bai hoc

Chương VI

Tổng kết lịch sử đấu tranh cách mạng của

Đảng, thắng lợi và bài học

Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là đội tiên phong

của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai

cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.

Lịch sử của Đảng là lịch sử của cuộc đấu tranh anh dũng, gian khổ, có nhiều tổn

thất, hy sinh nhưng cũng hết sức vẻ vang vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội.

Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ đại, có tầm vóc quốc tế mà nhân dân ta đã

giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 75 năm qua đã khẳng định vai trò, công lao

to lớn của Đảng và để lại nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng quý báu

cho Đảng và nhân dân ta.

I. Những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của cách mạng

Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng

1. Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945

Từ cuối thế kỷ thứ XIX, nước ta trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Để thực

hiện các nguyện vọng cơ bản là độc lập dân tộc và người cày có ruộng, nhân dân ta đã

bao phen vùng dậy đấu tranh chống đế quốc, phong kiến, song rốt cuộc đều bị thất bại.

Kể từ ngày có sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh vì các mục tiêu đó của nhân dân ta

mới từng bước giành được thắng lợi, trước hết là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng

Tám 1945, đưa lại độc lập tự do cho đất nước, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa.

Vừa mới ra đời, Đảng đã phát động một phong trào cách mạng rộng lớn mà đỉnh

cao là Xôviết Nghệ Tĩnh. Phong này đã khẳng định trên thực tế vai trò lãnh đạo cách

mạng của Đảng và sức mạnh của khối liên minh công nông. Quốc tế Cộng sản đánh giá

cao đóng góp của phong trào cách mạng Việt Nam đối với phong trào cộng sản và công

nhân quốc tế, công nhận Đảng ta là một phân bộ trực thuộc Quốc tế Cộng sản.

Sau cuộc đấu tranh đầy gian khổ và tổn thất để bảo vệ Đảng, duy trì tổ chức quần

chúng cách mạng, đến năm 1936, khi tình hình trong nước và thế giới có sự biến chuyển

mới, Đảng đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu độc lập dân tộc và người cày có ruộng,

chuyển hướng đấu tranh sang đòi dân sinh dân chủ, với các hình thức đấu tranh và tổ

176

chức thích hợp, chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giành chính quyền. Phong trào

đấu tranh những năm 1936-1939 đã làm cho ảnh hưởng của Đảng ăn sâu, lan rộng trong

quảng đại quần chúng. Đảng đã biết kết hợp các hình thức đấu tranh công khai hợp pháp

với các hình thức bán hợp pháp, bí mật trong cuộc đấu tranh ở một nước thuộc địa. Qua

phong trào, sự giác ngộ chính trị của quần chúng được nâng cao.

Từ năm 1939, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng ta đã có những nhận

định sáng suốt về tình hình thế giới và xu hướng phát triển của cách mạng Đông Dương,

xác định giải phóng dân tộc, đánh đuổi phátxít Pháp, Nhật, giành độc lập, tự do là yêu

cầu sống còn của dân tộc Việt Nam. Từ đó, Đảng chủ trương chuẩn bị các điều kiện để

tiến hành cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân. Nhờ có sự chuẩn

bị chu đáo trong cuộc vận động giải phóng dân tộc những năm 1939-1945 và nắm bắt

thời cơ lịch sử một cách chuẩn xác và kịp thời khi Nhật đã đầu hàng quân Đồng minh,

Đảng đã phát động, tổ chức thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.

Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 là thắng lợi có ý nghĩa lịch sử vĩ

đại đầu tiên của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với thắng lợi này,

nhân dân ta đã đập tan xiềng xích nô lệ hơn 80 năm của thực dân Pháp và hàng trăm

năm chế độ phong kiến nhà Nguyễn, đưa lại độc lập, thống nhất cho đất nước ta; đưa

nhân dân ta từ địa vị nô lệ thành người làm chủ xã hội; lập nên nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á; đưa Đảng ta từ hoạt

động bất hợp pháp thành đảng cầm quyền trong toàn quốc; khẳng định trong thực tiễn

tư tưởng cách mạng dân tộc và khởi nghĩa dân tộc, khởi nghĩa toàn dân của Hồ Chí

Minh và đường lối cứu nước giải phóng dân tộc của Đảng vạch ra là đúng đắn; nâng cao

niềm tự hào dân tộc và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho Đảng và nhân dân ta; mở

ra kỷ nguyên phát triển mới cho dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập tự do gắn liền với

chủ nghĩa xã hội.

Đặt trong bối cảnh thế giới năm 1945, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã cổ

vũ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; tăng cường lực lượng, mở rộng địa bàn

cho cách mạng thế giới; chứng minh học thuyết Mác- Lênin có thể áp dụng thành công

vào cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nếu biết vận dụng một cách đúng đắn,

sáng tạo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử phong trào giải phóng dân tộc, Đảng Cộng

sản ở một nước thuộc địa đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành được thắng lợi và nắm

chính quyền trong cả nước.

2. Thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ

Tổ quốc thời kỳ 1945-1975

Vừa giành được chính quyền về tay nhân dân chưa đầy một tháng, dân tộc Việt

Nam đã phải bước vào một cuộc chiến đấu mới chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và

các thế lực thù địch trong hơn 30 năm để giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.

Trong những năm 1945-1954, khi thực dân Pháp quay lại xâm lược nước ta, với ý

chí "Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm

nô lệ", Đảng đã phát động, lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân,

177

kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, vượt qua mọi khó

khăn, gian khổ đi tới thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên

Phủ.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược có ý nghĩa lịch sử

to lớn đối với nước ta và với thế giới. Đối với nước ta, thắng lợi này đã làm sụp đổ hoàn

toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp đối với Việt Nam; bảo vệ được độc lập, chủ

quyền dân tộc, giữ vững được chính quyền dân chủ nhân dân; giải phóng được một nửa

đất nước là miền Bắc, tạo điều kiện đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành căn

cứ địa, hậu phương của cả nước để giải phóng miền Nam trong giai đoạn sau; tăng thêm

sức mạnh vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam; nâng cao uy tín cho dân tộc và

cho Đảng trên trường quốc tế; để lại nhiều kinh nghiệm cho cuộc kháng chiến chống

Mỹ, cứu nước sau đó... Đối với quốc tế, thắng lợi này đã buộc thực dân Pháp phải chấm

dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc cơ

bản của nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia; nhân dân Việt Nam trở thành người đi

tiên phong trong việc làm tan rã chủ nghĩa thực dân cũ, cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh

của nhân dân các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc;

miền Bắc được hoàn toàn giải phóng đã góp phần tăng cường lực lượng và địa bàn cho

chủ nghĩa xã hội.

Trong những năm 1954-1975, khi đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đưa

cố vấn quân sự rồi quân viễn chinh xâm lược miền Nam, đánh phá miền Bắc, Đảng đã

phát động, lãnh đạo nhân dân hai miền Bắc, Nam tiến hành đồng thời hai chiến lược

cách mạng, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền

Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc. Với tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập, tự do",

nhân dân cả nước ta đã vừa xây dựng, bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, ra

sức chi viện tiền tuyến, vừa đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền

Nam, đánh bại các âm mưu, thủ đoạn chiến tranh của Mỹ và tay sai đi tới đại thắng mùa

Xuân 1975.

Thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là

chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử có ý nghĩa dân tộc và thời đại to lớn. Đối với dân tộc ta,

thắng lợi này kết thúc hơn 20 năm chống đế quốc Mỹ, 30 năm chiến tranh cách mạng,

hơn một thế kỷ chống xâm lược nước ngoài, đưa lại độc lập, thống nhất trọn vẹn cho đất

nước ta; giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc; hoàn thành cuộc cách

mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; tăng

thêm sức mạnh to lớn về vật chất, tinh thần cho cách mạng Việt Nam; nâng cao vị thế

quốc tế cho Đảng và dân tộc trên trường quốc tế; để lại nhiều bài học có giá trị cho công

cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;...

Đối với thế giới, thắng lợi này đã góp phần quan trọng làm đảo lộn chiến lược

toàn cầu của đế quốc Mỹ, tác động sâu sắc đến nội tình nước Mỹ; cổ vũ phong trào giải

phóng dân tộc dân chủ của nhân dân thế giới; mở rộng địa bàn và tăng thêm lực lượng

cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới.

Thắng lợi của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế

178

quốc Mỹ xâm lược đã khẳng định một chân lý lịch sử là một dân tộc đất không rộng,

người không đông nếu có Đảng Cộng sản chân chính lãnh đạo biết đề ra đường lối

đúng, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, có phương thức tiến hành chiến

tranh sáng tạo, được sự ủng hộ của nhân dân thế giới hoàn toàn có thể chiến thắng bất

cứ kẻ thù xâm lược nào.

3. Thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới

Sau thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, cả nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên

chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh có những thuận lợi to lớn, song cũng gặp nhiều khó

khăn nghiêm trọng.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế

chậm phát triển, cơ sở vật chất- kỹ thuật nhỏ bé, manh mún, hậu quả chiến tranh nặng

nề, lại bị Mỹ phong tỏa cấm vận, tình hình quốc tế có những diễn biến bất lợi, phải đương

đầu với cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới phía nam, phía bắc, đòi hỏi công cuộc

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải trải qua nhiều bước đi cụ thể thích hợp. Trong

bối cảnh đó, với bản lĩnh chính trị vững vàng được tôi luyện qua thử thách đấu tranh vì

độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kiên trì tìm tòi đề ra đường lối đổi mới đưa

đất nước vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội, giành được những thành tựu to lớn,

toàn diện.

Thắng lợi bước đầu của hai mươi năm đổi mới có ý nghĩa hết sức quan trọng. Báo

cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng đánh giá khái quát 20 năm đổi mới đã ghi nhận:

Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công

cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Mặc

dù còn không ít khó khăn, hạn chế, đất nước ta đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện.

Kinh tế ra khỏi khủng hoảng và có sự tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy

mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết

toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và an

ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao.

Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất

nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi

mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là

phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ

nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới,

về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình

thành trên những nét cơ bản.

Tóm lại, với những thắng lợi đã giành được trong thế kỷ XX, Việt Nam đã ta từ

một nước thuộc địa trở thành một quốc gia độc lập tự do, phát triển theo con đường xã

hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu

vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất

nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào

179

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Những thắng lợi đó là minh chứng

sinh động về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, sức mạnh to lớn của

nhân dân ta.

II. Những bài học lãnh đạo cách mạng của Đảng

Tổng kết kinh nghiệm là một chức năng, nhiệm vụ quan trọng của khoa học lịch

sử Đảng, là một mặt hoạt động lý luận rất được Đảng quan tâm. Trên thực tế, trong và

sau mỗi thời kỳ vận động cách mạng, nhất là vào các dịp đại hội của Đảng từ 1960 đến

nay, Đảng đều chú trọng tổng kết thực tiễn và rút ra nhiều bài học lịch sử có tác dụng

nâng cao năng lực lãnh đạo của mình. Để làm rõ các bài học lớn, xuyên suốt Lịch sử

Đảng, cần có sự lý giải cần thiết cơ sở khoa học - lý luận của mỗi bài học và lấy thực

tiễn lịch sử của Đảng, của cách mạng để minh chứng cho bài học đó.

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở

nước ta được Đại hội VII (1991) thông qua, Đảng đã nêu lên năm bài học lớn mà đến

nay vẫn có giá trị khoa học và thực tiễn sâu sắc.

1. Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hội

Về lý luận, V.I Lênin cho rằng: khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế

quốc, xâm lược các nước khác, biến thành thuộc địa của nó, thì phong trào đấu tranh

giải phóng dân tộc của nhân dân thuộc địa trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản.

Do đó, muốn đi tới thắng lợi triệt để, phong trào giải phóng dân tộc phải đi theo con

đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng

sản.

Trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tiếp

cận được chân lý đó và quyết định giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô

sản. Hồ Chí Minh cho rằng "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường

nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản"1, "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa

cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế

giới khỏi ách nô lệ"2.

Đặt cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo cách mạng vô sản là một sự lựa

chọn đúng đắn, sáng suốt của Hồ Chí Minh. Điều quan trọng hơn, Người còn cho rằng

cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa không thụ động lệ thuộc vào cách mạng vô

sản ở chính quốc mà có tính độc lập, có thể thắng lợi trước cách mạng chính quốc.

Nhiệm vụ giải phóng dân tộc phải được ưu tiên thực hiện trước, là bước đi tất yếu để

tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tuy là phương hướng tiến lên

trong tương lai, nhưng lại có ảnh hưởng quyết định đến tính chất triệt để và sức mạnh

của cách mạng giải phóng dân tộc. Tư tưởng này là cơ sở định hướng đúng đắn cho hoạt

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr. 314.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr. 128.

180

động của Đảng và nhân dân ta ở mỗi thời kỳ cũng như toàn bộ cuộc đấu tranh, là điều

kiện để tập hợp lực lượng, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cách mạng. Bởi vậy, nắm

vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cội nguồn thắng lợi

của cách mạng Việt Nam.

Về thực tiễn, tư tưởng chiến lược nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên khi

Đảng thành lập và được khẳng định tiếp tục trong các cương lĩnh tiếp theo, đã đưa cách

mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Trước năm 1930, các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta, do

chưa có định hướng xã hội chủ nghĩa, mà đi theo khuynh hướng phong kiến, tư sản, tiểu

tư sản, nên dù rất anh dũng, cuối cùng đều đã bị thất bại.

Trong những năm 1930-1945, nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc

và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, tổn thất,

từng bước giành được những thắng lợi to lớn, đỉnh cao là cuộc Cách mạng Tháng Tám

1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Từ năm 1945 đến năm 1954, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hội được Đảng thể hiện qua đường lối kết hợp kháng chiến với kiến quốc, giải quyết

đúng đắn mối quan hệ giữa ba nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc, chống phong kiến

và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, tạo nên sức

mạnh to lớn cho dân tộc ta, đưa kháng chiến đến thắng lợi. Từ năm 1954 đến năm 1975,

bài học đó được thể hiện trong đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai

chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung là

hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Nhờ

có đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo này Đảng đã huy động được tối đa sức mạnh của

hai miền, sức mạnh cả nước, sức mạnh của thời đại, đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm

lược.

Từ năm 1975 đến nay, khi cả nước đã giành được độc lập, thống nhất, cả nước đi

lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã đề ra đường lối kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược

xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc thống nhất. Đường lối đó đã củng cố, giữ

vững độc lập tạo điều kiện để xây chủ nghĩa xã hội, và xây dựng chủ nghĩa xã hội lại

tạo ra cơ sở vật chất, tinh thần để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Khi tình hình quốc tế có

những chuyển biến mới, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng và sụp đổ, bài

học giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được Đảng thể hiện trong

đường lối đổi mới, chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo

cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực

hiện đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,

phát huy nội lực, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, mở rộng giao lưu văn hóa,

giữ vững bản sắc dân tộc... Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những

thành tựu mới trong công cuộc bảo vệ đất nước Việt Nam thống nhất, vượt qua khủng

hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa định

181

hướng xã hội chủ nghĩa.

2. Quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sự nghiệp của nhân

dân, do nhân dân và vì nhân dân

Về lý luận, bài học này xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, coi quần chúng

nhân dân là người làm nên lịch sử.

Chủ nghĩa Mác- Lênin đánh giá cao vai trò của cá nhân, nhất là vĩ nhân trong lịch

sử, song khẳng định cách mạng luôn luôn là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân

dân là người sáng tạo ra lịch sử, rằng giai cấp vô sản muốn thực hiện được vai trò lãnh

đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực

lượng to lớn của cách mạng. V.I Lênin cho rằng cách mạng là ngày hội của quần chúng

lao động, sự liên minh giai cấp, trước hết là liên minh công nông, là hết sức cần thiết

bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản, nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của

nhân dân lao động, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được.

Quán triệt quan điểm đó của chủ nghĩa Mác- Lênin và kế thừa truyền thống của

dân tộc coi "Dân là gốc của nước", Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu sắc sức mạnh của

nhân dân. Người cho rằng cách mạng chỉ có thể giành được thắng lợi nếu được quần

chúng nhân dân tham gia, "Cách mạng là công việc của dân chúng, chứ không phải của

một, hai người", "Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong".

Hồ Chí Minh đề cao sức mạnh của nhân dân, của dân tộc, đặc biệt là sức mạnh

của chủ nghĩa yêu nước. Người khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước.

Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng,

thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt

qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"1.

Để tạo ra sức mạnh cho cách mạng, sức mạnh toàn dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn

mạnh phải tin dân, tôn trọng và phát huy quyền dân chủ của dân, đưa lại quyền lợi cho

dân, phải dùng sức dân, tài dân, lực dân mà làm lợi cho dân. Người viết: muốn được

giải phóng, các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng

đấu tranh cách mạng, bằng cách mạng vô sản. Khi "cách mạng đã thành công thì quyền

thuộc về dân chúng số nhiều, thế thì dân chúng mới được hưởng hạnh phúc". "Khi đất

nước độc lập và trở thành nước dân chủ thì lợi ích thuộc về nhân dân. Quyền hạn đều

của dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". "Việc gì có lợi cho dân phải hết sức

làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh"...

Về thực tiễn, bài học này đã được chứng minh qua những thành bại của cách mạng

Việt Nam hơn một thế kỷ qua.

Trước ngày có Đảng lãnh đạo, dân tộc ta đã liêp tiếp vùng lên đấu tranh cứu nước,

cứu nhà, song do hạn chế về nhận thức và bị lợi ích giai cấp chi phối, những tổ chức và

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr. 171.

182

cá nhân lãnh đạo phong trào đã không thấy hết sức mạnh của quần chúng nhân dân,

không quan tâm đến lợi ích cơ bản của nhân dân, nhất là nhân dân lao động. Do thiếu

niềm tin vào khả năng cách mạng và sức mạnh của nhân dân, họ đã hướng về chủ

trương cầu viện, đi tìm một lực lượng bên ngoài dân tộc. Kết quả của những nhận thức

đó là lực lượng dân chúng bên trong, trước hết là công nông, không được tập hợp, chỉ

thu hút được tầng lớp trí thức tiểu tư sản thành thị hoặc một bộ phận thuộc tầng lớp trên,

còn lực lượng bên ngoài thì hạn hẹp, mong manh. Do đó các phong trào dân tộc, dân

chủ ở nước ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đều đã bị thất bại.

Từ năm 1930, với tư cách là đội tiên phong của giai cấp và dân tộc, đại biểu trung

thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc, Đảng đã

quán triệt sâu sắc và ra sức thực hiện trên thực tế tư tưởng coi cách mạng là sự nghiệp

của dân, do dân, vì dân. Đảng đã nêu cao khẩu hiệu độc lập dân tộc và người cày có

ruộng, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và dân chủ, kiên trì xây

dựng lực lượng cách mạng, do đó đã phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân, trước hết

là cho mục tiêu giải phóng dân tộc. Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám

1945 là biểu hiện hùng hồn nhất, minh chứng điển hình nhất của bài học lịch sử coi

cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân.

Trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng và kháng chiến chống thực

dân Pháp xâm lược 1945-1954, với tinh thần "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không

chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", Đảng đã dựa chắc vào nhân dân để

xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, đã phát động cuộc chiến tranh nhân dân,

chống thực dân xâm lược, do đó đã làm cho tiềm lực kháng chiến ngày càng lớn mạnh.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, với tinh thần "Không có gì

quý hơn độc lập tự do", "chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc",

... Đảng và Hồ Chí Minh đã động viên sức mạnh toàn dân vào cuộc kháng chiến thần

thánh, lôi cuốn mọi giai tầng xã hội từ Bắc chí Nam quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ,

đưa sức mạnh dân tộc lên đỉnh cao mới, chiến thắng tên đế quốc đầu sỏ, hùng mạnh

nhất thế giới.

Trong những năm 1975-1985, Đảng ta mắc phải khuyết điểm chủ quan, duy ý chí,

duy trì quá lâu cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp, cho nên sức mạnh cách

mạng của nhân dân bị suy giảm. Từ năm 1986 đến nay, với đường lối đổi, mới sức

mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, của từng đơn vị, địa phương, cá nhân được tôn trọng

và phát huy, do đó nước ta đã vượt qua khó khăn, bước sang thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nói trên, Đảng ta đã nêu lên bài học

lớn: "Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Toàn bộ hoạt

động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Sức

mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời

nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước".

183

3. Không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân

Cơ sở lý luận của bài học này là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin coi cách

mạng là sự nghiệp của quần chúng, đặc biệt là quan điểm của Hồ Chí Minh về đại đoàn

kết dân tộc. Trong toàn bộ sự nghiệp của mình, Hồ Chí Minh quan tâm đến mọi vấn đề,

song vấn đề đoàn kết được Người đề cập nhiều nhất. Người luôn nhấn mạnh rằng:

"Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công".

Kinh nghiệm này còn dựa trên truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết

cộng đồng của dân tộc Việt Nam.

Khối đại đoàn kết dân tộc chỉ được hình thành trên cơ sở lợi ích chung toàn dân

tộc và phù hợp với lợi ích riêng của mỗi giai cấp và tầng lớp trong xã hội trên từng

chặng đường phát triển. Trước đây, trong chế độ phong kiến, sở dĩ các vương triều đã

tập hợp được dân tộc cùng đứng lên chống ngoại xâm, bảo vệ được độc lập dân tộc là

lúc đó lợi ích của họ phù hợp với lợi ích của dân tộc, song sự đoàn kết ấy không thể lâu

bền, vì khi đất nước đã được độc lập, lợi ích của các triều đại phong kiến lại đối lập với

lợi ích của nhân dân. Chỉ có lợi ích của giai cấp công nhân luôn luôn gắn liền với lợi ích

toàn dân tộc, nên sự đoàn kết giữa giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản với các giai

tầng xã hội khác là bền chặt, lâu dài, cả trong cách mạng giải phóng dân tộc và trong

cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức tiêu biểu tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp,

tầng lớp nhân dân, được hoạt động theo các nguyên tắc sau: đoàn kết phải xuất phát từ

mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo

nàn lạc hậu; Đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công - nông -

trí; hoạt động của Mặt trận phải theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ; khối đoàn kết

trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau

cùng tiến bộ; Đảng là một thành viên của Mặt trận, đồng thời là lực lượng lãnh đạo Mặt

trận...

Để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, Đảng phải luôn đứng vững trên lập trường của

giai cấp công nhân, giai cấp tiêu biểu cho lợi ích của những người lao động và lợi ích

của toàn dân tộc, không bao giờ được tách rời lợi ích chung của dân tộc với lợi ích

riêng của giai cấp mình. Đảng phải kết hợp hài hòa giữa lợi ích chung và lợi ích bộ phận

của các giai cấp và tầng lớp xã hội, phải xác định đúng đắn mục tiêu chiến lược, mục

tiêu trước mắt và chương trình hành động phù hợp với quan hệ giai cấp biến đổi ở mỗi

thời kỳ. Việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất dân tộc thông qua tổ chức các đoàn thể

chính trị- xã hội và mặt trận dân tộc thống nhất với hình thức và tên gọi thích hợp với

từng thời kỳ cụ thể là vấn đề có ý nghĩa chiến lược.

Về thực tiễn, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc đã được lịch sử cận hiện đại Việt

Nam, lịch sử Đảng kiểm nghiệm trên thực tế.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trước kẻ thù mới của dân tộc là tư bản, thực dân

phương Tây, các giai cấp địa chủ, nông dân, tư sản, tiểu tư sản ở nước ta đều trở nên bất

cập trước thời cuộc, không thể nêu cao được ngọn cờ dân tộc, dân chủ, không xây dựng

184

được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vì vậy mọi cuộc đấu tranh của nhân dân ta đều bị

đàn áp và thất bại.

Từ năm 1930, khi có sự lãnh đạo của Đảng, khối đại đoàn kết toàn dân mới được

xây dựng và ngày càng củng cố, sức mạnh dân tộc được tăng cường và tập hợp trong

Hội phản đế đồng minh, Mặt trận dân chủ Đông Dương, Mặt trận Việt Minh, đưa tới

thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng

Tám là kết quả của chiến lược đại đoàn kết dân tộc, khởi nghĩa toàn dân tộc, trực tiếp là

của chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu của Đảng và Hồ Chí

Minh.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược 1945-

1975, Đảng đã huy động được mọi giai cấp, dân tộc, tôn giáo dưới ngọn cờ cách mạng,

tập hợp trong Mặt trận Việt Minh, Liên Việt, trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt

trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, tạo nên khối đại đoàn kết dân tộc to lớn,

vững chắc, cô lập cao độ kẻ thù, đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến toàn thắng.

Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là thắng lợi

của chiến lược tập hợp, động viên toàn dân đánh giặc, thắng lợi của khối đại đoàn kết

toàn dân tộc do Đảng lãnh đạo.

Trong những năm 1975-1985, do chưa có nhận thức đúng đắn về sự tồn tại của

nền kinh tế nhiều thành phần, chưa thấy được mặt tích cực của cơ chế thị trường, nên ta

đã có những chính sách không phù hợp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, làm cho khối đại

đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc có phần bị giảm sút, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc gặp khó khăn.

Từ năm 1986 đến nay, với sự kiên định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt

Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với

giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho

nhân dân, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng đã củng cố và tăng

cường được một bước quan trọng khối đại đoàn kết toàn dân. Việc Đảng và Nhà nước

ban hành nhiều chính sách mới như kinh tế hộ gia đình, giao quyền sử dụng đất lâu dài

cho nông dân, chính sách khoa học và công nghệ, nhiều đạo luật quan trọng về dân tộc,

tôn giáo, về xóa đói giảm nghèo,... đã đáp ứng được lợi ích của các giai cấp, các tầng

lớp trong xã hội, kể cả với đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài, làm cho khối đoàn

kết toàn dân tộc được tăng cường. Nhờ vậy, nước ta không những vượt qua được những

khó khăn bên trong, đối phó được những tác động bất lợi của tình hình quốc tế, mà còn

đạt được nhiều thành tựu mới, to lớn trong công cuộc đổi mới, tiềm lực của đất nước

được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao.

4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong

nước với sức mạnh quốc tế

Cơ sở lý luận của bài học này là mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và

vấn đề quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản

nói riêng, cũng như trong vấn đề mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố bên trong và

nhân tố bên ngoài, chủ quan và khách quan trong sự phát triển của sự vật, hiện tượng

185

nói chung.

C.Mác đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản khi chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn tự do

cạnh tranh. Ông cho rằng, đến một giai đoạn nào đó, phương thức sản xuất tư bản chủ

nghĩa sẽ chín muồi trên phạm vi toàn thế giới và lúc đó cách mạng vô sản sẽ đồng loạt

xảy ra, chủ nghĩa cộng sản sẽ được thiết lập trên toàn thế giới như một quá trình lịch sử,

tự nhiên. Kế tục tư tưởng đó, nhưng nghiên cứu chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn đế quốc

chủ nghĩa, V.I. Lênin nhấn mạnh tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa cách mạng vô

sản thế giới có hai bộ phận là cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng

dân tộc ở thuộc địa. Với quan niệm chủ nghĩa đế quốc là con đỉa hai vòi, một vòi bám

vào giai cấp vô sản chính quốc, một vòi bám vào các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh

cho rằng muốn giết con vật đó người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi, nếu cắt một vòi,

con vật vẫn sống và cái vòi kia lại mọc ra. Đó là những luận điểm khoa học của V.I.

Lênin, Hồ Chí Minh về cách mạng vô sản trong điều kiện mới, bao gồm hai bộ phận là

cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và mối

quan hệ biện chứng giữa hai cuộc cách mạng đó.

Trước khi đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có niềm tin sâu

sắc vào sức mạnh dân tộc là chủ nghĩa yêu nước, ý thức cố kết cộng đồng, anh dũng, sáng

tạo... Tuy vậy, Người vẫn thấy chỉ riêng sức mạnh đó thì chưa đủ để đánh thắng kẻ thù

mới của dân tộc. Đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh khác, thực

chất là Hồ Chí Minh đi tìm sức mạnh của thời đại để tranh thủ, để kết hợp với sức mạnh

dân tộc tạo nên sức mạnh tổng hợp đủ khả năng đánh đuổi đế quốc, lật đổ phong kiến,

cứu nước, cứu dân. Sức mạnh thời đại mà cuối cùng Hồ Chí Minh đã tìm được là tình

đoàn kết, sự giúp đỡ của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, nhất là

nước Nga xã hội chủ nghĩa, vô sản Pháp...

Muốn giải phóng dân tộc mình cần thiết phải đoàn kết với các dân tộc khác cùng

chung cảnh ngộ. Muốn đánh thắng đế quốc xâm lược phải thực hiện khối liên minh

chiến đấu giữa lao động ở các thuộc địa với nhau và giữa lao động ở thuộc địa với vô

sản ở chính quốc; nếu tách riêng mỗi lực lượng thì không không thể nào thắng lợi được.

Theo Hồ Chí Minh, do điều kiện lịch sử đã thay đổi, kẻ thù dân tộc không phải là

thế lực phong kiến phương Đông mà là chủ nghĩa tư bản phương Tây, nên cuộc đấu

tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta muốn giành thắng lợi triệt để phải đi theo con

đường cách mạng vô sản. Vì vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân ta vì độc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội không tách rời cuộc đấu tranh chung của nhân dân các nước vì hòa

bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng

tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế trở thành một nhân tố thắng lợi của sự nghiệp dựng

nước và giữ nước của nhân dân ta.

Hồ Chí Minh đã xây dựng nên một hệ thống quan điểm về vấn đề kết hợp sức

mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đó là phải đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt

Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới; Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu

nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ

sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời

không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình; Có quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng

186

"làm bạn với mọi nước dân chủ"...

Dựa vào những luận điểm đó, Đảng ta xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận

của cách mạng thế giới để phát huy sức mạnh dân tộc, tranh thủ sức mạnh thời đại,

giành độc lập thống nhất cho đất nước. Khi cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,

trong bối cảnh toàn cầu hóa, quốc tế hóa, Đảng cho rằng sức mạnh dân tộc là ý chí vươn

lên thoát khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, hướng tới xã hội dân giàu, nước

mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, là chính trị xã hội ổn định, nguồn nhân lực dồi

dào, sáng tạo, là lợi thế về vị trí địa lý của đất nước, sức mạnh của thời đại, là khoa học

công nghệ, vốn, thị trường. Do đó, Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở

cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối

ngoại, nhằm giải phóng mọi tiềm năng của đất nước, thu hút các nguồn lực bên ngoài,

tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức để tiến lên.

Về thực tiễn, trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu, Phan Châu

Trinh, Nguyễn Thái Học... do những hạn chế chủ quan, khách quan, đã không tìm được

sức mạnh thời đại, nên dù đã hết sức cố gắng, sự kết hợp sức mạnh trong nước với sức

mạnh quốc tế không thể thành công.

Từ năm 1930, khi Đảng ra đời, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách

mạng vô sản thế giới, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại mới từng bước được kết

hợp một cách đúng đắn. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là do Đảng đã

dày công xây dựng lực lượng cách mạng trong nước, đồng thời tranh thủ được sức

mạnh thời đại, trực tiếp là việc các nước Đồng Minh đánh thắng phátxít Nhật, làm cho

quân Nhật ở Đông Dương tê liệt, bọn tay sai rệu rã để ta kết hợp sức mạnh bên trong

với sức mạnh bên ngoài giành chính quyền nhanh gọn, ít đổ máu. Cách mạng Tháng

Tám thành công là sự thể hiện sinh động bài học kết hợp sức mạnh to lớn của dân tộc

Việt Nam với sức mạnh vĩ đại của thời đại.

Trong thời kỳ 1945-1954, với chủ trương dựa vào sức mình là chính, đồng thời ra

sức tranh thủ sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân

thế giới, kể cả Đảng Cộng sản và nhân dân lao động Pháp, Đảng đã tạo nên lực lượng to

lớn cho kháng cuộc chiến, từng bước đi tới thắng lợi, nhất là ở chiến dịch lịch sử Điện

Biên Phủ. Trong thời kỳ 1954-1975, kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại được Đảng nâng lên tầm cao mới bởi đường lối tiến hành đồng thời và

kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai miền, nhằm mục tiêu chung là giải

phóng miền Nam, hòa bình thống nhất đất nước. Đường lối đó đã phát huy cao độ sức

mạnh dân tộc, tranh thủ tối đa sức mạnh thời đại, bao gồm sức mạnh của hệ thống xã

hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình dân chủ, sức

mạnh của cả Liên Xô và Trung Quốc, của khối đoàn kết ba nước Đông Dương, tạo nên

sức mạnh tổng hợp to lớn, đánh bại đế quốc Mỹ, thống nhất Tổ quốc.

Từ 1975 đến nay, nhất là từ năm 1986, khi Đảng đề ra đường lối đổi mới, tôn

trọng và hành động theo quy luật khách quan, từ bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu,

bao cấp, đã phát huy được tiềm năng của đất nước. Kết hợp với đổi mới trong nước,

Đảng, Nhà nước ta cũng có sự đổi mới quan trọng về chính sách đối ngoại, thực hiện

187

hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, có quan hệ với hơn 170 nước và vùng lãnh thổ

trên thế giới, do đó đã tranh thủ được nguồn lực to lớn từ bên ngoài, nhất là vốn, thị

trường, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, nên đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh

tế- xã hội, chuyển mạnh sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm

thắng lợi của cách mạng Việt Nam

- Về khoa học, cơ sở lý luận của bài học này là quan điểm của chủ nghĩa Mác-

Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về vai trò của Đảng Cộng sản, về mối

quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản, là tư tưởng Hồ

Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng

Việt Nam.

Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng trong mỗi thời đại, mỗi dân tộc, bao giờ cũng có

một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, mọi vấn đề của thời đại, của dân tộc, thành hay bại,

đều tùy thuộc vào tư tưởng, đường lối của giai cấp trung tâm, giai cấp lãnh đạo, thông

qua đội tiên phong của nó. Rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh giữa giai

cấp vô sản và giai cấp tư sản đến một giai đoạn nhất định sẽ xuất hiện chính đảng của

các giai cấp, đó là đảng cộng sản và đảng tư sản. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính

trị của giai cấp công nhân, có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công

nhân và những người lao động khỏi ách thống trị tư bản. Lý luận về xây dựng chính

đảng của giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm

nhiều luận điểm, trong đó quan trọng nhất là luận điểm về vai trò lãnh đạo của Đảng

Cộng sản.

Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với xã hội là vấn đề khách quan xuất phát

từ địa vị lịch sử của giai cấp công nhân, tồn tại suốt thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ

nhân dân, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong chủ nghĩa xã hội cho đến khi

xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng có nội dung cơ bản

trước tiên là nhận thức quy luật vận động khách quan của cách mạng, diễn đạt quy luật

đó thành mục tiêu, phương hướng giải pháp đạt mục tiêu, thể hiện trong cương lĩnh,

đường lối, chủ trương của Đảng. Sau đó, Đảng tiến hành tuyên truyền, phổ biến mục

tiêu, phương hướng, con đường đi tới mục tiêu cho dân biết, để dân bàn, dân làm và qua

thực tế dân kiểm tra sự đúng đắn của đường lối, chủ trương giúp Đảng hoàn thiện, sửa

đổi cho đúng hơn, làm cho hành động của quần chúng phù hợp hơn với quy luật, đưa

cách mạng đi tới thắng lợi. Vì lẽ đó, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản luôn luôn

là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng.

ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,

đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc, là lực lượng có vai

trò đề ra đường lối, chủ trương cho cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng

xã hội chủ nghĩa và tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc cách mạng đó. Đường lối, chủ

trương của Đảng đúng đắn, hợp quy luật, năng lực tổ chức xây dựng lực lượng, vận

động quần chúng của Đảng cao, hiệu quả sẽ làm cho phong trào cách mạng của quần

chúng phát triển, mau chóng đi tới thắng lợi, ngược lại, sẽ làm cho phong trào cách

mạng gặp khó khăn, bị tổn thất, chậm đạt tới mục tiêu.

188

Đảng ta có sứ mệnh đó và có thể đảm đương được sự mệnh đó bởi Đảng có một

số đặc tính riêng biệt mà các chính đảng khác không thể có:

Thứ nhất: Khi đề ra đường lối, bao giờ các chính đảng cũng xuất phát từ lợi ích

của giai cấp mình. Các giai cấp thống trị trước đây, lợi ích của họ chỉ trùng khớp với lợi

ích của nhân dân, của dân tộc khi đất nước bị ngoại xâm, nên chỉ lúc đó họ mới được

nhân dân ủng hộ. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là

đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, nên khi đề ra đường lối phục vụ

giai cấp mình cũng đồng thời Đảng cũng phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc. Bởi vậy,

đường lối, chủ trương của Đảng luôn luôn phù hợp với lợi ích của nhân dân, của dân

tộc, nên có tính đúng đắn cao, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, thực hiện. Đây là đặc

điểm riêng có của Đảng ta, tạo nên nhân tố vừa chủ quan, vừa khách quan bảo đảm cho

vai trò lãnh đạo của Đảng được vững chắc, lâu dài.

Hồ Chí Minh cho rằng, ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Đảng

không có lợi ích nào khác và bản thân Người, với tư cách là người thành lập, lãnh tụ tối

cao của Đảng cũng xác định: "Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước

ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo

mặc, ai cũng được học hành".

Thứ hai: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam, do

đó số lượng đảng viên không thể nhiều, tổ chức Đảng phải tinh gọn, điều đó khiến cho

Đảng chỉ là một bộ phận nhỏ của giai cấp, của dân, tự mình, Đảng không thể đưa mục

tiêu cách mạng thành hiện thực mà phải thông qua phong trào cách mạng của quần

chúng nhân dân. V.I. Lênin nói: "Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ không phải là việc

riêng của Đảng Cộng sản - Đảng chỉ là một giọt nước trong đại dương - mà là việc của

tất cả quần chúng lao động"1. Đó là lý do Đảng phải luôn luôn quán triệt trong mọi hoạt

động của mình quan điểm sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,

phải "lấy dân làm gốc". Việc phải "lấy dân làm gốc" quy định Đảng phải thường xuyên thắt

chặt mối liên hệ mật thiết với nhân dân, với dân tộc, làm cho Đảng được nhân dân che chở,

giúp đỡ, tạo điều kiện để Đảng nắm bắt đúng, kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân,

đề ra được đường lối, chủ trương đúng với dân, để đưa đường lối, chủ trương của Đảng

vào cuộc sống. Vì vậy, tuy số lượng đảng viên không nhiều, song Đảng có chỗ dựa

vững chắc, địa bàn rộng lớn, lực lượng hùng hậu, sức mạnh to lớn.

Thứ ba: Do Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với

phong trào công nhân và phong trào yêu nước do Hồ Chí Minh sáng lập, xây dựng, rèn

luyện, nên Đảng có nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh. Đó là hệ thống lý luận khoa học, tinh hoa trí tuệ của nhân loại và của dân tộc Việt

Nam giúp Đảng có khả năng đề ra được đường lối, chủ trương cách mạng đúng đắn,

phản ánh đúng quy luật phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng

như của cách mạng xã hội chủ nghĩa, vừa có tính nguyên tắc, không chệch hướng, vừa

linh hoạt phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước...

- Về thực tiễn, bài học này cũng đã được lịch sử của Đảng và cách mạng Việt Nam

1. V.I Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.45, tr. 110-111.

189

chứng minh trên thực tế.

Trước năm 1930, khi cuộc đấu tranh của dân tộc ta do các tổ chức, cá nhân đại

biểu cho giai cấp phong kiến địa chủ, nông dân, tư sản, tiểu tư sản lãnh đạo, dù đã diễn

ra liên tục, anh dũng, song kết cục đều bị thất bại. Từ 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng,

phong trào dân tộc, dân chủ của nhân dân ta mới từng bước đi tới thắng lợi.

Trong những năm 1930-1945, với đường lối đúng đắn được đề ra trong Cương

lĩnh đầu tiên của Đảng, lực lượng cách mạng nước ta từng bước được xây dựng với

nòng cốt là khối liên minh công nông, quần chúng cách mạng được rèn luyện qua nhiều

cuộc tổng diễn tập, mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng, lực lượng chính trị, vũ

trang, căn cứ địa hình thành, do đó khi có thời cơ, Đảng đã phát động, tổ chức cuộc khởi

nghĩa giành chính quyền thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhưng các thế lực đế quốc thực dân

và tay sai câu kết với nhau, tái xâm lược Việt Nam lần nữa. Trước tình hình đó, Đảng

xác định độc lập dân tộc vẫn là mục tiêu trực tiếp, chủ nghĩa xã hội là phương hướng

tiến lên, kịp thời đưa ra bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc, kết hợp dựng nước với giữ

nước, thực hiện đoàn kết dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh chống giặc đói,

giặc dốt, giặc ngoại xâm, bảo vệ được chính quyền cách mạng trong hoàn cảnh "ngàn

cân treo sợi tóc".

Từ cuối năm 1946, khi thực dân Pháp dùng vũ lực để đặt lại ách thống trị của

chúng lên toàn cõi nước ta, Đảng đã kịp thời phát động nhân dân toàn quốc nhất tề đứng

lên kháng chiến, đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn là thực hiện chiến tranh nhân

dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Nhờ đó, Đảng

đã từng bước lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến tiến lên, đi tới thắng lợi vẻ vang sau

cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954.

Trong những năm 1954-1975, trước kẻ thù hùng mạnh, có âm mưu bá chủ thế giới

và trước bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa có những bất đồng, Đảng đã suy nghĩ tìm

tòi và cuối cùng tại Đại hội lần thứ III (1960) đã đề ra được đường lối chiến lược chung

sáng suốt là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác

nhau ở hai miền, nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cả nước là giải phóng miền

Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc, nên đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp đưa cuộc

kháng chiến vĩ đại của dân tộc đi tới thắng lợi vẻ vang sau đại thắng mùa Xuân 1975.

Trong những năm 1975-1985, do đường lối của Đảng mang tính chủ quan, nóng

vội nên kinh tế- xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng. Từ năm 1986, với đường lối đổi

mới được đề ra tại Đại hội lần thứ VI, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước có những

bước chuyển rõ rệt, đạt được những thành tựu mới, đưa nước ta vượt qua khó khăn,

chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế và lực được tăng

cường, vị thế quốc tế được nâng cao.

Hiện nay, để bảo đảm cho sự lãnh đạo Đảng được đúng đắn, tiếp tục là nhân tố

hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng chủ trương phải hết sức

chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then

chốt, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức... Đại hội lần thứ

190

X của Đảng nhấn mạnh: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công

nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại

biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc"1;

phải "Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân

và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; Xây dựng

Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính

trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức

lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân"2, coi đó là "đòi hỏi có ý nghĩa sống còn

đối với Đảng và nhân dân ta".

Những bài học lịch sử quan trọng nói trên có quan hệ mật thiết với nhau. Với cơ

sở khoa học đúng đắn, đã được lịch sử cách mạng Việt Nam, lịch sử của Đảng kiểm

nghiệm, những bài học đó có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn hết sức sâu sắc đối

với Đảng và nhân dân ta, nhất là trong thời điểm hiện nay.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #fao11