Bài 1: Đường lối quân sự của Đảng

2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh

2.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh:

* Chiến tranh là một hiện tượng chính trị - xã hội:

- Các quan điểm trước Mác: Có nhiều nhà tư tưởng đã đề cập đến vấn đề này song nổi bật nhất là tư tưởng của C.Ph.Claudơvít (1780 - 1831), ông quan niệm chiến tranh là một hành vi bạo lực dùng để buộc đối phương phục tùng ý chí của mình. Chiến tranh là sự huy động sức mạnh không hạn độ, sức mạnh đến tột cùng của các bên tham chiến.Tuy nhiên, Claudơvít chỉ chỉ ra được đặc trưng của chiến tranh là sử dụng bạo lực mà chưa luận giải được bản chất của hành vi bạo lực ấy

- Quan điểm của chủ nghĩa Mác: Chiến tranh là hiện tượng chính trị xã hội có tính lịch sử, đó là cuộc đấu tranh vũ trang có tổ chức giữa các giai cấp, nhà nước (hoặc liên minh giữa các nước) nhằm đạt được mục đích chính trị nhất định.

- Như vậy theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chiến tranh là kết quả của những mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Nhưng nó không phải là mối quan hệ giữa người với người nói chung, mà nó là mối quan hệ giữa những tập đoàn người có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Nhưng khác với các hiện tượng chính trị - xã hội khác, chiến tranh được thể hiện dưới một hình thức đặc biệt, sử dụng một công cụ đặc biệt đó là bạo lực vũ trang.

* Nguồn gốc nảy sinh chiến tranh

- Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: sự xuất hiện và tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là nguồn gốc sâu xa (nguồn gốc kinh tế), suy đến cùng đã dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh. Đồng thời sự xuất hiện và tồn tại của giai cấp và đối kháng giai cấp là nguồn gốc trực tiếp (nguồn gốc xã hội) dẫn đến sự xuất hiện, tồn tại của chiến tranh.

- Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời và tồn tại của giai cấp, tầng lớp áp bức bóc lột thì chiến tranh ra đời và tồn tại như một tất yếu khách quan. Chế độ áp bức bóc lột càng hoàn thiện thì chiến tranh càng phát triển. Chiến tranh trở thành “bạn đường” của mọi chế độ tư hữu.

- Lênin đã phát triển những luận điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về chiến tranh trong điều kiện lịch sử mới: trong thời đại ngày nay còn chủ nghĩa đế quốc còn nguy cơ xảy ra chiến tranh, chiến tranh là bạn đường của chủ nghĩa đế quốc

Như vậy, chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, có đối kháng giai cấp và áp bức bóc lột, chiến tranh không phải là một định mệnh gắn liền với con người và xã hội loài người. Muốn xoá bỏ chiến tranh phải xoá bỏ nguồn gốc sinh ra nó

* Bản chất chiến tranh:

+ Theo Lênin: Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng những biện pháp khác (cụ thể là bằng bạo lực)

- Chiến tranh chỉ là một thời đoạn, một bộ phận của chính trị, nó không làm gián đoạn chính trị. Mọi chức năng, nhiệm vụ của chính trị đều được tiếp tục thực hiện trong chiến tranh. Giữa chiến tranh và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó chính trị chi phối và quyết định toàn bộ tiến trình và kết cục chiến tranh, chính trị chỉ đạo toàn bộ hoặc phần lớn tiến trình và kết cục chiến tranh, chính trị qui định mục tiêu và điều chỉnh mục tiêu, hình thức tiến hành đấu tranh vũ trang. Chính trị không chỉ kiểm tra toàn bộ quá trình tác chiến mà còn sử dụng kết quả sau chiến tranh để đề ra những nhiệm vụ, mục tiêu mới cho giai cấp, xã hội trên cơ sở thắng lợi hay thất bại của chiến tranh

- Chiến tranh là một bộ phận, một phương tiện của chính trị, là kết quả phản ánh những cố gắng cao nhất của chính trị. Chiến tranh tác động trở lại chính trị theo hai hướng tích cực hoặc tiêu cực hoặc tích cực ở khâu này nhưng tiêu cực ở khâu khác. Chiến tranh có thể làm thay đổi đường lối, chính sách, nhiệm vụ cụ thể, thậm chí có thể làm thay đổi cả thành phần của lực lượng lãnh đạo chính trị trong các bên tham chiến. Chiến tranh tác động lên chính trị thông qua việc làm thay đổi về chất tình hình xã hội, nó làm phức tạp hoá mối quan hệ và làm tăng thêm những mâu thuẫn vốn có trong xã hội có đối kháng giai cấp. Chiến tranh có thể đẩy nhanh sự chín muồi của cách mạng hoặc làm mất đi tình thế cách mạng. Chiến tranh kiểm tra sức sống của toàn bộ chế độ chính trị xã hội.

2.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh

- Trên cơ sở lập trường duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã sớm đánh giá đúng đắn bản chất, qui luật của chiến tranh, tác động của chiến tranh đến đời sống xã hội.

Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cuộc chiến tranh do thực dân Pháp tiến hành ở nước ta là cuộc chiến tranh xâm lược. Ngược lại cuộc chiến tranh của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược là cuộc chiến tranh nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền và thống nhất đất nước

- Xác định tính chất xã hội của chiến tranh, phân tích tính chất chính trị - xã hội của chiến tranh xâm lược thuộc địa, chiến tranh ăn cướp của chủ nghĩa đế quốc, chỉ ra tính chất chính nghĩa của chiến tranh giải phóng dân tộc.

* Hồ Chí Minh đã xác định tính chất xã hội của chiến tranh: chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, chiến tranh chống xâm lược là chính nghĩa, từ đó xác định thái độ của chúng ta là ủng hộ chiến tranh chính nghĩa, phản đối chiến tranh phi nghĩa

* Kế thừa và phát triển tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào thực tiễn chiến tranh cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành đọng bạo lực, độc lập, tự do không thể cầu xin mà có được phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”

* Bạo lực cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh được tạo bởi sức mạnh của toàn dân, bằng cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.

     - Hồ Chí Minh khẳng định: Ngày nay chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta là chiến tranh nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng

* Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Hồ Chí Minh luôn coi con người là nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Người chủ trương phải dựa vào dân, coi dân là gốc, là cội nguồn của sức mạnh để “xây dựng lầu thắng lợi”.

* Chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là cuộc chiến tranh toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

* Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đánh giặc phải bằng sức mạnh của toàn dân, trong đó phải có lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Kháng chiến toàn dân phải đi đôi với kháng chiến toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, đánh địch trên tất cả các mặt trận: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá…

      Sự khái quát trên đã phản ánh nét đặc sắc của chiến tranh nhân dânViệt Nam trong thời đại mới và là một sự phát triển cao tư tưởng vũ trang toàn dân của chủ nghĩa Mác – lênin. Sự phát triển sâu sắc làm phong phú thêm lí luận mác xít về chiến tranh nhân dân trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam

2.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội

2.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quân đội

     - Khái niệm: “Quân đội là một tập đoàn người vũ trang, có tổ chức do nhà nước xây dựng để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hoặc chiến tranh phòng ngự” (Ph. Ăngghen)

- Như vậy, quân đội là một tổ chức của một giai cấp và nhà nước nhất định, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu nhất, là lực lượng nòng cốt để nhà nước, giai cấp tiến hành chiến tranh và đấu tranh vũ trang.

- Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển từ tự do cạnh tranh sang độc quyền (chủ nghĩa đế quốc), Lênin nhấn mạnh: chức năng cơ bản của quân đội đế quốc là phương tiện quân sự chủ yếu để đạt được mục đích chính trị đối ngoại là tiến hành chiến tranh xâm lược và duy trì quyền thống trị của bọn bóc lột với nhân dân lao động trong nước

* Nguồn gốc ra đời của quân đội:

Từ khi có Quân đội đã có không ít nhà lí luận đề cập đến nguồn gốc, bản chất của Quân đội trên các khía cạnh khác nhau. Nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác- Lênin mới  lí giải đúng đắn và khoa học về hiện tượng chính trị xã hội đặc thù này.

- Chủ nghĩa Mác- Lênin đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc ra đời của Quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế- xã hội và khẳng định: quân đội là một hiện tượng lịch sử, ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự đối kháng giai cấp trong xã hội.Chính chế độ  tư hữu và đối kháng giai cấp đã làm nảy sinh nhà nước thống trị bóc lột. để bảo vệ lợi ích của giai cấp đã làm nảy sinh nhà nước thống trị bóc lột. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị v à đ à áp quần chúng nhân dân lao động, giai cấp thống trị đã tổ chức ra lực lượng vũ trang thường trực làm công cụ bạo lực của nhà nước.

Như vậy chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành giai cấp đối kháng là nguồn gốc ra đời quân đội. Chừng nào còn chế độ tư hữu, còn chế độ áp bức bóc lột thì quân đội vẫn còn tồn tại. Quân đội chỉ mất đi khi giai cấp, nhà nước và những điều kiện sinh ra nó tiêu vong.

* Bản chất giai cấp của quân đội:

- Chủ nghĩa Mác- lênin khẳng định: bản chất quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, nhà nước nhất định nhằm mục đích bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị và nhà nước tổ chức nuôi dưỡng sử dụng nó. Bản chất của quân đội phụ thuộc vào bản chất của nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng và xây dựng theo đường lối quan điểm chính trị , quân sự của giai cấp mình. Đó là cơ sở để quân đội trưởng hành với nhà nước đã tổ chức ra nó.

- Bản chất giai cấp của quân đội không phải tự phát hình thành mà phải trải qua quá trình xây dựng lâu dài và được củng cố liên tục. Bản chất giai cấp của quân đội là tương đối ổn định, nhưng không phải là bất biến. Sự vận động phát triển bản chất giai cấp của quân đội bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: giai cấp, nhà nước, các lực lượng, tổ chức trị xã hội và việc giải quyết mối quan hệ trong nội bộ quân đội. Do sự tác độngcủa các yếu tố trên mà bản chất của giai cấp của quân đội có thể được tăng cường, hoặc bị phai nhạt, thậm chí bị biến chất và tuột khỏi tay nhà nước, giai cấp đã tổ chức ra, nuôi dưỡng quân đội đó. Sự thay đổi bản chất giai cấp của quân đội diễn ra dần dần thông qua việc tăng cường hoặc suy yếu dần các mối quan hệ trên.

Trong tình hình hiện nay, các học giả tư sản thường rêu rao luận điệu “phi chính trị hoá quân đội”, cho quân đội phải đứng ngoài chính trị, công cụ là bạo lực của toàn xã hội, không mang bản chất giai cấp, thực chất quan điểm “phi chính trị hoá quân đội” của các học giả tư sản nhằm làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm giảm sức mạnh chiến đấu, từng bước làm thoái hoá về chính trị tư tưởng, phai nhạt bản chất cách mạng của quân đội. Đó là mục tiêu quan trọng trong chiến lược “DBHB”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc. Mặt khác, mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động không nhỏ tới tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng của quân đội. Những biểu hiện cường điệu hoá vật chất, lề thói thực dụng, cơ hội về chính trị, sự suy giảm về đạo đức cách mạnglà những cản trở trong xây dựng quân đội cách mạng hiện nay.

* Sức mạnh chiến đấu của quân đội:

- Theo quan điểm của Mác- Ănggen, sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: con người, điều kiện kinhtế chính trị, văn hoá, xã hội, vũ khí trang bị, khoa học quân sự trong xây dựng sức mạnh chiến đấu cho quân đội, các Ông rất chú trọng đến khâu đội ngũ cán bộ, đánh giá và nhận xét về tài năng của các tướng lĩnh quân sự, đồng thời phê phán sự yếu kém của đội ngũ này.

- Bảo vệ và phát triển tư tưởng của Mác- Ănggen, Lênin đã chỉ rõ sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: yếu tố quân số, tổ chức, cơ cấu biên chế, yếu tố chính trị- tinh thần và kỷ luật, số lượng, chất lượng vũ khí trang bị kỹ thuật, trình độ huấn luyện và thể lực, trình độ khoa học và nghệ thuật quân sự, bản lĩnh lãnh đạo,trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp. giữa cácg yếu tố trên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tuy nhiên, vị trí, vai trò của từng yếu tố là không ngang bằng nhau. Trong những điều kiện xác định, yếu tố chính trị tinh thần giữ vai trò quyết định đến  sức mạnh chiến đấu của quân đội. Lênin khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh rốt cuộc thắng lợi đều tuỳ thuộc vào tinnh thần của  quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”

- Nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của V.I.Lênin

Lênin kế thừa, bảo vệ và phát triển lí luận của Mác- Ăngghen về quân đội và vận dụng thành công trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Lênin đã chỉ ra những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới:

+ Đảng Cộng sản lãnh đạo Hồng quân tăng cường bản chất giai cấp công nhân.

+ Đoàn kết thống nhất quân đội với nhân dân

+ Trung thành với chủ nghĩa quốc tế vô sản.

+ Xây dựng chính qui

+ Không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức

+ Phát triển hài hoà các quân chủng, binh chủng

+ Sẵn sàng chiến đấu

Trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất, quyết định đến sức mạnh, sự tồn tại, phát triển, chiến đấu, chiến thắng của Hồng quân

Ngày nay những nguyên tắc cơ bản của Lênin về quân đội kiểu mới vẫn còn giữ nguyên giá trị, là cơ sở lí luận khoa học cho các Đảng Cộng sản xác định phương hướng tổ chức xây dựng quân đội của mình.

2.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội

* Khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn đề có tính quy luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam

Sự ra đời của quân đội xuất phát từ chính yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở nước ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, kẻ thù dùng bạo lực phản cách mạng để áp bức nô dịch dân tộc ta. Do vậy, muốn giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp chúng ta phải tổ chức bạo lực cách mạng để chồng lại bạo lực phản cách mạng. Để thực hiện được mục tiêu đó Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổ chức ra lực lượng vũ trang cách mạng: quân đội nhân dân

* Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trọng bản chất giai cấp công nhân cho quân đội. Bản chất giai cấp công nhân liên hệ mật thiết với tính nhân dân trong tiến hành chiến tranh nhân dân chống thực dân, đế quốc xâm lược. Trong bài nói chuyện tại buổi chiêu đãi mừng quân đội ta tròn 20 tuổi ngày 22-12-1964, CHủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định bản chất giai cấp của quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của giai cấp, nhà nước. Hồ Chí Minh đã khái quát: “quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

* Khẳng định quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu

- Đây là một trong những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát triển lí luận về quân đội. Người lập luận, bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của quân đội ta là một thể thống nhất, xem nó như là biểu hiện tính qui luật của quá trình hình thành, phát triển quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản. Người viết: “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để giành lại độc lập, thống nhất cho Tổ quốc, để bảo vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta không có lợi ích nào khác”

* Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội là một nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vô sản

- Bắt nguồn từ nguyên lí của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Namđặc biệt quan tâm đến công cụ này để nó thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong đấu tranh giai cấp, kể cả tiến hành chiến tranh.

- Đảng Cộng sảnViệt Nam là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự chăm lo đặc biệt đối với quân đội. Điiêù này được thể hiện rõ nét trong cơ chế lãnh đạo: tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội trong thực hiện chế độ công tác Đảng, công tác chính trị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục.

* Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của quân đội:

- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “hiện nay quân đội ta có 2 nhiệm vụ chính. Một là, xây dựng một quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Hai là, thiết thực tham gia lao động sản xuất góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Đây là vấn đề khác về chất so với quân đội của giai cấp bóc lột.

- Quân đội ta có ba chức năng: là đội quân chiến đấu, là đội quân công tác, là đội quân sản xuất. Ba chức năng này phản ánh cả mặt đối nội, đối ngoại của quân đội

+ Với tư cách là đội quân chiến đấu: quân đội ta sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ trật tự an toàn xã hội, tham gia voà cuộc tiến công địch trên mặt trận lí luận, chính trị - tư tưởng, văn hoá

+ Là đội quân sản xuất: quân đội tăng gia sản xuất cải thiện đời sống, xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng, phát triển đất nước, trong điều kiện hiện nay, quân đội còn là lực lượng nòng cốt và xung kích trong xây dựng kinh tế - quốc phòng ở các địa bàn chiến lược, nhất là ở biên giới, biển đảo, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn gian khổ và ở những địa bàn có những tình huống phức tạp nảy sinh.

+ Là đội quân công tác: quân đội tham gia vận động quần chúng nhân dân xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết giưũa Đảng với nhân dân, quân đội với nhân dân, giúp dân chống thiên tai, giải quyết những khó khăn trong sản xuất và đời sống, tuyên truyền và vận động nhân dân hiểu rõ và chấp hành đúng đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

2. 3 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

- C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định: “dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân không có tổ quốc”. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, thời C. Mác và Ph. Ăngghen sống, vấn đề bảo vệ ổ quốc xã hội chủ nghĩa chưa được đặt ra một cách trực tiếp. Học thuyết boả vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một cống hiến mới của Lênin vào kho tàng lí luận chủ nghĩa Mác.

- Nội dung học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN

2. 3. 1 Bảo vệ Tổ quốc XHCN là một tất yếu khách quan

- Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp công nhân.

- Xuất phát từ qui luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với boả vệ Tổ quốc XHCN. Ngay sau khi cách mạng XHCN thắng lợi, nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được thiết lập thì Tổ quốc XHCN cũng bắt đầu hình thành. Cùng với nhiệm vụ xây dựng XHCN, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN cũng được đặt ra một cách trực tiếp, hai nhiệm vụ này gắn bó hữu cơ với nhau trong suốt quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin đã chỉ rõ: “Cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc XHCN, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tư cách là Tổ quốc”

- Xuất phát từ qui luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa đế quốc. Lênin đã chỉ rõ, do qui luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa đế quốc mà chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi không đồng đều ở các nước. Do đó, bảo vệ Tổ quốc XHCN trở thành nhiệm vụ trực tiếp, tất yếu và khách quan

- Xuất phát từ bản chất, âm mưu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế giới. Giai cấp tư sản trong nước tuy đã bị đánh đổ về chính trị nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ tham vọng muốn quay trở lại địa vị thống trị đã mất. Chúng luôn tìm cách liên kết với các phần tử phản động và chủ nghĩa tư bản bên ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của giai cấp công nhân. Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là một ví dụ thực tế điển hình chứng minh cho luận điểm của Lênin rằng: giành chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền còn khó hơn. Do đó, xây dựng XHCN phải luôn gắn với bảo vệ Tổ quốc XHCN.

2. 3. 2 Bảo vệ Tổ quốc XHCN là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc, toàn thể giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

- Lênin chỉ rõ: bảo vệ Tổ quốc XHCN là nhiệm vụ, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của toàn giai cấp vô sản trong nước, nhân dân lao động và giai cấp vô sản thế giới có nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN.

- Người luôn lạc quan tin tưởng về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc XHCN của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì theo Người bảo vệ Tổ quốc XHCN là bảo vệ lợi ích của toàn dân tộc, cuat oàn thể các giai cấp và của nhân dân lao động cũng như boả vệ lợi ích của con cái họ.

2. 3. 3 Bảo vệ Tổ quốc XHCN, phải thường xuyên tăng cường tiềm lực quốc phòng gắn với phát triển kinh tế - xã hội

- Vì bản chất của chủ nghĩa đế quốc là xâm lược, phải ngăn chặn mưu đồ xâm lược của chúng nên bảo vệ Tổ quốc XHCN phải thường xuyên tăng cường tiềm lực quốc phòng.

- Lênin đã khẳng định: Bảo vệ Tổ quốc XHCN là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả, mang tính cách mạng, chính nghĩa và có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, sự nghiệp đó phải được quan tâm, chuẩn bị chu đáo và kiên quyết.

- Lênin đã đưa ra nhiều biện pháp để bảo vệ Tổ quốc như:

              + Củng cố chính quyền Xô Viết các cấp.

              + Bài trừ nội phản, tiêu diệt bon bạch vệ

              + Đẩy mạnh phát triển kinh tế - văn hoá, khoa học kĩ thuật, vận dụng đường lối đối ngoại khôn khéo, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù

              + Hết sức chăm lo xây dựng quân đội kiểu mới

2. 3. 4 Đảng Cộng sản lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN

- Đảng phải đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình, có sáng kiến để lôi kéo quần chúng và phải có đội ngũ đảng viên gương mẫu hi sinh.

- Đảng hướng dẫn, giám sát các hoạt động của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các đoàn thể nhân dân lao động.

Sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh vững chắc bảo vệ Tổ quốc XHCN.

2. 4 Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN của Lênin vào tình hình thức tiễn của cách mạng Việt Nam.

2. 4. 1 Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là một tất yếu khách quan.

- Tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN được thể hiện rõ qua lời dạy của Người: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữu lấy nước”.

- Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân đứng lên đánh quân Pháp với tinh thần: “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ…Giờ cứu nước đã đến, ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng để gìn gĩư đất nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một long kiên qutết hi sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược, Hò Chí Minh khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Hễ còn mộy tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”. Trước khi đi xa trong bản di chúc Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ đến thắng lợi hoàn toàn”.

2. 4. 2 Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi công dân

- Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi công dân Việt

Nam. Trong bản tuyên ngôn độc lập, Người khẳng định: “Toàn dân tộc Việt Nam quyết đem tất cảtinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lượ nước ta, Người kêu gọi: “Hễ là ngườ Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc”.

- Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Người kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm chiến đấu đên thăng lợi hoàn toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa.

2. 4. 3 Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước, kết hợp với sức mạnh thời đại

- Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm; Phát huy sức mạnh tổng hợp trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đó là sức mạnh của toàn dân tộc, của các cấp, các nghành từ trung ương đến cơ sở, là sức mạnh của nhân tố chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá- xã hội, sức mạnh truyền thống với hiện đại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

- So sánh sức mạnh giữa ta với quân xâm lược trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, Người phân tích: “Chúng ta có chính nghĩa, cáo sức mạnh doàn kết toàn dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng hộ rất lớn của các nước xã hội chủ nghĩa an hem và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta nhất định thắng”. Để bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân, coi đó là lực lượng chủ chốt để bảo vệ Tổ quốc. Người căn dặn: “Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hung mạnh, sẵn sang chiến đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”.

2. 4. 4 Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa

- Đảng ta là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

- Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải do Đảng lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng và chính phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố và xây dựng miền Bắc tiến dần lên xã hội chủ nghĩa, đồng thời đấu tranh để thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc klập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình, góp phần bảo vệ công cuộc hoà bình ở Á Đông và trên thế giới”

- Người khẳng định: “Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và chính phủ, với sự đoàn kết nhất trí, long tin tưởng vững chắc  và tinh thần tự lực cánh sinh của mình, sự giúp đỡ vô tư của các nước anh em, với sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhất là nhân dân các nước Á- Phi, nhân dân ta nhất định khắc pụuc được mọi khó khăn, làm tròn được nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và chính phủdã đề ra”

- Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc, ngày nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xả hội chủ nghĩa. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung chiến lược sau:

+ Một là: Xây dựng tiềm lực toàn diện của đất nước, đặc biệt tiềm lực kinh tế, tạo ra thế và lực cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa

+ Hai là: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

+ Ba là: Quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, chủ động đánh thắng địch trong mọi hoàn cảnh, tình huống chiến tranh.

+ Bốn là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng côngnj sản Việt Nam đối với sự nghiệp quốc phòng an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

·       Kết luận:

- Học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quôn đội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mang tính cách mạng và khoa học sâu sắc. Đó à cơ sở lí luận để các Đảng Cộng sản đề ra chủ trương, đường lối chiến lược xây dựng nền quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

- Trong thời đại hiện nay tình hình thế giới, khu vực và trong nước ddang có nhiều biến đổi và diễn biến phức tạp. Tuy nhiên cho đến ngày nay những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh, quân đội và bảo vệ Tổ quốc vẫn còn nguyên giá trị Vì vậy, nghiên cứu và nắm vững những nội dung cơ bản trên, vận dụng sang tạo vào trong thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay đang đặt ra có tính cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn.

- Sinh viên là lớp trí thứcc trẻ, cần nghiên cứu nhận thức đúng đắn nội dung trên, xây dựng thế giới quan khoa học, niềm tin và trách nhiệm của mình để góp phần tích cực vào bảo vệ, phát triển những nội dung đó trong bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

****************************************************

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #dhcuong2003