B-Lenghiabk05

Bến sông quê nội tôi, một bến nhỏ ven bờ Hậu Giang nơi  chỉ cách thị xã Châu Đốc một quãng đường ngắn và một dòng sông rộng. Lũ lụt ngập lút hằng năm nên chứng tích lịch sử chẳng còn  lại bao nhiêu, trừ mái đình thờ thần hoàng có sắc phong  từ hơn trăm năm trước. Trên bến con sông quen thuộc ấy bà cháu tôi ngồi đương lưới để kiếm thêm ít ỏi tiền làm kế sinh nhai.

Hồi đó ở  đây mùa nước nổi  xóm làng chìm giữa lênh đênh. Người  muốn có cái ăn cái mặc, con mắm con khô để sống qua ngày thì không thể làm gì khác ngoài  nghề giăng lưới, giăng câu. Lúc này lưới  dệt chưa có nên ai cũng  xài lưới thủ công.

Với cây cự và cây ghim, bà cháu tôi ngồi đương từng mặt lưới cho tới lúc có được những cuộn lưới dài mấy trăm sải tay. Tôi đương khá nhanh tay nhưng ngán ngẩm công việc tỉ mỉ chậm chạp này. Còn nội thì đương chậm hơn nhưng bền lắm. Mắt bà mờ, khi đương bà phải cúi gập người nhìn sát mặt lưới, đôi khi cây ghim nhọn quá tay muốn lấy mất mắt bà... Bà cứ ngồi, ngày này qua ngày khác theo năm rộng tháng dài, bền bỉ điềm đạm như một nhà sư  đủ kiên định bỏ đời, nhập thiền tụng niệm. Bà  đâu nghèo khổ gì mà phải còng lưng đương lưới suốt  ngày, để lưng bà còm đi trước tuổi. Chẳng qua bà muốn có thêm ít tiền để phòng khi nắng sớm mưa chiều. Bà hay nói với tôi:

‘’Ngồi không mà chẳng chóc gai

 Tới  khi có cá mượn chài  ai  cho’’

Khi tôi biết chuyện bà đang sống rất an nhàn, có dư tiền gởi cho đứa cháu đi học xa hay nuôi cơm đứa  cháu ở nhà. Nhưng trong tiềm thức, cái đói đeo đẳng bà từ những ngày xưa, thâm căn cố đế  tận thịt xương tim óc, nên dẫu sống trong ấm no bà sợ đói tới ngây người. Một chén cơm thiu, một hột gạo nát bà cũng không để cho rơi vãi vì ngại phí hoài. Chút nước mắm dính đầu ngón tay bà cũng đưa vô miệng như tiếc công tiếc của. Tôi hay hỏi bà "Bổ béo gì giọt nước mắm, sao bà  tiện tặn làm chi  cho cực thân già?". ‘’Bà đâu tiếc cho bà vì bà còn sống mấy lăm hơi. Nhưng bà sợ, mình hoang phí ngày nay con cháu sau này  không có cái  ăn cái mặc‘’. Bà nói vậy ngoài chuyện lo xa mà còn vì bà đã quen.

 Hồi xưa sống ở bến sông này, bà cũng như hầu hết những nông dân ở đây, làm quần quật quanh năm như con trâu đầm bùn mà manh áo chén cơm họ không tự chủ, no đói bản thân họ cũng chẳng thể lường.

 Đối với họ con sông có cái tên hiền lành nhưng tiềm ẩn hung hăng như ác thú. ‘’Hồi đó’’ – Nội  tôi thủng thẳng kể ‘’Nước lên mất mùa thất vụ là chuyện hằng năm,  thiếu áo đói cơm gạo bòn từng hột là lệ thường tình". Ở đây lũ tràn ngập có mùa, con nước xuống, lên theo lệ. Nhưng cái quy luật ấy không ai chế ngự nổi.  Mỗi năm chỉ  được một mùa lúa sạ, tháng Tư gieo cấy nhọc nhằn gần tết mới vô vụ gặt đông ken. Bảy tháng trời vật lộn với nắng mưa địch họa, nhà có đôi ba mẫu đất cũng chỉ kiếm được mươi giạ lúa ăn tiện tặn cho cả năm ròng.  Nhưng có chắc chắn gì đâu, một  hai năm lại mất trắng một lần. Cá biệt có những ba  năm (1939 - 1940 - 1941) lũ nhận lúa liên tục. Vụ trước chẳng  thu được hột lúa nào, đợi mòn mỏi sáu tháng sau gieo trồng vụ kế. Tới mùa nước về cuốn sạch như chơi. Mất mùa liên tục, lúa không có làm giống thì chuyện miếng ăn chỉ là chuyện xa vời. Khi đó cuộc sống của người dân vùng lũ, cả chủ ruộng cả người làm công không còn gì ngoại trừ chữ đói.

Đói! Thật đơn giản giữa cuộc sống hiện thời. Nó là một trạng thái nhắc ta nhớ tới bữa ăn cần chuẩn bị  gì cho nấu nướng. Thậm chí có bao người thừa mứa thức ăn, ăn khi chưa kịp đói thì cảm giác đó phải đi tìm. Nhưng chữ đói thời đó là một nỗi ám ảnh bao đời. Đói triền miên, đói dai dẳng lả người, đói rã rượi tứ chi. Đói làm người bị đói  như  quen với  cái đói. Đói tới  gặp hột cơm thèm lem lẻm muốn quơ nhanh nhét vô miệng nhưng không dám, sợ ăn  rồi lại phải gặp cơn đói khác bạo tàn hơn. Đói lúc đó  như một căn bệnh cố hủ kinh niên và  nó có thể ập đến giai đoạn  kinh khiếp bất cứ lúc nào.

 Chưa có cái  khổ nào bằng đói trong những ngày lũ đổ. Ngồi trên những ngôi nhà sàn cheo leo dật dờ trong từng cơn sóng lũ, nghe cái đói cồn cào  bụng  dạ mà bốn bề  nước  trắng mênh mông. Mưa  nước lên trút ào ào dai dẳng xuống mái tranh nghèo, nước từ dưới dâng lên dường như không biết mệt. Có một chỗ ngồi khô ráo hay vớt được  một nhánh rau cũng là chuyện xa vời, huống gì là một chén cơm đỡ  bụng. Củ  súng lạc xèo làm được thức ăn, củ co nhân nhẫn  cũng làm lót dạ qua ngày. Nhưng muốn có được món ăn nghèo nàn khó nuốt đó đâu phải giản đơn, họ phải dầm mình cả ngày, dò dẫm nước ăn lở kẻ tay, kẻ chân  trong lũ.

 Người nông dân nhìn dòng sông tràn bờ mênh mông không tránh được những  căm hờn. Dù sông nước đem lại cho họ một nguồn thủy sản dồi dào. Nhưng cá đánh bắt được nhiều giá cả lại chẳng có bao nhiêu. Thiếu gạo ăn, cá trở thành một thứ nhìn thôi đã ớn. Nhất là mùa nước nổi, nhìn đâu cũng cá, con nào con nấy ú nu ú nần, mỡ trắng phao. Loại cá đó bây giờ kiếm đỏ mắt. Nhưng giữa những ngày đói kém, cái mùi mỡ cá đầy ứ trong bụng càng làm những cơn thèm cơm hành hạ cơ thể bạo tàn hơn.

   Giờ nội tôi vẫn còn sợ đói, nhớ cái đói từ những ngày xa xưa còn sót lại  nên bà  cứ phải lao nhọc khi cuộc sống đã về lại ấm no. Tôi không nhớ  được, chính bà cũng không nhớ được cả đời bà đã đương được bao nhiêu là  sải  lưới. Nhưng tôi biết  đã quá nhiều  rồi, dày theo tuổi đời chồng chất của bà và dài theo nhưng kiến thức tôi có được ở nhà trường.

Nói tới nội, tới nước lên lại nhớ hồi  tám chín tuổi lần cầu khỉ lùng trầu cho nội. Thiệt là cực. Nội ghiền trầu nặng. Mỗi lần nội hết trầu bất tử tôi phải đi xuống tận chợ xã mua trầu. Lúc đó chỉ có con đường  thấp lè tè chạy cặp bờ sông, con nước vừa rùng mình lên là nó đã  chìm nghỉm giữa dòng đỏ ối. Muốn đi muốn về từ đầu xã đến cuối xã phải lần từng bước trên cây cầu tre bắt dọc theo đường. Giờ con đường chỉ tồn tại  như một chứng nhân để người đời sau chiêm nghiệm soi rọi lại, coi quê mình  hơn ba mươi năm qua bao nhiêu điều thay đổi. Song song con đường cũ đó đã có con đường nhựa mới, chạy dài liên xã.

      Đầu vào của con đường là cầu vàm Châu Phong xây lại đã được gần tám năm nay bắt ngang dòng kinh Vĩnh An. Đầu bên này cầu là xóm Chăm Phủm Soài tồn tại hằng mấy trăm năm trước. Dấu ấn lũ lục còn hiện rõ nhất ở đây là những mái nhà sàn người Chăm cao vòi vọi. Nhưng những ngôi nhà sàn, cũng như con đường làng chỉ tồn tại như một thói quen. Bao năm qua những dòng đê khép kính để kiểm soát lũ đã chặn dòng  nước, cho nó dạo quanh quẩn ngoài sông kia. Ở trong này khô ráo từ đầu mùa đến cuối vụ. Xóm Chăm qua lâu rồi thời kì nghèo đói cách biệt với cộng đồng. Thậm chí nhờ những chính sách ưu đãi dành cho người dân tộc, tỉ lệ gia đình giàu có, nuôi con ăn học thành đạt của người Chăm cao hơn người  Kinh cùng xã. Mấy cô gái Chăm đã được cơ hội rời phòng the để tham gia vào công cuộc học tập, làm giàu. Người Chăm chính thức đã hòa nhập với cộng đồng.

Con đường chạy ngang suốt xóm Chăm cũng chính  là con đê vững vàng ngăn lũ, cho cánh đồng trũng dưới kia lúa ba vụ ăn chắc quanh năm. Dưới đồng sâu, lúa vụ ba đang mùa gặt rộ. Tiếng máy suốt lúa nổ ành ạch gần xa, phun những đụn rơm bời bời như hơi thở thơm nồng mùa vụ. Mấy năm gần đây khắp các cánh đồng  của An Giang từ khu nông nghiệp lâu năm như Tân Châu, Phú Tân đến những cánh đồng bạc ngàn nắng lúa của tứ giác Long Xuyên, lúa vụ sau trúng hơn vụ trước.

Nhìn đồng lúa, nhìn dòng xe cộ ngược xuôi  tấp nập, tôi như quên chỗ mình đứng là gữa vùng quê đang hồi lũ đổ. Đến khi nhìn lại phía mặt sông nơi con nước rong mùng Mười tháng Tám  dâng cao hơn nửa thân mấy cây còng cây gáo mọc ở ven đường, tôi mới chợt giật mình. Ừ, phải! Lúc này đang mùa lũ lớn.

Hồi đó độ này dưới kia là một đồng nước. Nó là con đường thủy băng đồng để tụi học trò chúng tôi bơi xuồng đi học đường xa. Từng đụn kiến lửa mất ổ trôi theo nước như nỗi lênh đênh của người dân vùng lũ. Giữa sông nước mênh mông nhìn bầy kiến nắm níu nhau trôi bèo không có bến bờ, không biết bám víu chỗ nào con người thấy mình như chới với. Có được một đụn đất nhỏ cất cái chuồng gà đã là một mơ ước quá xa xôi.

Còn bây giờ có những tuyến dân cư nối tiếp nhau cặp theo đường nhựa.  Vừa cất được nhà đủ cỡ còn dư đất trồng vài chậu kiểng cho sang, ươm dăm cây ăn trái cho xanh xóm đẹp nhà. Bọn trẻ được đường hoàng cưỡi xe đạp trên lộ nhựa tới trường, đường hoàng tổ chức lễ khai giảng trên những sân trường cao hơn đỉnh lũ.

Nhìn lũ học trò vô tư an hưởng yên bình trong đùm bọc của người lớn và xã hội, nghe tiếng đọc bài ngân nga thay sóng lũ ì ầm  ai cũng thấy cuộc sống mới đơn giản làm sao, cơn lũ  Mê Kông bỗng  hiền lành  dung dị như một khoảng sân góc trời quen thuộc. Chỉ có những người từng bồng bềnh trong lũ mới thấy những điều đơn giản ấy to lớn và tuyệt dịu tới mức  nào.

 Về Châu Phong ngày mưa lũ dội loạn cuồn lại được  nằm yên lành trên những ngôi nhà khô ráo vững vàng, nghe tiếng gió hú sóng gầm văng vẳng ngoài kia sông Hậu, tôi thấy lòng  như một đứa trẻ ngây ngô. Thèm dại dột được nghe tiếng cá rô non ăn móng dưới  gầm nhà, nhớ ngốc nghếch tiếng nước róc rách chảy len qua từng chân cộc. Kí ức những ngày còn nhọc nhằn  làm người nhớ mệt nhoài nhưng khó có thể phôi phai, cũng như nội tôi khó quên được những ngày đói khổ.

Nhưng cuộc sống cứ như một cái gì đó khó bề hoàn hảo. Trên vùng đất một thời thừa cá thiếu cơm. Giờ lại mỏi mòn thừa cơm thiếu cá.  Những cánh đồng liên vụ tận diệt nguồn thủy sản. Nước lũ dạo quanh quẫn ngoài sông rồi tuôn mau ra biển. Trên đồng đầy lúa, đủ cỡ lúa. Nước, đất nhiễm nặng thuốc bảo vệ thực vật. Mùa nối mùa, năm nối năm. Những chợ cá ven sông nhìn tới nhìn lui chỉ cá rô cá lóc nuôi và vài ba loài cá biển. Để có cá tự nhiên, bạn hàng phải lần lên biên giới mua cá nhập tiểu ngạch từ Campuchia qua. Giá cả… “coi được” lắm.  

Đành vậy. Đó là cái giá của những tấn lương thực xuất khẩu. Mong rằng đừng quá mất cân đối. Để bà con sống trong vùng sông nước không phải lặng lẽ rảo quanh chợ cá, mắt nhìn hoài những con cá ngoại, mà đụng tới tụi nó thì ai cũng  sợ… phỏng tay.

Nhưng những người yêu Hà Nội, yêu miếng ngon Hà Nội hẳn đã không ai là không đôi lần chạnh lòng khi thấy ẩm thực thủ đô ngày nay ngày càng phong phú, đa dạng hơn, nhưng cũng ngày một méo mó, xô bồ hơn.

Nhìn lại những tản văn mượt mà từ những thời của cụ Nguyễn Tuân, Vũ Bằng... tới Băng Sơn ngày nay, thấy yêu quý biết bao cái tinh, cái sành, cái thanh cảnh nhẹ nhàng, mùa nào thức ấy, buổi nào món ấy, không lai tạp, không ồn ã... của ẩm thực Hà Nội. Buồn thay, giờ đây, dường như những vốn cũ đẹp đẽ đã mất dần trong nét ăn uống của người thủ đô.

Từ xô bồ miếng ăn...

Ngày xưa đói khổ, người ta cốt ăn cho no. Ngày nay, kinh tế phát triển, người ta lựa ăn cho ngon. Nhưng ẩm thực Hà Nội nay ngày càng xô bồ về khẩu vị thưởng thức, nói như Vũ Bằng, là "thực bất tri kỳ vị"?

Chuyện mùa nào thức nấy giờ chỉ còn là trong quá khứ. Người ta ăn ào ào, ăn cho có. Bún chả, bánh cuốn vốn chỉ là món điểm tâm hay ăn trưa, giờ ăn cả mọi lúc trong ngày, thậm chí là ăn đêm. Ngày càng xuất hiện nhiều món ăn mới, nhưng ngon đâu chưa thấy, chỉ thấy sự lai tạp và hổ lốn.

Vẫn biết ẩm thực là sáng tạo, chẳng thế mà ở Paris - kinh đô ẩm thực của thế giới - có tới hàng chục tạp chí chỉ dành để chấm điểm và đánh giá những món ăn mới của những nhà hàng cao cấp. Thế nhưng, với cách sáng tạo của một số hàng quán tại Hà Nội hiện nay thì cũng đành "lắc đầu" vì không hiểu đó là tính sáng tạo vượt khó hay sự hổ lốn trong ăn uống, mà đáng buồn là vẫn được nhiều người chấp nhận. Điển hình nhất là món ăn mà lớp trẻ rất ưa thích "bún ốc thịt bò".

Thử tới Hòe Nhai hay chợ Đuổi - được coi là nơi có món bún ốc bò ngon nhất Hà Nội, gọi một bát "đầy đủ", phục vụ đon đả bưng ngay ra một bát bún phía dưới lót một lớp giá chần, phía trên là bún, rồi ốc luộc khêu sẵn, kết hợp thêm lèo tèo mấy miếng bò chần, vài miếng đậu phụ, rồi lại thêm miếng giò tai lợn khi thực khách yêu cầu. Khi khách có yêu cầu, lại có ngay bát quẩy chiên ăn kèm, với hầm bà lằng các loại rau sống.

Ăn một bát bún, tự nhiên thấy... ngang lạ ngang lùng khi người ta có thể nhốt chung loài nhuyễn thể dưới nước, với hai loại động vật trên cạn, thêm vào đó đủ thứ rau vào một bát bún cỏn con. Ăn bát bún như thế, vị ngon của món ăn chẳng thấy rõ, chẳng thấy giấm bỗng chua, chẳng thấy cà chua đỏ thơm nức, chẳng thấy xuýt xoa vì ngon, chỉ thấy lổn nhổn đủ thứ, và ngắc ngoải ăn xong một bát bún to tướng có lẽ chỉ thỏa mãn phần ăn cho no bụng.

...tới nhộn nhạo quán xá

Một nghiên cứu sinh vừa trở về từ Đức sau 10 năm tu nghiệp, ngỡ ngàng: "Cứ tưởng nhà mình như ngày xưa, hàng quán ít, nhưng giờ thì đều đủ cả, chẳng phải đi đâu xa cũng nếm được món ngon toàn cầu. Nhưng mà sao tôi cứ thấy càng ngày, mọi thứ càng lai tạp?". Nỗi băn khoăn của chàng trai Hà thành hơn 30 tuổi cũng là nỗi băn khoăn của những người yêu thích sự bình dị, không ồn ào và tinh tế của ẩm thực Hà Nội gốc.

Dễ thấy, hàng quán mọc lên khắp mọi nơi, từ sang trọng ở những "restaurant" trên phố lớn tới các quán lúp xúp ở vỉa hè, bên hông chợ, trong các khu tập thể. Người ta có thể điềm nhiên ngồi ăn (và cũng buộc phải ăn) bên cạnh bãi rác, cạnh những rãnh cống chảy đen ngòm, điềm nhiên nâng ly hét hò từ sáng tới khuya bất kể bên cạnh là bệnh viện hay trường mầm non.

Một nhà mà mở hàng ăn phát đạt, y như rằng sẽ cả dãy phố ăn theo. Khách tới ghé thăm phố Bát Đàn, trong lòng đã bấm bụng sẽ quyết tâm xếp hàng để thưởng thức cho bằng được món phở ngon nhớ đời ở đây, giờ cũng hoa cả mắt trước vô vàn quán phở mà không biết đâu là phở Bát Đàn thật, đâu là phở Bát Đàn giả.

Sợ hơn hết thảy là những hội chợ ẩm thực Hà thành, nơi người ta nhét vào đủ thứ hàng hoá của Trung Quốc và dăm ba quán xá bán với giá trên trời. Các khu ẩm thực lèo tèo vài quán không tên tuổi, trang trí sơ sài, và cũng không có chút nét gì gợi lên vẻ "dân tộc truyền thống" hay "cổ truyền" của Hà thành, bán đủ thứ thức ăn, từ lẩu, bún, phở, mì xào, cơm rang, bánh đúc, nộm... tới kem và xúcxích của Đức (?).

Ở những nơi như thế, háo hức gọi món để thử cho biết miếng ngon Hà Nội như thế nào thì sẵn sàng bị "chém" không tiếc thương. Một đĩa phở xào trên cháy dưới nát, rau héo, thịt thà vẫn còn mùi hoi hoi, bị hét tới giá 30.000 đồng. Một đĩa nộm thịt bò chỉ lèo tèo dăm cọng đu đủ bào, mấy miếng thịt bò với nước chan, làm người ăn phải móc 20.000 đồng trả cho nhà hàng...

Và đáng ra cái nét văn hóa "phi Hà Nội" nhất, là thứ văn hóa phục vụ kiểu "phở chửi, cháo quát" giờ lại gần như lại điềm nhiên trở thành thứ "văn hóa Hà Nội", thành ấn tượng xấu nhất in đậm trong tâm trí du khách về thủ đô. Có ai đã vào TPHCM, hay đã được xuất ngoại, được hưởng thứ dịch vụ chu đáo, mới thấy chạnh lòng cho các thực khách của thủ đô. Bỏ tiền ra mà không dám hó hé nửa lời vì sợ chủ quán chửi. Chủ quán vừa chặt thịt, vừa mắng người làm lẫn thực khách xơi xơi như hát hay.

Ghé tới nhiều quán ăn, nếu trót gọi ít, thì mặt các cô phục vụ sưng lên như bánh đa nướng. May mắn lắm khi hỏi thì được trả lời trống không, chứ đừng mong một lời chỉ dẫn ân cần, nhẹ nhàng. Đi ăn mà thật khổ không khác gì đi xin, với người tự trọng, có lẽ chẳng bao giờ có chuyện quay lại lần thứ hai. Lạ nhất là dù thế, quán vẫn đông, chủ cũng chẳng cần giữ khách!

Tưởng Rằng Đã Quên

Mưa đậm hạt thổi tạt vào mái tôn, căn nhà như đang lên cơn run. Mấy miếng ván thùng gỗ đóng vá đụp bên hiên nhà rỉ giọt, hàng chữ U. S. Army màu đen hằn sâu trên gỗ. Thành vừa phủi nước đọng trên cặp đồ rằn ri vừa huýt gió. Răng hắn vẩu ra, làm tiếng huýt khó khăn chật vật. Hắn quay lại tôi, hỉnh mũi cười.

- Mày thấy không, tao đã bảo, ở cái xứ đất đỏ này mưa dễ ợt mà mày không tin. Tao không bất ngờ tạt qua bến xe thì sức mấy mà gặp được mày. Rồi con ngồi chết dí ở đó mà chờ con ạ.

Hắn vuốt tóc cười xòa, hàm răng lộn xộn từ thuở nhỏ bây giờ vẫn nhơn nhởn như thế . Tôi không nhìn ra dáng thằng bạn ngày xưa nữa. Nước da đen xạm, mắt rợn tia máu với bộ đồ trận tạo cho hắn hình ảnh sẵn sàng sống mái với cuộc đời. Một cô gái da tai tái sà vào lòng hắn, cười đưa chiếc răng vàng.

- Anh Bảy, uống gì đi anh?

Hắn vỗ vào mông cô bé cười tít mắt.

- Thôi mà em, đứng đắn chút coi. Cho anh hai cái whisky-co cho ấm bụng.

Cô bé vuốt lưng Thành cười mơn :

- Làm bộ dữ!. Uống rượu cho nóng máy rồi coi ai đứng đắn cho biết cà.

Cô bé nguýt dài, đi vào quầy. Thành quay sang tôi nói nhỏ.

- Tao là vua các em ở đây đó mậy. Sống nhờ vào da thịt của các em cho qua ngày đoạn tháng mà. Sao độ rày mày làm gì?

- Cũng tà tà cho qua ngày đoạn tháng. Mày vào đây lâu chưa?  Gia đình ra sao?

Thành rút thuốc hút.

- Vào từ thời ông Diệm di dân dinh điền kìa, rồi đi lính và đóng tại đây luôn. Một vợ, hai con. Gia tài có một cái bar do mụ vợ bán, chứa  các em út. Kể thì cũng phong lưu đó mày.

Hắn trả lời tỉnh bơ, coi việc đó chẳng có gì lạ. Tôi im lặng nhấm rượu, hơi coca bốc lên quyện lẫn mùi whisky thơm đậm làm ấm rang. Thành uống thêm hai cái sec nữa, nhìn mông ra ngoài mưa nói nhỏ :

- Tao mới về ngoài mình thăm. Ban ngày tạt vào làng thăm chút, tối ra phố ngủ. Làng mình nát bét rồi. Mày còn nhớ thằng Lưu không hè?

- Phải thằng con mụ Lý ốm nhom đó không?

- Ừ nó đó, hôm tao về thì nó chết được hai ngày rồi. Chết thối bỏ mẹ. Ông già nó bị bên kia bắt vì lầm, bởi lý do lão cứ toang toang cái mồm mong Mỹ ném bom  ngoài bãi cát, để lão lượm vỏ bom về làm soong quánh. Lão là thợ bạc mà mày. Còn thằng Lưu đi dân vệ, tối uống rượu đi cà tàng bị quân ta bắn nhầm quân mình chết. Thiệt là bậy. Còn ông chú nó thì bị đui cặp mắt.

- Lão năm Luông bị đui mắt à?

Hắn hớp một hớp rượu, rít thuốc nhìn chăm bẳm vào cạnh bàn.

- Thối bỏ mẹ. Ngoài mình, độ rày người lớn con nít có tật xe lính Mỹ chạy qua là đứng bên lề đường đưa tay với theo gọi O.K. Bọn nó vãi kẹo, đồ hộp xuống cho,người ta bu nhau mà giành lấy. Số lão Luông vô phúc, cũng ăn quen làm vậy, gặp mấy thằng Mỹ chơi khăm nó đi trên xe liệng xuống một trái lựu đạn cay. Lão tưởng đồ hộp dành chụp lấy ôm vào mình, khói xì làm mù cả cặp mắt. Bọn lính trên xe được một mẻ cười!!

- Khốn nạn, sao không kiện?

- Có chớ, nhưng rồi đâu cũng vào đấy. Thời chiến tranh mà mày còn đặt niềm tin quá nhiều ở luật pháp. Tao thì hết rồi. Mỗi người đều có lý do riêng, và lý do đó càng mạnh hơn nếu có súng.

Tôi nhìn Thành xa lạ. Hắn kêu thêm một ly rượu nữa. Mắt hắn đỏ lừ. Cô gái đem rượu ra, cười tình :

- Anh Bảy uống nhiều rồi nghen. Hai anh đi không em kêu?

- Có món nào thơm không mà mời hoài vậy? Hắn ôm cô gái vào lòng hỏi lè nhè.

- Chỉ bổn cũ soạn lại thôi. Trời mưa không có khách ngồi bói bài rồi ca cải lương hoài cũng buồn. À, nè anh Bảy, con Hồng nó mới đau dậy ngó kháu lắm đó.

- Ôi, thôi lạy cô, tha cho em cái món teo Đại Hàn đó. Bổn cũ soạn lại thì chán ngắt. Thịt dẫu ngon mà nướng đi nướng lại nhiều lần cũng dở phải không mậy? Thành quay sang tôi. Tôi im lặng gật đầu tán đồng. Môi hắn đã hơi mềm, hắn kêu mang cả chai rượu ra tì tì uống.

- Lâu ngày gặp nhau, uống đi mày. Hơn mười năm rồi còn gì. Bỏ mẹ cái phần coca ngọt ngọt đó đi, uống với tao hết nửa chai này. Cha nó, mai kia mốt nọ tao hoặc mày đứa nào còn đứa nào đi. Uống đi mày.

- Mày chỉ nói bậy.

- Ở đây tao thấy chết thường quá mà. Chết lổn ngổn, dễ dàng đến bất cứ lúc nào. Có gì lạ đâu. Uống đi mày.

Rượu bốc nóng rang hai gò má. Mưa nặng hạt thêm, nước màu đỏ quánh chảy tràn bên hiên. Thành chống tay lên bàn, nhìn dòng nước chảy, tiếng nói rời rạc.

- Hồi còn nhỏ vui quá. Cả bọn chỉ có quả  banh lá chuối mà chơi không biết chán. Bây giờ thì bọn bạn bè chúng nó chết hết nhiều rồi. Tao không biết đánh mãi rồi còn ai đâu mà đánh. Ngày xưa tao mơ được nối nghiệp cha tao làm thợ may nhưng bây giờ thì bỏ làng đi lính và chứa điếm. Thật không ngờ phải không mày?

- Chúng mình mới trên hai mươi đã thấy già quá rồi. Người ta còn trẻ khi còn tin vào tương lai, với bọn mình tương lai thực là mù mịt. Chẳng còn tin được gì cả.

Hắn dốc chai rượu lệch bên vành ly, nốc cạn, đầu càng trĩu chúi về phía trước.

- Kệ cha nó ngày mai, nói làm chó gì! Tao có hai đứa con, một đứa sứt môi,một đứa mắt đục như bãi đờm. Người ta bảo tao hoặc vợ bị giang mai. Kệ cha nó, đếch cần. Tao ném nó cho xã hội, cho tương lai của những ngày hậu chiến đó. Tao thì không mong muốn gì cả, đánh thì đánh, giết thì giết. Tất cả như một giấc ngủ. Hắn ôm sát chai rượu vào người, đầu cúi sát xuống. Bên kia đồi nắng quét sáng một vùng, bên này quán lẻ, trời vẫn mưa. Mấy người khách vừa vào quán đi luôn ra sau tấm màn vải. Tiếng đấm nhau thồm thộp. Tiếng cười rúc rích. Đi với em đi anh, trời mưa “gầu” thúi “guột”. Hai trăm thôi.

- Thằng Huân giờ ở đâu rồi Thành? Cái thằng nhỏ có đôi mắt lúc nào cũng như chực khóc.

- Nó bị bên kia bắt khi nó về thăm vợ ở Quảng Ngãi. Nó là lính biệt kích. Nó liều quá, vừa có giấy phép là đi xe đò về thăm vợ và đứa con mới đầy tháng của nó.

- Được thả chưa?

- Nó chết rồi, năm ngoái, chặt đầu với một bản án ghim trên ngực áo. Để lại một vợ, một con. Bây giờ thì vợ nó làm cái công việc thường thức của những đàn bà là nạn nhân chiến tranh “thân thể đàn bà chia làm bốn phần”. Phần nào cũng cần cho cuộc chiến này cả. Khốn nạn !

Tôi rít một hơi thuốc dài, buồn muốn khóc. Những thằng bạn trong làng ngày xưa bây giờ như thế đó sao.Thời gian quá nhanh , mới ngày nào.

- Bây giờ thì có phải chúng ta đã chọn lựa, ở về phía nào và làm gì trong cuộc chiến này ? - Thành nói.

Thành chồm tới nắm lấy tay tôi lắc mạnh ,tóc hắn xòe trên trán nhềm nhệp ướt, môi trề ra.

- Tao không biết nữa, tao nghĩ rằng chúng ta đã một lần vượt qua lằn mức. Đã một lần chọn lựa. Mày biết, mày nhớ đến tấm bia đó không?

- Làm sao tao quên được những ngày thơ ấu đó. Chúng ta đã có một tuổi thơ đẹp, nghèo đói mà đẹp; sợ hãi, khốn cùng mà vui … rồi bất chợt, chúng ta lớn lên, như bầy cừu be be chạy theo cái đuôi con cừu đi trước. Lịch sử nó là trò chơi quái ác của một số người có chủ ý .Tưởng rằng đã quên hết rồi sao ?

Thành buông tay tôi ngồi thẫn thờ nhìn ra ngoài trời. Những điều ray rứt bấy lâu trong tâm hồn tôi bây giờ lại có dịp trồi lên, cày xới. Chuyện tấm bia, một kỷ niệm ấu thơ khép nép nằm sâu kín trong âm thanh cuồng nộ của chiến tranh. Tôi muốn nghĩ đến một cái gì sau những ý nghĩa bình thường đó, để tôi tìm thấy được sự bình an trong cuộc phân tranh này.

Tháng mười năm 1954, lính  quốc gia và Pháp vào tiếp thu vùng tôi ở. Suốt chín năm kháng chiến chúng tôi sống  ngoài vùng bị chiếm,vùng kháng chiến liên-khu V.. Trước khi bộ đội và một số cán bộ đi tập kết , đồng bào được họp lại, từ giã và hứa hẹn ngày về. Tôi và Thành ở trong tiểu đội thiếu nhi liên lạc, tiểu đội có 12 thằng nhỏ từ 10 đến 14 tuổi. Tiểu đội chúng tôi được giao nhiệm vụ giữ tấm bia vôi ở chợ. Tấm bia viết một mặt “ HCM muôn năm”, một mặt “ chuẩn bị tổng phản công ”. Tôi nhớ anh đội trưởng thiếu nhi tối hôm trước họp lại dặn dò :

- Chúng ta đã bao năm tháng chiến đấu nhọc nhằn vì độc lập, vì nhân dân… nay  các em hãy  giữ tấm bia này…

Đã bao năm tuổi thơ, tôi lớn lên và bú mớm cái hình ảnh anh hùng đó. Mấy năm đói kém vồ vập gọt mòn những thân thể gầy nhom, những đôi mắt thao láo. Bốn năm rồi ăn những chạc khoai, nhui nhủi trong hầm như loài bò sát, chúng tôi thèm những bát cơm không ghế sắn khoai, thèm một giấc ngủ yên ắng không rền tiếng pháo kích, tiếng máy bay gầm rú từ phi-trường Đà Nẵng lao vào bắn phá. Chúng tôi gìn giữ tấm bia vôi như giữ niềm tin sót lại của chín năm dật dờ trong bom đạn. Nghe tin nơi nào đó, chiến thắng Điện Biên vang dội, nghe tin quân thù đã thua trận đầu hàng …

Mùa Đông năm Thìn, một cơn bão lạ thổi qua, quần quật suốt mấy ngày đêm. Khi ngớt gió, lá cây xơ xác xám vàng như mùa thu tang tóc tuốt sạch lớp lớp lá xanh. Tiêu điều bao phủ thôn xóm, gió từ ngoài biển thổi thốc vào, theo dòng sông Thu chạy dài lên hòn đá Dựng. Một mùa xuân tê tái lịm buồn trong lớp lớp người như ngầy ngật để  sống, uể oải trong cuộc chiến không cân sức. Từ sáng đến tối, từng đoàn máy bay đảo vòng; tiếng kẻng báo động liên tục, tới tấp, rồi chui xuống hầm, rồi nằm bẹp dí nghe rền vang bom đạn .Hình ảnh lù lù như thần chết của chiếc máy bay 5 động cơ màu đen xám  bay rà trên quốc lộ xả liên thanh bất cứ một cử động nào của người hay thú vật… Chỉ trên mười tuổi, tôi đã thấy xác chết banh ra vì máy bay Pháp bắn xả xuống làng, tôi đã thấy mấy người làng chết đói khạc ra máu vì nuốt bông cỏ và trái mắm  trong mùa hè năm 53… Những con bò xiêu vẹo đổ gục ở cổng làng vì bệnh và đói, đám người cầm rổ rá thao láo ngồi vây quanh con bò da bọc xương đang thoi thóp, chờ xả thịt chia phần … Tôi đã thấy cha tôi, da bọc xương trong bộ đồ vải màu chàm, ngồi sau gốc cây mít khóc run bần bật sau khi đi hốt xác ông nôi và các cô tan tác vì một trái bom na-pan máy bay giặc thả trên nóc hầm … Tôi đã thấy mẹ tôi quầy quả gánh lá chè khô đi chân trần trên đường cát cháy bỏng, vừa đi vừa chạy lúp xúp tìm đám cỏ khô nhảy lên tránh cát  nóng rát ,tay cầm miếng mo cau khô chưa kịp thả xuống tránh cát nóng.

Khốn khổ và căm thù cày xới tuổi thơ chúng tôi biết bao nhiêu khi đón chờ những đoàn quân tiếp thu ồ ạt kéo vào làng. Lần đầu tiên trên đời chúng tôi thấy chiếc xe hơi, thấy lon sữa, thấy ổ bánh mì, thấy hạt gạo trắng xay máy. Chúng tôi 12 đứa, thằng Lưu làm tiểu đội trưởng - 14 tuổi - thằng Thành là phó. Tất cả đều bận quần ngắn, áo cụt vải ta đen (một thứ vải nội hóa), rách bươm ra. Áo bỏ trong quần, một dây chuối cột ngang đeo một cái mỏ tre, tay cầm gậy ngắn.

Cả tiểu đội ngồi xoay tròn quanh tấm bia vôi, bảo vệ “đến hơi thở cuối cùng”. Tay cầm chắc cây gậy, chúng tôi trố mắt nhìn những người lính Pháp, Việt. Tôi thấy lạnh người, hình ảnh những thằng Pháp hiếp dâm, mổ bụng được nghe anh thông tin xã nói mỗi tối đã mấy năm rồi, hình ảnh những khối sắt gầm rú trên bầu trời lao xuống trong biển lửa bom na-pan, với những tiếng nổ chát chúa! Trước mắt mấy thằng bé chúng tôi là những ông Tây bằng xương thịt, tay chân tôi run lẩy bẩy, hai răng cứ cầm cập, độp vào nhau.

Lính đến vây quanh tấm bia, dân làng kéo nhau đứng quanh nhìn. Tôi thoáng thấy bóng anh đội trưởng thiếu nhi đang bồng con đứng lẫn trong dân chúng, vài anh du kích bồng con đứng nhìn, im lặng. Tôi lắm lét nhìn qua thằng Lưu, thằng Thành, thằng Huân. Thành nắm lấy tay tôi nói nhỏ: đừng sợ mày. Thằng Huân, con ông thợ Thiết, nhỏ nhất, mới chín tuổi, run anh ách bên tôi, nước mắt chảy dài trên má. Thằng Lưu lấy tinh thần hô lớn câu khẩu hiệu “HCM muôn năm”! Mười hai thằng bé lại hô to, rồi im thin thít ngồi chờ. Mấy người lính chỉ trỏ cười và chửi tục. Một anh lính trẻ đến gần chúng tôi:

- Các em đứng dậy cho các anh quét tấm bia này, viết câu khẩu hiệu khác. Cái này không hợp nữa, bây giờ chính phủ quốc gia đến với đồng bào…

Thằng Lưu hô lớn khẩu hiệu. Chúng tôi hô theo. Mười hai đứa nhất định không đứng dậy. Đồng bào đứng quanh bàn ra tán vào. Ông Sáu Chột nói vô:

- Các ông định giết lũ trẻ sao! Chúng nó có tinh thần mà.

- Tinh thần gì – một ông Trung úy hét lớn – Bọn người lớn trốn nhủi đi đâu, chúng nó trẻ dại biết gì mà xúi. Vào tuổi  này ở phố chúng nó đánh bi, đi ciné, đi học. Các người đánh thí chúng nó à? Chúng nó biết gì. Khốn nạn! Tất cả đồng bào hãy dang ra, ai về nhà nấy. Đừng cố ý gây những cuộc đổ máu như ở Thăng Bình, Duy Xuyên vì những tấm bia đá vôi này. Về hết đi!

Dân  lục tục kéo nhau về, chỉ còn mấy thằng nhỏ gầy nhom ngồi chặn quanh tấm bia, đám lính áo quần rằn ri súng lăm lăm vây quanh. Thằng Lưu lại hô lớn khẩu hiệu. Chúng tôi lại hô theo. Thằng Huân sợ quá mếu máo khóc. Ông Trung úy cho lính dang ra nói nhỏ nhẹ:

- Các em nghe tôi, nếu các em không ra tôi cho lính vào kéo ra.

- Các ông vào chúng tôi cắn lưỡi chết ngay, bọn tôi dùng gậy đánh. Bọn tôi không sợ đâu! – thằng Lưu nói. Ông ái ngại nhìn chúng tôi, những người lính đứng nới rộng vòng quanh, họ ngồi xuống trí súng vào bia vôi. Thằng Huân khóc rưng rức nắm áo tôi kéo: Tao sợ quá, họ bắn rồi. Tim tôi đập mạnh, liếc nhìn thằng Lưu. Nó hô lớn khẩu hiệu. Chúng tôi đưa tay lên cao hô lớn để trấn an tinh thần. Một ông Thượng sĩ đứng bên Trung úy:

- Bắn vài loạt lên bia là chúng hoảng ngay, để khẩu hiệu đó chướng mắt lắm.

- Từ từ đừng bạo động! Chúng còn bé có biết gì.

Họ im lặng ngồi vây quanh chúng tôi. Nắng trưa chói chang trên những chiếc mũ sắt. Chúng tôi vẫn thỉnh thoảng hô khẩu hiệu và im lặng chờ đợi. Gió nồm sông Thu mát rượi thổi lùa vào. Ông Trung úy nhỏ nhẹ:

- Các em dại lắm, các em chỉ biết tấm bia này, hàng chữ này, còn không được biết những thay đổi nào khác. Tôi không muốn các em chết một cách dại dột như vậy. Hãy nghe lời anh đứng dậy đi. Trưa rồi các em cũng đói bụng rồi.

Tôi nhìn mấy thằng bạn ngồi im, thằng Lưu vẫn ương ngạnh hô khẩu hiệu. Ông Trung úy cho lính đem hộp thịt và bánh mì ra ăn trước mắt chúng tôi. Đã mấy năm rồi chúng tôi làm gì thấy bóng dáng miếng thịt hộp, ngửi thấy mùi thịt thơm. Họ im lặng mở hộp thịt pa-tê màu xám ra, lấy bánh mì quét vào và chầm chậm nhai nhìn chúng tôi. Tôi nuốt ực nước bọt, thằng Huân nhướng mắt lên nhìn, nuốt ừng ực và nói nhỏ: ngon quá mày ơi. Gió sông hắt lên, mùi thịt thơm phưng phức lùa vào, chúng tôi mười hai cánh mũi hích lên phập phồng thở. Thằng Lưu trố mắt nhìn, nuốt nước miếng đánh ực, rồi như thức tỉnh hô lớn mấy câu khẩu hiệu. Chúng tôi hô theo, mắt vẫn nhìn, nước miếng đầy mồm nuốt tuột. Ông Trung úy cười hiền nói nhỏ:

- Bây giờ thì cho các em chọn lựa, bỏ gậy xuống rời khỏi bia vôi ra đây anh sẽ cho một hộp thịt, một ổ bánh mì và một gói kẹo. Tùy đó.

Hộp thịt mở sẵn vàng ươm ra, miếng bánh mì sem sém để bên cạnh. Chúng tôi run lên bần bật. Gió càng thổi vào, sự thèm muốn của đói khát càng chồm lên cao. Trời trưa nắng gay, bụng đói cồn cào, miếng ăn trước mắt làm mắt tôi hoa lên tay chân run lập cập. Tôi quay lại nhìn mấy thằng bạn, mười hai cặp mắt trơ tráo nhìn, im lặng không nói trong phấn đấu mãnh liệt. Thằng Lưu lớn tiếng hô khẩu hiệu, tiếng hô rớt vào mỏi mệt, mười hai cánh tay đưa lên yếu ớt. Ông Trung úy lắc đầu cười:

- Em nào đứng dậy ra đây nói “em theo quốc gia” thì lãnh thịt bánh ăn. Các em dại quá, tuổi các em là tuổi ăn chơi, có biết gì đâu nào. Thôi bò ra đây đi, anh đưa bánh đưa thịt cho các em ăn.

Mười hai thằng vẫn ngồi im. Mười hai bộ xương sườn trồi ra hỏm vào theo nhịp thở và sự thèm khát. Tôi không còn nuốt nước bọt được nữa, cổ như khan đi và nhún lên xuống đều đặn đợi chờ. Thằng Huân kéo tay tôi, đôi mắt tròn xoe rơm rớm nước mắt. Tội nghiệp thằng bé nó nhỏ quá. Miệng nó mếu xệch, nó bỏ cây gậy xuống và lồm cồm bò ra, vừa khóc vừa nói:

- Em theo mấy anh, em xin theo quốc gia, em đói quá!

- Giỏi nào, có thế chứ!

Nó chụp hộp thịt, tay run bần bật không kịp xé bánh mì quét thịt. Hắn vốc cả tay vào hộp và ngồm ngoàm cho vào miệng. Cách ăn của nó càng khêu gợi chúng tôi hơn, cả bọn lại thi nhau nuốt ừng ực. Thằng Lưu gằn giọng “đồ phản động” và hắn hô lớn khẩu hiệu. Tiếng hô cả bọn lúng búng trong cổ họng, nước bọt thi nhau tuôn trào. Ăn một hơi no xong, thằng Huân lấm lét nhìn chúng tôi, nó khóc hu hu ôm ổ bánh mì chạy. Mấy phút sau thêm năm thằng nữa bỏ cuộc.

Thằng Lưu quay sang tôi và Thành:

- Thôi mày, bọn mình theo quốc gia đi!!

Chỉ chờ có thế, cả bọn bỏ gậy lồm cồm bò ra, run giọng: “em theo quốc gia” và vốc từng cục thịt hộp ngốn ngáo trong miệng. Miếng ăn hưởng được của mười năm chui rúc đói khổ, miếng ăn của ô nhục, của đầu hàng số phận. Ăn xong cả bọn xấu hổ không dám nhìn nhau, đứa nào chạy về nhà đứa nấy.

Tôi ngủ mãi đến chiều ra đứng góc chợ đã thấy tấm bia quét vôi trắng, kẻ chữ mới với hai câu khẩu hiệu khác “Quốc Trưởng Bảo Đại muôn năm” và “Đả đảo Cộng Sản”.

Những ngày tháng trôi qua,cùng với tuổi tác,  tôi sống lăn lộn khắp nơi, nhưng kỷ niệm ngày mười tuổi không bao giờ phai mờ được. Câu “em theo quốc gia” ám ảnh tôi mãi. Đến hôm nay, nghe cái chết của thằng bé Huân, thằng Lưu và mấy đứa khác, tôi tê điếng cả người. Trước khi gục ngã có bao giờ chúng nghĩ đến tấm bia ngày nào không?

Phải chăng chúng ta ở bên này hay bên kia là từ ngày ấy!? Hộp thịt, ổ bánh, hình ảnh phè phỡn kia chắc chắn không phải là lý do để đẩy một đám người về một góc lịch sử trớ trêu. Phải còn là một cái gì khác! Phải có một cái gì khác!! Cái ấy là gì đây, nó là gì để mà cả thế hệ tuổi trẻ vùi đầu cắn xé nhau trong bể tang thương này. Những thèm khác đói khổ ngày ấy chỉ là gánh nặng quá sức với tuổi thơ, điều kiện thúc đẩy chứ không phải là một chọn lựa có ý thức. Cả một thế hệ tất tả trong cơn lốc xoáy của lịch sử, bên tả, bên hữu, bên có, bên không … bầy trẻ nhỏ dại ngày nào mang cả một cuộc đời hiu hắt, thèm sống bình an, thèm đi học, thèm ước mơ được sống như một người chính trực trên mảnh đất quê mình. Còn mơ ước nào lớn hơn đứng ngoài cơn lốc xoáy đó! Mỗi đứa, không có cơ hội và cũng không bao giờ được chọn lựa một phía nào, bỗng chợt thành kẻ phản quốc, kẻ bán nước, hay chợt thành anh hùng, thành người yêu nước. Bèo dạt cả thôi sao?

Tôi tợp một hớp rượu cháy bỏng cổ, nhìn ra trũng nước màu đỏ quánh bên vệ đường.

- Tao không thể nào quên được giọng nói run run của thằng Huân “em theo các anh”. Tao không quên đôi mắt nó nhem nhép nước, vốc cả bàn tay vào lon thịt, ngoàm ngoàm nuốt chửng, thịt pa-tê vươn vãi trên khuôn mặt trẻ thơ hốc hác, ốm đói. Và thằng Huân tội nghiệp đó hôm nay bị chặt đầu vì là kẻ thù, kẻ phản quốc, kẻ dám về làng thăm lại đứa con đỏ hỏn ngày đầy tháng!! Nó mơ ước gì hả mày? Mày nói tao nghe đi! – Nó được chọn lựa gì? – Nó thèm sống, thèm bình yên ,bồng con thơ đứng bên bờ ruộng lúa, nghe gió sông Thu vời vợi chảy trên cánh đồng lúa con gái …

Mặt Thành cau lại, năm ngón tay xóc vào mái tóc ghì mạnh:

- Đã bao nhiêu năm tháng qua, rồi cũng sẽ qua. Tao, mày có thể còn hay mất trong cuộc tương tàn như trên bàn cờ mà người đánh cờ ở xa nơi nào. Đã bao năm rồi … những khổ nhục như những vết hằn trên da thịt, tưởng rằng đã quên … Tưởng rằng tụi mình đã quên đi rồi!. Lũ chúng ta không có tuổi thơ, sinh ra và lớn lên trong các đợt chiến tranh  của các phe phái khác nhau, chín năm sợ hãi chui rúc trốn đạn bom, đói khát, căm thù … Cực độ căm thù khi nghe tiếng gầm thét của   máy bay, đạn pháo cày xới , khi chứng kiến những người thân yêu gục ngã. Chúng ta học hành nhếch nhác, không căn bản vì thất thểu chạy tản cư, vì đói, vì gia đình ly tán … Chỉ được dạy căm thù giặc xâm lược, căm thù Ông Lý, Ông Bá trong làng, và dạy có một giấc mơ xa vời trong tương lai! Và rồi tất cả các người dẫn dắt đó ra đi, bỗng dưng hẫng không, bỗng dưng bị bỏ lại … Rồi một bài học căm thù khác, một cách dạy dỗ khác với một giấc mơ khác !!! Không còn thất thểu vì đói khổ áo cơm thì nay ngơ ngác vì đói thiếu một tình quê hương rơm rạ ủ nồng ,thiếu đi một lí tưởng chiến đấu, rồi những người dẫn dắt tuổi thơ ngày xưa trở lại thành kẻ thù của chúng ta, kẻ lên án chúng ta bán nước! Rồi mất hết, sạch trơn, lịch sử lùa bầy sinh linh đó qua nơi này, nơi khác, không có quyền chọn lựa, không theo ngoài phố thì phải theo trong rừng. Cái cây roi định mệnh lùa bầy cừu vào đâu thì đành be be gánh chịu số phận mình tới  đó . Có tài giỏi gì, có kiêu hãnh gì đâu! Vinh danh hay khổ nhục chỉ là trò đùa của lịch sử. Chúng ta đã sống thế nào? Rồi chúng ta sẽ sống ra sao? Ai thắng, ai bại … Cái bầy cừu này lại be be gánh chịu một số phận mới! Tất cả quá khứ của một cuộc đời sẽ lại xóa sạch, không thương tiếc …Quê hương mình bao năm qua triền miên trong chiến tranh: đánh Tàu, đánh Tây, đánh Nhật, đánh Mỹ và liên tục đánh nhau giữa phe này phe khác… Người dân như bầy cừu ngơ ngơ ngác ngác, bị thời cuộc lùa chạy ào ào qua từng cảnh ngộ. Mấy ai làm chủ được bản thân mình, mấy ai có quyền chọn lựa mình muốn sống ra sao. Mày thấy đó, thời nào cũng là thời của con người với những nỗ lực, sống cũng có văn hóa, lịch sử, giáo dục, học thuật…đâu phải chỉ có thời của người thắng là có, những gì trước đó là số không. Rồi chợt một sáng mai thức dậy, khi cuộc tương tàn chấm dứt, thì cả một đám đông trở thành một con số không to tướng, sống vật vờ. Mày xem, cái đám đông đó là gì nào? Nó có lịch sử, có văn hóa, có một nền giáo dục không? Nó có thể còn có gì tốt đẹp để từ đó lấy làm khởi điểm để đi lên hay không, hay là ta phủ nhận hết vì những gì không phải là của ta, khác ta là của kẻ địch, là xấu… Khinh chê hết, tất cả là nền vải trắng và mặc sức vẽ gì trên ấy thì vẽ. Đã bao năm rồi, và với cách xử sự này, sự việc còn tiếp diễn dài dài: cả nguồn năng lượng của dân tộc chỉ dồn cả cho việc thắng thua, được mất của từng phe phái: thế thì còn năng lượng đâu mà phát triển để chen chân với bốn bể năm châu? Vậy nên, để tồn tại được, mày hãy quên hết mày là gì, mày đã được học hỏi gì, mày có khả năng gì, nếu mày không có được cơ may có chút liên hệ gì để tỏ ra mày thuộc về những người đang nắm vận mệnh lịch sử!! Biết bao nhiêu điều, tao tưởng rằng đã quên …

Nói một thôi dài, Thành bĩu môi im lặng. Tôi muốn ôm hắn vào vòng tay cho đỡ khổ. Tại sao lũ chúng tôi khốn khổ như thế này? Tại sao chúng tôi lạc lõng, không có một chỗ đứng, có phải cứ mãi “ be be ”  chạy nối đuôi trong một trò sắp đặt? Chúng tôi đã có một thời ấu thơ đói kém, nghèo nàn mà sao hạnh phúc biết bao, dù chỉ là một chút hào hùng con trẻ nhưng đầy tự tin và kiêu hãnh. Nay thì, chúng tôi không còn quê hương, không có một ý nghĩa gì cả sao? Tương lai thì hứa hẹn một bộ xương khô nơi xó rừng già, không biết mình chiến đấu để được gì, để bảo vệ gì, chỉ biết chắc mình chiến đấu để tránh né một cái gì. Thành dốc cạn rượu vào ly, nốc cạn. Gió chiều trên miền cao nguyên đất đỏ buồn nằng nặng, mây xám từ từ xuống sát chân đồi.

- Mày tính sao đây? - Tôi hỏi nhỏ.

Mắt hắn long lên tay nắm chặt. Rồi năm ngón tay buông ra, hắn nhìn ra cửa nói thầm nhẹ như gió luồn qua cửa:

- Tao chẳng có hy vọng gì nhiều, tao luôn ước được buông súng nghỉ ngơi. Nếu bình yên, nếu tao không chết ở một xó rừng nào, tao dẫn vợ và hai đứa con tật nguyền về quê cày ruộng. Tao thì chỉ có thế. Tao mong được bình yên về làng… Chán lắm rồi…

Hắn gục xuống bàn, hai vai run lên, mũi hít khìn khịt. Tôi kêu thêm một ly rượu, ngồi yên nhìn dòng nước đỏ quánh như máu chảy tràn ra, miệng lầm bầm.

-Tưởng rằng đã quên …

Bố Tôi

Lưu An

Có lẽ tuổi ấu thơ của tôi là một chuỗi dài của khổ cực và đầy bất hạnh. Sinh ra từ một gia đình nghèo, rất nghèo ở một làng nhỏ của tỉnh Nam Định miền Bắc Việt Nam. Ba mẹ tôi dù xuất thân từ những gia đình khá giả trong làng nhưng là con thứ cho nên bị những quan niệm cổ hủ bất công, truyền kiếp của xã hội cũng chẳng nhận được gì từ tổ tiên để lại, ngoài một ngôi nhà lá lụp xụp ở một góc vườn.

Đã thế thời gian mà tôi được sinh ra là một thời kỳ nhiễu nhương trong lịch sử nước nhà. Loạn ly, chém giết, bom đạn, thanh toán nhau giữ các đảng phái chính trị... cuối cùng người dân đen phải gánh chịu những tang thương khốn khổ mà thôi. Tuổi thơ của tôi là những ngày chạy loạn, là những lần chui rúc trong hầm '' chữ chi '' ướt sũng để tránh bom. Ban ngày thì quốc gia, tây đen, tây trắng bố ruồng, bắn giết. Ban đêm thì khổ sở với những xách nhiễu, đe dọa của Việt Minh trong hận thù giai cấp, hy sinh cho cách mạng...

Trong trạng huống bi đát, chết chóc và kinh sợ đó, gia đình tôi phải tản cư lánh nạn. Lúc ra Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, lúc tạm trú các vùng Công Giáo Bùi Chu, Phát Diệm, có những lúc tưởng rằng yên bình, gia đình tôi lại trở về làng, nhưng rồi lại khăn gói ra đi !

Nơi đâu cũng vậy, không có một đồng bạc dính túi, văn hóa gần như vô học, không nghề nghiệp chuyên môn... Tất cả những khiếm khuyết đó, ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng... bố mẹ tôi làm sao thoát được thân phận của những người cùng đinh trong xã hội với những công việc thấp hèn, hạ tiện được ?! Cuộc sống nghèo khổ, việc học hành của chúng tôi dù có muốn cũng chẳng có dịp để nói tới! Cho mãi đến khi lên 8 tuổi tôi mới được học vần ABC đầu tiên, nhưng cũng chỉ được vài tháng rồi theo đoàn di cư vào Nam năm 1954.

Vào Nam gia đình tôi vẫn nghèo khổ, bố mẹ tôi vẫn những công việc hạ tiện của người vô học. Trong khoảng hơn một năm đầu tiên sau ngày vào Nam anh em chúng tôi cũng chẳng có dịp đến trường. Sau đó khi đời sống đã tạm yên ổn việc học của chúng tôi đã được chú ý với sự hy sinh tuyệt đối của bố mẹ tôi trong hoàn cảnh nghèo đói thiếu thốn của gia đình. Có lẽ nhìn những hy sinh, sự chịu đựng và nhất là hình ảnh bố mẹ kém học, làm ăn cực nhọc, tôi đã lớn khôn rất mau so với những bạn bè cùng lứa tuổi. Tôi biết lo lắng, làm việc giúp đỡ bố mẹ, biết đau khổ, nhục nhã với những câu nói qúa lời, những ánh mắt khinh rẻ của những kẻ quyền hành, thô bạo! Dù ở cái tuổi vẫn còn ham chơi đánh đáo, bắn bi đó tôi đã có khá nhiều ước mơ, những giấc mơ đó có thể rất đơn gỉan đối với những người bạn giầu có của tôi, nhưng với tôi nó thật là vĩ đại. Tôi mơ bố mẹ tôi bớt cực nhọc vì sinh nhai, lũ em đông đảo của tôi được học hành đến nơi đến chốn, những bữa cơm hàng ngày và những điều kiện vật chất trong cuộc sống được đầy đủ như những gian đình bình thường khác.

Cùng với sự hiểu biết qúa sớm vì nghèo khổ đó, tôi quyết chí và cố gắng vươn lên. Nhờ vậy tôi đã đã kéo gia đình dần dần thoát khỏi bóng tối của xã hội. Các em tôi đã được đi học trong điều kiện khá tốt, bữa cơm hàng ngày cũng đã đầy đủ hơn, nhưng bố mẹ tôi vẫn còn cực nhọc. Cho đến khi tôi tạo lập được một cơ sở làm ăn nho nhỏ nhờ có khả năng trong ngành học của mình, rồi lại được đi ngoại quốc tu nghiệp vào đầu năm 1974 lúc đó bố mẹ tôi mới thực sự thoải mái.

Trong khi những người công chức đi tu nghiệp dài hạn như tôi, họ thường để tiền lương của họ lại cho vợ con họ hay cho chính họ (ngân hàng ở trong nước hay ngoại quốc), còn tôi để lại cho mẹ tôi. Trong một lần, khi tôi còn học ở Nhật bản, em gái tôi cho biết, mỗi đầu tháng mẹ tôi đều dành lấy sự hân hạnh và sung sướng lên văn phòng đại diện của Đại học Cần Thơ ở Sàigòn để nhận mấy chục ngàn đồng lương của tôi. Mẹ tôi mang xấp tiền về nhà nguyên vẹn với tất cả sự cảm động, bà giở từng đồng tiền ngắm nghía, vuốt ve. Có khi mẹ tôi chẩy nước mắt vì tưởng tượng và cảm động với đồng tiền đầu tiên mà tôi đã ngạo nghễ để lại cho mẹ tôi, dấu hiệu của sự thành công và ân tình của đứa con đầu đàn mà bà đã vun xới bằng những giọt mồ hôi và nhục nhã gần suốt cuộc đời của bà. Mẹ tôi nói vớ lũ em tôi, bà không muốn tiêu đồng tiền ân nghĩa đó vào những chuyện không đâu, với bà nó không chỉ có gía trị vật chất mà còn chứa đựng biết bao nhiêu gía trị tinh thần của những cực nhọc, hy sinh và đợi chờ mà mẹ tôi đã gửi gấm cho tôi, đứa con đầu lòng.

Nhưng sự trả nghĩa của tôi cho mẹ tôi không được lâu. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 xẩy đến, tất cả đã chấm dứt. Gia đình tôi lại rơi vào khổ ải cùng với hàng triệu người dân miền Nam khác. Lại ăn độn, lại sống với những lo sợ như ngày xưa. Nhưng cái đau khổ nhất của tôi là đầu năm 1980, khi đó tôi vẫn còn vướng mắc với bao nhiêu bấp bênh của cuộc sống của chính mình, thêm vào đó những cưu mang gần như vô tận của tôi cho những dại khờ của bố tôi và những lần vượt biên không trót lọt của lũ em tôi... Mẹ tôi mất vì buồn lo cho những đứa con trong thời điểm mà những sự kinh dị xẩy ra hàng ngày đó.

Tôi lịm người đau đớn khi nghe tin mẹ tôi mất. Công nghĩa sinh thành, nuôi dưỡng qúa to lớn của mẹ tôi chưa được bù đắp, ngoài số tiền lương ít ỏi của một năm đầu tiên khi tôi ra ngoại quốc tu nghiệp mà thôi.

Bố tôi vẫn ở vậy với lũ con đông dù mới 55 tuổi. Lúc đó vì bận rộn với thời thế, sinh nhai tôi không thể hình dung được thế nào là ý nghĩa hai chữ '' cô đơn '' của bố tôi. Cho đến khi tôi có vợ con, tuổi tôi cũng xấp xỉ bố tôi khi mẹ tôi mất. Nhất là khi bố tôi sang thăm gia đình tôi tại Thụy Sĩ vào năm 1992, tôi mới nhìn rõ và thông hiểu hình ảnh của một ông bố đơn độc.

Bố tôi một người nhà quê đúng nghĩa, một người thấp học qúa rõ ràng. Dù bố tôi đã sống và làm việc cả hơn 50 năm trời ở tỉnh thành, nhưng ông vẫn không thể nào bỏ được cái bản tánh chất phác, dễ tin gần như dại khờ mà ông đã mang theo từ khi rời làng quê. Hầu hết những bạn bè thân thiết và gia đình họ cũng như người quen với gia đình tôi đều thương mến và kính trọng bố tôi vì tánh qúa chất phác, ngay ngắn của ông.

Nhiều khi bực bội vì bị mất mát, thua lỗ chỉ vì sự khù khờ, dễ dàng và thương người qúa mức của người bố quê mùa, anh em chúng tôi thường càu nhàu với ông hay than phiền với vài người quen biết. Nhiều người an ủi chúng tôi với những câu nói mà đôi khi nó chẳng còn ý nghĩa gì với tôi nữa, như '' ở hiền gặp lành '' hay '' Phúc đức để lại cho con '' v.v...

Tuy nhiên, sau mấy mươi năm vào đời, thấy những đổi thay ngỡ ngàng của nhân thế. Chứng kiến bao nhiêu cảnh cười ra nước mắt xẩy ra hàng ngày chung quanh mình. Biết bao nhiêu cặp vợ chồng tan vỡ chỉ vì những phù phiếm vu vơ dù đã mấy mươi năm thân kề má ấp. Những con người thông thái, sang trọng, bằng cấp đầy người, những người mang dáng dấp, ngôn ngữ của thánh thiện, bao dung... họ cũng vẫn bị lôi kéo vào những bả của vật chất, dollars với những hành vi đốn mạt.

Tất cả những hoạt cảnh ngỡ ngàng đó đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều về những hành động và ứng xử của người bố quê mùa, kém học của mình. Nguời bố mà cả đời phải làm những công việc hạ tiện của kẻ cùng đinh trong xã hội để kiếm tiền nuôi chúng tôi ăn học. Tôi tự hỏi những ngôn ngữ văn hoa, những tấm bằng thật to, dáng dấp sang trọng... có thật sự biểu lộ cho con người ta hai chữ tự trọng và đạo đức hay không ? Tôi xin nêu ra đây vài dữ kiện của bố tôi trong khoảng thời gian vẩn đục của xã hội vừa qua, như để vinh danh nghĩa sinh thành của bố tôi và cũng để suy ngẫm về tình đời, nhân thế.

Tôi không biết trong một dịp nào trước năm 1975 gia đình tôi quen sơ sài với một người Tầu, có vợ Việt. Vợ chồng anh ta có một tiệm làm kim hoàn nho nhỏ ở ngã ba Bà Quẹo, không xa với gia đình tôi. Tôi cũng không biết tên của vợ chồng họ, nhưng bố mẹ và lũ em tôi thường gọi họ là chú '' Tầu Vàng ''. Ngày còn sống ở trong nước, tôi gần như rất ít có dịp gặp mặt và nói chuyện với vợ chồng họ, vì bận rộn công việc làm ăn và học hành.

Rồi ngày 30 tháng 4 năm 75 xẩy đến, sự nghèo khó và lo sợ đến với tất cả những người ở miền Nam. Tiệm làm kim hoàn của chú Tàu vàng dĩ nhiên cũng rơi vào những khó khăn vì những phong trào '' đánh tư sản, mại bản '' trong những năm đầu tiên sau năm 1975.

Gia đình tôi, lúc đó cũng ''sấc bấy sang bang'' với thời thế, nghèo đói và nợ nần vì những cuộc vượt biên của mấy đứa em tôi bất thành. Tôi ở ngoại quốc cứ chúi muĩ làm việc kiếm tiền gửi về lo trả nợ với đủ mọi hình thức và dưới bất cứ phương thức, điều kiện nào mà người chủ nợ yêu cầu. Bố mẹ tôi ở nhà lợi dụng có tí đất cát, lo việc trồng rau bán buôn lấy tiền độ nhật.

Hình như vào khoảng năm 1977( ?) lần đổi tiền và đánh tư sản lần thứ 2. Chiều tối hôm đó, như thường lệ bố tôi đi xe đạp với một thúng rau cỏ đem đến tận nhà những ngưòi quen để bán. Đến nhà chú Tàu sau khi đưa rau cho vợ chồng chú ta, bố tôi đang ngồi nói chuyện với họ, bất chợt có một người từ ngõ ngách phía sau nhà hốt hoảng chạy vào cho biết khu vực đang bị vây để đánh tư sản! Vợ chồng chú Tầu tái mặt, luống cuống chẳng biết xoay trở ra sao! Họ cũng chẳng để ý đến sự có mặt của bố tôi, vội vã dở tấm ván, mặt của chiếc giường lên, kéo ra một bịch khá nặng, đưa mắt nhìn lung tung trong nhà như để tìm chỗ cất dấu !

Bố tôi nhìn thấy vẻ cuống cuồng của hai vợ chồng họ, không biết nghĩ sao bố tôi nói :

- Chú đưa đây cho tôi giữ cho, không thể nào dấu chúng nó được đâu, dù có chôn xuống đất cũng mất !

Nghe bố tôi nói, chú ta nhìn bố tôi, nhìn người vợ với ánh mắt lưỡng lự, dò hỏi. Người vợ lúc đó cũng chẳng có thái độ gì ngoài việc đứng trơ vơ, run rẩy với nét mặt tái xanh. Nhìn thấy sự lưỡng lự, không tin tưởng và nhất là thời gian qúa cấp bách, bố tôi nói thêm :

- Cứ đưa cho tôi giữ cho, nếu thoát được tôi sẽ mang trả lại đàng hoàng, đừng lo. Mau lên, kẻo chậm !

Hình như thấy không còn đường nào hơn, chú ta run run đưa bịch vàng khá nặng cho bố tôi và nói :

- Ông Hai giữ hộ con, con tin tưởng nơi ông đó, đừng lừa đảo vợ chồng con tội nghiệp !

Bố tôi nói với vợ chồng chú ta vài câu rồi lèn bịch vàng dưới đáy chiếc thúng, để những bó rau lên phía trên, cột chặt vào đằng sau chiếc xe đạp. Để tránh sự nghi ngờ, khi vừa ra khỏi cửa căn nhà bố tôi làm bộ đập cửa những nhà bên cạnh kêu to, mời gọi họ mua rau. Mấy người công an đổ ập đến quát hỏi bố tôi với ánh mắt nghi ngờ :

- Ông làm gì ở đây, kêu gọi ai ồn ào thế ?

Đúng lúc đó có người công an phường trưởng, anh ta ở gần nhà tôi, vợ anh ta thường sang nhà tôi mua rau và khá quen biết với bố tôi. Anh ta nhìn bố tôi và hỏi :

- Ông Hai, làm gì ở đây vậy? Về nhà đi, bán buôn gì hôm nay! Không ai mua đâu !

- Anh Mừng đó hả? Tôi đang đi bán rau. Anh nói chị sang nhà tôi lấy một ít xu hào, bà nhà tôi vừa cắt xong, còn tươi và rất non không có xớ !...

Tiếp theo là những câu chuyện vội vã, bâng quơ, kết qủa chiếc thúng rau không bị khám xét, bố tôi bình thản đạp xe ra khỏi khu vực về nhà an toàn với bịch vàng khá lớn.

Mang vàng về nhà, bố tôi im lặng không nói với bất cứ ai, kể cả mẹ và lũ em tôi. Ông giả bộ mang cuốc xẻng ra vườn cùng với thúng rau nặng chịch, lẳng lặng đào một cái hố bỏ bịch vàng xuống chôn theo cùng với cỏ rác và rau úa. Bố tôi làm như vậy để phòng trường hợp không may, vì một sơ hở nào đó, công an nghi ngờ đến nhà khám xét. Họ sẽ không thể ngờ được chỗ chôn dấu rất đơn sơ nhưng kín đáo đó được. Sau khi xong xuôi đâu đó bố tôi làm như không có gì xẩy ra, lại chở thúng rau mới đi bán buôn bình thường.

Vài ngày sau, sau khi sự căng thẳng đã tạm qua, bố tôi đến nhà chú Tàu cho biết mọi điều an toàn và có ý muốn mang lại trả cho họ. Vợ chồng chú Tầu vẫn chưa hết kinh hoàng khi nhìn thấy những miếng gạch ở nền nhà bị đào xới chưa được thu dọn, những ngóc ngách bị khoét thủng trong vách tường vẫn còn hở hang! Tuy nhiên họ nghe bố tôi nói họ mừng rỡ và rất cảm động nói với bố tôi :

- Ông Hai cứ giữ lấy hộ chúng con, chờ vài ngày sau yên ổn con sẽ lấy.

Vài ngày sau, bố tôi mang bịch vàng lại cho họ, không một dấu tích tò mò, mất mát. Tất cả còn nguyên vẹn như lúc hai vợ chồng họ đưa cho bố tôi. Vợ chồng họ ngẩn ngơ cảm động, vì sự thật thà của bố tôi. Họ hiểu rõ lúc đó gia đình tôi còn đang thiếu nợ vì những vụ vượt biên thất bại của mấy đứa em tôi. Họ nhìn nhau hội ý rồi người chồng lấy ra một ít đưa tận tay bố tôi cùng với những lời cảm ơn rất chân thành. Nhưng bố tôi đẩy tay họ và nói :

- Tôi làm sao mà lấy của chú thím được, nó còn ý nghĩa gì khi tôi giúp đỡ chú thím trong lúc cấp bách đó nữa !? ''

Rồi từ ngày đó, gia đình tôi có thêm một người bạn chân thành. Bất cứ những ngày giỗ tết, những dịp cúng vái, nhất là ngày mẹ tôi mất cũng như hàng năm ngày giỗ kỵ mẹ tôi, chú thím Tầu luôn luôn là người tham dự với những món qùa viếng tặng rất nặng tình. Những lần anh em chúng tôi về VN họ đều đến thăm hỏi và cho qùa bánh rất hậu hĩ.

Sau đó là thời kỳ kinh tế ''mở cửa'', những chữ '' tư sản, tài sản xương máu của nhân dân... '' trở lên vô nghĩa lý chẳng còn ai nhắc đến nữa. Những con người giầu có mới phất, mọc ra như nấm, họ làm giầu với bất cứ con đường, phuơng cách nào. Việc buôn bán, tồn trữ vàng vòng, kim cương và ngay cả dollars không còn là tội ác nữa!

Chú thím Tầu Vàng cũng đứng dậy trong cái thời điểm đó. Với số vốn trong cái bịch mà bố tôi dấu cho họ khoảng 10 năm về trước cùng với sự chăm chỉ làm ăn và nhất là vận số họ may mắn, hiện nay họ đã có một cơ sở kim hoàn đồ sộ lớn nhất ở ngay ngã ba Bà Quẹo với khỏang 15 người thợ kim hoàn làm ngày đêm. Dù giầu có nhưng hai vợ chồng họ không bao giờ quên ơn ông bố quê mùa, chân thật và gia đình chúng tôi.

Năm 1984, lần đầu tiên tôi về nuớc, sau hơn 10 năm xa đất nước và gia đình. Công việc đầu tiên là dẫn vợ con đi thăm mộ mẹ tôi, không xa căn nhà mà tôi đã mua và xây cho bố mẹ tôi ngày xưa. Những lần về nước tiếp theo, dù buồn bã vì thấy bố tôi đã già yếu và nhất là nhớ đến sự vắng bóng người mẹ vắn số mà tôi vẫn còn mang nhiều cảm giác nợ nần tình nghĩa dưỡng dục, sinh thành, nhưng tôi vẫn chưa nhìn thấy nỗi buồn cô đơn của bố tôi. Những lần đi chơi với bè bạn về nhà, không thấy bố, tôi hỏi mấy đứa cháu trong nhà, đều nhận được câu trả lời :

- Chắc ông ngoại ra nghĩa trang thăm mộ bà ngoại rồi !

Nghe nhưng câu trả lời đó, đôi lúc đã làm tôi lịm người, manh nha lòng thương hại và cảm động vì tình nghĩa của bố tôi đối với mẹ tôi dù đã gần chục năm sau ngày mẹ tôi mất. Tôi càng ngẩn ngơ hơn khi nhìn thấy mỗi bữa tối, trước khi cả nhà ăn cơm, bố tôi mang lên chỗ thờ mẹ tôi một mâm cơm nhỏ đày đủ cho một người ăn với một bát cơm và đôi đủa. Bố tôi thắp hương, khấn vái nho nhỏ, chờ cho nén hương tàn hết, ông mới bưng xuống bàn, dành lấy bát cơm cúng cho chính mình.

Mấy năm gần đây bố tôi lên sống vơí gia đình cô em gái út của tôi ở ngay trung tâm Sàigòn. Vì qúa xa xôi với nghĩa trang nơi mẹ tôi an nghỉ và nhất là tuổi đã già yếu, bố tôi đã giảm dần việc thăm viếng mộ của mẹ tôi, vài tuần lễ một lần mà thôi. Nhưng vào những ngày lễ Phật, ngày tảo mộ hay ngày giỗ kỵ mẹ tôi, bố tôi chưa một lần thiếu xót. Ngôi mộ của mẹ tôi, dù đã xây hơn 20 năm nay nhưng luôn luôn được quyét dọn rất sạch sẽ.

Mùa hè năm 1992, lúc bố tôi vừa 68 tuổi, tôi làm giấy mời bố tôi và cô em gái út sang Thụy Sĩ với gia đình anh em chúng tôi 3 tháng trời. Ban ngày vợ chồng tôi cũng như những đứa em khác đều đi làm đến tối mới về, bố tôi lủi thủi ở nhà chơi đùa với mấy đứa cháu. Ngôn ngữ thì mù tịt, bản chất thì quê mùa, tánh tình thì dè sẻn vì trong tâm khảm vẫn còn ghi đậm những ngày đen tối, đói khổ của quê nhà, bố tôi chẳng dám đi chơi đâu vì sợ tốn tiền con cái. Vào những ngày nghỉ, chúng tôi dành thời gian dẫn bố đi chơi, tạt vào restaurant ăn uống, bố nhìn thấy giá cả mắc mỏ, không dám ăn nhiều hay tìm lý do để tiết kiệm cho con !

Trong 3 tháng đó tôi mới nhìn rõ sự cô độc, buồn tẻ và sự im lặng chịu đựng của bố tôi trong gần 13 năm vừa qua, từ ngày mẹ tôi mất. Tôi chợt có ý định khi về VN lần tới sẽ tìm cách kết nối bố tôi với một người đàn bà nào đó để ông được an ủi và nương tựa nhau lúc tuổi già.

Mãi đến năm 1995 tôi mới sắp xếp về thăm VN được. Cũng như mọi lần chú thím Tầu vàng đến thăm và mang qùa biếu tặng tôi. Hôm đó bố tôi đi vắng, tôi ngồi nói chuyện với vợ chồng họ. Nhân dịp, tôi nói với chú thím ấy về hoàn cảnh cô độc của bố tôi và có ý định nhờ chú thím ấy tìm cho bố tôi một người đàn bà đàng hoàng để làm bạn tuổi già. Hai vợ chồng chú Tầu nghe tôi nói, họ nhìn tôi ngạc nhiên vì không ngờ tôi lại có ý định như vậy. Cuối cùng họ cho tôi biết khoàng 6, 7 năm về trước, khi bố tôi còn sống ở Bà Quẹo với gia đình cô em gái lớn của tôi. Trong những lần đi chùa làm công qủa, bố tôi có quen một bà cùng lứa tuổi, bà ta chưa một lần kết hôn, sống chung với gia đình người em ruột cũng ở trong khu Bà Quẹo. Bà ta là họ hàng xa với thím Tầu. Bố tôi và bà ta quen nhau khá thân thiết một thời gian, nhưng sau đó tự nhiên bố tôi im lặng tránh xa! Chú thím Tầu cũng như bà ta chẳng hiểu lý do ra sao ?

Chú thím Tầu muốn vun xới, kết nối hai người với nhau, vài lần họ nói ''bóng gió'' vơí mấy cô em của tôi nhưng đều bị phản đối! Vì vậy mà họ đành im lặng không dám đề cập hay thúc đẩy chuyện mối mai đó nữa.

Tôi rất mừng rỡ khi biết được chuyện đó, vì ít ra sự hiền lành, ngay thẳng và thân tình của chú thím Tầu với gia đình tôi là điều mà tôi rất an toàn và tin tưởng vào sự xếp đặt, mối mai của họ.

Mấy ngày sau, khi bố tôi không ở nhà, tôi họp tất cả mấy cô em gái của tôi lại, nói rõ ý định của tôi. Mấy cô em tôi ban đầu lồng lộng phản đối, nhưngsau khi nghe tôi giải thích kỹ lưỡng kèm theo sự nóng giận của tôi, cuối cùng tôi mới đạt được sự đồng ý miễn cưỡng của lũ em gái còn qúa nhiều thành kiến vì ích kỷ và thiếu cảm thông.

Ngay ngày hôm sau, trong lần ngồi nói chuyện riêng tư với bố tôi. Tôi nhỏ nhẹ nói ý định của tôi và cũng cho bố tôi biết đã bàn luận với mấy cô em về vấn đề mong muốn bố tôi có một người vợ kế để nương tựa nhau lúc về già. Tôi đề cập đến người đàn bà họ hàng của chú thím Tầu Vàng, tôi cũng nói đến tình nghĩa và chăm sóc của con cháu dù đậm đà nhưng vẫn không phải là không thiếu sót v.v...

Bố tôi im lặng ngồi nghe tôi trình bầy, mãi một lúc sau, tôi thấy bố tôi chẩy nước mắt và nói với tôi :

- Bố cũng biết như vậy, nhưng bố cô độc đã qúa lâu rồi, 16 năm từ ngày mẹ con mất đã quen rồi con ạ! Ban đầu mới quen bà ta, bố cũng có ý định như con nói, nhưng sau đó nghĩ kỹ lại tình nghĩa của mẹ con. Lấy nhau từ lúc 18 tuổi, gần 40 năm chung sống, cực nhọc, đói khổ, nhục nhã với nhau... Thời gian, kỷ niệm đói no đã đóng thành một khối của ân tình trong lòng bố rồi. Bố không muốn vì sự cô độc của mình mà xấu hổ với mẹ con trong 40 năm nặng nghĩa vợ chồng đó! Thôi hãy để cho bố được trọn tình nghĩa với mẹ của con cho đến mãn đời con ạ!

Tôi nghe bố tôi nói mà lịm người. Tôi im lặng nhìn nét mắt nhăn nheo, già nua của bố tôi. Tôi cố gắng đào sâu, tìm tòi trong khuôn mặt quê muà, cực khổ, thiếu học đó có một dấu tích nào của thánh thiện hay không ?

Tôi ngước nhìn lên bàn thờ Phật, nhìn bức chân dung đấng toàn giác, con người của ngài thoát ra tất cả những gì của bao dung, của từ bi, của trí tuệ. Tôi chợt nhớ đến suốt nhiều năm qua, từ ngày mẹ tôi mất, bố tôi đã tìm nguồn vui và an ủi nơi ngài. Tôi tự hỏi có phải chính hình ảnh toàn giác của ngài cùng với những bài học, câu nói của ngài trong kinh sách đã đưa đến cho bố tôi, người phật tử quê mùa, ít học cái điểm son của thánh thiện đó hay không ?

Ngay phía dưới, bên cạnh bàn thờ Đức Phật là bàn thờ mẹ tôi. Tôi nhìn rất kỹ tấm ảnh của mẹ tôi, chiếc áo dài mầu nâu đất thô sơ, nhún nhường với vành khăn mầu nâu đen cuộn tròn trên đầu... Mẹ tôi trong cái dáng dấp một bà mẹ quê miền Bắc VN, hình ảnh bà mẹ VN cả đời chỉ biết yêu chồng, thương con. Trong cái dáng đơn sơ, quê mùa đó, dù chỉ là tấm hình để thờ phượng, nhưng hình như tôi vừa nhìn thấy trong ánh mắt của mẹ tôi có một niềm tự hào, một sự thoả mãn to lớn về người chồng mà mẹ tôi đã có. Cũng trong nét mặt quê mùa của mẹ tôi, tôi hình dung ra biết bao nhiêu người đàn bà khác trên thế gian. Họ giầu có, họ xinh đẹp, họ qúi phái... họ có hàng trăm, hàng ngàn những điều hoa lệ, may mắn hơn mẹ tôi. Nhưng tôi vẫn thấy họ thua xa nếu so sánh với người mẹ quê mùa vắn số của tôi. Họ đáng thương và khiếm khuyết vì họ không có một người chồng đầy tình nghĩa, cao thượng như bố tôi !

Rồi tôi lại đưa mắt nhìn trở lại nét mặt bố tôi một lần nữa. Tôi cũng thấy bố tôi đang ngước nhìn chăm chú lên bàn thờ Phật và bàn thờ mẹ tôi. Tôi không biết bố tôi đang nghĩ gì, nhưng nhìn nét mặt bố tôi lúc đó, nó thoải mái qúa, cái thoải mái tràn lan ra từ nét mặt nhăn nheo của người bố cao thượng mà tôi vừa ghi đậm vào tâm khảm của mình.

Cũng trong nét mặt quê mùa, khổ cực của bố tôi đó hình như ẩn tàng một dấu tích thoát trần, cái thoát trần trong sáng, bình thản của một vị tu hành đắc đạo. Tôi chợt hiểu cái lý do tại sao bố tôi đã chọn lựa xa rời người đàn bà mà bố tôi đã có cảm tình cũng như sự đồng ý, thúc dục của tôi và chú thím Tầu Vàng. Tôi cũng cảm thấy nỗi buồn, cô đơn của bố tôi không còn là điều đáng để tôi phải lo nghĩ nữa. Bởi vì tôi biết bố tôi đã có Đức Phật, đấng thánh thiện, toàn giác để nương tựa và có hình ảnh người mẹ vắn số của tôi trong lòng để thương nhớ và an ủi rồi.

Tôi tự nói nếu một ngày nào đó khi vợ chồng tôi về già, nếu chúng tôi có được một phần nào điểm son thánh thiện của bố tôi, thì đó là hình ảnh gương mẫu mà bố tôi đã dậy cho chúng tôi vậy.

Chuỗi Ngày Đói Khổ

         Cuộc đời anh như cái tháp cổ lung linh vàng son mơ mộng, bị phủ mờ rêu phong, xói lở, nứt nẻ bởi nghìn cơn bão táp. Đến trận khám nhà do "thằng bán tơ" vu oan, thì cái tháp ấy bị bóc hết da thịt, chỉ còn trở lại bộ khung xương cô độc giữa thời gian mịt mù bụi cát.

Anh sống triền miên trong đói khổ...

Đâu chỉ riêng anh chịu số phận hẩm hiu ấy, mà còn tất cả bạn bè cùng lứa tuổi với anh. Anh Lộc, võ sĩ lừng danh đất Diễn Châu, từng biểu diễn những đường gươm chói loà trước hàng ngàn người trong các cuộc mít tinh sau Cách mạng tháng Tám, rút cục chỉ là anh thợ may quèn nơi xóm nhỏ. Anh vừa cắn răng chịu đựng cơn đau của cơ thể vừa đạp bàn máy để kiếm đồng tiền cho vợ đi chợ chiều...

Anh Hối, tên ghi trong giấy khai sinh sau ngày cướp chính quyền là Võ Sĩ Hối, đã từng làm thư ký đầu tiên của Uỷ ban kháng chiến hành chính xã, đã từng xông pha nơi chiến trường Bình Trị Thiên, nay chỉ còn nắm xương. Không phải nắm xương "nhất xanh cỏ nhì đỏ ngực" đượm vẻ kiêu căng yêng hùng, mà là nắm xương tàn rụi ở góc phố thanh bình. Năm 1979, con tàu từ Lào Cai về Hà Nội, lúc sắp vào ga Hàng Cỏ thì đâm phải một con tàu khác. Tàu đổ. Mấy chục người bị thiệt mạng. Anh Hối cũng bị tan xương trong vụ đổ tàu năm ấy.

Còn anh Huân? Anh Võ Quang Huân ấy mà! Xin phiền bạn đọc dở lại chương II của cuốn truyện này. Trong đó, có một đoạn tôi ghi việc anh Huân và anh Hiền bàn bạc nên đặt tên khai sinh của mình thế nào cho phù hợp với thời cuộc: "Thôi, hay nhất là Võ Quang. Quang là Sáng. Dân làng đi theo con đường sáng của Cách mạng. Em cũng đi theo con đường sáng của Cách mạng... Sau một lúc bàn bạc, hai anh lấy tên mình là Võ Quang Huân, Võ Quang Hiền...". Hiện giờ anh Huân sống ra sao? Có một dạo anh đang làm đội trưởng Đội cải cách ruộng đất, bị quy là "đảng viên Quốc dân đảng", phải ngồi tù hai tháng. Ra tù, anh về nhà sống vất va vất vưởng với tâm trạng của một kẻ chán đời. Mặc chiếc áo rách toạc lưng, đi cày ngoài đồng, sang nhà hàng xóm chơi. Rồi đau ốm, gầy gò. Bị thấp khớp nặng. Chưa đến sáu mươi tuổi đã phải chống chiếc gậy đi lọm khọm như cụ già tám mươi. Không có nghề gì khác ngoài nghề "chính trị" và nghề nông. "Nghề chính trị" thì đã bị thất sủng. Nghề nông thì cần sức khoẻ, mà sức khoẻ cũng đã suy sụp. Sống dựa vào vợ con được chừng nào hay chừng ấy. Con gái đi lấy chồng xa.  Chị Huân cắn răng chịu đựng, tần tảo ngày đêm, tằn tiện từng hào. Cảnh nhà sa sút nhanh chóng. Nhiều hôm vét không ra hạt gạo, mang rá sang hàng xóm vay.

Dân làng bảo Lộc, Hối, Huân, Hiền là "bộ tứ trụ" của chính quyền thôn trong buổi đầu cách mạng thành công. Đến nay, cả bộ tứ ấy đều mục ruỗng một cách thảm hại. Ai cũng bảo bốn ông này nghe theo lệnh bác Chắt Kế, đầu tiên phá huỷ đền chùa miếu mạo, chặt phá cổ thụ, cho nên bị thần linh và tổ tiên trừng phạt.

Lớp đàn em bắt chước các anh, tiếp tục phá nốt các nhà thờ họ, và đào mồ mả một cách bừa bãi để tập trung lên nghĩa trang xã. Bùng là bí thư chi đoàn, đã bày ra cái trò chơi thật là quái đản: những ngôi mộ mà gia chủ đi vắng, chưa kịp về, cứ đào lên tất tần tật, bỏ chung hài cốt vào một tấm ni lông, mang lên nghĩa địa chôn chung...Về sau, Bùng đau ốm, chạy bao nhiêu thầy thuốc cũng không khỏi. Có đêm, Bùng nằm mê thấy hàng chục, hàng trăm bóng ma vây quanh, gào thét, đòi trả lại hình hài. ác mộng đến trong giấc ngủ càng ngày càng dày, Bùng bắt đầu trở thành ngớ ngẩn. Có những buổi trưa, đang đùa vui với bạn bè giữa đồng, Bùng mệt quá, nằm ngủ thiu thiu, bỗng hét toáng lên một tiếng, mắt đỏ ngầu, chạy thục mạng, vừa chạy vừa la: "Chúng nó đuổi bắt tao. Chúng mày ơi, cứu tao với, chúng nó bắt tao...". Bạn bè chạy theo nhưng không thể nào đuổi kịp. Bùng chạy rất nhanh, băng qua bờ ruộng mấp mô mà không vấp ngã. Những cơn hoảng loạn như thế ngày càng nhiều, Bùng bị bệnh tâm thần. Từ một thanh niên khoẻ mạnh, vạm vỡ, cơ thể Bùng trở lên tiều tuỵ. Suốt ngày Bùng đi lang thang ngoài đường, thất tha thất thểu ra đồng rồi vào làng, lên nghĩa trang rồi xuống bến đò Oan. Những lúc Bùng đi về phía bến đò Oan, bạn bè đi theo để đề phòng Bùng nhảy xuống sông. Trông thật thảm hại, quần áo xộc xà xộc xệch, dái luôn luôn bỏ ngoài quần...

Ông Cao Xuân Khuê, huyện đội trưởng đầu tiên của Diễn Châu, đã bị bắn trong cải cách ruộng đất .

"Con hùm xám đường số bốn" - tướng Đặng Văn Việt, một hình ảnh tráng sĩ đầy hấp dẫn đối với anh Hiền, học sinh trường Nguyễn Xuân Ôn và thanh niên trong toàn huyện toàn tỉnh hồi đầu kháng chiến chống Pháp, đã mờ đi rất nhanh. Ông nội của tướng Việt là Đặng Văn Thuỵ, từ một người thợ rèn nghèo khổ, đã dùi mài kinh sử, đậu hoàng giáp năm 1904 cùng một khoa mới Trần Qu?y Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, tạo lập dòng họ quý tộc có học vấn ở Nho Lâm. Trong cải cách ruộng đất, gia đình bị quy là đại địa chủ quan lại, ông Việt bị ra khỏi quân đội, làm cục trưởng cục vật tư. Những năm nghỉ hưu, ông lâm vào tình cảnh túng thiếu, kiếm tiền bằng cách sáng nào cũng đưa bánh rán đến các hàng nước dọc hè phố Hà Nội với chiếc xe đạp cọc cạch, hai bánh xe vấn dày khít dây cao su... Mấy lần ra Hà Nội, anh Hiền cố tìm gặp để được chiêm ngưỡng "con hùm xám" lừng danh ấy, nhưng không thể nào tìm được.

Cả làng Hậu Luật chẳng mấy ai được dư dật, nhiều gia đình ăn bữa trước chạy bữa sau. Nghề phụ không có. Cắm cây mạ xuống đồng như đánh bạc với trời. Thảm cảnh lại diễn ra giống như hồi trước cách mạng tháng Tám. Nhiều người rủ nhau lên Phủ Quỳ làm thuê, đào khoai mài. Nhiều người ở nhà, rỗi rãi chân tay, tụ họp từng đám, đánh đề đánh bạc... Người ta đua nhau đi xem tướng, đi bói toán. Mấy ông thầy bói đã bị cấm tiệt hành nghề, nay lại có đất sống. Ngày nào cũng có người xúm xít quanh thầy bói ở chợ, ở nhà riêng. Ai cũng được thầy phán: hoặc là mất mồ mả tổ tiên, hoặc là mất mồ bà cô, hoặc là mất mộ cụ Tổ năm đời, hoặc là con cháu bội bạc không chịu hương khói thờ cúng... Biết làm sao bây giờ? Mồ mả thì đã chôn chung vào khu tập thể nghĩa trang, lẫn lộn, lung tung, chồng chất lên nhau, làm thế nào mà tìm được? Muốn hương khói thờ cúng thì thờ cúng ở đâu? Đình phá rồi. Đền phá rồi. Chùa phá rồi. Các nhà thờ họ cũng phá rồi. Các công trình tín ngưỡng được các bậc tiền nhân xây dựng qua sáu trăm năm, bị phá sạch, lấy tiền đâu mà xây lại? Kiếm cái ăn hàng ngày đã bạc mắt, nói chi đến việc xây dựng đền đài, nhà thờ. Bội bạc với thần thánh, Tổ tiên, con cháu đành phải chịu vận hạn...

*

         Tuy nghèo đói, nhưng không khí cách mạng vẫn hừng hực như từ trước, đến nay vẫn hừng hực. Chiến dịch "Tiếng trống Xô viết" mở ra. Tiếng trống vang dội làng xóm, gợi lại khí thế xung thiên những năm Xô viết Nghệ Tĩnh 1930-1931. Toàn dân lại cuồn cuộn lao vào cuộc đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên. Người ta trưng lên những khẩu hiệu với từ ngữ sắc nhọn đâm vào thần kinh con người:

Trời làm mất bắt đất đền!

Vắt đất ra nước thay trời làm mưa

Dốc ngược dòng sông để nước lên đồng, trói tay thần hạn!

Treo nước lên ngọn cây!

Mo cơm, quả cà với tấm lòng cộng sản, đi làm thuỷ lợi!

         Những ban mai chưa tỏ mặt người, tiếng trống đã ầm vang, cờ đỏ đã rợp đồng, phô phang khí thế xung thiên. Không ai có thể bình tâm mà ngồi yên được. Bụng đói meo, vẫn phải tất tưởi chạy ra đồng, hoà nhập với tiếng trống với cờ đỏ với quần chúng cách mạng. Đảng đề cao kỷ luật sắt, đảng viên đi trước làng nước theo sau, thanh niên dẫn đầu cán bộ gương mẫu!

Anh Cu Lộc, bí thư chi bộ, chỉ vì một buổi sáng, tiếng trống đã nổi lên, ra chậm dăm bảy phút, bị Đảng uỷ tuyên bố cách chức ngay tại trận!

Đã nghèo khổ cơm gạo thì phải lấy cái giàu có tinh thần để tấn công vào nghèo khổ. Tấn công và tấn công. Bất chấp tất cả. Bất chấp quy luật thiên nhiên. Bất chấp phong tục truyền thống. Bất chấp quy luật tâm lý con người. Triệt để giương cao tinh thần cách mạng, tấn công và tấn công!

         Mấy trăm năm nay, xung quanh làng có sáu cái giếng: giếng Đình, giếng Trước, giếng Triều, giếng Đồng, giếng Cây Đa, giếng Xóm Trang. Chi bộ Đảng làng Hậu Luật ra nghị quyết: chỉ để lại giếng Đình, còn năm giếng kia lấp bằng - thực hiện kế hoạch "cải tạo đồng ruộng theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa". Thế là trống nổi lên, cờ đỏ giương lên, dân làng vác cuốc vác thuổng xông ra chỉ trong vài ngày là lấp xong.

         Mặt giếng bình yên hàng mấy thế kỷ, bỗng ầm ầm nổi sóng. Những cọng rêu nằm yên dưới đáy giếng hàng mấy thế kỷ, bỗng lay động, xơ xác, và bị vùi xuống chín tầng đất sâu.

         Trong làng có chừng ba chục cái ao, trên mười bảy xứ đồng có gần một trăm cái đìa. Chi bộ Đảng làng Hậu Luật ra quyết nghị: lấp tuốt tuồn tuột. Triệt để xoá bỏ tàn dư manh mún cá thể, tư hữu, "cải tạo đồng ruộng theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa".

Sau khi giếng, ao, đìa đã bị lấp, không may gặp kỳ hạn hán, đồng điền khô kiệt nước. Biết lấy nước đâu để uống và tưới hoa màu? Người ta chen nhau đi gánh nước ở giếng Đình. Hạn chế tối đa việc lấy nước tưới hoa màu.

Thì ra bây giờ chi bộ mới nhận ra lời khuyên của mấy cụ đồ nho và mấy cụ lão nông là đúng: không nên lấp giếng và lấp ao, đìa! Có phải thời đại này mới làm thuỷ lợi đâu. Qua nhiều thế hệ, ông cha ta đã từng làm thuỷ lợi. Trải qua kinh nghiệm canh tác, giữa đồng nước trũng người ta đắp những công đất để phân dòng nước chảy khi có lũ: cồn Hà, cồn Cưa, cồn Dã Cá, cồn Tuôn, cồn Hạc. Tất cả các cồn đã bị phá để "cải tạo đồng ruộng theo hướng sản xuất lớn...", nước lũ tha hồ tung hoành cuốn trôi lúa má... May mà còn lại cồn Hà, vì cồn này được dùng làm nghĩa địa, nếu không thì cũng bị san phẳng. Giếng đào từ xưa, đã được các cụ dò xem mạch ngầm, dẫu gặp mùa đại hạn nước giếng vẫn còn... Hệ thống ao và đìa cũng để trữ nước và làm nơi ẩn náu cho tôm cá khi mặt đồng đã khô nẻ... Bây giờ hạn hán, không còn nước đìa để tưới lúa, lúa chết khô; và tôm cá cũng chết khô.

Bao nhiêu công trình thuỷ lợi được tích góp từ kinh nghiệm và công sức của tiền nhân bị phá tan hoang để "cải tạo đồng ruộng". Cái thành tựu mới chưa thấy, chỉ thấy hạn hán và mất mùa. Qua mùa hạn hán đến mùa mưa, chỉ một đêm mưa ròng rã, sáng dậy đã thấy nước ngập trắng băng đồng dưới đồng trên. Làng trở thành hòn đảo. Đói kém. Cơn đói kéo dài như một thứ bệnh mãn tính. Cứ tưởng cách mạng thành công thì không còn đói kém nữa, không còn thiếu cơm gạo nữa. Ai ngờ nạn giáp hạt ngày ba tháng tám quay trở lại quật vào từng gia đình, quật vào từng số phận người nông dân.

Anh Hiền cũng chịu chung cơn đói với bà con làng xóm. Lại cộng thêm cái bệnh đau dạ dày hành hạ. Lắm đêm anh nằm vật vã, cố nghiến chặt hai hàm răng để không bật ra tiếng rên, nhưng không thể chịu được, tiếng rên phải bật ra. Tiếng rên thảm thiết vọng sang các gia đình láng giềng. Bà con không nỡ nằm yên, chạy sang, đỏ đèn, chăm sóc cùng với vợ con anh. Người thì cho uống nước mắm để dành lâu năm. Người thì cho uống mật ong. Người thì cho chút thuốc phiện lấy ở Phủ Quỳ. Có người chạy xuống bệnh viện Diễn Châu báo cho y sĩ Phù, anh Phù đem lên cho mấy lọ ca- vét và mấy lọ viên nghệ...

Bệnh sốt rét từ hồi ở Việt Bắc tái phát. Người anh vàng vọt, gày gò, chân tay khẳng khiu như que củi, hai hàng xương sườn trơ ra, giống như bộ xương  trong sách giáo khoa. Chưa đến sáu mươi tuổi mà trông anh như ông cụ tám mươi, râu ria xồm xoàm, da mặt nhăn nheo, mắt hoắm sâu. Sức khoẻ anh suy sụp một cách nghiêm trọng. Thỉnh thoảng chị Hiền nấu cho anh bát cháo lều phều mấy sợi thịt, anh ăn phều phào đến hàng tiếng đồng hồ mới hết.

Đói, sốt rét, đau dạ dày quật anh ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Chân tay run. Đi ra đi vào phải chống gậy... Bá, tổ trưởng tổ thông tin, đến chơi, nói đùa: "Trông cho chú chóng phục hồi sức khoẻ để tham gia công tác thông tin. Chú viết khẩu hiệu đẹp nhất làng...". Anh Hiền nhìn Bá, gượng cười, nụ cười héo hắt nở trên hai làn môi bạc như hai chiếc lá khô. Gò má Bá lăn giọt nước mắt... Dạo này Bá hay lên chơi với anh Hiền. Hai người rủ rỉ trò chuyện với nhau, thỉnh thoảng Bá lại xoa bụng, xoa lưng, xoa chân tay cho anh. Mỗi lần đi làm đồng về, Bá lại mang lên hoặc con cá tràu, hoặc con cá trê, hoặc mấy con lươn. Biết khẩu vị của anh, chị Hiền nấu những món dân dã: dấm cá trê với khế chua, cá tràu kho mặn, cháo lươn... Nhìn anh ăn ngon lành, Bá cảm thấy vui: "Thức ăn có sẵn ngoài đồng, chú ăn hết tôi lại bắt về cho chú ăn".

Đêm nào Bá cũng ngồi với anh đến khuya. Tuy còn ít tuổi nhưng Bá thuộc chi trên, nên anh Hiền gọi Bá bằng "anh":

- Anh ngồi với tôi là tôi thấy khoẻ người...

Hai anh em chẳng biết nói chuyện gì, chỉ nhìn nhau cũng vui lắm rồi. Hễ Bá đứng dậy định ra về thì anh níu tay: "Ngồi thêm với tôi một ít nữa...". Bà con làng xóm nói đùa: "Ông Bá là thầy thuốc chữa bệnh cho ông Hiền".

Những lúc vắng Bá, anh thấy trống trải ghê gớm và cơn đau dạ dày lại hành hạ anh nhiều hơn.

Nửa đêm mùa đông, cơn đau nổi lên dữ dội. Sợ phiền luỵ đến người nhà và bà con láng giềng, anh nằm úp sấp lên giường, hai tay ôm chặt lấy chăn, nghiến hàm răng. Nhưng cơn đau càng lâu càng hoành hành, không thể nào chịu được, anh thốt ra một tiếng kêu rồi kèm theo tiếng rên kéo dài. Chị Hiền hốt hoảng chạy ra. Mấy đứa con chạy ra. Bà con hàng xóm chạy sang. Mặt anh tái mét, hai mắt lờ đờ nhìn mọi người. Gian phòng nhốn nháo:

- Ông làm sao thế?

- Cha ơi!

- Chú Hiền thủng dạ dày rồi!

- Chú Hiền thủng dạ dày rồi!

- Mang lên bệnh viện cấp cứu ngay!

Mọi người rối rít lấy võng, lấy cáng, bế anh nằm vào võng. Hai chú thanh niên khoẻ mạnh ghé vai khiêng. Năm, sáu người chạy theo. Chị Hiền và hai đứa con cũng chạy theo. Có người ôm theo cái chăn. có người ôm theo bọc quần áo của anh Hiền...Tình làng nghĩa xóm như bát nước đầy, tối lửa tắt đèn có nhau...

May quá, vừa đến bệnh viện thì gặp y sĩ Phù. Chẳng phải bà con họ hàng, chẳng phải láng giềng, anh Phù quê ở tận làng Xuân Sơn cách làng Hậu Luật đến năm cây số. Hai anh quen nhau trong những trận dân quân diễn tập hồi mới cách mạng tháng Tám. Có một lần anh Hiền là "quân bên ta" bắt được anh Phù là "quân bên địch". Phù nói: "Mi là thằng Hiền ở Hậu Luật chứ gì! Mi có biết ta không?". Anh Hiền cười: "Mi là thằng Phù ở Xuân Sơn". Phù bỗ bã: "Tao đói bụng lắm. Chạy rạc cẳng từ sáng đến giờ, chưa có miếng gì vào bụng, mi cho quân bên địch ăn một chút gì để có sức mà tiếp tục đánh nhau". Dạo đó là sau tết Nguyên đán, anh Hiền còn giữ nửa cái bánh tét, bèn đem ra, "quân bên ta" và "quân bên địch" ngồi ăn ngon lành. Anh Phù nhớ mãi kỷ niệm ấy. Những ngày anh Hiền đau ốm, anh Phù thường qua lại chăm sóc và cho thuốc men... Bây giờ gặp nhau đột ngột trong trường hợp anh Hiền bị cấp cứu, Phù trực tiếp đưa vào phòng khám. Tuy bằng cấp của Phù mới chỉ là y sĩ, nhưng đã vào nghề lâu năm, đã mổ mấy ca dạ dày, cho nên chẩn đoán bệnh chính xác: "Anh Hiền không thủng dạ dày". Mẹ con chị Hiền và bà con đi theo mừng rỡ. Phù giữ anh lại bệnh viện mấy ngày để truyền máu và theo dõi bệnh tình. Biết anh túng thiếu, Phù đưa cho anh hai hộp sữa, ba lọ ca vét, một chai mật ong, tiễn anh ra đến cổng bệnh viện...

Nghe tin anh Hiền ốm, tôi về thăm. Vừa vào đến ngõ thì thấy Bá đi ra. Gặp tôi, Bá xoắn xuýt nắm tay tôi: "Chú Hiền đau nặng lắm. Sau khi cấp cứu ở bệnh viện về, bệnh có đỡ, nhưng còn gay lắm. Mi về thật đúng lúc...". Tôi nắm tay Bá, chân bước run run...Anh ngồi co ro trên giường, nhìn tôi từ từ bước vào.

- Em đã về...

- Anh...

Không nén được, nước mắt tôi trào ra. Lạnh quá. Cửa nhà lạnh quá. Cha mất rồi. Mẹ mất rồi. Anh là con trai trưởng, cái cột trụ của gia đình. Cái cột trụ đã mục ruỗng, không còn đủ sức để chống đỡ gian nhà đã quá cũ kỹ. Một thời khang trang, một thời ấm cúng, một thời oanh liệt... Tất cả trở thành dĩ vãng. Chỉ còn lại anh ngồi đây, ốm o xo rụi. Tiếng muỗi vo ve. Bên cạnh giường là bát cháo nguội lạnh với vài ba mẩu thuốc lá sâu kèn. Nắng hoàng hôn nhuộm vàng ệch hòn sơn giả trước sân.

Tình cảnh bi đát. Đến gạo còn không đủ ăn, nói gì đến đường, sữa, thịt nạc để bồi dưỡng. Bạn bè qua lại thăm hỏi có đưa cho anh một ít tiền. Anh em thân thuộc lúc thì đưa cho anh lon gạo ngon, lúc thì cân nếp, lúc thì mấy lạng thịt nạc. Nhưng ai cũng nghèo túng, moi đâu ra gạo, thịt để cung cấp mãi cho anh. Nhìn nhau, thương nhau, cũng đành quay mặt...

Tôi nhìn anh mà không dám nhìn lâu.Tôi cảm thấy có lỗi với anh, có lỗi với cha mẹ, có lỗi với gia đình. Tại sao hồi đó tôi không thẳng thắn nói cho anh biết ?ý nghĩ "vui thú điền viên" sau chín năm chinh chiến là một ý nghĩ lỗi thời. Để đến bây giờ, nông nỗi này. Đồng lương của tôi phải tằn tiện may ra mới đủ nuôi hai cháu ăn học, làm sao gửi về thường xuyên được. Lực bất tòng tâm, thương anh mà đành phải bó tay. Tôi rút điếu thuốc lá, châm lửa cho anh hút, phải bật đến nhát thứ ba lửa mới xoè ra. Nhìn anh ngậm điếu thuốc đầu lọc một cách sung sướng mà thương anh quá, tôi đưa anh cả bao, rồi rút ví đưa anh năm chục ngàn đồng. Anh quay mặt vào tường khóc như một đứa trẻ. Tôi cũng trào nước mắt...

*

         Tình làng nghĩa xóm vẫn ấm áp như xưa, vẫn thương nhau hạt muối cắn đôi. Nhưng do cách quản lý xã hội suốt hàng chục năm nay, không khí thôn mạc luôn luôn căng thẳng, người này nhìn người kia bằng con mắt "cảnh giác", hoặc tạo ra sự xa cách giả tạo. Một chính sách từ đâu ban ra, không có văn bản, nhưng Đảng uỷ và Uỷ ban xã lại thi hành rất nghiêm chỉnh: gia đình nào không vào hợp tác xã thì con cái không được thi vào đại học!

Cháu Thanh, con anh Hoe Phác, học rất giỏi, sau khi tốt nghiệp cấp ba, Uỷ ban không cho giấy để thi đại học chỉ vì cha mẹ "làm ăn cá lẻ". Hai đứa con gái anh Hiền, cháu Thảo và cháu Thu cũng vậy, học xong cấp ba không được thi vào bất kỳ trường nào, dẫu là trường chuyên nghiệp trung cấp. Chạy ngược chạy xuôi xin xỏ mãi các cấp lãnh đạo trả lời rằng: Muốn học nghề để thoát ly, phải kinh qua thời gian rèn luyện ở chiến trường. Thế là cháu Thảo tình nguyện đi Thanh niên xung phong, cháu Thu gia nhập quân Giải phóng.

Hai cháu đi rồi, nhà cửa đã vắng vẻ càng thêm vắng vẻ. ở nhà chỉ còn anh Hiền và chị Hiền. Kinh tế lại quá eo hẹp. Lắm chuyện lôi thôi xảy ra. Vợ chồng ăn riêng, chồng một nồi, vợ một niêu, người nào người nấy tự thổi cơm. Chán chường đến tột cùng chán chường.

Lác đác những năm sau, hai cặp vợ chồng già khác, cũng lục đục, chồng một nồi, vợ một niêu. Đáng chú ý là ba cặp vợ chồng này cùng anh em thúc bá trong một chi họ Võ, ở quây quần với nhau. Bi kịch của một cặp vợ chồng đã gây tai tiếng khắp làng khắp xóm. Nhưng cái bi kịch đó lại loang ra đến hai đến ba, thì người ta giật mình đặt câu hỏi: Tại sao? Tại sao?

Ba bà vợ lén lút mang cơm đùm cơm nắm đi bói ở ba nơi khác nhau. Ba thầy bói đều nói: Tại vì chôn hài cốt của bà cô vào khu mộ của chi họ này, cho nên mới xảy ra chuyện phân li giữa các cặp vợ chồng đã ăn ở hoà thuận với nhau trên năm chục năm trời.

Bà cô đó là ai? Đó là bà Võ Thị Chương lấy chồng về xóm Bến Kiềng, xã Nho Lâm. Sau khi chồng qua đời, bà đem con về Hậu Luật nương tựa nhờ các cậu các mợ. Lúc bà mất, một số cụ già bảo "Nhất giặc Ngô, nhì bà cô bên chồng". Từ xưa đến nay, con gái đã xuất giá không được chôn chung với khu mộ anh em bên ngoại. Nếu chôn chung thì người dưới âm phủ ở không yên, người trên trần thế cũng gây sự xích mích nhau. Ngưòi ta cho đó là chuyện mê tín dị đoan. Thời đại mới mà còn tin vào những điều xằng bậy, thiên hạ cười thối óc! Các cụ còn khuyên thêm: "Nếu muốn táng chung bà cô vào khu mộ bên ngoại thì phải làm lễ xin phép tổ tiên". Nhưng người ta vẫn phớt lờ. Chẳng lễ bái gì hết. Làm gì có thần thánh. Còn xương cốt tổ tiên thì đã tan thành đất, còn biết gì nữa mà xin phép!

         Chuyện đã nhỡ rồi, biết làm sao bây giờ? Một người đi bói, có thể không tin. Nhưng ba người tìm đến ba thầy bói ở ba nơi khác nhau, không tin sao được. Đành phải chuyển mộ bà Chương đi nơi khác. Đau đớn thay, biết mộ ở đâu mà chuyển! Hồi tập trung mồ mả, chi đoàn thanh niên đào một cái rãnh dài, ghép sít sìn sịt các tiểu liền nhau, rồi đắp đất thành một cái mộ chung dài như bờ ruộng. Cái bờ ấy mỗi năm một dài thêm, không ai có thể nhớ được chính xác mộ bà Chương nằm ở vị trí nào. Anh em trong chi họ Võ chạy ngược chạy xuôi khắp nơi, tìm đến thầy cúng này, thầy bói kia, nhà ngoại cảm nọ, mà vẫn không được.

         Ba cặp vợ chồng già ấy cũng tự nỗ lực để hàn gắn tình cảm. Mỗi lần xích lại gần nhau một chút, thì như có sức mạnh vô hình nào đẩy ra. Thử cố gắng cùng ngồi ăn cơm vài bữa, không dám nhìn nhau, cơm nuốt không ngon. Lợi dụng lúc có khách đến nhà, hai vợ chồng gượng gạo cùng tiếp, nhưng chỉ được một lát là vợ hoặc chồng vờ bận việc phải bỏ đi nơi khác.

Tình cảm u uất cứ kéo dài lê thê như mưa dầm mùa đông. Chị Hiền tần tảo hơn muời năm trời một nắng hai sương, nuôi bố mẹ chồng, nuôi em chồng ăn học. Chồng đi xa biền biệt. Tưởng là ngày chồng trở về quê vui thú điền viên, nào ngờ không những không vui mà còn tan nát hơn. Chị im lặng, nhẫn nhục, vừa tham gia Hội đồng nhân dân, vừa chăm con trâu, cấy lúa trồng khoai và ráng hết sức mình để vun đắp gia đình. Chị giận anh, thương anh và thương cho thân phận mình quá hẩm hiu. Chị lên Sơn La trông con cho cậu em. Nhớ nhà quá, thương anh quá, chị lại trở về. Nhìn anh ốm o, gầy guộc, vét trong bồ không còn hột thóc, chị ngồi vào góc bếp, gục mặt xuống đầu gối, nước mắt ướt đầm...

Cảnh chồng một nồi, vợ một niêu vẫn tiếp tục kéo dài. Ngán ngẩm đến tận cùng ngán ngẩm. Lắm lúc người chị tê dại tưởng chừng như mất hết mọi cảm giác. Ra đồng làm việc, chị cố trò chuyện với chị em cho khuây khoả mà không khuây khoả được. Buổi tối rảnh rỗi, chị sang hàng xóm chơi cho vơi nỗi buồn mà không vơi được. Rút cục chị vẫn phải âm thầm trong ngôi nhà của mình, chịu đựng cơn đau dai dẳng như dao cùn cứa vào da thịt.

         Khuya. Đi họp về. Chị nằm trằn trọc không ngủ được. Thương số phận mình long đong. Chợt một tình thương khác, một tình thương vị tha lớn lao như dòng thác xối vào cái vực thẳm của tâm hồn chị - dòng thác vừa lạnh buốt vừa nóng ấm: thương chồng! Chị rón rén đi từng bước rất nhẹ ra nhà trên... Trời ơi! Chồng chị nằm đó. Chồng chị nằm còng queo quay mặt vào tường, tiếng thở nghe rõ từng nhịp. Chị quay xuống bếp nấu nồi cháo, xé nhỏ từng sợi thịt nạc trộn lẫn vào, ra vườn hái lá tía tô băm vụn rồi rắc lên bát cháo. Ngập ngừng một lát, chị gọi đứa con gái lớn: "Thảo ơi! Thảo ơi! Con đem bát cháo này cho cha ăn. Cha có hỏi ai nấu, thì nói là con nấu, đừng nói mẹ nấu...''. Chị lại nằm thao thức trên giường, lắng nghe từng động tác con gái bưng cháo ra cho cha, rồi lắng nghe tiếng động chồng ngồi dậy bưng bát cháo, múc từng thìa ăn ngon lành...

Hàng xóm

Chiu đ bun thăm thm. Bà Hân ngi mt mình trong căn nhà nh nhìn vô đnh vào khong không trước mt, thi thong li buông tiếng th dài nng nhc. Ch mãi mà ông nhà vn chưa v, kiếp ph h nai lưng ra làm đến lúc nào người ta cho ngh mi được ngh, người ta b ra mt thì ly li sc lao đng ca mình mười. Càng nghĩ bà càng thương chng, thương cho c cái kiếp nghèo khó ca cuc đi bà, ca cái gia đình quanh năm ln đn vì n nn, bnh tt. Ðã thế li còn luôn b người ta nhiếc mng, chi ra. Ði bà có tht đc vi ai bao gi đâu mà toàn b đi x t bc. Người ta vn bo: "Hàng xóm tt la ti đèn có nhau". y thế mà...

Càng nghĩ bà càng điên lên, người hàng xóm mà bà nhắc đến ở đây là nhà bà Hà ngay bên cạnh, chỉ cách nhau có một cái bờ rào và một khoảnh đất con con. Ngày xưa hai nhà cùng rủ nhau về đây khai hoang lấy mảnh đất cắm dùi, với mong muốn an cư lập nghiệp. Cái ngày ấy sao mà thương nhau đến thế... Những người đàn bà mang thai. Những người đàn ông hết lên rừng đào củ mài lại xuống sông mò ốc. Khi trên rừng và dưới sông không còn sự sống thì họ bỏ lại những người đàn bà ở nhà và nhảy tàu lên tận vùng cao mót sắn, mót củ rừng. Trong những chuyến đi đó có người mót được, có người không nhưng bao giờ khi trở về người mót được cũng mang chia đều cho nhà bên kia chống đói. Cứ thế, cho đến khi cái đói không quật ngã được con người ta nữa.

Thế nhưng cùng với sự đổi thay mỗi ngày của cuộc sống, lòng người cũng đổi thay theo. Ðứa con đầu của bà Hân ra đời cùng ngày với đứa cả nhà bà Hà. Hai đứa trẻ lớn lên trong cuộc sống nhọc nhằn, chúng quấn với nhau từ lúc bé.

Mùa hè... Hai đứa cùng nắm tay nhau chạy thả diều trên cánh đồng trước nhà thênh thang gió. Chúng đợi khi bông lúa đã trĩu vàng để cùng đi bắt con muồm muỗm về nướng vàng, chín thơm ngầy ngậy. Chúng đợi khi cánh đồng lạc trước nhà được người ta thu hoạch xong, cày bừa lên rồi những trận mưa rào ngập bờ đổ xuống, hai đứa lại rủ nhau đi mót lạc...

Mùa đông đến... Chúng đuổi đàn bò nghễu nghện đi qua khu rừng thưa, đến khi vào rừng rậm chắn gió, chúng sẽ thổi lửa lên và nướng những củ khoai, sắn mang theo trong vạt áo rồi nhồm nhoàm ăn. Chiều! Leng keng tiếng mõ trâu trở về, chúng còn ủ thêm than vào cái ống bơ rồi thi nhau quắc để giữấm. Khi đàn trâu bò về đến nhà đã thấy bố mẹ dọn cơm chờsẵn, chỉ là đôi ba con tép rang mặn, đôi ba cọng rau và nồi cơm độn khoai sắn mà ăn ngon đến lạ.

Những mùa thu rồi mùa xuân đi qua lúc nào không biết. Hai đứa trẻ ngày nào lớn lên khỏe mạnh nhất làng. Chơi thân với nhau là thế nhưng khổ cái thằng Khang con bà Hân thì chăm chỉ và học giỏi nhất làng, còn thằng Bình thì ham chơi, lười biếng nên cứ đúp lên, đúp xuống. Học xong cấp II Bình xin mẹ về nhà, theo một ông cai đi phụ hồ mãi dưới thành phố. Một năm về nhà đôi ba lần. Khang vẫn hằng ngày đạp xe đạp mấy cây số đến trường, kể cả ngày nắng đến ngày mưa nó đều không bao giờ nghỉ học. Sáng đi học, chiều về chăn trâu, hái củi, hễ rảnh lúc nào thì ôm khư khư quyển sách. Nhà bà Hà từ khi có đứa con đi làm xa thì cũng đỡ vất vả hơn, lại thêm chăn nuôi được nên có của ăn của để. Nhưng không hiểu sao từ đấy tình cảm xóm giềng cứ xa cách nhau dù hai nhà chỉ cách nhau một bờ rào và khoảnh đất con con.

Từ ngày đi làm Bình thay đổi nhiều, đầu nhuộm xanh, nhuộm đỏ. Lớn lên cao vổng, do phải làm ngoài trời lâu nên đen nhẻm lại thêm cái tật hút thuốc phì phèo suốt ngày nhìn rất khó coi. Nhưng mỗi lần về quê bao giờ nó cũng nhảy phóc qua cái bờ rào để tìm người bạn nối khố. Thằng Khang mà biết thằng Bình về là thể nào cũng cho trâu về sớm, hai thằng lại rủ nhau ra vườn leo chèo, rồi thầm thì với nhau đủ chuyện. Ðôi khi chúng lại cùng nhau làm một con diều giấy chạy ra đồng thả với lũ trẻ con như lúc nhỏ, cũng bắt muồm muỗm, cũng nướng khoai ngô. Trong tâm trí của hai thằng thì những ngày chúng được ở bên nhau là những ngày hạnh phúc nhất.

Rồi Khang thi đỗ vào đại học, xuống thành phố vừa học vừa làm thêm nên có khi cả năm chẳng về quê được mấy lần. Mỗi khi Bình đi làm xa về nhà vẫn hay nhảy qua bờ rào sang nhà bà Hân chơi, đôi khi cũng mang củi ra bổ giúp những ngày mùa mưa sắp đến, nó cũng đảm như thằng Khang khi ở nhà. Bà Hân quý nó lắm nên cứ đến mùa hoa quả trong vườn chín là bà lại nhắn cả hai thằng con về thu quả. Có những buổi chiều bà nhớ thương tiếng cười nói của hai thằng vời vợi cả hoàng hôn...

Thế nhưng bà Hà thì khác hẳn. Bà cấm thằng Bình con bà không được bén mảng sang nhà bên ấy, không được nhắc trong bữa cơm những điều tốt đẹp về nhà ấy. Bà bảo:

- Nhà nó cho mày ăn bùa ngải gì mà suốt ngày mày nhắc đến hả. Từ giờ mày mà còn nhảy qua cái bờrào sang bên ấy là tao chặt chân nghe chưa? Hay ho gì cái loại ấy, cứ suốt ngày khoe mẽ con học hành hơn người, học mà để làm gì để đói há mồm như nhà nó đấy à?

Thằng Bình thấy vậy thì gắt lên:

- Sao mẹ lại nói nhà người ta thế, người ta chịu khổ để nuôi con học hành thì sai à? Mà có chuyện gì đâu mà bỗng nhiên mẹ lại cấm đoán con như thế nhỉ. Không phải từ xưa hai nhà vẫn thân thiết với nhau đó thôi. Cả cánh rừng có mỗi hai nhà, mẹ mà như thế thì chơi với ai. Người ta bảo hàng xóm tắt lửa tối đèn có nhau mà mẹ thì...

- Tao thì sao hả cái thằng mất dạy kia. Mày định dạy khôn tao đấy à?

- Mẹ thì...

Thằng Bình buông bát, bỏ câu nói nửa chừng rồi thở dài đi ra vườn ngồi. Bỗng nhiên nó thấy chẳng thể nào hiểu được người lớn, lúc đói khổ thì cần đến nhau là thế, có một khúc sắn cũng chia đôi. Khi cuộc sống đã khấm khá rồi chẳng nhẽ chỉ vì người này hơn người kia một cái gì đó thì tạo thành hiềm khích hay sao? Bỗng nhiên nó thấy nhớ thằng Khang quá. "Cái thằng học hành gì mà nửa năm không chịu về thăm nó, cũng không thèm viết thư hồi âm nó chứ. Mà nếu nó không nhớ thằng bạn nối khố này thì cũng phải nhớ cha mẹ hằng ngày trông ngóng. Cái thằng... Khéo cứ lo học hành mãi lại gầy người thêm thì khổ. Con trai gì mà bé tí. Cái thằng...".

***

Bà Hân đếm thấy thiếu mấy con gà chọi lai thì hốt hoảng đi tìm. Vườn rộng thật nhưng mấy con gà này thì bà biết tính, chúng chỉ hay chui qua hàng rào sang nhà bên kia đi ăn với bạn mà thôi. Nghĩ thế bà vội vã chạy ra bờ rào tìm, nhưng gà thì chẳng thấy đâu chỉ thấy mấy túm lông rơi vãi trong vườn nhà ấy. Bà Hân nghĩ bụng: "Thôi chết rồi, chiều mình đi làm cỏ ruộng không để ý. Nhưng mà... Thế này thì...". Nghĩ thế, bà năm máu sáu cơn lên, chúng nó sống đểu giả thế này thì ai mà chịu được. Bình thường bà đã nhún nhường nhiều rồi, bây giờ thì không chịu nổi nữa. Chẳng hàng xóm thì đừng, chẳng tắt lửa tối đèn thì đừng, vụ này phải làm cho ra nhẽ. "Ðừng tưởng bà hiền mà chúng mày bắt nạt nhé". Bên nhà kia lại vang lên tiếng dao thớt ngoài giếng, bà Hân nghĩ: "Kiểu này là nó băm thịt gà nhà mình đây mà". Càng nghĩ càng điên lên, bà phăm phăm vạch rào sang nhà bên kia xem thực hư cho ra nhẽ. Nhưng vừa sang đến nơi thì bà đã bị hếu chó ra đuổi bán sống bán chết. Ức quá bà Hân đứng bên này chửi với sang...

Nhà bên kia vẫn lạch cạch dao thớt, nghe bà chửi nó còn băm to hơn. Bà lại càng điên, càng chửi khỏe. Bà Hân chửi đến khi hết hơi hết sức, bà ngồi xuống cạnh bờ rào khóc tu tu. Khi ông Hân về, ông giục bà đi vào nhà:

- Bà vào đi, mất thì đã mất rồi, chửi có lấy lại được đâu. Chửi nhiều thêm rát cổ, bỏng họng, lại ốm ra đấy thì khổ mình chứ khổ ai.

- Nhưng mà tôi tiếc cái công tôi, mình có làm gì đâu mà người ta ăn ở khốn nạn thế không biết. Biết thế này ngày xưa làm nhà tít mãi cuối rừng để khỏi phải chung đụng với ai.

Ðêm. Bà Hân quay mặt vào tường khóc. Bà buồn lắm. Ðến lúc này, bà buồn vì mất mấy con gà thì ít, mà buồn về tình làng nghĩa xóm thì nhiều. Nghĩ đi nghĩ lại bà có làm cái gì sai đâu mà để cho tình làng nghĩa xóm xa cách nhau vời vợi thế này. Rồi bà lại ân hận, nghĩ lúc chiều bà chửi người ta nặng lời quá. Biết đâu mấy con gà ấy nó chết dúi chết dụi ở đâu mà bà lại đổ cho người ta bắt có phải tội lồi mắt ra không. Rồi đây thằng Khang, thằng Bình nó về liệu chúng nó còn dễ nhìn mặt nhau nữa hay không khi mà bố mẹ hai nhà cứ như mặt trăng với mặt trời. Càng nghĩ bà càng buồn, đêm vì thế mà dài ra mãi...

Sáng hôm sau người trong làng nhìn thấy bà Hà cắp nón sang quả đồi bên cạnh rỉ tai nói với người ta rằng:

- Cái nhà bà Hân ấy, chẳng biết có phải cho thằng Khang xuống Hà Nội học thật hay không. Học gì mà cả năm may chăng mới về nhà được đôi lần, có khi lại lên cửa khẩu theo người ta buôn lậu ấy chứ!

Rồi bà lại cắp nón ra về với bộ dạng hả hê lắm. Cái nắng đổ tràn qua cánh rừng, những viên sỏi dưới sân bỏng đót. Ðám mây đã trôi về phía cuối chân trời...

***

Hai thằng lại rủ nhau ra sông tắm, thằng Bình thấy Khang gầy thì thương lắm, nó bảo bạn:

- Mày gầy thế này liệu có bị nước cuốn đi không đấy. Không chịu chăm sóc bản thân gì cả. Ðợt này xuống chỗ làm tao nhờ người ta mua cho ít mật ong rừng làm thuốc. Cái bệnh đại tràng của mày là phải ăn nghệ lẫn mật ong mới khỏi được.

Khang nhìn bạn cười hiền lành. Nó biết bạn lo cho mình. Ngày mai lại phải xuống trường, không biết mấy tháng nữa hai đứa mới gặp được nhau.

Sông mùa nước ngập cả bờ cát trắng, phía bên kia là cánh đồng mía xanh ngút ngàn, một thế giới mà cả hai đứa nó chưa bao giờ được đặt chân đến. Ðôi ba tiếng mõ trâu lóc cóc về làng sau một ngày ăn no bụng cỏ. Một cảm giác bình yên tràn ngập. Hoàng hôn xuống trên sông đẹp như một dòng cổ tích. Hai đứa ùa xuống lòng sông vẫy vùng, tắm đẫm cả buổi chiều hun hút gió.

Ngụp lặn một lúc khi ngoi lên Khang thấy Bình đang bơi ra chỗ nước xoáy, hốt hoảng quá Khang gọi to:

- Bình ơi! Bình ơi! Bơi vào bờ đi, nước xoáy đấy, ngoi lên Bình ơi!...

Nhưng Bình như không nghe thấy tiếng gọi. Nó vẫn cứ vẫy vùng đến khi chìm vào nước xoáy. Lúc này trên bờ đê không một bóng người. Khang gào lên kêu cứu rồi hốt hoảng bơi ra cứu bạn. Một lúc sau thì nó tìm thấy Bình cách một đoạn dưới dòng nước xoáy. Phải vất vả lắm Khang mới có thể lôi Bình gần vào đến bờ. Lúc này cậu đã đuối sức quá rồi. Những bước chân rầm rập chạy trên bờ đê, tiếng kêu cứu ầm làng.

***

Bà Hân và bà Hà ngồi bên giường nhìn hai thằng con trai suýt nữa đã bị chết trôi dưới sông. Cũng may mà dân làng đến kịp. Bà Hân lấy vạt áo lau nước mắt, khe khẽ gọi: "Con ơi!". Bà Hà hồi lâu vẫn ngồi im lặng, mắt nhìn vô định ra ngoài con đường làng xa tít tắp, lòng bà vời vợi buồn. Bà ước gì có thể ngoảnh sang bên chỗ người hàng xóm đang đau lòng nhìn đứa con trai vì con bà mà ra nông nỗi ấy. Bà muốn nói một câu gì đó để phá vỡ sự im lặng khủng khiếp này nhưng không thể nào cất lên lời. Bà Hà nghe rõ tiếng bà Hân thở dài nặng nhọc, ngoài kia trời đã tối hẳn không còn nhìn rõ con đường vòng vào cánh rừng nơi mà chỉ có hai mái nhà đứng chênh vênh qua bao mùa mưa nắng. Nơi mà hai nhà cùng nổi lửa thổi cơm lúc chiều về, cùng ra cổng ngóng con mỗi mùa quả chín, cùng chia cho nhau từng khúc sắn lúc cái đói vây riết lấy kiếp nghèo... Càng nghĩ càng thấy đau lòng, mắt bà cứ  vời vợi mãi dẫu ngoài kia đã bóng tối mịt mùng. Bỗng bà Hân ho đánh giọng rồi lên tiếng:

- Bà tạt qua nhà xem hai ông nấu cháo thế nào. Cứ để hai thằng đây tôi trông. Chúng nó qua cơn hoạn nạn rồi, ăn uống tốt là mai lại hồi sức thôi...

Bà Hà lật đật đứng dậy, dặn vội bà Hân câu gì rồi cắp nón chạy nhanh  ra con đường tối đen. Bà không muốn để người hàng xóm thấy mình đang khóc, nước mắt của quá nửa cuộc đời đắng đót. Bà bước thật nhanh về phía cánh rừng, nơi mà hai đốm sáng nhỏ nhoi đang thoắt ẩn, thoắt hiện. Nơi ấy có hai ngôi nhà chỉ cách nhau một cái bờ rào và một khoảnh đất con con.

Nguồn gốc và ý nghĩa thực của câu ” Thanh Hóa ăn rau má phá đường tàu “[indent]

ý nghĩa “Dân Thanh Hóa ăn rau má, phá đường tàu”

Ngày xưa – cái ngày cả nước bị đói ý ( rồi 9 năm kháng chiến chống Pháp ), chỗ nào cũng có người chết đói, nhưng màngười dân Thanh Hóa tìm được nguồn thực phẩm từ thiên nhiên: Cây rau má. Loại cây này chẳng những không độc mà còn rất mát và bổ.

Tuy nhiên oái oăm là loại cây này lại mọc nhiều ở đường tàu, vì thế người dân đua nhau lật tà vẹt để đào rau má ăn, lâu ngày thì đường ray hỏng. Không phải người Thanh Hóa không có gạo để ăn. Vì nhường cơm nhường gạo cho “hũ gạo kháng chiến”cho bộ đội ăn lấy sức đánh giặc .Thanh Hóa góp phần to lớn vào chiến thắng chung chắc ai cũng biết…

( Cũng có thông tin cho rằng ngày xưa người dân TH phá đường sắt của Pháp. Dùng sắt để rèn vũ khí cho bộ đội đánh giặc… )

Có nhiều người nói, nhưng chưa hẳn đã hiểu. Mong bài vết này sẽ có ích

Từ nhiều nguồn tư liệu

TừYeahh: ( thank yeahh )

- Hồi 9 năm kháng chiến chống TD Pháp trở lại xâm lược , nhân dân TH đã nhịn ăn để đóng góp vào Hũ gạo kháng chiến dành cho chiến trường Điện Biên Phủ ( nên nhớ , phân nửa số lương thực , đoàn dân công xe thồ là của tỉnh Thanh đóng góp . Ngày còn sống , ông nội mình vẫn luôn tự hào , kể với con cháu , ngày xưa ông cũng là 1 trong số những người dân công đẩy xe đạp thồ lương thực từ xứ Thanh lên Điện Biên )

- Vì nhịn đói để góp gạo chuyển lên chiến trường , nhân dân Thanh Hóa rất đói khổ . Nên họ đã ra đường tàu đào lá rau má về luộc ăn ( lá rau má mọc ở đường tàu thì to và nhiều hơn chỗ khác ) . Mặt khác , sau khi đào lá rau má xong , dân và quân vùng Hà Trung , Hoằng Hóa đã phá luôn đường tàu để thực dân Pháp không có phương tiện vận chuyển khoáng sản vê nước và vận chuyển quân lính ( Trước khi mở ra chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử , đại tướng Võ Nguyên giáp đã cho QDND VN đánh Tây Nguyên , Nam Lào trước , buộc Thực dân Pháp phải vận chuyển rất nhiều quân lính vào chiến trường Tây Nguyên , Nam Lào để cố thủ , nên phương tiện vận chuyển bằng đường sắt là rất quan trọng )

Câu chuyện quanh những hạt cơm thừa

QUẢN TÚC   -6/9/2008 11:00:00 AM

- Lần sau nấu cơm, cháu nên tính toán lượng gạo cho vừa. Bữa nào còn thừa cơm thì tận dụng để bữa sau dùng lại, đừng phí phạm thế.

- Ôi dào, ba hạt cơm thừa ấy mà chú, tiếc làm gì.

Nhìn những hạt cơm trắng ngà phút chốc bị nhuộm đen bởi nước rãnh, tôi nao nao buồn. Cách đây hơn tháng, cơ quan tôi mang mấy tấn gạo lên hỗ trợ cho một xã ở Mai Châu. Cái xã chỉ cách thị trấn mười lăm cây số ấy, từ lâu đã không mấy nhà còn nhìn thấy hạt gạo. Bữa ăn hàng ngày của họ là sắn, là bất cứ thứ củ rừng nào ăn được và các loại rau rừng. Ngay cả nhà bí thư, chủ tịch xã cũng không thoát khỏi cảnh đó. Hai tấn gạo cho một xã, mỗi khẩu chỉ được mấy cân, quả là muối bỏ bể. Đến nay, chắc họ lại trở về với chế độ sắn mốc, rau rừng, vì mùa gặt chưa đến...Tôi bảo đứa cháu:

- Cháu có biết vì sao các cụ lại gọi hạt gạo là “ngọc thực” không?

- Không ạ.

- Vì trong mỗi hạt gạo đều thấm đẫm mồ hôi của những người làm ra nó. Người nông dân Việt Nam ta có câu “Cày đồng đang buổi ban trưa/ Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày/ Ai ơi bưng bát cơm đầy/Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”. Người nông dân Trung Quốc cũng có câu “Cày ruộng giữa giờ ngọ/ Lưng áo mồ hôi rỏ/ Ai biết cơm trên mâm/ Mỗi hạt mỗi tấn khổ”...

- Đó là chuyện ngày xưa. Bây giờ, còn ai đói cơm nữa đâu chú.

- Không phải chuyện ngày xưa mà là chuyện của cả ngày nay nữa. Vợ chồng mày sống trong thành phố, quanh mình đủ cả ti vi, máy tính…mà sao cứ như đôi ba ba trong hũ thế.

Thằng chồng đang pha cà phê, chợt ngừng lại nói chen vào:

- Hôm nọ chúng cháu xuống huyện L. xem xét một số trường hợp sử dụng đất sai mục đích. Đến trưa, lãnh đạo huyện kéo ra nhà hàng, chưa đến chục người mà họ gọi số thức ăn dễ đến hai chục người ăn mới hết. Lúc về, trên bàn còn bừa bộn. Bọn nhà hàng nó trút ráo xuống ao…

- Những cảnh đó, thì chú được chứng kiến nhiều gấp mấy lần cháu…

Điều tôi nói là thực lòng. Làm nhà báo, tôi đã hàng chục lần, vì không thể từ chối được mà phải dự những “bữa cơm thân mật” do các ông trưởng các cơ quan, các ông giám đốc doanh nghiệp mời. Gọi là “bữa cơm thân mật” mà thức ăn đầy ngập bàn, bia rượu tràn như suối. Những trận chạm cốc “trăm phần trăm”, những tiếng hét “dô…dô…dô” như xé màng tai…cuối bữa, trên mâm vẫn còn ngổn ngang, nhiều đĩa thức ăn trị giá cả trăm ngàn được dọn ra hầu như chỉ để vui mắt, vì chúng mới chỉ vợi đi chút ít…mà chẳng thấy một ai tỏ vẻ xót xa. Có hề gì, tiền đó là tiền công...

Vốn gầy yếu, khảnh ăn, tôi chịu đựng những bữa ăn đó như chịu cực hình. Và những hình ảnh trong bài thơ “Sở kiến hành” (Những điều trông thấy) của thi hào Nguyễn Du, không hiểu sao, những lúc ấy lại cứ trở về bám riết lấy tôi. Này đây là ba mẹ con rách tả tơi, mặt xám ngắt vì đói, tay khư khư cái giỏ trong chỉ có cám và rau dại, đứng run rẩy bên đường dưới cái rét cắt da.

Và bên kia, trong nhà công là những lò than hồng rực, những áo gấm đai vàng choáng mắt, và những “Mâm cỗ sao mà ê hề/ Vây cá hầm gân hươu/ Lợn dê bát đầy ngút/ Quan lớn không ngó qua/ Các thầy chỉ nếm chút/ Thức ăn thừa đổ đi/ Quanh xóm no đàn chó…”. Câu hỏi gay gắt của nhà thơ “Ai biết bên đường kia/ mấy mẹ con đói khổ” không phải chỉ dành cho thời cụ sống, bởi bây giờ người dân đói đâu phải đã hết, và những bữa tiệc bằng tiền công càng ngày càng sang hơn, to hơn, không chỉ ăn mà sau lúc ăn nhiều khi người ta còn “chơi” nữa...

Đêm ấy, trước lúc đi ngủ, tôi còn ngồi ở bàn, giở cuốn sách viết về vua Ung Chính nhà Thanh trong cặp ra đọc. Và lát sau, làm như vô tình, tôi để ngỏ đúng cái trang tả về bữa ăn của nhà vua rồi sang phòng khách ngủ. Trang sách viết rằng bữa ăn của vị hoàng đế chỉ có một đĩa thanh chưng tố hoàn tử, một đĩa rau cần xào với xương sống lợn, một đĩa cuống đỗ xào và một bát cơm trắng. Ung Chính chậm rãi nhai. Một hạt cơm vãi xuống mâm ngài cũng dùng đũa gắp lên miệng.

Đĩa cuống đỗ ăn hết rồi, chỉ còn sót một ít nước, nhà vua còn tráng nước sôi ăn sạch sành sanh. Xong, ngài đứng dậy, chỉ đĩa rau cần xào chưa đụng đũa, bảo người hầu: "Món này cất đi, chiều hâm nóng lên trẫm lại dùng". Viên tổng đốc Lưỡng Giang lúc đó cũng có mặt, đã than phiền: “Tâu bệ hạ. Mâm cơm của bệ hạ không bằng mâm cơm của một viên tri huyện. Tại sao bệ hạ phải chịu khổ thế?". Nhà vua điềm tĩnh bảo: “Trẫm làm hoàng đế, được cả nước tuân phục. Cơm nào mà chả gọi đến được. Cao lương mỹ vị nào mà chả sai mang đến được. Nhưng từ chỗ ta tiết kiệm đến chỗ xa xỉ thì dễ thôi. Còn từ chỗ xa xỉ mà bảo tiết kiệm thì khó khăn lắm đó”.

Lát sau, nghe hai vợ chồng nó xì xào. Chắc chúng nó vừa đọc lướt cái trang sách đó. Tôi lắng tai. Tiếng con vợ nhỏ quá không biết nó nói gì. Thằng chồng thì chặc lưỡi :

- Chú già rồi, hay suy nghĩ lẩn thẩn!

Sống Trên Đá

Một hôm bố kể là có gia đình đã bỏ vùng núi cao, hạ sơn xuống thung lũng bằng phẳng. Mẹ hỏi: "Thung lũng đó có xa đây không?" Bố nói: "Không xa đâu, chỗ có đường ô tô mà khi đi chợ ta vẫn qua ấy." Mẹ hỏi: "Đã có nhiều nhà chuyển đi chưa?" Bố nói: "Bản mình có mấy hộ, còn bản bên họ đã đi gần hết." Bà ngồi thêu hoa văn vào kuôk-sêr, nói: "Người Mông ta bao đời nay đều ở trên núi, làm bạn với đá, sống đời ở kiếp với đá. Cái mắt đã quen nhìn, cái chân đã quen bước trên đá, bây giờ bỏ đi nơi khác nghe chừng cái bụng nó không ưng. Tao già rồi, có mời tao cũng không đi đâu hết. Khi chết tao muốn được ở gần tổ tiên." Bố nói: "ở lại, cái nương ngày càng ít bụi bay lên, đất đã cằn lắm rồi, bắp ngô ngày càng bé nhỏ, năm nao cũng thiếu ăn, năm nào cũng đói." Bà nói: "Ngày xưa chúng ta lang thang khắp núi rừng, cái chân đi đã mỏi, tao không còn sống được mấy nữa, tao chán cái cảnh nay ở mai đi rồi, tao chỉ ở nơi này thôi, không ai ở thì tao ở một mình..." Bà đã nói rất nhiều. Bố mẹ không nói gì. Còn tôi, không mấy hứng thú với câu chuyện của bà và bố mẹ nên đã không nghe nữa mà ra đầu nhà, chèo lên cây đào có cái cành chìa ra từ vách núi ngồi ngắm thung lũng đang thả sương vào chiều. Bà nói vậy tôi thấy vừa cái bụng. Phải xa nơi này, chỉ nghĩ đến thôi tôi đã thấy chông chênh nghiêng ngả như đang ngồi trên cành cây sắp gẫy. Nhưng nghĩ như bố mẹ không phải không nghe được, ở lại thấy cái đất nó ít quá, cây ngô trồng xuống không lên được, rồi cái nghèo, cái đói cứ đeo bám ta mãi thì cũng khó mà sống nổi...

    Có nhiều thứ gắn bó với cuộc sống của người Mông, nhưng với đá thì hình như có một cái gì đó thật đặc biệt. Từ thời xa xưa, bà nói rằng người Mông chưa biết làm nhà đã ở trong hang đá, lấy tảng đá làm giường, lấy khe đá làm nơi bắc bếp đun nấu. Sau này con người đã biết làm nhà thì đá cũng vẫn gần gũi như ngày nào, đá kê cột dựng nhà, đá bắc kiềng nấu bếp, đá làm ghế ta ngồi...

    Cuộc sống quanh năm suốt đời gần gũi với đá, làm bạn với đá. Ra khỏi nhà, đi chợ, đi nương, đi lên rừng, đi gùi nước, đi phơi sợi lanh cũng đều được gần đá. Đá còn cho con người cái ăn nuôi dưỡng sự sống, con người trồng cấy trên đá, hạt lúa hạt bắp nẩy mầm trên đá. Cái nương của người Mông luôn thấp thoáng bóng dáng của đá. Có cái nương ít đất quá hạt bắp không lên được con người lấy đá xếp quây lấy đất, hoặc gùi đất từ chân núi lên thả vào từng hốc đá làm thành nương trồng ngô. Con người cứ như con ong cần mẫn làm lụng, mãi đến khi cây lớn lên xoá dần đi màu xám của đá mới thấy lòng vui lên ít nhiều. Khi cây cho bắp, hạt lép nhiều hơn hạt mẩy lòng người lại thấy buồn nhưng con người vẫn phải sống, vẫn phải vươn lên và công việc của năm sau lại được lặp lại.

    Nếu bạn đến quê tôi, bạn sẽ gặp những bức tường đá xếp rất gọn ghẽ và rất đẹp bao quanh ngôi nhà. Mọi người nghĩ rằng khi xếp đá quanh nhà làm hàng rào sẽ được đá bảo vệ không cho con ma ác đến gần, con người không bị đau yếu tật bệnh,... Hàng rào đá còn giúp con người canh giữ tài sản, tạo nét thẩm mĩ cho ngôi nhà. Có hàng rào được xếp cả năm mới xong, đá được chọn lựa rất cẩn thận, giữa hòn nọ với hòn kia không có khe hở, có như vậy hàng rào mới chắc chắn. Họ kị nhất hàng rào được xếp lên mà bị đổ xuống, đó là điềm không tốt, con người không được thần đá bảo vệ nữa. Vì vậy việc làm hàng rào không bao giờ được làm qua loa. Việc xếp đá phải nhờ người khéo tay, hòn đá đầu tiên phải đặt theo hướng thầy mo chỉ, đó là hòn đá quan trọng, là điểm mấu chốt tạo nên bức tường, là nơi thần đá ở và làm công việc bảo vệ cho gia đình sau này.

    Khi một người được tổ tiên gọi về, cô giáo bảo là về với đất nhưng cái điều tôi nhìn thấy lại khác. Người chết được mang lên núi, chọn một hốc đá theo hướng mà thầy mo tìm ra và bảo đó là nơi người chết nằm xuống, nếu không có hốc đá thì con cháu phải đào, công việc rất khó nhọc nhưng cái hướng nằm là quan trọng. Đặt người chết vào đó rồi lấy đá xếp lên, là nam thì xếp bảy bậc, là nữ thì xếp chín bậc. Đá sẽ bảo vệ thây ma được vẹn toàn, đá ủ ấm cho tấm thân đã lạnh đi khi ở dương thế.

    Trong tâm linh người Mông, so sánh giữa các thần, thần đá chiếm một vị trí khá quan trọng. Vào các ngày lễ, tết con người thường cúng thần đá. Thần đá nằm trong tảng đá to gần nhà ở, hay gần đường đi. Đặc biệt thần đá còn là người cha nuôi kỳ diệu, với những đứa trẻ khi sinh ra khó khăn, nuôi dưỡng vất vả hoặc hay đau yếu. Khi làm lễ để thần đá nhận đứa trẻ làm con nuôi xong, đứa trẻ sẽ lớn lên khoẻ mạnh không bị đau ốm nữa, con ma ác không dám đến gần làm hại đứa trẻ.

    Khi chọn được một tảng đá lớn ở vị trí linh thiêng, bố mẹ đem lễ vật và cõng đứa trẻ đến tận nơi, khấn xin thần đá nâng đỡ, che chở cho đứa trẻ, sau đó người bố hoặc người mẹ lấy một đoạn dây rừng buộc vào đứa trẻ rồi quấn dây vào tảng đá. Làm lễ xong họ bện sợi dây lại và đeo vào người đứa trẻ. Từ đây cuộc đời đứa trẻ sẽ được gặp những điều may mắn, tốt đẹp.

    Bà nói rằng: "Có ở lâu mới thấy, cái hồn của đá, của núi, của quê nó ăn vào máu rồi. Không dễ mà bỏ đi được đâu. Người Mông ta bao đời nay sống trên đá, làm bạn với đá, chưa thấy ai bị chết đói. Đừng bạc với đất, đừng bạc với quê kẻo không có đường mà về..."

    Tôi không hiểu mấy những lời bà nói. Tôi ra sau nhà, trèo lên núi, tìm tới tảng đá, người cha nuôi của tôi từ ngày sinh ra được một tuần đến bây giờ. Tôi nghe trong nắng, trong gió có điều gì đó rất lạ. Tự nhiên tôi cảm thấy rất lạ, những lần trước lên đây không hề có, hay vẫn có nhưng tôi không nhận ra. Cha nuôi của tôi đã già đi nhiều, cũ kỹ meo mốc, gần nơi tiếp giáp mặt đất rêu xanh mọc lấm tấm xung quanh. Tôi trèo lên trên tảng đá bên cạnh, thấy ở cái hố nước vẫn đọng lại sau mỗi trận mưa bỗng dưng nhú lên hai mầm cây, bốn cái lá nho nhỏ xinh xinh vẫy gió. Tôi ngồi xuống cạnh đó, từ nơi này nhìn rất rõ từng ngôi nhà và cái bản nhỏ của tôi.

    Bám vào sườn núi đá lởm chởm, từng mái nhà lợp gianh nhìn vừa thấp, vừa bé so với dãy núi vừa dài, vừa cao sừng sững. Trời sắp về chiều, ánh nắng đã bị mây che khuất từ lúc nào. Bao phủ lên cả sườn núi là màu xanh xao của khói sương và màu xám của đá. Và kia, từ những mái nhà, làn khói xanh đang thả vào chiều,... Một vẻ đẹp rất riêng bây giờ tôi mới nhận ra, những xúc cảm tự nhiên cứ trải dài theo gió, theo núi, cao vút lên tận mây.

    Ngay gần nơi tôi ngồi, ngay phía dưới kia thôi là ngôi nhà của tôi với cái mái gianh thâm đen, làn khói bếp đang được thả đều đều thung lũng,... những nét thân quen hàng ngày!

    Và chính lúc này tôi đã hiểu được vì sao bà không muốn rời xa xóm núi nghèo khó, xa ngôi nhà gianh đơn sơ, xa màu xám thâm u của đá, xa dáng vẻ hùng vĩ của núi...

    Trải dài khắp các sườn núi, từng hốc đá đ• được dọn sạch cỏ, màu đất mới được xới lên và đang ủ trong mình những mầm ngô nho nhỏ. Rồi đây, chả mấy nữa, những cây ngô lớn lên, màu xám của đá lại bị khuất dần cho màu xanh vươn dậy.

Chủ nhật vừa rồi mình cùng ông nội đi siêu thị Coop Mart để mua đồ lặt vặt cho cả gia đình. Lang thang khắp  nơi mọi xó trong siêu thị sắp về rồi mới bạn Ngọc dặn mua mấy gói mỳ tôm để thỉnh thoảng ăn sáng. Sau khi mua mấy gói mỳ Gấu đỏ chợt nhìn thấy gói mỳ Miliket 2 con tôm. Thế là kỷ niệm ngày thơ bé lại ùa về và thế là quyết định mua thêm vài gói mỳ Miliket 2 tôm nữa. Về nhà nói chuyện tào lao thì bạn Ngọc lại cứ cười khì khì và bảo mình cứ ăn đi để rồi lại thất vọng. Cũng có thể thất vọng nhưng chắc chắn vẫn sẽ ăn hết chứ nhỉ. Nhớ lại hồi mình học lớp 4 hay lớp 5 gì đó thì bắt đầu sinh ra mỳ tôm. Ngày đó ngoài Hà Nội ngoài mỳ Sông Hồng ra còn có mỳ Miliket 2 tôm nữa. Mỳ Miliket phổ biến đến mức người ta đã gọi mỳ ăn liền là mỳ tôm. Mình nhớ hồi đó hình như là 500 đồng/1 gói mỳ. Nhưng mà nhà mình làm gì có tiền đâu mà để mua mỳ cho con ăn hàng ngày. Chính vì thế mà thỉnh thoảng lắm mình mới được ăn mỳ tôm. Mình nhớ mãi lần đầu mình ăn mỳ tôm. Hôm đó mình bị ốm, sốt và chóng mặt lắm nên không ăn được cơm. Mẹ thương nên mẹ mua cho gói mỳ để ăn trưa. Hôm đó mẹ lại có việc đi đâu, mẹ nhờ thằng Chinh chở mẹ đi. Thằng Chinh sang nhà, thấy mình chuẩn bị nấu mỳ nên còn dặn mình là đun nước sôi rồi cho mỳ vào nhưng chỉ cho mỳ khoảng 5 phút thì bỏ ra ăn. Của đáng tội, lần đầu được ăn thứ mỳ thượng hạng như thế nên mình rất là cẩn thận. Sau 5 phút theo lời thằng bạn dặn, mở vung nồi ra thấy vẫn còn nguyên hình gói mỳ, dùng đũa chọc chọc vào vẫn thấy hơi cứng nên mình yên tâm ninh mỳ thêm 15 phút nữa. Ôi thôi đến lúc bỏ mỳ ra ăn thì nó nát bét, chắc hơn cháo một tý.

Nhưng mầ lạ lắm, ăn vẫn thấy ngon mới chết chứ. Sau này cũng vẫn thỉnh thoảng được mẹ mua mỳ tôm cho ăn. Đến giờ mình vẫn còn nhớ mùi hương thơm ngát của bát mỳ đang bốc hơi nóng nghi ngút. Thật sự cảm giác tuyệt vời đó  không làm sao quên được.

Một kỷ niệm đáng nhớ nữa là ăn mỳ tôm xào. Anh Hải Thổ và mình trưa đó học xong đi đá bóng nên về muộn. Nó rủ mình về nhà nó, nó xào mỳ tôm cho ăn. Nghe đến mỳ tôm là sướng rồi, chẳng cần suy nghĩ gì cả nên gật đầu OK đi luôn. Về nhà nó hý hửng đợi nó xào mỳ, nhìn nó đun nước sôi, trần mỳ rồi xào mỳ mà sốt ruột kinh. Lúc nó bê đĩa mỳ xào xuống thấy sướng lắm, ăn lấy ăn để. Chỉ có điều mỳ xào như hơi mặn, mà không phải là hơi mặn, mặn quá luôn. Giờ thì sao nào, bỏ đi thì tiếc, cả một đĩa mỳ lớn thế cơ mà. Thôi đành ăn vậy, ông bạn thì ăn cơm nguội nhìn mình ăn mà cười hỷ hả. Ăn xong mình uống 3, 4 cốc nước lọc mà vẫn thấy khát khô cả họng.

Mấy hôm sau mình mới thủ thỉ hỏi nó là hôm nọ nó xào mỳ rất ngon nhưng mà có vẻ hơi mặn. Ông bạn ngẫm nghĩ một lúc thì sực nhớ ra là mỳ tôm nó cũng có gia vị rồi nên khi xào mỳ người ta bỏ rất ít bột gia vị hoặc có khi không bỏ. Hôm đó thấy mình đói nên nó xào 2 gói mỳ liền và cũng tiện tay bỏ vào cùng cả 2 gói bột gia vị luôn

Lần này mẹ cũng nấu mỳ 2 tôm cho mình, hôm thì cho thịt xay, hôm thì cho thịt bò. Nói chung là đầy đủ gia vị, dinh dưỡng mà sao mình không cảm thấy ngon như ngày xưa nữa. Lúc đó nghĩ thấy vừa vui vừa buồn. Vui vì cuộc sống đã đấy đủ hơn xưa, không còn thiếu ăn như trước nữa. Buồn vì cảm giác ngày xưa đã không thể có lại được nữa. Cái gì đã qua đi chỉ có thể nhớ lại chứ khó có thể tìm lại nguyên vẹn giống trong quá khứ được.

Cái lon sữa bò

Người ta nói khi kinh tế phát triển thì “cái hố” ngăn cách giữa giàu và nghèo sẽ ngày một lớn, sự phân hóa xã hội sẽ ngày càng gay gắt hơn... Cái hố lớn, sâu hay rộng ấy xin dành cho những nhà nghiên cứu, nhưng riêng có một vật dụng hằng ngày mà ai cũng đều bình đẳng sử dụng như nhau. Người miền Nam gọi đó là cái lon sữa bò người miền Bắc gọi cái ống bơ....

Không biết là khi nào và ai là người đầu tiên có sáng kiến dùng cái lon sữa bò để đong gạo...Chỉ dám chắc một điều là sáng kiến đó hẳn có sau ngày người dân Việt biết uống sữa đặc có đường...Từ ngày đó đến nay, có biết bao thăng trầm thay đổi, bao sáng tạo, cải tiến, phát minh... Đồ nhôm, đồ nhựa, đồ giấy lần lượt ra đời vậy mà chẳng có cái gì thay thế được cái lon sữa bò đong gạo...Chẳng ai đong gạo bằng ly, bằng ca hay bằng hủ. Nào ai dám thay đổi một vật dụng đã “có hồn” và thay thế làm gì cái đã trở nên đắc dụng. Còn cách đo lường nào nhanh chóng hơn cho bà nội trợ: Ba lon là một lít, còn còn bốn lon chính xác một cân...

Cái lon sữa bò đã thành văn hóa tình làng nghĩa xóm, ngày xưa thiếu ăn chòm xóm cho nhau mượn một vài lon gạo để kịp đỏ lửa bữa cơm chiều...Chàng đi công tác thiếp nào quên tính ngày để đong theo cho chàng đủ bữa... Gánh hàng ra chợ từ sớm tinh mơ, mẹ nhẩm thầm, hôm nay sẽ đong về được bao nhiêu gạo cho con... Năm tháng chiến tranh, hủ gạo nuôi quân ngày nào nhà nhà từng bữa nấu cơm mà chiếc lon lại quên sớt phần cho chiến sĩ....Thế hệ trẻ dù không đong gạo bằng nong nhưng cũng đã vươn vai lớn lên như Thánh Gióng...

Chỉ là một loại bao bì, cái lon tự nhiên được chọn rồi đi vào cuộc sống. Một vật dụng xài xong tưởng chỉ để bỏ đi bỗng trở nên bất hủ. Đất nước từ những năm tháng thiếu ăn đến thời kỳ vươn mình thành cường quốc lúa gạo, cái lon vẫn vơi đầy theo từng hoàn cảnh xã hội, gia đình. Gạo đầy lu hay cạn đáy chỉ mình lon vui buồn biết trước. Từ bao giờ lon đã là chứng nhân của trỉu nặng của đong đầy ơn dưỡng nuôi từ cha mẹ với đàn con...

Cái lon chung thủy nghĩa tình trải dài theo năm tháng...Đời sống xã hội dù đã rất hiện đại nhưng nhà nhà vẫn cứ đong gạo bằng lon...Cái lon đã trở thành truyền thống, như một thành viên thân thiết của mọi gia đình... Và những gì thuộc về truyền thống chắc chắn rằng mãi sẽ chẳng bao giờ bị mất đi...

Bánh tu hú ngày mưa

Bánh tu hú vốn được làm để chống đói trong những ngày giáp hạt. Bánh có vị ngọt, bùi của khoai, của lạc và của ký ức một thời...Những ngày rét tháng ba ở miền trung, mưa dầm dề từ sáng cho đến sẩm tối.

 Không khí âm u cứ gây cho lòng người một cảm giác buồn buồn đến lạ. Vậy nhưng, lũ trẻ con chúng tôi thích lắm. Bởi tôi biết, những ngày đó bà ngoại tôi không ra đồng, thế nào bà cũng đồ một nồi bánh tu hú cho chúng tôi. Ngày ấy, không còn gì thú vị bằng khi được ngồi quây quần bên bà, nghe bà kể chuyện trong lúc chờ bánh chín.

Ngày xưa, còn nghèo đói, qua ngày mùa lại thiếu ăn. Gạo không có đã đành, khoai sắn cũng thiếu. Để chống đói, nông dân quê tôi sau ngày thu hoạch, khoai dỡ ra chỉ ăn một ít, còn lại thái mỏng, phơi khô để dành cho những "tháng ba ngày tám". Bánh tu hú được làm từ chính những lát khoai để dành ấy.

Làm bánh tu hú chẳng cầu kỳ. Khoai khô được xay thành bột, nhào nước và trộn với một ít lạc, có thể cho thêm một chút muối để bánh đậm đà hơn. Bánh được vắt bằng cách đắp bột vào ngón tay trỏ, dùng tay kia nắm cho đến lúc bánh thành hình. Những chiếc bánh bà tôi vắt thì to, in hình những vết chai năm tháng. Bánh chúng tôi vắt nằm cạnh, trông cứ nhỏ xíu. Ngoài bánh có in hình các ngón tay, rút ra ở giữa có một lỗ nhỏ do ngón tay trỏ để lại. Bà tôi bảo: Làm vậy, khi cho vào chõ đồ lên, bánh sẽ chín nhanh, chín đều hơn. Lũ chúng tôi lại tưởng tượng đó là miệng của những con chim tu hú và vẫn thường đưa lên miệng giả vờ thổi, làm như tu hú gọi bầy. Cho nên, bánh có tên tu hú cũng là vì vậy, dù bà tôi chỉ gọi là bánh khoai. Mặc bên ngoài trời mưa rét thế nào, chúng tôi vẫn được ấm áp bên bếp lửa, thưởng thức món bánh của những ngày mưa.

Bây giờ chắc chẳng còn mấy ai biết đến cái bánh "chống đói" ấy nữa, nhưng mỗi lần mưa rét, tôi lại nhớ, lại thèm được bà làm món bánh tu hú ngày xưa. Bởi không ngọt đậm nhưng cái chân chất, ngọt bùi của khoai, lạc ngấm sâu hương đất hồn quê cũng thơm thảo như tấm lòng người dân quê vậy. Trong ánh lửa bập bùng, nồi bánh bốc khói, mang hương vị của đồng quê đã thấm sâu vào trong trí nhớ mỗi đứa chúng tôi.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: