bai 1
BÀI 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HỘ LAO ĐỘNG
I Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng
- Bảo hộ lao động trong xây dựng là môn khoa học nghiên cứu các vấn đề lý thuyết và thực tiễn về an toàn và vệ sinh lao động, an toàn phòng chống cháy, nguyên nhân và các biện pháp phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và các yếu tố độc hại, các sự cố cháy nổ trong xây dựng, bảo đảm sức khoẻ và an toàn lao tín mạng cho người lao động.
2. Nội dung
- Bảo hộ lao động gồm có bốn phần: pháp luật bảo hộ lao động ; vệ sinh lao động ; kỹ thuật an toàn và kỹ thuật phòng chống cháy.
« Pháp luật bảo hộ lao động. là một phần của bộ luật lao động bao gồm những quy định về các chế độ chính sách bảo vệ con người trong lao động sản xuất như : thời gian làm việc và nghỉ ngơi, bảo vệ và bồi dưỡng sức khoẻ cho người lao động, chế độ đối với lao động nữ, tiêu chuẩn quy phạm về kỹ thuật an toàn và vệ sinh lao động. ...
« Vệ sinh lao động là phần nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường và điều kiện lao động sản xuất đến sức khoẻ con người, đề xuất và thực hiện các biện pháp cải thiện điều kiện làm việc bảo vệ sức khoẻ người lao động, phòng ngừa các bệnh nghề nghiệp.
« Kỹ thuật an toàn là phần nghiên cứu, phân tích nguyên nhân tai nạn lao động, đề xuất và áp dụng các biện pháp tổ chức và kỹ thuật nhằm bảo đảm an toàn lao động.
« Kỹ thuật phòng chống cháy là phần nghiên cứu phân tích các nguyên nhân phát sinh cháy, nổ, đề xuất và thực hiện các biện pháp phòng chống cháy một cách hiệu quả nhất.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu môn bảo hộ lao động trong xây dựng chủ yếu là tiến hành phân tích nguyên nhân phát sinh yếu tố nguy hiểm, độc hại gây ra sự cố, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, trên cơ sở đó đề xuất và thực hiện các biện pháp phòng ngừa và loại trừ nguyên nhân phát sinh của chúng, bảo đảm an toàn và vệ sinh trong các quá trình thi công xây lắp.
- Bảo hộ lao động trong xây dựng có liên quan đến các môn khoa học cơ bản như toán, lý hoá và các môn khoa học kỹ thuật như nhiệt kỹ thuật, kiến trúc, sức bền vật liệu, cơ kết cấu v,v ... Đặc biệt là đối với các môn kỹ thuật và tổ chức thi công - đó là kiến thức tổng hợp của ngành xây dựng. Do đó khi nghiên cứu môn bảo hộ lao động cần vận dụng những kiến thức của các môn liên quan nói trên, đồng thời qua nghiên cứu bổ sung cho các môn này được hoàn chỉnh hơn trên quan điểm bảo hộ lao động.
II. Muc đích, ý nghĩa, tính chất công tác bảo hộ lao động.
1. Mục đích.
- Quá trình sản xuất là quá trình người lao động sử dụng công cụ, máy móc, thiết bị tác động vào đối tượng lao động để làm ra sản phẩm xã hội.
- Trong lao động sản xuất dù sử dụng công cụ thô sơ hay máy móc hiện đại , dù quy trình công nghệ giản đơn hay phức tạp đều có những yếu tố nguy hiểm, độc hại có thể làm giảm sút sức khoẻ, gây tai nạn hay bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
- Mục đích của công tác bảo hộ lao động là thông qua các biện pháp khoa học kỹ thuật, tổ chức, ki8nh tế, xã hội để hạn chế, loại trừ các yếu tố nguy hiểm, độc hại, tạo ra điều kiện lao động thuận lợi cho người lao động, để ngăn ngừa tai nạn lao động, bảo vệ sức khoẻ góp phần bảo vệ và phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động.
2. Ý nghĩa
- Công tác bảo hộ lao động là một chính sách lớn của đảng và nhà nước ta, nó mang nhiều ý nghĩa chính trị, xã hội và kinh tế lớn lao.
- Bảo hộ lao động phản ánh bản chất của một chế độ xã hội và mang ý nghĩa chính trị rõ rệt. Dưới chế độ thực dân, phong kiến, giai cấp công nhân và người lao động bị bóc lột thậm tệ công tác bảo hộ lao động không hề được quan tâm. Từ khi nước nhà giành được độc lập đến nay, Đảng và chính phủ luôn quan tâm đến công tác bảo hộ lao động, trên quan điểm " con người là vốn quý nhất ", điều kiện lao động không ngừng được cải thiện, điều này đã thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
- Bảo hộ lao động tốt là góp phần tích cực vào việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, nhờ chăm lo bảo đảm an toàn và bảo vệ sức khoẻ cho người lao động, không những mang lại hạnh phúc cho bản thân và gia đình họ mà bảo hộ lao động còn mang ý nghĩa xã hội và nhân đạo sâu sắc.
- Bảo hộ lao động còn mang ý nghĩa kinh tế quan trọng. Trong sản xuất người lao động được bảo vệ tốt, không bị tai nạn, ốm đau bệnh tật, họ sẽ an tâm phấn khởi sản xuất nâng cao năng suất lao động, hoàn thành kế hoạch sản xuất. Do đó thu nhập cá nhân và phúc lợi tập thể sẽ được tăng lên, điều kiện đời sống vật chất và tinh thần ngày càng được cải thiện.
- Ngược lại tai nạn lao động, ốm đau bệnhtật xảy ra nhiều sẽ ảnh hưởng đến lực lượng sản xuất. Đồng thời chi phí để khắc phục hậu quả do tai nạn, ốm đau cũng rất lớn. Cho nên quan tâm thực hiện tốt bảo hộ loa động là thể hiện quan điểm sản xuất đầy đủ, là điều kiện bảo đảm sản xuất phát triển và đem lại hiệu quả kinh tế cao.
3. Tính chất công tác bảo hộ lao động
- Để thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, phải nắm vững ba tính chất chủ yếu : tính pháp luật, tính khoa học kỹ thuật và tính quần chúng.
« Tính pháp luật: tất cả những chế độ, chính sách, quy phạm, tiêu chuẩn của nhà nước về bảo hộ lao động đã ban hành đều mang tính pháp luật. Pháp luật về bảo hộ lao động được nghiên cứu, xây dựng nhằm bảo vệ con người trong sản xuất, nó là cơ sở pháp lý bắt buộc các tổ chức nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế và mọi người tham gia lao động phải có trách nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện.
« Tính khoa học kỹ thuật: Mọi hoạt động trong công tác bảo hộ lao động từ điều tra khảo sát điều kiện lao động, phân tích đánh giá các yếu tố nguy hiểm, độc hại và ảnh hưởng của chúng đến an toàn và vệ sinh lao động cho đến việc đề xuất và thực hiện các giải pháp phòng ngừa, xử lý khắc phục đều phải vận dụng các kiến thức về lý thuyết và thực tiễn trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật chuyên ngành hoặc tổng hợp nhiều chuyên ngành. Ví dụ : muốn chống tiếng ồn phải có kiến thức về âm học ...
« Tính quần chúng: tính quần được thể hiện hai mặt: Một là bảo hộ lao động có liên quan đến tất cả mọi người tham gia sản xuất. Họ là những người vận hành, sử dụng các dụng cụ, thiết bị ma, ý móc, nguyên vật liệu nên có thể phát hiện được những thiếu sót trong công tác bảo hộ lao động, đóng góp xây dựng biện pháp ngăn ngừa, góp ý xây dựng hoàn thiện các tiêu chuẩn quy phạm an toàn và vệ sinh loa động. Mặt khác, dù cho các chế độ chính sách, tiêu chuẩn quy phạm về bảo hộ lao động có đầy đủ và hoàn chỉnh đến đâu, nhưng mọi người ( lãnh đạo, quản lý ,v,v...) chưa thấy rõ lợi ích thiết thực, chưa tự giác chấp hành thì các công tác bảo hộ lao động cũng không thể đạt được kết quả mong muốn.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top