
Về khả năng phát triển của tình hình sau những cuộc khởi nghĩa của quần chúng: Hội nghị dự kiến: đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang thường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang cục diện mới là: chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch, và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta “nội dung được trích dẫn từ
Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 ra đời khẳng định quyết tâm đấu tranh không cam chịu làm nô lệ của nhân dân Việt Nam. Đánh bại hình thức chiến tranh áp đặt, chiến tranh một phía của Mỹ. Cho nên, có những nơi chưa nhận được văn bản chính thức, chỉ lĩnh hội tinh thần của Nghị quyết “cho phép tiến hành đấu tranh vũ trang”, đã nhanh chóng phát động khởi nghĩa. Hình thức đấu tranh “mang tính bạo lực” của quần chúng ở nhiều nơi đã có sự tham gia của lực lượng vũ trang, nửa vũ trang ở những mức độ khác nhau. Các trận đánh đầu tiên của lực lượng vũ trang và tự vệ miền Nam đã diễn ra ở Tây Ninh, Thủ Dầu Một,v.v.. rồi tiếp đến là Bác ái (Ninh Thuận, Trà Bồng (Quảng Ngãi). Đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa của đồng bào các tỉnh miền Trung Nam Bộ, miền Đông Nam Bộ có đà phát triển và ngày càng lan rộng từ giữa năm 1959 đến cuối năm 1960. Phong trào “Đồng khởi” của nhân dân miền Nam đã làm tan rã từng mảng bộ máy kìm kẹp của chế độ nguỵ quyền cơ sở ở nông thôn, làm lung lay tận gốc bộ máy chính quyền thực dân kiểu mới, đẩy địch vào thế bị động. Từ trong Đồng khởi, quyền làm chủ của nhân dân được xác lập; lực lượng vũ trang, bán vũ trang được xây dựng và từng bước trưởng thành. Góp phần đưa đến sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 20/12/1960.
Nghị quyết trung ương 15 ra đời là sự khẳng định quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc, nghị quyết đã làm xoay chuyển cuộc chiến ở miền Nam. Nghị quyết đồng thời cho thấy quyết định của Người và Đảng ta thực sự “đã tạo ra một phương thức mới, tạo đột biến cho tình hình, đưa cách mạng chuyển sang bước nhảy vọt thần kỳ”, khẳng định tầm vóc trí tuệ, bản lĩnh và tư duy của Hồ Chí Minh và Đảng ta về cách thức mở đầu cuộc chiến tranh nhân dân chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
Kết quả đánh bại chiến lược chiến tranh đặc biệt bằng các chiến dịch An Lão, Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài; chiến lược chiến tranh cục bộ bằng các chiến thắng Núi Thành, Vạn Tường, Plâyme và kết thúc bằng cuộc tổng tiến công mùa Xuân 1968 buộc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán với ta tại hội nghị Pari; chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh bắt đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên và kết thúc với chiến dịch lịch sử HCM, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Hơn 15 năm sau khi Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 về cách mạng miền Nam ra đời, với đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước được cụ thể hoá trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960 và nhiều nghị quyết Trung ương khác, mùa xuân năm 1975, với Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân miền Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Miền Nam được giải phóng, hai miền Nam Bắc sum họp một nhà. Nhiều năm sau đó, trong Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước- thắng lợi và bài học, Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ chính trị nhận định: Nghị quyết 15 rất đúng đắn, sáng tạo phù hợp thời cơ lịch sử “Nó là ngọn lửa dấy lên cao trào Đồng khởi làm xoay chuyển tình thế cách mạng miền Nam lúc bấy giờ”, tạo đà cho những thắng lợi của cách mạng miền Nam trong những năm sau đó ./.
Câu 4: PT những bài học kinh nghiệm được tổng kết tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
Hệ thống xã hội chủ nghĩa, cả Liên Xô và Trung Quốc đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, và họ đang bước vào cái cách, cải tổ với các hình thức và mức độ khác nhau, có nước thành công, có nước thất bại. Trong đó Trung quốc sau 10 năm đổi mới đã bước đầu giành được nhiều thắng lợi. Sự giúp đỡ của các nước đối với Việt Nam gần như không còn được như trước, từ năm 1978 Trung quốc cắt viện trợ và rút chuyên gia về nước.
Trong nước Việt Nam đang phải làm nhiệm vụ quốc tế tại Cam pu chia, Bị bao vây cấm vận, Chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội khủng hoảng trầm trọng. Đất nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội: sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm; quần chúng giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Nhìn tổng quát, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Điều này giúp Đảng ta định hướng được con đường đổi mới đúng đắn cho nước nhà. Vì vậy đổi mới đã trở thành yêu cầu cấp thiết, có tính chất sống còn đối với XHCN thế giới nói chung, đối với cách mạng vn nói riêng.
Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trước hết là những nguyên nhân về tổ chức và quản lý kinh tế, vào những năm cuối thập niên 70 thế kỷ XX, đất nước dần dần lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề sống còn là đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng. Muốn vậy, phải thay đổi mạnh mẽ cách nghĩ và cách làm, tìm tòi và thử nghiệm cách làm ăn mới cho những vấn đề đặt ra.
Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8-1979), với chủ trương bằng mọi cách “làm cho sản xuất bung ra”, là bước đột phá đầu tiên của quá trình tìm tòi và thử nghiệm đó. Hội nghị chủ trương ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc trao đổi tự do. Từ thực tế các thí điểm đó, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. Tiếp đó, trong công nghiệp, bước đầu xác định quyền tự chủ của các cơ sở trong sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính của các xí nghiệp theo các Quyết định 25/CP và 26/CP của Hội đồng Chính phủ. Nghị quyết Trung ương 6, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và các Quyết định 25/CP và 26/CP của Chính phủ cho thấy những ý tưởng ban đầu của đổi mới, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện, nhưng đó là bước đầu có ý nghĩa, đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này.
Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) phát triển thêm một bước, đánh giá một cách khách quan thành tựu và hạn chế trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã chỉ ra nguyên nhân chủ quan gây nên sự sa sút của nền kinh tế là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý. Để góp phần khắc phục tư tưởng nóng vội, Đại hội xác định nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là “coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu hợp lý”. Đại hội cũng khẳng định sự tồn tại năm thành phần kinh tế trong một thời gian nhất định ở miền Nam.
Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) là bước đột phá thứ hai với chủ trương dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa... Tháng 9-1985, cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền được bắt đầu bằng việc đổi tiền, xoá bỏ hoàn toàn chế độ tem phiếu. Do tư tưởng nóng vội, cuộc tổng điều chỉnh này đã dẫn tới tình trạng giá cả thị trường có nhiều diễn biến phức tạp; lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Đầu năm 1986, lại phải lùi một bước, quay trở lại thực hiện chính sách hai giá...
Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (9-1986) là bước đột phá thứ ba với kết luận về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế. Nội dung là: 1- Về cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu; ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, phát triển có chọn lọc công nghiệp nặng; 2- Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới, phải xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; 3- Về cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, đồng thời phải sử dụng đúng quan hệ hàng hoá tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, bao cấp; chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá.
Kết luận về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế có ý nghĩa to lớn trong việc định hướng soạn thảo lại một cách căn bản Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng. Với tinh thần đó Đảng đã rút ra 4 bài học kinh nghiệm:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “Lấy dân làm gốc”. Vì nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội. Bên cạnh đó, quần chúng nhân dân còn là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sáng tạo ra những giá trị tinh thần của xã hội. Vì vậy đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn luôn luôn sáng tạo
Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đảng phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của CNXH ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội. Chủ trương, chính sách của Đảng phải phản ánh quy luật khách quan và được thực tiễn kiểm nghiệm và khẳng định.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của mình, Đảng phải đặc biệt coi trọng kết hợp yếu tố dân tộc với quốc tế, các yếu tố truyền thống với thời đại, sử dụng tốt mọi khả năng mở rộng thương mại, hợp tác kinh tế và khoa học kĩ thuật với bên ngoài để phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, và luôn luôn làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình đối với anh em và bầu bạn.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng cũng như trong lãnh đạo kinh tế, xã hội. Nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của đảng viên. Thường xuyên phê bình và tự phê bình trong Đảng, đội mới phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc, nói đi đôi với làm, thực hiện tốt quy trình làm việc và ra quyết định. Tăng cường kỉ luật Đảng.
Ý nghĩa các bài học
- Sự giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng của nhân dân trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay đang trở nên bức bách và có ý nghĩa sống còn của đảng ta. Đó là bài học “ Lấy dân làm gốc” để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
- Trong thực tiễn cách mạng ở nước ta là “ Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dận đầu của Đảng” đây là sự vận dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất và các quy luật khách quan vốn có của nó trong việc đề ra các chế định, chủ trương, chính sách vào thực tế của công cuộc xây dựng đất nước ta.
- Đảng Cộng sản VN coi đây là cách lựa chọn tốt nhất để VN chủ động hội nhập vào quá trình hợp tác kinh tế quốc tế, tận dụng các cơ hội phát triển to lớn mà thời đại đang dành cho các nước đi sau. Việc kịp thời chuyển hướng nhận thức trong đường lối đối ngoại như vậy thể hiện rõ quan niệm mới về độc lập dân tộc, phù hợp với điều kiện quốc tế thay đổi sâu sắc.
- Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ đã được đề ra nay cần tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đặc biệt là phải tăng cường sức chiến đấu, nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng, còn Nhà nước phải được xây dựng thành Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, quản lý xã hội bằng pháp luật, nhân dân phải thực sự trở thành người chủ, mọi việc đều phải tiến hành theo nguyên tắc “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”./.
Câu 5: Nội dung phương thức lãnh đạo của ĐCS cầm quyền liên hệ với thực tiển.
Trải qua 85 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam kể từ ngày thành lập (1930) và 70 năm lãnh đạo đất nước với vai trò là Đảng cầm quyền kể từ khi giành được chính quyền (1945), Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện đầy đủ vai trò là ngọn cờ tập hợp trí tuệ, sức mạnh và tinh hoa của dân tộc. Đó là vai trò không thể thay thế bởi lẽ nó là vai trò của trí tuệ và niềm tin, vai trò của sự thống nhất và đoàn kết, vai trò của sự hướng dẫn quần chúng hành động theo đúng quy luật khách quan và phù hợp với yêu cầu thực tiễn đất nước. Dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thậm chí cả những thử thách tưởng chừng khó vượt qua, Đảng vẫn luôn là người cầm lái kiên định, sáng suốt để lãnh đạo đất nước phát triển tới ngày hôm nay.
Khái niệm Đảng cầm quyền đã được Lênin nêu ra từ năm 1922. Theo Lê Nin thì Đảng cầm quyền là khái niệm để chỉ một thời kỳ mới, một giai đoạn cách mạng mới. Đó là thời kỳ mà CNXH không đơn thuần là cương lĩnh, mục đích, lý thuyết nữa mà đã trở thành công việc phấn đấu hàng ngày của Đảng. Đó là thời kỳ mà nhiệm vụ hàng đầu và trọng tâm là tổ chức xây dựng đất nước chứ không phải là nhiệm vụ giành chính quyền nữa.
Như vậy, nói một cách khái quát, Đảng cầm quyền là một khái niệm dùng để chỉ thời kỳ Đảng đã nắm được chính quyền và sử dụng chính quyền đó như một công cụ của giai cấp mà Đảng đó đại diện nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị của giai cấp.
1. Nội dung lãnh đạo:
Đảng đề ra cương lĩnh chính trị, chiến lược, đường lối, chính sách lớn trên các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, giáo dục, an ninh, quốc phòng.
Đây được coi là những quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức khác.
Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, dủ năng lực và hoạt động có hiệu quả thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân; chăm lo xây dựng và củng cố các đoàn thể nhân dân đủ sức tập hợp được rộng rãi quần chúng nhân dân và phát huy quyền lầm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc đề ra các quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng tổ chức và hoạt động của các tổ chức; Giúp đỡ các tổ chức xác định mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ cụ thể…
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nhất là cán bộ chủ chốt trong HTCT: Đề ra các quan điểm, chủ trương về công tác cán bộ từ khâu đào tạo, bố trí, đánh giá, sử dụng, luân chuyển cán bộ…; Đảng quyết định những chính sách lớn về cán bộ; Trực tiếp bố trí và quản lý cán bộ của các tổ chức đảng trong các cơ quan Nhà nước và đoàn thể.
Đảng tiến hành kiểm tra, giám sát đối với Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Nội dung kiểm tra, giám sát chủ yếu tập trung vào việc quán triệt và tổ chức thực hiện các quan điểm, nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, việc chấp hành pháp luật và tinh thần trách nhiệm trước nhân dân. Đảng vừa trực tiếp kiểm tra, giám sát vừa tổ chức phối kết hợp hoạt động kiểm tra, giám sát…
2. Phương thức lãnh đạo:
Về mục tiêu: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân; Nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, chất lượng hoạt động của MTTQ và các đoàn thể CTXH; Phát huy dan chủ, quyền làm chủ của nhân dân; Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; Phát triển đất nước nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Về quan điểm chỉ đạo: Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng, với đổi mới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; đồng bộ với đổi mới kinh tế, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải trên cơ sở kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội; đẩy mạnh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng. Phải chủ động, tích cực, có quyết tâm cao, đồng thời có bước đi vững chắc. Vừa làm, vừa tổng kết rút kinh nghiệm. Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở mỗi cấp, mỗi ngành vừa phải quán triệt các nguyên tắc chung, vừa phải phù hợp với đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo của từng cấp, từng ngành.
Về nhiệm vụ và giải pháp: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khoá X) đã nêu 7 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, riêng đối với nhiệm vụ và giải pháp của cấp ủy đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương .
+ Về công tác tổ chức của hệ thống chính trị ở địa phương: lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ việc bầu cử Hội đồng nhân dân, xây dựng, kiện toàn tổ chức Hội đồng nhân dân, Uy ban nhân dân...
+ Về hoạt động của hệ thống chính trị: Cấp ủy nêu những chủ trương, định hướng lớn trong những quyết định quan trọng của Hội đồng nhân dân để Hội đồng nhân thảo luận, quyết định. Cấp ủy lãnh đạo Uy ban nhân dân quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết…
+ Về kinh tế – xã hội: Ban chấp hành đảng bộ cho ý kiến về những định hướng lớn trong chiến lược và quy hoạch tổng thể về phát triển kinh tế – xã hội, về những chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp lớn…
+ Về quốc phòng, an ninh và đối ngoại: Ban thường vụ cho ý kiến về chủ trương, nhiệm vu trọng yếu bảo đảm quốc phòng – an ninh, nhất là an ninh chính trị, tôn giáo, dân tộc, chủ quyền và an ninh biên giới….
+ Về công tác cán bộ: Ban chấp hành, Ban thường vụ cho ý kiến về định hướng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, giới thiệu nhân sự ứng cử, đề cử hoặc rút khỏi chức danh chủ tịch Hội đồng nhân dân, chủ tịch Uy ban nhân dân để báo cáo Ban Bí thư quyết định trước khi Hội đồng nhân bầu…
+ Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp ở địa phương.
+ Tăng cường lãnh đạo công tác Mặt trận và đoàn thể chính trị – xã hội …
Từ những nhiệm vụ giải pháp nêu trên hiện nay công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng có đổi mới; Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai thực hiện tương đối đồng bộ và có một số đổi mới về nội dung và cách làm; Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ đảng viên đã đạt được một số kết quả nhất định; Công tác kiểm tra, giám sát được quan tâm chỉ đạo và coi trọng, chất lượng, hiệu quả được nâng lên. Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới,
Các nhiệm vụ giải pháp xây dựng Đảng CSVN đã được trình bày trên trong điều kiện hiện nay đều rất quan trọng, tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay giải pháp về tăng cường công tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức trong cán bộ, đảng viên là quan trọng nhất.
Vì như chúng ta đã biết trước những tác động của nền kinh tế thị trường, tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang bị tha hóa về đạo đức, lối sống, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội tiếp tục diễn biến phức tạp. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống gắn liền với tư tưởng thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc… trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Mà trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền nên những điều kiện càng dể xảy ra, gây mất lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Nhà nước, đi ngược với quan điểm lãnh đạo của Đảng. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đó là, sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm; bất chấp đạo lý, dư luận; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Vì vậy, công tác đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang vấn đề trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất về xây dựng Đảng trong tình hình hiện nay.
Câu 6: Giai đoạn từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946, Đảng đã thực hiện chính sách ngoại giao “thêm bạn bớt thù, nhân nhượng có nguyên tắc” cực kỳ đúng đắn. Hãy làm rõ quá trình đó và liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay.
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, công cuộc xây dụng và bảo vệ đất nước của nhân dân ta đứng trước bối cảnh vừa có những thuận lợi cơ bản, vừa gặp phải nhiều khó khăn to lớn,hiễm nghèo.Cùng với việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng chế độ mới và tổ chức kháng chiến ở miền Nam, Đảng ta đã thực hiện sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù để phân hoá chúng, tránh tình thế đương đầu cùng một lúc với nhiều kẻ thù.
Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp bách nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Theo hội nghị Pốtđam 7/1945 20 vạn quan Tưởng đã tràn vào Việt Nam với danh nghĩa quân đồng minh để làm nhiệm vụ giải giáp quân nhật.. Ỡ miền Nam hàng vạn quân Anh cũng với danh nghĩa qu6an đồng minh vào Việt Nam. Trong khi đó Âm mưu quay lại xâm lược nước ta của thực dân Pháp đã bộc lộ với việc phát động chiến tranh ở Nam bộ ngày 23/9/1945. Cách mạng Việt Nam trong vòng vây của CN đế quốc. Trong lúc điều kiện KTXH vô cùng khó khăn.
Trước tình hình đó Đảng ta chủ trương thực hiện chính sách ngoại giao thêm bạn bớt thù, nhân nhượng có nguyên tắc.
Hòa hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc, tập trưng chống Pháp ở miền Nam, tiếp tục đàm phán để giải quyết xung đột Pháp-Việt (9-1945 đến 2-1946). Ngay từ đầu, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: “Hoa-Việt thân thiện”. Với những nhân nhượng về kinh tế, chính trị và những biện pháp “đau đớn”, ta đã vô hiệu hóa 20 vạn quân Tưởng, đấu tranh kiên quyết với hai đảng phản động là “Việt Quốc” và “Việt Cách”, giữ vững chính quyền cách mạng.
Hòa hoãn với Pháp để đẩy nhanh quán Tưởng về nước, tranh thủ thời gian, xây dựng thực lực cách mạng (3-1946 - 12-1946).
Sau Hiệp ước Hoa- Pháp ngày 28-2-1946, quân Tưởng đồng ý cho quân Pháp ra miền Bắc. Ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ ra Chi thị Tình hình và chủ trương.
Thực hiện chủ trương hòa với Pháp, ngày 6-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ với những điều khoản chủ yếu: Việt Nam là một quốc gia tự do nằm trong Liên hiệp Pháp; chấp nhận cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc thay thế quân Tường... Ngày 9-3-1946, Trung ương ra chi thị “Hòa để tiến” nêu rõ: “chúng la “hòa” với nước Pháp để dành thời gian, bảo toàn thực lực, giữ vững lập trường, càng mau tiến tới độc lập hoàn toàn”
Sau Hiệp định sơ bộ đã diễn ra các hoạt động ngoại giao: cuộc gặp giữa Hồ Chí Minh với Đô đốc Đắcgiăngliơ trên vịnh Hạ Long ngày 24-3-1946; tiếp theo là Hội nghị trù bị ở Đà Lạt, và sau đó là Hội nghị Phôngtennơblô trên đất Pháp nhưng đều bế tắc. Đang thăm nước Pháp với tư cách thượng khách, ngày 14-9-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện Chính phủ Pháp bản Tạm ước với thiện chí tiếp tục nhân nhượng Pháp, cố gắng đàm phán ngoại giao để giải quyết quan hệ Việt - Pháp.
Tuy nhiên, với đã tâm xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã bội ước. Sau các vụ khiêu khích ờ Lạng Sơn, Hải Phòng, phố Hàng Bún - Hà Nội, ngày 18-12-1946, Tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Bộ là Moóclie đã gửi tối hậu thư cho Chính phủ Việt Nam. Để bào vệ nền độc lập vừa mới giành được, nhân dân Việt Nam buộc phải cầm súng đứng lên chống kẻ xâm lược. Đêm ngày 19-12-1946, kháng chiến toàn quốc nổ ra tại Hà Nội và các địa phương trên cả nước.
Ý nghĩa của việc hòa với Tưởng và Pháp
+ Xác định kẻ thù chính để tập trung lực lượng đối phó
+ Tạo điều kiện thời gian để xây dựng và củng cố chính quyền
+ Phân hóa và lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để phục vụ cho ta
Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay
Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển."*
Trên cơ sở đường lối đối ngoại đó, Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, trong đó ưu tiên cho việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, với các nước và trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc. Trong những năm qua, Việt Nam đã chủ động đàm phán và ký kết với nhiều nước trong và ngoài khu vực những khuôn khổ quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện cho thế kỷ 21. Nhiều Hiệp định, thoả thuận quan trọng đã được ký kết như Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ, Hiệp định về biên giới trên bộ, Hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định nghề cá với Trung Quốc, Hiệp định về phân định thềm lục địa với In-đô-nê-xia... Các mối quan hệ song phương và đa phương đó đã góp phần không nhỏ vào việc không ngừng củng cố môi trường hoà bình, ổn định và tạo mọi điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan trọng trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh thế giới toàn cầu hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay. Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam đã tham gia sâu rộng và ngày càng hiệu quả ở các tổ chức khu vực như ASEAN, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn á - Âu (ASEM) và đang tích cực đàm phán để sớm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Những đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động của các tổ chức, diễn đàn quốc tế đã góp phần từng bước nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Sự tham gia và hoạt động tích cực của Việt Nam ở Liên Hợp Quốc cũng được các nước đánh giá tích cực và đó là cơ sở để Việt Nam ứng cử vào ghế Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Với nhận thức sâu sắc rằng thế giới hiện nay đang phải đối phó với những vấn đề toàn cầu mà không một nước nào có thể tự đứng ra giải quyết được, Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để cùng nhau giải quyết những thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói nghèo, tội phạm xuyên quốc gia, ô nhiễm môi trường, buôn lậu ma túy, ... Đặc biệt từ sau sự kiện 11/9/2001, Việt Nam đã tích cực tham gia vào nỗ lực chung của các nước tăng cường hợp tác chống khủng bố trên cơ sở song phương và đa phương nhằm loại trừ tận gốc nguy cơ của khủng bố đối với an ninh và ổn định của các quốc gia. Những nỗ lực này của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với bạn bè ở khu vực và quốc tế, góp phần vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, ổn định và phát triển./.
Câu 7: Phân tích nội dung đường lối đổi mới của Đảng được thông qua tại Đại hội ĐBTQ lần thứ VI (12/1986)
Hệ thống xã hội chủ nghĩa, cả Liên Xô và Trung Quốc đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, và họ đang bước vào cái cách, cải tổ với các hình thức và mức độ khác nhau, có nước thành công, có nước thất bại. Trong đó Trung quốc sau 10 năm đổi mới đã bước đầu giành được nhiều thắng lợi. Sự giúp đỡ của các nước đối với Việt Nam gần như không còn được như trước, từ năm 1978 Trung quốc cắt viện trợ và rút chuyên gia về nước.
Trong nước Việt Nam đang phải làm nhiệm vụ quốc tế tại Cam pu chia, Bị bao vây cấm vận, Chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội khủng hoảng trầm trọng. Đất nước đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội: lạm phát lên đến 774%, sản xuất tăng chậm; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ. Tiêu cực trong xã hội phát triển, công bằng xã hội bị vi phạm; quần chúng giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước, chính trị bất ổn. Nhìn tổng quát, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế-xã hội, ổn định chính trị và đời sống nhân dân.
Trước vấn đề cấp bách đó Đại hội ĐBTQ lần thứ VI (12/1986) thông qua Đại hội nội dung cơ bản của đường lối đổi mới toàn diện đất nước:
Một là, đổi mới cơ cấu kinh tế, có chính sách sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, xác định nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ:
+ Các thành phần kinh tế gồm có: kinh tế khu vực quốc doanh; tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc. Chính sách cụ thể đối với từng thành phần kinh tế
+ Tập trung thực hiện ba chương trình mục tiêu về lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
Hai là, đổi mới cơ chế quản lý: Xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp. Thực chất của cơ chế mới là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm kế hoạch, quan hệ T-H…“Thực chất của cơ chế mới về quản lý KT là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN, đúng theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Ba là, đổi mới hoạt động của đối ngoại: Công bố chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới nhiều hình thức; cần có chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta để hợp tác kinh doanh
Bốn lá, đổi mới và tăng cường, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước: Cải cách lớn về tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước: Bộ máy từ trung ương đến địa phương và cơ sở là một hệ thống thống nhất, có phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm từng cấp; điều hành các hoạt động kinh tế, xã hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỷ cương nhà nước và trật tự xã hội, giữ vững quốc phòng và an ninh; xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao…
Năm là, đổi mới tư duy lý luận và phong cách lãnh đạo của Đảng: Nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những đặc trưng và quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ; khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế, xa rời quần chúng, thực sự gắn bó với dân, lấy dân làm gốc; nâng cao đạo đức cách mạng…
Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt Nam.
- Đảng đã quyết định đổi mới hết sức đúng lúc, kịp thời…
- Làm tiền đề cho quá trình bổ sung, phát triển đường lối đổi mới…
- Là mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết bền lâu. Đường lối đổi mới của Đại hội VI đã mở đường cho đât nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Đại hội đã thực sự đi vào cuộc sống, trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển, làm thay đổi bộ mặt của xã hội, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ mới của lịch sử Cách mạng Việt Nam.
- Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật, vào những sai lầm khuyết điểm và đổi mới theo xu thế mới của thời đại mới.
- Là Đại hội: “trí tuệ - dân chủ - đoàn kết và đổi mới”
- Tuy nhiên, Đại hội VI còn có những hạn chế về những giải pháp tháo gỡ những tình trạng rối ren trong phân phối, lưu thông
Câu 8: Phân tích những nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lê Nin.
Lê-nin đã xây dựng nên một học thuyết về đảng cộng sản kiểu mới trên cơ sở kế thừa và phát triển những tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăngghen, có thể khái quát ở một số điểm nổi bật sau:
Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng Cộng sản. Người viết: “Chúng ta hoàn toàn đứng trên cơ sở lý luận của Mác; lý luận đó là lý luận lần đầu tiên biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học; Lý luận đó đã chỉ rõ nhiệm vụ thật sự của đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng”. Tuy đánh giá rất cao, nhưng Người cũng không quên căn dặn rằng không được coi lý luận của C.Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mới, những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt nều khống muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống.
Để hiểu rõ hơn những nguyên lý về Đảng kiểu mới của Lê nin tôi xin nêu và phân tích 8 nguyên lý cơ bản sau:
1. Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng Cộng sản. Người viết: “Chúng ta hoàn toàn đứng trên cơ sở lý luận của Mác; lý luận đó là lý luận lần đầu tiên biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học; Lý luận đó đã chỉ rõ nhiệm vụ thật sự của đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng”. Tuy đánh giá rất cao, nhưng Người cũng không quên căn dặn rằng không được coi lý luận của C.Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mới, những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt nều khống muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống.
2. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, cách mạng nhất và giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Vai trò tiên phong của Đảng thể hiện trên lĩnh vực lý luận, về mặt tổ chức và hành động gương mẫu của đảng viên trong thực tiễn. Lê-nin đã đưa ra một số luận điểm: “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò người chiến sĩ tiền phong”. Đảng phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”; Không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp, mà Đảng là “đội tiên phong giác ngộ nhất của giai cấp vô sản”.
3. Giành được chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ thống đó. Theo V. I. Lê-nin, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc đấu tranh giữ vững chính quyền và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là sai lầm về nguyên tắc, bởi nếu vậy sẽ thủ tiêu sức mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và cả hệ thống của nó và sẽ mở đường cho các phần tử cơ hội phản động cướp chính quyền.
4. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Tập trung dân chủ là thuộc tính cơ bản của đảng, thể hiện bản chất và sự sống còn của Đảng; là tiêu chí để phân biệt chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân - Đảng cách mạng chân chính với các đảng phái khác.
5. Đoàn kết thống nhất là sức mạnh vô địch của Đảng, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch và vô tận của đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp. V. I. Lê-nin đã phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng Cộng sản. Người đưa ra khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Để sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn luôn được củng cố và phát triển, Đảng cần phải thực hiện tự phê bình và phê bình, đây là quy luật phát triển của Đảng, có tác dụng phát hiện, giải quyết mâu thuẫn đối với từng cá nhân, từng tổ chức và cả hệ thống của Đảng. Song, tự phê bình và phê bình phải có tính đảng và tính nguyên tắc là nhằm tăng cường sự thống nhất trong Đảng, chứ không phải tạo ra bè phái để chia rẽ nội bộ Đảng; nhằm tăng cường giữ vững mối quan hệ chặt chẽ giữa các tổ chức đảng và giữa các tổ chức đảng với nhân dân.
6. Gắn bó mật thiết với nhân dân, đấu tranh kiên quyết ngăn chặn và loại trừ bệnh quan liêu. Người cho rằng “những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại dương nhân dân”. Nếu không có sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng không thể trở thành hiện thực. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Khi nắm chính quyền, Đảng có nhiều điều kiện mới, công cụ mới để tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, nhưng cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, tham nhũng…làm cho đảng viên thoái hoá biến chất, xa rời quần chúng. Đó là nguyên nhân căn bản làm cho Đảng suy yếu.
7. Đảng kết nạp những người ưu tú của giai cấp công nhân, nhân dân lao động vào đảng, kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi Đảng. Đó là một biện pháp đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
8. Tính quốc tế của Đảng cộng sản. Theo Người, chủ nghĩa quốc tế không phải là lời nói suông, không phải là lời tỏ tình đoàn kết, không phải là nghị quyết mà là hành động.
Những nguyên lý về Đảng kiểu mới của Lê nin góp phần xây dựng được Đảng cộng sản vững mạnh đưa đến thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga. Đồng thời là nền tảng, cơ sở cho các Đảng cộng sản trên thế giới hoạt động đúng định hướng. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, 85 năm ra đời và lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã không ngừng lớn mạnh. Học thuyết chính đảng kiểu mới của V. I. Lê-nin đến nay vẫn luôn mang ý nghĩa lý luận sâu sắc, đang soi sáng cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở nước ta hiện nay.
Câu 9: Phân tích bản chất và nội dung của Nguyên tắc tập trung dân chủ, liên hệ với việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ hiện nay.
Nhận thức và vận dụng các quy luật trong quản lý là một quá trình đi từ cái chung đến cái riêng, từ trừu tượng đến cụ thể để đề ra các nguyên tắc của quản lý. Các nguyên tắc quản lý là các quy tắc chuẩn mực, chỉ đạo những người quản lý phải tuân thủ trong quá trình quản lý. Các nguyên tắc quản lý do con người định ra, vừa phản ánh các quy luật khách quan nhưng cũng mang dấu ấn chủ quan của con người. Trong lịch sử hoạt động quản lý, người ta đã đưa ra nhiều nguyên tắc quản lý về mỗi lĩnh vực hoạt động lại có những nguyên tắc quản lý đặc thù.
Sau đây chúng ta sẽ phân tích nội dung của nguyên tắc tổ chức cơ bản của quản lý, đó là nguyên tắc tập trung dân chủ, để từ đó liên hệ việc vận dụng nguyên tắc trên trong công tác hiện nay.
Trước hết, chúng ta cần phải hiểu nguyên tắc tập trung dân chủ là gì ? Cơ sở hình thành nguyên tắc tập trung dân chủ, nội dung, yêu cầu và các điều kiện thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của quản lý, phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng quản lý cũng như yêu cầu và mục tiêu của quản lý.
Nguyên tắc TTDC được Đảng ta chỉ rõ trong điều 9, Điều lệ ĐCSVN khóa X.
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Mác -Ăngghen là người đầu tiên đưa ra tư tưởng về TTDC trong Điều lệ liên đoàn những người cộng sản (1847- 1852) và trong Điều lệ Hội liên hiệp công nhân quốc tế như vấn đề bầu cử dân chủ, bình đẳng; quyền thảo luận thông qua cương lĩnh, đường lối; cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số…
Lênin là người đầu tiên sử dụng khái niệm TTDC tại hội nghị Tammecpho (1905) sau đó đưa vào Điều lệ Đảng công nhân dân chủ- xã hội Nga, được các Đảng gia nhập Quốc tế III thừa nhận và tuân thủ
Chủ tịch HCM trung thành, đồng thời bổ sung và phát triển tư tưởng tư tưởng của Mác, Ăngghen và Lênin về NTTTDCtrong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của ĐCS Việt Nam. Tuy Bác có lúc sử dụng thuật ngữ DCTT hoặc TTDC nhưng nội hàm và thực chất của khái niệm TTDC trước sau vẫn nhất quán. – Tư tưởng của Đảng ta về TTDC:
- Quyền tập trung trong xây dựng tổ chức và hoạt động của đảng: Đảng có một cương lĩnh chung, một điều lệ thống nhất. Lãnh đạo các tổ chức đảng , lãnh đạo công tác của Đảng do một trung tâm thực hiện là ĐHĐB toàn quốc của Đảng. Đảng có kỷ luật thống nhất bắt buộc đảng viên phải chấp hành. Trong đảng phải thống nhất tư tưởng và hành động, tiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương.
- Dân chủ trong sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của đảng: Toàn thể đảng viên hoàn toàn bình đẳng (không có ngoại lệ). Các chức vụ trong đảng và cơ quan lãnh đạo của Đảng đều do bầu cư dân chủ lập ra. Thực hiên nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, phát huy tinh thần trách nhiệm của cá nhân.
- Liên hệ :
+ Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc TTDC ở nước ta hiện nay
+ Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc TTDC ở đơn vị
Từ khi ra đời cho đến nay Đảng ta đã vận dung nguyên tắc này một cách sáng tạo vào quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của mình. Nguyên tắc này được quy định tại điều 9 Điều lệ ĐCS Việt Nam thông qua tại đại hội XI.
Câu 10: Phân tích những bài học kinh nghiệm trong xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946.
Lênin từng chỉ rõ: “Chính quyền nhà nước nhất định là vấn đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng”. Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đánh đuổi giặc ngoại xâm để giành lấy chính quyền đã khó, thì việc giữ vững chính quyền của nhân dân lại càng khó khăn hơn, lâu dài và gian khổ hơn. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó, đặc biệt là trong giai đoạn sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới sự ra đời nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Việt Nam và cả Đông Nam Á. Đó là thành quả của 15 năm đấu tranh giành chính quyền của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, nước ta còn gặp rất nhiều khó khăn trên tất cả phương diện kinh tế, xã hội, chính trị, ngoại giao. Nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề làm cho xơ xác, kiệt quệ. Nạn đói đầu năm 1945 do Pháp, Nhật gây ra làm 2 triệu người chết chưa được khắc phục, thì tháng 8-1945 lại xảy ra lụt lớn ở miền Bắc, sau đó thì bị hạn kéo dài. Sản xuất nông nghiệp bị đình đốn, hàng vạn công nhân không có việc làm, hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt... Tài chính cạn kiệt, ngân sách trống rỗng, Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền Quan kim mất giá ra thị trường gây rối loạn nền tài chính, kinh tế của ta. Đã vậy, ta còn phải cung cấp lương thực cho 20 vạn quân Tưởng. Dưới chính sách “ngu dân” của thực dân Pháp, 95% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội đầy dẫy. Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa chưa được thế giới công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Chính quyền non trẻ chưa được các lực lượng tiến bộ trên thế giới giúp đỡ… Nhưng nghiêm trọng hơn vẫn là tình hình an ninh, chính trị. Ngay sau cách mạng thành công, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đã bao vây, chống phá hòng tiêu diệt chính quyền cách mạng. Gần 20 vạn quân Tưởng, đồng minh của đế quốc Mỹ cùng bọn tay sai kéo vào miền Bắc nước ta với ý đồ tiêu diệt Đảng ta, lật đổ chính quyền cách mạng. Ở miền Nam, quân đội Pháp được đế quốc Anh che chở đã đánh chiếm Nam Bộ hòng lập lại chế độ thực dân của chúng. Nhiều đảng phái phản động (Việt Quốc, Việt Cách, Đại Việt...) công khai hoạt động chống chính quyền. Với những thử thách nặng nề đó, sự mất - còn của chính quyền cách mạng đặt trong thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Chính quyền nhân dân có thể bị lật đổ, nền độc lập mới giành được có nguy cơ bị mất. Tình hình đó đòi hỏi Đảng và chính quyền cách mạng phải có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn mới có thể bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng.
Đảng ta chủ trương, bất kể tình hình như thế nào cũng phải “củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân”. Trước hết là tăng cường sức mạnh, hiệu lực và cơ sở pháp lý về cả đối nội cũng như đối ngoại. Vấn đề cấp bách đặt ra là “chúng ta phải có ngay một hiến pháp dân chủ”. Đảng chủ trương phải xúc tiến nhanh việc bầu cử Quốc hội, lập Chính phủ chính thức và soạn thảo Hiến pháp. Ngày 6-1-1946, lần đầu tiên ở nước ta tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội của một nhà nước dân chủ. Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp, cử ra Chính phủ tiêu biểu cho ý chí, lợi ích của toàn dân. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được công bố ngày 9-11-1946 và sau đó Nhà nước ban hành hàng loạt sắc lệnh và những quy định cần thiết.
Xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền các cấp là một nhiệm vụ bức bách. Chính phủ đã xem xét các văn bản của UBND các xứ và có kế hoạch “cải cách chính quyền nhân dân ở các địa phương và thanh trừng những phần tử xấu trong UBND địa phương và cải tiến cách làm việc của những ủy ban ấy”. Chính quyền nhân dân cũng đã kiên quyết “trừng trị bọn phản quốc đã nhân những khó khăn về nội trị, ngoại giao và dựa vào thế lực bên ngoài mà ngóc đầu dậy; trừng trị bọn chia rẽ, bọn đầu cơ, tích trữ và bọn lạm quyền, nhiễu dân”. Đảng chủ trương, trong mọi tình thế phải bảo đảm sự thống nhất của chính quyền nhân dân từ trung ương đến cơ sở, xử trí kịp thời “bọn đối lập”.
Với tinh thần “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì”, Đảng ta nhận thức rằng chính quyền cách mạng trước mắt phải chăm lo đời sống nhân dân, đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi nạn đói. Do vậy, việc cứu đói thật sự cần kíp như đánh giặc ngoài mặt trận. Chính phủ quyết định phát động phong trào tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, cứu đói cho nhân dân. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân ta đã quyên góp được hàng vạn tấn gạo, hoa màu được trồng nhiều ở các địa phương, sản lượng lương thực đã tăng đáng kể, nhiều diện tích đất đai đã được khôi phục sử dụng, nhờ đó mà nạn đói đã được khắc phục nhanh chóng. Cùng với những biện pháp khẩn cấp trước mắt, chính quyền mới cũng đã bước đầu thực thi nhiều cải cách dân chủ, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của nhân dân. Công tác y tế, văn hóa, giáo dục mà nổi bật là vấn đề thanh toán nạn mù chữ rất được quan tâm. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” đã có tác dụng kích thích lòng tự hào dân tộc, tạo nên phong trào “bình dân học vụ” trong cả nước với khí thế sôi nổi, người người đi học, nhà nhà đi học, dân trí ngày càng được nâng cao.
Song song với việc khôi phục, phát triển kinh tế, để ổn định đời sống nhân dân, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm chỉnh đốn bộ máy và đội ngũ cán bộ chính quyền, ngăn chặn nguy cơ quan liêu hóa, ngăn chặn việc cán bộ chính quyền trở thành những “quan cách mạng”. Trong Thư gửi UBND các cấp, tháng 10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những căn bệnh xuất hiện trong bộ máy chính quyền mới: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túi, chia rẽ, kiêu ngạo. Những hành vi đó là trái với bản chất của chính quyền nhân dân, làm giảm uy tín, làm suy yếu chính quyền. Người vạch rõ: Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ của nhân dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân.
Trong hoàn cảnh cùng một lúc chính quyền phải đương đầu với nhiều kẻ thù (quân Pháp - Tưởng) và Nhà nước ta lúc bấy giờ chưa có sự giúp đỡ trực tiếp của các nước anh em, bầu bạn trên thế giới, đòi hỏi Đảng và Chính phủ phải thực hiện một chính sách ngoại giao đúng đắn, khôn khéo thì mới có thể củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng non trẻ. Quán triệt tư tưởng “thêm bạn bớt thù”, Đảng và chính quyền cách mạng đã thực hiện chính sách nhân nhượng có nguyên tắc, khéo léo “hòa để tiến”, đồng thời triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, phân hóa chúng. Với sách lược mềm dẻo nhưng có nguyên tắc: Khi thì hòa với Tưởng để tập trung đánh thực dân Pháp, khi thì hòa với Pháp để đuổi Tưởng, chẳng những bảo vệ được sự tồn tại của chính quyền mà còn đưa sự nghiệp cách mạng phát triển một cách vững chắc.
Trong khoảng thời gian 16 tháng (từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946), trước bao tình thế khó khăn, hiểm nghèo, trước những thử thách cực kỳ nghiêm trọng tưởng chừng không thể vượt qua, nhưng nhờ có sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền mới vẫn phát huy hiệu lực và bản chất của mình, từng bước đưa đất nước vượt qua những khó khăn, thử thách.
Từ những thành công của Đảng trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền giai đoạn 1945 - 1946, có thể rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và bảo vệ chính quyền Nhà nước ta giai đoạn hiện nay:
Một là, Nhanh chóng xác lập cơ sở pháp lý và tính hợp hiến của chính quyền nhà nước, chú trọng xây dựng và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, chế độ xã hội mới.
Sau thắng lợi cách mạng tháng 8 trên cả nước ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình thay mặt Chính Phủ Lâm thời. Chủ tịch HCM đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh Nhà nước VN dân chủ Cộng hoà. Chính Phủ Lâm thời, chủ tịch HCM đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh nhà nước VN Dân chủ Cộng hoà. Chính Phủ Lâm thời gồm 15 thành viên chính thức ra mắt quốc dân đồng bào đứng đầu là chủ tịch HCM. Trung ương Đảng ra Chỉ thị “ Kháng chiến, kiến quốc. Tiến hành tổng tuyển cử có 89% cử tri đi bầu; kết quả có 333 đại biểu trúng cử, ngày 2/3/1946, Quốc hội khoá 1 kỳ họp thứ nhất đã bầu Chính phủ chính thức gồm 12 thành viên do HCM làm chủ tịch.
Hai là, Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Đồng thời, tranh thủ thời gian chuẩn bị những điều kiện thiết yếu để sẳn sàng đối phó với cuộc chiến tranh có thể xảy ra.
Nhà nước VNDCCH ra đời là một nhà nước kiểu mới của dân do dân vì dân. Do đó việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân tộc để xây dựng bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ là một chủ trương đúng đắn của đảng; muốn tạo sự đoàn kết toàn dân, đảng phải có những chủ trương thiết thực lo cho dân trên tất cả các mặt kinh tế văn hoá đời sống tạo niềm tin cho dân để dân mới đoàn kết theo đảng.
Ba là, Triệt để lợi dụng mâu thuẩn trong hàng ngũ kẻ thù, thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc và sách lược ngoại giao thêm bạn bớt thù
Nhà nước ta mới ra đời còn phải đối phó nhiều khó khăn thách thức và các thế lực thù địch, giặc đói giặc dốt gặc ngoại xâm,… về thực lực còn yếu về cơ sở vật chất do đó đảng chủ trương phải biết triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, thực hiện sự nhân nhượng có nguyên tắc và sách lược ngoia5 giao thêm bạn bớt thù. Có như thế mới thắng được kẻ thù.
Bốn là, Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong tình hình có nhiều đảng phái đối lập và sự chống phá của các loại kẻ thù.
Với đường lối, chủ trương, biện pháp kịp thời đúng đắn, đảng ta và chủ tịch HCM đã lãnh đạo cách mạng nước ta vượt qua tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc” chủ động, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến trường kỳ của toàn dân tộc.
Ý nghĩa các bài học :
- Chú trọng việc kết hợp xây dựng, củng cố với bảo vệ chính quyền mới.
- Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của đảng.
- Xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc, lấy dân làm gốc. Phát huy cao độ sức mạnh làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Lợi dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ của kẻ thù. Tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính, nguy hiểm nhất.
- Lê nin cho rằng một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ. Từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của đảng, với sức mạnh làm chủ đất nước của nhân dân, cách mạng nước ta đã biết tự bảo vệ và tự bảo vệ thành công./.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top