B. TRÊN LĨNH VỰC VĂN HOÁ XÃ HỘI:

B. TRÊN LĨNH VỰC VĂN HOÁ XÃ HỘI:

1. Dân số-Lao động, GQVL, giảm nghèo và các vấn đề xã hội:

Dân số trung bình của tỉnh năm 2008 ước đạt 1.213.750 người (trong đó đồng bào các dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ 44,7%); tỷ lệ phát triển dân số là 2,18%; tỷ lệ tăng tự nhiên 1,75% tuy vượt kế hoạch 0,04% nhưng đạt nhiều tiến bộ do tỷ lệ tử giảm tương ứng; mức giảm tỷ suất sinh ước đạt 0,83‰. Dự kiến dân số tăng cơ học là 0,45%. Số lao động được giải quyết việc làm trong năm đạt 22.000 người. Trong năm có 8.500 hộ thoát nghèo, đạt 100% KH; ước tỷ lệ hộ nghèo năm 2008 giảm từ 22,17% xuống còn 18,12%.

Tuy tình hình nền kinh tế cả nước nói chung, của tỉnh nói riêng có nhiều khó khăn, nhưng tỉnh đã chỉ đạo khai thác nhiều nguồn lực, phát triển diện tích trồng cây cao su, đẩy nhanh tiến độ đưa các dự án lớn vào vận hành, nhất là các dự án thủy điện; tăng cường hỗ trợ vốn và thực hiện tốt các chương trình dự án đầu tư cho các xã nghèo, xã ĐBKK, làng ĐBKK... nên các chỉ tiêu kế hoạch về GQVL, giảm nghèo thực hiện đạt kế hoạch đề ra.

Chương trình 135 đã đầu tư cho 62 xã và 245 thôn, làng ĐBKK; trong năm Trung ương bổ sung vốn hỗ trợ cho 18.510 học sinh con hộ nghèo đi học thuộc các xã Chương trình 135, đã tạo điều kiện cho các vùng khó khăn phát triển sản xuất, ổn định đời sống. Cuối năm 2008 sẽ hoàn thành Chương trình 134.

2. Giáo dục đào tạo:

Tổng số học sinh đầu năm học 2008-2009 ước đạt 333.163 học sinh, giảm 1,06% so với năm học 2007-2008. Tính đến nay toàn tỉnh có 221 trường mầm non, tăng 12 trường so với năm học trước; 221 trường tiểu học, tăng 8 trường; 224 trường THCS, tăng 7 trường; 35 trường THPT, tăng 4 trường. Có 28 trường chuẩn quốc gia ở các cấp học , trong đó: bậc tiểu học 22 trường, 1 trường ở bậc THCS và 5 trường ở bậc mầm non. Toàn tỉnh có 1 trường Cao đẳng, 4 trường THCN và 01 Phân hiệu Đại học Nông lâm TP.Hồ Chí Minh.

Tỷ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi 5 tuổi ra lớp đạt 97,6%. Có 94% giáo viên tiểu học, 96,5% giáo viên THCS và 100% giáo viên THPT đạt chuẩn; ước đến cuối năm 2008 có 143/215 xã, phường được công nhận đạt chuẩn PCGD THCS đạt 66,5%; có 3/16 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS. Năm học 2007-2008 đã tổ chức đúng quy chế kỳ thi tốt nghiệp THPT và bổ túc THPT, kết quả thi tốt nghiệp THPT 2 lần đạt 74,33% và bổ túc THPT đạt 22,73%. Chất lượng giáo dục đã đi vào thực chất, bước đầu khắc phục được tình trạng tiêu cực trong thi cử. Cung ứng sách giáo khoa, vở học sinh kịp thời phục vụ năm học mới. Tỉnh tiếp tục triển khai chương trình phù hợp cho trẻ em mẫu giáo 5 tuổi ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đối với học sinh dân tộc thiểu số, học sinh thuộc diện chính sách mỗi em được mượn 1 bộ sách giáo khoa, được cấp vở học sinh. Đối với học sinh mẫu giáo, phổ thông thuộc hộ nghèo ở các xã ĐBKK được hỗ trợ học bổng.

Chương trình kiên cố hóa trường, lớp học giai đoạn II đang được triển khai thực hiện. Tiếp tục tổ chức triển khai dự án phát triển THPT, dự án THCS, dự án giáo dục tiểu học cho trẻ em vùng khó khăn.

3. Y tế:

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, công tác y tế dự phòng được đẩy mạnh; các dịch bệnh nhất là dịch bệnh nguy hiểm có xu hướng giảm, không có dịch lớn xảy ra; các chương trình quốc gia về y tế triển khai tốt; tình hình sốt rét ổn định, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng còn 28%, giảm 2%; tỷ lệ trẻ em dưới 1 tuổi tiêm chủng đủ liều đạt 93% (tăng 8%). Tỷ lệ trạm y tế xã có bác sỹ đạt 50%, tỷ lệ cơ sở sản xuất thực phẩm đạt VSATTP đạt 80%, đạt kế hoạch đề ra. Đội ngũ cán bộ y tế được bổ sung và nâng cao trình độ đáp ứng nhiệm vụ của ngành.

Cơ sở vật chất được đầu tư xây dựng, nâng cấp. Tỉnh đang triển khai dự án đầu tư xây dựng các bệnh viện tuyến huyện từ nguồn vốn Trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn khác với kinh phí trên 70 tỷ đồng. Bệnh viện tỉnh tiếp nhận thiết bị y tế từ vốn ODA của Tây Ban Nha; bệnh viện Hoàng Anh Gia Lai quy mô 200 giường đang khởi công xây dựng.

Việc chia tách và xác nhập các đơn vị trong ngành y tế nên lực lượng cán bộ ngành y tế càng mỏng, đã ảnh hưởng đến chất lượng công tác của ngành. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình tiếp tục củng cố về mặt tổ chức, đẩy mạnh công tác tuyên truyền và triển khai tốt chiến dịch chăm sóc sức khỏe sinh sản lồng ghép với KHHGĐ để thực hiện tốt công tác giảm sinh và hạn chế sinh con thứ 3.

4. Công tác Văn hoá, thể thao-Phát thanh truyền hình:

Tỉnh đã tổ chức tốt các hoạt động nhân kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước và của tỉnh, tuyên truyền thực hiện tốt "cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh"; vận động phòng chống tham nhũng, chống lãng phí và phục vụ tốt cho nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.

Các hoạt động văn hóa đã hướng về cơ sở; góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân. Tiếp tục triển khai các phong trào như xây dựng gia đình văn hoá, làng văn hoá, xây dựng đời sống văn hoá mới ở khu dân cư, xây dựng nhà rông văn hoá cấp xã, làng; trung tu các di tích văn hóa, lịch sử; xây dựng dự án điều tra phân loại cồng chiêng trên địa bàn Gia Lai. Có 86% hộ gia đình và 42% số thôn, làng đạt chuẩn văn hóa quốc gia. Thực hiện tốt các chương trình truyền hình địa phương phát trên sóng Đài tỉnh và sóng TW, tỷ lệ số hộ được xem truyền hình đạt 91%, tỷ lệ hộ nghe đài đạt 96,5%.

Các hoạt động thể dục thể thao được tổ chức sôi nổi, thu hút được nhiều tầng lớp tham gia, tổ chức được 12 giải thể thao quần chúng cấp tỉnh; tham gia thi đấu 32 giải thể thao thành tích cao, kết quả đạt 54 giải , trong đó có 10 huy chương vàng. Tỷ lệ dân số tham gia luyện tập TDTT thường xuyên đạt 20,5% và hộ gia đình đạt 15,5%.

5. Khoa học công nghệ:

Các đề tài dự án nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ đã tập trung hơn vào các lĩnh vực công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế-xã hội miền núi. Tổ chức triển khai 9 đề tài, dự án trong năm. Ngành đã hướng dẫn các cơ sở sản xuất, kinh doanh đăng ký độc quyền nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp cho 20 cơ sở sản xuất; thanh tra, kiểm tra, xử lý các cơ sở vi phạm. Ban hành quy định về quản lý an toàn và kiểm soát bức xạ trên địa bàn tỉnh.

6. Môi truờng:

Công tác quản lý nhà nước về môi trường được tăng cường. Tiếp tục tuyên truyền về Luật bảo vệ môi trường. Thực hiện quan trắc môi trường tại 41 điểm, tổ chức giám sát môi trường, phê duyệt các dự án báo cáo dánh giá tác động môi trường và lập báo cáo đánh giá tác động môi trường theo quy định. Tiếp tục xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọngtheo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Tỉnh đã ban hành hệ thống chỉ tiêu kế hoạch triển khai Chỉ thị số 26 của Thủ tướng Chính phủ về theo dõi và giám sát đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu về tài nguyên môi trường và phát triển bền vững. Bệnh viện tỉnh đã được Bộ Tài nguyên, Môi trường chấp thuận xây dựng hệ thống xử lý rác thải, nước thải.

7. Công tác Vì sự tiến bộ của phụ nữ (VSTBPN):

Tiếp tục xây dựng và lồng ghép các mục tiêu, chỉ tiêu VSTBPN vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của ngành, địa phương. Hệ thống các tài liệu về lồng ghép giới, nâng cao kỹ năng hoạt động về công tác VSTBPN cung cấp cho lãnh đạo các cấp, ngành và Ban VSTBPN các cấp. Tổ chức tổng kết, đánh giá giữa kỳ thực hiện KHHĐ VSTBPN giai đoạn 2006-2010. Đôn đốc các đơn vị kiện toàn tổ chức bộ máy hoạt động. Triển khai công tác giám sát tình hình hoạt động VSTBPN ở các địa phương.

* Đánh giá chung:

Năm 2008 nền kinh tế tỉnh phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh, với sự nỗ lực của các cấp, các ngành, tình hình kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng của tỉnh tiếp tục ổn định và phát triển. Thu ngân sách của tỉnh đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Năm 2008 cũng là năm thứ hai kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt kế hoạch sau nhiều năm không đạt. Tuy vẫn còn một số tồn tại cần quan tâm chỉ đạo trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vi phạm lâm luật, tiến độ giải ngân vốn, chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khoẻ, tai nạn giao thông, an ninh nông thôn... Nhưng những thành tựu trên đây là những tiền đề hết sức thuận lợi cho tỉnh bước vào triển khai kế hoạch năm 2009

* Một số tồn tại, yếu kém:

- Kinh tế tăng trưởng khá nhưng quy mô nền kinh tế còn nhỏ; tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ còn thấp; giá vật tư, nguyên liệu, chỉ số giá tiêu dùng và chi phí trung gian một số ngành còn cao, ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng.

- Cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch, khu vực I vẫn còn 47,3%, cao hơn năm 2007

- Tiến độ triển khai các công trình khởi công mới, giải ngân các nguồn vốn ODA, trái phiếu Chính phủ, vốn các chương trình mục tiêu quốc gia còn chậm. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng để triển khai các dự án còn chậm; việc giải quyết đất sản xuất, giải phóng mặt bằng và tái định cư cho dân ở các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi còn bất cập.

- Một số ngành dịch vụ tăng trưởng chậm; du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng.

- Toàn tỉnh còn 20 xã chưa thành lập được trường mẫu giáo hoặc mầm non. Số lượng trường đạt chuẩn quốc gia ở các cấp còn ít, chưa có trường THPT đạt chuẩn; việc chuyển đổi 03 trường THPT bán công theo quy định của Luật GD năm 2005 còn nhiều khó khăn; số trường có phòng thư viện, phòng ngoại ngữ, phòng tin học đạt chuẩn còn thấp; nhiều trường bán trú chưa tổ chức tốt nơi ăn ở cho học sinh, việc áp dụng CNTT vào dạy học và quản lý còn chậm.

Số học sinh bỏ học, thôi học còn khá cao; học sinh của năm học 2007-2008 chuyển sang năm học 2008-2009 giảm 19,8%.

- Số người nhiễm HIV và bệnh nhân AIDS được phát hiện mới đều cao so với cùng kỳ 2007, công tác quản lý bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS tại cộng đồng gặp nhiều khó khăn. Việc chấp hành các quy định về VSATTP chưa tốt, vi phạm chất lượng VSTP còn nhiều. Mạng dân số đang được kiện toàn nên ảnh hưởng đến công tác dân số.

- Ở các doanh nghiệp trên địa bàn việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động chưa được quan tâm thực hiện. Công tác xã hội hóa dạy nghề chưa sâu rộng. Việc kê khai thủ tục hồ sơ để đề nghị giải quyết chế độ chưa kịp thời, chưa quan tâm đúng mức đến công tác XĐGN, việc cập nhật số liệu giảm nghèo ở cấp xã yếu, chưa thường xuyên.

- Hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch phát triển không đồng đều giữa các địa phương. Công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động văn hóa chưa thường xuyên và hiệu quả thấp. Công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho mạng lưới cộng tác viên, hướng dẫn viên thể dục thể thao ở cơ sở còn ít.

- Số cơ sở sản xuất kinh doanh vi phạm sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, tiêu chuẩn kỹ thuật, đo lường và chất lượng hàng hóa còn nhiều, ghi nhãn hàng hoá không đúng quy định, hàng hoá quá hạn sử dụng..., mức xử phạt vi phạm hành chính còn thấp. Hoạt động kinh doanh xăng dầu, gas, mũ bảo hiểm còn nhiều sai phạm (sử dụng phương tiện đo lường quá hạn kiểm định hoặc không kiểm định nên gây sai số vượt quá mức 0,5%).

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #vancan