bac ho
Cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh (P1)
Sunday, 24. January 2010, 13:53
TIỂU SỬ
Theo gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng Kim Liên tại Nam Đàn, Nghệ An thì:
"Hoàng sơ tổ khảo là Nguyễn Bá Phụ, tổ đời thứ hai là Nguyễn Bá Bạc, tổ đời thứ ba là Nguyễn Bá Ban, tổ đời thứ tư là Nguyễn Văn Dân,... tổ đời thứ năm, Nguyễn Sinh Vật là giám sinh đời Lê Thánh Đức (tức Lê Thần Tông) năm thứ ba..., tổ đời thứ sáu là Nguyễn Sinh Tài đỗ hiếu sinh khi 17 tuổi, năm 34 tuổi đỗ tam trường khoa thi Hội..., tổ đời thứ 10 là Nguyễn Sinh Nhậm)." Cả bốn đời đầu tiên của dòng họ đều chưa lấy đệm là "Sinh" và không rõ năm sinh, năm mất.
Ông tên thật là Nguyễn Sinh Cung (阮生恭, giọng địa phương phát âm là Côông), tự là Tất Thành. Quê nội là làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen). Ông được sinh ra ở quê ngoại là làng Hoàng Trù (tên Nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen khoảng 2 km) và sống ở đây cho đến năm 1895. Hai làng này vốn cùng nằm trong xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn. Quê nội của ông, làng Kim Liên là một làng quê nghèo khó. Phần lớn dân chúng không có ruộng, phải làm thuê cấy rẽ, mặc quần ít, đóng khố nhiều, bởi thế nên làng này còn có tên là làng Đai Khố. Vào đời ông, phần lớn dòng họ của ông đều cơ hàn, kiếm sống bằng nghề làm thuê, và cũng có người tham gia các hoạt động chống Pháp.
Thân phụ ông là một nhà nho tên là Nguyễn Sinh Sắc, từng đỗ phó bảng[9]. Thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan. Ông có một người chị là Nguyễn Thị Thanh, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm (tự Tất Đạt, còn gọi là Cả Khiêm) và một người em trai mất sớm là Nguyễn Sinh Nhuận (1900-1901, tên khi mới lọt lòng là Xin).
Theo lý lịch chính thức, Nguyễn Sinh Cung sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, tuy nhiên có những thông tin khác không đồng nhất:
* Trong đơn xin học Trường hành chính thuộc địa, năm 1911, ông tự ghi là sinh năm 1892.
* Năm 1920, ông khai với một quận cảnh sát tại Paris ngày sinh của mình là 15 tháng 1 năm 1894.
* Theo một tài liệu do Phòng nhì Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của một số nhân chứng làng Kim Liên, quê nội của ông, thì ông sinh tháng 4 năm 1894.
* Trong tờ khai của ông tại Đại sứ quán Liên Xô ở Berlin, vào tháng 6 năm 1923, thì ngày sinh là 15 tháng 2 năm 1895.
TUỔI TRẺ
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội, từ đây ông bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành. Tất Thành theo học cử nhân Hoàng Phạm Quỳnh và một số ông giáo khác.
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Tháng 9 năm 1907, ông vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ[. Cha ông bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai". Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.
Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. Ông dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của hội Liên Thành. Khoảng trước tháng 2 năm 1911, ông nghỉ dạy và vào Sài Gòn. Tại đây, ông theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son. Ở đây, ông được nuôi ăn nhưng chỉ học 3 tháng thì bỏ khi nhận ra rằng phải học 3 năm mới thành nghề. Ông quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài.
Cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh (P2)
Sunday, 24. January 2010, 14:07
HOẠT ĐỘNG Ở NƯỚC NGOÀI
Thời kì 1911-1919
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Sau khi ở Hoa Kỳ một năm (cuối 1912-cuối 1913), ông quay trở lại nước Anh làm nghề cào tuyết, đốt lò rồi phụ bếp cho khách sạn. Cuối năm 1917, ông trở lại nước Pháp, sống và hoạt động ở đây cho đến năm 1923.
Thời kì ở Pháp
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, thay mặt Hội những người An Nam yêu nước, Nguyễn Tất Thành đã mang tới Hội nghị Hòa bình Versailles bản Yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm để kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh áp dụng các lý tưởng của Tổng thống Wilson cho các lãnh thổ thuộc địa của Pháp ở Đông Nam Á, trao tận tay tổng thống Pháp và các đoàn đại biểu đến dự hội nghị[15]. Bản yêu sách này do một nhóm các nhà ái quốc Việt Nam sống ở Pháp, trong đó có Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Tất Thành, cùng viết, và được ký tên chung là Nguyễn Ái Quốc[16]. Từ đây, Nguyễn Tất Thành công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và sử dụng tên này trong suốt 30 năm sau đó.
Tranh biếm họa của Nguyễn Ái Quốc cho tờ Le Paria, đời sống người dân dưới ách thống trị của thực dân Pháp
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin, từ đó ông đi theo chủ nghĩa cộng sản. Ông tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp tại Tours (từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920) với tư cách là đại biểu Đông Dương của Đảng Xã hội Pháp, ông trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và tách khỏi đảng Xã hội. Năm 1921, ông cùng một số nhà yêu nước của các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp Thuộc địa (Union intercoloniale - Association des indigènes de toutes les colonies) nhằm tập hợp các dân tộc bị áp bức đứng lên chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1922, ông cùng một số nhà cách mạng thuộc địa lập ra báo Le Paria (Người cùng khổ), làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, nhằm tố cáo chính sách đàn áp, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" bằng tiếng Pháp (Procès de la colonisation française) do Nguyễn Ái Quốc viết được xuất bản năm 1925, đã tố cáo chính sách thực dân tàn bạo của Pháp và đề cập đến phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa.
Thời kì ở Liên Xô lần thứ nhất
Tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Moskva học tập tại trường Đại học Phương Đông. Tại đây ông đã dự Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông dân (họp từ ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 1923), ông được bầu vào Ban chấp hành và Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Tại Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản (họp từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 8 tháng 7 năm 1924), ông được cử làm ủy viên Ban Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam.
Thời kì ở Trung Quốc (1924-1927)
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, do Mikhail Markovich Borodin làm trưởng đoàn.
Năm 1925, ông thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin (thường được phiên âm là Mác–Lê-nin) vào Việt Nam[cần dẫn nguồn]. Cuốn Đường Kách mệnh, mà ông là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.
Theo nghiên cứu của một số sử gia có tên tuổi tại Hoa Kỳ, Pháp, và Trung Quốc, trong thời gian ở Quảng Châu, ông đã kết hôn với một thiếu nữ Trung Quốc tên là Tăng Tuyết Minh (ngày 18 tháng 10 năm 1926) và sống với nhau cho đến khi ông rời Quảng Châu, vào khoảng tháng 4 hoặc 5 năm 1927. Sau khi ông đã trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cả hai người đã tìm nhau thông qua tổ chức Đảng Cộng sản Trung Quốc và cơ quan ngoại giao Việt Nam tại Trung Quốc nhưng không thành công.
Cùng năm 1925, ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí thư. Do Tưởng Giới Thạch khủng bố các nhà cách mạng cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, ông rời Quảng Châu đi Hương Cảng, rồi sang Liên Xô. Tháng 11 năm 1927, ông được cử đi Pháp, rồi từ đó đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn chống đế quốc từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 12 năm 1927 tại Brussel, Bỉ.
Cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh (P3)
Sunday, 24. January 2010, 14:12
Những năm 1928, 1929
Mùa thu 1928, ông từ châu Âu đến Xiêm La, với bí danh Thầu Chín để tuyên truyền và huấn luyện cho Việt kiều.
Cuối năm 1929, ông rời Xiêm La sang Trung Quốc.
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (九龍, Kowloon) thuộc Hương Cảng, ông thống nhất ba tổ chức đảng cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đó đổi tên là "Đảng Cộng sản Đông Dương", rồi đổi thành "Đảng Lao Động Việt Nam" và nay là "Đảng Cộng sản Việt Nam").
Tháng 3 năm 1930, ông trở lại Xiêm La trong một thời gian ngắn, sau đó quay lại Trung Hoa.
Những năm 1931 - 1933
Năm 1931, dưới tên giả là Tống Văn Sơ (Sung Man Ch'o), Nguyễn Ái Quốc bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam với ý định trao cho chính quyền Pháp ở Đông Dương. Tờ L'Humanité số ra ngày 9 tháng 8 năm 1932 đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong trạm xá nhà tù tại Hồng Kông đồng thời tố cáo đây là âm mưu của thực dân Pháp câu kết với thực dân Anh nhằm ám sát người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Nhưng sau đó nhờ sự biện hộ và giúp đỡ tận tình của luật sư Frank Loseby, Tống Văn Sơ được thả ngày 28 tháng 12 năm 1932. Ông đi Thượng Hải rồi bí mật quay trở lại Liên Xô.
Thời kì ở Liên Xô lần thứ hai
Ông đến Moskva vào mùa xuân năm 1934. Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học ở Trường Quốc tế Lenin (1934-1935). Ông dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản (từ ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935) với vai trò quan sát viên của ban thư ký Dalburo với tên Linov. Theo tài liệu của một số nhà sử học, ông bị buộc ở Liên Xô cho đến năm 1938 và bị giam lỏng ở đó do bị nghi ngờ về lý do ông được nhà cầm quyền Hương Cảng trả tự do. Trong những năm 1931-1935, ông đã bị Trần Phú và sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương "liên minh với tư sản và địa chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Quốc tế Cộng sản.
Từ năm 1938 đến đầu năm 1941
Năm 1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang, Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương, Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân Trung Quốc mùa đông 1938.
Trở về Việt Nam
Ông trở về Việt Nam vào ngày 28 tháng 1 năm 1941, ở tại hang Cốc Bó, bản Pác Bó, tỉnh Cao Bằng với bí danh Già Thu. Tại đây, ông mở các lớp huấn luyện cán bộ, cho in báo, tham gia các hoạt động thường ngày... Tài liệu huấn luyện và tuyên truyền chủ yếu là sách do ông dịch và viết về nhiều chủ đề. Tại cuối một cuốn sách như vậy ông ghi "Việt Nam độc lập năm 1945". Ông cho lập nhiều hội đoàn nhân dân như hội phụ nữ cứu quốc, hội phụ lão cứu quốc, hội nông dân cứu quốc...
Tháng 5 năm 1941, hội nghị mở rộng lần thứ 8 của Trung ương Đảng họp ở Cao Bằng và quyết định thành lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (Việt Minh). Ông là chủ tọa.
Từ khi bị giam ở Trung Quốc cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945
Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của cả Việt Minh và Hội quốc tế phản xâm lược Việt Nam (một hội đoàn được ông tổ chức ra trước đó) để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc. Đây là lần đầu tiên trong các giấy tờ cá nhân ông sử dụng tên Hồ Chí Minh. Ông khai nhân thân là "Việt Nam-Hoa kiều".
Ông bị chính quyền địa phương của Trung Hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 khi đang đi cùng một người Trung Quốc dẫn đường và giam hơn một năm, trải qua khoảng 30 nhà tù. Ông viết Nhật ký trong tù trong thời gian này (từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943). Các đồng chí của ông (Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh...) ở Việt Nam tưởng lầm là ông đã chết (sau này nguyên nhân được làm rõ là do một cán bộ Cộng sản tên Cáp nghe và hiểu sai ngữ nghĩa). Họ thậm chí đã tổ chức đám tang và đọc điếu văn cho ông (Phạm Văn Đồng làm văn điếu) cũng như "mở chiếc va-li mây của Bác ra tìm xem còn những gì có thể giữ lại làm kỉ niệm" (lời của Võ Nguyên Giáp). Vài tháng sau họ mới biết được tình hình thực của ông sau khi nhận được thư do ông viết và bí mật nhờ chuyển về.
Sau khi được trả tự do ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh tham gia Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Từ trước đó, Việt Minh cũng đã ra tuyên bố ủng hộ Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Ông cũng cố gắng tranh thủ Trương Phát Khuê, tướng cai quản vùng Quảng Đông và Quảng Tây của Quốc Dân Đảng, nhưng kết quả là hạn chế.
Cuối tháng 9 năm 1944, ông trở về Việt Nam. Khi này các đồng chí của ông ở Liên tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng như Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng... đã quyết định tiến hành phát động chiến tranh du kích trong phạm vi liên tỉnh. Ông ngăn chặn thành công quyết định này. Thay vào đó, ông ra lệnh tổ chức lập lực lượng vũ trang và căn cứ địa cho chặt chẽ và hiệu quả hơn. Ông trực tiếp ra chỉ thị thành lập một đội quân mang tính chính thống và chính quy là đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, với 34 đội viên là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng hoặc thành viên của các đội quân nhỏ bé và rải rác trước đó của Việt Minh. Cuối năm 1944, ông lại trở lại Côn Minh hoạt động cho tới đầu năm 1945.
Ngay trước khi Hội nghị Tân Trào họp vào tháng 8 năm 1945, ông ốm nặng, tưởng không qua khỏi.
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Đại hội quốc dân tại Tân Trào (Tuyên Quang), cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng tức Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh (P4)
Sunday, 24. January 2010, 14:19
GIAI ĐOẠN LÃNH ĐẠO
Từ Độc lập tới Toàn quốc kháng chiến
Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris, 1946
Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 trên quảng trường Ba Đình tại Hà Nội, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và bản Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp để mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam.
Ông gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm (Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman, Stalin, Tổng thống Pháp Léon Blum, bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp,…).
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tấn công Sài Gòn. Quân dân Sài Gòn cấp tập chống cự. Ủy ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập với Trần Văn Giàu là chủ tịch. Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ điện ra Trung ương xin cho được đánh. Chính phủ ra huấn lệnh, bản thân ông gửi thư khen ngợi "lòng kiên cường ái quốc của đồng bào Nam Bộ"[cần dẫn nguồn].
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, tổng tuyển cử tự do trong cả nước được tổ chức, bầu ra Quốc hội và Quốc hội thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I của Việt Nam đã cử ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại biểu quốc hội chủ yếu là nhân sĩ trí thức, người ngoài Đảng. Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và với chức danh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông cũng đảm nhiệm luôn công việc của thủ tướng. Chính phủ này, cho tới cuối năm 1946, đã trải qua 3 lần thay đổi cơ cấu và nhân sự vào các thời điểm: ngày 1 tháng 1; tháng 3; và ngày 3 tháng 11.
Nhà nước và chính phủ của ông đối mặt với hàng loạt khó khăn cả về đối nội và đối ngoại. Về đối ngoại, khi này Việt Nam chưa được bất cứ quốc qia nào công nhận ], không phải thành viên Liên hiệp quốc, cũng như không nhận được sự ủng hộ nào về vật chất của các nước cộng sản khác. Ngoài 20 vạn quân của Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc, còn có quân Anh và quân Pháp (vào thời điểm toàn quốc kháng chiến, tháng 12 năm 1946, Pháp có quãng 6 vạn quân), và khoảng 6 vạn quân Nhật. Về đối nội, "giặc đói, giặc dốt" - như chính cách ông gọi - và ngân quỹ trống rỗng là những vấn đề hệ trọng nhất.
Bởi thế ông thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn. Ông nói: "chính sách của ta hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục không phải là khuất phục".
Với tập đoàn Tưởng Giới Thạch, ông chấp nhận sự hiện diện của Việt Cách, Việt Quốc trong các chính phủ liên tục được thay đổi, chấp nhận 70 ghế cho Việt Quốc, Việt Cách trong quốc hội không cần qua bầu cử. Ông cũng cung cấp gạo (ban đầu kiên quyết từ chối) cho quân Tưởng. Quân Tưởng cũng được tiêu giấy bạc "kim quan" và "quốc tệ" tại miền Bắc. Trước đó, tháng 10 năm 1945, khi Hà Ứng Khâm, tổng tham mưu trưởng của quân đội Tưởng tới Hà Nội, hàng vạn người được huy động xuống đường, hô vang các khẩu hiệu "Ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh", "Ủng hộ chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" để "đón tiếp".
Tháng 11 năm 1945, ông quyết định cho Đảng tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của ông không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương.
Ông kêu gọi các đảng viên nếu tự xét thấy mình không đủ phù hợp thì nên tự rút lui khỏi hàng ngũ lãnh đạo chính quyền.
Trước Quốc hội, ông tuyên bố: "Tôi chỉ có một Đảng - đảng Việt Nam".
Theo Hiệp ước Pháp-Hoa, ký ngày 28 tháng 2 năm 1946, quân Pháp sẽ thay thế quân của Tưởng Giới Thạch. Một tuần sau, ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông cùng Vũ Hồng Khanh ký với Jean Sainteny - Ủy viên Pháp ở miền bắc Ðông Dương - bản Hiệp định sơ bộ với Pháp, với 3 nội dung chủ chốt:
* Pháp công nhận Việt Nam "là một nước tự do, là một phần tử trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp". Trước đó, đàm phán căng thẳng khi ông muốn Việt Nam được công nhận là quốc gia độc lập và phản đối kịch liệt khi Pháp muốn dùng chữ "Quốc gia Tự trị" để mô tả tổ quốc của ông.
* Pháp được đưa 1,5 vạn quân ra Bắc thế cho quân Tưởng, nhưng phải rút trong 5 năm, mỗi năm rút 1 phần 5 quân số.
* Ngừng xung đột, giữ nguyên quân đội tại vị trí cũ.
Ngày 31 tháng 5 năm 1946, ông lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ nước này; cùng ngày, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành. Trước khi đi, ông bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho Huỳnh Thúc Kháng với lời dặn "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Tại Việt Nam, ông dự đoán thời gian ở Pháp là "...có khi một tháng, có khi hơn" nhưng cuối cùng ông ở Pháp 4 tháng (Hội nghị Fontainebleau diễn ra từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm 1946) mà không tránh khỏi thất bại chung cuộc.
Ngày 14 tháng 9 năm 1946, ông ký với đại diện chính phủ Pháp, bộ trưởng Thuộc địa Marius Moutet, bản Tạm ước (Modus vivendi), quy định đình chỉ chiến sự tại miền Nam, và thời gian tiếp tục đàm phán vào đầu năm 1947.
Thế nhưng những nhân nhượng đó cũng không tránh nổi chiến tranh. Sau khi nhận được liên tiếp 3 tối hậu thư của Pháp trong vòng chưa đầy một ngày, ông kí lệnh kháng chiến. Tối ngày 19 tháng 12 năm 1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến do ông chấp bút được phát trên đài phát thanh. 20h tối cùng ngày, kháng chiến bùng nổ.
Giai đoạn kháng chiến chống Pháp
Tháng 3 năm 1947, ông và Trung ương Đảng chuyển lên Việt Bắc. Ông kêu gọi nhân dân tiêu thổ kháng chiến, tản cư cũng là kháng chiến, phá hoại (cho Pháp không lợi dụng được) cũng là kháng chiến.
Ngày 2 tháng 2 năm 1950, Hồ Chí Minh kí sắc lệnh tổng phản công trong năm 1950. Tuy vậy, sau đó nội dung của sắc lệnh này đã bị bác bỏ. Những lệch lạc trong công tác so sánh lực lượng hai bên tham chiến của phía Việt Nam cũng như sự chủ quan trong chỉ đạo đã bị kiểm điểm và uốn nắn.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 2 được tổ chức vào trung tuần tháng 2 năm 1951 tại Tuyên Quang, ông quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai trở lại. Tuy nhiên, khi này tên gọi không còn là Đảng Cộng sản nữa mà có tên mới là Đảng Lao động Việt Nam. Ông tuyên bố:
"Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam".
Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cộng hòa Dân chủ Đức Wilhelm Pieck, 1957
Cuộc Chiến tranh Đông Dương kết thúc vào năm 1954, khi người Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ - sự kiện báo hiệu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới - và dẫn đến Hiệp định Genève. Kết quả mà đoàn Việt Nam thu nhận được kém hơn nhiều so với mục tiêu đề ra ban đầu. Tuy vậy, trên các phương tiện truyền thông chính thức, Hồ Chí Minh tuyên bố "Ngoại giao đã thắng to!
Cuộc cải cách ruộng đất, phát động vào cuối năm 1953 và kéo dài cho tới cuối năm 1957, đã phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, nhất là trong việc lạm dụng đấu tố và xử tử những người bị liệt vào thành phần địa chủ, phú nông thậm chí vu oan và giết nhầm cả những đảng viên trung kiên. Từ tháng 2 năm 1956, công cuộc sửa sai được khởi sự, phục hồi được khoảng 70-80% số người bị kết án, trả lại tài sản ruộng đất. Những nhân vật cốt cán của cải cách bị cách chức. Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm, ông khóc và nhận lỗi trước hội nghị toàn quốc.
Năm 1959, Hồ Chí Minh tới thăm Bắc Kinh nhân dịp kỷ niệm 10 năm cách mạng Trung Quốc. Trong những cuộc đàm phán riêng, ông nhận được sự hứa hẹn của cả Bắc Kinh lẫn Moskva để viện trợ thêm vũ khí và dân sự, nhưng đã khôn khéo từ chối những đề nghị gửi quân tình nguyện hay cố vấn quân sự đến Việt Nam.
Cuộc đời và sự nghiệp Hồ Chí Minh (P5)
Sunday, 24. January 2010, 14:23
GIAI ĐOẠN CUỐI ĐỜI
Từ khoảng nửa đầu thập niên 1960, Hồ Chí Minh được coi như chỉ còn nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng. Ông dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi đồng bào. Quyền lực khi này dần dần tập trung về bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trong Đảng Lao động Việt Nam, những người này đã chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam.
Hồ Chí Minh liên tục ốm nặng trong khoảng hơn 3 năm cuối đời. Trong thời gian quanh sự kiện Tết Mậu Thân 1968, ông đang trong đợt dưỡng bệnh dài ngày tại Trung Quốc và chỉ quay về Việt Nam ít ngày vào tháng 12 năm 1967 để phê duyệt quyết định tổng tấn công.
Hồ Chí Minh bắt đầu viết di chúc vào dịp sinh nhật ông năm 1965, và sửa lại trong những dịp sinh nhật tiếp theo
Trong di chúc, ông có viết "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
QUA ĐỜI
Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời vào hồi 9 giờ 47 phút sáng ngày 2 tháng 9 năm 1969, tức ngày 21 tháng 7 âm lịch, hưởng thọ 79 tuổi. Ngày mất của ông ban đầu được Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam công bố là ngày 3 tháng 9, đến năm 1989 mới công bố lại là ngày 2 tháng 9.
Hà Nội đã nhận được hơn 22.000 bức điện chia buồn từ 121 nước trên khắp thế giới. Nhiều nước trong khối xã hội chủ nghĩa đã tự tổ chức truy điệu và đưa ra những lời ca ngợi ông. Một tuyên bố chính thức từ Moskva đã gọi Hồ Chí Minh là một "người con vĩ đại của dân tộc Việt Nam anh hùng, nhà lãnh đạo xuất chúng của Cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, và một người bạn lớn của Liên bang Xô Viết". Từ các nước Thế giới thứ ba, người ta ca ngợi ông trong vai trò của người bảo vệ những con người bị áp bức. Một bài báo xuất bản ở Ấn Độ miêu tả ông là sự kết tinh của "nhân dân và hiện thân của khát vọng đấu tranh cho tự do và cho sự đấu tranh bền bỉ của nhân dân". Những bài báo khác đề cao phong cách giản dị và đạo đức cao của ông. Một bài xã luận trên một tờ báo của Uruguay viết: "Ông có một trái tim bao la như vũ trụ và tình yêu trẻ thơ vô bờ bến. Ông là hình mẫu của sự giản dị trong mọi mặt".
Phản ứng từ các nước phương Tây dè dặt hơn. Nhà Trắng và các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ từ chối bình luận. Báo chí phương Tây đặt sự chú ý cao đối với cái chết của Hồ Chí Minh. Các tờ báo ủng hộ phong trào phản chiến có xu hướng miêu tả ông như là một đối thủ xứng đáng và là người bảo vệ cho những con người bị áp bức. Ngay cả những tờ báo đã từng phản đối mạnh mẽ chính quyền Hà Nội cũng ghi nhận ông là người đã cống hiến cả cuộc đời cho công cuộc kiếm tìm độc lập và thống nhất đất nước Việt Nam của ông, đồng thời là tiếng nói nổi bật trong việc bảo vệ những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Tang lễ được tổ chức vào ngày 8 tháng 9 tại quảng trường Ba Đình với hơn 100.000 người đến dự, trong đó có các đoàn đại biểu từ các nước xã hội chủ nghĩa. Hàng ngàn người đã khóc. Điếu văn truy điệu ông do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc, có đoạn viết:
"Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa. Tổn thất này vô cùng lớn lao. Đau thương này thật là vô hạn ! Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch - Người anh hùng dân tộc vĩ đại. Và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta...".
Trong bài thơ "Bác ơi" của Tố Hữu, sáng tác ngày 6 tháng 9 năm 1969, có đoạn:
Bác để tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Mong manh áo vải hồn muôn trượng
Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.
Trong di chúc, Hồ Chí Minh muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước. Tuy nhiên, theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III quyết định giữ gìn lâu dài thi hài Hồ Chí Minh để sau này nhân dân cả nước, nhất là nhân dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng ông.Từ đó đến nay, thi hài ông được bảo quản trong lăng tại Hà Nội, tương tự như đối với thi hài Lenin ở Moskva.
Bác Hồ với điện ảnh Việt Nam
Ngày 12/5/2006. Cập nhật lúc 16h 36'
Ngành điện ảnh Cách mạng Việt Nam đã được Bác Hồ quan tâm, chú trọng từ những ngày còn trong trứng nước. Khi điều kiện có thể, Người đã quyết định thành lập Doanh nghiệp Quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam. Những bộ phim đầu tiên ra đời, Bác Hồ luôn dành thời gian xem phim. Đáp lại, Điện ảnh nước nhà cũng đã ghi lại được rất nhiều hình ảnh quý báu về Người trong những năm tháng kháng chiến... Và Điện ảnh cũng đã ở bên Bác trong những giờ phút cuối cùng trước khi Người vĩnh biệt chúng ta...
Ngày 20/10/1946, chiến hạm Daymôngđuêcvin cập bến Hải Phòng đưa Bác trở về sau khi Người sang Pháp “làm thượng khách”. Bác dành nhiều phần “quà” cho điện ảnh. Bác nói: “có bột sẽ gột nên hồ”. Phần quà gồm: Hai bộ phim do Kiều bào Võ Quý Huân và Mai Trung Thứ quay: Phái đoàn Phạm Văn Đồng tại hội nghị Phôngtennơblô và Sức sống 25.000 kiều bào tại Pháp cùng bộ máy chiếu lưu động 16 ly Pallné và Débrie, bộ máy ghi tiếng vào đĩa mềm hiện đại. Hai bộ phim này đã được Ban ĐANA (điện ảnh, nhiếp ảnh ban đầu chỉ có 2 anh em Phan Nghiêm, Hoàng Thái sau thêm 4 người) đem chiếu lưu động suốt miền Bắc và miền Trung.
Toàn quốc kháng chiến, Ban ĐANA còn nằm trong Nha thông tin tuyên truyền trực thuộc Bộ Thông tin dời lên hang Chùa Trầm. Đúng giao thừa tết kháng chiến đầu tiên năm 1947, Bác đến thăm Ban ĐANA, Ban Vô tuyến điện, động viên anh em khắc phục thiếu thốn, đoàn kết nhau một lòng. Chợt Bác nhìn sang kỹ sư Pham Nghiêm - Người được giao xây dựng Ban ĐANA thấy anh mặc một chiếc áo vét tông có miếng rách ở vai đang điều khiển máy ghi âm. Bác chỉ vào chỗ rách và hỏi nhỏ Trần Kim Xuyến: “ở đây có cháu gái nào không?”...
Bác Hồ góp ý về nghiệp vụ cho nghệ sĩ điện ảnh cũng rất khéo léo và sâu sắc. Tại chiến khu Việt Bắc, có lần đạo diễn Phạm Văn Khoa đi quay tài liệu Bác Hồ thăm bà con ở Thái Nguyên. Đạo diễn bố trí xong mời Bác ra nói chuyện với bà con ở bên chiếc chõng tre có để sẵn nải chuối, ấm nước. Rất tự nhiên, Bác tới chiếc chõng và vui vẻ nói: “Đạo diễn mời Bác cháu ta đóng phim đấy!”. Nhưng rồi, máy quay trục trặc. Bác vui vẻ nói với bà con: chúng ta chiều chú Khoa làm lại lần nữa. Sau khi xong việc, Bác gọi đạo diễn tới: “Các chú có biết người làm nghề này ở Pháp họ gọi là gì không? Họ gọi là người săn hình ảnh. Đã săn thì phải sẵn sàng. Có cảnh tốt là quay, còn bố trí sẽ mất tự nhiên”.
Bác Hồ cũng đã từng làm người thuyết minh “chữa cháy” cho điện ảnh. Đó là dịp đạo diễn Vũ Phạm Từ và Nguyễn Hùng đem phim chiếu phục vụ Lớp Chỉnh huấn Trung cao tại Tân Trào. Hý hửng vì có một bộ phim nước ngoài, hai nghệ sĩ đem phim ra chiếu. Phim chưa có thuyết minh nên người xem chẳng hiểu gì. Bác bình tĩnh xem xong cuốn 1 rồi nói đưa micro cho Bác. Bác bắt đầu thuyết minh: đây là bộ phim Hoa bông của Liên Xô... cứ vậy khi chiếu hết từng cuốn Bác lại thuyết minh. Cuối buổi, Bác tới bên hai nghệ sĩ đang dọn máy: “Hôm nay Bác nghe được tiếng Nga nên thuyết minh giúp. Từ nay nếu chưa rõ nội dung phim thì đừng chiếu. Đầu bếp thì phải biết mình làm món gì chứ!”.
Theo sát những bộ phim tài liệu, những bộ phim truyện đầu tiên nhưng không bao giờ Bác “phê phán” hay áp đặt ý kiến chủ quan của mình. Nhiều nghệ sĩ như: Vũ Năng An, Vũ Phạm Từ, Bùi Đình Hạc, Lý Thái Bảo... khi đem phim lên chiếu phục vụ Bác, đều kể: Bác ngồi xem rất chăm chú. Trong khi đó, các nghệ sĩ lại chăm chú quan sát xem thái độ của Bác như thế nào. Hết phim, các nghệ sĩ đều nhao nhao xin Bác nhận xét. Đáp lại, Người quay sang hỏi những chiến sĩ bảo vệ, những người cùng xem... cảm tưởng của họ. Rồi Bác nói: “Các chú làm phim là để chiếu cho nhân dân xem. Phải lắng nghe ý kiến của nhân dân để làm cho hay cho tốt. (Bác cười vui vẻ). Nếu chỉ chờ nghe ý kiến của Bác thì... Bác khen các chú tự mãn, Bác chê thì các chú buồn”.
Đoàn kết là lời căn dặn của Bác không chỉ với các chiến sĩ. Với các nghệ sĩ điện ảnh, ngay từ những buổi đầu còn là học sinh Bác cũng rất quan tâm. Đó là khoá học của những nghệ sĩ tên tuổi sau này: Trà Giang, Lâm Tới, Trần Nga, Phi Nga, Lịch Du, Minh Châu, Ngọc Điệp... do giáo sư chuyên gia Azidaibe Paghimôp - đạo diễn Công huân của nước Cộng hoà Adécbaidan, giảng dạy. Khi tiễn Bác ra cổng, Người chưa lên xe ngay mà quay lại hỏi: “cháu nào hãy nói cho Bác nghe chiếc xe Bác đi đây, bộ phận nào quan trọng nhất?”. Học sinh trả lời: người thì nói cái đầu máy, người thì nói xăng dầu, bốn cái lốp... rồi chẳng ai chịu ai cứ nhao nhao lên. Cuối cùng tất cả quay lại nhờ bác phân định. Bác cười, chỉ tay vào những chiếc đinh vít ở bánh xe hỏi: “nếu không có những cái này xe có chạy được không? Như vậy có quan trọng không?”. Rồi Bác ôn tồn: “Ngôi sao sáng nhờ có trời tối. Nếu không có quay phim, không có những người sản xuất ra phim, không có những người ánh sáng thì ai thấy được các cháu là ngôi sao màn bạc. Vậy thì không có lý do gì những ngôi sao sáng kia lại xem thường một vòm trời tối. Rồi đây, các cháu sẽ thể hiện những con người mới để dân noi theo, những con người xấu để dân soi mình tránh. Nếu các cháu không khiêm tốn học hỏi để làm tốt, làm đúng thì dân sẽ bảo là bọn xướng ca vô loài. Các cháu học tốt tới đâu mà dân còn nói như vậy thì Bác sẽ không thấy vui...”.
Bác Hồ quan tâm, chăm lo nhiều đến ngành điện ảnh cũng là điều dễ hiểu. Ngay từ những năm bôn ba nước ngoài, Người đã hiểu sức mạnh của một ngành nghệ thuật mới. Ngoài ra, ít ai biết, Bác còn là bạn thân với nhiều nghệ sĩ nổi tiếng trên thế giới như: Hăngri Bác buýt, hoạ sĩ Picatxô, Pôn Vayăng Cutuyariê... và đặc biệt với vua hề Sác Lô từ cuối năm 1911 tại Mỹ...
Trong bài viết này, chúng tôi không thể nói hết được những quan tâm của Bác Hồ với ngành điện ảnh Việt Nam, Nhưng những gì Bác đã dạy bảo sẽ in đậm mãi trong trái tim các thế hệ nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngày 15/6/2003. Cập nhật lúc 11h 26'
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào yêu nước của nhân dân ta phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi sự lãnh đạo đúng đắn của một đảng chân chính của giai cấp công nhân Việt Nam, Trước tình hình đó, sau một thời gian ở lại Liên Xô để nghiên cứu chế độ xô-viết và kinh nghiệm xây dựng đảng theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã về gần Việt Nam để xúc tiến việc chuẩn bị thành lập Đảng. Ngày 11 tháng ll nǎm 1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc).
Về mặt công khai, lấy tên là Lý Thụy, có khi lấy tên là Vương, Người làm cán bộ phiên dịch cho phải đoàn cố vấn của Chính phủ Liên Xô, do Bô-rô-đin dẫn đầu, đến giúp Chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc, trong khi Chính phủ này đang có chính sách hợp tác với Đảng cộng sản Trung Quốc. Việc đầu tiên của Người là bắt mối liên lạc với Tâm tâm xã và tổ chức yêu nước của cụ Phan Bội Châu đang hoạt động ở Quảng Châu.
Trước đó mấy tháng, Phạm Hồng Thái đã ném bom ở Sa Điện, định giết Méc-lanh, toàn quyền Đông Dương, khi y qua đây. Mới đến Quảng Châu, đồng chí Nguyễn ái Quốc còn cảm thấy tiếng vang của quả bom Phạm Hồng Thái. Tuy không tán thành chủ trương ám sát cá nhân, nhưng Người đánh giá cao sự kiện đó. Sau này, Người viết:
"Tiếng bom của Phạm Hồng Thái đã nhóm lại ngọn lửa chiến đấu... Nó báo hiệu bắt đầu thời đại đấu tranh dân tộc, như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân".
Lúc này cụ Phan bội Châu đã cải tổ Việt Nam quang phục Hội thành Việt Nam quốc dân đảng, với cương lĩnh và chương trình gần giống như Cương lĩnh và chương trình của Quốc dân đảng Trung Hoa.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc viết thư góp ý kiến với cụ Phan Bội Châu về đường lối và phương pháp cách mạng. Cụ tiếp thu những ý kiến đó, nhưng chưa kịp sửa chữa sai lầm của mình thì cụ đã bị đế quốc Pháp bắt đưa về nước vào nǎm 1925.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc chọn số thanh niên yêu nước trong các tổ chức cách mạng nói trên và một số thanh niên khác ở trong nước ra, mở Trưòng huấn luyện chính trị để đào tạo họ trở thành những cán bộ cách mạng và đưa họ trở về nước hoạt động trong giai cấp công nhân và nhân dân ta. Trường mở được l0 khóa, mỗi khóa từ một tháng rưỡi đến ba tháng, tổng số học viên có khoảng 200 người.
Mặc dù việc mở trường gặp nhiều khó khǎn, nhất là về tài chính, nhưng Người vẫn dành dụm từng đồng, ra sức đào tạo đội ngũ cán bộ nòng cốt đầu tiên cho cách mạng Việt Nam, trong đó có những người tiêu biểu như các đồng chí Trần Phú, Lê Hồng Phong, Ngô Gia Tự...
Đồng chí Nguyễn ái Quốc là người phụ trách trường, vừa là giảng viên chính, có khi kiêm cả cán bộ phiên dịch. Phương pháp giảng dạy của Người là lý luận liên hệ với thực tế, học kết hợp với hành làm cho học viên dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện. Ngoài học tập lý luận và chính trị, các học viên còn được học thêm vǎn hóa và ngoại ngữ.
Được sự giáo dục trực tiếp của đồng chí Nguyễn ái Quốc sau một thời gian học tập, các học viên trưởng thành nhanh chóng về chính trị và tư tưởng. Trên cơ sở giác ngộ về tinh thần yêu nước, các học viên nhận rõ đường lối và phương pháp đúng đắn của cách mạng Việt Nam và có xu hướng cộng sản chủ nghĩa. Nhiều đồng chí được lần lượt cử về nước xây dựng cơ sở, tuyên truyền, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng.
Người còn lựa chọn một số cán bộ gửi sang Mát-xcơ- va học tập lý luận ở Trường đại học Phương Đông và một số khác vào học Trường quân sự Hoàng Phố có cố vấn Liên Xô giảng dạy ở Quảng Châu.
Việc đồng chí Nguyễn ái Quốc mở Trường huấn luyện chính trị có ý nghĩa rất to lớn. Người đã đào tạo cho cách mạng Việt Nam những lớp cán bộ đầu tiên đi theo đường lối chủ nghĩa Mác - Lê-nin và góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị thành lập Đảng ta.
Để làm tài liệu giảng dạy tại Trường huấn luyện chính trị, đầu nǎm 1925, đồng chí Nguyễn ái Quốc biên soạn tập đề cương bài giảng. Đầu nǎm 1927, tập đề cương bài giảng đó được bộ tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông á Đông xuất bản thành sách, với nhan đề là Đường cách mệnh.
Trong cuốn sách Đường cách mệnh, trước hết Người nêu lên tư tưởng cách mạng triệt để. Người chỉ rõ rằng, muốn sống thì phải làm cách mạng. Làm cách mạng phải có quyết tâm, hy sinh, bền gan, đoàn kết nhau lại Muốn được như vậy thì trước hết mọi người phải hiểu rõ vì sao phải làm cách mạng. Trong cuốn Đường cách mệnh Người nói về tư cách người cách mạng, tức là đạo đức cách mạng : tự mình phải cần kiệm, chí công vô tư, quả quyết sửa lỗi mình, không hiếu danh, không kiêu ngạo ; nói thì phải làm, phải giữ chủ nghĩa cho vững, hy sinh, ít lòng ham muốn về vật chất v.v., Người coi việc giác ngộ cách mạng và giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ là một trong những yêu cầu hàng đầu để chuẩn bị về tư tưởng và chính trị, tiến tới xây dựng một đảng chân chính của giai cấp công nhân Việt Nam.
Muốn làm cách mạng thành công, người cán bộ không những phải có đạo đức cách mạng mà còn phải hiểu lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng. Nói về ý nghĩa và tầm quan trọng của lý luận cách mạng, trên trang đầu cuốn Đường cách mệnh Người nêu lên câu nói bất hủ của Lê-nin : "Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng... Chỉ có đảng nào có lý luận tiên phong hướng dẫn mới có thể làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong".
Nhân dân Việt Nam đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh anh dũng chống đế quốc Pháp, nhưng đều bị thất bại, vì chưa có lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chưa có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, không hiểu tình hình thế giới, không biết so sánh lực lượng ta và lực lượng địch, không có "mưu chước" không hiểu "sách lược", không biết nắm thời cơ, "chưa nên làm đã làm, khi nên làm lại không làm". Vì vậy, những người cách mạng phải giảng giải cho nhân dân hiểu lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tình hình và kinh nghiệm cách mạng thế giới.
Đồng chí Nguyễn ái Quốc nêu rõ nhiệm vụ trực tiếp trước mắt của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc đồng thời Người cũng chỉ rõ triển vọng tiến lên và mục tiêu cách mạng lâu dài là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nắm vững tính chất và đặc điểm xã hội Việt Nam, đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân thấm nhuần học thuyết của Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, vận động một cách sáng tạo kinh nghiệm Cách mạng tháng Mười Nga vào điều kiện cụ thể của nước ta, Người đề ra đường lối cách mạng Việt Nam là phải đi từ giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng giải phóng dân tộc mà Người đã đề ra là cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới (nay gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa không qua giại đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đó là một trong những vấn đề mà Người đã phát triển một cách sáng tạo những luận điểm của Lê-nin về cách mạng ở các nước chậm tiến.
Cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, thì nhiệm vụ trước mắt của nó là đánh đổ đế quốc Pháp và bọn vua quan phong kiến tay sai. Muốn đánh đổ kẻ thù của cách mạng, phải tập hợp được lực lượng cách mạng. Người chỉ rõ lực lượng cách mạng là nhân dân bị đế quốc Pháp áp bức và bóc lột. Người nhấn mạnh công nhân và nông dân là lực lượng chủ yếu của cách mạng vì công nông bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất và công nông là lực lượng đông nhất. Theo quan điểm của Người, giải phóng dân tộc trước hết là giải phóng công nhân và nông dân ; lực lượng chủ yếu của sự nghiệp giải phóng dân tộc là công nhân và nông dân, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Người chỉ rõ cách mạng là việc chung của quần chúng nhân dân, không phải là việc của một hai người. Vì đế quốc Pháp dùng chính sách chia rẽ người Việt Nam thành người Trung, Nam, Bắc; lấy tôn giáo và vǎn hóa nô dịch để mê hoặc nhân dân ; lấy sức mạnh để đàn áp nhân dân, cho nên muốn làm cách mạng, trước hết chúng ta phải giác ngộ, tổ chức, đoàn kết và lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đấu tranh. Những người cách mạng phải tổ chức các hội quần chúng như công hội nông hội, phụ nữ, thanh niên v.v..
Người còn nêu rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, theo đường lối của Quốc tế cộng sản, quan hệ mật thiết với cách mạng Pháp và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa khác.
Về kinh nghiệm cách mạng thế giới, Người rút ra nhưng bài học của Cách mạng tháng Mười, kinh nghiệm của cách mạng Pháp và cách mạng Mỹ. Người nhận định cách mạng Pháp và cách mạng Mỹ là những cuộc cách mạng tư sản không triệt để. Chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để nhất, vì nó đem lại tự do, bình đẳng, hạnh phúc thật sự cho nhân dân lao động và còn giúp đỡ cho các dân tộc bị áp bức làm cách mạng để tự giải phóng. Cách mạng tháng Mười Nga dạy cho chúng ta biết rằng muốn làm cách mạng thành công phải dựa vào lực lượng của quần chúng nhân dân, chủ yếu là công nhân và nông dân; phải có đảng theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vững mạnh, thống nhất hy sinh, gan góc.
Muốn tổ chức và đoàn kết được các lực lượng cách mạng, muốn có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, trước hết phải có đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ chức nhân dân, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản các nước, Đảng có vững, cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mời chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm cốt. Trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có kim chỉ nam. "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin".
Đường cách mệnh không chỉ vạch ra những vấn đề chiến lược cách mạng, mà còn vạch ra phương pháp cách mạng khoa học, "phải biết làm mới chóng". Người cǎn dặn các chiến sĩ cách mạng phải biết cách tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng đấu tranh một cách có tổ chức, có lãnh đạo chặt chẽ. Bộ tham mưu của giai cấp vô sản phải cho cách mạng bừng nở đúng lúc, tức là phải nắm vững thời cơ mới có thể giành được thắng lợi to lớn. Ví như Cách mạng tháng Mười Nga đã nổ ra đúng ngày mồng 7 tháng 11 nǎm 1917 và đã giành được thắng lợi vĩ đại.
Đường cách mệnh nêu lên một chân lý sáng ngời là "muốn sống phải làm cách mạng", quyết tâm giành độc lập và tự do, "thà chết được tự do còn hơn sống làm nô lệ", đấu tranh kiên cường bất khuất, kiên trì lâu dài, đời này qua đời khác, không ngại gian khổ, không sợ hy sinh. Tư tưởng nổi bật và bao trùm của cuốn Đường cách mệnh là tư tưởng độc lập, tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội. bó là xu thế cách mạng của thời đại, là quy luật tất yếu của sự phát triển xã hội loài người. bó tư tưởng cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, là tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp công nhân được kết hợp một cách nhuần nhuyễn với truyền thống tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam.
Cuốn Đường cách mệnh có ý nghĩa lịch sử rất to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Đường cách mệnh là ngọn cờ chỉ đạo cách mạng nước ta trong thời kỳ xúc tiến chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam và đặt nền tảng cho cương lĩnh của Đảng ta ra đời vào đầu nǎm 1930. Đường cách mệnh được phát triển hoàn chỉnh thêm đã trở thành nền tảng đường lối của đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến thẳng lên cách mạng xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đó cũng là con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc.
Đường cách mệnh chẳng những có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn trong thời kỳ đã qua, mà còn soi sáng con đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn trong giai đoạn mới.
Để làm cơ sở cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, tháng 6 nǎm 1925, tại Quảng Châu, Người đã sáng lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, một tổ chức tiền thân của Đảng do những người cộng sản làm hạt nhân lãnh đạo. Khi thành lập, Hội đã thông qua Điều lệ tóm tắt và chương trình hoạt động của Hội. Tôn chỉ và mục đích của Hội được thể hiện trong cuốn Đường cách mệnh.
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội là một tổ chức rất chặt chẽ, gần như một đảng cộng sản, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, dùng tự phê bình và phê bình để xây dựng Hội.
Nhờ có sự giáo dục của đồng chí Nguyễn ái Quốc về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đường lối và phương pháp cách mạng, về đạo đức cách mạng; được rèn luyện trong phong, trào đấu tranh của quần chúng cho nên hầu hết các cán bộ Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội sau này đều trở thành nhưng người cộng sản chân chính và những cán bộ cốt cán của Đảng ta. Dưới sự lãnh đạo của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta đã kết hợp chặt chẽ với nhau, tạo thành một làn sóng dân tộc và dân chủ mạnh mẽ khắp cả nước. Phong trào công nhân Việt Nam từ khi tiếp thu được chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã có những chuyển biến mời về ý thức chính trị và về tổ chức đấu tranh. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội là tổ chức cách mạng đầu tiên ở nước ta có xu hướng chủ nghĩa cộng sản, đi vào quần chúng vận động công nhân và nông dân theo quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và dẫn dắt giai cấp công nhân Việt Nam bước lên vũ đài chính trị.
"Phong trào cách mạng giải phóng dân tộc của các tầng lớp công nông và trí thức cách mạng, bắt đầu thành hình trong Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội lúc bấy giờ, đã có hệ thống thống nhất toàn quốc... "
Để làm cơ sở cho việc thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội, trong đó có hạt nhân lãnh đạo là Cộng sản đoàn, để bồi dưỡng và phát huy mạnh mẽ tinh thần dân tộc của những người yêu nước trong giai cấp công nhân, nông dân và tiểu tư sản trí thức, kết hợp với việc giáo dục cho họ về chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, nhằm đào tạo họ thành những người cộng sản Việt Nam. Hội là một tổ chức quá độ, rất phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam lúc đó. Thành lập Hội là một việc làm đúng đắn, phù hợp với kinh nghiệm phổ biến là phải thông qua những phần tử trí thức cách mạng, đưa chủ nghĩa xã hội khoa học vào giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Kinh nghiệm này đã được Đại hội lần thứ sáu của Quốc tế cộng sản (tháng 9 nǎm 1928) xác nhận :
"Kinh nghiệm cho thấy ở phần đông các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, một số lớn nếu không phải là đa số cán bộ cộng sản lúc đầu là rút từ giai cấp tiểu tư sản và đặc biệt là trong số những người trí thức cách mạng, thường là trong số sinh viên. Thường thường những phần tử ấy gia nhập Đảng vì họ nhận định Đảng là kẻ thù cương quyết nhất của chủ nghĩa đế quốc".
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã đóng một vai trò lịch sử cực kỳ quan trọng trong việc chuần bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng ta.
Để tuyên truyền tôn chỉ và mục đích của Hội. Người đã xuất bản tuần báo Thanh niên. Báo này vạch trần nhưng tội ác dã man của đế quốc Pháp, khơi sâu lòng cǎm thù đối với chúng. Đưa ra những bằng chứng cụ thể, dùng những lời lẽ đanh thép, báo Thanh niên tiếp tục nhiệm vụ của báo Người cùng khổ, lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Việt Nam trên mọi lĩnh vực ; đồng thời giải thích rõ đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc Pháp và bọn vua quan phong kiến tay sai, giành độc lập và tự do, tiến lên cách mạng vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Đặc biệt, báo Thanh niên nêu rõ tính chất giai cấp của Đảng cộng sản và nhấn mạnh việc tổ chức đảng phải thật chặt chẽ. Báo còn nói rõ người đảng viên cộng sản phải có phẩm chất cách mạng, điều cốt yếu nhất là phải biết hy sinh. Nhiệm vụ của những người đảng viên cộng sản không phải chỉ đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc và giai cấp mình, mà còn phải đấu tranh góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Là một vũ khí sắc bén trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào giai cấp công nhân và nhân dân ta, tuần báo Thanh niên đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là người tuyên truyền tập thể, người cổ động tập thể, đồng thời là người tổ chức tập thể.
Cùng với tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, cuốn Đường cách mạng, báo Người cùng khổ và một số vǎn kiện khác, báo Thanh niên đã góp phần quan trọng vào việc xúc tiến chuẩn bị thành lập Đảng ta.
Trong khi chuẩn bị thành lập chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam, nǎm 1926, tại Quảng Châu, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã tổ chức nhóm thiếu niên tiền phong đầu tiên của nước ta, nhằm đào tạo các em trở thành những chiến sĩ cách mạng tương lai. Nhóm này gồm có 8 em, trong đó có Lý Tự Trọng, sau này là người đoàn viên đầu tiên của Đoàn thanh niên cộng sản Việt Nam đã oanh liệt đấu tranh đến hơi thở cuối cùng cho Đảng và cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Trong thời gian này, với trách nhiệm là ủy viên Bộ phương Đông trực thuộc Quốc tế cộng sản và ủy viên đoàn chủ tịch ban chấp hành Quốc tế nông dân, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng phong trào cách mạng nói chung và phong trào nông dân nói riêng ở một số nước châu á. Trong bức thư mật đề ngày 13 tháng 8 nǎm 1925, của Ban chấp hành Quốc tế nông dân gửi cho Người, đã nói rõ :
"Theo quyết định của Đoàn chủ tịch ngày 31 tháng 7, đồng chí được ủy nhiệm làm công tác vận động nông dân ở Trung Quốc, ở các nước thuộc địa mà đồng chí đặt được liên lạc, cụ thể như Đông Dương... Nhiệm vụ trước mắt của đồng chí là tổ chức tiếp xúc với các thuộc địa ấy, liên hệ với các tổ chức nông dân địa phương nếu có, và xây dựng tổ chức nông hội hoặc các nhóm nông dân cốt cán ở những nơi chưa có tổ chức nông dân...".
Để vận động nông dân Đông Dương nói chung và nông dân Việt Nam nói riêng, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã viết một số bài về tình hình nông dân Việt Nam, nói rõ nguyên nhân bị áp bức, bóc lột của họ, và chỉ cho họ phương hướng đấu tranh... Là một nhà lãnh đạo phong trào nông dân quốc tế, có nhtều kinh nghiệm, Người đã góp phần quan trọng vào phong trào cách mạng của nông dân Trung Quốc. Người đã dịch nhiều tài liệu của ban chấp hành Quốc tế nông dân viết bằng tiếng Anh, tiếng Pháp ra tiếng Trung Quốc, và đã viết nhiều tài liệu về nông dân Trung Quốc nói chung và về phong trào nông dân Hải Lục Phong nói riêng... để tuyên truyền và tổ chức nông dân Trung Quốc. Đầu tháng 5 nǎm 1925, Người đã cùng những người cộng sản Trung Quốc triệu tập Hội nghị đại biểu đầu tiên của 20 vạn nông dân có tổ chức của tỉnh Quảng Đông và Hội nghị đại biểu lần thứ hai của giai cấp công nhân Trung Quốc nhằm mục đích thành lập một mặt trận thống nhất giữa nhưng người bị bóc lột ở thành thị và nhưng người bị bóc lột ở nông thôn.
Cǎn cứ vào nội dung bản báo cáo tóm tắt của Người nói về hai cuộc hội nghị này gửi lên Ban chấp hành Quốc tế nông dân và những bài viết của Người về phong trào nông dân Trung Quốc, có thể rút ra những quan điểm đúng đắn như sau:
Những người cộng sản phải xây dựng liên minh công nông; hoạt động cho giai cấp công nhân ở thành thị không được sao nhãng việc tổ chức những người vô sản ở nông thôn. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân phải liên hiệp lại để chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa quân phiệt và những tên phản bội giai cấp công nhân. Muốn đấu tranh chống lại bọn địa chủ áp bức, bóc lột, nông dân Trung Quốc phải được tổ chức lại dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân công nghiệp có tổ chức. Công cuộc giải phóng nhưng người lao động là sự nghiệp của bản thân những người lao động. Đoàn kết lại, nhưng người lao động sẽ đánh thắng chủ nghĩa đế quốc.
Cùng với việc quan tâm theo dõi phong trào cách mạng Trung Quốc và các nước Đông - Nam á, đồng chí Nguyễn ái Quốc rất chú ý đến phong trào giải phóng dân tộc và dân chủ ở ấn-Độ. Từ nǎm 1921 đến nǎm 1928, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã viết nhiều bài (ký tên là Vương) trên Tạp chí Cộng sản và Thư tín Quốc tế, nhằm phản ánh tình hình đấu tranh cách mạng của nhân dân ấn-Độ.
Nhằm tập hợp và đoàn kết các lực lượng cách mạng ở châu á với những kinh nghiệm và cách tổ chức Hội liên hiệp thuộc địa ở Pháp trước đây, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông á Đông (7-1925), một hình thức mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc. Hội này gồm những người yêu nước Việt Nam, Trung Quốc, Triều- Tiên, In-đô-nê-li-a, Ma-lay-xi-a, Thái-Lan, ấn- Độ.., Người được bầu làm bí thư của Hội.
Để phối hợp với phong trào chung chống chủ nghĩa đế quốc Người còn thường xuyên đặt quan hệ với Ban thư ký Tổng hội Thái Bình Dương và Liên đoàn chống chủ nghĩa đế quốc, vì độc lập, tự do, v.v..
Để xây dựng phong trào cách mạng nói chung và vận động nông dân nói riêng ở một số nước châu á, Người rất quan tâm vấn đề đào tạo cán bộ. Người đã lựa chọn một số cán bộ của các nước này, tổ chức đưa họ đến học tập tại Trường đại học phương Đông ở Mát- xcơ-va và đưa họ trở về nước hoạt động cách mạng...
Từ cuối nǎm 1924 đến đầu nǎm 1930, đồng chí Nguyễn ái Quốc vừa đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam, xúc tiến việc chuẩn bị và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, vừa góp phần rất quan trọng vào việc đào tạo cán bộ và xây dựng phong trào cách mạng ở một số nước châu á... á... Dưới sự chỉ đạo của Ban phương Đông trực thuộc Ban chấp hành Quốc tế cộng sản, Người đã truyền bá chủ nghĩa cộng sản vào châu á nói chung và Đông Dương nói riêng.
Tháng 4 nǎm 1927, sau vụ phản biến của bọn Tưởng Giới Thạch ở Quảng Châu, Người đi Hồng Kông, Thượng Hải, rồi rời Trung Quốc đi Liên Xô. Người làm việc ở Quốc tế cộng sản góp phần tổng kết kinh nghiệm của phong trào cách mạng châu á, đặc biệt là cách mạng Trung Quốc. Người thường xuyên tới Trường đại học phương Đông giúp đỡ các học viên Việt Nam học tập và rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách mạng, đóng góp vớỉ nhà trường nhiều ý kiến xây dựng có giá trị.
Được sự giúp đỡ của Ban chấp hành Quốc tế cộng sản, cuối nǎm 1927, Người bí mật trở lại nước Pháp để gặp gỡ và trao đổi ý kiến với ban lãnh đạo Đảng cộng sản Pháp về tình hình hoạt động của Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng. Sau đó, người trở lại Đức và đi dự Hội nghị Quốc tế chống chiến tranh đế quốc họp ở thủ đô nước Bỉ.
Mùa hè nǎm 1928, Người bí mật rời khỏi Đức đi Thụy- sĩ I-ta-li-a rồi từ đó đáp tàu biển đi Thái-Lan vào mùa thu nǎm 1928. ở đây, Người lấy tên là Chín. Kiều bào thân mật và kính trọng gọi Người là Thầu Chín (ông già Chín).
Người chủ trọng giáo dục Việt kiều tinh thần đoàn kết và yêu nước. Người chỉ đạo việc chấn chỉnh nội dung tờ báo cho phù hợp với mục đích, tôn chỉ của Hội thân ái và trình độ của Việt kiều, lấy tên tờ báo là Thân ái thay cho tên Đồng thanh trước đây.
Người giảng giải cho cán bộ hiểu rõ tính chất lâu dài và gian khổ của cách mạng Việt Nam, tin tưởng vào triển vọng và tương lai của cách mạng trong nước và cách mạng thế giới Người đặc biệt quan tâm việc giáo dục thiếu niên, Người luôn luôn nhắc nhở cán bộ phải đề cao tinh thần cảnh giác và giữ gìn bí mật trong công tác. Người khuyến khích cán bộ học tiếng Xiêm. Người tham gia lao động cùng với kiều bào trong hội hợp tác, như đào giếng, làm vườn, gánh gạch xây trường học cho trẻ em v.v..
Được sự lãnh đạo của Người, chỉ trong khoảng một nǎm, công tác vận động Việt kiều ở Xiêm đã có những chuyển biến quan trọng ; tinh thần đoàn kết và yêu nước của kiều bào được củng cố và tǎng cường; trình độ chính trị của cán bộ được nâng cao, tư tưởng kiên trì vận động cách mạng được xác lập, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân Xiêm đối với những hoạt dộng yêu nước của Việt kiều nói riêng và đối với cách mạng Việt Nam nói chung.
Trong những nǎm 1928 - 1929, phong trào cách mạng ở nước ta dâng lên mạnh mẽ. Thực hiện chủ trương "vô sản hóa", một số cán bộ của Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền để tuyên truyền và tổ chức công nhân. Phong trào công nhân dần dần đã vượt qua giai đoạn tự phát, cục bộ, lẻ tẻ tiến đến giai đoạn tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, có sự phối hợp giữa các ngành và các địa phương. Từ cuối nǎm 1929, phong trào công nhân Việt Nam đã có tính chất độc lập rõ rệt, trở thành lực lượng nòng cốt của phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào công nhân quốc tế lại bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, có tinh thần cách mạng triệt để, đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất, tiêu biểu cho quyền lợi cơ bản và lâu dài của cả dân tộc, phát huy truyền thống quật cường bất khuất của dân tộc, giai cấp công nhân nước ta tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất của nhân dân Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được Người và những học trò của Người truyền bá vào Đông Dương, nơi nhân dân có truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm, có giai cấp công nhân tuy số lượng không đông; nhưng là giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội, lại bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế quốc phong kiến và tư sản trong nước, cho nên có tinh thần cách mạng triệt để. Đông Dương cũng là nơi có phong trào đấu tranh của nông dân và phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân khác rất sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chân lý cách mạng của thời đại, khi đã thấm sâu vào trái tim, khối óc của những người cách mạng Việt Nam thì sẽ trở thành một sức mạnh to lớn và không có một kẻ thù nào có thể ngǎn cản nổi. Trên mặt trận chính trị và tư tưởng, chủ nghĩa Mác - Lê- nin đã đánh lui tư tưởng cải lương, tư tưởng dân tộc hẹp hòi và đã chiếm ưu thế trong phong trào cách mạng Việt Nam. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta đang đòi hỏi sự lãnh đạo của một đảng của giai cấp công nhân. Những điều kiện để thành lập một đảng như thế đã chín muồi. Nhưng khi vấn đề ấy được đặt ra, thì trong nội bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, nhất là ở cơ quan lãnh đạo của nó không nhất trí. Đó là cuộc đấu tranh giữa quan điểm vô sản và quan điểm tiểu tư sản trong Thanh niên cách mạng đồng chí Hội để thành lập đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Cuộc đấu tranh ấy đã dẫn đến thắng lợi của tư tưởng vô sản và sự ra đời của Đông Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng. Trong tình hình ấy Tân Việt cách mạng Đảng cũng không thể duy trì tổ chức cũ, cho nên đã được cải tổ thành Đông Dương cộng sản liên đoàn. Trong vòng nửa nǎm, ba tổ chức cộng sản đã liên tiếp ra đời. Sự kiện đó chứng tỏ việc thành lập Đảng cộng sản là một tất yếu của sự phát triển phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam nǎm 1929.
Nhưng lợi ích của cách mạng, và nguyên tắc tổ chức của chính đảng Mác - Lê-nin không cho phép trong một nước mà có ba tổ chức cộng sản. Như thế chỉ làm yếu sự thống nhất về tư tưởng, chính trị, tổ chức, làm giảm sức mạnh của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Thành lập một đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam là yêu cầu bức thiết của phong trào công nhân và phong trào yêu nước lúc bấy giờ.
Lịch sử đòi hỏi phải có một lãnh tụ có đầy đủ uy tín và nǎng lực để thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Đồng chí Nguyễn ái Quốc là người đã đáp ứng yêu cầu đó.
Vào cuối mùa thu nǎm 1929, đang hoạt động ở Thái- lan, được nghe báo cáo về tình hình mâu thuẫn giữa các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản, Người đã trở lại Hồng Kông, triệu tập Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản để thống nhất tổ chức, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Trở lại Hồng Kông lần này với sứ mệnh lịch sử nặng nề, đồng chí Nguyễn ái Quốc phải suy nghĩ và giải quyết hàng loạt vấn đề nóng bỏng và phức tạp trong quá trình chuẩn bị thống nhất Đảng: làm thế nào xóa bỏ những bất đồng giữa các nhóm cộng sản, để đi tới thống nhất các nhóm đó trong một tổ chức duy nhất? Tên Đảng nên đặt như thế nào cho đúng với tính chất đảng của giai cấp công nhân và các nhóm có thể chấp nhận làm sao hoàn thành cho kịp các bản Cương lĩnh, Sách lược Điều lệ của Đảng - Đó là những vǎn kiện cơ bản của Hội nghị hợp nhất. Vấn đề bảo đảm bí mật cho Hội nghị cũng được Người rất quan tâm. Tầt cả những vấn đề trên được tiến hành thận trọng, bí mật và khẩn trương để kịp khai mạc Hội nghị.
Dưới sự chủ tọa của Người, Hội nghị đã họp từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 nǎm 1930, trong cǎn phòng nhỏ của một người công nhân ở Cửu Long, gần Hồng Kông. Sau nǎm ngày làm việc khẩn trương trong hoàn cảnh bí mật, Hội nghị đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một đảng cộng sản chân chính duy nhất ở Việt Nam lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn ái Quốc. Về tên Đảng, các đại biểu được Người giải tbich :
"Cái từ Đông Dương rất rộng, và theo nguyên lý chủ nghĩa Lê-nin, vấn đề dân tộc là một vấn đề rất nghiêm túc người ta không thể bắt buộc các dân tộc khác gia nhập Đảng, làm như thế là trái với nguyên lý chủ nghĩa Lê-nin. Còn cái từ An Nam thì hẹp, vì An Nam chỉ là miền Trung của nước Việt Nam mà thôi, và nước ta có ba miền : Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Do đó từ Việt Nam hợp với cả ba miền và không trái với nguyên lý chủ nghĩa Lê-nin về vấn đề dân tộc".
Hội nghị đã thông qua các vǎn kiện : Chính cương vắn tắt Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng Đảng và của một số tổ chức quần chúng và Lời kêu gọi... do đồng chí Nguyễn ái Quốc thảo ra.
Chính cương vắn tắt vạch rõ : cách mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền (nay gọi là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhiệm vụ của nó là đánh đuổi đế quốc Pháp, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, thành lập chính phủ công nông binh, thực hiện các quyền tự do dân chủ cho nhân dân và tổ chức ra quân đội công nông...
Về Đảng, Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt nói rằng Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có đủ nǎng lực lãnh đạo quần chúng. Đảng chủ trương đoàn kết với phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức trên thế giới, và liên hệ mật thiết với giai cấp công nhân quốc tế, nhất là giai cấp công nhân Pháp.
Chính cương và Sách lược vắt tắt của Đảng đáp ứng đúng nguyện vọng thiết tha của giai cấp công nhân và nhân dân nước ta. Vì vậy, Đảng là đoàn kết được các lực lượng yêu nước và dân chủ xung quanh giai cấp công nhân và nắm được quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Điều lệ tóm tắt của Đảng đã nêu rõ mục đích của Đảng: "Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo cho quân chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu, để tiêu diệt tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản".
Điều lệ tóm tắt của Đảng qui định những điều kiện cần phải có để được kết nạp vào Đảng cộng sản là phải tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa cộng sản, tin theo đường lối và chương trình hành động của Đảng và của Quốc tế cộng sản; hǎng hái, hy sinh tranh đấu cho sự nghiệp cách mạng nước ta và cách mạng thế giới.
Hội nghị cũng đã thảo luận về phương pháp và kế hoạch thống nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước...
Nhân dịp thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn ái Quốc thay mặt Quốc tế cộng sản và Đảng cộng sản Việt Nam đã ra Lời kêu gọi, gửi công nhân, nông dân, bính lính, thanh niên học sinh và đồng bào bị áp bức bóc lột: Đảng cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là đảng của giai cấp công nhân. Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng để đấu tranh cho quyền lợi của toàn thể nhân dân bị áp bức bóc lột. Ngay từ bây giờ, chúng ta phải gia nhập Đảng, chúng ta phải giúp đỡ Đảng và đi theo Đảng !...".
Lời kêu gọi là một vǎn kiện quan trọng đã phân tích đầy đủ và đúng đắn tình hình thế giới, tình hình Việt Nam và nêu lên đường lối, mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Lời kêu gọi có tác động cổ vũ rất lớn đối với toàn Đảng, toàn dân ta.
Hội nghị thành lập Đảng có tầm quan trọng như một Đại hội của Đảng, vì nó đã đề ra đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam và những nguyên tắc về xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng ta là một tất yếu lịch sử, do những điều kiện trong nước và thế giới lúc ấy quyết định, đồng thời là kết quả rực rỡ của cả một quá trình hoạt động sôi nổi của đồng chí Nguyễn ái Quốc, Người ái Quốc, Người đấu tranh kiên cường trong phong trào công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc, kiên trì học tập tìm tòi nghiên cứu và rèn luyện. Đó là kết quả to lớn của gần 10 nǎm chuẩn bị rất công phu và đầy đủ của Người về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Sau này, đánh giá việc thành lập Đảng, Người đã viết :
"Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh và các gia đình liệt sĩ
Ngày 15/6/2003. Cập nhật lúc 11h 19'
Nguyễn Lân Dũng
Ngày 17-7-1947, Bác đề nghị đồng bào cả nước (chỉ trừ các cụ già thượng thọ, các cháu sơ sinh, các chiến sĩ ở mặt trận, những người đau yếu) hãy nhịn ăn một bữa "để giúp đỡ chiến sĩ bị thương". Bác dặn rất kỹ: Tuyệt đối không cưỡng bức, tính sổ tập trung để phân phối cho khắp, ra sức tuyên truyền, giải thích... Bác làm trước mọi người và vận động cả cơ quan Phủ Chủ tịch cùng hưởng ứng và gửi số tiền đó ngay cho Ban tổ chức Ngày thương binh toàn quốc.
Ngày 27-7-1947, Bác viết thư biểu dương việc bà Bá Huy đã lập một an dưỡng đường cho thương binh. Bác viết: "Tôi mong bà cùng toàn thể đồng bào vùng đó sẽ luôn luôn chăm nom giúp đỡ các thương binh".
Ngày 18-9-1947, Bác gửi tặng một nhóm đồng bào vùng tạm chiếm một vuông mùi xoa thêu để cảm tạ việc bà con đã mua một chiếc cúc với giá 10.000 đồng trong chiếc áo Bác đã tặng nhân Ngày thương binh.
Ngày 15-7-1948, Bác cổ vũ: "Từ trước đồng bào đã giúp đỡ nhiều. Nhưng tay chân tàn phế của thương binh sẽ không mọc lại được. Và những tử sĩ sẽ không thể tái sinh. Mà lòng bác ái của đồng bào cũng không có hạn. Vì vậy tôi mong và chắc rằng đồng bào trước đã giúp đỡ, sau này sẽ sẵn sàng giúp đỡ mãi".
Tháng 9-1948, Bác gửi tặng cụ Tạ Quang Yên một tấm áo mà đồng bào đã biếu Bác, vì biết tin cụ có tới bốn người con "đã oanh liệt hy sinh vì Tổ quốc".
Ngày 27-7-1949, Bác chỉ đạo Bộ Thương binh - Cựu binh không tổ chức lạc quyên "nhưng Bộ vẫn trông mong và hoan nghênh đồng bào tùy hoàn cảnh mà gửi thư tặng quà hoặc quyên giúp". Bác làm gương bằng cách gửi tặng một tháng lương của Bác. Nhiều năm sau Bác vẫn tiếp tục dành một tháng lương để góp vào quỹ thương binh, liệt sĩ.
Ngày 26-7-1951, Bác chỉ đạo rất cụ thể việc yêu cầu các xã "Tùy theo số ruộng đất trích được, mượn được hoặc khai khẩn được mà đón nhiều hoặc ít thương binh về xã". Bác phân tích: "Như thế thì đồng bào mỗi xã đã được thỏa mãn lòng ước ao báo đáp anh em thương binh; mà anh em thương binh thì được yên ổn về vật chất và vui vẻ về tinh thần, và vẫn có dịp tham gia sự hoạt động ích lợi cho xã hội".
Ngày 26-7-1952, Bác lấy gương đồng chí Nê-dốp (Liên Xô) và đồng chí Lý (Trung Quốc), người cụt hai chân, người mù hai mắt, mà vẫn trở thành Anh hùng lao động, để động viên thương binh. Bác viết: "Đồng bào sẵn sàng giúp, Chính phủ ra sức nâng đỡ, anh em có quyết tâm thì nhất định anh em dần dần tự túc được".
Tháng 7-1954, Bác viết thư cho cụ Bộ trưởng Bộ Thương binh để chỉ đạo: "Tôi tiếp được báo cáo nhiều nơi khen ngợi một số anh em thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ đã trở nên gương mẫu trong xã. Tôi mong rằng Bộ thường nêu những thành tích và những kinh nghiệm quý báu ấy để những xã khác và những anh em khác noi theo".
Ngày 17-7-1956, Bác nghiêm khắc nhắc nhở thương binh: "Nếu anh em nào có sai lầm, như công thần, ỷ lại, kém kỷ luật, kém tin tưởng, yêu cầu nhân dân quá đáng, không tích cực công tác... thì nên cố gắng sửa chữa".
Thật cảm động biết bao khi thấy trong Di chúc (bản viết bổ sung vào tháng 5-1968) để lại trước khi đi xa, Bác đã căn dặn hết sức kỹ lưỡng: "Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...) Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mọi người để họ có thể dần dần tự lực cánh sinh. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét".
Mỗi năm đến ngày 27-7, chúng ta nên đọc lại những lời căn dặn của Bác để xem những gì còn chưa làm được thì cố gắng mà làm, sao cho xứng đáng với tinh thần "Tổ quốc sẽ không bao giờ quên" đối với những người con ưu tú đã thật sự vì nước quên thân.
Bác Hồ với Miền Nam
Ngày 15/6/2003. Cập nhật lúc 11h 4'
TS. Trần Viết Hoàn
Cứ mỗi dịp kỷ niệm giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, trong lòng mỗi người dân Việt Nam lại trào lên những niềm vui lớn. Sinh thời, Bác Hồ thường nói: "Quê mình ở Nam Đàn, Nghệ An, nhưng mẹ mình mất ở xứ Huế, cha mình mất ở Cao Lãnh. Quê mình trải dài đất nước. ở những nơi như Phan Thiết, Sài Gòn, v.v. trước lúc ra nước ngoài, mình đã từng sống và từng đến nơi. Nhưng nay về nước đã bao nǎm rồi, mà mình vẫn chưa về đến chốn"... "ở miền nam, mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng. Gộp nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi".
Tấm lòng thương nhớ miền nam của Người thể hiện từ việc chǎm sóc các cháu thiếu nhi miền nam tập kết, đến việc vun trồng cây vú sữa của đồng bào kính tặng Người. Cuối nǎm 1954, một số cán bộ từ miền nam ra miền bắc tập kết, đồng bào miền nam nhờ gởi tới Bác Hồ cây vú sữa, coi đó là tấm lòng của đồng bào. Sáng mồng 2 Tết nǎm 1955, trong buổi gặp và chúcTết Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch, đồng chí Lê Đức Thọ, Nguyễn Vǎn Kinh thay mặt đồng bào miền nam dâng tặng Bác. Bác đã trồng cây đó ngay cạnh ngôi nhà nhỏ ở góc vườn trong khu Phủ Chủ tịch. Khi dựng cho Bác ngôi nhà sàn (1958), Người sang ở ngôi nhà này, tuy chỉ cách ngôi nhà cũ khoảng trǎm thước, nhưng Nguời vẫn yêu cầu chuyển cả cây vú sữa sang trồng cạnh ngôi nhà sàn. Hằng ngày ngồi làm việc, Bác vẫn nhìn thấy cây vú sữa được Người chǎm sóc vun trồng, cây vú sữa ngày càng vươn cao. Từ ngày đất nước đựợc giải phóng, có biết bao đồng bào, đồng chí miền nam ra thǎm miền bắc, được vào thǎm nơi ở và làm việc của Bác, đứng lặng hồi lâu bên cây vú sữa mà nghĩ suy về tình thương bao la của Bác.
Miền nam còn trong máu lửa không một phút nào Bác không nghĩ đến miền nam ! Người nhớ thương đồng bào miền nam bao nhiêu, thì càng vui bấy nhiêu khi được gặp đại biểu của miền nam.
Ngày 20-12-1962, Bác vui mừng được gặp Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam do giáo sư Nguyễn Vǎn Hiếu dẫn đầu ra thǎm miền Bắc. Được gặp Bác, các đồng chí mừng vui khôn xiết Đồng chí Nguyễn Vǎn Hiếu, thay mặt đồng bào, đồng chí miền nam, kính dâng Bác những món quà quý. Sau khi nhận quà, Bác đặt bàn tay lên ngực trái và cảm động nói: "Bác chẳng có gì tặng lại cả, chỉ có cái này: Miền Nam yêu quý luôn luôn ở trong trái tim tôi".
Một buổi chiều nǎm 1965, Bác gặp Đoàn Anh hùng dũng sĩ miền nam, vừa thấy Bác, cả đoàn reo lên: "Bác, Bác, Bác ơi! Chúng cháu nhớ Bác quá! Đồng bào miền nam nhớ Bác quá !" Nhìn Bác, cả đoàn đều khóc vì sung sướng, vì cảm động và vây quanh Bác như những người con đã xa lâu ngày về quây quần bên cha. Bác xúc động nói: "Bác mong các cháu lắm, bác nhớ đồng bào miền nam lắm". Bác cǎn dặn Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng phải làm các món ǎn đa phương thì các cháu miền nam mới ǎn được nhiều, sức khỏe mói tốt.
ở cạnh nhà Bác có một khóm hoa phong lan. Ngày ngày sau khi ǎn cơm chiều xong, Bác ra tưới cho hoa. Lần đó, hoa nở đẹp, Bác gọi đồng chí theo dõi sức khỏe cho Bác ra thǎm hoa, Bác nói: "Chú ạ, hoa của Bác nếu ở Pa-ri thì thu được nhiều tiền lắm. Vì ở đó ai muốn vào xem hoa thì phải mua vé. Hoa phọng lan của Bác đẹp thế này thì chắc khách thǎm đông lắm". Một lần vào nǎm 1968, Bác gặp ba nữ đồng chí ở tuyến lửa Quảng Bình, Vĩnh Linh và Quảng Trị. Ba đồng chí này vừa đi dự Đại hội liên hoan thanh niên và sinh viên thế giới lần thứ IX họp ở Xô-phi-a (Bun-ga-ri) về. Các đồng chí kể cho Bác nghe về tình cảm của các bạn thế giới đối với Việt Nam, Bác cảm động nói: "Miền nam đã làm thơm danh Bác với bạn bè thế giới. Ba đồng chí được chụp ảnh kỷ niệm với Bác. Để đồng chí nào cũng được gần Bác, Bác cho mỗi đồng chí được đứng cạnh Bác một lần. Nhưng riêng đồng chí ở Quảng Trị, Bác bảo: "Cháu Bưởi ở miền nam đứng nguyên chỗ này" (tức là cạnh Bác mà không phải đổi chỗ). Chụp ảnh xong, Bác ngắt tặng mỗi đồng chí một bông hoa phong lan và nói: "Các cháu trỏ về Quảng Bình, Vĩnh Linh cho Bác gửi lời hỏi thǎm bà con trong đó".
Đối vói các cháu thiếu nhi miền nam đã ra miền bắc, Bác dành cả tình thương của mình cho các cháu, từ việc ǎn, ở, đến việc học hành. Cảm động biết bao, lần Bác tiếp các dũng sĩ miền nam. Đó là: Hồ Thị Thu phá 13 khẩu súng địch bằng cách nhân lúc địch sơ hở, Thu bỏ cát vào nòng súng ; Võ Phổ, diệt 60 tên Mỹ ngụy; Ngô Nết, 12 tuổi diệt 5 tên Mỹ; Võ Hường, 15 tuổi diệt 35 tên Mỹ, bị mất một cánh tay, mù một mắt. Đoàn Vǎn Luyện diệt được nhiều Mỹ hơn cả. Khi gặp các cháu, Bác hỏi: "Thằng Mỹ to các cháu có sợ không?" Cǎc cháu thưa: "Chúng cháu cũng như đồng bào ở trong đó không hề sợ lính Mỹ, cũng không sợ gian khổ, không sợ chết mà chỉ sợ một điều: "Chúng cháu chỉ sợ bị mù cả hai con mắt, sau này không đưọc nhìn thấy Bác". Vừa nghe trả lời xong, Bác đã khóc. Bác khóc vì Bác thương các cháu, thương nhớ miền nam mong hoài mà chưa một lần đưọc gặp Bác. Tết nǎm 1969, Bác đã cho ô-tô về Hải Phòng đón các cháu về ǎn Tết với Bác. Các cháu có ngờ đâu đây là cái Tết cuối cùng vui bên Bác.
Miền nam chưa giải ph6ng, Bác coi là chưa làm tròn nhiệm vụ. Bởi vậy, khi được tin kỳ họp VI, Quốc hội khoá II (5-1963) quyết định tặng Bác Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của nước ta, Bác nói: "Chờ đến ngày miền nam hoàn tiàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình thống nhất, bắc- nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miên nam trao cho tôi Huân chơpng cao quý. Như vậy thì toàn dân ra sẽ sung sướng, vui mừng".
Nhân dịp kỷ niệm 50 nǎm Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, Đảng, Chính phủ Liên Xô quyết định trao tặng Bác Huân chương Lê-nin - Huân chương cao quý nhất của Liên Xô, Bác cũng đề nghị : Đảng, Chính phủ Liên Xô hoãn việc trao Huân chương đó, chờ đến ngày đất nước ta hoàn toàn độc lập, Bác thay mặt đồng bào cả nước nhận Huân chương cao quý đó.
Sang nǎm 1967, Bác thấy sức khỏe của mình có phần giảm sút, Bác tích cực đi bộ, có khi tập leo núi cao, với ý định vào thǎm đồng bào, đồng chí miền nam, Người đã chính thức nêu ý kiến đó với Bộ Chính trị. Thấy Bác quyết tâm, các đồng chí phụ trách đành phải báo cáo đường đi rất khó khǎn vất vả, e Bác đi không được. Bác nói: "Nếu không có đường nào khác thì tổ chức cho tôi đi bộ. Các chú đi được thì tôi đi được. Đi mỗi ngày một ít. Chưa chắc thua các chú đâu".
Và Bác đã tự thu xếp việc này khá chu đáo. Một mặt Bác bảo đồng chí trực tiếp giúp việc Bác hằng ngày để râu để hóa trang, một mặt Bác gửi thư cho đồng chí Bí thư thứ nhất của Đảng để thu xếp công việc Bác dặn: "Nhớ lại hồi Nô-en nǎm ngoái, chú có ý khuyên Bác đi thǎm miền nam sau ngày ta giành thắng lợi hoàn toàn, Bác rất tán thành. Nhưng nay chỉ đổi chữ "saư" thành chữ "trước" ngày thắng lợi hoàn toàn, tức là đi thǎm khi anh em trỏng đang chuẩn bị mở màn thứ 3. Đi thǎm đúng lúc đó mới có tác dụng khuyến khích thêm anh em...".
Có những lần, Bác dặn đồng chí phục vụ: Hôm nay, Bác mời cơm đồng chí miền nam, chú nhớ đơm cho Bác bát cơm thật đầy để đồng bào, đồng chí miền nam an tâm.
Vào một ngày tháng 3 nǎm 1969, Bác gặp đồng chí Huỳnh Thị Kiển, nữ du kích ở Quảng Nam, bị địch bắt tra tấn, chặt một chân. Hôm chị vào thǎm Bác, chị tới phòng khách của Bác trước và ngồi chờ. Khi Bác bước vào, Kiển quên bẵng mình chỉ còn một chân, bỏ nạng chạy lại với Bác. Thấy Kiển chệnh choạng, Bác bước lên, Kiển sà vào lòng Bác và khóc. Khi địch chặt chân chị, chị không hề khóc, thế mà bây giờ gặp Bác, nước mắt chị cứ chảy tràn trên má. Kiển cùng được ǎn cơm vói Bác. Lúc Bác ǎn hết bát cơm, đơm bát khác, Bác hỏi Kiển: "Bác đơm thế này được chưa ?" "Thưa Bác, Bác phải đơm thiệt đầy ạ". Chiều Kiển, Bác đơm thêm cơ cho đầy.
Sức khoẻ Bác ngày một giảm nhưng Bác không muốn đồng chí, đồng bào phải lo lắng và Bác không bao giờ nói về bệnh tật của mình. Khi đã mệt nặng phải nằm trên giường bệnh, Bác cũng không muốn cho mọi người thấy rằng mình mệt. Các bác sĩ lo lắng, nhưng Bác lại nói những lời động viên bác sĩ. Cứ sau cơn mệt nặng, lúc tỉnh dậy, câu hỏi đầu tiên của Bác là: "Hôm nay, đồng bào miền nam đã thắng đến đâu?" Và Người vẫn yêu cầucho nghe tin tức đặc biệt là tin miền nam và những tin tức quan trọng thế giới. Ngay cạnh giường bệnh, Bác vẫn để chiếc đài, chiếc đài này là chiến lợi phẩm mà chiến sĩ ta thu được ở trận Phước Thành 9-1961, các chiến sĩ ta đã gửi ra biếu Bác. Những ngày Bác nằm trên giường bệnh, Bác vẫn mở đài lắng nghe từng bước trên tiền tuyến.
Thế đấy, suốt mấy chục nǎm, không một phút nào Bác không nghĩ đến đồng bào miền nam. Từ trong bữa ǎn đến công việc hằng ngày, Bác đều nghĩ đến miền nam. Lúc mệt nặng, Bác cũng mang theo mình hơi ấm miền nam.
Tình cảm ấy được nhà thơ Tố Hữu viết:
Bác nhờ miền nam nỗi nhớ nhà
Miền nam mong Bác nỗi mong Cha
Kỷ niệm 25 nǎm giải phòng miền nam, thống nhất đất nước, chúng ta càng nhớ Bác nhiều, và vẫn luôn thấy "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng".
Chúng ta càng nhớ Bác Hồ, càng phải cố gắng làm theo lời Bác Hồ dặn
Ngày 15/6/2003. Cập nhật lúc 11h 2'
Đồng chí Vũ Kỳ kể
Thu Thủy ghi
Ngày 22-8-1945, Thường vụ Trung ương Đảng họp (lúc bấy giờ, đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư) quyết định: cử đồng chí Trần Đăng Ninh lên Tân Trào đón Bác Hồ về Hà Nội. Nhận được tin, Bác không đợi đến khi có người lên đón, mà sáng ngày 23-8, Người đã rời lán Nà Lừa (Tân Trào, Tuyên Quang), đi bộ qua đèo Gie đến 8 giờ tối thì đến Đại Từ (Thái Nguyên). 9 giờ tối đồng chí Trần Đăng Ninh mang xe o tô đến Đại Từ đón Bác và đi luôn. Khi về đến một địa điểm ở Thái Nguyên, Bác và các đồng chí khác nghỉ lại đêm đó và cả ngày hôm sau. Sở dĩ như vậy là để nghe ngóng tình hình, giữ bí mật cho an toàn.
Ngày 25 về đến Gia Lâm, nếu lúc đó xe của Bác đi thẳng qua cầu, e sẽ không an toàn. Thế là Bác đi đò ngang sang bến Sù Ngà gần Chèm, rồi nghỉ ở một gia đình cách mạng. Sáng ngày 26, đồng chí Trần Đăng Ninh, đồng chí Võ Nguyên Giáp đến báo cáo tình hình và đón Bác vào nội thành. Từ đê Yên Phụ, xe chở Bác xuống dốc Hàng Than, đi qua Hàng Giấy, Hàng Mã, ra Hàng Cân và rẽ vào số nhà 35. Đây chính là cổng sau của số nhà 48 Hàng Ngang (một gia đình tư sản dân tộc). Tại đây, Bác đã đặt bút viết bản Tuyên ngôn độc lập. Tuyên ngôn độc lập được viết từ ngày 28-8-1945, đến ngày 30 thì thảo xong. Ngày 31, Bác đưa cho các đồng chí Thường vụ Trung ương tham gia ý kiến. Sau đó, Bác tiếp tục hoàn chỉnh bản Tuyên ngôn tại Bắc Bộ phủ (Số 12 Ngô Quyền, Hà Nội).
Chiều 31, Bác gọi tôi lại và bảo: "Chú Cần, chú có biết cái chỗ họp mít-tinh hôm mùng 2-9 này không?" (Lúc đó tôi tên là Nguyễn Cần. Tên Kỳ bây giờ như mọi người thường gọi đó là tên của Bác đã đặt cho tôi hồi tháng 3-1947). Tôi nói: "Thưa Cụ, cháu có biết". Bác lại bảo tôi: "Thế chú vẽ phác đi cho tôi xem". Thế là tôi vẽ. Vẽ xong, Bác nhìn tấm bản đồ hỏi tiếp: "Chỗ này liệu đứng được bao nhiêu người?". "Dạ thưa Cụ, chỗ này cũng phải vài chục vạn"- tôi trả lời Bác. Tưởng như Bác đã hài lòng về tấm bản đồ ấy, nhưng mọi người biết không, có một điều rất "nhỏ" mà tôi không ngờ Bác vẫn để ý, Bác hỏi tôi thế này: "Này, thế các chú định bố trí chỗ vệ sinh cho đồng bào ở đâu?" Sau câu hỏi ấy, tôi cứ sững sờ và không biết trả lời thế nào, đành thưa với Bác: "Thưa Cụ, cháu không rõ, để cháu hỏi Ban tổ chức". Nói tới đây, cụ Vũ Kỳ cắt nghĩa cho tôi: Đấy, Bác quan tâm đến môi trường là Bác chăm lo sức khỏe cho đồng bào đấy thôi. Lúc ấy, Bác bảo tôi: "Chỗ vệ sinh cho đồng bào bố trí như thế nào cho tốt chỉ là một việc nhỏ thôi. Nhưng mà nếu không bố trí tốt, thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường và sức khỏe, lại ảnh hưởng đến cả trật tự". Bác cũng dặn tôi thêm: "Chú hãy dặn Ban tổ chức trước đi, nếu trời mưa thì phải rút ngắn thời gian lại để đồng bào khỏi bị ướt, nhất là các cụ, các cháu nhỏ tránh được bệnh tật". Chính những việc nhỏ như vậy đã khiến tôi còn suy nghĩ và nhớ mãi: Bác luôn luôn chăm lo sức khỏe cho đồng bào.
Cụ Vũ Kỳ tiếp tục gợi lên cho chúng tôi những hình ảnh của giờ phút lịch sử thiêng liêng. 13 giờ 30 ngày 2-9- 1945, tôi cùng Bác từ Bắc bộ phủ tới quảng trường Ba Đình. Bác bước lên lễ đài với cương vị là Chủ tịch của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (lúc bấy giờ, ít người biết đến tên Hồ Chí Minh, mà chỉ nghe thấy tên Nguyễn ái Quốc. Thậm chí, Pháp, Trung Quốc, Liên Xô cũng hỏi: Hồ Chí Minh là ai? Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với cả thế giới. Đến đoạn Chủ tịch Hồ Chí Minh tố cáo tội ác của phát xít Nhật, bắt dân nhổ lúa, trồng đay để 2 triệu đồng bào Việt Nam lâm vào cảnh chết đói, cả rừng người im lặng phăng phắc. Quên mất mình là Chủ tịch nước, đang đọc Tuyên ngôn độc lập, Bác băn khoăn tự hỏi: Sao lại im đến thế! Bác tưởng rằng mình nói tiếng xứ Nghệ, đồng bào nghe không rõ. Bác bỗng dừng lại, hỏi một câu: "Đồng bào nghe rõ tiếng tôi không?". Câu trả lời: "Có..." như tiếng sấm rền vang.
Nhân đây tôi cũng nói luôn, câu nói: "Tôi nói đồng bào nghe rõ không?" mà mọi người biết đến từ nhiều năm qua thực ra là sai. Sở dĩ tôi biết tỉ mỉ như vậy là vì tôi có thói quen ghi nhật ký. Câu nói đó sai vì khi đem so sánh với nhau thì sẽ thấy khác hẳn. "Tôi nói đồng bào nghe rõ không?"- câu đó trở thành mệnh lệnh. Còn: "Đồng bào nghe rõ tiếng tôi không?" thì tự nhiên câu hỏi và tiếng trả lời "Có" như gắn bó đạt đến mức thân tình: gắn một người lãnh đạo cao nhất với dân chúng thành mối tình rất thân thiết và gia đình. Đó là điều mà trên thế giới không thể có: Hình ảnh ấy còn đọng mãi trong trái tim tôi.
Còn về vấn đề TDTT? Ngày 3-9-1945, Bác đã đề ra phiên họp đầu tiên của Chính phủ về vấn đề: "Diệt giặc dốt, giặc đói, giặc ngoại xâm". Ngày 27-3-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: "Toàn dân tập thể dục". Như thế là Bác đã quan tâm đến sức khỏe của nhân dân từ rất sớm. Báo Thể dục thể thao phải thấy rằng, công việc, nội dung, nhiệm vụ của mình làm là rất quan trọng, phải tuyên truyền sao cho mọi người làm theo lời Bác dạy. Lời kêu gọi đó thật cảm động, ngắn gọn, rõ ràng mà thấm thía. Mở đầu Bác viết: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới. Việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công". Đến đoạn kết thì Bác viết: "Tự tôi ngày nào cũng tập". Trong những dịp như thế này, mọi người cần phải nhớ rõ để mà thực hiện.
Nói về việc tập luyện của Bác thì không thể kể hết được, đặc biệt là từ khi ở nhà tù Tưởng Giới Thạch ra, Bác đã có nhiều bài tập kiên trì đến khó ngờ và cũng hay lắm: luyện mắt bằng nhìn mặt trời, nhìn rừng xanh; luyện tay bằng cách lấy hòn đá bằng quả trứng vịt vừa lòng bàn tay tự nắm, thả ra; tập chân bằng cách bước qua chướng ngại... Hòa bình, trở về Thủ đô, tại Phủ Chủ tịch, từ lối nhà sàn ra, Bác yêu cầu tổ bảo vệ làm cho Bác hàng rào đặt thanh ngang từ thấp đến cao để rèn luyện. Có một lần, Bác bảo: "Chú Kỳ cùng mấy chú hôm nay thi nhảy chụm chân với Bác". Thế rồi chúng tôi cùng thi với Bác, nhưng đến thanh xà ngang đặt cao nhất (40 cm), tôi và anh em bảo vệ đành chịu thua, riêng Bác chụm chân nhún người nhảy qua nhẹ nhàng.
Tới đây, giọng cụ Vũ Kỳ chững lại: Tôi nhớ nhất vào ngày 17-8-1969, Bác ở trên nhà sàn xuống và đi bài quyền. Hôm đó cũng là ngày bác sĩ khám sức khỏe cho Bác và nói rằng: "Bác không nên ngủ ở nhà sàn nữa, vì tim Bác không bình thường. Để tránh sự cố đáng tiếc xảy ra, Bác không nên lên xuống bậc thang nhiều lần". Bác đồng ý, song Bác bảo với chúng tôi: "Không biết các chú nghe thế nào chứ, tim Bác, Bác vẫn thấy bình thường. Nhưng bác sĩ nói thế thì Bác nghe". Sau đó, Bác chuyển sang nhà họp Bộ Chính trị để làm việc. Những ngày tiếp theo, Bác vẫn dậy tập thể dục rất đều. Nhưng đến chiều ngày 24-8-1969, Bác đã bị sốc trong khi tiêm, sau đó là bị nhồi máu cơ tim, Bác nằm liệt từ đó.
Trong quá trình nằm chữa bệnh, Bác có đặc biệt là: cơn đau tim đến dồn dập, liên tiếp nhưng Bác không rên, Bác nằm yên và nhắm mắt. Khi anh Ba (tức đồng chí Lê Duẩn, anh Văn (tức đồng chí Võ nguyên Giáp), vào thăm thì Bác cố ra vẻ bình tĩnh và bao giờ cũng chỉ hỏi một câu: "Hôm nay miền Nam đánh thắng ở đâu?". Cụ Tôn Đức Thắng, anh Nguyễn Lương Bằng vào thăm, Bác đều hỏi đời sống đồng bào, đồng chí miền Nam như thế nào. Bác hỏi về việc phòng chống máy bay bắn phá ở các địa phương, các tỉnh miền Bắc như thế nào? Hỏi về sơ tán ra làm sao. Bác dặn: "Không được chủ quan, phải chú ý tới cụ già và các cháu nhỏ". Ngày qua ngày, cơn đau tim mỗi lúc đến một nhiều nhưng Bác vẫn nói với chúng tôi: "Các chú cứ yên tâm, hôm nay Bác khỏe hơn hôm qua: Bác sẽ cố gắng uống thuốc để cho khỏe lại".
Thời điểm ấy, cũng là thời điểm nước sông Hồng lên to ở mức báo động số 3. Các bác sĩ có nói với tôi là nên đề nghị Bác sơ tán lên vùng cao Hòa Bình, tiện cho việc điều trị. Chờ Bác tỉnh giấc, tôi có nới với Bác như vậy, nhưng rồi tôi lại thấy Bác nhắm mắt. Tưởng Người mệt, tôi không nói gì thêm, định chờ Bác tỉnh thì nói. Đúng lúc ấy, anh Tô (tức đồng chí Phạm Văn Đồng) vào và hỏi: "Sức khỏe Bác hôm nay có khá hơn không?". Bác liền nói: "Này chú Tô, chú Kỳ đề nghị sơ tán lên chỗ an toàn, Bác không bỏ dân đâu! Các chú phải cố gắng giữ cho đê điều tốt". Thì ra, Bác không trả lời vì Bác biết rằng: có sơ tán thì mọi việc cũng không giải quyết được gì. Cái chính là phải làm sao cho dân không bị nạn.
Giọng kể cụ Vũ Kỳ như mỗi lúc lại chậm lại, nghẹn ngào và trong đôi mắt vẫn còn sáng kia trào ra những giọt lệ nhớ thương Người: "Mùa thu năm 1969, đất nước Việt Nam vô cùng buồn. Đúng ngày lễ kỷ niệm Quốc khánh mùng 2-9, Bác đã ra đi. Thật linh thiêng! Chúng ta càng nhớ Bác Hồ, càng phải cố gắng làm theo lời Bác Hồ dặn, càng phải cố gắng làm theo cách Bác Hồ làm".
Chủ tịch Hồ Chí Minh hình ảnh dân tộc
Ngày 15/6/2003. Cập nhật lúc 11h 20'
Phạm Văn Đồng
Hồ Chủ tịch là người cha già của dân tộc Việt Nam. Ngót ba mươi năm bôn ba bốn phương trời, Người vẫn giữ thuần túy phong độ, ngôn ngữ, tính tình của một người Việt Nam. Ngôn ngữ của Người phong phú, ý nhị như ngôn ngữ dân quê Việt Nam; Người khéo dùng tục ngữ, hay nói ví, thường có lối châm biếm kín đáo và thú vị. Làm thơ, Người thích lối ca dao vì ca dao là Việt Nam cũng như núi Trường Sơn, hồ Hoàn Kiếm hay Đồng Tháp Mười vậy. Mấy mươi năm xa cách quê hương, Người không quên mùi vị những thức ăn đặc biệt Việt Nam như cà muối, dưa chua, tương ớt, và ngày thường bây giờ, Người vẫn ưa thích những thứ ấy. Ngay sau khi về nước, gặp Tết, Người không quên mừng tuổi đồng bào hàng xóm và quà bánh cho trẻ em, tuy chỉ có mấy đồng xu, nhưng cũng bọc giấy hồng đơn cẩn thận, tươm tất. Bình sinh như thế, đứng địa vị Chủ tịch Chính phủ kháng chiến kêu gọi quốc dân, Người dùng những lời nói thống thiết đi sâu vào tâm hồn Việt Nam: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước thì thương nhau cùng".
Lối ăn ở của Hồ Chủ tịch giản dị như thế nào, chúng ta đã từng biết. Lúc ở chiến khu, Người sống chung với anh em trong một cơ quan, làm việc, học tập, ăn ở, sinh hoạt nhất nhất như anh em. Kể ra, Người có chỗ được biệt đãi: đó là bát nước cơm mà anh Lộc, đồng chí cấp dưỡng lành nghề và thân mến của chúng tôi lúc bấy giờ, bao giờ cũng để dành riêng cho Người, từ biên giới Cao Bằng cho đến Tân Trào, trước khi về Hà Nội. ở Hà Nội, Chủ tịch Chính phủ có phòng làm việc, phòng tiếp khách, nhiều khi chủ tọa những bữa tiệc long trọng, nhưng bình thường ngày hai bữa, Chủ tịch Chính phủ cùng nhân viên đều ăn chung. Nhiều lần, vì đến quá trễ, thức ăn không còn gì, Hồ Chủ tịch vẫn vui cười ăn đủ mấy bát cơm như thường lệ.
Người vẫn thích đi bộ, tắm sông, hút thuốc lá và thỉnh thoảng uống một ly rượu thuốc trong bữa cơm. Trước đây, Người đi bộ một ngày 50 cây số là thường và có thể đi như thế ngày nọ qua ngày kia. Lúc ở Côn Minh, sáng nào Người cũng đi bộ một vòng quanh thành phố. ở Liễu Châu, mùa đông, một hôm tướng Trương Phát Khuê đi ngựa dạo buổi sớm gặp Người tắm trên sông, Trương tướng quân lấy làm lạ một người phương Nam châu á chịu rét giỏi đến thế. ở Cao Bằng, có lúc cơ quan đóng tại một cái suối lớn vừa ở trong hang đá chảy ra, nước trong xanh biếc dưới bóng mát của rừng cây, Hồ Chủ tịch suốt ngày làm việc ở đó với cái máy chữ "Hét-mét" luôn đi theo Người từ năm 1938 đến khi về Hà Nội.
ở rừng, Hồ Chủ tịch chủ trương tránh ăn no, không ngủ trưa và hoạt động thân thể, buổi sáng thể dục, buổi chiều làm vườn, lúc cần đi vác củi cho đồng bào. Trong suốt thời gian ở thượng du Bắc Bộ trước cuộc khởi nghĩa, nhiều ngày Người luôn tay nắn một hòn đá tròn bầu dục, cốt để luyện gân tay và hoạt động cơ thể.
Người ít ưa dùng thuốc, chỉ lúc nào sức cơ thể chống không nổi bệnh thì mới dùng. ở Hà Nội, bác sĩ Tùng, bác sĩ Cẩn chuyên lo sức khỏe của Người, nhưng không mấy khi Người phiền đến. ở Pháp, anh em buộc bác sĩ Cưu ở bên cạnh Người, nhưng rồi bác sĩ làm việc văn phòng nhiều hơn việc thầy thuốc. Sinh hoạt chiến khu thường cực lắm. Có lần suốt mấy tháng mùa mưa, Hồ Chủ tịch ở trong một cái hang chật hẹp, ẩm thấp, ban đêm sâu bọ ở ngoài tràn vào.
Lúc ấy vì cơ sở quần chúng kém, nên dẫu ẩn nấp trong hang cùng mà cũng không yên, thường vẫn phải chạy "cảnh báo". Hễ có "cảnh báo" là phải mang hết đồ đạc chạy lánh đến một chỗ an toàn hơn. Lúc ấy Hồ Chủ tịch yếu, nhưng bất kỳ đêm ngày, hễ có tin địch là mấy phút sau Người đã sẵn sàng trước anh em, tay sách máy chữ. Lúc đến Pháp, ngay hôm gặp đầu tiên, lối ăn ở giản dị của Hồ Chủ tịch làm cho kiều bào rất cảm động. Hôm ấy, tại Bi-a-rít, đại biểu kiều bào đến thăm người, hồi hộp và sung sướng. Khách đông, phòng khách không đủ ghế ngồi, giản dị Hồ Chủ tịch ngồi xuống sàn và mời mọi người ngồi thế nói chuyện. Đây không phải vị Chủ tịch Chính phủ, đây là Cha già của dân tộc ân cần và thân mật hỏi thăm đàn con bao năm lưu lạc ở quê người.
Hồ Chủ tịch, người giản dị ấy, cũng là người lịch sự một cách thanh tao cao quý và mọi người ngoại quốc đều có dịp tiếp chuyện Người đều ca ngợi cái phong độ thanh tao cao quý mà họ cho là đặc sắc của người phương Đông. ở chiến khu, trong cơ quan, Hồ Chủ tịch thường mặc một bộ đồ xanh, chân đi đất; về Hà Nội, Người mặc một bộ đồ Ka-ki chân đi giày vải. Nhưng khi sang Pháp thì Người mang giày da và mặc một bộ đồ nỉ, cổ cứng. ở Paris, có ngày Hồ Chủ tịch tiếp luôn ba bữa cơm khách, bữa sáng với bạn thân, bữa trưa với khách thường, bữa tối với khách đặc biệt, mỗi bữa có khi kéo dài 3 tiếng đồng hồ, nhưng Hồ Chủ tịch thủy chung vẫn ân cần niềm nở.
Đời sống của Hồ chủ tịch là một đời sống khắc khổ, cần lao và tranh đấu. Người lãnh tụ của một dân tộc mất nước không thể có một đời sống khác. Phải khắc khổ, cần lao và tranh đấu để mưu cầu hạnh phúc ngày mai. Có người e đời sống nghiêm khắc ấy không còn chỗ cho tình cảm. Nhưng chính Hồ Chủ tịch thường nói: người cách mạng là người rất giàu tình cảm, và vì giàu tình cảm nên làm cách mạng. Người mà cả dân tộc tôn làm vị Cha già của mình phải có lòng thương yêu mênh mông xúc động đến tâm can của mọi người. Trong thời kỳ bí mật, phút mặc niệm chiến sĩ cách mạng là lúc Hồ Chủ tịch rơi nước mắt. Tại Quốc hội, Hồ Chủ tịch vừa khóc vừa ôm hôn anh Nguyễn Văn Tạo sau khi anh đọc một bài diễn văn thống thiết về Nam Bộ.
Người xưa nói: Có việc phải lo, lo trước thiên hạ, có việc đáng vui, vui sau thiên hạ. Hồ Chủ tịch nói một cách giản dị và thống thiết hơn: "Một ngày đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên"
Câu nói đó đã bộc lộ tâm trạng Người, mối tình cảm ruột thịt bao bọc trăm họ của đại gia đình Việt Nam.
Đối với người giản dị và lão thực ấy, một câu nói và một việc làm và có làm thì mới nói. Giản dị và lão thực trong sự ăn ở, tính tình, trong lời nói, viết, Người cũng giản dị và lão thực trong chủ trương chính trị nữa. Dân tộc Việt Nam bây giờ muốn gì ? Muốn thống nhất, độc lập, muốn ấm no, muốn biết chữ, muốn đời sống bớt tối tăm. Cho nên Hồ Chủ tịch chủ trương: đoàn kết kháng chiến, tăng gia sản xuất, bình dân học vụ, đời sống mới. Dân tộc Việt Nam quyết tâm và mỗi ngày tiến mạnh trên con đường sống còn sau lưng Hồ Chủ tịch.
Hồ Chủ tịch thật là hiện thân của dân tộc Việt Nam và mọi người Việt Nam đều thấy mình trong Hồ Chủ tịch.
Sức mạnh của Hồ Chủ tịch và sức mạnh của dân tộc Việt Nam là ở chỗ đoàn kết thống nhất ấy.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, hiện thân đạo đức – văn minh của Đảng và dân tộc ta
Ngày 15/6/2003. Cập nhật lúc 11h 22'
Song Thành
Viện Hồ Chí Minh
Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc là thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Đó cũng là thắng lợi của ý chí, đạo đức, văn minh Việt Nam trước vũ khí, kỹ thuật và sự dã man, tàn bạo của kẻ thù.
Công lao đó trước hết thuộc về nhân dân Việt Nam kiên cường, bất khuất, thế hệ nối tiếp thế hệ, đã vượt qua mọi gian khổ, hy sinh chiến đấu liên tục, ròng rã 30 năm trời dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng và với sự cổ vũ kỳ diệu của tư tưởng - đạo đức Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam, tạo cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho việc xây dựng một nền văn hóa mới và một nền đạo đức mới Việt Nam. Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Người đã cổ vũ, động viên các tiềm năng tinh thần truyền thống Việt Nam để tạo ra một xã hội nhân cách mới. Xã hội nhân cách đó được tạo dựng trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước của dân tộc kết hợp chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, từ đó đã sản sinh ra hàng triệu, hàng triệu người con anh hùng của đất nước - những chiến sĩ cách mạng kiểu mới của thời đại Hồ Chí Minh: trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư... Những cán bộ, đảng viên ưu tú của Đảng ta đã gương mẫu đi tiên phong trong cuộc đấu tranh anh hùng đó và chính họ đã cùng với nhân dân làm nên hiện tượng "kỳ diệu Việt Nam" trong thế kỷ 20, tiêu biểu cho lương tâm, vinh dự và phẩm giá con người.
Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một thời đại mới, một nền văn hóa mới, đạo đức mới trong lịch sử dân tộc. Người đã làm rạng rỡ Tổ quốc ta, nhân dân ta, truyền thống quang vinh của Đảng ta. Người nói: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh" và chính Người là hiện thân của sự thống nhất đạo đức - văn minh" và chính Người là hiện thân của sự thống nhất đạo đức văn minh đó.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng những để lại cho chúng ta một sự nghiệp cách mạng vẻ vang chưa từng có trong lịch sử dân tộc, Người còn để lại cho chúng ta một di sản vĩ đại, đó là tấm gương sáng ngời về phẩm chất đạo đức, tượng trưng cho những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn, ý chí, nhân cách của dân tộc và của loài người.
Tấm gương đạo đức Hồ Chí minh là một tấm gương đạo đức của một vĩ nhân một lãnh tụ cách mạng vĩ đại, một người cộng sản vĩ đại, nhưng đó đồng thời cũng là tấm gương đạo đức của một người bình thường, ai cũng có thể học theo để làm một người cách mạng, một người công dân tốt hơn.
Vấn đề số một trong đạo đức của một vĩ nhân - cũng như của một người bình thường là vấn đề lý tưởng, vấn đề lẽ sống: Sống cho ai? Sống vì cái gì? "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", đó là lý tưởng, là lẽ sống mà cũng là học thuyết chính trị - đạo đức của Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam. Ham muốn tột bậc của Người là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Chính ham muốn mãnh liệt ấy đã tạo cho Người một ý chí, một nghị lực phi thường để "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục". Cho đến khi phải từ biệt thế giới này, điều luyến tiếc duy nhất của Người vẫn chỉ là "không được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một bậc đại trí, đại đồng, hy sinh chẳng quản, gian nguy không sờn. ở những thời điểm then chốt của lịch sử, với tầm nhìn xa trông rộng của một "phượng hoàng đại ngàn", Hồ Chí Minh đã sáng suốt và dũng cảm đi tới những phán quyết lịch sử. Năm 1945, khi thời cơ cách mạng đã đến, Người chỉ thị: "Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập" Vào giữa những năm 60, lợi dụng khó khăn của ta, khi phong trào cộng sản quốc tế có xung đột và chia rẽ nghiêm trọng, đế quốc Mỹ đã ồ ạt đổ hơn nửa triệu quân vào miền nam Việt Nam và tăng cường cho không quân, hải quan ném bom, bắn phá dữ dội miền băc, hòng đưa chúng ta trở lại thời kỳ đồ đá! Trước tình thế đó, Người vẫn thể hiện quyết tâm và khí phách của toàn Đảng, toàn dân ta: "Dù nó ném hóa biển cũng phải giải phóng miền nam cho kỳ được!" (xem báo Nhân Dân ngày 24-5-1970). Thật "hiếm có một nhà lãnh đạo nào, trong những giờ phút thử thách, lại tỏ ra sáng suốt, bình tĩnh, gan dạ, quên mình, kiên nghị và dũng cảm một cách phi thường như vậy" (1).
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của tinh thần: Thắng không kiêu, khó không nản. Cuộc đời Hồ Chí Minh là một chuỗi những năm tháng vô cùng gian khổ: hai lần ngồi tù, một lần lãnh án tử hình; có giai đoạn hoạt động rất sôi nổi, được đánh giá cao, có giai đoạn bị hiểu lầm, ngộ nhận, lâm vào cảnh "như là sống ở bên lề, ở bên ngoài của Đảng (Xem Hồ Chí Minh Toàn tập, t.3, tr 90). Vượt qua được thử thách khổ ải, tù đày đã rất khó, nhưng vượt qua được thử thách do bị hiểu lầm, nghi kị còn day dứt hơn nhiều. Để kiên trì chân lý, giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, Người đã bình tĩnh, chủ động vượt qua những năm tháng khó khăn đó. Lê-nin từng nói: không sợ đói, không sợ chết, chỉ sợ không chiến thắng được phút yếu đuối của bản thân. Trong khó khăn, Người vẫn luôn luôn "tự khuyên mình": muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao. Dù có lúc phải "hoá lệ thành thơ" thì điều đó cũng chỉ vì nhân dân, vì Tổ quốc chứ không phải vì cảnh ngộ cá nhân.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một lãnh tụ hết lòng thương yêu, quý trọng đối với nhân dân, luôn luộn tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của nhân dân, cho nên mọi chủ trương, chính sách đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của nhân dân, luôn luôn dựa vào dân, "lấy dân làm gốc". Người giáo dục cán bộ phải nêu cao tinh thần phục vụ, tinh thần trách nhiệm trước nhân dân, phải chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bởi "nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì".
Để làm tròn trách nhiệm là người đầy tớ trung thành của nhân dân, Người dạy cán bộ phải gần dân, hiểu tâm lý, nguyện vọng của dân, lắng nghe ý kiến của dân. của "những người không quan trọng", không được lên mặt "quan cách mạng", cậy quyền cậy thế, đè đầu cưỡi cổ dân. Mặc dù uy tín rất cao, có sức hấp dẫn rất lớn, được toàn dân suy tôn là "Cha già của dân tộc" nhưng không bao giờ Người xem mình đứng cao hơn nhân dân. Người coi việc phải gánh chức Chủ tịch cũng như việc "người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mật trận". Nhận được thư, quà chúc mừng của nhân dân, dù bận trăm công nghìn việc, Người vẫn tự tay viết thư trả lời, cảm ơn một cách thân tình, chu đáo, nêu một tấm gương ứng xử rất văn hóa, đầy khiêm nhường và kính trọng đối vớii nhân dân.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu hết mực. Bác Hồ là "muôn vàn tình thân yêu" đối với đồng chí, đồng bào. Trong tình yêu thương đó, có chỗ cho mọi người, không quên, không bỏ sót một ai. Trái tim mênh mông của người ôm trọn mọi nỗi đau khổ của nhân dân. Người nói một cách cảm động: "Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng; gộp những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi". Tình thương yêu đó được mở rộng đối với nhân dân lao động toàn thế giới. Đối với những người lầm lạc, ngay cả đối với những người chống đối hay kẻ thù, Người cũng thể hiện một lòng khoan dung, độ lượng hiếm có. Kẻ thù xâm lược đã gây nên bao tội ác man rợ đối với nhân dân ta, nhưng khi chúng đã thất thế, đầu hàng hay bị bắt, Người luôn luôn nhắc nhở chúng ta phải đối xử với chúng một cách khoan hồng, phải làm "cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước".
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Cần kiệm, giản dị, ít lòng ham muốn về vật chất, đó là "tư cách của người cách mạng". Người đề ra và tự mình gương mẫu thực hiện. Cũng như V.I.Lê-nin, Người coi khinh mọi sự xa hoa, không ưa chuộng những nghi thức trang trọng. Một cốt cách giản dị, một sự giản dị vĩ đại. Cuộc đời của Người, từ một thợ ảnh bình thường ở ngõ hẻm Công-poanh đến khi làm Chủ tịch nước, sống giữa thủ đô Hà Nội, vẫn là một cuộc đời thanh bạch, giản dị, tao nhã. Khách nước ngoài vào thăm nhà sàn của Bác Hồ đã rất xúc động khi được biết Người không hề có một chút của riêng. Đó là một cuộc đời trong sạch, suốt đời thực hành cần kiệm, liêm chính.
Nét nổi bật trong đạo đức Hồ Chí Minh là sự khiêm tốn phi thường. Mặc dù có công lao rất lớn, Người không để ai sùng bái cá nhân mình, mà luôn luôn nêu cao sự nghiệp anh hùng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Người nói: Quần chúng mới là người làm nên lịch sử và lịch sử là lịch sử của chính họ chứ không phảl của một cá nhân anh hùng nào.
Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người đã làm cho tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên siêu việt, vô song, "khó ai có thể vượt hơn. Nhưng với sự kết hợp những đức tính đó, Người còn là tấm gương mà nhiều người khác có thể noi theo" (2).
Sinh thời, Hồ Chí Minh đã viết nhiều về tấm gương đạo đức của V.I.Lê-nin. Rèn luyện theo tấm gương đó, Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc và nhân loại một tấm gương trọn vẹn, mười phân vẹn mười. ở Hồ Chí Minh, đạo đức đã đạt tới một sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đời công và đời tư, giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường. Do đó, Người đã trở thành "tinh hoa và khí phách, lương tâm và vinh dự", thành biểu tượng của đạo đức và văn minh, không phải chỉ của Đảng ta, dân tộc ta, mà còn là biểu tượng của đạo đức - văn minh nhân loại. Đúng như bạn bè quốc tế đã đánh giá: "Giữa lúc vàng thau lẫn lộn, đồng chí Hồ Chí Minh trở thành trung tâm và tượng trưng cho cuộc xung đột lớn lao đang diễn ra giữa cái cũ và cái mới, giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa xã hội Sở dĩ bản anh hùng ca Việt Nam thu hút được lòng yêu mến của hàng trăm triệu người trên thế giới, chính là vì nó được tiêu biểu bởi nhân vật phi thường đó"(3).
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã làm trong sáng thêm lương tâm của dân tộc và của loài người.
Di tích Bác Hồ trong Dự án làng hữu nghị Việt - Thái ở bản Mạy, Thái-lan
Ngày 28/7/2003. Cập nhật lúc 2h 59'
Trong quá trình bôn ba ở nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng hai lần đến Thái-lan, tổ chức và vận động Việt kiều góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngày nay, với mong muốn phát triển quan hệ hai nước, ngưỡng mộ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ Thái-lan đã phê duyệt Dự án làng hữu nghị Việt-Thái tại Bản Mạy, nơi Người từng sống và khơi dậy lòng yêu nước của cộng đồng người Thái gốc Việt năm xưa.
Thái-lan, một nước láng giềng phía tây của Việt Nam, đã từng là điểm dừng chân của nhiều nhà yêu nước Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh chống xâm lược, giành độc lập dân tộc.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Chủ tịch Hồ Chí Minh) trong quá trình bôn ba ở nước ngoài để tổ chức và vận động phong trào đấu tranh cách mạng, cũng đã hai lần tới hoạt động ở Thái-lan: Lần thứ nhất từ tháng 7-1928 đến tháng 11-1929, và lần thứ hai tháng 4-1930.
Mấy năm gần đây, được sự giúp đỡ của chính quyền cùng các nhà khoa học Thái-lan, nhất là của cộng đồng người Thái gốc Việt, Bảo tàng Hồ Chí Minh đã tổ chức nghiên cứu khảo sát để tìm hiểu về các di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đất bạn. Bước đầu đã thống kê được một số địa điểm Người đã từng tới ở các tỉnh, thành phố là Băng-cốc (BANGKOK), Phi Chít (PHICHIT), U-đon Tha-ni (UÐON THANI), Noọng Khai (NONGKHAI), Sa-kôn Na-khôn (SAKON NAKHON), U-bon Rát-cha-tha-ni (UBON RATCHATHANI), Mục-đa-hản (MUKÐAHAN), Ăm-nát-cha-rơn (AM NATCHARON), Na-khon Pha-nom (NAKHON PHANOM). Vì thời gian đã hơn 70 năm, nhân chứng trực tiếp hầu như còn rất ít, cho nên kết quả xác định di tích chưa được nhiều, có chăng chỉ còn truyền tụng nhiều dưới dạng phi vật thể những bài thơ ca ngợi Ðức Thánh Trần, những mẩu chuyện về Thầu Chín (tên gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh) vận động, giác ngộ, tổ chức, giáo dục kiều bào đoàn kết thương yêu lẫn nhau, luôn luôn hướng về Tổ quốc, đồng thời tôn trọng phong tục, tập quán và đoàn kết với chính quyền, nhân dân Thái-lan. Trong số các di sản văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại ở Thái-lan, Bản Mạy thuộc huyện Mương, tỉnh Na-khon Pha-nom nổi lên như một điểm sáng, thể hiện khá đầy đủ những nội dung để minh chứng cho những hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, Hội thân ái, Hội hợp tác, những tổ chức cách mạng tiền thân do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí của Người sáng lập và cổ vũ.
Cho đến hôm nay Bản Mạy vẫn giữ được gần như nguyên vẹn trong không gian dân tộc học của một làng thuần người Thái gốc Việt đã được thành lập cách đây hơn 100 năm. Ở mảnh đất công trung tâm làng, là ngôi đền thờ Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo được bắt đầu xây dựng từ năm 1898, sau nhiều lần tu bổ, nâng cấp, hiện nay có được vẻ uy nghi đồ sộ như một ngôi đình làng ở Việt Nam.
Bản Mạy có 127 nóc nhà, dân sống bằng nghề làm ruộng (trồng lúa nước), làm vườn, trồng rau, trồng cau, cây ăn quả và buôn bán khắp vùng đông bắc. Ngôn ngữ sử dụng giao tiếp hằng ngày bằng cả tiếng Việt và tiếng Thái. Chúng tôi đã có dịp ngồi nói chuyện với bà con nhiều lần và không khỏi ngỡ ngàng khi nghĩ mình đang ở trên đất Thái.
Trong thời gian về vận động kiều bào ở Bản Mạy, lúc đầu Thầu Chín ở trong nhà ông Võ Trọng Ðài, một quần chúng giác ngộ và hăng hái. Ông Chín khuyên các hội viên trong Hội hợp tác làm một ngôi nhà đàng hoàng để làm nơi sinh hoạt tập trung. Bản thân ông Chín ngoài thời gian đi vận động và tổ chức phong trào yêu nước ở các vùng khác, đã tham gia nhiều hoạt động của Hội hợp tác Bản Mạy như dựng nhà, trồng lúa, đắp đường, đóng gạch... Ông rất nhiệt tình trong việc học tiếng Thái và dạy trẻ em chữ Việt. Ông tham gia các buổi dân làng cúng lễ ở đền Ðức Thánh Trần và trong các buổi tiếp xúc với đồng bào ở đây, Ông đã khéo léo nhắc nhở đồng bào tự hào với truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của cha ông, yêu thương đùm bọc lẫn nhau và hướng về cội nguồn dân tộc.
Trong ngày khánh thành Nhà hợp tác, ông Chín đã cùng mọi người trồng một dẫy dừa dọc theo bờ rào tiếp giáp với đường làng, trồng hai hàng bông bụt từ cổng vào sân Nhà hợp tác và trồng cây khế ngọt ngay đầu hồi nhà. Tháng 11-1929 ông Chín dời Thái-lan về Trung Quốc. Tháng 4-1930 ông có quay trở lại Thái-lan. Nhưng lần ấy ông chỉ tới Băng-cốc, U-đon Tha-ni, không có dịp về Bản Mạy.
Tháng 9-2001, chính quyền tỉnh Na-khon Pha-nom, huyện Mương, xã Nỏng Giạt và bà con cư dân Bản Mạy đã chung góp tiền của, công sức, dựng lại đúng trên nền đất cũ của Nhà hợp tác một ngôi nhà chính ba gian, một ngôi nhà bếp, kho thóc và đang sưu tầm đưa trở về đây những vật dụng sinh hoạt như đúng với thời kỳ ông Chín và các đồng chí của Người đã sử dụng năm 1928 - 1929.
Không chỉ dừng lại ở đây, với thiện ý tốt đẹp xây dựng Bản Mạy thành một biểu tượng của tình đoàn kết hữu nghị Việt - Thái, đồng thời thông qua đây phát triển du lịch, dịch vụ, thu hút đầu tư... từ những năm 1998 - 1999, tỉnh Na-khon Pha-nom đã quyết định di dời cơ quan chính quyền mương (thị xã) về ngay Bản Mạy, với hàng loạt công trình được quy hoạch kèm theo như trường đại học, sân vận động, bể bơi... và đặc biệt đầu năm 2003, Chính phủ Thái-lan đã phê duyệt Dự án làng hữu nghị Việt - Thái với mục tiêu giữ lại không gian dân tộc học làng Bản Mạy, với đền thờ Ðức Thánh Trần, Nhà hợp tác (di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh), đồng thời làm mới một số công trình, trọng tâm là khu Trung tâm thông tin với hội trường, nhà trưng bày triển lãm - thông tin giới thiệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về đất nước con người Việt Nam, về quan hệ hợp tác hữu nghị Việt - Thái. Bạn cũng có ý định cho dựng lại cả mô hình Nhà sàn Bác Hồ ở Phủ Chủ tịch, Hà Nội, nhà quê ngoại Bác Hồ ở Kim Liên với tỷ lệ như thật ngay trong khuôn viên Trung tâm thông tin ở Bản Mạy. Trung tuần tháng 6-2003, đoàn công tác của Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam sang làm việc với tỉnh Na-khon Pha-nom và Cục Nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa Thái-lan đã yêu cầu bạn không nên phục dựng các nhà di tích theo tỷ lệ 1/1, đồng thời gợi ý và được bạn hoan nghênh là Việt Nam sẽ tặng hai mô hình hai ngôi nhà nói trên, theo tỷ lệ 1/10 để bạn giới thiệu trong Nhà trưng bày ở trung tâm thông tin.
Việc triển khai Dự án làng hữu nghị Thái - Việt đang rất khẩn trương, nếu mọi việc đều suôn sẻ, đầu năm 2004 tới, ở Bản Mạy (người Thái gọi là Bản Na Jok) huyện Mương, tỉnh Na-khon Pha-nom, cách Băng-cốc hơn 700 km, sẽ hiện diện một địa chỉ văn hóa - du lịch - lịch sử có tầm vóc bề thế, biểu tượng của tình hữu nghị Việt Nam - Thái-lan, nơi hẹn gặp của mọi tấm lòng của bà con xa quê hương luôn hướng về đất nước và là điểm đến của các bạn Thái-lan ngưỡng mộ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top