Azit nexin
Tuyển tập truyện Azit Nexin
Cái kính
Một hôm, cách đây chừng 7, 8 tháng, có người bạn hỏi tôi:
- Tại sao anh không đeo kính?
- Làm sao tôi phải đeo?
- Tuổi anh bây giờ là phải đeo rồi chứ còn sao nữa. Không đeo, đến lúc mắt hỏng nặng, không nhìn thấy gì đâu!
Từ lúc người bạn đó ra về, mắt tôi tự dưng mờ hẳn. Nhìn gần nhìn xa đều không rõ nữa.
Lâu nay tôi vẫn thầm mong cho tóc chóng rụng, cho trán hói đi. Rồi đeo thêm chiếc kính vào cho ra dáng trí thức. Vì tôi cho như thế là dấu hiệu của một anh trí thức. Ngay như anh bán thịt bây giờ mà để trán hói và mang kính vào, tôi cho trông cũng không khác gì giáo sư đại học! Nhưng cái mơ ước ấy của tôi không thực hiện được, vì tóc tôi mỗi ngày một dày thêm. Thế thì ít ra tôi cũng nên sắm cái kính mà đeo vậy. Ai nhìn thấy tôi, người ta phải bảo: bác học đấy!
Vậy là tôi đi khám đốc tờ. Khám xong, ông này bảo tôi:
- Anh bị cận thị! 1, 75 đi-ốp!
Theo đơn ông ta dặn, tôi sắm một cái kính. Nhưng cứ động đeo vào là tôi thấy mặt mày sa sầm, buồn nôn không chịu được. Thậm chí có lần, nói vô phép các bạn, tôi nôn thật! Nôn thốc nôn tháo, nôn ra cả mật xanh mật vàng. Không đeo thì không nhìn thấy gì, mà đeo thì tuy nhìn thấy được, nhưng lại bị cảm giác buồn nôn. Thật đúng là khổ!
Một ông bạn khác thương hại bảo tôi:
- Tôi có thể giới thiệu với anh một ông bác sĩ giỏi. Anh hãy đến ông ta khám xem!
Ông bác sĩ này xem mắt tôi, rồi xem chiếc kính.
- Thằng cha lang băm nào cho anh đơn mưa cái kính này thế? Có phải anh bị cận thị đâu!
- Thế tôi bị làm sao ạ?
- Viễn thị ! 2 đi-ốp!
Tôi lại mua kính mới. Đeo chiếc kính này tôi không còn thấy chóng mặt buồn nôn nữa, nhưng lúc nào cũng bị chảy nước mắt. Đâm ra mắt tôi lúc nào cũng đỏ hoe; như khóc ai vậy. Tôi bị cái cảm giác thương xót rất lạ. Cặp kính này chỉ có đeo để đi đưa đám là hợp.
Một ông bạn thân tỏ vẻ ái ngại cho tôi:
- Thế này thì cậu đến mù mất! Cậu phải đi khám bệnh viện nhà nước xem sao! ở đấy họ khám cẩn thận. Lại có giáo sư nhãn khoa nữa, chứ không như mấy ông bác sĩ tư!
Bệnh viện nhà nước quả là có khác thật : máy móc nhiều, mà dụng cụ cái gì cũng sáng loáng.
Tôi được một giáo sư khám. Tôi kể cho giáo sư nghe cái bất hạnh của tôi:
- Người thì bảo tôi là cận thị, người thì bảo là viễn thị!
Giáo sư giận lắm :
- Quân ngu! Anh không phải cân thị, cũng không phải viễn thị, mà là loạn thị!
Theo đơn của giáo sư, tôi mua đôi kính khác. Cặp kính này tôi đeo vừa lắm, trông cái gì cũng rõ. Phải mỗi tội bây giờ cái gì như cũng lùi hẳn ra xa. Mấy bức tường trong căn buồn tôi sống hàng chục năm nay dường như bị lùi xa đến hàng ba chục thước. Tôi giơ tay chực bắt tay người quen, nhưng không sao với tới được. Định viết, giấy đã chạy xa khỏi tay đến hai thước. Nhìn vật gì cũng thấy bé tí xíu. Người thì chỉ bằng hạt đậu ván... Nhưng hại nhất là tôi không ăn uống gì được. Vì vừa ngồi vào bàn là đĩa thức ăn đã chạy đi xa hai chục thước rồi. Mùi súp nóng bốc ngay dưỡi mũi, nhưng cứ cầm thìa chực múc, thì bát súp đã ở cách xa hàng hai mét! Tôi không ăn uống cử động gì được nữa. Một anh bạn phải dắt tay tôi đến một bác sĩ khác tốt nghiệp ở Mỹ về. Khám xét cẩn thận xong ông ta bảo tôi:
- Đứa nào cho anh đơn mua cái kính này đây? Đúng là đồ lang vườn dốt nát ! Anh cứ kiện lên phòng công tố cho nó bỏ mẹ!
- Thôi ! Cứ để thánh Ala trừng phạt hắn ! - Tôi nói.
Tôi lại thay kính mới. Bây giờ mắt tôi nhìn cái gì cũng hoá hai. Nhà tôi đang bảy người, bỗng nhiên thành mười bốn. Mỗi người lại có một người giống hệt mình. Thật tôi chưa bao giờ thấy chuyện lạ như vậy. Chả lẽ lại có những người giống nhau đến mức độ như thế hay sao? Vô lý quá! Nhìn xuống chân thì thấy bốn chiếc ủng, nhìn bàn tay thì thấy có mười ngón!
Tôi đến một ông bác sĩ khác. Ông này học ở Đức về.
- Ai bảo anh đeo kính này?
- Làm sao ạ?
- Sai chứ còn sao nữa!
Hoá ra một mắt tôi bị viễn, còn mắt kia thì cận. Vị danh y mới lại ghi cho tôi chiếc kính khác. Bây giờ tôi không phân biệt được sáng tối ưữa. Xung quanh tôi tối như hũ nút.
- Đứa dốt nào ghi cho anh chiếc kính này vậy hả? Mắt anh hoàn toàn bình thường, có làm sao đâu?
- Nhưng tôi không thấy gì cả! Tối cứ như bưng ấy!
- Thế là anh bị quáng gà thôi, chứ chẳng có làm sao hết!
Lại uống thuốc, lại tiêm, lại kính mới... Bây giờ các vật ở xa trông lại hoá gần. Chân đáng lẽ leo lên tàu thuỷ, thì lại bước ngay xuống biển... Vì tàu chưa cập bến, nhưng trông cứ như đã ngay sát bờ. Không còn viên bác sĩ nào trong tỉnh là tôi chưa mò đến! Ông này bảo mắt phải tôi cận, mắt trái viễn thì ông khác nói ngược lại. Ông trước kêu bị loạn thị thì ông sau phán là bị đục nhân mắt. Đeo kính của cái ông bảo tôi bị đục nhân mắt, thì cái gì cũng xa màu xanh cả. Có ông còn đoán tôi bị chứng mù màu. Nhìn phía trước nhìn sang bên, nhìn xa nhìn gần, cái gì cũng biến thành hai, màu sắc lẫn hết. Đi trên đường thẳng mà tôi có cảm giác như bước xuống cầu thang, mỗi bậc cách nhau hàng bốn năm chục phân. Tôi cứ phải bước từng bước dài như lạc đà vậy.
Một lần, đang đi trên cầu, thế quái nào tôi bước hụt một cái, ngã lăn quay xuống dưới. Vì cứ tưởng những bậc cầu thấp hơn đến một mét. Cái kính bị văng đi làm tôi không nhìn thấy gì nữa. Cái gì cũng mờ mờ ảo ảo. Người ta đỡ tôi dậy:
- Cái kính của tôi đâu rồi? - Tôi hỏi.
Họ tìm thấy kính đưa cho tôi. Tôi đeo kính vào thì... Thánh Ala ơi!... Mọi vật bỗng trở nên sáng sủa rõ ràng quá ! Vật nào đúng vật nấy, rõ mồn một! Rõ như chưa bao giờ tôi có thể nhìn rõ vậy. Hay kính của người khác chăng? Không! Đích thị kính của tôi đây mà! Đúng gọng sừng to màu đen đây! Tôi sướng không sao tả được! Bây giờ thì đừng hòng tôi bước chân đến một anh bác sĩ mắt nào nhé! Tôi đã đọc được cả mấy dòng chữ nhỏ nhất trên báo và nhìn rõ cả tên chiếc tàu thuỷ đậu tít ngoài xa. Tôi đi về nhà, lòng vô cùng sung sướng.
- Kính của anh sao thế kia? - Vợ tôi hỏi.
- Làm sao?
Tôi bỏ kính ra xem. Ngón tay thò qua được cả lỗ gọng! Té ra mắt kính đã bị vỡ rơi mất rồi mà tôi không biết.
Các Chủ Đề Khác:
o Bật lửa Zippo (20/09/2011)
o Ngược thời gian tìm về giây phút bên nhau (20/09/2011)
o hãy nói yêu thôi, đừng nói yêu mãi mãi (20/09/2011)
o 31 ngày không yêu (13/09/2011)
o Năm tháng mòn phai (13/09/2011)
o “Em là tình đầu, nhưng cô ấy mới là vợ anh” (07/09/2011)
o Trọn đời xấu xí (07/09/2011)
o Khát vọng (06/09/2011)
o TÌNH YÊU SIM BẤT BIẾN... (( độc quyền của HOÀNG SIM )) (05/09/2011)
o Sao anh lại đi qua đời em (31/08/2011)
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
2. 23-11-2007 09:36 PM #2
manu
Respected Member
Ngày tham gia
Nov 2004
Đến từ
...::...nơi tình yêu bắt đầu...::...
Bài viết
1,470
Thanks
570
Thanked 3,532 in 1,603 Posts
Người phụ nữ xã hội (Rút từ tập: Tình yêu cuồng nhiệt)
Ai bảo rằng việc người phụ nữ tham gia công tác xã hội là nguyên nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, là người ấy hoàn toàn nói bậy! Tôi có thể lấy ngay cuộc sống êm ấm của chính gia đình tôi đây để chứng minh.
Hồi ấy, do kết quả của sự nhập cảng dân chủ vào nuớc ta và nhờ chiến dịch vận động tranh cử rùm beng khắp nơi, mà việc bầu nghị sĩ bỗng trở nên dễ dàng hơn, nhưng sinh hoạt thì lại đâm khó khăn hơn, tôi buộc lòng phải cưới cô vợ có công ăn việc làm.
Vợ tôi là một viên chức hết sức mẫn cán. Những lúc rảnh rỗi, không có việc gì đan lát, nàng thường thích gây gổ cãi lộn với những bạn đồng sự. Tôi thì làm việc ban đêm ở một toà soạn.
Vào đúng cái hôm chúng tôi quyết định cưới nhau, vợ tôi được nhà băng cho nghỉ bù. Tuy thức suốt đêm làm việc, nhưng ngày hôm sau đó tôi vẫn không sao ngủ được. Chúng tôi đến phòng khai giá thú để đăng ký kết hôn. Ngay tối hôm ấy, để người vợ yêu ở lại một mình trong căn buồng ấm cúng, tôi đến toà soạn làm việc. Sáng hôm sau, lúc trở về tổ ấm, tôi thấy mảnh giấy của vợ gài trên cửa buồng ngủ:
"Chồng yêu của em!
Em đến nhà băng đây. Hôn đôi mắt nhỏ của anh".
Tôi đọc mảnh giấy của vợ mà cảm động đến rơi lệ. Sau đó tôi leo lên giường làm một giấc đến tận chiều. Khi tỉnh dậy vợ tôi vẫn chưa đi làm về. Sợ đến toà soạn trễ, tôi cũng viết cho vợ một mẩu giấy và gài đúng chỗ đó:
"Con mèo nhỏ của anh!
Anh đi làm đây. Vì đã trễ giờ rôi! Hôn đôi má thơm tho của em!"
Sáng hôm sau chúng tôi cũng không gặp được nhau. Nhưng người vợ chung tình của tôi không quên để lại cho tôi một lá thư nồng nàn âu yếm, với những lời lẽ ngắn gọn, cô đọng như mệnh lệnh của viên chỉ huy dũng cảm trước giờ tấn công.
"Anh bé bỏng của em!
Em đi đây. Hôn anh một ngàn,ngàn, ngàn cái!"
Tôi lại viết trả lời ngay:
"Em bé bỏng của anh!
Anh đã nhận được thư em. Cám ơn em nhiều nhiều. Hôn đôi môi ngọt ngào của em.
Chồng của em ứ Haxan Kaphađan"
Từ đó chúng tôi bắt đầu ôm nhau và hôn nhau qua các bức thư. Ba tháng sau kể từ ngày chúng tôi cưới nhau. Trong một bức thư để lại cho tôi vẫn ở chỗ cũ trên cửa buồng ngủ, vợ tôi viết:
"Anh thân yêu! Cám ơn anh một ngàn lần vì đã gửi thư cho em. Em vẫn rất khoẻ và mong anh cũng khoẻ như thế. Em xin báo ngay để anh biết tin mừng là chúng ta sắp có con. Em cảm thấy hình như em hơi có mang. Nhưng không sao cả đâu, anh đừng lo lắng gì cả! Bác sĩ bảo là đã đến tháng thứ tám. Em rất muốn đứa con của chúng ta lớn lên sẽ thành một công dân có ích cho xã hội. Nhưng muốn vậy chúng ta phải sát cánh cùng nhau làm việc thật hăng say hơn nữa, anh nhé! Anh nhớ viết thư cho em luôn đấy. Em chờ.
Pakide Kaphađan riêng của mình anh."
Như bất cứ ông bố nào, tôi sung sướng vô hạn khi nhận được tin đó. Tôi lập tức viết thư trả lời vợ dán lên cửa buồng ngủ:
"Nàng tiên của anh.Anh sung sướng không sao tả xiết. Anh đã mua tặng em cái trâm cài đầu. Em cứ lật gối lên sẽ thấy. Hôn em nghìn, nghìn, nghìn lần".
Tất nhiên, vợ chồng sống với nhau lâu ngày cũng dần quen đi, và ngọn lửa yêu đương nồng đượm ban đầu cũng dần dần nguội lạnh.
Chúng tôi đã quen với cuộc sống gia đình, nên cũng bắt đầu ít quan tâm đến nhau hơn. Thậm chí chúng tôi quên cả viết thư cho nhau, hoặc viết rồi quên không gài lên cửa. Mấy năm sau thì chuyện thư từ thôi hẳn. Nhưng căn cứ vào những chiếc bít tất hay những cái quần áo lót của vợ tôi vương vãi trên bàn ăn hay trên mặt rađiô mà lần nào dọn buồng tôi cũng nhặt được, tôi biết rằng vợ tôi vẫn thường đảo về nhà.
Cuộc sống hạnh phúc của gia đình chúng tôi cứ trôi qua nhiều năm như thế.
Một hôm đi làm về, thấy người mệt mỏi, tôi rẽ vào rạp xem phim, ở trong rạp, tôi đã gặp một chuyện hết sức bất ngờ. Tôi đang ngồi thì có một phụ nữ ăn mặc rất đứng đắn. Tự nhiên ôm choàng lấy cổ tôi mà kêu:
- Ôi, anh yêu, anh thương, anh quý của em!
- Ấy ... ấy!... Xin lỗi!tôi hoảng quá, nói lắp ba lắp bắp. Tôi là người đã có gia đình rồi. Tôi là bố của một gia đình. Xin bà buông tay ra. Tôi không thích những chuyện lả lơi như vậy.
Người đàn bà nói:
- Anh không nhận ra em ư? Chao ôi! Thật là xấu hổ! Em là Pakidê Kaphađan, vợ anh đây mà!
Tôi ngượng quá, đỏ dừ cả mặt.
- Nghĩa là... bà ...à ...em là.... cô vợ Pakiđê yêu quý của anh đấy à? Xin lỗi em, thế mà anh không nhận ra. Từ ngày không gặp em đến giờ, em lớn ra nhiều quá!
Vợ tôi chỉ vào ba đứa trẻ ngồi xếp hàng thong dong từ bé đến lớn, một đứa gái và hai đứa trai bảo tôi:
- Con chúng mình đấy!
Tôi làm điệu bộ của một ông bố, âu yếm nắm tay mấy đứa trẻ và bảo chúng:
- Rất hân hạnh được làm quen!
Nhưng phải tảng lờ đi như không nghe thấy câu đứa con gái yêu của tôi nói thầm vào tai mẹ nó:
- Mẹ chả có mắt nhìn người gì cả! Mẹ không chọn cho chúng cn một người bố nào đẹp hơn hay sao?
Đoạn nó chỉ vào một người đàn ông trông rất bảnh bao ngồi bên cạnh bảo tôi:
- Đây là bác cháu.
Đã bao năm trôi qua mà cuộc sống gia đình của chúng tôi vẫn hoà thuận, êm ấm, không có điều gì phàn nàn cả. Nói ví thử, giá tôi không lấy một người vợ có công ăn việc làm, thì suốt ngày chúng tôi sẽ mắng chửi nhau mất. Đằng này, lấy nhau cũng đã từng ấy năm trời, mà giữa chúng tôi vẫn không hề xảy ra chuyện gì có thể làm tổn hại đến hạnh phúc gia đình. Và bởi vì không sao tìm được thời gian để gặp nhau, nên giữa hai vợ chồng tôi cũng chẳng bao giờ xảy ra chuyện xích mích cãi cọ. Chúng tôi sống êm ấm, bình lặng, không hề giận hờn, cũng chẳng bao giờ đánh đập nhau.
Tấm gương của gia đình tôi há chẳng phải là bằng chứng hùng hồn cho việc người phụ nữ tham gia công tác xã hội là hoàn toàn không có hại gì đến hạnh phúc gia đình hay sao?
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
3. 23-11-2007 09:49 PM #3
manu
Respected Member
Ngày tham gia
Nov 2004
Đến từ
...::...nơi tình yêu bắt đầu...::...
Bài viết
1,470
Thanks
570
Thanked 3,532 in 1,603 Posts
Nhỏ và đẹp
Tôi bắt được 1 cuốn sổ tay dưới gầm bàn trong nhà. Nhưng hỏi người nhà thì không ai nhận. Ai cũng bảo: "Không phải của tôi!" Cuốn sổ xinh xắn, bọc bìa xanh, có hàng chữ nổi mạ bạc trông rất đẹp. Tôi mở ra xem là của ai. Vừa đọc trang đầu tôi đã thấy kinh ngạc. ở đó có ghi tên, địa chỉ, số điện thoại của 1 ông to, ông rất to. Lật trang sau cũng lại thấy ghi lần lượt tên, địa chỉ, số điện thoại của 3 nhân vật khác cũng rất có danh tiếng. Cứ thế tôi giở hết trang này đến trang khác và nỗi kinh ngạc của tôi mỗi lúc 1 tăng.
Các bạn cứ nghĩ xem: trong nước có bao nhiêu nhà hoạt động chính trị tai to mặt lớn, bao nhiêu quan chức có thế lực, thì địa chỉ của tất cả các vị này đều được ghi vào sổ. Người kém vế nhất trong số đó cũng là 1 tổng giám đốc. Tôi lại còn để ý thấy thêm 1 điều này nữa: các nhà hoạt động chính trị có tên trong sổ đều là những người hiện đang cầm quyền. Ai ở vào địa vị tôi mà chẳng phải ngạc nhiên? Ðối với tôi, cuốn sổ ghi địa chỉ những người có thế lực thật chẳng khác gì 1 trái bom nổ chậm. Ðúng là có kẻ nào thù hằn đã ném nó vào nhà tôi. Tôi chưa hình dung được cuốn sổ ghi địa chỉ những nhân vật tiếng tăm này có thể gây cho tôi điều gì rủi ro. Nhưng có điều không nghi ngờ gì nữa là nó được ném vào gầm bàn tôi với 1 ý đồ xấu xa. Tôi hoảng sợ vô cùng. Rất có thể, sắp có người bấm chuông gọi cửa ngay bây giờ, rồi bọn cảnh sát mặc thường phục sẽ ập vào nhà tôi và bảo: "Ðưa quyển sổ đây!" Còn tôi thì sẽ run như cầy sấy, hỏi laị: "Quyển sổ nào ạ?" Họ sẽ lục soát căn phòng tôi và tìm thấy ngay cuốn sổ dưới gầm bàn, như thể chính tay họ đã đặt vào đấy vậy.
Tôi biết chắc mọi việc sẽ xảy ra đúng như thế. Ðứa khốn kiếp nào ném quyển sổ vào nhà tôi, hắn đã đi báo cảnh sát! Rõ ràng la tôi đã sa vào cái bẫy hết sức nham hiểm rồi!
Bọn cảnh sát vớ được cuốn sổ sẽ hỏi ngay: "Nào, nói đi! Anh ghi địa chỉ tất cả những quan chức lớn nhỏ vào đây để làm gì? Anh muốn lập hồ sơ theo dõi lý lịch cá nhân của họ à? Anh sửa soạn tống tiền họ chăng? Hay anh định mưu sát?"
Lạy chúa! Lúc ấy tôi biết trả lời họ ra sao? Mà dù tôi có phân trần, thanh minh thế nào chăng nữa, chắc đâu họ đã tin tôi?
Thôi, tôi phải đem đốt ngay cuốn sổ rồi tung đám tan ra cho gió cuốn đi thôi!
Nhưng không biết đứa khốn nạn nào đã giăng bẫy đưa tôi vào tròng mới được cơ chứ? Tối hôm qua tôi có 3 người bạn đến chơi. Trong bọn họ thì 1 người là giảng viên trường đại học, 1 người làm việc ở thư viện trường tổng hợp, còn người nữa là giáo viên văn học...
Tôi đang đút cuốn sổ vào lò sưởi nhà tắm để chuẩn bị đốt thì có chuông gọi cửa. Anh bạn Halit của tôi đến.
Tôi quen anh đã 20 năm nay, anh làm việc ở thư viện trường đại học tổng hợp, và là một trong 3 người đã ngồi chơi ở nhà tôi tối hôm qua. Halit cũng đang hoảng hốt như tôi. Anh hỏi tôi:
-Sao trông anh tái nhợt đi thế?
Tôi cũng hỏi lại anh:
-Này, nhưng cậu cũng làm sao vậy?
-Lạy chúa, anh có thấy cuốn sổ tay tôi đánh rơi ở đây hôm qua không?
Tôi đưa cho anh quyển sổ:
-Quyển này phải không?
Anh nắm lấy tay tôi, reo lên:
-Giời đất ơi, đúng rồi! Thế mà tôi cứ tưởng đánh mất ở đâu, lo không thể tả được!
Tôi dẫn anh vào phòng làm việc.
-Còn tôi thì cũng được 1 mẻ hết hồn - tôi thú nhận - Cậu hãy nói thật cho tôi biết, cậu ghi từng ấy địa chỉ của những người có tai mắt để làm gì vậy?
Ðến lượt anh ngạc nhiên:
-Ô hay! Thế chả nhẽ anh chưa có quyển sổ ghi địa chỉ những người tên tuổi à?
-Chưa!
-Lạy Chúa, thế thì anh phải lập tức ghi ngay đi, rồi nhét nó vào túi ấy! Anh muốn biết tôi viết những địa chỉ ấy vào sổ để làm gì phải không? Ðây này, tôi sẽ nói cho anh nghe. Anh chắc biết tôi vốn thích sưu tầm bút máy. 1 số bút thì tôi mua, còn 1 số thì người ta cho, trong túi tôi có được đến mươi, 15 chiếc. 1 hôm, tôi đến khách sạn thăm 1 nhà thơ Ðức mới sang. Anh ta biết tôi thích chơi bút máy nên tặng tôi 1 chiếc. Vừa ra khỏi khách sạn là tôi rẽ ngay vào 1 góc phố và không nhịn được "Ta phải xem cái bút thế nào đã!" - tôi tự nhủ. Chắc anh biết trong túi tôi lúc nào cũng có chiếc kính lúp. Tôi lấy kính ra soi cái ngòi và thấy nó có vẻ hơi thô. Tôi viết thử vào cuốn sổ mấy chữ tình cờ hiện trong óc: "Nhỏ và đẹp". Thường tôi vẫn mang theo 1 tờ giấy ráp mịn hạt để mài ngòi bút. Cái ngòi này nếu về nhà tôi mài thêm tí nữa thì nét sẽ nhỏ và đẹp hơn. Tôi cầm lấy kính định xem lại cái ngòi 1 lần nữa, thì bỗng có ai nắm lấy 2 vai:
-Anh đang làm gì vậy?
-Tôi ấy à? Tôi đang xem chiếc bút máy chứ có làm gì đâu!
-Thế đấy! Nghĩa là xem bút máy hả? Vậy chứ anh làm nghề ngỗng gì?
-Tôi ở trường đại học... - tôi không kịp nói hết câu.
-ái chà, nghĩa là giáo sư cơ đấy! Thưa ngài giáo sư, rất hân hạnh!... Chà!...
1 ngươi trong bọn họ thụi cho tôi 1 quả vào sườn bên trái khiến tôi loạng choạng.
-Thôi, alê, đi!
-Các ông xem lại cho. Chắc có sự hiểu nhầm gì đây!
-Ði!
Tôi lại bị quả đấm nữa vào sườn bên phải và đành phải bước. Biết làm sao được!
Chúng tôi đi về bóp. Tôi bị đẩy vào 1 căn phòng. Nhưng chờ mãi mà không thấy ai đến. Lát sau có 1 tay bước vào:
-Ngồi xuống đất ấy! - lão ta nói.
-Tôi không ngồi thế được! - tôi đáp.
-Cái gì? Không ngồi thế được hả? ái chà, ra cái điều ta đây giáo sư cơ đấy! Ghê chưa? Thôi, có gì trong túi bỏ hết ra đây!
Tôi đặt lên bàn tất cả mọi thứ trong người: 14 chiếc bút máy, 2 quyển sách, cuốn sổ tay, 2 tờ giấy ráp mịn hạt. Lão ta chỉ vào những chiếc bút:
-Ðây là cái gì?
-Bút máy.
-Ra thế!... nghĩa là bút máy đấy! ái chà, giáo sư mà lại! Oai quá nhỉ?
Tôi không sao nói xen được 1 câu để giải thích cho lão ta hiểu rằng tôi không phải là giáo sư, mà chỉ là 1 nhân viên trông thư viện ở trường đại học thôi! Lão ta cầm lấy chiếc kính lúp:
-Còn đây là cái gì?
-Kính lúp!
-Ra kính lúp đấy! Chà, giáo sư! Chà!...
Thêm 3 người nữa đến. Họ cũng xúm vào xem đồ vật của tôi. 1 người cầm tờ giấy ráp lên hỏi:
-Cái gì thế này?
-Giấy ráp.
-Giấy ráp gì mà lạ thế? Nhẵn như không ấy! Anh định bịp ai vậy hả?
-Ðây là loại giấy ráp mịn hạt!
-Ra thế! Giấy ráp mịn hạt cơ đấy! Chà, giáo sư! Này, giáo sư này!
Vừa nói, lão ta vừa nện vào vai tôi 1 cái. Xem chừng sự việc đâm ra lôi thôi.
-Thưa các ông - tôi nói - chắc có sự hiểu lầm thế nào đây. Tôi không rõ tại sao các ông lại đưa tôi về đây, chứ tôi thì cả trường đại học ai cũng biết, nhà báo nào tôi cũng quen. Tôi không làm gì đáng để các ông đối xử như vậy.
1 tay đang giở cuốn sổ của tôi ra xem, quát:
-Im ngay!
Bỗng mắt hắn chợt sáng lên:
-Thế còn cái này là cái gì?
Hắn chỉ vào mấy chữ "Nhỏ và đẹp" tôi viết trong quyển sổ để thử chiếc bút máy người ta vừa cho.
-"Nhỏ và đẹp" - tôi nói.
-"Nhỏ và đẹp"? Hay nhỉ!
-Vâng, "nhỏ và đẹp"!
-Thế là cái gì?
-Chẳng là cái gì cả!
-Chẳng là cái gì thì anh viết vào đây làm gì?
-Ðể tôi thử ngòi bút...
-Thế đấy! Ðược, nhưng sao anh không viết chữ gì khác mà lại chọn đúng chữ "nhỏ và đẹp"?
Quả tình nào tôi có nghĩ gì đến chuyện ấy.
-Tôi không biết - tôi nói - tự nhiên tôi nghĩ ra mấy chữ ấy, thế là tôi viết luôn vào...
-Thế đấy! "Nhỏ và đẹp"! Chà, giáo sư đấy! Chà... Chúng tôi sẽ cho anh biết thế nào là "nhỏ và đẹp"! Các ông nghe thấy hắn bảo gì chưa? Hắn bảo tự nhiên hắn nghĩ ra đấy! Thế sao tự nhiên anh không nghĩ ra chữ khác?
1 người trong bọn họ bước lại chỗ cô thư ký đánh máy. Họ bắt đầu lập biên bản. Tôi sợ vã mồ hôi. Biết đâu những chữ "nhỏ và đẹp" tôi tình cờ viết ra lại là mật mã của 1 tổ chức gián điệp thì nguy to! 14 chiếc bút máy, cuốn sổ tay, chiếc kính lúp, 2 quyển sách, tờ giấy ráp mịn, "nhỏ và đẹp"! Ai mà chẳng phải nghi ngờ! Tôi bối rối không còn biết làm gì nữa. Trong lúc đang lập biên bản, 1 tay vẫn tiếp tục giở cuốn sổ của tôi ra xem. Bỗng hắn dừng lại ở 1 trang, sau đó đưa trang này cho cả bọn xem. Họ thì thầm gì với nhau 1 lúc, rồi tình thế bỗng nhiên thay đổi hẳn. Người vừa xem cuốn sổ của tôi đã chỉ cho cả bọn xem 1 chỗ ghi trong sổ.
-Xin lỗi ngài - lão ta quay lại hỏi tôi - người này đối với ngài là thế nào ạ?
-Ðấy là bạn học cũ của tôi - tôi đáp - Chúng tôi gặp nhau hôm kia. Anh ta đưa tôi đi ăn hiệu, cho tôi địa chỉ và tôi ghi vào đây.
Những điều tôi nói hoàn toàn đúng sự thật. Quả tình tôi có gặp 1 người bạn xa nhau đã lâu. Tôi cũng không biết rằng anh ta là 1 tổng giám đốc.
Gã cảnh sát vẫn đang cầm cuốn sổ của tôi bỗng nở 1 nụ cười, xun xoe bảo:
-Chết chửa! Thế ra ông tổng giám đốc là bạn thân của ngài?
-Ðúng thế... Hồi còn đi học chúng tôi thường trêu chọc anh ấy.
-Thật hân hạnh quá! ấy kìa, sao ngài không ngồi xuống? Ghế đây ạ! Xin mời ngài!
Sau đó, gã quay lại bọn kia:
-Ai bảo các anh dẫn ngài về đây hả?
Rồi quay lại phía tôi:
-Xin mời ngài!
Chúng tôi bước vào 1 căn phòng bày biện sang trọng, tôi đi trước, bọn họ theo sau. Họ mời tôi ngồi vào chiếc ghế bành. 1 tay nói:
-Hôm nay nóng qúa. Ngài dùng 1 chút nước giải khát nhé?
-ấy chết, xin các ông chớ bận tâm làm gì!
Tuy vậy nước giải khát vẫn được mang ra. Chúng tôi chỉ còn lại 2 người trong phòng. Bọn kia kéo nhau ra ngoài cả.
Người đang tiếp chuyện hỏi tôi:
-Thưa ngài, ngài đến thăm chúng tôi có việc gì không? Ngài có cần gì không ạ?
ThánhAla ơi! Thế là thế nào nhỉ? Tôi có cần gì không à? Chả nhẽ không phải chính họ đã vừa tóm cổ tôi mà lôi về đây hay sao?
Nhưng bây giờ, giữa lúc họ đang đối xử lịch sự với mình như thế, mà lại đi bảo rằng mình bị lôi cổ đến và bị đánh thượng cẳng tay hạ cẳng chân, thì xem ra không tiện.
Vì thế nên tôi đáp:
-Tôi đến... chẳng qua để hỏi thăm sức khoẻ các ông thôi!
-Ôi, thật quý hoá! Chúng tôi rất đội ơn ngài! Chúc ngài cũng được khoẻ mạng! Thật quả là vinh dự cho chúng tôi. Lạy Chúa! Ðược ngài đến thăm!
Tình thế không ngờ lại xoay chuyển 1 cách tốt đẹp như vậy. Nhưng dù sao, tôi nghĩ cũng phải chuồn ngay, kẻo nhỡ đâu sự việc trở nên rắc rối.
-Các ông cho phép tôi về! - tôi nói.
Lão ta đứng lên tiễn tôi ra tận cửa. Tôi bước thật nhanh để mau mau thoát khỏi chốn này, không dám nghĩ đến chuyện đòi lại bút máy, cuốn sổ và chiếc kính, vì sợ phải nhắc đến chuyện hiểu lầm vừa xảy ra. Thôi! Chả cần!
-Thưa ngài!... thưa giáo sư! Ngài còn quên đồ đạc!
1 tên trong bọn bỗng chạy theo tôi, gọi. Hắn mang bút máy, tờ giấy ráp, cuốn sổ và kính lúp lại cho tôi.
-Thưa giáo sư, ngài là bạn của ông tổng giám đốc thật đấy ạ? - hắn hỏi.
-Ðúng thế - tôi đáp - Nhưng sao ông lại hỏi vậy?
-à, chả là dạo này đang có "mốt" như thế.
Ai thấy người sang cũng muốn quàng làm họ cả. Ngài hiểu chứ ạ? Ðể lúc nào có việc cần thì bảo: "Ðây là bạn tôi!" và thế là thoát. Mà chúng tôi thì làm sao biết được kẻ ấy có đúng là bạn thật hay không? Nhưng ngài thì đúng là bạn thật chứ ạ?
-Ðúng, tôi là bạn thật.
Hắn chìa cho tôi mâu giấy.
-Thưa ngài, tôi đã viết lai lịch của tôi ra đây. Là để phòng xa như vậy. Nếu ngài có dịp gặp ông tổng giám đốc thì... e hèm...
Kể đến đây, Halit bảo tôi:
-Từ hôm ấy, cứ biết được địa chỉ của ai trong số những bậc tai mắt của ta là tôi ghi ngay vào sổ. Ðến lúc tưởng mất quyển sổ, tôi lo quá anh ạ! Có những địa chỉ này chẳng khác gì được bảo hiểm tài sản và tính mạng vậy. Anh cũng nên có 1 quyển sổ như thế mới được. Nhưng cần nhớ 1 điều là hễ có ai về hưu do sức khẻo hay bị cách chức thì phải lập tức xoá ngay tên khỏi sổ, nếu không thì có khi mang vạ vào thân đấy!... Thế thật anh không biết gì về những quyển sổ ghi địa chỉ những bậc có thế lực trên cõi đời này à?
-Không!
-Vậy thì hỏng to rồi người anh em ạ! Bây giờ ai cũng phải giữ cái của này trong túi áo để phòng khi bất trắc thì giở ra. Vì có ai biết được điều gì sẽ xảy ra với mình lúc bước chân ra khỏi cửa? Ngày xưa thì có những tấm bùa hộ mệnh hay câu thần chú giúp người ta thoát khỏi ốm đau, tai hoạ. Bây giờ thì có sổ ghi địa chỉ thay cho những thứ ấy. Mà lại hiệu nghiệm hơn nhiều!...
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
4. 23-11-2007 09:59 PM #4
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Cậu cho bao nhiêu thì cho!
Bốn năm nay chàng chưa đi xe taxi. Nhưng hôm nay chàng phải đi. Đơn giản là cần phải như thế. Vì chàng đang đi cùng cô gái mà chàng sắp cưới.
Trong số những chiếc taxi đậu ở bãi họ chọn cái cũ nhất. Dễ hiểu là xe càng mới bao nhiêu thì tái xế càng dễ "chém" hành khách bấy nhiêu.
May cho họ, bác tài cũng là người đứng tuổi. Tất nhiên một người lái xe có kinh nghiệm thái độ với khách cũng khác.
Họ ngồi vào xe. Bác tài bật đồng hồ cây số. Chàng khẽ liếc nhìn cái máy đếm tiền: 60 - 65- 70 - 75...
- Thời tiết hôm nay đẹp quá, cậu nhỉ?
- À...vâng...phải...rất đẹp
105 - 110 - 120...Tíc tắc, tíc tắc, tíc tắc. Chiếc đồng hồ liên tục kêu.
Cô gái hỏi:
-Có chuyện gì vậy? Trông anh đăm chiêu quá!
- Kh-ô-ô-ng...Không có gì! Thật mà!Anh thề là hoàn toàn không có chuyện gì.
Tíc tắc...
-Nhưng sao vẻ mặt anh có vẻ căng thẳng thế?
- Anh không biết. Hi-hi! Trái lại là đằng khác. Anh rất vui. Hi-hi!
355,tíctắc,360,tíctắc...
-Bác tài, chúng tôi xuống đây.
Giấu không cho cô gái biết, chàng liếc nhanh đồng hồ đếm tiền: 395 curuso . Chàng nhẩm ngay trong đầu. Thôi cứ cho là 4 lia. Mình sẽ trả gấp đôi là 8 lia. Khách mà đi cùng với bạn gái bao giờ cũng bị quát nhiều hơn. Không sao, cứ cho hẳn là 10 lia đi!
-Tôi phải trả bao nhiêu đây, bác tài?
- Cậu cho bao nhiêu thì cho.
- Thế không được. bác cứ cho biết hết bao nhiêu?
-Ôi, thưa cậu, đây là cái xe, chứ không phải ngựa, cũng không phải lạc đà, cậu cho bao nhiêu tôi xin bấy nhiêu.
-Kh-ô-ô-ng! Để cả tôi lẫn bác không ai phải áy náy.
-Thôi cậu muốn cho bao nhiêu cũng được tôi không có chê nhiều, chê ít gì cả.
- Lạy thánh Ala! Nhưng làm sao tôi biết với bác bao nhêiu là nhiều bao nhiêu là ít?
- Tôi sẽ không nói đâu. cậu thấy trả được bao nhiêu thì cậu trả bấy nhiêu.
Không ngờ trên đời, lại còn có những người tốt như thế, dễ dãi, không đòi hỏi, ăn nói lại nhẹ nhàng, lịch sự! Nếu trả cho bác ta 10 lia liệu có ít không nhỉ? Với đoạn đường như thế này mà đi taxi tuyến cũng đã hết 6 lia rưỡi rồi.
-Thôi, ông bác à, bác đừng làm tôi tôi khó xử nữa. Xin bác cứ nói thẳng cho tôi biết bác muốn bao nhiêu?
- Cậu đừng băn khoăn làm gì. cậu thấy cần trả bao nhiêu cậu cứ trả. Tôi không phải người tham lam. Chả lẽ tôi lại dám chê "ít quá" hay sao. cậu cho được bao nhiêu thì cũng là cảm ơn cậu.
-Thôi được, nhưng chả lẽ không có biểu giá à? Làm sao tôi biết tôi phải trả bao nhiêu?
- Cậu ơi chúng tôi là con người mà. Chúng ta đã đi đoạn đường khá dài. Cậu cứ trả bao nhiêu mà cậu thấy là phải.
Chàng sợ không phải là trả ít quá, mà sợ là đoán nhầm và trả nhiều. Được rồi. Đã thế thì mình làm theo ý mình. Chàng rút trong ví ra một đồng 10 lia và 2 lia rưỡi nữa, rồi đưa cho bác tài:
- Đây, bác cầm lấy!
Bác tài vung vung đồng tiền trong tay:
- Thế là thế nào?
- 12 lia rưỡi
- Cái gì cậu điên à? - bác tài kêu lên- vào thời gian khuya khoắt thế này?
Cô gái nói:
- Cách đây 2 hôm chúng tôi cũng đi quãng đường đúng thế chỉ hết có 7 lia rưỡi.
Bác tài ném tiền vào mặt chàng thanh niên
- Cầm lấy mà uống nước trà!
Tiền rơi xuống đất giữa chỗ người lái xe và chàng thanh niên đứng
- Thật là xấu hổ! Phải biết ngượng trước mặt bạn gái chứ!
Chàng thanh niên đưa thêm 2 lia rưỡi nữa.
Gã tài xế gân cổ hét lên:
- Cái gì? Anh định bố thí cho ăn mày chắc? Đây không thèm! Phải có lương tâm chứ! Mình tưởng hắn là người lịch sự nên bảo hắn "Cậu cho bao nhiêu thì cho". Vậy mà hắn?...
Để bắt gã tài xế im mồm, chàng thanh niên sẵn sàng dốc hết cả ví tiền cho gã. Gã đã sỉ nhục chàng ngay trước mặt người bạn gái! Chàng rút thêm tờ 5 lia nữa. Nhưng gã tài xế vẫn nói oang oang:
-Xem kìa! hắn dẫn bạn gái lên xe ngồi, mình cứ tưởng hắn là người lịch sự tử tế! Hoá ra chỉ được cái mẽ ngoài. Khi tôi nói "cho bao nhiêu thì cho" thì như thế không có nghĩa là tôi xin của bố thí! Tôi đòi số tiền tôi được hưởng, hiểu chưa?
Nếu gã tài xế không thèm cầm tiền mà bỏ đi thì sao đây? chàng trai bèn rút thêm ra 5 lia nữa, rồi nhặt những đồng tiền vương vãi dưới đất đưa cả cho gã lái xe.
Gã này cần tiền. Rồi mở khóa cho xe nổ. Chiếc xe đã lăn bánh mà gã lái xe vẫn còn tiếp tục lải nhải:
- Tất nhiên là lỗi ở mình. Lẽ ra không nên cho loại người này lên xe! Mình nói với hắn như một người quý phái lịch sự: "Cậu cho bao nhiêu thì cho". Thế mà hắn còn giở trỏ đểu với mình. Con người bây giờ không còn chút lịch sự, tử tế gì.
Chàng trai và cô gái đi về phía sòng bạc ngoại ô. Chàng cảm thấy mình thật đau khổ. Trong đầu chàng vẫn văng vẳng những lời lẽ thô bỉ của tay lái xe. Giá chàng đưa cho hắn nhiều hơn! Giá chàng đưa đúng số cần phải đưa!
- Phong cảnh ở đây đẹp quá, anh nhỉ? - cô gái khẽ lên tiếng!
- Cái gì?
- Em bảo: "phong cảnh ở đây đẹp quá"!
- Cô nói đi, cô cần bao nhiêu?
-Em không hiểu!
-Tại sao cô không nói thẳng ra cô muốn bao nhiêu tiền?
Cô gái quay phắt người, rồi không thèm ngoái lại, chạy băng băng xuống chân đồi. Cô cứ cắm đầu cắm cổ chạy thật nhanh.
Và mọi chuyện thế là chấm hết.
Đơn vị tiền Thổ Nhĩ Kỳ : 100 curuso = 1 lia
Last edited by handballvn; 27-11-2007 at 02:31 AM.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
5. 23-11-2007 10:02 PM #5
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
May tôi là người có giáo dục
- Ái, đồ mất dạy!
Tôi không hiểu tại sao bỗng dưng người phụ nữ này lại chửi tôi. Tôi đã định hỏi: "Xin lỗi, tôi đã làm điều gì không phải với bà?", nhưng rồi lại thôi.
- Lại còn nhìn nữa! May tôi là người có giáo dục , chứ không tôi đã cho anh biết tay.
Chiếc xe buýt chật ních khách. Mọi người đổ dồn nhìn chúng tôi. Tôi quyết định tốt nhất là im lặng. Nhưng người phụ nữ vẫn không chịu thôi:
- Đồ đểu cáng!... Đồ thô lỗ!... Tất nhiên loại người như hắn làm sao có giáo dục được! Trông biết ngay là loại con nhà như thế nào!
Chừng hai lần tôi định mở mồm nói: "Thưa bà, xin bà hãy bình tĩnh!". Nhưng tôi lại nhịn.
- Muốn vả cho cái tát vào mõm anh! Giá tôi khônng phải người có giáo dục, tôi đã cho anh biết.
Có những lời trách mắng:
- Thật xấu hổ! Chả lẽ có thể làm chuyện đó với phụ nữ?
- Thế hắn làm gì vậy?
- Chắc là cấu véo người ta.
- Hay là hắn dẵm lên chân bà ấy?
- Biết đâu được, có thể hắn sờ soạng cũng nên.
Giá ôtô buýt dừng lại, tôi sẽ nhảy xuống ngay. Còn người phụ nữ thì cứ tiếp tục liến thoắng như bắn liên thanh:
- Đồ không biết ngượng! Không biết lịch sự là gì! Mà làm sao hắn biết danh dự người đàn bà là thế nào! Tiếc là học thức không cho phép. Nếu không mình đã cho hắn bài học!
Thật là tai vạ! Giá bảo tôi có làm chuyện gì cơ. Đằng này tôi đứng không nhúc nhịch, một ngón tay cũng không đụng vào bà ta. Mà giả dụ có đụng phải đi nữa thì bà ta cũng phải hiểu rằng không phải lỗi tại tôi chứ! Ô tô đông thế này cơ mà!
- Đồ dâm đãng hèn hạ! May cho hắn gặp phải mình là người có giáo dục. Nếu không thì cứ gọi là...
Tôi vã cả mồ hôi.
- Bọn đê tiện này cố tình lên những xe buýt đông người...May cho hắn, mình là người đàn bà có giáo dục.
Tôi cảm thấy không thể nào nhịn được nữa. Ở địa vị tôi có đá cũng phải nổ tung chứ đừng nói.
- May cho mi, ta là người có giáo dục. Nếu không ta đã rạch mồm mi rách đến tận tai.
Trong đám đông không một ai lên tiếng bênh vực tôi. Ai cũng đứng về phía bà ta:
- Chắc hắn lại giở trò sờ soạng!
- Dù gì đi nữa bà ta cũng đúng!
- Thật quá đáng! Phải biết mức độ chứ!
Lẽ ra cuối cùng phải thôi đi, nhưng người phụ nữ kia vẫn càng chu chéo dữ hơn. bà ta cứ hét lên:
- Ái, đồ đểu! Ái, đồ đê tiện! Nếu mày thèm muốn đến thế thì tao sẽ chỉ cho mày cái chỗ để đến đó mà...Mày hiểu chưa? Mình xin thề, nếu quả mình là người không có giáo dục, nhất định mình sẽ...
Thế này thì không thể chịu được nữa rồi! Tôi dùng khuỷu tay rẽ mấy người bên cạnh, tiến sát đến người phụ nữ và nắm lấy tay bà ta:
- Thưa bà, - tôi nói - xin bà làm ơn nói rõ cho tôi biết, tôi đã làm gì bà?
Người phụ nữ bỗng cười sằng sặc:
- Ới mọi người ơi! Hãy nhìn cái lão đầu hói đáng thương này xem này! Lão ta cũng tự cho mình là đàn ông đấy! Nhà ông ở đâu ra thế hả? Nhà ông mà cũng đòi làm đàn ông à? Chả lẽ ta nói về nhà ông ư? Thật đúng là vô duyên! hãy xéo cùng với cái ghẻ lở của nhà ông đi! Không ai nói gì về nhà ông cả. ta nói là nói chàng thanh niên cao to dễ thương kia chứ! Đồ vô duyên!
Chiếc ôtô buýt dừng lại trên quảng trường Takxin. Tôi không nhớ tôi đã nhảy xuống xe như thế nào. Người phụ nữ nọ thì vẫn tiếp tục lải nhải:
- Lão khọm già vô duyên! Hắn lại dám nghĩ là mình nói về hắn...Tiếc mình là người có giáo dục, chứ không mình đã cho lão một trận!
Thật không còn gì tồi tệ hơn lứa tuổi của tôi. Đến cả phụ nữ cũng không thèm chửi nữa...
Last edited by handballvn; 27-11-2007 at 02:32 AM.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
6. 23-11-2007 10:04 PM #6
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Làm thế nào in được tiểu thuyết?
Tôi vừa viết xong một cuốn tiểu thuyết. Tôi phải mất cho nó hai tháng trời. Ngồi viết suốt ngày đêm.
Cuốn tiểu thuyết rất khá, không xấu hổ khi nói thế. Tôi mang bản thảo đến tòa soạn một tờ báo.
- Chúng tôi không đăng những tiểu thuyết trong nước.
- Nhưng dù sao các anh cũng nên đọc qua!
- Không cần, dân chúng không thích những tiểu thuyết trong nước!
Tôi lại mang bản thảo đến gặp nhà xuất bản. Tôi chưa kịp nói: "Tôi mang đến cho các ông..." thì đã được trả lời ngay: "Chúng tôi chỉ in những tiểu thuyết dịch".
Tôi lại mang đến một nhà khác. Cả nhà này cũng không nhận:
-Nếu anh có cái gì dịch của nước ngoài thì hãy mang lại, những tác phẩn trong nước người ta không mua.
Đi đến bất cứ chỗ nào tôi cũng đều được trả lời như vậy. Vậy là cuốn tiểu thuyết mà tôi viết ròng rã hai tháng trời, viết suốt ngày đêm không nghỉ, và đặt bao nhiêu hy vọng vào nó, cuối cùng vẫn còn lại trong tay như kết quả của một tình yêu tội lỗi, như đứa bé bị vứt bỏ ở cửa nhà thờ.
Bỗng một ý tưởng chợt lóe lên trong đầu tôi. Chẳng phải nhiều đồng nghiệp của tôi đã mượn các truyện ngắn của các nhà văn Pháp, Đức, Anh, Italia và các nhà văn nước ngoài khác, đổi tên các nhân vật như Giônsơn, Mart Fatmam, sau đó kí tên mình vào rồi đăng trên các tạp chí đó sao? Vậy thì sao mình không thể làm ngược lại?
Tôi ngồi vào bàn và bắt đầu sửa lại tất cả các tên Thổ Nhĩ Kì thành Mĩ. Tôi nghiên cứu kĩ sơ đồ thành phố Nữu Ước. Tất cả mọi địa danh cũng được chuyển thành địa danh Mĩ. Bây giờ đến lượt tác giả. Đến đây tôi bèn cho một nhà văn Mĩ là Mark Ô'Braiơn ra mắt.
Sau khi làm xong tất cả những chuyện đó, tôi lại đến toà soạn báo và lại được tiếp đón bằng những lời nói vội vã và khó chịu đó:
- Nhưng chúng tôi chỉ đăng những tiểu thuyết dịch thôi!
- Thì tôi mang đến cho các ông tiểu thuyết của nhà văn Mĩ Mark Ô'Bariơn đây!
- Thế à? Thế thì tốt lắm! Cái ông Mark Ô'Braiơn này là ai vậy?
- Các anh không nghe nói về ông ta à?
- Ông ta là nhà văn nổi tiếng nhất hiện nay của Mĩ đấy! Truyện của ông ấy đã được dịch sang tất cả các thứ tiếng trên thế giới!
Sau lời tuyên bố đó thì chẳng cần phải đọc tiểu thuyết làm gì nữa, và được tạm ứng nhuận bút ngay lập tức. Người ta chỉ yêu cầu tôi một việc: viết lời giới thiệu cho cuốn sách này và đôi nét về tác giả.
Tôi về viết ngay:
" Kiệt tác cuối cùng của Mark Ô'Braiơn "Cuộc đấu tranh giành phụ nữ". Cuốn sách gây tranh cãi ở Mĩ đã bán hết ngay 40 triệu bản. Đây là một tác phẩm vô giá, đã được dịch sang tất cả các thứ tiếng trên thế giới, và cuối cùng đã được dịch ở nước ta với nhan đề " Đầu lạc đà".
Vậy Mark Ô'Braiơn là ai?...
Xin các bạn đừng hoài công tìm hiểu làm gì, tôi đã bịa ra cả tiểu sử ngài Mark Ô'Braiơn.
" Là người con út trong một gia đình gồm 19 anh em. Bố là chủ trang trại ở Philadenphia, muốn biến Mark thành mục sư, nhưng cậu bé, ngay từ năm 14 tuổi, nổi tiếng mưu mẹo, đã tìm được cách bị đuổi học bằng cách đâm kim vào mông thầy giáo Thần học (nói chung là tiểu sử điển hình của nhiều nhà văn Mĩ nổi tiếng). Đã kinh qua các nghề đánh cá, buôn lậu, một thời gian còn là người đi tìm vàng. Cuối cùng vào năm 40 tuổi đã gửi cho một tờ tạp chí truyện ngắn đầu tay của mình với nhan đề " Hôn nhau đi!". Ngôn ngữ và văn phong của ông tệ đến nỗi..."
Như các bạn thấy đấy, một tiểu sử khá dài. Hãy cẩn thận đấy, các tiểu thuyết của chúng ta!
Những nhà làm sách đi theo tôi từng bước chân:
- Này, anh hãy dịch cho chúng tôi một tiểu thuyết của Mark Ô'Braiơn.
Nếu còn sống tôi còn dịch nữa. Nhưng sự việc không dừng lại ở đó. Thời gian gần đây tôi còn đi xa hơn. Bây giờ tôi dịch cả từ tiếng Hindu, tiếng Trung Quốc và từ nhiều thứ tiếng khác.
Các bạn độc giả thân mến!...
Tôi cần cho các bạn biết rằng, 99 trong số 100 các truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết của Thổ Nhĩ Kì mà các bạn được đọc trong báo và tạp chí của chúng tôi, than ôi, đều là vay mượn của nước ngoài. Còn những tiểu thuyết người ta mời chào các bạn như các tiểu thuyết dịch, thực ra lại do các nhà văn trong nước viết. Trong các tiểu thuyết này chỉ có tên người, tên địa danh là nước ngoài.
Trong tất cả chuyện này có một điều khiến tôi được an ủi: sẽ đến một ngày khi những người nghiên cứu lịch sử văn học Mĩ buộc phải đọc các tiểu thuyết Thổ Nhĩ Kì. Đến lúc ấy mơ ước thiêng liêng của tôi sẽ trở thành hiện thực - tôi sẽ có vị trí trong văn học Mĩ dưới cái tên Mark Ô'Braiơn.
Last edited by handballvn; 27-11-2007 at 02:30 AM.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
7. 23-11-2007 10:09 PM #7
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Hào Phóng
Các báo đưa tin:
"Phạm tội chỉ vì 5 curusơ*! Tên Rukhi đã cầm dao đâm vào bụng người bán vé xe điện!"
Một hành vi quá sức điên rồ. Ai nấy đều phẫn nộ.
- Quân dã man!
- Đồ thú vật!...
- Cầm dao đâm người chỉ vì 5 curusơ!...
Người ta nhổ vào ảnh tên Rukhi đăng trên báo.
- Đồ dã thú! Tội nghiệp cái ông bán vé xe điện không biết sống chết ra sao!
Nhưng không ai biết được nguyên nhân sâu xa của cái tội ác ấy.
Các bạn chắc sẽ hỏi: "Hay người bán vé xe điện có lỗi gì chăng?"
Xin thưa ngay là hoàn toàn không!
Tôi không đồng ý với các báo. Tội ác được thực hiện không phải vì năm curusơ. Năm curusơ chỉ là cái cớ bên ngoài mà ta biết được.
Xin các bạn hãy tự phán xét.
Hôm đó là thứ bảy. Rukhi được lĩnh lương. Cả chỗ tiền lương ấy cũng không đủ trả dù chỉ một nửa số nợ. Y về nhà trong lòng buồn bã. Y ngó vào bếp. Vợ y đang bật diêm để châm bếp ga.
- Con mẹ đàn bà hoang phí! - Rukhi quát lên - Chỉ vì cô mà cuộc sống suốt đời chật vật. Phải tiết kiệm diêm chứ! Hay cô là bà triệu phú thích chơi trò bắn pháo hoa?! Một bên bếp đang cháy kia, việc gì phải dùng diêm. Dí mảnh giấy vào rồi châm vào bếp thứ hai là được rồi!
Mãi Rukhi không nguôi giận. Trạng thái tâm hồn y đã bị mất cân bằng. Y quay ra buồng.
Đứa con gái chín tuổi đang ngồi làm bài.
- Cái gì thế này?! Mày lại xé vở phải không?
- Bố ơi, con bị dây giọt mực vào vở.
- Mày lại bắt chước mẹ mày hả?!...Bừa bãi, hoang phí hệt mẹ mày!...Các người chỉ muốn hại ta...
Thằng con trai ở cửa hàng về, lấy dao cắt sợi dây buộc hàng.
- Cái gia đình gì thế này không biết! - Rukhi lại nổi - Không ai biết coi trọng cái gì cả! Hay lắm!...Cứ cắt đi, cứ xé đi, cứ phá hết di! Để xem cuối cùng sẽ thế nào? Chả lẽ cởi một sợi dây cũng khó khăn thế hay sao? Đến lúc cần buộc cái gì lại ra cửa hàng, xì tiền ra mua! Bây giờ mình mới hiểu tại sao cái nhà này suốt đời thiếu tiền! Toàn một lũ ăn tàn phá hại!... Một lũ vung tiền qua cửa sổ!...
Y giận quá, bỏ cả cơm không ăn. Y ra khỏi nhà, đóng sầm cửa lại.
Trên phố y gặp một người bạn. Hóa ra anh ta cũng chưa ăn cơm. Hai người rủ nhau vào một tiệm ăn. Bữa ăn hết 7 lia 25 curusơ. Cả hai cùng móc ví một lúc.
- Xin anh đừng bận tâm, để tôi trả! - Rukhi nói.
Người bạn phản đối:
- Không đời nào! Tôi sẽ trả.
- Anh mà trả thì, tôi thề, tôi sẽ giận đấy!
- A, tôi không để anh trả đâu! Trừ phi anh bước qua xác tôi!...Bao nhiêu lâu mới gặp nhau!...Không, không, tôi không cho phép đâu!
Chỉ thêm chút nữa có thể họ sẽ cãi nhau to. Cuối cùng nhờ cương quyết hơn, Rukhi dành được quyền trả tiền. Y đưa cho anh hầu bàn tờ 10 lia. Anh này mang cái khay tiền thừa lại - 2 lia rưỡi và 75 curusơ tiền lẻ.
Phải cho anh ta bao nhiêu tiền puộc-boa nhỉ? 75 curusơ thì ít quá, 2 lia rưỡi thì lại nhiều quá. Đưa tay cầm số tiền thừa, Rukhi do dự một giây, sau đó cầm 2 đồng 25 curusơ ở khay lên. Anh hầu bàn cảm ơn. Họ rời tiệm ăn bước ra ngoài. Rukhi thấy bứt rứt trong người.
"Trời ơi, đồ con lừa!" - Y tự nguyền rủa mình.
- Tại sao lại không ăn cơm ở nhà cơ chứ? Được , cứ cho là không ăn cơm nhà đi. Nhưng có thể mua ngoài phố một cặp bánh mì vòng ăn tạm cũng được cơ mà. Mà mình không làm thế cũng được thôi. Nhưng vậy thì tại sao lại không tự cho phép mình ăn một bữa cơm? Hơn nữa, lại còn đi trả tiền cho một gã gần như là người lạ này. Còn tay hầu bàn đã được 10% tiền dịch vụ rồi, mình lại còn cho thêm hắn 275 curusơ nữa. Đúng là đồ con lừa, con lừa! Không biết đến bao giờ mi mới thành người được?!"
Những ý nghĩ buồn bã cứ lẩn quẩn trong đầu y.
Y chia tay với người bạn.
Đến đầu phố y lại gặp người quen khác.
- Ô, anh Rukhi, anh đi đâu đấy?
- À, đi loanh quanh thôi.
- Đến Emigrian ở ngoại ô uống trà đi!
- Đi thì đi!
- Ta gọi taxi đi
Tại Emigrian cạnh quán trà họ xuống taxi, hai người cùng móc ví một lúc.
- Để tôi trả.
- Ấy không, anh cho phép tôi. Không tôi sẽ giận đấy!
- Không đời nào, để tôi trả.
- Tôi sẽ giận anh suốt đời đấy. Vì đây là ý của tôi!
- Anh cứ thử trả đi, tôi thề tứ giờ sẽ không chơi với anh nữa!
Rukhi cuối cùng lại là người cương quyết hơn.
- Hết bao nhêiu đây, bác tài? - Y hỏi người lái xe taxi.
- Các ngài cho bao nhiêu thì cho.
Rukhi không chờ câu trả lời như vậy. Đưa bao nhiêu bây giờ đây? Có lẽ tốt hơn cứ để bác ta tự lấy. Y đưa cho người lái xe tờ giấy bạc 50 lia. Người lái xe trả lại y 27 lia rưỡi. Rukhi dúi vào tay bác ta thêm 5 lia nữa.
Vào quán trà họ gọi một ấm samôva.
" Trời ơi, đồ con lừa! con lừa - Rukhi lại tự bực mình - Không, mi không thể thành người được. Tại sao lại đến khu Emigrian này làm gì cơ chứ? Cứ ngồi nhà có phải hơn không? Mi cần cái xã hội thượng lưu này lắm hay sao?! Đồ ngu! Sao không để gã này trả tiền xe taxi? Ừ, thôi, mi trả cũng được, nhưng sao tự nhiên mi lại cho phép gã lái xe xỏ mũi? Thằng đểu, hắn xơi ngon 22 lia ruỡi. Thế mà mi, một con lừa đần độn, lại còn hắn thêm 5 lia nữa!"
Y uống trà mà thấy đắng như thuốc độc. Gần tối khi chuẩn bị đứng dậy, cả hai cùng một đưa tay sờ ví.
- Xin phép anh, để tôi trả! Anh làm ơn đi!
- Tôi xin anh, hãy cho tôi niềm vui này!
- Không đời nào!
- Hãy nhường tôi đi, tôi van anh đấy. Vì thánh Ala!...Để tôi trả!...
Rukhi bướng bỉnh hơn và cuối cùng y thuyết phục được người bạn.
- Hết bao nhiêu tiền đây, chú? - Y hỏi cậu hầu bàn.
- Ba lia rưỡi ạ!
Rukhi ném lên bàn tờ 5 lia.
- Không cần trả lại.
Họ bước ra khỏi quán trà.
" Trời ơi, đồ con lừa! - Rukhi tự rủa thầm trong bụng - Đồ con lợn ngu ngốc! Ai lại đi uống trà những 3 lia rưỡi bao giờ! Thà ngồi nhà cũng uống no được cái thứ nước thổ tả này! Vào đây uống trà cũng được , nhưng lẽ ra phải để người ta trả tiền chứ. Lại còn không lấy tiền thừa nữa! Con lừa! Con lừa! Con chó còn có thể trở thành người hơn là mi!"
Họ lại lên taxi. Về đến thành phố hai người lại bắt đầu tranh nhau xem ai trả tiền. Lần này Rukhi cũng lại thắng và được trả tiền.
"Ôi trời! Con lừa! Con lừa!..." - Y luôn mồm nguyền rủa mình.
Rukhi chia tay với người bạn , trong lòng đau khổ vì sự ngu ngốc của mình. Trên đường đến Galatasaray y lại gặp một người bạn nữa. Thậm chí không phải bạn, mà chỉ là một người quen sơ mà y không nhớ cả tên. Hai người được giới thiệu làm quen với nhau tại một bữa tiệc nào đó. Họ chỉ gặp nhau và chào nhau một câu thế thôi.
- Ô...xin chào!
- Chào anh!
- Anh đi đâu vậy?
- Dạo chơi loanh quanh thôi.
- Tôi đề nghị thế này. Ta vào quán bia làm một chầu đi! Đến quán "Passage" ấy!
Họ rẽ quán "Passage", gọi mỗi người một vại bia. Rồi lại gọi tiếp. Rồi lại tiếp nữa.
Người bạn của Rukhi gọi hầu bàn.
- Cho hai li vốtka, một đĩa xalat, một món gì nóng. Có cá ômar sốt không? Tóm lại, cho đồ nhậu gì thật ngọn ấy!
Cuối cùng thanh toán - 64 lia.
- Để tôi trả - Rukhi nói.
- Không đời nào!
- Nhưng tôi chiêu đãi mà .
- Tôi không cho phép đâu, anh bạn! Tôi là người mời anh.
- Cứ để tôi. Bao nhiêu lâu mới gặp lại...
Cuối cùng Rukhi trả tiền. Y đưa người hầu bàn 1 tờ 50 lia và 2 tờ 10 lia.
- Không cần trả lại đâu!
Gần nửa đêm họ mới rời quán "Passage".
- Trời ơi! Con lừa, con lừa! - Rukhi bực tức nguyền rủa mình - Khi nào mi mới khôn lên được. Không ngồi nhà mà uống được! Còn nếu đã vào quán uống thì hãy để cho người nào mời mi trả tiền chứ! Không, lại tranh lấy trả cơ! Mà thế vẫn còn chưa đủ! Còn "boa" cho tên hầu bàn những 6 lia.
Hai người chia tay nhau.
Trong lòng Rukhi như có tảng đá đè. Đã đến lúc phải về nhà. Y bước lên tàu điện, trong bụng vẫn không ngớt nguyền rủa mình:
"Con lừa, con lừa, con lừa! Ngày hôm nay đã bao nhiêu lần mi làm chuyện ngu ngốc rồi! Đây đúng là bài học tốt cho mi nhớ suốt đời!"
Đúng, từ bây giờ trở đi y phải tiết kiệm từng xu mới được!
- Mua vé nào!... Hành khách nhớ mua vé đi!
Rukhi đưa cho người bán vé 25 curusơ. Hay là chỉ có 2 đồng 10 curusơ nhỉ? Y cũng không nhớ nữa. Đã đến bến của y.
Rukhi quay lại bảo người bán vé:
- Bác trả lại tiền thừa đi.
- Tiền thừa nào?
- Tôi đưa bác 25 curusơ.
- Ông nhầm rồi...Ông đưa tôi 2 đồng 10 curusơ.
- Đồ lừa đảo! Định bịp ai đấy hả?!
- Ông nói gì thế!...Ông đưa tôi đúng 20 curusơ.
- Không đúng!
- Tôi nói điêu tôi chết. Tôi thề với ông đấy!
Rukhi rút trong túi ra con dao gíp, mở lưỡi ra và đâm một nhát vào bụng người soát vé.
Tên tuổi Rukhi được đưa lên các báo.
Đơn vị tiền Thổ Nhĩ Kỳ : 100 curuso = 1 lia
Last edited by handballvn; 27-11-2007 at 02:32 AM.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
8. 23-11-2007 10:13 PM #8
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Phải ho lao mới được
Aziz Nesin
Chúng tôi lấy nhau, sự thể là như vậy... Con người khi lấy vợ rồi thì phải làm gì? Thì anh lấy vợ làm gì, một khi còn chưa biết điều gì đáng phải làm? Bây giờ thì tôi biết rõ lắm rồi! Người ta lấy vợ xong, việc đầu tiên là phải có than cho mùa đông. Tôi bèn đi hỏi bạn bè xem làm việc đó thế nào?
- Ô hô! - họ nói - Anh đừng hòng mua được.
- Sao lại thế?
- Anh không thể nào mua được chứ sao nữa!
- Nhưng tôi có quyền cơ mà! Ôi, Ala!
Tất cả những kẻ nào bảo tôi: "Cậu đừng hòng mua than" đều được tôi lên lớp cho một bài ra trò về quyền công dân!
Tôi đến nhà trưởng phố. Sau khi chờ mười phút cho ông lão dứt cơn ho, tôi hỏi:
- Cụ ủng hộ phe nào ạ?
- Phe dân chủ! - Ông cụ làu nhàu nói.
- Hay lắm! Cháu cũng ủng hộ phe dân chủ - tôi đáp - Cháu ở phố nọ, số nhà nọ, cháu muốn mua than. Cụ giúp chúng cháu với.
- Thế là từ trước đến nay anh mua than ở đâu?
- Cháu đã mua than bao giờ đâu. Ðây là lần đầu tiên cháu định mua đấy.
- Thế đầu đuôi làm sao mà anh lại đến đây?
- Thưa cụ, cháu vừa mới cưới vợ. Trước kia thì cháu thế nào cũng xong. Bây giờ cháu muốn mua than để đôi chim trong tổ uyên ương chúng cháu được sưởi ấm vào mùa đông.
Anh mang giấy chứng nhận nơi ở cũ của anh và của vợ anh đến đây.
Thế là các điện khẩn, điện hỏa tốc, điện kèm cước phí trả lời bay đi tứ tung, và một tháng rưỡi sau chúng tôi nhận được giấy chứng thực. Lần này trưởng phố bảo:
- Anh phải viết đơn cho sở phân phối than.
Chúng tôi nộp đơn. Họ đưa cho tờ giấy bảo là để trưởng phố điền vào. Nào ai bảo là tôi không mua được than nào?!
Chúng tôi cầm tờ giấy. Trưởng phố điền vào. Chúng tôi lại mang đến sở phân phối than. Cần một chữ ký! Thế là xo...o...ong! Giờ thì cứ để họ xem tôi có mua được than hay không? Chữ ký có đây rồi. Phải, thưa các ngài, dân ta là cứ muốn mọi thứ kề sẵn miệng cơ! Bảo là "cho tôi một tấn than" rồi muốn người ta để than cho ngay lập tức cơ! Như thế mà được à! Ðây có phải quầy bán thức ăn đâu! Ðến quầy bán thức ăn cũng phải xếp hàng đợi đến lượt nữa là! Ở đây lại có ngần ấy công thức, họ phải có việc gì mà làm chớ. Lại cần thêm một chữ ký nữa...
Khi đã lấy đủ các chữ ký, viên công chức ngồi tận bàn ngoài cũng mỉm cười hỏi:
- Than à?
- Vâng! Than ạ! - tôi xác nhận.
Nụ cười của viên chức công càng nở thêm ra:
- Ra anh muốn mua than đấy.
Tôi vốn ưa những người vui tính. Và tôi đáp, cố mỉm cười như viên công chức niềm nở vui tính này:
- Vâng! Than! Ông xem, tôi muốn mua ít than ấy mà!
Không biết các bạn có để ý thấy hầu hết các công chức của chúng ta đều có bộ mặt nhăn nhó không? Thế mà viên công chức này thì lại vui tính cười sằng sặc. Ông ta cười tướng lên:
- Thế nghĩa là than đấy!
Tôi cũng cười to gần như ông ta:
- Than, hẳn rồi! Than ấy mà!
Viên công chức lại càng cười khỏe. Ông ta cười hô hố, còn tôi thì sao, chả lẽ tôi đứng nhìn à? Ừ thì tôi cũng cười. Khi người bạn đang tiếp chuyện mình cười, lẽ nào anh lại nhăn nhó. Ông ta cười, và tôi cũng cười. Cứ thả sức cho hai ta cùng vui.
- Thế ra, hahaha! Là than đấy! Haha! Haha!...
Một khi người ta đã đến cơn cười thì khó lòng mà nín lại được. Tôi càng cười to hơn:
- Than!... Hahahaha!...
Chúng tôi ôm bụng mà cười đến chảy cả nước mắt. Chỉ thêm tí nữa là tôi ngất đi mất.
- Ra là than à? Hahahaha!...
- Hahaha!... Than, hẳn đi rồi!...
- Thế thì không có.
- Sa...a...ao! Không có? Thế sao ông lại cười?
- Không có, thế nên tôi mới cười. Hahahaha!...
Bây giờ thì đáng lẽ tôi không còn cười được nữa, mà phải khóc kia, nhưng tôi không kìm lại được. Chúng tôi cười vô hồi kỳ trận, cười không tự chủ được nữa. Nhờ giời là họ đặt tôi ngồi xuống ghế, cho cốc nước, bóp má mấy cái và cho ngửi nước đái quỉ. Khi hơi hồi lại, tôi hỏi:
- Thế là chúng tôi không mua than được à?
- Ðến ngay bán cho các khách hàng quen chúng tôi cũng đã chật vật lắm rồi, huống chi ông là người mới. Ông thì chẳng có đâu.
- Ðược rồi, nhưng lúc trời đông mưa rét thì tổ uyên ương của chúng tôi sẽ ra sao?
- Ông có thể mua than với một điều kiện.
- Ðiều kiện gì?
- Nếu trong nhà ông có ai bị tê thấp, ông mang giấy chứng nhận lại đây, chúng tôi sẽ bán cho ông một phần tư tấn.
- Nhà ta có ai bị tê thấp không? - tôi gào lên từ ngưỡng cửa.
Bà mẹ vợ vội đáp:
- Lạy giời, tìm được thuốc rồi à? Ðã mười năm nay mẹ đến khổ vì bệnh tê thấp. Chỉ có giời biết được là thế nào!
Bà mẹ vợ đã mở miệng thì còn đủ mọi chuyện... Vậy mà cũng có khi bệnh tê thấp của bà mẹ vợ lại được việc đấy. Và chúng tôi lấy được giấy chứng nhận.
Chà, nếu lần này mà tôi mua được than thì không hiểu tôi sẽ làm gì với những kẻ bảo tôi: "Cậu không mua nổi than đâu!" Hừ, những giống bi quan! Ðang có người ốm thì ai lại đi bán than cho người khoẻ cơ chứ. Cứ bị tê thấp đi, người ta sẽ bán than cho.
Tôi mang giấy chứng nhận đến.
- Giấy này không hợp lệ.
Hẳn họ nghĩ là giấy làm giả mạo.
Kể ra thì họ cũng có lý. Bây giờ thiếu gì các kỹ sư ẩm muội, các bác học giả danh, các thầy kiện cãi láo, các bác sĩ giả hiệu: họ làm sao mà biết được là bác sĩ thật hay giả đã cấp giấy chứng nhận. Vì thế nên họ đòi giấy chứng nhận của hội đồng y khoa cấp. Không lẽ cả hội đồng là giả hiệu được!
Thủ tục xin giấy chứng nhận của hội đồng y khoa xem ra còn rắc rối hơn việc mua than nhiều!
Ðến đây thì đừng có tiếc công, cứ cậy cục đến cùng! Một tháng sau, tôi lấy được giấy chứng nhận của hội đồng.
Tôi tóm tờ giấy và bây giờ mới yên lòng.
Tôi đem giấy cho họ.
- Rất đáng tiếc là... không được!
- Sao? Giấy chứng nhận đây mà!
- Giấy chứng nhận của ông là giấy chứng nhận có bệnh tê thấp.
- Thì chính các ông đòi giấy chứng nhận bị tê thấp mà. Giá các ông có đòi giấy chứng nhận mắc bệnh ung thư thì chúng tôi cũng đem đến được.
- Trước kia chúng tôi có bán than cho người bị tê thấp, nhưng nay than lại ít hơn trước nên chúng tôi không bán cho người bị tê thấp nữa.
- Nguy to rồi!... thế chúng tôi lấy gì mà sưởi tổ ấm uyên ương?
- Nhà ông có ai bị lao không?
- Không!
- Không thì chúng tôi biết làm thế nào? Muốn mua than thì phải bị ho lao mới được.
Hừ, tôi ghét những giống bi quan ấy làm sao! Họ bảo: "người ta không bán than đâu.". Họ chẳng bán cho người bị ho lao đấy là gì?
Các bạn cứ xem, nhờ giời, chúng tôi còn khoẻ mạnh sống qua được mùa đông này, đến sang năm tất cả nhà sẽ được mua than cho mà xem. Vì nói gì thì nói, chứ cứ sống ở chỗ lạnh lẽo không có gì sưởi ấm thì chắc chắn là được ho lao rồi.
Tất nhiên là nếu đằng nào cũng phải bán than cho những người bị ho lao thì giá cứ bán ngay cho họ trước khi mắc bệnh có phải tốt hơn không... Không, như thế không được.
Mà nếu bao giờ chúng tôi bị ho lao, có khi họ lại sẽ bảo: "Muốn mua than thì trước hết anh phải chết đi đã. Chúng tôi chỉ bán than để đun nước lau rửa cho người chết thôi."
Thế mà có kẻ dám bảo: "người ta không bán than đấy". Ðã có sự qui định, có luật lệ đặt ra để thi hành. Nếu anh không chết đi thì họ làm sao mà bán than cho anh được? Chuyến này tôi mua được than, tôi sẽ chở đến và vãi ra trước mũi những kẻ nào bảo "Cậu đừng hòng mua than" cho mà xem.
Last edited by handballvn; 27-11-2007 at 02:33 AM.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
9. 27-11-2007 01:03 AM #9
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Chuyện vợ chồng
Aziz Nesin
Lẽ ra tôi phải viết xong và nộp bản thảo từ tháng trước, nhưng tôi không hoàn thành hợp đồng.
- Viết đi anh! Nào có ai quấy rầy anh đâu?
- Ðâu có, em yêu của anh. Ðáng ra anh đã phải đánh dấu chấm hết cuốn sách, thế mà không xong... Chẳng hiểu sao anh lại không tập trung được tư tưởng em ạ... Ðầu óc cứ để đi đâu...
- Làm sao đầu óc anh lại để đi đâu?
- Chính anh cũng không biết nữa... Hôm nay anh sẽ ngồi nghiêm chỉnh. Trời mát mẻ và đầu óc anh cũng đang thư thái... May ra cũng xong đề cương...
- Thế thì anh ngồi viết đi... Có khi em quấy rầy anh cũng nên.
- Có gì đâu, em yêu dấu!
- Thế anh viết đi... Anh đại lãn thật!
- Hả?! Lạy trời hôm nay tôi không bị chuyện gì quấy quả!
- Ủa! Anh nói thế nghĩa là thế nào?
- Chả thế nào cả... Anh không có ý gì đặc biệt... Anh chỉ cầu trời cho anh hôm nay làm được nhiều việc...
- Thế nhỡ đột nhiên hôm nay em chết thì sao?
- Sao em lại sang chuyện ấy?
- Thì sao!... Em chết thật đấy...
- Nói thế làm gì, vợ yêu của anh?
- Anh ơi, ngộ như em chết... Anh có lấy vợ khác không?
- Em yêu dấu! Ðừng nói với anh những điều như thế...
- Nhưng, anh thấy đấy, anh có trả lời được đâu. Mà từ lâu em đã biết tỏng bụng dạ anh, biết anh nghĩ gì về em rồi.
- Em gái nhõng nhẽo của anh, tính nết em kỳ thật đấy.
- Mọi sự chỉ vì anh...
- Thì anh có làm gì em đâu, hả người ngọc? Anh chẳng bao giờ muốn em buồn cả!
- Thế anh trả lời em đi: sau khi em chết anh có đi lấy vợ khác không nào?
- Lạy thánh Ala!
- Ái chà, thấy chưa! Em biết rồi mà... Anh vừa mới tự thú đấy nhé!...
- Tự thú? Tự thú cái gì kia chứ?
- Anh chả vừa nói cái câu "Lạy thánh Ala" là gì?
- Thì anh nói đấy... Nhưng làm sao nào?
- Em chết rồi tất nhiên anh không lấy ai được nữa... Bọn đàn bà nó ghê tởm anh, anh chả căm ghét cuộc sống gia đình là gì... Tưởng em không biết đấy hả! Em chết rồi dù anh có sống đến nghìn tuổi anh cũng không lấy được vợ... Nhưng chả lẽ anh ghê tởm cuộc sống gia đình là tại em à?
- Nàng tiên của anh, tại sao em lại cứ kiếm chuyện thế nhỉ? Ngay cả trong ý nghĩ, anh cũng chẳng bao giờ có những chuyện ấy... Em lau nước mắt đi, bình tâm mà nghe anh đây... Em chẳng thương em tí nào mà cứ làm mình làm mẩy vô ích... Em quả là không hiểu những lời anh nói...
- À à à! Nghĩa là anh không định nói những điều như thế chứ gì?
- Phải ạ!
- Nghĩa là nếu em chết anh sẽ tục huyền chứ gì?
- Trời ơi là trời, tôi biết nói thế nào đây... Có thể...
- Anh cứ nói toạc ra xem nào...
- Bây giờ anh không thể đoán chắc điều gì... Nhưng có thể anh sẽ lấy vợ cũng nên!
- Tất nhiên là lấy vợ rồi... Làm như em không biết bụng dạ anh ấy!
- Trời đất ơi! Thánh Ala ơi! Cầu trời cho tôi được bình tĩnh. Em làm anh rối cả ruột, em yêu ạ, chính anh cũng không biết anh nói gì nữa...
- Lấy vợ, đằng nào rồi anh cũng lấy vợ...
- Anh nói thế làm vui lòng em đấy thôi...
- Làm vui lòng em?! Ðầu tiên anh bảo không lấy, rồi sau lại bảo có lấy. Như thế mà bảo làm vui lòng em!
- Thánh Ala ơi! Con phải làm thế nào đây... Xin Thánh rủ lòng ân ưu. Thôi, nín đi em... lúc anh bảo anh không lấy vợ thì em cáu. Ðến lúc anh bảo anh có lấy vợ em cũng lại cáu. Thế em lệnh cho anh nói gì có phải hơn không?
- Thôi, em đã đoán từ lâu là anh chán em rồi.
- Thiên thần của anh, tại sao em lại quyết đoán rằng anh đã chán em.
- Thì anh bảo rằng anh không biết sau này có lấy vợ hay không chứ gì?
- Vâng, thì tôi có nói!
- Thế là thế nào? Tức là anh bảo em rằng: Thôi cô có chết thì chết mau lên, cho tôi còn liệu! Thế mà anh lại còn chối phắt đi được!
- Thôi thôi... Tôi im. Tôi không nói một lời nào nữa. Tôi xin rút lui mọi ý kiến. Tôi chỉ xin cô đừng khóc nữa, tôi van cô. Chúng ta ngồi im nhé. Thôi, nín đi, em yêu của anh!
- Ôi! Tôi khó thở quá, tôi ngất đây... Tôi chết đây!
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
10. 27-11-2007 01:05 AM #10
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Quê ta vạn tuế
Aziz Nesin
- Nếu cậu tin những chuyện sau đây là thật thì tớ cũng coi như một người đã chết - anh ta nói.
Chúng tôi tựa lưng vào tường ngục sưởi nắng. Viên coi tù Darưpoócxôn chắp tay sau đít đi qua mặt chúng tôi ra vẻ muốn nói rằng hai tay hắn đã đắp lên những ngọn đồi kia.
- Thế thì ai mới là người sống? Cái gì chả thế - tôi đáp - cậu phải cảm ơn trời đất mới phải. Có những người còn cơ cực hơn chúng ta nhiều ấy chứ. Thôi vui lên, còn cái xác là may rồi!
- Ðâu có thế, ông bạn, - anh ta phản đối - không còn ai có thể cơ cực hơn được. Phải khẳng định là tớ đã không còn tồn tại nữa. Bây giờ thậm chí tớ cũng không thể giải thích cho cậu được... Cậu có nhìn thấy tớ thật, nhưng cái đó chẳng nghĩa lí gì: tớ vẫn cứ là đã chết rồi, tớ không còn tồn tại. Ðầu tiên tớ biết là tớ không còn nữa vào lúc tớ 12 tuổi. Trước đó ở quê tớ không có trường công. Năm đó nhà nước công bố bảng chữ cái và những nhà có học ở quê tớ quyết định phải đưa con vào trường công. Bố tớ tự cho mình là người có học thức nên cũng muốn tớ vào đó. Thế rồi ông ấy cầm tay tớ dắt đi. Ông hiệu trưởng đòi bố tớ cho xem giấy khai sinh của tớ.
- Chúng tôi chưa khai cho cháu - bố tớ nói - hay ông lấy giấy của tôi vậy!
Tất nhiên là không được. Ở trường Ðavuđa Khôđji, học trò học chữ cũ, không cần khai sinh.
Bố tớ cứ muốn tớ học trường mới...
Phải cầu cứu đến người làm đơn thuê ngồi trước phòng thị chính. Sau đó cầm đơn vào phòng khai sinh... Một thầy ký nhận đơn, rồi rút ra những sổ sách gì gì, sau đó lục mãi mới thấy phần ghi về bố tớ.
- Ông là Rêsít? - người ấy hỏi.
- Dạ phải - bố tớ đáp.
Thầy ký lần sách đọc những số liệu về bố tớ:
- Năm sinh 1897... quận Ðêghimentep phố Tavaxbaga, số nhà cũ là 51, mới là 28... Năm 1911 lấy vợ là Khađgiê. Sinh con trai là Êmin. Phải vậy không?
- Ðúng ạ - bố tớ đáp - Tôi muốn làm giấy khai sinh cho thằng cháu Êmin. Tôi định cho cháu vào học trường công. Trước đây người ta không đòi khai sinh.
Thầy ký nghi hoặc nhìn bố tớ:
- Cha nội ơi, khai sinh nào cơ? Con ông chết lâu rồi còn gì!
- Ấy chết, ngài nói vậy! - bố tớ sửng sốt - Cháu nó đây, nó đang đứng cạnh tôi mà.
Thầy đọc lại mấy hàng trong sổ:
- Ông là Rêsít?
- Ðúng, Rêsít.
- Bố ông tên là Mêmét?
- Ðúng, điều ấy cũng đúng.
- Ông lấy vợ tên là Khađgiê, sinh con tên là Êmin.
- Hoàn toàn đúng. Ðích thực là vậy. Và bây giờ tôi muốn khai sinh cho thằng cháu Êmin ấy đây.
- Thế là thế nào? Mọi cái đều đúng, mà riêng chuyện thằng Êmin chết thì lại sai? Sổ ghi là nó chết, mà người chết thì làm sao lấy giấy khai sinh được nữa.
Tớ khóc oà lên.
- Nín đi - bố tớ quát - Có phải sổ ghi chết là mình phải chết đâu mà sợ.
- Nhưng thầy ký bảo con đã chết rồi, hu...hu...!
- Kệ thầy ấy. Cứ nghe bố nói là đúng.
- Sổ đã ghi là không có bao giờ sai - thầy ký lý sự - đã ghi là y như thực. Ông có mưu gì chăng. Tôi không làm đâu. Không ai đi cấp khai sinh cho người chết rồi.
- Mưu gì là thế nào kia ạ? - bố tớ rụt rè hỏi.
- Nhà các ông bao giờ cũng lắm chuyện lắm - thầy ký đáp - ông muốn mặc cả với người nhà nước đòi người chết ra người sống hả? Tráo trở thật.
- Vậy xin hỏi, cháu nó chết ngày giờ nào ạ? - Bố tớ hỏi thêm.
Thầy ký liếc sổ:
- Ðại chiến thứ nhất nó bị đi lính. Năm 1915 hi sinh ở Tranacal. Nó được xoá sổ vì có giấy báo tử của đơn vị số 331/85.
Bố tớ nổi đoá:
- Bẩm ông, ông nghe đây, ông xem lại sổ xem, tôi lấy vợ năm 1911 cơ mà.
- Phải - thầy ký đáp - có ghi : ông lấy vợ năm 1911.
- Thế cứ cho rằng con trai tôi sinh vào ngày cưới tôi đi, thì năm 1915 nó mới có 4 tuổi. Làm sao trẻ con 4 tuổi lại đi lính và chết trận được.
Thầy ký bối rối, lão nhìn tớ, nhìn sổ, rồi nhìn bố tớ, rồi lại nhìn sổ, cuối cùng kết luận:
- Thằng Êmin nhà ông sinh năm 1896. Vậy là khi chết nó 19 tuổi.
- Con tôi sinh năm 1896? - bố tớ hỏi lại - Thánh Ala phù hộ cho ông, thế còn tôi sinh năm nào, ông xem lại sổ xem.
Thầy ký xem sổ.
- Ông sinh năm 1897. - lão nói.
- Ông ơi, ông chớ có nói rằng hoá ra tôi lại sinh sau con tôi một năm cơ đấy?
Mấy thầy ký khác cùng phòng bước lại, nhưng không ai biết đằng nào mà lần.
- Sổ đã ký như thế thì chịu - thầy ký của tớ bảo thế - Tất nhiên, là có khiếm khuyết gì đây, nhưng chưa biết chỗ nào?
- Thưa các thầy - bố tớ bảo các thầy ký - có thầy nào ở đây đẻ sau con mình không?
Một thầy sửng cồ:
- Ðừng lôi cổ bố người khác vào chuyện của mình. Người chết chúng tôi không cấp khai sinh, thế thôi!
Bố con tớ lên chỗ ông trưởng phòng khai sinh kể lại đầu đuôi. Ông trưởng phòng theo bố con tớ xuống chỗ mấy cuốn sổ cái. Hai bên cùng xem lại hồ sơ.
- Ðúng hết - ông trưởng phòng nói - Sổ đã ghi thế. Con ông hy sinh năm 1915 - Rồi ông lại ra chiều suy nghĩ, cuối cùng lại dứt khoát - Hẳn là thế. Vợ ông nhiều tuổi hơn ông. Ðúng là ông đã lấy một quả phụ. Bà có con riêng tên là Êmin. Thằng con ghẻ Êmin của ông hơn ông một tuổi, nhưng, sổ vẫn ghi cho ông là bố.
Tớ khóc rống lên.
- Im đi, con - bố tớ giận dữ nói - Ai là người biết rõ bố của con, ta hay là sổ?
Ngài trưởng phòng kính cẩn nói:
- Sao ông nói lạ thế? Rành rành đây còn gì nữa!
Dù bố tớ không biết đọc biết viết nhưng ông không thuộc hạng người dễ dàng đầu hàng.
- Khađgiê, con gái ông Bêkia, sinh năm 1904 - ông trưởng phòng đọc trong sổ.
- Vậy theo ông - bố tớ nói - vợ tôi sinh năm 1904, còn thẳng con Êmin của bà ấy sinh năm 1896, phải vậy chứ gì? Ông nghe tôi nói này, có bao giờ ông thấy con ra đời trước mẹ nó 8 năm không?
Theo cuốn sổ ấy thì tớ sinh trước bố tớ một năm và trước mẹ tớ tám năm. Mẹ tớ lấy bố tớ năm lên 8 tuổi và sinh ra tớ 15 năm rồi mới đến hôn lễ.
Các thầy ký và ông trưởng phòng xúm quanh cuốn sổ, thảy đều cúi đầu trầm tư mặc tưởng. Bỗng ông trưởng phòng nghĩ ra:
- Hẳn là thế này: trước đó bà Khađgiê đã lấy 1 đời chồng, người chồng ấy có 1 đứa con riêng tên là Êmin. Ðứa con ghẻ ấy của bà Khađgiê hơn bà 8 tuổi. Chồng chết, bà không bỏ rơi cậu nghĩa nam kia mà vẫn nuôi nó khi lấy ông Rêsít. Thấy chưa, thằng Êmin hơn mẹ kế nó 8 tuổi và hơn bố dượng nó 1 tuổi.
- Ðúng thế - thầy ký của chúng tớ nói - chỉ có thể là như vậy.
- Quỷ thật! - bố tớ phát cáu - Lại còn thế nữa! Vợ tôi lấy tôi năm lên 8 tuổi, mà trước đó lại còn 1 đời chồng nữa?
- Hẳn chứ - ông trưởng phòng nói - làm sao khác được? Nếu nhà ông giải nghĩa được đúng hơn, xin mời!
Tớ lại khóc.
- Làm gì mà gào lên thế con - bố tớ an ủi - Thôi, vào trường Ðavađa Khôđji mà học, thế là xong.
Nhiều năm sau, lúc tớ lớn lên, lại có chuyện.
Các cậu có thể tin được rằng người ta bắt tớ vào lính hay không? Vì tớ chết rồi cơ mà. Tớ đã chết ở Tranacal rồi. Làm sao người chết còn đánh nhau được? Nhưng bố con tớ không làm sao cho họ hiểu ra. Bọn cảnh sát tóm được tớ dẫn đến bàn tuyển quân. Bố tớ cũng đi theo.
- Bẩm ngài, trong sổ đã có mục khai tử cho nó rồi đấy ạ. Cháu nó có đâu. Nếu nó sống thật thì nó đã được cấp giấy khai sinh.
Bố tớ chưa kịp nói hết câu, lão trưởng ban đã gào lên:
- Sao, nhà ông muốn giấu thằng này khỏi quân dịch à?
Tớ bị đưa về đơn vị ngay tút suỵt. Thực ra, tớ cũng mừng. Như thế nghĩa là tớ vẫn còn sống. Tốt quá. Rồi đến lúc mãn hạn. Bạn bè tớ được giải ngũ, còn tớ không được cấp giấy cho về. Làm sao lại cho một thằng như tớ xuất ngũ được? Muốn xuất ngũ phải có giấy nhập ngũ đã chứ. Mà tớ lại không có cái giấy ấy. Ðơn vị tớ người ta gửi lên ban quân ngũ xin giấy cho tớ. Chưa đầy một tháng có giấy báo về : "Người mà các anh đòi xin giấy đã hy sinh năm 1938 khi thi hành quân lệnh trong chiến dịch Ðécxim."
- Người ta nhầm đấy - tôi nói với ngài sĩ quan chỉ huy đại đội - không phải tôi chết ở Ðécxim, mà là ở Tranacal cơ. Tốt nhất là ngài hỏi về phòng khai sinh, ở đấy có đủ số liệu.
Tớ đã tốn bao nhiêu công sức để đi chứng minh rằng mình vẫn còn sống. Không chứng minh thế, không giải ngũ được. Cuối cùng người ta cấp cho tớ một tờ giấy in nói rằng tớ đã mãn hạn quân dịch và được thả về.
Ðến nhà, tớ mới hay rằng bố tớ đã chết, nhưng ông ấy còn một món nợ ngân hàng 5000 đồng vào 2000 đồng thuế nhà nước chưa trả. Mà tớ lại là kẻ nối dõi tông đường duy nhất, tớ đành phải gánh nợ. Mấy ông phán sở tái chính không cho tớ một phút nào yên tĩnh.
- Các ông ơi, tôi có còn sống đâu! Ông nào không tin cứ đến phòng quân vụ mà hỏi. Ðến đấy chưa tin xin hỏi tiếp đến phòng khai sinh. Người chết làm sao trả nợ thay bố?
- Thế anh không phải là con trai ông Rêsít hay sao? Anh định trốn nợ cha đấy hả?
- Không, tôi nào có trốn. Nhưng tôi chết thật rồi mà...
Chà! Giải thích thế nào được! "Muốn sao thì sao anh cũng phải trả nợ cho cha!" Tớ đã định bụng không trả, nhưng bọn họ nói rằng còn nợ thì chưa được thừa kế gia sản. Bố tớ lại còn một ít ruộng, một nhà ở và một cửa hàng. Tớ bèn vay tiền trả nợ. Tớ nghĩ, được hưởng gia tài rồi tớ sẽ trả hết. Lúc trả nợ thậm chí tớ còn thấy vui trong bụng. Ít ra khi trả nợ người ta cũng còn cảm thấy được rằng người ta còn sống. Nhưng đến cái khoản gia tài thì lại khắc hẳn! Làm sao chứng minh được rằng tớ là con bố tớ? Lại phải khai sinh! "Nhà anh chết rồi, sao còn thừa kế được gia tài? Mà anh còn chết trước bố anh nữa ấy chứ."
- Người ta tuyên bố với tớ như vậy. Thế là tớ lại không chứng minh được rằng tớ còn sống. Tớ bảo họ: "Thôi được, thế bây giờ tôi có đứng trước mặt các ngài hay không? Các ngài có nhìn thấy tôi hay không đấy? Ðứng trước mặt các ngài là người thật hay tượng gỗ? Tôi có tòng quân không? Có trả nợ không?"
- Những cái đó chẳng có nghĩa lý gì - họ bảo - Trước pháp luật anh là kẻ chết.
- Nhưng tôi đã chết đâu - tớ cãi.
- Không chết, nhưng liệt hạng chết!
Tớ đâm đơn ra toà. Tớ thuê thầy cãi. Trước tòa, luật gia bộ tài chính phản bác tớ. Vì đại diện cho quyền lợi ngân khố quốc gia, lão ta khẳng định rằng một khi bố tớ đã không có người thừa kế thì tài sản kia phải nộp ngân khố. Lão cứ khăng khăng một lẽ: người thừa kế đã chết. Trạng sư của tớ nói rằng tớ sống, còn lão ta thì rằng tớ chết. Cứ thế cãi nhau tùm lum. Luật gia bộ tài chính đưa ra những giấy tờ hợp thức đến nỗi suýt nữa tớ cũng phải đồng ý và thừa nhận rằng tớ chết thật rồi.
Vụ kiện kéo dài 2 năm. Không có giấy khai sinh tớ không xin đâu được việc làm. Nợ nần ngập cổ, một hôm tớ điên đầu lên và nói lảm nhảm những gì không nhớ. Tớ bị bắt và bị tống ngục. Tớ bảo: Này các người, sao lại bắt tôi? Tôi chết rồi mà! Làm sao còn bắt người chết?
- Anh bạn ơi! Người chết thì sao lại nói được? Tán như ranh mà kêu là chết rồi!
Các cậu thấy không? Bị vào tù, tớ lại thấy vui là khác. Ít ra trong lòng tớ còn loé lên một niềm tin rằng tớ vẫn sống.
Ra tù tớ lại thấy buồn vì mình chẳng được hưởng cái gia tài kia. Các chủ nợ bắt đầu thúc ép. Tớ phủi tay chuồn đi Xtămbun, nhưng vẫn không được đi làm. Ở đó tớ gặp một cô gái và định cưới. Nhưng cưới sao được khi phòng khai sinh chỉ cho giấy khai tử? Tớ đành sống ngoại hôn với nàng. Nhưng lấy gì mà sống? Tớ đành tìm một người đứng tên để mở cửa hàng. Tớ là người chết thì sao làm được chủ tiệm. Ðược một năm thì người đứng tên cuỗm tiền của tớ chuồn mất. Tớ phải nộp thuế. Tớ tuyên bố rằng tớ chết rồi, nhưng ma nào tin.
Làm thế nào được? Tớ đành đi ăn cắp. Bị tóm, tớ bảo rằng: "Trước pháp luật tôi là người chết.", nhưng không ai thèm nghe. Người chết mà lại ăn cắp được! Ðã ăn cắp được nghĩa là vẫn sống. Sự thể thế đấy: mày muốn đi học, người ta bảo mày chết rồi, lúc có quân dịch mày là người sống, lúc cần giải ngũ - lại chết, trả nợ cho bố thì sống, còn hưởng gia tài - mày có sống đâu, nhưng cần bỏ tù thì mày lại sống.
Tớ cũng vui vì lại vào tù. Dù sao bây giờ trước mắt mọi người tớ cũng hiện hữu, mặc dầu chính thức thì đã là chết. Nhưng tớ còn 4 đứa con, chúng không ra sống cũng chẳng ra chết; trước pháp luật chúng chưa ra đời. Bố chúng không có thì sao chúng ra đời được?... Thôi, còn 3 ngày nữa tớ ra tù rồi, tớ sẽ lại không còn sống trước pháp luật nữa.
Viên cai ngục nâng còi lên miệng.
Tù nhân dạo chơi phải vào khám, chúng tôi cũng đứng lên.
- Cậu ạ - anh ta nói - trước pháp luật chúng ta không sống, nhưng dẫu chúng ta có sống phỏng đã ích gì? Cái chính là làm sao đất nước hùng cường phải không? Quê ta vạn tuế. Còn chúng ta, chúng ta không sống chăng, cũng được
· Trang Chủ
· Diễn Đàn
o FAQ
o Lịch
o Chức Năng
o Liên kết nhanh
· Có gì mới?
· Symbian
· Apple iDevice
· Android
· Rao Vặt
· Cydia.vn
· X-PET
Top of Form
Bottom of Form
· Tìm kiếm nâng cao
Have an account? Login Register
·
· Diễn Đàn
· BÊN LỀ CÔNG NGHỆ
· VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT
· Tuyển tập truyện Azit Nexin
Top of Form
Bottom of Form
+ Trả Lời
Top of Form
Trang 2/7 Đầu tiên 1 2 3 4 ... Cuối
Bottom of Form
11 - 20/65 post
Nội dung: Không thể thành người Aziz Nesin Trong bọn tôi chỉ cần có một kẻ nào đó hoài nghi kêu lên: "Không thể được, anh em ơi, lũ chúng ta không thành người được!" là lập ... - Thuộc khu vực: VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT
· LinkBack
· Quản lý Chủ đề
· Đánh giá
· Display
1. 27-11-2007 01:08 AM #11
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Không thể thành người
Aziz Nesin
Trong bọn tôi chỉ cần có một kẻ nào đó hoài nghi kêu lên: "Không thể được, anh em ơi, lũ chúng ta không thành người được!" là lập tức mọi người gật đầu tán thưởng: "Ðúng, chí phải, chí chí phải, không thể thành người!..." Và không bói đâu ra một người phản bác: "Sao lại thế! Phải tự trọng chứ!".
Hồi còn trẻ, có một lần, dạo ấy tôi vào quãng 25 tuổi, bầu nhiệt huyết còn sôi sục, tôi đã cả gan chống lại luận thuyết đó.
Lần ấy tôi đi tàu thuỷ ra đảo Hoàng Nam. Trên tàu bỗng có một người đàn ông đứng tuổi càu nhàu một mình, đến hung thần cũng không hiểu vì sao tự nhiên lại thế.
- Xin lỗi các người, làm sao chúng ta có thể thành người được!
Mọi người có mặt trong phòng khách lúc ấy đều gật đầu đồng ý.
Riêng tôi thì nóng mắt cự lại:
- Sao lại không thành?! Còn thành thế nào nữa!... Dứt khoát là thành!... Mà còn thành những người làm chấn động địa cầu là khác!
Mọi người trong phòng khách tưởng như ăn ý với nhau từ trước, đồng thanh kêu ầm lên:
- Bậy nào, bậy nào, không thể thành người được!...
- Chúng ta còn lâu mới đuổi kịp thiên hạ!
- Chúng ta không thể thành người được!
Ðược mọi người hỗ trợ, ông già kia bớt nóng:
- Nghe thấy chưa, con?... Các vị đây đều nhất trí ủng hộ tôi đấy. Như thế nghĩa là quả thật chúng ta không thành người được. Con xem, có ai buộc các vị kêu lên thế đâu.
- Thành người!... Nhất định sẽ thành người! - tôi lặp lại.
Ông già cười nhạt:
- Ðó, con vừa nói : "Nhất định sẽ thành người". Chữ "sẽ" như thế nghĩa là trước đây và bây giờ chưa thành người chứ sao.
Từ bấy đến nay bao nhiêu năm trôi qua mà lúc nào tôi cũng băn khoăn "Vì sao chúng ta không thành người được?".
Lần đi tù mới đây đã mở cho tôi đôi mắt: cuối cùng tôi đã tìm ra câu đáp.
Trong tù tôi bị nhốt vào một khám lớn của tù chính trị. Quanh tôi là cả một xã hội trí tuệ: các nhà doanh nghiệp nổi tiếng, các nhân sĩ lỗi lạc, các ngài tỉnh trưởng, các quan đốc học, các cựu nghị sĩ, các chính khách xuất chúng, các vị đại thần, các bậc kỹ sư, các bác sĩ danh vang toàn cõi. Hầu hết những người này đều đỗ đạt tận Châu Âu, Châu Mỹ, đã từng xuất dương và biết đến vài ba thứ tiếng.
Mặc dù cách nhìn đời của tôi và họ còn khác xa nhau, nhưng trước hết là nhờ có họ mà tôi hiểu ra được rất nhiều điều về cái sự tại sao chúng ta không thành người được.
Những ngày tiếp người nhà, tôi được nghe toàn những tin xấu: lúc thì gia đình tôi không trả được tiền nhà, lúc thì chịu tiền ông chủ quán nước, và biết bao nhiêu chuyện dằn vặt khác nữa. Tôi thấy nặng nề, ủ dột.
Tệ hơn nữa là tôi có mặc cảm tuyệt vọng.
Bấy giờ chỉ còn một lối thoát: phải lập tức ngồi viết tiểu thuyết. May ra có một tờ báo nào chịu đăng tải thì tôi kiếm được ít tiền. Nội dung cuốn sách đó tôi cũng đã thai nghén từ lâu.
Ðã quyết là làm, tôi bèn đi kiếm một cây bút máy, một xấp giấy rồi ngồi chéo ngoe trên giường mà viết. Không được lãng phí thời giờ! Phải chấm dứt chuyện trò ba láp hoặc ngồi không nghĩ vơ nghĩ vẩn!
Chưa viết được 10 dòng thì một vị phạm nhân, đầu óc sáng láng đến gần tôi:
- Chúng ta không thể thành người được! - vị ấy tuyên bố ngay - Quyết không, quyết không!
Tôi nín im.
- Anh nói sao tôi nghe nào? - vị ấy gặng - Tôi đã ăn học ở Thuỵ Sĩ, 6 năm làm việc ở Bỉ.
Rồi ông ta kể lể dài dòng và cặn kẽ về cuộc sống ở hai nước đó. Tôi phát rầu rĩ vì bị quấy quả đột nhiên, nhưng biết làm sao được. Thỉnh thoảng tôi đưa mắt nhìn xuống, cố ý cho ông ta hiểu rằng tôi rất bận và mong ông ta đứng dậy. Than ôi! bạn tôi nào có biết phán đoán. Ông ta cứ thế mà nhớ đâu nói đấy:
- Bên ấy anh sẽ thấy không ai không cầm sách vở. Một người Thụy Sĩ hoặc một người Bỉ có được vài phút rỗi rãi là họ mở sách ra ngay. Ði ô tô, đi tàu hoả, chỗ nào cũng đọc. Mà giá anh thấy họ trong nhà cũng thế! Lúc nào cũng đọc, đọc và đọc...
- Chà, ghê thật, ghê thật! - Tôi ngắt lời ông ta với hy vọng ông ấy tha cho tôi nhờ.
- Ghê hẳn đi chứ lỵ! - ông ta nói tiếp - Còn bây giờ anh cứ thử nhìn những người quanh đây xem. Ai cũng nhận mình là trí thức mà không có ai cầm sách cả. Không, bạn thân mến của tôi ơi, chúng ta không thành người được.
- Ông nói quả đúng - tôi đồng ý.
Tôi vừa nói thế, ông ta liền hăng tiết lên gấp hai lần và lại tiếp tục câu chuyện người Bỉ người Thụy Sĩ đọc sách mọi nơi mọi lúc.
Ðến giờ ăn trưa. Chúng tôi cùng đứng lên.
- Chúng ta không thành người được. Bây giờ anh đã rõ vì sao như thế chưa? - Ông ta hỏi.
- Rõ - tôi đáp.
Thế là tôi mất đứt nửa ngày để nghe một bài giảng về lòng hiếu sách của người Thụy Sĩ và của người Bỉ.
Nuốt vội vàng mấy hạt cơm trưa tôi lại leo lên giường viết sách. Tờ giấy trên đầu gối, cây bút trong tay, tôi vừa ngồi vừa nghĩ.
Chưa viết được một chữ lại một người quen bước đến:
- Anh làm gì vậy?
- Tôi viết tiểu thuyết.
- Ở đây viết không ra cái gì đâu. Anh này ngộ thật!... Anh đã ở Châu Âu lần nào chưa!
- Không, tôi chưa bao giờ ra khỏi đất Thổ.
- Tiếc quá! Thế thì anh phải đi Châu Âu mới được. Sống bên đó, được tận mắt nhìn thấy mọi vẻ sinh hoạt là điều rất thú vị. Những chuyến đi ấy làm con người mở rộng được tầm mắt. Tôi đã đi hầu khắp Châu Âu, có lẽ không nước nào không đặt chân tới. Lâu nhất là thời kỳ tôi ở Ðan Mạch, Hà Lan và Thụy Ðiển. Ở các nước đó mọi người tôn trọng nhau hết sức. Thậm chí người ta không nói to để khỏi phiền người bên cạnh. Còn ở nước ta, anh xem! Muốn thủng hai màng nhĩ! Có lúc tôi muốn chợp mắt một tý, muốn đọc hoặc viết một tý, tôi thiếu gì việc phải làm hả anh, thế mà cũng không được. Ồn như chợ vỡ thế này anh không viết tiểu thuyết được đâu. Không thể viết được.
- Ồn như chợ vỡ tôi cũng viết được. Tôi chỉ không viết được khi bị người khác lải nhải bên tai mà thôi.
- Bạn thân mến ơi, nhưng được yên tĩnh thì thích hơn biết mấy. Có phải thế không? Mà họ có quyền gì quấy rầy anh kia chứ? Họ có thể nói nhỏ được quá chứ lỵ. Ở Ðan Mạch, Thụy Ðiển, Hà Lan không có ai bất lịch sự như thế bao giờ. Dân chúng người ta tân tiến vì biết tôn trọng lẫn nhau.
Ông ta cứ nói lảm nhảm hết chuyện này chuyện khác, lôi ra trăm thứ dẫn dụ để minh họa cho trình độ lịch thiệp và giáo dục của người Châu Âu.
Tôi cúi xuống mặt giấy và bắt đầu viết. Nói đúng hơn là tôi làm ra bộ viết. Hẳn như thế là bất nhã nhưng tôi còn biết làm sao khác được?
- Ðừng hoài công vô ích - ông bạn lại nói - không viết được gì đâu. Viết thế anh chỉ làm hỏng đầu óc. Nước Thổ chứ có phải là Châu Âu đâu. Anh có biết một người dân Châu Âu thì phải thế nào không? Trước hết là phải có lòng tôn trọng người bên cạnh mình. Còn ta thì sao? Bạn thân mến của tôi ơi, chính là vì lẽ đó mà chúng ta không nên người được đâu. Không, chẳng thể nào được!
Chắc ông ta chưa chịu kết thúc ngay, nhưng may quá, luật sư của ông ta đến cứu nguy cho tôi.
Sợ rằng lại có người khác đến ám, tôi cúi gằm hẳn mặt xuống.
Vừa viết được hai dòng, lại một ông bạn cùng xà lim bước đến.
- Chúc anh thành công ! - ông ta nói.
- Cám ơn bác - tôi đáp.
Ông ta ngồi xuống giường tôi nói:
- Còn xa chúng ta mới thành những người chân chính!...
Tôi không hé răng nửa lời hòng chặn đứng câu chuyện ngay từ khởi thủy.
- Anh đã sang Mỹ bao giờ chưa? - ông ta hỏi.
- Chưa.
- Tiếc thật! Anh được ở đó vài tháng anh sẽ hiểu ngay vì sao chúng ta lạc hậu thế này. Người Mỹ đâu có như ta, họ không thích tán gẫu. Bên họ có câu : "Time is money." "Thời gian là tiền bạc". Người Mỹ chỉ đến với anh khi có việc. Họ nói vài câu cần thiết rồi đi làm việc khác. Còn nước Thổ ta thì sao? Cứ lấy chúng ta mà xem. Chúng ta đang làm gì? Tán dóc chứ sao. Tán hết ngày này qua tháng khác! Ở Mỹ như thế thì đừng có hòng. Chính vậy mà họ tân tiến.
Tôi thở dài liên tiếp, lòng thầm mong ông ta hiểu cho là tôi rất bận và ông ta đi đi cho rồi. Nhưng ông ta cứ tiếp tục khoa đại ngôn như chẳng hề hám chuyện gì cả.
Ðến giờ ăn tối. Trước khi cáo lui ông ta bảo:
- Chúng ta không thành người được. Ðúng thế. Cứ cái lối sa đà trò chuyện thế này thì chẳng có bao giờ nên người.
- Bác nói thật chí lý - tôi đáp.
Khoắng vội cho xong bát cơm, tôi quay về làm việc. Tiểu thuyết! Phải viết tiểu thuyết!
- Cái chính là phải lao động. Những việc khác là phụ - tôi bỗng nghe có tiếng người nói.
Ngẩng đầu lên tôi thấy một bạn cùng khám đứng cạnh.
- Theo anh thì sao? - anh ta hỏi và ngồi xuống giường bên.
- Ai dám tranh luận chuyện đó? Lao động cần quá đi chứ - tôi đáp.
- Bố mẹ tôi giáo dục tôi theo tinh thần nước Ðức...
Tôi giận đến tím ruột.
Còn anh bạn thì sôi nổi tiếp tục:
- Tôi tốt nghiệp trường li-xê Ðức ở Xtămbun rồi sang Ðức học đại học, sau đó tôi ở lại làm việc bên ấy nhiều năm. Người Ðức chả có ai ăn không ngồi rồi cả. Còn bên ta thì thế nào? Cứ lấy tất cả những người trong khám này ra làm bằng mà xem. Không. Không, chúng ta không thể thành người được. Còn lâu chúng ta mới là những người chân chính!
Tôi hiểu ra: ban ngày người ta không cho tôi viết tiểu thuyết. Cố viết, tôi chỉ giết chết thần kinh của mình mà thôi. Bây giờ chỉ còn nước đợi đến đêm cho mọi người đi ngủ cái đã.
Anh bạn không mời mà đến của tôi lại thao thao về đất nước Ðức.
- Ở Ðức mà ngồi không ăn bám là điều sỉ nhục. Người Ðức dù bị số phận xua đuổi đến đâu đi nữa cũng không bao giờ chịu ngồi bó gối, thế nào họ cũng phải tìm được một việc gì đó mà làm. Một lẽ đương nhiên là không thể không lao động được. Còn đây là một dẫn chứng phản diện: chúng ta đã nằm đây mấy tháng rồi, thử hỏi có ai làm gì hay không? Ðụng đến chuyện ấy là người ta lấy làm lạ: trong tù thì làm gì được! Một người trí thức nước Ðức sẽ không nói vậy. Ông ta sẽ ngồi viết hồi ký, viết báo, lo nghĩ công việc của mình hoặc đọc sách báo, tóm lại, ông ta không có chơi bời phí phạm. Còn chúng ta thì sao? Anh muốn nói gì thì nói, chúng ta không thể thành người được.
Ðến tận nửa đêm anh ta mới về. Bây giờ có thể làm việc được rồi. Không còn ai đến ngồi quấy phá và lên lớp cho tôi về chuyện để lý do khiến chúng ta không nên người được.
Chao ôi, tôi đã lầm to: lại có người đến. Người này đã lăn lộn nhiều năm bên Pháp. Ông ta khe khẽ thì thầm sợ phiền đến giấc ngủ mọi người. Theo lời ông, người Pháp là người biết làm việc ra trò, nghỉ ngơi và vui chơi ra trò, dân tộc đó không bao giờ lẫn lộn thời gian làm việc với thời gian nghỉ ngơi. Rồi ông ta khuyên tôi không nên làm việc quá nửa đêm như thế.
- Bây giờ anh đi ngủ ngay đi, sáng mai đầu óc tỉnh táo anh lại tiếp tục viết. Bên nước ta mọi thứ cứ lùng chùng với nhau: lao động, nghỉ ngơi, giải trí, không cái gì ra cái gì cả. Lúc nghỉ thì mình làm việc, giờ làm việc mình lại muốn nghỉ. Ðấy cứ bảo tại sao chúng ta không biết làm việc cho có năng suất. Không bao giờ chúng ta thành người được đâu. Không bao giờ!
Lúc ông ta đi thì tôi cũng không còn sức để viết được nữa. Hai mí mắt tôi cứng lại. Tôi lăn ra ngủ vùi.
Sáng hôm sau tôi dậy thật sớm, lúc chưa ai dậy, và lại bắt tay vào việc.
Có một người cùng khám mà tôi rất kính nể vừa đi ngoài về.
Thấy tôi ông ta bước lại.
- Mọi thứ ở bên Anh không có như bên ta - ông nhận xét - Anh đã ở bên Anh bao giờ chưa?
- Chưa ạ.
- Anh cứ hình dung như anh đang ở bên ấy và đang đi tàu. Người cùng phòng với anh suốt nửa ngày không thèm nói câu nào. Bên ta mà thế thì lại bảo : "Cái thằng kênh kiệu! Mặt lạnh như tiền!" Nhưng đó có phải tại người ta lạnh lùng và kênh kiệu đâu, đó là người rất có ý thức và rất tế nhị. Biết đâu anh không thích nói chuyện với người ta thì sao. Cơn cớ gì mà người ta làm phiền đến anh! Còn bên ta thì sao?... Anh ta có quen anh hay không, anh đang bận hay đang rỗi, mặc! Anh ta cứ mở miệng tán phét. Chính vì thế mà chúng ta chẳng bao giờ thành người được cả.
Tôi vò nát tờ giấy trên đầu gối, quẳng xuống gậm giường và nhét bút vào túi.
Thế là hết!... Thế là tiêu tan cái mộng tiểu thuyết của tôi. Phải, trong tù tôi không viết được gì cả. Nhưng mà tù đã mở ra cho tôi một chân lý trăm ngàn lần quý hơn cuốn sách thai nghén kia. Tôi đã hiểu ra vì sao chúng ta không thể thành người được.
Bây giờ chỉ cần một người nào đó đứng bên tôi bảo rằng: "Không chúng ta không thể thành người được!..." thì lập tức tôi giơ tay hô lớn:
- Tôi biết lý do rồi!
Tôi trưởng thành hẳn lên.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
2. 27-11-2007 01:11 AM #12
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Cơn ác mộng
Aziz Nesin
Ðài phát thanh Xtămbun đã chấm dứt chương trình phát thanh. Nghĩa là lại hết một ngày cũ bắt đầu một ngày mới. Ðêm nay tôi có bao nhiêu việc phải làm: phải viết xong hai truyện ngắn, một bài châm biếm và trả lời thư yêu cầu của một tạp chí. Những thứ này sáng mai là họ lấy. Ngoài ra còn phải đọc ba tạp chí do nhà bưu điện đưa đến và một cuốn sách mỏng nữa. Nhưng cuối cùng tôi chỉ viết xong có mỗi một truyện ngắn. Vì hôm nay tôi thấy trong người mệt mỏi quá.
Tôi đã sắp sẵn một xếp giấy để viết truyện ngắn thứ hai, nhưng ý tưởng bay đi đâu hết cả. Tôi giở lại cuốn sổ tay, hy vọng có thể tìm ra một ý nào đó trong những mẩu ghi chép cũ, nhưng cũng chẳng ăn thua. Không có ý nào có thể phát triển thành truyện ngắn được.
Tôi bỗng cảm thấy đói. Cái bệnh tôi nó như vậy. Nghĩa là cứ khi nào không viết lách gì được, là y như lại nghĩ đến chuyện ăn uống hay một chuyện linh tinh gì đó. Tôi leo lên gác. Trong nhà im lặng như tờ. Mọi người đã ngủ cả. Tôi mò xuống bếp. Cơm canh đã nguội ngắt. Ai mà đi hâm được?... Cuối cùng tôi kiếm được đĩa cá sácđin, mấy quả cà chua, một ít mỡ và dăm miếng dưa.
Sau đó tôi lại quay về bàn làm việc, ngồi bóp trán suy nghĩ. "Mình buồn ngủ hay sao thế này?" Tôi nghĩ vậy, rồi dần dần thiếp đi thật. Tôi lại còn nằm mơ nữa. Tôi mơ thấy hình như tôi lạc đến một nước nào xa lạ. Tôi không biết đích xác đó là nước nào. Tôi bước vào một gian phòng rộng mênh mông. Không hiểu các bạn thế nào, chứ tôi thì tôi tin rằng những cái gì thấy trong mơ thì không bao giờ có trong thực cả.
Xung quanh chiếc bàn dài kê ở giữa phòng có nhiều người đang ngồi. Tôi đến đây với một trọng trách. Tôi không biết chính xác tôi đang ở đâu và người ta đang làm gì ở đây, nhưng không dám hỏi, vì sợ người ta cười, bảo tôi là anh ngố, không biết cả chỗ mình đang ở là chỗ nào nữa! Vì thế tôi cứ phải xem mọi vật xung quanh mà cố tự phán đoán lấy. Có lẽ tôi đang ở Châu Mỹ, nhưng có thể tôi đang ở Châu Âu cũng nên...
Người ta đang hội đàm. Ðại biểu nước tôi chỉ có độc mình tôi. Trông người nào cũng bệ vệ.
- Rất hân hạnh được đón tiếp ngài! - Một vị đại biểu nói với tôi.
- Cám ơn các vị! - tôi đáp.
- Ngài sẽ cho chúng tôi được biết tình hình đất nước ngài chứ?
Tôi run quá, nhưng rồi cũng tự động viên: "Có gì mà run! Ðây chỉ là mơ thôi mà!" Nhưng mơ thì mơ, chứ nhỡ ra...
- Vâng. Tôi sẵn sàng kể cho các vị nghe tất cả những gì tôi biết.
- Nước ngài đang ở tình trạng chậm tiến có phải không? - người ta hỏi.
Tôi bỗng thấy ngột thở. Lạy thánh Ala! Tôi biết trả lời với họ thế nào bây giờ? Nếu tôi bảo: "Vâng. Tôi ở nước chậm tiến đến!" thì có nghĩa là tôi tự thoá mạ nước tôi trước mặt các quan khách quốc tế. Và theo luật hình, như thế tôi sẽ bị khép vào tội khinh quốc thể. Nhưng nếu bảo: "Không phải. Sao lại chậm tiến? Nước tôi tiến ghê gớm ấy chứ lại!" thì hoá ra tôi nói dối! Nhưng thôi. Thà nói dối còn hơn bị kết tội khinh quốc thể. Nói dối thì chẳng bị tội gì cả.
Tôi bèn hét lên:
- Ai bảo các ngài thế? Ðó là điều bịa đặt và xuyên tạc, thưa các vị! Xin các vị chớ quên rằng chúng tôi có rất nhiều kẻ thù. Chúng luôn luôn tìm cách tuyên truyền nói xấu chúng tôi.
Mọi người há hốc mồm kinh ngạc.
- Nghĩa là chúng tôi đã nhận được một thông tin không chính xác?... Một người nào đó nói, nhấn mạnh từng chữ.
- Vâng, tất nhiên rồi!
- Chúng tôi hiểu. Các ngài là dân tộc rất tự trọng, nên khi người ta gọi các ngài là "chậm tiến" thì các ngài tức giận. Nếu vậy, chúng tôi sẽ không dùng cái tên ấy nữa, mà sẽ thay bằng mấy chữ "chậm phát triển". Như vậy chắc ngài thấy ổn chứ?
- Không! Như thế cũng không được! Chúng tôi không phải là những người chậm phát triển, mà trái lại, chúng tôi là những người rất, rất chi là phát triển!!
Một lần nữa, mọi người lại sửng sốt, quay sang xì xào với nhau.
- Thế hiện nay ở nước ngài còn nhiều thành phố chưa có điện không?
Nếu tôi bảo còn, thì rõ ràng tôi tự bôi nhọ nước tôi. Chà! Quỷ bắt tất cả các người đi!
- Không! Ở nước chúng tôi, từ các thành phố lớn cho đến các làng mạc xa xôi hẻo lảnh, nơi nào cũng có điện hết!
- Hoan hô!... Hoan hô!... Tuyệt thật!
- Nhưng nghe nói giá điện bên nước ngài đắt lắm thì phải? Bao nhiêu tiền một kw nhỉ?
- Cái gì? Ðiện ấy à? Ðiện bên chúng tôi đắt ấy à? Nhưng bên nước tôi điện có mất tiền đâu!... Không mất tí nào cả! Lại còn mất tiền điện nữa có mà chết!
- Tuyệt quá nhỉ!... Trứ danh thật!...
Tôi hả hê lắm: tôi đã khéo giới thiệu nước tôi với quan khách quốc tế. Ước gì báo chí đăng lại những lời phát biểu của tôi để đồng bào tôi thấy được tôi đã biết cách tuyên truyền có lợi cho đất nước như thế nào!
- Người ta đồn rằng tiền nhà bên nước ngài rất cao. Nhà cửa thì khan hiếm... Một người dân trung lưu phải mất đến nửa số thu nhập vào tiền nhà. Phải thế không?
Một tiếng nói bên trong thúc giục tôi: "Nói đi! Nói hết sự thật đi!" Tôi bảo nó: "Tôi sợ lắm! Mọi người sẽ phản đối tôi". Giọng nói vẫn năn nỉ: "Sợ gì! Ðây chỉ là mơ thôi mà! Họ có thấy giấc mơ của anh đâu. Họ có biết đâu những điều anh nói! Cứ nói hết sự thật đi."
Mồ hôi tôi vã ra như tắm. Tôi lấy khăn lau trán, rồi cười lớn:
- Hahaha!... Té ra các vị hình dung nước tôi như vậy đấy! Tôi không thể phát biểu gì thêm về chuyện này. Chỉ cần chúc cho cái bọn độc mồm độc miệng chết quách đi cho rồi! Dân nước tôi không hề biết thế nào là nhà cửa khó khăn cả! Các vị nghe rõ chưa? Cũng như ở tất cả các nước văn minh, chúng tôi được sống trong những ngôi nhà rất đẹp, tiện nghi đầy đủ, mà chỉ mất có 10% thu nhập thôi!
- Thế còn các công chức?
- Các công chức thì được phân nhà tuỳ theo số người trong gia đình. Nói chung là họ được ở rất rộng rãi, và tiền nhà phải trả rất ít, đến mức gần như là được cho không.
- Nghe nói bên nước ngài, những người chủ nhà không cho các gia đình có con thuê nhà có phải không?
- Hahaha! Láo toét! Ai nói với các vị thế? Bên chúng tôi người thuê nhà thậm chí không biết mặt mũi chủ nhà là ai cả. Chỉ biết mỗi cái gọi là Hội đồng nhà cửa thuộc Toà thị chính thôi! Khi nào cần nhà, người ta chỉ việc đến đó mà nói đại khái như: "Tôi cần một căn nhà 5 buồng. Nhà tắm có lát gạch men xanh, chứ màu hồng thì không thích hợp. Vì màu hồng ảnh hưởng đến thần kinh vợ tôi".
- Chà! Nước thế mới gọi là nước chứ! - các đại biểu trầm trồ thán phục - Hoan hô! Hoan hô nước ngài!
Tôi được thể càng ra sức khoe khoang tâng bốc nước tôi.
- Nhưng nghe đâu đời sống bên nước ngài khó khăn lắm thì phải. Những người lương thấp sống rất thiếu thốn. Ngay tầng lớp trung lưu cũng thế?
- Lại còn có chuyện thế nữa kia đấy! Thưa các vị, các vị nhớ cho rằng dân nước tôi mà sống khó khăn thiếu thốn, thì đó chỉ là theo giọng lưỡi của báo chí nước ngoài mà thôi. Ðồng bào chúng tôi rất nhân đạo, nên hết sức thông cảm với những người nghèo khổ. Dân nước tôi không hề biết đến những khó khăn về đời sống, và nói chung là họ không biết đến bất cứ khó khăn gì! Cầu thánh Ala cho đồng bào tôi đừng bao giờ biết đến những chuyện đó! Còn tầng lớp trung lưu ở nước tôi sống rất hạnh phúc. Họ có nhờ tôi chuyển đến các vị lời chào đặc biệt. Họ còn dặn tôi khi đến đây phải cải chính các tin đồn nhảm mà các vị nghe phải.
- Thế còn các vấn đề như nạn thất nghiệp, điều kiện lao động vất vả và lương công nhật thấp kém thì sao?
- Trời ơi các vị! - tôi kêu lên - Các vị muốn tin ai? Tôi hay những lời đồn nhảm nhí linh tinh?
- Tất nhiên chúng tôi tin ngài.
- Nếu vậy các vị hãy nghe đây: Trước hết tôi xin nói về công nhân: Công nhân bên nước chúng tôi sống rất sung sướng, các vị có hiểu không? Tôi không biết có nước nào công nhân được hưởng lương cao như công nhân nước tôi không? Tôi chắc là không! Không có nước nào cả! Lương công nhân nước tôi cao đến nỗi họ không biết tiêu gì cho hết. Tôi xin tiết lộ với các vị một điều bí mật: nếu người công nhân của chúng tôi tích lại số tiền thừa của mình, thì chỉ trong một tháng anh ta có thể xây được cả một nhà máy! Nhưng anh ta cần nhà máy làm quái gì? Cái gì anh ta cũng có đủ rồi.
- Chà! Chà!... Thế mới gọi là nước chứ!
Ôi! Giá hãng thông tin quốc gia biết được chuyện tôi ca tụng nước tôi và đưa tin cho tất cả mọi người biết về giấc mơ này của tôi thì hay biết chừng nào!
- Thế vấn đề giáo dục ở bên ngài ra sao? Người ta bảo 80% dân số nước ngài còn mù chữ có đúng không?
- Bậy! Ở nước tôi ai cũng biết đọc biết viết hết! Mà còn biết nhiều đến nỗi người ta chán không muốn đọc muốn viết nữa. Tôi đố các vị tìm thấy ở nước tôi một người nào mù chữ đấy! Các giáo sư, nhà báo, nhà văn của chúng tôi hoặc là làm nghề viết, hoặc làm nghề đọc. Số người làm được cả hai nghề tuy không nhiều lắm, nhưng văn sĩ và độc giả ở bên tôi cứ gọi là vô thiên lủng! Trường học ở nước tôi nhiều đến nỗi muốn làm đường sá mới thì phải phá bớt trường đi mới có chỗ mà làm. Còn giáo viên thì không đếm xiết được! Ði đâu cũng gặp toàn giáo viên là giáo viên!
- Thế sao bảo các ngài phải xin nước ngoài viện trợ cho các tấm lều bạt để làm lớp học?
- Haha! Ðó là chúng tôi nói đùa thế thôi! Vì không muốn để các nước khác biết sự hùng mạnh của chúng tôi, nên chúng tôi phải vờ làm ra vẻ thiếu trường học.
- Tôi thấy hình như không phải thế! - Một vị đại biểu đứng phắt dậy - Tôi có đọc báo của các ngài. Trong những bài châm biếm của ngài, tôi thấy ngài luôn luôn kêu về nạn thiếu trường sở và thiếu giáo viên.
Tôi cười lớn:
- Hahaha! Thế mà các ngài cũng tin là thật ư? Tôi viết thế chẳng qua cốt tạo ra cái chuyện trái ngược mà thôi! Vì dân nước tôi rất thích những chuyện ngược đời. Nếu viết rằng mọi chuyện đều tốt đẹp cả thì họ lại không thích. Vì thế muốn tạo ra những chuyện trái ngược, tôi phải viết rằng ở nước tôi thiếu trường học vân vân... Có thế họ mới mua báo. Nhưng đó là cách tuyên truyền trong nước thôi, còn tuyên truyền ra nước ngoài thì lại khác...
- Nghe nói bên nước ngài đường sá mở mang cũng chậm lắm thì phải. Những con đường hiện có thì rất tồi!
Tôi đã ngán ba hoa lắm rồi, nên đứng dậy bảo:
- Thôi đủ rồi, tôi phải đi đây!
- Ði đâu? Ngài không thể đi đâu cả, vì ngài đang nằm mơ kia mà!
Nghĩa là họ cũng biết đây là một giấc mơ!
- Thôi, các ngài buông ra để tôi đi!
- Nhưng ngài định đi đâu?
- Về nước tôi chứ còn đi đâu?
Tôi định tiến ra cửa, nhưng bị mọi người chặn lại, dồn vào góc phòng.
- Buông tôi ra! - tôi hét lên.
- Ngài đang nằm mơ, ngài không thể đi đâu cả.
Các bạn đã từng gặp những cơn ác mộng nên chắc biết: trong cơn mộng mị, lúc sợ quá, bạn định bỏ chạy, nhưng chân bỗng ríu lại, muốn thét thật to lên, nhưng tiếng tự nhiên mất hẳn. Lúc này chính tôi cũng đang ở trong tình trạng như thế. Tôi muốn bỏ chạy mà chân không sao cử động nổi.
-Chúng tôi muốn hỏi ngài một câu nữa - Một người khác đứng dậy bảo - Ở nước các ngài có tự do hay không?
Sợ quá, tự nhiên tôi nói không thành tiếng nữa.
- Hừm... hừm... hừm... - tôi cứ ú a ú ớ. Tiếng nói bị tắt trong họng.
- Ngài nói đi chứ! Ở nước ngài có tự do hay không?
Tôi tự khích lệ: "Có quái gì mà sợ! Dù sao đây cũng chỉ là mơ thôi. Ta chẳng sợ ai hết." Nhưng sao tôi vẫn thấy run quá. Giọng nói bên trong lại thì thầm giục tôi: "Ðúng rồi! Ðây chỉ là giấc mơ thôi!"
- Nói đi! Nói đi! Có tự do ở nước ngài hay không? - mọi người lại nhao nhao giục tôi.
Cuối cùng tôi cũng lấy lại được tiếng nói. Tôi lắp ba lắp bắp:
- Có!... Có nhiều... Nhiều lắm!....
- Mọi thứ tự do đều có chứ?
- Các ngài muốn hỏi những thứ tự do gì?
- Tự do báo chí chẳng hạn!
- Ồ, cái đó tất nhiên là có rồi! Tự do gì chúng tôi cũng có hết! Chúng tôi có đủ các thứ tự do. Cả tự do báo chí nữa! Muốn bao nhiêu cũng có. Nhưng thôi, các ngài cho tôi đi đi!
- Nghĩa là ở nước ngài có đủ các thứ tự do?
- Tôi đã trả lời rồi mà: Có đủ hết!
- Tốt lắm! Nhưng nghe nói luật báo chí cũ ở nước ngài vẫn còn có hiệu lực. Thế thì đó là cái tự do gì?
Ðến phải biến thành hơi nước thì mới thoát khỏi tay họ được! Trong giấc mơ, người ta thường hay bay. Tôi giang hai tay như đôi cánh định bay, nhưng bị cái gì như cục chì giữ chân lại, không sao rời khỏi mặt đất được. Chắc tại tôi ăn no quá nên nặng bụng, chứ không thì tôi đã bay bổng như chim rồi!
- Thế nào? Có đúng là luật báo chí cũ vẫn còn hiệu lực không? Ngài trả lời đi!
- Ừ, đúng là vẫn còn cái luật ấy đấy! Nhưng việc gì đến các ông nào! Cái luật ấy còn, nhưng chúng tôi không áp dụng... Cũng như chúng tôi vẫn còn giữ những khẩu đại bác mà Phatích đã dùng chiếm lại Xtămbun, nhưng chúng không bắn được nữa. Thế thì sao? Chả lẽ cũng phải phá đi à? Sở dĩ chúng tôi cố ý không thay luật báo chí phản dân chủ cũ, chẳng qua là muốn để nhắc nhở mọi người rằng họ đã từng phải sống một thời kỳ nghẹt thở như thế đấy! Nhưng bây giờ chúng tôi đã có tự do báo chí và nhiều thứ tự do khác nữa. Tự do ở nước chúng tôi nhiều đến mức người ta không biết dùng chúng làm gì nữa!
- Thế còn tình hình kinh tế? Nghe nói ngân sách của các ngài bị thiếu hụt nhiều phải không? Xin ngài cho bíêt ý kiến về vấn đề này.
Tôi lại bắt đầu vã mồ hôi. Biết trả lời thế nào bây giờ đây, lạy thánh Ala?
- Chả lẽ tôi cứ mơ mãi, không bao giờ tỉnh lại hay sao? - tôi kêu lên tuyệt vọng.
- Nếu ngài không nói thật thì không bao giờ ngài tỉnh lại được đâu!
Nhưng nói thật thì tôi lại bị mang tội nói xấu Tổ quốc mất! Ôi, sao mà khó xử thế này hả trời!
- Tình hình kinh tế nước tôi không đến nỗi tồi tệ như các vị tưởng đâu. ý tôi muốn nói là nó... rất... tốt đẹp, rất rực rỡ. Rực rỡ đến nỗi có thể làm người ta loá mắt!... Còn ngân sách thì lúc nào cũng rất thăng bằng.
Tôi còn định nói nhiều nữa, nhưng bị mọi người ngắt lời.
- Thôi được rồi! - Một vị ngồi dự nói - Chúng tôi mời ngài đến đây cốt để ngài cho biết rõ sự thật, để nếu thấy cần thiết, thì tổ chức quốc tế sẽ giúp đỡ các ngài, chẳng hạn cung cấp vốn, hoặc cho ngài vay tiền... Nhưng vì tất cả mọi thứ ở nước ngài đều tốt đẹp cả, nên chúng tôi thấy không cần phải giúp đỡ gì nữa. Thôi xin chúc ngài mọi điều may mắn. Tạm biệt ngài.
Ðến lúc này tôi mới chợt tỉnh và hiểu ra rằng hoá ra người ta phái tôi đến đây là để xin viện trợ của nước ngoài.
- Tốt quá! Nhưng sao các ngài không cho tôi biết trước? Nếu biết trước, có phải tôi đã tuyên truyền nước tôi theo cách khác rồi không?
- Thôi xin chào ngài!
Tôi khóc nức lên vì đau xót. Thì các bạn cứ nghĩ xem. Giá tôi dám nói hết sự thật, thì có phải nước tôi đã nhận được trợ giúp của các nước rồi không? Thế nhưng tôi lại sợ nếu nói thật thì sẽ bị kết tội nói xấu quốc gia. Thế là tôi đã bỏ lỡ một dịp may hiếm có!
Tiếng khóc làm tôi bừng tỉnh. Trời vẫn chưa sáng.
Tôi bật đèn lên. Ðúng là trong mơ tôi đã khóc thật. Tôi lau những giọt nước mắt, rồi ngồi ghi ngay lại cơn ác mộng này.
Chả lẽ đêm cứ tối mãi và trời không bao giờ sáng được hay sao?
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
3. 27-11-2007 01:13 AM #13
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Giá không có ruồi !
Aziz Nesin
Lúc lên 10 tuổi, nó bảo:
- Úi dà! Nếu tôi cũng có cặp sách như những đứa khác, cũng có đồ chơi, có những quyển tranh đẹp như chúng, thì xem tôi học giỏi không nào!... Ðây tôi lại chẳng có gì cả! Thế thì làm sao mà học giỏi được!
Ðến năm 13, nó cũng có đủ sách, vở, bút, cặp và đồ chơi như những đứa trẻ khác. Nhưng nó học vẫn không được. Nó lại than phiền:
- Quần áo đẹp thì không có! Nhà cửa thì chật chội, cả mấy bố, mẹ và anh chị em tôi phải ở chung một buồng. Thế thì học làm sao được! Giá tôi được một cái buồng, một cái tủ sách và bàn học riêng xem! Tôi không học giỏi bằng mấy chúng nó ấy à!
Năm 18 tuổi, người ta dành cho hắn một cái buồng riêng.
- Học giỏi thế quái nào được, nếu đến tuổi tôi mà trong túi chẳng có nổi lấy 10 lia! Muốn mua sách vở nhưng lại không có tiền.
Năm 20 tuổi, trong túi hắn lúc nào cũng đã có ít nhất 10 lia, có khi còn nhiều hơn.
- Ôi! Mong sao học chóng xong để ra đi làm! Tốt nghiệp đại học rồi tôi sẽ làm việc cật lực cho mà xem!... Tôi sẽ bắt đầu viết truyện... à không! Viết hẳn tiểu thuyết ấy chứ! Chao ôi! Ước gì tôi chóng được ra trường.
Năm 24 tuổi, sau khi tốt nghiệp đại học, hắn than thở:
- Tôi không tìm được việc gì hợp ý nguyện cả, vì đầu óc lúc nào cũng bị ám ảnh bởi chuyện sắp phải tòng ngũ. Chỉ mong sao cái thời hạn tại ngũ chóng qua đi. Lúc ấy tôi sẽ làm việc ngày đêm để cướp lại thời gian! Thế nào tôi cũng phải viết một tác phẩm thật vĩ đại, để mọi người phải nhắc đến tên tôi!... Chà, cái chuyện tòng ngũ tai ác này!...
Ðến năm 26, hắn hết hạn phục vụ trong quân đội.
- Tôi vẫn chưa thể nào bắt tay vào làm việc một cách thật sự được. Vì cứ quanh quẩn lo hai bữa ăn đã hết ngày rồi. Khi nào người ta chưa có được một công việc đàng hoàng và một khoản thu nhập cố định, thì chưa thể nói gì đến chuyện sáng tác!
Năm 28 tuổi, khi đã có công ăn việc làm tử tế, hắn kêu:
- Ðiều kiện thiếu thốn thế thì sáng tác thế quái nào cho được! Ít ra là phải có hai buồng và có máy thu thanh! Lúc nào làm việc mệt, mở máy ra nghe nhạc cho đỡ mệt, sau đó lại tiếp tục làm việc. Như thế tinh thần mới sảng khoái, làm việc mới có hiệu quả được chứ! Ôi! Giá tôi có một chiếc máy thu thanh thì hay biết chừng nào?
Năm 29 tuổi, hắn tậu được một căn nhà hai buồng và sắm được một cái máy thu thanh. Nhưng tác phẩm mà hắn dự định từ bao nhiêu năm nay vẫn đứng nguyên tại chỗ.
- Chao ôi là cô đơn! - hắn thở dài - Sự cô đơn làm cho lòng tôi trống trải như một bãi sa mạc! Thử hỏi như thế làm sao tôi có thể tìm ra cảm hứng sáng tác được! Ôi! Phải có một tia nắng nào sưởi ấm được lòng ta! Phải có một ngôi sao nào đem lại cho ta nguồn vui và nguồn sức mạnh! Phải có một người nào mà vì nó ta sẵn sàng làm việc quên ăn quên ngủ chứ!... Ai là người có thể làm thần tượng cho ta, có thể làm mục đích của đời ta? Ôi, tình yêu của ta! Người ở đâu?
Ðến năm 30 hắn gặp được nàng. Hắn yêu nàng và cũng được nàng yêu lại. Cuộc sống của hắn bắt đầu tràn đầy ý nghĩa. Nhưng cuốn tiểu thuyết mà hắn ấp ủ từ hồi còn niên thiếu vẫn chẳng nhích thêm được một dòng nào.
- Yêu đúng là một hạnh phúc tuyệt vời! - hắn suy nghĩ - nhưng nếu cứ yêu mãi mà không cưới thì vẫn chưa thể an tâm làm việc được. Ta phải cưới thôi. Có lấy vợ rồi thì cuộc sống mới ổn định, mới có thể hoàn toàn yên tâm lao vào sự nghiệp. Chà, mong sao ta sớm cưới được nàng! Bấy giờ ta thề sẽ lao đầu vào sáng tác, không bỏ phí lấy một phút cho mà xem!
Năm 32 tuổi hắn cưới vợ. Cuộc sống vợ chồng của hắn hạnh phúc lắm! Nhưng không hiểu sao hắn vẫn không thể bắt tay vào cái sự nghiệp cả đời của hắn được. Ấy là vì hắn lại tìm thấy những lý do thật là xác đáng - bây giờ trên vai hắn có cả một gánh nặng gia đình. Quanh năm suốt tháng hắn phải lo chạy vạy kiếm miếng ăn. Thế thì thì giờ đâu để hắn ngồi sáng tác nữa?
Năm 36 tuổi hắn được tăng lương. Nhưng ta hãy nghe hắn nói:
- Ðã đành là mình có nhà riêng đấy! Nhưng nhà cửa chật chội quá! Trẻ con lại suốt ngày nô đùa ầm ĩ, không sao làm việc được. Giá mình kiếm được ngôi nhà độ 4, 5 buồng thì tuyệt quá! Lúc ấy mình sẽ làm việc phải biết nhé! Phải xắn tay áo lên mà làm mới được!
Năm 38 tuổi hắn dọn đến ở một biệt thự 5 buồng. Song tác phẩm của hắn vẫn không tiến thêm được một tý nào. Hắn vẫn chưa thể làm việc được. Nhưng phải đâu là lỗi tại hắn?
- Làm sao mà có thể sáng tác trong một ngôi nhà ở ngay giữa khu phố đông đúc ồn ào như thế?! Các người có giỏi thì sáng tác xem nào! Không! Mình cần có một nơi yên tĩnh, nếu dọn được đến một nơi yên tĩnh thì nhất định thế nào mình cũng làm việc được, mà làm ra trò chứ không phải đùa!
Năm 40 tuổi hắn dọn đến một khu phố tĩnh mịch. Ngôi nhà của hắn thật rộng rãi và thoáng mát. Từ cửa sổ nhìn ra phong cảnh đẹp tuyện trần. Bây giờ chắc hắn phải bắt tay vào sáng tác thực sự được rồi chứ gì nữa? Vẫn chưa à? Tại sao vậy?
- Chà! - hắn than phiền - Sáng tác gì được khi mà trong nhà không có những đồ vật đẹp! Không có những bức tranh quý, không có những bộ xalông êm, không có một cái bàn viết cho ra trò, không có những tấm thảm mịn! Muốn sáng tác thì mắt phải được nhìn những đồ đạc xinh đẹp, tai phải được nghe những điệu nhạc du dương chứ!
Than ôi! Không biết có ngày nào mình thực hiện được cái mơ ước ấy không?... Ðược thế, mình thề sẽ dốc hết sức ra mà làm việc, cho thiên hạ biết tay!...
Năm 42 tuổi hắn có được tất cả những thứ hắn mơ ước: những đồ đạc quí giá và tiện nghi đầy đủ. Nhưng chẳng hiểu sao hắn không tài nào tập trung tư tưởng vào công việc được. Tác phẩm của hắn vẫn không nhích thêm được chút nào.
- Trời ơi! - hắn bảo thế - Các người có hiểu đâu hoàn cảnh của tôi! Các người cứ nhìn bên ngoài nên tưởng tôi sung sướng, mãn nguyện lắm, không còn điều gì phải phàn nàn nữa... Mà kể ra tôi cũng mãn nguyện thật, vì tiền bạc lúc nào cũng rủng rỉnh, không lúc nào thiếu cả, lại được vợ đẹp con khôn, nhà cao cửa rộng nữa. Ðồ đạc tronh nhà thì toàn loại quý và tiện nghi đầy đủ, thì giờ lại nhiều nữa này... Thế nhưng... phải mỗi cái tội là... ruồi! Ruồi nhiều quá! Ruồi không còn làm ăn gì được nữa! Nó cứ bâu vào người, cứ vo ve bên tai nghe sốt cả ruột, tư tưởng không sao tập trung được! Ban ngày không chợp mắt nổi vì ruồi, thành ra ban đêm không còn sức để thức mà sáng tác nữa. Giá không có ruồi thì tôi làm việc phải biết nhé! Cứ gọi là làm như điên ấy chứ không nói chuyện!... Tôi thề như vậy! Nhưng... cái lũ ruồi khốn kiếp!... Tôi không biết làm thế nào với chúng cả. Ðóng cửa lại thì nóng! Mà che rèm thì mất đẹp.
Các người bảo tôi làm việc về mùa đông ư? Nhưng có thực là mùa đông không có ruồi không? Trời ơi! Không hiểu ai sinh ra giống ruồi làm gì không biết? Tôi chịu không hiểu nổi.
Năm nay hắn mới 42 tuổi. Vì thế chúng ta vẫn chưa hết hy vọng. Một ngày kia, khi giống ruồi bị tiêu diệt hết trên thế gian này, như điều hắn mơ ước, thì chắc chắn thế nào hắn cũng sẽ làm việc không ngơi tay để tạo ra cho thế giới cái tác phẩm vĩ đại của hắn. Ðấy, rồi các bạn xem!
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
4. 27-11-2007 01:14 AM #14
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Xin mời bác cứ đến chơi...
Aziz Nesin
Một ông văn sĩ rất có tiếng nọ vừa kỷ niệm ngày sinh thứ 60 của mình xong, ấy thế mà không hiểu tại sao lắm độc giả cứ khăng khăng cãi là ông phải nhiều tuổi hơn thế nhiều. Hay có chuyện lạ đời như vậy có lẽ là vì những cái nổi tiếng nói chung dễ được người ta gán thêm cho tuổi tác, để tăng thêm phần danh giá, mà cũng có thể là vì chính bản thân sự vinh quanh làm cho người ta già đi, vì nó luyện cho người ta phải biết sống dựa vào chút tiếng tăm còn dư lại của ngày xưa.
Quả thật, không hiểu tại sao người ta cứ hay nghĩ là các văn sĩ nổi tiếng thì không những phải già hơn, mà còn phải giàu có hơn cái thực tế của họ nhiều. Chứ lại không à! Tiếng tăm lừng lẫy như thế mà bảo không giàu thì ai mà tin được! Cứ gọi là trong nhà phải có một hòm vàng, phải không còn thiếu thứ gì nữa! Ðồ đạc thì chả phải nói, tất nhiên là phải toàn sập gụ tủ chè rồi!
Vậy thì ông văn sĩ mà chúng ta vừa nói bị người ta cho rằng già hơn tuổi là cũng đúng thôi. Bởi lẽ là giống như tất cả những người trải đời, trông ông sớm già và sớm có một vẻ gì tiều tuỵ, hom hem. Còn chuyện bảo ông giàu, thì tất nhiên cũng không phải không có lý. Thì cứ xem ngay cách ăn mặc của ông thì biết, chả lúc nào là không nuột nà chải chuốt. Tủ quần áo của ông tuy chưa đến mức chật ních, nhưng lúc nào cũng treo dăm sáu bộ, may cách đây tuy đã chục năm, nhưng bộ nào bộ nấy trông hãy còn mới nguyên. Mà bộ nào ông mặc trông cũng nền lắm! Hai nữa, tuy có lúc trong túi chỉ vẻn vẹn còn có chục bạc, nhưng ông ăn tiêu vẫn rộng rãi và sang lắm, nên người ta cứ ngỡ ông phải có đến chục nghìn. ấy thế nhưng thực ra thì ông rất túng, và túng đã lâu rồi. Có cái là ông hết sức giấu không để ai biết chuyện đó mà thôi.
Bởi đã đến lúc tiếng tăm của ông không còn đem lại cho ông nhiều tiền bạc nữa. Không biết vì thị hiếu bây giờ đã thay đổi, hay vì một nguyên nhân nào khác, nhưng sách của ông người ta không in nữa. Ðến các báo cũng không tờ nào buồn đặt ông viết bài. Các nhà xuất bản cũng chả nhà nào hỏi han gì đến ông. Thử hỏi thế thì ông, một người chỉ biết sống bằng ngòi bút, và suốt đời hy sinh cho sự nghiệp văn chương còn biết làm gì nữa?
Nhưng ông lại cứ tưởng rằng tiếng tăm của ông hãy còn lững lẫy lắm. Hay ông tưởng nhầm? Nếu tưởng nhầm, thì tại sao độc giả vẫn nhớ đến ông, khi đi đường ta vẫn chào hỏi ông và lúc chuyện trò người ta vẫn nhắc đến tên ông?...
Trước đây, có một thời gian ông làm cho các báo. Nhưng khổ nỗi là các ông bạn làm báo quen biết hồi xưa nay chẳng còn ai. Giá như họ vẫn còn làm ở các tòa soạn thì hẳn ông đã đến gặp để xin việc rồi. Còn những đồng nghiệp mới thì ông lại không quen, tuy rằng nếu có đến gặp thì chắc họ vẫn biết ông, vì ông là một văn sĩ nổi tiếng, và vẫn tiếp đãi ông một cách niềm nở, thậm chí vẫn thưa gửi với ông một cách kính cẩn nữa là khác.
Nhớ lại hồi xưa, đến tờ báo nào, ông cũng được người ta đón tiếp thật là niềm nở, và ngược lại ông cũng hết sức vui vẻ thân mật với họ, vì thế họ lại càng mến ông và đặt ông viết lúc thì một bài báo, lúc thì một bài dịch, lúc thì một bài châm biếm.
Sáng hôm nay, ông ăn mặc cẩn thận hơn mọi ngày: ông quyết định đến thăm tờ báo mà ngày xưa ông thường lui tới và đã có lần đăng truyện của ông. Khi bước đến cửa toà soạn, cái cửa mà mọi khi ông vẫn quen ra vào tự do, ông bị người gác cửa giữ lại:
- Ông hỏi ai?
Ông trả lời là muốn gặp ông chủ bút.
- Ông tên là gì để tôi vào thưa?
Ông xưng tên. Người gác cổng chừng cũng biết tiếng ông, nên khi nghe ông xưng danh, y bỗng sốt sắng đứng dậy.
- Xin ông chờ cho một phút!
Nói đoạn y gọi dây nói báo cho viên chủ bút biết rồi bảo:
- Xin mời ông vào.
Nhà văn bước vào buồng ông chủ bút. Khách và chủ chưa quen biết nhau mấy, nhưng chủ đã nhanh nhẹn đứng lên đón, lễ phép bắt tay, rồi niềm nở kéo ghế mời khách ngồi. Sau đó, lại ân cần hỏi khách quý muốn dùng gì.
- Xin ông một tách cà phê vừa ngọt thôi ạ!
Bây giờ chắc thế nào viên chủ bút cũng sắp hỏi: "Ngài có mang gì đến cho chúng tôi không ạ?". À mà không, cứ xem cái dáng điệu quá lễ phép của ông ta như thế thì chưa chắc ông ta đã dám hỏi thẳng câu ấy, mà phải hỏi một câu gì khác, đại khái như "Ngài có điều gì cần dạy không ạ?" kia! Không biết nên trả lời ông ta thế nào đây? Chả lẽ lại nói thẳng là mình đến xin việc? Vì thế, để tránh trước câu hỏi ấy, nhà văn ta mới vào đề bằng câu:
- Tôi rất thích những bài báo của ông viết, nhất là cái bút pháp độc đáo của ông.
- Dạ, ngài quá khen!
- Không hôm nào tôi bỏ được các bài xã luận của ông.
- Dạ, cảm ơn ngài đã quan tâm...
- Hôm nay nhân tiện đi ngang qua đây tôi muốn rẽ vào thăm...
- Dạ, thật là quý hoá quá!...
- À mà tôi không làm phiền gì ông đấy chứ?...
- Ấy chết, sao ngài lại nói thế ạ! Ðược ngài đến thăm thật là hân hạnh cho chúng tôi...
Nhưng rồi cà phê đã cạn và những câu trao đổi xã giao cũng đã hết. Biết nói gì nữa đây?
Viên chủ bút chắc sắp phải hỏi về mục đích cuộc viếng thăm của ông, vì đã lâu nhà văn không đến thăm toà báo, mà hôm nay bỗng lại đến... Tất nhiên lúc đó ông sẽ nói rõ mục đích ông đến thăm và viên chủ bút chắc sẽ hỏi: "Ngài có cuốn tiểu thuyết nào viết xong rồi không ạ? Giá ngài cho phép bảo chúng tôi được đăng thì thật là hân hạnh quá..." Và ông sẽ bảo: "Rất tiếc là tôi không đem theo cuốn nào. Nhưng hiện nay tôi đang viết hai cuốn tiểu thuyết và một cuốn sắp viết xong..."
Khốn nỗi câu chuyện cứ loanh quanh mãi mà vẫn không chịu vào đề. Nhà văn đành phải hỏi lái sang chuyện khác:
- Các ông làm chính trị, chắc phải theo dõi tất cả các sự kiện. Vậy các ông có ý kiến thế nào về bài diễn văn gần đây của ngài thủ tướng?
Hỏi xong câu ấy nhà văn mới thấy ân hận, vì khi viên chủ bút trả lời, ông có nghe và có hiểu gì đâu.
Câu chuyện vẫn rôm rả, nhưng viên chủ bút vẫn chẳng hề ngỏ ý nhờ ông viết cho cái gì: tiểu thuyết, báo hay truyện ngắn...
- Thôi xin phép ông, kẻo làm ông mất thời gian.
- Ấy chết, ngài cứ nói thế!... Mấy khi chúng tôi hân hạnh được ngài đến chơi... lúc nào có dịp, xin mời ngài cứ đến ạ!
Vừa xuống cầu thang, nhà văn vừa nghĩ: Không hiểu câu ông ta nói: Xin ngài cứ đến chúng tôi rất hân hạnh" là có ý gì? Chỉ là một câu nói xã giao hay là một lời mời thành thực? Có thể, lần này ông ta chưa dám để nghị mình viết cho cái gì, chỉ vì sợ hơi đường đột chăng? Nếu vậy lần sau đến, chắc thế nào ông ta cũng phải mời mình viết cho một bài báo... Mà cũng có thể quả thật hôm nay ông ta chưa có việc gì cần nhờ đến mình...
Nhà văn nổi tiếng nghĩ vậy rồi đi đến tờ báo khác. Ông quyết định phải gặp viên giám đốc tờ báo này, vì hồi xưa ông có quen biết cố thân sinh ra ông ta. Lúc đầu, ông có thể gợi chuyện về bố ông ta, tỏ ý thương tiếc ông cụ, rồi dần dần sẽ lái sang chuyện làm ăn.
- Ông cần gặp ai? - người gác cổng hỏi.
Ông trả lời là muốn gặp ông giám đốc. Nhưng người ta cho ông biết ông giám đốc đi Châu Âu mất rồi. Ðã định quay về, nhưng ra đến cửa, đứng tần ngần một lúc, nghĩ thế nào ông lại quay lại bảo người gác cửa:
- Nếu vậy bác cho tôi gặp ông phụ trách mục văn nghệ.
- Ông cho tôi biết tên để tôi vào báo.
Ông xưng tên và người ta cho ông vào.
Câu chuyện giữa ông và ông phụ trách mục văn nghệ mở đầu cũng na ná như câu chuyện giữa ông với viên chủ bút tờ báo trước. Có điều lần này ông phải tìm cách nói khéo ngay cho chủ nhân biết là ông sẵn sàng viết một cái gì đó, thậm chí ông còn nói thẳng là từ lâu ông vẫn viết truyện ngắn cho các báo. Ðoạn ông nói thêm:
- Chỉ tiếc là có lẽ ông không còn nhớ cái hồi đó...
- Ồ, sao bác lại nói thế! Tôi nhớ lắm chứ! Truyện nào của bác tôi cũng đều đọc cả. Bác viết truyện hay lắm, quên thế nào được.
- Các nhà văn trẻ bây giờ kể ra cũng có viết - nhà văn lại nói tiếp - nhưng... không biết diễn đạt thế nào cho đúng... chứ thật ra thì truyện của họ chưa thể gọi là truyện được. Vì viết được một truyện hay có phải dễ đâu!
- Vâng, tất nhiên rồi, bác bảo bây giờ tìm đâu ra những người viết hay như hồi các bác được!
"Thì hắn đang ngồi lù lù trước mặt anh đây mà anh mù hay sao!" Nhà văn suýt buột mồm kêu lên như vậy, nhưng may lại kìm được.
Khi chia tay, viên phụ trách mục văn nghệ cũng lại bảo:
- Xin mời bác có dịp cứ ghé lại chơi. Chúng tôi thật lấy làm hân hạnh.
Suốt một tuần liền, nhà văn cứ đi hết toà báo này đến toà báo khác, nói chuyện với đủ mọi người, từ giám đốc đến chủ bút, thư ký... Lúc thì nói về các bài xã luận, lúc thì bàn về tiểu thuyết. Nhưng lần nào cũng vậy, ông đều được người ta trả lời bằng một câu giống nhau "Xin mời bác cứ đến, chúng tôi rất hân hạnh". Có vài toà soạn ông đến hàng hai, ba lần, nhưng chẳng lần nào có ai thuê ông viết lấy một chữ, hay đề nghị ông làm cho việc gì. Có lẽ họ không dám nói với ông vì sợ thiếu tế nhị chăng? Nhưng cũng có thể họ cho rằng một nhà văn tên tuổi như ông thì chắc phải sống ung dung lắm rồi, việc gì còn phải làm việc nữa.
Thế cho nên ông mới phải nói thẳng với họ rằng ông cần việc làm, hay thậm chí một chân gì trong toà soạn cũng được. Kinh nghiệm lâu năm cho ông biết rằng những chức vụ như trưởng ban, biên tập viên, bình luận viên, hay tầm thường như một phóng viên thôi, cũng chả đời nào họ dành cho ông cả. Với lại, ông cũng chả màng đến các chức ấy. Ông sẵn sàng làm bất cứ việc gì, miễn là có miếng ăn là được rồi.
Ông đi hết toà soạn này đến toà soạn khác. Nhưng cái sách mời chào quá trịnh trọng của những người đón tiếp ông, những câu "Dạ, thưa bác" quá lễ độ của họ khiến ông đâm lúng túng, không dám thú nhận cái cảnh nghèo túng của mình. Ðã có lần ông tìm cách nói thẳng với họ rằng cứ ngồi nhà mãi không có việc gì làm thì cũng buồn, rằng tuy thế ông cũng chưa phải già đến mức không thể làm việc được nữa, không thể giúp ích gì cho mọi người được nữa, rằng ông đã chán ngấy cái cảnh ăn không ngồi rồi, rằng ông rất sung sướng nếu có bất cứ việc gì để làm.
Nhưng người ta thì bảo ông: "Dạ, bác cứ nói thế, chứ ở toà báo đâu có việc gì đáng cho bác làm... Bác bảo muốn làm bất cứ việc gì, nhưng cũng phải là việc quan trọng to tát chứ như các công việc ở toà soạn này thì đâu có đáng để bác bận tâm. Nói thế mong bác cũng bỏ quá cho..."
Rồi lúc tiễn ông ra về, người ta còn nói thêm: Dạ xin mời bác cứ đến chơi với chúng tôi, thế là hân hạnh lắm rồi ạ!"
Từ đó, ông quyết định không có quanh co úp mở gì nữa, mà cứ nói toạc ra là ông đang cần tiền và sẵn sàng làm cả chân sửa bài.
Nhưng người ta lại bảo:
- Ấy chết, sao lại thế ạ. Ngài mà lại phải đi làm cái việc sửa bài thì có họa là...
Nhưng nhà văn không chịu thua. Ông bảo nếu không có việc sửa bài, thì có thể cho ông bất cứ việc gì khác cũng được.
Người ta lại tưởng ông đùa và bảo:
- Dạ ngài cứ nói đùa vậy chứ ạ...
Ðã thế, ông tự nhủ, phải nói thẳng hơn nữa! Ðến một toà soạn khác, ông đã kể cho họ biết rằng đã 3 tháng nay ông không có tiền trả tiền nhà, rằng ông đang mắc nợ như chúa chổm, và bây giờ nếu có việc gì làm thì thật ông sung sướng biết mấy. Mà chả lẽ bao năm nay ông làm việc cho các báo mà bây giờ lại không xin được việc gì làm hay sao?
- Trời ơi, ngài có ý định giễu cợt chúng tôi hay sao mà cứ nói những chuyện như thế ạ! Chả lẽ ngài lại muốn làm bất cứ việc gì thật hay sao?
Ông lại đến một toà soạn khác. Và lần này thì ông không còn giấu giếm chuyện gì nữa, mà bảo thẳng với họ rằng ông đang sống dở chết dở đây, rằng bao nhiêu quần áo ông đã phải bán hết, chỉ còn độc một bộ đang mặc trên người đây thôi. Thử hỏi thành thực đến mức ấy thì thôi chứ còn gì nữa? Cuối cùng, ông xin người ta cho ông làm cái việc sửa bài hay bất cứ công việc gì ban đêm cũng được.
- Ấy chết, ngài cứ dạy thế, chứ một nhà văn có tiếng như ngài mà phải đi làm những việc như thế thì còn ra làm sao ạ!
Lúc đầu, nghe người ta nói: "Ấy chết, ngài cứ dạy thế!" ông cũng cảm thấy hãnh diện, nhưng sau ông mới hiểu rằng người ta nói thế chẳng qua chỉ cốt để chối khéo ông mà thôi...
Thế nhưng ông vẫn cứ đi lạy lục hết toà soạn này đến toà soạn khác để xin việc. Ðể rồi lại được nghe những lời rất tử tế:
- "Ấy chết... Xin mời ngài cứ đến chơi ạ. Thật là quý hóa!"
Khốn nỗi, chỉ nghe những lời tử tế suông thôi, người ta đâu có thể no bụng được!
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
5. 27-11-2007 01:15 AM #15
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Hội cứu vớt gia đình
Aziz Nesin
Khoảng nay mai, ở Mỹ sẽ phải xuất bản một cuốn sách mà tôi cam đoan là sẽ bán hết ngay lập tức. Tác giả của nó vốn là người tôi quen biết từ lâu. Trong những lần gặp nhau... hay qua thư từ, ông đã kể cho tôi nghe nhiều về nội dung cuốn sách. Cách đây chừng hai tháng, ông còn gởi cho tôi cả tập bản thảo đánh máy để tôi xem và cho ý kiến. Tôi đã trả lời ông rằng, tác phẩm của ông tất nhiên sẽ rất được hâm mộ, và được dịch sang tất cả thứ tiếng. Bởi cái chính là trong toàn bộ cuốn sách không hề có một chút gì gọi là bịa đặt của tác giả, mà hoàn toàn là những sự việc và tư liệu có thật. Tác giả chỉ thay đổi đi một số tên người, vì câu chuyện có liên quan đến nhiều nhân vật tai to mặt lớn thuộc giới kinh doanh và chính trị của Mỹ.
Nếu các bạn muốn biết, thì đây, tôi xin tóm tắt lại nội dung cuốn sách:
Cách đây mấy năm, sáu thanh niên ở bang California có lập ra một cái hội bí mật. Họ muốn làm giàu, nhưng tất nhiên là phải nhanh chóng, chắc chắn và ít nguy hiểm. Vì thế, họ bèn nghĩ ra cách bắt cóc vợ các nhà triệu phú và tỉ phú để đòi một khoản tiền chuộc kếch sù. Không, họ hoàn toàn không phải hạng côn đồ hay du đãng gì, mà đều là những thanh niên tử tế hẳn hoi cả! Ba người thì tốt nghiệp đại học tổng hợp ra, người thứ tư thì hãy còn là sinh viên, người thứ năm làm nghề bán hàng, còn người thứ sáu làm nhân viên thư ký. Không những thế, họ lại còn tốt bụng và nhân đạo lắm: tuy chẳng ai bảo ai, nhưng cái ý định bắt cóc trẻ con là cả bọn không ai bàn đến! Họ chỉ bắt cóc người lớn thôi!
Nhưng họ hiểu rằng muốn bắt đầu một sự nghiệp gì cũng vậy, trước hết, hội phải có một số vốn. Vì thế họ quyết định ai có bao nhiêu tiền thì đem góp hết vào cho hội. Tuy vậy, họ vẫn phải đi vay thêm, vì biết trước là sẽ rất phải tốn kém với các vị khách hàng tương lai của mình. Với lại, chỉ ở những nước lạc hậu người ta mới có thể đi ăn trộm nhà băng hay bắt cóc người mà không cần có tiền bạc gì cả. Chứ ở một nước văn minh và giàu có như nước Mỹ mà không có tiền, thì đừng hòng làm được trò trống gì.
Theo kế hoạch của họ, người đầu tiên bị bắt cóc là vợ một ông trùm tài chính, giám đốc nhà băng ở San Francisco. Họ đến bắt bà này, đưa về một biệt thự tại một vùng thôn quê hẻo lánh, rồi cho công bố trên báo chí, đài phát thanh và vô tuyến truyền hình rằng, trong thời hạn 3 ngày, nếu nhà triệu phú nọ không nộp đủ 80.000 đôla tiền chuộc, thì vợ ông ta sẽ bị giết. Báo chí, phát thanh và vô tuyến truyền hình tất nhiên đã loan báo ngay điều kiện đó. Nhưng vì chuyện bắt cóc người bây giờ xảy ra như cơm bữa, nên tin ấy cũng chẳng làm ai sửng sốt hay thương cảm nữa. Thời hạn ấn định đã hết, mà nhà triệu phú vẫn im hơi lặng tiếng. Mấy anh chàng đi bắt người đâm ra khó xử: món hàng bán không trôi, quăng đi không được, mà giữ lại thì cũng dở. Vì tiền nuôi mụ quá tốn kém. Không những thế, mụ lại là một người đàn bà kênh kiệu đỏng đảnh hết chỗ nói. Mụ đòi hỏi đủ mọi thứ: nào gương lược, phấn sáp, nào son, thuốc móng tay, nào thuốc xoa bóp, thuốc ngủ... Thần kinh của mụ đúng là không bình thường. Bây giờ, tự nhiên thả mụ ra thì không được. Chỉ có cách là phải giết đi. Nhưng giết thì đúng là mấy chàng thanh niên này không có gan. Mà thả mụ ra bây giờ thì mọi chuyện sẽ vỡ lở và cảnh sát sẽ đến tóm cổ họ ngay. Chồng mụ thì vẫn cứ lặng thinh, không thấy đem tiền đến chuộc.
Họ bằng quyết định phải đến gặp người chồng để điều đình. Sau khi suy nghĩ một lát, người chồng nói với họ: "Các ông đòi nhiều tiền quá. Bà ấy không đáng giá như thế đâu!" Họ bằng lòng hạ giá xuống còn 50.000 đôla. "Không! Bà ấy vẫn không đáng giá đến thế!" Bọn người bắt cóc bảo ông ta: "Thôi được, giá cuối cùng là 40.000". "Giá như các ông bắt vợ tôi cách đây 20 năm lúc tôi vừa cưới bà ấy thì tôi sẵn sàng chấp thuận ngay." "Thôi, 30.000. không kém 1 xu". Người chồng vẫn chỉ nhìn họ lắc đầu. Giá 80.000 hạ dần xuống còn 20.000, rồi 15.000... Nhà triệu phú vẫn lặng thinh. Những người đi điều đình nhắc cho ông ta nhớ rằng, vừa năm ngoái, ông còn dám bỏ ra 15.000 cho "Hội bảo vệ những con mèo không nhà cửa". Nhưng nhà triệu phú giải thích rằng, thứ nhất, là vì ông rất thích mèo, thứ hai, là vì hội ấy là một hội đứng đắn và hoàn toàn hợp pháp, nên số tiền có thể góp dần hàng năm, và chuyển từ số lãi nhà băng sang. Còn như mấy cái hội bất hợp pháp thì phải bỏ tiền túi ra mà đóng.
Mấy chàng thanh niên lại quyết định giảm số tiền xuống còn 10.000 đôla, và cố gắng giải thích cho người chồng hiểu rằng, rút cuộc, họ chỉ yêu cầu ông bù lại cho họ khoản tiền đã mất mà thôi: Họ đã phải tốn kém vào vợ ông gần hết số vốn của họ... Người chồng không nói gì, chỉ buông một tiếng than và mời họ uống whisky.
Ra về tay không, các thành viên của tổ chức bí mật bàn định lại tình hình và quyết định hành động táo bạo hơn. Họ thả người vợ ra, nhưng ngay đêm hôm đó, bắt cóc người chồng và tuyên bố số tiền chuộc vẫn như cũ, nghĩa là 80.000 đôla. Nhưng thời hạn chuộc đã hết, mà kết quả vẫn như lần trước. Vợ nhà triệu phú tỏ ra còn cứng rắn hơn cả chồng. Bà ta tuyên bố nhất định không chịu trả một xu nào! Những người bắt cóc đe dọa là nếu vậy, chồng bà ta sẽ bị giết. "Tôi không có quyền can thiệp vào kế hoạch riêng của các ông." Bà ta trả lời như vậy bằng một giọng buồn rầu, nhưng mắt thì ánh lên tia hy vọng.
Trở về biệt thự, những người bắt cóc báo cho nhà triệu phú biết ông ta được tự do và muốn đi đâu thì đi. Nhưng ông này lại không chịu đi và bảo với họ: "Tôi muốn sống ở biệt thự này, hay thậm chí ở tù cũng được, miễn sao thoát được mụ đàn bà ấy."
Cáu tiết, sáu chàng thanh niên xúm lại, túm lấy ông ta đẩy ra cửa. Nhà triệu phú hết sức chống cự và van vỉ:
"Tôi sẽ cho các ông 10.000, 10.000! Nhưng xin các ông cho tôi ở lại đây!" Nghe thấy thế, trong đầu những người sáng lập ra tổ chức bí mật bỗng nảy ra một ý nghĩ tuyệt diệu. Họ bằng lòng cho nhà triệu phú được ở lại đại bản doanh của hội, nhưng bắt ông ta phải nộp đủ 80.000 đôla! Nhà triệu phú bằng lòng. Không những thế, ông ta còn thú thật với mấy chàng thanh niên tốt bụng rằng, giá như tuần trước, họ đến nhà ông để khuyên ông đừng chuộc vợ về, mà nên thoát khỏi bà ta thì hơn, thì chắc chắn ông sẽ chẳng đắn đo gì mà trả ngay cho họ đủ số tiền như thế.
Ngay tối hôm đó, những hội viên của hội lại đến thăm người vợ có chồng bị bắt cóc. Họ dọa bà ta rằng nếu bà ta không chịu trả 80.000 đôla, thì họ sẽ thả đức ông chồng của bà ta ra ngay lập tức. Quả nhiên họ lại được ngay một món tiền nữa. Của đáng tội, mấy hôm trước họ đã phải chịu đựng cái tính khí bất thường của người đàn bà này.
Cái ý định đặt tên hội là "Hội cứu vớt gia đình" nảy sinh ra chính là từ đó, và hoạt động của sáu chàng thanh niên thông minh ở bang California ngày càng phát triển. Hội của họ dần dần có chi nhánh ở tất cả các bang khác, rồi sau bắt đầu có cả cổ phiếu riêng để bán. Ðồng thời, cái tên "Hội cứu vớt gia đình" cũng dần dần được thay thế bằng những tên khác nghe kêu hơn và lịch sự hơn, như "Hội tình nguyện", "Hội từ thiện"... tuy rằng hoạt động của nó vẫn là bất hợp pháp, vì hội và khách hàng, tuy không ai bảo ai, nhưng cả hai đều muốn giữ bí mật tuyệt đối việc làm của mình. Hơn nữa, làm như thế họ còn đỡ được khoản thuế. Hoạt động của "Hội cứu vớt gia đình" cho đến ngày nay vẫn ngày càng phát đạt: trong khi phục vụ cho các ông chồng và các bà vợ, nó lấy được tiền của cả hai.
Cuối cùng, tác giả cuốn sách còn cho biết thêm một chi tiết đặc biệt của các vị khách đàn ông (kể cả các nhà kinh doanh lẫn các nhà chính trị) là trong khi sẵn sàng trả rất nhiều tiền thuê người bắt cóc vợ mình, thì đồng thời họ cũng tình nguyện bỏ ra những số tiền rất lớn để chuộc lại các cô thư ký bị bắt cóc. Ðiều này nói chung cũng dễ hiểu: việc mất đi những nhân viên có kinh nghiệm sẽ ảnh hưởng ngay và trước hết đến công việc...
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
6. 27-11-2007 01:16 AM #16
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Nếu tôi là đàn bà
Aziz Nesin
Xêliamét vào làm gác cổng cho một xưởng dệt kim. Hàng tháng, hắn được lĩnh 80 đồng. Với 80 đồng ấy thì đến một phần tư con người cũng không sống nổi, chứ đừng nói đến một người. Nhưng hắn hy vọng ở sự cần mẫn của hắn. Cuối cùng rồi thế nào ông chủ cũng sẽ đánh giá đúng được tinh thần cố gắng của hắn mà tăng lương. Chức gác cổng đối với hắn thật quả là thấp kém, nhưng biết làm thế nào? Thời buổi này, có biết bao nhiêu người đi gác cổng cho những kẻ còn không đáng mặt làm nghề gác cổng nữa kia. Chủ nhà và người gác cổng đã thế chỗ cho nhau.
Hắn làm ngày làm đêm, không quản công tiếc sức để hòng tiền lương được thêm đồng nào hay đồng nấy. Ôi, nếu như hắn có thể trở thành người gác đêm!... Người gác đêm ở xưởng này được lĩnh những 200 đồng một tháng. Mà công việc lại yên tĩnh hơn nhiều. Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định sẽ đạt được. Một ngày kia, lão chủ gọi hắn vào, bảo:
- Ta rất hài lòng vì anh.
- Ða tạ ông.
Lão chủ hỏi:
- Anh có vợ rồi chứ?
Như thể bị vạch tội, hắn sượng sùng đáp:
- Dạ vâng!
Và để được yên lòng sau khi đã thú nhận hết tội lỗi của mình, hắn cúi đầu xuống nói tiếp:
- Bẩm ông chủ, con còn 2 đứa con nữa ạ.
Lão chủ vừa ra chiều thông cảm, vừa làm hắn hổ thẹn:
- Ái chà chà! Thế anh làm sao mà sống được?
- Dạ, bẩm ông chủ, chật vật lắm ạ.
- Ta làm ơn cho anh điều này nhé. Anh có thể vừa gác cổng, vừa canh đêm được không?
- Ðược lắm, bẩm ông chủ.
- Kể ra thì anh cũng chỉ phải đứng ở cửa có 6h. Cộng thêm với 8h gác đêm nữa, vị chi là 14h. Anh hãy còn những 10h tự do nữa. Bằng lòng không?
- Xin đa tạ ông chủ.
- Ta sẽ tăng thêm cho anh 30 đồng về công việc gác đêm nữa.
- Dạ, xin đa tạ ông chủ.
Người gác đêm vẫn lĩnh 200 đồng một tháng lập tức bị đuổi vì tội ngủ quá say và người ta lấy anh chàng gác cổng của chúng ta thế chân vào đấy. Ban ngày đứng canh cửa, còn ban đêm, đeo chiếc đồng hồ kiểm tra trên cổ, hắn đi canh gác xưởng. Tiền lương của hắn bây giờ được 110 đồng.
Hắn vốn là người chăm chỉ và cẩn thận. Hắn nghĩ: cuối cùng lão chủ cũng chẳng phải đồ ngốc, nhất định lão sẽ nhận thấy sự cố gắng của người làm và tất nhiên sẽ lại làm ơn cho hắn lần nữa. Chẳng hạn, lão sẽ giao cho hắn làm thư ký xưởng thì hay biết mấy! Thư ký được lĩnh những 300 đồng một tháng!...
Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định sẽ đạt được. Một hôm, lão chủ gọi anh chàng gác cổng vào:
- Ta rất hài lòng về anh nên lại muốn làm ơn thêm cho anh một lần nữa. Ban đêm thực ra thì anh cũng không đến nỗi bận lắm. Anh có ưng làm công việc giấy tờ văn phòng không? Ta sẽ trả thêm cho anh 60 đồng nữa.
Người gác cổng suy tính. Nếu vậy thì hắn sẽ được lĩnh 170 đồng...
- Cầu trời phù hộ cho ông, bẩm ông chủ - hắn trả lời.
Viên thư ký xưởng vẫn lĩnh 300 đồng một tháng lập tức bị đuổi về tội thường để cho những ý nghĩ vẩn vơ, cà phê và thuốc lá choán hết giờ làm việc của mình, và người ta lấy anh chàng gác cổng của chúng ta vào thế chân. Giờ đây, ban ngày đứng canh cửa, đêm đến lúc canh xưởng, hắn lôi máy chữ ra đánh các giấy tờ.
Hắn làm việc đổ mồ hôi hột. Cuối cùng, lão chủ cũng chẳng phải là kẻ ngu đần. Sớm muộn lão cũng sẽ phải nhận thấy mọi cố gắng của hắn và tất nhiên là sẽ thưởng công. Lão kế toán của xưởng lĩnh những 400 đồng một tháng. Chà, nếu như có thể làm kiêm cả chân kế toán nữa!...
Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định phải đạt được. Một ngày kia lão chủ lại gọi hắn vào:
- Tôi hiểu rằng ở thời buổi chúng ta thì 170 đồng chưa thấm vào đâu - lão nói - nên tôi muốn tăng lương cho anh.
- Xin đa tạ ông chủ ạ.
- Anh hẳn là còn thì giờ rồi. Ngồi không ở nhà làm gì, anh nên nhận làm thêm việc tính toán sổ sách cho xưởng còn hơn.
- Dạ vâng, bẩm ông chủ.
- Hay lắm, tôi tăng thêm cho anh 45 đồng nữa.
Viên kế toán của xưởng vẫn lĩnh 400 đồng một tháng lập tức bị đuổi về tội cứ nhầm trừ thành cộng, nhầm chia thành nhân.
Bây giờ anh chàng gác cổng của chúng ta được lĩnh 215 đồng một tháng. Ban ngày hắn đứng canh cửa 6h, ban đêm 8h gác xưởng và đồng thời đánh máy, còn khi về nhà thì lại tính tính toán toán.
Hắn làm việc thật nhiều, cần mẫn, cố làm cho nhiều hơn mức người ta đòi hỏi ở hắn. Giờ này hắn lại mơ tưởng đến chức thủ kho. Thủ kho được lĩnh những 450 đồng một tháng!
Nếu như con người hết lòng mong muốn điều gì, điều đó nhất định phải đạt được. Lão chủ lại gọi hắn vào:
- Tôi lại muốn làm ơn cho anh lần nữa. Anh nghĩ sao, nếu tôi mời anh nhận chức thủ kho?
- Ðược như vậy con rất lấy làm mãn nguyện, bẩm ông chủ.
- Hay lắm, lương anh sẽ được tăng thêm 35 đồng. Anh đi mà nhận kho!
Viên thủ kho, một con người lơ đễnh - đã chở nhầm về nhà đôi thứ hàng mà đáng lẽ anh ta phải chở về kho, lập tức bị đuổi, và anh chàng gác cổng của chúng ta bắt đầu làm phận sự của mình.
Hắn làm ngày làm đêm không quản sức, không tiếc thì giờ gì hết. Lão chủ chẳng phải con lừa, cuối cùng thế nào lão cũng đánh giá đúng mực sự hy sinh ấy. Và quả nhiên... Lão chủ gọi anh vào:
- Cám ơn anh, tôi rất hài lòng về anh. Người làm việc tốt thì ai cũng biết đến! Các công việc khác thì anh vẫn cứ giữ nguyên, riêng việc gác cổng thật không xứng đáng với anh nữa. Và từ nay tôi bổ nhiệm anh làm quản đốc phân xưởng.
Làm quản đốc? Hắn đâm ngơ ngẩn cả người! Lâu nay hắn vẫn nhăm nhe cái chân quản đốc. Hết lòng mong muốn điều gì, người ta nhất định sẽ đạt được. Và thế là hắn đã được làm quản đốc.
- Tôi thêm lương cho anh 80 đồng - lão chủ nói.
Kiêm làm quản đốc nên lương hắn được thêm 90 đồng, song vì thôi gác cổng lại mất 80 đồng, vậy cả thảy giờ đây hắn lĩnh 260 đồng một tháng.
Viên quản đốc cũ vẫn lĩnh 500 đồng lập tức bị đuổi vì tội tán tỉnh cô thư ký của ông chủ.
Trong phân xưởng có 40 công nhân, 2 thợ cả và 20 chiếc máy. Làm công nhân thì hắn chẳng màng, vì hắn có biết nghề ngỗng gì đâu, mà làm thợ cả thì lại càng không nổi. Hắn cũng không thể thay cho máy móc được... mà trong văn phòng thì ngoài hắn, chỉ còn có cô thư ký đánh máy nữa thôi.
Lúc rảnh việc, hắn tán chuyện với cô thư ký, khen ngợi lão chủ.
- Cầu trời phù hộ cho ông chủ, một con người quý hóa quá. Tôi vào làm gác cổng cho xưởng được 80 đồng một tháng. Ông chủ cho làm thêm chân gác đêm, thế là tôi được 110 đồng. Sau đó, ông còn cho tôi làm thư ký! Lương tôi tăng lên đến 170 đồng. Sau ông lại tin cẩn giao cho làm kế toán và trả tất cả 215 đồng. Rồi ông giao cho cả việc giữ kho, tôi được 250 đồng. Và bây giờ thì không kể mọi khoản tiền trên, tôi còn làm quản đốc. Và lương của tôi những 260 đồng!
Cô thư ký cũng khen ngợi ông chủ:
- Thoạt tiên, tôi vào làm chân quét dọn ở đây được 40 đồng. Sau đó tôi nhận thêm việc dọn dẹp. giặt giũ ở nhà ông chủ và được tất cả 60 đồng. Rồi tôi lại kiêm cả làm thư ký đánh máy. Lương tôi tăng lên đến 80 đồng. Sau tôi làm thêm việc nấu nướng và giúp đỡ việc nội trợ cho ông chủ, ông ta bèn tăng cho tôi lên 100 đồng. Rồi sau nữa... sau nữa anh biết đấy, tôi đã trở thành người có quan hệ thế nào với ông chủ. Và lương tôi được tăng thêm 15 đồng. Bây giờ tôi được lĩnh 115 đồng!
Hắn bảo cô thư ký:
- Cô làm việc nhiều như thế chắc mệt lắm đấy!
Cô thư ký đáp lại là hắn nói rất có lý và cũng hỏi lại hắn:
- Thế công việc anh làm không nhiều à? Lương anh như vậy không ít hay sao? Hay là anh không muốn được tăng lương nữa?
Hắn nhìn cô thư ký. Hắn nhớ ra rằng trong văn phòng không còn ai ngoài hắn và cô thư ký nữa. Hắn nghĩ đến đống công việc của cô ta.
- Không, không - hắn nói - Tôi không còn muốn một khoản nào thêm nữa. Cám ơn cô. Nhưng nếu như tôi là đàn bà thì sao? Thì hắn ông chủ sẽ đuổi cả cô và tăng lương cho tôi thêm 20 đồng... Không, không!... Như thế này tôi đã toại nguyện... vâng, nhưng... nếu tôi là đàn bà!
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
7. 27-11-2007 01:16 AM #17
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Xót tiền dân
Aziz Nesin
- Khách sạn gì mà xây lâu đến thế kia chứ!
- Chứ gì, ngần ấy thời gian thì xây được cả thành phố đâu phải chỉ một khách sạn.
- Sao lại lâu thế nhỉ? Hay là ta chọn nhầm cách thầu khoán.
- Khách sạn này cũng có mấy nhà thầu nước ngoài xin việc không hiểu sao các ông ấy lại ưng nhà này: cũng chẳng phải vì nhà ấy đòi ít, cũng chẳng phải họ làm tốt các hợp đồng khác cũng chẳng phải vì họ chiều mình. Sự thể ra sao tôi phải quan sát đã rồi mới dám nói.
Hóa ra là quan trên cũng nhiều mà cung cách cũng lắm: nào mở tiệc ăn mừng, nào cắt băng khởi công, nào quan lớn tự tay đặt viên gạch đầu lấy mau. Rồi chiêu đãi dưới trên, ăn một miếng, nhớ một đời, rồi báo chí rùm beng, bài to, ảnh nhớn.
Ít lâu sau hàng rào khách sạn tương lai mọc lên.
Một hôm có ba chiếc xe con đỗ cạnh công trường. Nào phải ai xa lạ, chính là các vị quan chức nước nhà bước xuống xem xét bề thế công trường.
- Sao hành lang lại hẹp thế nhỉ? - ngài trưởng nhóm hỏi.
- Bẩm quan, cái đồ án thiết kế nó vậy - người kỹ sư đáp, hành lang đã rộng đến 5 mét...
- Chắc ông cho rằng chúng tôi không thấy cái khách sạn nào bao giờ hẳn? Tôi đã ở các ô-ten ngoại quốc, hành lang của họ còn rộng nữa. Thôi được, cứ cho rằng hành lang theo thiết kế đi, nhưng số lượng hành lang ít quá... Khách sạn mà có mấy cái hành lang như thế. Không làm thì thôi, đã làm thì làm ra làm. Tiền dân, tiền nước! Phải biết xót chứ...
Ông kỹ sư ngậm tăm.
- Còn các ông nghĩ thế nào? Khách sạn lớn mà có mấy hành lang như thế chẳng phải là ít hay sao? - quan lớn hỏi bầy tùy tùng.
- Hơi ít, thưa ngài.
- Dạ bẩm ít ạ.
- Ít quá chứ ạ...
Và thế là hợp đồng với nhà thầu ấy bị hủy.
Trong lúc chờ giám định phân xử, bản thiết kế được thay đổi: hành lang nhiều hơn, rộng hơn.
Việc thi công đồ án mới đang triển khai thì một bữa kia lại có mấy chiếc xe con dừng bánh bên đường. Lại có mấy nhà đương chức đến nom việc. Ði đầu là một ngài bệ vệ nhất. Vừa thấy cái lỗ cửa ra vào, ngài hỏi liền:
- Chỗ này làm gì đấy?
- Dạ, phòng khách đấy ạ - đại diện hãng thầu mới đáp.
- Phòng khách? Phòng khách quái gì mà thế này?
- Dạ bẩm, việc chưa xong mai kia chúng con lát đá, sơn tường, kẻ hoa...
- Hiểu rồi, tức nghĩa là phòng khách chứ gì... Nhưng ta hỏi, phòng khách có phải là nơi đấu ngựa không? Làm gì có phòng khách như bãi quần ngựa ấy? Tiền dân, nghĩ mà xót ruột...
- Bẩm ngài, chúng con làm theo thiết kế...
- Lạy chúa, cái mà các anh gọi là thiết kế, nó không phải là bài kinh Côran bất di bất dịch. Phải thay thiết kế, phải thay đi mới được.
Nhà thầu chịu nghe không dám ho he. Theo ý mới, các phòng khách đều được thu nhỏ.
Công việc đang chạy thì một hôm lại có mấy quan phóng xe con đến xem khách sạn. Ngài đương quyền dẫn đầu đội khảo hạch nói chung là vui, nhưng lúc ra đến cửa, ngài mới nhìn lên trần băn khoăn hỏi:
- Thế không làm mái vòm, trần cuốn à?
Câu hỏi làm nhà kiến trúc sư trẻ tuổi bủn rủn đầu gối, anh ta chết lặng đi mất mấy phút, bấy giờ mới đủ sức định thần để hỏi lại:
- Xin ngài thứ lỗi, con không hiểu, ngài định nói mái vòm, trần cuốn thế nào ạ?...
- Ðó mới là kiến trúc lối Thổ. Những người vào khách sạn sẽ là khách nước ngoài, vì thế khách sạn phải theo lối Thổ ta... Anh xem nhà cửa nước Thổ bao giờ lại không có mái vòm, trần cuốn.
- Nhưng thưa ngài, trong bản thiết kế...
- Thiết kế là cái gì? Nhờ nhà thầu nước ngoài làm thiết kế bao giờ chả vậy. Họ biết gì về kiến trúc và tâm hồn ta nào?
Các quan tùy tùng cúi cả đầu xuống.
- Nhà thế này thì ai cần? Nhất thiết phải có mái vòm, trần cuốn. Trông thấy tiền dân, tiền nước mà xót cả ruột!
Làm mái vòm trần cuốn cho cả nhà thì tổn phí quá, nhà thầu chỉ dám theo tinh thần dân tộc ở một đôi chỗ dễ nhất.
Công việc xây cất đã đến lúc hòm hòm thì giới quyền chức lại theo bánh xe con lăn đến. Ngài quyền cao đi trước buồn rầu nhận xét:
- Úi dà! Sao lại làm nhiều hành lang thế nhỉ... Phòng thì ít, lối lại nhiều. Ở đây dễ đến lạc như vào rừng... Thật xót tiền dân!...
Làm đi làm lại mãi chẳng còn biết thời hạn ra sao? Công việc mịt mùng không dứt. Báo chí đã bắt đầu đưa đẩy. Muốn nhanh nhà thầu lại phải đổi kiểu mái. Nhưng những cuộc tranh luận bất đồng lại nổi dậy. Dùng ngói gì bây giờ? Ngói bản xứ hay ngói Mácxây. Cuối cùng phương án ngói bị đổ và mái được làm bằng bê-tông thường.
Công việc gần xong thì bỗng bụi đường tung dưới bánh xe con.
- Thế gạch men đâu? Khách sạn Thổ mà không có gạch men là thế nào? - các quan khách kinh ngạc hỏi.
Sau đó mọi người vào phòng khách. Phòng khách không có một cây cột. Ngài trưởng đoàn bảo:
- Ở đây không có cột, mà cột lại cần. Cầu trời cho mái đừng sập...
- Bẩm ngài an tâm, không sập được đâu ạ, chúng con đã tính.
- Ðã tính? Ðến lúc nó sập thì đem tính của các anh ra mà trừ à?
Ngài quay lại đám sau lưng:
- Thế nào, các ông, trần sập được chứ?
- Bẩm, được ạ...
- Thế nào cũng đổ, nặng thế kia cơ mà? Lại còn đồ đạc trên ấy nữa... Rồi người vào lại đông... Thế nào cũng đổ.
- Nổ như bom ấy chứ...
- Bao nhiêu là tiền vứt qua cửa sổ... Thật xót tiền nhà nước... Các anh nghe không? Ai cũng bảo đổ... Thêm mấy cái cột có phải lại lạ kiểu...
Chiều ý mới, các phòng khách đã có thêm cột.
Một ngài dẫn đầu một đoàn lãnh đạo khác đã biến dãy cột vuông thành gạch vụn.
- Trong các sách giáo khoa thư ngài học hồi bé, ngài có thấy những bức ảnh đền đài Hy Lạp toàn cột tròn cả, chứ không lai căng thế này. Tiền nhà nước vứt ra cửa sổ thật là xót ruột.
- Bẩm quan, dễ như trở bàn tay thôi, chúng con sẽ có cột tròn.
Ðến lúc tường ngoài đã chạm trổ hoa văn thì một quan lớn đến thăm, trách cứ:
- Những công trình hiện đại người ta dựng mặt tiền bằng kính chứ!
Cuối cùng rồi cũng đến lúc mọi việc coi là xong xuôi. Chỉ còn một việc cuối cùng. Một ngài quan khác nhận xét rằng cầu thang dốc quá, người đứng tuổi lên có phần mệt.
- Bẩm quan, còn thang máy. Vị nào trọng tuổi thì có thang máy.
- Nếu vậy thì xây cầu thang làm gì? Các anh chả biết xót tiền quốc gia! Cầu thang cũng phải có ích chứ?
Sửa xong cầu thang, một nhà kiến trúc sư nổi tiếng nước ngoài đến thăm:
- Một kiến trúc trứ tác! Xứng đáng làm đại bản doanh Liên hiệp quốc!
Gạch men mặt tiền và trên tường, mấy hành lang, mái vòm, trần cuốn, chấn song sắt hình hoa kim hương, mái nhà có ô văng, những thứ đó hoàn toàn theo tinh thần Thổ Nhĩ Kỳ. Ngược lại chóp mái lại theo đúng phong điệu Bắc Âu. Những cầu vồng phòng khách mượn lối cung đình Thổ. Phòng khách chính giống lối đại sảnh, thậm chí còn lớn hơn những đại sảnh Aten. Rồi lại còn những mẫu mực xuất sắc của lối kiến trúc Ý... Nhà tắm, nhà vệ sinh theo kiểu Mỹ. Rồi lối xây Ấn Ðộ, đường nét Trung Hoa... Tất cả cùng nhau chen vai thích cánh.
- Tuyệt! - nhà đại kiến trúc ngoại bang thốt lên - làm sao các ông có thể đưa nổi mọi lối kiến trúc vào một lâu đài thế này.
- Chúng tôi xây đi xây lại cái trứ tác này suốt chín năm đấy! Mà lại còn tằn tiện được bao nhiêu tiền dân! - ông chủ nhiệm công trình tự hào đáp lại.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
8. 27-11-2007 01:17 AM #18
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Lỗi là tại anh
Aziz Nesin
Khi anh bị mất việc, cuộc sống của anh bắt đầu gặp khó khăn ngay. Nhưng phải giải thích cho những ông bạn ưa tò mò biết nguyên nhân tại sao anh mất việc, mới thật khó khăn hơn nhiều!
Không! Lần này nhất định tôi sẽ chẳng hở cho ai biết chuyện gì đã xảy ra với tôi cả. Mọi lần, có chuyện gì không may là tôi cứ hay đi kể lể với những người quen, vì hy vọng biết đâu có người có thế giúp đỡ tôi! Nhưng cũng có khi chỉ vì muốn cho khuây khoả nỗi buồn. Nhưng khốn nỗi, cứ mỗi lần như thế, tôi lại bị họ lục vấn đủ điều, cố tìm cho bằng được nguyên nhân nỗi bất hạnh của tôi, để rồi cuối cùng, chẳng biết thế nào, chính tôi lại bị xem là kẻ có tội trong mọi chuyện không may ấy!
Ðấy - họ bảo tôi - Giá anh không làm như thế, như thế... thì đời nào ông chủ lại đuổi. Mà một khi anh đã cả gan làm những chuyện như vậy, thì lỗi là tại anh rồi còn quái gì! Chính anh có lỗi thôi! Cuối cùng, bao giờ họ cũng kết án tôi như vậy, và vẻ hài lòng hiện rõ ra mặt.
Hôm ấy, tôi đang vừa đi ngoài phố vừa miên man suy nghĩ về chuyện làm ăn, thì bất thình lình có người đập mạnh vào vai. Tôi ngoảnh lại thì hoá ra ông bạn Ôxman Kêman. Anh ta vui vẻ đi bên cạnh tôi. Chợt nhìn thấy bộ măt buồn rầu thiểu não của tôi, anh cụp ngay mắt xuống thay đổi hẳn vẻ mặt và bảo:
- Tôi hiểu!... - anh ta nói một cách ấp úng.
Nghĩa là anh ta đã biết chuyện tôi bị đuổi khỏi chỗ làm. Nếu vậy thì không thoát được rồi! Thế nào anh ta cũng lại sắp tra khảo tôi, tìm cách chứng minh cho tôi biết rằng chính tôi là kẻ có lỗi đấy cho mà xem!
Cái vẻ mặt buồn rầu giả tạo thật chẳng ăn khớp một tý nào với cái ánh mắt long lanh, vui sướng mà anh ta không che giấu nổi. Tôi cố làm ra vẻ không hiểu cái câu "Tôi hiểu" của anh ta và hỏi:
- Anh làm sao thế? Hay có chuyện gì không vui?
- Không, tôi chẳng làm sao cả! Nhưng tôi nghe nói là anh lại vừa bị mất việc thì phải! - anh ta đáp.
- Cũng không sao! - tôi cố làm ra vẻ thản nhiên, vì không muốn tiếp tục cái đề tài này.
- Sao lại không sao? - anh ta đứng ngay giữa phố, mồm cứ bô bô kêu "Trời ơi", rồi đề nghị tôi - Thôi, chúng mình vào tiệm làm một cách cà phê đi, rồi cậu kể cho tôi nghe xem đầu đuôi thế nào nào?
- Có gì đâu mà kể! - tôi đáp.
- Sao lại có gì đâu! Chà, xem cậu bắt đầu giống ai rồi nào? Thôi, ta đi đi! Cậu cứ kể cho mình nghe, rồi tự khắc cậu sẽ thấy khuây khoả ngay thôi mà!
- Anh cứ làm như có thể thay đổi được cái gì không bằng!
- Cậu làm mình giận đấy!... Chả lẽ mình không phải là bạn cậu hay sao?
Thế là tôi đành vào quán với anh.
- Nào, bây giờ thì cậu kể cho mình nghe xem có chuyện gì xảy ra đi! - anh ta nói, khi chúng tôi bắt đầu nhấm nháp ngụm cà phê.
- Lão chủ vừa đuổi tôi...
- Vì sao?
- Thì tôi biết được là vì sao! Anh đi mà hỏi lão ta ấy!
- Cậu có hay đi làm muộn không? - cuộc hỏi cung bắt đầu.
- Không! Bao giờ tôi cũng đến rất đúng giờ.
- Có bao giờ cậu không hoàn thành công việc không?
- Không bao giờ! Ông ta còn nói là rất hài lòng về tôi cơ mà!
- Hay là... công việc làm ăn của ông chủ cậu gặp khó khăn chăng? - anh ta cứ đoán lần đoán mò như người chơi ô chữ vậy.
- Trái lại, công việc của ông ta rất chạy.
Anh ta lại tỳ tay vào má, ra chiều ngẫm nghĩ.
- Thế có lần nào cậu cãi lại ông ấy không?
- Không! Ai mà dám cãi lại ông ấy!
Sốt ruột, Kêman bắt đầu nhấm nhấm móng tay.
- Thôi đúng rồi! Chắc cậu đòi tăng lương phải không?
- Ðâu có!...
- Hay là... cậu có nói câu gì về ông ta, chẳng hạn có ý chê trách ông ta?...
- Ồ, không đời nào!
Tôi bị hỏi vặn một hồi nữa bằng những câu đại loại như thế.
- Chà! Chà!... Thế thì vì cái quái gì mà cậu bị đuổi được nhỉ? Hay là... có khi nào cậu nhìn ông ta chằm chằm như cậu đang nhìn mình bây giờ không?
- Tôi không hiểu. Nhưng... có thể là có...
- Thôi thế thì đích rồi! Tớ đã bảo mà! Nhất định là phải có lý do mà lại, chứ không đời nào tự dưng người ta lại đuổi cậu cả! Chính lỗi tại cậu chứ không phải tại ai hết! Cậu cứ nhìn người ta chằm chằm như muốn ăn sống nuốt tươi thế thì ai mà chịu được! Nói thật chứ... Lỗi là tại cậu thôi!
Nói xong câu ấy, anh ta thấy trong người nhẹ nhõm hẳn.
Tôi khẽ buông một tiếng "Thôi, chào anh!" rồi bước ra khỏi tiệm. Thậm chí ngay cả lúc bị đuổi khỏi chỗ làm tôi cũng không thấy buồn như lúc này.
Tôi đi về phía bến ô tô.
- Thế nào, chả lẽ điều bọn mình nghe nói là đúng hay sao?
Ðó là câu đầu tiên tôi nghe được khi vừa bước chân lên ô tô. Một anh bạn quen ngồi sau tôi hỏi.
- Ðúng đấy! - tôi đáp.
- Thật đáng tiếc! Nhưng vì sao thế?
- Tôi không biết.
Như người cảnh sát đang suy nghĩ trước một vụ án bí ẩn, anh ta lẩm bẩm:
- Lạ thật! Lạ thật!... Không có cớ gì, lẽ nào người ta lại đuổi... Nhất định là phải có lý do...
- Nhưng dù sao...
- Hay là cậu bị kẻ nào tố giác?
- Tôi không cho là như vậy.
- Hay là ông ta tìm được người thạo việc hơn cậu?
- Nhưng lúc nào ông ta cũng nói là rất hài lòng về công việc của tôi kia mà!
- Hay có thể ông ta tìm được người bằng lòng làm với số lương ít hơn chăng?
- Tìm đâu ra được người như thế!
- Thế sao ông ta lại đuổi cậu nhỉ? À, hay là cậu không biết cách ăn nói với ông ta?
- Biết cách thế nào? Thì tôi vẫn nói chuyện với ông ta một cách bình thường thôi...
- Trời ơi! Thế thì rõ rồi!
- Anh bảo rõ cái gì?
- Rõ nguyên nhân chứ gì còn nữa. Với ông chủ mà anh lại ăn nói một cách bình thường là không được, anh hiểu chưa? Anh không thưa bẩm với ông ta, thế là ông ta giận chứ có gì đâu!
- Ồ, đâu có!... một tháng tôi mới gặp ông ta có một lần. Mà khi gặp tôi cũng có được nói chuyện với ông ta đâu!
- Thế lại càng không được!... Cậu cứ lăm le định tìm cách nói chuyện với ông ấy thì ông ấy ghét là phải chứ còn gì nữa! Lỗi là tại cậu thôi!
Nói xong câu ấy, anh ta cũng thấy hể hả lắm.
Ô tô vừa đến bến đỗ đầu tiên là tôi bước xuống ngay. Tôi cảm thấy tức giận đến nỗi tôi thấy nhất định phải tìm một người nào đó để thổ lộ can tràng. Tôi bèn quyết định đến nhà một người bạn cũ.
- Tôi bị đuổi khỏi chỗ làm rồi! - vừa bước chân đến cửa tôi vội nói ngay như vậy - Nhưng tớ van cậu đừng có hỏi thăm gì hết và đừng có ý định tìm hiểu nguyên nhân!
Nhưng nghe nói thế, anh ta lại càng tò mò.
- Thế nghĩa là có nguyên nhân rất quan trọng chứ gì?
- Tớ đã xin cậu đừng có hỏi mà!...
- Thế nhưng ngày lễ tết cậu có thường đến nhà ông chủ không?
Tôi chẳng bao giờ bước chân đến nhà ông chủ, nhưng cố tình muốn làm cho anh bạn rối trí, nên tôi đáp:
- Tất nhiên rồi, cứ mỗi dịp tết, dịp lễ hay bất cứ dịp gì là tôi...
- Thôi rõ rồi... cậu đến nhiều như thế chả trách...
- Ðâu! Tớ có đến nhiều đâu!...
Rồi anh ta lại bắt đầu đặt cho tôi những câu hỏi như mọi người.
- Tớ hỏi thật nhé, thế cậu có làm điều gì để ông ta cáu không?
- Không! Trái lại ông ta rất thích tớ...
- Thế thì vì cái quái gì được nhỉ? Tớ chịu không thể hiểu nổi!
Tôi lại bắt đầu thấy mất bình tĩnh, và để kìm xúc động, tôi đi đi lại lại trong phòng.
- Ðôi giày của cậu kêu quá! - đột nhiên anh bạn tôi thốt lên.
- Ừ! Nó kêu lắm! - tôi thừa nhận.
- Từ bao giờ thế?
- Từ lúc mới mua cơ! Ði đã năm tháng nay rồi mà nó vẫn còn kêu.
- Thế đi làm cậu cũng đi đôi giày này phải không?
- Ừ!
- Biết ngay mà! Biết ngay mà! Tớ đã bảo là không bao giờ người ta lại đuổi người một cách vô cớ mà!
- Cậu đã đoán được lí do người ta đuổi tớ rồi à? - tôi hỏi.
Sửa lại tư thế ngồi cho thoải mái, anh ta bắt đầu giảng giải:
- Ðôi giày của cậu kêu suốt từ sáng đến tối như thế thì ai mà chịu được cơ chứ? Ông chủ cậu cáu là phải! Chính lỗi là tại cậu thôi, người anh em ạ!
- Ðúng! Lỗi tại tôi! - tôi điên tiết hét lên - Tại tôi! Tại tôi! Nhưng tôi đến nhà cậu vào cái ngày đáng buồn này đâu phải để nghe những lời như thế!
Nói đoạn tôi đóng sầm cửa, bỏ ra về.
Buổi chiều, ngồi trên phà đi Cađưkây, tôi vẫn bị ám ảnh bởi chuyện đó.
- Anh nghĩ gì mà đăm chiêu vậy? - Một người lạ mặt bỗng hỏi tôi - Anh có chuyện gì buồn chăng?
- Không! Không có chuyện gì cả - tôi đáp.
- Nhưng trông anh có vẻ không vui. Có gì anh cứ kể cho tôi nghe, may ra tôi có thể giúp gì chăng?
- Tôi bị ông chủ cho thôi việc!
- Nhưng tại sao?
- Tôi không biết!
- Chắc anh phải có lỗi gì đó!
- Phải! Vì đôi giày của tôi nó kêu cót két nên ông ta cáu!
- Ồ! Anh nói đùa thế chứ! Lẽ nào vì thế mà người ta đuổi anh! Phải là lý do khác chứ!
- Tôi cứ hay nhìn chằm chằm vào ông ta, vì thế ông ta bực!
- Lại còn thế nữa!
- Vì tôi ít chịu nói chuyện với ông ta!
- Cũng vô lý!
Tôi nhìn thẳng vào mặt anh chàng không quen biết mà phá lên cười.
- Thôi đúng rồi! Chắc anh đã nhìn ông chủ và cười một cách nhạo báng như thế phải không?
- Ðúng! Tôi đã cười như thế đấy! Và ông chủ đã đuổi tôi. Nghĩa là lỗi tại tôi. Anh hiểu rồi chứ? Và bây giờ chắc anh hài lòng rồi chứ?
Nói đoạn tôi bỏ đi thẳng.
Trải qua một ngày đầy bực dọc, tôi trở về nhà. Ăn cơm tối xong thì anh bạn Ibrahim của tôi đến chơi. Trông anh thật rầu rĩ! Cách đây mươi hôm anh cũng vừa bị đuổi khỏi chỗ làm.
- Thế nào? Làm sao đằng ấy bị đuổi đấy? - tôi hỏi.
- Tớ không biết, còn đằng ấy thì tại sao?
- Tớ cũng cóc biết!
- Tất nhiên là phải có lí do thôi!
- Và không phải vô cớ người ta đuổi mình đâu! Chắc cậu hay nghỉ làm chứ gì? Thế cậu không trình giấy chứng nhận ốm à?
Chúng tôi bắt đầu tra khảo nhau. Trong lúc nói chuyện, Ibrahim chốc chốc lại hắc hơi và ho, cứ phải lấy khăn ra lau mũi luôn.
- Ibrahim này! Hình như cậu bị sổ mũi phải không? - Tôi hỏi
- Mình bao giờ chả thế! Viêm mũi mãn tính mà!
Lập tức tôi đứng phắt dậy, dang hai tay ra kêu lên:
- Thế thì rõ rồi! Cậu bị đuổi là đúng rồi! - tôi nói - Thôi đừng đổ lỗi cho người khác nữa! Lỗi là tại cậu thôi.
Ibrahim nhìn tôi, vẻ bối rối.
- Cậu lúc nào cũng sổ mũi thế thì làm sao mà ông chủ chịu được! Thế nên tất nhiên là cậu phải bị đuổi thôi! Ðúng không nào?
Nói xong, tôi cảm thấy thật hài lòng. Thậm chí sung sướng nữa là đằng khác! Tưởng như tôi vừa nhận được việc làm mới vậy!
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
9. 27-11-2007 01:19 AM #19
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Cả một ổ
Aziz Nesin
Tại bến tàu ở Kađưkây một người phụ nữ trẻ tuổi đang kêu la:
- Ối giời đất ơi! Cái ví của tôi, cái ví của tôi...! Bắt lấy nó!
Ðám đông nhốn nháo lên. Thằng ma cà bông đi chân đất chạy trên cầu tàu, nhảy từng ba bậc một. Người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp van nài những người đứng bên cạnh:
- Ðuổi nó hộ tôi với! Tóm lấy nó!
Thằng ăn cắp đã chuồn mất. Năm phút trôi qua. Bỗng một viên cảnh binh trẻ tuổi hiện ra. Tay viên cảnh binh đặt trên vai thằng ăn cắp đã xoáy chiếc ví.
- Ví của ai đây?
Chiếc ví màu đen, to, bóng loáng. Người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp vui sướng vùng ra khỏi đám đông chạy bổ đến bên người cảnh binh.
- Của tôi! Chà, đội ơn ông quá!
Thằng ăn cắp đi đất, cởi trần, trên người không có chỗ nào mà túm được cả. Viên cảnh binh luồn tay vào nắm lấy mớ tóc dài giữ cho hắn khỏi chạy mất. Thân hình bẩn thỉu của thằng ăn cắp lộ ra từ những chỗ thủng ở chiếc quần lính cũ giờ đã biến thành mớ giẻ rách.
Viên cảnh binh trẻ tuổi bảo người phụ nữ:
- Mời bà theo tôi về bốt.
- Ðể làm gì? Ví này là của tôi mà! Ai cũng trông thấy thằng cha này giật ví ở tay tôi.
- Phải ghi lời khai của bà để trình tòa.
Họ đi về bốt, viên cảnh binh và thằng kẻ cắp đi trước, người đàn bà theo sau. Nghe người phụ nữ khai xong, viên cảnh sát trưởng kinh tởm nhìn thằng ăn cắp người nồng nặc mùi súc vật chết:
- Thằng kia, mày không biết xẩu hổ à? Khỏe như con lừa ấy! Giá đi làm ăn gì có phải hơn không!...
Thằng ăn cắp thong thả ngẩng đầu lên:
- Thế còn những kẻ khác làm nghề gì? - nó nói.
- Câm ngay!
Viên cảnh sát trưởng hỏi người phụ nữ trẻ:
- Hanưm Ephendi, trong ví của bà có những gì?
- Tiền, sáp môi, chiếc gương, hộp phấn...
- Có bao nhiêu tiền?
Người phụ nữ nín lặng. Viên cảnh sát trưởng thò tay định cầm chiếc ví nằm trên bàn, nhưng người phụ nữ ngăn lại:
- Xin ông đừng mở ra! Trong ví tôi có... thôi, ông để tôi mở lấy.
Song viên cảnh sát trưởng đã cầm lấy chiếc ví và dốc ra mọi thứ bên trong: hộp sáp môi, chiếc gương, hộp phấn, ít tiền lẻ và... 200 đồng đôla.
- Bà lấy tiền đôla này ở đâu ra? - viên cảnh sát trưởng hỏi.
- Tôi không thưa kiện gì người này cả - người phụ nữ chỉ tay vào tên ăn cắp nói vội - Tôi chỉ yêu cầu cho tôi xin lại chiếc ví, tôi về!
- Tôi đang hỏi về số đôla này.
- Lạy Trời, mà thôi, tôi cũng chẳng cần chiếc ví nữa. Cứ để lại chỗ các ông cũng được. Tôi đi về đây.
- Bà không về được! Bà lấy đôla ở đâu ra?
Người phụ nữ cúi mặt xuống:
- Madam Eleni mới đưa cho tôi sáng nay.
Thằng ăn cắp ngẩng đầu lên ngó viên cảnh sát trưởng và cười khẩy.
- Thế Madam Eleni này ở đâu?
Người phụ nữ thì thầm tiết lộ địa chỉ.
Thế là cảnh sát trưởng cảnh binh, thằng kẻ cắp và người phụ nữ lên xe hơi của sở cảnh sát đi đến nhà Madam Eleni. Ngay trong gian phòng đầu tiên, họ chạm trán phải một cặp đang ở trong tư thế không lấy gì làm tao nhã cho lắm. Trong khắp sáu căn buồng, viên cảnh sát trưởng bước chân vào bất kỳ chỗ nào cũng đều thấy những cặp như vậy cả.
Cảnh sát trưởng xông tới Madam Eleni:
- A, chính mụ là chủ nhà chứa. Chúng ta đã hoài công tìm kiếm mụ Eleni suốt sáu tháng nay đây?! Mụ lấy đâu ra số tiền đôla này?
- Có một khách chơi là Rida trả cho tôi.
Những người đàn ông vừa bị bắt gặp trong cảnh bậy bạ ấy được thả ra, vì họ là đàn ông. Còn đàn bà thì vì không phải là đàn ông nên bị đưa đến nhà thương ở Ahưcapư để khám bệnh. Sau đó viên cảnh sát trưởng, thằng ăn cắp, người phụ nữ xinh đẹp và Madam Eleni lại đi xe hơi của sở cảnh sát đến nhà Rida. Tại nhà Rida, trên tầng thứ 7, đang tiến hành xây dựng.
- Các người làm gì ở đây?
- Có gì đâu!
- Có gì đâu à?! Thế công nhân với những người coi việc này là cái gì? Nghĩa là các người đã xây nhà phạm pháp!
Thằng ăn cắp ngẩng đầu lên nhìn viên cảnh sát trưởng và lại cười khẩy. Sau khi đã lập biên bản về việc xây dựng bất hợp pháp, cảnh sát trưởng hỏi Rida:
- Anh lấy số đôla này ở đâu?
- Ali đưa cho tôi.
Cảnh sát trưởng gọi dây nói đến cục an ninh xin một xe vận tải kín mít. Tất cả số hành khách cũ và Rida lên xe. Họ đến nhà Ali.
Cảnh sát trưởng hỏi Ali:
- Ông có đưa số tiền đôla này cho Rida không?
- Có!
- Sao ông lại đưa cho hắn?
- Ông ta bán sắt làm nhà cho tôi.
Cảnh sát trưởng quay lại Rida:
- Sắt làm nhà? Thế anh có giấy phép không? Không à? Thế đấy!... Nghĩa là anh lại còn đầu cơ cả sắt nữa!
Sau đó hắn lại hỏi Ali:
- Anh lấy tiền đôla này ở đâu?...
- Tôi được bạc đêm qua ở nhà Huxây.
Thằng ăn cắp vẫn luôn luôn cúi đầu xuống lại ngẩng lên nhìn viên cảnh sát trưởng và cười khẩy. Người cảnh binh, viên cảnh sát trưởng, thằng ăn cắp, người phụ nữ khả ái, Rida và Ali ngồi lên xe vận tải đến nhà Huxây.
Trên những bàn trải dạ xanh có 10.000 đồng, những quân súc sắc và cỗ bài. Sau khi những con bạc đã được đưa đến công tố viên, cảnh sát trưởng hỏi Huxây:
- Anh lấy đâu ra tiền đôla này?
- Chiếc tàu Ghêmisgơsêk sang Mỹ mới quay về. Nuri đưa cho tôi. Anh ta làm thợ máy ở đấy.
Các hành khách cũ và Huxây lên xe vận tải đi đến nhà người thợ máy Nuri. Trong nhà tay thợ máy Nuri này còn tìm thấy 10 cân thuốc phiện trắng nguyên chất. Nuri thú nhận là đã nhận tiền đôla của Ixan. Ixan tức thì bị bắt quả tang đang phạm tội ở tòa biệt thự trên đồi Bôcpho. Ở đây hắn sản xuất thuốc phiện trắng.
- Anh lấy tiền đôla của ai?
- Của Rêsan.
- Rêsan là ai?
- Hắn buôn lậu quần áo lót phụ nữ bằng nylông từ Bâyrút đưa về.
Thằng ăn cắp thong thả ngẩng lên nhìn viên cảnh sát trưởng và cười khẩy. Tất cả lại lên xe vận tải, bây giờ thì đến nhà Rêsan.
Rêsan nói đã cầm đôla của mụ Nêvin buôn quần áo lót nylông và áo tắm chun.
Song mụ này không có nhà. Mụ vẫn ở Pari hay La Mã như thường lệ.
Viên cảnh binh nói:
- Lạy Chúa, cũng may mà không có mụ ta ở nhà; trong xe cũng không còn chỗ nào trống nữa rồi.
Thằng kẻ cắp ngẩng đầu lên nhìn cảnh sát trưởng và cười khẩy.
Viên cảnh sát trưởng quát:
- Này, thằng bợm kia! Không việc gì mày cứ phải cười khẩy mãi thế! Rõ ràng là trong bọn này thì mày vẫn còn là kẻ nhẹ tội nhất!
Thằng bợm bị xử tội ăn cắp và ngồi tù ba tháng.
Bây giờ nó làm ăn lương thiện rồi. Và thấy bóng chiếc ví đầm đâu là nó tránh cho xa như tránh bệnh hủi vậy.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
10. 27-11-2007 01:20 AM #20
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Tội đồ bất đắc dĩ
Aziz Nesin
Chiếc ô tô buýt chật ních người. Nhưng giữa đám người chen chúc ấy vẫn nổi bật lên một vị khách mà thoáng trông cũng biết ngay là đi nhầm xe. Chỗ của ông ta lẽ ra là trong xe cấp cứu mới phải. Vì tay trái ông ta bị buộc treo lên vai bằng một dây vải trắng, đầu thì băng bó chằng chịt, một mắt thì sưng húp lên, còn mắt kia thì thâm tím khắp xung quanh. Một tay bám lấy thanh vịn, ông khách vừa cố xoay xở tìm cách đứng cho thuận tiện, vừa rên rỉ luôn miệng. Thấy vậy, một hành khách đang ngồi tỏ ý thương hại, đứng dậy nhường chỗ cho ông ta.
- Cám ơn ông! - Ông khách mình đầy thương tích rên rỉ nói.
- Ủa! Bác Xenman đấy à? Thế mà tôi không nhận ra! - người khách vừa đứng dậy nhường chỗ kêu lên - Bác bị làm sao thế này? Ðứa nào đánh bác hay sao mà mặt mày thâm tím hết cả lên thế kia?
- Bác Xaraphettin đấy à? Chào bác! Chà, bác hỏi làm gì cho tôi thêm buồn... Cái thân hình tôi nó thế này đã hai tháng nay rồi...
- Rõ khổ! Thế nhưng bác làm sao vậy?
- Lạy Chúa! Xin người thương xót con! Con hoàn toàn kiệt sức mất rồi...
- Thế các đốc-tờ bảo thế nào ạ? Bác bị bệnh gì vậy?
- Ôi dào! Ðốc-tờ mà làm quái gì! Ðốc-tờ cũng chả chữa được bệnh của tôi... Lạy thánh Ala! Sao người lại bắt con chịu cái cực hình như thế này! Mà lại không bắt các kẻ thù của con phải chịu!... Ôi, khắp người tôi đau như dần, đến chân tay cũng không cử động nổi nữa!
- Nhưng dù sao bác cũng phải đi bệnh viện cho đốc-tờ họ khám xem thế nào chứ!
- Bệnh viện gì! Ðến nhà thương điên thì có! Chẳng giấu gì bác, tôi bị mắc một cái bệnh truyền nhiễm!...
Nghe nói thế, Xaraphettin bỗng lùi hẳn người lại.
- Chết! Thế sao bác còn đi ra phố làm gì?
- Chao ôi! Nói thì dễ đấy, nhưng nào có ngồi nhà được cho cam! Tôi bị lây cái bệnh thằng con tôi mất rồi...
- Thế cậu nhà cũng bị ạ?
- Nó còn bị nặng bằng mấy tôi ấy chứ! Bệnh của nó đã thành mãn tính rồi. Tôi bây giờ cũng vậy. Có mỗi cái trường phổ thông mà nó không làm sao tốt nghiệp được! Năm lớp 9 đã bị đúp rồi, lên lớp 10 cũng lại thế nốt! Mà cũng chỉ tại cái trò bóng bánh chết tiệt! Ðã bao nhiêu lần tôi lạy van nó, bảo: "Mày quăng ngay cái trò bóng bánh khốn nạn ấy đi cho tao!" Nhưng nó lại trả lời tôi: "Con không quăng được!". Nó tự huỷ hoại cái thân xác nó thật là ghê gớm. Ðến nỗi tôi với mẹ nó không còn dám nghĩ đến chuyện mong cho nó học giỏi nữa, mà chỉ lo làm sao cứu vãn lấy tính mạng của nó mà thôi! Mỗi lần đi đá bóng về trông nó cứ như vừa đi đánh giặc vậy! Ðội ơn thánh Ala! Bây giờ nó đã bị gãy chân trái rồi, nên không đá bóng được nữa. Thấy nó bị gãy chân, tôi sung sướng quá, vì không thế thì thể nào có ngày nó cũng bị người ta đánh chết. Ôi, xin Chúa hãy tha thứ cho chúng con! Tôi và mẹ nó thường bảo: "Thôi cho nó gãy chân cũng được! Chỉ cốt sao nó thoát khỏi cái bệnh truyền nhiễm ấy mà còn sống là may rồi!" Nhưng từ khi bị gãy chân, nó lại quay sang mê xem đá bóng quá thể! Hôm nào có đá bóng thì có trời mà giữ được nó ở nhà! Ðá ở đâu nó cũng mò đi xem cho bằng được. Ðá ở Ăngcara là nó nhảy đi Ăngcara, đá ở Iđơmia là nó tếch đi Iđơmia! Nhưng cái chuyện nó cứ đi đi về về như con thoi ấy cũng chưa hẳn là nhục! Nhục nhất là mỗi lần đi về trông nó lại phờ phạc không còn ra hồn người nữa! Chân đứng không vững, giọng thì khản đặc lại! Có đến hàng bao nhiêu lần tôi bảo nó, là đừng có la hét như điên ấy cho nó khản tiếng ra. Nhưng nó bảo tôi: "Bố chỉ được cái ngồi nhà mà nói! Bố cứ thử ra sân mà không la hét xem nào!"... Có hôm nó đi xem về thế nào mà đầu vỡ toác ra, còn hôm khác thì mũi bị giập nát và mắt thì sưng húp lên. Giá bảo nó còn đá bóng như hồi xưa mà bị như thế thì khả dĩ còn hiểu được, chứ đằng này nó chỉ xem người ta đá thôi cơ mà!... Nhưng nó lại cãi: "Ai đi xem mà chẳng phải đánh nhau! Bố cứ thử ra đấy mà ngồi im xem nào!" Có lần chúng tôi phải đến bốt cảnh sát để nhận nó về. Những người đi xem đá bóng đánh nhau dữ quá, cảnh sát phải giải tất cả về bốt. Có đến hai lần chúng tôi phải khiêng nó từ xe cấp cứu xuống!
"Trời ơi! Sao con không thương xót lấy cái thân con một chút, mà lại đi huỷ hoại nó thế hở con?", tôi nói với nó như vậy. Nhưng nó bảo rằng tuy cũng biết thế, nhưng nó không làm thế nào được! Nghe nó trả lời như vậy mà tôi thấy điên tiết! Tôi bèn bảo nó: "Thôi được! Hôm nào mày dẫn tao đi với mày để tao xem cái trò bóng bánh của mày nó như thế nào?"
Và thế là tôi đi với nó đến sân vận động Mitkhatpasa. Trận đấu bắt đầu. Lẽ cố nhiên, lúc bắt đầu tôi chưa cổ vũ cho đội nào cả. Ðội nào thắng hay thua đối với tôi cũng thế cả thôi. Tôi cứ ngồi quan sát khán giả và cười một mình. Bất ngờ, có một quả sút vào lưới y như một mũi tên. Cú sút thật là tuyệt vời! Chính mắt tôi được nhìn thấy! Nhưng lão trọng tài ăn gian không cho tính điểm. Tôi tức không chịu được. Thấy mọi người "ê" trọng tài, tôi cũng bắt chước "ê!... ê!..." rõ to. Bỗng tôi nghe thấy có ai bảo trọng tài không cho ăn quả ấy là đúng. "Không đúng! - tôi cãi lại - Quả ấy sút rất đẹp! Nhưng trọng tài ăn gian! Ðúng là lão ta ăn đút lót rồi!" Gã kia bảo tôi: "Ðồ con lợn! Mày có biết có những cú sút như thế nào không hả?" Tôi bảo hắn rằng bố hắn là đồ con lợn thì có! Vì mới đi xem lần đầu, nên tôi đâu có biết tính tình của cái dân ham mê đá bóng. Thế là chưa kịp nói hết câu, tôi đã bị hắn thoi cho một quả bằng trời giáng, ngã quay ra đất. May mà có những người ngồi bên cạnh can được, chứ không thì tôi đã no đòn với thằng cha ấy rồi! Còn ông con tôi thấy tôi bị đánh cũng chả thèm để ý gì cả, cứ mải xem và luôn mồm kêu: "Xem kìa! Sắp tung lưới nữa đây này!"
Kể từ lúc đó, cái đội mà tôi bị ăn đòn vì nó, bỗng trở thành cái đội yêu mến của tôi. Bây giờ mỗi khi bóng đến chân các cầu thủ đội này là tôi không ngồi im được nữa. Tay tôi bắt đầu vung lên, như chuẩn bị đánh nhau vậy. Còn chân thì đá tứ tung không còn biết vào đâu nữa. Giá lúc này bóng mà rơi vào chân tôi, thì có lẽ nó phải bắn tít lên tận mặt trăng chứ chả chơi! Vung vẩy chân thế nào, tôi đá bốp một cái vào giữa lưng cái ông ngồi trước. "Ấy chết, xin lỗi bác!" Tôi vội nói, nhưng ông ta đáp lại với cái giọng của một người hiểu biết: "Không hề gì! Chuyện ấy là thường!". Một lúc sau thì chính tôi lại bị một cú đá vào lưng nảy đom đóm mắt. Bấy giờ tôi mới hiểu rằng ở trên sân vận động thì không cái gì là không thể xảy ra được!
Những cú đấm, cú đá, cú huých từ bốn phía cứ thế thỉnh thoảng lại giáng vào đầu, vào lưng. Nhưng cũng chẳng ai thèm để ý làm gì! Ấy là lúc mọi người đã ham xem quá mất rồi! Bóng ở tít tận ngoài sân cỏ, mà mình ngồi đây, cứ anh bên cạnh mà sút thật lực. Mà lạ cái lúc ấy cũng chẳng ai thấy đau cả. Sau đó... bác Xaraphettin ạ, đội của tôi lại sút tung lưới một quả nữa, nhưng thằng cha trọng tài lại không cho ăn. Lần này thì tôi không còn nhịn được nữa. "Ðuổi cổ trọng tài ra sân!" Tôi gào lên như điên, không còn biết gì đến xung quanh nữa! Chân tay tôi run cả lên. Bên cạnh tôi là một ông bán nước chanh. Tôi cứ vớ lấy những chai nước của ông ta mà ném vào lão trọng tài. May mà đó là những chai nước chanh, chứ không phải lựu đạn!... Chẳng ai còn buồn nhìn ra sân cỏ nữa, người nào cũng quay sang choảng nhau loạn xạ. Tôi túm được cổ một thằng bé và cứ thế bóp làm nó suýt nghẹt thở. Thật đúng vô tình mình có thể trở thành kẻ giết người là vì thế! Khốn nạn cho thằng bé, nó cứ gào lên, bảo rằng cũng ủng hộ cái đội của tôi. Tôi vừa buông thằng bé ra thì có một thằng cha cao lêu đêu bỗng vật ngửa tôi ra mà đè lấy đè để. Tôi kêu to gọi thằng con tôi, nhưng cái thằng giời đánh còn đang mải nện nhau với lão trọng tài ở trên sân. Tôi gọi cảnh sát, nhưng cảnh sát cũng đang choảng nhau. Cả khán giả lẫn cầu thủ cũng đang đấm đá nhau túi bụi. Thôi được, để tôi hỏi cái thằng cha đang đè lên người tôi xem hắn cổ vũ cho đội nào? Té ra hắn cũng cổ vũ cho đội của tôi! Phải khó khăn lắm tôi mới thoát khỏi đôi chân gọng kìm của hắn, vì hắn ghì tôi chặt quá, sợ để tôi thoát ra thì không tìm được ai để đánh.
Mãi một lúc sau, mọi người mới trở về trật tự, và trận đấu mới lại tiếp tục được. Ðể cổ vũ các đấu thủ, bây giờ, bắt chước mọi người, tôi cũng bắt hét to: "Hoan hô! Hoan hô!" Hét được một lúc thì giọng tôi khản đặc lại. Tôi bèn quay sang gõ vào cái hộp sắt tây của ông ngồi đằng trước. Ông này mang cái hộp đi cũng là để cổ vũ các cầu thủ. Nhưng đến khi trên sân hai cầu thủ bỗng xông vào nhau đấm đá túi bụi, thì cảnh tượng mới thật là hỗn loạn. Tôi bị một thằng cha nào đó tung bổng lên cao. Thú thật, chưa bao giờ tôi nghĩ mình có thể bay cao đến thế! Sau đó... sau đó thế nào thì tôi không hay biết gì nữa! Chỉ biết lúc tỉnh lại thì đã thấy mình đang nằm trong nhà thương.
- Thế là suốt từ hôm đó bác vẫn chưa bình phục được? -Xaraphettin hỏi.
- Vâng, vì đến chủ nhật sau tôi lại đến sân vận động. Chả là đội của tôi chơi mà! Làm sao mà ngồi nhà được! Nói thì dễ đấy, nhưng hôm ấy cứ thử ngồi nhà xem có được không? Có mà lấy dây thừng trói chân anh lại, thì anh vẫn cứ chuồn đi được! Ôi, sao mà người tôi đau thế này!...
Bỗng từ cánh tay băng bó của Xenman có một vật gì rơi ra.
- À, cái hộp sắt tây đấy mà! Ðể tôi gõ vào nó khi nào không thể gào được nữa - Xenman cắt nghĩa cho tôi, khi tôi nhặt chiếc hộp đưa cho bác ta.
Ô tô dừng lại, Xenman đứng dậy, rên rỉ nói:
- Thôi chào bác, bác Xaraphettin!
- Không dám, chào bác! Bây giờ bác đến khám đốc-tờ chứ?
- Ấy chết! Trận hôm nay mà bỏ thế nào được! Chà! Lạy Chúa! Chỉ mong sao cho tôi đừng đến muộn!
· Trang Chủ
· Diễn Đàn
o FAQ
o Lịch
o Chức Năng
o Liên kết nhanh
· Có gì mới?
· Symbian
· Apple iDevice
· Android
· Rao Vặt
· Cydia.vn
· X-PET
Top of Form
Bottom of Form
· Tìm kiếm nâng cao
Have an account? Login Register
·
· Diễn Đàn
· BÊN LỀ CÔNG NGHỆ
· VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT
· Tuyển tập truyện Azit Nexin
Top of Form
Bottom of Form
+ Trả Lời
Top of Form
Trang 3/7 Đầu tiên 1 2 3 4 5 ... Cuối
Bottom of Form
21 - 30/65 post
Nội dung: Secmenđi sinh ngày nào? Aziz Nesin - Người ấy là một nhà đại bác học. - Thế ông ta có phát minh gì không? - Rõ thật cái anh này! Dĩ nhiên là phải có ... - Thuộc khu vực: VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT
· LinkBack
· Quản lý Chủ đề
· Đánh giá
· Display
1. 27-11-2007 01:21 AM #21
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Secmenđi sinh ngày nào?
Aziz Nesin
- Người ấy là một nhà đại bác học.
- Thế ông ta có phát minh gì không?
- Rõ thật cái anh này! Dĩ nhiên là phải có chứ! Ðúng là thời buổi bây giờ, không nói gì đến hạng dân thường, mà ngay cả những người có học cũng chẳng anh nào quan tâm gì đến khoa học cả! Nhà bác học này có cống hiến rất lớn cho nền lịch sử văn học nước ta đấy, vì ông ta đã tìm ra một ngày quan trọng.
- Ngày gì thế vậy?
- Chắc anh có nghe nói đến một nhà thơ ở thế kỷ 15 tên là Secmenđi chứ?
- Không, tôi chưa nghe nói bao giờ.
- Secmenđi để lại cho hậu thế một tập thơ lớn. Tên tuổi của ông được nhắc đến trong nhiều tập thi tuyển.
- Vậy thì sao?
- Chả là thế này: tất cả các tài liệu về văn học sử đâu như đều nói Secmenđi sinh ngày mồng 4 tháng 5. Nhưng vị giáo sư nọ đã bác bỏ hoàn toàn ý kiến đó.
- Bác bỏ bằng cách nào?
- Bằng cách viết hẳn một cuốn sách dày 600 trang.
- Và trong 600 trang ấy ông ta đã chứng minh được quan điểm của mình?
- Ồ, đâu có! Giải quyết một vấn đề phức tạp như vậy anh tưởng dễ lắm đấy! Ðó mới chỉ là tập mở đầu thôi. Trong tập này giáo sư mới chỉ khẳng định rằng Secmenđi không phải sinh ngày mồng 4 tháng 5.
- Rồi sau đó?
- Sau đó, sang tập 2, tập 3, mà có khi cả tập 4 nữa cũng nên, giáo sư mới dùng mọi lý lẽ để chứng minh rằng, cái ngày mồng 4 tháng 5 ấy là sai. Tiếp đến, sang tập 5 và tập 6, ông mới cho biết ngày sinh chính xác của Secmenđi.
- Thế sẽ có bao nhiêu tập tất cả?
- Hiện giờ cũng chưa biết sẽ có bao nhiêu tập tất cả. Chỉ biết giáo sư mới viết xong tập thứ nhất, mà như thế cũng đã mất 15 năm rồi!
- Anh bảo gì? 15 năm?
- Chứ sao! Anh thật chẳng hiểu gì về khoa học cả.
- Thế đến bao giờ giáo sư mới viết xong các tập kia?
- Nếu thánh Ala cho giáo sư sống thêm 15, 20 năm nữa, thì ông sẽ hoàn thành tập hai. Năm nay giáo sư đã hơn 60 tuổi rồi.
- Nói dại mồm, thế nhỡ chẳng may giáo sư... tịch đi.
- Thì các nhà bác học khác sẽ tiếp tục công trình của giáo sư, ngay từ chỗ mà ông dừng lại.
- Anh cho phép tôi hỏi một câu: Quả thật anh bắt đầu làm cho tôi thấy tò mò. Lúc nãy, hình như anh có nói Secmenđi không phải sinh ngày mồng 4 tháng 5. Thế thì ông ta sinh ngày nào?
- Ðó chính là vấn đề mấu chốt cần phải xác minh để làm sáng tỏ lịch sử văn học nước nhà. Secmenđi sinh không phải ngày mồng 4 tháng 5, mà là đêm mồng 3 rạng ngày mồng 4. Nhưng sự kiện này xảy ra trước 12h đêm, nên ngày sinh của ông tất phải coi là ngày mồng 3, chứ không phải mồng 4. Tất cả các nhà nghiên cứu văn học sử đã bị nhầm chính là ở chỗ này.
- Và toàn bộ công trình phát minh của giáo sư cũng chỉ là ở chỗ đó?
- Thế theo anh, tìm ra được ngày sinh của một nhà thơ cổ hãy còn là ít hay sao?
- Không phải, nhưng tôi không hiểu tại sao giáo sư không thể nói vắn tắt điều đó trong vài dòng, mà phải tốn công viết hàng mấy trăm trang giấy?
- Anh nói chán quá! Nếu viết vài dòng, thì một bác học như giáo sư, còn gì là bác học nữa? Còn có gì là khác người thường nữa? Những nhà bác học, sở dĩ là bác học, bởi vì họ biết cách trình bày thế nào để những điều hết sức dễ hiểu cũng trở thành những cái rất khó hiểu, như kiểu đánh đố vậy. Chỉ có vài dòng thôi, nhưng họ biết cách kéo ra thành vài trăm trang. Cái khác nhau giữa những nhà bác học và những người không phải bác học chính là ở chỗ đó.
- Nếu vậy thì làm sao anh biết được nhà thơ Secmenđi không phải sinh ngày mồng 4, mà vào ngày mồng 3 tháng 5? Anh đọc cuốn sách ấy rồi ư?
- Anh hỏi kỳ quá! Ai mà hiểu nổi những cái viết trong sách của các nhà bác học được! Khoa học nó thâm thúy lắm, chứ đâu phải...
- Tôi biết. Nhưng chính vì thế tôi mới muốn hỏi, tại sao anh lại biết được ngày sinh của Secmenđi?
- Thực ra tôi biết không phải là vì tôi đọc sách của giáo sư, mà vì chính giáo sư nói với tôi... Với lại, nói chung những tác phẩm như vậy người ta viết ra không phải để cho mọi người đọc...
- Thế thì người ta in làm gì?
- Anh thật chả hiểu cóc khô gì về khoa học cả! Này nhé, tôi giả dụ có một tác phẩm nào đó được in ra, được người ta tranh nhau mua, tranh nhau đọc, ai đọc cũng đều hiểu cả, thì thử hỏi như thế nó còn quái gì là giá trị nữa? Ấy thế cho nên các nhà khoa học mới mong cho tác phẩm của họ in ra thà cứ nằm mốc trên giá sách cho bụi bặm còn hơn là được mọi người tranh nhau đọc. Anh nên nhớ rằng chỉ có cuốn sách nào ít người đọc, hay thậm chí không có ai đọc cả, hoặc chỉ có cuốn sách nào viết rất khó hiểu, hay thậm chí không ai hiểu nổi, mới làm tăng uy tín của tác giả mà thôi.
- Thú thật anh làm tôi rất ngạc nhiên.
- Có gì mà ngạc nhiên! Anh tưởng viết để không ai hiểu được dễ lắm đấy phỏng? Anh có thấy từ nãy đến giờ tôi với anh nói chuyện với nhau đã hơn một tiếng đồng hồ rồi, mà chúng mình vẫn cứ hiểu nhau một cách rất dễ dàng không? Bây giờ tôi với anh hãy thử nói chuyện với nhau thế nào để không ai hiểu ai cả độ dăm phút thôi, xem có dễ không nào?
- Úi, thế thì khó lắm!
- Không phải là khó, mà nói thẳng ra là không thể được. Hơn nữa, đây lại không phải là chuyện ngồi tán phét với nhau dăm ba phút, mà là viết hàng trăm trang sách, mà lại viết thế nào để vẫn có đầu có đuôi hẳn hoi, chứ không phải viết nhăng viết cuội. Nếu không thì lại giống như cái anh loạn trí, thích nói lảm nhảm hàng mấy giờ, có khi mấy ngày liền, những chuyện chẳng ra đâu vào đâu cả. Nhưng những người này thì chẳng bao giờ trở thành bác học được! Vậy thì cái khác nhau giữa nhà bác học và anh mất trí là ở chỗ nào? Nhà bác học có thể viết một cuốn sách hàng mấy trăm trang mà người đọc chẳng hiểu gì hết, chỉ thấy như bị lạc vào một khu rừng rậm ấy. Nhưng có điều là trong sách của họ, không thể tìm được lấy một lối ngữ pháp hay đặt câu nào cả, hay cảm thấy có câu nào gọi là lủng củng hay thiếu logic cả. Còn như anh mất trí thì nói câu trước câu sau là đã lẫn lộn rồi. Dễ hiểu thôi: vì anh ta mất trí mà lại!
- Tôi muốn hỏi anh một điều: nhưng làm thế nào giáo sư chứng minh được là Secmenđi sinh không phải ngày mồng 4 tháng 5, mà vào đêm mồng 3 rạng ngày mồng 4?
- Nhưng giáo sư có chứng minh điều gì như vậy đâu! Trong một bài thơ đăng trong một tuyển tập thơ của mình, Secmenđi có viết:
"Tôi chào đời
Là chào cả hôm qua và cả hôm nay."
Như thế là rõ quá rồi còn gì? Chào cả hôm qua và cả hôm nay là lúc nào? Là nửa đêm. Dạng thức của động từ "chào" ở đây chỉ một hành động chưa kết thúc, mà còn tiếp tục kéo dài sang cả thời tương lai. Nghĩa là Secmenđi sinh ra trước lúc nửa đêm một chút, vào khoảng kém 5 hay kém 3 phút gì đó thì đến nửa đêm. Như vậy có thể suy ra ngày sinh của ông không phải là mồng 4, mà là mồng 3.
- Cứ cho là đúng như thế đi, nhưng tôi vẫn không hiểu tất cả những cái đó cuối cùng để làm gì?
- Ðể làm gì ư? Này nhé, nói ví thử bây giờ có một nhà bác học nào đó viết một cuốn sách 3 tập và nói rằng Secmenđi sinh vào lúc 23h30' ngày mồng 3 tháng 5. Nhưng một nhà bác học khác lại bác bỏ ý kiến của ông ta và bảo rằng: "Không đúng, Secmenđi sinh vào hồi 23h35', chứ không phải 23h30" và lại viết một cuốn sách dày những 5 tập để chứng minh cho điều đó. Thế là cuối cùng người ta xác minh được chính xác cả ngày sinh lẫn nơi sinh của nhà thơ Secmenđi.
- Nói anh tha lỗi, chứ thật tình tôi vẫn chưa hiểu gì cả. Ừ, thì cứ cho là Secmenđi sinh không phải ngày mồng 4 tháng 5, mà là mồng 3, không phải vào hồi 23h30', mà là 23h35' đi. Nhưng biết được như thế để rồi cuối cùng rút ra cái gì?
- Anh nên nhớ rằng người ta soạn ra được lịch sử và học cũng chính là từ những cái chi tiết ấy đấy. Một người bảo "Mồng 3 tháng 5", người kia bảo "Không phải, mồng 4 chứ!" Thế là nổ ra tranh cãi. Và người nào viết được cuốn sách dày hơn và khó hiểu hơn là chứng tỏ người đó uyên bác hơn.
- Tôi không hiểu vậy thì lợi ích thực sự của cuộc tranh cãi ấy là ở chỗ nào?
- Trời ơi, cái anh này mới thật tối dạ! Anh không biết rằng chính nhờ những cuộc cãi vã ấy mà nhiều người mới trở thành giáo sư và bác học hay sao? Ðó là cách không tốn mấy công sức mà vẫn có danh vọng, sống êm thấm mà vẫn được mọi người kính nể. Tên tuổi lại còn được lưu truyền hậu thế nữa chứ! Nói của đáng tội, chứ ví thử không có họ thì làm sao chúng ta biết được một sự thật như Secmenđi sinh vào ngày nào giờ nào? Hay làm sao ta hiểu dược nhiều chân lý vĩ đại khác nữa! Cứ gọi là suốt đời ta cứ sống trong cảnh u mê tăm tối thôi! Loài người ta có tiến bộ được cũng chính là theo cách đó cả. Nghĩa là có một nhà bác học khác lắc đầu phê phán, ý nói "Không đúng, không đúng". Thế là nổ ra một cuộc tranh cãi sôi nổi. Vị thứ ba bỗng xen vào và bảo "Cả hai ông đều sai tuốt." Và khoa học cứ thế mà ngày càng tiến lên mãi.
- Trời ơi, anh nói chí lý quá! Ðúng là chỉ cần chịu khó suy nghĩ một chút là hiểu được ngay rằng, nếu không có các nhà bác học thì làm sao chúng ta phát hiện ra được chân lý. Té ra bấy lâu nay chúng ta vẫn sống trong cảnh u mê tăm tối mà không biết. Phải rồi, giá không có các nhà bác học thì có lẽ chúng ta chẳng biết cái cóc khô gì hết. Thậm chí đến nhà thơ Secmenđi sinh ngày nào có lẽ chúng ta cũng chẳng biết nữa, mà cứ tưởng ông sinh ngày mồng 4 tháng 5 mất! Ðúng là không thể sống mãi trong sự ngu dốt như vậy được. Tôi không thể hình dung nổi chúng ta sẽ làm được cái gì nếu không có các nhà bác học?!
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
2. 27-11-2007 01:29 AM #22
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Nghĩa vụ đối với Tổ quốc
Aziz Nesin
Cả trại giam xôn xao về cái tin ấy.
- Này, các đằng ấy đã biết tin gì chưa? Ichxan Vadêlin đang ở đây đấy!
- Làm gì có chuyện!
- Tớ nói điêu tớ làm con chó!
- Hắn đã "đoạn" từ lâu rồi kia mà!
- Lại còn mở tiệm cà phê đàng hoàng nữa chứ?
- Cóc tin được! Cậu nói láo!
- Tớ nói láo tớ chết! Người ta mới giải hắn về hồi chiều, bằng tàu chở thư mà! Giải từ Aiđiliê về. Chính tớ nhìn thấy hắn ở dưới sân. Hắn tắm ở nhà tắm xong bị dẫn về biệt khám.
- Thế đấy! Ðã tưởng dứt được rồi, thế nào mà bỗng dưng lại bị tóm gáy điệu về ở với cánh ta không biết?
- Nhưng Ichxan Vadêlin là ai vậy?
- Các chú mày còn nhóc con nên không biết hắn. Hồi hắn còn làm ăn, các chú mày hãy còn bú tí mẹ! Tao quen hắn từ hồi ở Mactreckhan kia! Hồi ấy trại giam này chưa có. Mới có trại Mactreckhan thôi! Bọn ta được ngồi ở đó.
- Hồi ấy phải nói hắn nhanh thật!
Ichxan phải nằm ở biệt khám hai tuần, rồi được chuyển sang khu 2. Ðó là khu giam các phạm nhân đặc ân, những kẻ tái phạm cũ biết rõ hắn.
- Chào người anh em!
Một người vừa đun xong trà trên một cái hỏa lò. Ichxan Vadêlin sỗ sàng quăng tờ giấy 100 xuống khay. Người ta lại bắt đầu đun một ấm trà ngon nữa.
Người ngồi trước mặt Ichxan Vadêlin là Nuri - bị kết án 60 năm tù về tội tham ô. Nuri mặc một chiếc áo choàng màu mận chín trông hết sức sang trọng. Ichxan Vadêlin - trạc 50 tuổi - chỉ chuyện trò với mỗi mình, dường như không nhìn thấy ai xung quanh nữa.
- Thế đầu đuôi làm sao hả Ichxan?
- Tôi kể ra chỉ sợ anh không tin, cho tôi là nói phét. Vì chính tôi cũng thấy chuyện này thật khó tin. Ai chứ tôi thì, chắc anh biết đấy, đã như chim bị đạn rồi! Lạy chúa! Năm nay tôi đã 50 tuổi đầu, tóc đã bạc, vậy mà chưa bao giờ tôi bị một vố cay như thế này. Mà lần này tôi bị lại là do tôi tận tâm phục vụ cho tổ quốc, do tôi làm nghĩa vụ công dân của mình mới tức chứ!
Chắc anh biết đấy, lâu nay tôi vẫn có một tiệm cà phê riêng. Một hôm, có hai tay của Sở Cẩm đến nhà tôi bảo:
- Mời ông đi theo chúng tôi về Sở!
Các tay mật thám cũ tay nào tôi cũng nhẵn mặt cả. Nhưng hai tay này là lính mới, nên tôi không biết. "Ðược! Ði thì đi!" tôi nghĩ bụng thế, "mình chẳng làm gì nên tội thì sợ đếch gì!". Đến Sở, tôi thấy Haiđa đã ngồi chờ ở đó... Haiđa làm ở Sở Cẩm từ hồi tôi còn làm ăn. Bây giờ ông ta đã lên chức Chánh Cẩm. Haiđa có một mắt hơi lé, trông lúc nào cũng có vẻ lờ đờ, nên được mọi người tặng cho biệt hiệu là Lé. Haiđa Lé dữ hơn cọp.
- Bẩm quan cho gọi em có việc gì đây ạ? - tôi hỏi Haiđa Lé.
- Ngồi xuống đây đã Ichxan! - Haiđa Lé đáp và chỉ vào chiếc ghế. Tôi đoán ngay là ông ta cần tôi. Vì tính ai chứ tính Haiđa Lé tôi biết rõ lắm. Tôi mà có tội tình gì thì ông ta đã nhảy xổ vào tôi mà bóp cổ cho thấy ông bà vải rồi, chứ chả mời mọc tử tế như thế.
- Thưa Haiđa - tôi nói - em đã đoạn tuyệt hẳn nghề cũ rồi! Sau cái lần cuối vớ được một mẻ bẫm, em đã thanh toán sòng phẳng các món, và còn dư một ít thì mở tiệm cà phê để làm ăn sinh sống. Bây giờ quan muốn gọi em có việc gì vậy ạ?
Haiđa nghe tôi nói rồi bảo:
- Ðúng. Các khoản cũ coi như đã thanh toán xong. Hôm nay ta cho gọi anh đến đây là muốn anh thực hiện nghĩa vụ công dân của anh đối với tổ quốc.
Tôi nghĩ bụng: không biết nghĩa vụ đối với tổ quốc là nghĩa vụ gì? Chắc chỉ có chuyện đi lính thôi! A! Ra người ta muốn bắt tôi đi lính!
- Bẩm quan! - tôi nói - em xin thưa với quan là em đã hoàn thành nghĩa vụ công dân rồi ạ! Em đã phục vụ trong hải quân đúng sáu năm chẵn, không kém một ngày. Ấy là chưa kể em còn nằm mấy tháng trong hầm nhà thờ Ðivankhan ở Caxưmpasa. Bây giờ em đã ngoài 50 rồi, quan còn muốn gì ở em nữa ạ?
Haiđa Lé sai mang cho tôi tách cà phê và rút thuốc lá mời. Tôi lại nghĩ ngay: chắc ông ta muốn mình làm chỉ điểm đây!
- Thưa ông anh, nếu ông anh có ý định gì khác thì xin ông anh cứ nói thẳng. Nếu giúp được, em sẵn sàng ngay... Còn cái tiệm cà phê của em thì ông anh cứ coi là của ông anh!
- Anh nghĩ nhầm rồi, Ichxan ạ! - Haiđa Lé đáp - Không ai định bắt anh đi lính! Nhưng tổ quốc muốn giao cho anh một nhiệm vụ khác. Anh phải cứu lấy danh dự cho quốc gia, cho chính phủ! Chính phủ rất cần đến sự giúp đỡ của anh.
- Ấy chết! Sao ông lại giễu em thế! Có đâu một quốc gia hùng mạnh như nước ta mà lại cần đến sự giúp đỡ của một tên trộm già như em!
- Chuyện gì mà không thể có! - Haiđa Lé đáp - Việc quốc gia nó phức tạp lắm, nên đòi hỏi phải có sự giúp đỡ của mỗi người công dân. Và bây giờ đến lượt nó đòi hỏi sự giúp đỡ của anh.
- Thôi được! Nếu ông anh đã nói là nghĩa vụ quốc gia thì em đâu dám từ chối. Ông anh có bảo chết em cũng xin chết ngay...
Ðến đây Haiđa Lé mới nói thật cho tôi biết rõ sự thể.
Hoá ra là có một đoàn khách quốc tế sang thăm nước ta. Ðoàn rất đông người. Có đủ cả người Mỹ, người Ðức, người Ðan Mạch, người Pháp. Có cả thương gia, bác sĩ, kỹ sư, giáo sư... Họ muốn đến tìm hiểu tình hình để viện trợ kinh tế cho ta. Nhưng đến chỗ nào họ cũng thấy tình trạng hết sức bí bét. Nghe nói tình hình lâm nghiệp họ phát ớn, tìm hiểu tình hình y tế họ thấy ngán ngẩm. Ðến xem các nhà máy họ lại càng kinh. Tóm lại là đi đến đâu ta cũng ngượng chín mặt với họ đến đấy. Vì thế chính phủ ta mới quyết định bằng bất cứ giá nào phải làm cho họ kinh ngạc một phen.
- Bởi vậy, Ichxan ạ! Bây giờ là trách nhiệm của anh đối với tổ quốc. Anh phải cố mà làm tròn nó!
Tôi đoán chắc chính phủ ta không có cách gì làm cho các quan khách quốc tế hài lòng, nên quyết định chứng tỏ cho họ thấy trình độ chống nạn trộm cắp của ta cao đến mức nào. Tôi bảo:
- Thưa Haiđa, em hiểu, xin Haiđa tin rằng chắc chắn em sẽ cho họ biết trình độ ăn cắp của ta rất cao, chứ không như các nghề khác!
- Anh đoán gần đúng - Haiđa xác nhận - Chúng ta phải cho họ biết cảnh sát của chúng ta mạnh như thế nào, và biết cách làm việc ra sao.
- Thế thì em thấy hơi khó... - tôi thở dài.
- Tất nhiên là khó rồi! Có thế mới gọi anh đến...
Anh là một tên móc túi chuyên nghiệp, đã từng nhiều lần vào tù ra tội. Anh rất sành sõi cái việc này. Vậy anh hãy thi hành nghĩa vụ công dân của mình.
- Xin ông anh cho em biết rõ hơn là em phải làm gì ạ? - tôi yêu cầu ông ta.
Haiđa Lé giảng giải cho tôi biết nhiệm vụ. Người ta sẽ chỉ cho tôi cái khách sạn có đoàn quốc tế ở. Nhiệm vụ của tôi là phải vét nhẵn túi các vị trong đoàn, không để sót một thứ gì. Tất nhiên các quan khách sẽ thi nhau kêu trời và chạy đến báo cảnh sát. Ở sở cảnh sát, người ta sẽ bảo họ: "Xin các vị yên trí! Cảnh sát của chúng tôi làm việc rất cừ! Chỉ năm phút nữa chúng tôi sẽ tóm hết những tên ăn trộm!" Còn tôi thì ngay sau đó đem tất cả những thứ lấy được về nạp cho Sở. Thế là những người bị mất cắp sẽ nhận được nguyên vẹn tài sản của họ.
"Ðây! Xin mời các vị nhận lại đồ vật của mình!" Cảnh sát của ta sẽ giơ tay chào và bảo họ như vậy. Các vị khách ngốc nghếch kia tất nhiên sẽ phải nghĩ: "Chà! Thế mới gọi là làm việc chứ!"
- Em không làm được đâu, Haiđa ạ! - tôi từ chối - Bây giờ em thấy không đang tâm...
- Sao vậy? - Haiđa Lé hỏi.
- Thứ nhất là vì em bỏ nghề đã lâu, bây giờ chân tay ngượng nghịu sợ không làm nổi...
- Không lo! Anh vẫn làm được thôi!
- Thứ hai, bấy lâu nay em đã giữ được mình không nhúng tay vào chuyện ấy...
- Giữ mãi rồi cũng có ngày không giữ được đâu! Cũng như đôi giày mới ấy rồi cũng có lúc nó phải nhúng bùn.
- Tụi trẻ bây giờ có nhiều đứa bợm lắm! Ông anh giao cho chúng nó việc này có lẽ tốt hơn.
- Nhưng lũ ôn con ấy chúng lưu manh lắm! Xoáy thì chúng xoáy được đấy. Nhưng xoáy xong chúng nó biến thì có mà thánh tìm!... Lúc ấy thật là bẽ mặt với các vị khách quốc tế. Vì thế chúng ta mới cần một tên trộm thật thà như anh.
- Ðội ơn ông anh đã có lòng tin em. Nhưng quả thật em không làm được đâu ạ!
- Tùy đấy, Ichxan ạ! Có điều nếu anh không chịu làm, ta buộc phải đóng cửa tiệm cà phê của anh lại. Ta còn lạ quái gì cái tiệm của anh! Nó vừa là sòng bạc, vừa là ổ thuốc phiện lậu...
Thế là tôi đành phải nhận lời.
- Thôi được em xin làm - tôi nói - nhưng làm nghĩa vụ cho tổ quốc thì em cũng được cái gì chứ ạ? Chả lẽ em lại làm không công?
Haiđa Lé nổi cáu quát:
- Người ta nghĩ đến nghĩa vụ công dân, mà anh thì lo chuyện lợi lộc. Thật không biết xấu hổ!
- Xin ông anh bớt giận! - tôi nói - Ông anh làm việc cho cảnh sát, tức là cũng làm nghĩa vụ công dân, thì ông anh được lương. Ngay cả các ngài nghị viện có lẽ cũng chả ngài nào muốn làm nghĩa vụ công không cho chính phủ. Tình bạn đi đằng tình bạn, còn công việc đi đằng công việc chứ ạ! Việc nào nó phải đi việc nấy. Nghĩa vụ là một chuyện, còn quyền lợi lại là chuyện khác chứ ạ! Tiền bạc có hại gì đến nghĩa vụ đâu!
- Thôi được. Ta thỏa thuận thế này vậy nhé! - Haiđa Lé đấu dịu - ta cho anh muốn làm gì ở cái tiệm cà phê của anh thì làm. Có điều anh phải nhớ là "moi" được cái gì của khách, anh phải đem nộp cho ta ngay, rõ chưa?
- Dạ, rõ ạ!
- Cầu chúa Ala phù hộ cho anh! Ta đặt mọi hy vọng vào anh đấy! Nếu anh moi được ví của ngài trưởng đoàn thì càng đáng khen. Thôi, cho anh đi! Chúc anh may mắn!
Ừ, thì tôi đi! Gì chứ cái chuyện xoáy vặt đối với tôi ngon hơn óc chó!
Tôi đến khách sạn và bắt đầu ngồi chờ.
Chờ đến tối thì thấy các vị khách bắt đầu kéo nhau về. Tôi giở tập ảnh ra xem lại. Ðích thị ông trưởng đoàn đang đi cùng bà vợ kia rồi! Tôi đứng lên, đi sát hẳn vào người ông ta lần chỗ để ví, rồi bất ngờ hích nhẹ vào ngực ông ta một cái. Thế là xong! Êm như ru! Té ra tôi vẫn chưa quên nghề...
Sau đó tôi chạy ngay đến nhà vệ sinh công cộng ở quảng trường Tacxim, mở ví ra xem. Trong ví toàn giấy bạc mới tinh! Thề có thánh Ala chứng giám, tôi đã kìm được lòng tham, không lấy một tờ nào. Có bao nhiêu tôi mang nguyên về Sở.
- Anh biến đi đâu thế? - vừa thấy mặt tôi từ ngoài cửa, Haiđa Lé đã quát hỏi ngay. Nhưng khi tôi chìa chiếc ví ra thì ông ta sướng đến nỗi hôn luôn tôi một cái vào trán.
- Cừ lắm! Anh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ - ông ta khen tôi - ông trưởng đoàn vừa đến báo cho ta biết là bị mất cắp. Trông ông ta rất buồn. "Xin ngài cứ yên trí!" ta bảo với ông ta như vậy, "chậm nhất là ngày mai chúng tôi sẽ tìm lại cho ngài chiếc ví. Cảnh sát của chúng tôi làm việc rất giỏi!"
- Em đã hoàn thành nghĩa vụ đối với tổ quốc rồi, bây giờ xin chào ông anh! Chúc ông anh mọi sự tốt đẹp! - tôi nói với Haiđa thế, nhưng ông ta bảo:
- Khoan đã! Mới một lần thế thì ít quá! Chú em phải lần lượt moi túi tất cả các ông khách ấy cho ta!
- Nhưng em chỉ sợ làm mãi quen tay, đến lúc muốn thôi không được.
Nhưng Haiđa chẳng thèm nghe tôi.
Tôi lại bắt đầu đi moi các đại biểu khác. Có một ông rất khù khờ, bị tôi moi nhẵn cả túi quần túi áo, lấy hết cả ví, cả chìa khóa buồng, khăn mùi soa, bật lửa, hộp thuốc lá, thậm chí cả ghim cài ve áo, mà vẫn chẳng hay biết gì hết. Không khéo bị lột cả quần ngủ mà ông ta vẫn không biết gì cũng nên!... "Hay ta thử cắt hết cúc áo của hắn ta xem sao?" Tôi nghĩ bụng như vậy, rồi cắt thật, không để lại một cái nào. Sau đó tôi đem ngay tất cả về Sở, bày ra trước mặt Haiđa.
- Giỏi lắm, Ichxan ạ! - ông ta bảo - Anh làm việc khá lắm!
Tôi bảo ông ta:
- Ông anh ạ! Em đã định lột truồng hắn ra, nhưng sau nghĩ thương hại...
Tóm lại là suốt 15 ngày tôi cứ đi moi hết vị này đến vị khác trong đoàn... Tôi làm việc như một nhà phẫu thuật lành nghề. Nói thật chứ, giá tôi có lấy mất một lá phổi của những anh chàng đù đờ này thì có lẽ họ cũng chẳng hay biết gì.
Haiđa nghe tôi kể thì cứ ôm bụng mà cười.
Một hôm, tôi moi được nhẵn ví đầm của một bà và đem đến cho Haiđa Lé. Nhưng không thấy bà này đến báo cảnh sát gì cả. Thấy vậy, một viên cảnh sát biết tiếng nước ngoài bèn gọi điện về khách sạn:
- Các ngài có bị mất gì không?
- Không - người ta trả lời.
- Các ngài cứ soát kỹ lại tất cả các ví xách và túi quần túi áo xem!
Một lát sau bỗng có tiếng chuông.
- Có một bà của chúng tôi bị mất sạch các thứ trong túi sắc.
- Bà đó có một chiếc khăn tay màu hồng phải không ạ?
- Phải rồi! Sao các ông biết?
- Cảnh sát của chúng tôi cái gì cũng biết hết!
Cảnh sát của chúng tôi cứ thế đấy: họ báo cho người mất trộm biết anh ta bị mất trộm, và tên trộm đã bị bắt!...
Trước khi đoàn về nước, một phóng viên nhà báo hỏi vị trưởng đoàn:
- Ở nước chúng tôi ngài thích nhất cái gì ạ?
Vị trưởng đoàn là một người có học thức, ông ta im lặng không đáp.
Một nhà báo khác nói:
- Cảnh sát của các ông rất mạnh!
Bấy giờ vị trưởng đoàn mới trả lời như thế này:
- Ðoàn chúng tôi có 9 người cả thảy. Chúng tôi ở Xtămbun có 15 hôm, mà mỗi người trong đoàn chúng tôi đã bị mất cắp 9, 10 lần!... Cảnh sát của các ông cũng có thể là mạnh, nhưng những tên trộm của các ông còn mạnh hơn nhiều!
Lập tức sáng hôm sau những lời phát biểu này được đăng ngay trên các báo: ngài trưởng đoàn tuyên bố rằng nạn trộm cắp ở Thỗ Nhĩ Kỳ hết sức phát triển!
Nhưng thế thì việc gì đến tôi kia chứ? Tại sao mấy ông cảnh sát lại nổi cáu và hạ lệnh tống giam tôi? Hay tôi đã thực hiện vượt mức yêu cầu của họ?
Tôi bảo họ:
- Nhưng chính các ông bảo tôi phải đi ăn cắp để thực hiện nghĩa vụ đối với tổ quốc cơ mà! Tôi sẽ đưa chuyện này ra tòa. Tôi sẽ kể hết với mọi người cho mà xem! - tôi dọa Haiđa Lé.
- Nếu anh làm như thế, ta sẽ đổ cho anh là thủ phạm của tất cả các vụ trộm chưa tìm ra. Những vụ như thế ta có hàng trăm. Anh tin ta đi! Ta sẽ có cách làm cho anh phải nhận và ký vào biên bản hỏi cung. Anh sẽ phải chịu 1.000 năm tù là ít!
Cuối cùng trước toà tôi đành phải câm như hến và người ta kết án tôi hai năm tù. Ichxan Vadêlin kết thúc câu chuyện của mình.
- Hai năm cũng chả mấy! Ngoảnh đi ngoảnh lại là hết ngay thôi! - Một người ngồi nghe chuyện lên tiếng an ủi.
Ichxan Vadêlin bảo:
- Ðã đành thế rồi. Nhưng tuổi tôi đâu còn ít ỏi gì để mà ngồi tù. May phước là chỉ bị có hai năm! Làm nghĩa vụ của tổ quốc sướng thế đấy! Hoan hô nước ta!
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
3. 27-11-2007 01:40 AM #23
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Lên giá đến nơi rồi
Aziz Nesin
Khách khứa đến chơi nhà tôi. Giữa chừng câu chuyện có người hỏi:
- Nhà bác có đường không?
- Tất nhiên. Hôm qua vừa mua một cân.
Ông khách mỉm cười:
- Bác điên à? Mua mấy bao đường mà cất đi. Đường sắp hết rồi.
Không phải mấy cân mà là mấy bao mới sợ chứ!
Một người quen tôi lại đến bảo:
- Bác đã mua dầu chưa?
- Cũng còn một ít.
- Dầu hỏa rồi sẽ không bán nữa đâu, mua lấy mươi mười lăm can mà cất đi...
Không phải mươi mười lăm lít, mà mươi mười lăm can mới sợ chứ!
Một ông bạn đến bảo:
- Bác có trà không?
- Có chứ, mới mua một gói.
- Trời ơi, bác vẫn còn tỉnh táo đấy chứ? Bác phải mua ngay bốn năm chục gói, chỉ tuần sau là đốt đuốc ban ngày cũng không tìm thấy ở đâu bán.
Một ông khác khuyên:
- Đậu trắng, bác biết không, chạy đi mà mua lấy năm mười bao. Sắp đắt đến nơi rồi.
Không phải năm mười cân mà năm mười bao mới sợ chứ.
Ông hàng xóm sang hỏi:
- Bác còn xà phòng không?
- Cũng còn mấy bánh!
- Thế bác không biết chuyện gì à? Ai cũng chạy đi mua xà phòng cả.
Lại một người hàng xóm khác đe:
- Bác đừng nói với ai nhé. Dầu ô liu lên giá đến nơi rồi. Bác đi mua lấy vài can kẻo muộn.
Nếu nghe lời kẻ quen thuộc thì nhà tôi phải thành kho thực phẩm, còn tôi thì thuê khách sạn mà trú.
"Bác phải tìm nơi tích trữ...", "Không phải một vài cân, mà là mấy bao mấy thùng, mấy bịch".
Sáng danh Đức Ala, tôi làm gì có tiền! Tôi chỉ chạy được một cân dầu ôliu, ba bánh xà phòng, một gói trà, một cân đường thôi. Nhưng khi có ba người đến hỏi:
- Bác có đường không?
- Úi chà chà! Đầy cả gầm giường!...
- Thế dầu hỏa?
- Một trăm thùng chẵn, - tôi bịt ngay miệng ông ta lại.
- Còn trà?
- Thừa thãi - tôi đáp đầy chán ngán - tôi đã mua năm trăm gói để dành.
... Suốt mấy ngày liền, tôi ngồi trên chiếc xe buýt chạy tuyến đường từ nhà tôi ở phố Erenquê đến phố Cađưcây. Ngày hôm qua tôi bèn đi liền tù tì đến tận chuyến cuối...
- Xin lỗi bác - người bán vé hỏi - chúng tôi đi đã tám chuyến, sao bác còn ngồi. Vậy bác định đi đâu thế?
- Tôi phải ngồi đến tận chuyến cuối mới thôi.
- Sao lại thế?
- Anh đừng nói với ai nhé. Giá vé xe buýt cũng lên đến nơi rồi. Hôm nay còn rẻ, tôi phải cố đi cho nó đã.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
4. 27-11-2007 01:41 AM #24
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Tên Hămđi biệt hiệu Con voi đã bị bắt như thế nào?
Aziz Nesin
Từ sở cảnh sát Xtămbun người ta gửi cho tất cả các quận cảnh sát một bức điện như sau:
"Lợi dụng lúc hai người cảnh sát của chúng ta trên đường đi áp giải ngủ gật, vì suốt ba ngày ba đêm phải canh gác liên tục, tên đạo chích đại bợm đã nhiều lần tái phạm, biệt hiệu "Voi Hămđi", đã tẩu thoát. Y trạc 35 tuổi, vóc người cao lớn, cân nặng 200 kilô, tóc hung nhạt, miệng mất ba chiếc răng, hàm trên có một chiếc đổ chì, hàm dưới bên trái có một chiếc nanh bịt vàng, mặc quần áo nâu kẻ sọc, tóc hơi thưa, mặt tròn, mắt màu hạt dẻ. Qua điều tra, Sở đã có đầy đủ chứng cớ để xác nhận rằng y đã bỏ chạy. Vậy thông tri để các quận biết, nếu quận nào thấy tên "Voi Hămđi" xuất hiện tại địa phận thuộc quận mình cai quản, hoặc giả nếu y có đến gặp một viên chức cảnh sát nào để hỏi thăm, thì các quận báo cho y biết rằng, chúng ta yêu cầu y đừng làm cho chúng ta thêm vất vả, mà nếu có dịp nào thuận tiện thì hãy đến đầu thú tại Sở cảnh sát Xtămbun. Kèm theo đây là ảnh của tên trộm nhiều lần tái phạm, biệt hiệu "Voi Hămđi".
Trên sân ga thuộc một đồn cảnh sát, hai nhân viên cảnh sát nói chuyện với nhau:
- Ramadan này, cậu nhìn cái thằng cha đang uống xalép kia xem, có lẽ đúng hắn là "Voi Hămđi" cũng nên!...
- Hừm! ... Trông cũng hao hao... Đưa ảnh hắn đây nào!
Viên cảnh sát rút trong túi ra một chiếc ảnh đưa cho bạn.
- Ồ, không phải, đây là cậu chứ Ramadan!
- Ừ nhỉ, ảnh tớ chụp hôm nghỉ lễ đấy! Trông được không?
- Cũng được. Nhưng đáng lẽ cậu phải cười lên một tí. Thôi lấy ảnh tên "Voi Hămđi" ra xem nào!
Ramadan rút ra một tập ảnh và loay hoay tìm.
- Đây là ảnh con trai tớ. Nó chụp hồi đi lính. Còn đây là ai cậu biết không, Macmút?
- Trông như thằng cha buôn lậu thuốc phiện Đunman Ali ấy!
- Còn đây là một con "chuột cống" ở khách sạn Suphi.
- Chà, ảnh lẫn lộn lung tung cả!
- Thôi, tìm ảnh "con voi" ấy đi mau lên!
Macmút và Ramadan lúi húi giở tập ảnh.
- Nhanh lên Macmút, hắn uống hết xalép rồi, sắp chuồn bây giờ!
- Xem kìa, hắn nhìn quanh có vẻ lấm lét lắm!
- Đây rồi, ảnh đây! Đúng hắn rồi!
Nói đoạn, hai viên cảnh sát tiến lại phía người có dáng điệu khả nghi.
- Ê này, anh bạn, đứng yên đấy!
Họ hết ngắm bức ảnh lại ngắm người.
- Nghiêng người đi một tí xem nào, anh bạn!
- Hình như không phải hắn, Ramadan ạ!
- Cứ dẫn về cho ông đồn trưởng ông ấy xem. May ra ông ấy nhận diện được hắn.
- Nào anh bạn, đi thôi! Về đồn với chúng tôi!
Tại một nơi khác, hai viên cảnh sát nói chuyện với nhau trước cửa chợ:
- Thật xấu hổ, Suycruy ạ! Chúng mình lùng sục suốt từ sáng đến giờ mà vẫn không tìm được cái thằng "Voi Hămđi" ấy!
- Này, hay là nó kia kìa!
- Đâu? Ừ, có khi đúng hắn cũng nên. Cứ hỏi thử xem.
- Xin ông cho biết tên.
- Mustapha.
Hai viên cảnh sát thì thầm:
- Hắn bảo tên là Mustapha.
- Thì chẳng lẽ hắn nói thẳng với cậu : Tôi là "Voi Hămđi" à?
- Phải, tên này bợm lắm chứ chả phải vừa!
- Thôi, mời ngài cứ theo chúng tôi!
Trong một tiệm càphê thuộc quận khác, hai viên cảnh sát tâm sự với nhau:
- Hôm qua tớ tìm được ba gã "Voi Hămđi" thế mà chẳng gã nào vừa lòng ông đồn trưởng cả!
- Thì tớ đã bảo cậu là ông ấy khó tính lắm mà!
- Suỵt! Cậu thử nhìn cái thằng cha đang uống chè kia xem kìa!
- Thôi đích hắn rồi!
- Nhưng trong giấy nói là hắn to béo cơ mà. Còn thằng cha này thì gầy nhom!
- Hắn mới bị gầy đi đấy! Trốn tránh như thế khổ lắm chứ sung sướng gì!
- Ừ phải, ... nhưng thằng cha này tóc đen, mà "Voi Hămđi" hình như tóc hung nhạt.
- Thì cậu bảo lang thang khắp nơi các bờ bụi, nắng gió như thế, làm gì tóc chả đen đi!
- Thì đã đành rồi! Nhưng có cái tóc thằng cha này nó lại đen nhánh và rậm quá cơ! Mà trong giấy thì nói là "Voi Hămđi" tóc thưa kia mà!
- Có thể là hắn đeo tóc giả để người ta khỏi nhận ra cũng nên.
- Thôi, thế ta còn đứng đây làm gì nữa, lại bắt thằng bợm đi thôi!
Họ lại gần người kia:
- Anh tên gì?
- Hămđi.
Hai cảnh sát nhìn nhau một cách đầy ý nghĩa rồi phá lên cười:
- Thế thì về bót, đi!
Trên một khúc đường nhựa, hai người cảnh sát bắt giữ một người qua đường.
- Há miệng ra!
- Trong miệng tôi có gì đâu!
- Không có thì cứ yên chí mà há ra!
Người đi đường há miệng. Hai viên cảnh sát khám hàm răng anh ta. Người nọ hỏi người kia:
- Này, xem lại trong giấy xem Con voi ấy mất mấy cái răng?
Người kia đọc:
- Mất ba cái răng, hàm trên có một chiếc đổ chì, hàm dưới bên trái có một chiếc nanh bịt vàng..."
Viên cảnh sát đếm răng người qua đường:
- Một, hai, ba, bốn... Đừng cựa quậy. Nhấm hết rồi! Một, hai, ba, bốn, năm... hai mươi bốn! Hắn có hai mươi bốn cái răng.
- Hai mươi bốn à? Thế thì thiếu mấy cái nhỉ? Này, anh có biết anh thiếu mấy cái răng không?
- Tám cái.
- Hắn nhổ bớt răng đi để người ta khỏi nhận ra đấy.
- Thưa ông cảnh sát, răng tôi toàn là răng giả cả, không có một chiếc răng thật nào đâu ạ!
- Này cậu xem lại trong giấy có nói gì đến răng giả không?
- Không thấy nói gì cả. Chắc họ quên đấy. Nhưng tớ thề rằng đúng hắn là "Voi Hămđi" đấy. Cứ nhìn hàm dưới của hắn mà xem! Cả răng bịt vàng là gì đây! Thôi, mời ông đi theo chúng tôi.
- Đi về đâu ạ?
- Về bót, mau!
Mỗi ngày, Sở Cảnh sát Xtămbun nhận được hàng trăm bức điện từ khắp các quận cảnh sát gửi về, nội dung đại khái như sau:
"Phúc đáp bức điện số... ngày...
Quận chúng tôi đã bắt giữ được 14 tên Hămđi, cả 14 tên đều mặc quần áo kẻ sọc, tám tên có răng nanh bịt vàng. Vậy yêu cầu Sở cho biết con số đó đã đủ chưa, hay còn phải tiếp tục tìm thêm?"
Hoặc như sau"
"Phúc đáp bức điện số... ngày...
Hiện nay, tại quận chúng tôi có giam hai tá "Voi Hămđi" cân nặng từ 180 đến 220 kilô. Sở dĩ có sự chênh lệch về trọng lượng như vậy, có thể là vì cân không được chính xác. Tất cả bọn này mắt đều màu hạt dẻ. Không còn gì nữa, chúng đều là "Voi Hămđi cả". Những tên bị bắt đã được giải đi. Quận chúng tôi đang tiếp tục truy nã thêm. Nếu tìm được, chúng tôi xin giải tiếp về Sở sau. Nay kính cáo".
Điện của Sở cảnh sát Xtămbun gửi các quận cảnh sát:
"Hiện nay, tất cả các nhà giam đều đã chật ních. Số "Voi Hămđi" bị bắt coi như đã đủ.
Sở xin gởi lời cảm tạ tất cả các quận và yêu cầu ngừng việc truy lùng và bắt bớ các tên "Voi Hămđi" cho đến khi có lệnh mới".
Bị chú: Tên "Voi Hămđi" ngay hôm tẩu thoát đã bị bắt.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
5. 27-11-2007 01:43 AM #25
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Vụ lộn xộn trong quán rượu
Aziz Nesin
Đến bây giờ tôi vẫn không sao quên được chuyện xảy ra với tôi trong quán rượu Hacđen.
Quán này đã bị dỡ đi từ lâu, và ở đó người ta đã xây một vườn hoa cho trẻ con chơi, nhưng trí nhớ của tôi không hiểu sao cứ quay về với kỷ niệm cũ ấy.
Chuyện xảy ra vào quãng gần sáng. Tôi đang ngồi trong quán đối diện với một cô gái người Hung có khuôn mặt nhỏ múp míp như búp bê. Hồi đó trong các quán nhậu ở Xtămbun hay gặp nhiều con gái Hung. Trên bàn trước mặt mỗi chúng tôi có đặt một bát rượu "bồn" rõ to, loại rượu này bây giờ thường đựng trong những cốc vại, nhưng thời đó người ta uống chúng bằng những cái bát to gần bằng cái chậu. Và mỗi bát rượu như vậy, như tôi còn nhớ, giá khoảng mười lia.
Lúc đó tôi còn là một sinh viên mới hai mươi tuổi, tôi rất sợ bị mất tiền thì ê cả mặt, nên lúc nào cũng phải thò tay vào túi quần xem lại.
Tôi mời cô bạn gái của tôi nhảy. Nhưng nhảy với cô ta tôi chẳng thấy hứng thú chút nào. Người cô ta gầy đét như que củi, và cao đến mức loại thấp người như tôi chỉ đứng đến ngực cô ta. Trở lại bàn chúng tôi lại tiếp tục trò chuyện, nếu như có thể gọi đó là cuộc trò chuyện. Vì cô ta cứ liến thoắng bằng thứ tiếng Pháp giả cầy của mình, còn tôi thì bằng thứ tiếng Anh giả cầy. - Phải khó khăn lắm chúng tôi mới hiểu được nhau.
Tất nhiên tôi có thể ngồi ngậm miệng cũng chả sao, nhưng tôi nghĩ như thế không được lịch sự. Vì con người khác con vật chẳng qua cũng chỗ biết nói.
Vậy là giữa chúng tôi đang toát mồ hôi ra để cố hiểu nhau thì trong quán xảy ra một chuyện khác thường.
Đầu tiên chiếc đèn chùm tự nhiên rơi đánh "xoảng" một cái xuống sàn. Giá như không có mấy đèn mờ ở bốn góc tường thì cả gian phòng sẽ tối như bưng. Những cuộc ẩu đả diễn ra ở mấy chỗ khác nhau. Bàn con và ghế đẩu cứ bay vèo vèo qua đầu. Ngay chính giữa phòng một đám rất đông đứng tụ lại, sau đó tản ra thành từng nhóm nhỏ tiếp tục đánh nhau.
Tôi chưa kịp hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao đã thấy một bàn tay mạnh như gọng kìm siết chặt lấy gáy và ấn đầu tôi vào bát rượu. Tôi thấy mình như một con gà bị túm chặt cánh, sắp ngạt thở đến nơi. Phải khó khăn lắm tôi mới thoát ra được. Nhưng hai chân tôi bỗng chổng vó lên trời, và chính tôi cũng không ngờ, tôi ngồi ngay vào bát rượu...
Có nhiều tiếng còi hét inh ỏi. Tiếp đó là tiếng chạy thình thịch. Rồi có người túm tay tôi lôi đi. Trong phòng tối om, nên ra đến ngoài đường có đèn sáng tôi mới nhận ra đó là cảnh sát. Sau đó người ta lôi từ trong quán ra vài thanh niên nữa. Rồi bắt tất cả đứng xếp thành một hàng. Té ra chúng tôi có sáu người, còn cảnh sát khoảng mươi, mười lăm người.
Một lúc sau người chủ quán bước ra áo quần rách tả tơi.
- Chính bọn chúng đấy! - Lão ta nói - Tôi đã gọi điện cho ngài Muamme.
Cảnh sát xếp hàng đôi giải chúng tôi về đồn. Ở đó một viên cảnh sát báo cáo với thanh tra cảnh sát:
- Chúng tôi đã giải bọn côn đồ đến.
- Ngài Muamme sẽ đích thân tra hỏi chúng. Tôi vừa hân hạnh được ngài gọi điện báo cho biết như vậy. - Viên thanh tra nói.
Chúng tôi bị tống lên xe cảnh sát và tống đi. Tất cả năm người bạn bất hạnh của tôi cứ như bắt được của, ngồi trên xe họ hát vang như trên đường ra ngoại ô chơi.
Chúng tôi bị dẫn lên một căn phòng rộng trên tầng hai trong sở cảnh sát. Có hai người đã chờ sẵn ở đó. Một người là chính tay chủ quán nọ, đã kịp thay quần áo, đang ngồi ở xa lông nhai thuốc lá. Người kia là giám đốc sở thì đúng. Hai mắt ông ta ánh lên như tia chớp, hệt như thần Zớt đang nổi giận. Sau này chúng tôi mới được biết, đó chính là ngài Muamme. Vừa nhìn thấy ngài tôi đã thấy bủn rủn cả người. Nhưng năm anh bạn của tôi thì dường như chẳng coi ngài ra cái gì. Một anh cứ thản nhiên nhai kẹo cao su chóp chép. Anh thứ ba cứ mấp máy môi khẽ hát câu gì trông rất xấc láo.
- Bọn chúng đây phải không? - Ngài giám đốc hỏi.
- Vâng, - lão chủ quán đáp. - Chúng đã đập phá làm gẫy hết cả bàn ghế trong quán. Làm bị thương hai cô gái. Còn tôi bị chúng đánh thâm tím cả mặt.
Bản chất học trò đã ăn sâu vào máu thịt tôi từ bé, nên tôi không sao bỏ được cái thói quen học trò. Lần này cũng vậy, vừa nghe nói đến đó thì tôi giơ ngón tay trỏ lên ra ý kiến được trả lời.
Ngài Muamme quay tít dùi cui trên không một cái đe dọa rồi quật đánh "bốp" một cái xuống bàn.
- Không được nói chuyện! - Ngài gầm lên.
Sau đó ngài bắt đầu hỏi cung từ anh chàng nhai kẹo cao su.
- Nhổ cái thứ tởm lợm ấy ra! Anh đang đứng ở đâu?
Anh chàng này vẫn thản nhiên nhai kẹo cao su như không có chuyện gì xảy ra. Chỉ có đôi mắt hơi nheo lại tỏ ý khinh tất cả mọi cái và mọi người. Ngài Muamme điên tiết:
- Hừm, được, chờ đấy, ta sẽ bẻ gãy hết xương sống chúng bây. Ta sẽ làm chúng bay phải ân hận vì đã sinh ra trên đời này, đồ quái thai, lũ mất dạy!
Một anh cười hô hố, còn mấy anh kia tiếp tục cười khẩy. Ngài Muamme hỏi từng người và dùng những lời lẽ tục tằn nhất để chửi rủa tất cả. Nhưng chả ai buồn động đậy. Khi ngài đến gần tôi, chân tôi như muốn khụy....
Ngài Muamme quay sang lão chủ quán bảo:
- Trông biết ngay một lũ con nhà không cha mẹ. Ông cứ nhìn chúng xem! Trông không ra hồn người. Một lũ bụi đời. - đoạn ông quay sang tôi nói thêm - Họa chăng có thằng này trông còn có vẻ có giáo dục một tí.
Rồi ông giáng cho tôi hai cái tát và nhổ vào mặt tôi một cái.
- Thằng này ít ra trông còn có vẻ biết sợ. - Ngài Muamme nói tiếp - Có cảm tưởng dù sao cha mẹ nó còn biết dạy nó đôi chút.
Sau đó ông lại quay sang chửi bới, thóa mạ tất cả chúng tôi.
- Lũ chó đẻ, đồ quái thai! - Ông quát to đến nỗi cửa kính rung ầm ầm. Ngài chửi một thôi một hồi, dùng hết tất cả những lời lẽ tục tằn thô lỗ nhất. Tôi lại giơ ngón tay trỏ, nhưng vừa định nói "Thưa..." thì ngài đã lại rít lên: "không nói chuyện!"
Rồi ngài chồm tới chỗ anh chàng đang cười khẩy:
- Ông thử nhìn cái thằng mặt thớt này coi! Đừng có trông mong chút gì tử tế ở nó! Thế mà cứ bảo "Thanh niên là nguồn hi vọng của cả nước!"
Sau khi nhìn khắp lượt bằng cặp mắt trấn áp, ngài tiến đến gần cậu thanh niên đang nhai kẹo cao su:
- Tên mày là gì?
- Mêtin.
- Họ?
Anh chàng nói họ của mình.
- Thế tên bố là gì?
Nghe anh chàng trả lời xong, mặt ngài Muamme bỗng ngẩn ra.
- Thế ông bố đáng kính của cậu làm gì? - Ngài hỏi, giọng đã đổi hẳn.
- Thế ông không biết bố tôi làm gì à? - Cậu thanh niên bắt đầu phản công.
- Tôi biết... tôi biết... Tất nhiên... tôi biết... Chà chà... Sao cậu lại đi giao du với tụi đầu đường xó chợ này? - Ngài giám đốc nói với giọng khuyên răn - Người ta đã nói "Gần mực thì đen..." - Ngài nói thêm rồi quay sang lão chủ quán bảo:
- Sao ông lại dẫn cậu ấy về đây?
- Dạ... thưa... tôi không có kêu ca phàn nàn gì về cậu này cả... cậu ngồi rất ngoan, không có hành động gì xấu cả. Tôi không có khiếu nại gì về cậu ấy cả.
- Lần sau phải chú ý hơn nhé! - Ngài Muamme quở trách - Không có khiếu nại gì, nhưng do lỗi của ông mà cậu ta bị giải đến đây. Thật xấu hổ. Bây giờ chúng ta biết xin lỗi cậu ấy ra sao?
- Thề có thánh Ala, tôi không dẫn cậu ấy đến đây. Chẳng qua vì thiện chí cậu ấy tự nguyện đến thôi. - lão chủ quán ấp úng nói.
- Tôi không có nói xấu gì về cậu cả, - ngài Muamme quay sang bảo cậu thanh niên đang nhai kẹo cao su - Hoàn toàn không. Vì thế mong cậu đừng giận, đừng nghĩ những lời tôi vừa nói là ám chỉ cậu... Sao cậu cứ đứng mãi thế? Xin mời cậu ngồi xuống đây. Xin cứ coi như ở nhà vậy. Còn thằng này tên gì? - Ông quay sang cậu thanh niên đang khe khẽ hát.
- Erơgin.
- Bố là ai?
Nghe thấy tên bố cậu ta, sắc mặt ngài Muamme thay đổi ngay. Một mắt ngài cứ giật giật. Ngài quăng ngay cái dùi cui đi, rồi cứ lấy hai tay vỗ vào đầu gối:
- Chà, chà... Làm sao tôi không đoán ra ngay cậu là con nhà ai nhỉ? Lẽ ra tôi phải biết ngay. Xin mời cậu ngồi... Mong cậu tha lỗi cho... Thề có thánh Ala, những lời tôi chửi lúc nãy hoàn toàn không nhằm vào cậu...
Lão chủ quán ngồi mặt tái nhợt không còn hột máu và lẩm bẩm câu gì nghe không rõ.
Ngài Muamme lại quay sang hỏi một trong mấy anh chàng cứ đứng cười nhạt.
- Còn cậu... cậu là con ai?
- Ông vừa bảo tôi là đồ chó đẻ. Nghĩa là tôi là con của chó!
- Ai? Tôi bảo ấy à? Đâu có! Mà nếu tôi có nói thế thì cũng không phải tôi nói với cậu.
- Nhưng tôi vẫn là đồ chó đẻ. - Anh chàng say khướt tỏ ra rất ngông nghênh.
Ngài Muamme phải lôi lão chủ quán ra làm người làm chứng.
- Thề có thánh Ala, ông hãy làm chứng là tôi không nói cậu ấy như vậy đi!
- Tôi cũng không nói gì xấu về cậu ấy cả. - Lão chủ quán cũng vội vàng thanh minh.
- Phải, phải... chẳng qua tôi chỉ nói chung chung thôi, chứ không ám chỉ cụ thể ai.
Ngài Muamme cứ lần lượt hỏi cụ thể từng thanh niên một, rồi sau khi biết bố họ là ai, giữ chức vụ gì, ngài thay đổi hẳn thái độ, tươi cười niềm nở mời từng người ngồi.
Tôi hiểu rằng chỉ có tôi là kẻ giơ đầu chịu báng. Vì những câu chửi rủa của ngài Muamme phải nhằm vào ai chứ? Nên chỉ còn tôi là người mà ngài có thể trút hết cơn giận dữ và đổ hết tội vào đầu tôi để tháo thân. Như thế sự việc sẽ kết thúc ở đó. Còn mấy thanh niên có những ông bố có thế lực kia tất nhiên ngài sợ không dám đụng đến.
Khi đến lượt tôi, tôi đã định nói bừa tên một người có thế lực nào đó. Nhưng nói tên ai bây giờ? Vả lại, ngài Muamme đã bảo rằng dù sao tôi cũng còn là con nhà có giáo dục. Nhưng nếu lời bịa đặt của tôi bị bại lộ thì sao? Tôi đưa mắt liếc trộm anh chàng đang nhai kẹo cao su. Anh này nháy mắt ra hiệu gì đó với tôi, nhưng tôi không hiểu ý anh.
Vậy là hi vọng cuối cùng của ngài Muamme đặt hết vào tôi. Ngài rít răng hỏi tôi, nhưng để phòng xa, miệng vẫn cười:
- Còn cậu, cậu là con ai?
- Anh ấy cùng hội với chúng tôi. - Bất ngờ một thanh niên lên tiếng trả lời thay tôi.
Rồi cậu nhai kẹo cao su cũng ủng hộ luôn:
- Đúng, anh ấy cùng hội với chúng tôi.
Cuối cùng bao nhiêu tức giận, ngài Muamme đành trút hết vào đầu gã chủ quán:
- Hừm! Đồ súc sinh vô lại! Đồ con lừa! - Ngài gào lên với lão ta. Một trận chửi rủa trút vào đầu gã chủ quán - Cho mở những cái quán như thế làm gì? Chả lẽ ông không tìm được việc gì tử tế đúng đắn hơn là đi vu khống cho những thanh niên vô tội này sao?
Mấy chàng thanh niên say đến nỗi định gây lộn xộn ngay trong sở cảnh sát.
- Chúng ta là đồ chó đẻ. - Họ đồng thanh gào to.
- Xin lỗi, tôi không có nói như vậy - ngài giám đốc quay sang họ phân trần - Nếu tôi có chửi ai thì chỉ chửi cái lão xỏ lá này thôi... - ngài chỉ vào lão chủ quán.
Biết rằng mọi việc thế là hỏng bét, sợi chỉ cuối cùng đã đứt, lão chủ quán gật đầu thú nhận:
- Tất nhiên, tất nhiên, ngài chửi như thế là chỉ chửi tôi thôi. Tôi có lỗi vì đã không kính trọng mấy vị trẻ tuổi này...
Rồi lão ta và ngài giám đốc, hai người tranh nhau xin lỗi, trong khi năm anh chàng kia cứ ra sức gào lên:
- Bọn ta là đồ chó đẻ! Bọn ta là đồ chó đẻ!
- Tôi là đồ chó đẻ! Tôi là đồ chó đẻ! - Lão chủ quán ra sức gào to hơn để át đi.
Ngài giám đốc nghiêm mặt nhìn gã và bảo:
- Đêm nay ông phải mời các cậu ấy ăn nhậu thỏa thích. Hết bao nhiêu tôi sẽ thanh toán.
- Ấy chết, sao lại thế ạ! Tôi xin chịu một nửa chi phí... Chỉ mong các cậu ấy tối nào cũng đến... - Lão chủ quán lắp bắp.
Mãi lúc đó mấy chàng thanh niên mới chịu thôi không gào nữa. Trước khi thả họ, ngài giám đốc bắt tay từng người. Người thì ngài nhờ chyển lời hỏi thăm kính cẩn đến cụ thân sinh, người thì được ngài bảo "Tôi xin hôn tay ông cụ thân sinh đáng kính của cậu", người được ngài nói "Thề có thánh Ala, tôi không hề nói gì xấu về cậu. Đây là tôi nói về cái thằng mặt lợn ngu ngốc kia!"
Khi đến lượt tôi, ngài đặt tay lên vai tôi bảo:
- Ta biết anh không phải cùng hội với họ, nhưng nhờ mấy thằng đầu đường xó chợ ấy anh đã thoát thân một cách quá rẻ. Nhìn mặt anh, ta biết ngay anh là con nhà tử tế. Anh đừng tưởng lừa được ta. Thôi, cút ngay khỏi đây!
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
6. 27-11-2007 01:44 AM #26
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Rất tiếc là không xong rồi
Aziz Nesin
- Muốn gì thì muốn, chúng tôi cũng cứ cưới vợ cho anh! - mọi người xúm vào bảo tôi vậy.
Tôi giãy nảy lên, làm ra bộ không thích. Nhưng kỳ thực trong thâm tâm không có gì phản đối cả.
- Cô này chăm chỉ nết na lắm! - Họ tìm cách thuyết phục tôi.
Con gái mà điều đầu tiên được khen là nết na chăm chỉ, thì ắt là nhan sắc không ra gì rồi! Chắc thế nào cũng có khuyết tật gì đó.
- Nết na hay không tôi cũng không cần lắm. Cốt nhất là làm sao mặt mũi phải dễ coi một tí, để nếu không phải suốt ngày, thì ít ra đôi lúc có thể ngắm được - tôi rụt rè bảo họ.
- Cô ấy đi với anh thì xứng đôi lắm rồi, - họ nói cốt để tôi yên lòng.
Nhưng chính đó lại là điều tôi sợ nhất......
- Cô ấy là người có học thức. Tiếp xúc với cô ấy thế nào anh cũng sẽ thấy hợp ngay!
Điểm này thì tôi thích. Một cô gái có học thức! Phải nói rằng học thức dù sao cũng là một nét hấp dẫn đấy chứ! Các bạn cứ đọc các mẩu rao vặt kết hôn trên báo thì biết đấy. Từ anh thợ mới học nghề quét vôi cho đến nhà hoạt động xã hội có tên tuổi, có ai là người không muốn kiếm một cô vợ có học thức đâu nào!
- Mẹ cô ta là người Đức, còn bố là người Thổ.
- A! Điểm này cũng hay đấy!
Giống vật lai cũng giống như người lai, bao giờ cũng có những phẩm chất tốt lắm nhé! Tôi chợt nhớ đến phu nhân Phôn Xađrextainơ trong truyện ngắn trứ danh của Hôme Xaiphetiin. Đó là một phụ nữ có thân hình rắn rỏi. Sáng nào cũng vậy, ở chợ về, mình mặc bộ quần áo thể thao, tay xách làn, bà vừa đi vừa nện gót dày cộp... cộp... trông rất oai vệ.
- Cô ta nói được cả tiếng Đức, tiếng Pháp lẫn tiếng Ý!
Tôi thầm nghĩ: nếu săn được con chim này thì cũng thật bõ công chờ đợi hơn 40 năm giời! Người ta nói thế mà đúng: chỉ kẻ nào biết nhẫn nhục chờ đợi thì mới đạt được ý nguyện.
Bà mối chính trong chuyện này là Mađơmoađen Êléplơra, 59 tuổi, người gày đét như con cá nắm.
- Cô này rất xinh, thuộc loại tơrétgiôli (rất đẹp) đấy! Bà ta nói, - người cao, thon thả... trông tơrécuyntivê (rất có văn hoá), mà lại dòng dõi con nhà quí phái nhé!
- Bà Êléplơra này, - tôi bảo,- thế bà đã nói cho cô ấy biết rằng tôi đã ngoại tứ tuần chưa?
- Nói rồi! cô ấy bảo đàn ông cứ phải ngoại cái tầm 40 mới có thể gọi là đàn ông được!
- Thế bà có bảo với cô ấy là vóc người tôi thấp bé không?
- Có, nhưng cô ấy bảo được cái chắc anh thông minh!
- Nhưng bà có kể cho cô ấy biết tôi chỉ là một nhà báo quèn, lương tháng không hơn gì mấy cô thợ đan bít tất, tức là chỉ có 50 lia một tuần, mà với điều kiện là phải làm vừa lòng ông chủ đấy! Bà đã kể cho cô ấy biết điều ấy chưa?
- Rồi, kể hết rồi! Cô ấy có những ba cái nhà cơ, đồ đạc đủ hết, chả thiểu thứ gì!
Nếu vậy thì được. Không có sau lại bảo không nói trước! Đã biết thế rồi mà cứ lao vào, sau này khổ thì đừng có trách! Đúng là cô ả muốn chuốc nợ vào thân, mà tôi thì hoàn toàn có khả năng làm cô ta được toại nguyện.
Nói thật ra thì tôi cũng chẳng quan tâm mấy đến tất cả những chuyện này, nhưng chết nỗi một ông bạn cứ thiết tha muốn tôi lấy vợ.
- Thôi, cưới quách đi cho rồi cậu ạ! Cho đời nó dễ chịu,- anh ta thuyết phục tôi,- và cũng để bọn tớ khỏi lo lắng về cậu nữa. Lo mãi cho cậu, tụi tớ cũng phát ngán lên rồi.
- Sao cậu lại nói thế?- tôi bảo anh ta. - Cậu tưởng thời buổi bây giờ, một người con gái như thế... Chắc gì cô ta đã chịu lấy một thằng ngu như tôi!
- Thôi, đừng có nói vớ vẩn! Đã bao năm cậu không được biết hạnh phúc là gì, thì bây giờ hạnh phúc tự đến với cậu. Chuyện ấy là thường chứ!
Tôi đắn đo suy nghĩ mãi, rồi cuối cùng đành liều gật đầu, mặc cho mọi sự đi đến đâu thì đến.
Theo sắp đặt, người con gái mà số phận đã định cho tôi sẽ lấy làm vợ, sẽ đi cùng Êléplơra đến sở chúng tôi. Người bạn tôi sẽ phải có ở đó để đón họ.
Ngày hẹn đã tới. Phải người nào đã từng nến mùi cuộc sống độc thân mới hiểu rõ cuộc sống có ý nghĩa như thế nào. Từ ngày hôm trước tôi đã phải lấy chiếc áo sơ mi trắng ra giặt, rồi phơi lên trên ban công cho khô. Nhưng ác một cái là hôm sau trời mưa tầm tã đến tận chiều. Áo rút từ trên dây xuống mà nước từ hai ống tay vẫn còn chảy tong tong. Tôi còn hai cái áo nữa, nhưng một cái thì bẩn quá, cái kia thì nhàu nát. À, thôi được, không sao. Tôi quyết định vắt thật khô... Lấy hồ phết vào cổ và hai ống tay, rồi cắm bàn là cho thật nóng... Áo may sẵn cái nào cũng thế, mặt trong cổ bao giờ cũng rộng hơn mặt ngoài, là thế nào cũng không phẳng được! Hoá ra tôi để quên bàn là ở trên quần. Tôi chạy vội đến nhấc ra, nhưng nó đã kịp làm cháy một miếng tướng ở đầu gối... Chà! cái cảnh sống độc thân đáng nguyền rủa này! Thôi, muốn gì thì muốn, tôi cũng phải lấy cô gái này thôi.
Rút cuộc tôi đành phải mặc cái áo hãy còn ẩm, vác cái bộ mặt xây sước như bộ que tính có khía nấc, hãy còn rớm máu vì cạo vội, mà ra đi.
Muộn mất rồi! Tôi nhảy đại lên một chiếc taxi, phóng như bay đến sở. Vừa đến nơi, anh bạn tôi đã nhảy bổ ra, nghé sát vào tai tôi bảo:
- Cậu chết rấp ở đâu đấy? Để người ta chờ hơn một tiếng đồng hồ rồi!
- Thế nào?... trông được chứ hả?
Anh bạn tôi mặt không còn thần sắc.
- Cứ vào xem khắc biết!
Tôi hồi hộp quá! Ngay cả lúc sắp bước vào phòng thi hay thậm chí lúc sắp bị đưa ra toà án tối cao, tôi cũng chẳng thấy hồi hộp như thế... Mađơmoađen Êleptơra đây rồi!... Một sinh vật kỳ dị. Nó đưa mắt nhìn tôi có vẻ sợ sệt. Tôi ngoảnh vội sang phía người này, nhưng anh ta đã quay mặt vào tường. Thế là hết người cầu cứu.
- Rất hân hạnh được gặp ông!
- Xin lỗi vì đã làm cô phải chờ!
Hai ánh mắt chúng tôi chợt gặp nhau... Trời ơi! Tôi muốn bê lấy cái bàn mà đập vào đầu Mađơmoađen Êleptơra một cái! Tôi tuy khù khờ thật, nhưng đâu đến nỗi để... Cái người đàn bà mà bà ta định giới thiệu làm vợ tôi này chỉ có thể dùng vào một việc thích hợp nhất là đem nhốt vào một cái lều, rồi đứng ngoài mà kêu:
- Vào xem đi! Vào xem đi! Kỳ quan thứ 8 của thế giới đây!
- Một quái vật kinh dị chưa từng có đây! Nói đúng hay sai vào xem sẽ rõ!
Thoạt tiên có thể mang y đi trưng bày ở các chợ phiên hay các đám hội, sau đó mang đi trưng bày ở các tỉnh, rồi dẫn đi khắp vùng Anatôli. Rồi can đảm nữa thì làm một vòng quanh châu Âu, châu Mỹ, cho các nước người ta biết hệ động vật của nước ta còn thêm loại gì.
Chúng tôi bắt tay nhau.
- Cô có được khoẻ không ạ?
- Mécxi! Còn ông?
Đột nhiên Mađơmoađen Êleptơra to giọng hỏi tôi:
- Ông thấy cô ta thế nào?
- Bà Êleptơra ạ, bà có nghe nói ở Xtămbun người ta mới mở một vườn bách thú không? - Tôi hỏi.
- Không! Bà mối buông một tiếng cộc lốc.
Người con gái mà bà ta muốn sẽ làm tôi sung sướng, trông chả khác gì một con ngựa thồ nòi Hung-gia-lợi mà trước kia trong pháo binh người ta vẫn dùng để kéo những cỗ pháo nặng. Khi duyệt binh thì nó sùi cả bọt mép ra. Nói của đáng tội, giống ngựa thồ dù sao còn có ưu điểm là nó biết im lặng. Chứ đằng này vị hôn thê của tôi không lúc nào ngơi mồm. Y nói liến thoắng át hết cả chúng tôi. Những câu y nói không ai hiểu gì cả, vì cái miệng y, giống như kim địa bàn, lúc nào cũng muốn bật lên phía trên. Tuy vậy, để câu chuyện khỏi bị đứt quãng, thỉnh thoảng tôi lại phải đáp lại những câu y hỏi, mặc dù thực tình tôi không sao hiểu nổi y muốn hỏi gì. Nhưng bất cứ hoàn cảnh nào đề có lối thoát của nó. Nên tôi cứ nhìn mắt y mà trả lời "vâng" hoặc "không". Vì nhìn mắt bao giờ người ta cũng đoán được phần nào ý nghĩ. Nhưng đôi mí to mọng úp sụp làm mắt y trông thật dễ sợ. Y nhìn chúng tôi một cách lấm lét, như anh chủ hiệu tạp hoá giấu hàng lậu trong quầy bán trộm vào những hôm chủ nhật.
Nói tóm lại, đấng tạo hoá chí tôn khi nặn ra kẻ tội đồ đáng thương này đã tỏ ra vô cùng sành sỏi về các kỳ hình quái dạng! Thánh Ala muốn nói gì, là điều ấy được thực hiện.
Người ta bảo y biết bốn thứ tiếng, chao ôi! Lời đồn sao quá điêu ngoa! Có một hồi, đứng bán ở quầy, y cũng bập bẹ được dăm ba câu tiếng Pháp. Nhưng sau ít khách người ta không mướn y nữa. Người ta bảo mẹ y là người Đức. Cả chuyện này cũng đã sai lạc ít nhiều. Không phải mẹ y, mà bà hàng xóm ở cạnh nhà y cách đây mươi năm, là người Đức. Rồi, hẳn các bạn còn nhớ, người ta bảo y có ba căn nhà. Té ra không phải ba căn nhà, mà là một căn nhà có ba buồng. Mà bây giờ cũng đã bị cấm rồi. Ấy là chưa kể tám anh chị em y cùng chui rúc vào đó...
Mađơmoađen Êleptơra hỏi lại tôi lần nữa:
- Thế nào? Anh có ưng cô ta không? Bằng lòng nhé?
Nếu vì lịch sự tôi bảo bằng lòng, thì sẽ hết đường rút lui. Người ta sẽ thít lấy cổ tôi mà bắt làm lễ cưới ngay. Vì thế tôi cứ ậm à ậm ừ...
- Bà biết đấy... về những vấn đề như thế này thì... Có phải thế không ạ?... Trước hết người đàn ông phải... đúng không ạ? Người phụ nữ trong chuyện này thì... Vâ...â...ng! Còn về phần tôi... nhất định là tôi sẽ... thưa chuyện với bà sau...
Tôi liếc người con gái đáng thương. Đôi mắt cô ta dán chặt vào tôi. Không khí bỗng trở nên nặng nề.
- Trời hôm nay đẹp quá!
Tôi vội chộp ngay lời cô ta như vớ phải cọc.
- Vâng, thưa cô, trời hôm nay thật là tuyệt! Năm nay...
Gì chứ đề cập đến chuyện thời tiết thì tôi có thể nói cả tuần liền không nghỉ!
Nhưng bỗng tôi cảm thấy có một cái gì đau nhói ở trong lòng. Các bạn cứ nghĩ xem: người con gái xấu xí ấy muốn lấy chồng mà tôi lại là niềm hy vọng cuối cùng của cô ta... Nói ra sợ các bạn không tin, chứ quả thật mắt tôi lúc ấy bỗng rớm lệ. Nhưng tôi phải vội vàng quệt ngay nước mắt, vì sợ cô ta lại tưởng đó là dấu hiệu của bệnh già.
"Mi hãy cưới người đàn bà ấy làm vợ đi! Tôi tự nhủ thầm vậy, dù sao đây cũng không phải là hành động điên rồ đầu tiên của mi cơ mà! Hãy lấy cô ta đi, rồi hãy cứ là một thằng ngốc như từ trước đến nay mi vẫn là như thế. Hãy tự hy sinh thêm một lần nữa để cứu lấy người đàn bà khốn nạn này!..."
- Năm nay thời tiết không giống như năm ngoái...
- Vâng, đúng ạ!
Tôi nhìn người đàn bà. Chẳng giấu gì các bạn, trong lúc nhìn như thế, tôi tự hỏi: không biết sau khi cưới nhau, người ta còn phải làm gì nữa? Gì chứ việc tôi phải hôn y là cái chắc rồi! Với những ý nghĩ hết sức thiện chí ây, tôi bắt đầu quan sát kỹ khuôn mặt y, cố tìm xem có chỗ nào khả dĩ có thể đặt môi vào được. Nhưng... hỡi ôi!... Không một mi-li-mét vuông nào là không có nốt sần hay mụn trứng cá. Vẫn với một động cơ đầy thiện chí như thế, tôi lại quan sát các chỗ trên đôi cánh tay và mái tóc y. Nhưng than ôi, cũng chẳng thấy một khu vực nào nhẵn nhụi.
"Đó chẳng qua là tâm hồn mi quá thơ mộng và óc tưởng tượng của mi quá phong phú đấy thôi! Tôi tự bảo mình như vậy. Mi cứ hãy nhìn khuôn mặt này rồi lại tưởng ra khuôn mặt khác!"
Rút cuộc là buổi gặp mặt hôm ấy chúng tôi cứ loanh quanh suốt hai tiếng đồng hồ về chuyện thời tiết. Khi Mađơmoaden Êleptora và y đứng dậy ra về, tôi còn để ý thấy chân trái của y ngắn hơn chân phải đến năm sáu đốt. Nhưng bây giờ thì cái tật thọt của y chỉ khiến tôi càng thêm thương y mà thôi!
Khi cách cửa vừa đóng lại sau lưng các vị khách bạn tôi hỏi:
- Cậu thấy cô ta thế nào?
- Tôi sẽ cưới người con gái này, - tôi đáp.
- Cậu điên à!... - Anh bạn tôi quát lên.
- Tôi không thể tìm được người đàn bà nào khá hơn thế đâu! Nhất định tôi sẽ cưới cô ta!
Buổi tối, Mađơmoaden Êleptơra đến nhà tôi.
- Tôi bằng lòng cưới đấy! - Tôi bảo bà ta.
- Cưới ai? - Bà ta hỏi.
- Còn ai nữa! Người con gái mà bà dẫn đến ấy!
- Ồ, rất tiếc là không xong rồi!... Cô ấy lại chê anh!
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
7. 27-11-2007 01:47 AM #27
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Phụ tùng thời đại văn minh
Aziz Nesin
Một người khách mới bước vào phá vỡ bầu không khí trầm mặc mơ màng trong quán cà fê. Vừa thở hổn hển, vừa để rơi người xuống ghế, không thèm chào hỏi ai cả. Mọi cái đầu quay về phía ông:
- Chào ông Hamít - một ông già đang đăm đăm nhìn bể nước phun ngoài sân ngoảnh lại chào.
- Không dám...
- Ông làm sao thế hả ông Hamít? Có gì mà thở dốc như bò già leo núi vậy?
- Lạy thánh Ala, ông Ali ơi, tôi vừa mới thoát một cơn hoạn nạn... Lạy thánh Ala!... Dù sao trên đời này vẫn còn có công lý. - Ông Hamít đạo mạo nói.
- Xin chúc mừng ông bạn già của tôi! Ông vừa xong nợ nhà băng hay sao?
- Đâu có... Thời buổi bây giờ mà ông còn có thể nghĩ được đến nhà băng à? Tôi thoát là thoát cái máy kéo của nợ của tôi ấy...
Mấy ông già nghe đến hai chữ "máy kéo" thảy dướn cả người lên, nhổm đít trên mấy chiếc ghế đan rồi ngồi xích lại chỗ ông Hamít
- Thật thế ư, ông?
- Tôi thoát được thật đấy!
- Ông thử kể xem nào!...
- Bỏ của chạy lấy người... - Ông Hamít thở dài như trút một gánh nặng. - Ngàn lần đội ơn thánh Ala. May mà tôi còn sống đến ngày hôm nay!
Mọi người sốt ruột đợi chờ. Mấy cái ghế đẩu lại nhích gần thêm về phía Hamít.
- Đấy là cả một thiên lụy sử... Hồi thằng con tôi được giải ngũ, nó bảo: "Bố ơi, ở quân đội con học được nghề lái xe. Bây giờ bố mua máy kéo đi". Mấy hôm ấy vợ chồng con em gái nó cũng về chơi. Hai đứa đều tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, ra làm giáo viên cả. Gặp dịp nghỉ hè chúng về chơi ngay. Vợ chồng nó cũng bảo: "Bố mua máy kéo đi thôi, tội gì mà chịu khổ mãi!... Đôi bò thời nay nào có giá trị gì đâu?" Theo chúng thì tôi là người đầu óc còn lạc hậu. Con gái tôi còn chỉ lên tấm lịch tường: "Bố xem, chúng ta đang sống ở thế kỷ nào đây? Thế kỷ 20, bố có hiểu là thế nào không?..."
Còn thằng con rể thì tối nào ăn cơm xong cũng cho tôi một bài giảng: "Chúng ta đang sống trong thế kỷ máy móc. Thời nay mà còn cày bò thì thật xấu hổ..."
Con trai thì làm khổ tôi bằng những con toán thống kê: "Bố đã thuê bao nhiêu thợ cày? Mười người chứ gì... Họ làm mất bao nhiêu ngày? Một tháng, bố thấy chưa, còn nếu chúng ta mua máy cày thì chỉ cần con làm trong một tuần lễ là đâu vào đấy. Ngoài ra con còn làm thuê cho người khác và người ta còn phải hôn tay cầu cạnh con nữa. Chỉ một năm là chúng ta hoàn vốn".
Con trai im thì con gái mở miệng, con gái im thì con rể mở máy! Nào là bò nghỉ bò cũng phải nhai, còn máy đã nghỉ là nghỉ. Máy muốn chạy thì chỉ cần vài chén dầu xăng là tha hồ bon... Lúc nghỉ nó có đòi hỏi gì đâu. Nào là bò suốt mùa đông ngốn không biết bao nhiêu là cỏ cho vừa cái túi nhai lại của nó.
Một mình tôi đương đầu với lũ con, nhưng những lời tôi nói ra cứ như nói ngoài sa mạc. Chúng còn thuyết phục tôi rằng bò có thể ngã bệnh, già yếu và gục chết. Còn cái máy kéo là sắt là thép. Nó có già yếu mệt mỏi, chết đứt bao giờ đâu...
Tôi còn chưa chịu đầu hàng thì bà lão nhà tôi lại bồi cho một đòn nữa: "Nhà Muxa mua rồi, nhà Mêmét đầu hói cũng mua rồi đấy".
Tối cũng chuyện máy kéo, sáng cũng chuyện máy kéo. Nhưng tôi chịu nhất là lời của bà lão: "Nhà trưởng thôn mua máy kéo rồi... Còn ông thì cứ nấn ná... Đến thằng Huyxên con nhà Mêmít cũng mua nữa là..." Thú thật tôi không còn cách nào khác là đành phải...
- Thế nào, ông Hamít? Về sau thế nào? - Mọi người tò mò hỏi.
Có thánh Ala chứng giám, tôi vẫn cứ phân vân trong bụng. Nhưng rồi ông giáo làng tôi bảo: "Ông Hamít, ông vẫn còn phải nghĩ ngợi kia à? Một máy kéo là 80 sức ngựa chứ có ít đâu".
Câu ấy làm tôi tỉnh người. Tám mươi sức ngựa!... Ghê thật đấy! Nó húc đổ cả núi chứ chẳng chơi đâu! Tôi không chịu đựng được nữa. Phải mua thôi! Nhưng cái của nợ ấy giá bao nhiêu? Có người bảo nhà băng sẽ cho vay tiền. Còn máy thì có ba loại: nhỏ, vừa và lớn. Tôi định mua loại nhỏ nhưng thằng con tôi lại nói: "Thứ nhỏ ấy con không thích đâu".
Con gái rằng: "Đã mua thì mua hẳn cái lớn".
Con rể rằng: "Người ta ai cũng mua có một lần".
Bà lão rằng: "Mọi người mua đằng to, làm sao mình lại chịu nhục".
Thế là mấy bố con chuẩn bị lên đường ra tỉnh. Đến nơi gặp một anh chàng cũng tốt bụng. Anh ta hỏi: "Ông có bao nhiêu ruộng?" Tôi đáp: "Tám mẫu". Anh ta bèn khuyên: "Mua cái đằng nhỏ ấy. Tám mẫu chứ đến chục mẫu nó cũng cày bay."
Nhưng tôi không làm sao thuyết phục được con cái. Chúng nó bảo: "Thằng cha ấy lừa bố đấy thôi, chúng con cứ thích đằng to".
"Bốn ngàn đồng tiền mặt, còn đâu tín dụng ngân hàng" - người bán hàng nói. ở đây làm gì có chuyện mặc cả, cũng không thể dấu được anh ta là mình không đủ tiền. Chúng tôi đành về nhà vác bò ra chợ. Mấy con bò sinh ra trong chuồng nhà tôi, chính tay tôi đã tắm rửa cho chúng, nuôi nấng chúng. Con bò xám cứ nhìn chằm chằm vào mắt tôi mà khóc, con bò hung thì cứ liếm mãi hai bàn tay tôi. Tóm lại chúng tôi bán đôi bò đi kiếm được ba ngàn. Còn một ngàn nữa lại vay tín dụng. Cuối cùng mua được cái máy kéo hạng to... Con quái vật ấy đứng lừng lững như một trái núi. Các con tôi kêu hai chén dầu xăng là máy nổ ầm ầm. Làm gì có của ấy!
Chúng tôi đổ vào một biđông madút, còn dầu nhớt thì không biết bao nhiêu mà kể. Con trai tôi trèo lên cầm lái. Chúng tôi cũng trèo lên. Xe chạy xình xịch. Máy tốt hết ý. Theo tục lệ chúng tôi treo lên xe một chiếc giày cũ, một củ tỏi và một dây hạt cườm xanh để tượng trưng cho hạnh phúc. Tối hôm đó khi về đến nhà, chúng tôi cho xe lượn quanh nhà bốn vòng rồi mới đắc ý đỗ lại.
Tất cả những người hôm ấy nhìn thấy chúng tôi, hôm sau thảy đều đi mua máy kéo hết. Ngay cả lão Giuxup có mỗi một mẫu đất chua lại nợ nần như chúa chổm cũng đi tậu máy kéo mới khiếp chứ.
Từ đó chiều chiều, hai bên đường làng máy kéo xếp hàng thẳng tắp. Thằng con tôi lái cái máy ấy cũng thấy vừa tay, chẳng cần gì hơn. Trên đường nó đi đã cũng phải nát. Một lần nó húc phải xe Huyxên, con trai Mêmít. Thực thà mà nói cái xe ấy hoá ra đống sắt vụn. Nó bị lật chỏng gọng như một con rùa nằm ngửa vậy.
Máy kéo để tiêu khiển cũng hay. Cứ đến thứ bảy chúng tôi lại đánh xe ra tỉnh. Thằng con trai tôi xoắn ngược bộ râu lên mà lái. Đến cửa rạp chớp bóng, chúng tôi cho xe đậu vào dãy những xe kéo khác. Lúc về là lúc đua tài. Ai lái giỏi hơn thì vượt lên trên. Bỗng nhiên đang chạy có thằng mất dạy nào húc phải xe của chúng tôi. Rắc một cái, thế là chúng tôi đứng lại. Cầu thánh Ala che chở! Đèn pha vẫn sáng mà xe không nhúc nhích. Không biết hỏng ở đâu, chúng tôi loay hoay mãi, đành chịu bỏ xe dọc đường cuốc bộ đi về...
- Kể đi ông Hamít, rồi sau thế nào?
Chúng tôi thuê một đôi bò kéo con quái vật ấy về. Chỗ hỏng vẫn không tìm được. Chúng tôi đành đến chỗ mua trước nhờ họ đến giúp, hết bao nhiêu xin trả. Đến nơi họ bảo: Không được, không có phụ tùng! Chao ôi, con bò màu hung yêu dấu của tôi ơi! Nó làm gì có phụ tùng ốc vít cơ chứ... Nó chẳng hỏng môtơ, chẳng hỏng guồng máy bao giờ. Thằng con tôi bảo: "Để con đi Stănbum mua cái phụ tùng ấy cho..." Tôi sốt sắng: "Con ơi, đến vụ cày rồi, có đi thì đi nhanh nhanh, con nhé!" Thằng ấy đi Stămbun rồi không thấy về nữa...
- Rồi sau thế nào hả ông Hamít... Ông kể tiếp đi!
Các bạn quí mến ạ, rồi sau tôi không được tin gì của cháu cả. Thật xấu hổ với hàng xóm. Tiền hết, muốn mua bò cũng chẳng có, đành đi thuê tạm một đôi về cày. Mãi mới thấy có tin con: "Bố ơi, con đã tìm được phụ tùng rồi, nhưng suốt thời gian con đi tìm, con đã tiêu sạch cả túi. Bố gửi ngay cho con một ngàn đồng nhé". Tôi chạy đến ngân hàng gửi tiền đi ngay theo đường dây thép. Mấy hôm sau nó về mang một mũ ốc to bằng đồng hào "Cái này mà một ngàn ư con?" - Tôi hỏi. Chúng tôi đi gọi thợ máy bắt ốc. Xe lại chạy tốt... Đến mùa đông tuyết xuống, chúng tôi cho xe vào chuồng bò, buộc vào cái cọc của con bò hung khi xưa. Bấy giờ cũng là lúc phải trả ngân hàng và trả dần món nợ. Mà tiền thì hết... Lại phải đi vay chỗ khác đập vào. Sang hè tôi bảo con trai tôi: "Nào con, cho xe ra đồng đi!" Nó nổ máy. Nhưng bỗng có những tiếng răng rắc chát chúa, rồi cái máy câm tịt. Làm thế nào nhỉ? Không ai biết đằng nào mà lần. Thế là lại phải đi mời người ở cái cửa hàng bán máy. Đến nơi anh ta phán: Tuột đâu mất một bánh răng xe rồi.
Chúng tôi hỏi mua, anh ta rằng không có bán. Không có bánh răng mà dám bán máy. Thế có phải là lừa dân đen không? Hỏi thế thì họ bảo: ”Nếu mọi người mua một cái máy kéo nữa thì sẽ đủ phụ tùng cho cái máy cũ.“ Nhìn mặt người làng tôi thực xấu hổ. Nhục nhã thật... Bấy giờ cánh đồng nào cũng có một vài cái máy kéo đứng im như xác ướp. Thỉnh thoảng dân làng lại vấp chân phải những đống sắt vụn, dây xích, guốc xích...
Ôi chao, con bò mầu nâu, con bò mầu hung của tôi... Dùng nó tha hồ mà bền. Sống nó cũng là tiền, chết nó cũng là tiền. Còn cái con bọ sắt này có phải là bò đâu, chẳng chọc tiết được, cũng chẳng xài được.
Lại đến đợt hai phải trả tiền ngân hàng..."Tôi trả máy nhà các ông đấy" - tôi bảo thế. Họ liền đáp: "Chúng tôi lấy làm gì cái rả rách ấy."
Phát điên lên được! Bỗng có tin đồn rằng ở Ađana sản xuất phụ tùng. Tôi liền quát con: "Ê, cái thằng già mồm kia, mày bắn súng không nên thì phải đền đạn. Đi mà sắm phụ tùng đi cho rồi..."
Thằng con tôi đi Ađana. Đến nơi thằng thợ bảo: "Không thấy người ốm làm sao chữa bệnh".
- Kéo nó đi Ađana chứ sao, tôi bảo.
Thế là phải thắng một đôi bò mộng.
Hai tuần mới mò đến được Ađana. Cái thằng thợ máy ấy đòi đúng năm trăm mới nhả ra cái con bánh răng ấy. Để đỡ mất mặt với bà con, tôi đành phải bán đỡ hai sào ruộng rồi gửi năm trăm đi Ađana cho nó... Lúc ấy vợ chồng đứa con gái tôi đến chơi. Tôi nghĩ: "Đã mất bao nhiêu tiền cho cái xe khốn khổ kia thì cũng phải hưởng được đôi chút chứ." Thế là cả nhà tôi trèo lên xe. Tôi bảo con trai: "Cái của này không phải như con ngựa đua đâu, cẩn thận đấy con, dọc đường gặp cái gì phải tránh cái đó!" Nhưng con trai tôi đâu có nghe. Nó vừa trông thấy xe nhà Huyxeen, con trai Mêmít là lao ngay vào. Cái đầu máy rền như con lừa đực gặp con lừa cái... Tôi chưa kịp quát con hãm lại thì cái các-bua-ra-tơ đã nổ rồi. "Thằng mất dạy, đồ khốn - tôi sấn đến cạnh nó. Đến ngựa chiến bên A rập cũng không chịu được nữa là... Mà đây lại là máy móc nước ngoài. Mày có còn đầu óc không đấy?" Chúng tôi hò nhau xuống đẩy nhưng nó không thèm nhúc nhích nữa. Lúc ấy làm sao tôi quên được đôi bò tuyệt diệu của tôi kia chứ?
Tôi kéo con gái và con rể ra bảo: "Hai con trả lời cho bố một câu. Chúng ta đang sống ở thời đại nào đây? Có phải là thế ký 20 không? Cái thời của bố thì chỉ dùng một con bò xám, cho nó nắm rơm, cột nó vào xe là ra nương, ra rẫy..."
- Rồi thế nào nữa hả ông Hamít?
- Thế rồi, các ông anh ạ, lại đến lãi xuất nhà băng, lại tiền trả vốn ngân hàng. Trời phạt tôi đấy. Tôi phải đi bán thêm mười sào nữa. Còn cái máy kéo lúc thì mất bù -loong - 500 đồng, lúc thì một cái ốc một nghìn đồng... Giá thử cái xích mà đứt thì chịu không thể tìm đâu ra cái khác mà thay. Phụ tùng không có...vá víu chỗ này, vá víu chỗ kia, cái máy kéo yêu dấu của chúng tôi giống hệt như cái áo rách.
Lúc ở ngoài đồng toàn thân nó run lên bần bật như phải cơn sốt, còn ngoài cánh đồng thì vướng vãi toàn những ốc, những mũ, những mẩu sắt gì nữa, tựa hồ chúng tôi rắc những phụ tùng vứt đi ấy thay cho hạt giống.
Một hôm có một nghị sĩ đảng dân chủ về làng. Tôi gặp ông ta, nói: "Bây giờ ông bảo chúng tôi làm thế nào? Cái máy lừng lững như con voi, mà chỉ thiếu một chi tiết bằng đồng xu là đứng im. Còn chi tiết ấy thì không kiếm đâu ra được".
- Nói tiếp đi, ông Hamít! Cái nhà ông nghị sĩ ấy bảo sao?
- Ông ấy còn nói gì được nữa... Ông ấy cũng có nói một thôi dài, thậm chí tôi cũng không hiểu gì lắm. Ông ấy bảo trước kia người ta sống ở thời kỳ đồ đá, bây giờ là thế kỷ đồ sắt. Nền văn minh xâm nhập vào đất nước ta cùng với sắt thép. Tôi bảo: "Thôi được, các ông đã chuyên chở văn minh vào nước ta là tốt, nhưng phụ tùng của nó đâu? Ông thử ra ngoài đồng chúng tôi mà coi, những văn minh vứt đi còn đầy như xác chết cả đó. Vậy có nên hạn chế bớt văn minh đi không?"
- Rồi sau thế nào nữa, ông Hamít? Ông ấy trả lời ra làm sao?
- Các bạn quí mến ạ, sau đó ông ấy đáp: "Thứ này chúng ta đặt mua ở Mỹ. Mai đây chúng ta sẽ xây dựng nhà máy riêng! Các bác chịu khó chờ ít lâu nữa thôi, phụ tùng sẽ tràn về như lũ tháng bảy", ông ta hứa thế. "Chúng tôi thì chờ được, nhưng nhà băng có chờ đâu, - tôi đáp - Ông làm ơn bảo nhà băng họ cũng nán chịu".
Lại đến kỳ trả nợ không xê xích ngày nào. Thật tình tôi tiếc đôi bò quá. Lúc đem chúng ra chợ bán tôi đã khóc thầm trong bụng... Tóm lại, thế là tôi phản bán hết cả ruộng đất để trả nợ nần.
- Rồi sau ta sao, ông Hamít?
- Rồi sau tôi gọi con gái và con rể đến. Tôi lại lôi bà lão và con trai tôi ra. Tôi dẫn họ ra chỗ con quái vật ngốn tiền ngốn đất của tôi mà rằng: "Hoặc là các người giết sống tôi đi, hoặc là tôi buộc các người vào xe làm bò cày ruộng..."
Họ lại ra sức nổ máy, tiếng máy đinh tai nhức óc, cua-roa chạy văng mạnh, sửa chỗ này hỏng chỗ kia, lắp được cái ốc lại gãy bánh răng, cứ thế không cùng.
- Rồi sau thế nào, ông Hamít?
- Sau đó, các bạn quí mến ạ, tôi hiểu ra rằng chẳng ăn thua gì cả. Vợ con tôi dúm dụm vào nhau. Tôi liền vác ra một cái búa và quát: "Đồ súc vật, lui hết cả ra, để ta dậy cho cách sửa chữa". Rồi tôi cứ thế quai búa vào tay lái, vào máy móc... vừa quai vừa quát: "Này thế kỷ hai mươi này, này văn minh này, này phụ tùng này". Tôi quai búa đến mỏi nhừ tay ra thì thôi. Bấy giờ bà lão nhà tôi bỗng kêu váng lên:
"Ối giời ơi, cứu chúng tôi với, ông lão nhà tôi điên rồi..." Các con tôi mỗi đứa chạy một đường. Tôi vứt búa rồi đến thẳng đây đấy. Cho tôi một cốc nước với.
- Rồi sau sao nữa, ông Hamít? - Những người nghe tròn mắt thúc giục.
- Thế là hết. Tôi đã thoát được con quái vật. Ngàn lạy ơn thánh Ala chí công... Tôi thấy mình như được thoát xác. Cho tôi một tách cà phê mau lên và đặc vào nhé! - Lão Hamít sung sướng quát gọi chủ quán.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
8. 27-11-2007 01:48 AM #28
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Hội nghị phụ huynh
Aziz Nesin
Tôi cứ đắn đo mãi không biết có nên đi họp phụ huynh hay không. Đi thì chẳng biết nói gì. Mà giả dụ có gì muốn nói, thì chưa chắc tôi dám mở miệng. Vì tính tôi không quen nói trước chỗ đông người.
Tuy vậy, cuối cùng tôi cũng dẹp được những nỗi băn khoăn và quyết định đi. Đến nơi, cuộc họp đang vào lúc sôi nổi nhất.
Tôi khẽ mở cửa, rón rén bước vào phòng. Thấy tôi vào, một bà tỏ vẻ khó chịu, đứng dậy bảo:
- Quí ông đến muộn rồi đấy, thưa quí ông!
Tôi ngượng đến chín cả mặt, ấp úng đáp:
- Thưa vì nhà tôi đến đây không tiện đường. Tắc xi chuyến không chạy, mà ô tô buýt cũng không có.
- Đó không phải là việc mà ban giám đốc cần biết!
Tôi không hiểu bà ta định nói ban giám đốc nào? Ban giám đốc công ty xe điện hay ban giám đốc công ty xe khách?
- Cái mà ban giám đốc mong các vị phụ huynh lưu ý cho nhất là việc con em họ thường xuyên đi học muộn. Giờ học bắt đầu từ 9h, nhưng...
- Tôi đề nghị phải cấm các nữ sinh đi bít tất ni lông! - Một bà trong số phụ huynh bỗng đâm ngang một câu - Và không phải chỉ các nữ sinh, mà cả các bà có tuổi nữa!
- Tôi tán thành ý kiến của bà vừa phát biểu đấy! - tôi cũng đế theo một câu mà chính mình cũng không ngờ.
Thú thực trong đời tôi chưa từng thấy cặp chân nào xấu như cặp chân của bà phụ huynh này. Nó vừa cong như cái đòn gánh, mà phần cổ chân lại to hơn phần bắp. Đi tất dày mà vẫn trông rõ cả những đường gân to tướng.
- Tất cả nữ sinh phải bắt mang tất dày màu đen hết! - Tôi tiếp thêm, mắt vẫn không rời khỏi đôi chân bà phụ huynh.
Không hiểu tại sao bỗng dưng tôi lại dính vào chuyện tất tai này thế không biết? Lúc ở nhà đi tôi đã định không nói gì cả. Một ông ăn vận sang trọng bỗng đứng phét dậy, nói như hét:
- Chúng ta còn có nhiều vấn đề quan trọng khác cần phải bàn, chứ cái chuyện tất tiếc đấy chỉ là chuyện vặt thôi! Trước hết chúng ta phải bàn đến chuyện dạy sinh ngữ. Theo tôi, tất cả các môn phải dạy bằng tiếng Đức hết! Tôi đã từng ở bên Đức nên tôi biết. Bên ấy người ta dạy trẻ con môn gì cũng bằng tiếng Đức cả!
Vẫn mặc cảm mình là người có lỗi, nên để chuộc lỗi, tôi hăng hái hùa theo:
- Tuy chưa sang Đức nhưng tôi cũng tán thành ý kiến của ông vừa phát biểu là chúng ta phải dạy học bằng tiếng Đức. Chắc các vị muốn hỏi tại sao? Xin thưa rằng vì chính người Đức là người đã đem lại triết học và khoa học, văn minh cho toàn thế giới. Chúng ta phải biết ơn người Đức. Nếu như trẻ em Đức không học tất cả các môn bằng tiếng Đức...
- Thưa ông - Một ông đeo kính ngắt lời tôi - ý kiến của ông đã ra ngoài cuộc họp rồi! Dạy học bằng tiếng gì là việc của Bộ chứ! Còn ở trường chúng tôi, như ông biết đấy, cũng có dạy tiếng Đức. Nhưng hôm nay chúng ta họp ở đây là để thảo luận về vấn đề liên lạc giữa ban giám đốc và phụ huynh.
- Thế một tuần có mấy giờ tiếng Đức? - ông ăn mặc sang trọng hỏi.
- Cái đó tuỳ theo mỗi lớp - ông đeo kính đáp - lớp 1 là 6h, còn lớp 7 là 8h...
- Thế thì ít quá!
- Ít quá! - tôi chêm vào.
- Cái chính là phải cấm đá bóng trong trường - Một ông có tuổi ngồi dưới phòng bỗng kêu lên - Nếu không tháng nào cũng mua giầy mới thì đào đâu ra tiền!
- Ơ hay! Nhưng con gái chúng nó có đá bóng đâu! - Một bà tóc hoa râm phản đối ngay lập tức.
- Nhưng tụi con trai nó đá! - ông có tuổi vẫn bướng.
- Tại sao lại dính đến chuyện con trai ở đây? Trường này là trường nữ sinh cơ mà!
- Trường nữ sinh à? Thế ra đứa cháu gái tôi học ở đây ư? Thế mà tôi cứ ngỡ là...
Muốn trường gì thì trường, cứ là phải cấm đá bóng! Trẻ con bây giờ quên hết cả truyền thống của cha ông...
- Cái đáng lo nhất là con em chúng ta hay bỏ học - Một bà giáo lên tiếng - Các vị phụ huynh phải đặc biệt quan tâm đến chuyện này mới được!
Ông ngồi cạnh tôi hỏi:
- Không biết bao giờ mới bắt đầu dạ hội nhỉ?
- Không biết - tôi đáp - ông hỏi ông hiệu trưởng xem!
- Hiệu trưởng là ông nào?
- Tôi cũng không rõ... Nhưng trông ba ông kia ông nào cũng giống hiệu trưởng cả...
Ông ngồi cạnh tôi bèn quay sang một ông có dáng điệu rất bệ vệ ngồi sau dãy bàn của ông giám đốc:
- Thưa ông hiệu trưởng, bao giờ thì bắt đầu dạ hội ạ?
- Ông hiệu trưởng đâu nhỉ? - ông này đưa mắt nhìn quanh hỏi:
- Ông hiệu trưởng ốm, không có ở đây - bà đeo kính trả lời.
- Thế bao giờ mới bắt đầu dạ hội ạ? - ông ngồi cạnh tôi lại hỏi.
- Làm gì có dạ hội nào mà dạ hội? - bà đeo kính ngạc nhiên.
Ông bên cạnh tôi ngượng quá ngồi xuống, đoạn quay sang bảo tôi:
- Hừm!... Về nhà tôi cho con ranh con một trận mới được! Nó láo quá đi mất!
- Tôi không hiểu ông định nói gì? - tôi đáp.
- Cái con mất dạy nó bảo hôm nay ở trường nó có dạ hội và cứ nằng nặc đòi tôi đi dự. Nó còn bảo là chúng nó sẽ múa điệu Khácmanđalư nữa! Vợ tôi đang có mang không đi được, nên tôi phải đi thay.
Trong khi đó, cái bà đòi các nữ sinh phải mang bít tất dày màu đen cứ ra sức tuyên truyền để lôi kéo thêm đồng minh cho mình. Cái ông đòi phải dạy các môn bằng tiếng Đức thì cứ bô bô kể chuyện đời sống bên Đức. Một ông còn trẻ ngồi bên trái tôi quay sang hỏi:
- Xin lỗi, ông có biết người ta nói gì không ạ? Tôi chả hiểu gì hết!
Tôi nói vắn tắt lại cho ông ta biết những ý kiến trái ngược nhau trong cuộc họp.
- Ông cụ này thì đề nghị cám trẻ con chơi đá bóng và phải giáo dục chúng theo truyền thống cũ. Bà giáo kia thì than phiền về việc học sinh trốn học đi chơi. Còn bà này thì...
- Làm thế nào ra khỏi đây bây giờ nhỉ? Tôi bị nhầm mất rồi! Mấy ông bạn chơi xỏ tôi. Họ không nói rõ cho tôi biết gì cả. Hôm nay là tôi phải đi họp công đoàn... Suýt nữa tôi đứng lên phát biểu về quyền tự do bãi công thì có thật là dơ không?
Bà tóc hoa râm đứng lên yêu cầu trật tự:
- Thưa các vị! Các trò học ở trường ta đây đều là con em các gia đình nghèo. Gần một nửa trong số 670 nữ sinh của chúng ta không có đủ tiền để sắm cả sách giáo khoa. Trách nhiệm của chúng tôi là phải trợ cấp bữa ăn trưa cho ít nhất là 100 học sinh. Và chuyện này, chúng tôi xin nói thẳng là trông mong vào sự trợ giúp của các vị.
- Trợ giúp! - Một bà phụ huynh kêu lên - Lúc nào cũng trợ giúp! Suốt đời chỉ thấy con gái đòi hết tiền này đến tiền khác không biết để làm gì? Không cho thì nó nói: "Mẹ không cho thì con không đi học đâu! Con xấu hổ với tụi bạn lắm!" Vậy tôi xin hỏi, những tiền ấy nó đi đâu? Không thể ngày nào cũng cho tiền mãi được! Phải qui định dứt khoát mỗi tháng là bao nhiêu tiền chứ! Và phải làm sao để chúng tôi ai cũng có thể kiểm tra xem tiền ấy chi dùng vào việc gì chứ!
- Đúng đấy - tôi gào lên.
Bị đỏ mặt, bà tóc hoa râm bèn hỏi cái bà vừa yêu cầu phải cho biết tiền trợ giúp các học sinh nghèo được chi dùng vào việc gì xem con gái bà ta tên là gì.
- Guynten Iasôba ạ!
Bà tóc hoa râm "hừm" một tiếng.
- Lớp 3B, số 141. Guynten Iasôba phải không? Đúng rồi... Từ sau hè, con gái bà chỉ đi học có một tuần thôi, rồi không thấy đến trường nữa. Chúng tôi đã biên thư báo cho bà biết chuyện này...
- Thế chả hóa ra tôi nói điêu hay sao? - bà phụ huynh nọ tức lắm - Ngày nào con gái tôi cũng xin tiền, bảo để giúp ai không biết - đoạn bà quay sang bà bên cạnh phân trần. - Mà tối cũng không thấy nó về nhà. Thế thì chả hiểu nó lang thang ở đâu? Tôi và bố nó thì đã ly dị nhau. Nó sống với ông ấy...
Cứ thế, phòng họp có khoảng 30 người, nhưng người nào cũng ra sức nói to để át người khác và để bảo vệ ý kiến của mình, nên khắp phòng cứ ào ào như chợ vỡ. Cuối cùng bà tóc hoa râm phải kêu lên:
- Đề nghị trật tự! Ồn quá, không còn nghe thấy gì hết! Ai muốn phát biểu đề nghị nói lần lượt, chứ không nói cùng một lúc như vậy.
Một rừng tay giơ lên. Ông có tuổi được phát biểu đầu tiên.
Sau khi mở đầu bằng câu "Kính thưa các thầy cô giáo" ông bắt đầu trình bày về cái tác hại của bóng đá, về ảnh hưởng xấu của nó đến tư cách, đạo đức và tư tưởng của học sinh. Ông kể rằng những người đầu tiên chơi bóng đá là những người Iadit. Bấy giờ chưa có bóng, nên họ phải đá bằng cái sọ của một người tử vì đạo tên là Huyxên. Vì thế chơi bóng đá là một tội rất lớn.
Nghe ông kể lể con cà con kê mãi, mọi người sốt ruột không chịu được nữa, phải đồng thanh kêu lên:
- Thôi đi! Cho chúng tôi còn nói với chứ!
Ông phát biểu thứ hai đề nghị mọi người hãy xới thêm một suất cơm vào cặp lồng của con em mình để tương trợ các em khác "Chúng ta làm như thế để ủng hộ các em con nhà nghèo" - ông ta nói, đoạn quay sang than phiền về chuyện giá sinh hoạt đắt đỏ, chuyện không có bơ tốt để bán, chuyện than củi khan hiếm...
Bài diễn văn của ông tưởng chừng không bao giờ chấm dứt. Bị kéo ngồi xuống ghế rồi mà ông còn tiếp tục lẩm bẩm một mình.
Biết rằng có theo thứ tự thì chẳng đời nào đến lượt, nên bất chấp cả trật tự, tôi đứng phắt dậy nói luôn:
- Thưa các ông các bà!
Tôi bắt đầu. Nhưng thực ra vẫn chưa biết nói gì. Tôi bèn kể luôn một câu chuyện tiếu lâm về Khốtgia Naxrêđin để lôi kéo sự chú ý của mọi người đã. Nhưng không may, đến đúng đoạn hay nhất, thì tôi quên béng đi mất. Thế là tôi đành phải nói chữa thẹn: "Câu chuyện kết thúc thế nào thì chắc các vị đã biết cả rồi".
Lúc này mà ngừng nói, dù chỉ một tích tắc thôi, là người khác sẽ cướp lời ngay. Vì thế, chả cần logic quái gì cả, tôi nói luôn sang chuyện khác.
- Nếu con cái chúng ta bị đúp, thì lỗi hoàn toàn là ở các bậc cha mẹ hết!
Tôi nói thế cốt để lấy lòng ban giám hiệu, vì tôi cũng sợ con gái tôi bị đúp.
- Các bậc phụ huynh bây giờ không chịu quan tâm gì đến con cái của mình cả - tôi tiếp tục ba hoa - Có những ông bố thậm chí không biết con mình học trường nào lớp nào nữa.
Tôi bắt đầu hăng máu, không còn ai ngăn được nữa. Các giáo viên vỗ tay hoan hô tôi nhiệt liệt. Cuối cùng, bà tóc hoa râm phải bảo:
- Bây giờ khí đã muộn, nên ý kiến của ông xin để đến cuộc họp sau vậy!
- Nhưng tôi đã nói được gì đâu!
Lúc ra về, tôi được các giáo viên tiễn ra tận cổng và cảm ơn rối rít. Nhưng vừa về đến nhà, thì lại bị vợ độp ngay cho một câu:
- Anh đi đâu suốt từ tối đến giờ?
Tôi nhìn đồng hồ: kim đã chỉ 10h.
- Đi họp phụ huynh chứ đi đâu! - tôi đáp - Anh đã phát biểu rất hăng và ý kiến của anh được các giáo viên rất thích. Anh nói là các phụ huynh không chịu quan tâm gì đến con cái cả, cứ mặc cho chúng chơi bời lêu lổng, đến lúc bị đúp thì bao nhiêu tội lại đổ cả lên đầu giáo viên.
Bỗng con gái tôi chạy như bay vào phòng:
- Bố ạ! Các thầy giáo con lại hỏi tại sao bố không đi họp đấy?
Vợ tôi lập tức tra khảo ngay:
- A, thế ra những điều anh vừa nói là dối trá hết! Anh chui rúc ở đâu đến tận nửa đêm mới về mà bảo là đi họp hở?
- Bố vừa họp ở chỗ con về mà...
- Nhưng con cũng vừa ở đấy...
- Thì bố cũng vừa họp ở trường nữ sinh của con mà...
- Sao bố lại đến trường nữ sinh? Con có học ở trường nữ sinh đâu! Con học ở lớp cuối trường Baiadít cơ mà!
- Thế nào? - vợ tôi sửng sốt - Tao gởi mày đến học ở trường nữ sinh Khôkhora kia mà!
- Nhưng con bị đuổi khỏi đấy từ lâu rồi mẹ ạ!
- Trời ơi, con mất dạy - tôi điên tiết sấn vào đứa con gái - Tại sao mày không nói cho bố mẹ biết mày học ở đâu, học hành ra sao hở? Con cái nhà mất dạy đến thế là cùng!...
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
9. 27-11-2007 01:50 AM #29
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Hội nghị các nhà giải phẫu
Aziz Nesin
Hội nghị quốc tế các nhà giải phẫu lần này được tiến hành ở thành phố Luyblitx. Nó mang một ý nghĩa quan trọng. Hội nghị lần thứ mười đã thu hút đuợc sự chú ý của các nhà giải phẫu nổi tiếng nhất trên thế giới và hoá ra là một hội nghị có đông người dự nhất. Tham dự hội nghị còn có phóng viên báo chí của tất cả các nước, mặc dù đấy không phải là một sự kiện trọng đại, như một trận đấu bóng đá hoặc một cuộc họp báo để cho một nữ minh tinh màn bạc - tóc đen hay tóc hung - phô diễn quần áo của mình. Các nhà giải phẫu cự phách nhất của hai mươi ba quốc gia đem tới hội nghị những báo cáo khoa học. Trong số họ có những người tài nghệ cao cường đến mức ngay cả việc tách rời từng bộ phận cơ thể con người rồi ghép lại như cũ - như thể tháo lắp chiếc đồng hồ hay khẩu súng trường tự động - cũng chả là điều gì ghê gớm đối với họ cả. Bởi vì vậy mà báo chí khắp thế giới, sau phần thông báo về những mẫu quần áo tắm phụ nữ mới nhất, về kết quả các trận đấu bóng đá tranh giải vô địch quốc gia và về những tội ác khủng khiếp nhất, đã cho là cần thiết phải chạy mấy dòng về hội nghị các nhà giải phẫu.
Ngày đầu tiên được dành cho các thủ tục khai mạc hội nghị. Hôm sau, tại phiên họp toàn thể, đại biểu bắt đầu nghe các bản tham luận. Sang ngày thứ ba bắt đầu phần thảo luận. Bác sĩ C.Klazeman, nhà giải phẫu Mỹ nổi tiếng, bước lên diễn đàn cùng một người giúp việc. Các phóng viên thông tấn, báo chí vội vã rút bút và sổ tay ra. Các nhà giải phẫu ngồi kín phòng họp, đeo ống nghe vào, chuẩn bị nghe diễn giả nói. Cố nhiên, mỗi người sẽ chọn trong 4 ngôn ngữ châu Âu thứ nào mình thông thạo nhất.
- Thưa các đồng nghiệp kính mến! - Bác sĩ C.Klazeman bắt đầu - Tôi xin chia sẻ với các đại biểu dự hội nghị lần thứ mười những suy nghĩ về ca giải phẫu thú vị nhất của tôi sau suốt 35 năm thực hành giải phẫu. Ai cũng biết rằng cho đến nay chưa có một nhà giải phẫu nào thành công trong việc thay đổi vân ngón tay cả. Lịch sử y học chưa hề biết đến một thí nghiệm tương tự vì vậy nó không hề được ghi thành văn. Khá nhiều lần chúng tôi đã lột lớp da ngón tay nhưng lớp da mới mọc ra vẫn như cũ. Vì vậy mà cảnh sát không gặp khó khăn trong việc lùng bắt bọn trộm cướp, giết người. Trong ca giải phẫu mới nhất, tôi đã thành công trong việc thay đổi lớp vân tay. Trước mắt các ngài là một trong những thương gia lừng danh nhất nước Mỹ - Mr Thomas - vua thụ tinh nhân tạo. Biệt danh của ông là "Jack, kẻ đập vỡ quai hàm". Ông ta đã hiện diện trong hồ sơ lưu trữ của Cục Điều tra liên bang trong cái biệt danh này. Trong suốt mười năm trời cảnh sát ra công truy lùng tay bẻ khóa lão luyện này mà đành uổng công. Lý do chỉ là vì sau mỗi vụ thì tôi lại tiến hành một cuộc giải phẫu thay vân tay cho Mr Thomas, tức "Jack, kẻ đập vỡ quai hàm". Tôi xin cam đoan với các bạn rằng phẫu thuật thay vân tay không chỉ khó khăn nhất mà còn có lợi nhất, bởi vì cái việc được chia đôi số của cải các tay trộm chôm được trong két đâu phải là dở gì. Bây giờ tôi xin chiếu cho quý vị coi những cảnh phim giới thiệu phần kỹ thuật của ca mổ.
Tất cả các nhà giải phẫu có mặt trong phòng đều nhất trí công nhận đồng nghiệp người Mỹ quả là chuyên gia cự phách nhất trong lĩnh vực mổ xẻ. Song bản tham luận của nhà giải phẫu người Anh tiếp theo liền đồng nghiệp người Mỹ đã làm cho mọi người phải thay đổi ý kiến của mình. Mr B. Lains bước lên diễn đàn cùng một người nữa, bắt đầu:
- Thưa các đồng nghiệp rất kính mến! Tôi xin kể cho các bạn nghe một phẫu thuật đáng được coi là phức tạp nhất và đáng chú ý nhất trong lịch sử y học của nhân loại. Các bạn thấy đấy, bên cạnh tôi là vị hạ sĩ quan anh hùng Mechew, trong thế chiến thứ hai đã từng hạ sát được 26 lính giặc. Song chẳng may một mảnh lựu đạn địch đã tiện đứt đầu ông... Với thứ keo đặc chế của mình, tôi đã gắn được chiếc đầu đứt lìa đó vào cổ, trông nó thậm chí còn đẹp hơn trước ấy. Nay thì đến bom nguyên tử cũng chẳng làm cho nó rời ra được nữa. Bây giờ tôi xin "bật mí" cách pha chế chất keo này.
Sự kinh ngạc của những người tham dự hội nghị đã lên đến tột đỉnh. Tất cả đều tin chắc rằng sẽ không còn được nghe bản tham luận nào thú vị hơn nữa. Nhưng diễn giả kế đó - một bác học Pháp - đã buộc họ phải thay đổi ý kiến này: Ông ta bước lên diễn đàn cùng một mỹ nhân tóc vàng bận bộ đồ tắm. Vừa nhác trông thấy nàng, các vị đại biểu có tuổi đã lập tức nhấp nhỏm trên ghế.
- Thưa các đồng nghiệp vô cùng kính mến! - Nhà giải phẫu Pháp lên tiếng. - Tôi muốn kể cho các bạn hay về một phẩu thuật chỉnh hình khác thường. Tôi hy vọng các bạn sẽ đánh giá đúng mức thành công của tôi nếu tôi nói cho các bạn biết rằng người đẹp tóc vàng vừa tạo ra những phản ứng dữ dội trong phòng này chính là bà mẹ vợ đã 65 tuổi của tôi.
Sau đó diễn giả còn thông báo thêm một số chi tiết nữa: ông đã thực hiện phẫu thuật với bà mẹ vợ là cốt để trả thù người vợ đã phụ bạc ông; sau khi biến bà mẹ vợ thành một thiếu phụ trẻ đẹp, ông đã "bắt bồ" với bà ta. Nhà bác học Pháp kết thúc bản tham luận của mình bằng phần trình bày cơ sở khoa học của phát minh kỳ diệu này.
Các diễn giả nối nhau lên diễn đàn, người nào cũng công bố công trình nào đó kỳ lạ. Chẳng hạn như nhà giải phẫu Đức tuyên bố:
- Cái chết đối với một con người không có nghĩa là sự ngưng hoạt động của tất cả các bộ phận.Ở người chết vì chứng nhồi máu, cố nhiên là tim không thể làm việc được nữa, nhưng các bộ phận khác vẫn hoạt động như thường. Ở người chết vì bệnh lao, chỉ có buồng phổi là ngưng hoạt động. Theo tôi, sau khi tim hoặc phổi đã ngưng hoạt động, cái chết vẫn chưa hiện diện... Từ các bộ phận không bị hư hại của người chết, tôi đã tạo ra những con người mới. Đây - nhà giải phẫu Đức chỉ vào một chàng trai đầy sinh lực, có thân hình của thần Apolon. - Trước mắt các bạn là một con người mà đôi chân vốn là của một lực sĩ đã chết vì chứng viêm ruột thừa và thân thì của một đô vật đã chết vì chứng hoại thư, còn đầu thì của một bệnh nhân lao phổi.
Những người có mặt ở hội nghị cho rằng nếu hôm sau nhà giải phẫu Nhật không đưa ra được phát minh lạ thường nào thì ca giải phẫu cuả vị bác sĩ Gwynter người Đức, tạo ra con người mới từ các bộ phận không bị hư hại của người chết, xứng đáng được coi là đặc sắc nhất trong tất cả các công trình được công bố tại hội nghị.
Nhưng nhà giải phẫu người Nhật Himi Siyama còn làm cho cử tọa sửng sốt hơn nữa. Chỉ vào một người đang đứng kế bên, ông nói:
- Đây là một người Nhật, do bị thọt chân nên không được gọi vào lính trong thế chiến thứ hai! Không đủ sức mang mãi vết thương tinh thần trầm trọng đến như thế, ông ta đã mổ bụng tự sát, kết quả là ruột bị rứt ra khỏi khoang bụng...
Đã đến ngày cuối cùng của hội nghị. Các diễn giả gắng sức vượt trội nhau bằng những tham luận càng về sau càng gây kinh ngạc hơn. Riêng có một tay bác sĩ cứ ngồi yên nghe các đồng nghiệp của mình báo cáo. Tất cả những người tham dự hội nghị đều đã lên tiếng. Ngài chủ tọa bèn quay về phía đại biểu cứ nín thinh đó mà nói:
- Thưa ngài, lẽ nào ngài không có ý định kể cho hội nghị nghe chút gì về các phẫu thuật của ngài hay sao?...
- Có chứ ạ, song chẳng biết việc làm của tôi có đáng để cho quý vị lưu tâm không?
Trong phòng vang lên những tiếng nói:
- Có, có! Chúng tôi muốn nghe ông phát biểu!
- Tất cả đại biểu đều phải có tham luận...
Tay bác sĩ được khích lệ dữ quá, bèn bước lên diễn đàn. Ông ta nói:
- Thôi được, quý vị đã muốn thì tôi xin trình bày ca mổ cắt amidal của tôi.
Tiếng cười vang lên trong phòng: khéo nói chuyện tào lao sau ngần ấy tham luận kinh thiên động địa!
Tiếng cười làm mếch lòng diễn giả:
- Thưa quý vị! Vì khiêm tốn nên tôi đã làm giảm bớt ý nghĩa phẫu thuật của mình. Nhưng tôi không thể chịu được sự nhạo báng. Vừa mới nghe đến amidal là quý vị đã cười ầm lên rồi.
Tiếng cười trong phòng càng rộ lên:
- Trò nhảm nhí chứ phẫu thuật cái gì!
- Tôi thì chả thèm động tay vào cái thứ phẫu thuật đó!
- Một nhà giải phẫu mà nhắc đến ba cái trò nhăng nhít đó thì thật là đáng xấu hổ!
Những tiếng la ó từ tứ phía đó càng làm cho diễn giả nổi sùng lên:
- Thế quý vị có biết cái người được tôi cắt amidal cho là ai không nào?
- Thì cứ cho rằng ông là Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đi! Liệu điều đó có liên quan gì tới phẫu thuật nào?
Diễn giả mặt đỏ gay:
- Người được tôi tiến hành phẫu thuật là một nhà báo.
Các đại biểu dự hội nghị cười sặc suạ:
- Nhà báo, thương gia, viên chức hay người lính chăng nữa thì có gì khác nhau nào?
Diễn giả giơ tay lên:
- Yên lặng cho! Vâng, thưa quý vị, chẳng có gì khác nhau cả. Nhưng lúc đó ở nước chúng tôi vừa ban hành Luật Báo chí mà. Nhà báo không tài nào mở miệng ra được nên buộc tôi phải cắt amidal cho anh ta qua đường... hậu môn!
Nụ cười biến khỏi khuôn mặt các đại biểu dự hội nghị. Thế vào đó là niềm kính trọng sâu xa đối với diễn giả. Tiếng vỗ tay dậy lên như sấm. Toàn thể những người tham gia Hội nghị quốc tế các nhà giải phẫu lần thứ X đã nhất trí công nhận phẫu thuật cắt amidal này là sự kiện đặc sắc nhất trong lịch sử y học.
o
§
§
§
§
§
Trích dẫn
10. 27-11-2007 01:50 AM #30
handballvn
- Banned -
Ngày tham gia
Sep 2007
Đến từ
Hành tinh khác
Bài viết
1,546
Thanks
3,310
Thanked 3,641 in 1,493 Posts
Đừng quên mua dây thun cho quần đùi nhé!
Aziz Nesin
Sáng ra tôi chuẩn bị đi làm. Thế là lập tức bắt đầu...
- Đã ba ngày rồi chúng tôi đã bảo anh mà anh cứ quên hoài... ở nhà không còn chút phô-mai nào cả!
Người ta bảo tôi suốt ba ngày nay rồi! Nhưng lấy tiền đâu ra nào?
- Thế nào, mua phô-mai rồi chứ? - Buổi chiều người ta hỏi tôi. Tôi, như một nghệ sĩ bi kịch, lấy hết sức đập tay vào trán và kêu lên: "Ô-ô! Tôi quên khuấy đi mất!"
Tôi cứ thích ứng như vậy. Buổi sáng người ta lệnh cho tôi mua cái gì đó. Tôi trả lời: sẽ mua. Còn buổi chiều khi tôi trở về - lại vẫn cái tiết mục ấy: "Ô-ô! Tôi quên khuấy đi mất!"
Nhưng ông bố biết tỏng tôi rồi. Khi tôi trả lời câu hỏi muôn thuở lần thứ ba: "Phô-mai đâu?" - Và định giơ tay lên trán thì bố tôi kêu lên thay tôi: "Ô-ô!" - rồi quay lại phía cả nhà mà mỉa mai tuyên cáo: "Anh ta quên!"
Từ hôm ấy tôi không còn được quyền quên nữa. Sáng hôm sau, khi tôi cạo râu, người ta lại bảo tôi:
- Đừng quên phô-mai nhé!
- Được rồi.
Tôi đi giày, khi vang lên:
- Cả xà bông cũng không còn, mua nhé!
- Được.
Trong lúc đi xuống cầu thang, tôi nghe thấy:
- Cả đường cũng hết, đừng có quên đấy!
- Được rồi, được rồi!
Vừa nắm tay vào quả đấm cửa ra vào thì từ trong nhà vọng xuống tiếng la ơi ới:
- Anh nghe thấy không? cà phê, cà phê!
- Cà phê làm sao?
- Hết rồi, nhớ mua nhé!
- Tôi sẽ mua, sẽ mua hết!
Tôi đóng cửa, thở phào nhẹ nhõm, nhưng ngay lúc đó người ta đập vào cửa sổ.
- Còn gì nữa?
- Trời ơi, anh đi đâu mà lao dữ vậy? Quay lại lấy chai đựng. Anh còn phải mua dầu ô liu.
- Sẽ mua, sẽ m-u-a!
Đi được vài bước - từ trên cửa sổ lại có tiếng réo:
- Này, gạo ở nhà không còn một hạt! Chiều nhớ mang về!
- Sẽ mang về!
Đấy, cứ mỗi buổi sáng là đầy những lời tiễn đưa như thế đó. Nhưng vấn đề không phải kết thúc ở đó. Từ những khung cửa sổ ra vào và cửa sổ mở toang dội ra đủ thứ giọng nói, đòi hỏi và lo lắng, trầm trầm và lanh lảnh, êm ái và khàn khàn: "N-à-y!" cứ lan đi, lan đi, đuổi theo tôi trên đường phố.
- Mua dây thun cho quần đùi nhé! Loại tôn tốt ấy! Đừng có mà quên đấy!
- Thông phong cho đèn năm dây!
- Bấc cho bếp dầu hỏa!
Tôi lao chạy, hoảng hốt như tên bán hàng rao nhìn thấy đại diện chính quyền, nhưng chưa kịp rẽ qua góc phố thì một chú bé đuổi kịp tôi.
- Có một dì sai cháu nhắn lại...
- Dì ấy bảo sao?
- Hành cũng không còn.
- Nói với dì ấy hãy liệt kê những thứ gì vẫn còn. Những thứ khác chú sẽ mang về.
Đấy, tôi đi làm mỗi buổi sáng như vậy đó. Bạn hẳn rõ là đầu óc tôi chất đầy những thứ gì chứ? Cho suốt tới chiều tối trong đó chen chúc nhau những phô-mai, dầu, hành, dây thun cho quần đùi...
Và hôm nay, khi tôi bước vào văn phòng, đầu tôi như thường lệ chất đầy ắp đủ thứ các thứ hàng thực phẩm và tạp hóa.
Tôi phải hoàn tất những tài liệu cần gấp đã nằm từ hôm qua trên bàn làm việc của tôi. Xong xuôi tôi gửi chúng lên qua các cấp.
Ít lâu sau ông giám đốc bước vào phòng. Mặt đầm đìa mồ hôi, cánh mũi phập phồng. Ông chìa cho tôi những tờ giấy.
- Cái gì thế này?
- Những tờ giấy...
- Đọc đi! Đọc to lên!
Tất cả những ở trong phòng: các cô đánh máy chữ, thư ký, viên chức - đều vểnh tai lên nghe. Tôi bắt đầu đọc: "Gửi Tổng cục, người có chức trách cao nhất. Phúc đáp mệnh lệnh ngày tháng ấy, số bao nhiêu. Dưới đây liệt kê những biện pháp cụ thể về phần các điểm cần phải xem xét ngay và đã được nghiên cứu cẩn thận. Xin trình để ngài biết rằng chúng tôi cho là cần thiết phải:
- Không mua phô-mai dưới quê đem lên vì quá mắc đối với chúng ta.
- Mua dây thun cho quần đùi ở chỗ bán hàng rong tại quận Macmut Pasa.
- Mua hai trăm gam thịt bò làm cốt lết, đề nghị chặt làm đôi.
- Mua thông phong đèn thì chọn cái nguyên lành, đừng lấy cái bị nứt như lần trước.
- Do giá xà bông cao quá, nước xà bông phải dùng cho hết chứ đừng phí phạm.
- Nhằm tiết kiệm, cà phê phải pha lần thứ hai, đổ thêm nước sôi vào nước cà phê đặc.
Tài liệu này gửi tới ngài như một thông tư để thi hành."
- Cái gì thế này? - Ông giám đốc lại gầm lên.
Tôi hiểu ra rằng mình đã làm hỏng một văn kiện chính thức, tương vào đó tất cả những gì chứa trong cái đầu khốn khổ của tôi đang đầy ắp các thứ hàng hóa linh tinh.
- Sao anh lại đến nỗi thế này? - Ông giám đốc nói tiếp.
- Chính tôi cũng không biết nữa.
- Thôi được, anh bị lú lấp ruột gan. Nhưng tại sao sếp của anh lại ký vào cái này?
- Bậy thật! - Tôi kêu lên.
- Giả sử rằng sếp của anh bị quáng mắt... Làm sao mà chánh văn phòng lại chuyển cái đó lên cấp khác?
- Cái đó thì quá tệ!
- Thôi cứ cho rằng thủ trưởng đãng trí. Nhưng phó giám đốc thì mắt để đâu?
- Thật xấu hổ và nhục nhã!
Giám đốc trầm ngâm.
- Họ đã sơ xuất, cái đó rõ rồi. Nhưng còn tôi, làm sao mà tôi lại gửi cái thứ nhảm nhí ấy cho tổng giám đốc?
- Cái đó thì thật...
- Cái gì hả?
- Thật là tuyệt!
- Thế nếu cả tổng giám đốc cũng nhắm mắt ký vào cái "thông tư" của anh, rồi không đọc và gửi lên cho bộ trưởng?
- Thế thì chúng ta chết mất! - tất cả đồng thanh kêu lên.
- Lạy trời, tai qua nạn khỏi rồi! Tổng giám đốc đãng trí, lộn phong bì và gửi tài liệu không phải cho bộ trưởng mà cho một bà quen.
- Ồ!
- Ở bưu điện do đãng trí nên phong bì để gửi cho bà ấy lại chuyển cho tôi, còn cái gửi cho ông bộ trưởng thì lẫn đi đâu mất không biết.
Tới đây tất cả chúng tôi đều thở phào nhẹ nhõm.
Cảm ơn những người đãng trí! Đúng là vì họ mà trên báo chí có những thông báo thế này: "Nhằm mục đích tiết kiệm, đã thải hồi hai chục viên chức khỏi cơ quan như thế như thế. Thay cho họ đã tuyển vào ba trăm người có trọng trách." Chuyện gì cũng xảy ra được cả!
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top