BÁCH KHOA TRI THỨC [KBZ]
Bài viết này tổng hợp những kiến thức mới lạ, thú vị, bổ ích và rất ..."giật mình" của nhân loại như: Tình yêu sét
đánh cũng mang tính di truyền, Kích thước vòng eo là dấu hiệu của suy tim ,Vì sao...gãi làm đỡ ngứa?!,
Tại sao chúng ta khó nhớ được giấc mơ? ,Nổi nóng giúp thăng tiến nhanh hơn ...
>>KBZ 01:
Người bất mãn thường có nhiều sáng kiến
Trong một nghiên cứu gây ngạc nhiên, các nhà tâm lý Mỹ phát hiện ra rằng, sự bất mãn nơi công sở có thể trở
thành động lực để người lao động nghĩ ra những ý tưởng mới.
"Trong nhiều thập kỷ qua, có vẻ như tất cả công ty trên thế giới đều quan tâm tới mức độ hài lòng với công việc
của người lao động. Tuy nhiên, chúng tôi lại cho rằng, sự bất mãn nơi công sở không hẳn là điều xấu", Jing
Zhou, một chuyên gia của Đại học Rice (Mỹ), phát biểu.
Để kiểm tra giả thuyết này, Zhou và cộng sự phỏng vấn 149 người tại một công ty chuyên thăm dò dầu mỏ. Đối
với người lao động trực tiếp, họ đưa ra những câu hỏi liên quan đến môi trường làm việc, văn hóa công ty và
mức độ hài lòng với công việc. Nhóm nghiên cứu cũng phỏng vấn nhóm quản lý, giám sát của công ty về những
người thợ có nhiều sáng kiến kỹ thuật nhất.
Kết quả hết sức bất ngờ: Những người tỏ ra bất mãn với công việc lại có nhiều sáng kiến nhất. "Điều này thực
sự trái với mong đợi của đa số chúng ta", Zhou nhận xét.
Zhou cho rằng những người không hài lòng với công việc luôn có 3 lựa chọn. Họ có thể trốn việc thường xuyên,
vẫn đi làm đều đặn nhưng hay tâm sự với mọi người về cảm giác bất mãn hoặc tìm kiếm công việc mới. Đương
nhiên những người muốn nhảy sang công ty khác hoặc trốn việc không hề có động lực thay đổi tình hình. Tuy
nhiên, những cá nhân thường xuyên than vãn thường dành nhiều thời gian ngẫm nghĩ về cách cải thiện mức độ
hài lòng trong công việc. Zhou cho rằng, đó là những "kho sáng kiến" mà nhà quản lý không nên bỏ qua.
Nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng sếp thường không thích nghe ý kiến của những nhân viên bất mãn với công việc, vì
thế mà nhiều ý tưởng hay của họ sẽ bị bóp chết. Sau khi phân tích kết quả cuộc khảo sát, Zhou nhận thấy phần
lớn sáng kiến của người bất mãn chỉ được phát huy với sự giúp đỡ của những đồng nghiệp biết lắng nghe và
chia sẻ.
Trong một nghiên cứu khác, giáo sư Bruce Charlton của Đại học Buckingham (Anh) tìm hiểu tác động của môi
trường làm việc đối với mức độ sáng tạo của các nhà khoa học. Ông phát hiện ra rằng nhiều người có phát
minh mới trong giai đoạn mà họ bất mãn với công việc.
>>KBZ 02:
Gene là thủ phạm gây cơn tam bành
Các nhà khoa học Đức vừa tìm ra một gene khiến một số cá nhân dễ nổi nóng hơn người khác mỗi khi bị kích
động.
Một nhóm chuyên gia của Đại học Bonn (Đức) yêu cầu hơn 800 người điền vào phiếu khảo sát với những câu
hỏi liên quan tới cách kiềm chế cơn giận dữ.
Sau đó, các nhà khoa học phân tích AND của những người tham gia cuộc khảo sát để tìm hiểu xem họ mang
phiên bản nào của DARPP-32. Đây là gene quy định nồng độ dopamine - một chất truyền dẫn thần kinh gây cảm
giác hưng phấn. Nếu nồng độ dopamine trong não quá cao, con người rất dễ nổi nóng, liều lĩnh hoặc bốc đồng.
Gene DARPP-32 có ba phiên bản: TT, TC và CC.
Kết quả phân tích cho thấy cá nhân sở hữu phiên bản TT và TC tỏ ra dễ nổi nóng hơn so với người có phiên bản
CC.
Martin Reuter, một thành viên trong nhóm nghiên cứu, phát biểu: "Nói theo cách khác, người sở hữu phiên bản
TT và TC không thể kiểm soát cảm xúc của họ một cách hiệu quả như người mang phiên bản CC".
So với các nước phương Đông, phiên bản TT và TC phổ biến hơn trong xã hội phương Tây. Nhiều nhà khoa học
cho rằng thói quen thể hiện sự giận dữ giúp con người dễ đạt được thành công trong cuộc sống.
"Tất nhiên, những cá nhân thường xuyên nổi nóng thái quá thường bị xa lánh. Song việc thể hiện sự giận dữ ở
mức độ hợp lý giúp chúng ta khẳng định vị thế trong xã hội", Reuter nhận xét.
Nhóm nghiên cứu nói thêm rằng, gene chỉ là một trong nhiều yếu tố khiến con người không kiểm soát được cảm
xúc và DARPP-32 cũng chỉ là một trong những gene khiến chúng ta dễ nổi nóng. Chỉ gần một nửa số người
nóng tính sở hữu những gene có tác dụng giống như DARPP-32.
Một nghiên cứu của Đại học Harvard (Mỹ) hồi đầu năm chỉ ra rằng, những người sẵn sàng thể hiện sự giận dữ
thường thành công hơn trong công việc và đời sống riêng tư so với những cá nhân hay kiềm chế cảm xúc.
Nghiên cứu cũng cho thấy, những người kiềm chế cơn giận ít nhất ba lần trong tuần có xu hướng bất mãn trong
cuộc sống cá nhân và khó thăng tiến trong sự nghiệp.
>>KBZ 03:
Đam mê cờ bạc mang tính di truyền
Các nhà khoa học Anh vừa phát hiện một gene khiến nhiều người thích mạo hiểm với tiền bạc.
Tiến sĩ Jonathan Roiser, một chuyên gia thần kinh của Đại học College London (UCL), cho biết, trong cơ thể
người có một gene liên quan tới quá trình vận chuyển serotonin - chất truyền dẫn thần kinh có khả năng điều
khiển tâm trạng của chúng ta. Gene chưa được đặt tên này có hai phiên bản ngắn và dài. Chúng đóng vai trò
quan trọng đối với quá trình ra quyết định, đặc biệt là khi con người đối mặt với cơ hội đánh bạc.
Roiser và cộng sự tuyển mộ 30 tình nguyện viên tham gia một thử nghiệm. Trong số tình nguyện viên có một số
người mang phiên bản ngắn. Họ được nhận 50 USD và đối mặt với hai lựa chọn: tiêu 30 USD hoặc đánh bạc với
toàn bộ số tiền. Nếu ai đó chọn đánh bạc thì nguy cơ mất sạch tiền là 60%, còn cơ hội có thêm 50 USD chỉ là
40%.
Kết quả cho thấy, phần lớn người sở hữu phiên bản gene ngắn muốn đánh bạc. Roiser cho rằng, việc sở hữu
phiên bản ngắn hay dài có thể ảnh hưởng tới mọi quyết định của con người trong cuộc sống thực.
"Chẳng hạn, những người kinh doanh tiền tệ trong ngân hàng cần phải đánh giá chính xác nguy cơ rủi ro để đưa
ra quyết định hợp lý. Họ không được phép để thông tin chi phối quá trình ra quyết định. Vì thế, chúng tôi cho rằng
những người sở hữu phiên bản gene dài sẽ tạo ra nhiều quyết định hợp lý hơn. Tất nhiên, giả thuyết này cần
được kiểm chứng bằng một nghiên cứu khác", Roiser nói.
Nếu giả thuyết đúng, có lẽ các ngân hàng nên phân tích gene của nhân viên trước khi lựa chọn người đảm nhận
công việc kinh doanh tiền tệ. Còn theo Roiser, con người trong mọi nền văn hóa luôn tuân theo một xu hướng
nào đó khi họ ra quyết định. Ngay cả khi được huấn luyện, chúng ta vẫn khó có thể thoát khỏi ảnh hưởng của
những xu hướng ấy.
>>KBZ 04:
Người cô đơn tìm thấy nguồn an ủi trong các nhân vật truyền hình
Đừng nghĩ rằng việc tìm đến các nhân vật trong "Mất tích" hay "Anh chị em" để thoát khỏi nỗi cô đơn chỉ là điều
hoang tưởng - nghiên cứu mới đây đã chỉ ra rằng những mối quan hệ ảo đó có thể giúp con người chống lại cô
đơn và buồn chán.
Các đối tượng trong một nghiên cứu đã nhanh chóng chuyển từ buồn bã vì nghĩ tới những khoảng thời gian bị
chối bỏ sang tâm trạng vui vẻ khi viết về các nhân vật và chương trình truyền hình ưa thích của họ. Đây là một
minh chứng cho "thuyết thay thế xã hội", ở đó ứng dụng công nghệ mang lại cho con người cảm giác được kết
nối với người khác trong khi họ thiếu các mối quan hệ thực tế.
"Cảm giác bị chối bỏ thường có tác động kinh khủng đối với chúng ta, bởi con người là một động vật mang tính
xã hội rất cao", theo Shira Gabriel, nhà tâm lí học thuộc trường Đại học Buffalo, New York, người đã tiến hành 4
nghiên cứu về đề tài này. "Nhưng với những show truyền hình yêu thích, chúng ta sẽ không còn cảm giác buồn
chán nữa."
Một vài nghiên cứu
Trong giai đoạn đầu của lĩnh vực nghiên cứu này, hầu hết các kết quả dựa trên các bản báo cáo của các sinh
viên đại học. Tuy nhiên, bốn nghiên cứu mới hơn được tiến hành sau này đã chỉ ra rằng thậm chí các mối quan
hệ với những nhân vật tiểu thuyết không có thực cũng có thể ảnh hưởng tới con người theo những cách rất
thực.
Các kết quả có thể lí giải cho việc một số show truyền hình có thể làm khán giả mê mẩn đến thế nào - điều đã
khiến các nhà tâm lí học và các bậc phụ huynh lo lắng về các hệ quả xã hội. Ngay cả nhà viết tiểu thuyết khoa
học Ray Bradbury cũng đã nói rằng cuốn truyện nổi tiếng của ông nói về nạn sao chép sách, "Fahrenheit 451,"
thật ra nói về vấn đề say mê mù quáng truyền hình nhiều hơn là về công tác kiểm duyệt.
Thực tế, nhân vật Midlred trong "Fahrenheit" thích dành thời gian cho "gia đình" tivi của cô hơn là với người
chồng sống bên cạnh mình. "Ôi tội nghiệp, tội nghiệp gia đình của tôi, mất hết rồi", Mildred đã than khóc như vậy
khi cô ta mất đi "gia đình" (tức chiếc tivi) của mình.
Có thể nêu ra rất nhiều dẫn chứng cho thấy trong thế giới thực này con người bị hấp dẫn bởi các nhân vật tiểu
thuyết trên truyền hình, trong sách vở và trong các trò chơi video đến thế nào. Sự cuồng nhiệt đối với một số
truyện, từ tiểu thuyết "Kiêu hãnh và định kiến" của Jane Austen tới truyện tranh và phim Batman ("Người dơi") có
thể nói lên tất cả.
"Nếu một buổi tối bạn chợt cảm thấy cô đơn hay tâm trạng không tốt, bạn có thể cầm một cuốn Harry Porter lên,
bạn sẽ cảm thấy như thể mình đang ở bên Harry hay Hermione hay Ron," Gabriel phát biểu với tờ LiveScience.
Cô so sánh điều này cũng giống như dùng một viên thuốc trong thời kì ăn kiêng để thoát khỏi cảm giác đói, còn
trong trường hợp này là để thoát khỏi nỗi thiếu vắng tình cảm đồng loại.
Các sinh viên trong một nghiên cứu của Gabriel đã kể lại việc họ bật xem kênh truyền hình yêu thích để ngăn
cảm giác cô đơn. Và những sinh viên viết một bài luận 10 phút về chương trình truyền hình yêu thích thể hiện ít
cảm giác cô đơn hơn so với những sinh viên viết về các chương trình không yêu thích hay về thành tích học tập.
Các nhà nghiên cứu trong ba hay bốn nghiên cứu cũng đã tác động tới cảm giác xã hội của các sinh viên, sau
đó sử dụng các bản tự đánh giá để đo trạng thái cảm xúc của họ. Những sinh viên dành thời gian suy nghĩ về
các chương trình truyền hình yêu thích dường như có xu hướng không bị tổn thương lòng tự trọng hoặc không bị
rơi sâu hơn vào tâm trạng không tốt.
Điều này phù hợp với các nghiên cứu trước đây đã kết luận rằng có mối liên hệ giữa tâm trạng buồn với xem tivi
nhiều hơn, cho dù người ta chưa biết được chiều hướng tác động trong mối liên hệ này là tốt hay xấu.
Các bước tiếp theo
Gabriel và các mối đồng nghiệp của bà đã bắt đầu tiến hành một nghiên cứu về: việc truyện hư cấu đáp ứng
được nhu cầu quan hệ xã hội có ảnh hưởng như thế nào tới cảm xúc của con người trong thế giới thực. Công
trình của họ được kì vọng sẽ đem lại nhiều kết quả hơn cho các nhà nghiên cứu đang cố tìm ra mối liên hệ giữa
các mối quan hệ xã hội trong thế giới thực và sự liên hệ với thế giới ảo.
Đôi khi ngay cả những người hâm mộ tivi cũng không thể tin được là họ bị ảnh hưởng bởi những truyện hư cấu
đến thế nào, Gabriel nói.
"Họ nghĩ rằng điều này gần như phi lí - bạn xem một chương trình hoặc đọc một cuốn sách và chắc chắn bạn sẽ
nghĩ 'Thật ngu ngốc, những con người này thậm chí không tồn tại,'" Gabriel nói. "Nhưng đó lại là điều tốt đẹp nhất
trong sự thấu cảm của con người."
Nghiên cứu đầy đủ sẽ được nói chi tiết trong ấn bản tháng 5 tới của tờ Tập san thử nghiệm tâm lí xã hội.
>>KBZ 05:
Bí mật của người dễ bị cám dỗ
Một nghiên cứu cho thấy não người có cả vùng 'tốt' và 'xấu'. Mỗi khi đối mặt với sự cám dỗ, vùng 'tốt' của người
có bản lĩnh hoạt động mạnh hơn. Nhưng ở người không có bản lĩnh, tình hình diễn ra theo chiều hướng trái
ngược.
Trong nhiều năm qua các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế, tâm lý, tôn giáo luôn trăn trở với câu hỏi: Tại sao một
số người có thể kiềm chế bản thân rất tốt mỗi khi đối mặt với cám dỗ, trong khi nhiều người khác không thể làm
điều tương tự?
Tiến sĩ Antonio Rangel, một nhà thần kinh học tại Viện Công nghệ California (Mỹ) cho biết: "Từ góc nhìn của khoa
học thần kinh hiện đại, chúng tôi muốn tìm hiểu những khác biệt về não của người luôn có hành vi đúng đắn với
những cá nhân dễ phạm phải hành vi sai".
Nhóm nghiên cứu của tiến sĩ Rangel yêu cầu các tình nguyện viên nhịn ăn rồi cho họ xem ảnh của 50 loại thực
phẩm (kẹo chocolate, rau súp lơ, ngô...). Các chuyên gia yêu cầu tình nguyện viên xếp hạng thực phẩm theo hai
tiêu chí: mùi vị và hàm lượng dưỡng chất. Sau đó, mỗi tình nguyên viên phải chọn một loại thực phẩm mà họ
cho là có lợi đối với sức khỏe
Trong thử nghiệm tiếp theo, nhóm nghiên cứu yêu cầu tình nguyện viên lựa chọn giữa thực phẩm có lợi cho sức
khỏe và các loại thực phẩm khác. Các nhà khoa học chụp cắt lớp não tình nguyện viên trong lúc họ ra quyết
định. Kết quả cho thấy vùng cầu não mái trước và vỏ thùy giữa trán có kiểu hoạt động hoàn toàn khác nhau.
Nếu tín hiệu ở vùng cầu não mái trước mạnh hơn, tình nguyện viên sẽ chọn thức ăn có lợi cho sức khỏe dù
chúng không ngon hoặc có hàm lượng dinh dưỡng thấp. Ngược lại, khi tín hiệu ở vỏ thùy giữa trán mạnh hơn,
họ chỉ chọn thực phẩm có mùi vị hấp dẫn dù biết chúng có hại cho sức khỏe.
"Sau nhiều thế kỷ tranh cãi, cuối cùng chúng tôi đã hiểu được cơ chế tự kiểm soát của não khi chúng ta đối mặt
với cám dỗ. Chúng tôi sẽ tiến hành thêm nhiều thử nghiệm khác để hiểu rõ hơn cách thức kiềm chế hành vi đối
với từng loại cám dỗ khác nhau", giáo sư Colin Camerer, một thành viên trong nhóm nghiên cứu, cho biết.
Nhóm nghiên cứu hy vọng phát hiện trên sẽ giúp họ tìm ra cách điều trị cho những người không có khả năng
kiềm chế bản thân.
>>KBZ 06:
Lăng nhăng chưa hẳn đã là bản chất của đàn ông
Từ nhiều thập kỷ nay các nhà sinh học vẫn cho rằng đàn ông hay lạng chạ còn phụ nữ kỹ tính hơn khi chọn bạn
tình. Nhưng một nghiên cứu mới lại chỉ ra rằng sự thực không đơn giản như thế.
Nghiên cứu được công bố trên số ra tháng này trên tạp chí Trends in Ecology and Evolution đã tiến hành đánh
giá dữ liệu thu được từ 18 vùng dân cư - từ người dân đảo Pitcairn đến Dogon tại Mali - và nhận thấy nhìn
chung đàn ông có nhiều con hơn phụ nữ. Điều này thì đúng với những gì chúng ta mong đợi từ quan điểm tồn tại
lâu đời rằng đàn ông lăng nhăng hơn.
Tuy nhiên giáo sư Gillian R. Brown thuộc trường Tâm lý tại Đại học St Andrews kiêm nhà nghiên cứu chính lại
cho rằng những khác biệt lớn về kiểu sinh sản thành công ở nam giới và nữ giới cũng được phát hiện.
Ví dụ ở các xã hội tại Botswana, Paraguay và Tanzania phụ nữ chứ không phải đàn ông thụ thai với nhiều bạn
tình.
Nghiên cứu của Brown đưa ra lời thách thức đối với nghiên cứu của Angus J. Bateman. Angus Bateman tiến
hành nghiên cứu vào năm 1948 về thói quen giao phối ở ruồi giấm. Bateman phát hiện thấy ruồi giấm đực có
nhiều bạn tình hơn và có số lượng con nhiều hơn so với ruồi giấm cái.
Theo Bateman, do quá trình hình thành trứng khó hơn so với tinh trùng nên con cháu của ruồi giấm cái bị hạn
chế bởi chính khả năng hình thành trứng; trong khi đó sự thành công trong sinh sản của ruồi giấm đực lại chỉ bị
hạn chế bởi số lượng con cái mà nó thụ tinh.
Trong những năm sau đó, những phát hiện ở ruồi giấm cũng được áp dụng đối với các loài khác, trong đó có
con người. Nhưng nghiên cứu của Brown lại cho thấy ở một số nhóm dân cư nghiên cứu của Bateman về con
cháu không đúng.
Brown viết: "Bằng chứng về sự khác biệt giới tính trong khả năng sinh sản thành công không cho phép chúng ta
khái quát hóa về vai trò của hai giới, bởi có nhiều biến số tác động đến cả hai".
Phụ nữ đa tình chẳng kém đàn ông.
Kích cỡ của quần thể là một biến số như thế: cả nữ giới và nam giới đều sẽ rất kỹ tính khi chọn bạn tình nếu có
nhiều lựa chọn, ví dụ như ở một thành phố lớn chẳng hạn. Ngược lại cả hai giới đều sẽ không kén cá chọn canh
nếu sinh sống ở vùng dân cư thấp. Trong điều kiện như thế cả nam giới và nữ giới đều bằng lòng với đối tượng
mà họ có được.
Brown nói: "Chúng tôi cho rằng hành vi của con người càng đa dạng và linh hoạt thì lời giải thích của Bateman về
vai trò của hai giới sẽ kém thuyết phục hơn. Nam giới và nữ giới nên được mô tả đúng như quan điểm của các
nhà tâm lý học tiến hóa. Quan điểm cho rằng chúng ta có thể dự đoán mọi điều về vai trò giới tính của con người
dựa trên những cái giá phải trả khác nhau về việc sản sinh tinh trùng hay trứng là giản dị thái quá".
Nghiên cứu của Brown cũng hướng đến vấn đề về sinh sản ở những quan hệ một vợ một chồng. Trong khi 16%
các xã hội nghiên cứu có hệ thống hôn nhân một vợ một chồng họ đã tạo nên tỷ lệ mối quan hệ lớn trong xã hội
phát triển. Ở những xã hội như thế, sự khác biệt trong khả năng sinh sản thành công ở cả nam và nữ không
đáng kể. Bên cạnh đó, một nửa số cuộc hôn nhân thuộc xã hội đa thê trên thế giới - chiếm 83% xã hội - chỉ có
5% đàn ông lấy hơn 1 vợ.
Brown rất thận trọng khi chỉ ra rằng nghiên cứu không bao gồm dữ liệu về con số bạn tình thực sự. Lý do là các
nghiên cứu đưa ra những con số thống kê này không xác thực, những con số này chỉ nhằm giải thích cho những
khó khăn toán học rằng đàn ông có nhiều bạn tình hơn phụ nữ. Một nghiên cứu tương tự như thế do Trung tâm
thống kê sức khỏe quốc gia tiến hành khẳng định rằng đàn ông có trung bình 7 bạn tình trong cuộc đời, trong khi
phụ nữ chỉ có 4.
Brown cho biết: "Con số này không thể đúng về mặt lôgic nếu chúng ta coi đó là các mối quan hệ giữa hai giới
khác nhau, tất cả các cá thể đều phải được phỏng vấn. Chúng tôi chỉ đặc biệt hứng thú với việc tìm hiểu liệu sự
khác biệt trong khả năng giao phối thành công có tồn tại ở nam giới và nữ giới, nhưng các nghiên cứu nói trên
không phải là bằng chứng đáng tin cậy".
Thực vậy, các nghiên cứu trong quá khứ cho thấy rằng con người không chỉ dựa vào những khảo sát như thế
mà cũng thú nhận những kết luận vô căn cứ của họ về sau.
Các bằng chứng thống kê có thể dễ dàng thu thập được từ ruồi giấm, nhưng ứng dụng của những con số này
đối với con người có hoạt động phức tạp hơn lại không dễ dàng mang lại kết quả.
>>KBZ 07:
Có thể đoán nguy cơ đổ vỡ hôn nhân qua ảnh
Các nhà khoa học của Đại học DePauw (Mỹ) khẳng định những đứa trẻ cười tươi khi chụp ảnh thường có cuộc
hôn nhân bền vững hơn so với người cau mày. Thậm chí ngay cả các bức ảnh mà một cá nhân chụp ở tuổi thứ
năm cũng có thể nói lên nhiều điều về con đường hôn nhân của người đó trong tương lai.
Để chứng minh nhận định trên, một nhóm chuyên gia của Đại học DePauw tìm hiểu 650 người trưởng thành
trong độ tuổi 21-87. Họ yêu cầu tình nguyện viên cung cấp những bức ảnh được chụp trong các năm học cuối
cấp. Nhóm nghiên cứu đánh giá mức độ rạng rỡ trong nụ cười của từng người theo một thang điểm. Sau đó các
nhà khoa học hỏi tình nguyện viên về tình trạng hôn nhân.
Kết quả cho thấy mức độ mở miệng khi cười của mỗi cá nhân có mối liên hệ với nguy cơ đổ vỡ trong hôn nhân.
"Những đứa trẻ không cười hoặc cau mày khi chụp ảnh có khả năng li dị cao gấp ba lần so với người khác khi
chúng lớn lên", nhóm nghiên cứu tuyên bố.
Để củng cố kết luận này, các nhà khoa học tiếp tục tiến hành thêm một thử nghiệm nữa, trong đó họ chỉ chọn
những bức ảnh mà tình nguyện viên chụp ở tuổi thứ năm. Nhóm nghiên cứu nhận thấy tỷ lệ ly hôn ở những trẻ
không cười vẫn cao gấp ba lần so với các em cười tươi nhất.
Các chuyên gia cho rằng trẻ em hay cười và cười tươi sẽ trở thành người lạc quan, yêu đời khi chúng lớn lên.
Những người như vậy thường không buông xuôi khi gặp khó khăn trong công việc và cuộc sống tình cảm. Ngoài
ra, những cá nhân lạc quan cũng có xu hướng kết hôn với người có cá tính giống họ. Vì thế mà hôn nhân của họ
ít có nguy cơ đổ vỡ.
>>KBZ 08:
Giấc ngủ giúp "quét dọn" não
Nếu bạn từng bị mất ngủ, bạn sẽ biết cảm giác đầu óc mơ màng, mụ mị.
Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science ngày 3 tháng 4 đưa ra bằng chứng về cảm giác mơ hồ đó -
protein tích lũy trong não của những con ruồi giấm mất ngủ và nồng độ protein giảm ở những con ruồi được nghỉ
ngơi đầy đủ. Protein này nằm trong các khớp thần kinh, một phần của nơron thần kinh cho phép các tế bào não
liên lạc với các nơron thần kinh khác. Các nhà nghiên cứu tuộc Đại học Y tế cộng đồng Wisconsin-Madison tin
rằng đó là minh chứng cho lý thuyết "điều bình khớp thần kinh". Đây là ý tưởng cho rằng các khớp thần kinh sẽ
khỏe hơn khi chúng ta thức vì chúng ta luôn luôn học hỏi và thích nghi với môi trường, và giấc ngủ sẽ đưa khiến
các khớp thần kinh yếu đi. Điều này rất quan trọng vì khớp thần kinh lớn hơn sẽ tiêu tốn nhiều năng lượng, chiếm
nhiều không gian và cần nhiều các nguồn cung cấp, bao gồm protein kể trên.
Giấc ngủ - qua việc cho phép thu nhỏ khớp thần kinh - giúp tiết kiệm năng lượng, không gian và vật liệu đồng
thời làm sạch những "tiếng ồn" không cần thiết từ ngày hôm trước. Từ đó, não của chúng ta sẽ sẵn sàng để tiếp
tục nạp thêm thông tin mới vào ngày hôm sau.
Các nhà nghiên cứu - Giorgio Gilestro, Giulio Tononi và Chiara Cirelli thuộc Trung tâm nghiên cứu giấc ngủ và ý
thức - phát hiện rằng nồng độ của protein chứa thông điệp trong các khớp thần kinh giữa các nơron giảm từ 30
đến 40% khi ngủ.
Trong bài báo trên Science, những bức ảnh 3 chiều sử dụng kính hiển vi cùng tiêu điểm cho thấy não của ruồi
giấm mất ngủ chứa đầy protein khớp thần kinh, gọi là Bruchpilot (BRP), một thành phần của của hệ thống não
cho phép các nơron liên lạc với nhau. Ở những con ruồi được nghỉ ngơi đầy đủ, nồng độ BRP và 4 loại protein
khớp thần kinh khác quay trở lại nồng độ thấp hơn, cho thấy giấc ngủ tái khởi động não để có thể thu nạp thêm
kiến thức và thông tin vào ngày hôm sau.
Cirelli, giáo sư về tâm thần học, cho biết: "Chúng tôi biết rằng giấc ngủ rất cần thiết để não của chúng ta có thể
hoạt động bình thường, học thêm những điều mới hàng ngày, và đồng thời, trong một số trường hợp, tổng hợp
những gì chúng ta thu nạp trong một ngày. Khi ngủ, chúng tôi cho rằng hầu hết, nếu không phải tất cả, các khớp
thần kinh được thu nhỏ lại. Cuối giấc ngủ, khớp thần kinh khỏe nhất thu nhỏ lại, trong khi khớp thần kinh yếu nhất
thậm chí biến mất".
Quan sát bằng kính hiển vi cùng tiêu điểm cho thấy quá trình này diễn ra ở 3 phần chính của não ruồi giấm liên
quan đến khả năng học hỏi.
Bên trái, não của ruồi được nghỉ ngơi đầy đủ có nồng độ protein BRP cao. Bên phải, não của ruồi mất ngủ có
màu cam ở khu vực tập trung BRP. (Bruchpilot hoạc BRP là protein có nhiệm vụ giữ liên lạc giữa các nơron
thần kinh). Ở ruồi mệt mỏi, protein này có nồng độ cao ở 3 khu vực chính trong não ruồi liên quan đến khả năng
học hỏi. Ngủ sẽ là giảm nồng độ của protein này, có nghĩa rằng các khớp thần kinh nhỏ hơn và yếu hơn. Chu
trình này gọi là "tái sắp xếp", để não được đưa trở về mức độ hoạt động thần kinh bình thường và bắt đầu tiếp
nạp kiến thức vào ngày hôm sau.
Trong bài báo được công bố năm ngoái, Tononi, Cirelli và các đồng tác giả phát hiện những thay đổi hóa học
tương tự trong khớp thần kinh của não chuột. Họ cũng cho thấy não của chuột có phản ứng mạnh hơn đối với
kích thích điện sau khi thức, và phản ứng yếu hơn sau khi ngủ. Phát hiện đó cung cấp thêm bằng chứng, sử
dụng kỹ thuật điện sinh lý học chứ không phải kỹ thuật phần tử, phù hợp với ý tưởng rằng khớp thần kinh trở nên
khỏe hơn vào ban ngày, và yếu hơn khi ngủ. Vì giấc ngủ có chức năng tương tự ở các loài vật khác nhau như
chuột và ruồi giấm, Cirelli cho biết đặc điểm này được tiến hóa duy trì, và có ý nghĩa quan trọng đối với sức khỏe
và khả năng sống sót của một loài vật.
Phòng thí nghiệm Wisconsin là nơi tiên phong trong những phương pháp nghiên cứu giấc ngủ ở những loài vật
khác nhau, bao gồm ruồi giấm.
Để giữ những con ruồi tỉnh táo, các nhà nghiên cứu đưa chúng vào một "máy kích thích" chứa 10 đĩa, một đĩa
chứa 32 con ruồi. Một cánh tay robot thỉnh thoảng lắc các đĩa để giữ những con ruồi tỉnh táo.
Những con ruồi mất ngủ ít nhất trong 24 tiếng. Các nhà nghiên cứu sau đó kiểm tra não của chúng và đo nồng
độ của 4 loại protein tiền khớp thần kinh và 1 protein hậu khớp thần kinh. Kết quả cho thấy nồng độ protein tăng
nhanh chóng khi ruồi tỉnh táo và giảm sau khi ngủ. Các thí nghiệm khác khẳng định rằng sự thay đổi nồng độ
protein không phải do sự tiếp xúc với ánh sáng và bóng tối hoặc kích thích, mà do ngủ và thức. Họ cũng sử dụng
kính hiển vi cùng tiêu điểm và kháng thể có khả năng nhận biết BRP để xác định sự biểu hiện của protein này ở
những phần não khác nhau của ruồi giấm.
Nồng độ protein khớp thần kinh cao hơn khi thức có thể là dấu hiệu của những trải nghiệm ngẫu nhiên được nhồi
vào não hàng ngày, và cần được xóa sạch để tạo khoảng trống cho học hỏi và những ký ức thực sự quan trọng.
Cirelli cho biết: "Hầu hết những gì chúng ta học trong một ngày, chúng ta không thực sự cần phải nhớ. Nếu sử
dụng hết không gian sẵn có trong não, bạn không thể học thêm được gì cho đến khi bạn xóa sạch những gì
không cần thiết".
>>KBZ 09:
Tại sao chúng ta lại có vân tay?
Không giống hầu hết các nếp nhăn trên cơ thể hình thành do sự uốn cong và co giãn của da, vân tay không phải
là kết quả của những hành động lặp đi lặp lại. Mỗi người trong chúng ta sinh ra đều có hệ vân tay đặc biệt, mặc
dù các nhà khoa học không chắc chắn lắm về vai trò của vân tay.
Một mục đích tiềm năng của vân tay đó là chúng cải thiện khả năng xúc giác của chúng ta. Trong một nghiên
cứu mới, các nhà khoa học đã kiểm định quan điểm này bằng cách thực hiện nhiều thí nghiệm với ngón tay giả
làm từ cảm biến giống cao su. Họ đã so sánh độ nhạy cảm của các ngón tay nhân tạo có rãnh và vật chất mềm
mại giống da. Từ đó họ phát hiện thấy rằng ngón tay có vân tay tạo ra những rung động mạnh hơn tới 100 lần so
với vật liệu mềm như da khi trượt nhẹ trên một bề mặt khá thô ráp.
Theo một nghiên cứu mới, các đường vân tay làm tăng khả năng cảm nhận kết cấu bề mặt của chúng ta. (Ảnh:
Wikimedia)
Các nhà nghiên cứu thuộc trường Ecole Normale Superieure tại Paris giải thích rằng chính rung động được tăng
cường này đã làm tăng khả năng xúc giác của con người, đặc biệt đối với mục đích cảm nhận bề mặt. Khi xoa
ngón tay trên bề mặt có kết cấu, vân tay của chúng ta sẽ khuếch đại rung động trong một khoảng tần số cực
thuận nhằm kích thích huyết cầu Pacinian - đây là các đầu mối thần kinh nằm trong da giúp phát hiện kết cấu bề
mặt. Ngược lại, thông tin về bề mặt giúp chúng ta phân biệt các vật thể dựa vào xúc giác.
Theo kết quả của nghiên cứu, không chỉ có hệ thần kinh mới mới có vai trò trong tính toán xúc giác mà đặc điểm
tự nhiên của cơ thể chúng ta cũng tăng cường khả năng tính toán đó khi cảm nhận.
Tuy nhiên nghiên cứu không giải thích tại sao dấu vân tay của mỗi người lại mang tính đặc trưng hoặc tại sao
dấu vân tay của chúng ta lại được xắp xếp đặc trưng dưới dạng xoáy hình elip. Các nhà khoa học cho rằng hình
dạng khép kín giúp đảm bảo các đường rãnh luôn luôn chạm theo phương thẳng đứng đối với bề mặt dù cho
ngón tay có ở hướng nào đi chăng nữa. Ngoài ra họ cũng cho rằng nghiên cứu này có thể giúp tăng cường phản
hồi xúc giác cho những bàn tay giả.
>>KBZ 10:
Tác động của tiến hóa đối với sinh thái
Các nhà khoa học đã kết luận rằng môi trường khác nhau có tác động đến sự tiến hóa của loài mới. Các thí
nghiệm được thực hiện tại Đại học British Columbia lần đầu tiên cho thấy điều ngược lại cũng đúng.
Các nhà khoa học thuộc Trung tâm nghiên cứu đa dạng sinh hóa UBC đã tạo ra một hệ sinh thái mini trong một
bể nước lớn, sử dụng những loại cá 3 gai (three-spine stickleback) khác nhau và quan sát những khác biệt trong
mô hình hệ sinh thái này sau ít nhất 11 tuần.
Phát hiện của họ được công bố trên tạp chí Nature số ngày 1 tháng 4.
Cá gai có nguồn gốc từ biển nhưng bắt đầu xuất hiện trong các hồ nước ngọt và suối sau kỷ băng hà cuối cùng.
Trong hơn 10.000 năm qua - khoảng thời gian khá ngắn trong chu trình tiến hóa - những loài khác nhau với đặc
điểm thể chất riêng biệt đã hình thành trong một số hồ nước ngọt.
Nghiên cứu của UBC bao gồm những loài được tìm thấy trong các hồ nước tại British Columbia đã tiến hóa
những đặc điểm thể chất riêng biệt: limnetic stickleback (loại cá nước ngọt nhỏ hơn với miệng hẹp hơn), benthic
stickleback (cá nước ngọt lớn hơn với miệng lớn hơn) và một loại khác có thể thuộc loài tổ tiên của hai loài cá
trên.
Tác giả chính của nghiên cứu Luke Harmon, hiện là giáo sư của Đại học Idaho, cho biết: "Đơn giản chỉ là những
gì chúng ăn, cách sinh hoạt, thậm chí những loài trẻ đa dạng hóa "gần đây" cũng có tác động lớn đến mạng lưới
thức ăn. Nghiên cứu này là một trong những bằng chứng cho thấy sự đa dạng hóa của loài có vai trò rất quan
trọng".
Những phân tích thêm cho thấy bể với hai loài cá mới nhất có lượng phân tử cácbon hữu cơ lớn hơn. Chúng
chặn ánh sáng mặt trời đi sâu vào trong nước và hạn chế sự phát triển của thực vật. Đồng tác giả Blake
Mathhews, nhà nghiên cứu thuộc Eawag, Học viện công nghệ và khoa học nước Thụy Sĩ, cho biết: "Nghiên cứu
của chúng tôi cho thấy qua việc tiến hóa, cá gai (stickleback) có thể điều chỉnh môi trường sáng ở hệ sinh thái
mà chúng sinh sống. Nó cũng chứng minh rằng sự hình thành loài săn mồi có thể làm thấy đổi chu trình tiến hóa
của các sinh vật khác trong mạng lưới thức ăn".
Đồng tác giả, giáo sư Dolph Schluter, kết luận: "Một loài mới xuất hiện từ một loài tổ tiên và tiến hóa theo những
cách nhằm tận dụng môi trường, do đó làm thay đổi hệ sinh thái quanh nó. Chúng ta mới chỉ có những hiểu biết
ban đầu về quá trình này".
>>KBZ 11:
Kích thước vòng eo là dấu hiệu của suy tim
Ngày càng nhiều bằng chứng cho thấy kích thước vòng eo có mối liên hệ quan trọng với suy tim. Một nghiên cứu
do các nhà khoa học thuộc Trung tâm y tế Beth Israel Deaconess (BIDMC) thực hiện đã phát hiện rằng đối với
những người trung niên hoặc già hơn, chu vi vòng eo càng lớn thì nguy cơ suy tim càng cao.
Phát hiện này, được công bố trực tiếp trên tạp chí Circulation: Heart Failure, số ngày 7 tháng 4, cho thấy kích
thước vòng eo tăng lên là dấu hiệu của suy tim, kể cả khi chỉ số cân nặng và chiều cao cơ thể (BMI) nằm trong
giới hạn bình thường.
Emily Levitan, tác giả chính của nghiên cứu, thuộc Đơn vị nghiên cứu tim mạch BIDMC, cho biết:"Hiện tại, 66%
người trưởng thành tại Hoa Kỳ thừa cân hoặc béo phì. Tỷ lệ suy tim tăng cao trong giai đoạn từ 1989 và 1999, do
đó chúng tôi muốn tìm hiểu liệu béo phì có phải là nhân tố gây ra tình trạng này hay không".
Suy tim, tình trạng đe dọa đến tính mạng xuất hiện khi tim không thể bơm đủ máu cung cấp cho cơ thể, thường
do một số vấn đề liên quan đến tim gây ra, bao gồm huyết áp cao và bệnh động mạch vành. Suy tim là nguyên
nhân nhập viện cao nhất ở những bệnh nhân từ 65 tuổi trở lên, và thường đi kèm với triệu chứng mệt mỏi, đi lại
khó khăn, nhịp tim nhanh và không ổn định, và ho hoặc thở khò khè.
Các nhà nghiên cứu xem xét hai nghiên cứu tại Thuy Điển, một nghiên cứu với sự tham gia của 36.873 phụ nữ
ở độ tuổi từ 48 đến 83, nghiên cứu còn lại bao gồm 43.487 đàn ông ở độ tuổi từ 45 đến 79. Họ trả lời một bảng
câu hỏi về thông tin cân nặng, chiều cao và chu vi vòng eo. Trong khoảng thời gian 7 năm từ tháng 1 năm 1998
đến tháng 12 năm 2004, các nhà nghiên cứu báo cáo 382 trường hợp suy tim lần đầu tiên ở phụ nữ (357 nhập
viện và 25 tử vong), và 718 trường hợp suy tim lần đầu tiên ở đàn ông (679 nhập viện và 39 tử vong).
Phân tích của họ phát hiện rằng, dựa trên những câu trả lời do những người tham gia cung cấp, 34% phụ nữ
thừa cân và 11% béo phì, trong khi 46% nam thừa cân và 10% béo phì. Levitan giải thích: "Bằng bất cứ cách đo
nào - BMI, chu vi vòng eo, tỷ lệ eo trên hông, và tỷ lệ eo trên chiều cao - phát hiện của chúng tôi cho thấy trọng
lượng cơ thể tỷ lệ thuận với nguy cơ suy tim".
Phân tích chi tiết hơn cho thấy phụ nữ với chỉ số BMI 25 (năm trong giới hạn bình thường), vòng eo tăng thêm 10
centimet thì tỷ lệ suy tim tăng 15%; phụ nữ với chỉ số BMI 30 có tỷ lệ suy tim tăng 18%. Ở đàn ông với chỉ số BMI
25, chu vi vòng eo tăng 10 centimet thì nguy cơ suy tim tăng 16%, tỷ lệ này tăng lên 18% khi chỉ số BMI là 30.
Thêm vào đó, đối với đàn ông, cứ mỗi đơn vị BMI tăng lên thì nguy cơ suy tim tăng 4%, bất chấp kích thước của
vòng eo. Đối với phụ nữ, nguy cơ suy tim chỉ liên quan đến kích thước vòng eo. Cuối cùng, các tác giả phát hiện
thấy mối liên hệ giữa BMI và suy tim giảm dần theo tuổi tác, có nghĩa rằng càng trẻ thì tác động của cân nặng với
tim mạch càng lớn.
Levitan cho biết: "Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ cho cơ thể một cân nặng vừa phải.
Nghiên cứu trước đây đã tìm hiểu nhiều loại bệnh tim và các vấn đề sức khỏe liên quan, và kết quả đều rất nhất
quán, cho thấy trọng lượng cơ thể vượt quá làm tăng nguy cơ suy tim".
Đồng tác giả bao gồm nhà nghiên cứu Murray A. Mittlema, thuộc BIDMC, Amy Z. Yang, BA và Alicja Wok,
DrMedSci.
Nghiên cứu do Học viện y quốc gia, Hội đồng nghiên cứu Thụy Điển và Quỹ nghiên cứu hợp tác quốc tế Thụy
Điển tài trợ.
>>KBZ 12:
Tình yêu sét đánh cũng mang tính di truyền
Theo một nghiên cứu mới, tình yêu sét đánh thực sự tồn tại, ít nhất là xét về góc độ di truyền học.
Trong một nghiên cứu tiến hành trên ruồi giấm (nhưng rất có ý nghĩa đối với con người) các nhà khoa học nhận
thấy con cái có thể cảm nhận con đực nào phù hợp về mặt di truyền với chúng hơn, và có thể sinh sản nhiều
trứng hơn sau khi giao phối so với khi con cái giao phối với những con đực kém phù hợp khác. Phát hiện của
nghiên cứu cho thấy con cái bằng cách nào đó đã đánh giá bạn tình tiềm năng ngay từ lần gặp đầu tiên và phản
ứng để thúc đẩy các cơ hội sản sinh ra con cháu thành công.
Các nhà nghiên cứu đã cho ruồi giấm cái giao phối với con đực cùng loài và với con đực thuộc loài khác; sau đó
họ ghi lại sự khác biệt trong đặc điểm và hành vi sinh sản ngay sau khi giao phối. Khi con cái giao phối với con
đực khác loài, chúng có thể biết được rằng những con đực này phù hợp hơn về mặt di truyền. Có lẽ bởi vì con
cháu của chúng sẽ ít có khả năng lai cùng dòng, chúng đẻ nhiều trứng hơn và có nhiều con hơn.
Dường như con cái có thể cảm nhận được con đực nào có quan hệ gần gũi với chúng, đây là một nhân tốt dẫn
đến các khiếm khuyết di truyền, đồng thời con cái cũng phản ứng mạnh hơn đối với những con đực có khả năng
sản sinh con cháu khỏe mạnh hơn.
Đồng tác giả của nghiên cứu Andrew Clark thuộc Đại học Cornell cho rằng: "Bạn có thể gọi đó là yêu ngay từ
cuộc chạm trán đầu tiên. Quan điểm này có lẽ là chính xác nhất bởi chúng ta không thực sự hiểu được tại sao
cuộc gặp gỡ này lại làm thay đổi phản ứng của chúng". Ông giải thích thêm rằng không chỉ bao gồm sự gặp gỡ,
ánh nhìn, hay mùi hương, âm thanh hoặc giác quan nào đó đã cảnh báo với con cái rằng bạn tình phù hợp về
mặt sinh học của nó đang ở gần.
Các nhà khoa học phát hiện ra rằng ruồi giấm cái dường như ở trong tình trạng được báo hiệu trước thậm chí
trước khi gặp con đực, khi đó các chất hóa học và protein cần thiết cho phản xạ đã sẵn sàng mà không cần phải
kích hoạt thêm gen mới đúng như họ dự đoán.
Tình yêu sét đánh cũng mang tính di truyền (Ảnh : sinhcon.com)
Clark cho biết: "Quan điểm về sự báo hiệu chính là ngay cả khi con cái không nhìn thấy con đực, cơ thể nó đã
sẵn sàng với những protein cần thiết. Nó đã được khởi động để yêu. Do đó các phản ứng với các con đực khác
nhau có thể khác nhau chính là vì tình trạng báo hiệu trước này".
Các nhà nghiên cứu cho rằng tập tính giao phối ở ruồi giấm và con người rất khác nhau nên khó có thể mở rộng
những phát hiện này đối với con người dù rằng có thể phụ nữ cũng cảm nhận được người đàn ông nào thích
hợp về mặt di truyền đối với họ. Cơ thể phụ nữ cũng có thể phản xạ theo một cách nào đó làm tăng cơ hội giao
hợp thành công.
Clark cho biết: "Ở động vật có vú, trong đó có con người, câu trả lời dường như là "có". Thành công của việc
mang thai đã khẳng định thêm về cảm giác của nữ giới đối với nam giới, đây cũng chính là kết quả của chất
lượng di truyền của con đực".
Ông đã mô tả một thí nghiệm về áo phông rất nổi tiếng ở con người. Mọi người dường như có xu hướng thích
mùi của những chiếc áo phông thuộc về các cá nhân dường như không tương ứng với họ về mặt di truyền, có lẽ
đó là cách mà cơ thể chúng ta phòng tránh giao phối gần.
Tác giả chính Mariana Wolfner, giáo sư khoa sinh học phát triển tại đại học Cornell, cho biết: "Chúng tôi cũng
quan sát thấy con đực khác loài thường thành công hơn trong việc sinh con đẻ cái đối với con cái ở cả hai loài
ruồi giấm trong thí nghiệm. Chúng ta có thể tưởng tượng rằng điều này xảy ra ở bất cứ loài nào nếu một con đực
nào đó sản sinh nhiều tinh trùng hơn, hay tinh trùng của nó có thể khả năng tới được hoặc thụ tinh cho trứng tốt
hơn, hoặc nó có thể có nhiều loại protein trong tinh dịch có thể tương tác tốt hơn với đặc điểm sinh lý của bạn
tình. Nhưng tôi chưa phát hiện bằng chứng nào cụ thể về điều này ở con người".
Nghiên cứu được công bố chi tiết trên số ra tháng 4, 2009 tạp chí GENETICS.
>>KBZ 13:
Uống nước trước khi thi sẽ đạt điểm cao hơn
Một nghiên cứu cho thấy trẻ em uống nhiều nước trước khi làm bài kiểm tra sẽ đạt điểm cao hơn so với nếu
không uống.
Nguyên nhân của hiện tượng này vẫn chưa được tìm ra, song rất có thể não chúng ta xử lý thông tin tốt hơn khi
tế bào thần kinh nhận được nhiều nước.
Các nhà khoa học của Đại học East London tìm hiểu các tác dụng của nước đối với khả năng học tập của 60
học sinh (cả nam và nữ) trong độ tuổi 7-9. Nhóm nghiên cứu yêu cầu tất cả học sinh làm một số bài kiểm tra để
kiểm tra khả năng nhận thức, suy luận và ghi nhớ. Sau đó họ yêu cầu một nửa đối tượng tham gia thử nghiệm
uống 250 ml nước, còn những em kia không uống gì.
Đúng 20 phút sau, cả hai nhóm lại làm các dạng bài kiểm tra tương tự nhưng với nội dung khác. Kết quả cho
thấy điểm trung bình của nhóm uống nước trong lần thứ hai cao hơn 34% so với lần trước, trong kết quả của
nhóm kia không thay đổi. Khi tăng mức độ khó của các bài kiểm tra, nhóm uống nước vẫn đạt kết quả cao hơn
23%. Nhưng đối với các bài kiểm tra được thiết kế để đánh giá khả năng ghi nhớ ngắn hạn, nhóm nghiên cứu
không nhận thấy bất kỳ khác biệt nào giữa hai nhóm ở cả hai lần.
"Sau khi uống nhiều nước, trẻ em làm một số dạng bài tập tốt hơn hẳn. Phát hiện của chúng tôi cho thấy nước
có thể tác động tích cực tới khả năng tư duy của trẻ em", tiến sĩ Caroline Edmonds, trưởng nhóm nghiên cứu,
phát biểu.
Theo Edmonds, rất có thể nước làm tăng tốc độ truyền thông tin giữa các tế bào não. Một khả năng khác là
những người uống nước không bị phân tán tư tưởng bởi cảm giác khát nước. Nhiều nghiên cứu trước đây
chứng minh rằng não người trưởng thành hoạt động hiệu quả hơn sau khi họ uống nước.
>>KBZ 14:
Vì sao gãi làm đỡ ngứa?
Đó là câu hỏi từng làm các khoa học gia nhức đầu và tranh cãi nhiều lần. Nhưng chuyện này dường như đã ngã
ngũ với phát hiện của các nhà nghiên cứu tại trường Đại học Minnesota (Mỹ). Theo đó hành động gãi sẽ ngăn
chặn hoạt động của một số tế bào thần kinh ở cột sống vốn chịu trách nhiệm gửi tín hiệu ngứa lên não.
Trước đây, các nhà khoa học đã xác định được một khu vực đặc biệt trong cột sống có vai trò chủ chốt trong
việc gây cảm giác ngứa trên cơ thể. Hoạt động của các tế bào ở khu vực cột sống kể trên trở nên "sôi động"
hơn nhiều khi các chất gây ngứa được đổ lên da.
Ở cuộc nghiên cứu này, vốn được thực hiện trên một số động vật linh trưởng, các nhà nghiên cứu phát hiện
hành động gãi ở vùng da bị ngứa sẽ ngăn chặn hoạt động của các tế bào kể trên, khiến cho cột sống không thể
gửi tín hiệu từ vùng da bị gãi lên não được.
Hãng truyền thông BBC dẫn lời nhà nghiên cứu Glenn Giesler bày tỏ hy vọng rằng kết quả cuộc nghiên cứu này
có thể mở đường cho việc lần đầu tiên tìm ra một cách thức hiệu quả để chữa trị chứng ngứa kinh niên, vốn do
rất nhiều loại bệnh khác nhau gây ra, từ zona tới AIDS hay các rắc rối ở túi mật...
Ông Giesler cho rằng đó có thể là một loại dược phẩm với khả năng ngăn chặn hoàn toàn các tế bào thần kinh
kể trên, từ đó làm cho bệnh nhân hết ngứa mà không gây tổn hại đến da. Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh đó là
một con đường dài, đòi hỏi nhiều cuộc nghiên cứu nữa.
Các chuyên gia cho biết ngứa và gãi là những biểu hiện rất phúc tạp có liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau,
chẳng hạn như cảm xúc và tâm lý.
>>KBZ 15:
Tại sao ta thấy người khác giới hấp dẫn
Oxytocin là loại hoóc môn có vai trò quyết định đối với hành vi xây dựng và duy trì quan hệ ở động vật có vú. Ở
người, tuyến yên là nơi sản xuất oxytocin. Nồng độ oxytocin trong cơ thể phụ nữ tăng lên khi họ sinh nở, cho con
bú và quan hệ tình dục. Một nghiên cứu gần đây cho thấy, hàm lượng oxytocin của phái đẹp cũng tăng lên khi họ
nhìn hoặc chạm vào đứa con mới sinh. Người có nồng độ oxytocin càng cao thì càng dễ tin người khác.
"Khi oxytocin chảy qua huyết quản, chúng ta có xu hướng thấy những người khác giới mà chúng ta không hề
quen biết trở nên đáng yêu hơn", Angeliki Theodorious, một nhà tâm lý của Đại học Bristol (Anh), cho biết.
Giới khoa học đã có bằng chứng cho thấy, oxytocin cũng tham gia vào quá trình xây dựng mối quan hệ giữa
người lớn với nhau. Những nam giới ngửi hoặc uống oxytocin nhớ khuôn mặt người lạ tốt hơn so với người
khác. Người có nồng độ oxytocin cao trong cơ thể cũng thường tỏ ra hào phóng hơn.
Để tìm hiểu vai trò của oxytocin với sự hấp dẫn giới tính, Theodoridou và cộng sự mời 96 nam giới và phụ nữ
tham gia một thử nghiệm. Họ chia tình nguyện viên thành hai nhóm rồi cho một nhóm ngửi oxytocin, còn nhóm
kia ngửi giả dược. Sau đó nhóm nghiên cứu cho họ xem ảnh của 48 người (cả nam và nữ) rồi yêu cầu họ đánh
giá mức độ hấp dẫn và mức độ đáng tin cậy của những người trong ảnh thông qua điểm số.
Kết quả cho thấy, dù vui hay buồn, điểm số về mức hấp dẫn và đáng tin cậy đối với ảnh của người khác giới của
nhóm ngửi oxytocin luôn cao hơn nhóm kia. Nhóm của Theodoridou không tìm hiểu oxytocin tác động tới quá
trình đánh giá sự việc của não thế nào. Tuy nhiên, bà suy đoán rằng hoóc môn này làm giảm hoạt động của
amygdala - vùng não sản sinh cảm giác sợ hãi.
Jennifer Bartz, một nhà tâm lý của Đại học Y khoa Mount Sinai (Mỹ), cho rằng, mặc dù nghiên cứu của
Theodoridou chứng minh rằng cả nam và nữ đều cảm thấy người khác giới hấp dẫn hơn và đáng tin hơn sau khi
ngửi oxytocin, song phản ứng của hai giới có thể khác nhau trong thực tế.
"Chúng ta cần phải tiến hành nghiên cứu khác để tìm hiểu xem liệu có sự khác biệt nào liên quan tới giới tính hay
không", Bartz nói. Nhiều công ty dược phẩm đã nghĩ tới việc kiếm tiền từ oxytocin. Chẳng hạn, một công ty tung
ra loại thuốc xịt có khả năng giúp những người gặp nhau lần đầu cảm thấy tin tưởng nhau hơn. Tuy nhiên, họ chỉ
đưa ra một số bằng chứng mơ hồ về công dụng của nó.
Trong tương lai, liệu người ta có thể tìm ra một loại thuốc xịt có khả năng khiến hai người khác giới lạ mặt yêu
nhau dù chưa biết gì về đối phương hay không ? Theodoridou cho rằng câu trả lời là "không". "Mà nếu có một loại
thuốc như vậy đi chăng nữa thì tôi cũng sẽ phản đối việc tung nó ra thị trường", bà phát biểu.
>>KBZ 16:
Trưa thứ ba là thời điểm căng thẳng nhất trong tuần
Nhiều người lao động tại Anh có một điểm chung khi đều cho biết, 11h45' trưa thứ ba là thời điểm họ cảm thấy
căng thẳng nhất trong mỗi tuần làm việc.
Bimuno - hãng sản xuất các sản phẩm bổ trợ sức khỏe tại Anh - tiến hành lấy ý kiến của 3.000 người lao động
về thời điểm mà họ cảm thấy căng thẳng nhất trong tuần.
"Người ta thường cho rằng thứ hai là ngày làm việc tồi tệ nhất trong tuần, nhưng điều đó không đúng trong cuộc
khảo sát của chúng tôi. Thứ ba mới là ngày tồi tệ nhất, xét trên cả phương diện khối lượng công việc và mức độ
căng thẳng", Graham Waters, một chuyên gia của Bimuno, nói.
Kết quả cho thấy, khoảng một nửa người tham gia cho biết 11h45' sáng thứ ba là thời điểm họ cảm thấy căng
thẳng nhất. Ngoài ra, người lao động cũng có xu hướng bỏ bữa trưa để làm việc trong thứ ba. Hơn 53% thừa
nhận họ không chú tâm vào công việc trong thứ hai và 20% nói họ thường rời khỏi nơi làm việc muộn hơn
thường lệ vào thứ ba.
Nhưng điều đáng lo ngại nhất là 23% người tham gia khẳng định họ cảm thấy căng thẳng vào mọi ngày làm việc
trong tuần và gần 15% cho rằng họ phải hứng chịu áp lực quá lớn. Khi được hỏi về nguyên nhân gây nên căng
thẳng, 12% đổ lỗi cho "sếp", trong khi 9% đổ lỗi cho đồng nghiệp.
Fiona Hunter, một chuyên gia dinh dưỡng hàng đầu tại Anh, nói: "Một thực tế là nhiều người đang hứng chịu sự
căng thẳng trong công việc. Nó có thể khiến chúng ta cảm thấy chán ăn và gây hại cho hệ tiêu hóa. Bạn nên
uống đủ nước, chọn thực phẩm phù hợp và dùng các sản phẩm bổ trợ sức khỏe để tăng cường khả năng miễn
dịch của cơ thể. Một cơ thể khỏe mạnh có thể giúp chúng ta vượt qua trạng thái căng thẳng, mệt mỏi khi phải
làm việc vất vả".
>>KBZ 17:
Phụ nữ dễ tiêu hoang trước ngày 'đèn đỏ'
Một nghiên cứu cho thấy, trong 10 ngày trước khi chu kỳ kinh nguyệt bắt đầu, phái đẹp thường không kiểm soát
được hành vi tiêu tiền khi họ đi mua sắm.
Trước đây nhiều nhà tâm lý tin rằng mua sắm lu bù là một trong những cách để phụ nữ đối phó với sự đảo lộn
hoặc mất cân bằng tâm lý do những thay đổi hoóc môn gây nên trước chu kỳ kinh nguyệt. Để kiểm chứng giả
thuyết này, các chuyên gia Đại học Hertfordshire (Anh) mời 443 phụ nữ tham gia một thử nghiệm. Nhóm nghiên
cứu yêu cầu tình nguyện viên theo dõi số tiền chi tiêu từng ngày trong tháng. Công việc này được thực hiện trong
nhiều tháng.
Các chuyên gia nhận thấy khả năng kiểm soát chi tiêu của những người phụ nữ này thay đổi theo chu kỳ. Cụ thể,
gần 2/3 tình nguyện viên thừa nhận họ sẵn sàng mua những thứ thật sự không cần thiết trong những ngày cuối
của chu kỳ. 63% nói rằng, so với những ngày khác trong tháng, họ tiêu nhiều hơn trong 10 ngày trước khi chu kỳ
mới bắt đầu.
"Phụ nữ có xu hướng tiêu tiền nhiều hơn và ít tính toán chi li hơn nếu họ đi mua sắm vào trong 10 ngày trước khi
kỳ kinh bắt đầu", giáo sư Karen Pine, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết.
Theo Pine thì phụ nữ luôn cảm thấy buồn chán, cáu giận hoặc căng thẳng trong khoảng thời gian trước chu kỳ
do những thay đổi hoóc môn (hiện tượng này xảy ra hàng tháng). Vì thế mà nhiều chị em, đặc biệt là những
người có thu nhập trung bình và cao, coi mua sắm là một trong những biện pháp để xua đuổi những cảm xúc
tiêu cực.
"Với phụ nữ, mua sắm là cách hợp lý hơn để giải tỏa cảm giác căng thẳng so với uống rượu hoặc sử dụng chất
kích thích. Nếu chị em lo lắng về nguy cơ tiêu xài phung phí thì họ không nên đi mua sắm trong những ngày
trước ngày hành kinh đầu tiên", Pine nhận xét.
>>KBZ 18:
Điều gì khiến con người khác với loài chuột?
Theo các nhà nghiên cứu, có một loại tế bào não bị bỏ sót lâu nay hình thành một trong những khía cạnh khiến
bộ não con người khác về cơ bản so với não của chuột nhắt hay chuột cống. Họ công bố phát hiện của họ trên
số ra ngày 11 tháng 3 tờ Neuroscience.
Các nhà khoa học thuộc Đại học trung tâm Y tế Rochester nhận thấy các tế bào hình sao ở người (những tế bào
được cho là chỉ hỗ trợ những tế bào não phát sáng, hay chính là nơron truyền tín hiệu điện) lớn hơn, nhanh hơn
và phức tạp hơn nhiều so với tế bào sao trong não chuột nhắt và chuột cống.
Tác giả kiêm tiến sĩ Nancy Ann Oberheim đồng thời là một sinh viên y khoa vừa mới hoàn thành luận văn tiến sĩ
về tế bào não hình sao cho biết: "Không có nhiều giữa khác biệt giữa não của người và não của loài gặm nhấm,
nhưng chúng tôi lại phát hiện thấy những khác biệt lớn trong tế bào hình sao. Những tế bào hình sao của chúng
ta nhanh hơn, lớn hơn và phức tạp hơn. Điều này có ý nghĩa lớn đối với phương thức mà não chúng ta xử lý
thông tin".
Nghiên cứu là một trong những khảo sát mở rộng nhất về tế bào não hình sao. Oberheim cùng các cộng sự đã
phát hiện một dạng tế bào sao trước đây chưa hề được biết đến chỉ có trong não người chứ không có trong não
của chuột. Nhóm nghiên cứu cũng nhận thấy dạng tế bào sao phổ biến nhất - tế bào sao nguyên sinh, lớn hơn
khoảng 2,6 lần so với tế bào cùng loại ở chuột. Trong khi đó các tế bào của người có các quá trình hoặc cấu trúc
liên quan đến các tế bào khác nhiều hơn gấp 10 lần so với loài chuột.
Chuyên gia thần kinh học Maiken Nedergaard, người chỉ đạo nghiên cứu, cho biết: "Chúng tôi vẫn chưa thể hiểu
thực sự tại sao não của con người lại có nhiều khả năng hơn não của các loài động vật khác. Một số người nghĩ
rằng đơn giản là não của con người lớn hơn thì đa tài hơn nhưng não của loài voi lớn hơn não của chúng ta
những nó lại không thực sự tháo vát. Vậy nên kích cỡ không phải là câu trả lời".
Nedergaard vừa có buổi nói chuyện tuần trước tại Hội nghị nghiên cứu Gordon thêm rằng: "Có thể bộ não con
người có nhiều khả năng hơn là do những tế bào sao của chúng ta phức tạp hơn cũng như mang năng lực xử lý
cao hơn. Các nghiên cứu ở loài gặm nhấm cho thấy những tế bào không thuộc hệ thần kinh cũng tham gia vào
quá trình xử lý thông tin, còn nghiên cứu của chúng tôi cho rằng chính những tế bào sao mang chức năng nhận
thức cao đã quy định chúng ta là con người".
Các tế bào hình sao từ lâu vốn được cho là các tế bào hỗ trợ một cách thụ động, một phương tiên để gắn kết
các tế bào não với nhau giống như keo dính. Nhiều sinh viên y học có thể chỉ mất vài phút cân nhắc đến những
tế bào hình sao trước khi chuyển sang họ hàng của chúng - chính là các nơron truyền các tín hiệu điện có tầm
quan trọng lớn đối với hầu hết những gì chúng ta làm. Chính hoạt động của các nơron đã tạo nên cái mà hầu hết
các nhà khoa học cho là hoạt động của bộ não. Và chính các nơron là đối tượng của các loại dược phẩm hiện
có nhằm vào tế bào não. Nếu các tế bào sao thực sự quan trọng, lý do có thể là vù chúng giúp tạo ra môi trường
lành mạnh hơn cho các nơron.
Hóa ra tế bào hình sao nhiều gấp 10 lần nơron, chúng bị đẩy đến ranh giới của khoa học thần kinh chỉ vì các
công cụ được sử dụng trong nghiên cứu bộ não. Các nhà khoa học xác định tín hiệu giữa các tế bào não chủ
yếu bằng cách quan sát hoạt động điện. Những các tế bào sao không phát sáng giống như nơron, do đó các kỹ
thuật thông thường không thể ghi lại hoạt động của chúng. Khi các nhà khoa học sử dụng kỹ thuật thông thường,
họ không thể chứng kiến được điều gì.
Ngoài việc nhận ra tính không hoàn thiện của công cụ, các nhà khoa học cũng cho rằng các tế bào sao khá tĩnh
lặng. Do đó Nedergaard đã tạo ra một phương thức mới nhằm phát hiện hoạt động của tế bào sao, từ đó phát
triển hệ thống laze phức tạp để quan sát hoạt động bằng cách xác định lượng canxi bên trong tế bào. Nhóm
nghiên cứu của bà đã phát hiện ra cái có thể được gọi là đời sống bí ẩn của tế bào sao, đồng thời mang lại một
loạt phát hiện gây sửng sốt. Tế bào sao sử dụng canxi để truyền tín hiệu đến các nơron, và các nơron đáp lại tín
hiệu này. Nơron và tế bào sao truyền tín hiệu qua lại, điều này cho thấy tế bào sao là đối tác trong "giao dịch" cơ
bản của não bộ, chúng chính là trung tâm của các tình trạng như đột quỵ, Alzheimer, động kinh và chấn thương
cột sống.
Trong bức ảnh chụp mô não, tế bào hình sao có màu vàng. (Ảnh: Image courtesy of University of Rochester
Medical Center)
Oberheim cho biết: "Niềm tin giáo điều rất khó thay đối, và một trong những niềm tin giáo điều của khoa học thần
kính là việc tế bào sao chỉ là những tế bào hỗ trợ không làm tròn nhiệm vụ. Quan điểm này sẽ phải mất một thời
gian để thay đổi, nhưng các nhà khoa học đang dần ý thức được. Những tế bào sao hiện giờ đã được coi là
thành viên tích cực trong các chức năng của não bộ cũng như quá trình xử lý cảm biến".
Hai hệ thống tín hiệu của bộ não - một bao gồm các nơron, và hệ thống còn lại bao gồm các tế bào hình sao -
có tác động bổ trợ cho nhau. Nơron truyền tín hiệu cực nhanh trong một khoảng cách dài - ví dụ như bàn tay
chúng ta chạm vào lò sưởi nóng, bộ não phát hiện ra nguy hiểm và điều khiển đưa tay ra xa ngay lập tức. Các tế
bào hình sao thì ngược lại, chúng truyền tín hiệu chậm hơn. Chức năng của chúng vẫn đang được các nhà khoa
học nghiên cứu.
Nedergaard cho biết: "Bộ não có chứa hai mạng lưới thông tin sử dụng các ngôn ngữ khác nhau. Một mạng lưới
điện tinh vi bao gồm các nơron truyền tín hiệu ngay lập tức. Còn mạng thứ hai chậm hơn nhiều bao gồm các tế
bào hình sao với tốc độ chậm hơn khoảng 10.000 lần nhưng lại có thể xử lý thông tin với mức độ tinh tế hơn
cùng với trí nhớ gợi lại được."
Nedergaard thêm rằng: "Không có một mô nào khác trong tế bào lại được cấu thành từ sự pha trộn giữa hai loại
tế bào hoàn thiện như sự phân bố của tế bào hình sao và nơron trong não. Cả hai đều tạo nên mạng lưới tín hiệu
trải rộng. Nơi và cách thức chúng tương tác khiến bộ não trở thành đề tài có sức lôi cuốn".
Để thực hiện nghiên cứu, nhóm các nhà khoa học đã tìm hiểu mô não được lấy từ 30 người đã trải qua phẫu
thuật đa phần là để chữa chứng động kinh hoặc u não. Họ đã so sánh các tế bào sao trong não người và các tế
bào sao trong não chuột nhắt và chuột cống. Ngoài những phát hiện nói trên, nhóm cũng nhận thấy những sự
khác biệt khác: Tế bào sao ở người truyền tín hiệu nhanh gấp 5 lần tốc độ ở chuột.
Những tế bào sao ở người được tổ chức thành các đơn vị phức tạp hơn gọi là vùng so với tế bào sao của loài
gặm nhấm. Trung bình một con vật thuộc loài gặm nhấp có hàng chục ngàn khớp thần kinh, trong khi nhóm
nghiên cứu nhận thấy một vùng ở người có thể có chứa tới 2 triệu khớp nối. Những vùng này là các nhóm tế bào
có tổ chức cao, dường như chúng được sắp đặt vị trí một cách chính xác, giống như phân tử trong pha lê vậy.
Theo Nedergaard sự tổ chức này rất quan trọng đối với việc xử lý thông tin. Bà cũng nhấn mạnh rằng các tổn
thương não có liên quan đến sự thiếu hụt tổ chức vùng của tế bào hình sao đồng thời chức năng nhận thức bị
suy giảm.
Đối với con người, những tế bào được gọi là tế bào hình sao sơi chủ yếu có chức năng hỗ trợ cấu trúc nhìn
chung lớn gấp đôi tế bào cùng loại ở chuột nhắt và chuộc cống. Ngoài ra, con người cũng có một dạng tế bào
khác gọi là tế bào hình sao liên lớp, dạng tế bào nào không hề có ở chuột. Một sự khác biệt nữa có liên quan đến
điểm cuối của các tế bào hình sao nguyên sinh, chúng bao quanh các mạch máu trong não và được cho là có
vai trò liên quan đến sự lưu thông máu trong não. Những điểm cuối này ở con người bao quanh thành mạch
máu một cách trọn vẹn hơn so với chuột. Có lẽ hiện tượng này giữ một vai trò quan trọng trong việc ngăn các
tác nhân trong máu không xâm nhập vào não cũng như nhằm điều hòa lưu thông máu.
Các tác giả chính bao gồm: giáo sư tiến sĩ Steven Goldman kiêm chủ tịch Khoa thần kinh; thạc sĩ Webster
Pilcher kiêm giảng viên và chủ tịch khoa giải phẫu thần kinh; Jeffrey Wyatt - giáo sư và chủ tịch khoa Y học đối
chiếu; cùng với các trợ lý giáo sư: tiến sĩ Takahiro Takano, tiến sĩ Xiaoning Han, tiến sĩ Wei He, và tiến sĩ Fushun
Wang.
Cùng tham gia nghiên cứu còn có Qiwu Xu và tiến sĩ Jane Lin thuộc Trường Y New Yorrk; thạc sĩ Jeffrey
Ojemann, và tiến sĩ Bruce Ransom thuộc Đại học Washington nơi Oberheim đã hoàn thiện luận văn tiến sĩ của
bà dưới dự giám sát của Nedergaard.
Nghiên cứu nhận được sự hỗ trợ từ Quỹ từ thiện G. Harold và Leila Y. Mathers và Viện đột quỵ và các chứng rối
loạn thần kinh quốc gia.
>>KBZ 19:
Muốn nhớ mặt hãy nhìn vào mắt .
Một nghiên cứu cho thấy nhìn vào đôi mắt là cách tốt nhất để chúng ta lưu giữ khuôn mặt của một người trong
bộ nhớ.
Theo các thử nghiệm trước đây chúng ta thường chỉ tập trung vào một bộ phận trên khuôn mặt khi phân biệt ai
đó với người khác. Các nhà khoa học tin rằng chỉ có một số đặc điểm trên khuôn mặt có thể cung cấp thông tin
tốt nhất để chúng ta nhận ra (hoặc ghi nhớ) một cá nhân nào đó.
Các chuyên gia của Đại học Barcelona (Tây Ban Nha) tiến hành một thử nghiệm để tìm hiểu điều này. Họ sưu
tầm 868 khuôn mặt nữ giới và 868 khuôn mặt nam giới rồi lần lượt giơ các bức ảnh trước một máy tính đặc biệt.
Chiếc máy tính được thiết kế để có thể "nhìn" và ghi nhớ các đặc điểm của khuôn mặt giống như mắt người.
Kết quả cho thấy mắt cung cấp nhiều thông tin rõ ràng nhất về một người, tiếp theo là miệng và mũi. Nhóm
nghiên cứu cũng nhận thấy rằng, việc nhận dạng khuôn mặt trên bức ảnh không bị tác động bởi nền hay hậu
cảnh của ảnh. Họ tin rằng, trong quá trình tiến hóa, những vùng não chịu trách nhiệm phân biệt khuôn mặt chỉ tập
trung xử lý thông tin ở vùng quanh mắt.
>>KBZ 20:
Đàn ông dính lưới tình chỉ trong 8,2 giây .
Các nhà khoa học kết luận các quý ông có thể vướng vào bẫy tình chỉ trong vòng 8,2 giây.
Đây là nội dung một nghiên cứu trên tạp chí khoa học hàng đầu thế giới về tình dục Archives of Sexual Behavior
số tháng này. Các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu với 115 sinh viên. Máy quay bí mật được dùng để theo dõi
chuyển động của mắt những đối tượng này.
Nghiên cứu cho thấy các nam sinh viên thường nhìn trong 8,2 giây với những người họ thấy thu hút. Mắt họ chỉ
dừng lại 4,5 giây nếu nhân vật không mấy hấp dẫn. Tuy thế, điều này không đúng với phái nữ. Các nữ sinh tham
gia trong thử nghiệm này nhìn tất cả các nam diễn viên trong khoảng thời gian bằng nhau.
Các nhà khoa học kết luận rằng nam giới thường tìm bạn tình hợp với họ và có khả năng sinh sản. Trong khi đó,
phụ nữ thường tránh thu hút những sự chú ý không đáng có, do sợ mang bầu không mong muốn hoặc nuôi con
một mình.
>>KBZ 21:
Tiêu tiền có tác động như ma túy
Các nhà tâm lý Đức khẳng định việc tiêu tiền của con người tạo ra cảm giác thỏa mãn trong não giống như các
chất gây nghiện.
Giáo sư Armin Falk của Đại học Bonn và các cộng sự yêu cầu 18 tình nguyện viên điền vào một số phiếu khảo
sát để tìm hiểu về cách thức ra quyết định tiêu tiền của họ. Nhóm nghiên cứu đưa ra hai mức lương giả định,
trong đó một mức cao hơn 50% so với mức kia.
Tuy nhiên, nếu tình nguyện viên nhận mức lương cao hơn thì giá của những sản phẩm mà họ mua cũng tăng
thêm 50%. Điều này có nghĩa là nếu chọn mua một loại sản phẩm thì khả năng mua sắm của toàn bộ tình
nguyện viên bằng nhau.
Trong lúc tình nguyện viên điền thông tin và phiếu khảo sát, các chuyên gia tiến hành chụp vỏ thùy giữa trán
(ventromedial prefrontal cortex) - vùng não chịu trách nhiệm tạo ra cảm giác hưng phấn, thỏa mãn khi con người
dùng ma túy. Nhóm nghiên cứu cho rằng, trong cả hai trường hợp (chấp nhận mức lương cao hoặc thấp), hành
vi tiêu tiền sẽ tạo ra phản ứng giống hệt nhau ở vỏ thùy giữa trán.
Nhưng kết quả không hoàn toàn giống với phán đoán của các nhà khoa học. Các phản ứng trong vỏ thùy giữa
trán của nhóm tình nguyện viên nhận mức lương cao diễn ra mạnh hơn và lâu hơn so với những người nhận
mức lương thấp, mặc dù trên thực tế sức mua của cả hai nhóm bằng nhau.
"Điều này cho thấy mức độ thỏa mãn của con người thường tăng lên cùng với thu nhập. Chúng ta luôn cảm thấy
sung sướng hơn khi nhận mức lương cao hơn mặc dù giá cả thực tế của hàng hóa cũng tăng lên tương ứng.
Phát hiện của chúng tôi củng cố một giả thiết mà theo đó, vỏ thùy giữa trán dễ bị đánh lừa bởi ảo tưởng về tiền
bạc", Falk phát biểu.
Giáo sư Falk cũng nói thêm rằng nhiều nhà kinh tế không tin vào sự tồn tại của khái niệm "ảo tưởng tiền bạc",
nhưng nhiều nghiên cứu gần đây khẳng định dạng ảo tưởng này thực sự tồn tại.
>>KBZ 22:
Cá cũng có tiếng sét ái tình
Loài cá vòi voi không chỉ có phần hàm kéo dài trông giống như chiếc vòi voi, mà chúng còn phát điện. Các tế bào
cơ biến đổi gần đuôi của chúng có thể phóng các xung điện vào trong nước.
Con cá sử dụng điện trường để phát hiện các vật thể xung quanh, đây là một kỹ xảo hữu dụng trong môi trường
tăm tối ở các con sông Châu Phi nơi chúng trú ngụ. Chúng cũng sử dụng các xung điện này (biến đổi về cường
độ, tần số và thời lượng) để giao tiếp với nhau. Một nghiên cứu mới cho biết chúng còn dùng điện trường để tìm
bạn đời cùng loài.
Trong phòng thí nghiệm tại Đại học Potsdam, Đức, Philine G.D. Feulner và các cộng sự đưa con cá vòi voi cái
họ Campylomormyrus compressirostris trong tình trạng sẵn sàng đẻ trứng tiếp xúc với các xung điện khác nhau
được máy tính tạo ra. Ở một đầu bể cá, các xung điện bắt chước con đực cùng loài, ở đầu kia các xung điện lại
bắt chước một loài khá gần gũi với nó cùng sống chung trong một môi trường. Xung điện tạo ra bởi loài họ hàng
kéo dài hơn gần 100 lần so với loài kia, kết quả là con cá cái lảng tránh xung điện đó.
Feulner cùng nhóm nghiên cứu cho rằng sự ưu ái của con cái đối với các tín hiệu điện nhất định có lẽ chính là
nhân tố khiến hai loài cá vòi voi tách biệt nhau. Bên cạnh đó, các nhân tố khác có lẽ đã gây ra sự tách biệt ban
đầu, sự ưu tiên chọn lựa xung điện tiến hóa sau đó có lẽ nhờ vào cái giá lớn phải trả nếu giao phối nhầm loài.
Nghiên cứu được công bố chi tiết trên tờ Biology Letters.
>>KBZ 23:
Người nhanh nhẹn thì sống lâu hơn
Những người luôn phản ứng nhanh nhẹn, hoạt bát trong cuộc sống thì dường như sống lâu hơn những người có
động tác lề mề chậm chạp, một nghiên cứu vừa tiết lộ.
Nhóm nghiên cứu hợp tác giữa Đại học Edinburgh và Trung tâm nghiên cứu Y khoa (Anh) đã tìm hiểu tốc độ
phản ứng của hơn 7.400 người, bắt đầu từ thập kỷ 1980 và theo dõi trong suốt 20 năm sau đó. Tuổi trung bình
của những người được nghiên cứu là 46. Ngoài yếu tố này, một loạt chỉ số khác như mức độ uống rượu, thói
quen hút thuốc, huyết áp và cân nặng cũng được tính đến. Cuối thời điểm nghiên cứu, có gần 1.300 người đã tử
vong.
Các chuyên gia phát hiện thấy những người có tốc độ phản ứng chậm nhất thì cũng có nguy cơ chết yểu cao
gấp 2,6 lần.
Theo nhóm nghiên cứu, phản ứng nhanh có thể là một dấu hiệu của sự thông minh, và từ đó sẽ kéo theo lối
sống thông minh.
"Công trình này chứng tỏ có mối liên quan giữa trí tuệ và tốc độ xử lý công việc", tiến sĩ Geoff Der, một đồng tác
giả của nghiên cứu cho biết.
'Người thông minh hơn thì cũng có xu hướng được giáo dục tốt hơn và làm những công việc có cơ hội thực tập
hay có nguồn lực tốt hơn. Họ cũng chăm sóc sức khỏe bản thân tốt hơn".
>>KBZ 24:
Tại sao chúng ta khó nhớ được giấc mơ?
Lắng nghe "tiếng chuyện trò" của các nơ-ron ở các phần khác nhau của não, các nhà nghiên cứu thuộc Viện
công nghệ California đã đạt được những bước tiến mới trong công cuộc tìm hiểu con đường hình thành, chuyển
hóa và lưu trữ trí nhớ trong bộ não; đồng thời giải đáp câu hỏi quá trình biến đổi qua các giai đoạn khác nhau của
giấc ngủ như thế nào.
Phát hiện của họ một ngày nào đó có thể giúp các nhà khoa học hiểu được tại sao chúng ta khó nhớ được các
giấc mơ.
Từ lâu họ đã biết được rằng trí nhớ được hình thành tại bộ phận mã ngư của bộ nào, nhưng lại được lưu trữ ở
đâu đó. Khả năng cao nhất là ở tân vỏ não - lớp ngoài của não. Quá trình chuyển trí nhớ từ bộ phận này sang bộ
phận khác của não đòi hỏi phải thay đổi độ mạnh liên kết giữa các nơ-ron, phụ thuộc vào thời điểm phát sáng
chính xác của tế bào não.
Casimir Wierzynski - nghiên cứu sinh tại Caltech về hệ thống thần kinh và điện toán kiêm tác giả của nghiên cứu
- cho biết: "Chúng ta biết rằng nếu nơ-ron A tại mã ngư phát sáng ngay trước khi nơ-ron B tại tân vỏ não, và nếu
có sự liên kết giữa A và B thì liên kết đó sẽ được tăng cường. Do vậy chúng tôi muốn hiểu được mối quan hệ về
thời gian giữa các nơ-ron trong mã ngư và vỏ não trên trán - hay chính là phần trước của tân vỏ não".
Nhóm nghiên cứu do Athanassios Siapas - học giả tại Caltech, khoa Sinh học kiêm phó giáo sư ngành thần kinh
và điện toán - chỉ đạo đã sử dụng kỹ thuật điện toán và thu công nghệ cao để lắng nghe sự phát sáng của các
nơ-ron trong não chuột. Kỹ thuật này giúp họ xác định các cặp nơ-ron có mối liên hệ đồng bọ mà họ cần: đó là
mối liên hệ mà sự phát sáng của một nơ-ron trong mã ngư xảy ra trước chỉ vài phần nghìn giây so với sự phát
sáng của một nơ-ron khác ở vỏ não vùng trán.
Wierzynski thêm rằng: "Đây chính xác là kiểu quan hệ cần thiết để bộ phận mã ngư thực hiện các thay đổi trong
tân vỏ não - ví dụ như củng cố hay lưu trữ trí nhớ".
Một khi mối liên hệ giữa nơ-ron mã ngư và vỏ não trán được thiết lập, nhóm nghiên cứu sẽ sử dụng các kỹ thuật
"nghe trộm" công nghệ cao để lắng nghe những gì đang diễn ra trong não của những chú chuột thí nghiệm đang
ngủ, do giấc ngủ từ lâu đã được cho là khoảng thời gian tốt nhất để củng cố trí nhớ.
Kết quả là suy nghĩ của họ là đúng, nhưng chỉ cần đến một nửa khoảng thời gian.
Nhóm nghiên cứu quả thực có nghe được "sự bùng nổ" âm thanh của các nơ-ron trong quá trình ngủ, nhưng chỉ
trong một pha của giấc ngủ được gọi là pha sóng ngắn (SWS) khi mà giấc ngủ sâu diễn ra, không hề có giấc
mơ. Wierzynski cho biết: "Hóa ra trong pha sóng ngắn, có các giai đoạn khi mà rất nhiều tế bào trong vùng mã
ngư gần như đồng loạt phát sáng". Đáp lại, một số tế bào ở vùng vỏ não trước cũng phát sáng chỉ sau có vài
phần nghìn giây. "Điều thú vị là thời điểm chính xác xảy ra trong thời gian bùng nổ này, chứ không phải ngoài
khoảng thời gian đó". Mặt khác, trong pha chuyển động mắt nhanh (REM) các cặp nơ-ron trước đó vẫn phát
sáng cùng tốc độ như nhau nhưng không còn hòa hợp với nhau nữa. Wierzynski nói: "Thật ngạc nhiên khi nhận
thấy mối quan hệ về thời gian hầu như không hề có trong giai đoạn REM".
Do pha ngủ REM là pha trong đó giấc mơ hình thành, các nhà khoa học suy luận rằng sự thiếu vắng của "cuộc
trò chuyện" củng cố trí nhớ giữa các nơ-ron có lẽ đã giúp giải thích tại sao chúng ta khó nhớ được giấc mơ.
Do quan điểm này gây tò mò, các nhà nghiên cứu cảnh báo rằng những phát hiện nói trên chỉ làm tăng cơ hội,
cung cấp các con đường nghiên cứu mới trong tương lai.
Siapas cho biết: "Hiện chúng tôi đã chứng minh được có tồn tại mối liên hệ này, chúng tôi xây dựng khuôn khổ
sử dụng cho nghiên cứu về sau. Đây là một bước tiến gần hơn đến mục tiêu hiểu cặn kẽ về mối quan hệ giữa
giấc ngủ và trí nhớ vào một ngày nào đó".
Các đồng tác giả khác của nghiên cứu bao gồm Evgueniy Lubenov - học giả hậu tiến sĩ ngành sinh học tại
Caltech - và nghiên cứu sinh Ming Gu tại Caltech.
Nghiên cứu nhận được sự hỗ trợ từ Hội ái hữu sinh viên kỹ thuật và Khoa học phòng vệ quốc gia, Trung tâm
Công nghệ và Khoa học thông tin Caltech Thiết kế mạch sinh học, Quỹ James S. McDonnell, Quỹ Bren, Quỹ
McKnight, Quỹ Whitehall và Viện sức khỏe quốc gia.
>>KBZ 25:
Nhiều người bị ám ảnh bởi ma và sinh vật lạ
Một cuộc thăm dò dư luận tại Mỹ cho thấy, số người tin có ma và người ngoài hành tinh nhiều hơn số người tin
vào sự tồn tại của thánh thần.
Một công ty tiếp thị của Mỹ tiến hành cuộc thăm dò với 3.000 người trước khi phát động chiến dịch quảng cáo về
một bộ phim khoa học viễn tưởng. Những người tham gia được hỏi về quan điểm đối với thần thánh, sinh vật
ngoài hành tinh và ma.
58% số người tham gia nói họ tin vào sự tồn tại của sinh vật ngoài trái đất và ma, trong khi 54% thừa nhận rằng
họ tin Chúa thực sự tồn tại. Tỷ lệ phụ nữ tin vào thế giới siêu nhiên cao hơn so với nam giới và họ cũng tham gia
các hoạt động tín ngưỡng nhiều hơn.
Nhiều nhà khoa học cho rằng con người có xu hướng tin vào những hiện tượng mà họ không thể nhìn thấy hay
giải thích. Một cuộc khảo sát tại các đại học Mỹ năm 2006 cho thấy, 23% sinh viên năm thứ nhất tin vào thế giới
thần bí như xem tử vi và nói chuyện với người chết. Tỷ lệ này ở sinh viên năm thứ hai trở lên và sinh viên đã tốt
nghiệp là 31%.
Một số chuyên gia tâm lý và xã hội học nhận định chúng ta thừa hưởng niềm tin vào thế lực siêu nhiên từ tổ tiên.
Christopher Bader, nhà xã hội học Đại học Baylor (Mỹ) nhận xét: "Niềm tin vào hiện tượng thần bí tồn tại trong
tiềm thức của một cá nhân ngay từ khi chào đời. Trải qua thời gian, niềm tin ấy không mất đi mà chỉ thay đổi về
nội dung. Chẳng hạn, ngày nay ít người tin vào thần tiên nhưng số người tin vào sự tồn tại của đĩa bay lại tăng
lên".
Tôn giáo và niềm tin vào hiện tượng siêu nhiên không hề có mối quan hệ khăng khít. Hàng chục cuộc thăm dò ý
kiến cho thấy một thực tế hoàn toàn trái ngược. "Niềm tin vào hiện tượng siêu nhiên càng tăng thì niềm tin vào
Chúa trời và thánh thần càng giảm. Những tín đồ sùng đạo hiếm khi tin vào sự tồn tại của sinh vật ngoài vũ trụ
hoặc ma", Rod Stark, nhà tâm lý của Đại học Baylor, khẳng định.
>>KBZ 26:
Nổi nóng giúp thăng tiến nhanh hơn
Nhiều người cho rằng không nên biểu lộ sự giận dữ tại nơi làm việc, nhưng các nhà khoa học khẳng định cơn
thịnh nộ có kiểm soát giúp chúng ta chinh phục những vị trí cao hơn trong nghề nghiệp.
Các nhà khoa học của Đại học Y khoa Harvard (Mỹ) theo dõi 824 người trong hơn 44 năm để tìm hiểu vai trò của
các dạng cảm xúc đối với khả năng thành đạt trong công việc. Nhóm nghiên cứu nhận thấy những người dễ nổi
nóng có khả năng thăng tiến cao gấp 3 lần so với những người còn lại.
Nhóm nghiên cứu cho rằng những người quyết đoán và hiểu biết thường dễ nổi nóng khi bảo vệ quan điểm của
họ, nhưng luôn tỏ ra tôn trọng người không cùng quan điểm. Họ quan tâm tới lợi ích chung nên luôn biết cách
dung hòa quyền lợi của các cá nhân đối lập trong một nhóm. Do đó họ thường nhận được sự tôn trọng của tập
thể và dễ được đề bạt lên chức vụ cao hơn.
Tuy nhiên, sự giận dữ không kiểm soát có thể mang đến nhiều điều không tốt. Mọi người đều từng nổi nóng ít
nhất một lần trong đời, song chỉ có một bộ phận trong chúng ta biết cách thể hiện sự thịnh nộ "có kiểm soát".
Theo giáo sư George Vaillant, trưởng nhóm nghiên cứu, những người đó luôn được hưởng nhiều lợi ích về tinh
thần và công việc.
"Mọi người luôn nghĩ giận dữ là một dạng cảm xúc cực kỳ nguy hiểm. Nhưng chúng tôi nhận thấy rằng, trong
nhiều trường hợp, cơn giận có thể mang đến lợi ích", giáo sư George Vaillant nói thêm. Ông cũng cho rằng sợ
hãi và giận dữ là những cảm xúc tiêu cực mang tính bẩm sinh, nhưng chúng rất quan trọng đối với sự sinh tồn
của con người.
Một số thử nghiệm trước đây cho thấy các cảm xúc tiêu cực buộc người nguyên thủy phải tập trung sự chú ý
vào một số cây thay vì cả khu rừng, nhờ đó mà họ phát hiện thức ăn và kẻ thù dễ dàng hơn. "Nếu có thể rèn
luyện các kỹ năng kiềm chế cảm xúc nói chung và cơn tức giận nói riêng, chúng ta có thể sử dụng chúng để đạt
được nhiều điều to tát", người đứng đầu nhóm ngiên cứu kết luận.
Nổi nóng giúp thăng tiến nhanh hơn
>>KBZ 27:
Lạc quan hay bi quan đều do gene
Nếu bạn luôn cảm thấy cuộc sống hàng ngày chỉ là một chuỗi bất hạnh và chẳng có gì đáng để hy vọng, có thể
bố và mẹ bạn là nguyên nhân vì đã truyền sang một loại gene quyết định điều này.
Giáo sư tâm lý Elaine Fox của Đại học Essex (Anh cho biết: "Chúng tôi vừa tìm ra bằng chứng cho thấy một biến
đổi gene khiến con người có xu hướng nhìn vào khía cạnh tích cực của cuộc sống". Ông và cộng sự mời 97
người tham gia một thử nghiệm và phân tích gene của họ để tìm 5-HTTLPR, loại gene quy định nồng độ
serotonin có liên quan đến cảm xúc tích cực.
Kết quả cho thấy phần lớn có hai phiên bản gene 5-HTTLPR ngắn hoặc một phiên bản ngắn và một phiên bản
dài. Nhưng có 16 người chỉ sở hữu phiên bản dài.
Nhóm nghiên cứu chụp ảnh những vật được cho là mang đến tâm trạng tích cực (như chocolate, hoa hồng), tiêu
cực (như con nhện độc, sa mạc) và trung tính (tờ báo, cái bút). Các bức ảnh được xếp thành từng cặp, trong đó
mỗi cặp có một ảnh tích cực hoặc ảnh tiêu cực kèm với ảnh trung tính. Elaine yêu cầu tình nguyện viên xem các
cặp ảnh và lựa chọn những ảnh mà họ thích. Bà nhận thấy 16 người có hai phiên bản dài đều chọn những ảnh
tích cực và tránh ảnh tiêu cực, trong khi những người còn lại chọn ảnh tiêu cực hoặc trung tính.
Nhiều nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng tinh thần lạc quan giúp tăng cường sức khỏe, còn những người bi quan
hay gặp các vấn đề sức khỏe, từ đau đầu kinh niên, rối loạn tâm thần, đau tim cho tới đột quỵ. Nhưng theo giáo
sư Elaine, mặc dù gene có vai trò quan trọng, hoàn cảnh sống của mỗi người cũng có ảnh hưởng lớn đối với sự
hình thành tính cách.
"Bạn không thể trở thành người lạc quan nếu phải sống cùng những người bi quan. Ngược lại, chúng ta có thể
biến thành người lạc quan nhờ một công thức đơn giản: tránh tiếp xúc với người hay than thân trách phận, chỉ
trò chuyện với những người luôn nỗ lực trong cuộc sống và nghĩ tới ít nhất 3 điều tích cực mỗi ngày".
Gene và lối sống cũng có vai trò nhất định đối với sự hình thành bệnh tật. Tuy nhiên, người lạc quan có xu hướng
nghe theo chỉ dẫn của bác sĩ, trong khi người bi quan thường bỏ qua. Tinh thần lạc quan cũng giúp chúng ta
giảm căng thẳng, nhờ đó mà hệ miễn dịch hoạt động hiệu quả hơn. Phát hiện trên của nhóm giáo sư Elaine Fox
cũng giúp chúng ta giải thích tại sao một số người luôn nhìn mọi thứ với tâm trạng lạc quan, ngay cả trong những
tình huống tồi tệ nhất.
>>KBZ 28:
Nếu bạn hung hãn, chó của bạn cũng vậy
Trong một cuộc khảo sát đối với những người sở hữu chó của Đại học Pennsylavani, những người sử dụng
những biện pháp chống đối để huấn luyện vật nuôi hung hãn, các nhà nghiên cứu thú y đã phát hiện rằng hầu hết
những con vật này sẽ tiếp tục trở nên hung hãn trừ khi phương pháp huấn luyện được thay đổi.
Nghiên cứu, được công bố trên tạp chí Applied Animal Behavior Science, cũng cho thấy rằng sử dụng những
biện pháp huấn luyện nhẹ nhàng hơn ví dụ như rèn luyện hoặc thưởng tạo ra rất ít phản ứng hung hãn.
Meghan E. Herron, tác giả chính của nghiên cứu, cho biết: "Trên phạm vi quốc gia, lý do hàng đầu tại sao những
người sở hữu chó đưa vật nuôi của mình đến nhà thú ý đó là để kiểm soát hành vi hung hãn của chúng. Nghiên
cứu của chúng tôi chứng minh rằng những phương pháp huấn luyện theo kiểu đối đầu, như trừng mắt, đánh đập
hoặc dọa nạt không thể thay đổi những tập tính không phù hợp và có thể tạo ra những phản ứng hung hãn".
Nhóm nghiên cứu từ Trường thú y tại Penn nhận định rằng những nhà chăm sóc thú y cần khuyên những người
chủ về nguy cơ liên quan đến những phương pháp huấn luyện như vậy cũng như cung cấp những nguồn hướng
dẫn về kiểm soát những vấn đề về hành vi. Herron, Frances S. Shofer và Ilana R. Reisner, những bác sĩ thú ý
cùng Khoa nghiên cứu Y tế tại Penn Vet, đã thực hiện khảo sát với 30 mục đối với những người sở hữu chó.
Trong bảng câu hỏi, những người sở hữu chó được hỏi về cách họ xử lý những hành vi hung hãn, liệu có tác
động tích cực, tiêu cực, hay trung lập đối với hành vi của chó và liệu những phàn ứng hung hãn có phải là kết
quả từ những phương pháp họ sử dụng hay không. Họ cũng được hỏi từ đâu họ học phương pháp huấn luyện
vật nuôi đó.
Trong 140 bản khảo sát được hoàn thành, nguồn được nhắc đến nhiều nhất là "bản thân" và "người huấn luyện".
Một số biện pháp đối đầu như "đánh và đá chó vì hành vi không mong muốn" (43%), "chửi mắng" (41%), "ép
buộc chó nhả vật gì đó ra" (39%), "đẩy chó lăn sấp lưng và giữ chặt" (31%), "trừng mắt" (30%), ép buộc chó nằm
xuống (29%), và "tóm quai hàm và lắc" (26%) tạo ra phản ứng hung hãn từ ít nhất 25% những vật nuôi bị đối xử
như vậy. Thêm vào đó, những con chó được đưa vào bệnh viện vì hành vi hũng hãn đối với người quen thường
có xu hướng phản ứng hung hãn đối với một số phương pháp đối đầu hơn những con chó được đưa vào bệnh
viện vì những vấn đề hành vi khác.
Herron cho biết: "Nghiên cứu này nhấn mạnh nguy cơ của việc huấn luyện dựa trên sự thao túng, phổ biến trên
tivi, sách báo và các những người huấn luyện. Những kỹ năng này thường tạo ra cảm giác sợ hãi và dẫn đến
hung hãn đối với người quen thuộc".
Trước khi tư vấn những bác sĩ thú ý, rất nhiều người sở hữu chó thử những biện pháp biến đổi hành vi từ nhiều
nguồn đề xuất. Những đề xuất này thường bao gồm phương pháp huấn luyện ép buộc, tất cả những phương
pháp này đều có thể khiêu khích những hành vi hung hãn do sợ hãi hoặc để tự vệ. Việc sử dụng những phương
pháp này rộng rãi có thể xuất phát từ suy nghĩ rằng sự hũng hãn của vật nuôi khởi nguồn từ việc thiếu quyết liệt
của chủ.
Mục đích của nghiên cứu của Penn Vet là đánh giá tác động hành vi và những nguy cơ an toàn của những
phương pháp thường được chủ sử dụng đối với những vấn đề hành vi.
>>KBZ 29:
Hèn nhát hay dũng cảm đều do hoóc môn
Các nhà khoa học tin rằng một số người sinh ra để trở thành anh hùng, bởi cơ thể họ có ít hoóc môn gây cảm
giác căng thẳng hơn đa số chúng ta.
"Rõ ràng là có những cá nhân luôn bình tĩnh trong các tình huống căng thẳng hay chết chóc. Hàm lượng các
hoóc môn gây căng thẳng trong cơ thể họ thấp hơn nhiều so với phần đông chúng ta", Deane Aikins, tiến sĩ tâm
lý Đại học Yale (Mỹ), nhận xét.
Deane và cộng sự mời nhóm binh sĩ vừa trải qua đợt huấn luyện các kỹ năng sống sót trong môi trường giả lập
tham gia một nghiên cứu. Những binh sĩ này phải đối mặt với nhiều hoàn cảnh đáng sợ, như chiến tranh và nhà
tù. Nhóm nghiên cứu liệt kê những người xuất sắc nhất dựa vào kết quả huấn luyện của họ rồi lấy mẫu máu của
tất cả tình nguyện viên để phân tích.
Kết quả cho thấy nồng độ cortisol - còn được gọi là hoóc môn gây căng thẳng - ở nhóm binh sĩ xuất sắc nhất
thấp hơn nhiều so với những người còn lại. Trong khi đó, hàm lượng neuropeptide Y - một hợp chất có khả
năng làm giảm mức độ phản ứng của cơ thể đối với cảm giác căng thẳng - trong cơ thể nhóm xuất sắc lại cao
hơn. Trên thực tế, neuropeptide Y làm mất tác dụng của cortisol.
Phát biểu trong cuộc hội thảo thường niên của Hiệp hội Tiến bộ khoa học Mỹ, tiến sĩ Deane khẳng định rằng phát
hiện của ông giúp giải thích tại sao phi công Chesley Sullenberger có thể duy trì tâm trạng bình tĩnh để điều khiển
chiếc máy bay chở khách đáp xuống sông Hudson tại New York sau khi nó đâm trúng chim vào tháng trước.
Deane nhận định rằng nếu kiểm tra nồng độ cortisol và neuropeptide Y của một cá nhân, chúng ta có thể dự
đoán người đó có thể giữ bình tĩnh khi đối mặt với tình huống căng thẳng hay không. Các quan chức quân đội rất
quan tâm tới nghiên cứu của Deane vì nó có thể giúp họ tạo ra những người lính dũng cảm.
Nhóm nghiên cứu cho rằng, bằng cách phối hợp một số hóa chất trong cơ thể với các biện pháp tập luyện thần
kinh, họ có thể biến một kẻ hèn nhát thành anh hùng. Một trong những hóa chất giúp khống chế cảm giác sợ hãi
là dehydroepiandrosterone (DHEA) - loại hoóc môn do các tuyến thượng thận ở cả nam và nữ tiết ra.
"Khi tuyển tân binh, Bộ Quốc phòng không thể loại bất kỳ ai nếu họ đáp ứng được các tiêu chuẩn về sức khỏe và
thể chất. Vì thế vấn đề nằm ở chỗ chúng ta phải tìm ra cách biến những anh chàng nhút nhát thành những chiến
binh gan dạ trên sa trường. Giờ đây quân đội đã có một giải pháp để làm việc đó", Deane phát biểu.
>>KBZ 30:
Các chuyên gia dạy cờ đã phát hiện trò chơi thể thao này giúp trẻ cư xử thông minh hơn, tập trung tốt hơn và có
tư duy logic. Nó cũng đặc biệt tốt với trẻ tự kỷ hay rối loạn hành vi.
Trên bàn cờ, mọi thứ giống như một cuộc chiến thu nhỏ, buộc trẻ phải động não nhiều thứ. Ảnh: Getty.
Khi thầy dạy cờ Charles Wood bước vào một lớp học trong thành phố Bradford, Anh, ông chuẩn bị cho một cuộc
chiến.
"Tôi hỏi bọn trẻ 'Các em nghĩ cờ vua thế nào?', Thông thường, chúng sẽ nói 'Nó thật chán, dành cho những
người lập dị'. Tôi bảo chúng 'Không. Đó là một cuộc chiến tranh'. Tôi mô tả những tòa lâu đài, những người lính
gác, và các cuộc chiến...".
Chỉ sau 15 phút, Wood cho biết ông có thể lôi kéo các học sinh vào một ván cờ mà ông tin rằng nó có thể làm
thay đổi cuộc đời hay thái độ hung hăng thành những cuộc cạnh tranh lành mạnh, ứng xử thông minh và làm
tăng khả năng tự tin ở trẻ.
Trong năm qua, nhà cựu kinh doanh này đã thuyết phục được 800 trẻ em ở 80 trường học tham gia chơi cờ,
trong một kế hoạch nhắm đến những em nhỏ kém triển vọng nhất.
Với những trẻ bị rối loạn phát triển, cờ vua thường chứng tỏ một trí thông minh đặc biệt nào đó. Trẻ tự kỷ thường
giỏi hơn bạn cùng lứa trong môn thể thao này, còn những trẻ bị các trục trặc hành vi như rối loạn tăng hoạt động
giảm chú ý thì nhờ cờ vua mà cải thiện khả năng tập trung.
"Cờ vua có những quy tắc và nghi thức, chẳng hạn trẻ phải đợi đến lượt mình. Cờ vua dạy trẻ điều đó, và chúng
học để áp dụng vào phần còn lại của đời sống", Wood nói.
Nghiên cứu trên các trẻ em học tiểu học được thực hiện bởi Đại học Aberdeen, đã tìm thấy cờ vua có thể cải
thiện kỹ năng hiểu, học toán và làm tăng mức độ linh hoạt. Wood tin rằng nó có thể làm nhiều hơn thế: "Đây
không phải là việc dạy đánh cờ, nó là việc dạy trẻ học cách đánh. Nó là lịch sử, toán học, logic, và cũng là cách
kể chuyện".
Cậu bé Kieran Barrass, 9 tuổi, từng vật lộn để ra khỏi vị trí bét lớp ở trường Southmere khi Wood bắt đầu lớp
học buổi trưa của mình. "Thằng bé tràn đầy năng lượng, trong khi lại quá thiếu sự tập trung", chị Catherine, mẹ
cậu, cho biết.
Chị và chồng đã sửng sốt khi Kieran cho biết cậu sẽ gia nhập câu lạc bộ cờ vua. Kể từ đó, họ tự hào chứng kiến
Kieran chiến thắng qua các cuộc thi đấu, đồng thời cải thiện đáng kể khả năng tập trung, từ đó xuất sắc cải thiện
việc học ở trường.
Cậu bé không ngồi yên bao giờ nay có thể ngồi suốt 4 tiếng để tính toán một nước đi, Catherine kể. Kieran cũng
vui vẻ giải thích tại sao cậu yêu cờ vua đến thế: "Nó thực sự thú vị và khiến cháu thông minh hơn. Giờ cháu đã
luôn đứng trong top đầu ở mọi lĩnh vực".
>>KBZ 31:
Muốn con thông minh, hãy cho chúng chơi cờ vua
Các chuyên gia dạy cờ đã phát hiện trò chơi thể thao này giúp trẻ cư xử thông minh hơn, tập trung tốt hơn và có
tư duy logic. Nó cũng đặc biệt tốt với trẻ tự kỷ hay rối loạn hành vi.
Khi thầy dạy cờ Charles Wood bước vào một lớp học trong thành phố Bradford, Anh, ông chuẩn bị cho một cuộc
chiến.
"Tôi hỏi bọn trẻ 'Các em nghĩ cờ vua thế nào?', Thông thường, chúng sẽ nói 'Nó thật chán, dành cho những
người lập dị'. Tôi bảo chúng 'Không. Đó là một cuộc chiến tranh'. Tôi mô tả những tòa lâu đài, những người lính
gác, và các cuộc chiến...".
Chỉ sau 15 phút, Wood cho biết ông có thể lôi kéo các học sinh vào một ván cờ mà ông tin rằng nó có thể làm
thay đổi cuộc đời hay thái độ hung hăng thành những cuộc cạnh tranh lành mạnh, ứng xử thông minh và làm
tăng khả năng tự tin ở trẻ.
Trong năm qua, nhà cựu kinh doanh này đã thuyết phục được 800 trẻ em ở 80 trường học tham gia chơi cờ,
trong một kế hoạch nhắm đến những em nhỏ kém triển vọng nhất.
Với những trẻ bị rối loạn phát triển, cờ vua thường chứng tỏ một trí thông minh đặc biệt nào đó. Trẻ tự kỷ thường
giỏi hơn bạn cùng lứa trong môn thể thao này, còn những trẻ bị các trục trặc hành vi như rối loạn tăng hoạt động
giảm chú ý thì nhờ cờ vua mà cải thiện khả năng tập trung.
"Cờ vua có những quy tắc và nghi thức, chẳng hạn trẻ phải đợi đến lượt mình. Cờ vua dạy trẻ điều đó, và chúng
học để áp dụng vào phần còn lại của đời sống", Wood nói.
Nghiên cứu trên các trẻ em học tiểu học được thực hiện bởi Đại học Aberdeen, đã tìm thấy cờ vua có thể cải
thiện kỹ năng hiểu, học toán và làm tăng mức độ linh hoạt. Wood tin rằng nó có thể làm nhiều hơn thế: "Đây
không phải là việc dạy đánh cờ, nó là việc dạy trẻ học cách đánh. Nó là lịch sử, toán học, logic, và cũng là cách
kể chuyện".
Cậu bé Kieran Barrass, 9 tuổi, từng vật lộn để ra khỏi vị trí bét lớp ở trường Southmere khi Wood bắt đầu lớp
học buổi trưa của mình. "Thằng bé tràn đầy năng lượng, trong khi lại quá thiếu sự tập trung", chị Catherine, mẹ
cậu, cho biết.
Chị và chồng đã sửng sốt khi Kieran cho biết cậu sẽ gia nhập câu lạc bộ cờ vua. Kể từ đó, họ tự hào chứng kiến
Kieran chiến thắng qua các cuộc thi đấu, đồng thời cải thiện đáng kể khả năng tập trung, từ đó xuất sắc cải thiện
việc học ở trường.
Cậu bé không ngồi yên bao giờ nay có thể ngồi suốt 4 tiếng để tính toán một nước đi, Catherine kể. Kieran cũng
vui vẻ giải thích tại sao cậu yêu cờ vua đến thế: "Nó thực sự thú vị và khiến cháu thông minh hơn. Giờ cháu đã
luôn đứng trong top đầu ở mọi lĩnh vực".
Tại sao chúng ta thấy đau khi ghen tức
>>KBZ 32:
Nghệ thuật điều khiển đám đông
Hitler và Mussolini có khả năng khiến hàng chục triệu người dân tin vào chủ nghĩa phát xít tàn bạo. Giờ đây các
chuyên gia tâm lý và thần kinh đã tìm ra bí quyết giúp họ làm được điều đó.
Scott Wiltermuth, một nhà tâm lý của Đại học Stanford (Mỹ) và một số đồng nghiệp nhận thấy việc tổ chức các
hoạt động tập thể, như diễu hành hoặc nhảy múa, giúp làm tăng lòng trung thành của đám đông đối với nhóm.
"Những hoạt động ấy khiến mọi người cảm thấy họ là một phần của một thực thể lớn hơn, vì thế chúng ta coi tổ
chức như cuộc sống của chúng ta", ông nói.
Nhóm nghiên cứu chia 96 người thành 4 nhóm và cho họ nghe cùng một bài hát. Nhóm thứ nhất nhẩm đọc thầm
lời bài hát, nhóm thứ hai hát thành lời, nhóm thứ ba hát thành lời và nhảy múa theo một kiểu thống nhất, nhóm
thứ tư nghe và nhảy múa loạn xạ. Sau khi bài hát kết thúc, các chuyên gia hỏi tình nguyện viên về suy nghĩ của
họ đối với những người trong nhóm. Kết quả cho thấy phần lớn tình nguyện viên trong nhóm nhảy múa loạn xạ
không muốn tiếp tục tham gia, trong khi ba nhóm kia sẵn sàng ở lại cùng nhau nếu thử nghiệm tiếp tục.
Nhà tâm lý Jonathan Haidt của Đại học Virginia (Mỹ) cho rằng nghiên cứu của nhóm Scott giúp giải thích tại sao
các trùm phát xít trong Thế chiến II hay sử dụng hoạt động diễu hành và hát tập thể để xui khiến đám đông thực
hiện ý chí của họ. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh rằng các thủ thuật đó có thể được sử dụng vì mục đích hòa bình.
Chẳng hạn, hoạt động nhảy múa và ca hát tập thể tại một khu vực có mâu thuẫn sắc tộc hoặc tôn giáo có thể
làm dịu căng thẳng.
Trong khi đó, Charles Seger, chuyên gia tâm lý Đại học Indiana (Mỹ) và cộng sự thực hiện một thử nghiệm khác
để tìm hiểu tác động của các hình ảnh tuyên truyền đối với con người. Nhóm nghiên cứu chia sinh viên thành hai
nhóm rồi cho một nhóm xem các bức ảnh liên quan tới trường đại học. Sau đó các chuyên gia yêu cầu sinh viên
tự đánh giá cảm xúc (lòng tự hào, cảm giác hạnh phúc) đối với trường theo thang điểm. Kết quả cho thấy, thang
điểm của những sinh viên xem ảnh cao hơn hẳn so với nhóm không xem.
Jonathan nhận xét rằng não của con người có xu hướng buộc chúng ta bắt chước đồng loại. "Chúng ta được lập
trình để tự động sao chép hành vi của người khác. Trong não người có một loại tế bào thần kinh đặc biệt. Chúng
phát sáng khi chúng ta thực hiện một hành động hoặc xem người khác thực hiện hành động giống hệt chúng ta",
ông nói.
Các nhà khoa học thần kinh đã tìm thấy nhiều bằng chứng ủng hộ giả thiết của Jonathan. Vasily Klucharev,
chuyên gia thần kinh tại Hà Lan, phát hiện ra rằng não giải phóng nhiều dopamine (chất gây hưng phấn) hơn khi
chúng ta cùng tham gia một hoạt động nào đó với nhiều người. Nhóm của ông yêu cầu 24 phụ nữ đánh giá mức
độ hấp dẫn của hơn 200 phụ nữ khác theo một thang điểm. Khi một tình nguyện viên nhận thấy điểm của mình
chênh lệch quá lớn so với nhiều người khác, họ có xu hướng điều chỉnh. Kết quả chụp cộng hưởng từ cho thấy
não của tình nguyện viên phát ra "tín hiệu lỗi" mỗi khi một phụ nữ nhận ra sự khác biệt về điểm số so với người
khác. "Đó là cách chúng ta học cách làm theo đám đông", Vasily kết luận.
>>KBZ 33:
Bạn có thể nhìn ---Nhưng không thể sờ!
Khách hàng thường tâm sự rằng nếu họ làm vỡ một món hàng thì chắc chắn họ sẽ mua nó. Tuy nhiên một
nghiên cứu gần đây cho hay nếu khách hàng chỉ cần chạm vào món hàng nào đó một vài giây thì họ chắc chắn
sẽ dừng ngay ý định muốn mua nó.
Các nhà nghiên cứu đến từ trường đại học bang Ohio và Illinois đã tiến hành thí nghiệm về việc sờ thử hàng hoá
trước khi mua có ảnh hưởng như thế nào tới quyết định mua món hàng đó của khách hàng. Một thí nghiệm đơn
giản được thực hiện với cà phê đã hé mở rất nhiều điều: trong rất nhiều trường hợp chỉ cần khách hàng sờ vào
tách café đó sẽ khiến mọi người có xu hướng mua nhiều hơn. Kết quả này được công bố trên tờ tạp chí Phê
Bình và Quyết Định nhận thấy mọi người có cảm giác rất gấn gũi khi chạm vào tách trà trong vòng 30 giây đầu
tiên.
Nếu mọi người cầm tách café lâu hơn một vài giây thì dường như họ không chỉ bị cuốn vào trả giá cao hơn
những người khác trong buổi đấu giá ấy mà họ còn sẵn sàng trả giá món hàng ấy cao hơn gấp nhiều lần so với
giá bán lẻ của mặt hàng đó.
"Phần gây ngạc nhiên nhất trong nghiên cứu này đó là con người có thể nhanh chóng trở nên gắn bó với một vật
cho dù vật đó không hề giá trị giống như một chiếc tách café." Tác giả bài nghiên cứu James Wolf đã bắt đầu sự
nghiệp trong khi ông còn là một nghiên cứu sinh ở bang Ohio.
"Chỉ đơn giản chạm vào chiếc tách và cảm nhận nó trên tay, rất nhiều người cảm thấy chiếc tách giống như
chiếc tách của chính họ vậy. Khi mà họ đã cảm nhận nó như của mình thì họ sẽ sẵn sàng tiến xa hơn để có nó."
Các bài nghiên cứu trước đây cũng chứng minh rằng nhiều khách hàng muốn có cảm giác sở hữu một vật nào
đó lâu dài trước khi mà họ thực sự có nó. Thế nhưng đây là bài nghiên cứu đầu tiên phân tích vấn đề này. Cảm
giác sở hữu thường có ngay sau khi khách hàng có tiếp xúc trực tiếp với vật đó khoảng chừng 30 giây, theo lời
ông Wolf, một trợ giảng cho khoa Thông tin tại Đại học bang Illinois.
Khách hàng thường tâm sự rằng nếu họ làm vỡ một món hàng thì chắc chắn họ sẽ mua nó. Tuy nhiên một
nghiên cứu gần đây cho hay nếu khách hàng chỉ cần chạm vào món hàng nào đó một vài giây thì họ chắc chắn
sẽ dừng ngay ý định muốn mua nó. (Ảnh: iStockphoto/Carmen Martínez Banús)
Để giải thích cho việc cảm giác khi chạm vào vật có thể ảnh hưởng đến đánh giá của một người về chính vật đó,
các nhà nghiên cứu đã tiến hành kiểm tra thử ở 144 người trong một trường đại học lớn. Mọi người đươc yêu
cầu để đấu giá về các tách trà trong cuộc đấu giá mở hay kín sau khi kiểm tra khoảng thời gian mọi người chạm
và cảm nhận chiếc tách.
Những người tham gia được đưa cho chiếc tách ngay đầu tiên của buổi thí nghiệm. Những người thí nghiệm
trong khoảng thời gian ngắn thì được yêu cầu xem xét chiếc tách trong 10 giây trong khi những người được yếu
cầu thí nghiệm trong thời gian lâu hơn thì được yêu cầu xem xét nó trong vòng 30 giây.
Sau khi xem xét kỹ, họ được yêu cầu để trả giá chiếc tách. Những người tham gia đấu giá kín thì được yêu cầu
viết giá đấu tối đa cho chiếc tách trị giá 3.95$ của họ lên một mẩu giấy địa điểm tại cửa hàng sách gần trường.
Sau đó học gập tờ giấy lại để không ai có thể nhìn thấy giá đấu thầu trong buổi đấu giá. Còn những người trong
cuộc đấu giá mở thì được phép biết giá chào của những người khác. Những người tham gia đấu giá mở trả giá
cho chiếc tách trị giá 4.95$ qua một cuộc đấu giá trên máy tính tương tự như eBay, nơi mà họ có thể nhìn thấy
giá đấu thầu cao nhất và thời gian thầu còn lại.
Các cuộc đấu giá mở có thời gian kết thúc thường xê dịch hơn, có nghĩa là thời gian của buổi đấu giá có thể
được kéo dài hơn cho mỗi lần giá đấu thầu trong khoảng 15 giây cuối cùng. Mỗi đợt kết thúc như vậy nhằm làm
giảm bớt sức ép của lần đấu giá thứ hai cuối cùng.
Tất cả những người tham gia buổi đấu giá đều được nói trước giá bán lẻ của chiếc tách café trước khi buổi đấu
giá bắt đầu. Họ cũng thông báo rằng một số loại tách điển hình đều có sẵn để bán gần địa điểm thí nghiệm.
Tất cả mọi người đều nhận được 10$ nếu tham gia vào thí nghiệm này; và họ cũng được thông báo rằng nếu
nhà thắng thầu sẽ có quyền nhận được các sản phẩm miễn phí.
Kết quả chứng minh rằng nếu người nào chạm vào chiếc tách trong vòng 30 giây thì trả giá sẽ cao hơn những
người chỉ chạm vào nó 10 giây. Mức giá trả trung bình trong mỗi phiên đấu giá mở là 2.44$ nếu người đó chạm
vào chiếc tách 10 giây và 3.91$ nếu người đó chạm trong vòng 30 giây. Phát hiện này cũng chính xác đối với các
trường hợp trong phiên đấu giá kín như chạm vào vật trong 10 giây thì trả giá 2.24$ và 3.07$ nếu chạm 30 giây.
Thực tế, các nhà nghiên cứu thường sử dụng các tách trà rẻ và không đáng giá lắm, theo lời Hal Arkes.
"Chúng tôi dùng phụ tùng đi kèm không phải là một chiếc ô tô mới hoặc một bộ đồ mới mà lại là một chiếc tách.
Và chúng tôi đã tìm thấy sự khác biệt khá lớn trong cách đánh giá của mọi người liên quan đến vấn đề thời gian."
Arkes, giáo sư tâm lý học danh dự ở Bang Ohio nói.
Sự khác biệt tiếp tục được phát hiện thêm khi các nhà nghiên cứu quan sát thấy giá thắng thầu thường vượt quá
giá bán lẻ của chiếc tách đó.
Tất cả những người tham gia đều được nói trước giá bán lẻ của chiếc tách đó trước khi họ đấu giá. Tuy nhiên
khi mọi người cầm chiếc tách đó trong vòng 30 giây thì lại trả giá cao hơn giá bán lẻ đến 4 đến 7 lần. Mặc dù các
chiếc tách trị giá tới 4.49$, nhưng giá chiếc tách qua đấu thầu cao lên tới 10$ khi nó được cầm lâu hơn.
Ngược lại, những người thắng khi đấu giá trong nhóm 10 giây thì chỉ vượt giá bán lẻ có một lần.
Đồng tác giả nghiên cứu Waleed Muhanna, phó giáo sư ngành quản lý thông tin tại Bang Ohio, nói về xu hướng
những người tham gia nếu cầm chiếc tách lâu hơn thì sẽ trả giá cao hơn nhiều giá bán lẻ có thể giảm xuống
theo mức gắn bó với vật.
Muhanna nói "Mức gắn bó với vật dường như cũng tăng lên theo nếu sự tiếp xúc cơ học lớn. Và một giải thích
cho xu hướng này đó là nếu người nào mà sở hữu vật lâu hơn, thì họ sẽ có cảm giác gần gũi và hào hứng để
giữ vật hơn. Mọi nguời trở nên gắn bó và sẵn sàng để trả nhiều hơn để không tuột mất nó."
Trong khi nghiên cứu này có thể giúp các nhà nghiên cứu hiểu thêm về thói quen mua bán của khách hàng, thì
nhiều nhà bán lẻ lại áp dụng thủ thuật thử rồi mua trong nhiêu năm liền. Những đại lý ô tô thường cho khách hàng
lái thử xe về nhà và các cửa hàng bán thú nuôi khuyến khích những người trông hàng chơi với thú bông bởi vì họ
biết sự gần gũi với vật sẽ làm khách hàng của họ sẵn sàng mua sản phẩm hơn.
Tuy nhiên Wolf nói rằng hiểu được sự gắn bó này sẽ giúp người mua có được lựa chọn thông minh.
"Khi bạn ngồi sau bánh một chiếc ô tô mới, bạn biết bạn đang có được sự đánh giá về nó nhiều hơn và có thể
bạn sẵn sàng trả cao hơn để mua nó. Nhưng tiếp tục như thế bạn hiểu bạn đang đẩy giá lên cao hơn, có thể bạn
sẽ có tâm lý nếu không mua vội vàng thì bạn sẽ hối tiếc sau này."
Bài nghiên cứu này được tài trợ một phần bởi quỹ Jensen-Wallin-Young Bang Ohio.
>>KBZ 34:
Hung dữ khi uống rượu là do di truyền
Các nhà khoa học Phần Lan vừa tìm ra nguyên nhân khiến một số người trở nên hung dữ khi uống nhiều chất có
cồn, trong khi nhiều người khác chỉ lặng lẽ đi ngủ.
Tiến sĩ Roope Tikkanen, một nhà khoa học của bệnh viện Đại học Helsinki (Phần Lan), khẳng định hành vi uống
rượu và xu hướng bạo lực có quan hệ về mặt di truyền.
"Con người phản ứng rất khác nhau khi uống rượu. Phần lớn cảm thấy thoải mái và thích nói chuyện, trong khi
một số tỏ ra bốc đồng và hung dữ", Roope nói.
Roope và cộng sự tiến hành phân tích gene của 174 nam giới từng nghiện chất có cồn và có hành vi bạo lực khi
say. Họ nhận thấy chất cồn làm tăng nguy cơ thực hiện hành vi bạo lực ở đàn ông có một loại gene sản xuất
chất monoamine oxidase A.
Nếu monoamine oxidase A tồn tại trong cơ thể với hàm lượng quá cao, người ta có xu hướng thực hiện các
hành động không thể kiểm soát khi uống các chất có cồn. Nhưng tác dụng của nó giảm dần khi tuổi tác tăng lên.
"Phát hiện này có thể giúp các chuyên gia dược chế tạo những loại thuốc ngăn chặn hành vi hung hăng của con
người khi say rượu hoặc bia", tiến sĩ Roope nhận định
>>KBZ 35:
Giải mã bí ẩn vì sao bé sơ sinh hay khóc
Các em bé sơ sinh rất 'thèm được giao tiếp', được hiểu, trò chuyện và đụng chạm, một nghiên cứu mới vừa tiết
lộ.
Ảnh: dailymail.co.uk.
Tiến sĩ Emese Nagy, từ Đại học Dundee, đã tìm hiểu 90 em bé được sinh ra sau 3 giờ đến 96 giờ. Bà dành 3
phút để mỉm cười, ngắm, nói chuyện và đụng chạm vào các bé, giống như cách mà các bà mẹ vẫn làm.
Sau đó bà làm mặt lạnh, và ngừng đáp ứng cảm xúc với trẻ. Nagy nhận thấy các bé nhìn đi chỗ khác, trở nên
căng thẳng thấy rõ và nhiều bé bắt đầu khóc toáng lên.
Khi cuộc "trò chuyện" được nối lại, lũ trẻ phải mất một khoảng thời gian để xây dựng lại niềm tin của mình, bằng
cách ngọ ngoạy đầu và từ từ lập giao tiếp bằng mắt. Cuối cùng, tiếng khóc của chúng ngừng lại khi lũ trẻ vui vẻ
trở lại.
"Chúng ta dành hầu hết thời gian trong cuộc sống xã hội của mình để giao tiếp và liên hệ với người khác. Điều
này là cực kỳ quan trọng đối với thể chất và tinh thần khỏe mạnh của chúng ta.
"Cảm giác chúng ta thuộc về người khác là nhu cầu cơ bản. Nghiên cứu này cho thấy ngay cả những em bé
mới sinh cũng có nhạy cảm mạnh mẽ đó. Các bé cho thấy sự sẵn sàng để giao tiếp, và chúng phản ứng khi
mình có mặt ở đó mà người khác lại không quan tâm", Nagy nói.
>>KBZ 36:
Phim tình cảm làm hại tình yêu
Nghiên cứu mới của Đại học Heriot Watt ở Edinburgh (Anh) cho thấy việc xem nhiều phim tình cảm lãng mạn sẽ
ảnh hưởng không tốt đến tình yêu.
Các chuyên gia tâm lý nghiên cứu về các mối quan hệ tại Đại học Heriot Watt nhận định, chính những câu
chuyện tình lãng mạn từ các tác phẩm điện ảnh khiến người xem tạo cho mình nhiều mong muốn không thực tế
trong tình yêu.
Họ phát hiện ra rằng fan hâm mộ những bộ phim lãng mạn như Runaway Bride (Cô dâu chạy trốn) hay Notting
Hill thường gặp khó khăn trong việc chia sẻ với người yêu, do hay có xu hướng tin rằng đối tượng sẽ hiểu được
những gì họ cần ngay cả khi không nói ra.
Các chuyên gia tâm lý cũng tiến hành một cuộc nghiên cứu với 200 sinh viên tình nguyện. Một nửa trong số này
được yêu cầu xem phim tình cảm trong khi số còn lại xem một bộ phim hiện thực.
Kết quả cho thấy những sinh viên xem thể loại tình cảm lãng mạn có xu hướng tin vào số phận và định mệnh
hơn nhóm còn lại. Khi tiến hành nghiên cứu sâu hơn, họ rút ra kết luận những người hâm mộ thể loại phim tình
cảm thường tin vào những mối duyên tiền định hơn các đối tượng khác.
"Trong khi rất nhiều người nhận thức được rằng khái niệm về mối quan hệ hoàn hảo là vô tưởng, nhưng một số
vẫn bị ảnh hưởng nhiều bởi các câu chuyện mà phim ảnh thêu dệt", tiến sĩ Bjarne Holmes thuộc Đại học Heriot
Watt nhận định.
Một chuyên gia khác tham gia cuộc nghiên cứu là Kimberly Johnson cho hay, các nhà làm phim đã nhầm khi
khắc họa những phẩm chất như sự tin tưởng và cam kết trong tình yêu ngay khi các nhân vật vừa gặp gỡ. Còn
trên thực tế những điều này thường mất nhiều năm mới có thể đạt được.
>>KBZ 37:
Tóc - chỉ điểm tin cậy
Bạn hãy đưa một sợi tóc của mình cho hai nhà khoa học Mỹ là James Ehlinger và Thure Cerling, Trường ĐH
Utah (Hoa Kỳ). Họ không phải là thầy bói, nhưng họ sẽ "phán" nhà bạn ở đâu.
Trên sợi tóc ấy sẽ có bám dính, dù lượng vô cùng nhỏ, các chất khoáng trong vòi nước của bạn đã bị khô đi, và
chúng trở thành nhân chứng tiết lộ nơi bạn đang sống.
Thật vậy, tỷ lệ những đồng vị nặng của hydro và oxy trong nước là những chỉ số rất đặc trưng cho từng vùng,
giảm khi trời mưa và khi tiến dần lên phía Bắc hoặc xa bờ biển. Các nhà khoa học đã thử đi thử lại chỉ số này và
thấy chúng rất phù hợp với con số đo được trên tóc của người sống tại địa phương.
Từ các chỉ số phân tích công phu, hai nhà khoa học nói trên đã vẽ nên một tấm bản đồ đồng vị trong nước của
18 bang trên nước Mỹ và kiểm tra hàm lượng các chất đồng vị của hydro và oxy trên tóc thu lượm từ những tiệm
cắt tóc trong 85% trường hợp. Sự phù hợp đó cho phép chỉ cần lấy một sợi tóc là xác định được vùng cư trú
của một người.
Hơn nữa, Ehlinger và Cerling còn làm một thí nghiệm thú vị. Trong kỳ nghỉ, các nhân viên mỗi người đi nghỉ một
nơi. Khi trở về, hai ông lấy của mỗi người một sợi tóc. Đoán nhận họ đã ở những đâu không hề sai, kể cả một
người sang du lịch tại Bắc Kinh. Ba tháng sau, thử lại, "chữ ký đồng vị" không còn của Trung Quốc nữa, mà tại
chính bang Utah. Việc làm của hai nhà khoa học có thể được ứng dụng rộng rãi trong nhiều mục đích, ví dụ theo
dõi lộ trình của một kẻ phạm pháp, nhưng không chỉ có thế.
James Ehlinger còn hợp tác với các cơ quan điều tra Mỹ xác định nguồn gốc của sợi xenlulôzơ trong những
đồng đôla giả. Thậm chí một viên côcain cũng mang "chữ ký đồng vị" của địa điểm bọn buôn lậu ma tuý sản xuất
ra.
Hiện nay, bản thân James Ehlinger và Thure Cerling đã thành lập một cơ sở điều tra hình sự tư nhân để triển
khai phát minh độc đáo của mình và chắc họ sẽ "bắt các tử thi nói lên một điều gì đó" theo cách nói bóng bảy
của các nhà báo.
>>KBZ 38:
Con trai hay con gái phụ thuộc vào bố
Một nghiên cứu của Đại học Newcastle với sự tham gia của hàng nghìn gia đình là lời giải cho các bậc cha mẹ
về việc liệu họ có con trai hay con gái.
Nghiên cứu của nhà khoa học Corry Gellatly cho thấy rằng đàn ông thừa hưởng từ cha mẹ xu hướng có nhiều
con trai hơn hoặc nhiều con gái hơn. Điều này có nghĩa rằng một người đàn ông có nhiều anh em trai có nhiều
khả năng có con trai, trong khi một người đàn ông có nhiều chị em gái có nhiều khả năng có con gái.
Nghiên cứu được thực hiện dựa trên thông tin của 927 cây phả hệ gia đình và 556.387 người từ Bắc Mỹ và châu
Âu từ những năm 1600.
Gellatly giải thích: "Cây phả hệ gia đình cho thấy xu hướng có con trai hoặc con gái mang tính chất di truyền. Bây
giờ chúng ta biết rằng đàn ông có nhiều khả năng có con trai hơn nếu họ có nhiều anh em trai, và có nhiều khả
năng có con gái hơn nếu có nhiều chị em gái. Tuy nhiên, đối với phụ nữ, bạn không thể dự đoán được gì".
Đàn ông quyết định giới tính của một đứa trẻ dựa trên tinh trùng của họ chứa nhiễm sắc thể X hay Y. Một nhiễm
sắc thể X kết hợp với một nhiễm sắc thể X khác từ người mẹ sẽ hình thành nên bé gái (XX), và một nhiễm sắc
thể Y kết hợp với nhiễm sắc thể của người mẹ sẽ cho ra một bé trai (XY).
Nghiên cứu của Đại học Newcastle cho thấy một gen chưa được phát hiện kiểm soát việc liệu tinh trùng của đàn
ông chứa nhiều nhiễm sắc thể X hoặc nhiều nhiễm sắc thể Y hơn. Điều này ảnh hưởng đến giới tính của đứa trẻ
được sinh ra. Trên quy mô lớn hơn, số lượng đàn ông với tinh trùng chứa nhiều nhiễm sắc thể X hơn so sánh
với số lượng đàn ông với nhiều nhiễm sắc thể Y hơn ảnh hưởng đến tỷ lệ giới tính của trẻ được sinh ra mỗi
năm.
Con trai hay con gái?
Một gen chứa hai phần, được gọi là gen tương ứng, thừa hưởng từ bố mẹ. Trong bài báo của mình, Gellatly
chứng minh rằng rất có khả năng đàn ông chứa hai loại gen tương ứng khác nhau. Điều này dẫn đến 3 khả năng
tổ hợp của một gen kiểm soát tỉ lệ của tinh trùng X và Y.
• Loại tổ hợp đầu tiên, gọi là mm, tạo ra nhiều tinh trùng Y và có nhiều con trai hơn.
• Loại tổ hợp thứ hai, gọi là mf, tạo ra lượng tinh trùng X và Y tương đương, và có số lượng con trai con gái như
nhau.
• Loại tổ hợp thứ ba, gọi là ff, tạo ra nhiều tinh trùng X hơn và có nhiều con gái hơn.
Gellatly cho biết: "Gen thừa hưởng từ cả cha lẫn mẹ khiến một số đàn ông có nhiều con trai hơn và một số khác
có nhiều con gái hơn, có thể giải thích tại sao số lượng đàn ông và đàn bà là tương đương. Nếu có quá nhiều
đàn ông trong cộng đồng, đàn bà sẽ dễ dàng tìm được bạn đời, vì vậy những người đàn ông có nhiều con gái
hơn sẽ di truyền nhiều gen của họ, khiến nhiều bé gái được sinh ra hơn trong những thế hệ tiếp theo".
Nhiều bé trai được sinh ra sau chiến tranh
Ở nhiều nước tham gai vào chiến tranh thế giới, số lượng bé trai được sinh ra thường tăng đột ngột sau chiến
tranh. Năm sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, có thêm hai bé trai sinh ra trên 100 bé gái tại Anh Quốc
khi so sánh với năm trước khi chiến tranh bắt đầu. Gen được Gellatly miêu tả trong nghiên cứu của mình có thể
giải thích tại sao hiện tượng này xảy ra.
Những người đàn ông với nhiều con trai hơn, có khả năng một trong số đó quay trở về từ mặt trận và cũng có xu
hướng, thừa kế từ cha mình, trở thành cha của những bé trai. Ngược lại, những người đàn ông với nhiều con
gái hơn, có thể mất đứa con duy nhất trong chiến tranh. Những người này có xu hướng trở thành cha của những
bé gái. Điều này giải thích tại sao những người đàn ông sống sót qua chiến trận có xu hướng có con trai và khiến
tỷ lệ bé trai được sinh ra tăng mạnh.
Ở hầu hết các nước, trong những dữ liệu tồn tại, luôn có nhiều bé trai hơn bé gái được sinh ra. Tại Anh Quốc và
Hoa Kỳ, hiện có 105 bé trai được sinh ra trên 100 bé gái.
Cũng có rất nhiều tài liệu ghi chép rằng nhiều bé trai chết sớm trước khi đủ trưởng thành để có con. Vì vậy
tương tự như việc gen khiến nhiều con trai được sinh ra sau chiến tranh, nó cũng có thể khiến nhiều bé trai
được sinh ra mỗi năm
Hoạt động của gen?
Phả hệ (bên trên) minh họa hoạt động của gen. Đây là một ví dụ được đơn giản hóa, trong đó đàn ông chỉ có con
trai, hoặc chỉ có con gái, hoặc có số lượng con trai và con gái bằng nahu. Nó cho thây rằng mặc dù gen này
không ảnh hưởng đến phụ nữ, những họ cũng mang gen đó và kế thừa lại cho con cái.
Trong cây phả hệ đầu tiên (A), người ông là mm, vì vậy tất cả con cái đều là con trai. Ông chỉ cho gen tương ứng
là m, vì vậy những đứa con của ông có nhiều khả năng hình thành tổ hợp mm hơn. Vì vậy, những người con trai
có thể chỉ sinh ra con trai. Những cháu nội có thể có tổ hợp gen tương ứng mf, vì họ thừa hưởng m từ cha và f
từ mẹ. Do đó, họ có số lượng con trai và con gái tương đương (chắt).
Trong cây phả hệ thứ hai (B) người ông là ff, vì vậy chỉ có con gái, và họ có tổ hợp gen tương ứng ff, vì cả cha
lẫn mẹ họ đều mang gen ff. Một trong những người con gái có con với một người đàn ông có tổ hợp gen mm.
Người đàn ông đó quyết định giới tính của những đứa con, vì vậy cháu ngoại đều là con trai. Những đứa cháu
ngoại có tổ hợp gen tương ứng mf, vì họ thừa hưởng m từ cha và f từ mẹ. Vì vậy, họ có số lượng con trai và con
gái bằng nhau (chắt).
>>KBZ 39:
Muốn nảy ra sáng kiến, hãy suy nghĩ vào lúc 22h04
Đi ngủ sớm và dậy sớm giúp bạn khỏe mạnh, giàu có và sáng suốt, đó là câu cách ngôn mà rất nhiều người
biết. Nhưng một nghiên cứu cho thấy, nếu muốn có nhiều ý tưởng mới, bạn không nên ngủ quá sớm.
Các chuyên gia của Đại học Newcastle, Anh, tiến hành phỏng vấn 1.426 người trưởng thành từng có những ý
tưởng hoặc phát minh mới. Khoảng một phần tư số họ cho biết những ý tưởng mới thường nảy ra vào giữa buổi
tối, trong đó số người nảy ra sáng kiến vào 22h04 chiếm tỷ lệ lớn nhất.
Trong khi đó, trái với suy nghĩ của nhiều nhà quản lý, rất ít người tham gia phỏng vấn nói rằng, họ từng nảy ra
những ý tưởng mang tính đột phá khi làm việc tại văn phòng vào ban ngày.
Vào buổi chiều, khi phần lớn cư dân Trái đất còn làm việc, 98% người tham gia khẳng định họ "không có cảm
hứng sáng tạo". Tình trạng đó trở nên tồi tệ hơn cho tới tận 16h33. Vào buổi tối, sự minh mẫn quay trở lại.
Khi được hỏi về biện pháp giúp não hoạt động hiệu quả hơn trong hoạt động sáng tạo, 44% nói rằng họ tắm vòi
hoa sen.
Nhiều nghiên cứu trước đây khẳng định rằng, ngay cả khi có khả năng sáng tạo bẩm sinh, hơn một nửa ý tưởng
mới của một con người sẽ biến mất vĩnh viễn ngay sau khi chúng vừa xuất hiện. Khi cảm hứng sáng tạo lóe lên,
58% số người tham gia không kịp lấy bút ghi ý tưởng mới ra giấy, để rồi sau đó quên mất.
Phụ nữ tỏ ra xuất sắc hơn nam giới trong việc ghi lại ý những ý tưởng hay nhất của họ cho thế hệ sau.
Một nghiên cứu do Đại học Sacred Heart ở Milan, Italy, tiến hành cho thấy một phần ba số người ở độ tuổi trên
35 thường ghi những ý tưởng mới trên mu bàn tay và những người thức khuya luôn đạt năng suất cao hơn trong
việc "sản xuất ý tưởng". Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng những người không chịu gò mình theo các khuôn phép xã
hội có xu hướng tạo ra nhiều sáng kiến hơn.
Cũng theo một nghiên cứu mà các nhà khoa học của Đại học Newcastle tiến hành vào năm 2006 thì những
người làm công việc sáng tạo, như họa sĩ và nhà thơ, tỉnh giấc nhiều hơn người bình thường 2-3 lần trong suốt
cuộc đời họ.
>>KBZ 40:
Viễn cảnh thế giới năm 2030
Tị nạn khí hậu ở Nam Cực, đại dịch cướp đi hàng triệu sinh mạng, mỗi quốc gia chỉ còn cố đấu tranh để sinh
tồn, thế giới năm 2030 có thể sẽ như thế theo cảnh báo của nhiều chuyên gia. Nhưng chúng ta cũng có thể
chứng kiến những viễn cảnh đẹp, như sa mạc Sahara trở thành ốc đảo màu mỡ.
Cách đây vài ngày, các nhà khoa học cảnh báo rằng những mất mát do khủng hoảng tài chính quá nhỏ bé so với
những thiệt hại do con người gây ra đối với thiên nhiên. Mới đây, "Diễn đàn vì tương lai" (Forum for the Future) ở
Anh vừa đưa ra một dự báo không mấy tốt đẹp cho tương lai. Các đại biểu mở đầu với lời nhận xét: "Mức độ
nghiêm trọng của biến đổi khí hậu đối với nền kinh tế sẽ nghiêm trọng chẳng kém gì khủng hoảng tài chính".
Trong báo cáo "Climate Futures", các chuyên gia phác thảo 5 kịch bản. Để làm nên báo cáo này, các tác giả đã
thăm dò ý kiến của 70 chuyên gia, trong đó có nhiều nhà kinh tế học và khoa học xã hội, nhà báo, nhà hoạt động
môi trường và chính khách. Bên cạnh những cảnh báo về khí hậu, báo cáo cũng đưa ra những viễn cảnh tốt đẹp.
Dưới đây là 5 kịch bản có thể xảy ra vào năm 2030:
Con người được cứu thoát nhờ công nghệ
Nhiều cải tiến, phát minh ra đời, giúp con người sử dụng năng lượng hiệu quả hơn và giảm thiểu lượng khí nhà
kính thải ra đến mức chúng ta hầu như không phải thay đổi lối sống. Kinh tế phát triển không bị kìm hãm.
Nhu cầu ngày càng tăng của tròn 8 tỷ con người sinh sống trên Trái Đất vào năm 2030 có thể sẽ được thỏa mãn
qua những mô hình kinh doanh và công nghệ mới. Thịt nhân tạo có thể nuôi sống hàng trăm triệu con người.
Các nhà máy xử lý nước biển thành nước ngọt hoạt động bằng năng lượng Mặt Trời sẽ biến đổi sa mạc Sahara
trở thành một vùng đất màu mỡ. Công nghệ nano giúp chúng ta tạo ra "bụi thông minh" để theo dõi môi trường
trong thời gian thực nhằm ngăn ngừa mọi thảm họa trước khi chúng xảy ra.
Cuộc cách mạng dịch vụ
Nền kinh tế của năm 2030 sẽ dựa vào dịch vụ nhiều hơn là công nghiệp. Các công ty sẽ phải bỏ ra nhiều tiền để
được thải khí CO2. Điều này sẽ thúc đẩy tính sáng tạo. Một dự án không phụ thuộc năng lượng của châu Âu
thành công và được áp dụng ở mọi nơi trên thế giới. Con người đi bằng xe đạp thay vì lái ôtô.
Kinh tế được xã hội hóa cực độ. Tất cả mọi thứ sẽ được nhiều người sử dụng chung vì mức độ hiệu quả: Do
máy giặt hay ôtô quá đắt đối với một cá nhân, hiện tượng nhiều người sử dụng một ôtô hay tiệm giặt công cộng
sẽ trở nên phổ biến.
Định nghĩa mới của tiến bộ
Kịch bản này giống như một không tưởng xã hội ra đời từ những khó khăn kinh tế. Trì trệ kinh tế toàn cầu từ
2009 đến 2018 bắt buộc con người, đặc biệt là trong những nước công nghiệp, phải chấp nhận một lối sống giản
dị hơn, làm cho người ta hướng nhiều hơn đến việc nâng cao đời sống tinh thần cá nhân và chất lượng cuộc
sống. Ở Mỹ, người ta làm việc 25 giờ/tuần cho chính mình và thêm 10 giờ cho cộng đồng.
EU giới hạn thời gian làm việc trong một tuần ở mức 27,5 giờ. Ngân hàng Thế giới đưa ra chỉ số đánh giá các
biện pháp cải tiến chất lượng cuộc sống. Hàn Quốc chủ trương cải thiện chất lượng cuộc sống thay vì phát triển
kinh tế. Con người vẫn làm việc, tiêu dùng và tạo ra của cải, nhưng quan điểm của họ với tiền bạc sẽ khác nhiều
so với ngày nay.
Ưu tiên bảo vệ môi trường
Trong kịch bản này, các chuyên gia mô tả "một thế giới phản ứng quá chậm trước biến đổi khí hậu". Các cuộc
thương lượng nhằm cho ra đời một thỏa thuận thay thế Hiệp ước Kyoto thất bại. Mỗi vùng trên thế giới đều theo
đuổi quyền lợi riêng. Thương mại quốc tế gần như không còn. Giá dầu tăng lên đến 400 USD/thùng. Các hộ gia
đình sẽ bị cắt điện nếu sử dụng quá nhiều. Khí thải gây hiệu ứng nhà kính sẽ giảm dần, nhưng con người phải trả
giá bằng cách từ bỏ nhiều lợi ích cá nhân.
Ở vài nước, vợ chồng chỉ được phép có con khi được cấp giấy phép qua một hệ thống điểm. Sống thân thiện
với môi trường sẽ được thêm điểm.
Các hậu quả thảm khốc của tình trạng hủy hoại môi trường dẫn đến nhiều cuộc di dân quy mô lớn. Ngay cả Nam
Cực cũng trở thành đích đến của những dòng người lánh nạn. Khoảng 3,5 triệu người sẽ sống ở Nam Cực
trong năm 2040.
Trào lưu bảo hộ nội địa
Trong thế giới tối tăm của năm 2030, toàn cầu hóa bước vào giai đoạn thoái trào. Xung đột vũ trang vì tài nguyên
xảy ra ngày càng nhiều. Chiến tranh hóa học và sinh học nhằm tranh giành nguồn nước ở vùng Cận Đông để lại
hậu nhiều quả thảm khốc.
Hậu quả của tình trạng trên là sự lên ngôi của chính sách bảo hộ nội địa cực đoan do mỗi nước đều muốn bảo
vệ cái mà họ có. Giá cả tăng vọt, thương mại gặp khó khăn, nạn đói và dịch bệnh (trở nên trầm trọng hơn vì biến
đổi khí hậu) cướp đi sinh mạng của hàng triệu người. Các quốc gia đóng cửa biên giới do lo ngại dịch bệnh lan
truyền.
"Một ngày nào đó, thế giới có thể sẽ như thế. Có một vài khả năng không được tốt đẹp cho lắm. Có lẽ một ngày
nào đó các sử gia sẽ nhìn lại thời gian hiện nay và gọi nó là 'Những năm của biến đổi khí hậu'. Họ sẽ khen ngợi
thế hệ của chúng ta, nhưng cũng có thể nhìn chúng ta bằng con mắt ghê tởm - giống như cách chúng ta nhìn
nhận tình trạng mua bán và sử dụng nô lệ trong quá khứ", ông PeterMadden, chủ tọa "Diễn đàn vì tương lai", phát
biểu.
Nếu thấy bổ ích, bạn có thể yêu cầu đăng tiếp phần 2 wa email :
[email protected] hoặc thêm comment (bình luận) yêu cầu đăng tiếp.
Chúc các bạn thành công!
(MỜI XEM TIẾP PHẦN 2)
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top