Bài 7 Hình thái kinh tế xã hội
Câu 1: Quy luật xã hội và đặc điểm
1. Khái niệm.
Quy luật của tự nhiên được hình thành xuyên qua vô số những tác động tự phát, “mù quáng” của các yếu tố tự nhiên. Quy luật xã hội là quy luật đặc thù của xã hội, nó chỉ nảy sinh, tồn tại thông qua hoạt động của con người. Do vậy, không có hoạt động của con người thì quy luật xã hội không thể xuất hiện và tồn tại.
*Cả quy luật tự nhiên, cả quy luật xã hội đều có điểm chung:
- Thứ nhất, cả hai loại quy luật này đều mang tính khách quan đó là tính chất “chung”. Tính khách quan của quy luật thể hiện ở chỗ, chúng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Không phụ thuộc vào việc con người có nắm bắt được chúng hay không.
- Thứ hai, cả quy luật tự nhiên, cả quy luật xã hội đều có tính tất yếu và tính phổ biến, mặc dù tính tất yếu và phổ biến của quy luật xã hội có phụ thuộc vào phạm vi và cấp độ của các quan hệ xã hội.
* Hai loại quy luật này có sự khác nhau:
Quy luật tự nhiên không cần sự tham gia của con người, quy luật xã hội phải thông qua hoạt động của con người có ý thức - cái khách quan được biểu hiện thông qua cái chủ quan. Đó là yếu tố “không chung”. Chính điều này làm cho quy luật xã hội có đặc thù - đó là tính xu hướng.
2. Đặc điểm của quy luật xã hội.
Quy luật xã hội có những đặc điểm sau:
- Thể hiện thông qua hoạt động (gắn với nhu cầu và lợi ích) của con người. Lợi ích trở thành một yếu tố quan trọng trong cơ chế hoạt động của quy luật xã hội.
- Mang tính xu hướng và rất phức tạp.
- Để nhận thức quy luật xã hội phải có phương pháp khái quát hoá, trừu tượng hoá cao. Bởi lẽ, quy luật xã hội phải thông qua thời gian rất lâu mới thể hiện ra. Do đó, không thể kiểm tra bằng thực nghiệm khoa học ngay lập tức như đối với các quy luật tự nhiên.
Triết học Mác thừa nhận sự thống nhất và khác biệt của quy luật xã hội và quy luật tự nhiên, từ đó đi sâu nghiên cứu những quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là lý luận triết học về xã hội của chủ nghĩa Mác.
Câu 2: Vai trò của sx vật chất và quy luật quan hệ sv phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
1. Sản xuất vật chất cơ sở tồn tại và phát triển xã hội.
* Khái niệm sản xuất vật chất
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động (tác động trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên, tạo ra của cải xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển, nhu cầu phong phú và vô tận của con người.
* Vai trò của sản xuất vật chất – cơ sở tồn tại và phát triển xã hội.
+ Sản xuất vật chất là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn, phát triển của con người và xã hội (con người, xã hội loài người muốn tồn tại được phải có các nhu cầu ăn, ở, đi lại… -> muốn thỏa mãn nhu cầu đó con người phải sản xuất ra nó).
+ Sản xuất vật chất là cơ sở để hình thành các quan hệ xã hội (giai cấp, chính trị, pháp luật, tổ chức quản lý, phân phối… đều được hình thành trên cơ sở của sản xuất vật chất.
+ Sản xuất vật chất là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và phát triển của xã hội loài người (trước đổi mới, do trình độ của sản xuất rất thấp kém, đời sống vật chất của người dân VN rất hạn chế, chủ yếu chỉ thỏa mãn nhu cầu tối thiểu của con người, đời sống tinh thần chưa được quan tâm…; từ 1986 đến nay kinh tế khởi sắc, sản xuất phát triển, đời sống vật chất nâng cao, đời sống tinh thần ngày càng phong phú...
* Ý nghĩa phương pháp luận
+ Về mặt lý luận: Khi nghiên cứu các hiện tượng xã hội phải xuất phát từ việc nghiên cứu hoạt động sản xuất vật chất (chẳng hạn, hiện tượng đói nghèo có liên quan đến kinh tế, đến trình độ của người dân hay không?)
+ Về mặt thực tiễn: Muốn thúc đẩy xã hội phát triển thì phải ưu tiên, tạo điều kiện phát triển lĩnh vực sản xuất vật chất (nước ta muốn thực hiện CNH,HĐH thì phải phát triển mạnh công nghiệp, nông nghiệp, công nghệ…
2. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a. Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
* Khái niệm phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất, cách thức con người tiến hành sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng trong một giai đoạn lịch sử nhất định..
* Lực lượng sản xuất : Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất.
LLSX bao gồm:
+ Người lao động với những kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, tri thức, kinh nghịêm nhất định có khả năng sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất.
+ Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.
+. Đối tượng lao động là những vật mà người lao động tác động vào để tạo ra của cải vật chất.
+.. Tư liệu lao động gồm công cụ lao động và những phương tiện lao động khác, là những vật hay phức hợp những vật mà người lao động sử dụng để tác động vào đối tượng lao động.
- Các yếu tố của lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quyết định, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động”.
* Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sx
- Quan hệ sản xuất bao gồm:
Quan hệ sản xuất
Quan hệ về chiếm hữu tư liệu sản xuất
Quan hệ về quản lý và phân công lao động
Quan hệ về phân phối sản phẩm
b. Quy luật sự phù hợp của quan hệ sx với trình độ phát triển của lực lượng sx
*Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Điều đó được thể hiện:
- LLSX quyết định QHSX
+ LLSX và QHSX tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện chứng với nhau trong PTSX thể hiện:
-> Sự phát triển của LLSX bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội là phải không ngừng phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động -> Muốn vậy, con người không ngừng cải tiến đổi mới công cụ lao động; đồng thời trình độ của người lao động cũng không ngừng nâng cao, phân công lao động xã hội ngày càng sâu -> LLSX không ngừng phát triển.
-> Sự phát triển của LLSX được đánh dấu bằng trình độ của LLSX: Biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ của người lao động, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
-> Tính chất của LLSX: Khi LLSX là công cụ thủ công, phân công lao động xã hội kém phát triển thì LLSX chủ yếu có tính chất cá nhân; khi LLSX đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì LLSX có tính xã hội hóa.
+ Sự vận động, phát triển của LLSX làm cho QHSX biến đổi phù hợp với nó.
-> Một PTSX mới ra đời, khi đó QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, sự phù hợp này thể hiện ở chỗ, tất cả các mặt của QHSX đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho LLSX phát triển, nghĩa là QHSX tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với TLSX -> Thúc đẩy LLSX phát triển.
-> Sự phát triển của LLSX đến một trình độ nhất định làm cho QHSX từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của LLSX -> QHSX trở thành “xiềng xích” của LLSX, kìm hãm LLSX phát triển -> Yêu cầu khách quan phải thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới, phù hợp trình độ phát triển mới của LLSX, thúc đẩy LLSX phát triển.
Tóm lại: LLSX là nội dung, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất vật chất. Sự biến đổi trong lực lượng sản xuất (nội dung) sớm muộn cũng kéo theo sự biến đổi trong quan hệ sản xuất (hình thức), do đó, LLSX nào thì QHSX ấy, LLSX biến đổi thì QHSX cũng biến đổi theo.
- Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
+ Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó là điều kiện, là địa bàn trong đó có thể kết hợp tối ưu những yếu tố của LLSX làm cho năng suất và hiệu quả tăng lên, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
+ Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tức là khi các quan hệ sở hữu, tổ chức hay phân phối đã lỗi thời, hoặc “tiên tiến” một cách giả tạo thì nó sẽ gây cản trở cho việc phát huy những năng lực của LLSX, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
* Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ mâu thuẫn biện chứng, tức là mối quan hệ thống nhất của hai xu hướng có khả năng vận động trái ngược nhau. Sự vận động của mâu thuẫn biện chứng này là đi từ sự thống nhất đến khác biệt căn bản và dẫn đến sự xung đột giữa nhu cầu phát triển của LLSX với QHSX kìm hãm sự phát triển đó, khi đó bắt đầu nhu cầu của những cuộc cải cách, hoặc cao hơn là một cuộc cách mạng, nhằm thực hiện sự cải biến những QHSX hiện thời theo hướng làm cho nó phù hợp với nhu cầu phát triển của LLSX, nhờ đó tái thiết lập sự phù hợp mới của QHSX với LLSX.
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất của các mặt đối lập là vì tính chất biến đổi của LLSX và QHSX khác nhau: LLSX có xu hướng "động", còn QHSX thì lại có xu hướng "tĩnh" => Xu hướng động và tĩnh của hai phương diện này đều là khách quan.
* Vận dụng quy luật:
Ở Việt Nam, sau hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954) và thống nhất đất nước (1975) chúng ta đã tiến lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Vào buổi đầu, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, chúng ta đã xây dựng CNXH theo mô hình kế hoạch hoá tập trung. Trong điều kiện chiến tranh, mô hình đó đã đóng vai trò tích cực nhưng trong điều kiện hoà bình, mô hình đó dần dần bộc lộ những hạn chế và dẫn đến khủng hoảng nghiêm trọng về kinh tế - xã hội.
Đứng trước tình hình đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của ĐCSVN đã đưa ra đường lối đổi mới đất nước. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là nhận thức cho đúng mục tiêu, và con đường tiến lên CNXH ở nước ta. ĐCSVN đã định ra đường lối chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là phù hợp với đặc điểm phát triển của LLSX của nước ta trong điều kiện hiện nay. Nó cho phép khai thác tốt nhất các năng lực sản xuất trong nước, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nước, và gắn phân công lao động trong nước với quốc tế và khu vực, thúc đẩy LLSX phát triển nhanh chóng. Những thành tựu đạt được về mặt kinh tế trong 20 năm đổi mới đã chính minh tính đúng đắn của đường lối đó.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng chủ trương giải phóng mạnh mẽ hơn nữa LLSX, phát huy nguồn lực toàn XH, mọi công dân, mọi vùng, mọi ngành kinh tế, phát triển, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lực, phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XH CN, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, phát triển và ứng dụng kinh tế trí thức, định hướng tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Với sự phát triển của LLSX, loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội. Xu hướng tất yếu là không dừng ở CNTB mà tiến lên CNCS. Việt Nam đang trong quá trình quá độ lên CNXH, vì thế chúng ta cần hoàn thiện, hoàn chỉnh hệ thống chính trị và cơ cấu chính trị.
3. Luận chứng cho thấy, ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp?
- Theo quy luật thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển cửa lực lượng sản xuất. Trong lịch sử, sự phát triển của lực lượng sản xuất là quá trình không ngừng đổi mới và hoàn thiện công cụ lao động, đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ người lao động, là quá trình hình thành, phát triển phân công lao động xã hội, chuyển từ lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân lên lực lượng sản xuất có tính chất xã hội. Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, khi khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò to lớn, lực lượng sản xuất đã mang tính quốc tế, quá trình chuyển biến đó ngày một rõ ràng hơn.
Câu 3: Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng
- Khái niệm CSHT dùng để chỉ toàn bộ những QHSX hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội.
- Kết cấu của CSHT của một xã hội gồm: Quan hệ sản xuất thống trị (chính thống); quan hệ sản xuất tàn dư (của PTSX cũ); quan hệ sản xuất mới (tồn tại dưới hình thái mầm mống) -> Trong đó QHSX thống trị quyết định.
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì CSHT mang tính đối kháng giai cấp (Đề cập đến CSHT của một xã hội là đề cập đến QHSX thống trị, giai cấp thống trị nắm trong tay TLSX, giai cấp bị trị không có TLSX, lợi ích cơ bản đối lập nhau... nên tất yếu mâu thuẫn với nhau.
=> Thực chất đề cập đến CSHT là đề cập đến phương diện kinh tế.
b. Kiến trúc thượng tầng
- Khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ toàn bộ hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
- Kết cấu của KTTT: Bao gồm hệ thống các hình thái ý thức xã hội (chính trị, pháp luật, đạo đức…) và các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng (nhà nước, đảng phái, đoàn thể xã hội…).
- Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, hình thái ý thức chính trị và pháp quyền cùng với hệ thống thiết chế, tổ chức chính đảng và nhà nước là hai thiết chế, tổ chức quan trọng trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp, KTTT có đặc điểm cũng mang tính đối kháng giai cấp vì KTTT được hình thành từ CSHT, CSHT như thế nào thì KTTT cũng như thế đó, do đó, CSHT mang tính đối kháng giai cấp thì KTTT cũng mang tính đối kháng giai cấp.
=> Thực chất đề cập đến KTTT là đề cập đến phương diện chính trị - xã hội.
2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
- Thứ nhất, tương ứng với một CSHT nhất định sẽ sản sinh ra một KTTT phù hợp, có tác dụng bảo vệ CSHT đó, điều đó có nghĩa là CSHT nào thì KTTT ấy.
- Thứ hai, những biến đổi trong CSHT tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi tương ứng trong KTTT (cơ sở kinh tế thay đổi thì chính trị, tư tưởng, tinh thần của xã hội cũng thay đổi theo).
+ Có yếu tố biến đổi nhanh như nhà nước, pháp luật… khi giai cấp mới lên nắm chính quyền -> tác động -> thay đổi -> bảo vệ CSHT mới.
+ Có yếu tố biến đổi chậm như đạo đức, phong tục, tập quán…
- Thứ ba, tính chất mâu thuẫn trong CSHT được phản ánh thành mâu thuẫn trong KTTT, sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và những xung đột lợi ích chính trị - xã hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế của xã hội.
- Thứ tư, giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất của xã hội, đồng thời cũng là giai cấp nắm được quyền lực nhà nước trong KTTT, còn các giai cấp và tầng lớp xã hội khác ở vào địa vị phụ thuộc.
Tóm lại: Sự biến đổi của CSHT dẫn đến sự biến đổi của KTTT là một quá trình hết sức phức tạp. Nguyên nhân của sự biến đổi đó xét cho cùng là do sự phát triển của LLSX. Tuy nhiên, sự phát triển của LLSX chỉ trực tiếp gây ra sự biến đổi của CSHT và chính sự biến đổi của CSHT đến lượt nó mới làm cho KTTT biến đổi một cách căn bản.
b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
- CSHT quyết định đối với KTTT nhưng toàn bộ KTTT, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối và tác động trở lại CSHT của xã hội, sự tác động của KTTT đối với CSHT thể hiện ở chức năng xã hội của KTTT là duy trì, bảo vệ và củng cố CSHT đã sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ CSHT và KTTT cũ.
- Sự tác động của KTTT đối với CSHT có thể thông qua nhiều phương thức khác nhau, trong đó nhà nước là yếu tố có tác động trực tiếp nhất và mạnh mẽ nhất tới CSHT của xã hội.
- Sự tác động của các yếu tố thuộc KTTT có thể diễn ra theo nhiều xu hướng, thậm chí có xu hướng đối lập nhau => Phán ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai tầng khác nhau và đối lập nhau trong xã hội, có sự tác động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại (duy trì chế độ xã hội hiện thời); có sự tác động theo xu hướng xóa bỏ cơ sở kinh tế này và đấu tranh cho việc xác lập một cơ sở kinh tế khác, xây dựng một chế độ xã hội khác.
- Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT được biểu hiện theo hai xu hướng: Nếu KTTT tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; nếu KTTT tác động ngược chiều, không phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
3. Vận dụng mối quan hệ CSHT & KTTT vào việc luận chứng tính tất yếu của việc cải cách nền hành chính quốc gia ở nước ta hiện nay?
- CSHT nước ta hiện nay là kết cấu kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo nên KTTT phải xây dựng, củng cố, đối mới phù hợp.
- Phát triển kinh tế nhiều thành phần không nhất thiết phải đa nguyên chính trị tuy nhiên yêu cầu khách quan đặt ra là KTTT nước ta phải đổi mới phát triển theo hướng nâng cao chất lượng hoàn thành chức năng xã hội của mình.
- Trước sự yếu kém của nền hành chính nước ta hiện nay, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu “xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu quả”. Trong một số năm gần đây, cải cách hành chính (CCHC) đã được triển khai trên cả 4 nội dung: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính công; xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
- Tuy nhiên, tốc độ CCHC còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn thấp. Nền hành chính có chuyển biến song vẫn tụt hậu so với tốc độ và yêu cầu cải cách của nền hành chính hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế. Tình trạng chung là nhiều cán bộ lãnh đạo và cán bộ công chức ngại thực hiện cơ chế một cửa, do ngại bị bó buộc, ngại bị rút bớt quân số và lợi ích cục bộ… Mặt khác, trình độ công chức, cán bộ ở bộ phận tiếp nhận và trả kết quả còn nhiều bất cập, tỷ lệ đạt chuẩn thấp, nhiều nơi chỉ đạt 20-30%. Trên thực tế, tuy là “một cửa” nhưng vẫn còn nhiều “ổ khóa” do không ít cán bộ, công chức tiêu cực, nhũng nhiễu tạo ra nên người dân chưa hết phiền hà. Trong khi đó, sự chỉ đạo thực hiện cải cách lại thiếu kiên quyết và nhất quán ở các cấp, các ngành; tiền lương mới chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu đời sống của cán bộ, công chức. Hội nghị đã tập trung thảo luận các giải pháp đẩy mạnh CCHC giai đoạn 2, từ 2006-2010.
- Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986, tính đến nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng thời với việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành chính cũng được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước.
4. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng XH để phân tích vai trò của nhà nước đối với sự phát triển XH ở nước ta hiện nay
- Nhà nước với tư cách là một yếu tố cơ bản của kiến trúc thượng tầng, luôn có tác động toàn diện tới mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế XH.
- Không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, nâng cao vai trò của tổ chức quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Phát triển văn hoá, xây dựng văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thầncủa nhân dân……..
5. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
Tương ứng với sự đồng nhất về bản chất kinh tế là sự tác động của nhiều hệ thống quy luật kinh tế. Hệ thống quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa; hệ thống quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa nhỏ và hệ thống quy luật kinh tế tư bản chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo ra một hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, đồng thời Nhà nước sử dụng tổng thể các biện pháp - trong đó biện pháp kinh tế là quan trọng nhất - nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất. Kinh tế Nhà nước không ngừng được củng cố và phát triển cả về chất và về lượng ở những vị trí nòng cốt của nền kinh tế.
- Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở nền tảng của tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng.
Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, do đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực thuộc về nhân dân.
Các tổ chức, thiết chế, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa là vì một mục tiêu chung, lợi ích chung, hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý kinh tế-xã hội và mọi lĩnh vực hoạt động khác.
Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị-xã hội không tồn tại như một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, vì lợi ích và quyền lực của nhân dân lao động.
Câu 4: Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội.
1. Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế – xã hội
- Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
- Cấu trúc của hình thái kinh tế – xã hội:
+ Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất, kỹ thuật của xã hội, xét đến cùng nó quyết định sự phát triển của xã hội. Thể hiện tính liên tục, khách quan trong sự phát triển của xã hội.
+ Quan hệ sản xuất: là quan hệ cơ bản đầu tiên và quyết định tất cả các quan hệ khác trong xã hội.
+ Kiến trúc thượng tầng: Là công cụ để bảo vệ và duy trì cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
2. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội
- Khi phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác cho rằng: “Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
- Tính chất lịch sử tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế - xã hội được phân tích ở các nội dung sau:
+ Một là: Sự vận động của xã hội tuân theo quy luật khách quan, đó là quy luật của bản thân cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học… mà cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
+ Hai là: Nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại... suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó.
+ Ba là: Quá trình thay thế lẫn nhau của các HTKT-XH trong lịch sử nhân loại có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động lẫn nhau của các quy luật khách quan.
-> Xét trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội từ: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội tương lai là cộng sản chủ nghĩa.
-> Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng khẳng định vai trò của nhân tố điều kiện địa lý, tương quan lực lượng chính trị của các giai cấp, tầng lớp xã hội, truyền thống văn hóa của mỗi cộng đồng người, điều kiện tác động của tình hình quốc tế đối với mỗi cộng đồng người…Do sự tác động của những nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau tạo nên tính đa dạng, phong phú của sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Nghĩa là có thể bao hàm những bước phát triển “bỏ qua” một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Những sự "bỏ qua" như vậy đều phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
Như vậy, lịch sử phát triển của nhân loại nói chung và của mỗi cộng đồng người nói riêng vừa tuân theo tính tất yếu của các quy luật xã hội, vừa chịu sự tác động của các nhân tố khác, trong đó có cả nhân tố hoạt động chủ quan của con người. Do vậy, lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử thống nhất trong tính đa dạng và đa dạng trong tính thống nhất của nó.
3. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế – xã hội
+ Thứ nhất: Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.
+ Thứ hai: Xã hội là một cơ thể sống động, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò quan trọng và quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau.
+ Thứ ba: Vì sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên cho nên muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn các vấn đề xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động và phát triển của xã hội.
4. Sự vận dụng của Đảng ta:
+ Lý luận về hình thái kinh tế – xã hội nói chung và nguyên lý về sự phát triển các hình thái kinh tế, là một quá trình lịch sử tự nhiên giúp chúng ta có một cơ sở khoa học để đi sâu nhận thức xã hội, quy luật phát triển của nó, chống CNDT, CNDV máy móc về xã hội.
+ Đảng ta nhất quán cho rằng, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới, mở đầu bằng Cách mạng tháng 10 Nga, việc Việt Nam đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN là sự chọn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển lịch sử nhân loại và đất nước ta (Phân tích những khó khăn, thuận lợi và bài học của 10 năm đổi mới ở nước ta).
+ Để tiến lên một xã hội mới – xã hội XHCN, chúng ta phải phát triển mạnh mẽ LLSX, tiến hành CNH-HĐH, từng bước thiết lập QHSX XHCN từ thấp đến cao phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và củng cố, hoàn thiện KTTT XHCN.
Đảng ta cho rằng, theo quy luật phát triển các hình thái kinh tế – xã hội ở Việt Nam hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, phải làm cho kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng KTTT XHCN, xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.
Câu 5: Phân tích luận điểm của Mác: “Tôi coi sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”? Ý nghĩa của vấn đề này trong việc nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở VN hiện nay?
1. Khái niệm hình thái kinh tế – xã hội:
Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của CNDVLS dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với LLSX ở một trình độ nhất định và với một KTTT được xây dựng lên trên những QHSX đó.
Phân tích: Phạm trù hình thái kinh tế – xã hội có các đặc trưng: là một chỉnh thể sống, vận động, có cơ cấu phức tạp. Trong đó có 3 mặt cơ bản, phổ biến nhất là: LLSX, QHSX và KTTT. Các mặt đó gắn bó, tác động biện chứng tạo nên những quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển xã hội.
+ Trong các yếu tố cơ bản cấu thành hình thái kinh tế – xã hội thì LLSX là nền tảng vật chất kỹ thuật của mọi hình thái kinh tế – xã hội, QHSX là cơ sở kinh tế, CSHT của xã hội là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội với xã hội khác. KTTT có chức năng, vai trò duy trì, bảo vệ, phát triển CSHT và các mặt của đời sống xã hội.
* Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, vì:
+ Con người tạo nên lịch sử của mình, nhưng không phải theo ý muốn chủ quan mà theo quy luật khách quan. Đó là hoạt động của họ, tuy do ý thức chỉ đạo, nhưng lại diễn ra trong một hoàn cảnh khách quan nhất định mà họ hải tích ứng.
+ Trong các quan hệ xã hội khách quan lại tạo nên hoàn cảnh thì quan hệ kinh tế xét đến cùng là quan hệ quyết định và quan hệ kinh tế đó lại dựa trên một trình độ nhất định của LLSX.
+ Sự phát triển của hình thái kinh tế do sự tác động của các quy luật phổ biến khách quan là quy luật QHSX phù hợp với trình độ của LLSX, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT.
+ Sự phát triển các hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên vừa bao hàm sự phát triển tuần tự theo xu hướng tổng quát chung, vừa bao hàm khả năng một quốc gia này hay một quốc gia khác trong tiến trình phát triển của mình có thể bỏ qua một chế độ này để lên một chế độ xã hội khác cao hơn (lấy ví dụ đối với lịch sử thế giới và Việt Nam).
2. Sự vận dụng của Đảng ta:
+ Lý luận về hình thái kinh tế – xã hội nói chung và nguyên lý về sự phát triển các hình thái kinh tế, là một quá trình lịch sử tự nhiên giúp chúng ta có một cơ sở khoa học để đi sâu nhận thức xã hội, quy luật phát triển của nó, chống CNDT, CNDV máy móc về xã hội.
+ Đảng ta nhất quán cho rằng, trong thời đại ngày nay, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới, mở đầu bằng Cách mạng tháng 10 Nga, việc Việt Nam đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN là sự chọn đúng đắn, phù hợp với sự phát triển lịch sử nhân loại và đất nước ta (Phân tích những khó khăn, thuận lợi và bài học của 10 năm đổi mới ở nước ta).
+ Để tiến lên một xã hội mới – xã hội XHCN, chúng ta phải phát triển mạnh mẽ LLSX, tiến hành CNH-HĐH, từng bước thiết lập QHSX XHCN từ thấp đến cao phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và củng cố, hoàn thiện KTTT XHCN.
Đảng ta cho rằng, theo quy luật phát triển các hình thái kinh tế – xã hội ở Việt Nam hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, phải làm cho kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng KTTT XHCN, xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.
Câu 6: Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - XH của Mác. Phân tích tính tất yếu của việc định hướng con đường đi lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ?
1. Luận chứng khoa học và vai trò phương pháp của lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác
- Sự ra đời lý luận hình thái kinh tế - xã hội là một bước chuyển biến cách mạng trong nhận thức về đời sống xã hội.
- Lý luận đó đưa ra quan điểm duy vật về xã hội, chỉ ra sản xuất là là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt chính trị và tinh thần nói chung.
- Lý luận đó cũng chỉ ra xã hội là một hệ thống có cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt, các lĩnh vực có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau một cách biện chứng.
- Lý luận đó đã mang lại một phương pháp luận thật sự khoa học cho nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội theo con đường tiến bộ.
* Vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra, sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
- Thứ hai: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra, xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau.
- Thứ ba: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội chỉ ra rằng, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là diễn ra theo quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
- Thứ tư: Lý luận hình thái kinh tế - xã hội vừa chỉ ra quy luật phát triển chung của nhân loại, vừa chỉ ra mỗi dân tộc do điều kiện lịch sử - cụ thể mà con đường phát triển riêng, đặc thù.
2. Tính tất yếu
Việt Nam chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, song với điều kiện lịch sử nhất định, có thể quá độ lên CNXH, không qua giai đoạn TBCN. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật lịch sử tự nhiên.
- Trong chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt, luận cương của đảng đã khẳng định: “Con đường của Cách mạng Việt Nam nhất định phải đi tới CNXH, bỏ qua thời kỳ TBCN”.
- Qua các thời kỳ cách mạng, từ khi thành lập Đảng ta luôn luôn khẳng định chân lý: “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là con đường tất yếu khách quan phù hợp với ý chí nguyện vọng của nhân dân ta”. Sau thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nước ta có đủ điều kiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, đó là:
+ Phương thức sản xuất cũ (TBCN) đã trở nên lạc hậu, lỗi thời. Phương thức sản xuất mới (CSCN) tiến bộ đã xuất hiện. Hơn nữa, thực tiễn cách mạng VN đã làm cho nhân dân ta hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân (Pháp) và chủ nghĩa đế quốc (Mỹ) đã củng cố việc lựa chọn con đường gắn độc lập dân tộc và CNXH.
+ Chính quyền đã thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Chính vì vậy, mục tiêu tiếp theo của cách mạng nước ta tất yếu phải là CNXH, do đó, phải bước vào thời kỳ quá độ để đi lên CNXH.
- ĐH Đảng IX tiếp tục khẳng định “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN”.
Đại hội Đảng IX chỉ rõ: ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN.
Xuất phát từ nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ. Lao động thủ công đi lên CNXH mà chưa có nền đại công nghiệp, do đó phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kì quá độ tiến lên CNXH.
- Đảng ta chỉ rõ quan hệ giữa phát triển kinh tế, xã hội với phát triển KH, công nghệ vì sự phát triển KHCN sẽ tạo ra sự phát triển nhanh của LLSX nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao sức mạnh nội lực để hội nhập kinh tế thế giới
Công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa mà hướng trước hết vào các ngành công nghệ cao do đó “coi giáo dục và đào tạo, KH và CN là nền tảng, động lực của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
Trong điều kiện hiện nay của nước ta với thế và lực trong nước và điều kiện quốc tế có nhiều thuận lợi nên không thể chỉ thực hiện các bước đi tuần tự mà cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.
- Đại hội Đảng đã xác nhận “Đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Do đó chúng ta có thể và cần phải lựa chọn tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Câu 7: Phân tích nội dung những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN – sự vận dụng sáng tạo lý luận hính thái kinh tế - xã hội vào điểu kiện cụ thể của Việt Nam
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, Đảng ta khẳng định: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách rời nhau – là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng nước ta. Điều này được thể hiện:
Thứ nhất, mặc dù chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng và sụp đổ nhưng đó chỉ là mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp chứa không phải chủ nghĩa xã hội với tính cách là một xã hội cao hơn CNTB. CNTB mặc dù chưa hết vai trò lịch sử và đang đạt nhiều thành tựu to lơn, nhất là khoa học và công nghệ, nhưng những thành tựu này, đến lượt nó trở lại cái phủ định xã hội CNTB và thay thế nó bằng xã hội khác cao hơn – chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng thời đại.
Thứ hai, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn từ năm 1930, với thử thách thời gian, con đường đó dần dân được thực hiện trên nước ta. Tuy mắc một số vấp váp, sai lầm nhưng con đường này mang lại nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị - xã hội và trở thành cuộc sống hiện thực của nhân dân ta. Do đó, đại đa số nhân dân ta vẫn tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội, đấu tranh vì thắng lợi chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Mục tiêu chung xây dựng chủ ngĩa xã hội mà Đảng ta đề ra là “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Con đường đi lên: “con đường đi lên ở nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam
Lý luận hình thái kinh tế - XH chỉ ra, mỗi hình thái KT-XH có một lực lượng sản xuất của nó, hay nói cách khác, có một cơ sở vật chất-kỹ thuật của nó. Để có CNXH phải có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại do cuộc CM khoa học và công nghệ mang lại. Song, nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu, cái thiếu thốn của chúng ta là chưa có một nền đại công nghiệp. Vì vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực chất của công nghiệp hóa hiện đại hóa chính là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH. Công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở nước ta trên cơ sở phát huy năng lực nội sinh của đất nước cũng như xu thế quốc tế hóa kinh tế thế giới. đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH.
Trong công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần phát triển mạnh mẽ một nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại. Phải coi phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế của thế giới ngày nay trong xu thế hợp tác, cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Chính vì vậy, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX cuả Đảng ta đã đề ra: “con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được những trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam: coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hó hiện đại hóa.
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.
3. Kết hợp giữa LLSX với xây dựng QHSX trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam.
Trong khi khẳng định vai trò của LLSX, lý luận hình thái KT - XH còn chỉ ra, sự phát triển của LLSX phải gắn liền với việc thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp. Trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta khẳng định “Phát triển LLSX gắn liền với QHSX mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Phù hợp với sự phát triển của LLSX ở nước ta, đảng ta chủ trương sử dụng “nhiều hình thức sở hữa về TLSX, nhiều thành phần kinh tế”. Đồng thời thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển LLSX đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội và đa dạng hóa các hình thức sở hữu. Đến lượt nó, kinh tế thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy LLSX phát triển. Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của LLSX ở nước ta, với yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định: “Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển LLSX, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH nâng cao đời sống của nhân dân.
4. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống XH trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam.
Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống XH mà lý luận hình thái KT - XH đã chỉ ra, trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vài trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ TQ.
Đồng thời, phải gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm không ngừng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, theo quan điểm của đảng ta, đó là quốc sách hàng đầu, giải quyết các vấn đề XH, thực hiện công bằng và dân chủ trong đời sống XH.
Trong quá trình phát triển văn hóa, cần phải đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục và đào tạo. Phải coi giáo dục và đào tạo cũng là quốc sách hàng đầu. Điều này vừa phù hợp với xu thế phát triển hiện đại, lại vừa là đòi hỏi cấp bách của sự phát triển đất nước.
Tóm lại: lý luận hình thái KT - XH là một lý luận khoa học. nó cho chúng ta một quan niệm đúng đắn về mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời sống kt-xh, về sự vận động và phát triển của XH. Với sự phát triển của khoa học và thực tiễn hiện nay, lý luận đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó đem lại một phương pháp luận thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống XH, để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top