anhlaquangdclq2

hồi 22

Quí-hữu đảm đương nước Lỗ

Tề-hầu trông thấy yêu ma

Nguyên Lỗ trang-công có một người em cùng mẹ là Công-tử Quí, trong bàn tay của Công-tử Quí có chữ hữu nên gọi là Quí-hữu .

Quí-hữu vốn tánh cương trực, lại cùng một mẹ, nên Lỗ trang-Công rất yêu quí.

Lỗ trang-công lại còn có một thứ huynh là Khánh Phủ, và một thứ đệ là Thúc-nha, hai người nầy gian xảo, nên Lỗ trang-Công chẳng phục.

Quý-hữu , Khánh-phủ, Thúc-nha cả ba đều làm chức Đại-phu trong triều.

Trong thời gian Lỗ trang-Công mới lên ngôi, ra chơi nơi đất Lang-đài, gặp người con gái họ Đảng tên là Mạnh-Nhâm, nhan sắc tuyệt trần, Lỗ trang-Công đem lòng yêu dấu, sai người đi thỉnh.

Mạnh-nhâm không đến.

Lỗ trang-công sai người đến hứa với Mạnh Nhâm nếu kết duyên tơ tóc sẽ được phong làm chánh thất.

Mạnh-nhâm bắt Lỗ trang-Công phải chích huyết ăn thề mới nhận lời.

Sau khi thề nguyền xong, Lỗ trang-công đem Mạnh-nhâm về cung chung sống.

Qua một thời gian Mạnh-nhâm sanh đặng một trai là Công-tử Ban .

Lỗ trang-công muốn giữ lời thề, lập Mạnh-nhâm lên làm chánh thất, người mẹ Lỗ trang-Công là Văn-khương nhất thiết không thuận , bảo phải lấy nàng Ai-khương, con gái Tề tương-công về làm chánh-thất.

Lỗ trang-công không dám cãi lời mẹ. Tuy-nhiên lúc bây giờ nàng Ai-khương còn bé lắm, phải chờ đợi hai mươi năm trời nữa mới cưới được.

Bởi vậy, Mạnh-Nhâm dù chưa lập chánh-thất nhưng trong hai mươi năm ấy vẫn làm chủ trong cung .

Đến lúc Ai-khương về làm phu-nhân thì Mạnh-nhâm đã qua đời rồi.

Nàng Ai-Khương không con . Em gái Ai khương là Thúc-khương theo Ai-khương sang , lấy Lỗ trang-công sinh được Công-tử Khải .

Trước kia, Lỗ trang-công lại còn lấy nàng Phong-thị làm tiểu-thiếp, có sanh đặng một trai là Công-tử Thân nữa.

Như vậy, Lỗ trang-công có ba trai : Công-tử Ban , Công-tử Khải và Công-tử Thân .

Về phần nàng Ai-khương, tuy được lập làm chánh-thất, song đã chẳng con, lại hận vì trước kia Tề tương-Công giết cha mình, nên bề ngoài kính trọng Lỗ trang-công , mà bên trong ghét thầm.

Ai-khương thấy Khánh-phủ mặt mũi khôi ngô, đem tình dan díu tư thông với nhau; lại kết đảng với Thúc Nha em cùng mẹ của Khánh phủ để mưu lập Khánh-phủ lên ngôi .

Thúc-nha làm Tể tướng.

Một hôm nhân tiết trời không mưa .

Lỗ trang-công đi tế đảo-vũ, truyền bọn nữ-nhạc tập dượt nơi sân nhà quan Đại-phu Lương-thị.

Quan Đại-phu Lương-thị có một đứa con gái khá đẹp, thường đi lại với Công-tử Ban . Hai bên trao tình cá nước, và Công-tử Ban hứa sau nầy nối ngôi sẽ phong cho nàng làm phu-nhân .

Hôm ấy con gái Lương-thị , bắc thang lên tường xem diễn nhạc, chẳng may gặp Ngữ nhân-Lạc là tên giữ ngựa, đứng ngoài tường trông thấy .

Dẫu là phận tôi đòi, nhưng khát vọng của con người đâu cách biệt, Ngữ nhân-lạc cất lên vài giọng hát đưa tình để ghẹo hoa .

Hát rằng :

Hoa xuân hơ hớ nhuỵ đào

Tiếc thay ! Ong bướm chưa vào vườn xuân

Tường cao vòi vọi

Bóng nguyệt mông lung

Ước ao cá nước tương phùng

Ấp yêu mộng đẹp cho lòng phôi pha !

Công-tử Ban nghe tiếng hát chạy đến, trông thấy Ngữ nhân-lạc , lòng căm tức truyền bắt vào, đánh ba trăm roi, máu tuông lai láng .

Ngữ nhân-lạc khóc lóc van xin .

Công-tử Ban mới tha cho và đem việc ấy thuật lại với Lỗ trang-công .

Lỗ trang Công nói :

- Đối với đứa tiểu-nhân vô lễ, một là bỏ qua , hai là giết đi . Con đánh nó như vậy không khỏi gây thù oán. Vả lại Ngữ nhân-lạc là đứa có sức mạnh phi-thường, mọi người ai cũng biết, con khá cẩn thận.

Quả vậy, Ngữ nhân-lạc tuy là một kẻ tôi đòi , song sức mạnh ít ai sánh kịp. Đã có lần Ngữ nhân-lạc từ trên chòi canh cao hai mươi trượng nhảy xuống đất mà vẫn đứng dậy như chơi . Lại cầm cột chòi canh rung rinh làm cho mọi người phải khiếp sợ.

Bị Công-tử Ban đánh đập ; Ngữ nhân-lạc đem lòng thù oán, đến xin làm tôi cho Khánh-phủ.

Khánh-phủ liền thu dùng.

Năm sau Lỗ trang-Công bệnh biết mình không sống được lâu , lại nghi Khánh Phủ muốn cướp ngôi, nên gọi Thúc Nha và hỏi dò ý kiến.

Quả nhiên Thúc-nha khen Khánh-phủ, và khuyên Lỗ trang-Công nên truyền ngôi lại cho Khánh-phủ.

Lỗ trang-công buồn bã, nhưng không tỏ ý cho Thúc-Nha biết.

Thúc-nha bái tạ lui ra .

Lỗ trang-công lại cho đòi Quí-hữu vào hỏi.

Quí-hữu nói :

- Chúa-công ngày trước đã có lời ước với Mạnh-Nhâm . Tuy không lập Mạnh-nhâm lên chánh-thất nhưng vẫn phải coi con của Mạnh-Nhâm là chính.

Lỗ trang-công nói :

-Thúc-nha khuyên ta nên truyền ngôi cho Khánh-phủ, việc ấy nên chăng ?

Quí-hữu nói :

- Khánh-phủ là một kẻ thiếu đạo-đức, không đủ tư-cách làm vua . Thúc-nha muốn mưu cầu quyền lợi, xin Chúa-công chớ nghe theo . Tôi xin hết sức phò Công-tử Ban để cứu lấy nước Lỗ.

Lỗ trang-công gật đầu nở một nụ cười tươi nhìn Quí-hữu tỏ vẻ trìu mến.

Quí-hữu lui ra, nghĩ thầm :

- Nếu không chặt bớt vây cánh của Khánh-phủ, sau nầy ắt khó trừ đặng. Nghĩ rồi, giả chiếu của Lỗ trang-công triệu Thúc Nha đến tư dinh quan Đại-phu Hàm-quí để nghe lệnh .

Thúc-nha ngỡ thật bôn ba đến.

Quí-hữu bỏ thuốc độc vào một ly rượu, đưa cho Hàm-quí bắt Thúc-nha uống. Lại viết cho Thúc-nha một bức thư, đại ý nói Chúa-công có lệnh bắt Công-tử phải phục độc-dược mà chết đi thì con cháu mới được phong chức bằng không toàn gia phải bị tru lục .

Thúc-nha không chịu uống.

Hàm-quí phải đè Thúc-nha xuống đất đổ thuốc độc vào miệng.

Thúc-nha hộc máu chết ngay .

Chiều hôm ấy, Lỗ trang-công từ trần .

Quí-hữu lập Công-tử Ban lên nối ngôi .

Chưa bao lâu, ông ngoại của Công-tử Ban qua đời, Công-tử Ban nghĩ đến tình mẹ mình là Mạnh-Nhâm, nên đến tận nhà thăm viếng.

Khánh-phủ hay được, kêu Ngữ nhân-lạc đến nói nhỏ :

- Ngươi không nhớ cái thù thuở xưa ? Ngày nay con giao-long đã ra khỏi mặt nước thì sức một người có thể bắt được, sao nhà ngươi không đến nhà họ Đảng mà báo thù .

Ngữ nhân-lạc nói :

- Nếu có điều gì xin nhờ Công-tử bênh vực thì tôi mới dám.

Khánh-phủ nói :

- Điều đó ngươi khỏi lo .

Ngữ nhân-Lạc liền giấu một con dao găm vào mình, thừa lúc đêm tối trèo tường vào nhà họ Đảng, đứng núp trước cửa phòng.

Trời tang-tảng sáng, nội thị mở cửa ra lấy nước .

Ngữ nhân-lạc lén vào buồng ngủ.

Lúc ấy, Công-tử Ban cũng đã thức dậy, vừa bước chân xuống đất. Thấy Ngữ nhân-lạc, Công-tử Ban sợ hãi, hét lớn :

- Mầy đến đây để làm gì .

Ngữ nhân-lạc nói :

- Ta đến để báo thù trận đòn năm trước.

Công-tử Ban liền rút thanh kiếm ở đầu giường chém một nhát vào trán Ngữ nhân-lạc đến lòi tuỷ óc ra .

Ngữ nhân-lạc vốn có sức mạnh, tay trái nắm lưỡi kiếm, tay phải cầm dao đâm vào cạnh sườn Công-tử Ban đến lút cán.

Công-tử Ban té nhào xuống đất tắt thở.

Bọn nội thị sợ hãi kêu ầm lên .

Còn Ngữ nhân-lạc, sau khi đâm được Công-tử Ban một nhát trả thù, cũng té xỉu xuống đất chết ngay .

Quí-hữu nghe tin Công-tử Ban chết biết mưu của Khánh-phủ. Liệu mình cô thế, liền bỏ qua nước Trần tị nạn.

Khánh-phủ tuy mưu giết vua, nhưng bên ngoài vẫn làm ra vẻ đạo đức để che mắt thiên hạ, liền đổ tội cho Ngữ nhân-lạc, và bắt cả nhà Ngữ nhân-lạc đem chém.

Lúc bấy giờ nàng Ai-khương muốn lập Khánh-Phủ lên ngôi, nhưng Khánh-phủ lòng sâu độc, muốn cho tăm tiếng được vẹn toàn, nói với Ai-khương :

- Chưa giết được Công-tử Thân và Công-tử Khải thì chưa nên nối ngôi .

Thương hỏi :

- Thế thì có nên lập Công-tử Thân hay không ?

Khánh-phủ nói :

- Công-tử Thân đã trưởng thành, khó kiềm chế, nên lập Công-tử Khải thì hơn .

Công-tử Khải là con nàng Thúc-khương cháu ngoại của Tề hầu , nên Khánh-phủ thân hành sang nước Tề mang lễ vật lo lót với Thụ-Điêu , yêu cầu Tề hoàn-Công thừa nhận Công tử Khải lên nối ngôi .

Lúc đó Công-tử Khải mới có tám tuổi, tuy được lên ngôi, song bên trong thì sợ Ai-khương , bên ngoài thì sợ Khánh-phủ, không dám quyết đoán điều gì cả.

Cách nữa tháng sau, Công-tử Khải mới làm lễ tức vị xưng hiệu là Lỗ mẫn-công, rồi sai sứ sang Tề xin hội ở đất Lạc-cô thuộc Tề.

Đến ngày hội, Lỗ mẫn-công nắm áo Tề hoàn-công khóc oà, kể lể chuyện Khánh-phủ hiếp chế mình .

Tề hoàn-công hỏi :

- Các quan Đại phu ở nước Lỗ bây giờ có hiền sĩ nào chăng ?

Lỗ hoàn-Công nói :

- Chỉ có Quí-hữu trung trực hơn cả, nay cánh trốn sang nước Trần .

Rồi Tề hoàn-công hỏi :

- Sao không triệu về mà dùng .

Lỗ mẫn-công nói :

- Nếu triệu Quí-hữu về thì Khánh-phủ nghi ngờ khó lòng lắm .

Tề hoàn-công nói :

- Không sao ! Cứ bảo là theo ý nước Tề thì ai dám trái mạng .

Nói xong, sai sứ sang nước Trần triệu Quí-hữu về.

Lỗ mẫn-công chờ Quí-hữu đến. Rồi mới cùng về nước Lỗ.

Về đến nơi, Lỗ mẫn-công phong cho Quí-hữu làm Tể-tướng.

Tề hoàn-công lại sợ nước Lỗ có loạn nên sai Trọng tôn-thu đến dò xét tình hình.

Sau khi nhận xét mọi điều, Trọng tôn-thu vào yết kiến Công-tử Thân .

Công-tử Thân bàn bạc tình hình nước Lỗ rất rành mạch , khiến Trọng tôn-thu cũng phải khen là một kẻ có tài trị nước .

Trọng tôn-thu dặn nhỏ Quí-hữu nên bảo vệ Công-tử Thân và phải trừ Khánh-phủ đi mới được.

Quí-hữu lắc đầu, giơ lên một cánh tay .

Trọng tôn-thu biết Quí-hữu muốn nói mình cô thế, liền đáp :

- Để tôi về tâu với Chúa-công tôi . Nếu có gì cần giúp đỡ, xin ngài cho biết. Trong thời gian Trọng tôn-phu lưu lại nơi nước Lỗ, Khánh-phủ đem vàng bạc, lễ vật đến mua lòng, nhưng Trọng tôn-thu nhất quyết không nhận nói :

- Nếu ngôi là kẻ trung quân ái-quốc, hà tất phải nhọc lòng làm cái việc đó. Khánh-phủ sợ hãi lui ra, lòng áy náy không an .

Khi về đến nước Tề, Trọng tôn-thu kể lại nội tình nước Lỗ cho Tề hoàn-công nghe, và nói :

- Nếu không trừ được Khánh-phủ thì nước Lỗ không thể nào yên được.

Tề hoàn-công nói :

- Ta đem quân sang mà trừ đi, phỗng có nên chăng ?

Trọng tôn-thu nói :

- Tội ác Khánh Phủ chưa rõ ràng, xin cứ chờ cho Khánh-phủ làm loạn sẽ giết cũng chăng muộn.

Tề hoàn-công khen phải, bỏ qua việc ấy không bàn đến nữa.

Thế rồi, thời gian trôi trong âm mưu đen tối của Khánh-Phủ.

Khánh-Phủ lúc nào cũng mong cướp ngôi nước Lỗ , chỉ vì Lỗ-mẫn Công là cháu ngoại của Tề hoàn-công, lại có Quí-hữu hết lòng phò tá nên chưa dám làm vội.

Một hôm, có quan Đại-phu Bốc-Kỳ đến chơi .

Khánh-phủ mời vào thư trang, Bốc-Kỳ mặt hầm hầm nói :

- Thế nầy thiệt quá ức !

Khánh-phủ ngạc nhiên hỏi :

- Việc gì thế ?

Bốc-Kỳ đáp :

-Tôi có một thửa ruộng tiếp giáp với thửa ruộng quan Thái-phó Thân bất-hại bị Thân bất-hại xâm lấn. Tôi vào tâu với Chúa-công để định lẽ công bằng. Chúa-công bênh-vực quan Thái-phó, bảo tôi nhường thửa ruộng ấy. Thưa Công-tử, như thế còn gì ức hiếp bằng. Nếu Công-tử nói giúp, tôi sẽ nhớ ơn suốt đời.

Khánh phủ cười lớn nói :

- Chúa-công còn bé, chưa rõ được tình đời . Đem điều phải quấy mà bàn thữuc vô ích. Nếu nhà ngươi có thể làm được đại sự ta sẽ vì nhà ngươi mà giết Thân bất-hại cho .

Bốc-Kỳ đưa mắt nhìn Khánh-phủ, tỏ ý dò xét rồi hỏi :

- Công-tử muốn phế lập .

Khánh-phủ chúm chím cười, không đáp.

Bốc-Kỳ nói tiếp :

- Nay Quí-hữu đang bĩnh-chánh, thì việc đại sự ấy không phải dễ . Nếu thất bại làm sao thoát nạn ?

Khánh-phủ nói :

- Thành bại do mưu lược và lòng cương-quyết. Nếu sợ sệt, tính toán chẳng bao giờ làm nên đại sự !

Bốc-Kỳ mỉm môi, hỏi :

- Xin Công-tử cho tôi biết ý.

Khánh-phủ nói :

- Chúa-công hãy còn trẻ tính, nhiều khi đang đêm vẫn ra ngoài phố chơi . Nếu đón đường giết đi rồi đổ tội cho quân trộm cướp có khó gì. Bấy giờ ta phụng mệnh Ai-khương quốc-mẫu mà nối ngôi lại đuổi Quí-hữu đi, thì còn ai ngăn cản.

Bốc-kỳ vâng lời, trở về nhà tìm được một võ-sĩ tên Thu-á, đưa cho một con dao gâm, sai đến phục ở ngoài cửa cung .

Đêm ấy, quả nhiên Lỗ mẫn-công ra ngoài bị Thu-á đâm một dao chết ngay tại chỗ.

Bọn thị vệ kêu ầm lên, xúm đến vây bắt Thu-á.

Trong lúc đó Khánh-phủ lợi dụng cơ hội đến tận nhà giết chết Thân bất-hại.

Quí-hữu đang ở nơi tư dinh hay tin, biết Khánh-phủ làm loạn vội vã đến gõ cửa nhà Công-tử Thân thuật lại mọi việc, rồi bàn với Công-tử Thân trốn sang nước Châu tị nạn.

Nhân dân nước Lỗ lâu nay rất tin phục Quí-hữu, nghe tin Lỗ mẫn-công bị giết , Quí-hữu phải chạy trốn, cả nước đều hậm hữuc, căm tức Khánh-phủ vô cùng, rủ nhau đến vây nhà Khánh-phủ đông như kiến.

Khánh-phủ hoảng hốt, không dám nghĩ đến việc tiếm ngôi, định trốn ra nước ngoài để tránh mối căm phẫn của dân chúng.

Lại sực nhớ đến nước Cử, trước kia Tề hoàn-công cũng nhờ mượn binh nước Cử về phục nghiệp, vả lại Văn-khương trước kia có tư thông với thầy thuốc nước Cử , nay Ai-khương là cháu, ta cùng Ai-Khương đến đó ắt dung thân được.

Bèn sắp sửa hành trang, tin cho Ai-khương biết, rồi trốn đi.

Ai-khương hay được tin Khánh-phủ bỏ trốn, cũng muốn đi theo .

Các cung nhân bàn rằng :

- Vì Khánh Phủ mà phu-nhân lỡ mang tai tiếng, lòng dân oán ghét, nay còn theo Khánh-phủ nữa e họa đến không tránh kịp. Chi bằng qua nước Châu , bàn với Quí-hữu mưu lo việc nước để tránh tiếng tăm.

Ai-khương nghe lời, bõ sang nước Châu vào xin yết kiến Quí-hữu .

Quí-hữu nghe được tin Khánh-phủ đã trốn đi, không chịu tiếp kiến Ái-khương, lập tức đem Công-tử Thân về nước.

Lúc đó Tề hoàn-công được tin nước Lỗ không có vua , liền đòi Trọng tôn-thu vào hỏi :

- Nay nước Lỗ đang rối loạn, chưa người kế vị, ta có nên nhơn cơ hội nầy đem binh đến chiếm chăng ?

Trọng tôn-thu nói :

- Lỗ là một nước trọng nghĩa, dân chúng chưa quên ơn đức Châu-công. Dẫu gặp biến cố, ta cũng không nên chiếm vội. Vả lại, Công-tử Thân là người thông minh tài trí, còn Quí-hữu cũng am hiểu việc nước, chi bằng nhân dịp nầy ta đem quân sang giúp, để tỏ ra nước ta là một nước đại nghĩa.

Tề hoàn-công nghe lời, sai quan Thượng-khanh là Cao-hề đem ba ngàn quân sang đóng nơi nước Lỗ nhắm tình hình mà định đoạt . Hễ Công-tử Thân đủ tài trị nước thì ý giao hòa, bằng không, chiếm đoạt ngay nước Lỗ.

Cao-hề tuân lệnh, kéo binh ra đi.

Vừa đến nước Lỗ thì Quí-Hữu cũng vừa phò Công-tử Thân về đến nơi.

Cao-hề thấy Công-tử Thân mặt mũi khôi ngô, nói năng đứng đắn , tỏ ý kính trọng, nên bàn với Quí-hữu lập Công-tử Thân lên ngôi, tức là Lỗ hi-công.

Lỗ hi-công nhờ Cao-hề giúp sức, đắp thành Lộc-môn để đề phòng nước Châu và nước Cử. Đoạn sai Hề-tư theo Cao-hề sang nước Tề để tạ ơn Tề hoàn-công. Lại khiến người đem lễ vật sang nước Cử, nhờ vua nước Cử giết Khánh-Phủ.

Khi Khánh-phủ chạy sang nước Cử , đã đem lễ vật cống hiến cho vua nước Cử rồi, nên mới được dung nạp, nay sứ nước Lỗ lại đem lễ vật đến nhờ giết Khánh-phủ, vua nước Cử không biết làm sao, bèn thu lễ vật, rồi nói với Khánh-phủ :

- Nước Cử tôi nhỏ mọn, binh lực yếu ớt, nếu Công-tử ở đây nước tôi mang họa. Xin Công-tử tạm tránh nơi nước khác.

Khánh-Phủ dùng-dằng không chịu đi, vua nước Cử phải sai người đến đuổi.

Khánh-phủ cùng cực nghĩ đến nước Tề, trước kia Thụ-điêu có ăn lễ mà bênh vực cho mình. Nay liều sang đó rồi sẽ liệu. Nghĩ rồi lểnh mểnh qua Tề.

Tướng giữ ải nước Tề, từng nghe tiếng Khánh-phủ là gian ác, không cho vào nước.

Khánh-phủ phải tạm trú nơi bờ sông Vạn-thủy để chờ dịp liên lạc với Thụ-Điêu.

Trong lúc đó, Công-tử Hề-tư, được lệnh Lỗ hi-công sang tạ ơn nước Tề, trở về tới Vạn-thủy gặp Khánh-phủ, bèn nói :

- Nếu đã không được nước nào cho trú ngụ thì về nước còn hơn.

Khánh-phủ buồn bã, nói :

- Quí-Hữu thấy mặt tôi ắt không dung, nếu người có thương tôi thì về trước tâu với Chúa-công nghĩ tình tiên-quân mà tha tội, tôi mới dám về.

Hề-tư từ giã Khánh-phủ trở về ra mắt Lỗ hi-Công , thuật lại lời Khánh-phủ.

Lỗ hi-công động lòng muốn tha tội cho Khánh-phủ về nước .

Quí-hữu nói :

- Nếu kẻ giết vua mà không bắt tội thì còn gì phép nước ?

Lỗ hi-công thở dài, lòng không quyết.

Quí-Hữu kêu Hề-Tư dặn nhỏ :

- Nếu Khánh-phủ chịu xử lấy mình để làm gương cho kẻ khác, ắt con cháu không mất ngôi quyền quí.

Hề-tư đến bờ sông Vạn-thủy, định vào ra mắt Khánh-phủ, nói rõ sự tình, nhưng xét thấy mình không đủ can đảm bắt người tự-vận nên đứng ngoài cửa khóc lớn.

Khánh-phủ nghe tiếng khóc của Hề-tư, biết mạng mình không thể bảo toàn được, ngước mặt lên trời than dài, rồi mở dây lưng thắt cổ tự vận.

Hề-Tư trở về báo tin với Lỗ hi-công.

Lỗ hi-Công buồn bã thở dài.

Bỗng có quân vào báo :

- Nước Cử sai tướng Doanh-nô đem binh đánh Lỗ, đòi tiền lễ tạ về cái chết của Khánh-phủ.

Quí-hữu nói :

- Người nước Cử đã không bắt Khánh-phủ, nay nghe Khánh-phủ chết lại đến đòi tiền công là lý gì ?

Nói xong, tâu với Lỗ hi-công xin đem quân ra đánh .

Lỗ hi-công cởi thanh bửu-kiếm trao cho Quí-hữu nói :

- Đây thanh bửu-kiếm nầy gọi là Mạnh-lao, tuy dài không được một thước, nhưng lưỡi bén lắm, nó là một bảo vật, xin biếu cho thúc-phụ.

Quí-hữu đeo kiếm vào lưng, cúi lạy tạ ơn, rồi dẫn quân thẳng đến đất Lịch-trì mà cự với tướng Doanh-nô.

Đến nơi, tướng Doanh-nô đã bày trận sẳn sàng .

Quí-Hữu nhủ thầm :

- Chúa ta mới lên ngôi, uy thế chưa vững, nếu rủi ro bị thất trận ắt lòng dân không phục. Vả lại tướng Doanh-nô là người hữu dõng vô mưu, ta phải dụng kế mới thắng nỗi .

Quí-hữu liền tiến ra giữa trận, kêu Doanh-nô nói :

- Nơi chiến trường, quân sĩ là những kẻ vô tội chết oan để bồi đắp danh tiếng cho chủ tướng. Hôm nay ta không muốn như thế. Ngươi vốn là một hổ tướng, nếu có tài hãy cùng ta bõ hết vũ khí đánh bằng tay không, nếu ai thắng sẽ định đoạt số phận kẻ bại.

Doanh-nô cười lớn, nói :

- Lỗ tướng ! Ta chưa hề thầy tướng nào ra trận với ý định lạ lùng đó. Nhưng thôi, dẫu ngươi muốn đánh bằng cách nào ta vẫn không sợ.

Nói xong, truyền quân sĩ dang ra hai bên, rồi cùng với Quí-hữu đấu võ.

Hai người đánh với nhau hơn năm mươi hiệp, bất phân thắng bại .

Quí-hữu có một đứa con trai tên Hạnh-Phủ, lúc bấy giờ mới lên tám tuổi, nhưng có ý kiến ngộ nghĩnh lắm, do đó Quí-hữu yêu mến vô cùng, đi đâu cũng đem theo.

Hạnh-phủ thấy cha mình không thắng nỗi tướng Doanh-nô liền gọi lớn :

- Thanh Mạnh-lao ở đâu sao không dùng đến nó ?

Quí-Hữu nhớ lại thanh gươm báu đeo bên mình, liền sụt lại một bước chờ cho Doanh-nô chồm tới, rút lưỡi kiếm chém sả một nhát.

Đầu Doanh-nô toét từ trán xuồng đến vai, mà thanh kiếm không vấy giọt máu nào . Thật là một thanh gươm sắc bén phi-thường .

Quân binh nước Cử thấy chủ tướng mình đã thác, bỏ chạy rồi .

Quí-hữu đắc thắng thâu quân trở về.

Lỗ hi-cỗng thân hành đón tiếp thưởng một chung ngự tửu, phong cho Quí-hữu làm Thượng-tướng, lại thưởng cho đất Phí-ấp.

Quí-hữu tâu :

- Tôi cùng Khánh-phủ và Thúc-nha đều là cháu của tiên-công nay vì nước phải ép Thúc-Nha uống thuốc độc, buộc Khánh-Phủ thắt cổ , nếu cho đó là công trạng, hưởng lấy lộc nước thật xấu hổ với lương tâm, tôi chẳng dám nhận lãnh.

Lỗ hi-công thông cảm nỗi lòng trung nghĩa của Quí-hữu nói :

- Thế thì khanh muốn thế nào ?

Quí-hữu nói :

- Khánh-phủ và Thúc-nha tuy phạm tội với nước nhưng con cháu không can hệ gì, xin Chúa-công tặng phong cho con cháu để gánh vác việc nước.

Lỗ hi-công y lời, phong cho con Khánh-Phủ ở đất Thành-ấp tức dòng Mạnh-tôn, phong cho con Thúc-nha ở đất Hậu-ấp, tức dòng Thúc-tôn, phong cho Quí-hữu đất Phí-ấp, tức dòng Quí-tôn. Ba dòng Mạnh, Thúc, Quí đều cầm quyền-chính nước Lỗ gọi là Tam hoàn .

Chỉnh đốn xong nước Lỗ, Lỗ hi-công cho người sang viếng nước Tề để kết thêm tình giao hảo.

Tề hoàn-công nghĩ đến Ai-khương là gái nước Tề, nay lại trốn sang nước Châu ấy là điều xấu hổ, liền hỏi Quản-trọng :

- Lỗ hoàn-công và Lỗ mẫn-công đều bị chết do tay Văn-Khương và Ai-khương, gái nước Tề, nếu không trừng phạt e xấu lây đến quốc-thể .

Quản-trọng nói :

- Tuy hai người ấy là gái nước Tề song đã gả về Lỗ rồi, hễ con gái xuất giá tùng phu, hành động đâu còn liên quan đến cố quốc. Nếu Chúa-công muốn trị tội cũng được, nhưng phải âm thầm thì hay hơn.

Tề hoàn-công liền sai Thụ-điêu sang nước Châu đưa Ai-khương về Lỗ.

Ai-khương tuân-lệnh, đi đến đất Di-địa thì trời vừa xẩm tối phải tìm quán xá nghỉ ngơi.

Thụ-điêu nói với Ai-khương :

- Phu-nhân một tay làm hại hai vua, nay còn mặt mũi nào về Lỗ. Chi bằng tự xử lấy mình là hay hơn.

Ai-khương nghe nói, quay lưng vào phòng đóng cửa lại.

Đêm ấy Thụ-điêu nghe tiếng khóc sụt sùi suốt đêm trường. Mãi cho đến lúc trời hừng sáng mới dứt.

Thụ-điêu chờ mãi không thấy Ai-khương ra liền xô cửa vào xem, thấy Ai-khương đã treo cổ tự vận . Máu hồng còn ướt đẫm, đôi dòng lệ chưa nhòa .

Thụ-điêu lập tức sai người qua nước Lỗ phi-báo.

Lỗ hi-công đưa linh cữu Ai-khương về nước tống táng, và tin cho Tề hoàn công hay.

Tề hoàn-công tuy cũng có động lòng nhưng không lấy thế làm buồn bã.

Lúc bấy giờ, mọi việc trong nước Tề hoàn-Công đều giao cho Quản-trọng gánh vác, còn mình chỉ uống rượu, hoặc săn bắn để hưỡng lạc.

Một hôm, Tề hoàn-Công đi săn nơi Đại-trạch, có Thụ-điêu theo hầu.

Bỗng Thụ-điêu thấy Tề hoàn-công mặt mày ngơ ngác, đôi mắt chăm chăm, đứng nhìn sững về một hướng.

Thụ-điêu lấy làm lạ, hỏi :

- Chúa công nhìn thấy gì vậy ?

Tề hoàn-công nói :

- Ta vừa trông thấy một giống ma quỉ, hình thù rất ghê sợ vụt chốc lại biến đi mất, chắc là điềm không tốt.

Thụ-điêu nói :

- Ma quỉ thuộc về âm, lẽ nào lúc ban ngày lại hiện lên được ?

Tề hoàn-công nói :

- Ngày trước tiên-quân ta cũng đi săn trong lúc ban ngày, thấy beo mà bõ mạng. Ngươi mau mời Trọng-phụ ra đây ta hỏi.

Thụ-điêu nói :

- Quản-trọng làm gì biết được chuyện ma quái ?

Tề hoàn-công nói :

- Ngày trước đi đánh Cô-trúc, Quản-trọng đã đoán biết được thần Du-nhi, thì ắt cũng biết đưa giống ma quỉ chớ chẳng không.

Thụ-điêu thưa :

- Trước kia Chúa-công tả hình dáng thần Du-nhi nên Quản-Trọng phỏng theo đó nói càn, để Chúa-công an lòng đi đánh Cô-trúc . Nay Chúa-công muốn thử tài Quản-trọng, Chúa công đừng nói rõ hình dáng, nếu Quản-trọng biết được mới thực là thánh.

Tề hoàn-công nghe lời thâu quân trở về. Tối hôm đó vì quá sợ sệt nên Tề hoàn-công sanh bệnh sốt.

Rạng ngày, các quan chầu chực đủ mặt để vấn an .

Tề hoàn-Công hỏi Quản-trọng :

- Hôm qua nơi Đi-trạch, ta thấy một giống ma quỉ hiện lên chẳng hay khanh có biết được đó là giống gì chăng ? Hình dáng ra sao ?

Quản-trọng không biết trả lời sao, xin hẹn lại đễ suy xét.

Thụ-điêu tủm tỉm cười bước đến nói với Tề hoàn-công :

- Tôi đã biết Quản-Trọng không phải là vị thánh.

Tề hoàn-công mỗi ngày một đau nặng.

Quản-trọng rất lo lắng sai người yết bãng khắp nơi, hễ ai biết mà nói được hình dáng giống ma quỉ mà Tề hoàn-công đã thấy thì được trọng thưởng.

Yết bảng chưa được ba ngày, có một người mặc áo rách, đội nón mê, xin vào yết kiến.

Quản-trọng cho vào hỏi :

- Ngươi biết được hình dáng ma quỉ sao ?

Người ấy thưa :

- Không có giống ma quái nào tôi không thạo. Xin ngài cho tôi được phép vào yết kiến Chúa-công.

Quản-trọng vội vã đưa vào cung, giữa lúc Tề hoàn-công đang ngồi trên long sàng, có hai thị-nữ đấm bóp và Thụ-Điêu đang dâng nước trà.

Quản-trọng thưa :

- Có người nói được hình dáng ma quái, tôi đã đem đến đây , xin Chúa-công cho phép yết-kiến.

Tề hoàn-công cho vào.

Người ấy quì móp trước long- sàng, cúi đầu thi lễ .

Thấy người áo rách, nón mê, Tề hoàn-công có ý khinh dễ, hỏi :

- Một kẻ quê mùa như ngươi lại có thể biết được chuyện ma quái sao ?

Người ấy tâu :

- Chúa-công gặp ma quái nơi đâu ?

Tề hoàn-công nói :

- Ta thấy giống ấy nơi Đại-trạch, lúc ban ngày.

Người ấy nói :

- Chúa-công tự làm hại lấy mình, chứ ma quái đâu có làm hại được Chúa-công.

Tề hoàn-công hỏi lớn :

- Nhà ngươi bảo rằng không có ma quái sao ?

Người ấy tâu :

- Hạ thần vẫn cho là có ma quái, như ở dưới nước có giống Võng-ượng, ở gò thì có giống Trăn, ở núi thì có giống Quỉ, ở đồng bằng thì có giống Bàng-hoàng, còn nơi Đại-trạch thì chỉ có giống Uy-đà mà thôi.

Tê hoàn-công hỏi :

- Giống Uy-đà hình dáng thế nào ?

Người ấy thưa :

- Giống Uy-đà to lớn như người, mặc áo đỏ đội mũ đỏ. Giống ấy sợ tiếng xe chạy. Hễ nghe tiếng xe chạy rầm rĩ thì ôm đầu mà đứng. Ai trông thấy giống ấy tất dựng nên nghiệp bá đặng .

Tề hoàn-công nghe xong, vùng đứng dậy, nét mặt tươi tỉnh, không còn đau đớn gì cả, nói :

- Chính ta đã thấy giống ấy, nhà ngươi tên gì ở đâu mà lại có tài xét đoán như vậy ?

Người ấy nói :

- Tôi tên Hoàng-tử, một kẻ nông phu sống nơi cõi Tây nước Tề.

Tề hoàn-công nói :

- Nhà ngươi ở đây ta sẽ phong cho nhà ngươi làm chức Đại-phu.

Hoàng-tử từ chối, nói :

- Tôi không muốn làm quan, chỉ mong Chúa-công sửa sang chính trị, trừ gian diệt nịnh, làm cho nước mạnh dân giàu, khiến cho tôi được yên nghiệp làm ăn là tôi mãn nguyện rồi.

Tề hoàn-công khen là người cao sĩ, ban cho thóc lúa, rồi sai người đến tận nhà viếng thăm.

Lại thưởng cho Quản-trọng rất hậu .

Thụ-Điêu nói :

- Hoàng-tử nói được chứ Quản-trọng có nói được đâu mà Chúa-công trọng thưởng ?

Tề hoàn-công nói :

- Nếu không có Trọng-phụ thì sao ta được nghe lời nói của Hoàng-tử.

Thụ-điêu không dám nói nữa .

Lúc bây giờ, nước Vệ bị nước Bắc-dịch đem quân xâm chiếm .

Vệ ý-công sai sứ sang Tề cầu cứu .

Tề hoàn-công nói :

- Quân ta mới đi đánh Sơn-nhung vừa rồi, hãy còn mệt mỏi, quân lực chưa dùng đặng. Nếu nước Vệ thấy nguy cấp nên cầu viện ở nước khác. Sứ nước Vệ nghe Tề hoàn-công nói, buồn bã ra về.

Rồi, cuối năm ấy, có quan Đại-phu nước Vệ là Ninh-Tốc sang Tề báo tin Vệ ý-công đã bị quân Bắc-dịch giết , nay phải sang đón Công tử Hủy về nước nối ngôi.

Tề hoàn-công hay tin, thở dài, nói :

- Không sang cứu nước Vệ kịp thời là lỗi tại ta !

hồi 23

Ham chim hạc, Vệ-hầu mất nước

Giận sở-vương, Tề-chúa hưng binh

Nhắc qua việc nước Vệ, Vệ ý-công lên ngôi đã chín năm trời, mà tính tình biếng nhác, chẳng lo chính sự, chỉ thích chơi một giống chim gọi là chim hạc.

Giống chim nầy tính ưa sạch sẽ, hình dung đã tao nhã lại hát hay, múa khéo.

Người trong nước thấy vua ưa thích , đua nhau bắt chim hạc đem đến dâng rất nhiều. Hễ chim nào tốt thì được Vệ ý-công phong hàm-phẩm, cấp lương bổng, chim nào đẹp thì được ăn lộc Đại-phu, xem như một triều đình chim hạc.

Mỗi khi Vệ ý-công đi chơi đâu trên các cỗ xe loan, chim hạc đậu bao quanh, gọi là Hạc tướng quân.

Các người nuôi hạc lúc bấy giờ ăn lương rất hậu. Triều đình phải thâu thuế của dân thật nặng, để đủ tiền cấp lương cho hạc .

Lúc bấy giờ việc triều chính do tay Thạch-kỳ con cháu Thạch-Thác và Ninh-tốc đảm đương. Hai người nầy là hai tôi trung liệt đã nhiều lần can gián nhưng Vệ ý-công không nghe.

Công-tử Hủy là thứ huynh của Vệ huệ-công, thấy cháu mình như vậy, biết nước Vệ một ngày nào đó tất sanh biến , bỏ sang nước Tề cư ngụ .

Tề hoàn-công chọn con gái dòng Tôn-thất gả cho, rồi cho ở luôn bên nước Tề.

Nước Vệ sang trong tình trạng ngoắc ngoải ấy mãi cho đến lúc quân Bắc-dịch đến xâm lấn bờ cõi.

Bắc-dịch là một nước cường thạnh , lâu nay có ý xâm chiếm Trung-nguyên .

Vừa rồi lại nghe Tề hoàn-công đi đánh Sơn-nhung lấy làm tức tối. Vua nước Bắc-dịch là Sưu-man, vỗ án hét :

- Quần Tề đem quân đi đánh Sơn-nhung là có ý khinh dễ nước ta lắm, nếu không nghĩ cách mà trị trước, ắt quân Tề còn dễ ngươi nữa.

Nói xong, kéo binh sang đánh nước Hình.

Tề hoàn-công toan đem binh sang cứu nước Hình , thì quân Bắc-dịch lại kéo sang đánh nước Vệ.

Lúc ấy, Vệ ý-công đang sai người đẩy xe chim bạc đi chơi, nghe báo có quân Bắc-dịch đến đánh thất kinh, hạ lệnh gọi quân đi đánh giặc.

Dân nước Vệ bỏ trốn cả, không ai dám ra đi lính.

Vệ ý-công sai quan Tư-đồ đi bắt khắp nơi mới được hơn một trăm người đem về tra hỏi.

Dân nước Vệ thưa :

- Chúa-công chỉ dùng một giống vật cũng đủ đẹp được quân Bắc-dịch, hà tất phải gọi lính làm gì ?

Vệ ý Công hỏi :

- Giống vật gì lại có thể đuổi được giặc ?

Dân nước Vệ thưa :

- Giống chim hạc !

Vệ ý-công quát mắng :

- Giống chim hạc làm thế nào mà đánh giặc, các ngươi đám dùng lời khi quân như thế sao ?

Dân nước Vệ vẫn không sợ sệt, đáp :

- Chim hạc không đánh được giặc, thì đó là vật vô-dụng thế mà Chúa-công đã dùng vật vô dụng cho hưởng ơn vua lộc nước , còn kẻ hữu-dụng lại bõ đi , như vậy làm sao trong cơn hữu-sự dân chúng không bõ trốn ?

Vệ ý-Công tỉnh ngộ, dịu giọng nói :

- Nay ta đã hối lỗi. Ta sẽ theo ý dân đuổi hết chim hạc đi.

Thạch-kỳ tâu :

- Xin Chúa-công thực hành ngay ý định ấy. Tôi e bây giờ đã trễ lắm !

Vệ ý-Công tức khắc sai người đi đuổi chim hạc, nhưng chim hạc lâu nay được nuôi nấng, quen nơi ăn, chốn ở nên cứ quanh quẩn mãi trong cung không chịu bay đi.

Thạch-kỳ và Ninh-Tốc thân hành ra đứng giữa chợ , giảng dụ dân chúng, nói rõ lòng hối hận của Vệ ý-công, dân chúng mới chịu nhập vào quân ngũ.

Thì, lúc đó giặc Bắc-dịch đã kéo đến đất Huỳnh-Trạch rồi.

Thạch-kỳ bàn với Vệ ý-công :

- Quân Bắc-Dịch mạnh lắm, chớ khinh thường. Tôi xin sang nước Tề cầu cứu, nhờ binh Tề giúp sức mới xong.

Vệ ý-Công nói :

- Ngày trước Tề phụng mệnh Thiên-tử đem binh chinh phạt nước ta. Dẵu không bắt tội, nhưng từ ấy đến nay ta chưa sang tạ tội , nay chắc gì Tề chịu đem binh đến giúp. Chi bằng ta liều quyết chiến với Bắc-dịch một phen rồi sẽ liệu.

Ninh-tốc tâu :

- Nếu vậy xin Chúa-công lo bảo vệ thành trì, để tôi đem quân ra quyết chiến cho.

Vệ ý-công nói :

- Nếu ta không thân hành ra trận, lòng quân không cởi mở được căm hờn.

Nói xong, trao cho Thạch-kỳ một cái ngọc-quyết và dặn :

- Ta giao việc nước cho khanh hãy ráng vì ta mà tận tâm.

Lại giao cho Ninh-tốc một mũi tên, rồi nói tiếp :

- Khanh khá lo việc giữ thành. Nếu không đánh được quân. Bắc-dịch ta thề không trở về.

Thạch-kỳ và Ninh-tốc đều ứa nước mắt nhìn Vệ ý-công nghẹn ngào không nói được nữa lời.

Vệ ý Công cùng với tướng Cừ-khổng khai thành, kéo quân đi .

Tuy Vệ ý-công đã ăn năn, nhưng lòng dân oán hận chưa nguôi .

Lúc đi đường, quân lính hát lên nhiều câu ngập tràn uất ức.

Hát rằng :

Hỡi chim hạc ! Hỡi chim hạc !

Lầu son bát ngát !

Chim hạc ăn lương !

Đồng rẫy ruộng nương

Dân thuờng lo cày cấy !

Hạc lai chơi bay nhảy

Xuống ngựa lên xe !

Dân khổ cực trăm bề

Khi hữu sự , bắt lê ra chiến trận

Đi phen nầy số phận mong manh.

Vệ ý Công nghe hát, lòng buồn rũ rượi.

Khi đến đất Huỳnh-Trạch trông thấy quân Bắc-dịch ngựa xe lộn xộn, hàng ngũ không chỉnh tề, Cừ-khổng nói :

- Quân lực Bắc-Dịch như vậy mà bảo rằng mạnh thì thật là lầm to.

Nói xong giục trống cho quân sĩ xáp chiến.

Quân Bắc-dịch giả thua bõ chạy, dụ quân Vệ đến chổ phục quân, đổ ra đánh.

Quân Vệ vốn không cố lòng đánh giặc, thấy quân Bắc-dịch quá mạnh hè nhau bỏ trốn.

Vệ ý-công và Cừ-khổng bị quân Bắc-dịch vây vào giữa rất ngặt .

Cừ-khổng nói với Vệ ý-công :

- Tình thế rất hiểm nghèo xin Chúa-công bõ cờ hiệu, thay đổi y phục rồi xuống xe mà chạy, may ra mới thoát được.

Vệ ý-Công thở dài nói :

- Ta thà liều chết để tạ tội với bá tánh còn hơn !

Quân Bắc-dịch vây mỗi lúc một dày thêm, các tướng Vệ lần lượt bỏ mạng, quân sĩ chết không biết bao nhiêu mà kể, máu tuôn như suối.

Vệ ý-công cầm cự đến phút cuối cùng rồi cũng chết trong đám loạn quân.

Quân Bắc-dịch bắt sống được Hoa long-hoạt và Lễ-không, giữ chức Thái-sử, theo Vệ ý-công hộ giá.

Chúa nước Bắc-dịch là Sưu-Man truyền đem chém.

Hai người nầy vồn biết tinh thần tín ngưỡng của người Bắc-dịch, nên lập kế nói dối :

- Các ngươi không muốn chiếm nước Vệ hay sao mà chém chúng ta .

Sưu-Man hỏi :

- Để chúng bây mà làm gì ?

Hoa long-Hoạt nói :

- Ta đây làm chức Thái-sử, giữ việc cúng tế . Nếu sống ta sẽ vì các ngươi mà cáo trước với thần linh, nhờ thần linh giúp sức thì mới chiếm nước được.

Sưu-Man tin thực, tha cho hai người lên xe về thành.

Lúc ấy Ninh-tốc đang tuần phòng trên mặt thành thấy Hoa long-hoạt và Lễ Không hơ hải chạy về, thất kinh hỏi lớn :

- Chúa-công đâu ?

Hoa long-hoạt và Lễ-không nói :

- Quân ta tan vỡ, Chúa-công bõ mình rồi ! Quân giặc mạnh lắm hãy mau lánh nạn kẻo trễ !

Ninh-tốc mở cửa thành cho hai người vào.

Lễ-khổng vào thành. Vừa khóc vừa nói :

- Lúc ra đi có Chúa-công, lúc trở về có một mình. Âu là ta chết theo Chúa-công còn hơn.

Nói xong, rút gươm đâm vào cổ tự vận.

Hoa long-hoạt nói :

- Ta làm chức Thái-sử, giữ sổ bộ, không nên liều mình bõ sách sử thất lạc.

Liền vào nhà Thái-miếu ôm tất cả sách sử đem ra.

Thạch-kỳ và Ninh-tốc đưa cung quyến của Vệ ý-công và Công-tử Thân đi trốn.

Hoa long-hoạt cũng ôm sổ sách đi theo.

Dân chúng nước Vệ hay tin hai quan Đại-phu Thạch-kỳ, Ninh-tốc đã bỏ trốn, đều bồng con, dắt vợ bỏ nhà ra đi, tiếng kêu khóc rất thảm thiết.

Hay tin thành nước Vệ bõ trống, quân Bắc-dịch kéo vào, một mặt đốt phá cung thất, vơ vét của cải, giết người cướp của, một mặt cho tướng theo Thạch-kỳ và Ninh-tốc truy nã.

Thạch-kỳ và Ninh-Tốc chạy đến sông Hoàng hà hay tin quân Bắc-dịch đuổi theo, lòng kinh hãi, tưởng không trốn thoát , may nhờ có đạo quân nước Tống kéo đến, chận quân Bắc-dịch lại, hai người mới kịp xuống đò sang sông lánh nạn.

Quân Bắc-dịch, sau khi tàn phá Kinh-thành nước Vệ, thu góp vàng bạc, thóc lúa, rồi kéo binh về nước, để lại một cảnh điêu tàn , tang tóc, thê lương.

Giữa lúc đó có quan Đại-phu nước Vệ là Hoằng-diễn, khi trước lảnh mạng Vệ ý-Công sang sứ nước Trần, nay trở về thấy nước Vệ đã bị quân Bắc-dịch phá tan-tành, lại nghe Vệ ý-công bị tử chiến nơi Huỳnh-trạch, lòng đau xót, vội vã đến Huỳnh-trạch để tìm xác Vệ ý Công .

Dọc đường, Hoằng-diễn chạy đâu đâu cũng đầy những xác chết và máu me tanh hôi không thể tả.

Đến Huỳnh-trạch, Hoằng-diễn xông vào các đống xác chết kiếm tìm.

Chợt thấy cây cờ hiệu bõ dưới đất, Hoằng-Diễn mừng thầm, nói :

- Cờ hiệu nơi đây, ắt xác Chúa-công không đâu xa.

Bèn tiến đến hai bước.

Bỗng nghe trong đống thịt người lại có tiếng rên rỉ, Hoằng-diễn bới lên xem, thì thấy một người nội thị chưa chết, bị gãy cả chân tay, đang nằm ở đây.

Hoằng-diễn hỏi :

- Ngươi có biết Chúa-công chết chỗ nào chăng ?

Người nội-thị hắt hàm qua một bên nói :

- Đây là đống thịt của Chúa-công. Quân giặc bằm nhỏ ra chính mắt tôi trông thấy. Vì vậy dầu bị gãy cả tay chân, tôi vẫn cố nằm nơi đây, đợi người nước Vệ đến mà chỉ.

Hoằng-diễn rơi lệ, hai tay bới đống thịt đã tan nát từng mảnh, chỉ tìm được một buồng gan còn nguyên vẹn mà thôi.

Bèn để buồng gan trước mặt vừa lạy vừa khóc.

Lạy xong, Hoằng-diễn nói :

- Nay Chúa-công ta bỏ xác như vầy không lấy gì mai táng. Vậy ta hy sinh tấm thân của ta làm áo quan mà tẩn liệm cho Chúa-công.

Nói xong quay lại bảo tên gia nhân :

- Sau khi ta chết, ngươi đem chôn ta vào khu vườn nầy, đợi lúc nào nước Vệ có vua mới, hãy tường trình câu chuyện nầy lại.

Đoạn cầm dao mổ bụng xách buồng gan của Vệ ý-công bõ vào .

Được một lúc thì chết.

Tên gia-nhân tuân lời dặn , đem Hoằng-diễn mai táng trong rừng, rồi sửa chữa một chiếc xe hư, đưa người nội thị về thành để dò xét tin tức trong nước.

Lúc đó, Thạch-kỳ và Ninh-tốc đã chiêu tập được một số dân chúng, đưa Công-tử Thân vệ lập lên ngôi, tức là Vệ đái-công.

Nhưng Vệ đái-công trước đây bị bịnh, lên ngôi được có mấy hôm thì từ trần.

Ninh-tốc phải sang nước Tề triệu Công-tử Huỷ về kế vị .

Tề hoàn-công sai Công-tử Vô-khuyết đem quân hộ tống Công-tử Hủy trở về , tôn lên ngôi, tức là Vệ văn-công.

Vệ văn-công vừa lên ngôi, được nghe câu chuyện Hoằng-Diễn mổ bụng làm áo quan để chôn buồng gan Vệ ý-công, lòng rất cảm động, cho người đến Huỳnh-trạch dùng vương-lễ mai táng Vệ ý-Công , rồi phong cho Hoằng-diễn và dùng con cháu Hoằng-diễn ra làm quan .

Vệ văn-công tính tinh cần mẫn, tuy làm vua vẫn đội mũ lụa xấu, mặc áo vải , ăn cơm đỏ canh rau, lại siêng năng chăm lo việc liêm chính. Vì vậy, chẳng bao lâu dân tình bớt khốn đốn .

Công-tử Vô-khuyết cho ba ngàn quân đến trấn tại Tào ấp để phòng giữ quân giặc, rồi trở về nước Tề, kể lại đạo đức của Vệ văn-công và thuật lại chuyện Hoằng-Diễn mổ bụng chôn vua cho Tề hoàn-Công nghe.

Tề hoàn-công khen :

- Một ông vua vô đạo mà có được bề tôi trung nghĩa như vậy thì nước Vệ chưa đến nỗi mất.

Quản-trọng thưa :

- Nay bắt quân sĩ đóng đồn phòng thủ cho nước Vệ thì khổ nhọc lắm , chi bằng đắp cho nước Vệ một cái thành, tuy khó nhọc một lần, song yên ổn mãi mãi.

Tề hoàn-công y lời, toan hội chư hầu sang đắp thành cho nước Vệ .

Bỗng có sứ nước Hình đến cáo-cấp , nói quân Bắc-dịch lại kéo đến đánh , xin cho quân cứu viện.

Tề hoàn-công hỏi Quản-trọng :

- Ta có nên cất binh đi cứu nước Hình chăng ?

Quản-trọng thưa :

- Sở dĩ chư hầu phục ta là vì nước ta hay cứu vớt tai nạn các nước khác. Nay đã không cứu Vệ, lại không cứu Hình nữa thì làm sao gọi là bá-chủ .

- Thế thì bây giờ nên đi đắp thành cho nước Vệ, hay đi cứu nước Hình trước ?

Quản-trọng nói :

- Cứu binh như cứu lửa, không nên duyên trì. Cứu xong nước Hình, rồi nhân tiện, đến đắp thành cho nước Vệ thì được lưỡng toàn.

Tề hoàn-Công khen phải, truyền hịch cho các chư hầu, hội nơi đất Nhiếp-bắc để cùng nhau đánh quân Bắc-dịch.

Quản-trọng lại thưa với Tề hoàn-công :

- Quân nước Bắc-dịch vừa thắng nước Vệ, thế quân đang mạnh lắm. Còn nước Hình cầu cứu, song quân lực chưa phải suy yếu. Nay ta đợi cho hai bên giáp chiến đã. Nước Hình dẫu thua trận, thì quân Bắc-dịch lúc đó cũng mệt mỏi. Ta thừa thế kéo binh đến đánh, ắt dễ thắng hơn.

Tề hoàn-Công nghe theo lời, đem binh đến nơi Nhiếp-bắc, giả cách chờ đợi binh các nước chư hầu, rồi sai người do thám tin tức nước Hình.

Quân Bắc-dịch đang lúc hung hăng, ngày đêm công thành.

Nước Hình cự không nổi, vua tôi bỏ chạy tán loạn .

Chúa nước Hình là Thúc-Nhan chạy đến trại Tề hoàn- Công cầu cứu .

Tề hoàn-công nói :

- Tôi không đến quí-quốc kịp, thật có lỗi lớn.

Nói xong, họp các chư hầu bàn mưu phá giặc .

Vua Bắc-dịch là Sưu-man chiếm được kinh thành nước Hình, vơ vét của cải, đốt phá cung điện, lòng tham đã mãn nguyện, không còn thiết gì nữa, lại nghe quan các nước chư hầu sắp sửa kéo đến, vội vã rút quân về.

Vì vậy khi các nước chư hầu đến thì chỉ còn vườn không nhà trống, cung điện hoang-tàn mà thôi.

Tề hoàn-công hỏi Thúc-nhan :

- Thành cũ còn có thể ở tạm nữa được chăng ?

Thúc-nhan thưa :

- Dân chúng đã bỏ đi quá nữa, đến trú ngụ nơi Di-nghi , bây giờ tôi phải theo ý dân, dời đô sang Di-nghi mới được.

Tề hoàn-công hội chư hầu, giúp vua nước Hình xây đắp thành lũy nơi Di-nghi, và cắp cho trâu bò, lúa thóc rất nhiều.

Vua nước Hình mến đức, ca tụng chẳng cùng.

Tề hoàn-công lại đem quân các chư hầu sang nước Vệ.

Vệ văn-Công ra khỏi thành nghênh tiếp.

Tề hoàn-công thấy Vệ văn-công đội mũ lụa xấu, mặc áo vải thô, lòng thương xót, hỏi :

- Tôi nhờ các chư hầu đến giúp cho quí-quốc xây thành, đắp lũy chẳng hay quí-quốc muốn đóng đô nơi nào ?

Vệ văn-công thưa :

- Tôi đã chọn đất Sở-khâu là nơi cát địa, có thể đóng đô được , song việc xây cất thành quách tổn phí lắm, không thể nào làm nổi.

Tề hoàn-công nói :

- Việc đó đã có tôi và các nước chư-hầu giúp sức, xin hiền-hầu chớ lo .

Nói xong, truyền các nước chư hầu đền đất Sở-khâu , đốc suất việc xây thành đắp lũy cho nước Vệ .

Tiếng đồn vang đến nước Sở .

Sở thành-vương Hùng-vận từ khi dùng Tử-văn Đầu-cầu Ô-Đồ làm Tể-tướng, chăm lo sửa sang chính-trị trong nước, mưu việc bá-chủ chư-hầu, nay nghe Tề hoàn-công cứu nước Hình , giúp nước Vệ khiến các chư-hầu mến phục, lòng áy náy không an.

Một hôm hỏi Tử-văn :

- Hiện nay các chư hầu đều quy thuận nước Tề, không biết đến nước Sở, ta thật lấy làm xấu hổ, khanh có ý chi chăng ?

Tử-văn tâu :

- Tề-hầu sửa sang việc quốc-chính đã hơn ba mươi chín năm, các chư-hầu đều tin phục. Ta khó địch nỗi với Tề. Bây giờ xin Đại-vương mở mang bờ cõi, thu phục nhân tâm, chuẩn bị lực lượng để ngày sau cùng với Tề đối địch.

Sở thành-vương nói :

- Mở rộng bờ cõi bằng cách nào ?

Tử-văn thưa :

- Nay có nước Trịnh, nằm vào giữa Nam, Bắc, làm tấm bình phong che đỡ cho các nước Trung-nguyên. Nếu Đại-vương muốn mở mang bờ cõi tất phải đánh lấy Trịnh mới được.

Sở thành-vương nói :

- Có ai vì ta ra sức đảm đương việc đánh Trịnh chăng ?

Quan Đại-phu Đầu-Chương bước ra xin đảm nhận.

Sở thành-Vương cấp cho ba vạn binh hùng, khiến Đầu-chương thẳng đường kéo sang nước Trịnh.

Nước Trịnh từ khi bị nước Sở sang quấy nhiễu ở đất Thuần-môn, ngày đêm có ý đề phòng, nay nghe binh Sở kéo đến nữa, Trịnh văn-Công sợ hãi, một mặt sai tướng tăng cường việc phòng thủ Thuần-môn, một mặt sai sứ sang Tề cáo cấp.

Tề hoàn-công hay tin hội các chư hầu bàn mưu cứu Trịnh .

Đầu-Chương kéo quân đến Thuần-môn, thấy quân Trịnh đề phòng cẩn mật, lại hay tin các chư hầu hiệp binh đến cứu liệu thế không làm gì được phải kéo binh về.

Sở thành-vương hay được Đầu-Chương chưa đánh đã lui binh tức giận, rút thanh gươm đeo mình đưa cho Đầu-liêm, bảo đi chém đầu Đầu-chương.

Đầu-Liêm là anh Đầu-chương nên khi được lệnh lòng phân vân, giấu mật lệnh vào mình, không cho ai biết, rồi lén đến cùng với Đấu-chương thương nghị.

Đầu-Liêm nói :

- Em đã trái lệnh vua không tránh khỏi tội . Nay phải tìm cách lập công chuộc tội mới được .

Đầu-Chương sụp lạy nói :

- Nếu anh tưởng tình đến em, xin anh bày kế cho.

Đầu-Liêm nói :

- Nước Trịnh thấy em kéo binh về tất không còn đề phòng nữa . Nay em phải lập tức đến đó xuất kỳ bất ý đánh một trận, may thắng đặng.

Đầu-Chương vâng lời chia quân làm hai đạo kéo đi trước.

Còn Đầu-liêm theo sau tiếp ứng.

Quan giữ thành nơi biên giới nước Trịnh là Đam-Bá , từ lúc thấy quân nước Sở không đánh mà rút về , có ý trễ biếng. Bất ngờ nay Đầu-chương lại kéo đến nữa không còn để phòng kịp, bị Đầu-Chương hãm thành bắt sống trên lưng ngựa, còn quân sĩ chết hơn quá nữa. hừa thắng, Đầu-chương kéo quân thẳng đến vây thành nước Trịnh.

Được hai ngày, Đầu-liêm bàn với Đầu-chương :

- Ta chỉ cốt lập công để chuộc tội chết, nay thắng trận như vầy cũng đã đũ , không nên khinh thường đóng quân trên đất địch lâu.

Hai anh em liền rút quân về.

Đầu-chương vào yết kiến Sở thành-vương và tâu :

- Khi trước tôi lui binh về cốt là để lập mưu đánh lừa giặc chứ không có ý khi quân hay sợ giặc xin Đại-vương xét lại.

Sở thành-vương nói :

- Ngươi đã thắng giặc, bắt được tướng Trịnh, tội ấy có thể dung tha. Nhưng tại sao nước Trịnh chưa chịu đầu hàng mà ngươi đã kéo binh về ?

Đầu-Chương nói :

- Tôi sợ quân ít, không đánh nổi nước Trịnh làm tổn thương đến uy-danh nước Sở nên phải rút binh về.

Sư thành-vương nổi giận hét :

- Nếu đổ thừa cho quân ít thì quả ngươi đã sợ giặc rồi ! Nay ta cấp thêm quân cho ngươi, nếu không đánh được nước Trịnh thì đừng thấy mặt ta nữa.

Đầu-Liêm bước tới, quỳ tâu :

- Xin Đại-vương cho anh em tôi cùng đi. Nếu nước Trịnh không chịu đầu hàng chúng tôi xin đem đầu Chúa Trịnh về nạp cho Đại-vương.

Sở thành-vương nhậm lời, phong cho Đầu-liêm làm Đại-tướng, Đầu-chương làm phó tướng, cấp cho mỗi người năm vạn binh ròng kéo thẳng đến nước Trịnh.

Trịnh văn-công hay được tin Đam-bá bị bắt, lại nghe quân Sở ồ ạt kéo đến nữa, hoảng hốt, sai sứ sang nước Tề cầu cứu.

Quản-trọng thưa với Tề hoàn-công :

- Mấy năm qua, Chúa-công đã giúp nước Yên, cứu nước Lỗ, lại xây thành đấp lũy cho nước Hình và Vệ. Vậy ngày nay Chúa công có thể dùng quân các nước ấy để đánh Sở được . Mà đánh Sở tức là cứu Trịnh vậy.

Tề hoàn-công nói :

- Nếu hội các chư hầu đánh Sở, nước Sở hay được tất phòng bị trước, thì khó thắng.

Quản-Trọng nói :

- Nước Sái là một nước nhỏ, tiếp giáp với Sở, trước kia có lỗi với Chúa-công. Nay Chúa-công mượn tiếng ấy đi đánh Sái, rồi kéo binh qua đánh Sở, thì nước Sở không phòng bị kịp .

Nguyên trước đây Sái-hầu có em gái là Sái-cơ, đem gã cho Tề hoàn-công làm đệ tam phu-nhân. Một hôm, Tê hoàn-công cùng với Sái-cơ chèo thuyền du ngoạn nơi ao sen, Sái-Cơ đùa bỡn, lấy tay khuấy nước làm tung vào mặt Tề hoàn-công. Tề hoàn-Công phải tránh né mãi. Sái-cơ biết Tề hoàn-công sợ nước, mới cố ý làm cho thuyền lay động, nước bắn vào ướt áo.

Tề hoàn-công nổi giận mắng :

- Tiện-tỳ, mi dám vô lễ với ta đến thế ư ?

Nói xong sai Thụ-điêu đuổi Sái-cơ về nước .

Sái-hầu thấy vậy giận lắm, nói :

- Ta đã gả em gái cho, mà còn xử bạc, xua đuổi. Thế thì còn tình nghĩa gì nữa.

Sái hầu đem Sái-cơ gả cho Sở thành-vương lập làm phu-nhân.

Từ ấy, Tề hoàn-Công đem lòng căm giận Sái-hầu.

Nay nghe Quản-trọng nhắc đến, Tề hoàn-công nói :

- Sái và Sở đáng phải trừng trị. Nay có nước Giang và nước Hoàng, cũng tiếp giáp với Sở, bị nước Sở quấy nhiễu đem lòng căm phẫn. Ta muốn cùng với hai nước ấy thề ước, và nhờ làm nội ứng phỗng có nên chăng ?

Quản-trọng bàn rằng :

- Nước Giang và Hoàng là hai nước ở xa Tề lại gần Sở. Nếu qui thuận nước ta tất nước Sở giận, kéo quân sang đánh . Chừng đó ta đến cứu thì quá xa xôi, bằng không đến cứu, mang tiếng với chư-hầu, chi bằng liên-kết với nước khác là hơn.

Tề hoàn-công nói :

- Dẫu xa xôi, nhưng họ có lòng hâm mộ về với mình, lẽ nào lại từ chối để cho họ phải thất vọng !

Quản-trọng nói :

- Nếu Chúa-công không nghe lời thì cứ xin ghi lấy lời tôi nói, sau nầy sẽ thấy điều lợi hại.

Tề hoàn-công sai mời nước Hoàng và nước Giang đền giao hòa, rồi cùng hai nước ăn thề, họp binh đánh Sở.

Vua nước Giang và nước Hoàng bàn với Tề hoàn-công :

- Lâu nay nước Thư vốn giúp cho nước Sở thi hành nhiều điều tàn ác. Ấy vậy, nên đánh nước Thư trước để chặt vây cánh.

Tể hoàn-công y lời viết một phong thư sai người đem đến nước Từ. Nước Từ vốn là một nước tiếp giáp với nước Thư. Vua nước Từ gả con gái cho Tề hoàn-công làm đệ nhị phu-nhân, lâu nay vẫn tùng phục nước Tề, nên nay Tề hoàn-công khiến hưng binh sang đánh nước Thư. Vua nước Từ được lệnh hưng binh .

Chẳng bao lâu lấy được nước Thư .

Tề hoàn-công bảo vua nước Từ đóng quân ở Kinh-thành Thư , phòng khi cấp biến .

Giữa lúc đó, Tề hoàn-công lại tiếp sứ nước Lỗ sang thương nghị.

Sứ nước Lỗ là Quí-hữu vào ra mắt và tâu :

- Nước tôi có hiềm khích nước Châu và nước Cử, nên trước đây không sang đắp thành cho nước Vệ và nước Hình. Nay nghe tin quí quốc hội với nước Giang và Hoàng, sắp sửa tranh chiến , Chúa-công tôi xin đem binh giúp sức.

Tề hoàn-công nghe nói, mừng rỡ đem việc đánh Sở mật ước với Lỗ.

Lúc bấy giờ nước Sở đang đem quân xâm chiếm nước Trịnh, vây thành rất ngặt.

Trịnh văn-công muốn xin giảng hòa để cứu dân nước khỏi cảnh lầm than.

Quan Đại-phu Khổng-thúc can :

- Xin Chúa-công hãy chậm rãi . Nước Tề đang chuẩn bị đánh Sở , mục-đích để cứu Trịnh. Ta nên cố thủ chờ xem.

Trịnh văn-công nghe lời, sai người cáo cấp với Tề hoàn-công.

Tề hoàn-công lập tức hội chư hầu, mượn cớ đánh Sái, để đem quân phạt Sở .

Tề hoàn-công phong cho Quản-trọng làm Đại tướng, lại khiến Thụ-điêu đem quân sang đánh nước Sái trước.

Nước Sái lâu nay vốn cậy Sở không phòng bị gì cả. Khi thấy Thụ-điêu kéo quân đến, mới vội vàng đem quân chống giữ.

Sái hầu thấy Thụ-điêu bỗng nhớ lại Thụ-điêu trước kia là người hầu hạ Sái-cơ trong cung Tề , là một kẻ tiểu-nhân, bèn sai người đem vàng lụa đến cống lễ , để nhờ Thụ-điêu hoãn binh.

Thụ-điêu nhận lễ vật rồi đem các điều dự tính của Tề hoàn-công hội chư hầu, trước đánh Sái sau đánh Sở nói cho nước Sái biết, bảo Sái hầu phải đem gia quyến lánh nạn kẻo bị diệt vong .

Sứ tề tâu lại , Sái hầu thất kinh, nội đêm ấy bỏ thành, dắt cung quyến chạy sang nước Sở.

Dân trong thành thấy vua bỏ trốn tức khắc tìm đường lánh nạn.

Thụ-điêu kéo quân vào thành, sai người về phi báo với Tề hoàn Công xưng tụng công lao của mình.

Còn Sái-hầu trốn sang nước Sở. Vào ra mắt Sở thành-vương thuật lại những lời nói của Thụ-điêu.

Sở thành-vương biết được mưu kế của Tề hoàn-công, liền ra lệnh cho quân sĩ canh phòng khắp nơi cẩn mật.

Lại sai người sang nước Trịnh bão Đầu-chương rút quân về.

Mấy hôm sau, đại binh của Tề hoàn-công kéo đến nước Sái.

Thụ-Điêu đem quân ra nghênh tiếp, bảy nước chư-hầu cùng đến một lượt quân bị rất chỉnh tề.

Bảy nước ấy là :

1- Tống hoàn-công (Ngự-thuyết)

2- Lỗ hi-công (Thân)

3. Trần tuyên-công (Xử-Cựu)

4- Vệ văn Công (Hủy)

5- Trịnh văn-công (Thiệp)

6.- Tào chiêu-công (Ban)

7- Hứa mục-công (Tân-thần) .

Bảy nước ấy chịu dưới quyền điều khiển của Tề hoàn-Công , Tiểu-bạch làm Minh-chủ.

Lúc ấy Hứa mục-công đang bịnh nhưng cũng ráng đem quân hội nơi nước Sái . Vì vậy, khi đến nơi, Hứa mục-công lâm bịnh nặng bỏ mình.

Tề hoàn-công cảm tình ấy phong cho nước Hứa được đứng trên hàng nước Tào.

Đóng quân nơi nước Sái được ba ngày, an táng Hứa mục-công xong.

Tề hoàn-công cử đại binh thẳng đường kéo qua nước Sở .

Vừa đến biên giới nước Sở, bống thấy một người mũ áo chỉnh tề khép nép bên đường, cúi chào Tề hoàn-công hỏi :

- Ngài có phải Tề-hầu chăng ? Tôi là sứ-thần nước Sở, chờ ngài nơi đây đã lâu.

Nguyên người ấy là Khuất-hoàn , hiện làm quan Đại-phu nước Sở . Nay vâng lệnh Sở thành-vương đến để thuyết khách .

Tề hoàn-công lấy làm lạ, hỏi Quản-trọng :

- Tại sao nước Sở biết được quân ta đến đây mà cho người ra đón ?

Quản-trọng nói :

- Tất có kẻ nào đem mưu kế của ta tiết lậu cho người nước Sở biết. Tuy nhiên nay đã có thuyết khách của Sở đến đây, xin Chúa-công cho phép tôi dùng đại nghĩa mà nhắn nhủ vài lời, làm cho nước Sở phải nhục nhã phục tùng, khỏi dùng đến binh lực cũng nên .

Nói xong bước ra tiếp kiến Khuất-Hoàn.

Hai người chắp tay cùng thi lễ.

Khuất-hoàn nói :

- Chúa-công tôi hay tin quí quốc đem binh đến nên sai tôi thưa với quí-quốc vài lời. Tề với Sở ai có nước nấy. Nước Tề ở Bắc-hải, nước Sở ở Nam-hải cách nhau vạn dặm, cớ gì lại đem binh xâm phạt ?

Quản-trọng nói :

- Ngày xưa vua Thành-vương nhà Châu phong cho Tiên-quân ta nước Tề là Thái-công , có dặn Hễ nước nào không chịu mệnh nhà Châu , nước Tề có quyền đem binh vấn tội . Từ khi nhà Châu thiên sang Đông Đô, các nước chư hầu đều chểnh-mảng không theo vương-lệnh. Chúa ta phụng mệnh Thiên-triều giữ quyền Minh-chủ. Nay nước Sở bỏ lệ hàng năm cống hiến nhà Châu, mặc dầu chỉ một xe cỗ thanh-mao mà không giữ lễ. Như thế nước Sở không có lỗi sao ?

Khuất-hoàn nói :

- Từ lúc nhà Châu suy yếu, các nước đều bỏ lệ triều cống đâu phải riêng gì nước Sở. Nếu quí-quốc cho đó là một tội lỗi thì thật là đáng buồn cười.

Nói xong, cười lớn rồi quay xe trở về.

Quản-trọng nói với Tề hoàn-công :

- Người nước Sở rất tự cao, tự đắc không thể dùng lời chinh phục được, phải dùng binh lực để thị uy mới xong .

Tề hoàn-công truyền các nước tấn binh, đến đánh nơi Kinh địa .

Sở thành-Vương cũng không nhịn, phong Tử-văn làm Đại-tướng , đem quân ra đóng nơi đất Hán-nam để chống với quân các chư hầu .

Tử-văn nói với Sở thành-vương :

- Quản-trọng là một người giỏi binh-pháp, nay đem quân các nước chư hầu đến đây tất đã có sẵn mưu kế , xin Chúa-công cho một người nữa đến dò xét binh tình rồi sẽ tuỳ liệu.

Sở thành-vương nói :

- Bây giờ phải sai ai ?

Tử-văn nói :

- Khuất-hoàn đã biết mặt Quản-trọng, vậy cứ sai Khuất-hoàn đi một phen nữa.

Sở thành-vương chưa có ý kiến, Khuất-hoàn đã nói :

- Lần trước tôi đã gặp Quản-Trọng nhưng không bàn luận được gì, nay đi nữa cũng chẳng ích chi. Nếu Đại-vương muốn hoà , tôi sẽ lựa lời đáp ứng, còn nếu muốn đánh, xin Đại-vương sai người khác.

Sở thành-vương nói :

- Đánh hay hoà là tuỳ ở tình-hình địch quân. Ta giao cho ngươi quyền xét đoán ấy, để định liệu việc nói năng .

Khuất-hoàn phụng-mệnh sang trại Tề thương thuyết.

hồi 24

Tề hoàn-công lấy lòng đãi sứ Sở

Hội chư-hầu nhất dạ phục vua Châu

Khuất-hoàn đến trại Tề xin vào yết kiến.

Quản-trọng hay được tin, nói với Tề hoàn-công :

- Nước Sở sai sứ đến một lần nữa chắc là xin giảng hoà, Chúa-công nên tiếp đãi tử tế .

Tề hoàn-công cho đòi Khuất-hoàn vào.

Khuất-Hoàn quỳ móp dưới trướng tâu :

- Chúa công tôi chỉ vì không cống cỏ thanh-mao, để quí-quốc nhọc lòng đem quân đến đây thật tội rất lớn . Chúa công tôi đã biết lỗi , xin quí-quốc lui binh khỏi ba mươi dặm. Chúa công tôi sẽ tuân-mệnh .

Tề hoàn-công nói :

- Nếu vua nước Sở biết giữ bổn-phận ta còn đòi gì nữa mà không rút quân.

Khuất-hoàn lạy tạ lui ra, trở về thưa lại với Sở văn-vương :

- Tôi hứa với Tề-hầu, chịu cống hiến một xe cỏ thanh-mao, và Tề-hầu cũng đã hứa rút quân khỏi ba mươi dặm.

Sở thành-vương không tin, sai người đi thám thính .

Bỗng có quân vào báo :

- Quân các nước chư-hầu đã rút khỏi ngoài ba mươi dặm , hiện đóng nơi đất Thiệu-lăng.

Sở thành-vương nói :

- Tề-hầu chịu rút quân ấy là có ý sợ ta, ta há lại giữ lời hứa làm chi ?

Tử-văn thưa :

- Đại Vương chớ nên làm thế ! Người ta không bội tín với mình, mà mình bội tín với họ sao phải.

Sở thành-vương nín lặng, nét mặt buồn buồn.

Kế đó, sai Khuất-Hoàn đem mấy xe vàng lúa đến đất Thiệu-lăng để ban thưởng cho quân các nước chư hầu .

Lại sai sửa soạn một xe cỏ thanh-mao đem đến trình với Tề hoàn-công để đem vào triều cống Thiên-tử .

Lúc đó, Hứa mục-công đã qua đời, con Hứa mục-công là Hiệp, lên nối ngôi, xưng hiệu Hứa hi-công .

Hứa hi-công sai quan Đại-phu Bách-đà đến hội diện cùng các chư-hầu nơi Thiệu-lăng để điều khiển đoàn quân của mình.

Khuất-hoàn vào yết kiến Tề hoàn-công dâng vàng lụa để ban thưởng cho quân sĩ.

Tề hoàn-công đem phân phát cho các nước.

Khuất-hoàn lại dâng cỏ thanh-mao.

Tề hoàn-công xem xong giao trả cho Khuất-hoàn , sai sứ đem vào triều cống Thiên-tử.

Tề hoàn-công hỏi Khuất-hoàn :

- Nhà ngươi đã bao giờ được trông thấy quân lực của các nước Trung-nguyên chưa ?

Khuất-hoàn nói :

- Tôi ở nơi xa xôi hẻo lánh về cõi Nam nầy, chưa từng thấy những đạo binh hùng mạnh của Trung-nguyên , nếu Minh-công có hảo-ý, xin cho tôi được xem tường tận .

Tề hoàn-công liền đưa Khuất-hoàn đi xem các trại quân của các nước chư-hầu.

Bấy giờ quân các nước đóng liền nhau dài hơn mấy mươi dậm. Mỗi khi trại quân Tề nỗi trống hiệu, các trại chư-hầu đồng ứng tiếng, gióng lên như sấm.

Tề hoàn-công đắc ý, cười lớn , nói với Khuất-hoàn :

- Binh-lực của các nước Trung-nguyên ta như thế nầy đánh đâu mà chẳng thắng .

Khuất-hoàn nói :

- Minh-công là bá chủ Trung-quốc, dùng đạo-đưc để chinh-phục lòng người, dùng đại-nghĩa thắng thiên-hạ. Cái đó mới đáng sợ . Chư như lấy binh lực cậy oai, thì nước Sở tôi, dẫu nhỏ mọn, nhưng có Phương-thành, có sông Hán-thuỷ , thành cao, hào sâu, dẫu trăm vạn binh hùng, vị tất đã làm gì nổi !

Tề hoàn-công nghe nói, có ý hổ thẹn, bảo Khuất-hoàn :

- Nhà ngươi thật là một hiền-sĩ của nước Sở. Nay ta xin cùng vua nước Sở giữ lấy chức phận của tiên quân ta ngày xưa , nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Khuất-hoàn nói :

- Minh-công có lòng nghĩ đến Chúa-công tôi mà giảng-hoà thì còn gì may mắn hơn.

Tề hoàn-công truyền mở tiệc đãi đằng.

Sáng hôm sau Tề hoàn-Công lập đàn , để cùng với nước Sở ăn thề và lập điều ước giảng-hoà với nhau.

Quản-Trọng xin tha cho Đam-Bá về nước Trịnh.

Khuất-hoàn cũng thay mặt Sái-hầu xin lỗi với Tề hoàn-công.

Đoạn, hai bên từ giã nhau.

Tề hoàn-Công ra lệnh thu quân về nước.

Trong khi đi đường, Bảo thúc-nha hỏi Quản-trọng :

- Nước Sở tiếm xưng vương hiệu, tại sao Trọng-phụ không đem việc ấy bắt tội khi-quân lại nhận cỏ thanh-mao làm chi ?

Quản-trọng nói :

- Nước Sở tiếm xưng vương-hiệu đã ba đời. Nếu nay bắt bỏ vương-hiệu, không đời nào nước Sở chịu tuân theo. Ấy vậy, nước ta làm sao điều khiển được. Muốn điểu khiển họ, cốt yểu phải làm cho họ nghe lời mình trước đã. Mà muốn họ nghe lời mình, không gì hơn đừng để họ bất mãn mình.

Bảo thúc-nha nghĩ ngợi một lúc, rồi cũng cho là phải.

Quan Đại-phu nước Trần là Đào-Đồ, nghe tin Tề hoàn-Công đem quân về nước, liền bàn với quan Đại-phu nước Trịnh là Thân-hầu :

- Nếu để quân Tề đi qua địa giới nước Trần và nước Trịnh, thì ta phải cung-đốn lương thực, như thế đã tốn của lại mất công , chi bằng nói với Tề hầu đi về phía Đông, khiến cho nước Từ và Cử phải chịu lấy sự khó nhọc ấy thì hai nước ta mới rảnh-rang được.

Thân-hầu vốn là một kẻ nham hiểm, ngoài mặt tán thành lời nói của Đào-Đồ, nhưng trong bụng có ý cười thầm, liền bảo Đào-Đồ vào tâu với Tề hoàn-công.

Đào-Đồ bước vào ra mắt, tâu :

- Minh-công đánh Sơn-nhung nơi phía Bắc, phạt nước Sở nơi phía Nam, bây giờ nên rút quân về phía Đông, để cho các nước trông thấy oai mà sợ.

Tề hoàn-công nói :

- Nhà ngươi nói rất phải.

Được một lúc Thân-Hầu cũng vào ra mắt Tề hoàn-công, tâu :

- Minh-công đem quân chinh phạt đã lâu ngày, phải tìm cách để quân sĩ có nơi trú ngụ mà giải-lao. Nay nếu kéo binh về phía Đông rủi có nước mọi rợ nào đón đường ngăn trở, làm cho quân sĩ mệt nhọc, ta thán thì thật là điều bất lợi !

Tề hoàn-công như sực tỉnh, nói :

- Nếu không có nhà ngươi, ta đã lầm lẫn rồi .

Nói xong sai người bắt Đào-Đồ trị tội, Trần tuyên-công phải đem lễ vật xin lỗi hai ba lần Tề hoàn-công mới chịu tha. Lại khiến Trịnh văn-công phải đem đất Hổ-lao thưởng cho Thân-hầu .

Trịnh văn-công, dẫu phải nghe lời, nhưng lòng không phục.

Tề hoàn-công thấy Quản-trọng lập được nhiều công lao to tác , bèn đem đất Biền-ấp , hơn ba trăm nóc nhà của quan Đại-phu Bá-thị phong thêm cho Quản-trọng.

Sở thành-vương thấy binh Tề và các nước chư-hầu đã rút về , ý chừng muốn đem cổ thanh-mao vào nhà Châu triều cống.

Khuất-hoàn thưa :

- Ta không nên thất tín với nước Tề. Vã lại chỉ vì nước Sở ta không cống hiến nhà Châu , nên nước Tề mới được tiếng là biết tôn kính Thiên-tử. Nay nhân cơ hội nầy, ta sai vào cống hiến thì nước ta cũng chẳng kém gì nước Tề.

Sở thành-vương nói :

- Chỉ ngặt một điều nước ta đã xưng Vương-vị . Nay xưng hô thế nào cho tiện ?

Khuất-hoàn nói :

- Không hề chi. Trong tờ biểu chỉ xưng là viễn-thần cũng đủ .

Sở thành vương nhậm lời, sai Khuất-hoàn đem mười xe cỏ thanh-mao và các thư vàng lụa vào dâng vua Huệ-vương nhà Châu.

Châu huệ-vương mừng lắm, phán :

- Nước Sở lâu nay đã bỏ bổn phận, bây giờ lại biết triều phục như thế thực là phước lớn của Tiên-vương ta.

Nói rồi đem lễ-vật cáo-yết Thái-miếu, lại ban thưởng cho nước Sở rất hậu .

Khuất-hoàn lạy tạ, rồi cáo từ.

Chẳng bao lâu, Tề hoàn-công lại sai Thấp-bằng đến yết kiến Châu huệ-vương , tâu về việc nước Sở đã chịu thần phục .

Châu huệ-Vương tiếp đãi Thấp-bằng rất trọng thể.

Thấp-bằng tâu với Châu huệ-vương , xin được phép đến chúc mừng ngôi Thái-tử.

Châu huệ-vương nghe nói vẻ mặt lúng túng, trộn lẫn một ít u buồn, rồi sai người đòi Thái-tử Trịnh và Vương-tử Đái đến.

Thấp-Bằng lạy mừng xong, bái tạ ra về.

Về đến nước Tề, Thấp-bằng vào ra mắt Tề hoàn-công tâu :

- Nhà Châu sắp có loạn !

Tề hoàn-công thất kinh hỏi :

- Tại làm sao thế ?

Thấp-bằng nói :

- Người con trưởng của Thiên-tử là Trịnh, tức con bà Khương-hậu, đã lập lên Thái-tử. Nay bà Khương-hậu mất, bà thứ-hậu là Trần-vỉ, được vua yêu, sinh đặng Vương-tử Đái. Thiên-tử muốn bỏ con trưởng lập con thứ, vì vậy lúc tôi xin yết kiến, vua đòi ra cả hai người. Tôi e rằng chẳng bao lâu nhà Châu sẽ có loạn .

Tề hoàn-công vội vã đòi Quản-trọng vào thương-nghị.

Quản-trọng nói :

- Tôi có một kế, có thể giữ yên được nhà Châu.

Tề hoàn-công hỏi :

- Kế gì vậy ?

Quản-trọng nói :

- Cần gây cho Thái-tử một thế-lực mạnh mẽ. Nay viết một đạo biểu dâng lên vua nhà Châu tỏ ý các chư-hầu muốn yết-kiến ngôi Thái-tử, xin nhà vua cho Thái-tử ra hội với các chư-hầu. Hễ Thái-tử đã hội diện với các chư-hầu thì địa-vị đã được căng-co dầu muốn thay đổi cũng không được.

Tề hoàn-công khen phải, liền viết hịch hẹn với các chư-hầu sang năm họp mặt tại đất Thủ-chỉ thuộc nước Vệ, rồi lại sai Thấp-Bằng đến triều Châu , tỏ ý các chư-hầu muốn yết kiến ngôi Thái-tử để tỏ lòng tôn kính.

Châu huệ-vương không muốn cho Thái-tử đi hội, nhưng sợ thế lực nước Tề, chẳng dám từ khước.

Thấp-bằng về nước, báo với Tề hoàn-công.

Đầu năm sau, Tề hoàn-công sai Trần kính-trọng sang đất Thủ-Chỉ làm một nhà hành-cung để đón Thái-tử.

Đúng kỳ hẹn Thái-tử Trịnh đến. Các chư-hầu kéo đến lạy mừng .

Thái-tử Trịnh hai ba lần từ chối không dám nhận lễ.

Tề hoàn-công tâu :

- Chúng tôi là chư-hầu, đối với Thái-tử cũng như bề tôi đối với vua, xin Thái-tử chớ tị-hiềm.

Thái-tử Trịnh tỏ lời cảm tạ.

Rồi đêm ấy, mời Tề hoàn-công đến hành-cung, đem việc Vương-tử Đái muốn cướp ngôi thuật lại .

Tề hoàn-công tâu :

- Chúng tôi cùng các Chư-hầu ước nguyện quyết bảo vệ cho Thái tử , xin Thái-tử chớ ngại.

Thái-tử Trịnh sợ ở nơi đất Thủ-Chỉ lâu ngày làm phiền các chư hầu, nên muốn về triều.

Tề hoàn-công nói :

- Sở dĩ chúng tôi muốn lưu Thái-tử lâu ngày là muốn Thiên-tử hiểu thấu lòng lưu luyến của chư-hầu đối với Thái-tử. Nay đang giữa mùa hè nóng nực, xin đợi đến mùa thu mát trời, chúng tôi sẽ hộ giá hồi loan cũng chẳng muộn .

Châu huệ-vương thấy Thái-tử Trịnh lâu về, đoán biết Tề hoàn-Công có lòng mến phục , nên không vui . Hơn nữa, Thứ-phi Trần-Vỉ và Vương-tử Đái ngày đêm ở bên cạnh kiếm lời gièm siểm.

Nhơn lúc quan Thái-sử Chu-khổng vào yết kiến .

Châu huệ-Vương nói :

- Vừa rồi, Tề-hầu đánh được Sở, song quân-lực nước Tề cũng không hơn gì Sở. Nay Sở lại tùng phục Thiên-triều không hổn láo như trước nữa, thì Sở cũng đáng tin cậy .

Chu-khổng tâu :

- Tâu Bệ-hạ, ý chừng Bệ-hạ có điều gì bất bình nước Tề ?

Châu huệ-vương nói :

- Tề-hầu cậy thế , nhóm chư-hầu qui phục Thái-tử, như thế đã có mầm khi quân ! Ta muốn nhờ khanh đem cho Trịnh-hầu một mật chiếu, bảo Trịnh-hầu bỏ Tề theo Sở , rồi đem ý của Trẫm truyền lại với vua Sở.

Chu-khổng tâu :

- Sở về triều cống là nhờ có Tề bắt buộc, sao Bệ-hạ lại không nghĩ đến công lao của Tề-hầu.

Châu huệ-vương nói :

- Nếu các nước chư-hầu cứ tùng phục nước Tề mãi chắc gì Tề-hầu không sanh dị tâm , ý trẩm đã quyết khanh chớ bàn bạc làm chi !

Chu-khổng không dám nói nữa.

Châu huệ-vương liền viết một mật chiếu, niêm phong rất cẩn thận trao cho Chu-khổng.

Chu-khổng không hiểu trong tờ chiếu đó đã viết gì , vội vã đem đến trao cho Trịnh văn-công .

Trịnh văn-công mở ra đọc.

Chiếu rằng :

Thái-tử Trịnh bất tuân phụ lệnh, tự tập các chư-hầu mưu gây rối Thiên triều. Đó là tội bất hiếu, không thể nối ngôi được. Nay ý trẫm muốn lập Vương-tử Đái làm Thái-tử, nếu hiền-hầu bỏ Tề theo Sở , để cùng giúp Vương-tử Đái thì trẫm sẽ giao hết quyền bính cho.

Trịnh văn-công xem chiếu xong, lòng mừng thầm, nói với các quan Đại phu :

- Tiên quân ta Vũ-công , Trang-công trước kia hai đời làm Khanh-sĩ nhà Châu đến đời Lệ-công cũng có công nghiệp lớn, giúp vua Châu, nhưng chưa giữ được quyền chính. Nay vua nhà Châu lại định giao quyền cho ta, thực điều đáng mừng đó !

Quan Đại-phu Đổ-thúc can :

- Nước ta chịu ơn nước Tề , nay bõ Tề theo Sở là điều bội nghĩa. Hơn nữa, Thái-tử Trịnh được mọi người tôn sùng, nay bõ đi phò Vương-tử Đái là trái với ý-nguyện chung của mọi người, xin Chúa-công thận trọng việc nầy .

Trịnh văn-công nói :

- Theo ý Tề-hầu sao bằng theo ý Thiên-tử nhà Châu , việc phế lập là do ý Thiên-tử chứ đâu phải ý ta .

Đổ-thúc nói :

- Ngôi Thái-tử nhà Châu bao giờ cũng phải là con trưởng. Nếu lập con thứ không tránh điều rắc rồi. Xem như trước kia U-vương yêu Vương-tử Bá-Phục, vua Hoàng-vương yêu Vương-tử Khắc, vua Trang-vương yêu Vương-tử Đồi kết quả đều mang tai vạ. Nếu Chúa-công không xét kỹ e phải hối hận.

Quan Đại phu Thân-hầu cãi :

- Dù muốn dù không đó là lệnh Thiên-tử. Ta há lại trái lệnh Thiên-tử để nghe theo Tề-hầu sao ? Như vậy còn gì đạo quân thần.

Trịnh văn-công cho lời nói của Thân-hầu là phải, đêm ấy bỏ ra về không hội chư-hầu nữa.

Tề hoàn-công hay tin nổi giận, toan đem binh đánh Trịnh.

Quản-Trọng can :

- Dẫu một nước Trịnh bội ước , cũng chưa hại chi, nay xin Chúa-công cứ lập minh thệ với các nước rồi tính sau.

Tề hoàn-công nghe theo lời, lập đàn nơi đất Thủ-chỉ, để cùng với các chư hầu ăn thề , đồng tâm giúp ngôi Thái-tử .

Lời thề như sau :

Tất cả các nước chư hầu có mặt hôm nay đồng tâm giữ ngôi Thái-tử để giữ vững nhà Châu. Nếu ai đổi lòng sẽ bị đất trời tru diệt.

Ngày hôm sau các nước chư-hầu đưa Thái-tử Trịnh về nước.

Trịnh văn-công hay tin các nước chư hầu lập minh thệ, có ý lo sợ cho mình.

Kế đó Sở thành-vương sai người sang Trịnh để bàn việc giao hữu .

Trịnh văn-công lòng dụ dự không quyết, nên không tiếp sứ.

Sở thành-vương bèn tư thông với Thân-hầu , để nhờ Thân-hầu xúi giục Trịnh văn-công bỏ Tề theo Sở.

Nguyên Thân-hầu trước kia làm quan nước Sở , được Sở văn-vương yêu chuộng. Sau Sở văn-vương gần mãn phần, sợ người sau không dùng Thân-hầu nên mới cho Thân-hầu một số châu ngọc để trốn sang nước khác lập nghiệp . Thân-hầu trốn sang đất Lịch, được Trịnh lệ-công yêu dùng. Sau Trịnh lệ-công phục nghiệp mới phong Thân-hầu làm chức Đại phu nước Trịnh.

Đến lúc Trịnh lệ-công qua đời. Trịnh văn-công lên nối nghiệp, Thân-hầu vẫn giữ chức ấy.

Nay được tin nước Sở, Thân-hầu vào bàn với Trịnh văn-công :

- Ta vì phụng mệnh Thiên tử mà trái ý Tề, chỉ còn trông cậy ở nước Sở, nếu không theo Sở thì lấy đâu nương tựa ?

Trịnh văn-công nghe lời, mật sai Thân-hầu qua kết liên với Sở .

Tề hoàn-Công hay tin tức giận cử binh sang vây thành Tần-Mật của nước Trịnh.

Lúc bấy giờ Thân-hầu còn đang ở nước Sở , nghe tin ấy liền tâu với Sở thành-vương :

- Nước Trịnh sở dĩ giao kết với Sở là cậy có Sở giúp. Nếu Đại vương không đem binh cứu nước Trịnh , ắt Trịnh phải theo Tề .

Sở thành-vương triệu tập quân thần thương nghị.

Quan Tể-tướng Tử-văn tâu :

- Nước Hứa đang tùng phục nước Tề, được Tề hoàn-công rất ưu đãi , nay muốn cứu Trịnh, chỉ cần đem binh qua đánh Hứa, quân Tề tất phải rút về mà cứu Hứa.

Sở thành-Vương y lời, đem quân vây thành nước Hứa. Quả nhiên Tề bõ Trịnh kéo thẳng qua nước Hứa để cứu viện .

Nước Sở lại rút quân về.

Thân-hầu trở về nước lòng hiu hiu tự đắc, cho rằng mình đã có công phu rất lớn đối với nước Trịnh.

Qua năm sau, Tề hoàn-công lại đem quân đánh Trịnh nữa.

Quan Đại-phu nước Trần là Đào-Đồ, lúc trước theo Tề hoàn-công đi Sở có hiềm khích với Thân-Hầu, nên nay viết một mật thư sai người đem đưa cho quan Đại-phu nước Trịnh là Đổ-thúc.

Thư ấy như vầy :

Thân-hầu là một đứa ô-mị, trước kia nịnh bợ Tề-hầu được thuởng đất Hổ-lao nạp , lại ô-mị nước Sở để làm cho Trịnh-hầu phải mang tiếng thất tín. Nếu chém đầu Thân-hầu đem tạ tội, ắt quân Tề tức khắc lui về nước .

Đổ-thúc đem bức thư ấy trình với Trịnh văn-công.

Trịnh văn-công cả giận truyền chém Thân-hầu, cắt đầu bỏ vào một chiếc hộp, sai Đổ-thúc đem nạp cho Tề hoàn-công và nói :

- Ngày trước sở dĩ nước Trịnh bội ước là do Thân-hầu ô-mị , nay xin giết Thân-hầu đem dâng đầu tạ tội.

Tề hoàn-công biết Đổ-Thúc là một tôi hiền, thuận cho nước Trịnh giảng hoà.

Rồi, cũng trong năm ấy Tề hoàn-công lại triệu tập các chư-hầu họp nơi đất Ninh-mãn để kiểm điểm việc binh.

Trịnh văn-công e ngại có chiếu mệnh Thiên-tử, nên chẳng dám công nhiên đi dự mới sai con là Thế-tử Hoa đi thế.

Nguyên Thế-tử Hoa cùng với em là Công-tử Tang đều con bà Đích phu-nhân . Bấy giờ Đích phu-nhân được Trịnh văn-công yêu, mới lập Hoa lên làm Thế-tử. Sau đó, Trịnh văn-công lại lập thêm hai bà phu-nhân nữa cũng đều có con trai cả .

Cách đó chẳng bao lâu Đích phu-nhân chết. Trong cung có một nàng cung nữ tên Yên-cật, một hôm nằm mộng thấy một người đàn ông tay cầm cành hoa đến nói : Ta đây là thuỷ tổ nhà ngươi, nay cho nhà ngươi cành hoa lan nầy, mai sau sẽ sinh quí-tử, khiến cho nước nhà thịnh vượng.

Nói xong cầm cành hoa lan đưa cho Yên-cật rồi biến mất.

Yên-Cật giật mình thức dậy, đem chuyện ấy tâu với vua.

Trịnh văn-công cho là điềm tốt, ăn ở với Yên-cật, sinh đặng một trai đặt tên là Lan.

Thế-tử Hoa thấy cha mình nhiều vợ yêu như vậy, sợ ngày sau bõ mình lập người khác, mới bàn riêng với các quan Đại-phu, như Thúc-thiêm, Đổ-thúc, Sư-thúc, để bầy mưu gây uy-thế cho mình.

Nhưng các quan đều khuyên Thế-tử Hoa nên giữ lấy đạo-hiếu .

Do đó, Thế-tử Hoa không bằng lòng, tỏ ý hiềm-khích với các quan.

Đến ngày hội chư-hầu, Thế-tử Hoa vào yết-kiến Tề hoàn-công nói riêng :

- Nước Trịnh tôi ngày nay quyền binh đều ở trong tay Thúc-thiêm , Đổ-thúc và Sư-thúc định đoạt cả . Sở dĩ phụ-thân tôi bõ không đi dự hội cũng vì ba người ấy. Nếu Hiền-hầu trừ được ba người ấy thì nước Trịnh tôi mới phần phục quí quốc mãi mãi .

Tề hoàn-công đem chuyện để bàn lại với Quản-trọng .

Quản-trọng nói :

- Không nên ! Xét lời nói của Thế-tử Hoa tỏ ra một kẻ bất trung , bất tín. Thúc-thiêm, Sư-thúc và Đổ-thúc đã được tiếng là Tam-lương của nước Trịnh, ta chớ nên nghe lời mà hõng việc.

Tề hoàn-công bỏ qua không nói đến nữa. Tuy nhiên Quản-Trọng vốn ghét Thế-tử Hoa là kẻ gian-giảo, cố ý đem lời nói của Thế-tử Hoa tiết-lộ cho người nước Trịnh biết.

Trịnh văn-công hay được, đòi Thế-tử Hoa vào hỏi.

Thế-tử Hoa nói dối rằng :

- Phụ thân không qua dự hội nên Tề hoàn-công không chịu giảng hoà. Vậy thì ta nên theo nước Sở là hơn.

Trịnh văn-công đã rõ hết ngọn ngành vỗ án hét :

- Nghịch-tử , mi muốn bán nước lại còn dám nói dối với ta nữa sao ?

Nói xong, truyền giam Thế-tử Hoa vào ngục .

Thế-tử Hoa khoét tường trốn ra .

Trịnh văn-công hay được truyền đem chém.

Em Thế-tử Hoa là Công-tử Tang sợ liên luỵ liền trốn sang nước Tống , nhưng Trịnh văn-công được sai người theo giết chết.

Trịnh văn-công lại cảm nghĩa Tề hoàn Công không nghe lời Thế-tử Hoa, nên sai Đỗ-thúc đến tạ ơn .

Năm ấy Châu huệ-vương ốm nặng Thái-tử Trịnh sợ có biến loạn, nên sai quan Hạ-sĩ Vương-tử Hổ đến báo với Tề hoàn-công.

Chẳng bao lâu Châu huệ-vương băng-hà.

Tề hoàn-công nay tin , vội vả họp các chư-hầu ở đất Thao (thuộc nước Tào) làm tờ ai điếu vào triều Châu dâng lễ tế .

Mỗi nước chư-hầu phái một quan Đai-phu thay mặt, kể tên sau đây :

l. Quan Đại-nhu nước Tề : Thấp-bằng

2. Quan Đại-phu nước Tống : Hoa tú-lão

3. Quan Đại-phu nước Lỗ : Công tôn-ngao

4. Quan Đại-phu nước Vệ : Ninh-tốc.

5. Quan Đại-phu nước Trần : Viên-tuyền

6. Quan Đại-phu nước Trịnh : Tư nhân-sư.

7. Quan Đại-phu nước Tào : Công-tử Mậu.

8. Quan Đại-phu nước Hứa : Bách-đà.

Tuy mượn tiếng là điếu tang nhưng kỳ thật để làm hậu thuẫn , tôn Thái-tử Trịnh lên ngôi.

Sau lễ an-táng, Thái-tử Trịnh lên tức vị, hiệu là Châu tương-vương.

Trần-vỉ , vợ vua Huệ-vương và Vương-tử Đái lòng rất căm phẫn, nhưng sợ oai các chư-hầu không dám kinh động.

Việc nhà Châu sắp đặt đã yên, Tề hoàn-công lui về nước, định triệu tập chư hầu nơi đất Quí-khâu để bàn tính mọi việc.

Quản-trọng nói :

- Nhà Châu vừa rồi chỉ vì con trưởng , con thứ, không nhất định mà sắp bị rối loạn. Vậy Chúa-công định ngôi Thế-tử trước để khỏi di-hoạ về sau.

Tề hoàn-công nói :

- Ta có tất cả sáu con, đều là con của vợ thứ : Công-tử Võ-Khuy lớn tuổi hơn , nếu cứ lấy người hiền thì có Công-tử Chiêu. Trưởng Vệ-cơ (mẹ Công-tử Võ-khuy) hầu ta đã lâu, ta đã hứa định

lập Công-tử Võ-khuy rồi ; Dịch-nha và Thụ-Điêu hai người ấy thường thường có nói với Võ-khuy . Công-tử Chiêu là người hiền , nhưng ý ta chưa quyết, bây giờ tuỳ ý Trọng-phụ.

Quản-trọng biết Dịch-nha với Thụ-điêu là hai tên nịnh, lại là bè đảng của Trưởng Vệ-cơ , e cho ngày sau Công-tử Võ-khuy lên nối ngôi thì nội công, ngoại ứng làm loạn Quốc-chính. Công-tử Chiêu là con của Trịnh-cơ, nước Trịnh vừa mới giảng hoà với Tề , lập Công-tử Chiêu thì giữa Tề và Trịnh càng thêm thân mật.

Nghĩ như vậy, Quản-Trọng mới thưa với Tề hoàn-công :

- Hiện nay Chúa-công không có con hiền nối ngôi thì làm sao giữ được cơ-nghiệp bá-chủ. Chúa-công đã xét đoán biết Công-tử Chiêu là người hiền, thì nên lập ngay mới phải .

Tề-hoàn-công nói :

- Ta chỉ sợ Công-tử Võ-khuy cho mình là lớn tuổi hơn, sinh ra chuyện tranh giành lẫn nhau, thì biết làm thế nào ?

Quản-di-ngô thưa :

- Nay nhân dịp Chúa-công sắp đại hội các nước chư hầu ; nên chọn trong các vua chư hầu có ông nào hiền, hãy đem việc Công-tử Chiêu mà uỷ thác cho còn lo ngại gì.

Tề hoàn-công nhậm lời.

Bây giờ Tống hoàn-công là Ngự-thuyết Mật, Thế-tử Tư-phủ nhường ngôi cho Công-tử Mục-di (thứ huynh của Tư-phủ) . Mục-di không chịu làm vua. Tư-phủ phải lên nối ngôi hiệu là Tống tương-công.

Tống tương-công theo lệnh của bá chủ (Tề hoàn-công) , mặc dầu có tang vẫn đến dự hội ở đất Quí-khâu

Quản-trọng tâu với Tề hoàn-công :

- Vua nước Tống biết nhường ngôi cho người hiền là Công-tử Mục-di. Vả lại trong lúc có tang mà đi dự hội, là họ rất kính trọng nước ta. Chúa-công nên uỷ thác Công-tử Chiêu cho vua nước Tống .

Tề hoàn-công y-lời, lập tức sai Quản-Trọng đến quân-xá, để hầu chuyện trước cùng Tống tương-công .

Tống tương-công đến yết kiến Tề hoàn-công.

Tề hoàn-công tiếp đãi rất nồng hậu rồi đem việc Công-tử Chiêu ân-cần gửi gắm :

- Để giữ yên được cơ nghiệp tôi hy-vọng lòng tốt của hiền-hầu không quên chăm sóc Công-tử Chiêu, khiến cho cơ nghiệp Tề vẫn còn tồn-tại vĩnh-viễn.

Tuy Tống tương-công khiêm nhượng, không dám nhận lời , nhưng nỗi lòng đã thầm cảm lời ủy-thác của Tề hoàn-công.

Ngày hội, các chư-hầu cùng họp mặt trước đàn để vọng bái thiên-tử .

Quan Thái-tế Chu-khổng đọc lời chiếu của Thiên-tử nhà Châu

Đoạn trao phần tế cho Tề hoàn-công .

Tề hoàn-công bái lĩnh toan bước xuống ngai tạ lễ, Chu-khổng nói :

- Hiền-hầu nay tuổi đã già , xin miễn việc ấy .

Tề hoàn-công toan bố lễ tạ, Quản-Trọng vội vã nói :

- Xin Chúa-công lấy lễ nghĩa làm trọng, để nêu gương cho các chư-hầu.

Như sực tĩnh, Tề hoàn-công nói lớn :

- Dẫu Thiên-tử thương tình, song kẻ làm tôi có bao giờ vô lễ được .

Nói xong phục xuống trước đàn lạy hai lạy. Các nước chư-hầu

thấy vậy đều khâm phục.

Tề hoàn-công nhân các nước chư-hầu còn đũ mặt, tuyên đọc năm điều cấm của vua nhà Châu :

1. Không được lấp dòng nước chảy

2. Không được cấm đong thóc.

3. Không được đổi con trưởng.

4. Không được lấy tiểu thiếp làm chánh.

5. Không được cho đàn bà dự vào việc chính-trị .

Đoạn Tề hoàn-công lập thệ với các nước chư-hầu rằng :

- Phàm là nước đồng minh , phải cùng nhau giao hiếu, lúc hoạn

nạn phải cứu nhau .

Xong cuộc lễ Tề hoàn-công hỏi Chu-khổng :

- Ta nghe đời Tam Đại (nhà Hạ, nhà Thương và nhà Châu) , ngày xưa có lễ Phong-thiện, chẳng hay lễ ấy có nghĩa như thế nào ?

Chu-khổng nói :

- Đời Tam Đại làm lễ "Phong" ở núi Thái-sơn làm lễ "Thiện" ở núi Lương-phù. Lễ Phong là tế trời, lấy nghĩa trời cao, nên phải đắp đất lên mà tế. Còn lễ Thiện là tế đất, lấy nghĩa đất thắp, nên quét sạch đất mà tế, ấy là cái lễ của đời Tam-đại vậy.

Tề hoàn-công nói :

- An-ấp là thủ-đô của nhà Hạ, Bậc-ấp là thủ-đô của nhà Thương, Phong-kiều là thủ-đô của nhà Châu, chốn Đô-thành rất xa núi Thái-sơn và núi Lương-phủ , núi nầy lại nằm trong địa-giới nước ta, ý ta cũng muốn làm cái lễ ấy, các ngài nghĩ sao ?

Thấy Tề hoàn-công có ý kiêu-ngạo và tự đắc, Chu-khổng không hài lòng, liền đáp :

- Hiền-hầu cho là phải, thì còn ai dám bảo là không phải ?

Tề hoàn-công nói :

- Thôi, hoãn lại ngày mai ta sẽ bàn .

Các vua chư-hầu đều lui về tửu quán.

Chu-khổng đến nói riêng với Quản-trọng :

- Lễ Phong-thiện là cái lễ trọng thể của Thiên-tử, tôi thiết tưởng nước chư-hầu không nên nói đến. Sao Trọng-phụ không can được một câu nào ?

Quản-trọng ôn tồn đáp :

- Bản năng hiếu thắng của Chúa-công tôi, không thể nào can thẳng một cách đột-ngột được, phải tìm phương chửa lần, vậy hôm nay tôi sẽ liệu nói .

Tối đến, Quản-trọng vào yết kiến Tề hoàn-công :

- Chúa-công có thật lòng muốn làm lễ Phong-thiện không ?

Tề hoàn-công đáp :

- Đã nói, sao lại không thật !

Quản-trọng thưa :

- Lễ Phong-thiện bắt đầu có từ đời Vô hoài-thị đến đời Chu thành-vương , tất-cả 73 nhà, đều là tuân mệnh trời làm Thiên-tử, nên mới được phép làm lễ Phong-thiện.

Tề hoàn Công tỏ ý không hài lòng, nói lớn :

- Ta đây, đánh nước Sở ở phía Nam, tiến quân vào đất Thiệu-Lăng, phía Bắc đánh Sơn-nhung, Linh-chi và Cô-trúc ; phía Tây qua bãi Lư-sa đến tận núi Thái-hàng. Các chư-hầu ấy không ai đám trái ý, ba lần hội chư-hầu về việc xa, sáu lẫn hội chư-hầu về việc y thường. Dầu đời Tam-đại chịu mệnh trời làm Thiên-tử cũng không thể có một sức mạnh nào hơn ! Vậy giờ đây ta có làm lễ Phong-thiện để cho con cháu noi theo tưởng cũng là lẽ phải !

Quản-trọng nói :

- Các bậc đế-vương thời xưa lúc nào gặp điềm lành mới làm lễ Phong-thiện , nay Chúa-công bỗng nhiên tổ chức lễ ấy ắt những thức-giả sẽ chê cười .

Tề hoàn-công không nói đến việc đó nữa.

Hôm sau kéo binh về nước lọ sửa sang cung-thất rất rực rỡ , mỗi dụng-cụ của nhà vua, món gì cũng sang trọng như đồ dùng của Thiên-tử nhà Châu.

Người trong nước ai cũng chê Tề hoàn-công cố ý tiếm phạm .

Quản-trọng cũng đắp một cái đài cao ba từng gọi là "Tam qui".

Nghĩa là cả ba hạng người : Nhân dân, chư-hầu, mọi rợ đều tùng phục mình cả . Lại còn lập ra Tắc-môn để che cửa, Phạn-điếm để tiếp sứ thần các nước.

Bảo thúc-nha thấy vậy có ý nghi hoặc hỏi :

- Vua xa xỉ , mình cũng xa xỉ . Vua tiếm phạm mình cũng tiếm phạm như thế sao phải ?

Quản-trọng nói :

- Dẫu một ông vua hay một thường dần mà đã có công khổ nhọc gây dựng cơ đồ , tất có ngày phải được huởng sung sướng để bù lại công khó nhọc của mình chứ . Nếu cứ đem lễ nghĩa bó buộc đời sống mình thì ai lại không chán . Vẳ lại việc làm của tôi cũng chỉ vì Chúa-công , mà muốn chia cái tiếng chê cười của thiên hạ đó .

Bảo thúc-nha nghe nói tuy làm thinh không cãi lại, song lòng không phục .

Trong lúc đó quan Thái-Tể nhà Châu là Chu-khổng cáo biệt trở về triều.

Đi đến nữa đường gặp Tần hiến-công đi dự hội trễ.

Chu-khổng nói :

- Hội đã tan rồi sao đến bây giờ hiền-hầu mới đến ?

Tần hiến-công dậm chân, than :

- Nước tôi xa quá nên đến trễ, không được trong thay cảnh uy-nghiêm của ngày hội, thực tiếc thay !

Chu-khổng nói :

- Tôi tưởng không phải là điều đáng tiếc. Tề-hầu cậy mình có công to, tỏ ý kiêu ngạo , làm lắm điều trái đạo . Hễ trăng tròn thì phải khuyết, nước đầy tất phải tràn. Chẳng bao lâu nước Tề sẽ suy đốn .

Tấn hiến-công nghe nói quay xe trở về. Nhưng di dọc đường bị bệnh, nên về đến nước Tấn thì tạ thế.

Từ đó, nước Tấn sanh lắm điều rối loạn.

Hồi 25

Đánh nước Quắc, Tuân-tức mượn đường

Nuôi trâu giỏi , Lý-Hề làm tướng

Nhắc lại chuyện nước Tấn, Tấn hiến-công mê nàng Ly Cơ, yêu dùng bọn nịnh như Lương-ngũ, Đông-quan-ngũ, lại đem lòng ghét bõ Thế-tử Thân-sanh, yêu Hề-Tể là con trai của Ly-cơ , ý muốn lập lên ngôi Thế-tử, nhưng vì Thế-tử Thân-sanh đã lập được công trạng lại một lòng thảo thuận , nên không biết lấy cớ gì để phế được .

Nàng Ly-cơ thấy con mình chưa có địa vị , đêm ngày lo lắng, bàn với Ưu-thi :

- Bây giờ phải làm cách nào để phế Thân-sanh, lập Hề-Tể lên làm Thế-tử ?

Ưu-thi đáp :

- Hiện nay ba vị Công-tử (Thế-tử Thân-sanh, Công-tử Di-Ngô và Công-tử Trùng-nhỉ) đã ra trấn nơi cõi ngoài, phu-nhân còn sợ gì nữa ?

Ly-cơ nói :

- Tuy vậy, ba vị Công-tử đó đã trưởng thành , giữ quyền chính lâu ngày, lại được các quan trong triều kính mến, khó làm chi được .

Ưu Thi nói :

- Chi có cách là nghĩ kế trừ dần đi thì mới tiện.

Ly-cơ hỏi :

- Cần phải trừ ai trước ?

Ưu-thi nói :

- Trước hết phải trừ cho được Thế-tử Thân-sanh, vì Thân-sanh hiện được dân chúng mến phục, cho là một kẻ nhân từ, chính trực.

Ly-cơ thở dài nói :

- Làm thế nào để trừ được con người nhân-từ, chính trực ?

Ưu-thi nói :

- Đã chính-trực thì không bao giờ chịu tiếng xấu, và đã nhân-từ thì chẳng bao giờ làm hại ai. Như vậy phu-nhân tìm cách nói xấu Thân-sanh, ắt Thân-sanh không chịu nỗi. Nhưng đã mang tiếng xấu mà không muốn hại người , ắt phải tự hại mình.

Ly-cơ nói :

- Nói xấu một người hiền từ nhân đức đâu phải dễ . Làm sao người ta tin được lời mình ?

Ưu-thi nói :

- Điều đó cũng khó thực. Song nhờ tài khéo léo của phu-nhân có thể làm lay lòng Chúa-công được .

Đêm ấy Ly-Cơ khóc nức nở !

Tấn hiến-công trông thấy ngạc-nhiên hỏi :

- Vì cớ gì mà phu-nhân khóc ? Lòng quí mến của ta không làm cho phu nhân vui sao ?

Ly-cơ sụt sùi nói :

- Chính lòng quí mến của Chúa-công đã làm cho thần-thiếp sợ không được hầu Chúa-công trọn đời .

Tấn hiến-công hỏi :

- Tại sao phu-nhân lại có ý lạ lùng đó ?

Ly-cơ gạt nước mắt nói :

- Thiếp trộm nghĩ Thân-sanh là người rất mực nhân từ . Hiện nay ở đất Khúc-ốc . Thân-Sanh ra ơn với thiên-hạ . Ai nấy một lòng kính phục !

Tấn hiến-công hỏi :

- Nếu thế thì tại sao phu-nhân lại buồn . Phu-nhân không muốn Thân-sanh trở nên người tốt sao ?

Ly-cơ nói :

- Nếu chỉ có vậy, lòng thiếp mừng chưa hết, có đâu lại than khóc đêm ngày . Đàng nầy Thân-Sanh lại thường nói với mọi người rằng : Chúa-công quả say mê thiếp, tất một ngày nào đó, triều đình phải sanh biến. Mục-đích Thân-sanh thi-ân với mọi người chỉ để gây thế lực mà trừ cho được thiếp. Ấy vậy trước sau gì thiếp cũng phải chết, xin Chúa-công cứ giết thiếp đi để sau nầy khỏi phải mang tiếng với muôn dân .

Tấn hiến-công nói

-Thân Sanh là một kẻ hiền từ, nhân đức, lẽ nào lại không biết giữ hiếu đối với cha ?

Ly-cơ nói :

- Lòng nhân-từ của một kẻ tầm thường với lòng nhân-từ của một vị anh hùng không thể giống nhau . Kẻ tầm thường lấy lòng thương người làm nhân, nhưng kẻ anh hùng lấy sự yêu nước làm nhân. Tình thương cá-nhân phải hy-sinh cho tình thương tỏ-quốc .

Những kẻ đặt tình thương tổ-quốc lên trên sẽ không còn nghĩ đến gia đình bản thân nữa .

Tấn hiến-công nói :

- Dầu sao, Thân-sanh cũng không thể nào làm những việc ác , để tiếng trong thiên hạ.

Ly-cơ nói :

- Nhiều khi con giết cha, thiên hạ vẫn không cho là xấu.

Tấn hiến-Công cười to, nói :

- Phu nhân điên rồi sao . Có đời nào con giết cha mà thiên-hạ lại không chê cười ?

Ly-cơ nói :

- Ngày xưa U-vương không giết Nghi-Cửu, đuổi ra nước Thân . Sau Thân Hầu đem quân Khuyển-nhung về giết U-vương, tôn Nghi-Cửu lên làm vua tức là Châu Bình-vương , thuỷ tổ nhà Đông-châu ta . Thế mà cho đến ngày nay người ta chỉ biết điều ác của U-Vương chứ có ai chê Châu Bình-vương điều gì đâu.

Tấn hiến-công nghe nói ngẩm nghĩ một lúc rồi vén áo đứng dậy nói :

- Phu-nhân nói có lý ! Song bây giờ ta biết phải làm sao ?

Ly-cơ nói :

- Thôi thì Chúa-công nên mượn tiếng già yếu mà giao quyền quốc chánh cho Thế-tử. Như thế ắt Thế tử thoả lòng, không còn nghi ngờ Chúa-công, và hiềm thù thiếp nữa. Vả chăng trước kia Vũ-Công chiếm Khúc-ốc thu phục giang-sơn nước Tấn , nay Thế-tử Thân Sanh cũng cùng một ý đó.

Tấn hiến-công nói :

- Không thể như thế được ! Đối với các nước chư-hầu, nước ta là một nước có đủ uy-vũ. Nay không trị nỗi đứa con thì sao gọi là uy , còn chịu mất ngôi thì sao gọi là vũ. Vũ-uy mà mất đi thì thiên hạ sẽ chê cười . Thôi phu-nhân chớ lo ngại, để rồi ta sẽ tính.

Ly-cơ nói :

- Việc nầy không lo sớm e khó thành. Nay quân Xích-dịch thường đến quấy rối nước ta. Chúa-công hãy sai Thân-sanh đem quân đi đánh, để xem tài năng Thân-sanh ra thể nào. Nếu không thắng giặc, ta mượn cớ ấy mà bắt tội. Còn thắng giặc, thế nào Thân-Sanh cũng ỷ công trạng mà làm càn, bây giờ ta sẽ tìm cách nghiêm trị. Như thế vừa dẹp yên được bờ cõi, vừa thực hiện được ý muốn của Chúa-công.

Tấn hiến-công khen phải, liền truyền lệnh sai Thế-tử Thân-sanh đem quân ở Khúc-ốc đi đánh nước Xích-dịch.

Quan Thái-phó là Lý-khắc hay được, vào can :

- Thế-tử là người nối dõi nhà vua , chức vụ Thế-tử là ngày đêm hầu hạ Chúa-công, nay sai đi đánh giặc sao phải.

Tấn hiến-công nói :

- Thân-sinh đã thân chinh dẹp giặc nhiều rồi. Việc ấy không hại !

Lý-khắc nói :

- Ngày trước Thế-tử đem quân theo Chúa-công, chứ nay sai đi một mình thì không nên.

Tấn hiến-công lãnh đạm nói :

- Ta có chín người con, nào đã định ai làm Thế-tử đâu, nhà ngươi chớ can gián nhiều.

Lý-Khắc không dám nói nữa, thở dài lui ra, đem chuyện ấy thuật lại với Hồ-đột.

Hồ-đột cũng buồn bã nói :

- Thế thì nguy cho Thế-tử rồi .

Nói xong liền viết một mật thư cho người đến Khúc-ốc đưa cho Thân-sanh, khuyên Thân-sanh không nên đi đánh . Vì thắng giặc càng làm cho người ta thêm ghét, còn thua thì thiệt mạng.

Thân-sanh tiếp được thư , thở dài than :

- Phụ-Vương sai ta đi đánh giặc không phải có ý yêu ta, chỉ muốn thử lòng ta coi xem ta làm sao . Nay ta trái mệnh vua là lỗi lớn , thà đánh giặc mà chết, còn giữ được danh tiếng về sau.

Bèn đem quân sang đánh Xích-dịch.

Quân Xích-dịch cự không lại phải bỏ chạy.

Thân-sanh sai người về báo tin với Tấn hiến-công.

Ly-cơ nói :

- Thế-tử quả là người tài năng xuất chúng, bây giờ biết liệu làm sao ?

Tấn hiến-công nói :

- Thế-tử chưa có lỗi gì phải đợi dịp khác mới được .

Chẳng bao lâu có nước Ngu và nước Quắc, hai nước giáp liền với Tấn, đem quân quấy nhiểu. Đã vậy Chúa nước Quắc là Xú một người có tánh kiêu ngạo, dùng nhiều lời lẻ rất vô lễ khinh miệt nước Tấn.

Tấn hiến-công cả giận, muốn hưng binh sang đánh nước Quắc .

Ly-cơ nói :

- Sao Chúa-công không sai Thân-sanh đi . Thân-sanh là người đã được nhiều uy-danh, ắt thắng giặc dễ hơn.

Tấn hiến-công vẫn biết thế , song sợ Thân-sanh đánh thắng nước Quắc thì uy-thế càng lớn khó lòng kiềm chế nỗi, mới hỏi quan Đại-phu Tuân-tức :

- Ta có nên đánh nước Quắc chăng ?

Tuân-tức nói :

- Quắc và Ngu hai nước giao hữu nhau. Ta đánh Quắc thì Ngu tất cứu còn đánh Ngu thì Quắc tất cứu . Vậy một nước địch với hai nước tôi e khó thắng.

Tấn hiến-công hỏi :

- Nếu vậy ta cứ để cho hai nước Ngu, Quắc quấy rối mãi sao ?

Tuân-tức thưa :

- Tôi được nghe vua nước Quắc là người háo sắc, vậy Chúa-công lựa những người gái đẹp trong nước dạy nghề múa hát, cho ăn mặc rất lịch sự, đem hiến cho vua Quắc mà giảng hoà. Hễ vua Quắc được gái đẹp ắt say mê, bỏ bê triều chính, chừng đó ta đem lễ vật lo lót cho vua Khuyển-Nhung, nhờ vua Khuyển-Nhung cử binh sang đánh. Liệu chừng binh nước Quắc đã yếu, ta mới đem binh sang chinh phạt .

Tấn hiến-công y lời đem bộ nữ-nhạc dâng cho vua nước Quắc.

Vua nước Quắc mừng rỡ thu nhận .

Quan Đại-phu Chu nhi-kiều can :

- Đó là cái lưỡi câu của nước Tấn muốn câu nước ta đó, xin Chúa-công chớ thấy thế mà mừng.

Vua nước Quắc không nghe, nhất định giảng-hoà với Tấn, rồi đem đoàn nữ nhạc về nước.

Từ ấy, vua nước Quắc ngày đêm say đắm tửu sắc, không còn thiết đến việc triều-chính nữa.

Chẳng bao lâu, quân Khuyển-nhung ham lễ vật của nước Tần đem binh sang quấy nhiễu nước Quắc . Tuy-nhiên, quân Khuyển-Nhung đánh không lại, phải bỏ chạy về nước.

Vua nước Khuyển-nhung nổi giận, liền cử đại binh sang đánh .

Nước Quắc cũng không nhịn, hai bên dàn quân, lập trận nơi đất Tang-Điền, quyết tranh thắng phụ.

Tin ấy đến nước Tấn, Tấn hiến-công hỏi Tuân-tức :

- Ngày nay nước Quắc và nước Khuyển-nhung đang đánh nhau ta có nên đem binh đánh nước Quắc không ?

Tuân-tức nói :

- Tôi có một kế, có thể lấy được cả hai nước Ngu và Quắc.

Tấn hiến-công hỏi :

- Kế gì vậy ?

Tuân-tức nói :

- Ngu và Quắc hai nước giao hữu nhau. Nay ta đem lễ vật lo lót cho nước Ngu, mượn đường sang đánh Quắc. Hễ nước Ngu nhận lễ vật cho mượn đường thì sẽ không sang cứu Quắc. Mà Ngu không cứu Quắc ắt mất. Lúc đã lấy Quắc rồi thì Ngu muốn lấy lúc nào chẳng được.

Tấn hiến-Công nói :

- Kế ấy rất hay song nước ta mới giảng hoà với nước Quắc , nay lấy cớ gì gây chiến để cho nước Ngu tin.

Tuân-tức thưa :

- Giữ hoà hiếu thật khó , chứ gây xích mích có khó chi. Nay Chúa-công mật sai một số người sang biên giới nước Quắc quấy rối , thế nào nước Quắc cũng nổi giận trách móc. Ta thừa dịp ấy làm duyên cớ nói với vua Ngu.

Tấn hiến-công y kế .

Quả nhiên nước Quắc cho người sang trách , hai bên gây sự bất hoà.

Tấn hiến-công lại hỏi Tuân-tức :

- Nay phải đem lễ vật gì để dâng cho nước Ngu mà mượn đường .

Tuân-tức nói :

- Việc nầy quan hệ ! Nước ngu và Quắc lâu nay giao hữu , nếu không dâng báu vật , khó làm cho nước Ngu chấp thuận. Xin Chúa-công hãy hy-sinh vài món quý của mình.

Tấn hiến-công hỏi :

- Ý định nhà người thế nào, cứ nói cho ta nghe thử .

Tuân-tức thưa :

- Vua nước Ngu thích nhất là ngọc quí và ngựa quí. Nay Chúa-công có ngọc Thuỳ-cúc và ngựa Khuất-sản , xin đem hai món ấy dâng cho Chúa nước Ngu tất phải thành công .

Tấn hiến Công nói : .

- Hai thứ ấy là hai bảo vật quí giá của ta, lẽ nào lại đem dâng .

Tuân-tức nói :

- Mượn đường đánh nước quốc là việc lớn, nếu Chúa-công không dứt bỏ chút ít quyền lợi riêng thì sao thành công được. Vã lại hễ mượn đường được thì Ngu và Quắc ắt về tay ta, thì ngọc và ngựa có mất đi đâu mà sợ. Chẳng qua chỉ gởi tạm cho người khác giử một thời gian nào đó thôi !

Tấn hiến-Công còn đang dụ dự, quan Đại-phu Lý-Khắc nói :

- Nước Ngu có hai người tôi hiền là Cung chi-kỳ và Bá lý-hề . Hai người ấy thông minh hiểu rộng, chắc gì đã để cho vua Ngu nhận lễ vật ?

Tuân-tức nói :

- Vua nước Ngu là người tham lam , dầu có tôi hiền can gián vị tất đã nghe.

Tấn hiến-công nghe theo, liền đem ngọc bích và ngựa giao cho Tuân-Tức để sang dâng cho nước Ngu mượn đường đánh Quắc.

Thoạt đầu vua nước Ngu nghe sứ nước Tần sang mượn đường đánh Quắc nổi giận la hét om sòm, nhưng đến lúc thấy ngọc tốt và ngựa quí lại đổi giận làm vui, hỏi Tuân-tức :

- Ðó là những vật chí-bảo của nước ngươi, cớ sao lại chịu đem dâng cho ta ?

Tuân-tức nói :

- Chúa-công tôi mến lòng của hiền-hầu, nên mới đem những vật ấy mà dâng, nếu được hiền-hầu thu nhận thì Chúa-công tôi không còn gì sung sướng bằng.

Vua nước Ngu hỏi :

- Thế thì quí quốc có muốn yêu cầu ta điều chi chăng ?

Tuân-tức nói :

- Người nước Quắc thường sang quấy nhiễu bờ cõi nước tôi . Chúa-công tôi muốn dân chúng hai nước yên vui, đã nhiều phen hòa giải , thế mà nước Quắc lại sanh sự lôi thôi. Nay Chúa-công tôi muốn mượn đường quí quốc để sang đánh Quắc. Hễ đánh được Quắc rồi, thì bao nhiêu tiền của lấy được, xin hiến cho quí quốc để cùng với quí quốc giao hảo.

Vua nước Ngu có ý mừng thầm.

Cung chi-kỳ bước ra, nói :

- Chúa-công chớ nên nghe ! Xưa nay sở dĩ nước Tấn không dám quấy rối nước ta là vì nước ta giao-hảo với nước Quắc bảo vệ lấy nhau. Nay để mất nước Quắc , nước Ngu sẽ mất.

Vua nước Ngu nói :

- Vua Tấn không tiếc đồ chí bảo đem đến dâng cho ta, lẽ nào ta tiếc một lối đi nhỏ hẹp mà không thuận, vả lại thế lực nước Tấn mạnh hơn nước Quắc nhiều. Mất lòng nước Quắc mà được lòng nước Tấn thì hại gì ? Thôi, các ngươi chớ bàn bạc nhiều lời.

Cung-chi Kỳ toan nói nữa nhưng thấy Bá lý-hề nháy nhó nên thôi, cúi đầu lui ra .

Lúc bãi triều, Cung-chi Kỳ hỏi Bá lý-hề :

- Việc như vậy sao ngài không cùng tôi can vua, lại nháy nhỏ không cho tôi nói :

Bá lý-hề nói :

- Tôi thiết tưởng đem lời nói phải mà nói với người ngu chẳng khác nào đem ngọc vãi ra đường cái. Ngày xưa vua Kiệt giết Long Bàng, vua Trụ giết Tỷ-can cũng chỉ vì hai người ấy cố tình can gián. Nếu ngài không chịu nghe lời tôi ắt nguy đến tánh mạng .

Cung-chi Kỳ nói :

- Thế thì đành để nước Ngu bị mất hay sao ?

Bá lý-hề nói :

- Thà kẻ ngu chịu mất nước đã đành , còn người hiền không thể để cho kẻ ngu hại mạng.

Cung-chi Kỳ nói :

- Nếu vậy chúng ta đi nơi khác còn hơn chứ ở đây mà ích gì ?

Bá lý-hề nói :

- Ngài đi là phải, nhưng rủ thêm một người nữa cùng đi là có tội . Vậy cứ để tôi ở lại đây đã.

Cung chi-Kỳ đem cả gia quyến ra đi. Không ai biết đi đâu.

Còn Tuân-tức trở về nói với Tấn hiến-công :

- Vua nước Ngu đã nhận ngọc bích và ngựa để cho ta mượn đường rồi.

Tấn hiến-công mừng rỡ, toan cử binh sang đánh Quắc .

Lý-khắc ta ?

- Nước Quắc lấy dễ như trở bàn tay cần gì Chúa-công phải thân chinh cho mệt.

Tấn hiến-công hỏi :

- Nhà ngươi có kế gì sao ?

Lý-khắc nói :

- Nước Quắc tuy đóng đô ở Hướng-Dương, nhưng Hạ-Dương là nơi hiểm địa. Lấy được Hạ-Dương tức như đã lấy được nước Quắc rồi. Dẫu tôi hèn mạt xin đảm đương cái việc nhỏ nhặt đó cho, nếu đánh không thắng tôi xin chịu tội.

Tấn hiến-Công liền khiến Lý-Khắc làm chủ tướng, Tuân-tức làm phó-tướng, đem quân qua nước Ngu mở đường đánh Quắc .

Lý-khắc tin cho vua nước Ngu trước ngày kéo binh đến.

Vua nước Ngu ra đón tiép, và nói :

- Quí-quốc đem đồ quí-bảo đến cho tôi, ơn ấy không lấy gì đền-đáp . Nay tôi xin đem binh theo giúp sức.

Tuân-tức nói :

- Hiền-hầu đem binh theo giúp đâu bằng cho chúng tôi lấy đất Hạ-dương .

Vua nước Ngu nói :

- Hạ-dương là đất của nước Quắc do người nước Quắc chiếm giữ , tôi làm cách nào cho được .

Tuân-tức nói :

- Vua nước Quắc hiện tranh chiến với Khuyễn-nhung nơi đất Tang-điền chưa phân thắng bại. Nếu hiền-hầu giả đem binh đến giúp nước Quắc, rồi để cho quân nước Tấn tôi trà trộn vào mà lấy Hạ-dương.

Vua nước Ngu nghe lời, giả cách đem quân sang giúp nước Quắc .

Quan trấn thủ đất Hạ-Dương là Chi-chu Kiều mở cửa cho quân nước Ngu kéo sang.

Chẳng ngờ quân nước Tấn lộn vào đó , nên sau khi qua khỏi cửa thành nổi dậy đánh rất dữ.

Quân nước Quắc vỡ chạy tứ tán.

Chu-chi kiều sợ vua nước Quắc bắt tội, phải xin đầu hàng nước Tấn.

Lý-Khắc và Tuân-tức thừa thế kéo quân thẳng đến lấy Thượng-Dương.

Vua nước Quắc đang ở đất Tang-điền, hay tin Thượng-dương bị vây lập tức kéo quân về cứu. Lại bị quân Khuyễn-nhung rượt theo, đánh một trận tơi bời.

Khi về đến Thượng-Dương, vua nước Quắc luống cuống không biết làm cách nào nữa, đành phải đóng cửa thành cố thủ .

Chẳng bao lâu, lương thực hết, quân sĩ đói khát, tình trạng rất nguy ngập.

Biết không thế giữ thành được nữa, vua nước Quắc dẫn cả gia quyến bỏ trốn sang nhà Châu lánh nạn.

Tuân-tức và Lý-khắc kéo binh vào thành chiêu-an bá tánh, vơ vét kho tàng, bảo vật đem biếu cho vua Ngu.

Vua Ngu lòng mừng khôn xiết.

Kế đó, Tuân-tức một mặt cho người về nước báo tin cho Tấn hiến-công biết, một mặt kéo quân sang đóng bên thành nước Ngu giả đau, đồn binh dưỡng bệnh.

Vua nước Ngu ngỡ thật, cứ thĩnh thoáng sang thăm viếng .

Cách một tháng sau có tin Tấn hiến-công kéo binh đến.

Vua nước Ngu ngạc nhiên ra ngoài thành hỏi Tuân-tức :

- Chẳng hay Tấn-hầu đem binh đến đây có việc gì ?

Tuân-tức nói :

- Chúa-công tôi sợ chưa đánh nổi nước Quắc nên đem binh sang cứu viện.

Vua nước Ngu nói :

- Ta đã có ý muốn hội kiến với Tấn-hầu nhưng chua có dịp, nay Tấn-hầu lại đến đây thì may mắn lắm !

Nói xong vội vàng đem quân ra nghênh-tiếp.

Tấn hiến-Công rất đẹp lòng. Hai vua ân cần tâm-sự.

Chưa bao lâu, Tấn hiến-công tỏ ý mời vua Ngu đi săn bắn nơi núi Cơ-sơn.

Vua nước Ngu muốn nhân cơ hội ấy phô diển binh lực của mình nên đem cả đoàn quân giáp sĩ trong thành ra đi .

Vừa đến núi Cơ-sơn nghe tin trong thành nước Ngu phát hỏa .

Tấn hiến-công nói :

- Ðó là dân chúng vô ý, gây lửa cháy, chẳng bao lâu rồi cũng dập tắt được, có chi mà sợ.

Quan Ðại-phu nước Ngu là Bá lý-Hề mật tâu :

- Tôi nghe đồn trong thành có biến, xin Chúa-công phải về ngay mới được.

Vua Ngu vội vã xin phép Tấn hiến-Công trở về. Nhưng về được nữa đường đã thấy dân trông thành bồng con, dắt vợ chạy trong kêu khóc như ri.

Vua Ngu thất kinh, hỏi :

- Tại sao thế ?

Dân nước Ngu thưa :

- Quân nước Tấn đã chiếm mất Ðô-thành rồi.

Vua Ngu nổi giận, kéo quân thẳng về Thành-đô. Vừa đền nơi thấy một viên tướng nước Tấn, đứng trên mặt thành nói lớn :

- Ngày trước hiền-hầu cho nước ta mượn đường, thì nay cho nước ta, mượn thành để đóng quân xin hiền-hầu chớ buồn !

Vua Ngu cả giận, xua quân phá thành.

Bên trong nổi lên một hồi trống, tức thì trên thành tên bắn xuống như mưa.

Vua Ngu vội vã lui quân lại , bỗng có quân Tấn hiến-Công kéo đến đánh dồn.

Vua Ngu ngước mặt lên trời than :

- Bởi ta không nghe lời can gián của Cung chi-Kỳ nên ngày nay phải mất nước .

Nói xong, ngoảnh lại thầy Bá lý-hề đứng bên cạnh, vua Ngu trách :

- Sao trước đây ngươi không chịu can ta ?

Bá lý-hề nói :

- Chúa công đã không nghe lời Cung chi-kỳ thì có khi nào Chúa-công lại nghe lời tôi ? Tôi không can là ý muốn lưu lại cái thân nầy để theo hầu Chúa-công lúc hoạn nạn .

Vua nước Ngu vua không biết tính sao, xảy có Chu nhi-kiều là quan nước Quắc mới vừa đầu hàng Tấn, ngồi xe tiến đến .

Vua Ngu trông thấy thẹn đỏ mặt .

Chu nhi-kiều nói :

- Hiền-hầu nghĩ lầm, bõ nước Quắc tôi đó là điều đáng tiếc . Tuy nhiên, việc đã qua không nhắc đến làm chi . Nay nước Ngu đã mất, hiền hầu còn nghĩ gì mà không đầu Tấn. Vả chăng, Tấn hiến-công là một kẻ đại-lượng, sẽ không đối xử tệ bạc với hiền-hầu đâu. Xin chớ ngại !

Vua Ngu chưa biết nói sao, kế có người vâng mệnh Tấn hiến-công đến mời vua Ngu hội kiến.

Vua Ngu bắt đắc dĩ phải tuân lời .

Tấn hiến-công tiếp đón vua Ngu và nói :

- Tôi đến đây chỉ để đòi lại ngựa quí và ngọc-bích.

Nói xong, cùng với vua Ngu vào thành.

Bá lý-hề vẫn đi theo vua Ngu hầu hạ.

Có người thấy thế nói :

- Sao nhà ngươi không bõ đi, còn theo làm gì ?

Bá lý-hề nói :

- Ta làm quan, ăn lộc nước Ngu đã lâu, nay cố theo để đền ơn.

Tấn hiến-công vào thành nước Ngu .

Tuân-tức ra nghênh đón, tay trái cầm bích ngọc, tay phải dắt ngựa nói :

- Ngày nay mưu kế tôi đã thành vậy xin đem ngựa và ngọc quí trao lại cho Chúa-công.

Tấn hiến-Công rất đẹp lòng. Lại muốn bắt vua Ngu giết đi .

Tuân-tức thưa :

- Vua nước Ngu là người ngu, giết mà ích chi .

Tần hiến-công khen phải, tiếp đãi tử tế , rồi tặng cho một viên bích ngọc và một con ngựa khác, nói :

- Ta không dám quên ơn đã cho mượn đường sang đánh nước Quắc .

Ðoạn, phong cho Chu nhi-kiều làm quan Ðai-phu .

Chu nhi-kiều biết Bá lý-hề là người hiền, nên tiến cử với Tấn hiến-công.

Tấn hiến-công sai Chu nhi-kiều đến dụ.

Bá lý-hề nói :

- Bao giờ Chúa-công tôi mãn đời, tôi mới phò kẻ khác.

Chu nhi-kiều nói :

- Không chịu làm quan, phò kẻ mất nước mà ích gì ?

Bá lý-hề cười lớn, nói :

- Dẫu muốn làm quan, cũng không thể làm quan nước địch.

Câu nói ấy làm cho Chu nhi-Kiều chạm tự ái, bõ về thưa lại với Tấn hiến-công .

Giữa lúc ấy có tin sứ nước Tần đến.

Nguyên Tần mục Công là Nhâm-Hiên lên ngôi đã sáu năm mà chưa lấy vợ, nay sai Công-tử Trí sang hỏi con gái Tấn hiến-công là Bá-Cư đem về lập làm phu-nhân.

Tấn hiến-công mời vào, tiếp đãi sứ Tần rất hậu, và đồng ý gã Bá-Cư cho Tần mục-công.

Công-tử Trí lạy tạ lui về nước.

Ði đến nữa đường Công-tử Trí gặp một người , mặt đỏ như son, mũi cao, râu rậm, tay cầm cây đang cày ruộng, mà lưỡi cầy ngập xuống đến mấy thước.

Công-tử Trí lấy làm lạ, sai người nhắc cái cầy lên xem, nhưng quân sĩ không ai nhắc nỗi. Bèn hỏi người cày ruộng :

- Ngươi tên họ gì , quê quán nơi đâu ?

Người cày ruộng thưa :

- Tôi tên là Công tôn-chi, tự là Tử-Tang vốn giòng họ vua nước Tấn.

Công-tử Trí hỏi :

- Nhà ngươi có tài, tại sao lại phải đi cày ruộng ?

Công tôn-chi thưa :

- Chỉ vì không có ai tiến dẫn.

Công-tử Trí nói :

- Hay nhà ngươi theo ta sang nước Tần , ta sẽ tâu xin Chúa-công ta trọng dụng .

Công tôn-chi nói :

- Kẻ sĩ gặp người tri kỷ dầu chết cũng cam. Nếu ngài có lòng tốt tôi còn mong gì hơn .

Công-tử Trí cho Công tôn-chi cùng ngồi chung với xe mình về nước Tần, tâu với Tần mục-công .

Tần mục-công cho Công tôn-Chi làm quan Ðại-phu. Lại sai công-tử Trí đem lễ vật sang nước Tấn, cưới nàng Bá-Cư đem về nước.

Công-tử Trí phụng mệnh, bèn đi nạp lễ vật, và xin rước nàng Bá-Cư.

Tấn hiến-công hỏi các quan :

- Bây giờ nên cho ai theo hầu Bá-Cư ?

Chu-nhi Kiều thưa :

- Bá lý-hề không có ý giúp nước Tấn , lòng thực khó lường. Xin Chúa-công sai Bá lý-hề làm việc ấy .

Tấn hiến-công nhận lời sai Bá lý-hề đi theo hầu Bá-Cư.

Bá lý-hề vốn là người nước Ngu tên tự là Tỉnh-bá, lúc nhỏ nghèo khổ, ngoài ba mươi tuổi mới lấy nàng Ðỗ-thị làm vợ, sinh đặng một ngươi con trai.

Trong cảnh túng thiếu ấy, Bá lý-hề muốn đi lập công danh , song vợ con đơn-độc, không biết nhờ cậy ai, vì vậy cứ quyến luyến mãi, không rỡ dứt tình .

Ðỗ thị thấy vậy thưa :

- Thiếp nghe nói làm trai phải lập chí, nay phu quân không tìm công danh, cứ vượng bận gia đình, biết bao giờ làm lên đại sự. Phận thiếp tuy yếu đuối nhưng cũng có thể kiếm ăn được , xin phu quân đừng ngại.

Nói xong, Ðỗ-thị bắt con gà mái mập làm thịt để tiễn chân Bá lý-Hề .

-Nhà hết củi, Ðỗ-thị phải bẻ phên làm củi, nấu một nồi cơm gạo đỏ bưng cho Bá lý-hề ăn.

Bá lý-hề ăn no, từ giã vợ con ra đi .

Ðỗ-thị tay ẵm con, tay níu áo chồng, trối :

- Lúc phú-quí xin chớ phụ nhau.

Bá lý-hề sang nước Tề, muốn xin vào yết-kiến Tề tương-công nhưng không có ai tiến đẫn, đành phải đi ăn xin nơi đất Diệt (thuộc nước Tề) trong thời gian khá lâu.

Lúc đó, Bá lý-Hề đã bốn mươi tuổi.

Một hôm, lang thang nơi thôn dã, Bá lý-Hề gặp một người tên Kiên-thúc, tánh tình hiền hậu, có dạ thương người .

Kiên-thúc thầy Bá lý-hề tướng mạo khôi ngô, lấy làm lạ hỏi :

- Người như ngươi lẽ nào đến nỗi phải đi ăn xin ?

Bá lý-hề nói :

- Không gặp vận, không thể ngồi không mà có cơm ăn được.

Kiên-thúc mời Bá lý-Hề về nhà làm cơm thết đãi, rồi lưu lại trong nhà, kết làm anh em, Kiên-thúc hơn Bá lý-hề một tuổi nên Bá lý-hề gọi bằng anh.

Kiên-thúc nhà cũng nghèo nên Bá lý-hề phải đi chăn trâu thuê

cho người trong làng để sinh sống.

Ðến lúc Công-tử Vô-Tri giết Tề tương-công lên nối ngôi, treo bảng cầu hiền .

Bá lý-hề muốn ra làm quan, Kiên-thúc nói :

- Tiên-quân còn một người con trốn đi nước khác, nay Vô-Tri cướp ngôi tất không giữ được lâu.

Bá lý-hề nghe theo, không tính chuyện ra làm quan nữa.

Kế đó, nghe tin Vương-tử Đồi nhà Châu thích chơi trâu, những người nuôi trâu được ăn lương rất hậu, Bá lý-hề nói với Kiên-thúc xin sang nhà Châu tìm cơ hội.

Kiên Thúc nói :

- Kẻ trượng phu không nên khinh thường đem thân giao cho kẻ khác . Nếu làm quan với người ta, đến khi hoạn nạn lại bõ đi là bất trung, còn nếu không bỏ đi là bất trí. Em có đi phải cẩn thận trong việc đó mới được. Lúc nào anh thu xếp xong việc nhà cũng sẽ vào Kinh-đô nhà Châu để thăm em.

Bá lý-hề vào nhà Châu, yết kiến Vương-tử Ðồi, nói về cách nuôi trâu .

Vương-tư Ðồi mừng lắm toan dùng Bá lý-hề làm gia-nhân.

Gặp lúc Kiên-thúc đến thăm, Bá lý-hề đưa Kiên-thúc vào yết-kiến Vương-tử Ðồi.

Sau khi ra về, Kiên-thúc nói với Bá lý-hề :

- Vương-tử Đồi chí lớn, nhưng bất tài, lai gần gũi kẻ nịnh tất có ngày làm bậy. Chi bằng chúng ta bỏ đi là hơn.

Bá lý-hề nói :

- Em xa cách quê hương đã lâu ngày, nay trở về nước Ngu thăm vợ con có đặng không ?

Kiên-thúc nói :

- Nước Ngu có một người tôi hiền là Cung-chi Kỳ, người ấy quen biết với anh. Nay nếu em muốn. về nước Ngu thì anh cùng đi với sang đồ thăm Cung-chi Kỳ luôn thể.

Nói xong, liền cùng với Bá lý-hề trở về nước Ngu.

Lúc bấy giờ vợ Bá lý-hề là Ðổ thị, vì nghèo quá không lấy gì nuôi sống, phải lưu lạc tha phương không rõ đi vào đâu .

Bá lý-hề không thấy mặt vợ con, thương xót vô cùng.

Kiên-thúc vào yết-kiến Cung-chi Kỳ thuật chuyện Bá lý-hề là người hiền tài, đề-nghị tiến cử với vua nước Ngu. Vua nước Ngu cho đòi Bá lý-hề vào phong làm quan Trung đại-phu.

Kiên-thúc nói :

- Ta xét thấy vua nước Ngu là người thiếu kiến thức, mà tự đắc thì không phải là vua hiền vậy .

Bá lý-hề nói .

- Em lâu nay nghèo khổ, có khác nào như cá bị cạn, ngóng chờ nước để đồng thân ! Dẫu chưa phải vua hiền cũng cứ tạm dung thân đã.

Kiên-thúc nói

- Vì nghèo khổ mà em phải ra làm quan anh không thế nào ngăn em được, nhưng mai sau em có nhớ anh đến thăm, em cứ đến làng Minh-lộc nước Tống. Nơi ấy phong cảnh tịch-mịch, nên anh có ý định ở đó .

Nói xong, Kiên-thúc từ giã.

Bá lý-hề ở lại làm quan nước Ngu .

Ngày tháng trôi qua, chẳng bao lâu vua Ngu mất nước, Bá lý-hề không nở bõ đi, cứ quanh-quẩn phàn nàn một mình :

- Tiếng bất trí ta đã mang lấy thì có lẽ nào còn gánh chịu chữ bất trung nữa.

Lúc bấy giờ Bá-Cư sang nước Tấn, Tấn-hiến Công sai Bá lý-Hề đi theo hầu .

Bá lý-hề than :

- Tài của ta mà không gặp được đấng minh-quân để thi thố, cứ mãi đi hầu hạ người ta, có khác gì tên đầy tớ, thì còn gì nhục bằng .

Tuy nhiên, lệnh vua không thể không tuân .

Vừa đi được nửa đường, Bá lý-hề tìm cách trốn sang nước Tống, nhưng đường bị nghẽn nên lại qua nước Sở, đến đất Uyển-thành (đất nước Sở). Lúc ấy người đi săn ở đất Uyển-thành trông thấy Bá lý-hề, ngỡ là quân phiến-loạn, nên bắt trói lại.

Bá lý-hề điềm tĩnh nói :

- Nước Ngu của tôi bị thất thủ, nên tôi phải trốn đến đây.

Người đi săn hỏi :

- Nhà ngươi có biết làm nghề gì không ?

Bá lý-hề đáp :

- Tôi có tài nuôi trâu.

Người đi săn cởi trói cho Bá lý-hề và đem về cho nuôi trâu.

Bá lý-Hề nuôi trâu rất mau lớn và tốt đẹp, mọi người đều khen tặng, tiếng ấy đến tai vua nước Sở.

Nhà vua bèn triệu Bá lý-hề vào, hỏi :

- Nhà ngươi nuôi trâu như thế nào mà chóng , bén tốt vậy ?

Bá lý-hề tâu :

- Cho ăn có điều độ, không bắt nó làm quá sức luôn luôn chăm sóc, không bỏ quên nó .

Vua nước Sở nói :

- Nhà ngươi nói rất phải ! Không riêng cho nuôi trâu như vậy mà nuôi ngựa cũng cần phải thế.

Bá lý-hề được vua Sở cho làm chức Ngữ-nhân ra xứ Ðông-hải chăn ngựa.

Một hôm Tần mục-Công ngồi xem sổ những người đi theo hầu Bá-Cư, có tên Bá lý-hề, mà không thấy người, lấy làm lạ, liền gọi Công-tử Trí hỏi .

Công-tử Trí thưa :

- Trước đây Bá lý-hề là bề tôi của nước Ngu, nhưng hiện giờ người đã trốn đi rồi !

Tần mục-công bảo Công tôn-chi :

- Nhà ngươi lúc trước có ở nước Tấn. Chắc cũng được biết Bá lý-Hề là người thế nào ?

Công tôn-chi thưa :

- Bá lý-hề là người hiền: Biết vua nước Ngu không thể can nên không nói đến, ấy là người trí, theo vua nước Ngu sang ở nước Tấn ; song không chịu phò Tấn, ấy là người trung. Kẻ có tài như vậy mà chưa gặp được cơ-hội, cũng phải đành chịu.

Tần mục-công nói :

- Nếu ta dùng được Bá lý-hề thật là hay lắm !

Công tôn-chi thưa :

- Tôi được tin đồn vợ con Bá lý-hề cư-trú tại nước Sở, chắc Bá lý-hề trốn sang nước đó. Vậy ta sai người đến nước Sỏ tìm hiểu tin-tức.

Tần mục-công liền sai người đi.

Trong thời gian dò hỏi, người ấy đã hiểu được rõ ràng, nên về tâu lại với Tần mục-công :

- Bá lý-hề chăn ngựa cho vua nước Sở , hiện nay ở tại xứ Nam-hải.

Tần mục-công nói :

- Ta muốn sai ngươi đem lễ vật sang xin rước về, không biết vua Sở có thuận chăng ?

Công tôn-Chi thưa :

- Ðem lễ vật, chưa chắc nước Sở đã chịu cho Bá lý-hề về.

Tần mục-công hỏi :

- Tại sao ?

Công tôn-chi thưa :

- Vua nước Sở dùng Bá lý-hề chăn ngựa tức là không biết Bá lý-Hề là tôi hiền. Nay Chúa-công đem lễ vật sang, chẳng khác nào bảo cho vua nước Sở biết Bá lý-hề là hiền-sĩ. Chi bằng lấy cớ Bá lý-Hề trốn đi, xin chuộc về để trị tội, ấy là kế của Quản-trọng ngày xưa đánh lừa nước Lỗ mà thoát thân đó.

Tần mục-công khen phải, sai người đem năm bộ da dê, biếu vua nước Sở, và nói :

- Nước tôi có một kẻ tiện-nhân trốn sang quí-quốc tên Bá lý-Hề . Chúa-công tôi muốn bắt đem về trị tội để làm gương, nên gởi biếu quí quốc năm tấm da dê, để xin chuộc mạng tội nhân.

Vua Sở sợ mắt lòng vua Tần liền sai bắt Bá lý-Hề giao trả.

Thấy Bá lý-hề bị bắt, mọi người đều có ý thương xót, lại có kẻ ứa nước mắt, buồn cho số phận kẻ long đong.

Bá lý-hề mĩm cười nói :

- Tôi nghe vua nước Tần có chí lớn từng mưu đồ đại sự. Một người như vậy đâu có thiết gì một kẻ theo hầu mà bắt tội. Ðây chắc vua Tần muốn đem tôi về để dùng, vậy xin các bạn chớ có than khóc làm chi .

Nói xong dõng dạc bước vào tù xa để cho quân sĩ giải về nước Tần.

Vừa về đến nơi, đã thầy Công tôn-chi được lệnh Tần mục-công ra tận biên ải đón rước, để triệu vào triều yết kiến .

Tần mục-công hỏi Bá lý-Hề :

- Năm nay nhà ngươi đã bao nhiêu tuổi ?

Bá lý-hề nói :

- Tôi đã hơn bảy mươi.

Tần mục-công thở dài nói :

- Ðáng tiếc thay . Tuổi nhà ngươi đã quá cao.

Bá lý-hề nói :

- Nếu là việc lên rừng bắt hổ, xuống biển chèo ghe thì tuổi tôi già thực. Nhưng nếu bàn về chính-trị, luận việc "phải trái" ở đời thì tuổi tôi vẫn còn trẻ lắm. Ngày xưa, ông Lã-vọng hơn tám mươi tuổi đầu , đi câu ở bên sông Vị, vua Văn-vương đem về làm Tương phụ, rồi giúp nên cơ nghiệp nhà Châu. Nay tôi gặp Chúa-công, thiết tưởng còn sớm hơn ông Lã Vọng đến mười tuổi.

Tần mục-công nghe Bá lý-hề nói khí-khái như vậy có ý kính trọng hỏi tiếp :

- Nay nước ta tiếp giáp với Nhung-dịch là một nước bất tuân vương-mạng, thường quấy rối, thế thì ta phải làm sao cho nước Tần ta cường thịnh ?

Bá lý-hề nói :

- Nếu Chúa-công không khinh tôi là kế bất tài, hỏi đến, tôi đâu dám tiếc lời. Ðất Ung-kỳ là nơi hiểm yếu, trước kia Văn-vương, Võ Vương cũng đều dùng nơi đó để lập nghiệp. Thế mà nay nhà Châu không biết, cắt cho nước Tần, ấy là lòng trời muốn cho nước Tần dựng nên nghiệp bá. Vả lại, phía Tây nầy có hơn vài mươi nước nhỏ. Các nước đó rất lợi hại cho ta. Lúc chưa chinh phục được họ, là hại. Vì họ sẽ đem binh quấy rồi làm cho nước ta bất an. Nhưng nếu lúc đã chinh phục được họ, thì nước ta sẽ nắm trong tay một sức mạnh oai hùng, có thể dùng chinh phục Trung-nguyên nỗi.

Tần mục-công nghe nói như người chiêm bao mới tĩnh, đứng dậy xá Bá lý-hề một cái, nói :

- Ta được nhà ngươi giúp sức, khác nào nước Tề được Quản-trọng.

Tần mục-công cùng với Bá lý-hề nói chuyện với nhau trong ba ngày mà không thấy chán.

Bá lý-hề được phong làm chức Thượng-khanh nắm giữ quyền-bỉnh trong nước . Vì vậy người ta gọi là Ngũ cỗ Thượng-khanh .

Bá lý Hề đang là một kẻ chăn trâu mà được vua Tần đem về dùng phong chức lớn như vậy, ai lại không ngạc nhiên.

Hồi 26

Bách Lý Hề nhận được vợ cũ

Tần Mục công mộng thấy điềm lành

Tần Mục công biết tài Bách Lý Hề, muốn phong làm chức thượng khanh. Bách Lý Hề nói :

- Tôi có một người bạn tên là Kiển Thúc, tài gấp mười tôi, nay chúa công muốn sửa sang chính trị thì nên dùng Kiển Thúc mà cho tôi giúp vào

Tần Mục công nói :

Cái tài của nhà ngươi thì ta đã biết rõ rồi, nhưng ta chưa biết Kiển Thúc là người thế nào ?

Bách Lý Hề nói :

- Kiển Thúc là người hiền, chẳng những chúa công chưa biết, mà người nước Tề và nước Tống cũng chưa ai biết cả, duy chỉ có một mình tôi biết mà thôi. Nguyên khi trước tôi định theo công tử VÔ Tri nước Tễ, Kiển Thúc can tôi không nên ; tôi liền bỏ nước Tề mà thoát được cái tai vạ VÔ Tri ; sau tôi định theo vương tử Đồi nhà Chu, Kiển Thúc cũng can tôi không nên, tôi lại bỏ nhà Chu mà thoát được cái nạn vương tử Đồi ; sau tôi theo vua nước Ngu, Kiển Thúc là can tôi không nên, nhưng bấy giờ tôi nghèo khổ quá, phải liều mà ra làm quan, thành ra bị người nước Tấn bắt. Hai lần trước, tôi theo lời Kiển Thúc thì thoát khỏi tai vạ, mà một lần sau tôi không theo lời Kiển Thúc thì suýt nữa đến nỗi hại thân. Xem thế thì biết tài trí của Kiển Thúc hơn người nhiều lắm. Bây giờ Kiển Thúc ẩn thân Ở làng Minh Lộc nước Tống, xin chúa công cho người đi tnệu ngay về.

Tần Mục công mới sai công tử Chí giả làm người đi buôn ; đem lễ vật sang nước Tống để đón Kiển Thúc. Bách Lý Hễ lại viết riêng một bức thư gửi sang. Công tử Chí đi đến làng Minh Lộc, gặp mấy người nông phu ngồi nghỉ Ở trên bờ ruộng, cùng nhau gõ nhịp mà hát.

Hát rằng :

Núi trèo không thang hề ... đá mọc lủng củng ;

Đường đi không đuốc hề ... bùn lầy xùng xụïc !

Cùng ngồi Ở trên bở ruộng hề ... kìa kìa suối ngọt mà đất nục ;

Chúng ta chàn lấm tay bùn hề ... chăm chỉ về sự trồng thóc !

Trời cho không mất mùa hề ... miếng ăn được sung túc ;

Hưởng trọn tuổi trời hề ... chẳng vinh mà cũng chẳng nhục

Công tử Chí ngồi trên xem, nghe thấy bài hát có ý ung dung tự thích, không theo thói đời, mới bảo người đánh xe rằng :

Người ta thường nói : làng nào có người quân tữ Ở thì đổi được những phong tục dở, nay ta tới làng Kiển Thúc ở, thấy người cày ruộng cũng có tư cách cao thượng, thì chắc rằng Kiển Thúc là một bậc đại hỉền.

Nói xong, liến xuống xe hỏi thăm mấy người cày ruộng rằng :

Nhà Kiển Thúc Ở chỗ nào ?

Ngườỉ cày ruộng nói :

- Nhà ngươi hỏi làm gì ?

Công tử Chí nói :

CÓ người bạn cũ của Kiển Thúc là Bách Lý hề gởi ta một phong thư đưa cho Kiển Thúc.

Người cày ruộng trỏ mà bảo rằng :

Đi lên một quâng nữa, có cái rừng trúc, bên tả có suối, bên hữu có đá, Ở giữa có một mái nhà tranh, tức là nhà Kiển Thúc đó.

Công tử Chí chắp tay vái cháo, rồi lại lên xe đi nửa dặm nữa, đến cái nhà tranh ấy, đỗ xe Ở ngoài, sai người gõ cửa gọi. CÓ một đứa trẻ con mở cửa ra mà hỏi rằng :

Quý khách đi đâu thế ?

Công tử Chí nói :

- Tôi đến thăm Kiển Thúc tiên sinh.

Đứa trẻ nói :

- Thầy tôi đi vắng.

Công tử Chí nói :

Tiên sỉnh đi chơi đâu ?

Đứa trẻ nói :

- Thầy tôi cùng với hai ông cụ bên láng giềng đi xem suối Thạch Hương, độ lát nữa thì về.

Công tử Chí không dám vào trong nhà vội, ngồi Ở trẽn viên đá để đợi Đứa trẻ con lại khép cửa, trở vào trong nhả. Được một lúc, có một người to lớn, mắt tròn mày rậm, mặt vuông ; mình đài, lưng vác hai chiếc chân hươu, từ đường phía tây đi về. Công tử Chí trông thấy người ấy hình dáng khác thường, liền đứng dậy đón chào. Người ấy bỏ cái chân hươu xuống đất cùng với công tử Chí đáp lễ. Công tử Chí hỏi đến họ tên. Người ấy đáp rằng :

- Tôi tẽn gọi Kiển Bính, tự là bạch ất.

Công tử Chí nói :

- ông cùng với Kiển Thúc là người thế nào ?

Kiển Bính nói :

- ấy là thân phụ tôi đấy.

Công tử Chí lại thi lễ mà nói rằng :

- Tôi được nghe tiếng đă lâu.

Kiển Bính nói :

Ngài là người Ở đâu ? Đến đây có việc gì ?

CÓ người bạn cũ của cụ nhà tên là Bách Lý Hễ, nay làm quan Ở nước Tần, gửi tôi bức thư đưa sang đây.

Kiển Bính nói :

Xin mời ngài vào ngồi chơi tạm trong nhà, thân phụ tôi cũng sắp về bây giờ ?

Nói xong, liền đẩy hai cánh cửa, nhường công tử Chí vào trước, rồi lại vác cái chân hươu vào sau, đưa cho đứa trẻ con cất đi. Kiển Bính mời công tử Chí ngồi cùng nhau bàn những việc cày ruộng trồng dâu, lại nói đến võ nghệ nữa. Kiển Bính nói đâu ra đấy, rất có mạch lạc Công tử Chí khen thầm trong bụng rằng :

Cha có hiền thì con mới được như thế, Bách Lý Hề tiến dẫn thật đă không sai.

Uống trà xong, Kiển Bính sai đứa trẻ con ra cửa để đứng đón Kiển Thúc. Được một lúc, đứa nhỏ chạy vào báo rằng :

- ông đã về ?

Bấy giờ Kiển Thúc cùng với hai ông cụ bên láng giềng về đến ngoài cửa ; trông thấy có xe đỗ, ngạc nhiên mà nói rằng :

- Người làng ta làm gì có cái xe này ?

Kiển Bính Ở trong nhà chạy ra thuật lại chuyện công tử Chí. Kiển Thúc cùng hai ông cụ bẽn láng giềng cùng vào, chào hỏi công tử

Chí, rồi mời nhau ngồi. Kiển Thúc nói :

Mới rồi tiện nhi nói em tôi là Bách Lý Hề có gửi một bức thư, xin ngài cho xem.

Công tử Chí mới đưa trình bức thư của Bách Lý Hề. Kiển Thúc mở ra đọc, trong thư đại lược nói rằng :

,Em là Bách Lý Hề này không biết theo lới anh dàn, suýt nữa

thì mắc nạn ở nuớc Ngu ; may mà vua nước Tấn muốn dùng ngưởi

hiền, chuộc em Ớ trong bọn chàn trâu chăn ngựa, đem về giao cho

quyền chính ; nhưng em tự luợng sức hèn tài mọn. một mình không

làm nối, muốn nhở anh giúp vào. Vua nước Tấn cũng mến tiếng anh

lắm, vậy có sai công tứ Chi đem lễ vật sang đón, xin anh nhận lời cho

; nếu anh còn quyến luyến chốn sơn lâm mà không nỡ rời thì em cũng

xin bỏ nước Tấn mà theo anh sang Ớ đất Minh Lộc vậy .

Kiển Thúc nói :

Tại sao nước Tần lại biết đến Bách Lý Hề ?

Công tử Chí bèn đem chuyện Bách Lý Hề thuật hết cả lại một lượt rồi nói với Kiển Thúc rằng :

- Chúa công tôi phong Bách Lý Hề làm chức thượng khanh, nhưng Bách Lý hề tiến dẫn tiên sinh, muốn mời tiên sinh sang giúp cho thì mới dám nhận chức, vậy chúa công tôisai tôi đem lễ vật sang đây để mời tiên sinh.

Nói xong, hền sai người ra mở thùng xe đem các đồ lễ vật vào, bày la liệt Ở trong nhà. Hai ông cụ bên láng giềng vốn là nông phu, xưa nay chưa được trông thấy những lễ vật ấy bao giờ, nhìn nhau lấy làm kinh dị, bảo công tử Chí rằng :

- CÓ quý nhân đến đây mà chúng tôi không biết, xin ngài tha lỗi cho.

Công tử Chí nói :

Các cụ dạy quá lời ! Chúa công tôi mong đợì Kiển Thúc tiên sinh đây khác nào như lúa khô mong mưa, nhờ hai cụ nói hộ cho một lời thì chúng tôi lấy làm cám ơn lắm.

Hai ông cụ bên láng giềng bèn bảo Kiển Thúc rằng :

- vua nước Tần đâ biết trọng người hiền như thế thì ông cũng không nên để cho quý nhân phải về không.

Kiển Thúc nói :

- Ngày trước vua nước Ngu không dùng Bách Lý Hề, đến nỗi mất nước. Nay vua nước Tần đã biết trọng người hiền tài mà dùng Bách Lý Hễ thì một mình Bách Lý Hề cũng đă đủ rồi. Lão phu đây đă lâu nay không nghĩ gì đến việc đời nữa, xin tha cho lão phu. Các đồ lễ vật này, lão phu xin nộp lại, nhờ ngài nói hộ với vua nước Tần cho.

Công tử Chí nói :

Nếu tiên sinh không đi thì Bách Lý Hề tất cũng không chịu nhận chức.

Kiển Thúc ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thở dài mà than rằng :

- Bách Lý Hề là người có tài mà lâu nay chưa được gặp minh chủ, âu là ta cũng phải giúp Bách Lý Hễ mà đi một phen mới được. Nhưng chẳng bao lâu rồi ta cũng sẽ lại về đây cày ruộng mà thôi !

Đứa trẻ con vào nói với Kiển Thúc rằng :

- Chân hươu nấu đã chín rồi !

Kiển Thúc sai vào đầu giường lấy chai rượu mới cất, đem ra để thết khách. Kiêån Thúc mời công tử Chí và hai ông cụ bên láng giềng cùng uống rượu, đũa tre, chén đất, chủ khách cùng nhau thù tạc, đều no say vui vẻ cả. Trời đă gần tối, Kiển Thúc mời cõng tử Chí nghỉ lại Ở trong nhà tranh. Sáng hôm sau, hai cụ bên láng giềng lại mời một tiệc rượu để tiễn chân. Trong khi uống rượu, công tử Chí khen tài Kiển Bính, cũng ngỏ ý mời sang Tần một thể.

Kiển Thúc vâng lời, rồi đem các thứ lễ vật chia cho hai ông cụ bên láng giềng, nhờ trông nom hộ nhà cửa, lại dặn dò người nhà phải chăm chỉ công việc ruộng nương, không được trễ biếng. Kiển Thúc từ giă hai ông cụ bên láng giềng rồi cùng với Kiển Bính và công tử Chí lên xe thẳng đường sang nước Tần. Khi gần đến địa giới nước Tần, công tử Chí về trước, vào yết kiến Tần Mục công, nói rằng :

- Kiển Thúc đã đến, và con trai là Kiển Bính cũng là người có tài, tôi mời cả về để chúa công dùng.

Tần Mục công mừng lắm, liền sai Bách Lý Hề đi đón. Khi Kiển Thúc vào Tần Mục công xuống thềm nghênh tiếp, mời ngồi mà hỏi rằng :

- Bách Lý Hề thường nói tiên sinh là một người hiền tải xin tiên sinh chỉ bảo cho.

Kiển Thúc nói :

Nước Tần ta Ở cõi tây này, tiếp giáp với các nước Nhung Địch, đất hiểm quân mạnh, mà không được bằng các nước Trung quốc, là chỉ vì không có uy đức đó mà thôi. Không có Uy thì sao cho người ta sợ ; không có đức thì sao cho người ta mến ; người ta không sợ, không mến thì làm bá chủ thế nào được ?

Tần Mục công nói :

- Uy và đức, hai điều ấy điều nào nên làm trước ?

Kiển Thúc nói :

- Nên ]ấy đức làm gốc, lại có uy để giúp vào. Nếu có đức, mà không có uy thì sao giữ được nước, có uy mà không có đức thì sao yên được dân.

Tần Mục công nói :

- Ta muốn sửa đức mà lập uy thì nên làm thế nào ?

Kiển Thúc thưa :

Dân nước Tần ta tập nhiễm phong tục rợ mọi, không biết lễ nghĩa, nay muốn cho dân biết tôn kính người trên thì tất phải có giáo hóa và có hình phạt. CÓ giáo hóa thì dân biết ơn, có hình phạt thì dân biết sợ, bấy giờ kẻ trên người dưới, khác nào như thân thể trong một

người. Quản Di Ngô giúp nước Tề mà sai khiến được thiẽn hạ, cũng vì lẽ ấy.

Tần Mục công nói :

Cứ làm theo như lời nói của tiên sinh, có thể làm bá chủ thiên hạ đưọc không ?

Kiển Thúc nói :

Thế cũng chưa đủ ? Muốn làm bá chủ thiên hạ thì có ba điều nên kiẽng : chớ có tham lam ; chớ có tức giận ; chớ có vội vàng. Tham lam thì nhiều đường lầm lỗi ; tức giận thì nhiều sự khó khăn ; vôïi vàng thì nhiều việc vấp váp. Chúa công biết kiêng ba điều ấy thì có

thể làm nên nghiệp bá chủ.

Tần Mục công khen phải, rồi nói với Kiển Thúc rằng :

- Tiên sinh thử nghĩ xem công việc ngày nay điều gì là cấp thiết hơn cả ?

Kiển Thúc nói :

Tề hầu già yếu, nghiệp bá chủ mỗi ngày một suy kém, chúa công nên thu phục lấy các nước Nhung Địch Ở vễ cõi tây này ; khi đã thu phục được rồi, bấy giờ sẽ tìm cách mà tiến vào Trung Quốc, dùng sự ân nghĩa mà chữa những điều khuyết điểm của Tề hầu, như thế

thì còn ai tranh được ngôi bá chủ nữa !

Tần Mục công bằng lòng mà nói rằng :

- Tiên sinh và Bách Lý Hề thật là bậc tôn trướng của thứ dân trong thiên hạ.

Nói xong liền phong Kiển Thúc làm hữu thứ trưởng, Bách Lý Hề làm tà thứ trưởng, cùng lâm chức thượng khanh, gọi là hai quan tể tướng. Lại cho Kiển Bính làm quan đại phu. Từ bấy giờ nước Tần mỗi ngày.một cường thịnh. Tần Mục công nghe đồn nước nào có người

hiền tài cũng sai người đi tìm. Công tử Chí tiến ngườì nước Tần là Tây Khuất Thuật, Tần Mục công cũng tnệu đến để dùng. Bách Lý Hễ nghe đồn Do Dư nước Tấn là người có tài, mới hỏi thăm công tôn Chi.

Công tôn Chi nói :

- Do Dư Ở nước Tấn mâi không có ai dùng, nay đã làm quan Ở nước Tây Nhung rồi !

Bách Lý Hế có ý tiếc lắm.

Lại nói chuyện vợ Bách Lý Hề là ĐỖ thị, từ khi Bách Lý Hề đi vắng, vẫn làm thuê làm mướn để kiếm ăn ; sau nghèo khổ quá, không lấy gì cho đủ được, mới đem con đi lưu lạc sang nước Tần, làm nghề đi giặt thuê. Con trai Bách Lý Hề tên là Thị, tên tự là Mạnh Minh, chỉ quen tính lêu lổng, theo người ta đi săn bắn, chẳng chịu làm ăn gì cả, ĐỖ thị thường khuyên bảo mà Mạnh Minh cũng không nghe.

Đến lúc Bách Lý Hễ làm tể tướng nước Tần, ĐỖ thị đã nghe tiếng, lại hai ba lần trông thấy ngồi xe đi qua mâ không dám nhận. Bấy giờ trong dinh Bách Lý Hề cần đến người giặt thuê, ĐỖ thị tình nguyện xin vào giặt, làm lụng rất chăm chỉ, người nhà đều có lòng

yêu nhưng vẫn chưa lần nào được giáp mặt Bách Lý Hề

Một hôm, Bách Lý Hề ngồi Ở nhà trên, các phưừng nhạc gẩy đàn thồi sáo Ở dưới thềm ; ĐỖ thị bèn nói với ngưừi nhà rằng :

Tôi cũng có biết âm nhạc, xin cho tôi đến dưới thềm nghe một vài bài đàn.

Ngườì nhà đưa ĐỖ thị đến dưới thềm, nói chuyện với các phường nhạc. Phường nhạc bèn hỏi ĐỖ thị rằng :

- Trong các nghề âm nhạc, nhà ngươi biết những thứ nào ?

ĐỖ thị nói :

Tôi biết gẩy đàn, lại biết hát nữa.

Phường nhạc liền đưa cho ĐỖ thị một cây đàn cầm, ĐỖ thị ồm cây đàn mà gẩy, nghe tiếng rất ai oán ! Các phường nhạc đều chịu là hay ; lại bảo ĐỖ thị hát chơi một bài.

ĐỖ thị nói :

- Từ khi tôi lưu lạc đến đây, chưa hề cất tiếng hát bao giờ, nay tôi muốn xin lên nhà trên, hát hầu quan tể tướng một bài.

Phường nhạc lên nói với Bách Lý Hề, Bách Lý Hề cho lên. ĐỖ

thị cúi đầu khép nép rồi cất tiếng hát. Hát rằng :

Bách Lý Hề năm bộ da dê ! Nhớ ngdy nào càng nhau ly biệt :

mố con gà mdi ấp, thối nổi cơm gạo vàng. Chừ thương thì thương...

Ngày nay giàu sang, quên ta hay sao?

"Bách Lý Hề năm bộ da dê ! Cha ăn thịt cá, con đói khóc dài ;

chổng mặc gấm vóc, vợgiặt thuẽ hoâi ! Chừ thương thì thương... Ngày

nay giàu sang, quên ta hay sao?

Bách Lý Hề, năm bộ da dê ! Nhớ ngày xưa tiễn chàng ra đi,

thiếp tôi nưóc mắt chứa chan!

"Tới bây chừ, thấy chàng ngồi đó, thiếp tới ruột ầứt đòi cơn !

Chừ thương thì thương... Ngày nay giàu sang, quẽn ta hay

sao . . " .

Bách Lý Hề nghe câu hát, lấy làm ngạc nhiên, gọi đến trước mặt mà hỏi chuyện thì hóa ra vợ mình khi trước, liền ôm lấy mà khóc òa lên một hồi lâu, rồi hỏi đến con. ĐỖ thị nói :

- NÓ vẫn đi săn bắn Ở trong xóm.

Bách Lý Hề sai người đi triệu đến. VỢ chỗng cha con thành ra lại được sum họp cùng nhau. Tần Mục công nghe tin vợ Bách Lý Hề mới đến, sai người đem cho nghìn chung thóc và một xe vàng lụa.

Ngày hôm sau, Bách Lý Hề đem con là Mạnh Minh vào yết kiến Tần Mục công. Mục công cho Mạnh Minh làm quan đại phu, cùng với Tây Khuất Thuật và Kiển Bính đều được gọi là tướng quân, giữ việc chinh phạt.

Vua nước Khương Nhung là Ngô Lý đem quân sang quấy nhiễu. Mục công sai Mạnh Minh, Tây Khuất Thuật và Kiển Bính đem quân đi đánh, Ngô Lý bị thua, chạy sang nước Tấn.

Vua nước Tây Nhung là Xích Ban thấy nước Tần cường thịnh, sai Do Dư đem lễ vật sang yết kiến Tần Mục công, để dò xem tần Mục công là người thế nào. Mục công đưa Do Dư đi chơi các nơi lâu đài vườn tược, có ý khoe khoang. Do Dư nói :

Chúa công sửa sang như thế này, bắt ma làm hay bắt người làm ? Bắt ma làm thì khổ ma, bắt người làm thì khổ người.

Tần Mục công nghe nói lấy làm lạ, liền hỏi Do Dư rằng :

- Nước Tây Nhung không có lễ nhạc, pháp độ gì cả thì lấy gì mà trị nước ?

Do Dư cười mà nói rằng :

- ấy chi vì có lễ nhạc, pháp độ mà Trung Quốc đến nỗi hay biến loạn đó ? Thánh nhân đời xưa lập ra văn pháp để bó buộc người ta nên thiên hạ mới hơi được yên ổn một chút ; sau này người ta sinh ra kiêu dâm, chi mượn cái uy của danh của lễ nhạc để trang sức thân mình, chỉ mượn cái uy của pháp độ để đốc trách kẻ dưới, khiến cho nhiều người oán giận mà gây ra đánh lẫn nhau. Còn như nước Tây Nhung tôi thì không thế. Người trên thì lấy ân nghĩa mà tiếp đãi kẻ dưới, kẻ dưới thì lấy trung tín mà phụng thừ ngưừi trên, kẻ trên người dưới, không lấy hình tích mà lừa dối nhau, không lấy văn pháp mà ràng buộc nhau, thế mới thật là đời thịnh trị.

Mục công nín lặng, không nói gì cả, sau đem lời nói của Do Dư thuật lại cho Bách Lý Hề nghe. Bách Lý Hễ nói :

Do Dư là một bậc đại hiễn Ở nước Tấn, tôi vẫn biết tiếng đã lâu !

Mục công nghe nói, có ý buỗn mà nói rằng :

- Do Dư là bậc đại hiền mà Tây Nhung dùng được, ấy là một sự lo cho nước Tần ta, biết làm thế nào ?

Bách Lý Hề nói :

Nội sử Sưu là người mưu trí, chúa công nên bàn với hắn. Tần Mục công liền cho triệu nội sử Sưu vào để thương nghị.

Sưu nói :

- Vua Tây Nhung Ở nơi hoang dã, chưa được nghe âm nhạc của Trung quốc ta bao giờ, nay chúa công sai người đem một bộ nữ nhạc đưa biếu vua Tây Nhung ; còn Do Dư thì giữ lại Ở đây không cho về vội khiến cho vua tôi ngờ vực lẫn nhau, chính sự sinh ra trễ biếng,

như thế thì dẫu muốn lấy cả nước Tây Nhung cũng đưực, huống chi là một mình Do Dư.

Tần Mục công khen phải, liền giữ Do Dư Ờ lại, cùng ăn một mâm, cùng ngồi một chiếu ; lại sai bọn Kiển Thúc ; Bách Lý Hề và công tôn Chi thay nhau mà tiếp đăi Do Dư, để dò hỏi địa thế và binh lực của nước Tây Nhung. Một mật sai nội sử Sưu đem nữ nhạc sang

dâng vua Tây Nhung là Xích Ban. Xích Ban bằng lòng lắm ; từ bấy giừ Xích Ban ngày đêm say mẽ về nữ nhạc, chẳng thiết gì đến chính sự cả Do Dư Ở nước Tần một năm mới về. Vua Tây Nhung thấy Do Dư về, có ý không bằng lòng. Do Dư nói :

Tôi vẫn xin vễ luôn mà vua nước Tần cứ cố ý giữ lại mãi.

Vua Tây Nhung nghi Do Dư có tình ý với nước Tần, từ bấy giờ không tin dùng nữa. Do Dư thấy vua Tây Nhung say mẽ nữ nhạc, chẳng thiết gì đến chính sự, thì gắng sức can ngăn. Vua Tây Nhung không nghe lời. Tần Mục công nghe tin, sai người sang mật triệu Do Dư. Do Dư bỏ Tây Nhung về với Tần Mục công. Mục công cho làm chức á khanh, cùng với Kiển Thúc và Bách Lý Hề cùng cầm quyền chính. Do Dư liền dâng kế đánh Tây Nhung.

Khi quân nước Tần kéo sang đất Tây Nhung, đường đi lối lại đều thông thuộc cả Vua Tây Nhung không chống cự nổi, phải đầu hàng nước Tần. Vua Tây Nhung xưa nay vẫn là thủ lĩnh của nước Nhung Địch. Các nước nhỏ nghe thấy vua Tây Nhung phải đầu hàng nước Tần, thì cũng đều đem nhau đến đầu hàng cả. Tần Mục công mở tiệc ăn mừng. Các quan triếu thần thay đổi nhau mà chúc thọ. Mục công uống rưọu say quá, khi vào trong cung, mê mẩn chẳng biết gì cả, nội thị thấy vậy đều lấy làm sợ hăi. Các quan triều thần nghe tin, kéo nhau vào vấn an.

Thế tử Bình mời quan thầy thuốc vào xem mạch thấy mạch chạy như thường, nhưng mắt nhắm mà miệng không nói năng, mình không cử động được. Quan thầy thuốc nói :

- ĐÓ là việc quỷ thần ! Xin sai người làm lễ cúng.

Nội sử Sưu nói :

Dẫu cúng cũng vô ích. Ngủ say như thế tất là đương mộng, nên chở ít lâu, tự khắc tinh lại , chớ nên làm huyên náo.

Thế tử Bình ngồi liền Ở bẽn cạnh, bỏ cả ăn ngủ ; chở đến ngày thứ năm, Mục công mới tinh dậy, mồ hôi trán đầm đìa như mưa. Thế tử Bình quỳ xuống mà hỏi rằng :

- Phụ thân nghe trong mình thế nào ? Sao giấc ngủ của phụ thân lâu thế ? .

Tần Mục công nói :

- Ta vừa mới ngủ được một lúc.

Thế tử Bình nói :

- Phụ thân ngủ đã năm ngày nay, tất là có mộng thấy gì lạ, chớ chẳng không ?

Tần Mục công ngạc nhiên mà hỏi rằng :

- sao nhà ngươi lại biết ?

Thế tử Bình nói :

- Nọi sử Sưu nói thế.

Tần Mục công liền gọi nội sử Sưu đến cạnh giường mà bảo rằng :

Mới rồi ta mộng thấy một người đàn bà mặt hoa da ngọc tay cầm cái ấn ngọc, nói là phụng mệnh Ngọc Hoàng thượng đế đến triệu ta. Ta liền đứng dậy đi theo, bỗng thấy hình như đi Ở trong đám mây, đến một nơi cung điện, thềm cao chín thước, trẽn rủ rèm châu. Người đàn bà đưa ta vào lạy Ở dưới thềm. Được một lúc, rèm châu cuốn lên, ta trông thấy trên điện : cột vàng tường gấm, hào quang rực rỡ, có mộtt vị Ngọc Hoàng mũ miện áo bào, ngồi trên ngai vàng, hai bên có các quan đứng hầu, nghi vệ rất nghiêm chỉnh ? Đức Ngọc hoàng lại sai người đem một cái sổ tay ra, gọi tên ta mà tuyên cáo rằng : "Nhâm

Hiếu ! Nhà ngươi nghe lời trẫm mà dẹp loạn cho nước Tấn". Tuyên cáo xong, người đàn bà ấy bảo ra lạy tạ, rồi đưa ta về. Ta hỏi tên là gì, thì người ấy tự xưng là Bảo phu nhân Ở núi Thái Bạch. Nếu ta vì hắn lập đền thờ thì hắn sẽ phù hội cho được nên sự nghiệp bá chủ. Ta lại hỏi nước Tấn có loạn gì thì hắn không chịu nói, bảo là việc trời không dám tiết lộ. Bấy giờ ta nghe tiếng chim trĩ kêu, bỗng sực tỉnh dậy, chẳng hay đó là điềm gì ?

Nội sử Sưu nói :

- Hiện nay Tấn hầu đang yêu Ly Cơ, ghét thế tử, tải nảo mà khỏi loạn được. Đức Ngọc hoàng truyền lệnh cho chúa công, ấy là cái

phúc của chúa công đó !

Tần Mục công hỏi :

- Bảo phu nhân là ai ?

Sưu nói :

Tôi nghe nói đời Tần Văn công ta ngày xưa, có người Ở đất Trần Sương bắt được một con vật kỳ dị, đem dâng Tần Văn công. Khi đi đến nửa đường, bỗng gặp hai đứa trẻ vỗ tay cười và nói rằng : con vật ấy là loài Vị, nó hay ăn óc người chết Ở dưới đất ; con Vị cũng nói được như người mà bảo hai đứa trẻ kia là loài Trĩ tinh ; một con s6ng, một con mái, nếu bắt đưọc con sống thì làm nên nghiệp vương, bắt được con mái thì làm nên nghiệp bá. Bấy giở người Trần Sương liễn bỏ con Vị mả đi đuổi theo bắt hai đứa trẻ. Hai đứa trẻ hóa làm hai con chim tn mâ bay mất. Người Trần Sương thuật chuyện lại cho Tần Văn công nghe, Tần Văn công sai chép việc ấy vào sách, hiện còn cất Ở trong kho. Đất Trần Sương nay Ở phía tây núi Thái Bạch, chúa công nên ra đấy đi săn bắn để xem xét thì có thể biết rõ được.

Tần Mục công mở sách ra xem, quả như lời nói của nội sử Sưu. Ngày hôm sau, Tần Mục cồng đi săn bắn Ở núi Thái Bạch. Người Ở Trần Sương, chăng lưới bắt được con chim trĩ tự nhiên hóa ra con gà đá, trông rất kỳ dị, liền đem dâng Tần Mục công. Nội sử Sưu nói :

- ĐÓ tức là Bảo phu nhân. ấy lả cái điềm bắt được con mái thì làm nên nghiệp bá đó ! Chúa công nên lập đền thờ Ở đất Trần Sương. Tẩn Mục công bằng lòng, truyền lập đền thờ, gọi là đền Bảo phu nhân, sau quả nhiên Tần Mục công dẹp được loạn nước Tấn.

Hồi 27

Ly CƠ lập kế giết Thân Sinh

Hiến công gần chết dặn Tuân Tức

Tấn Hiến công từ khi lấy được cả nước Ngu và nước Quắc, các quan triều thần đều vào chúc mừng, chỉ có Ly CƠ trong bụng không bằng lòng, bởi vì bản tâm muốn cho Tấn Hiến công sai thế tử Thân Sinh đi đánh Quắc, không ngờ lại hóa ra Lý Khắc đi thay, mả lại lập nên công trạng, chẳng còn nghĩ kế gì để hại thế tử Thân Sinh được nữa ? Ly CƠ lại bàn riêng với ưu Thi rằng :

- Lý Khắc là người trong bè cánh Thân Sinh, bây giờ công to chức trọng như vậy thì ta còn làm gì nổi !

Uu Thi nói :

- Tuân Tức đem một viên ngọc bích và một cỗ ngựa mà lập kế lấy được nước Ngu và nước Quắc, thế thì tài còn gấp mấy Lý Khắc, mà công trạng cũng chẳng kém gì Lý Khắc. Bây giờ phu nhân dùng Tuân Tức làm chức thái phó để dạy Hề Tề và Trác Tử thì mới có thể trị nổi Lý Khắc được.

Ly CƠ nói với Hiến công, dùng Tuân Tức lảm chức thái phó để dạy Hễ Tề vâ Trác Tử. Ly CƠ lại bảo Uu Thi rằng :

- Nay Tuân Tức đã vào cánh với ta rồi ! Nhưng hễ Lý Khắc còn Ở trong triều thì mưu kế của ta khó lòng thành được. Bây giờ biết dùng kế gì mà trừ được hắn đi ? CÓ trừ được Lý Khắc thì mới có thể hại nổi Thân Sinh.

ưu Thi nói :

- Lý Khắc là người bề ngoài thì cương trực mà trong lòng hay lo sợ, nếu đem sự lợì hại mà bảo hắn thì hắn tất có ý bắt cá hai tay, bấy giờ ta sẽ dụ hắn phải theo ta. Lý Khắc vốn thích uống rượu, để tôi xin bày một tiệc rượu mời hắn, rồi thử đem lời nói dò xem ý hắn thế nào, nếu hắn theo lời thì may cho phu nhân, mà nếu hắn không theo lời nữa thì tôi đây là một người phường hát, chẳng qua cũng là sự nói đùa bỡn đó thôi, có tội gì mà sợ.

Ly CƠ khen phải. Uu Thi liễn đến nói với Lý Khắc rằng :

Đại phu lâu nay đi đánh dẹp nước Ngu và nước Quắc, khó nhọc nhiều lắm, tôi muốn đem chén rượu nhạt đến để ngồi hầu đại phu, gọi là mua vui trong chốc lát, chẳng hay đại phu nghĩ thế nào ?

Lý Khắc thuận cho. ưu thi liễn mang rượu đến nhà lý Khắc để mời Lý Khắc uống. Trong khi ăn tiệc, Lý Khắc và vợ là Mạnh Nương cùng ngồi. Uu Thi sụp lạy hai lạy, dùng chén rượu để chúc mừng, rồi ngồi hầu rượu Ở bên cạnh chuyện trò, rất vui vẻ ! Rượu đă ngà ngà Uu Thi đứng dậy múa để chúc thợ, rồi nói với Mạnh Nương rằng :

Bà lớn cho tôi ăn uống, tôi xin ca một bài hát mới để bà lớn nghe.

Mạnh Nương rót chén rượu để thưởng cho ưu Thi, và đưa cho một món thịt dê mà hỏi rằng :

- Bài hát mới là bài gì ?

ưu Thi nói :

- Tên gọi là bài Hạ Dư ! Quan đại phu đây được nghe bài hát ấy thì mới có thể giữ được phú quý.

Nói xong, liền gõ nhịp hát. Hát rằng :

"Chim hạ dư ngô ngô hề... chi cho bằng Ô Ô !

Người ta họp cả Ở trong vườn hoa hề... sao mày cứ đậu Ở cành

khô ?

Vườn hoa kia, tốt đẹp dường bao hề... cành khó kia, tất có ngày

bị lưỡi dao!

Lưỡi dao sắp đến nơi hề... cành khô kia biết làm thế nào ? "

ưu Thi hát xong, Lý Khắc cười mà nói rằng :

- Thế nào là vườn hoa ? Thế nào là cành khô ?

Uu Thi nói :

Thí dụ như người ta, mẹ đang làm phu nhân, con sắp sửa được nói ngôi vua, tức là một cái cây tươi rườm rà, các giống chim nương tựa Ở đấy, thế gọi là vườn hoa ; còn như mẹ đã chết rồi, con lại bị người ta dèm pha, chẳng bao lâu sẽ có tai vạ, tức là một cái cây gốc lay lá rụng, các giống chim còn nương tựa vào đâu, thế gọi là cành khô.

Nói xong, bèn cáo từ lui ra. Lý Khắc trong lòng áy náy, đứng dậy trở vào thư phòng, một mình lững thững, đi quanh trong nhà, vừa đi vừa suy nghĩ, nghĩ quẩn nghĩ quanh, không thể ngủ được. Lý Khắc nghĩ thầm trong lòng rằng :

- ưu Thi là một người yêu của chúa công và phu nhân bây giờ, vẫn được ra vào Ở chỗ cung cấm, ngày hôm nay hát như thế tất là có ý Hắn nói chưa hết lời, âu là sáng ngày mai ta phải hỏi lại mới được. Đến nửa đêm, Lý Khắc ruột nóng như lửa, không thể chờ được nữa, mới sai người gọi ưu Thi đến hỏi chuyện. ưu Thi biết trước, đã sắp sửa mũ áo chỉnh tề, liền đi theo người nhà vào thẳng đến tận chỗ giường nằm của Lý Khắc. Lý Khắc cho ưu Thi ngồi Ở bên cạnh giường, lấy tay vỗ vào đùi mà hỏi rằng :

- Bài hát của nhà ngươi hôm nay, ta đã hiểu ý, có phải là trỏ thế tử Thân Sinh Ở đất Khúc ốc không ? Tất là nhả ngươi có được biết chuyện làm sao ; vậy nên nói cho ta hay đừng giấu ta làm gì !

ưu Thi nói :

- Tôi vẫn muốn nói đã lâu, nhưng chỉ hiềm ngài là quan thái phó của Thân Sinh, nên chưa dám nói, sợ ngài lấy làm quái dị mà thôi.

Lý Khắc nói :

Nhà ngươi nói để cho ta biết cách mà tránh vạ, thế là nhà ngươi yêu ta, có gì mà quái dị ?

Uu Thi cúi đầu ghé lại bên gối mà nói thầm rằng :

Chúa công đã hứa lời với phu nhân, định giết Thân Sinh mà lập Hề Tề rồi đó !

Lý Khắc nói :

Còn ngăn cản được nữa không ?

ưu Thi nói :

Chúa công yêu phu nhân, điều đó ngài đã biết ; chúa công lại yêu Lương Ngũ và Đông Quan Ngĩl, điều đó ngài cũng đã biết. Trong thì có phu nhân, ngoài thì có Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ, việc ấy

còn ngăn thế nào được !

Lý Khắc nói :

- Theo ý chúa công mà giết Thân Sinh thì ta không nỡ ; mà giúp Thân Sinh để chống nhau với chúa công thì ta không dám ; âu là ta cứ Ở giữa chẳng theo bên nào cả, mới có thể thoát nạn được.

Uu Thi nói :

Ngài nghĩ phải lắm !

Khi Uu Thi đã lui về rồi, Lý Khắc ngồi cho đến suốt sáng, đem quyển sách của Sử TÔ và Bốc Yển ghi chép mấy lời trong quẻ bói ngày trước tính ra vừa được mười năm, mới thở dài mà than rằng :

Việc bói toán cũng nghiệm thật !

Nói xong, liền đến nhà quan đại phu là Phi Trịnh Phủ, đuổi hết người xung quanh đi, rồi bảo Phi Trịnh Phủ rằng :

- Lời nói Sử TÔ và Bốc Yển đến nay mới nghiệm.

Phi Trịnh Phủ hỏi :

- Ngài nghe thấy chuyện gì vậy ?

Lý Khắc nói :

- Đêm mới rồi, ưu Thi có bảo tôi rằng : "Chúa công sắp giết Thân Sinh mà lập Hề Tề ?"

Phi Trịnh Phủ nói :

Vậy ngài trả lời thế nào ?

Lý Khắc nói :

Tôi bảo hắn là tôi cứ đứng giữa mà thôi.

Phi Trịnh Phủ nói :

- Ngài nói như thế thì khác nào trông thấy lửa cháy mà lại cho thêm củi vào. Cứ như ngài bây giờ thì tôi thiết tưởng nên giả cách làm ra ý không tin ; hắn thấy ngài không tin thì tất phải e sợ mà chưa

dám làm vội ; bấy giờ sẽ vì Thân Sinh mà lập thêm vây cánh để giữ gìn lấy ngôi thế tử, rồi sau tìm cách mà giãi bày với chúa công, khiến cho chúa công nghĩ lại, như thế thì còn có thể cứu vãn được. Nay ngài bảo là ngài đứng giữa thì Thân Sinh thành ra cô thế, chẳng bao lâu sẽ có tai vạ.

Lý Khắc giẫm chân xuống đất mà than rằng :

Tiếc thay ! Tôi không bàn với ngài trước. Lý Khắc cáo từ trở vễ, giả cách ngã xe, rồl ngày hôm sau nói dối là bị thương Ở chân, không vào triều được. Uu Thi đem chuyện Lý Khắc nói lại cho Ly CƠ nghe. Ly CƠ rất bằng lòng ; đêm hôm ấy Ly CƠ nói với Hiến công rằng :

- Lâu nay thế tứ vẫn Ở đất Khúc ốc, chúa công nên cho người triệu vễ, nói là thiếp có lòng mong thế tử lắm, để thiếp mua chuộc lấy lòng thế tử, họa may thế tử nghĩ lại mả đừng làm hại thiếp chăng. Chúa công nghĩ thế nào ?

Hiến công nghe lời, cho người triệu thế tử Thân Sinh về. Thân Sinh vào yết kiến Tấn Hiến công, rồi lại vào cung yết kiến Ly Cơ, Ly CƠ bày yến tiệc để thết đãi, chuyện trò vui vẻ. Ngày hôm sau, Thân

Sinh lại vào cung tạ ơn bữa yến. Ly CƠ lại giữ Thân Sinh Ở lại ăn cơm với nàng. Đêm hôm ấy, Ly CƠ lại khóc lóc mà nói với Tấn Hiến công rằng :

- Thiếp muốn mua chuộc lòng thế tử cho nên mời thế tử để tỏ lòng kính nề, chẳng ngờ thế tử vô lễ quá ?

Hiến công hỏi :

Làm sao ?

Ly CƠ nói :

Thiếp mời thế tử Ở lại dùng bữa cơm trưa, thế tử đòi rượu, khi đã ngà ngà say thì giở giọng đùa bỡn mà bảo thiếp rằng : "- Cha tôi già rồi ? Thế mẹ làm sao bấy giờ ?" Thiếp nổi giận nhưng không trả

lời Thế tử lại nói : "- ông tôi ngày xưa lúc về già thì đem mẹ tôi là Tề Khương mà để lại cho cha tôi, nay cha tôi già, tất lại để nàng cho tôi chứ còn ai !" Nói xong toan xông lại mà nắm lấy tay thiếp, thiếp chống cự mãi mới chạy thoát. Nếu chúa công không tin thì xin chúa công thử cho thiếp cùng thế tử vào chơi trong vườn hoa, rồi chúa công đứng Ở trên đài mà nom xem thì sẽ biết rõ được tình ý.

Hiến công nghe lời. Sáng hôm sau, Ly CƠ triệu thế tử Thân Sinh cùng vào chơi trong vườn hoa. Ly CƠ đã lập kế sẵn, đem mật ngọt bôi vào mái tóc ; khi vào đến vườn hoa, ong bướm bay xúm xít lại, đậu khắp trẽn đầu. Ly CƠ bèn quay bảo Thân Sinh rằng :

- Kìa ! Sao thế tử không đuổi hộ ong bướm đi cho tôi ? Thân Sinh vô tình, đi đằng sau lấy tay áo xua đuổi đàn ong bướm. Hiến công đứng Ở trên đài trông thấy, yên chí là Thân Sinh trêu ghẹo Ly Cơ, trong lòng tức giận toan bắt Thân Sinh đem chém.

Ly CƠ quỳ xuống mà tâu rằng :

Nay thiếp triệu Thân Sinh đến mà chúa công lại đem giết đi thì làm cho thiếp mang tiếng là mưu giết thế tử. Vả lại, đó là một việc ám muội, người ngoài chưa ai biết đến, xin chúa công hãy nẽn nén

lòng đãHiến công liền cho Thân Sinh trở về Khúc ốc, rồi mật sai người bới lông tìm vết để trị tội. Một hôm, Tấn Hiến công đi săn Ở đất Địch Hoàn, Ly CƠ lại cùng với Uu Thi thương nghị ; rồi sai người ra bảo thế tử Thân Sinh rằng :

Đêm qua thiếp nằm mộng thấy Tề Khương (mẹ Thân Sinh) kêu đói , không có gì ăn, thế tử nẽn mau mau cúng tế đi. Bấy giờ Tề Khương có đền thờ Ở đất Khúc ốc, Thân Sinh liền làm lễ tế, rồi sai người đem phần tế biếu Hiến công. Hiến công đi săn chưa về, phần tế ấy để tại trong cung đă được sáu ngày. Khi Hiến công về Ly CƠ đem thuốc độc bỏ vào rượu và tẩm vào thịt đệ trình Hiến công, rồi nói :

- Thiếp nằm mộng thấy Tề Khương kẽu đói, nhân chúa công đi vắng, thiếp có sai người ra bảo thế tử làm lễ tế Tề Khương ; đây là phần tế của thế tử biếu chúa công đó !

Tấn Hiến công toan rót rượu ra uống. Ly CƠ quỳ xuống mà can rằng :

Những đồ ăn từ ngoài đem đến, nên phải cho thử mới được. Tấn Hiến công khen phải, liền đem rượu rót thử xuống đất, tức thì chỗ đất ấy dộp phồng lên. Lại gọi chó đến, lấy một miếng thịt ném cho nó ăn thì nó chết ngay. Ly CƠ giả cách không tin, lại gọi một đứa nội thị nhỏ ra bắt ăn thử. Đứa nội thị không chịu ăn. Ly CƠ cố bắt ép. Đứa nội thì vừa mới nuốt khỏi cổ họng thì đổ máu mồm máu mũi ra mà chết. Ly CƠ giả cách kinh hoảng, chạy xuống dưới thềm mà kẽu lên rằng :

- ối giời đất ơi ! CƠ nghiệp này bao giờ cũng là của thế tử ? Chúa công đã già rồi, thế tử lại không thể chừ đợi trong ít lâu được hay sao !

Nói xong, nước mắt chảy xuống ròng ròng. Ly CƠ bèn quỳ trước mặt Hiến công, nức nở nói :

- Thế tử sở dĩ bày ra mưu kế này chỉ tại mẹ con thiếp mà thôi, xin chúa công hãy đem rượu thịt ấy cho thiếp, thiếp xin chết thay chúa công để cho thế tử được thỏa lòng.

Nói xong, cầm lấy chén rượu toan uống. Hiến công vội vàng giằng lấy, tức giận uất lên, không thể nói đựoc. Ly CƠ lăn xuống đất mà khóc, lại than thở rằng :

Thế tử nhẫn tâm quá ! Cha đẻ ra mà còn muốn giết, huống chi là người khác. Trước kia chúa công toan bỏ hắn đi, thiếp vẫn không muốn ; đến khi hắn trêu ghẹo thiếp trong vườn, chúa công cũng toan đem giết, thiếp lại cố xin hộ ; để đến ngày nay suýt nữa thì làm hại chúa công, thật là lỗi tại thiêp đó !

Hiến công im lặng giờ lâu, rỗi giơ tay ôm lấy Ly Cơ, đỡ dậy mà bảo rằng :

- Thôi phu nhân cứ đứng dậy, để ta tuyên cáo việc này cho các quan nghe, rồi giết đứa tặc tử ấy đi mới được.

Nói xong, liền ra ngự triều, triệu các quan đại phu đến thương nghị. Các quan biết chủ ý của Hiến công đă quyết định như vậy, đều nhìn nhau mà không dám nói.

Đông Quan Ngũ nói :

- Thế tử vô đạo như vậy, tôi xin đem quân đi đánh.

Hiến công bèn sai Đông Quan Ngũ làm phó tướng, đem quân đi đánh đất Khúc ốc. HỒ Đột dẫu đóng cửa Ở trong nhà, không đi đến đâu nhưng vẫn cho người đi dò la công việc trong triều, nghe tin Đông Quan Ngũ và Lương Ngũ đem quân đi đánh Khúc ốc, tức khắc sai ngưừi tâm phúc đi mật báo cho Thân Sinh biết trước. Thân Sinh nói chuyện với quan thái phó là ĐỖ Nguyên Khoản.

ĐỖ Nguyên Khoản nói :

Phần tế để trong cung đã sáu ngày thì rõ là có người trong cung bỏ thuốc độc vào ; thế tử nên làm một tờ trạng khiếu oan, chẳng lẽ cả trong triều thần lại không có ai dám nói hay sao ? Còn hơn là cứ ngồi mà chịu chết ?

Thân Sinh nói :

Chúa công ta không có Ly CƠ thì ăn không được ngon, ngủ không được yẽn. Nay tôi khiếu oan mà không minh ra được thì lại càng thêm tội ; may mà minh ra được thì vị tất chúa công đă trị tội Ly Cơ, mà khiến cho chúa công lại thêm một nỗi đau lòng, chi bằng tôi chịu chết cho xong ?

ĐỖ Nguyên Khoản nói :

Ta hây trốn sang nước khác, để lo liệu về sau, thế tử nghĩ thế nào ?

Thân Sinh nói :

Chúa công không xét cho là vô tội mà sai người đem quân đến đánh tôi ; tôi đă mang cái tiếng là người giết cha thì dẫu đi đến đâu, người ta cũng coi tôi như một giống chim cử mổ mẹ mà thôi. Nếu tôi

trốn đi mà đổ lỗi cho chúa công thì thành ra bêu cái tiếng ác của quân phụ cho các nước khác chê cười. Thôi thì chỉ một chết là hơn cả.

Nói xong, liền viết thư trả lời HỒ Đột rằng :

Thân Sinh này có tội, xin đành chịu chết ! Nhưng chúa công nay già rồi, các công tứ hăy cón ít tuối, xin ngài lưu ý mà giúp đỡ cho ; tôi dầu chết xuống suối vàng, thật cũng đội ơn nhiều lắm !"

Đoạn Thân Sinh ngảnh mặt về phía bắc, sụp lạy hai lạy rồi tự thắt cổ mà chết. Sáng hôm sau, Đông Quan Ngũ đem quân đến, thấy Thân Sinh đã chết rỗi, liền bắt ĐỖ Ngllyên Khoản vễ nộp Hiến công

và nói rằng :

Thế tử biết tội, đă tự tử mà chết trước rồi !

Hiến công sai ĐỖ Nguyên Khoản làm chứng vào từ tội trạng của Thân Sinh, ĐỖ Nguyên Khoản kêu rầm lên rằng :

- Trời có thấu nỗi oan nảy cho chăng ! Tôi sở dĩ không chết theo mà chịu cho bắt về đây, chính là muốn để giãi bày tấm lòng của thái tử đó Phần tế để Ở trong cung đã sáu ngày, nếu có thuốc độc từ trước thì làm gì mà còn nguyên vẹn được ?

Ly CƠ đứng nấp Ở sau bình phong, nghe thấy ĐỖ Ngllyên Khoản nói vậy, vội vàng quát to lên rằng :

- ĐỖ Nguyên Khoản giữ chức thái phó mà để cho thế tử làm phản, chẳng đem giết đi, còn để làm gì !

Hiến công liền sai lực sĩ cầm dùi đồng đánh vào đầu ĐỖ Nguyên Khoản, vỡ óc ra mà chết. Các quan trong triều đều gạt nước mắt thương thầm. Đông Quan Ngũ và Lương Ngũ bảo ưu Thi rằng :

Trùng Nhĩ và Di Ngô cùng một bè cánh với thế tử, thế tử dẫu chết rỗi, nhưng hai vị công tử kia hăy còn, ta cũng lấy lãm lo ngại.

ưu Thi bèn khuyên Ly CƠ lập kế để hại Trùng Nhĩ và Di Ngô. Đêm hôm ấy, Ly CƠ lại khóc nức nở mà nói với Hiến công rằng :

- Thiếp nghe tin đồn Trùng Nhĩ và Di Ngô cùng dự mưu với Thân Sinh. Nay Thân Sinh chết đi thì hai vị công tử kia đổ lỗi tại thiếp, đã sắp định đem quân về đánh úp kinh thành để giết thiếp đi, chúa công cũng nên xét đến việc ấy.

Hiến công còn có ý chưa tin. Sáng hôm sau ra tnều, có người báo rằng :

Trùng Nhĩ và Di Ngô định vào triều, khi đến cửa quan nghe thấy việc thế tử Thân Sinh chết, đều lại quay xe đi cả.

Hiến công nói :

Trùng Nhĩ và Di Ngô không cáo từ với ta mà bỏ đi ngay tất là có dự mưu với Thân Sinh dó !

Nóỉ xong, liền sai Bột Đề đem quân sang đất BỒ để bắt công tử Trùng Nhĩ ; Giả Hoa đem quân sang đất Khuất để bắt công tử Di Ngô.

HỒ Đột bèn gọi ngườì con thứ là HỒ Yển đến trước mặt mà bảo rằng :

Công tử Trùng Nhĩ là người có tướng lạ : xương sườn dính nhau, mỗi mắt có hai con ngươi, lại là ngườì hiễn minh, mai sau tất làm nên. Vả nay thế tử Thân Sinh chết rồi thì tất đến Trùng Nhĩ được nối ngõi, mày nên sang đất BỒ mà cùng với anh mày lâ HỒ Mao (bấy giờ HỒ Mao đã theo Trùng Nhĩ sang Ở đất Bồ) cùng giúp Trùng Nhĩ đi trốn.

HỔ Yển vâng lời tức khắc sang đất BỒ để theo Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ sọ hâi, cùng với HỒ Mao và HỒ Yển bàn nhau đi trốn. Bỗng nghe báo Bột Đề đă đem quân đến vây nhà Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ cùng với HỒ Mao và HỒ Yển chạy ra vườn sau để trốn đi. Bột Đề cầm gươm đuổi theo, HỒ Mao và HỒ Yển trèo tưừng ra trước, rồi đtmg Ở ngoài mà dìu Trùng Nhĩ sang. Bột Đề nắm được vạt áo Trùng Nhĩ, vừa giơ gươm toan chém thì vạt áo đứt, Trùng Nhĩ chạy thoát được. Bột Đề đem cái vạt áo ấy về nộp Tấn Hiến công.

Trùng Nhĩ trến sang nước Địch. Vua nước Địch hôm trước nằm mọng thấy con rồng xanh phủ Ở trên mặt thành, bấy giừ thấy có Trùng Nhĩ đến, liền vui ỵẻ mời vào. Được một lúc, lạỉ có một bọn kéo đến, gọi cửa thành gấp lắm, Tnìng Nhĩ ngơ là quân đuổi theo, liễn bảo trên mặt thành bắn tên xu6ng. Người dưới thành kêu rầm lên rằng :

- Chúng tôi không phải là quân đuổi theo, đều là bế tôi Ở nước Tấn tình nguyện đi theo công tử.

Trùng Nhĩ trèo ]ên mặt thành nhìn xem thì thấy người đi đầu là Triệu Thôi, tên tự là Tử Dư hiện đang làm quan nước Tấn. Trùng Nhĩ nói :

- Triệu Thôi đâ tới đây thì ta không lo gì nữa ?

Nói xong, sai mở cửa đón vào. Trong bọn ấy có Tư Thần, Ngụy Thù HỒ Xạ Cô, Điên Hiệt, Giới Tử Thôi, Tiên Chẩn đếu là những người có danh tiếng ; lại có bọn HỒ Thúc đến vài ba mươi người nữa.

Trùng Nhĩ giật mình, nói :

- Các ngươi đang Ở trong tnều, sao lại đến cả đây thế này ? Bọn Triệu Thôi đồng thanh nói rằng :

- Chúa công thất đức, mê đắm Ly Co mà giết hại thế tử, chẳng bao lâu nước Tấn tất có loạn to. Chúng tôi vốn biết công tử là người hiền minh, cho nên quyết chí theo công tử.

Trùng Nhĩ khóc mà nói rằng :

Các ngươi có lòng giúp tôi, bao giở tôi dám quên ơn.

Ngụy Thù nói :

Công tử Ở đất BỒ đã mấy năm nay, người đất BỒ ai cũng yêu mến, đều một lòng theo công tử. Nếu công tử nhờ người nước Địch giúp cho, lại đem quân đất BỒ mà kéo về, tồi chắc rằng trong triều tất

có người nổi lên làm nội ứng. Bấy giờ công tử trừ bọn làm loạn Ở bên cạnh chúa công đi mà giữ yên lấy cơ nghiệp nước nhà, chảng hơn là cứ trốn tránh mãi thế này hay sao !

Trùng Nhĩ nói :

- Nhà ngươi nói hăng hái lắm ! Nhưng e rằng làm thế thì khiến cho quân phụ ta phải sợ hãi, có đâu ta dám theo lời.

Ngụy Thù là một người dũng sĩ, thấy Trùng Nhĩ không theo lời, liền nghiến răng nghiến lợi, giẫm chân xuống đất mà nói rằng :

- Công tử sợ bọn Ly CƠ như là hùm cọp, rắn rết, còn bao giờ làm được việc gì ?

HỒ Yển bảo Ngụy Thù rằng :

Công tử không phải sợ bọn Ly Cơ, chi sợ hai chữ "danh nghĩa" mà thôi !

Ngụy Thù không dám nói nữa. Nguyên Trùng Nhĩ từ thuở bé vốn là người có lễ phép mà lại biết trọng những kẻ hiền sĩ, vậy nên đến khi đi trốn, có rất nhiều hào kiệt muốn theo. Chỉ có ba người là Khước Nhuế, Lã Di Xanh vả Quắc Xạ (công tử Di Ngô gọi lả cậu), chạy sang đất Khuất để theo Di Ngô, ba người ấy đem việc Giả Hoa sắp đến bắt báo trước cho công tử Di Ngô biết. Công tử Di Ngô liền sai

người đóng cửa thành lại để chống giữ. Giả Hoa không có ý muốn bắt Di Ngô, bèn mật sai người vào bảo Di Ngô rằng :

- Công tử nên trốn ngay đi, nếu không thì sắp có quân đuổi theo, công tử không thể nào địch nổi đâu.

Di Ngô bảo Khước Nhuế rằng :

Trừng Nhĩ nay Ở nước Địch, hay là ta cũng chạy sang nước Địch, phỏng có nên không ?

Khước Nhuế nói :

- Chúa công vẫn bảo là hai vị công tử thông mưu với nhau, bởi vậy mới sai người đem quân đi đánh ; bây giờ hai người cùng chạy đến cả một nơi thì Ly CƠ lại có cớ mà nói được. Vả chúa công thế nảo cũng sai người đem quân đi đánh nước Địch, chi bằng ta chạy sang nước Lương là hơn. Nước Lương tiếp giáp với nước Tần, mà nước Tần nay đang cường thịnh ; khi chúa công trăm tuổi rồi, ta có thể mượn binh nước Tần mà về nước được.

Công tử Di Ngô liễn chạy sang nước Lương. Giả Hoa giả cách đuổi theo không kịp, đem quân trở về. Tấn Hiến công nổi giận truyền đem Giả Hoa ra chém. Phi Trịnh Phủ tâu rằng :

- Ngày trước chúa công sai đắp thành cho hai vị công tử ở, bắt làm kiên cố quá, vậy nên nay không đánh nổi, chứ Giả Hoa có tội gì đâu !

Lương Ngũ cũng tâu rằng :

Di Ngô là người ngu hèn, khồng cần gì hắn, còn Trùng Nhĩ có tiếng là người tài đức, hiện nay các quan trong triều đi theo nhiều lắm. Vả nước Địch là một nước thù với ta, nếu ta không đánh nước Địch mà trừ Trùng Nhĩ đi thì mai sau tất có tai vạ.

Hiến công liền tha cho Giả Hoa lại sai người triệu Bột Đề đến. Bột Đề nghe tin Giả Hoa suýt phải tội chết ; có ý sợ hãi, mới nói với Hiến công, tình nguyện đem quân đi đánh nước Địch. Hiến công cho đi, BỒ Đề đem quân đến nước Địch. Vua nước Địch cũng đem quân ra chống giữ. Quân hai bên giữ nhau đến hai tháng. Phi Trịnh Phủ nói với Hiến công rằng :

Cha con không nên tuyệt tình quá ! Hai vị công tử cũng chưa có tội trạng gì, nay đã chạy trốn mà còn cố theo để giết, chẳng hóa ra nhẫn tâm lắm ru ! Vả quân ta vị tất đã đánh nổi quân nước Địch, nếu ta cố đánh mãi thì chỉ nhọc quân mà để cho nước láng giềng chê cười mà thôi.

Hiến công nghĩ lại, triệu Bột Đề đem quân về. Hiến cõng nghi các vị công tử phần nhiều là bè cánh Trùng Nhĩ và Di Ngô, mai sau tất ngăn trở việc Tề Hề, liền hạ lệnh đuổi hết các vị công tử, rồi lập Tề

Hề lên làm thế tử. Các quan trong triều, chỉ trừ Đông Quan Ngũ, Lương Ngũ và Tuân Tức, còn ai cũng khõng bằng lòng cả ; phần đông cáo ốm xin từ chức. Đến tháng chín năm ấy, Tấn Hiến công định sang

hội với Tề Hoàn công Ở đất Quỳ Khâu, nhưng sang không kịp, lại trở về nước. Trong khi đi đường, bị đau nặng, đến lúc về cung, Ly CƠ ngồiø ở dưới chân mà khóc rằng :

Chúa công gặp cơn gia biến, đuổi hết các vị công tử mà lập Hề Tề ; một mai chúa công trăm tuổi, thiếp là đàn bà, Hề Tề hây còn bé, bấy giờ các vị công tử ỷ thế nước ngoài mà đem quân vế thì mẹ con thiếp biết trông cậy vào đâu !

Hiến công nói :

- Phu nhân chớ lo ! Quan thái phó Tuân Tức vốn ngưởi trung thành để ta đem thế tử Hề Tề ủy thác cho Tuân Tức. Nói xong, liền gọi Tuân Tức đến bên cạnh giường nằm mà hỏi rằng :

- Ta nghe nói người quân tử lấy điều trung tín làm gốc, thì thế nào gọi là điều trung tín ?

Tuân Tức nói :

- Hết lòng để thờ vua thì gọi là trung ; dẫu chết không sai lời thì gọi là tín.

Hiến công nói :

Ta muốn đem thế tứ Hề Tề ủy thác cho nhà ngươi, chẳng hay nhà ngươi có nhận lời chăng ?

Tuân Tức sụp lạy mà nói rằng :

- Tôi xin hết sức giúp thế tử.

Hiến công ứa hai hàng nước mắt. Ly CƠ cũng rên n khóc Ở trong màn. Mấy hôm sau, Hiến công mất, Ly CƠ ẵm công tử Hề Tề đưa cho Tuân Tức. Bấy giờ Tề Hề mới mười một tuổi.

Tuân Tức theo di mệnh lập Hề Tề nối ngôi. Ly CƠ cũng theo di mệnh cho Tuân Tức làm chức thượng khanh, Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ làm chức Tả tư mã để tổng thống binh quyền, đi tuần hành trong nước. Phàm các việc chính trị, bất cứ việc lớn việc nhỏ, đều phải trình với Tuân Tức rồi mới được thi hành.

Hồi 28

Lý Khắc một tay giết hai vua

Di Ngô nhờ Tần về nước Tấn

Tuân Tức lập công tử Hề Tề lên nối ngôi, các quan trong triều đều bái mệnh cả, chỉ có HỖ Đột cáo ốm không đến. Lý Khắc nói riêng với Phi Trịnh Phủ rằng :

Bây giờ lập Hề Tề thì còn Trùng Nhĩ vả Di Ngô làm thế nào ?

Phi Trịnh Phủ nói :

- Việc này cốt Ở tay Tuân Tức, để ta dò xem ý hắn thế nào. Nói xong, hai người cùng lên xe đến nhà Tuân Tức, Tuân Tức mời vào. Lý Khắc nói :

- Nay chúa công mất đi, Trùng Nhĩ và Di Ngô đều Ở ngoài cả, ngài là quan đại thần trong nước, sao không đón Trùng Nhĩ là một vị công tử hơn tuổi để về nối ngôi, mà lại lập Hề Tề là con Ly CƠ thì sao cho người ta phục. Vả bè cánh các vị công tử, ai cũng oán mẹ con Hề Tề thâm nhập cốt tủy nhưng không làm gì chỉ vì sợ uy của tiên quân ta ngày xưa mà thôi. Bây giờ ghe tin tiên quân mất rồi, tất nhiên sinh biến : mặt ngoài thì nước Tần nước Địch giúp vào, mặt trong thì người trong nước nổi lên bấy giờ ngài nghĩ cách gì mà giữ nổi !

Tuân Tức nói :

Tôi chịu di mệnh của tiên quân ta mà lập Hề Tề thì tôi chỉ xin hết một lòng để giúp Hề Tề mà thôi, còn ngoài ra không biết có ai cả nếu không giúp nổi thì đành chịu chết để đáp lại tấm lòng ủy thác của tiên quân ta.

Phi Trịnh Phủ nói :

Thế thì chỉ là chết uổng mà thôi, sao ngài không nghĩ lại ?

Tuân Tức nói :

Tôi đã nhận lời với tiên quân rồi, dẫu biết rằng chết uổng, cũng không dám sai lời.

Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ hai ba lần khuyên bảo mãi. Tuân Tức cứ một lòng sắt đá, nhất định không nghe. Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ bèn cáo từ lui ra. Hai người nói riêng với nhau rằng :

- Ta nghĩ Tuân Tức là bạn đồng liêu với nhau, đem việc phải đến bảo hắn,hắn lại nhất định không nghe thì biết làm thế nào ?

Phi Trịnh Phủ nói :

Hắn giúp Hề Tề, ta giúp Trùng Nhĩ, mỗi đằng giúp một bên, có ngại chi điều ấy ?

Nói xong, hai người liền mật ước với nhau, sai kẻ lực sĩ đi lẫn vào trong bọn thị vệ, nhân lúc Hề Tề đi tế ở thái miếu, đổ ra mà giết , bấy giờ có Ưu Thi đứng Ở bên cạnh, cầm gươm đến cứu, cũng bị bọn lực sĩ giết chết.

Tuân Tức nghe tin, giật mình kinh sợ, vội vàng chạy đến, ôm lấy thây Hề Tề mà khóc rằng :

Ta chịu di mệnh giúp thế tử mà giúp không nổi, thật là cái lỗi của ta

Nói xong, toan đập đầu vào cột. Ly CƠ vội vàng sai người ngăn lại mà can rằng :

Xin quan đại phu nghĩ lại, Hề Tề dẫu chết, còn Trác Tử cũng có thể giúp được ?

Tuân Tức liền sai bắt vài ba mươi người canh giữ Ở đấy đem giết cả đi, rồi cùng với các quan hội nghị và cùng nhau lập Trác Tử lên nối ngôi. Bấy giờ Trác Tử mới lên chín tuổi. Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ giả cách không biết, không dự hội nghị. Lương Ngũ nói :

Việc giết thế tử chính là Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ vì Thân Sinh mà báo thù nay họ không đến dự hội nghị thì tội lại càng rõ lắm, xin đem quân đến bắt để trị tội.

Tuân Tức nói :

- Hai người ấy là lão thần nước Tấn ta, vây cánh rất mạnh, nếu trị mà không nổi thì lại thành ra hỏng việc, âu là ta hãy ẩn nhẫn một chút, rồi sẽ liệu dần.

Lương Ngũ lui về, nói riêng với Đông Quan Ngũ rằng :

Tuân Tức là người trung, nhưng ít mưu kế, lâm việc gì cũng rút rát lắm, không có thể trông cậy được ? Nay Lý Khắc dẫu cùng với Phi Trịnh Phủ là một đảng, nhưng chỉ có Lý Khắc mới thật có lòng với Thân Sinh nếu ta trừ được Lý Khắc đi thì Phi Trịnh Phủ tự khắc phải sinh chán.

Đông Quan Ngũ nói :

Dùng kế gì mà trừ được ?

Lương Ngũ nói :

- Nay nhân lúc có tang, thế nảo Lý Khắc cũng phải đi đưa đám, ta sai người đón đường mà giết đi thì chẳng khó nhọc gì cả, chi mất công một ngày thôi. .

Đông Quân Ngũ khen phải, bảo Lương Ngũ rằng :

ĐỒ Ngạn Di là một người có sức mang nổi ba nghìn cân, nếu ta đem tước lộc mà dụ dỗ thì có thể sai khiến được.

Nói xong, bèn bảo ĐỖ Ngạn Di. ĐỒ Ngạn Di quen thân với quan đại phu là Chuy Suyễn, lại đem việc ấy đến bảo với Chuy Suyễn và hỏi có nên làm không. Chuy Suyễn nói :

Việc Thân Sinh ngày xưa vì mẹ con Ly CƠ mà bị oan, người trong nước ai cũng thương xót, nay Lý Khắc và Phi Trinh phủ định giết bọn Ly Cơ, rồi đón công tử Trùng Nhĩ vễ nối ngôi, đó là một nghĩa cử ! Nếu nhà ngươi giúp đứa gian nịnh thì chẳng những chúng ta không tha nhà ngươi, mà muôn đời về sau, nhà ngươi còn đeo mãi cái

tiếng xấu ấy, nhà ngươi chớ có nghe lời.

ĐỒ Ngạn Di nói :

- Chúng tôi dốt nát không biết gì, bây giờ chẳng hay làm thế nào mà từ chối được.

Chuy Suyễn nói :

- Nhà ngươi từ chối thì tất hắn lại sai người khác, chi bằng cứ giả cách nhận lời, rồi quay lại giết cả bọn gian nịnh ấy đi, như thế nhà ngươi có công to, sau này vừa được phú quý, vừa được danh tiếng, chẳng hơn là làm việc bất nghĩa mà chết thiệt thân ư !

ĐỒ Ngạn Di nói :

- Ngài dạy phải lắm !

Chuy Suyễn nói :

Chỉ sợ nhà ngươi lại thay lòng đổi dạ thôi !

ĐỒ Ngạn Di nói :

Nếu ngài không tin thì tôi xin ăn thề.

Nói xong, liền cắt tiết gà lấy máu ăn thề. ĐỒ Ngạn Di lui về. Chuy Suyễn tức khắc thuật chuyện lại cho Phi Trịnh Phủ nghe. Phi Trịnh Phủ bàn với Lý Khắc, rồi sửa soạn sẵn để định đến hôm đưa đám thì khởi sự. Đến hôm ấy, Lý Khắc cáo ốm không đi. ĐỖ Ngạn Di nói với Đông Quan Ngũ rằng :

- Các quan đều đi đưa đám cả, chỉ có Lý Khắc không đi, đó là Lý Khắc đến ngày tận số ! Xin ngài giao cho tôi ba trăm giáp binh, tôi đến nhà Lý Khắc bắt mà giết đi là xong.

Đông Quan Ngũ bằng lòng, liền giao cho ĐỒ Ngạn Di ba trăm giáp binh. ĐỖ Ngạn Di giả cách đến vây nhả Lý Khắc. Lý Khắc cố ý sai người báo tin cho Tuân Tức biết. Tuân Tức giật mình kinh sợ mà hỏi Đông Quan Ngũ. Đông Quan Ngũ nói :

- Tôi nghe Lý Khắc sắp sửa nổi loạn, vậy có sai người đem quân đến vây nhà, việc ấy không can ngại gì !

Tuân Tức ruột nóng như lửa, liền sai Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ đem quân đi ngay để đò la tin tức, còn mình thì ẵm Trác Tử ngồi Ở trong triều. Đông Quan Ngũ đi đến nửa đường, gặp ĐỒ Ngạn Di. ĐỖ Ngạn Di giả cách đến gần nói có việc cần kíp, rồi giơ tay bóp cổ Đông Quan Ngũ. Đông Quan Ngũ gẫy cổ mà chết, quân sĩ bỏ chạy tán loạn

cả, ĐỒ Ngạn Di thét to lên rằng :

Công tử Trùng Nhĩ đem quân nước Tần và nước Địch về, hiện đã đóng Ở ngoài thành Ta đây phụng mệnh quan đại phu là Lý Khắc, vì Thân Sinh mà báo thù, giết những kẻ gian nịnh, để đón công tử Trùng Nhĩ về làm vua. Trong các ngươi, ai muốn theo thì đứng lại, ai không muốn theo thì cho đi !

Quân sĩ thấy nói đến Trùng Nhĩ về làm vua, thẩy đều tình nguyện xin theo cả. Lương Ngũ nghe tin Đông Quan Ngũ biết bị giết, toan trở về triều để cùng với Tuân Tức đem Trác Tử đi trốn, chẳng ngờ lại bị ĐỖ Ngạn Di đuổi kịp, Lý Khắc, Phi Trịnh Phủ và Chu Suyễn lại cũng kéo quân đến. Lương Ngũ biết cơ không chạy thoát được, liền rút gươm đâm cổ tự tử, nhưng đâm không đứt, bị ĐỖ Ngạn Di tóm ngay được. Lý Khắc xông lại, giơ gươm chém Lương Ngũ đứt làm hai mảnh. Bấy giờ quan đại phu là Cung Hoa cũng đem quân đến đánh giúp rồi cùng nhau kéo vào trong triều. Tuân Tức vẫn nghiễm nhiên không sợ hãi gì cả, tay trái ẵm Trác Tử, tay phải giơ ống tay áo để đỡ che. Trác Tử sợ hãi khóc rầm lên. Tuân Tức bảo Lý Khắc rằng :

Đứa bé con này có tội lỗi gì ! Thôi thì nhà ngươi giết ta mà tha cho giọt máu của tiên quân.

Lý Khắc nói :

Thân Sinh cũng là một giọt máu của tiên quân ta đó, bây giờ có thấy Ở đâu !

Nói xong, liễn ngảnh lại bảo ĐỒ Ngạn Di rằng :

- Sao nhà ngươi không hạ thủ đi ?

ĐỒ Ngạn Di tức khắc giằng lấy Trác Tử ném xuống đất, chỉ nghe thấy đánh "huỵch" một tiếng trông ra thì Trác Tử đă chết tươi rồi. Tuân Tức nổi giận, giơ gươm đánh nhau với Lý Khắc, cũng bị ĐỒ Ngạn Di chém chết. Lý Khắc lại kéo quân vào trong cung. Ly CƠ chạy trốn vào phòng Giả Quân. Giả Quân đóng cửa không cho vào. Ly CƠ lại chạy vào trong vườn, đâm đầu xuống hồ mà chết. Lý Khắc sai vớt xác lên mà đem xả ra, lại giết cả họ nhà Lương Ngũ, Đông Quan Ngũ và Ưu Thi. Lý Khắc họp các quan Ở trong mà bảo rằng :

- Nay đă trừ được bọn phản loạn rồi ! Trong ba công tử, chỉ có Trùng Nhĩ là hiền mà nhiều tuổi hơn cả, nên lập lên vua. Các quan ai thuận thì xin ký tên vào thẻ.

Phi Tnnh Phủ nói :

Việc nảy tất phải có lão quan là HỖ Đột làm chủ mới được !

Lý Khắc liền sai người đem xe đi đón HỒ Đột. HỒ Đột từ chối mà nói rằng :

- Lão phu có hai con theo công tử Trùng Nhĩ đi trốn, nay lão phu lại dự vào việc này thì sao cho tiện ? Lão phu đã già rồi, điếu ấy xin tùy ý các quan.

Lý Khắc liền cầm bút viết ngay tên mình Ở trên nhất, thứ nhì đến tên Phi Trịnh Phủ, dưới đến bọn Cung Hoa, Giả Hoa và Chuy Suyễn, cả thẩy hơn ba mươi người, rồi sai ĐỖ Ngạn Di sang nước Địch đón công tử Trủng Nhĩ. trùng Nhĩ xem trong tờ biểu không thấy tên HỒ Đột, có ý nghi hoặc. Ngụy Thả nói :

Người ta đón mà không về, thế công tử muốn Ở mãi đây hay sao ? Trùng Nhĩ nói :

Nhà ngươi không biết rõ, số là các công tử còn nhiều, cứ gì một ta. Vả Hề Tề và Trác Tử mới bị giết, bè cánh hãy còn nhiều. Nay ta về thì sau không có thể lại đi được. Nếu trời có lòng tựa, lo gì không có ngày

HỔ Yển cũng lấy việc nhân lúc biến loạn để về nối ngôi là một sự dở, liền khuyên Trùng Nhĩ không nên về. Trùng Nhĩ bèn từ chối rằng :

- Trùng Nhĩ này là một người có tội phải đi trốn, lúc cha còn đã không đưọc phụng dưỡng, lúc cha chết cũng không được trông nom, có đâu lại dám nhân sự biến loạn để về nối ngôi, xin các quan chọn người khác

ĐỒ Ngạn Di về bảo với Lý Khắc. Lý Khắc toan sai người đi đón lẫn nữa. Quan đại phu là Lương Do My nói :

Trong bọn công tử, ai chả có thể nối ngôi được sao ngài không đón Di Ngô ?

Lý Khắc nói :

Di Ngô là người tham lam mà tản nhẫn, không bằng Trùng Nhĩ

Lương Do My nói :

- Chẳng vẫn hơn các công tử khác ư !

Các quan đều thuận cả. Lý Khắc bất đầc dĩ lại sai ĐỖ Ngạn Di và Lương Do My sang nước Lương để đón Di Ngô. Bấy giờ công tử Di Ngô Ở nước Lương, vua nước Lương gả con gái cho, sinh được một ngườii con tên lả Ngữ. Di Ngô ngày đêm mong cho trong nước có biến loạn để mưu cơ trở về ; đến lúc nghe tin Tấn Hiến công mất, liền sai Lã Di Xanh đem quân về đánh lén lấy đất Khuất. Tuân Tức nhân trong nước lắm việc, cũng chưa kịp hỏi đến. Sau Lã Di Xanh nghe tin Hề Tề và Trác Tử bị giết, các quan sai người đi đón Trùng Nhĩ về nối ngôi, liền sai người phi báo cho Di Ngô biết. Di Ngô cùng với Quắc xạ và Khước Nhuế thương nghị, định đem quân về cướp ngôi. Bỗng thấy Lương Do My đến đón. Di Ngô liễn chắp tay để lên trán mà nói rằng :

Thế này mới thật là lòng trời định lấy ngôi của Trùng Nhĩ mà cho ta đó !

Nói xong, vẻ mừng rỡ hiện ra nét mặt.

Khước Nhuế nói :

Trùng Nhĩ có phải là không muốn nối ngôi đâu, nay không chịu về, tất là có nghi ngại điều gì đây ! Xin công tử chớ tin vội. Vả các quan Ở trong nước đón ai về nối ngôi, tất là có ý muốn cầu lợi ; nay trong bọn bề tôi nước Tấn, Lý Khắc đứng đầu, công tử nên để cho hắn được hậu lợi. Tuy vậy, cũng còn mối nguy. Ngày nay công tử về nước, khác nào như ngưừi vào hang hùm, tất phải có khí giới sắc bén, tôi thiết tưởng nên nhờ nước ngoài giúp sức thì mới có thể được. Mà các nước láng giềng ngày nay chi có Tần là mạnh.hơn cả, công tử nên sai người kết giao với Tần, nếu Tần chịu giúp sức cho thì ta không ngại gì nữa.

Di Ngô theo lời, liền viết thư hẹn cho Lý Khắc một trăm vạn mẫu ruộng Ở đất Phần Dương, và hẹn cho Phi Trịnh Phủ bảy mươi vạn mẫu ruộng Ở đất Phù Qùy, sai ĐỒ Ngạn Di về báo tin trước ; rồi lại viết một bức thư, sai Lương Do My sang sứ nước Tần, nói việc các quan đại phu nước Tấn cho sang đón Di Ngô về nối ngôi. Tần Mục

công bảo Kiển Thúc rằng :

- Khi trước ta đã nằm mộng thấy Ngọc Hoàng thượng đế sai ta dẹp loạn nước Tấn ; nay ta nghe nói Trùng Nhĩ và chưa biết nên giúp ai ?

Kiển Thúc nói :

- Trùng Nhĩ Ở nước Địch, Di Ngô Ở nước Lương, đều tiếp giáp nước ta cả, sao chúa công không sai người đến thăm để xét xem là người thế nảo đã.

Mục công theo lời, liền sai công tử Chí sang thăm Trùng Nhĩ trước rồi sau thăm đến Di Ngồ. Công Tử Chí sang thăm Trùng Nhĩ, sai người nói riêng với Trùng Nhĩ rằng :

Công Tử nên nhân dịp này mà vê nước, chúa công tôi xin đem quân giúp công tử.

Trùng Nhĩ nói chuyện với với Triệu Thôi. Triệu Thôi nói :

- Người ta đón, mình không chịu về, mà nay lại mượn thế nước ngoài để về còn ra thế nào !

Trùng Nhĩ liền ra nói với công tử Chí rằng :

Quý quốc có lòng giúp thì tôi xin cảm ơn, nhưng cha tôi mới chết,có đâu tôi dám nghĩ đến điều ấy.

Nói xong phục xuống đất mà khóc. Công tử Chí biết là người hiền, trong bụng khen thầm, rồi cáo từ lui ra ; lại sang nước Lương để thăm Di Ngô. Di Ngô bảo công tử Chí rằng :

Ngài phụng mệnh vua Tần sang thăm tôỉ, có điều gì hay, xin ngài chỉ bảo cho.

Công tử Chí lại bảo Di Ngô nên nhân dịp mà về nước. Di Ngô nói chuyện lại với Khước Nhuế. Khước Nhuế nói :

Vua nước Tần có yêu gì ta, chẳng qua cũng là chỉ muốn cầu lợi, cõng tử nên hẹn cắt đất để tạ ơn.

Di Ngô nói :

- Bây giờ mà cắt nhiều đất cho Tần thì chẳng thiệt hại nước Tấn tal ắm ru !

Khước Nhuế nói :

- Công tử không được về nối ngôi thì lảm sao mà có nước Tấn, nào phải là của nêng công tử đâu mà tiếc !

Di Ngô lại ra tiếp kiến công tử Chí, cầm lấy tay mà bảo rằng :

Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ đã thuận cho tôi về nối ngôi, tôi đều có hẹn lời để báo đáp lại, không dám quên ơn ; nếu qúy quốc có lòng giúp tôi, khiến cho tôi giữ yên được cơ nghiệp thì tôi xin biếu năm thành, để gọi là đền ơn chút đỉnh.

Nói xong, liền rút tở ước thư Ở trong tay áo ra đưa cho công tử Chí, nét mặt có ý tự đắc. Công Tử Chí toan từ chối không nhận, Di Ngô lại nói :

Tôi có bốn chục nén hoàng kim, năm đôi bạch ngọc, xin dâng lẽn công tử, nhờ công tử nói giúp với vua Tần cho, không bao giừ tôi dám quên ơn.

Công tử Chí mới nhận lời. Khi về đến Tần, công tử Chí thuật lại chuyện Trùng Nhĩ và Di Ngô cho Tần Mục công nghe. Tần Mục công nói :

Trùng Nhĩ hiền hơn Di Ngô nhiều lắm, ta nhất định giúp Tnìng Nhĩ.

Công tử Chí nói :

- Chúa công giúp Trùng Nhĩ là lo việc hộ nước Tấn hay muốn lấy tiếng với thiên hạ ?

Mục công nói :

ĐÓ là việc nước Tấn, có dự gì đến ta ? Ta chỉ muốn lấy tiếng với thiẽn hạ mà thôi.

Công tử Chí nói :

- Nếu chúa công muốn lo hộ việc cho nước Tấn thì nên chọn người hiền mà lập ; bằng nếu chúa công muốn lấy tiếng với thiên hạ thì không cần chọn lựa gì. Dẫu lập ai thì mình cũng vẫn được tiếng, mà lập người hiền thì để người ta hơn mình, lập người bất hiền thì để người ta kém mình, đàng nào lợì hơn ?

Mục công nói :

- Lời nhà ngươi nói khiển ta tỉnh ngộ !

Nói xong, liền sai công tôn Chi đem quân giúp Di Ngô về nước Tấn. VỢ Tần Mục công là em thế tử Thân Sinh nước Tấn, tức là nàng Mục Cơ, lúc bé Giả Quân (vợ thứ Tấn Hiến công) nuôi Ở trong cung. Mục CƠ là người rất nhân đức, nghe tin công tồn Chi gìúp Di Ngô về nước, liễn gửi một bức thư đưa cho Di Ngô, bảo khi về nước phải hậu

đãi Giả Quân ; còn các vị công tử khi trước chạy trốn, đều không có tội lỗi gì, nên cho về cả, để thêm nhiêu vây cánh. Di Ngô sợ mất lòng Mục Cơ, cũng phúc thư lại, xin vâng lời dặn.

Tề Hoàn công nghe tin nước Tấn có loạn, đem quân đến đất Cao Hương (đất nước Tấn), gặp nước Tần kéo đến ; vua Huệ vương nhà Chu cũng sai quan đại phu là vương tử Đảng đem quân đến họp. Tề Hoàn công liền sai Thấp Bằng hội với quân nhà Chu và quân nước Tần cùng đưa Di Ngô về nước Tấn để nối ngôi, tức là Tấn Huệ công.

Người nước Tấn ai cũng yêu mến Trùng Nhĩ là người hlền, đến lúc nghe tin Di Ngô vễ làm vua, đều có ý thất vọng. Tấn Huệ công đã lên nối ngôi, lập con là Ngữ làm thế tử, cho HỖ Đột, Quắc Xạ làm thường đại phu ; Lã Di Xanh, Khước Nhuế làm trung đại phu ; ĐỒ Ngạn Di làm hạ đại phu. Lại sai Lương Do My theo vương tử Đảng sang nhà Chu, Hàn Giản theo Tháp Bằng sang nưóc Tề để tạ ơn.

Công tôn Chi nước Tần còn Ở nước Tấn để đòi lấy năm thàh. Tấn Huệ công có ý tiếc, liền họp các quan lại để thương nghị. Quắc Xạ đưa mắt nhìn Lă Di Xanh. Lã Di Xanh nói :

- Chúa công khi trước phải khấn lễ với nước Tần là vì chưa được về nước Tấn chưa phải là của chúa công. Nay đã về rồi thì nước Tấn là của chúa công. Vả lại dẫu ta không cho nước Tần, thì nước Tần cũng chẳng làm gì đuợc kia mà ?

Lý Khắc nói :

- Chúa công mới lên nối ngôi, mà đã thất tín với một nước láng giềng cường thịnh thì quyết không nên.

Khước Nhuế nói :

Nay mất năm thành tức là mất nửa nước Tấn. Dẫu nước Tần có sức sang đánh, cũng vị tất lấy nổi được năm thành của ta ; vả lại tiên quân ta ngày xưa trải bao khó nhọc mới mở mang được đất ấy, ta không nên bỏ !

Lý Khắc nói :

- Đã biết là cơ nghiệp của tiên quân, sao lại hẹn cho ngưòì ta ? Hẹn mà không cho thì sẽ lảm nước Tần phải tức giận. Vả lại tiên quân ta ngày xưa Ở đất Khúc ốc, chẳng qua chỉ là một khu đất nhỏ, mà biết sửa sang chính trị, rồi mở mang dần dần, thành ra một nước lớn Nếu chúa công biết sửa sang chính tn mả giao hiếu với các nước láng giềng thì lo gì không có năm thành ?

Khước Nhuế quát to lên rằng :

Lời nói của Lý Khắc, không phải là vì nước. Tần, mả lại là vì

một trăm vạn mẫu ruộng Ở đất Phần Dương, chỉ sợ chúa công không cho vậy phải mượn việc nước Tần để làm lệ mà theo.

Phi Trịnh Phủ lấy cánh tay đẩy Lý Khắc. Lý Khắc biết ý, không dám nói nữa. Huệ công nói :

Bây giừ mình không cho thì là thất tín, mà cho thì lại làm cho nước mình phải suy yếu, hay là ta chịu cho một vài thành phỏng có nẽn không ?

Lã Di Xanh nói :

- Dẫu cho một vải thành, cũng không gọi là thủ tín được, mà chỉ khơi lòng tham của nước Tần, chi bằng ra cứ từ chối đi là hơn.

Huệ công liền sai Lã Di Xanh viết thư trá lời nước Tần. Thư đại lược rằng :

Lúc trưóc Di Ngô này có hẹn với quý quổc xin dâng năm thành, nay được về nước, nghĩ đến cái ơn quý quốc, toan y lời hẹn, nhưng các quan đại thần nước tôi cùng nói rằng : Đất nước Tấn là của tiên quân ngày xưa để lại, sao chúa công lại dám tự tiện đem cho người khác .

Tôi cố nói mãi mà không đuợc. Vậy xin quý quốc hãy hoãn lại ít lâu, tôi không dám quên lời

Huệ công hỏi :

Ai là ngưòỉ dám vì ta mà sang sứ nưức Tần ?

Phi Trịnh Phủ xin đi. Huệ công thuận cho, Nguyên Huệ công khi sắp về nước, có hứa lời cho Phi Trịnh Phủ bảy mươi vạn mẫu ruộng Ở đất Phụ Quỳ, nếu bây giờ Huệ công không dâng đất cho Tần, thì khi nào chịu cho Lý Khắc vả Phi Trịnh Phủ ruộng nữa. Phi Trịnh Phủ ngoài miệng dẫu không nói ra, nhưng trong lòng có ý căm tức, mới xin đi sứ để định nói chuyện ấy với Tần.

Phi Trịnh Phủ theo công tôn Chi đến nước Tần, vào yết kiến Tần Mục công, đệ trình tờ thư. Tần Mục công xem xong nổi giận, đập bàn và nói rằng :

Ta vẫn biết Di Ngô không đáng lảm vua, ngày nay quả nhiên ta bị hắn lừa dối thật:

Nói xong, toan chém Phi Trịnh Phủ. Công tôn Chi nói :

ĐÓ không phải là tội Phi Trịnh phủ. xin chúa công dung thứ cho

Tần Mục công vẫn còn chưa nguôi giận, hỏi rằng :

Người nào xui Di Ngô phụ ơn ta, ta muốn tự tay cầm dao găm mà đâm chết !

Phi Trịnh Phủ nói :

Xin chúa công bảo hết người xung quanh ra để tôi xin nói.

Mục công truyền người xung quanh lui cả ra, rồi vẫy Phi Trịnh Phủ lại gần mà hỏi. Phi Trịnh Phủ nói :

Các quan đại phu nước tôi, ai cũng cám ơn quý quốc mà muốn nộp đất, chỉ có Lã Di Xanh vả Khước Nhuế cố tình ngăn trở. Nay xin quý quốc cứ làm ra vẻ tử tế, gọi hai người ấy sang mà giết đi, rồi giúp

cho Trùng Nhĩ về ; bấy giờ tôi xin cùng Lý Khắc làm nội ứng, đuổi Di Ngô, quý quốc nghĩ thế nào ?

Tần Mục công khen rằng :

- Kế ấy phải đó, ta cũng nghĩ như vậy !

Nói xong, liền sai quan đại phu là Lãnh Chi theo Phi Trịnh Phủ sang nước Tấn, rồi lập kế dụ Lã Di Xanh và Khước Nhuế đến để giết .

Hồi 29

Tấn Huệ công bắt giết người trung

Quản Di Ngô trối trăng việc nước

Chủ ý của Lý Khắc là đón Trùng Nhĩ về nối ngôi, nhưng Trùng Nhĩ lại chối từ không chịu nhận, mà Di Ngô thì khấn lễ để xin về, cho nên Lý Khắc bất đắc dĩ cũng phải theo ý mọi người mà lập Di Ngô, tức là Tấn Huệ công. Ai ngờ khi Tấn Huệ công đã được nối ngôi, những ruộng đất hẹn cho khi trước, Lý Khắc chẳng được gì cả mà

Huệ công lại tin dùng bọn lã Di Xanh và Khước Nhuế, còn bao nhiêu các quan cựu thần khác đều không coi ra gì. Lý Khắc đã có ý không phục, đến lúc khuyên Huệ công nộp đất cho Tấn, cũng là vì việc nước mà nói, thì lại bị bọn Khước Nhuế cho là có ý nêng tây, . bởi vậy Lý Khắc vẫn tức giận mà không dám nói ra. Ở triều ra về, nét mặt Lý Khắc còn hầm hầm. Sau, Phi trịnh Phủ phụng mệnh đi sứ nước Tần,

bọn Khước Nhuế sợ có thông mưu với Lý Khắc, liền sai người dò la ý tứ Phi Trịnh Phủ cũng sợ Khước Nhuế sai người dò thám, bèn không từ biệt Lý Khắc mà đi ngay. Khi Lý Khắc sai người mời Phi Trịnh Phủ sang để nói chuyện thì Phi Trinh phủ đã ra khỏi cửa thành rồi, Lý Khắc đi theo không kịp, lạỉ phải trở về. CÓ ngườì báo tin cho Khước Nhuế biết.

Khước Nhuế vào nói với Huệ công rằng :

Lý Khắc thấy chúa công tước quyền của hắn, lại không cho ruộng Phần Dương, nên sinh lòng oán vọng. Nay nghe tin Phi Trịnh Phủ sang sứ nước Tần, lại thân hành đi đuổi theo, tất là cơ mưu làm phản. Và Lý Khắc vẫn muốn lập Trùng Nhĩ, chứ không muốn lập chúa công, nếu bây giờ hắn thông mưu với Trùng Nhĩ thì ta khó lòng mà giữ nổi, chi bằng chúa công bắt tội hắn chết, để khỏi di hoạn về sau.

Huệ công nói :

Lý Khắc có công với ta, bây giờ nói làm sao mà xử tử hắn được ?

Khước Nhuế nói :

- Lý Khắc giết Hề Tề và Trác Tử, lại giết quan đại thần là Tuân Tức, kể tội thì đáng giết lắm, còn cái công đón chúa công vê nước, chẳng qua là một cái ơn riêng, nếu chúa công không vì ơn riêng mà bỏ nghĩa lớn thì tôi xin phụng mệnh đến giết Lý Khắc.

Tấn Huệ công cho đi. Khước Nhuế đến nhà Lý Khắc, bảo Lý Khắc rằng :

Chúa công sai tôi đến nói cho ngài biết : nếu không có ngài thì chúa công.không được vễ nối ngôi, công ấy không bao giờ chúa công dám quên, nhưng ngài. đã giết hai vua và một quan đại thần thì chúa công cũng không dám vì ơn riêng ấy mà bỏ ,nghĩa lớn, xin ngài tự liệu lấy

Lý Khắc nói :

Không có người bị giết thì sao chúa công lên nối ngôi được ! Muốn bắt tội ngưòỉ ta thì thiếu gì lẽ, tôi đã hiểu ý rồi !

Khước Nhuế lại cố bức mãi. Lý Khắc bèn rút gươm nhảy lên mà kêu to :

Trời ơi ! CÓ thấu cho ta ? Ta còn mặt mũi nào mà trông thấy Tuân Tức Ở dưới đất nữa ?

Nói xong, liễn đâm cổ mà chết. Tấn Huệ công giết Lý Khắc rồi, các quan có nhiều người không phục, bọn Cung Hoa, Giả Hoa và Chuy Suyễn đếu oán giận ra mồm. Huệ công muốn giết tất cả. Khước Nhuế nói :

Phi Trịnh Phủ còn đang Ở nước ngoài mà ta giết nhiều người quá thì sợ hắn sinh nghi, âu là chúa công hãy chịu ẩn nhẫn đã.

Huệ công nói :

- Mục CƠ nước Tần có dặn ta phải hậu đãi Giả Quân và cho hết các công tử về, nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Khước Nhuế nói :

Các công tử ai chả muốn tranh ngôi, chớ nên cho về, còn việc hậu đãi Giả Quân để báo ơn Mục CƠ thì nên làm lắm.

Huệ công liền vào yết kiến Giả Quân. Bấy giờ Giả Quân nhan sắc hãy còn xuân, Huệ công trông thấy bỗng động lòng dâm dục bảo Giả Quân rằng :

Mục CƠ có dặn ta cùng với quý nhân giao hoan, vậy quý nhân không nên từ chối.

Nói xong, liền đứng dậy ôm lấy Giả Quân. Các cung nhân trông thấy, đều buồn cười mà tránh đi cả. Giả Quân sợ uy Huệ công, bất đắc dĩ phải nghe lời. Khi việc đã xong Giả Quân ứa hai hàng nước mắt nói với Huệ công rằng :

Thiếp trước hầu tiên quân mà nay lại thất thân với chúa công, thân thiếp không đáng kể nhưng xin chúa công vì thế tử Thân Sinh ngày xưa mà giải tình oan khuất, để Mục CƠ được bằng lòng.

Tấn Huệ công nói :

- Hề Tề và Trác Tử bị giết thì tình oan của Thân sinh đã giải được rồi ?

Giả Quân nói :

Thi thể Thân Sinh còn chôn tạm Ở Khúc ốc, xin chúa công cho ]àm lễ cải táng, khiến cho hồn oan được yên, đó cũng là một điều ước mong của người trong nước.

Tấn Huệ công sai em Khước Nhuế là Khước Khuất sang đất Khúc ốc để cải táng cho Thân Sinh ; lại sai HỒ Đột đến lâm lễ tế Ở trước mộ. Khi đào lên thì thi thể Thân Sinh vẫn còn nguyên như lúc sống, nhưng mùi thối xông ra không thể nào chịu được. Quân sĩ đều bưng mũi buồn nôn, không làm gì được nữa, Khước Khuất bên thắp

hương khấn rằng :

- Thế tử lúc sống là người trong sạch, sao lúc chết lại làm ra hôi hám như vậy, xin thế tử chớ khiến quân sĩ phải kinh sợ.

Khước Khuất khấn xong, bao nhiêu mùi hôi mất hết, lại có mùi hương ngào ngạt. Quân sĩ bèn thu liệm rồi cải táng. Người đất Khúc ốc kéo nhau đi đưa tất cả, ai cũng ứa nước mắt thương khóc. Đến ngày thứ ba, HỒ Đột đem lễ vật đến tế ; tế xong, sắp sửa trở về, bỗng có một toán quân sĩ kéo đến xe ngựa đông lắm. HỒ Đột khồng biết là quân ở đâu. vội vàng tránh ra một bên, bỗng thấy một người đầu râu tóc bạc, mũ cao áo dài Ở trên xe bước xuống, đến trước mặt HỒ Đột mà bảo rằng :

- Thế tử muốn mời ngài lại để nói chuyện.

HỒ Đột nhìn xem ai thì ra quan thái phó là ĐỖ Nguyên Khoản.

Trong khi hoảng hốt, HỒ Đột cũng quên mất là Thân Sinh đâ chết rồi, mới hỏi lại rằng :

- Thế tử đâu ?

ĐỖ Nguyên Khoản bèn trỏ vào xe sau mà bảo rằng :

Xe thế tử đó ?

HỖ Đột bèn đi đến trước xe, thấy thế tử Thân Sinh đội mũ đeo gươm, hệt như lúc sống. Thân Sinh sai người dắt HỖ Đột lên ngồi xe, rồi bảo rằng :

- Ngài còn nhớ đến tôi chăng ?

HỖ Đột ứa nước mắt mà đáp rằng :

Thế tử bị oan, dẫu người qua đường cũng phải thương xót, huống chi HỒ Đột này, khi nào lại quên được !

Thân Sinh nói :

- Đức Ngọc Hoàng thượng đế thương tôi là người nhân hiếu, cho tôi làm chủ Ở đất Khúc ốc này. Di Ngô xử với Giả Quân rất vô lễ, tôi ghét nó mà toan làm cho nó không cải táng được ; nay vua nước Tần là người hiền, tôi muốn đem nước Tấn cho Tần, để người nước Tần giữ việc cúng tế tôi vễ sau, ngài nghĩ có nên không ?

HỒ Đột nói :

- Thế tử ghét vua nước Tấn bây giờ, nhưng dân nước Tấn có tội gì ? Vả tiên quân ngày xưa có tội gì, mà thế tử lại muốn bỏ người cùng họ mà đi cầu ngưòỉ khác họ giữ việc cúng tế. Như vậy tôi e rằng sẽ trái mất cái đạo nhân hiếu đó ?

Thân Sinh nói :

- Ngài nói cũng phải, nhưng tôi đã tâu với Ngọc Hoàng thượng đế rồi ! Để tôi sẽ tâu lại, có tbế nào trong bảy ngày nữa tôi sẽ mượn mồm một người thầy đồng mà báo cho ngài biết.

ĐỖ Nguyên Khoản đứng Ở dưới xe, gọi HỖ Đột mà bảo rằng :

- Thôi, ngài nên trở về !

Nól xong, liền giơ tay dắt HỐ Đột xuống xe, HỒ Đột vấp chân, ngã lăn xuống đất, giật mình tỉnh dậy, té ra .đang nằm Ở nhà quán xá, liễn hỏi người hầu xung quanh rằng :

- Sao ta lại Ở đây ?

Người xung quanh nói :

- Khi tế vừa xong thì ngài ngã xuống, gọi mãi không tỉnh, chúng tô~iphải vực lên xe rồi đem ngài về đây. .

HỐ Đột biiết là mình nằm mộng, có ý lấy làm lạ, nhưng không nói cho ai biết, giả cách kêu mệt nhọc, nghỉ lại Ở nhà quán xá.

Được bảy ngày, bỗng có một người thầy đồng xin vào yết kiến. HỒ Đột sai đuổi hết người xung quanh rồi cho vào. Người thầy đồng nói :

- Thế tử Thân Sinh bảo tôi nói lại để ngài biết rằng thế tử đã tâu với Ngọc Hoàng thượng đế, Ngọc Hoàng thượng đế sẽ chỉ trị tội một mình hắn mà thôi, không hại gì đến nước Tấn cả.

HỖ Đột giả cách không hiểụ, hỏi lại rằng :

Trị tội một mình hắn là ai ?

Ngườỉ thầy đồng nói :

- Tôi chi biết nói thế thôi, còn không biết việc gì hết.

HỒ Đột sai đem tiền bạc thưởng cho người thầy đồng rồi dặn không được nói cho ai biết. HỒ Đột về nước, nói chuyện với con Phi Trịnh Phủ là Phi Báo. Phi Báo nói :

- Chúa công làm nhiều điều trái lẽ, tất không an toàn được, có lẽ nước Tấn lại về tay Trùng Nhĩ mà thôi

Phi Trịnh Phủ cùng với quan đại phu nước Tần lả Lãnh Chi trở về nước Tấn, mới về đến ngoài cõi đã nghe tin Lý Khắc bị giết. Phi Trịnh Phủ trong lòng nghi hoặc, toan quay sang nước Tần, nhưng lại nghĩ đến con là Phi Báo hiện đang Ở nhà, nếu mình bỏ trốn thì tất con bị hại, bới vậy còn trù trừ chưa quyết. Bỗng gặp quan đại phu là Cung Hoa, Phi Trịnh Phủ mới hỏi chuyện Lý Khắc. Cung Hoa bèn kể lại đầu đuôi một lượt. Phi Trịnh Phủ hỏi :

- Bây giờ tôi có nên về không ?

Cung Hoa nói :

- Những người cùng lòng với Lý Khắc còn nhiều, Cung Hoa này cũng là một người Ở trong số đó. Nay chúa công chỉ giết một mình Lý Khắc, còn không bắt liên lụy đến ai cả ; huống chi ngài hiện đang đi sứ nước Tần, tôi thiết tưởng cứ nên làm như người không biết là hơn ;

bằng nay sợ mà không về thì.thành ra lại tự thú là người có tội.

Phi Trịnh Phủ nghe lời, liền trở về nước Tấn, đưa Lãnh Chi vào yết kiến chúa công. lãnh Chi dâng các đồ lễ vật, rồi đệ trình từ thư.

Huệ công mở ra xem. Trong thư đại lược nói rằng :

Nước Tấn và nưóc Tần, hai nước vốn là thân thuộc với nhau thì đất của nước Tấn cũng như của nước Tần. Các quan đại phu nước Tấn không chịu nộp đất, cũng là trung với nước mình, có đâu tôi lạii tham muốn mà bỏ mất cái bụng tốt của các quan đại phu ; nhưng tôi có một việc biên giới, muốn cùng hội nghị với quan đại phu Lã Di

Xanh và quan đại phu Khước Nhuế. Xin mời sang ngay, kẻo tôi mong đợi ?

Cuối thư lại có viết một câu : "Nay xin trả lại tờ ước thư ngày trước" Tấn Huệ công là người thiểu cận, thấy lễ vật của nước Tần rất hậu và tờ ước thư của mình xin nộp đất ngày trước cũng được trả lại, trong lòng mừng lắm, toan sai Lã Di Xanh và Khước Nhuế sang tạ ơn nước Tần. Khước Nhuế nói riêng với Lã Di Xanh rằng :

- Nước Tần cho sứ đến, không phải vì lòng tốt. Của nhiều nói ngọt như vậy, tất là có ý muốn lừa ta. Chúng ta sang đến nơi, không khéo Tần sẽ bắt hiếp chúng ta phải nộp đất.

Lã Di Xanh nói :

Tôi cũng cho rằng người nước Tần không có lòng tốt với ta đến như thế ? ĐÓ tất là Phi Trịnh Phủ nghe tin Lý Khắc bị giết, sợ không khỏi tội ; mới lập mưu với người nước Tần, muốn cho họ giết chúng ta, để hắn nổi loạn.

Khước Nhuế nói :

Phi Trịnh Phủ cùng với Lý Khắc nguyên vẫn lả cùng cánh. Lý Khắc bị giết, Phi Trịnh Phủ tài nào không sợ, ngài nói phải đó ! Nay trong số các triều thần thì người vây cánh của Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ đến một nửa ; nếu Phi Trịnh Phủ có lòng nào, tất nhiẽn nhiều người theo với hắn, chi bằng ta hãy bảo sứ nước Tần về trước, để ta sẽ

dò xét xem.

Lã Di Xanh khen phải, liền vào nói với Huệ công, hãy bảo Lãnh Chi về nước Tần trước, rồi sẽ cho lã Di Xanh và Khước Nhuế sang sau. Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người tâm phúc ngày đêm chực Ở cửa nhà Phi Trịnh Phủ để dò thám. Phi Trịnh Phủ thấy Lã Di Xanh và Khước Nhuế khồng sang Tần, liền mật cho triệu bọn Kỳ Cử, Cung

Hoa, Giả Hoa và Chuy Suyễn, đêm hôm ấy đến nhà để hội họp Quân thám tử về báo với Khước Nhuế. Khước Nhuế tức khắc cùng Lã Di Xanh thương nghị, sai người gọi ĐỒ Ngạn Di đến, bảo rằng :

- Tai vạ nhà ngươi sắp đến nơi, nhả ngươi có biết không ?

ĐỖ Ngạn Di glật mình kinh sợ mà hỏi rằng :

- Tôi làm gì nên vạ ?

Khước Nhuế nói :

- Nhà ngươi ngày trước gỉúp Lý khắc giết Hfê Tề và Trác Tử, nay Lý Khắc đã bị giết, chúa công lại sắp giết cả nhà ngươi. Chúng ta thấy nhà ngươi có cái công đón lập chúa công, không nỡ để cho nhà ngươi bị giết, vậy nên chúng ta bảo cho mà biết.

ĐỒ Ngạn Di vừa khóc vừa nói :

Tôi chi là một kẻ vũ phu, bị ngưừi ta sai khiến, nào có biết thế là nên tội đâu ! Xin ngài làm ơn cứu cho.

Khước Nhuế nói :

Chúa công giận lắm, không thể xin được ! Nay chỉ có một kế này, may ra thoát khỏi được chăng ?

ĐỒ Ngạn Di liền quỳ xuống hỏi kế. Khước Nhuế vội vàng đỡ dậy vả bảo rằng :

- Nay Phi Trịnh Phủ cùng một bè cánh với Lý Khắc, đang cùng các quan đại phu mưu định giết chúa công mà đón Trùng Nhĩ về nối ngôi. Nhà ngươi giả cách sợ tội đến thông mưu với Phi Trịnh Phủ ;khi đã dò được thực tình rồi thì ra mà thú, rồi ta tâu với chúa công lấy

ba mươi vạn mẫu ruộng Ở đất Phụ Quỳ ngày trước đã hẹn cho Phi Trịnh Phủ mà cho nhà ngươi, lại thăng chức để đền công cho nhà ngươi, thì nhà ngươi còn lo gì tội nữa !

ĐỒ Ngạn Di mừng nói rằng :

Nếu vậy thì thật là ngài cải tử hoản sinh cho tôi đó, tôi xin vâng lời, chỉ hiềm một nỗi tôi nói năng vụng lắm thì biết làm thế nào ? .

Lã Di Xanh nói :

-Để ta dạy cho nhà ngươi. .

Nól xong, liền nghĩ . sẵn câu hỏi . và câu trả lời, để cho ĐỒ Ngạn Di học thuộc. Đêm hôm ấy, ĐỒ Ngạn Di đến gõ cửa Phi Trịnh Phủ, nói có việc bí mật muốn vào bàn. Phi Trịnh Phủ chối từ là đang say rượu nằm ngủ, không ra tiếp kiến. ĐỖ Ngạn Di đứng đợi, mãi đến canh khuya cũng không trở về. Phi Trịnh Phủ bèn cho gọi vào, ĐỒ Ngạn Di vào đến nơi, liền quỳ xuống đất mà kêu rằng :

Xin ngài cứu cho, kẻo tôi chết mất ?

Phi Trịnh Phủ giật mình. liền hỏi. ĐỒ Ngạn Di nói :

- Chúa công bảo là tôi giúp Lý Khắc giết Tề Hề và Trác Tử, sắp đem chém tôi, xin ngài cứu cho !

Phi Trịnh Phủ nói :

Nay quyền chính Ở tay Lã Di Xanh và Khước Nhuế, sao nhà ngươi không đến mà kêu với hai người ấy ?

ĐỔ Ngạn Di nói : .

- Việc này là do mưu của Lã Di Xanh và Khước Nhuế, tôi tiếc rằng không thể ăn thịt được hai người ấy, kêu với họ thì có ích gì !

Phi Trịnh Phủ còn chưa tin lời, lại hỏi rằng :

- Thế thì nhà ngươi định thế nào ?

ĐỒ Ngạn Di nói :

Công tử Trùng Nhĩ là ngườì nhân hiếu, trong nước ai cũng muốn tôn lên lảm vua, mà vua nước Tần ngày nay đang ghét chúa công ta là người bội ước, cũng muốn lập Trùng Nhĩ. Nếu ngài viết một bức thư, sai tôi đem ra cho Trùng Nhĩ, để Trùng Nhĩ hợp binh nước Tần và nước Địch, còn đại phu Ở trong hợp nhau với người của Thân Sinh ngày xưa mà làm nội ứng. Trước hết hãy chém đầu Lã Di Xanh và Khước Nhuế rồi đuổi chúa công đi mà lập Trùng Nhĩ, chắc hẳn phải nên việc.

Phi Trịnh Phủ nói :

Nhà ngươi có giữ được một lòng như thế không ?

ĐỒ Ngạn Di liền cắt đầu ngón tay chảy máu ra mà thề rằng :

- Nếu tôi sai lời thì xin chết cả họ ?

Phi Trịnh Phủ tin lời, hẹn đến canh ba đêm hôm sau thì lại hội nghị. Đêm hôm sau, ĐỐ Ngạn Di lại đến tbì đã thấy Kỳ Cử, Cung Hoa, Giả Hoa .và Chuy Suyền đâu Ở đấy rồi ; lại có Thúc Kiên, Lụy Hổ, Đặc Cung và Điền Kỳ bốn người nữa, đều là môn hạ cũ của Thân Sinh củng với Phi Trịnh Phủ và ĐỖ Ngạn Di cả thẩy mười người, cùng nhau quệt máu ăn thề để giúp Trùng Nhĩ. Phi Trịnh Phủ bày tiệc thết đãi mọi người uống rượu say, rồi đâu vế đấy cả. ĐỒ Ngạn Di bèn về báo cho Khước Nhuế biết. Khước Nhuế nói :

- Nhà ngươi nói thế, không có bằng cứ gì cả, làm thế nào lấy được bức thư của Phi Tnnh Phủ thì mới trị tội hắn được.

Đêm hôm sau, ĐỖ Ngạn Di lại đến nhà Phi Trịnh Phủ để nhận tờ thư đem cho Trùng Nhl. Phi Trịnh Phủ đã viết sẵn sảng rồi, chín người cùng ký tên cả, chỉ thiếu có một mình ĐỒ Ngạn Di. ĐỖ Ngạn Di cũng cầm bút ký tên nốt. Phi Trịnh Phủ niêm phong kỹ càng, rồi giao cho ĐỒ Ngạn Di, dặn ĐÔ Ngạn Di phải cẩn thận, chớ tiết lộ ra cho ai

biết. ĐỒ Ngạn Di được bức thư, quý như người được của, đem thẳng đến nhà Khước Nhuế. Khước Nhuế xem xong, liền giấu kín ĐỒ Ngạn Di Ở trong nhà, rồi cùng Lã Di Xanh đem bức thư sang thuật lại mọi chuyện cho quốc cữu là Quắc Xạ biết rồi nói rằng :

Nếu không trừ ngay thì tất sinh biến loạn. Đêm hôm ấy, Quắc Xạ vào ngay trong cung, yết kiến Huệ công, kể hết âm mưu của Phi Trịnh Phủ, lại nói với Huệ công rằng.

- Sáng mai ra triều, chúa công nên đem bức thư này ra làm chứng cớ mà trị tội đi.

Ngày hôm sau, Huệ công ra triều. lã Di Xanh, Khước Nhuế đã sai các vũ sĩ phục sẵn Ở xung quanh. Huệ công gọi Phi Trịnh Phủ mà hỏi rằng :

Ta đã biết nhà ngươi định đuổi ta mà lập Trùng Nhĩ, xin hỏi nhả ngươi là ta có tội gì ?

Phi Trịnh Phủ vừa toan biện bạch thì Khước Nhuế chống gươm quát to lên rằng :

- Nhà ngươi sai ĐỒ Ngạn Di đem thư đưa cho Trùng Nhĩ, may nhờ hồng phúc chúạ công mà ta đón bắt được ĐỒ Ngạn Di, ĐỖ Ngạn Di đã thú nhận cả rồi, nhà ngươi còn nói gì nữa ?

Huệ công cầm. bức thư ném ra trước án. Lã Di Xanh nhặt lấy, rồi chiếu tên đọc lên, để cho vũ sĩ bắt từng người một. Chỉ có Cung Hoa Ở nhà, lã Di Xanh tức khắc sai người đi bắt, còn tám người Ở đấy, đều ngơ ngác nhìn nhau, không chối cãi thế nào được. Huệ công truyền đem ra chém. Trong bọn ấy có Giá Hoa kêu rầm lên rằng :

- Năm xưa tôi phụng mệnh tiên quân đi đánh chúa công, có cái ơn tha cho chúa công đi trốn, xin chúa công nghĩ lại.

Lã Di Xanh nói :

Ngày trước nhà ngươi làm tôi tiên quân mà tư tình với chúa công ngày nay nhà ngươi làm tôi chúa công lại tư tình với Trùng Nhĩ, thế là một đứa tiểu nhân phản phúc, càng nên giết lắm

Giả Hoa không nói thế nào được nữa. Tám ngưòí đều chết chém cả Cung Hoa Ở nhà, nghe tin bọn Phi Tnnh Phủ bị giết, toan tức khắc vào triều để xin nhận tội. Em là Cung Tứ can rằng :

- Vào thì tất chết chẳng thà trốn đi còn hơn ?

Cung Hoa nói :

- Ngày trước ta bảo Phi Trịnh Phủ cứ về, để đến nỗi Phi Trịnh Phủ chết, nay ta sống lấy một mình thì sao gọi là trượng phu được ?

Ta không phải là không muốn sống nhưng ta không nỡ phụ lòng Phi Trịnh Phủ !

Nói xong, không đợi cho người đến bắt, tức khắc vào thẳng ngay trong triều để xin chịu tội. Tấn Huệ công cũng sai đem chém. Phi Báo nghe tin cha là Phi Trịnh Phủ bị giết, tức khắc trốn sang nước Tần.

Huệ công muốn giết cả họ những ngưừi trong bọn Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ. Khước Nhuế nói :

- Trị tội người ta, không bắt đến vợ con, đó là phép đời xưa. Nay bọn phản nghịch đã bị giết thế cũng đủ làm gương cho kẻ khác rồi, cần gì phải giết lắm, cho ngưò i ta kinh hãi.

Huệ công mới tha cho các họ, rồi thăng ĐỒ Ngạn Di làm trung đại phu, thưởng cho mưòỉ vạn mẫu ruộng Ở đất Phụ Quỳ. Phi Báo đến nước Tần, vào yết kiến Tần Mục công, phục xuống đất mà khóc. Tần Mục công hỏi. Phi Báo đem chuyện với Mục công

nẽn đem quân sang đánh Tấn. Mục công hội các quan để thương nghị.

Kiển Thúc nói :

Vì lời nói của Phi Báo mà sang đánh Tấn, là giúp bề tôi mà đánh vua, sao cho phải nghĩa !

Bách Lý Hề nói :

- Nếu dân không phục thi tất sinh biến, chúa công nên đợì cho Tấn sinh biến, rồi sẽ sang đánh. .

Mục công nói :

- Ta cũng lấy làm ngi lắm, trong một lúc mà giết đến chín quan đại phu, nếu không được lòng dân tin phục thì sao làm thế được ? Huống chi ta sang đánh mà không có nội ứng thì đánh làm sao nổi ?

Phi Báo liền Ở lại, làm quan đại phu nước Tần.

Bấy giừ vương tử Đái nhà Chu sai ngườì xui nước Nhung Ở Y Lặc đem quân vào đánh kinh sư để định Ở trong làm nội ứng. Chu Tương vương sai người cáo cấp với chư hầu. Tần Mục công và Tấn Huệ công đem quân đến cứu. Quân Nhung nghe tin chư hầu đến cứu, liền đốt phá cửa đông rồi kéo nhau về. Tấn Huệ công trông thấy Tần

Mục công, có ý thẹn thùng. Tấn Huệ công lại tiếp được từ mật thư của Mục CƠ kể tội mình vô lễ với Giả Quân, và khồng cho các công tử về nước ; lại bảo nẽn đổi lỗi ngay đi, bởi vậy Tấn Huệ công có ý nghi Tần Mục công, vội vảng rút quân về nước. Phi Báo bèn xui Tần Mục công

đánh lẻn vào quân nước Tấn. Tần Mục công nói :

Nay nước Tấn vì việc cứu nhà Chu mà đến đây, ta dẫu có thù riêng, cũng không nên đánh vội.

Nói xong liền rút quân về. Tề Hoàn công cũng sai Quản Di Ngô đem quân cứu nhà Chu, nghe tin quân Nhung đã rút về rồi, bèn sai người sang trách vua nước Nhung. Vua Nhung sợ uy thế Tề, sai người sang xin lỗi rằng :

chúng tôi có dám xâm phạm kinh sư đâu, chỉ vì vương tử Đái xui chúngtôi làm vậy.

Chu Tương vương mới đuổi vương tử Đái. Vương tử Đái chạy sang nước Tề.

Mùa đông năm ấy, Quản Di Ngô đau nặng. Tề Hoàn công đến hỏi thăm, trông thấy Quản Di Ngô gầy lắm, mới cầm tay mà bảo rằng :

Trọng phụ đau nặng lắm, bất hạnh mà có thế nào thì tôi biết giao quyền chính cho ai~ được ?

Bấy giờ Ninh Thích và Tân Tu VÔ cũng đều mất cả rồi, Quản Di Ngô thở dài mà than rằng :

Tiếc thay cho Ninh Thích !

Tề Hoàn công nói : .

-trừ Ninh Thích ra, không còn ai nữa hay sao ? Ta muốn giao quyền chính cho Bảo Thúc Nha, Trọng phụ nghĩ thế nào ?

Quản Di Ngô nói :

- Bảo Thúc Nha là người quân tử, nhưng không có tài chính trị, hay phân biệt thiện ác quá ; yêu điều thỉện thì phải, chứ ghét điều ác quá thì không được ! Bão Thúc Nha thấy ai có điều ác gì thì suốt đời không quên, đó cũng là một điếu dở.

Hoàn công nói :

Thấp Bằng thế nào ?

Quản Di Ngô nói :

- Thấp Bằng là người không lấy điều hỏi kẻ dưới làm xấu hổ ; lúc nào cũng lo nghĩ đến việc nước, có thể dùng được.

Nói xong, lại thở dài mà than rằng :

Trời sỉnh Thấp Bằng, khác nào như cái lưỡi của tôi, nay tôi đã chết thì cái lưỡi cũng không sống được. Tôi e rằng chúa công dùng Thấp Bằng cũng chẳng được bao lâu !

Hoàn công nói :

- Thế thì Dịch Nha thế nào ?

Quản Di Ngô nói :

Chúa công không hỏi, tôi cũng sắp nói đến. Dịch nha, Thụ Điêu và Khai Phương, ba người ấy quyết không nên gần.

Hoàn công nói :

- Dịch Nha làm thịt con cho ta ăn, thế là yêu ta hơn yêu con,

còn nghi gì nữa ?

Quản Di Ngô nói :

-Tình người ta không gì yêu hơn con. Con mình mà nỡ như thế thì còn nghĩ gì đến vua !

Hoàn công nói :

Thụ Điêu tự hoạn mình đi để xin vào hầu ta, thế là yêu ta hơn yêu thân mình, còn nghi gì nữa ?

Quản Di Ngô nói :

người ta không gì yêu hơn thân. Thân mình mà còn như thế thì còn nghĩ gì đến vua !

Hoàn công nói :

-Khai Phương là công tử nước Vệ, bỏ ngôi thế tử mà theo ta, khi cha mẹ chết, cũng chẳng thiết về, thế là yêu ta hơn yêu mẹ cha, cỏn nghi gì nữa ?

Quản Di Ngô nói :

Tình người ta không gì thân hơn cha mẹ. Cha mẹ mình mà nỡ như thế thì con nghĩ gì đến vua ! Vả lại được phong lảm thế tử ai mà chẳng muốn. nay Khai Phương bỏ ngôi thế tử mà theo chúa công thì tất còn muốn được hơn ngôi thế tử nữa, chúa công chớ nên gần . gần thì tất có ngày sinh loạn.

Hoản công nói :

Ba người ấy theo hầu ta đã lâu lắm, sao ta khõng thấy Trọng phụ nói đến bao giờ ?

Quản Di Ngô nói : .

- Tôi không nói ra là muốn chiều ý chúa công. Ví như nước tràn bờ có tôi đứng ra lảm bờ đê, thì nước không tràn được, nay bờ đê đã bỏ đi rồi thì khó lòng mà ngăn cho nước khỏi tràn, xin chúa công chớ nên gần bọn ấy.

Tề Hoàn công nín lặng, rồi cáo từ lui về.

Hồi 30

Tấn Huệ công bội ước cử binh

Tần Mục Cơ giận thân tự tử

Quản Di Ngô đau nặng, dặn Tề Hoàn công đuổi Địch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương, lại tiến dẫn Thấp Bằng. CÓ người đem tin ấy báo với Dịch Nha. Dịch Nha vào yết kiến Bão Thúc Nha, rồi nói với Bão Thúc Nha rằng :

Ngày trước ngài tiến dẫn Trọng phụ lẽn làm tể tướng, nay Trọng phụ ốm, chúa công hỏi chuyện, Trọng phụ lại nói ngài không có tài chính trị mà tiến dẫn Thấp Bằng, tôi rất lấy làm bất bình.

Bão Thúc Nha cười mà nóỉ rằng :

ấy chỉ vì thế mà ta mới tiến dẫn Trọng phụ ; Trọng phụ là người trung với nước mà không vì bạn. Giả sử chúa công cho ta làm chức tư khấu để khu trừ những đứa gian nịnh thì ta làm được, chứ cho ta cầm quyền chính trong nước thì lũ các ngươi còn đất nào mà dung thân nữa ?

Dịch Nha xấu hổ cáo lui. Ngày hôm sau, Tề Hoàn công lại đến thăm Quản Di Ngô thì Quản Di Ngô đã không nói được nữa. Bão Thúc Nha và Thấp Bằng không cầm được nước mắt. Đêm hôm ấy, Quản Di Ngô mất. Tề Hoàn công khóc lóc, thương xót vô cùng, và nói rằng :

Thương thay Trọng phụ ! Trọng phụ chết đi thật là trời bẻ cánh tay ta. Nói xong, liền sai quan thượng khanh là Cao HỔ (con Cao Hề) coi việc cất tang Quản Di Ngô. Bao nhiêu những thái ấp của Quản Di ngô đều cho con Quản Di Ngô hưởng tất cả, và cho được nối đời làm quan đại phu. Dịch Nha nói với quan đại phu là Bá Thị rằng :

Ngày trước chúa công lấy đất Biền ấp của nhà ngươi thưởng cho Trọng phụ, nay Trọng phụ mất rồi, nhà ngươi nên nói với chúa công đòi lại đất ấy, rồi ta cũng liệu cách nói giúp nhà ngươi.

Bá Thị khóc mà nói rằng :

- Vì ta không có công trạng gì, vậy nên chúa công mới lấy đất của ta mà thưởng cho Trọng Phụ. Nay Trọng phụ dẫu mất rồi, nhưng công trạng của Trọng phụ hãy còn, ta mặt mũi nào mà xin đòi lại.

Dịch Nha than rằng :

- Trọng phụ mất rồi, mà còn khiến Bá Thị phải tâm phục như vậy thế thì lũ chúng ta là tiểu nhân thật !

Hoàn công theo lời Quản Di Ngô dặn lại, liền giao quyền chính cho công tôn Thấp Bằng. Chưa được một tháng thì Thấp Bằng mất.

Tề Hoàn công nói :

- Trọng phụ thật là bậc thánh, sao lại biết rằng Thấp Bằng không sống được bao lâu nữa ?

Nói xong, bèn dùng Bão Thúc Nha thay Thấp Bằng. Thúc Nha cố ý từ chối. Hoàn công nói :

Nay trong tnều không có ai bằng ông, ông còn nhường cho ai ?

Thúc Nha nói :

Tôi là người yêu điều thiện mà ghét điều ác, chắc chúa công cũng đã biết, nếu chúa công dùng tôi thì tôi xin đuổi Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương.

Hoàn công nói :

- Trọng phụ ngày xưa cũng có dặn ta như vậy, nay ta xin vâng lời . Nói xong, ngay ngày hôm ấy hạ lệnh đuổi Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương, không cho được vào triều. Bão Thúc Nha mới nhận chức tể tướng.

Bấy giờ có nước Hoài Di đem quân xâm phạm nước Kỷ. Nước Kỷ sai người sang cáo cấp với nước Tề. Hoàn công hội quân các nước thân hành đi cứu nước Kỷ. Chư hầu thấy Tề Hoàn công dùng Bảo Thúc Nha làm tể tướng, những chính sách của quản Di Ngô trước kia vẫn thi hành, không thay đổi gì cả.

Tấn Huệ công từ khi lên nối ngôi trong nước mất mùa luôn mãi, đến năm năm trời, kho tàng hết sạch cả, dân không lấy gì mà ăn.

Tấn Huệ công muốn đong thóc Ở nước khác về, mới nghĩ đến nước Tần là một nước láng giềng gần, lại có tình thân thuộc, chỉ hiềm nỗi ngày trước phụ ước chưa đến, nên muốn hỏi mà không dám hỏi.

Khước Nhuế nói :

- Không phải là ta phụ ước với Tần, chẳng qua chỉ là xin hoãn thôi nếu nay ta xin đong thóc mà Tần không cho, thế là Tần xử tệ với ta trước, bấy giờ ta sẽ phụ ước.

Huệ công khen phải, sai quan đại pbu là Khánh Trịnh đem lễ vật sang nói với Tần Mục công xin đong thóc. Tần Mục công họp các quan lại mà hỏi rằng :

Nước Tấn khi trước có hẹn biếu ta năm thành mà không chịu biếu, nay nhân trong nước mất mùa, lại sai sứ sang xin đong thóc, chẳng biết có nên cho hay không ?

Kiển Thúc và Bách Lý Hề đồng thanh nói :

Thiên tai thì nước nào không có, nay ta giúp người thì trời tất giúp ta.

Mục công nói :

Ta làm ơn với nước Tấn nhiều lắm rồi !

Công tôn Chi nói :

- Làm ơn mà Tấn biết đền ơn thì có thiệt gì đến nước Tần ta, nếu Tấn không biết đền ơn thì trái tại nước Tấn, bấy giờ ta sẽ liệu kế, chúa công cứ cho.

Phi Báo nghĩ đến thù cha ngày xưa, vùng tay mà nói rằng :

- Vua nước Tấn vô đạo, trời ra tai, ta nên thừa cơ đem quân sang mà đánh.

Do Dư nói :

- Người nhân đức, không thừa lúc người ta nguy cấp mà cầu lợi. Chúa công nên đong là phải.

Mục công nói :

- Phụ ơn ta là vua nước Tấn, bây giờ bị đói là dân nước Tấn, ta kbông nỡ vì một ông vua mà làm khổ muôn dân.

Nói xong, liền sai người vận tải mấy vạn hộc thóc sang nước Tấn Dân nước Tấn đều cảm ơn Tần Mục công. Sang năm sau, nước Tần đói kém, mà nước Tấn thì được mùa. Tần Mục công bảo Kiển Thúc và Bạch Lý Hề rằng :

May mà năm ngoái ta nghe lời hai ngươi cho nước Tấn đong thóc nếu không thì năm nay ta mất mùa, cũng khó lòng mà sang đong thóc Ở nước Tấn được.

Phi Báo nói :

- Vua nước Tấn là người tham lam mà không tín nghĩa, nay ta sang xin đong thóc, vị tất họ đã cho.

Mục công không nghe, liền sai Lãnh Chi đem lễ vật sang nói với Tấn Huệ công xin đong thóc. Tấn Huệ công toan sai người vận thóc Ở đất Hà Tây sang giúp nước Tần. Khước Nhuế nói :

- Chúa công giúp thóc cho nước Tần, thế thì định lại cho Tần đất hay sao ?

Huệ công nói :

Ta chỉ giúp thóc mà thôi, khi nào lại chịu cho đất.

Khước Nhuế nói :

- Vì có lẽ mà chúa công phải giúp thóc ? .

Huệ công nói :

Vì năm trước Tần giúp thóc cho ta, vậy nên ta phải báo ơn.

Khước Nhuế nới :

- Nếu lấy việc nước Tần giúp thóc làm ơn, thế thì năm xưa nước Tần giúp chúa công về nối ngôi, cái ơn ấy to biết dường nảo ! Nay chúa công bỏ cái ơn lớn mà báo cái ơn nhỏ là nghĩa làm sao ?

Khánh Trịnh nói :

Năm ngoái tôi phụng mệnh sang nước Tần xin đong thóc thì vua Tần nhận lời cho ngay, thế là xử với ta rất tử tế ; nếu ta không cho Tần đong thóc, thì chắc Tần oán giận ta lắm.

Lã Di Xanh nói :

- Tần cho ta đong thóc, khồng phải là có lòng yêu ta, chỉ cốt muốn cho ta nộp đất. Nay ta không giúp thóc thì nước Tần oán ta giúp thóc mà không nộp đất thì nước Tần cũng oán, đằng nào Tần cũng oán cả, vậy thì việc gì phải giúp ?

Khánh Trịnh nói :

Thấy ngưởi ta có tai nạn mà không giúp là bất nhân, người ta làm ơn với mình mà quên ơn là bất nghĩa. Bất nhân, bất nghĩa thì sao giữ được nước ?

Hản Giản nõi :

- Khánh Trịnh nói phải đó ! Nếu năm ngoái Tần không cho ta đong thóc thì ta nghĩ thế nào ?

Quắc Xạ nói :

- Năm ngoái trời làm ta đói, nước Tần không biết đánh lấy nước ta, lại cho ta đong thóc, thế là nước Tần ngu ; năm nay trời làm nước Tần đói, để cho ta lấy nước Tần, ta không nên trái ý trời. Cứ như ý tôi thì nên hội với Lương rồi thừa cơ cùng đánh tần. Huệ công theo lời Quắc Xạ, liền chối từ mà bảo Lãnh Chi rằng :

- Nước tôi mấy năm mất mùa luôn, dân phải xiêu bạt cả, năm nay hơi được mùa một chút thì dân xiêu bạt năm trước mới kéo nhau vễv vậy nên thóc trong nước chỉ đủ dùng mà thôi, không thể giúP quý quốc được

Lânh Chi nói :

- Chúa công tôi nghĩ tình thân thuộc, không bắt nộp đất, lại cho đong thóc có lòng giúp quý quốc như vậy, mà quý quốc không đền ơn lại thì nay tôi trở về, biết phục mệnh như thế nào ?

Lã Di Xanh và Khước Nhuế quát to lên rằng :

- Ngày trước nhà ngươi thông mưu với Phi Trịnh Phủ, toan đem lễ vật sang để dụ ta, may mà ta không mắc lừa, bây giờ lại còn nói khéo gì nữa ! Nhà ngươi nên về nói với vua Tần : muốn ăn thóc của nước Tấn ta thì tất phải đem quân sang đánh mới có được

Lãnh Chi tức giận lắm ra về. Khánh Trịnh nói riêng với Quách Yển rằng :

- Chúa công ta bội ơn, làm cho nước Tần tức giận, tất sẽ có tai vạ

Quách Yển nói :

-Nước Tấn ta sắp đến ngày mất!

Lãnh Chi về đến Tần, nói với Mục công rằng :

- Nước Tấn không cho đong thóc, lại toan họp quân Lương để sang đánh ta.

Mục công nói :

Con người vồ đạo đến thế, thật là không ngờ ! Để ta đánh nước Lương trước, rồi sau sang đánh nước Tấn.

Bách Lý Hề nói :

- Vua nước Lương hay làm khổ dân để xây đắp thành quách lâu đài, người trong nước ai cũng oán, tất không có thể giúp được nước Tấn. Nay chúa công nên đem quân sang đánh Tấn, rồi sẽ đánh Lương.

Mục công khen phải, liền giao cho Kiển Thúc và Do Dư giúp thế tử Oánh giữ nước, rồi đem đại binh đi đánh Tấn. Tấn Huệ công họp các quan lại hỏi rằng :

Nay nước Tần tự nhiên vô cớ đem quân sang xâm phạm đất ta thì nên dùng kế gì để chống giữ ?

Khánh Trịnh nói :

- Vì chúa công bội ơn mà Tần đem quân sang đánh, sao lại bảo là tự nhiên vô cớ được ? Cứ như ý tôi nên theo lời ước cũ mà nộp năm thành cho Tần, rỗi cùng Tần glảng hòa là hơn.

Huệ công nổi giận, nói :

- Nước Tấn ta đường là một nước lớn như thế này mà phải nộp đất giảng hòa với Tần thì còn mặt mũi nào mà làm vua nước Tấn nữa

Nói xong, truyền chém Khánh Trịnh. Quắc xạ nói :

Chưa đem quân đi đánh giặc, đă chém tướng thì tôi e rằng bất lợi, xin chúa công hãy tha Khánh Trịnh, để cho hắn được lập công mà chuộc tội.

Huệ công nghe lời, rồi cử binh đi đánh Tần. Huệ công vẫn dùng con ngựa tiểu tứ để kéo xe, tầm nhỏ, lông mỡ, đi nhanh và êm lắm.

Khánh Trịnh lại can rằng :

- Đời xưa đi đánh giặc bao giờ cũng dùng ngựa nước mình, vì ngựa nước mình đã quen thủy thổ, không. mấy khi lầm đưừng. Nay chúa công đi đánh giặc, lạị dùng ngựa nước Trịnh, tôi thiết tưởng không nên.

Huệ công lại mắng rằng :

- Con ngựa ấy ta dùng đã quen rồi, nhà ngươi chớ nên nói lắm.

Quân nước Tần sang đến nước Tấn, ba lần đánh ba lần được, các quan trấn thủ đều bỏ chạy cả. Quân Tần kéo thẳng đến đất Hàn Nguyên. Tấn Huệ công nghe tin quân Tần đă kéo đến Hàn Nguyên, liền nhăn trán lại mà nói rằng :

Quân giặc mạnh thế thì ta biết làm thế nào ?

Khánh Trịnh nói :

- Chúa công tự làm cho giặc đến, còn nói gì nữa !

Huệ công sai Hàn Giản đi do thám xem quân Tần nhiều hay ít.

Hàn Giản trở về báo rằng :

Quân nước Tần dẫu ít không bằng ta, nhưng xem khi thế hăng hái gấp mười quân ta ?

Huệ công hỏi :

Tại làm sao vậy ?

Hàn Giản nói :

- Chúa công lúc trước nhờ nước Tần giúp binh cho mà được về nối ngôi, sau nhờ nước Tần giúp thóc cho mà dân khỏi đói, mấy lần chịu ơn nước Tần mà không đền lại, bởi vậy vua tôi nước Tần đều một lòng tức giận mà đem quân đến đánh, thành ra khí thế mạnh không biết thế nào mà kể !

Huệ công có ý giận mà rằng :

- Câu ấy đáng lẽ Khánh Trịnh nóỉ thì mới phải, sao nhà ngươi cũng nói thế ? Ta đây quyết cùng với Tần tử chiến một phen.

Nói xong, liền sai Hàn Giản sang nói với Tần Mục công rằng :

- Nước tôi có sáu trăm cỗ giáp xa để chở quân nhà vua đến. Nếu nhà vua rút quân thì đó là sở nguyện của chúa công tôi ; nếu không rút thì dầu chúa công tôi có muốn nhường nhà vua, nhưng quân sĩ không nghe, biết làm thế nào ?

Tần Mục công cựời mà nói rằng :

- Đứa trẻ con ấy nay cũng kiêu lắm nhỉ !

Nói xong, bèn sai công tôn chi ra đáp lại rằng

- Hiền hầu muốn lảm vua thì tôi giúp quân, hiền hầu muốn lấy thóc thì tôi giúp thóc, nay hiễn hầu muốn khai chiến thì có đâu tôi lại dám trái ý.

Hàn Giản trở về mà nói rằng :

- Lý nước Tần như vậy thì ta tất phải thua mà thôi !

Huệ công sai Quách Yển bói xem : ai nên làm chức xa hữu.

Quách yển bói thấy không có ai tốt cả ngoải Khánh Trình ra. Huệ công nói :

Khánh Trịnh cùng cánh với Tần, khồng nên dùng.

Nói xong, bèn sai Gia Bộc ĐỒ làm chức xa hữu, Khước BỘ Dương ngồi cầm cương. Bách Lý Hề trèo lên trên lũy, trông thấy quân nước Tấn đông lắm, bèn bảo Tần Mục công rằng :

Tấn hầu cố sức liều chết, chúa công chớ nên đánh.

Mục công trỏ lên trời mà nói rằng :

Nước Tấn phụ ơn ta nhiều lắm, không có trời thì thôi, nếu có trời thì ta tất đánh được quân Tấn.

Nói xong, liền bày trận Ở dưới chân núi để đợi quân nước Tấn đến. Được một lúc quân nước Tấn kéo đến, ĐỒ Ngạn Di cậy khỏe, tay cầm cái côn sắt nặng hơn một trăm cân, xông vào đách nhau với Kiển Bính. Đánh được hơn năm mươi hợp, hai người bỏ khí giới rồi quần thảo với nhau. ĐỖ Ngạn Di nói :

- Ta liều chết với nhà ngươi, nếu nhà ngươi gọi ngườỉ khác đến đánh hộ thì không giỏi !

Kiển Bính nói :

- Một mình ta quyết bắt sống nhà ngươi, thế mới anh hùng. Hai ngươi đều cấm quân sĩ không ai được đánh hộ, rồi cứ thế vật nhau, lùi dần mâi vễ phía sau trận. Tấn Huệ công chia quân ra làm hai đạo để tiến vào. Tần Mục công cũng chia quân ra làm hai đạo để đối địch. Tấn Khua Cồng sai Khước BỘ Dương dong xe vào giáp chiến. Công tôn Chi trông thấy, hét lên một tiếng to như tiếng sấm. Con ngựa tiểu tứ của Tấn Huệ công chưa quen ra trận bao giờ, nghe tiếng công tôn Chi hét, liền kinh sợ lồng chạy, sa vào trong đám bùn lầy. Khước BỘ Dương cố sức gia roi đánh mãi, nhưng ngựa nhỏ sức yếu, không sao lên được. Đang lúc nguy cấp, may có Khánh Trịnh đi đến. Tấn Huệ công gọi mà bảo rằng :

- Khánh Trịnh ! Nhà ngươi mau mau cứu ta với !

Khánh Trịnh nói :

- Quắc Xạ đâu mà lại gọi đến Khánh Trịnh này ?

Tấn Huệ công lại gọi Khánh Trịnh mà bảo rằng :

- Nhà ngươi mau mau đem xe khác đến để cứu ta !

Khánh Trịnh nói :

Chúa công dùng con ngựa tiểu tứ đã quen, để đi gọi người khác đến cứu.

Nói xong, liền quay xe đi về phía tả. Đạo quân Hàn Giản tiến lên, đánh nhau với tướng nước Tần là Tây Khuất Thuật. Đánh trong ba mươi hợp, Tây Khuất Thuật không thể.đương nổi bị Hàn Giản đâm cho một nhát, bị thương. Lương Do My bảo Hàn Giản rằng :

Bắt viên bại tướng ấy làm gì, chúng ta nên đuồi theo mà bắt vua Tần. Hàn Giản liền cùng với Lương Do Mỵ thúc quân đi đuổi bắt Tần Mục công. Tần Mục công than rằng :

- Ngày nay ta lại bị nước Tấn bắt thì còn có trời đất nào nữa !

Bỗng có một toán tráng sĩ hơn ba trăm người từ phía tây kéo đến, vừa đi vừa reo ầm lên rằng :

Chớ làm hại ân chủ ta !

Tần Mục công ngẩng đầu lên xem thì thấy bọn trắng sĩ đều đầu bới tóc rối, chân đi giày cỏ, lưng đeo cung tên, tay cầm dao nhọn, xông vào đánh quân Tấn. Hàn Giản và Lương Do My đang hoảng hốt nghênh chiến thì Khánh Trịnh chạy đến gọi mà bảo rằng :

Chúa công ta bị quân Tần vậy, sa vào trong đám bùn lầy, nhà ngươi phải mau mau đem quân đến cứu.

Hàn Giản vội vàng kéo quân trở lại để đi cứu Tấn Huệ công. Không ngờ Tấn Huệ công đã bị công tôn Chi bắt đưọc rồi bọn Gia Bọc Đỗ, Quắc Xạ và Khước BỘ Dương đều bị bắt cả, Hàn Giản giẫm chân xuống đất mà than rằng :

- Khánh Trịnh làm hại ta rồi, để vậy cho ta bắt lấy vua Tần có phải hơn không ?

Lương Do My nói :

Chúa công đã bị bắt thì chúng ta còn về làm gì nữa ?

Nói xong, liễn cùng với Hàn Giản bỏ binh sĩ chạy đến dinh quân Tần. Bọn tráng sĩ hơn ba trăm người cứu được Tần Mục công, lại cứu được cả Tây Khuất Thuật nữa. Quân Tần thừa thế đuổi đánh.

Quân Tấn chết không biết bao nhiêu mà kể. Khánh Trịnh nghe tin vua Tấn đã bị bắt rồi, tức khắc tìm đưừng bỏ trốn, gặp tướng nước Tấn là Nga Tích bị thương, nằm Ở ngang đường bèn cứu lên xe cùng trở về nước Tấn.

Tần Mục công về đến đại dinh, bảo Bách Lý Hề rằng :

Ta không nghe lời nhà ngươi, xuýt nữa thì bị người nước Tấn cười, Bọn tráng sĩ hơn ba trăm người đều vào yết kiến Mục công. Mục công hỏi rằng :

- Các ngươi Ở đâu mà lại liều chết cứu ta như vậy ?

Bọn tráng sĩ nói :

Chủ công không nhớ chuyện mất ngựa năm xưa hay sao ? Chúng tôi chính là bọn ăn thịt ngựa đó !

Nguyên năm xưa Mục công đi săn Ở núi Lương Sơn, đang đêm bỗng mất mấy con ngựa. Mục công sai ngưừi đi tìm. Khi tìm đến dưới chân núi Kỳ Sơn , có một bọn hơn ba trăm người đang họp nhau ăn thịt ngựa, quân sĩ về báo với Mục công, xin đem người đến vây thì có thể bắt cả được. Mục công than rằng :

Ngựa đă chết rồi mà nay lại giết người thì dân trong nước tất bảo ta là quý ngựa hơn người.

Nồi xong, lại. truyền đem mấy chục hũ rượu ngon, sai người đưa . đến núi Kỳ Sơn cho bọn ăn thịt ngựa mà bảo rằng :

- Chúa công tôi thấy các ngươi ăn thịt ngựa mà không uống rượu như thế hay sinh bệnh, vậy sai tôi đem rưọu ngon đến để ban cho các ngươi.

Bọn ăn thịt ngựa chia nhau uống rượu, rồi bảo nhau rằng :

- Chúng ta ăn trộm ngựa, chúa công đã không bắt tội thì chớ, lại lo chúng ta mắc bệnh mà đem cho rượu ngon, thế bao giờ chúng ta mới đền được cái ơn to này !

Bây giờ nghe tin Mục công đi đánh nước Tấn, bọn tráng sĩ ấy bèn rủ nhau đến đánh giúp. Lại vừa gặp Mục công bi vây, bọn tráng sĩ mới xông vào để cứu. Mục công hỏi chuyện đầu đuôi, rồi thở dài mà than rằng :

Bọn ăn trộm ngựa còn biết đền ơn, ai ngờ Tấn hầu mà lại bất nghĩa như vậy.

Nói xong, liền truyền hỏi trong bọn tráng sĩ ấy có ai muốn làm quan thì phong chức cho. Bọn tráng sT đồng thanh đáp rằng :

- Chúng tôi chi muốn đến để đền ơn chúa công mà thôi, chứ không muốn làm quan.

Mục công sai đem vàng lụa ra thưởng cho bọn tráng sĩ. Bọn tráng sĩ nhất định không nhận, rồi cáo từ lui ra. Mục công khen ngợi không biết dường nào. Khi thu quân về, điểm duyệt các tướng thì thấy thiếu một mình Kiển Bính. Mục công sai quân sĩ đi tìm khắp mọi nơi, bỗng nghe thấy Ở trong một cái hố đất có tiếng người thở, vội vàng

đến xem thì ra Kiển Bính và ĐỒ Ngạn Di hai người ôm nhau nằm Ở trong hố hai bên cùng mệt lử, không động đậy được nữa, nhưng tay vẫn còn ôm chặt lấy nhau, chẳng ai chịu buông. Quân sĩ xuống gỡ hai ngưừi ra, rồi vực lên xe đưa về. Mục công hỏi thì Kiển Bính không thể nói được, có người biết chuyện đầu đuôi, thuật lại cho nghe. Tần Mục công khen rằng :

Hai người đều là dũng sĩ cả ?

Mục cồng lại hỏi các quan xem có ai biết ngưừi tướng nước Tấn họ tên là gì không ? Công tử Chí đến gần xem kỹ, mới nói với Tần Mục công rằng :

- Đây là ĐỐ Ngạn Di là một dũng sĩ nước Tấn. Khi trước tôi phụng mệnh sang thăm Trùng Nhĩ và Di Ngô thì hắn cũng có phụng mệnh đến đón Di Ngô, bởi vậy tôi biết.

Mục công nói :

- Người ấy ta có nên dùng không ?

Công tử Chí nói :

- Giết Hễ Tễ, Trác Tử và Lý Khắc đều một tay người ấy cả, bây giờ ta nên trị tội mà giết đi.

Mục công truyền đem ĐỖ Ngạn Di ra chém, rồi lại cởi áo cẩm bào trùm cho Kiển Bính, sai Bách Lý Hề chở xe về nước Tần để chữa thuốc đến hơn nửa năm mới khỏi.

Mục công đã toàn thắng, hạ lệnh nhổ trại lên đường và sai ngườí báo Tấn Huệ công rằng :

Nhà vua không muốn nhường tôi, nay tôi cũng không thể nhường nhà vua được, vậy xin mời nhà vua đến nước tôi để tôi xin chịu lỗi.

Tấn Huệ công nín lặng mà cúi đầu xuống. Tần Mục công sai công tôn Chi đem quân áp giải Tấn Huệ công về nước Tần. Bọn Quắc xạ Hàn Giản, Lương Do My, Gia Bộc Đồ, Khước BỘ Dương, Quách yển và Khước Khuất, đễu đầu bù tóc rối, lũ lượt theo sau, trông rất thê thảm ! Tần Mục công lại bảo các quan đại phu nước Tấn rằng :

Vua tôi nhà ngươi khi trước có bảo ta muốn lấy thóc nước Tấn thì phải đem quân đến mà lấy, nay ta giữ vua nước Tấn, chẳng qua là để có thóc của nước Tấn đó mà thôi, nào dám làm điều gì quá lẽ !

Bọn Hàn Giản sụp lạy mà nói rằng :

- Nhà vua thương chúa công tôi là người ngu mà có lòng khoan nhân thì hoàng thiên hậu thổ sẽ chứng giám cho câu nói của nhà vua.

Mục công về đến bờ cõi nước Tần, hội các quan để thương nghị.

Mục công nói :

- Ta chịu mệnh trời dẹp loạn nước Tấn mà lập Di Ngô, nay vua nước Tấn bội ơn ta, tức lả một kẻ có tội với trời, ta định giết vua nước Tấn để tế trời, phỏng có nên không ?

Công tử Chí nói :

- Chúa công nghĩ rất phải !

Công tôn Chi can rằng :

- Không nên ? Tấn là một nước lớn, ta bất vua nó cũng đã quá lắm rồi, nay lại giết đi thì tất nhiên người nước Tấn thêm oán. Người nước Tấn sẽ báo thù nước Tần ta, còn tệ hơn nước Tần ta báo thù nước Tấn ngày nay !

Công tử Chí nói :

- Tôi thiết tưởng chẳng những nên giết vua nước Tấn mà thôi, lại còn lập Trùng Nhĩ lên làm vua nước Tấn, như thế thì dân nước Tấn ơn ta chẳng hết, còn oán nỗi gì !

Công tôn Chi nói :

- Trùng Nhĩ là người nhân từ, khi trước đã không chịu vì việc cha chết mà về nối ngôi, huống chi ngày nay lại chịu nhân việc em chết mà về nối ngôi hay sao ! Trùng Nhĩ không vễ mà lập ngưòỉ khác thì cũng chắng khác gì Di Ngô nếu Trùng Nhĩ chịu về thì tất lại ngĩ đến em mà oán nước Tần ta lắm. Như thế thì bỏ mất cái ơn của Di Ngô, mà mua thêm cái oán của Trùng Nhĩ, tôi thiết tưởng không nên.

Mục công nói.:

- Một đằng đuổi đi, một đằng giam lại và một đằng cho về trong ba cách ấy cách nào lợi hơn ?

Công tôn Chi nói :

Giam lại thì có ích gì cho nước Tần mà đuổi đi thì tất lại có người lập mưu đem vào nước Tấn, chi bằng ta nên cho vua nước Tấn lại về phục vị.

Mục công nói :

Thế ra ta đem quân đánh Tấn mất công không hay sao ?

Công tôn Chi nói :

Tôi thiết tưởng nên bắt vua nước Tấn nộp cho ta năm thành Ở đất Hà Đông, lại bắt thế tử Ngữ phải sang Ở nước ta để làm tin, rồi mới cho giảng hòa. Như thế thì vua Tấn không bao giờ dám quên ơn Tần và ngày sau cha chết con nối, nước Tấn đời đời qui phục nước Tần ta thì còn gì lợỉ hơn nữa !

Tần Mục công nói :

- Nhà ngươi lại tính trước đến những việc mấy đời sau. Nói xong, truyền đem Tấn Huệ công an trí Ở Linh Đài sơn, rồi thu quân về kinh thành: Bỗng thấy một bọn nội thị kéo đến, đều mặc tang phục cả. Mục công thấy lạ, bèn hỏi. Nội thị thuật lời nói của Mục CƠ rằng :

Trời làm tai vạ, hai nước Tấn Tần bất hòa với nhau ; nay vua Tấn bị bắt thì thiếp cũng lấy lảm xấu hổ lắm.- Nếu đem vua Tấn về đây buổi sớm thì thiếp chết buổi sớm, đem về buổi chiều thì thiếp chết buổi chiều. Thiếp sai lũ nội thị mặc tang phục đi đón chúa công xin chúa cồng tha cho vua Tấn, tức là cứu cho thiếp được khỏi chết.

Mục công giật mình kinh sợ, hỏi nội thị rằng :

- Hiện nay phu nhân Ở trong cung, sự thể thế nào ? .

Nại thị nói :

Từ khi phu nhân tôi nghe tin vua Tấn bị bắt, liền đem thế tử mặc đồ tang phục, lên cái nhà gianh Ở trên Sùng Đài ; dưới Sùng Đài bắt chất nhiều củi khô. Chúng tôi đưa cơm vẫn phải trèo qua đống củi mà đi. Phu nhân tôi lại nói rằng : "- Chờ khi nào chúa công cho đem vua Tấn về thì phu nhân tôí đốt lửa lên mà tự tử, để tỏ cái tình anh

em ?"

Tần Mục công thở dài mà than rằng :

May sao công tôn Chi lại khuyên ta đừng giết vua nước Tấn, nếu không thì phu nhân chết mất rồi ?

Nói xong, bèn truyền cho nội thị bỏ tang phục đi, về báo với Mục Cơ rằng :

Chúa công sắp tha cho vua nước Tấn đó !

Bọn nội thị về báo với Mục Cơ, Mục CƠ mới chịu về cung. Nội thị bèn quỳ xuống mà hỏi rằng :

Vua nước Tấn là người tham lợi. đã quên ơn chúa công ta, lại không theo những lời ủy thác của phu nhân, đến nỗi ngày nay phải tù nhục phu nhân còn thương nỗi gì ?

Mục CƠ nói :

- Người nhân giả dẫu thù oán thế nào, cũng không bỏ được tình thân thuộc. Nếu để cho vua Tấn chết Ở nước Tần này thì cũng là lỗi của ta.

Các nội thị đều khen Mục CƠ là người hiền.

Hồi 31

Tấn Huệ công nồi giận giết tướng

Giới Tử Thôi cắt thịt nuôi vua

Tấn Huệ công bị giam Ở Linh Đài sơn, vẫn tưởng rằng Mục CƠ thù oán mình, không biết những việc Mục CƠ lập kế để xin hộ, liền bảo Hàn Giản rằng :

- Ngày trước tiên quân ta nếu biết nghe lời Sử TÔ không kết than với Tần thì không đến nỗi có việc này !

Hàn Giản nói :

CÓ phải là lỗi tại tiên quân kết thân với Tần đâu ! Nếu Tần không nghĩ tình thân thuộc thì sao chúa công được về nước. Tần đã giúp cho chúa công về, mà lại đem quân sang đánh, để gây sự thù oán, thì Tần có muốn đâu thế, chúa công nên nghĩ lại:

Huệ công nín lặng. Chẳng bao lâu, Tần Mục công sai công tôn Chi đến Linh Đài sơn bảo Huệ công rằng :

Các quan nước tôi, ai cũng căm giận nhà vua, nhưng chúa công tôi nể lời phu nhân mà không dám dứt tình. Ngày trước nhà vua có hẹn với chúa công tôi xin nộp năm thânh, nay nhà vua nên nộp ngay đi, rồi sai thế tử Ngữ sang Tần làm con tin, thì chúa công tôi sẽ cho nhà vua về nước.

Bấy giờ Tấn Huệ công mới biết Mục CƠ có lòng thương mình mà xin hộ, nên xấu hổ không biết dường nào, liền sai quan đại phu là Khước Khuất về nước Tấn bảo Lã Di Xanh lo việc nộp đất và đem thế tử Ngữ sang. Lã Di Xanh đem địa đồ và những sổ sách đinh điền trong năm thành sang dâng nộp Tần Mục công. Tần Mục công hỏi :

- Sao còn thế tử Ngữ chưa thấy đến ?

Lã Di Xanh nói :

Bởi nay trong nước không được yên, vậy nên thế tử tôi còn phải Ở lại, chờ khi chúa công tôi về thì sẽ cho thế tử sang.

Mục Công hỏi :

vì cớ gì mà nướcTấn không được yên? .

Lã Di Xanh nói :

- Trong nước tôi ngày nay chia thành ra hai phái : phái quân tử thì tự nhận lỗi mình, mà biết cám ơn quý quốc ; còn phái tiểu nhân thì không tự xét lỗi tnình, mà đem lòng thù oán quý quốc, bởi thế thành ra không đưọt yên.

Mục Công nói :

- Người nước Tãn có còn mong cho vua trở về hay không ?

Lã Di Xanh nói :

Phái quân tử thì chắc thế nào chúa công tôi cũng được về nên muốn đưa thế tử sang để giảng hòa với quý quốc còn phải tiểu nhân thì chãc là chúa công tôi không về được, nếu muốn tôn lập thế tử để chống với quý quốc. Cứ như tôi nghĩ thì quý quốc bắt được chúa công tôi, cũng đã đủ lập uy mà tha chúa công tôi lại càng tỏ được lòng nhân đức. Vừa có uy, vừa có đức, ấy là cái sự nghiệp cúa một bậc bá

chủ đấy ! Nếu ngảy nay quý quốc không tha chúa công tôi thì chỉ làm cho phái quân tử đau lòng và phái tiểu nhân căm giận, phỏng có ích gì cho quý quốc ? Tôi dám chắc quý quốc không khi nào chịu bỏ cái sự nghiệp bá chủ ấy !

Mục Công cười mà nói rằng :

- Nhà ngươì nól cũng hợp ý ta lắm !

Nói xong, liền sai Mạnh Minh (con Bách Lý Hề) đi nhận lấy địa giới năm thành và đặt quan trấn thủ. Lại sai công tôn Chi đem quân cùng với Lã Di xanh đưa Tấn Huệ công vễ nước. Các quan đại phu nước Tấọ bị bắt từ trước cũng đều theo về cả, chỉ có Quắc ốm chết Ở nước Tần.

Nga Tích nghe tin Tấn Huệ công sắp về, bảo Khánh Trịnh rằng :

- Ngày trước nhà ngươi gọi Hàn Giản đi cứu chúa cồng, khiến chúa công. bị bắt, nay chúa công đưọc về, nhà ngươi tất phái tội âu là nhà ngươi liệu mà trốn sang nước khác thì hơn.

Khánh Trinh nói :

-Cứ theo binh pháp nói thì làm tướng đem quân đi đánh giặc mà bị thua, cũng còn đáng tội chết, huống chi ta làm cho chúa công bị bắt thì tội to biết dường nào ! Nếu chúa công không về, ta cũng định đem gia quyến sang nước Tần xin chịu chết. Nay chúa công được về thì ta để cho chúa công trị tội ta mà làm gương cho kẻ khác, chứ việc gì phải trốn.

Nga Tích nghe nói, thương mà thở dài. Huệ công về gần đến đất Giáng thì thế tử Ngữ đem các quan ra nghênh tiếp. Huệ Công trông thấy Khánh Trịnh, có ý tức giận mà hỏi rằng :

Nhà ngươi còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa !

Khánh Trịnh nói :

- Lần trước chúa công biết theo lời tôi mà báo ơn nước Tần thì nước Tần tất không sang đánh ; lần thứ hai biết theo lời tôi mà giảng hòa với Tần thì Tần cũng không sang đánh ; đến lần thứ ba, biết theo lời tôi mà không dùng ngựa tiểu tứ thì cũng không đến nỗi thua, thế là tôi tận trung với chúa công đó, sao tôi lại không dám ra đây để nghênh tiếp chúa công ?

Huệ công nói :

- Bây giờ nhà ngươi còn nói gì nữa không ?

Khánh Trịnh nói :

- Tôi có ba tội đáng chết : có lời nói trung mà khiến vua không nghe, thế là một tội ; bói được làm chức xa hữu mà khìến vua không dùng, thế là hai tội ; đi gọi người cứu vua mà khiến vua bị bắt, thế là ba tội. Vậy tôi xin chịu tội chết.

Huệ công không biết nói thế nào, sai Lương Do Mỵ kể tội Khánh Trịnh Lương Do Mỵ bảo Khánh Trịnh rằng :

- Bấy nhiêu điều nhà ngươi nói đều không phải tội đáng chết, nhưng nhà ngươi có ba tội này đáng chết, nhà ngươi có biết không ?

Chúa công đang Ở trong đám bùn lầy, gọi nhà ngươi đến cứu mà nhà ngươi không đến, đó là một tội đáng chết ; ta sắp bắt được vua Tần, nhà ngươi lại gọi đi cứu chúa công, làm cho ta không bắt được vua Tần, đó là hai tội đáng chết ; các quan đều cố sức đánh mà bị bắt cả, chỉ có nhà ngươi thoát thân trốn về, đó là ba tội đáng chết.

Khánh Trịnh bèn ngảnh lại bảo các quân sĩ rằng :

- Các quân sĩ nghe tôi nói một lời : có ai là người không dám cố sức đánh giặc, mà dám ngồi yên để xin chịu tội chết bao giờ không ?

Nga Tích nói với Huệ công rằng :

- Khánh Trịnh biết tội chết mà không bỏ trốn thì thật là một kẻ dũng sĩ, chúa công nên tha cho y rồi sai y đi đánh báo thù.

Lương Do Mỵ nói :

- Đánh nhau đã thua rồi, bây giờ lại dùng người có tội để đi đánh báo thù, như thế chỉ làm cho thiên hạ cười nước Tấn ta là không còn ai nữa ?

Gia Bộc ĐỖ cũng can Huệ Công rằng :

- Khánh Trịnh ba lần dâng lời nóí trung, cũng đủ chuộc tội chết, bây giờ theo phép giết đi, chi bằng nghĩ lại mà tha cho thì chúa công cũng được cái tiếng nhân từ.

Lương Do Mỵ lại nói :

Nước được cường thịnh là nhờ có phép nước ; nếu không tuân theo phép nước thì ai còn sợ hãi ? Tôi chắc rằng nếu tha Khánh Trịnh thì từ nay trở đi, ta không còn có thể dùng binh được nữa.

Huệ Công truyền đem Khánh Trịnh ra chém. Lương Do Mỵ khi trước vây Tần Mục công, đã sắp bắt được, bị Khánh Trịnh gọi đi cứu Tấn Huệ công, thành ra không bắt được vua nước Tần, bởi vậy thâm thù Khánh Trịnh nên cố nói với Huệ công để giết Khánh Trịnh. Khi Khánh Trịnh bị giết, trời đất tối tăm, các quan đại phu có nhiều người

thương mà chảy nước mắt. Nga Tích xin đem thi thể Khánh Trịnh về làm ma, để đền ơn Khánh Trịnh cứu mình khỉ trước (khi đánh nhau với Tần, Nga Tích bị thương, Khánh Trịnh vực lên xe đem về).

Tấn Huệ công đã về nước rồi, bèn sai thế tử Ngữ theo công tôn Chi sang Ở nước Tần để làm tin, và xin thi thể ĐỒ Ngạn Di đem về làm ma, phong cho con trai ĐỒ Ngạn Di làm chức trung đại phu. Một hôm, Tấn Huệ công bảo Khước Nhuế rằng :

- Trong ba tháng ta Ở nước Tần, chỉ lo Trùng Nhĩ nhân dịp biến loạn mà đem quân về cướp ngôi, đến bây giờ ta mới yên tâm.

Khước Nhuế nói :

- Còn Trùng Nhĩ Ở ngoài thì vẫn còn một cái họa tâm phúc, ta nên nghĩ cách mà trừ bỏ đi, để khỏi hại về sau.

Huệ Công hỏi các quan rằng :

- CÓ ai vì ta mà giết được Trùng Nhĩ thì ta sẽ trọng thưởng.

Khước Nhuế nói :

- Bột Đề năm trước đi đánh đất Bồ, đã chém đứt vạt áo Trùng Nhĩ : hắn vẫn sợ Trùng Nhĩ được về nối ngôi thì tất trị tội hắn. Nếu chúa công muốn giết Trùng Nhĩ thì tất phải dùng hắn mới được việc.

Tấn Huệ công liền gọi Bột Đề vào, mật bảo việc giết Trùng Nhĩ.

Bột Đề nói :

- Trùng Nhĩ Ở nước Địch đã hai mươi năm nay, người nước Địch đánh nước Cao Như, bắt được hai người con gái : Thúc Ngỗi và Quý Ngỗi, đều có nhan sắc. Người nước Địch đem Quý Ngỗi gả cho Trùng Nhĩ đem Thúc Ngỗi gả cho Tnệu Thôi. Hai người đã có con cả, đều vui cảnh vợ con, mà không lo gì đến việc về phía ta cả. Nay tôi đem

quân sang tất người nước Địch giúp Trùng Nhĩ mà sinh sự đánh nhau, chưa chắc ta đã bắt được Trùng Nhĩ, chi bằng để tôi thuê mấy người lực sĩ, lén sang nước Địch, rình lúc Trùng Nhĩ ra chơi bên ngoài mà giết đi là tiện hơn cả.

Huệ Công khen phải, rồi cho Bột Đề một trăm nén vàng để đi tìm kẻ lực sĩ, hạn trong ba ngày phải khởi hành sang nước Địch.

HỒ Đột là một vị lão quốc cữu Ở nước Tấn bấy giờ, thấy Bột Đề tìm kẻ lực sĩ gấp lắm, dẫu tổn phí bao nhiêu tiền bạc, cũng không quản ngại, mới sinh nghi, đi hỏi dò nhứng kẻ nội thị. Trong đám nội thị có người biết chuyện, thuật lại cho HỒ Đột nghe. HỒ Đột giật mình kinh sợ, tức khắc viết một bức thư sai người sang nước Địch báo cho Trùng Nhĩ biết.

Trùng Nhĩ đang cùng với HỒ Mao, HỔ Yển (hai con của HỒ Đột) theo vua nước Địch đi săn Ở bến sông Vị. Bỗng có người xin vào yết kiến, nói có thư của lão quốc cữu đưa sang. HỒ Mao và HỒ Yển nói :

Thân phụ ta vốn không hay viết thư, tất là trong nước có việc gì đây !

Nói xong, liền cho vào yết kiến. Người nhà đệ trình bức thư của HỒ Đột. HỒ Mao và HỒ Yển mở thư ra xem. Trong thư nói :

Chưa công lập mưu định giết công tử, hiện sai Bột Đề trong ba ngày thôi phải khởi hành sang nưóc Địch. Anh em mày nên bẩm với công tử liệu mau mau trốn sang nước khác, chớ có chậm trễ mà mắc nạn

HỒ Mao và HỒ Yển kinh sợ, vội vàng đem bức thư đệ trình Trùng Nhĩ Trùng Nhĩ nói :

VỢ con ta đều Ở đây cả thì đây tức là nhà ta, bây giờ ta biết trốn đi đâu được ? .

HỒ Yển nói :

- Chúng ta tới đây, không phải có ý định lập nhà, mà là có chí muốn lập nước, chỉ vì sức chưa đi xa được, vậy phải tạm dừng chân Ở đây mà thôi. Nay ta Ở đây đã lâu, cũng nên tìm sang nước lớn khác.

Việc Bột Đề đến đây, chẳng qua cũng là lòng trời xui khiến, để giục công tử phải lập chí.

Trùng Nhĩ nói :

- Nay định đi thì nên sang nước nào ?

HỒ Yển nói :

Nay Tề hầu dẫu già, nhưng sự nghiệp bá chủ hãy còn, ta nên sang Tề.

Trùng Nhĩ khen phải, mới không đi săn nữa, trở về nói chuyện

với vợ là Quý Ngỗi rằng :

- Vua nước Tấn sai người đến đây để định giết ta, vậy ta phải tránh nạn mà sang nước khác, để rồi sẽ kết liên với Tần và SỞ để về phục quốc. Nàng Ở nhà trông nom hai con cái cho ta, đợi ta trong hai mươi nhăm năm, nếu không thấy ta về thì nàng cứ đi lấy chồng.

Quý Ngỗi khóc mà nói rằng :

Làm tài trai chí Ở bốn phương, thiếp không dám ngăn trở, nhưng nay thiếp đă hai mươi nhăm tuổi, lại chờ hai mươi nhăm năm nữa thì thiếp già đời mất, còn lấy ai nữa. Thôi thì thế nào thiếp cũng cố chí mà đợi công tử, xin công tử chớ lo ngại.

Triệu Thôi cũng tử giã với vợ là Thúc Ngỗi. Ngày hôm sau, Trùng Nhĩ sai HỒ Thúc sắp sửa xe ngựa và Đầu Tu thu xếp tiền bạc để khởi hành. Bỗng thấy HỒ Mao và HỒ Yển hoảng chạy đến, nói là HỒ Đột Ở nhà thấy Bột Đề đâ khởi hành rồi, nên không kịp viết thư, lại sai người sang giục công tử phải đi ngay. Trùng Nhĩ nghe tin, kinh

sợ mà rằng :

- Sao Bột Đề đến chóng như vậy ?

Nói xong, không kịp chỉnh đốn hành trang, liền tức khắc cùng với HỒ Mao và HỒ Yển đi ngay. HỒ Thúc thấy Trùng Nhĩ đã đi rồi, vội sửa soạn được một cái xe bò để đem theo cho Trùng Nhĩ ngồi, còn bọn Triệu Thôi thì lục tục đi đất theo sau. Trùng Nhĩ hỏi đến Đầu Tu, thì không thấy Đầu Tu đến thì ra Đầu Tu đã cuốn hết vàng bạc bỏ trốn

mất rồi ! Trùng Nhĩ đã không có chỗ nương tựa lại mất hết cả tiền bạc, tình trạng lúc ấy, rất đỗi thảm thương.

Trùng Nhĩ đi đã nửa ngày rồi, vua nước Địch mới biết, muốn đưa tặng đồ tư trang, nhưng không thể nào theo kịp được. Vua nước Địch biết chuyện Tấn Huệ công sai Bột Đề sang chực giết Trùng Nhĩ, mới truyền cho các nơi quan ải phàm người qua lại, phải khám xét thật kỹ. Bột Đề Ở nước Tấn, nguyên là một kẻ hoạn quan, nay thay

hình cải dạng để đi giết Trùng Nhĩ, nên mỗi khi bị quân nước Địch khám xét, Bột Đề không biết đằng nào mà ứng đối, thành ra không sang qua được nước Địch, lại phải uất ức mà trở về. Tấn Huệ công cũng không biết nghĩ cách gì khác nữa.

Công tử Trùng Nhĩ định sang nưởc Tề, đường đi qua nước Vệ, quan giữ ải nước Vệ hỏi lai lịch tự đâu mà đến. Triệu Thôi nói :

- Thày ta là công tử Trùng Nhĩ Ở nước Tấn đi tránh nạn, định sang nước Tề, phải mượn đường của quý quốc.

Quan giữ ải vội vàng phi báo cho Vệ Văn công biết. Quan thượng khanh nước Vệ là Ninh Tốc nói với Vệ Văn công mời Trùng Nhĩ vào thành Vệ Văn công nói :

- Khi trước ta đắp thành Ở đất SỞ Khâu này, không nhờ gì đến nước Tấn. Và Trùng Nhĩ là một người đi trốn, có quan trọng gì, nếu mình đón vào thì lại phải thết đãi, tốn phí nhiều lắm chi bằng cứ không tiếp là hơn.

Nói xong, liền truyền quân sĩ cấm không cho công tử Trùng Nhĩ vào thành Trùng Nhĩ phải vòng quanh phía ngoài thành mà đi. Ngụy Thù và Điêu Hiệt nói với Trùng Nhĩ rằng :

- Vệ hầu vô lễ như vậy, công tử nên sai người trách.

Triệu Thôi nói :

- Rồng vàng khi thất thế thì cũng chẳng khác gì con giun, công tử chớ nên trách người ta làm gì ?

Ngụy Thù và Điên Hiệt nói :

Hắn đã tệ bạc như thế thì ta cướp dân thôn để lấy lương ăn, chắc hẳn cũng không trách ta vào đâu được !

Trùng Nhĩ nóỉ :

- Cướp phá như vậy thì chỉ là quân đạo tặc, chẳng thà ta chịu nhịn đói còn hơn !

Ngày hôm ấy, mấy thầy trò chưa ai ăn cơm sáng cả, vừa nhịn đói, vừa đi. Trưa đi đến một chỗ gọi là đất Ngư Lộc, trông thấy bọn thợ cày ngồi ăn cơm Ở trên bờ ruộng, Trùng Nhĩ bèn sai HỔ Yển đến xin cơm.

Bọn thợ cày hỏi :

Các ngươi tự đâu đến đây ?

HỒ Yển nói :

Ta là người nườc Tấn, thầy ta ngồi Ờ trên xe kia. Chúng ta đi đường hết cả lương ăn, xin các người làm ơn cho một bữa.

Bọn thợ cày cười mà nói rằng :

- Người khỏe mạnh thế kia, không làm gì được mà ăn, lại đến xin cơm chúng.ta. Chúng ta đi cày ruộng, có ăn no mới làm nổi việc, còn cơm đâu mà cho các người !

HỒ Yển nói :

Các ngươi không cho cơm thì cho ta xin một cái bát.

Bọn thợ cày bèn chơi nghịch, cầm một nắm đất đưa cho HỖ Yển mà bảo rằng :

Nắm đất này đem nặn làm bát được đấy

Ngụy Thù tức giận, mắng người thợ cày, rồi giằng lấy cái bát, đập vỡ tan ra. Trùng Nhĩ cũng tức giận, toan giơ roi đánh. HỒ Yển vội vàng ngăn lại mà nói rằng :

Được cơm thì dễ, chứ được đất thì khó ? Được đất tức là cái điềm được nước. ĐÓ chẳng qua cũng là trời mượn tay người thợ cày để cho công tử đấy, sao công tử lại giận ? Công tử nên lạy tạ mà nhận lấy !

Trùng Nhĩ theo lời xuống xe lạy tạ. Bọn thợ cày chẳng hiểu ý tứ ra sao, đều xúm nhau lại, cười mà bảo rằng :

Anh này thật là người điên rồ !

Lại đi hơn mười dặm, thầy trò đều đói lả, không thể đi được nữa, bèn ngồi nghỉ Ở dưới gốc cây. Trùng Nhĩ đói quá, gối đầu vào HỒ Mao mà nằm. HỒ Mao nói :

- Triệu Thôi đi sau, hãy còn hồ cháo, ta nên đợi hãn đến.

Ngụy Thù nói :

- CÓ còn hồ cháo nữa thì một mình Tnệu Thõi ăn cũng chẳng đủ no, lấy đâu làm thừa !

Bọn người bèn bảo nhau đi lấy rau sam về luộc lên mà ăn.

Trùng Nhĩ không thể nào nuốt được. Bỗng thấy Giới Tử Thôi đem một bát cháo thịt đến dâng. Trùng Nhĩ ăn lấy làm ngon lắm. ăn xong, Trùng Nhĩ hỏi Giới Tử Thôi rằng :

- Nhà ngươi lấy đâu được cái này thế ?

Giới Tử Thôi nói :

ấy là thịt đùi của tôi đó ! Tôi nghe nói người hiếu tử bỏ thân để thờ cha mẹ, người trung thần bỏ thân để thờ vua. Nay công tử không có gì ăn, vậy nên tôi phải cắt thịt đùi tôi mà dâng công tử.

Trùng Nhĩ ứa nước mắt mà rằng :

ơn này biết bao giờ đền lại được !

Giới Tử Thôi nói :

- Tôi chỉ mong công tử về được nước Tấn, ấy là trọn cái đạo thần tử của tôi, khi nào dám mong được đền ơn.

Được một lúc, Tnệu Thôi đến, mọi người xúm lại hỏi :

Vì cớ gì mà đi chậm như vậy ?

Triệu Thôi nói :

- Tôi bị gai đâm vào chân, không thể đi nhanh được.

Nói xong, liền mở tráp ra, đem hồ cháo dâng lên Trùng Nhĩ.

Trùng Nhĩ nói :

Nhà ngươi không biết đói hay sao mà lại không ăn hồ cháo này ?

Triệu Thôi nói :

- Tôi đâu đói, nhưng khi nào dám quên công tử mà ăn một mình.

HỒ Mao ngảnh lại, nói bỡn Ngụy Thù rằng :

- Giả sử hồ cháo này vào tay anh thì anh đâ tiêu hóa nó hết rồỉ !

Ngụy Thù có ý hổ thẹn. Trùng Nhĩ cầm hồ cháo ấy đưa cho Triệu Thôi, Triệu Thôi đem hòa thêm nước lã vào rồi đun sôi lên, chia cho tất cả mọi người.

Trùng Nhĩ đến nước Tề, Tề Hoàn công vốn biết tiếng Trùng Nhĩ là người hiền, liền sai người ra mời vào nhà công quán, bày tiệc thết đãi Trong khi ăn tiệc, Tề Hoàn công hỏi Trùng Nhĩ rằng :

- Công tử có đem nội quyến đi không ?

Trùng Nhĩ nói :

- Cái thân đi trốn tránh này một mình còn chẳng kham nổi, dám đâu đem cả gia quyến đi.

Tề Hoàn công cười mà bảo rằng :

- Tôi quen tính hễ đêm nằm ngủ một mình thì lấy làm khó chịu, coi dài như một năm. Nay công tử đi thế này mà không có người nâng khăn sửa túi, tôi lấy làm buồn cho công tử lắm !

Nói xong, liền chọn một người con gái đẹp Ở trong họ gả cho Trùng Nhĩ, lại tặng cho hai mươi cỗ ngựa. Từ bấy giờ những người theo hầu Trùng Nhĩ đều có xe ngựa đi cả. Tề Hoàn công lại sai người đưa cấp các đồ lương thực. Trùng Nhĩ bằng lòng mà than rằng :

Trước ta vẫn nghe nói Tề Hoàn công là người biết trọng đãi kẻ hiền sĩ, nay quả nhiên như vậy ? Người ấy làm nên việc bá chủ, cũng là phải lắm ?

Tề Hoàn công từ khi giao quyền chình cho Bão Thúc Nha, lại theo lời Quản Di Ngô đuổi bỏ Thụ Điêu, Dịch Nha và Khai Phương, thì ăn không được ngon, ngủ không được yên, trông mặt lúc nào cũng buồn bã. Trưởng Vệ CƠ nói với Tề Hoàn công rằng :

- Chúa công đuổi Thụ Điêu, Dịch Nha và Khai Phương đi mà chính trị trong nước chẳng thấy hơn được cái gì ! Thiếp thấy dung nhan chúa công mỗi ngày một giảm, chắc rằng những người hầu hạ xung quanh có nhiều điều không vừa ý, sao chúa cồng chẳng cho triệu mấy người cũ về ?

Tề Hoàn công nói :

- Ta cũng nhớ mấy người ấy lắm, nhưng đã đuổi đi mà lại triệu về thì sợ mất lòng Bảo Thúc Nha chăng ?

Trưởng Vệ CƠ nói :

- Đến Bảo Thúc Nha cũng cần phải có người hầu, nay chúa công già rồi, tội gì mà khổ thân ? Chúa công cứ mượn cớ không có người nấu ăn mà triệu Dịch Nha về thì tự khắc Thụ Điêu và Khai Phương không phải triệu, họ cũng về cả.

Tề Hoàn công nghe theo, sai người triệu Dịch Nha về để nấu ăn.

Bão Thúc Nha can rằng :

Chúa công quên mất lời của Trọng phụ rồi hay sao ?

Tề Hoàn công nói :

- Ba người ấy có ích cho ta mà không làm hại gì đến nước, lời nói của Trọng phụ ngày xưa cũng khắc nghiệt quá ?

Nói xong, liền không nghe lời Bão Thúc Nha, lại triệu cả Thụ Điêu và Khai Phương về nữa. Dịch Nha, Thu Điêu và Khai Phương đều được phục chức như cũ, lại ngày đêm hầu hạ Tề Hoàn công. Bảo Thúc Nha tức giận, thành ra ốm nặng, uất ức mà chết. Từ bấy giờ nước Tề lại sinh ra biến loạn.

Hồi 32

án Nga Nhi thủ tiết chết theo

Tề Công Tử tranh ngôi nổi loạn

Lúc về già, Tề Hoàn công, trái với lời dặn của Quản Di Ngô, lại dùng Dịch Nha, Thụ Điêu và Khai Phương. Bão Thúc Nha can ngăn không được, uất lên mà chết. Từ bấy giờ ba ngưới ấy lại càng không sợ hãi gì nữa, khinh Tề Hoàn công già nua không làm gì được, mới thông đồng nhau mà chuyên quyền. Bấy giờ có một người nước Trịnh tên là Tần Hoãn, tên tự là Việt Nhân, làm thuốc giỏi lắm sang Ở đất Lư Thôn nước Tề, bởi vậy mới gọi là Lư y. Lúc Tần Hoãn còn nhỏ, mở một nhà quán xá, có Trường Tang Quân đến trọ, Tần Hoãn biết là người khác thường, không lấy tiền trọ, Trưởng Tang quân cảm ơn, cho uống một viên thần được, tự nhiên mắt sáng như gương, trông thấy cả ma quỷ và nglrời đứng cách bên kia tường, bởi vậy khi đi làm thuốc, trông rõ hết cả lúc phủ ngũ tạng, được người ta ví với Biển Thước ngày xưa cho nên cũng gọi là Biển Thước tiên sinh.

Biển Thước (tức là Tần Hoãn) sang chơi nước Quắc, gặp thế tử nước Quắc ngộ cảm mà chết. Biển Thước nói chuyện với người nội thị rằng :

- Tôi có thể chữa được thế tử.

Người nội thì nói :

- Thế tử đã chết rồi, còn sống lại thế nào được nữa ?

Biển Thước nói :

- Hãy thử cho tôi chữa xem.

Người nội thị vào báo với vua nước Quắc. Vua nước Quắc cho triệu Biển Thước vào. Biển Thước sai học trò là Dương Lệ đem cái kim đá chích cho thể tử. Được một lúc, thế tử sống lại.

Biển Thước lại cho thuốc chén ; hơn hai tuần nữa thì khỏi hẳn. Từ bấy giờ Biển Thước nổi tiếng có tài cải tử hoàn sinh. Biển Thước đi chơi khắp thiên hạ, cứu được nhiều người lắm. Một hôm đi đến đất Lâm Tri, vào yết kiến Tề Hoàn công, nói với Hoàn công rằng :

Chúa công có bệnh Ở thớ thịt ; nếu không chữa thì thành ra bệnh nặng.

Hoàn công nói :

- Tôi chẳng có bệnh gì cả !

Biển Thước lui ra. Sau năm ngày lại vào yết kiến ; nói với Tề Hoàn công rằng :

- Bệnh chúa công đã Ở mạch máu, làm thế nào cũng phải chữa.

Hoàn công không trả lời. Sau năm ngày nữa lại vào yết kiến, nói với Hoàn công rằng :

Bệnh chúa công đã Ở trong ruột và dạ dày rồi, phải chữa ngay đi Hoàn công lại không trả lời. Biển Thước lui ra. Hoàn công than rằng :

Tệ quá ? Thầy thuốc chỉ nghề hay vẽ trò ! Người ta không có bệnh mà cứ bảo là có bệnh ?

Qua năm ngày nữa, Biển Thước lại vào yết kiến Tề Hoàn công, vừa trông thấy nét mặt Hoàn công đã vội lui ra mà bỏ chạy. Hoàn công sai người hỏi. Biển Thước nói :

- Bây giờ bệnh chúa công đã vào đến tủy rồi ! Bệnh Ở da thịt còn xoa thuốc được, bệnh Ở mạch máu thì còn tiêm thuốc được, bệnh Ở ruột và dạ dày còn uống thuốc được, nay bệnh đã vào đến tủy thì dẫu trời cũng không chữa được nữa, bởi vậy tôi không nói mà lui ra.

Lại qua năm ngày nữa. Hoàn công quả nhiên ốm nặng, sai triệu Biển Thước. Người nhà Biển Thước nói :

- Thầy tôi bỏ đi đã năm hôm rồi ?

Hoàn công hối hận vô cùng. Nguyên trước kia Hoàn công có ba vị phu nhân là : Vương Cơ, Từ CƠ và Sái Cơ. Ba người đều không có con trai. Vương CƠ và Từ CƠ đều ốm chết cả, còn Sái CƠ thì cho về nước Sái. Sau lại lấy thêm sáu vị phu nhân nữa, đều có con trai cả :

1. Trưởng Vệ Cơ, sinh công tử VÔ Khuy ;

2. Thiếu Vệ Cơ, sinh công tử Nguyên (tức là Tề Huệ công); .

3. Trịnh Cơ, sinh công tử Chiêu (tức là Tề Hiếu công);

4. Cát Doanh, sinh công tử Phan (tức là Tề Chiêu công);

5. Mật Cơ, sinh công tử Thương Nhân (tức là Tề Y công);

6. Tống Hoa Tử, sinh công tử Ung.

Còn những tỳ thiếp có con cũng nhiều, không Ở trong số sáu vị phu nhân ấy. Trong sáu vị phu nhân ấy, chỉ có trưởng Vệ CƠ là hầu hạ Hoàn công đã lâu ; trong sáu vị công tử thì VÔ Khuy là nhiều tuổi hơn cả. Trưởng Vệ CƠ thông đồng với Dịch Nha và Thụ Diêu, nói với Hoàn công xin lập công tử VÔ Khuy làm thế tử. Sau Hoàn công lại yêu công tử Chiêu vì thấy Chiêu là người hiền, và bàn với Quản Di Ngô, đem công tử Chiẽu ủy thác cho Tống Tương công. Khai Phương là bạn thân của công tử Phan, cũng mưu việc nối ngôi cho Phan. Công tử Thương Nhân tính hay bố thí, nhiều người có lòng mến, lại nhân người mẹ được Hoàn công yêu, cũng có ý muốn dòm dỏ ngôi báu.

Trong đám sáu vị công tử ấy, chỉ có công tử Ung là biết yên phận, còn năm vị công tử kia đều lập vây cánh riêng, nghi kỵ lẫn nhau. Hoàn công dẫu là một ông vua anh hùng, nhưng vốn say mê tửu sắc, và nay tuổi đã già rồi, chí khí cũng đã mỏi mệt, trí lực cũng đã mờ tối, lại tin dùng lũ tiểu nhân, bởi vậy năm vị công tử đều nói với mẹ để xin với tề Hoàn công lập làm thế tử.

Hoàn công vẫn trù trừ không quyết định, đến bây giờ ốm nặng, phải nằm một chỗ ; Dịch Nha thấy Biển Thước bỏ không chữa, biết là bệnh Hoàn công nguy, mới cùng Thụ Điêu thương nghị, rồi giả cách phụng mệnh Hoàn công, mà yết thị ra ngoài cửa cung rằng :

Ta đang ốm, không muốn nghe tiếng ngưởi nói, phàm các quan, các công tử và thân thuộc, không ai được vào cung cả ; truyền cho Thụ Điêu phải nghiêm giữ cửa cung, còn Dịch Nha thì đem quân đi tuần phòng xung quanh. Bao nhiêu chính sự trong nước, đợi khi ta khỏi rồi, sẽ vào tâu.

Thụ Điêu và Dịch Nha chỉ cho công tử VÔ Khuy cùng trưởng Vệ CƠ được ra vào trong cung, còn các vị công tử khác, dẫu muốn hỏi thăm cũng không được vào. Qua ba ngày nữa, Tề Hoàn công cũng chưa chết, Thụ Điêu và Dịch Nha lại đuổi hết các thị vệ xung quanh, bất cứ trai gái, bắt ra ngoài tất cả, rồi đem khóa chặt cửa cung lại. Lại đắp một bức tường cao ba trượng Ở xung quanh chỗ ngủ của Tề Hoàn công làm cho trong ngoài ngăn cách, không giao thông được với nhau ; chỉ để một cái lỗ Ở dưới chân tường, sớm tối sai một kẻ tiểu nội thị chui vào để dò xem Hoàn công đã chết hay chưa.

Hoàn công đang nằm Ở trên giường, muốn dậy mà không được, mới lên tiếng gọi, cũng chẳng thấy ai thưa. Hoàn công mở to hai mắt ngơ ngác nhìn xung quanh. Bỗng nghe đánh xịch một tiếng, có người đẩy cửa sổ bước vào. Hoàn công mở to mắt nhìn xem ai thì ra đó là người tiện thiếp tên gọi án Nga Nhi. Hoàn công nóì :

Trong bụng tôi thấy đói, chỉ muốn ăn cháo, nhà ngươi đi lấy cho ta.

án Nga Nhi nói :

Bây giờ lấy đâu cho được cháo !

Tề Hoàn công nói :

- Được chén nước nóng thì cũng đỡ khát.

án Nga Nhi nói :

Nước nóng cũng không lấy đâu được !

Tề Hoàn công hỏi :

- Tại sao thế ?

án Nga Nhi nói :

Dịch Nha và Thụ Điêu làm loạn, nghiêm giữ cửa cung, đã đắp một bức tường cao ba trượng, làm cho trong ngoài ngăn cách, không giao thông với nhau được, còn ai đem được các thức ăn, thức uống vào đây !

Tề Hoàn công nói :

- Nhà ngươi làm thế nào mà vào được ?

án Nga Nhi nói :

- Thiếp chịu ơn chúa công thương đến vậy nên liều thân trèo qua tường vào đây, để được trông thấy chúa công lúc nhắm mắt.

Tề Hoàn Công nói :

- Thế tử Chiêu Ở đâu ?

An Nga Nhi nói :

- Hai người ngăn cấm không cho thế tử vào cung.

Hoàn công than rằng :

- Trọng phụ ngày xưa thật.là bậc thánh ! Vì ta không minh, đến nỗi nên cơ sự này !

Nói xong, liền cố sức kêu lên một tiếng thật to rằng :

- Trời ôi ! Ai ngờ ta đến nỗi này !

Hoàn công kêu luôn mấy tiếng, hộc máu ra đằng miệng, rồi bảo án Nga Nhi rằng :

- Ta có sáu người vợ yêu và mười người con, mà không một người nào Ở trước mặt cả, thành ra lúc ta chết chỉ có một mình nhà người ; ta tiếc ngày xưa ta không biết trước mà trọng đãi nhà ngươi.

án Nga Nhi nói :

Chúa công cứ yẽn lòng, một mai có điều gì, thiếp xin tình nguyện chết theo chúa công.

Hoàn công than rằng :

Ta chết xuống âm phủ, còn mặt mũi nào mà trông thấy Trọng Phụ nữa !

Nói xong, lấy vạt áo phủ vào mặt, rồi thở dài mấy tiếng mà chết. án Nga Nhi thấy Hoàn cõng đã chết rồi, khóc lóc một hồi, muốn gọi người ngoài, nhưng tường cao, gọi bên ngoài cũng không nghe tiếng được ; muốn trèo tường ra, thì phía trong tường không có chỗ nào mà bám chân, nghĩ quanh nghĩ quẩn, lại thở dài mà than rằng :

Ta đã nói xin chết theo chúa công, thì ta phải chết, còn việc khâm liệm không dự gì đến ta cả.

Nói xong, liền cởi áo trùm lên thi thể Tề Hoàn công, bưng hai cánh cửa sổ mà đậy lại, rồi ngồi dưới chân giường, lạy mấy lạy mà khấn rằng :

Xin linh hồn chúa công chớ đi xa vội, đợi thiếp theo cùng.

Khấn xong, đập đầu vào cột, vỡ óc ra mà chết. Đêm hôm ấy, đứa tiểu nội thị chui vào, trông thấy Ở dưới chân cột, máu chảy lênh láng, có một cái thây người chết, giật mình kinh sợ, vội vàng bỏ ra, báo với Thụ Điêu và Dịch Nha rằng :

Chúa công đã đập đầu vào cột mà tự tử rồi !

Thụ Diêu và Dịch Nha không tin, sai bọn nội thị đục rộng tường ra, rồi hai người thân hành vào xem, thấy một thi thể đàn bà, thì giật mình sợ hãi. Trong đám nội thị có người nhận đước mặt án Nga Nhi mới nói với Thụ Điêu và Dịch Nha rằng :

- Đây là thi thể của án Nga Nhi.

Lại mở hai cánh cửa Ở trên đầu giường, thấy thi thể Tề Hoàn công, không biết chết từ bao giờ Thụ Điêu bàn đến việc phát tang.

Dịch Nha nói :

- Thong thả ! Ta hãy nên tôn lập công tử VÕ Khuy đã, rồi sau sẽ phát tang thì mới khỏi tranh nhau được

Thụ Điêu lấy làm phải. Hai người đến thương nghị với Trưởng Vệ CƠ rằng :

Chúa công nay đã mất rồi, cứ theo thứ tự lớn nhỏ thì nên lập công tử VÔ Khuy, nhưng khi chúa công hãy còn nhỏ, đã có đem công tứ Chiêu ủy thác cho Tống hầu để lập làm thể tử, các quan ai cũng biết cả, nếu nay nghe tin chúa công mất tất nhiên họ về phe với thế tử Chiêu. Cứ như ý chúng tôi thì đêm nay nên đem giáp sĩ đi giết thế tử Chiêu rồi lập công tử VÔ Khuy.

Trưởng Vệ CƠ nói :

- Ta là đàn bà, còn biết ít, tùy ý các người đấy !

Bấy giờ Thụ Điêu và Dịch Nha đem quân đến đông cung định bắt thế tử Chiêu. Thế tử Chiêu từ khi không được vào cung hỏi thăm, có ý buốn bã ; tối hôm ấy đang ngồi Ở dưới bóng đèn, mơ mơ màng màng, bỗng trông thấy một người đàn bà đến bảo rằng :

Thế tử không đi ngay thì tai vạ sắp đến nơi ! Thiếp là án Nga Nhi, phụng mệnh chúa công đến đây để báo cho thế tử biết.

Công tử Chiêu vừa toan hỏi chuyện đầu đuôi thì người đàn bà ấy lấy tay đẩy một cái, Chiêu ngã lăn xuống vực sâu ; giật mình tỉnh dậy, chẳng thấy người đàn bà đâu cả, té ra là một giấc chiêm bao.

Công tử Chiêu thấy lạ, vội vàng sai người thắp đèn mở cửa sau đi sang nhà quan thượng khanh là Cao Hổ, thuật lại đầu đuôi giấc chiêm bao.

Cao HỔ nói :

- Chúa công mắc bệnh đã hơn nửa tháng nay, bị đứa gian thần làm cho trong ngoài ngăn cách, nay thế tử chiêm bao thấy như vậy, tất là sự chẳng lành, nên tạm tìm nơi để tránh nạn.

Công tử Chiêu nói :

Bây giờ biết tránh đi đâu được ?

Cao HỔ nói :

- Ngày xưa chúa công đã đem thế tử ủy thác cho vua nước Tống, nay thế tử nên sang nước Tống, thế nào vua Tống cũng có lòng giúp.

HỔ này là kẻ bề tôi giữ nước, không dám đi theo thế tử, nhưng có một tên người nhà là Thôi Yển hiện đang làm chức giữ thìa khóa Ở cửa đông để tôi sai người bảo hắn mở cửa thành cho thế tử đêm hôm nay trốn ra.

Cao HỔ nói chưa dứt lời thì bỗng nhiên nghe tin có quân đến vây nhà Thế tử Chiêu sợ xám cả mặt. Cao HỔ bảo thế tử Chiêu thay hình đổi dạng, rồi sai mấy người tâm phúc đưa ra cửa đông, dặn Thôi Yển mở cửa thành cho thế tử Chiêu ra. Thôi Yển nói :

- Nay chúa công chưa biết còn hay là mất, tôi mở cửa thành cho thế tử đi trốn, tất là có tội ; mà thế tử đang thiếu người theo hầu, nếu có lòng yêu mà cho tôi cùng theo sang nước Tống thì tôi xin đi theo.

Thế tử Chiêu mừng lắm, nói :

- Nhà ngươi cùng đi thì còn gì hơn nữa !

Thôi Yển bèn mở cửa thành, rồi lấy xe ngựa cùng với thế tử Chiêu thẳng đường trốn sang nước Tống. Thụ Điêu và Dịch Nha đem quân vây nhà thế tử Chiêu, chằng tìm thấy tông tích đâu cả. Bấy giờ đã sang trống canh tư, Dịch Nha nói :

Chúng ta vây bắt thế tử Chiẽu là muốn nhân lúc bất ngờ để làm cho được việc, nếu chậm đến sáng ngày mai mà các vị công tử khác biết tin, vào chiếm giữ lấy ngôi vua thì hỏng mất cả ; chi bằng ta hãy trở về, tôn lập công tử VÔ Khuy đã, rồi dò xem ý các quan ra làm sao, sẽ liệu xử sau.

Thụ Điêu nói :

- Tôi cũng nghĩ như vậy ?

Nói xong, hai người cùng thu quân trở về.

Các quan đại phu nghe tin Thụ Điêu và Dịch Nha đem quân đi, mới kéo nhau đến cửa cung để dò tin tức đã thấy nói Hoàn công mất rồi ; lại nghe tin thế tử Chiêu bị vây, biết là lũ gian thần thừa cơ làm loạn, mới bàn nhau rằng :

- Thế tử Chiêu là do chúa công ta khi xưa lập nên, nếu thế tử có sự gì thì chúng ta còn mặt mũi nào làm quan Ở nước Tề này nữa !

Khắp các quan đều nhao nhao bàn nhau đi cứu thế tử Chiêu.

Bỗng gặp Thụ Điêu và Dịch Nha kéo quân về, các quan đều xúm lại trước mặt mà hỏi :

- Thế tử đâu ?

Dịch Nha chắp tay vái mà đáp lại rằng :

- Thế tử VÔ Khuy hiện đang Ở trong cung.

Các quan đều nói :

- VÔ Khuy chưa được lập làm thế tử bao giờ, không phải là vua chúng ta ; phải lập thế tử Chiêu mới được.

Thụ Điêu chống thanh kiếm xuống đất mà quát to lên rằng :

- Thế tử Chiêu ta đã đuổi đi rồi ! Nay ta phụng di mệnh tiên quân lập công tử VÔ Khuy lên nối ngôi, nếu ai không bằng lòng theo thì chém cổ đi.

Các quan đều hầm hầm nổi giận, xỉ mắng rầm lên rằng :

- Lũ chúng bay là bọn gian thần, dối người chết, lừa người sống ; dám thừa cơ lảm loạn ; nếu lập công tử VÔ Khuy thì chúng ta quyết không chịu theo.

Quan đạí phu là Quản Bính (con Quản Di Ngô) bước ra nói rằng :

- Nay ta hãy đánh chết hai đứa gian thần này đi, để trừ gốc loạn ; rồi sau sẽ thương nghị.

Nói xong, giơ cái hết ngà, đánh ngay vào đầu Thụ Điêu. Thụ Điẽu giơ thanh kiếm lên đỡ. Các quan đang sắp sửa xông vào giúp Quản Bình, bỗng thấy Dịch Nha quát to lên rằng :

Quân giáp sĩ đâu, sao không kéo vào !

Mấy trãm giáp sĩ tức khắc xông đến, đâm chém bừa đi. Các quan bấy giờ, mười phần đã chết mất ba, còn bị thương nhiều lắm, đều bỏ chạy cả. Dịch Nha và Thụ Điêu đánh tan bọn các quan rồi thì trời vừa sáng rõ, liền vào trong cung đem công tử VÔ Khuy ra triều, sai nội thị rung chuông nổi trống, rồi bắt quân giáp sĩ bày hàng phục

lạy để tôn VÔ Khuy lên nối ngôi. Các triều thần chỉ có Dịch Nha và Thụ Điêu mà thôi. VÕ Khuy vừa thẹn, vừa giận, Dịch Nha nói :

Nay ta chưa phát tang, vậy nên các triều thần chưa được tống cựu thì đã nghinh tân làm sao được ! Việc này nên phải tnệu họ Cao và họ Quốc đến, mới sai bảo các quan được ?

VÔ Khuy theo lời, mới sai nội thị đi triệu họ Cao và họ Quốc.

Nguyên Quốc Ý Trọng và Cao HỔ là hai vị đại thần có sắc mệnh của thiên tử, nối đời làm chức thượng khanh, trong hàng các quan, ai cũng kính phục, bởi vậy VÔ Khuy mới sai người đến triệu. Cao và Quốc biết là Hoàn công đã mất rồi, tức khắc mặc tang phục đi vào triều Dịch Nha và Thụ Điêu đón Ở ngoài cửa mà bảo rằng :

- Ngày nay vua mới lẽn ngôi ; xin hai lão đại phu hãy tạm giữ cát phục đã.

Quốc Ý Trọng và Cao HỔ nói :

- Chưa tống tang vua cũ ; mà đã lạy vua mới sao cho phải lễ ? Trong các công tử, ai chẳng phải là con của tiên quân, lão phu này có ý gì đâu, hễ ai làm chủ được việc tang thì lão phu xin theo.

Dịch Nha và Thụ Điêu im lặng, không nói gì được nữa ! Quốc Ý Trọng và Cao HỔ khóc rầm lên rồi trở ra. VÔ Khuy nói :

Nay chưa phát tang, mà các quan lại có ý không phục thì biết làm thế nào ?

Thụ Điêu nói :

Công việc ngày nay cũng như bắt hổ, hễ có sức khỏe thì được, xin chúa công cứ ngồi yên, chờ khi các công tử vào triều, ta sẽ lấy binh lực mà hiếp bức.

VÔ Khuy nghe lời. Trưởng Vệ CƠ bắt các nội thị trong cung đều mặc quân trang cả, các cung nữ có người nào to lớn khỏe mạnh, cũng bắt mặc quân trang, chia làm hai đội, một đứng Ở tả vu, một đứng Ở hữu vu. Khaỉ Phương nghe tin Dịch Nha và Thụ Điêu tôn lập VÔ Khuy liền bảo công tử Phan (con nàng Cát Doanh) rằng :

- Thế tử Chiêu bây giờ không biết đi đâu, nếu VÔ Khuy được lập thì công tử lại không đáng lập hay sao ?

Nói xong, liền cùng với công tử Phan đem quân vào chiếm điện bên phải. Công tử Thương Nhân (con nàng Mật Cơ) cùng với công tử Nguyên bàn với nhau rằng :

Chúng ta cùng là máu mủ của tiên quân cả, cơ nghiệp giang sơn ai cũng có phần. Nay công tử Phan đâ chiếm điện bên phải thi chúng ta cũng chiếm điện bên trái, hễ thế tử Chiêu về đây chúng ta sẽ nhường, bằng không chúng ta nhất định bắt chia nước Tề ra mới được.

Công tử Nguyên lấy làm phải, liền đem quân vào chiếm điện bên trái. Còn công tử Thương Nhân đem quân đóng Ở triều môn, để cùng với công tử Nguyên tiếp ứng lẫn nhau. Dịch Nha và Thụ Điêu sợ thế ba vị công tử, không dám ra đánh. Ba vị công tử cũng sợ thế Dịch Nha và Thụ Điêu, không dám xung đột, thành ra cứ giữ lẫn nhau. Bấy giờ chỉ có công tử Ung là không muốn sinh sự, bỏ trốn sang nước Tần. Tần Mục công dùng làm quan đại phu. Các vị công tử giữ nhau đến hơn hai tháng, không ai chịu lui.

Cao HỔ nói :

Các vị công tử chỉ biết tranh ngôi, mà không nghĩ gì đến việc tang, nay ta nên liều chết mà nói việc này mới được.

Quốc Ý Trọng nói :

- Ngài vào nói trước, rồi tôi xin theo ; hai ta cùng liều chết để báo ơn nước.

Cao HỔ nói :

- Chỉ có hai người thì làm gì được âu là ta rủ thêm nhiều người nữa cùng đến chốn triều đường, để tôn công tử VÔ Khuy làm chủ tang, phỏng có nên chăng ?

Quốc Ý Trọng nói :

- VÔ Khuy nhiều tuổi hơn cả, thì lập VÔ Khuy cũng là phải chứ sao !

Bấy giờ Quốc Ý Trọng và Cao HỔ rủ được bọn các quan cùng mặc tang phục kéo vào trong triều. Thụ Điêu ngăn lại mà hỏi rằng :

- Lão đại phu đến đây có ý gì ?

Cao HỔ nói :

- Các vị công tử cứ tranh nhau mãi thì không biết bao giờ mới thôi, nay chúng tôi định đến đây để tôn công tử VÔ Khuy lên làm chủ tang.

Thụ Điêu vái chào Cao HỒ mà mời vào. Cao HỔ lấy tay vẫy một cái, Quốc Ý Trọng và các quan kéo nhau cùng vào, nói với công tử VÔ Khuy rằng :

- Chúng tôi nghe nói ơn cha mẹ to bằng trời đất, vậy nên lúc cha mẹ sống thì con phải tôn kính, lúc cha mẹ chết thì con phải phụng thờ không có bao giờ cha chết nằm đất chưa tống tang mà các con cứ tranh nhau phú quý như thế này ; với lại vua làm gương cho bề tôi, nếu vua bất hiếu sao cho bề tôi trung được ? Nay tiên quân chết đã sáu mươi bảy ngày rồi mà còn chưa nhập quan, công tử nghĩ có yên

lòng không ?

Nói xong, các quan đều phục xuống đất mà khóc. VÔ Khuy cũng ứa nước mắt mà nói rằng :

- Cái tội bất hiếu của tôi, thật là to lắm ! Nào phải là tôi không nghĩ đến, nhưng bọn công tử Nguyên xử như vậy thì biết làm . thế nào ?

Quốc Ý Trọng nói :

- Thế tử đã bỏ đi mất rồi, nay chỉ có công tử là nhiều tuổi hơn cả nếu công tử làm chủ tang được thì ai còn vào đấy mà nối ngôi ; tôi xin lấy đại nghĩa mà trách bảo thì bọn công tử Nguyên cũng phải theo thôi.

VÔ Khuy gạt nước mắt mà nói rằng :

- Tôi cũng muốn như vậy ?

Cao HỔ bảo Dịch Nha và Thụ Điêu cứ nghiêm giữ cửa cung, hễ các vị công tử có mặc tang phục thì mới cho vào, nếu ai dám đem binh khi vào thì tức khắc trị tội. VÔ Khuy vào trong cung để định khâm liệm Hoàn công. Thi thể Hoàn công để đã lâu ngày, thìt nát cả ra, hôi thối không thể chịu được dòi bọ bò ra cả ngoài tường. VÔ Khuy vật mình lăn khóc. Các quan cũng đều khóc cả. VÔ Khuy sai người lấy áo gấm bọc lại để nhập quan. Còn thi thể án Nga Nhi thì vẫn tươi như lúc sống ; Cao HỔ khen là một người đàn bà trung liệt, cũng sai người nhập quan. Cao HỔ và các quan tôn VÔ Khuy đứng làm chủ tang, rồi đêm hôm ấy cùng ngủ cả Ở bẽn linh cữu Hoàn công. Công tử Nguyên, công tử Phan và công tử Thương Nhân nghe tin các quan đã khâm liệm Hoản công và tôn VÔ Khuy lên làm chủ tang, biết là không thể tranh nổi, cũng đều rút quân về, và mặc tang phục để vào cung.

Thế tử Chiêu chạy sang nước Tống, vào yết kiến Tống Tương công, sụp lạy Ở dưới đất, thuật lại những chuyện Dịch Nha và Thụ Điêu nồi loạn. Tống Tương công bèn họp các quan lại mà hỏi rằng :

- Ngày xưa Tề Hoàn công có đem công tử Chiêu ủy thác cho ta để lập làm thế tử, thấm thoát đã mười năm trời, ta vẫn còn đinh ninh nhớ trong lòng Nay Dịch Nha và Thụ Điêu làm loạn mà đuổi thế tử Chiêu, ta muốn hội các nước để đem quân giúp cho thế tử Chiêu về nước. Nếu làm xong việc này thì ta có thể nối được cái công nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công ngày trước, các ngươi nghĩ thế nào ?

Bỗng có một viên đại thần đứng ra mà tâu rằng :

Nước Tống ta có ba điều không bằng nước Tề, làm bá chủ thế nào được !

Tống Tương công nhìn xem ai thì tức là người thứ huynh của Tống Tương công tên gọi là công tử Mục Di, năm trước nhường ngôi cho Tống Tương công không chịu làm vua, và được Tống Tương công cho làm chức thượng khanh.

Tống Tương công hỏi công tử Mục Di rằng :

- Nhà ngươi nói ta có ba điều không bằng nước Tề là những điều gì ?

Mục Di nói :

- Nước Tề có núi Thái Sơn, bể Bột Hải là nơi hiểm trở ; có đất Lang Gia, đất Tức Mặc là chỗ phì nhiêu ; mà ta thì nước nhỏ đất xấu, quân ít, lương ít, thế là một điều không bằng ; nước Tề có họ Cao và họ Quốc, lại có Quản Di Ngô, Ninh Thích, Thấp Bằng và Bão Thúc Nha để sửa sang chinh trị, mà ta thì trong triều không có người hiền tài thế là hai điều không bằng ; Tề Hoàn công đi đánh đông dẹp bắc, thường thấy những sự tốt lành, mà ta thì trong nước chỉ thấy những điều tai dị, thế là ba điều không bằng. CÓ ba điều không bằng nưởc Tề thì giữ mình còn chẳng nổi, lấy sức đâu mà chãm lo cho người khác được

Tống Tương công nói :

Ta vốn lấy điều nhân nghĩa làm chủ ; nếu không cứu người mồ côi thì sao gọi là nhân ! Đã nhận lời người ta mà lại bỏ đi thì sao gọi là nghĩa !

Nói xong, liền truyền hịch đi các nước, hẹn đến tháng giêng năm sau thì cùng hội nhau đem quân đưa thế tử Chiêu về nước. Khi tờ hịch đến nước Vệ, quan đại phu nước Vệ là Ninh Tốc nói với Vệ Văn công rằng :

- Không có con đích thì lập con trưởng, đó là lẽ thường nay, công tử VÔ Khuy nhiều tuổi hơn cả, và ngày trước có công đem quân sang giữ hộ nước Vệ ta, tức là ân nhân của ta, xin chúa công chớ nên dự vào việc ấy.

Vệ Văn công nói :

Chiêu được lập làm thế tử, thiên hạ ai cũng bỉết cả. Việc giữ hộ nước Vệ ta là tư ân, việc lập thế tử là công nghĩa, nếu vì tư ân mà bỏ công nghĩa thì ta không muốn.

Khi tờ hìch đến nước Lỗ, LỖ Hi công nói :

Tề Hoàn công ngày xưa đem thế tử Chiêu ủy thác cho vua nước Tống, chứ có ủy thác cho ta đâu. Nay ta chỉ biết người nào nhiều tuổi hơn thì nên lập, nếu Tống đánh VÔ Khuy, ta quyết đem quân đi cứu

Đến năm sau, Tống Tương công hội quân nước Vệ, nước Tào và nước Châu cùng giúp thế tử Chiêu để sang đánh VÔ Khuy, VÔ Khuy sai Dịch Nha đem quân đi đánh, lại sai Thụ Điêu cầm quyền chinh trong nước, còn Cao HỔ và Quốc Ý Trọng thì chia giữ các nơi hiểm yếu Cao HỔ bảo Quốc Ý Trọng rằng :

- Trước ta lập VÔ Khuy là vì bấy giờ chưa có ai đứng lên mà lo việc tang cho tiên quân, nay thế tử Chiêu đã về, lại được quân nước Tống giúp thì lý thuận mà thế mạnh lắm ? Vả Dỉch Nha và Thụ Điêu giết hại các quan, chuyên giữ quyền chính, tất có ngày nên loạn, chi bằng ta trừ bỏ đi mà đón thế tử Chiêu về, lập lên làm vua, cho các công tử khỏi có lòng dòm dỏ, họa may nước Tề ta mới yên được.

Quốc Ý Trọng nói :

- Dịch Nha hiện đang cầm quân Ở ngoài cõi, nay ta mời Thụ Điẽu đến, giả cách bàn việc, nhân đó mà giết đi, rồi đem các quan đi đón thế tử Chiêu về để thay VÔ Khuy, ta chắc Dịch Nha không làm gì nổ.

Cao HỔ nói :

- Kế ấy hay lắm !

Nói xong, liền sai quân sĩ phục cả xung quanh, cho người mời Thụ Điêu đến để bàn việc.

Hồi 33

Thế tử Chiêu trở về nưóc Tề

Tống Tương công mắc lừa nước SỞ

Cao HỔ nhân khi Dịch Nha đã đem quân đi rồi, mới sai người mời Thụ Điêu đến để bàn việc. Thụ Điêu không có ý nghi ngờ, ngang nhiên đến ngay. Cao HỔ bày tiệc để thết đãi. Uống được vài chén, Cao HỔ hỏi Thụ Điẽu rằng :

Nay vua nước Tống hội quân chư hầu đưa thế tử Chiêu về đây thì ta biết dùng cách gì mà chống lại được ?

Thụ Điêu nói :

- Tôi chả có tài năng gì, nhưng ngài có sai việc gì thì tôi xin vâng mệnh.

Cao HỔ nói :

- Ta muốn mượn cái đầu của nhà ngươi để xin lỗi với nước Tống. Thụ Diẽu ngạc nhiên, liền đứng ngay dậy. Cao HỔ quát to lên rằng :

- Quân giáp sĩ đâu ?

Quân giáp sĩ xông vào chém chết Thụ Điêu. Cao HỔ sai người mở rộng toang cửa thành ra, rồi truyền bá cho dân trong nước biết rằng :

Thế tử Chiêu đã sắp về tới nơi rồi ; ai bằng lòng thì đi theo ta.

Dân trong nước vốn ghét Dịch Nha và Thụ Điêu, bởi vậy không phục VÔ Khuy, nay thấy Cao HỔ đi đón thế tử Chiêu, thì đều rủ nhau đi theo, đến hơn nghìn người. Quốc Ý Trọng vào cung nói với VÔ Khuy rằng :

- Nay dân trong nước mến phục thế tử Chiêu, kéo nhau đi đón, lão phu không thể ngăn lại được, xin chúa công nên mau mau tìm kế

vô Khuy hỏi :

- Dịch Nha và Thụ Điêu đâu ?

Quốc Ý Trọng nói :

- Dịch Nha đem quân đi, chưa biết được thua thế nào còn Thụ Điêu thì đã bị dân trong nước giết chết rồi

VÔ Khuy nổi giận nói :

- Dân trong nước giết Thụ Diêu lẽ nào nhà ngươi lại không biết ?

Nói xong, toan sai người bắt Quốc Ý Trọng. Quốc Ý Trọng bỏ chạy. VÔ Khuy tay chống thanh kiếm, đi ra cửa cung, truyền nội thị gọi dân để đi đánh giặc. Nội đi gọi khắp mọi nơi, chẳng ai theo cả. Những người nhà trong bọn các quan khi trước bi Dịch Nha và Thụ Điêu giết hại, vì nỗi không theo VÔ Khuy, nay nghe tin Cao HỔ giết Thụ Điêu mà đi đón thế tử Chiêu, đều có ý mừng rỡ, cùng kéo nhau cầm binh khí đến cửa đông để dò la tin tức, lại gặp VÔ Khuy đi vừa đến đấy, liền xúm nhau lại vây bắt VÔ Khuy. Nội thị quát rầm lên rằng :

- Sao các ngươi dám vô lễ với chúa công ?

Mọi người đều nói :

Nào ai là chúa công ?

Nói xong, liền xông vào chém giết lũ nội thị. VÔ Khuy chống cự không nổi, vội vàng xuống xe bỏ chạy, cũng bị giết chết nốt. Trong ngoài náo động cả lên, sau Quốc Ý Trọng phải đi phủ dụ, mọi người mới đâu về đấy. Quốc Ý Trọng sai người phi báo cho Cao HỔ biết. Dịch Nha đóng quân Ở ngoài cõi, chống nhau với quân Tống, tự nhiên đang đêm thấy quân sĩ náo động, tuyên truyền nhau rằng :

Thụ Diêu và VÔ Khuy đều chết cả rồi, Cao HỔ đem người đi đón thế tử Chiêu về làm vua, chúng ta không nên theo bọn phản nghịch nữa.

Dịch Nha biết là quân sĩ có ý nổi loạn, liền cùng với mấy tên người nhà tâm phúc, bỏ trốn sang nước Lỗ. Sáng hôm sau, Cao HỔ đến phủ dụ quân sĩ, rồi cùng nhau đi đón thế tử Chiêu. Cao HỔ đưa thế tử Chiêu về đến Lâm Tri, Ở tạm nhà công quán, rồi sai người vào báo Quốc Ý Trọng biết để đem các quan ra đón. Công tử Nguyên và công tử Phan nghe tin thế tử Chiêu đã về, đến rủ Thương Nhân cùng đi đón. Công tử Thương Nhân không bằng lòng mà nói rằng :

Khi phát tang tiên quân ta thế tử Chiêu có đến dự đâu, mà nay lại cậy thế nước Tống để về nối ngôi, thật là một sự trái lẽ ; bây giờ quân các nước đã rút về cả, chúng ta nên đem quân ra giết thế tử Chiêu đi, để báo thù cho công tử VÔ Khuy, rồi trong bọn ba người chúng ta, tùy ý các quan đại thần, lập một người lên nối ngôi, việc gì phải sợ hãi quân Tống, làm cho uy phong bá chủ của tiên quân ta khi xưa phải giảm mất đi.

Công tử Nguyên nói :

- Nếu vậy thì ta nên vào nói với Trưởng Vệ Cơ, rồì phụng mệnh mà làm thì phải lẽ hơn.

Trưởng Vệ CƠ khóc mà nói rằng :

Nếu các ngươi vì VÔ Khuy mà báo thù được thì ta dẫu chết cũng thỏa trong lòng.

Nói xong, liền đem những người tâm phúc của VÔ Khuy trước, hợp với bọn công tử Nguyên, công tử Phan và công tử Thương Nhân cùng ra để chống cự với thế tử Chiêu. Những người tâm phúc của Thụ Điêu cũng muốn vì chủ báo thù, mới nhập bọn với ba vị công tử, đem quân giữ các cửa thành.

Quốc Ý Trọng sợ hãi, đóng chặt cửa lại, không dám ra đối địch. Cao HỔ bảo thế tử Chiẽu rằng :

- VÔ Khuy và Thụy Điêu dẫu chết rồi, nhưng phe phái hãy còn. Vả chúng có ba vị công tử làm chủ, đóng cửa thành không cho ta vào ; nay ta muốn vào thì tất phải đánh, đánh mà không được thì thành ra lắm sự lỡ, chi bằng ta lại sang cầu cứu nước Tống là hơn.

Thế tử Chiêu nói :

- Việc này tùy ý quốc lão.

Cao HỔ liền đem thế tử Chiêu chạy sang nước Tống. Tống Tương công mới thu quân về đến bờ cõi, lại thấy thế tử Chiẽu đến, giật mình kinh sợ, hỏi vì cớ gì. Cao HỔ kể hết sự tình đầu đuôi. Tống Tương công nói :

Điều đó chỉ vì ta thu quân về vội quá, nhưng còn ta đây, thế tử lo gì chẳng vào được thành Lâm Tri.

Nói xong, lại đem quân đưa thế tử Chiêu trở về nước Tề. Công tử Thương Nhân bảo công tử Phan và công tử Ngllyên rằng :

Chúng ta cứ hợp sức nhau đem quân ra mà đánh, nếu đánh không được, khi ấy ta sẽ tìm phương tránh nạn.

Công tử Nguyên và công tử Phan lấy làm phải, đêm hôm ấy mở cửa thành cùng với công tử Thương Nhân đem quân ra đánh, bị quân Tống đánh cho một trận thất điên bát đảo. Công tử Nguyên biết sức không địch nổi, liền cùng với mấy người tâm phúc bỏ trốn sang nước Vệ Công tử Phan và công tử Thương Nhân rút quân vào thành, toan đóng cửa lại, nhưng đóng không kịp, quân Tống kéo Ỗ vào. Thôi Yển đánh xe cho thế tử Chiêu vào thẳng trong thành. Quốc Ý Trọng nghe tin thế tử Chiêu đã vào thành rồi, liền cùng với Cao HỔ đem các quan ra đón, tôn thế tử Chiêu lên nối ngôi, tức là Tề Hiếu công.

Tề Hiếu công được lên làm vua phong cho Thôi Yển làm đại phu, và đem vàng lụa ban thưởng cho quân nước Tống. Tống Tương công Ở lại nước Tề mấy ngày, mới rút quân về.

LỖ Hi công đem đại binh sang nước Tề định giúp công tử VÔ Khuy ; đi đến nửa đường, nghe tin Tề Hiếu công đã lên ngôi rồi, liền thu quân trở về và từ bấy giờ nước LỖ và nước Tề thành ra hiềm khích nhau. Công tử Phan và công tử Thương Nhân bàn nhau đổ lỗi cá nhân cho công tử Nguyên. Quốc Ý Trọng và Cao HỔ cũng biết, nhưng muốn cho Tề Hiếu công bỏ những điều hiềm khích, nên làm thinh không nói

đến, chỉ trị tội mấy đứa thủ xướng là Dịch Nha và Thụ Diêu, giết hết bọn vây cánh, còn thì tha tội cả.

Đến tháng tám năm ấy Tề Hiếu công làm lễ an táng Tề Hoàn công Ở trên núi Ngưu Thủ, và đem án Nga Nhi phụ táng Ở bên cạnh.

Lại vì cớ công tử VÔ Khuy và công tử Nguyên, mà đem hết cả nội trong hai cung Trưởng Vệ CƠ và Thiếu Vệ CƠ bắt chôn theo cả, kể hàng mấy trăm người.

Tống Tương công từ khi đưa được thế tử Chiêu về làm vua nước Tề, tự lấy làm có công to lắm, muốn đại hội chư hầu để thay Tề Hoàn công làm bá chủ, nhưng lại sợ khó lông thu phục được các nước lớn mới ước với các nước nhỏ là nước Đằng, nước Tào, nước Châu và nước Tắng đến hội Ở phía nam nước Tào. Vua nước Tào và vua nước Châu đã đến rồi, bấy giờ vua nước Đằng là Anh Tề mới đến. Tống Tương công không cho Anh Tề dự hội, bắt giam vào một chỗ. Vua nước Tắng sợ uy nước Tống, cũng vội vàng đến dự hội, nhưng đã quá mất hai ngày rồi, Tống Tương công hỏi các quan rằng :

- Nay ra mới khời xướng việc dự hội chư hầu, mà nước Tắng là nước nhỏ đã dám khinh thường, bỏ quá hai ngày mới đến, nếu ta không trị tội thì còn uy lệnh gì nữa ?

Quan đại phu là công tử Đảng nói :

- Ngày xưa Tề Hoàn công đánh nam dẹp bắc, chỉ còn có nước Đông Di là chưa đánh nổi, nay chúa công muốn lập uy cho người ta sợ thì nên dùng vua nước Tắng để mà thu phục lấy nước Đông Di.

Tống Tương công nói :

- Dùng vua nước Tắng thì làm thế nào ?

Công tử Đảng nói :

Nước Đông Di có thờ thần gió và thần mưa Ở bến sông Thu Thủy nay chúa công giết vua nước Tắng đi để dùng làm lễ vật mà tế các vị thần ấy thì chẳng những là các vị thần giáng phúc cho chúa công mà nước Đông Di nghe thấy việc ấy, tất cũng tưởng rằng chúa công có quyền sinh sát chư hầu mà sợ hãi rồi qui phục. Bấy giờ ta lại mượn sức Đông Di để đánh các nước khác, như thế chắc làm nên được sự nghiệp bá chủ.

Công tử Mục Di can rằng :

- Không nên ? Đời xưa lấy việc sát sinh làm hệ trọng, vậy nên việc tế lễ nhỏ không dám sát sinh, huống chi lại giết người mà tế lễ. Việc tế lễ là để cầu phúc cho người ta, nếu lấy người làm tế vật thì quỷ thần nào còn chứng giám. Vả thần gió mưa Ờ sông Chư Thủy, chẳng qua lả giống yêu quái mà thôi, nay chúa công lại theo tục Đông Di mà tế vị thãn ấy thì còn ai là người phục chúa công nữa ? Tề Hoàn công làm bá chủ trong bốn mươi năm, chỉ đi cứu giúp những kẻ hèn yếu để làm ơn cho thiên hạ, nay chúa công mới hội chư hầu mà đã giết người để tế giống yêu quái, tôi chắc rằng các nước ai cũng khiếp sợ mà phản lại chúa công, chứ không khi nào người ta chịu phục.

Công tử Đảng nói với công tử Mục Di rằng :

- Công tử nghĩ lầm ? Công việc bá chủ của chúa công ta ngày nay cùng với Tề Hoàn công khác nhau nhiều lắm : Tề Hoàn công sửa sang chính trị trong nước hơn hai mươi năm mới hội chư hầu, nay chúa công ta có đợi được như thế hay không ? Việc hoãn thì nên dùng ân, việc cấp thì nên dùng uy, một đằng chóng, một đằng chậm, nên phải xét rõ mới được, nếu ta không dùng Đông Di thì Đông Di tất có lòng nghi ngờ, ta không dọa chư hầu thì chư hầu tất có lòng khinh bỉ ; trong thì chư hầu khinh bỉ, ngoài thì Đông Di nghi ngờ, sao cho nên nghiệp bá được ? Ngày xưa Vũ vương nhà Chu khi còn là chư hầu mà dám chém đầu thiên tử là vua Trụ, bởi thế lấy được thiên hạ, huống chi vua Tắng là một nước nhỏ, phỏng có hề gì, xin chúa công cứ làm.

Tống Tương công liền giết vua Tắng để tế thần sông Thư Thủy, rồi sai người triệu vua nước Đông Di đến hội tế. Các nước Đông Di không ai đến cả. Vua nước Đằng là Anh Tề thấy vậy sợ hãi, sai người đem nhiều lễ vật đến để xin với Tống Tương công. Tống Tương công tha cho về. Quan đại phu nước Tào là Hi Phụ CƠ bảo vua Tào rằng :

- Vua nước Tống là người nóng nảy mà bạo ngược như vậy chắc không làm gì nên, chi bằng ta bỏ về là hơn.

Vua nước Tào bèn bỏ về. Tương công nổi giận, toan đem quân đánh nước Tào.

Công tử Mục Di lại can rằng :

Nước Tào bỏ về, cũng chẳng hại gì đến chúa công, cần gì mà chúa công phải đem quân đi đánh.

Tương công không nghe, liền sai công tử Đãng đem quân sang vây kinh đô nước Tào. Hi Phụ CƠ nghĩ kế để chống nhau với công tử Đãng, trong ba tháng mà công tử Đãng không đánh nổi.

Bấy giờ Trịnh Văn công ước với Lỗ, Tề, Trần, Sái cùng với SỞ Thành vương hội Ở đất nước Tề. Tống Tương công nghe tin, sợ nước Tề và nước SỞ tranh mất quyền bá chủ, vội vàng tnệu công tử Đãng thu quân về. Vua nước Tào sợ quân Tống lại đến đánh, bên sai người sang xin lỗi,, từ bấy giờ Tào và Tống lại giảng hòa với nhau. Tống Tương công muốn làm bá chủ, nhưng thấy có nhiều nước nhỏ không phục, còn các nước lớn thì lại cùng với SỞ hội thề, có ý tức giận, mới cùng với công tử Đãng thương nghị. Công tử Đãng nói :

- Các nước ngày nay, có Tề và SỞ là lớn hơn cả, Tề dẫu là dòng bá chủ, nhưng con cháu tranh nhau, thế nước suy yếu chỉ có nước SỞ là cường thịnh, nay tiếm hiệu xưng vương, ai cũng phải sợ, chúa công nên sai người sang lễ nước SỞ để mượn thế SỞ mà hội chư hầu, rồi lại mượn thế chư hầu để trị lại nước Sở, ấy là kế quyền nghi tạm trong một thời.

Công tử Mục Di lại can rằng :

- Nước SỞ dẫu vì ta mà hội chư hầu, nhưng khi nào nước SỞ chịu nhường quyền cho ta, tôi e rằng làm như thế thì lại gây ra sự tranh chấp nhau thôi.

Tống Tương công không nghe lời công tử Mục Di, liền sai công tử Đãng đem lễ vật sang nói với SỞ Thành vương. SỞ Thành Vương hẹn đến đầu năm sau thì hội Ở đất Lộc Thượng (đất nước Tề). Công tử Đãng về nói với Tống Tương công, Tương công nói :

Lộc Thượng là đất nước Tề, vậy thì ta cũng nên phải báo cho vua Tề biết.

Tề Hiếu công cũng bằng lòng.

Đến tháng giêng năm sau, Tống Tương công lập đàn sẵn Ở đất Lộc Thượng để chờ Tề Hếu công và SỞ Thành vương đến. Sang đầu tháng hai, Tề Hiếu công đến, Tống Tương công cậy cái công giúp Tề Hiếu công khi truớc, nên trong khi tiếp kiến, cũng có vẻ đắc ý. Tề Hiếu công cũng cảm Ở nước Tống, vậy nên tỏ lòng kính nể. Lại qua

đến hơn hai mươi ngày nữa, SỞ Thành vương mới đến. Khi trêo lên đàn, Tống Tương công tự cho mình là minh chủ, tay nắm tai trâu không hề khiêm nhượng. SỞ Thành vương thấy vậy có ý không bằng lòng. Tống Tương công nói với SỞ Thành vương và Tề Hiếu công rằng :

Tôi muốn nhờ uy linh của hai nhà vua để đến tháng tám năm nay đại hội chư hầu Ở nước tôi, nếu hai nhà vua có lòng yêu mà xướng xuất các nước chư hầu cho thì tôi được đội ơn nhiều lắm.

Tề Hiếu công chắp tay vái nhường SỞ Thành vương. SỞ Thành vương cũng chắp tay vái nhường Tề Hiếu công. Hai vua cứ nhường lẫn nhau mãi, không ai chịu ký tên trước. Tống Tương công nói :

Nếu hai nhà vua có lòng đoái tưởng đến tôi, thì xin cùng ký tên một lượt.

Nói xong, lấy tờ điệp triệu tập chư hầu, không đưa cho Tề Hiếu công, mà lại đưa cho SỞ Thành vương trước. Tề Hiếu công cũng có ý không bằng lòng. SỞ Thành vương mở xem tờ điệp, thấy Tống Tương công đã ký tên trước rồi, cười thầm và bảo Tống Tương công rằng :

- Nhà vua cũng có thể hội được chư hầu, cần gì phải mượn đến tôi

Tống Tương công nói :

Nước Trịnh lâu nay vẫn chịu ơn với quý quốc, mà nước Trần và nước Sái thì mới rồi cũng cùng với quý quốc hội thề Ở đất nước Tề, nếu không nhờ uy linh của nhà vua thì tôi e rằng các nước không chịu đến hội.

SỞ Thành vương nói :

- Thế thì vua nước Tề nên ký tên trước, rồi sau sẽ đến tôi.

Tề Hiếu công nói với SỞ Thành vương rằng :

Nước tôi chỉ là một nước chịu ơn của nước Tống mà thôi, cho nên Tống hầu muốn nhờ uy linh của quý quốc là đúng.

SỞ Thành vương cười mà ký tên, rồi cầm bút đưa cho Tề Hiếu công.

Tề Hiếu công nói :

CÓ nước SỞ ký tẽn là đủ, bất tất phải có nước Tề.

Nói xong, nhất định không chịu ký. Chỉ vì Tề Hiếu công thấy Tống Tương công trọng SỞ mà khinh Tề, thì lấy làm bất bình mà không chịu ký tên. Tống Tương công vẫn cậy mình có ơn với Tề Hiếu công, cho nên tưởng là Tề Hiếu công nói thực, liền cầm tờ điệp cất đi.

SỞ Thành vương về nước, nói chuyện lại cho quan lệnh doãn là Tử Văn nghe. Tử Văn nói:

vua nước Tống là người ngông cuồng như vậy, sao đại vương lại giúp nước Tống để hội chư hầu làm gì ?

SỞ Thành vương cười mà nói rằng :

Ta muốn làm chủ hội Ở Trung quốc đã lâu lắm, nhưng chưa có dịp nào cả, nay ta nhân nước Tống mà hội chư hầu, chẳng cũng nên lắm ru !

Quan đại phu là Thânh Đắc Thần nói :

- Vua nước Tống là người hiếu danh mà không có mưu trí gì cả, khi hội chư hầu, ta đem quân giáp sĩ đến phục sẵn là có thể bắt được.

SỞ Thành vương nói :

- Ta cũng nghĩ như vậy !

Tử Văn nói :

- Giúp người ta hội chư hầu mà lại bắt người ta thì sao cho các nước chịu phục được ?

Thành Đắc Thần nói :

- Vua nước Tống muốn làm chủ hội, tất có ý kiêu ngạo với chư hầu, bấy giờ ta bắt vua nước Tống để thị uy, rồi lại làm ơn mà tha cho, như vậy thì chư hầu phải phục mà theo nước SỞ ta cả ; chớ nên câu nệ điều nhỏ nhặt ấy mà bỏ mất cơ hội hay

SỞ Thành vương liền sai Thành Đắc Thần và Đấu Bột mỗi người tuyển năm trăm giáp sĩ để đến ngày hội chư hầu thì phục sẵn mà bắt Tống Tương công.

Tống Tương công từ khi Ở đất Lộc Thượng về, thì hớn hở vui mừng mà bảo công tử Mục Di rằng :

- Nước SỞ đã thuận giúp ta để hội chư hầu rồi !

Công tử Mục Di can rằng :

- Nước SỞ là giống man di, ngoài miệng nói như vậy, nhưng trong lòng chưa biết thế nào, tôi e rằng chúa công mắc lừa nước SỞ thôi

Tống Tương công nói :

- Nhà ngươi đa nghi lắm, ta đem lòng trung tín mà đãi người ta, khi nào người ta lại nỡ lừa dối.

Nói xong, liền sai người truyền hịch đi các nước, hẹn đến hội Ở đất vu Địa (đất nước Tống) ; lại sai người sửa sang các nhà công quán để nghênh tiếp vua chư hầu. Đến tháng bảy năm ấy, Tương công sắp sửa xa giá đến đất Vu Địa. Công tử Mục Di can rằng :

Nước SỞ cậy sức mạnh mà không biết giữ nghĩa, chúa công nên đem quân sĩ đi theo mới được. Tương công nói :

- Ta đã ước với chư hầu cùng nhau hòa hiếu, không dùng đến quân sĩ, nếu nay ta lại đem quân sĩ đi theo thì sao cho các nước chư hầu tin phục ?

Công tử Mục Di nói :

- Chúa công muốn thủ tín mà không dùng đến quân sĩ thì xin chúa công cứ đi trước, tôi sẽ đem quân sĩ phục sẵn Ở ngoài ba dặm, để phòng sự nguy cấp, chúa công nghĩ thế nào ?

Tương công nói :

Không nên ! Nhà người đem quân sĩ đi theo thì khác nào như ta dùng quân sĩ.

Khi Tương công sắp đi, lại sợ công tử Mục Di Ở nhà đem quân đi tiếp ứng thì thành ra mình thất tín với chư hầu, mới bảo công tử Mục Di cùng đi. Công tử Mục Di nói :

Tôi Ở nhà cũng không thể đành lòng được, vậy xin đi theo chúa công

Bấy giờ Tống Tương công và công tử Mục Di cùng đi. Vua sáu nước : Sở, Trần, Sái, Hứa, Tào và Trịnh đúng hẹn cùng đến cả. Chỉ có Tề Hiếu công có ý không bằng lòng và LỖ Hi công chưa giao thiệp với nước SỞ bao giờ là không đến. Tương công sai nghênh tiếp vua sáu nước vào nghỉ Ở các nhà công quán. Tương công thấy các nước đều không có quân sĩ đi theo bằng lòng mà nói rằng :

- Ta vẫn biết nước SỞ không khi nào đánh lừa ta !

Quan thái sử chọn ngày để khai hội. Đầu trống canh năm hôm ấy Ở trên đàn có đốt cây đình liệu sáng rực như ban ngày. Tống Tương công đến trước để đợi các vua chư hầu. CÓ năm nước chư hầu là :

1 Trần Mục công (Cốc)

2. Sái Trang công (Giáp Ngọ)

3. Trịnh Văn công (Tíếp)

4. Hứa Hi công (Nghiệp)

5. Tào Cung công (Tương)

Mọi người đều lục tục đến dần. Đợi mãi đến sáng rõ, SỞ Thành vương (Hùng Vận) mới đến. Tống Tương công giữ lễ chủ vái chào các vua chư hầu, rồi sắp hàng cùng đứng hai bên. Các vua chư hầu đều sợ uy SỞ Thành vương, nhường SỞ Thành vương đứng đầu. Thành Đắc Thần và Đấu Bột đứng hầu sau lưng SỞ Thành vương. Vua các nước cũng đều có người đi theo hầu cả. Tống Tương công muốn làm chủ hội, nhưng tự mình nói ra không tiện, mới đưa mắt để cho SỞ Thành vương nói.

SỞ Thành vương cứ cúi đầu im lặng, không nói gì cả. Các vua chư hầu cũng đều nhìn nhau, không ai dám nói trước. Tống Tương công không thể nhịn được, mới nghiễm nhiên đứng ra mà nói rằng :

- Ngày nay tôi muốn theo gương Tề Hoàn công thuở trước, trên thì phụng mệnh thiên tử, dưới thì giao hiếu với các nước chư hầu, các quý quốc nghĩ thế nào ?

Các vua chư hầu nghe nói, cũng chưa ai đáp lại thế nào thì SỞ Thành vương đứng thẳng ra phía trước mà nói rằng :

Nhà vua nói phải lắm ! Nhưng không biết trong cuộc hội thề này, ai làm chủ.

Tống Tương công nói :

- Một là người có nhiều công trạng, hai là nglrời cao phẩm tước thì được làm chủ, còn phải nói gì nữa ?

SỞ Thành vương nói :

Nước tôi tự đặt vào hàng vương tước đã lâu rồi, nước Tống dẫu là tước công, cũng không Ở trên tước vương được, như vậy thì tôi xin lỗi các nước mà nhận đứng ra làm chủ.

Nói xong, liền bước lên đứng Ở đầu hàng trên nhất. Công tử Mục Di giằng tay áo Tống Tương công, ý muốn bảo Tống Tương công hãy chịu nhịn đi, rồi sau sẽ liệu. Tống Tương công vẫn đinh ninh ngôi chủ minh đã nắm vững trong tay mình, nay thấy tình hình giở giang như vậy, tài nào mà không tức giận, liền vùng vằng bảo SỞ Thành

vương rằng :

- Nước tôi là tước công, lại là con cháu sau thiên tử nhà ân trước, dẫu thiên tử nhà Chu ta bây giờ, cũng phải có lòng kính trọng ;

nước SỞ nay chẳng qua là tiếm hiệu xưng vương, vậy khi nào tước vương giả lại được Ở trên tước công thật !

SỞ Thành vương nói :

- Tôi đã là tước vương giả thì ai bảo nhà vua mời tôi đến đây ?

Tống Tương công nói :

- Nhà vua đến đây là theo lời ước Ở đất Lộc Thượng, có phải tôi không giao hẹn trước đâu.

Thành Đắc Thần đứng bên cạnh quát to lên rằng :

Công việc ngày nay, thử hỏi các vua chư hầu là vì nước SỞ mà đến đây hay là vì nước Tống mà đến ?

Các chư hầu xưa nay vốn sợ thế nước Sở, đồng thanh mà đáp rằng :

Chúng tôi phụng mệnh vua nước Sở, vậy nên phải đến đây.

SỞ Thành vương cười khanh khách mà nói với Tống Tương công rằng :

- Vua Tống còn nói gì nữa không ?

Tống Tương công toan cãi lại thì Thành Đắc Thần và Đấu Bột cởi ngay lễ phục bên ngoài ra, thì thấy trong đã mặc sẵn áo giáp, sau lưng đeo một lá cờ lệnh. Thành Đắc Thần và Đấu Bột cầm lá cờ lệnh giơ cao lên rồi vẫy một cái, quân sĩ của SỞ Thành vương Ở dưới đàn, đến hơn nghìn người đều cầm binh khí kéo lên. Các vua chư hầu sợ

mất vía cả. Thành Đắc Thần nắm ngay lấy hai tay áo Tống Tương công mà trói chặt lại, rồi cùng với Đấu Bột truyền cho quân sĩ thu hết các đồ vàng ngọc bày Ở trên đàn. Tống Tương công trông thấy công tử Mục Di đứng Ở bên cạnh, liền ghé tai mà bảo thầm rằng :

- Ta tiếc đã không nghe lời nói của công tử, nên mới đến nỗi thế này. Công tử nên mau mau về đi, để giữ lấy nước nhà, đừng nghĩ gì đến ta nữa ?

Công tử Mục Di biết là đi theo cũng vô ích, mới bỏ Tống Tương công mà trốn về.

Hồi 34

Tống Tương công, lá cờ nhân nghĩa

Tề Khương thị chén ruợn biệt ly

sở Thành vương bắt Tống Tương công đem về công quán, rồi cho mời tất cả các vua chư hầu đến, kể sáu tội của Tống Tương công :

1 Nước Tề đang có tang mà dám đem quân sang đánh, bỏ người nọ lập người kia, đó lả một tội.

2. Vua nước Đằng đến hội, hơi chậm một chút, mà dám giam trói làm nhục, đó là hai tội.

3. Giết vua nước Tắng để tế dâm thần, đó là ba tội.

4. Vua nước Tào bỏ về là một điều lỗi nhỏ, mà dám cậy sức mạnh, đem quân đến vây đánh, đó là bốn tội.

5. Con cháu sau một nước đã mất mà không biết tự lượng tài đức lại mưu toan làm bá chủ, đó là năm tội.

6. Nhờ sức ta để hội các nước chư hầu, mà lại kiêu ngạo tự đắc, không biết gia lễ, đó là sáu tội.

SỞ Thành vương lại nói với các vua chư hầu rằng :

Lòng trời không tựa nước Tống, làm cho vua Tống mê mẩn, một mình dẫn thân đến đây để bị bắt, nay ta quyết đem quân vào phá thành Thư Dương (kinh đô nước Tống) báo thù do nước Đằng và nước Tằng, xin các vua hãy Ở cả lại đây, chờ khi tôi lấy được nước Tống rồi, sẽ cùng với các vua uống rượu chơi trong mươi ngày.

Các vua chư hầu vâng vâng dạ dạ. Tống Tương công cứ ngây người ra như tượng gỗ, hai hàng nước mắt chảy xuống dòng dòng. SỞ Thành vương khao thưởng quân sĩ, nhổ trại lên đường đem theo cả Tống Tương công mà tiến vào thành Thư Dương. Các vua chư hầu đều phụng mệnh SỞ Thành vương, Ở cả lại đất Vu Địa, không ai dám về.

Công tử Mục Di từ khi Ở Vu Địa trốn về đến nước Tống, đem chuyện Tống Tương công bị bắt kể lại cho quan tư mã là công tôn CỐ nghe, rồi lại bảo công tôn CỐ rằng :

Quân nước SỞ chẳng bao lâu sẽ kéo đến đây, ta nên nghĩ cách để phòng bị.

Công tôn CỐ nói :

- Trong nước chớ nên để một ngày nào không có vua, nay công tử hãy quyền nhận ngôỉ vua để giữ lấy quyền chính thì mới yên việc nước được.

Công tử Mục Di ghé tai công tôn CỐ mà nói thầm, bảo rằng tất phải như thế, như thế, thì nước SỞ mới tha cho chúa công ta trờ về.

Công tôn CỐ khen phải, liền tuyên cáo với các quan trong triều rằng :

- Chúa công ta vị tất đã về được, chúng ta nên tôn lập công tử Mục Di lên nối ngôi.

Các quan biết công tử Mục Di là người hiền, đều bằng lòng cả.

Công tử Mục Di lên nối ngôi, rồi truyền cho quân sĩ canh giữ các cửa thành rất nghiêm mật. SỞ Thành vuơng kéo đại binh đến, sai Đấu Bột nói với quân Tống rằng :

- Vua Tống đã bị ta bắt tại đây rồi, sống chết Ở trong tay ta, nước Tống phải mau mau nộp đất đầu hàng thì vua Tống mới được

toàn tính mệnh.

Công tôn CỐ Ở trên mặt thành đáp lại rằng :

- Nước ta đã lập vua mới rồi, không khi nào chịu đầu hàng.

Đấu Bột nói :

Vua Tống hãy còn đây, sao nước ngươi lại dám lập vua khác ?

Công tôn CỐ nói :

- Vua làm chủ trong nước, nước đã không có chủ nữa thì tất phải lập vua khác.

Đấu Bột nói :

- Nếu chúng ta trả lại vua Tống thì nước Tống định lấy gì để tạ ơn ?

Công tôn CỐ nói :

vua cũ đã bị bắt, thế là làm nhục cho nước, dẫu về cũng không được làm vua nữa. Trả lại hay là không trả lại, điều đó tùy ý. Nếu SỞ cố ý sinh sự đánh nhau Tống tôi cũng xin vâng mệnh.Đấu Bột thấy công tôn CỐ nói ngang như vậy, liền tâui với SỞ

Thành vương SỞ Thành vương nổi giận, truyền cho quân sĩ xông vào phá thành. Quân Tống Ở trên mặt thành bắn tên xuống như mưa. Quân SỞ chết và bị thương nhiều lắm. Quân SỞ đánh luôn ba ngày mà không thắng nổi quân Tống. SỞ Thành vương nói :

- Kẻ kia đã không thiết đến vua nữa thì ta giết quách Tống Tương công đi.

Thành Đắc Thần nói :

- Ngày trước đạl vương bẻ vua Tống về tội giết vua Tắng, bây giờ đại vương lại giết vua Tống còn ra thế nào ? Vả lại giết vua Tống cũng không ích gì, đã chẳng lấy được nước Tống mà lại còn thêm oán, chi bằng tha cho vua Tống là hơn !

SỞ Thành vương nói :

- Ta không đánh nổi nước Tống mà lại phải tha cho vua Tống thì còn ra thế nào ?

Thành Đắc Thần nói :

Tôi có một kế : mới rồi chỉ có Tề và LỖ là không dự hội Ở đất Vu Địa. Nước Tề đã hai ba lần cùng ta giao hiếu, chẳng kể làm gì ; còn nước LỖ là một nước lễ nghĩa, xưa nay vẫn giao hiếu với Tề, không biết SỞ là gì cả, nay ta đem những vật lấy được của nước Tống đưa biếu vua Lỗ, và mời vua LỖ đến hội Ở đất Bạc Đô, LỖ và Tống vốn

thân thuộc với nhau, tất nhiên vua LỖ phải thương tình mà xin hộ cho vua Tống, bấy giờ ta sẽ tha vua Tống để làm ơn với Lỗ, khiến cho cả hai nước cùng phải quy phục ta.

SỞ Thành vương vỗ tay cười lớn mà nói rằng :

Nhà ngươi thật là cao kiến !

Nói xong, liền rút quân về đóng Ở đất Bạc Đô, rồi sai người đem những đồ lấy được của nước Tống sang biếu LỖ Hi công và đệ trình một bức thư. Thư rằng :

vua nước Tống là người kiêu ngạo vô lễ, tôi đa bắt giam lại Ở Bạc ĐÔ rồi. vậy xin đem các đồ lấy được của nước Tống sang dâng quý quốc và mời nhà vua sang hội đế xử việc ấy.

LỖ Hi công xem thư giật mình, trong lòng thương xót thay cho Tống tương công ; lại biết rằng nước SỞ đem biếu các đồ lấy được của nước Tống là có ý khoe khoang để dọa mình, nhưng sợ thế nước Sở, cũng phải nhận lời sang đất Bạc ĐÔ hội với vua Sở. Bấy giờ năm nước chư hầu : Trần, Sái, Trịnh, Hứa và Tào, khi trước đóng Ở đất Vu Địa, cũng kéo sang đất Bạc ĐÔ cả, kể cả LỖ Hi công, cộng thành sáu nước.

Sáu vị chư hầu cùng hợp nhau Ở một chỗ để thương nghị. Trịnh Văn công muốn tôn SỞ Thành vương làm bá chủ. Các vua chư hầu đều ấp úng không ai dám nói. LỖ Hi công cả quyết nói rằng :

- Ngôi bá chủ tất phải chọn người nào có nhân nghĩa thì người ta mới phục, nay vua nước SỞ cậy sức mạnh bắt giam vua Tống, làm cho lòng người nghi sợ. Chúng ta cùng với Tống cũng là bạn đồng minh với nhau, nay ta cúi đầu chịu theo nước SỞ mà không biết cứu vua Tống chắc rằng thiên hạ chê cười. Nếu nước SỞ tha cho vua

Tống để giữ lấy tình hòa hiếu thì chúng ta sẽ vâng mệnh.

Các vua chư hầu đều nói rằng :

- Vua LỖ nói phải lắm ?

Thành Đắc Thần đem lời nói của LỖ Hi công tâu với SỞ Thành vương. SỞ Thành vương nói :

- Các vua chư hầu thuận tôn ta làm bá chủ thì có đâu ta lại dám trái ý.

Nói xong, truyền lập đàn để cùng với các vua chư hầu hội thề. Ngày hôm sau, SỞ Thành vương tha cho Tống Tương công và cho được gặp mặt các vua chư hầu. Tống Tương công vừa theo vừa giận, buồn rầu khôn xiết, nhưng bất đắc dĩ cũng phải vào tạ ơn các vua chư hầu.

Trịnh Văn công cùng với các vua chư hầu tôn SỞ Thành vương lên làm bá chủ.

Khi hội thề xong, các vua chư hầu đều về nước cả. Tống tương công nghe tin công tử Mục Di đã lên làm vua nước Tống rồi, toan bỏ trốn sang nước Vệ. Công tử Mục Di sai người sang nói với Tống Tương công rằng :

Tôi phải tạm lên ngôi là để giữ nước cho chúa công đó mà thôi, xin chúa công cứ về.

Rồi sắp đặt xa giá đi rước Tương công về. Công tử Mục Di lại lui xuống làm bề tôi.

Tống Tương công chỉ chăm chăm muốn làm bá chủ, bị SỞ Thành vương một phen làm nhục, nghĩ oán đến cốt tủy chỉ giận sức mình không thể địch nổi ; lại thấy Trịnh Văn công xướng nghị tôn SỞ Thành vương làm bá chủ, thì lại càng căm tức, vẫn muốn đem quân đánh nước Trịnh. Đến năm sau, Trịnh Văn công lại sang triều kiến SỞ

Thành vương ; Tống Tương công nghe tin, giận lắm, liền cử đại binh sang đánh Trịnh, giao quyền chinh cho công tử Mục Di để giúp thế tử Vương Thần giữ nước. Công tử Mục Di can rằng :

Trịnh đang giao hiếu với Sở, nếu ta đánh Trịnh thì SỜ tất sang cứu, vị tất ta đã đánh nổi, chi bằng ta hãy sửa sang chính trị trong nước để đợi thời là hơn.

Quan tư mã là công tôn Cố, cũng tìm lời khuyên can. Tống Tương công nổi giận mà nói rằng :

Nhà ngươi không muốn đánh thì để ta đi một mình !

Công tôn CỐ không dám nói nữa, liền cùng với Tống Tương công đem quân sang đánh Trịnh. CÓ quân thám tử báo tin cho Trịnh Văn công Trịnh Văn công sợ lắm, vội vàng sai người sang cáo cấp với SỞ Thành vương. SỞ Thành vương nói :

- Nước Trịnh thờ ta như cha, ta nên đem quân sang cứu mới được

Thành Đắc Thần nói :

- Cứu Trịnh không bằng đánh Tống.

SỞ Thành vương hỏi :

- Tại sao ?

Thành Đắc Thần nói :

Từ khi vua Tống bị bắt, người nước Tống đều sợ mất vía, nay vua Tống không tự lượng sức mình, dám cử đại binh đi đánh Trịnh, tất là trong nước bỏ không, ta đem quân sang đánh, chắc hẳn phải được ; dẫu vua Tống kéo quân về, cũng không thể nào địch nổi.

SỜ Thành vựơng khen phải, liền sai Thành Đắc Thần làm chánh tướng, Đấu Bột làm phó tướng ; đem quân đi đánh Tống. Tống Tương công đánh nhau với Trịnh, nghe tin quân nước SỞ kéo sang đánh Tống, vội vàng thu quân trở về, đóng Ở phia nam sông Hoằng Thủy để đối địch với quân Sở. Thành Đắc Thần sai người đưa chiến thư cho Tống Tương công.

Công tôn CỐ báo Tống Tương công rằng :

- Nước SỞ đem quân tới đây là cết để cứu nước Trịnh nay ta buông nước Trịnh ra để xin lỗi nước SỞ thì nước SỞ tất rút quân về.

Tống Tương công nói :

- Ngày xưa Tề Hoàn công thân đem quân sang đánh Sở, nay SỞ đến đánh mình mà mình lại thôi thì sao nối được sự nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công ?

Công tôn CỐ lại nói :

- Ngày nay áo giáp của ta, không bền bầng của nước SỞ ; gươm giáo của ta, không sắc bằng của nước SỞ ; quân sĩ của ta, không mạnh bằng của nước Sở. Người nước Tống ta sợ quân SỞ như sợ giống rắn rết, chúa công chắc vào cái gì mà dám đánh ?

Tống Tương công nói :

- Kể binh giáp thì SỞ hơn ta, nhưng kể nhân nghĩa thì ta hơn SỞ Ngày xưa Vũ vương nhà Chu chỉ có ba nghìn quân mà đánh nổi ức vạn quân của vua Trụ, cũng nhờ có nhân nghĩa đó thôi, can chi mà sợ !

Nói xong, liền phê vào chiến thư hẹn ngày giao chiến. Tống Tương công sai chế một lá cờ thật to để cắm Ở trên xe ; trong lá cờ có đề hai lớn "Nhân nghĩa". Công tôn CỐ phàn nàn nêng với quan đại phu là Dược Bộc Y rằng :

- Tranh chiến cốt phải sát phạt mà lại nói đến nhân nghĩa, thì tôi thật không hiểu cái nhân nghĩa của chúa công ra thế nào ! Chẳng qua là trời thu mất hồn phách của chúa công tôi thấy nguy lắm. Bây giờ chúng ta nên nghĩ thế nào để giữ cho không đến nỗi ịnất nước

Tống.

Thành Đắc Thần đóng quân Ở phái nam sông Hoằng Thủy. Đến ngày khai chiến, Đấu Bột nói với Thành Đắc Thần xin bắt đầu trống canh năm cho quân sĩ sang đò, kẻo sợ người nước Tống đánh chặn Ở bên kia bờ sông. Thành Đắc Thần cười mà nói rằng :

Vua nước Tống là người gàn dở, có biết binh pháp là gì ! Ta sang sớm thì đánh được sớm, sang trưa thì đánh được trưa, có gì mà sợ !

Trời sáng rõ, quân SỞ mới lục tục kéo sang. Công tôn CỐ nói với Tống Tương công rằng :

- Quân nước SỞ chờ trời sáng rõ, mới kéo sang đò, thế là có ý khinh ta. Nay ta nhân lúc họ đang sang đò mà xông vào đánh thì tất có thể phá vỡ được, nếu để cho quân SỞ sang xong thì quân SỞ nhiều quân ta ít, địch làm sao nổi ?

Tống Tương công trỏ vào lá cừ mà bảo công tôn CỐ rằng :

- Nhà ngươi không trông thấy hai chữ "Nhân nghĩa" hay sao ?

Ta dùng binh rất đường hoàng, lê nào lại nhân lúc người ta đang sang đò mà xông vào đánh bao giờ !

Công tôn CỐ lại nghĩ thầm mà phàn nàn một mình. Được một lúc quân SỞ sang đò xong rồi, Thành Đắc Thần đầu đội mũ ngọc, mình mặc áo giáp, tay cầm roi, đang chỉ bảo cho quân sĩ sắp hàng bày trận, khi thế ngang nhiên, trông bộ không sợ ai cả. Công tôn CỐ lại nói với Tống Tương công rằng :

Quân SỞ còn đang sắp hàng bày trận, xin chúa công cho quân xông vào đánh ngay đi thì tất quân SỞ phải vỡ.

Tống Tương công nhổ vào mặt công tôn CỐ mà mắng rằng :

Nhà ngươi chỉ tham cái lợi một lúc, mà không nghĩ đến điều nhân nghĩa muôn đời hay sao ! Ta dùng binh rất đường hoàng, lẽ nào lại nhân lúc người ta chưa sắp hàng bày trận xong mà xông vào đánh bao giờ !

Công tôn CỐ lại vò đầu bứt tai mà phàn nàn mãi. Quân SỞ đã sắp hàng bày trận xong, quân Tống trông thấy quân SỞ khí thế hùng dũng, đều có ý sợ hãi. Tống Tương công truyền cho quân sĩ nổi hiệu trống. Quân SỞ cũng nổi hiệu trống. Tống Tương công cầm giáo dài, xông vào đánh trước, bị quân SỞ vây kín lại. Công tôn CỐ theo vào để hộ giá thì bị tướng nước SỞ là Đấu Bột đón đánh, may có tướng nước

Tống là Hoa Tú Lão xông đến giao chiến với Đấu Bột. Công tôn CỐ ra sức phá vòng vây của quân Sở, bỗng gặp Hướng Xi Thủ (tướng nước Tống) máu me đầy mặt, gọi công tôn Cố mà bảo rằng :

Ngài mau mau vào mà cứu lấy chúa công !

Khi công tôn Cố vào đến nơi thấy công tử Đãng bị thương nặng nằm Ở trên xe ; lá cờ "Nhân nghĩa" đã bị quân SỞ lấy mất rồi :

Tống Tương công mình bị mấy đấu thương, phía đùi chân phải lại bị một mũi tên, đứt gân không đứng dậy được. Công tử Đãng trông thãý công tôn CỐ đến, trừng mắt nhìn mà bảo rằng :

- Quan tư mã cố sức mà cứu lấy chúa công, tôi đành chết Ở đây thôi !

Nói xong thì chết ngay. Công tôn Cố thương xót vô cùng, vực Tống Tương công lên xe, rồi cố sức phá vòng vây mà chạy. Hướng Xi Thủ đi sau để ngăn quân Sở. Công tôn CỐ và Tống Tương công luôn đêm chạy về. Quân Tống chết hại không biết bao nhiêu mà kể, những cha mẹ vợ con đều khóc lóc than thở, oán Tống Tương công không nghe lời công tôn Cố để đến nỗi thua. Tống Tương công nghe nói, thở dài mà than rằng :

- Người quân tử ra trận, không đâm người đã bị thương rồi, không bắt người già hai thứ tóc, ta đây cũng chỉ cốt lấy điều nhân nghĩa, bắt chước chi những thói tàn bạo ấy

Người trong nước nghe thấy Tống Tương công nói như vậy, ai cũng chẽ cười.

Quân SỞ đã thắng trận rồi, lại thu quân mà sang sông Hoằng Thủy định trở về nước SỞ ; vừa ra khỏi địa giới nước Tống thì nghe báo SỞ Thành vương đem đại binh đến tiếp ứng, hiện đang đóng quân Ở đất Kha Trạch (đất nước Trịnh). Thành Đắc Thần bèn sang đất Kha Trạch để yết kiến SỞ Thành vương và dâng các đồ lấy được của nước Tống, SỞ Thành vương nói :

- Ngày mai vua nưởc Trịnh đem cả phu nhân đến đây khao thưởng quân sĩ ; ta nên bày các phãm vật lấy được của nước Tống để khoe với vua Trịnh.

Nguyên Trịnh Văn công lấy em gái SỞ Thành vương là Vu thì, tức là nàng Văn Vu. Văn Vu nghĩ tình anh em, cũng theo Trịnh Văn công đến đất Kha Trạch để yết kiến SỜ Thành vương. SỞ Thành vương cho xem các phẩm vật lấy được của nước Tống. VỢ chồng Trịnh Văn công cùng chúc mừng SỞ Thành vương, và khao thưởng các hàng quân sĩ Ngày hôm sau, Trịnh Văn công mời SỞ Thành vương vào trong thành rồi bày tiệc long trọng để thết đãi, Văn Vu sinh được hai người . con gái là Bá Vu và Thúc Vu, bấy giờ chưa gả chồng. Văn Vu sai hai con lấy lễ cậu cháu ra yết kiến SỞ Thành vương. SỞ Thành vương mừng lắm. Trịnh Văn công cùng với vợ vả con gái thay đổi nhau để mời rượu từ giờ ngọ đến giờ tuất làm cho SỞ Tbành vương say tít. SỞ Thành vương bảo Văn Vu rằng :

- Nay ta quá vui, uống rượu say lắm, em và hai cháu nên đưa ta về Văn Vu xin vâng lời. Trịnh Văn công tiễn SỞ Thành vương ra đến cửa thành, rồi trở về trước, còn Văn Vu và hai con gái theo SỞ Thành vương sang tận chỗ quân dinh. SỞ Thành vương thấy hai cháu gái đều có nhan sắc thì đưa vào phòng rồi cậu cháu mây mưa cùng

nhau. Văn Vu hiết chuyện tức giận, một mình trằn trọc trong màn, cả đêm không ngủ được, nhưng sợ uy Sử Thành vương, không dám nói ra. Ngày hôm sau, SỞ Thành vương đem các phẩm vật lấy được của nước Tống chia cho Văn Vu một nửa, rỗi bắt hai cháu gái đem về nước SỞ Quan đại phu nước Trịnh là Thúc Thiẽm than rằng :

- Vua SỞ khinh miệt lễ giáo như vậy thì toàn vẹn thế nào được ?

Lại nói chuyện công tử Trùng Nhĩ nước Tấn sang đến nước Tề, Ở được bảy năm, đến khi Tề Hoàn công mất, các con tranh nhau nối ngôi, trong nước đại loạn ; rồi Tề Hiếu công lên ngôi, lại đổi hết cả chính sự : giảng hòa với Sở, gây thù với Tống, thành ra nhiều chuyện lôi thôi Bọn Triệu Thôi bàn nêng với nhau rằng :

- Chúng ta theo công tử Trùng Nhĩ sang đây là muốn nhờ binh lực nước Tề để về lấy lại nước, nay nước Tề lắm việc như vậy, tất là không giúp được công tử ta rồi, chi bằng chúng ta sang nước khác để lo liệu thì hơn.

Nói xong, định thương nghị với công tử Trùng Nhĩ. Bấy giờ công từ Trùng Nhĩ say đắm nàng Khương tề , ngày đêm chỉ uống rượu vui, chẳng thiết đến việc gì cả. Bọn Triệu Thôi chầu chực đến mười ngày mà không được gặp mặt. Ngụy Thù giận lắm, nói :

- Chúng ta tưởng công tử là người có chí, vậy nên lặn lội mà theo tới đây. Nay Ở nước Tề, thấm thoát đã bảy năm trời, mà công tử lười biếng đắm say như vậy, khiến chúng ta đợi đến mười ngày nay mà không được gặp mặt, thế thì bao giờ mới thành sự được ?

HỒ Yển nói :

Đây không phải là chỗ chúng ta họp nhau nói chuyện, các ngươi theo ta đến đằng kia.

Nói xong, liền kéo nhau ra ngoài cửa đông, đến một chỗ gọi là Tang âm. Chỗ ấy là một bãi dâu, dâu mọc xanh um cả, bóng mặt trời không rọi xuống đến mặt đất. Triệu Thôi cùng với các vị hào kiệt ngồi xúm quanh một vòng. Triệu Thôi hỏi HỒ Yển rằng :

- Nhà ngươi định thế nào ?

HỒ Yển nói :

- Công tử đi hay không, cũng do chúng ta mà thôi. Chúng ta cứ thu xếp sẵn các đồ hành trang, rồi giả cách mời công tử đi săn mà bắt ép phải đi, thì mới được việc. Nhưng trước hết ta hãy bàn xem nên đi nước nào cái đã.

Triệu Thôi nói :

- Nay vua Tống đang có chí muốn làm bá chủ, mà tính lại hiếu danh, ta nên sang đấy ; bằng sang đấy mà không được, bấy giờ ta sẽ sang Tần và Sở, tất thế nào cũng có nước giúp ta.

HỒ Yển nói :

Tôi cùng với quan tư mã nước Tống là công tôn Cố, có quen biết nhau, nay sang qua đãy, thử xem họ xử ra sao !

Mọi người cùng nhau bàn định một lúc xong, vẫn tưởng bãi dâu vắng vẻ không có ai biết được, ngờ đâu trong bụi dâu có một bọn thị nữ của Tề Khương hơn mười người đang hái dâu về nuôi tằm, nghe tiếng người nói chuyện, liền đứng nép một chỗ để rình xem sự tình ra sao. Khi nghe được hết cả câu chuyện rồi, họ bèn về nói lại với

Khương thị Nàng mắng rằng :

- Chúng bay chỉ nói càn, đâu có những việc ấy

Nói xong, liền bắt bọn thị nữ giam vào một phòng kín, đợi đến nửa đêm đem giết chết cả, để giữ cho công việc khỏi tiết lộ ra ngoài, rồi vào đánh thức công tử Trùng Nhĩ dậy mà bảo rằng :

Các người theo hầu công tử, định đem công tử đi nước khác, có mấy đứa thị nữ hái dâu nghe được, về nói với thiếp, thiếp sợ công việc tiết lộ ra ngoài, có sinh ra sự ngăn trở gì chăng, hiện đã giết bỏ mấy đứa ấy đi rồi. Công tử nên mau mau thu xếp để khởi hành.

Trùng Nhĩ nói :

- Người ta Ở đời, quý hồ được vui vẻ sung sướng thì thôi, ta chỉ muốn Ở đây cho yên thân, nhất định không đi đâu cả !

Tề Khương nói :

Từ khi công tử đi trốn đến giờ, nước Tấn không năm nào được yên, ấy là lòng trời có ý đợi công tử đó. Công tử đi chuyến này, tất thu phục được nước Tấn, xin công tử phải quyết đoán mới được.

Trùng Nhĩ ham mê Khương tề , vẫn không chịu đi. Ngày hôm sau, bọn Triệu Thôi đứng Ở ngoài cửa cung, sai người vào nói mời công tử Trùng Nhĩ đi săn. Trùng Nhĩ còn đau nằm nghỉ chưa dậy, sai người ra bảo rằng :

Công tử hơi mệt trong mình, chưa dậy chải gội được, hôm nay không đi.

Khương thị nghe nói, sai người mời một mình HỒ Yển vào, đuổi hết người xung quanh đi mà bảo HỒ Yển rằng :

- Nhà ngươi mời công tử đi săn là có ý gì ?

HỒ Yển nói :

- Khi trước công tử Ở nước Địch, chẳng ngày nào không đi săn ; tữ khi sang đây, đã lâu lắm không đi, chúng tôi sợ công tử sinh lười biếng, vậy phải đến mời, chứ có ý gì đâu !

Khương thị cười tủm tỉm mà rằng :

- Lần này đi săn, không sang nước Tống thì tất sang nước Tần và nước Sở, có phải thế không ?

HỒ Yển giật mình kinh sợ, nói :

- Đi săn có đâu lại đi xa như vậy !

Tề Khương nói :

- Các ngươi muốn đem công tử trốn đi, ta đã biết cả rồi, lại còn giấu giếm gì nữa ? Đêm mới rồi, ta cũng cố khuyên công tử, nhưng công tử nhất định không nghe, âu là để chiều hôm nay tôi bày một tiệc rượu, đổ cho công tử uống thật say, rồi các người vực công tử lên xe mà đem đi thì mới được việc.

HỒ Yển sụp lạy mà nói rằng :

Nếu phu nhân dứt bỏ tình riêng, để giúp nên việc lớn cho công tử thì cái hiền đức ấy thật là xưa nay ít có ?

Nói xong, HỒ Yển cáo từ lui ra, về nói chuyện với bọn Triệu Thôi rồi thu xếp các đồ hành trang, kéo nhau ra đợi sẵn Ở ngoài cõi, chỉ có HỒ Yển, Ngụy Thù và Điên Hiệt, ba người đem hai cái xe nhỏ chực Ở ngoài cửa cung, để chờ tin Khương thị. Chiều hôm ấy, Khương thị bày tiệc Ở trong cung mời công tử Trùng Nhĩ uống rượu. Trùng

Nhĩ nói :

CÓ việc gì mà nàng bày tiệc làm vậy ?

Khương thị nói :

- Thiếp nghe nói công tử có chi muốn về nước, gọi là có chén rượu nhạt để tiễn chân.

Trùng Nhĩ nói :

Người ta Ở đời, khác nào như bóng ngựa câu qua cửa sổ, quý hồ yên phận thì thôi, còn cầu cạnh làm chi nữa !

Khương thị nói :

Đã gọi là trượng phu thì nên lập chí ! Nay các người theo hầu hết sức giúp công tử, công tử phải nghe lời mới được.

Trùng Nhĩ có ý giận, bỏ chén rượu không uống nữa. Khương thị hỏi :

- công tử thật không muốn đi, hay là nói dối thiếp ?

Trùng Nhĩ nói :

Ta quyết không đi, khi nào lại nói dối !

Khương thị vùa cười vừa nói :

- Đi là cái chí của công tử, mà không đi là cái tình của công tử. Tiệc rượu này thiếp đặt ra định để tiễn công tử bây giờ lại dùng để lưu công tử chớ sao Thiếp xin cùng với công tử uống rượu thật vui !

Trùng Nhĩ bằng lòng. Hai vợ chồng cùng nhau chén thù chén tạc, Khương thị lại sai các thì nữ múa hát để dâng rượu cho Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ không thể uống được nữa, Khương thì lại cố ép mãi, thành ra Trùng Nhĩ say quá, nằm phục xuống giường. Khương bèn lấy chăn đắp lại, rồi sai người gọi HỒ Yển. HỖ Yển biết là Trùng Nhĩ

đã say rượu rồi, vội vàng đem Ngụy Thù và Điêu Hiệt vào cung, cứ để nguyên cả chăn chiếu mà khiêng Trùng Nhĩ ra đặt lên trên xe. HỒ Yển cáo từ Khương thị, rồi lên xe đem Trùng Nhĩ đi. Khương thị ứa nước mắt trở vào. Bọn HỒ Yển đi đến ngoài cõi nước Tề, liền hợp làm một với bọn Triệu Thôi, đi suốt đêm hôm ấy được năm sáu mươi dặm.

Gà gáy bốn phía, trời đã gần sáng, Trùng Nhĩ Ở trong xe, mới tỉnh dậy, gọi người lấy nước uống. Bấy giờ HỒ Yển đương cầm cương xe ngồi Ở bên cạnh bèn trả lời :

- Công tử muốn uống nước thì xin đợi đến lúc trời sáng đã.

Trùng Nhĩ thấy chỗ nằm lúc lắc không được êm, lại nói :

- Các ngươi đỡ ta xuống khỏi cái giường này.

HỒ Yển nói :

- Giường đâu, xe đây mà ?

Trùng Nhĩ trừng mắt nhìn, hỏi :

Ai thế?

HỒ Yển nói :

- Tôi là HỒ Yển.

Trùng Nhĩ hoảng hốt, tung chăn ngồi dậy, quát mắng :

Các ngươi không nói trước cho ta biết, định đem ta đi đâu thế này ?

HỖ Yển nói :

- Chúng tôi định đem nước Tấn mà dâng công tử đó !

Trùng Nhĩ nói :

- Tấn chưa thấy đâu, đã bỏ mất Tề, ta không muốn đi ?

HỒ Yển nói dối rằng :

- Bây giờ đi khỏi nước Tề đã hơn trăm dặm rồi ? Nếu vua Tề biết công tử trốn đi, tất nhiên cho quân đuổi bắt, ta chớ nên trở lại !

Trùng Nhĩ hầm hầm nổi giận, trông thấy Ngụy Thù cầm ngọn giáo Ở bên cạnh, liền giật lấy mà đâm HỒ Yển.

Hồi 35

Tấn Trùng Nhĩ trở về nước nhà

Tấn Hoài Doanh vui vầy duyên mới

Công tử Trùng Nhĩ tức giận HỒ Yển dùng kế đánh lừa mình bèn giật lấy ngọn giáo của Ngụy Thù để đâm HỒ Yển. HỒ Yển vội vàng xuống xe bỏ chạy. Trùng Nhĩ cũng xuống xe, cầm giáo đuổi theo.

Bọn Tnệu Thôi xúm nhau lại để khuyên can. Trùng Nhĩ vứt ngọn giáo xuống đất mà vẫn chưa nguôi cơn giận. HỒ Yển sụp lạy xin lỗi mà rằng :

Công tử giết tôi mà nên việc được thì tôi chết cũng còn hơn sống !

Trùng Nhĩ nói :

Chuyến này đi mà được việc thì thôi, bằng không được việc thì ta quyết ăn thịt nhà ngươi ?

HỒ Yển cười mà đáp rằng :

- Nếu không được việc thì HỒ Yển này chưa biết sống chết Ở đâu, công tử muốn ăn thịt cũng không được ; nhược bằng được việc thành bấy giờ công tử chẳng thiếu gì nem công chả phượng, thịt HỒ Yển này tanh hôi, bõ gì mà ăn !

Bọn Triệu Thôi nói :

- Chúng tôi thấy công tử là người có chí, vậy nên bỏ cả cửa nhà, vợ con mà theo công tử, cũng mong được chút sự nghiệp lưu truyền sử sách về sau. Nay Di Ngô là người vô đạo, người trong nước ai cũng muốn cho công tử về làm vua nhưng công tử không chịu ghĩ cách để về thì ai sang đây mà đón công tử cho được ? Việc này thật là tự ý chúng tôi bàn nhau, không phải tại một mình Tử Phạm (tên tự HỒ Yển), xin

công tử chớ nghĩ lầm.

Ngụy Thù cũng nói to lên rằng :

- Kẻ trượng phu nên lặp chí để lưu truyền danh tiếng về sau, cớ sao lại cứ khư khư ham mê tình nhi nữ mà không nghĩ đến sự nghiệp to tát của mình ?

Trùng Nhĩ dịu nét mặt lại mà đáp rằng :

Đã như vậy thì ta xin theo ý các ngươi . HỖ Mao mang lương khô. Giới Tử Thôi dâng nước uống. Trùng Nhĩ cùng mọi người đều ăn. Bọn HỒ Thúc đi cắt cỏ cho ngựa, rồi sửa soạn hành trang, thẳng đường tiến sang nước Tào.

Tào Cung công tính hay chơi bời, không thiết gì đến chinh sự, chỉ tin dùng những kẻ tiểu nhân xu nịnh. Bọn tiểu nhân ấy thấy những người theo hầu công tử Trùng Nhĩ đều là tay hào kiệt cả, nên đem lòng ghen ghét, không muốn cho Ở lâu tại nước Tào, liền bảo Tào Cung công chớ nên tiếp đãi.

Quan đại phu là Hi Phụ CƠ can rằng :

- Nước Tào ta cùng nước Tấn nguyên vẫn thân nhau. Nay công tử Trùng Nhĩ gặp lúc cùng khổ mà qua nước ta, thì ta nên tiếp đãi mới phải.

Tào Cung công nói :

- Tào là một nước nhỏ Ở giữa các nước, những công tử các nước lại qua nhiều lắm, nếu ai ta cũng hậu đãi cả thì tốn kém vô cùng.

Hi Phụ CƠ nói :

Công tử Trùng Nhĩ có tiếng là người hiền, vả lại mỗi mắt hai con ngươi, hai xương sườn dính liền nhau, ấy là một người có quý tướng, không nên coi như các vị công tử tầm thường khác.

Tào Cung công nói :

- Trùng Nhĩ mỗi mắt hai con ngươi thì ta đã biết rồi, còn xương sườn dính liền với nhau là thế nào ?

Hi Phụ CƠ nói :

Nghĩa là mấy cái xương sườn dính liền với nhau làm một, đó là tướng quý lắm !

Tào Cung công nói :

- Ta không tin, vậy hãy để Trùng Nhĩ Ở công quán, đợì khi nào hắn tắm ta sẽ đến xem sao.

Nói xong, liền sai người mời Trùng Nhĩ vào công quán, chỉ cung cấp cơm nước, không đặt tiệc và cũng không làm lễ tiếp khách. Trùng Nhĩ giận lắm, không ăn. Người hầu lại mời Trùng Nhĩ ra tắm. Trùng Nhĩ nhân khi đi đường bụi bậm cũng muốn tắm rửa cho được sạch sẽ, mới cở áo để đi ra tắm. Tào Cung công cùng mấy người cận thần thay

đổi y phục, giả dạng người thường, xông vào buồng tắm, đến sát bên cạnh Trùng Nhĩ để xem xương sườn, nói nói cười cười một lúc rồi kéo nhau ra. Bọn HỒ Yển thấy nói có người lạ vào, vội vàng chạy đến, cũng nghe tiếng cười nói rầm rĩ, hỏì người trong quán mới biết là vua nước Tào. Trùng Nhĩ và bọn HỒ Yến đều tức giận.

hi Phụ CƠ từ khi can Tào Cung công không nghe, trở về đến nhà, vợ là Lã thị trông thấy nét mặt âu sầu, liền hỏi rằng :

- Chẳng hay trong triều hôm nay có việc gì mà phu quân lại ra ý buồn bã như vậy ?

Hi Phụ CƠ bèn đem chuyện Trùng Nhĩ đến mà Tào Cung công không tiếp đãi kể lại cho vợ nghe. Lã thị nói :

- Mới rồi thiếp đi hái dâu Ở ngoài thành, thấy bọn Trùng Nhĩ đi qua. Thiếp không trông rõ Trùng Nhĩ, nhưng thấy các người theo hầu đều là tay hào kiệt cả, xem thế đủ biết rằng Trùng Nhĩ tất có ngày lấy lại được nước Tấn ; bấy giờ họ đem quân sang đánh nước Tào ta thì ta hối sao cho kịp ! Chúa công đã không nghe lời, thì phu quân nên nghĩ cách mà tư giao với Trùng Nhĩ ; thiếp xin sửa soạn mấy bàn thực

phẩm, rồi để lẫn ngọc bích trắng vào mà dâng Trùng Nhĩ. Phu quân nên đi ngay.

Hi Phụ CƠ theo lời, đêm hôm ấy đến công quán yết kiến Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ đang đói bụng, ngồi một mình, nghĩ đến Tào Cung công mà tức giận. Bỗng nghe có quan đại phu nước Tào là Hi Phụ CƠ xin vào yết kiến và dâng thực phẩm. Trùng Nhĩ cho mời vào. Hi Phụ CƠ sụp lạy trước hết hãy xin lỗi hộ cho vua Tào, rồi sau mới thuật

đến cái tình tư giao của mình và dâng thực phẩm. Trùng Nhĩ khen rằng :

- Không ngờ nước Tào mà có người bầy tôi hiền như thế này, nếu tôi may mà được phục quốc, thì sẽ xin báo ơn lại.

Trùng Nhĩ ngồi ăn, trông thấy trong mâm cơm có ngọc bích trắng, mới hỏi Hi Phụ CƠ rằng :

- Quan đại phu có lòng tử tế mà cho ăn, để tôi được khỏi đói thế là quý lắm rồi, sao lại còn dùng đến ngọc bích ?

Hi Phụ CƠ nói :

- ĐÓ là tấm lòng kính mến của chúng tôi, xin công tử cứ nhận cho.

Trùng Nhĩ nhất định không lấy ngọc bích. Hi Phụ CƠ lui về, nói riêng một mình rằng :

Trùng Nhĩ cùng khổ như vậy, mà không tham ngọc bích của ta, chí khí to tát biết thế nào mà lường được !

Ngày hôm sau, Trùng Nhĩ ra đi. Hi Phụ CƠ lại tiễn ra ngoài thành, đến mười dậm đường, rồi mới trở về. Trùng Nhĩ bỏ nước Tào sang nước Tống. HỔ Yển vào yết kiến quan tư mã nước Tống là công tôn Cố. Công tôn CỐ nói :

- Chúa công tôi không tự lượng sức mình, cùng với nước SỞ đánh nhau, để đến nỗi thua trận bị thương, bây giờ cũng chưa dậy được ; nhưng chúa công tôi vẫn nghe tiếng công tử Trùng Nhĩ, vốn có lòng kính mến đã lâu, nay công tử Trùng Nhl đến, thế nào chúa công tôi cũng trọng đãi.

Công tôn CỐ vào nói với Tống Tương công. Tống Tương công bãy giờ đang căm tức nước Sở, nghe nói Trùng Nhĩ đến, nghĩ thầm trong lòng rằng Tấn là một nước lớn, công tử Trùng Nhĩ lại là người hiền, mai sau tất trị nổi nước Sở, mới có ý mừng rỡ ngặt vì vết thương chưa khỏi, không ra nghênh tiếp được, liền sai công tôn CỐ mời Trùng Nhĩ vào công quán, trọng đãi như là vua chư hầu. Ngày hôm sau, Trùng Nhĩ cáo từ xin đi công tôn CỐ lại phụng mệnh Tống Tương công ra mời Ở lại, và hỏi riêng HỒ Yển rằng :

- Khi công tử qua nước Tề thì Tề Hoàn công tiếp đãi thế nào ?

HỒ Yển kể lại chuyện Tề Hoàn công gả Khương thị cho Trùng Nhĩ và tặng các đồ xe ngựa. Công tôn CỐ về tâu với Tống Tương công.

Tống Tương công nói :

- Công tử năm xưa đã lấy con gái nước Tống ta rồi, nay ta xin tặng các đồ xe ngựa. -

Trùng Nhĩ cảm tạ vô cùng, Ở lại mấy ngày nữa. HỒ Yển thãy bệnh của Tống Tương công không có cơ khỏi được, liền đem việc phục quốc bàn riêng với công tôn Cố. Công tôn CỐ nói :

Công tử nay đi đường nhọc, muốn tạm nghỉ Ở nước tôi thì nước tôi dẫu nhỏ, cũng có thể cung cấp được ; nhược bằng muốn nhờ binh lực nước tôi để lấy lại nưức thì nước tôi vừa mới bại trận xong, khó lòng giúp nổi, xin công tử đi cầu nước khác.

HỒ Yển nói :

Ngài báo thực như thế là phải lắm !

Nói xong, liền bảo Trùng Nhĩ, rồi thu xếp hảnh trang để đi. Tống Tương công nghe nói Trùng Nhĩ đi, lại sai người đưa tặng lương thực và y phục. Trùng Nhĩ đi rồi, Tống Tương công bệnh mỗi ngày một nặng, chẳng được bao lâu thì mất ; lúc gần mất, Tương công bảo thế tử Vương Thần rằng :

- Ta không nghe lời Tử Ngư (công tử Mục Di) đến nỗi thua trận, nay con lên nối ngôi, việc gì cũng phái hỏi Tử Ngư mới được. SỞ là một nước thù với ta, chớ cùng với SỞ giao hiếu ; còn công tử Trùng Nhĩ khi về nước Tấn, tất có cơ làm chủ các nước được, con nên giao hiếu với Tấn để giữ yên lấy nước nhà.

Thế tử Vương Thần sụp lạy. Tống Tương công mất, thế tử Vương Thần lên nối ngôi, tức là Tống Thành công. Trùng Nhĩ bỏ nước Tống đến nước Trịnh. CÓ người báo vớì Trịnh Văn công. Trịnh Văn công bảo các quan rằng :

- Trùng Nhĩ phản cha mà đi trốn, các nước không ai tiếp đãi cả, đi đến đâu đói khát đến đấy, đó là người bất hiếu, ta chớ nên trọng đãi

Quan thượng khanh là Thúc Thiêm can rằng :

- Trùng Nhĩ có ba điều trợ lực, thật là lòng trời muốn giúp, ta chớ nẽn coi thường.

Trịnh Văn công hỏi :

- Thế nào gọi là ba điều trợ lực ?

Thúc Thiêm nói :

- Trùng Nhĩ xưa nay vẫn có tiếng là người hiền, đó là một điều trợ lực ; từ khi đi trốn đến giờ, nước Tấn không lúc nào được yên, có cái cơ hội phục quốc được, đó là hai điều trợ lực ; Triệu Thôi, HỒ Yển là những bậc hào kiệt đời bây giờ, đều theo giúp Trùng Nhĩ cả, đó là ba điều trợ lực. Trùng Nhĩ đã có ba điều ấy, chúa công nên trọng đãi mới được.

Trịnh Văn công nói :

Trùng Nhĩ nay già rồi, còn làm gì được ?

Thúc Thiêm nói :

Nếu chúa công không trọng đãi Trùng Nhĩ thì nên giết đi, chớ để thù oán về sau.

Trịnh Văn công vừa cười vừa nói :

- Nhả ngươi nói kỳ quá, đã bảo ta trọng đãi, lại bảo ta giết đi. CÓ ân gì mà trọng đãi, có oán gì mà giết đi kia chứ !

Nói xong, truyền đóng cửa thành không cho Trùng Nhĩ vào. Trùng Nhĩ thấy Trịnh Vãn công không nghênh tiếp, liền thẳng đường đi sang nước Sở, vào yết kiến SỞ Thành vương. SỞ Thành vương cũng trọng như vua các nước chư hầu. Trùng Nhĩ khiêm nhượng, không dám nhận lễ. Tnệu Thời đứng Ở bên cạnh, bảo Trùng Nhĩ rằng :

Công tử trốn đi Ở ngoài, hơn mười năm nay, các nước nhỏ còn có ý khinh bỉ, huống chi là nước lớn ; nay nước SỞ lại trọng đãi như vậy cũng là lòng trời xui khiến, xin chúa công cứ nhận.

Trùng Nhĩ đành nhận lễ. SỞ Thành vương tiếp đãi cung kính. Trùng Nhĩ ứng đối cũng rất lễ phép. Haỉ người rất tương đắc. Trùng Nhĩ mới Ở yên nước Sở. Một hôm, SỞ Thành vương cùng Trùng Nhĩ đi săn Ở chằm Vân Mộng. SỞ Thành vương muốn khoe khoang vũ nghệ, bắn luôn hai phát, trúng được một con hươu và một con thỏ. Các

tướng đều sụp lạy để chúc mừng. Bỗng có một con gấu chạy qua trước xe, SỞ Thành vương trông thấy liền bảo Trùng Nhĩ rằng :

Sao công tử không bắn đi ?

Trùng Nhĩ tay rút mũi tên, đặt vào dây cung, miệng lẩm nhẩm khấn rằng :

- Nếu ta được về làm vua nước Tấn thì xin cho phát tên này trúng vào chân phải con gấu.

Nói xong, giương cung ra bắn, mũi tên trúng ngay vào chân phải con gấu. SỞ Thành vương phục tài Trùng Nhĩ khen rằng :

Công tử bắn giỏi lắm !

Được một lúc, bỗng nghe tiếng quân sĩ huyên náo, SỞ Thành vương bèn sai người ra hỏi. Quân sĩ về báo rằng :

- CÓ một con thú Ở trong hang núi chạy ra, giống con gấu mà không phải gấu, mũỉ như mũi voi, đầu như đầu sư tử, chân như chân hổ, lông như lông sài, bờm như bờm lợn rừng, đuôi như đuôi trâu, mình to hơn mình ngựa, vằn nó đen trắng nham nhở, gươm, giáo, cung, tên cũng không giết chết nó được. NÓ ăn sắt như ăn bùn, dẫu

những thỏi sắt bằng cái trục xe, nó cũng nhai biến ra được. NÓ lại nhanh nhẹn lắm, người ta không thể trị nổi, bởi thế nên quân sĩ sợ hãi mà huyên náo cả lên !

SỞ Thành vương bảo Trùng Nhĩ rằng :

Công tử sinh trưởng Ở trung quốc, tất biết tên giống thú ấy.

Trùng Nhĩ ngảnh lại nhìn Triệu Thôi, Triệu Thôi nói :

- Giống thú ấy tên là con mạc, do kim khí Ở trong đất mà sinh ra, đầu nhỏ chân thấp, hay ăn các thứ đồng và sắt. Đem nước tiểu của nó mà tưới vào các loài kim thì các loài kim đều chảy ra nước cả.

Xương nó rắn mà đặc, trong không có tủy, dùng làm gậy chống được. Da nó dùng làm chăn đắp, có thể trừ được những thứ lam chướng.

SỞ Thành vương nói :

- Thế thì dùng cách gì mà trị nó được ?

Triệu Thôi nói :

- Da thịt nó đều như sắt cả, chỉ có một đường lỗ mũi là có thể dùng ngọn giáo bằng thép mà đâm vào ; hoặc dùng lửa mà đốt lên thì nó chết ngay, bởi loài kim thường hay kỵ lửa.

Triệu Thôi vừa nói xong, Ngụy Thù Ở bên cạnh quát to lên rằng :

- Tôi không cần phải dùng đổ binh khi, xin bắt sống được con thú ấy đem về dâng đại vương.

Nói xong, liền Ở trên xe bước xuống, chạy đi để bắt con thú ấy. SỞ Thành vương bảo Trùng Nhĩ rằng :

Tôi và công tử, ta cùng đi xem ra làm sao.

Nói xong, liền giục đánh xe đi để xem. Ngụy Thù trông thấy con thú ấy, tức khắc nắm tay xông vào, đánh luôn mấy cái. Con thú ấy không sợ hãi gì cả, kêu lên như tiếng trâu rống, rồi chồm đứng dậy, thè lưỡi liếm Ngụy Thù mất một mảnh áo giáp, Ngụy Thù nổi giận, liền nhảy phãt một cái, cưỡi ngay lên mình con thú, hai tay bóp chặt lấy cổ nó. Con thú vừa chồm vừa giãy, Ngụy Thù vẫn cưõì trên lưng nó. Được một lúc, con thú ngạt hơi, nằm phục xuống, không thể cựa quậy được. Ngụy Thù bên nhảy xuống, nắm lấy vòi con thú lôi đến trước mặt SỞ Thành vương và Trùng Nhĩ. Triệu Thôi sai quân sĩ lấy lửa hun vào đầu vòi, hơi lửa thấm vào, con thú ấy mềm cả mình mẩy ra, bấy giờ Ngụy Thù mới buông tay, rút thanh bảo kiếm để chém,

nhưng chém không đứt. Triệu Thôi nói :

- Muốn lột lấy da con thú ấy phải hun lửa mới được.

SỞ Thành vương theo lời, truyền cho quân sĩ đem lửa ra hun rồi lột da con thú ấy. SỞ Thành vương bảo Trùng Nhĩ rằng :

Các người theo hầu công tử, thực là những tay hào kiệt, nước tôi không ai được như thế !

Bấy giờ tướng nước SỞ là Thành Đắc Thần đứng Ở bên cạnh, có ý không phục, liền nói với SỞ Thành vương rằng :

- Đại vương khen bầy tôi nước Tấn là người có dũng lực, tôi xin cùng với người nước Tấn đấu võ.

SỞ Thành vương không cho ; lại bảo Thành Đắc Thần rằng :

- Người ta là khách, mình nên kính trọng mới phải.

Ngày hôm ấy đi săn về, SỞ Thành vương bày tiệc uống rượu, rất là vui vẻ Trong khi ăn tiệc, SỞ Thành vương bảo Trùng Nhĩ rằng :

- Khi công tử về nước rồi, công tử định lấy gì để đền ơn nước SỞ tôi ?

Trùng Nhĩ nói :

Châu ngọc và nữ sắc thì đại vương chẳng thiếu gì ; còn sản vật thì quý quốc lại nhiều hơn nước tôi, tôi biết lấy gì mà đền ơn đại vương được.

SỞ Thành vương vừa cười vùa nói :

- Dẫu thế nào cũng tất có đền ơn, xin công tử cho biết trước ?

Trùng Nhĩ nói :

- Nhờ uy linh của đại vương mà tôi về nước Tấn được thì tôi xin cùng với Đại vương giao hiếu để cho dân hai nước được yên ổn ; hoặc bất đắc dĩ mà cùng với đại vương giao chiến nữa thì tôi xin lui ba xá để nhường đại vương.

Tiệc xong, Thành Đắc Thần có ý tức giận, nói với SỞ Thành vương rằng :

- Đại vương trọng đãi Trùng Nhĩ như thế, mà Trùng Nhĩ nói nhiều câu không được lịch sự, vậy thì ngày khác y về nước Tấn, tất nhiên phụ ơn nước ta, xin đại vương cho phép tôi giết đi.

SỞ Thành vương nói :

- Công tử Trùng Nhĩ là người hiền, các người đi theo hầu cũng đều là những bậc tài giỏi cả, tự hồ như có trời giúp, nước SỞ ta cũng không nên trái ý trời.

Thành Đắc Thần nói :

- Nếu đại vương không giết Trùng Nhĩ thì nên bắt lấy mấy người trong bọn HỒ Yển và Triệu Thôi, chớ để cho hổ thêm cánh.

SỞ Thành vương nói :

- Dẫu bắt người ta Ở lại, mình cũng không dùng được người ta, chỉ thêm làm cho người ta oán, nay ta đang làm ơn với Trùng Nhĩ, không nên như thế.

Bấy giờ vua nước Lương vô đạo, không biết thương dân, chỉ chăm về sự đắp thành đào hào, dân trong nước ai cũng oán giận, nhiều người bỏ trốn sang nước Tần. Tần Mục công thấy lòng dân oán vua Lương như vậy, liền sai Bách Lý Hề cử binh sang đánh nước Lương. Con Tấn Huệ công là thế tử Ngữ vẫn Ở làm con tin bên nước

Tần đã lâu, nay nghe tin Tần Mục công đem quân sang đánh nước Lương mới sinh lòng oán giận nước Tần (nguyên mẹ thế tử Ngữ là người nước Lương). Sau nghe tin Tấn Huệ công bị bệnh ốm mới nghĩ thầm trong bụng rằng

- Nay ta một mình Ở nước ngoài, vạn nhất mà phụ thân ta mất đi, các quan đại phu lại lập người khác lên nối ngôỉ thì làm thế nào, chi bằng ta trốn về là hơn.

Nghĩ xong, đêm hôm ấy bèn đem chuyện nói với vợ là Hoài Doanh, rồi rủ vợ cùng trốn về nước Tấn. Hoài Doanh ứa nước mắt mà đáp rằng :

- Chúa công sai thiếp nâng khăn sửa túi hầu thế tử, là muốn cho thế tử khỏi nhớ nhà, nếu thiếp lại đi theo thế tử thì tội thiếp to lắm ! Thế tử muốn về cũng là phải, xin thế tử cứ tùy tiện, đừng nói chuyện với thiếp. Thiếp không dám theo thế tử, nhưng cũng xin giấu kín việc ấy cho thế tử.

Thế tử Ngữ trốn về nước Tấn. Tần Mục công nghe tin thế tử Ngữ trốn đỉ, giận lắm, bảo các quan đại phu rằng :

Hai cha con Di Ngô đều phụ ơn ta, ta tất phải báo thù. Nói xong, lại phàn nàn rằng :

- Tiếc thay ? Trước kia ta không lập Trùng Nhĩ lên làm vua nước Tấn !

Tần Mục công tức khắc sai người đi dò la tông tích Trùng Nhĩ xem Ở nước nào, thì biết Trùng Nhĩ Ở nước SỞ đã được mấy tháng, liền bảo công tôn Chi sang nước SỞ để đón Trùng Nhĩ.

Trùng Nhĩ nói với SỞ Thành vương rằng :

- Tất cả, tôi đều nhờ dựa vào đại vương, không muốn lại phiền đến vua Tần nữa.

SỞ Thành vương nói :

- Nước SỞ tôi cùng với nước Tấn xa cách nhau lắm ! Mà nước Tần thì tiếp giáp với nước Tấn. Vua nước Tần vốn là người hiền nay lại không bằng lòng với Di Ngô, ấy là một cơ hội trời giúp cho công tử đó, công tử nên đi.

Trùng Nhĩ tạ ơn SỞ Thành vương, rồi đi sang nước Tần, Tần Mục công nghe tin Trùng Nhĩ đến, thì vui mừng hớn hở ra tận ngoại thành tiếp đón, rất là long trọng. Mục CƠ (vợ Tần Mục công) cũng kính mến Trùng Nhĩ mà ghét thế tử Ngữ, mới nói với Tần Mục công, xin đem nàng Hoài Doanh gả cho Trùng Nhĩ, Tần Mục công bảo Mục

CƠ báo trước cho Hoài Doanh biết. Hoài Doanh nói :

- Thiếp đã gả mình cho thế tử Ngữ rồi, nay lại đem thân hầu hạ người khác hay sao !

Mục CƠ nói :

Thế tử Ngữ quyết không sang đây nữa. Nay Trùng Nhĩ là ngliời hiền mà lắm kẻ giúp, tất nhiên được về làm vua ; nếu con kết duyên với Trùng Nhĩ thì khi Trùng Nhĩ về làm vua, tất nhiên con được lập lên làm phu nhân, thành ra Tấn Tần hai nước, đời đời cùng kết thân với nhau mãi.

Hoài Doanh nín lặng giờ lâu, rồi nói rằng :

Nếu như vậy thì thiếp có tiếc gì một thân thiếp mà chẳng khiến cho hai nước giữ được tình hòa hiếu.

Tần Mục công lại sai công tôn Chi nói chuyện với Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ ngại về một điều công tử Ngữ là cháu gọi mình bằng chú, toan từ chối không nhận. Triệu Thôi nói với Trùng Nhĩ rằng :

Tôi nghe nói nàng Hoài Doanh là người đẹp mà có tài, vua Tần vẫn có lòng yêu lắm, nếu ta muốn nhờ sức nước Tần thì nên lấy con gái nước Tần mới phải, xin công tử chớ tử chối.

Trùng Nhĩ lại bàn với HỖ Yển. HỒ Yển nói :

- Nay công tử về nước, định làm tôi thế tử Ngữ, hay định thay thế tử Ngữ mà làm vua ?

Trùng Nhĩ nín lặng, không nói gì cả. HỒ Yển nói :

Nếu công tử định làm tôi thế tử Ngữ thì Hoài Doanh là quốc mẫu ; nếu công tử định thay thế tử Ngữ mà làm vua thì Hoài Doanh tức là vợ của kẻ thù, còn ngại gì nữa ?

Trùng Nhĩ còn có ý thẹn, Triệu Thôi nói :

- Nước còn muốn lấy, huống chỉ là vợ. Muốn làm nên việc lớn mà còn giữ cái tiết nhỏ thì sau sẽ hối không kịp ?

Trùng Nhĩ nghe nói, mới thuận kết duyên với nàng Hoài Doanh. Công tôn Chi vào nói với Tần Mục công. Tần Mục công chọn ngày tốt, rồi cho làm lễ cưới. Hoài Doanh có nhan sắc hơn Khương thị nước Tề, Trùng Nhĩ mừng lắm, quên hết những sự khó nhọc trong khi đi đường. Tần Mục công vốn trọng công tử Trùng Nhĩ, lại thêm có tình thân thuộc, càng hậu đãi Trùng Nhĩ lắm. Bọn Triệu Thôi và HỒ Yển cũng nhân dịp mà được kết giao với các quan đại phu nước Tần là bọn Kiển Thúc, Bách Lý Hề và công tôn Chi để bàn việc phục quốc.

Thế tử Ngữ từ khi Ở nước Tần trốn về, vào yết kiến Tấn Huệ công. Tấn Huệ công mừng lắm, nói :

- Ta yếu đau đã lâu ngày, đang buồn không có người phó thác, nay con trốn về đây được, ta mới yên lòng.

Tháng chín năm ấy Tấn Huệ công đau nặng quá, mới gọi Lã Di Xanh và Khước Nhuế vào mà dặn rằng :

Hai ngươi nên cố sức giữ gìn cho thế tử Ngữ. Hiện nay các vị công tử, ta không phải lo ngại ai cả, chỉ nên đề phòng có Trùng Nhĩ mà thôi.

Lã Di Xanh và Khước Nhuế sụp lạy xin vâng mệnh. Đêm hôm ấy, Tấn Huệ công mất. Lã Di Xanh và Khước Nhuế tôn thế tử Ngữ lên nối ngôi, tức là Tấn Hoài công. Tấn Hoài công lo Trùng Nhĩ Ở ngoài, tất có ngày sinh biến, mới hạ lệnh rằng :

- Phàm những người bầy tôi nước Tấn theo Trùng Nhĩ đi trốn, thì hạn trong bảy tháng, họ hàng Ở nhà phảỉ viết thư gọi về. Ai đúng hạn mà về thì tha không bắt tội, lại cho được phục chức cũ ; nếu quá hạn không về, đều xóa tên trong sổ quan và chịu án tử hình, cha con, anh em Ở nhà cũng phải tội chết.

Lão quốc cữu là HỒ Đột có hai con là HỒ Mao và HỒ Yển, đều theo Trùng Nhĩ Ở nước Tần. Khước Nhuế khuyên HỒ Đột nên viết thư gọi về. HỒ Đột nhất định không chịu. Khước Nhuế vào nói với Tấn Hoài công rằng :

Hai con của HỒ Đột đều là người tài giỏi, nay lại theo Trùng Nhĩ thì khác nào như hổ thêm cánh. Nay HỒ Đột không chịu gọi hai con về thì cũng đáng nghi lắm, chúa công thứ gọi HỒ Đột vào mà bảo, xem ý tứ lão quốc cữu ra sao ?

Tấn Hoài công sai người đến triệu HỒ Đột. HỒ Đột biết ý, liền cùng với người nhà từ giã, rồi vào triều nói với Tấn Hoài công rằng :

- Lão thần già ốm Ở nhà, chẳng hay chúa công có việc gì mà triệu đến ?

Tấn Hoài công nói :

- HỒ Mao và HỒ Yển Ở nước ngoài, lão quốc cữu có viết thư gọi về hay không ?

HỒ Đột nói :

- Tôi chưa viết thư gọi.

Tấn Hoài công nói :

- Ta đã có hạ lệnh rằng : "Quá hạn không về thì bắt tội thân thuộc Ở nhà" lão quốc cữu không biết hay sao

HỒ Đột nói :

- Hai con tôi theo hầu Trùng Nhĩ cũng đã lâu ngày, tất phải một lòng trung thành với Trùng Nhĩ, cũng như các quan tại triều trung thành với chúa công. Giả sử nay hai con tôi có trốn về, tôi cũng kể tội mà giết đi, huống chi tôi lại còn gọi về làm gì !

Tấn Hoài công nổi giận, sai hai người lực sĩ tuốt hai lưỡi gươm kề vào cổ HỒ Đột mà bảo rằng :

Nếu nhà ngươi chịu gọi hai con về thì ta sẽ tha cho tội chết.

Tấn Hoài công lại sai người đem giấy bút đến trước mặt HỒ Đột.

Khước Nhuế cầm lấy tay HỒ Đột, bắt HỒ Đột phải viết. HỒ Đột kêu to lên rằng :

- Không phải nắm tay, tự khắc ta viết !

Nói xong, liền viết mấy chữ thật to : "Con không hai cha, bầy tôi không hai vua", Tấn Hoài công giận lắm, nói :

Mày không sợ chết à ?

HỒ Đột nói :

- Tôi chỉ sợ làm con không giữ được đạo hiếu, làm tôi không giữ được đạo trung mà thôi ! Còn như chết là chuyện thường, việc gì mà sợ !

HỒ Đột vươn cổ ra để chờ chém. Tấn Hoài công sai dẫn HỒ Đột ra chém Ở ngoài chợ. Quách Yển trông thấy, thở dài mà than rằng :

- Chúa công mới lên nối ngôi, chưa có ân huệ gì cả, mà đã giết chết một lão thần, chẳng bao lâu tất cũng hỏng việc thôi !

Nói xong, tức khắc cáo ốm, không ra khỏi cửa. Người nhà HỒ Đột vội vàng trốn sang nước Tần, để báo tin cho HỒ Mao và HỒ Yển biết.

Hồi 36

Tấn Hoài công trốn sang Cao Lương

Tần Mục công phù lập Trùng Nhĩ

HỒ Mao và HỒ Yển theo công tử Trùng Nhĩ Ở nước Tần, nghe tin phụ thân là HỒ Đột bị Tấn Hoài công giết, liền vật mình than khóc.

Triệu Thôi nói :

Người đã chết rồi, không thể sống lại được, dẫu thương cũng vô ích, chỉ bằng ta vào yết kiến công tử để bàn về việc phục quốc.

HỒ Mao và HỒ Yển gạt nước mắt, cùng với Tnệu Thôi vào yết kiến Trùng Nhĩ, đem việc HỒ Đột bị hại nói với Trùng Nhĩ Trùng Nhĩ bảo HỒ Mao và HỒ Yển rằng :

- Hai ngươi chớ có lo phiền, chờ khi ta về nước, sẽ báo thù cho hai ngươi.

Nói xong, liền đem việc nước Tấn vào nói với Tần Mục công.

Mục công nói :

- ấy là cơ hội trời muốn cho công tử trở về nước Tấn đó, công tử chớ nên bỏ hoài ? Tôi xin hết lòng giúp công tử.

Triệu Thôỉ đỡ lời Trùng Nhĩ mà nói với Mục công rằng :

Nhà vua có lòng giúp thì xin giúp ngay cho, nếu để cho thế tử Ngữ (Tấn Hoài công) đã cải nguyên cáo miếu rồi, thì cái phần vua tôi đã định, cũng hơi khó một chút.

Tần Mục công khen phải, Trùng Nhĩ cáo từ về công quán. Bỗng nghe báo có người nước Tấn xin vào yết kiến để nói việc cơ mật. Trùng Nhĩ cho vào, hỏi họ tên là gì ? Người ấy sụp lạy mà nói rằng :

- Tôi là con quan đại phu nước Tấn là Loan Chi, tên gọi là Loan Thuẫn. Cha tôi thấy tân quân (Tấn Hoài công) bây giờ tính đa nghi mà lại tàn nhẫn, hay chém giết lắm, dân trong nước đều có lòng oán, vậy mới sai tôi sang đây báo tin cho công tử biết ; nếu công tử đem quân về đánh thì cha tôi xin làm nội ứng.

Trùng Nhĩ mừng lắm, đính ước với Loan Thuẫn, hẹn đến đầu năm sau thì về. Loan Thuẫn cáo từ trở về nước Tấn. Trùng Nhĩ khấn trời, rồi đem cỏ thi ra bói ; bói được hào lục quẻ "thái ", liền gọi HỒ Yển vào đoán. Hồ Yển nói :

Quẻ này là một quẻ thượng cát, công tử về nước chẳng những được nối ngôi, lại có cơ làm bá chủ chư hầu nữa.

Trùng Nhĩ đem chuyện Loan Thuẫn bảo cho HỒ Yển biết. HỒ Yển nói :

- Sáng mai công tử nên vào nói với vua Tần mượn quân về nước, chớ chậm trễ nữa.

Ngày hôm sau, Trùng Nhĩ vào yết kiến Tần Mục công. Mục công không đợi Trùng Nhĩ phải nói, liền bảo Trùng Nhĩ rằng :

Tôi đã biết công tử đang nóng lòng phục quốc, để tôi xin thân hành đem quân đưa công tử về.

Trùng Nhĩ tạ ơn lui ra. Phi Báo nghe tin Tần Mục công sắp đem quân đưa Trùng Nhĩ về nước, mới xin làm tiên phong. Mục công thuận cho. Tháng chạp năm ấy, Mục công bày một tiệc rượu Ở Cửu Long sơn để thết đãi Trùng Nhĩ và bọn Triệu Thôi, tặng cho mỗi người một đôi bạch bích, rồi cử đại binh đưa Trùng Nhĩ về nước Tấn.

Thế tử Doanh nước Tần cũng có lòng kính mến Trùng Nhĩ lắm, đi tiễn chân đến sông Vị Dương, mới từ biệt trở về. Đại binh nước Tần kéo đến bờ sông Hoàng Hà, Tần Mục công truyền bày tiệc cùng với Trùng Nhĩ uống rượu ; rồi ân cần dặn Trùng NhI rằng :

- Khi công tử về nước, xin chớ quên vợ chồng tôl.

Nói xong, liền chia một nửa quân, sai công tử Chí và Phi Báo đưa Trùng Nhĩ sang sông Hoàng Hà còn mình thì đóng quân Ở Hà Tây để chờ tin.

Bấy giờ Hồ Thúc là người theo hầu Trùng Nhĩ, từ khi đi trốn đến giờ, vẫn chuyên giữ việc hành lý, vì đã trải nhiều phen khổ sở, đói khát Ở nước Tào, nước Vệ, nẽn tính rất căn cơ. HỒ Thúc bèn thu thập bao nhiêu chiếu nát, màn rách đều xếp xuống thuyền cả ; đến những đồ cơm rượu còn thừa, HỒ Thúc cũng vẫn coi như của quý, đem cả xuống thuyễn. Trùng Nhĩ trông thấy, bật cười mà bảo rằng :

Ngày nay ta sắp về làm vua nước Tấn, thiếu gì đồ châu báu, còn dùng chi đến những vật hư nát ấy !

Nói xong, liền sai người đem quẳng bỏ ở trên bờ sông, không để một thứ gì lại. HỒ Yển bèn thở dài mà than rằng :

- Công tử chưa được phú quý mà đã quên lúc bần tiện, mai sau có mới nới cũ, coi lũ chúng ta khác nào những vật hư nát ấy, chẳng cũng uổng cái công chúng ta khó nhọc trong mười chín năm trời ru !

Chi bằng ta nhân lúc công tử chưa qua sông này mà bỏ đi, họa may ngày khác công tử còn có lòng nghĩ đến !

HỖ Yển bèn đem một đôi ngọc bích trắng của Tần Mục công tặng khi trước, quỳ dâng Trùng Nhĩ mà nói rằng :

- Nay công tử qua sông Hoàng Hà này tức là đã đến địa giới nước Tấn, trong thì có bầy tôi nước Tấn, ngoài thì có các tướng nước Tần giúp đỡ, ngôi vua nước Tấn chãc hẳn phải về tay công tử, dẫu có tôi đi theo, cũng không ích gì. Tôi xin Ở lại nước Tần để làm một người ngoại thần của công tử.

Trùng Nhĩ giật mình kinh sợ mà hỏi rằng :

Ta đang muốn cùng các ngươi cùng hưởng phú quý, sao nhà ngươi lại nói như vậy ?

HỖ Yển nói :

- Tôi tự xét mình có ba tội, nên không dám theo.

Trùng Nhĩ hỏi :

- Ba tội là những tội gì ?

HỚ Yển nói :

- Tôi theo giúp công tử mà để cho công tử phải khốn Ở đất Ngũ Lộc, thế là một tội ; để cho công tử bị vua Tào và vua Vệ khinh bỉ, thế là hai tội ; khi Ở nước Tề, dám nhân lúc công tử say rượu mà đem công tử đi để cho công tử phải tức giận, thế là ba tội. Ngày trước công tử còn Ở nước ngoài, nên tôi không dám từ chối, nay công tứ đã về đến đây xin công tử cho tôi được Ở lại nước Tần, vì tôi theo hầu trong bấy

nhiêu năm, sức vóc đã suy yếu lắm rồi, khác nào như những đồ chiếu nát, màn rách, không thể dùng được nữa ?

Trùng Nhĩ ứa nước mắt mà nói rằng :

Nhà ngươi trách ta, thế là phải lắm, ta xin chịu lỗi ?

Nói xong, liền sai HỒ Thúc thu nhặt lấy tất cả những vật đã bỏ đi trước. Trùng Nhĩ lại ngảnh mặt xuống sông Hoàng Hà mà thề rằng :

- Nếu ta về nước mà quên công ơn các ngươi, không cùng hưởng phú quý thì xin trời tru đất diệt

Thề xong, lại cầm một viên bạch bích ném xuống sông Hoàng Hà mà nói rằng :

Xin có thần Hà Bá chứng minh cho !

Bấy giờ Giới Tử Thôi ngồi Ở chiếc thuyền bên cạnh, nghe thấy Trùng Nhĩ thề với HỒ Yển, liền cười mà nói rằng :

Công tử về được nước, chẳng qua là tự ý trời, HỒ Yển lại toan nhận lâý làm công mình hay sao ? Nay ta phải Ở cùng triều với những người tham phú quý như thế, ta cũng xấu hổ lắm !

Từ bấy giờ Giới Tử Thôi có ý muốn đi ẩn.

Trùng Nhĩ qua sông Hoàng Hà, đi đến đất Lịnh Hồ, quan trấn thủ Ở đất Lịnh HỒ là Đặng Hồn đem quân ra chống giữ bị Phi Báo chém chết. Các quan trấn thủ khác đều xin hàng cả. Tấn Hoài công nghe báo, giật mình kinh sợ, sai Lã Di Xanh làm chánh tướng, Khước Nhuế làm phó tướng, đem quân ra đóng Ở đất Lư Liễu, để chống cự

với quân nước Tần. Công tử Chí nước Tần liền viết một bức thư thay lời Tần Mục công, rồi sai người đưa cho Lã Di Xanh và Khước Nhuế

Trong thư đại lược nói rằng :

Vua Tần tôi làm ơn cho nước Tấn nhiều lắm, mà cha con vua Tấn bây giờ lại đem lòng phụ ơn, coi nước Tần tôi như cừu địch ; công tử Trùng Nhĩ là người hiền, dân nước Tấn đều quy phục cả, ấy là lòng trời muốn cho làm vua nước Tấn đó. Nay tôi cử đại binh đóng Ở trên sông Hoàng Hà, sai công tử Chi đưa Trùng Nhĩ về làm vua, nếu nhà ngươi biết nhân dịp này mà làm nội ứng thì sẽ tránh khỏi tai vạ về sau?

Lã Di Xanh và Khước Nhuế xem xong bức thư, ngẩn người ra một lúc, không biết nói thế nào được. Muốn chống cự lại thì sợ quân nước Tần thế mạnh không thể địch nổi ; muốn làm nội ứng để đón Trùng Nhĩ về làm vua thì lại sợ Trùng Nhĩ nhớ thù cũ mà giết mình để đền mạng cho Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ chăng, bởi vậy cứ ngần

ngại mãi. Sau mới nghĩ được một kế, liền viết thư trả lời công tử Chí.

Trong thư đại lược nói rằng :

Chúng tôi nay tự xét rằng đối với công tử là người có tội, vậy nên không dám bãi binh, nhưng bổn tâm chúng tôi thật vốn muốn tôn phù công tử, nếu chúng tôi được cùng với các quan theo hầu công tử ngày nay cùng thề rằng sau này quyết không làm hại lẫn nhau, bấy giờ chúng tôi sẽ xin vâng mệnh".

Công tử Chí đọc bức thư trả lời, biết là Lã Di Xanh và Khước Nhuế bèn sai người đón vào, hai người bày tỏ tâm sự cho công tử Chí biết, và nói rằng :

Chúng tôi vẫn muốn làm nội ứng, nhưng sợ công tử Trùng Nhĩ không có lòng bao dung cho, vậy phải xin ăn thề.

Công tử Chí nói :

Nếu ông tạm lui quân về phái tây bắc, thì tôi sẽ nói lại với công tử Trùng Nhĩ mà cho ông được ăn thề.

Lã Di Xanh và Khước Nhuế vâng lời, liền rút quân về đóng Ở đất Châu Thành. Công tử Chí đem lời Lã Di Xanh và Khước Nhuế nói với công tử Trùng Nhĩ. Công tử Trùng Nhĩ sai HỒ Yển và công tử Chí đến đất Châu Thành hỘi thề với Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Thề xong, Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người theo HỒ Yển đi nghênh tiếp Trùng Nhĩ đến đất Châu Thành.

Tấn Hoài công chờ mãi, không thấy tin tức Lã Di Xanh và Khước Nhuế, mới sai Bột Đề đi đốc chiến. Bột Đề đi đến nửa đường, nghe tin Lãâ Di Xanh và Khước Nhuế rút quân về đất Châu Thành cùng với HỖ Yển và công tử Chí giảng hòa, định đón Trùng Nhĩ về làm vua, thì vội vàng về báo tin cho Tấn Hoài công biết. Tấn Hoài công giật mình kinh sợ, liền triệu các quan triều thần vào để thương nghị. Các quan triều thần xưa nay vẫn mến phục Trùng Nhĩ ; lại thấy Tấn Hoài công chỉ tín dùng Lã Di Xanh và Khước Nhuế nên cũng có ý chán. Nay thấy Lã Di Xanh và Khước Nhuế đã làm phản rồi, họ mới bảo nhau người thì cáo ốm, người thì cáo bận việc nhà không vào dự hội. Tấn Hoài công thở dài mà than rằng :

Chẳng ngờ chỉ vì ta bỏ trốn về để mếch lòng nước Tần, mà đến nỗi thế này ?

Bột Đề nói :

- Nay các quan tnều thần cùng tư ước với nhau để đón vua mới, thế thì chúa công phải tránh đi mới được. Tôi xin theo hầu chúa công mà trốn sang đất Cao Lương.

Tấn Hoài công nghe lời, cùng với Bột Đề đi trốn. Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người đón công tử Trùng Nhĩ về rồi sụp lạy xin lỗi.

Trùng Nhĩ lấy lời ngọt ngào phủ dụ. Bọn Triệu Thôi cũng cùng với Lã Di xanh và Khước Nhuế bày tỏ tâm phúc, không nghi ky điều gì cả.

Lã Di Xanh và Khước Nhuế yên lòng, mời công tử Trùng Nhĩ vào đất Khúc ốc. Các quan triều thần rủ nhau đến đất Khúc ốc để nghênh tiếp rồi rước Trùng Nhĩ về kinh thành. Công tử Trùng Nhĩ lên nối ngôi, tức là Tấn Văn công.

Tấn Văn công từ năm bốn mươi ba tuổi trốn sang nước Địch, năm năm mươi nhăm tuổi sang Ở nước Tề, năm sáu mươi mốt tuổi sang Ở nước Tần, đến bây giờ phục quốc lên làm vua thì đã sáu mươi hai tuổi. Tấn Văn công khi đã lên làm vua rồi, bèn mật sai người sang đất Cao Lương để giết Tấn Hoài công. Tấn Hoài công lên làm vua từ tháng chín năm trước đến tháng hai năm sau thì bị giết, tất cả mới được có sáu tháng. Bột Đề thấy Tấn Hoài công bị giết, lại trốn về nước Tấn.

Tấn Văn công bày tiệc để thết đãi quan tướng nước Tần là công tử Chí, và khao thưởng quân sĩ. Phi Báo sụp lạy Tấn Văn công, xin phép cải táng cho cha là Phi Trịnh Phủ. Tấn Văn công thuận cho, rồi muốn giữ Phi Báo Ở lại tnều để dùng, nhưng Phi Báo chối từ nói rằng :

Tôi đã trót sang làm quan với Tần thì không dám bỏ mà về với chúa công.

Phi Báo cáo từ Tấn Văn công, rồỉ cùng với công tử Chí trở về đất Hà Tây, báo tin cho Tần Mục công biết, Tần Mục công liền rút quân về nước.

Lã Di Xanh và Khước Nhuế dẫu sợ thế nước Tần, phải đón Trùng Nhl về nối ngôi, nhưng trong lòng vẫn nghi ky, lại xấu hổ với bọn Tnệu Thôi, mới bàn nhau làm phản, cùng nhau lập mưu đốt cung để giết Trùng Nhĩ, rồi lập một vị công tử khác ; ngặt vì khắp trong triều bây giờ không biết mưu với ai được, chỉ có Bột Đề là một kẻ cừu

địch với Tấn Văn công khi trước là có thể cùng bàn được thôi, liền sai người đi gọi Bột Đề.

Bột Đề thấy Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người gọi, vội vàng đến ngay. Lã Di Xanh và Khước Nhuế đem việc đốt cung nói với Bột Đề, Bột Đề bằng lòng và nhận lời, nhưng trong lòng không cho làm phải. nghĩ thầm một mình rằng :

- Ngày trước ta phụng mệnh Tấn Hiến công và Tấn Huệ công đi giết Trùng Nhĩ, chẳng qua là lúc bấy giờ ta chỉ biết một lòng vì chủ mà thôi. Nay Tấn Hoài công đã chết rồi, Trùng Nhĩ lên nối ngôi, nước Tấn mới được yên ổn ; nếu ta lại làm những việc đại nghịch bất đạo ấy thì chẳllg những rằng chưa chắc ta đã làm gì nổi Trùng Nhĩ là người có trời giúp, mà giả sử ta có giết được Trùng Nhĩ nữa thì các người

theo hầu Trùng Nhĩ cũng vị tất đã để cho ta yên, chi bằng ta đem cáo giác việc này ra, thì lại là một con đường tiến thân cho ta được đây.

Bột Đề lại nghĩ thầm :

Mình là người có tội, vào gọi cửa cung sao được !

Bột Đề nghĩ vậy rồi đêm hôm ấy đến yết kiến HỒ Yển. HỒ Yển trông thấy Bột Đề, giật mình kinh sợ mà hỏi rằng :

- Nhà ngươi đối với chúa công ta là người có tội to lắm, sao không tìm đường trốn tránh cho xa, mà lại đang đêm tới đây để làm gì ?

Bột Đề nói :

Tôi đến đây là có ý muốn xin vào yết kiến chúa công nhờ quốc cữu tiến dẫn cho.

Hồ Yển nói :

Nhà ngươi vào yết kiến chúa công thì thật là dẫn thân vào chỗ chết !

Bột Đề nói :

Tôi có một việc cơ mật, muốn vào tâu với chúa công để cứu lấy tính mệnh người trong nước.

HỖ Yển liền đưa Bột Đề đến cửa cung, rồi gọi cửa vào trước, đem việc Bột Đề xin vào yết kiến nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công nól :

- Bột Đề còn có việc gì mà bảo là cứu được tính mệnh người trong nước, chẳng qua là hắn ta sợ để nhờ quốc cữu tiến dẫn đó mà thôi

HỒ Yển nói :

Chúa công nay mới lên nối ngôi, cũng nên bỏ điều hiềm khích cũ mà cầu lời nói thẳng mới phải, xin chúa công cứ cho vào.

Tấn Văn công có ý ngần ngừ, liền bảo nội thị truyền mắng Bột Đề rằng :

- Ngày trước nhà ngươi chém đứt vạt áo của ta, cái áo ấy hãy còn đó, ta trông thấy lúc nào vẫn còn rùng mình ; Sau nhà ngươi lại phụng mệnh Huệ công sang nước Địch để giết ta, may mà lòng trời giúp ta, nhà ngươi không thể giết nổi. Nay ta về nước, nhà ngươi còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa ! Thôi thì nhà ngươi nên tìm đường

trốn tránh cho xa, kẻo ta bắt mà trị tội đó.

Bột Đề cười khanh khách mà đáp rằng :

Chúa công Ở nước ngoài lưu lạc trong mười chín năm trời mà còn chưa hiểu thấu được thế sự hay sao ! Hiến công ngày xưa là thân phụ của chúa công, mà Huệ công cũng là thân đệ của chúa công đó, thế mà cha muốn giết con, em muốn giết anh, huống chi là Bột Đề này. Bột Đề này là một đứa tiểu thần, bấy giờ chỉ biết có Hiến công và Huệ công mà thôi, nào đã biết chúa công là ai. Ngày xưa Quản Di Ngô vì Công tử Củ mà bắn trúng vao vòng đai của Tề Hoàn công. thế mà tề hoàn công còn dùng Quản Di Ngô để nêu được nghiệp bá ; nếu Tề Hoàn công cũng nghĩ như bụng chúa công ngày nay thì dễ thường phảl báo cái thù bắn trúng vòng đai, mà bở sự nghiệp bá chủ hay sao ? Nay chúa công không cho tôi vào yết kiến, tôi cũng chẳng tổn hại gì, chỉ e tôi đã đi rồi thì cái tai vạ của chúa công cũng sắp đến nơi đấy !

Nội thị vào nói lại với Tấn Văn công. HỒ Yển nói :

- Bột Đề tới đây, tất có biết được chuyện gì mà muốn nói, xin chúa công cứ cho vào.

Tấn Văn công bèn cho triệu Bột Đề vào. Bột Đề vào đến trong cung, không xin lỗi những việc trước, chỉ sụp lạy hai lạy, rồi nói :

- Tôi xin chúc mừng chúa công !

Tấn Văn công nói :

Ta lên nối ngôi đã lâu, bây giờ nhà ngươi mới đến chúc mừng, chẳng cũng chậm lắm ru ?

Bột Đề nói :

- Chúa công lên nối ngôi, cũng chưa đủ chúc mừng, nay gặp Bột Đề này mới giữ vững được ngôi ấy, vậy tôi xin chúc mừng chúa công.

Tấn Văn công lấy làm lạ, đuổi hết người xung quanh đi rồi hỏi Bột Đề. Bột Đề bèn đem việc Lã Di Xanh và Khước Nhuế mưu làm phản kể lại một lượt, rồi nói với Tấn Văn công rằng :

- Chúa công nên tức khắc cùng với quốc cữu (Hồ Yển) trốn sang nước Tần, rồi đem quân Tần về thì mới có thể dẹp yên được cái loạn này. Tôi xin Ở nhà để làm nội ứng mà giết Lã Di Xanh và Khước Nhuế.

HỒ Yển nói :

Việc đã cấp bách, tôi xin theo chúa công đi, còn công việc trong nước, đã có Triệu Thôi lo liệu.

Tấn Văn công lại dặn Bột Đề rằng :

- Nhà ngươi nên cố sức, sau này ta sẽ trọng thưởng.

Bột Đề cáo từ lui ra. Tấn Văn công cùng với HỒ Yển bàn định, gọi mấy người nội thị tâm phúc vào, dặn báo các công việc, và cấm không được tiết lộ ra cho ai biết. Canh năm đêm hôm ấy, Tấn Văn công giả cách cảm hàn đau bụng, sai một nội thị nhỏ cầm đèn đưa ra nhà xí, rồi theo cửa sau, cùng với HỒ Yển lẽn xe trốn sang nước Tần.

Sáng hôm sau, trong cung có tin truyền ra là Tấn Văn công ốm mệt, các quan bèn kéo đến hỏi thăm, nhưng đều không được vào. Người nội thị canh cửa nói :

- Đêm hôm qua chúa công bị cảm hàn, có truyền cho chúng tôi nói với các quan biết rằng mấy hôm nữa sẽ ra tiếp kiến.

Các quan đều tưởng là Tấn Văn công ốm thật. Lã Di Xanh và Khước Nhuế nghe nói Tấn Văn công có bệnh, trong lòng mừng thầm mà nói rằng :

Thế mới thật trời giúp cho ta giết Trùng Nhĩ ?

Tấn Văn công cùng với HỒ Yển đi đến địa giới nước Tần, sai người đưa mật thư sang cho Tần Mục công, ước đến hội nhau Ở đất Vương Thành. Tần Mục công nghe nói Tấn Văn công giả dạng thường dân trốn sang nước Tần, biết là nước Tấn có biến loạn, mới giả cách đi săn, rồi đến đất Vương Thành hội nhau với Tấn Văn công. Tấn Văn công đem việc Lã Di Xanh và Khước Nhuế âm mưu làm phản nói cho Tần Mục công nghe. Tần Mục công cười mà nói rằng :

- Ý trời đã định, Lã Di Xanh và Khước Nhuế làm gì nổi ! Tôi chắc rằng bọn Tnệu Thôi Ở nhà tất dẹp tan đám giặc ấy, nhà vua chớ ngại !

Nói xong, liến sai công tôn Chi đem quân ra đóng Ở cửa sông Hoàng Hà để nghe ngóng tin tức. Tấn Văn công hãy Ở tạm đất Vương Thành

Bột Đề sợ Lã Di Xanh và Khước Nhuế có ý nghi, mới giả cách đến nhà Khước Nhuế để bàn định mưu kế, rồi cùng với Lã Di Xanh vào đốt cung và chực giết Trùng Nhĩ, nhưng không thấy Trùng Nhĩ đâu cả mới sợ hãi đem nhau đi trốn. Bọn Triệu Thôi tưởng là trong cung phát hỏa vội vàng đem quân vào cứu, măi đến sáng rõ mới biết là

Lă Di Xanh và Khước Nhuế làm phản ; mọi người lại tìm không thấy Tấn Văn công, nên đều giật mình kinh sợ, sau hỏi bọn nội thị mới biết là Tấn Văn công đã đi đâu mất từ mấy hôm trước rồi. Triệu Thôi nói :

- việc này hỏi đến HỒ quốc cữu thì mới biết rõ được.

HỒ Mao nói :

- Em tôi là HỒ Yển, vào cung từ mấy hôm trước mà đến nay cũng chưa thấy về, tôi chắc hắn đi theo chúa công đó ? Ý chừng chúa công biết cái mưu của Lã Di Xanh và Khước Nhuế, nên mới phòng bị trước như vậy. Nay chúng ta chỉ nên sửa sang lại các nơi cung điện, để đợi chúa công về.

Ngụy Thù nói :

- Bọn phản nghịch định đốt cung mà giết chúa công, tội thật đáng chết, nay dẫu chúng chạy trốn, chắc cũng chưa xa, để tôi xin đem quân đi đuổi bắt.

Triệu Thôi nói :

- Hai đứa phản nghịch ấy dẫu trốn đi, chẳng bao lâu rồi cũng bắt được, nay chúa công đi vắng, ta không nên động binh.

Lã Di Xanh và Khước Nhuế nghe tin Tấn Văn công chưa chết, sợ các quan đại phu cử binh đuổi theo, mới định trốn sang nước ngoài, nhưng chưa biết đến nước nào cho tiện. Bột Đề lại đánh lừa rằng :

Vua nước Tấn lập hay là bỏ, đều tự ý nước Tần cả, vả chăng hai ngài cùng với vua Tần cũng có quen biết từ trước, nay hai ngài cứ sang đầu với vua Tần, nói dối là trong cung thất hỏa, Trùng Nhĩ đã chết cháy rồi, và xin đón công tử Ung vễ làm vua. Khi công tử Ung đã về nối ngôi thì Trùng Nhĩ dẫu sống cũng khó lòng mà tranh lại nổi.

Lã Di Xanh nói :

- Vua Tần khi trước đã cùng ta hội thề Ở đất Vương Thành, nay ta nên sang đầu, nhưng chẳng biết vua Tần có lòng dung nạp hay không ?

Bạt Đề nói :

Để tôi sang trước nói xem thế nào, nếu vua Tần không nghe, bấy giờ ta sẽ liệu kế.

Bột Đề đi đến cửa sông Hoàng Hà, nghe tin công tôn Chi đóng quân Ở bên kia sông, liền đem sự tình đầu đuổi kể lại cho công tôn Chi biết :

Công tôn Chi nói :

- Bọn phản nghịch đã sang xin hàng như vậy ta nên dụ mà giết Nói xong, liền viết một bức thư giao Bột Đề cầm đưa cho Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Trong thư đại lược nói rằng :

Khi Trùng Nhĩ vê nước. có nói với chúa công tôi xin nộp đất, vậy nên chúa công tôi sai đóng quân Ở đây đế đợi cắm địa giới, sợ lại như Tấn Hiếu công ngày trước ; nay nghe tin Trùng Nhĩ bị chết cháy, mà hai ngài lợi có ý muốn đón công tử Ung, chúa công tôi cũng bằng lòng lắm, xin hai ngài nên mau mau sang ngay đế cùng bàn định".

Lã Di Xanh và Khước Nhuế tiếp được thư, vui mừng đi ngay.

Khi đến đất Hà Tây, công tôn Chi ra nghênh tiếp, rồi bày tiệc để thết đãi Lã Di Xanh và Khước Nhuế vững dạ không nghi ngại gì cả. Công tôn Chi sai người phi báo cho Tần Mục công, để Tần Mục công đến Ở Vương Thành trước. Lã Di xanh và Khước Nhuế chơi bời ba ngày, rồi nói với công tôn Chi xin vào yết kiến Tần Mục công. Công tôn Chi nói :

Chúa công tôi hiện đang Ở đất Vương Thành, mời hai ngài qua đấy để cùng hội một thể ; còn quân sĩ xin cho đóng lại đây, chờ khi hai ngài trở về, bấy giờ sẽ kéo sang nước Tấn. Lã Di Xanh và Khước Nhuế nghe lời, theo công tôn Chi sang đất Vương Thành ; khi đến đất Vương Thành, Bột Đề cùng công tôn Chi vào thành trước, yết kiến Tần Mục công. Tần Mục công sai Phi Báo ra đón Lã Di Xanh và Khước Nhuế rồi bảo Tấn Văn công nấp sẵn Ở phía sau bức bình phong. Lã Di Xanh và Khước Nhuế vào yết kiến Tần Mục công, nói với Tần Mục công xin lập công tử Ung.

Tần Mục công nói :

Công tử Ung hiện đã Ở đây rồi.

Lã Di Xanh và Khước Nhuế đồng thanh nói rằng :

- Nếu vậy xin cho chúng tôi được yết kiến vua mới.

Tần Mục công gọi :

- Vua mới đâu, xin mời ra đây ?

Bỗng thấy phía sau bình phong có mợt vị quý nhân từ từ bước ra. Lã Di Xanh và Khước Nhuế ngẩng mặt lên nhìn xem ai thì là Tấn Văn công Trùng Nhĩ. Lã Di Xanh và Khước Nhuế giật mình kinh sợ, chẳng còn hồn vía nào cả, sụp lạy xin lỗi. Tần Mục công mời Tấn Văn công cùng ngồi. Tấn Văn công mắng Lã Di Xanh và Khước Nhuế

rằng :

- Mấy đứa nghịch tặc kia, ta có xử tệ gì với chúng mày mà chúng mày làm phản, nếu không có Bột Đề cáo giác cho ta biết mà tránh đi, thì ngày nay ta đã ra tro rồi !

Bấy giờ Lã Di Xanh và Khước Nhuế mới biết là Bột Đề làm phản mình, liền nói với Tấn Văn công rằng :

Bột Đề đã cùng với chúng tôi ăn thề, xin chúa công chớ tha tội cho y.

Tấn Văn công cười mà nói rằng :

- Nếu Bột Đề không cùng với ngươi ăn thề thì sao biết hết được âm mưu của các ngươi như vậy !

Nói xong, liền truyền cho võ sĩ đem Lã Di Xanh và Khước Nhuế ra chém, lại sai Bột Đề đi giám sát. Được một lúc, vũ sĩ đem đầu Lã Di Xanh và Khước Nhuế nộp Ở dưới thềm. Tấn Văn công sai Bột Đề đem đầu Lã Di Xanh và Khước Nhuế đến đất Hà Tây để phủ dụ quân sĩ lại báo tin về cho người trong nước biết. Triệu Thôi cùng các quan

đại phu vội vàng đem xa giá đi đón tiếp Tấn Văn công.

Hồi 37

Giới Tử Thôi cõng mẹ đi ẩn

công tử Đái tham sắc làm càn

Tấn Văn công đã giết được Lã Di Xanh và Khước Nhuế rồi, đứng dậy tạ ơn Tần Mục công, và xin lấy lễ phu nhân đón nàng Hoài Doanh về nước. Tần Mục công nói :

Tiện nữ khi trước đã thất thân với công tử Ngữ rồi, có đâu lại dám đương cái lễ tôn quý ấy ?

Tấn Văn công nói :

Nước tôi cùng quý quốc giao hiếu đã mấy đời nay, nếu không dùng lễ pbu nhân thì sao làm chủ được việc tôn tự, xin nhà vua chớ nên từ chối .

Tần Mục công mừng lắm, liền cho Tấn Văn công làm lễ đón Hoài Doanh về nước. Khi về đến nước Tấn, Tấn Văn công lập Hoài Doanh làm phu nhân. Tấn Văn công nghĩ đến việc Lã Di Xanh và Khước Nhuế làm phản, có lòng tức giận, muốn giết hết vây cánh của hai người. Triệu Thôi can rằng :

Huệ công và Hoài công ngày xưa vì nghiêm khắc quá mà bị người ta oán, nay chúa công phải khoan dung mới được.

Tấn Văn công nghe lời, hạ lệnh đại xá cho bọn vây cánh Lã Di Xanh và Khước Nhuế. Bọn này dẫu thấy Tấn Văn công đã đại xá cho nhưng trong lòng không được yên, thường phao ra những tin đồn nhảm. Tấn Văn công thấy vậy, vẫn có ý lo.

Một hôm, mới mờ mờ sáng, có kẻ tiểu lại là Đầu Tu xin vào yết kiến. Tấn Văn công đang xõa tóc gội đầu, nghe báo có Đầu Tu đến, nổi giận nói rằng :

Người ấy khi trước lấy trộm tiền bạc của ta, khiến cho ta thiếu thốn phải ăn xin Ở nước Tào và nước Vệ, bây giờ còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa ?

Nói xong, liến sai nội thị đuổi ra. Đầu Tu nói :

- CÓ phải chúa công đang gội đầu đó không ?

Nội thị giật mình kinh sợ, nói :

- Tại sao nhà ngươi lại biết ?

Đầu Tu nói :

- Người ta lúc gội đầu thì cúi đầu cong mình, vì vậy quả tim phải úp xuống ; mà quả tim đã lộn ngược như thế thì lời nói ra tất cũng điên đảo, bời thế mà không cho ta vào yết kiến. Ngày trước chúa công dung thứ cho Bột Đề, mà thoát được cái nạn Lã Di Xanh và Khước Nhuế, bây giờ lại không dung thứ Đầu Tu này được hay sao !

Đầu Tu đến đây tất là có kế sách giữ yên được nước Tấn, nếu chúa công không cho vào yết kiến thì Đầu Tu từ đây sẽ xin trốn đi !

Nội thị vội vàng vào tâu với Tấn Văn công. Tấn Văn công nói :

- ĐÓ là điều lỗi của ta !

Nói xong, liền đội mũ mặc áo chỉnh tề, rồi cho Đầu Tu vào yết kiến. Đầu Tu vào, sụp lạy xin lỗi, rồi nói với Tấn Văn công rằng :

Chúa công có biết bọn vây cánh của Lã Di Xanh và Khước Nhuế bao nhiêu người không ?

Tấn Văn công cau mày đáp rằng :

- Nhiều lắm !

Đầu Tu nói : .

- Bọn ấy tự nghĩ mình tội to, dẫu chúa công đã có lệnh đại xá rồi, nhưng vẫn đem lòng nghi ngại, chúa công nên nghĩ cách nào khiến chúng được yên tâm.

Tấn Văn công nói :

- Muốn chúng yên tâm thì dùng cách gì được ?

Đầu Tu nói :

- Ngày trước tôi lấy trộm tiền bạc của chúa công, khiến chúa công bị cơ khổ ; tội của tôi, người trong nước ai cũng biết cả, nay chúa công đi chơi, nên dùng tôi làm một người đánh xe, để người trong nước đều trông thấy biết là chúa công không nghĩ đếu điều thù oán cũ. Như vậy còn ai đem lòng nghi ngại nữa !

Tấn Văn công khen phải, rồi mượn cớ đi ra tuần thành, dùng Đầu Tu làm người đánh xe. Những vây cánh của Lã Di Xanh và Khước Nhuế trông thấy, đều thì thào bảo nhau :

Đầu Tu ngày trước lấy tiền bạc của chúa công, mà nay chúa công còn dung thứ, huống chi là người khác !

Từ bấy giờ không còn những tin đồn nhảm nữa. Tấn Văn công từ khi còn làm công tử, đã lấy hai vợ : người vợ thứ nhất là Từ Doanh, chết đi ; người thứ hai là Bức Cật, sinh được một trai tên là Hoan, và một gái tên là Bá Cơ, sau Bức Cật chết Ở đất Bồ. Lúc Tấn Văn công đi trốn, hai con là Hoan và Bá CƠ đều bỏ Ở đất BỒ cả ; bấy giờ Đầu Tu lại nhận lấy mà gửi nhà Toại thị (người đất Bồ) nuôi hộ. Một hôm, Đầu

Tu đem việc ấy nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công giật mình mà hỏi rằng :

- Ta tưởng hai đứa bé đã chết trong loạn lạc từ lâu rồi ! Sao đến bây giờ nhà ngươi mới nói ?

Đầu Tu nói :

- Chúa công chu du các nước, đến đâu lấy vợ Ở đấy, sinh hạ cũng được nhiều con ; công tử Hoan dẫu còn sống, nào biết chúa công có còn thương đến hay không ? Bởi vậy tôi chưa dám nói vội.

Tấn Văn công nói :

- Nếu nhà ngươi không nói thì thành ra ta mang tiếng là người bất từ.

Nói xong, liền sai Đầu Tu đến đất Bồ, trọng thưởng cho Toại thị, rồi đón công tử Hoan và Bá CƠ về, để cho nàng Hoài Doanh nhận làm con. Lại lập công tử Hoan làm thế tử và đem Bá CƠ gả cho Triệu Thôi, gọi là Tnệu Cơ.

Vua nước Địch nghe tin Tấn Văn công đã về nối ngôi, sai sứ đến chúc mừng, và đưa nàng Quý Ngỗi vế nước Tấn. Tấn Văn công hỏi Quý Ngỗi đã bao nhiêu tuổi. Quý Ngỗi nói :

Cách biệt trong tám năm nay, bây giờ thiếp đă ba mươi hai tuổi rồi !

Tấn Văn công nói bỡn rằng :

Còn may mà xa cách chưa đếu hai mươi nhăm năm.

Tề Hiếu công cũng sai người đưa nàng Khương thị về nước Tấn.

Tấn Văn công tạ ơn Khương thị. Khương thị nói :

Thiếp không phải là không muốn cảnh vợ chồng sum họp, nhưng sở dĩ bấy giờ thiếp muốn cho chúa công ra đi, chính là mong có ngày hôm nay đó.

Tấn Văn công đem những điều đức hạnh của Quý Ngỗi và Khương thị thuật lại cho Hoài Doanh nghe. Hoài Doanh cũng ngợi khen mãi, rồi xin nhường lại ngôi phu nhân. Bấy giờ Tấn Văn công định lại ngôi bậc Ở trong cung : đặt Khương thị làm phu nhân ; thứ hai đến Quý Ngỗi ; thứ ba mới đến Hoài Doanh. Triệu CƠ (tức là nàng Bá Cơ, con gái Tấn Văn công) nghe tin Quý Ngỗi về, cũng khuyên chồng là Triệu Thôi cho người đi đón mẹ con nàng Thúc Ngỗi. Triệu Thôỉ từ chối nói : .

Chúa công đã gả nàng cho ta, có đâu tôi còn dám nghĩ đến vợ con Ở nước Địch.

Triệu CƠ nói :

- Câu nói bạc đức ấy, thìếp không muốn nghe đâu ! Thiếp dẫu là con chúa công thật, nhưng Thúc Ngỗi lấy trước, và đã có con, lẽ nào phu quân lại yêu mới bỏ cũ cho đành ?

Triệu Thôi ngoài miệng dẫu bảo nghe lời nhưng trong lòng cũng chưa nhất quyết. Triệu CƠ liền vào cung, tâu với Tấn Văn công rằng :

Xin phụ thân bảo Triệu tướng quân đón nảng Thúc Ngỗi về, kẻo để cho con mang tiếng là người bất hiền.

Tấn Văn công sai người sang nước Địch đón mẹ con Thúc Ngỗi về. Triệu CƠ xin nhường Thúc Ngỗi làm vợ cả. Triệu Thôi nhất định không nghe. Tnệu CƠ nói :

- Người ta hơn tuổi mà lấy trước, thiếp ít tuổi mà lại lấy sau. Và thiếp nghe nói con nàng tên là Thuẫn, năm nay đã trưởng thành mà lại có tài vậy thiếp nên nhường là phải ; nếu phu quân không nghe thì thiếp xin về cung.

Triệu Thôi bất đắc dĩ lại đem lời nói của Triệu CƠ tâu với Tấn Vãn công. Tấn Văn công nói :

- Con gái ta biết nhường như thế là phải ?

Nói xong, liền truyền gọi mẹ con Thúc Ngỗi vào triều, rồi cho Thúc Ngỗi làm vợ cả Triệu Thôi. Thúc Ngỗi cũng cố ý xin từ chối. Tấn Văn công giảng giải mãi, nói đó là ý muốn của Tnệu Cơ, Thúc Ngỗi mới chịu nhận. Bấy giờ Triệu Thuẫn mới mười bảy tuổi, mà học hành thông thái, lại giỏi nghề cưỡi ngựa bắn cung. Triệu Thôi lấy làm yêu

lắm. Sau Triệu CƠ cũng sinh được ba con là Triệu Đồng, Triệu Quát và Triệu Anh, nhưng tài giỏi đều không bằng Triệu Thuẫn.

Tấn Văn công ban thưởng cho những người có công phục quốc, chia ra làm ba hạng : một là những người tòng vong ; hai là những người tống khoản ; ba là những người nghênh hàng . Trong ba hạng ấy lại tùy theo người nào có công khó nhọc nhiều hay ít mà chia hơn kém : những người tòng vong thì Triệu Thôi và HỒ Yển đứng

đầu ; những người tống khoản thì Loạn Chi và Khước Tần đứng đầu ; những người nghênh hàng thì Khước BỘ Dương và Hàn Giản đứng đầu

Tấn Văn công lại đem năm đôi ngọc bích ban cho HỒ Yển, để đền lại viên ngọc bích ném xuống sông Hoàng Hà khi trước. Lại nghĩ đến HỒ Đột bị chết oan, truyến lập miếu Ở núi Mã Yên để thờ, đổi tên núi ấy là núi HỒ Đột. Tấn Văn công ban thưởng công thần xong, lại ra một tờ chiếu treo Ở cửa thành nói rằng : "Nếu người nào có công lao mà chưa được dự thưởng thì cho phép cứ tự nói ra".

HỒ Thúc nói với Tấn Văn công rằng :

Tôi theo chúa công, từ khi còn Ở đất Bồ, cho đếu khi chu du khắp các nước, lúc nào tôi cũng hầu hạ Ở bên cạnh, nay chúa công thưởng công cho những người tông vong mà khồng nhớ đến tôi, chẳng hay tôi có tội gì ?

Tấn Văn công nói :

- Trong bọn tòng vong : người nào lấy điều nhân nghĩa mà khuyên bảo ta thì là công đầu ; người nào vì ta mà bàn mưu lập kế thì là công thứ hai ; người nào xông pha mũi tên hòn đạn để giữ gìn cho ta thì là công thứ ba ; còn những người nào chỉ có công theo hầu khó nhọc mà thôi thì lại Ở dưới nữa. Vậy nên ta thướng cho ba hạng trên trước rồi sẽ đếu lần nhà ngươi.

HỒ Thúc thẹn mà lui ra. Tấn Văn công truyền đem vàng lụa trong kho ban thưởng cho tất cả các tôi tớ hầu hạ, ai cũng lấy làm bằng lòng. Chi có Ngụy Thù và Điên Hiệt cậy mình vũ dũng, thấy Triệu Thôi và HỒ Yển đều là văn thần, chỉ biết làm việc tư lệnh văn thư mà lại được trọng thưởng hơn mình, có ý không phục, thường vẫn

kêu ca oán giận. Tấn Văn công nể hai người có công lao, vậy nên không nói đến.

Giới Tử Thôi cũng là một người trong bọn tòng vong, nhưng tinh khí điềm đạm, từ khi mới về đến sông Hoàng Hà, thấy HỒ Yển có ý khoe công, đã lấy làm khinh bỉ, không muốn Ở lẫn với bọn ấy ; đến lúc Tấn Văn công lên nối ngôi, Giới Tử Thôi chỉ vào chúc mừng một lần đầu, rồi cáo ốm về nhà, yẽn phận nghèo khổ, vẫn đi khâu giày thuê để lấy tiền nuôi mẹ già. Khi Tấn Văn công ban thưởng công thần, không thấy Giới Tử Thôi, cũng quên đi mất, không hỏi đến.

Người láng giềng của Giới Tử Thôi là Giải Trương, thấy Giới Tử Thôi không được thưởng, có ý không bằng lòng ; lại thấy trên cửa thành có yết một tờ chiếu nói : "Nếu người nào có công lao mà chưa được dự thưởng thì cho phép cứ tự nói ra" bèn vội vàng gọi cửa, báo tin cho Giới Tử Thôi biết. Giới Tử Thôi chỉ mỉm cười mà không nói gì cả. Bà mẹ Ở dưới bếp nghe tiếng, bảo Giới Tử Thôi rằng :

Mày khó nhọc trong mười chín năm trời, đã từng cắt thịt đùi để dâng chúa công, sao bây giờ mày không nói ra mà lĩnh thưởng, họa may được một vài chung thóc, chẳng côn hơn đi khâu giày thuê hay sao !

Giới Tử Thôi nói :

- Các con Hiến công, cả thẩy chín người, chỉ có chúa công là hiền hơn cả. Huệ công và Hoài công không có đức, vậy nên trời truất ngôi mà để cho chúa công. Các người theo hầu, không biết ý trời, dám tự nhận là công mình, con nghĩ lấy làm xấu hổ lắm, chảng thà đi khâu giày mà ăn còn hơn ?

Bà mẹ nói :

Mày dẫu không muốn làm quan, cũng nên vào yết kiến một lần, để khỏi uổng cái công lao cắt thịt đùi ngày trước.

Giới Tử Thôi nói :

- Con đã không muốn làm quan thì còn vào yết kiến làm gì !

Bà mẹ nói :

- Con làm được một người liêm sỉ, có lẽ nào ta lại không làm được bà mẹ người liêm sỉ hay sao ! Vậy thì mẹ con ta tìm nơi rừng núi mà ẩn thân, chớ nên Ở chỗ này.

Glới Tử Thôi mừng lắm, nói :

Con vẫn yêu chỗ Miên Thượng là một nơi núi cao hang sâu, nay con xin đem mẹ đến Ở đấy.

Nói xong, liền cõng bà mẹ đến đất Miên Thượng, làm nhả trong hang mà ở. Láng giềng hàng xóm không ai biết là Giới Tử Thôi đi đâu cả, chỉ một mình Giải Trương biết mà thôi. Giải Trương bèn viết một bức thư, đang đêm đem đến treo Ở cửa triều. Sáng hôm sau, có một cận thần bắt được, đem vào dâng Tấn Văn công. Tấn Văn công mở ra đọc Trong thư nói :

CÓ một con rồng. khi còn hoạn nạn cô thế, đàn rắn đi theo, chu du thiên hạ. Rồng không có ăn. một rắn cắt đùi. nay rồng trở về đã được yên sở. Đàn rắn theo vào, đều sung sướng cả, chỉ có một con, chẳng ai hỏi đến !"

Tấn Văn công đọc xong, giật mình nói rằng :

Đây là Giới Tử thôi oán giận ta đó ? Khi trước ta qua nước Vệ không có ăn, Giới Tử Thôi cắt thịt đùi để dâng ta, nay ta ban thưởng công thần mà quên mất Giới Tử Thôi, ấy là một điều lỗi của ta vậy.

Bèn sai người đi triệu Giới Tử Thôi. Khi người ấy đến nơi thì thấy Giới Tử thôi đã đi mất rồi. Tấn Văn công truyền bắt những người láng giềng, để hỏi xem Giới Tử thôi đi đâu ; ai biết chỉ dẫn thì thưởng cho làm quan. Giải Trương bèn tâu với Tấn Văn Công rằng :

- Bức thư ấy không phải là của Giới Tử Thôi, chính là của tôi làm thay đó ! Giới Tử Thôi không muốn cầu thưởng, đă cõng mẹ vào ẩn Ở trong hang núi ở đất Miêu Thượng, vậy nên tôi viết bức thư ấy để nhắc chúa công nhớ đến Giới Tử Thôi đó.

Tấn Văn công nói :

- Nếu không có bức thư ấy thì có lẽ ta quên mất cái công của Giới Tử Thôi.

Nói xong, liền cho Giải Trương lảm chức hạ đại phu ; lại bắt Giải Trương đưa đường cho mình vảo Miên Thượng để tìm Giới Tử Thôi Khi vào đến nơi thì chỉ thấy núi xanh rừng rậm, nước chảy mây bay, tiếng chim chiu chít, vách đá dội vang, mả chẳng thấy tông tích Giới Tử Thôi đâu cả. Quân sĩ tìm được mấy người làm ruộng gần đấy

Tấn Văn công gọi đến trước mặt mà hỏi.

Người làm ruộng nói :

- Mấy hôm trước, chúng tôi có trông thấy một người cõng một bà cụ già ngồi nghỉ Ở núi này, vốc nước suối cho bà cụ uống ; xong lại cõng bà cụ trèo lên trên núi, rồi sau không biết đi đâu !

Tấn Văn công truyền đỗ xe Ở dưới chân núi, sai người đi tìm kiếm các nơi. Trong mấy ngày trời, chẳng thấy Giới Tử Thôi đâu cả.

Tấn Văn công có sắc giận trên mặt, bảo Giải Trương rằng :

- Sao Giới Tử Thôi giận ta đến thế ? Ta nghe nói Tử Thôi là người chí hiếu, nếu ta đốt khu rừng này đi thì y tất phải cõng mẹ chạy ra.

Ngụy Thù nói :

- Trong bọn tòng vong, nhiều người có công lao, há phải một mình Giới Tử Thôi đâu ! Nay Giới Tử Thôi cố tình đi ẩn, khiến chúa công phải khó nhọc, đợi khi nào hắn tránh lửa mà chạy ra đây, tôi sẽ làm cho hắn phải xấu hổ.

Nói xong, truyền cho quân sĩ phóng hỏa đốt cả mấy phía rừng. Lửa to gió mạnh, khu rừng cháy lan đến mấy dặm, trong ba ngày mới tắt ; nhưng Giới Tử Thôi nhất định không ra, hai mẹ con ôm nhau, chết Ở dưới gốc cây liễu. Quan sĩ tìm được đống xương, Tấn Văn công trông thấy thì động lòng mà ứa nước mắt, bèn truyền cho quân sĩ đem chôn Ở chân núi, rỗi lập miếu thờ, bao nhiêu ruộng xung quanh núi đều để làm tự điền cả, đổi tên núi gọi là Giới Sơn. Ngày hôm đất rừng, đang là tiết thanh minh mồng ba tháng ba. Sau người trong nước nhớ đến Giới Tử Thôi chết cháy, nên đến ngày hôm ấy không nỡ đốt lửa, phải làm sẵn lương khô để ăn, gọi là tiết hàn thực" nghĩa là ngày hôm ấy cấm lửa, chi ăn đồ nguội. Tiết hàn thực, nhà nào cũng cắm cành liễu Ở ngoài cửa, để chiêu hồn Giới Tử Thôi, cũng có nhà lảm cỗ và đốt giấy để cúng tế.

Tấn Văn công đã ban thưởng cho công thần rồi, lại chinh đốn các việc chính trị trong nước, thu dùng những người có đức có tài, cứu giúp những người nghèo khổ, từ bấy giờ trong nước mỗi ngày một cường thịnh Chu Tương vương sai quan thái tế là Chu công Khổng và quan nội sứ là Thúc Hưng đến gia phong, Tấn Văn công tiếp đãi một

cách long trọng khác thường. Thúc Hưng về tâu với Chu Tương vương rằng :

Tấn hầu tất làm bá chủ các nước chư hầu, ta phải thân thiện với Tấn mới được.

Từ đó Chu Tương vương sơ với nước Tề mà thân với nước Tấn.

Bấy giờ Trịnh Văn công cậy thế nước SỞ để hà hiếp các nước yếu, thấy vua nước Hoạt thần phục nước Vệ mà không thần phục nước Trịnh, liẻn đem quân đi đánh nước Hoạt. Vua nước Hoạt sợ hãi, phải xin giảng hòa. Nước Trịnh mới rút quân về. Khi nước Tnnh đã rút quân về rồi, vua nước Hoạt trở lại thần phục nước Vệ như trước, nhất định không theo Trịnh. Trịnh Văn công giận lắm, sai công tử Sĩ Tiết làm chánh tướng, ĐỖ Dũ Di làm phó tướng, lại cử đại binh sang đánh nước Hoạt.

Vệ Văn công bấy giờ đang thân mật với thiên tử nhà Chu liễn đem việc Trịnh Văn công đánh nước Hoạt vào tâu với Chu Tương vương. Chu Tương vương sai quan đại phu là Du Ty Bá đến nước Trịnh mà giảng giải hộ cho nước Hoạt.

Trinh Văn công nổi giận, nói :

Trịnh và Vệ có khác gì nhau, sao thiên tử nhà Chu lại trọng nước Vệ mà khinh nước Trịnh thế !

Trịnh văn công liền bất Du Ty Bá giam lại một chỗ, để đợi khi đách tan nước Hoạt rồi, bấy giờ sẽ tha. Du Ty Bá bị bắt, những người theo hầu trốn về báo tin cho Chu Tương vương biết. Chu Tương vương nổi giận mắng rằng :

- Trịnh hầu khinh trẫm quá lắm, trẫm tất phải báo thù. Nói xong liền hỏi các quan trong triều rằng :

- CÓ ai dám vì trẫm mà đến hỏi tội Trịnh hầu hay không ?

Hai quan đại phu là Đồi Thúc và Đào Tử nói với Tương vương rằng :

- Nước Trịnh từ khi đánh được tiên vương ta ngày xưa càng không sợ hãi gì cả, nay lại cậy thế nước Sở, dám bắt cả sứ thần của thiên tử. Nay ta đem binh hỏi tội, chưa chắc thắng nổi. Tôi thiết tưởng nên mượn quân nước Địch thì mới đánh được Trịnh.

Quan đại phu là Phú Thần can rằng :

- Không nên ! Trịnh hầu dẫu vô đạo, nhưng là nước thân thuộc với ta, tổ tiên ngày xưa cũng có công với nhà Chu ta nhiều lắm ; còn nước Địch là một nước rợ mọi không thân thuộc gì, ta quyết không nên mượn quân nước Địch.

Đồi Thúc và Đào Từ nói :

- Vua Vũ vương ta ngày xưa đi đánh nhà Thương, các nước rợ mọi đều đến giúp cả, cứ gì phải nước cùng họ mới được

Tương vương khen phải, rồi sai Đồi Thúc và Đào Tử sang bảo vua nước Địch cử binh đi đánh Trịnh. Vua nước địch vâng mệnh, rồi giả cách đi săn, lẻn vào địa giới nước Trịnh, chiếm cứ lấy đất lịch Thành, rồi sai sứ theo Đồi Thúc và Đào Tử sang nhà Chu để báo tin thắng trận. Tương vương nói :

: Nước địch có công với trẫm, nay nhân hoàng hậu mới mất, trẫm muốn lấy con gái nước Địch, các ngươi nghĩ thế nào ?

Đồi Thúc và Đào Tử nói :

Tôi nghe nói người nước Địch có câu hát rằng : "Thúc Ngỗi trước và Thúc Ngỗi sau, nhan sắc rực rỡ như ngọc châu ý nói nước Địch có hai người con gái đều tên gọi Thúc Ngỗi, mà nhan sắc đều tuyệt vời cả Thúc Ngỗi trước là con gái nước Cao Như, đâ gả cho vua nước Tấn rồi ; còn Thúc Ngỗi sau là con gái vua nước Địch, hiện nay

vẫn chưa lấy chồng, xin nhà vua cho sang hỏi.

Tương vương mừng lắm, lại sai Đồi Thúc và Đào Tử sang nước Địch hỏi Thúc Ngỗi. Vua nước Địch sai người đưa Thúc Ngỗi đến. Chu Tương vương muốn lập làm hoàng hậu. Phú Thần lại can rằng :

Nước Địch có công thì nhà vua nên ban thưởng, chứ lập con gái nước Địch làm hoàng hậu thì còn ra thể thống nào nữa ! Tôi e rằng nước Địch tất có lòng dòm dỏ.

Tương vương không nghe, liền lập Thúc Ngỗi làm hoàng hậu.

Ngỗi hậu (tức là Thúc Ngỗi) có nhan sắc, nhưng không có đức hạnh, khi Ở Địch vẫn thích nghề cưỡi ngựa bắn cung, thường theo vua nước Địch đi săn, ngày nào cũng cùng với các tướng sĩ dong chơi, không câu nệ gì ; nay làm hoàng hậu nhà Chu, Ngỗi hậu cả ngày Ở trong cung, không được đi đến đâu, lấy làm khó chịu, một hôm nói với Tương vương rằng :

Thiếp từ thuở bé vẫn tập nghề cưỡi ngựa bắn cung, thân phụ thiếp cũng không cấm đoán gì cả, nay thiếp Ở trong cung, lâu ngày không đi đến đâu, sinh ra đau ốm. Sao thiên tữ không đi săn, để thiếp theo hầu.

Tương vương đang yêu Ngỗi hậu, nàng nói gì cũng nghe lời, liền sai quan thái sử chọn ngày để đi săn Ở núi Bấc Khâu. Tương vương muốn cho Ngỗi hậu được vui lòng, mới hạ lệnh treo giải thưởng cho những người săn đưọc nhiều cầm thú.

Các vương tử, vương tôn nghe lệnh, đều đua nhau đi đuổi bắn các giống cầm thú để lĩnh thưởng. Trong bọn lĩnh thưởng có một người giỏi bắn, săn được nhiều hơn cả là vương tử Đái.

Vương tử Đái mặt mũi khôi ngô, hình dong tuấn tú, trông rõ là một bậc quý nhân, tức là thứ đệ của Chu Tương vương, ngườ trong nước đều gọi là Thái thúc. Năm trước vương tử Đái đã lập mưu muốn tranh ngôi, nhưng không làm xong ; lại đi triệu quân Sơn Nhung về đánh nhà Chu, đến lúc việc tiết lộ ra, sợ tội trốn sang nước Tề. Sau bà

Huệ hậu hai ba. lần nói với Tương vương, xin tha tội cho. Phú Thần cũng khuyên tương vương nên lấy lòng nhân từ mà xử với anh em.

Bời vậy tương vương bất đắc dĩ lại cho triệu Đái về. Bấy giờ trong bọn đi săn, vương tử Đái được lĩnh phần thưởng thứ nhất, Ngỗi hậu trông thấy, đem lòng yêu dấu, lại nói với Tương vương rằng :

Hôm nay trời hãy còn sớm, xin thìên tử cho thiếp đi săn bắn chơi một lúc, để cho gân cốt được khỏe mạnh.

Chu Tương vương nghe lời, liền truyền cho quân sĩ sửa soạn các đồ săn bắn để Ngỗi hậu đi săn. Ngỗi hậu cởi áo gấm dài ra, để lộ một cái áo cánh ngắn đã mặc sẵn, rồi khoác thêm một áo giáp nhẹ, mình đeo túi tên, tay cầm súng đỏ, trông thật xinh đẹp. Tương vương trông thấy cũng phải thích ý mà tủm tỉm cười. Quân sĩ sắp xe để Ngỗi hậu đi Ngỗi hậu nói với tương vương rằng :

- Đi xe không tiện bằng cưỡi ngựa, các thị nữ Ở nước Địch theo hầu thiếp sang đây, đều biết cưỡi ngựa cả, xin thiên tử cho thiếp cưỡi ngựa một phen. .

Tương vương truyền chọn các con ngựa tốt đem đến cho Ngỗi hậu và các thị nữ cưỡi. Ngỗi hậu sắp sửa lên ngựa, Tương vương lại ngăn lại mà bảo rằng :

Khoan đã ! Để trẫm chọn xem trong các vương tử có người nào cưỡi ngựa giỏi, cho đi theo hộ vệ hoàng hậu.

Vương tử Đái xin đi. Các thị nữ đều cưỡi ngựa xúm xít chung quanh Ngỗi hậu đi một bọn trước, còn vương tử Đái cưỡi ngựa theo sau.

Đi được một quãng, vương tử Đái giục ngựa lên trước, theo kịp Ngỗi hậu, rồi hai người cùng thi tài phóng ngựa vòng qua sườn núi. Khi hai người đi đều nhau, Ngỗi hậu dừng cương lại mà khen vương tử Đái rằng :

Vương tử thật là một bậc kỳ tài ! Thiếp nghe tiếng đã lâu, bây giờ mới đưọc giáp mặt.

Vương tử Đái ngồi trên mình ngựa cũng cúi đầu mà đáp lại rằng :

Tôi cũng mới học cưỡi ngựa, còn kém hoàng hậu muôn phần !

Ngỗi hậu nói :

Sáng mai vương tử nên vào cung bà Huệ hậu, để vấn an, rồi thiếp sẽ nói chuyện.

Nói chưa dứt lời thì bọn thị nữ đã cưỡi ngựa đến, Ngỗi hậu liếc mắt đưa tình nhìn vương tử Đái. Vương tử Đái se sẽ gật đầu, rồi quay ngựa lùi lại. Vừa lúc bấy giờ Ở chân núi có một đàn hươu nai chạy ra.

Vương tử Đái bắn luôn hai phát, được một hươu, một nai. Ngỗi hậu cũng bắn trúng một hươu. Mọi người đều vỗ tay reo mừng.

Ngỗi hậu quay ngựa trở về. Tương vương ra đón. Ngỗi hậu đem con hươu dâng nộp tương vương. Vương tử Đái cũng dâng nộp một hươu và một nai. Tương vương bằng lòng, thu quân trở về, rồi ban yến cho các quan triều thần, rất là vui vẻ.

Ngày hôm sau, Vương tử Đái vào cung Huệ hậu, giả cách vấn an, đã trông thấy Ngỗi hậu Ở đấy rồi. Ngỗi hậu đem tiền bạc đút lót tất cả các cung nhân, cấm không được nói hở cho ai biết, rồi ngay hôm đó cùng với vương tử Đái tư thông Ở trong .một phòng riêng. Hai bên cùng nhau quyến luyến, khi từ giã ra về, Ngỗi hậu lại dặn vương tử Đái rằng :

- Thỉnh thoảng vương tử vào cung thăm thiếp nhé !

Vương tử Đái nói :

Tôi chỉ sợ thiên tử sinh nghi thì làm thế nào ?

Ngỗi hậu nói :

- Thiếp có thể che chở được, vương tử chớ ngại.

Các cung nhân đều biết chuyện cả, chỉ vì vương tử Đái là con yêu của Huệ hậu và việc này cũng quan hệ đếu thể thống, vậy nên không ai dám nói ra. Huệ hậu cũng biết vậy, lại dặn các cung nhân không được nói. Các cung nhân được nhiều tiền thưởng đều có ý che chở cho vương tử Đái, bởi vậy vương tử Đái ngày nào cũng Ở trong cung, suốt đêm đến sáng, mà Tương vương vẫn không biết gì cả.

Trong bọn cung nữ có một người tên gọi Tiểu Đông, nhan sắc cũng khá, mà lại hiểu âm luật. Một hôm, vương tử Đái đang cùng với Ngỗi hậu uống rượu, sai Tiểu Đông thổi ống ngọc tiêu, vương tử Đái lại theo nhịp mà hát ; đến lúc vương tử Đái rượu say, có ý lả lơi, giơ tay nắm lấy áo Tiểu Đông để trêu ghẹo. Tiểu Đông sợ hãi, cời áo bỏ chạy.

Vương tử Đái giận lắm, rút gươm đuổi theo, toan giết Tiểu Đông. Tiểu Đông vội vàng chạy đến cung Tương vương, kể hết những chuyện vương tử Đái tư thông với Ngỗi hậu. Tương vương tức khắc cầm thanh bảo kiếm để đi giết vương tử Đái.

hồi 38

Chu tương vương tránh sang nước khác

Tấn Văn công thu phục lòng dân

Nhưng nhà vua bỗng nghĩ:

- vương tử Đái là con yêu của thái hậu (tức là Huệ hậu) nếu ta giết đi người ngoài không biết, tất cho ta là người bất hiếu. Và vương tử Đái vũ nghệ giỏi lắm, vị tất ta đã giết nổi, chi bằng hãy chịu nhịn đợi đến sáng mai, xét được sự thực, bấy giờ sẽ trị tội Ngỗi hậu, tự khắc vương tử Đái xấu hổ mà phải trốn đi nước khác.

Tương vương thở dài một tiếng rồi ném thanh bảo kiếm xuống đất lại trở về cung, sai nội thị đi dò thám xem tình hình vương tử Đái ra sao. Nội thị về bảo rằng :

Vương tử Đái biết Tiểu Đông vào báo với thìên tử, vậy đã tức khắc trốn đi rồi.

Tương vương nói :

- Ra vào cửa cung, không có bẩm mệnh, đó cũng là tại trẫm không phòng bị từ trước.

Sáng hôm sau, Tương vương truyền bắt các thị nữ trong cung ra để tra hỏi thì người nào cũng chối cả. Sau gọi Tiểu Đông ra đối chứng, bấy giờ các thì nữ mới thú nhận, đem tình hình trước sau nói hết với Tương vương. Tương vương truyền bắt Ngỗi hậu giam vào lãnh cung, khóa chặt cửa lại, chỉ cho khoét một lỗ thủng để đưa cơm nước mà thôi Vương tử Đái sợ tội, trốn sang nước Địch. Huệ hậu lo phiền, từ bấy giờ cũng thành bệnh ốm. Đồi Thúc và. Đào Tử nghe thấy Ngỗi hậu bị truất, giật mình kinh sợ mà nói rằng :

Ngày trước hai ta phụng mệnh thiên tử sang mượn quân nước Địch để đánh nước Trịnh, sau hai ta lại phụng mệnh thiên tử sang xin cưới Ngỗi hậu, nay Ngỗi hậu bị truất, tất nhiên vua Địch có ý căm tức. Vả vương tử Đái trốn sang nước Địch, tất nhiên cũng kiếm chuyện để xui giục vua Địch, một mai vua Địch đem quân sang hỏi tội

thì hai ta biết nói làm sao ?

Hai người tức khắc đánh xe đi theo vương tử Đái, để bày mưu lập kế sang nói với vua nước Địch. Khi đi đến nước Địch, Đồi Thúc và Đảo Tử vào trước nói với vua nước Địch rằng :

- Ngày trước nước tôi vì vương tử Đái mà sang thình hôn, thiên tử nghe nói Thúc Ngỗi là người đẹp mới chiếm lấy rồi lập làm hoàng hậu. Nhân một hôm Thúc Ngỗi đến thăm thái hậu (tức là Huệ hậu) gặp vương tử Đái, vương tử Đái bèn nói lại chuyện cũ, bị lũ cung nhân đặt điều gièm pha với thiên tử, thiên tử chẳng nghĩ đến cái công khó nhọc quý quốc đánh Trịnh khi trước mà đem hoàng hậu giam vào lãnh cung, rồi đuổi vương tử Đái đi, như thế thật là một người phụ bạc. Xin quý quốc đem quân sang đánh, mà lập vương tử Đái lên làm

vua để cứu lấy hoàng hậu.

Vua nước địch tin lời, liền hỏi :

-Vươngtử đái bâygiờ ở đâu?

Đồi Thúc và Đào Tử nói : .

- Hiện nay đang Ở ngoài cõi.

Vua nước Địch sai đón vào, rồi cho quan đại tướng là Xích Đinh cùng với Đồi Thúc và Đào Tử đem quân giúp vương tử Đái về đánh nhà Chu. Chu Tương vương nghe tin quân nước Địch đến đánh, sai quan đại phu là Đàm Bá đem việc vương tử Đái làm loạn nói với Xích Đinh Xích Đinh chém chết Đàm Bá, rời thần đường tiến sang nhà

Chu.

Chu Tương vương nổi giận, sai quan khanh sĩ là Nguyên Bá Quán làm chánh tướng, Mao Vệ làm phó tướng đem lên ra đối địch.

Nguyên Bá Quán biết quân nước địch mạnh hơn, không thể đánh nổi, mới bày cho quân sĩ lập kế cố thủ, không ra nghênh chiến. Xích Đinh giận lắm, liền lập kế làm một cái chòi cao Ở Thủy Vân sơn, trên cắm cờ hiệu thiên tử, cho một người ăn mặc giả làm vương tử Đái, Ngỗi uống rượu Ở trên chòi, và bắt các thị nữ múa hát LẠI sai đồi

Thúc và Đào Tử, mỗi người đem một nghìn quân phục sẵn Ở sườn núi, đợi khi quân nhà Chu đến thì nghe hiệu súng nổ đổ ra mà đánh. Lại sai con lả Xích Phong Tử đem năm trăm quân đến cửa dinh Nguyên Bá Quán khiêu chiến, rồi giả cách thua chạy để dụ đến Thúy Vân sơn.

Khi Xích Phong Tử đem năm trăm quân đến khiêu chiến, Nguyên Bá Quán thấy quân ít, toan đổ ra đánh, Mao Vệ can rằng :

= Nước địch hay gian dối lắm, ta nên cẩn thận, chớ ra đánh vội, hãy đợi cho khi nào quân giặc mỏi mệt, bấy giờ sẽ đánh.

Trưa hôm ấy, quân Địch giả cách mỏi mệt, xuống ngựa Ngỗi la liệt Ở dưới đất, cũng có kẻ lại nằm nhoài ra nữa, vừa nằm vừa xỉ mắng Nguyên BÁ Quán là người hèn nhát. Nguyên BÁé Quán tức giận, đem quân ra cùng với Xích Phong Tử giao chiến. Đánh chưa được mười hợp, Xích Phong Tử giả cách thua chạy. Nguyên Bá Quán đuổi theo.

Khi đến gần Thúy Vân sơn, Nguyên Bá Quán trông thấy vương tử Đái đang uống rượu Ở trên chòi, xung quanh có kéo cờ cắm tàn rất là rực rỡ, liền nổi giận mắng rằng :

-đứa nghịch tặc kia tất chết về tay ta! . .

Nói xong, tức khắc xông lên để đánh. Bỗng nghe tiếng súng nổ, quân giặc Ở hai bên sườn núi đổ ra : phía tả có Đồi Thúc, phía hữu có Đào Tử, cùng đánh áp lại. Nguyên Bá Quán biết là trúng kế, vội vàng cởi áo bào ra, rồi lẩn vào trong đám loạn quân chạy trốn. Trong đám loạn quân có người hỏi Nguyên Bá Quán rằng : .

Tướng quân ơi ?.Chạy đi đườngnào bây giờ?

Đồi Thúc nghe tiếng, biết là có Nguyên Bá Quán Ở đây, vội vàng cố sức đuổi theo, bắt được hơn ba mươi người, Nguyên Bá Quán cũng bị bắt. Mao Vệ nghe tin Nguyên BAé Quán thua trận, tức khắc cho người về phi báo với chu tương Vương để Xin thêm quân tiếp viện . đồi Thúc đem Nguyên Bá Quán vệ nộp vương tử Đái. Vương tử Đái truyền giam lại một chỗ, Đôi Thúc nói : .

- Nay Nguyên BÁ Quán đã bị bắt, Mao Vệ tất sợ mất vía, nếu đêm nay ta dùng kế hoả công đem quân tiến đánh thì thế nào cũng bắt được Mao Vệ. .

Vương tử Đái khen phải, rồi nói với Xích Đinh. Đêm ấy Xích Đinh đem quân đến đốt phá dinh Mao Vệ. Đồi Thúc và Đáo Tử cũng đem quân xông vào. Mao Vệ biết sức không địch nổi, vội vàng mở cửa sau chạy trên. Đi được một quãng, lại gặp quân vương tử đái. Vương tử đái quát to lên rằng :

- Mao Vệ ! Mày chạy đường nào cho thoát ?

Nói xong liền cầm giáo đâm chết Mao Vệ. Quân nước Địch toàn thắng rồi vây kín kinh thành nhà Chu. Chu Tương vương nghe tin Nguyên Bá Quán và Mao Vệ bi bắt, bảo Phú Thần rằng :

- Cũng bởi trẫm không nghe lời nhà ngươi, mà nên nỗi này !

Phú Thần nói :

- Nay quân địch khí thế hung tợn lắm, xin thiên tử hãy tạm tránh đi, chắc thế nào chư hầu cũng có kẻ vì công nghĩa mà đem quân ảo trừ quân giặc.

Chu công Khổng nói :

Tôi thiết tưởng đem hết quân sĩ ra, còn có thể cố đánh một trận nữa, can gì phải bỏ mà đi.

Thiệu Công Quá nói :

Như tôi thiển nghĩ việc này là bởi Ngỗi hậu gây nên, xin thiên tử trị tội mà giết đi, rồi cố thủ để đợi quân chư hầu đến, thế là vẹn toàn.

Tương vương thở dài mà than rằng :

Vì trẫm bất minh, để gây nên tai vạ ! Nay thái hậu (tức là Huệ hậu) đang ốm nặng, trẫm hãy tạm tránh đi để cho yên việc, rồi tùy ý chư hầu.

Tương vương lại báo Chu Công Không và Thiệu Công Quá rằng :

- Vương tử Đái đem quân về đây là chỉ vì Ngỗi hậu mà thôi, nhưng nếu vương tử Đái chiếm lấy Ngỗi hậu, tất sợ người trong nước chê cười, chắc không dám ở chốn kinh thành, thế thì trẫm cũng sẽ lại về được, hai ngươi cứ vững dạ.

Chu Công Không và Thiệu Công Quá sụp láy xin vâng mệnh, Tương vương hỏi Phú Thần rằng :

Địa giới nhà Chu ta, chỉ tiếp giáp ba nước là Trịnh, Vệ và Trần, nay trẫm nên sang nước nào ?

Phú Thần nói :

Vệ và Trần đều là nước yếu cả, chi bằng ta sang nước Trịnh là hơn.

Tương vương nói :

Ngày trước trẫm đã mượn quân nước địch sang đánh nước Trịnh, chẳng lẽ Trịnh lại không oán trẫm hay sao ?

Phú Thần nói :

Tôi khuyên nhà vua sang nước Trịnh, chính vì việc ấy đó ! vì rằng tiên tổ nước Trịnh vẫn có công với nhà Chu ta, thì con cháu tất cũng không quên nhà chu ta được, mới rồi, nhà vua mượn quân nước Địch sang đánh nước Trịnh, nước Trịnh dẫu có ý không bằng lòng, nhưng vẫn ngày đêm mong cho nước Địch làm phản nhà Chu, để tỏ mình là một nước không trái đạo với thiên tử. Bây giờ nhà vua sang Trịnh thì Trịnh tất vui lòng mà nghênh tiếp, còn oán nỗi gì !

Tương vương mới quyết định trốn sang nước Trịnh. Phú Thần lại nói :

Nay nhà vua trốn đi, giả sử quân Địch cố sức đuổi theo .thì biết làm thế nào, để tôi xin đem hết bà con thân thuộc ra mà ngăn cản quân Địch mới được.

Phú Thần gọi hết con em họ hàng được vài trăm người, đem ra đánh nhau với quân Địch. Tương vương cùng với bọn Gián Sư Phủ và Tạ Yên Phủ hơn rnười người, thẳng đường trốn sang nước Trịnh. Phú Thần đánh nhau với Xích Đinh, giết được quân nước Địch nhiều lắm.

Phú cũng bị trọng thương, lại gặp Đồi Thúc và Đào Tử đến. Đổi Thúc vả Đào Tử bảo Phú Thần rằng :

Trước kia nhà ngươi lấy lời nói trung mà can thiên tử, điều ấy thiên hạ đều biết cả, vậy thì ngày nay nhà ngươi cũng không cần phải chết để tỏ lòng trung của mình nữa.

Phú Thần nói :

Ngày trước ta can, mà thiên tử không nghe, nên đến nỗi như thế này ! Nếu bây giờ ta không cố sức chết mà đánh thì thiên tử tất cho ta là không thực lòng.

Nói xong, lại cố đánh một phen, sức kiệt mà chết tại trận. Con em họ hàng cũng chết hơn ba trăm người. Phú Thần chết rồi, quân nước Địch mới biết là Chu Tương vương đã mở cửa thành đi trốn. Khi quân nước Địch tới nơi thì cửa thành bị đóng. Vương tử Đái truyền giải Nguyên Bá Quán đến, bắt gọi mở cửa thành. Chu Công Khổng và Thiệu Công Quá đứng ở trên mặt thành bảo vương tử Đái rằng :

Chúng tôi vẫn muốn mở cửa thành ra đón, sợ quân nước Địch tiến vào cướp phá, vậy nên không dám.

Vương tử Đái nói với Xích Đinh, xin cho quân nước Địch đóng ở ngoài thành, rồi sau sẽ đem tiền bạc ở trong kho ra để khao thưởng.

Xích Đinh thuận cho. Vương tử Đái tiến vào kinh thành, trước hết đến ngay lãnh cung. thả Ngỗi hậu ra, rồi sau vào yết kiến Huệ hậu, Huệ hậu đang ốm, trông thấy vương tử Đái, mừng quá cười sặc lên mà chết. Vương tử Đái không làm ma vội, còn vào cung để tự tình với Ngỗi hậu ; lại đi tìm Tiểu Đông để giết. Tiểu Đông sợ tội, đã đâm đầu xuống giếng mà chết rồi !

Ngày hôm sau, vương tử Đái mạo xưng có di mệnh của Huệ hậu, lên ngôi thiên tử, và lập Ngỗi hậu làm hoàng hậu ; lại đem tiền bạc trong kho ra khao thưởng cho quân nước Địch, rồi cất tang Huệ hậu. Người nhà Chu nhân chuyện này có đặt thành một bài hát để chế nhạo vương tử Đái. Đái nghe thấy bài hát, biết là lòng dân không

phục, sợ sinh biến loạn, mới đem Ngỗi hậu dời sang ở đất ôn ấp, rỗi sửa sang cung thất để ngày đêm cùng với Ngỗi hậu vui chơi ; còn bao nhiêu việc chính trị, giao cho Chu Công Khổng và Thiệu Công Quá tất cả Vương tử Đái tiếng là làm thiên tử, nhưng không cùng với thần dân tiếp kiến bao giờ. Nguyên Bá Quán thừa cơ trốn về Nguyên

thành. Chu Tương vương đi đến Dĩ Thành, ở đấy nhiều trúc mà không có nhà công quán, người ta gọi là Trúc Xuyên. Tương vương hỏi thăm, biết là đã đến địa giới nước Trịnh, mới vào ngủ nhờ trong cái nhà tranh của một kẻ nông phu là Phong thị. Phong thị hỏi :

- chẳng hay ngài là quan chức gì ?

Tương vương nói :

- Trẫm là thiên tử nhà Chu, vì trong nước có giặc, nên phải tránh nạn đến đây.

Phong thị giật mình kinh sợ, sụp lạy xin lỗi mà rằng :

- Em hai tôi đêm qua nằm mộng thấy ánh mặt trời đã chiếu vào trong nhà, quả nhiên hôm nay có quý nhân đến !

Nói xong, liền sai người em đi giết gà thổi xôi để dâng lên vua.

Tương vương không biết đấy là em Phong thị, mới hỏi :

- Người ấy là ai thế?

Phong thị nói :

Đấy là người em khác mẹ với tôi vẫn cùng ở đây với tôi, để phụng dưỡng mẹ già.

Tương vương thở dài mà than rằng :

Anh em nhà ngươi là nhà làm ruộng mà cùng nhau hòa thuận được như thế ? Trẫm làm thiên tử mà lại bị người em cùng mẹ cư xử chẳng ra gì ; trẫm không bằng kẻ nông phu nhiều lắm

Tương vương nói xong, buồn lòng mà ứa nước mắt. Quan đại phu là Tả Yên Phủ nói :

- Ngày xưa Chu công là bậc đại thánh mà trong anh em cũng còn bất hòa với nhau, vậy xin nhà vua chớ thương tâm, nên mau mau truyền hịch đi bảo các nước chư hầu biết.

Tương vương bèn viết thư, sai người đi bảo với các nước : Tề, Tắng, Trần, Trịnh và Vệ. Trong thư đại lược nói rằng :

Trẫm nay không có đức, để đến nỗi em ruột là vương tử Đái nổi loạn, phải tránh sang đất Dĩ Thành thuộc thuộc Trịnh. vậy xin bố cáo cho các nuớc được biết?

Giản Sư Phủ nói :

- Các nước ngày nay, chỉ có Tần và Tấn là muốn làm bá chủ ; nước Tần có bọn Kiến Thúc và Bách Lý Hề ; nước Tấn có bọn Triệu Thôi và HỒ Yển, bọn này tất biết khuyên vua nước mình làm những việc công nghĩa, còn các nước khác thì không trông cậy gì được !

Tương vương liền sai Giản Sư Phủ sang bảo nước Tấn, và Tả Yên Phủ sang báo nước Tần. Trịnh Văn công nghe tin Chu Tương vương tránh sang Dĩ Thành, cười mà nói rằng :

Ngày nay thiên tử mới biết nước Địch không bằng nước Trịnh.

Nói xong, tức khắc sai người sang Dĩ Thành dựng nhà công quán để rước Chu Tương vương vào ở rồi vào yết kiến vấn an Chu Tương vương. Bao nhiêu phẩm vật khí dụng, cần dùng cho nhà vua, nước Trịnh đều cung cấp đầy đủ cả. Chu Tương vương trông thấy Trịnh Văn công, có ý thẹn. Các nước LỖ vả Tống cũng đều sai sứ đến

vấn an và dâng các vật phẩm ; chỉ có Vệ Văn công không đến.

Quan đại phu nước LỖ là Tang Văn Trọng nghe nói Vệ Văn công không đến, bèn thở dài mà than rằng :

Vua nước Vệ sắp đến ngày chết. Chư hầu phải biết có thiên tử, cũng như cây phải có gốc, nước phải có nguồn ; cây không gốc tất héo, nước không nguồn tất khô, tài nào mà không chết !

Đến năm sau, Vệ Văn công chết, thế tử Thịnh lên nối ngôi, tức là Vệ Thành công, quả đúng như lời nói của Tang Văn Trọng.

Giản Sư Phủ phụng mệnh Chu Tương vương sang bảo Tấn Văn công, Tấn Văn công hỏi HỒ Yển. HỒ Yển nói :

- Tề Hoàn công ngày xưa, làm nên được sự nghiệp bá chủ, là vì biết giúp thiên tử nhà Chu ; nay thiên tử nhà Chu có nạn, nếu nước Tấn ta không giúp thì nước Tần tất giúp. Nước Tần đã giúp thì sự nghiệp bá chủ về tay nước Tần mất !

Tấn Văn công sai Quách Yển bói một quẻ. Quách Yển bói được quẻ tốt, Tấn Văn công liền cử đại binh đi gúp thiên tử nhà Chu. Khi Tấn Văn công sắp đi, lại nghe tin Tần Mục công cũng đã cử đại binh đi giúp nhà Chu, hiện đang đóng quân Ơû trên sông Hoàng Hà. Hồ Yển nói :

- Vua nước Tần vẫn có chí muốn giúp thiên tử nhà Chu, nay còn đóng quân Ơû trên sông Hoàng Hà là chỉ vì chưa có lối nào mà đi qua các nước Đông Di được. Bây giờ chúa công nên sai người sang bảo các nước Đông Di để xin mượn đường rồi lại sai người sang bảo vua nước Tần rằng nước Tấn ta đây cử đại binh đi rồi, thế thì quân nước Tần tất phải rút về.

Tấn Văn công khen phải, một mặt sai HỒ Xạ CÔ đem vàng bạc sang lễ các nước Đông Di để xin mượn đường ; còn một mặt sai Tư Thần đến trên sông Hoàng Hà nói với Tần Mục công. Tư Thần phụng mệnh Tấn Văn công vào nói với Tần Mục công rằng :

- Thiên tử tránh nạn Ơû ngoài, quý quốc lấy làm lo thì chúa công tôi cũng lấy làm lo. Hiện nay chúa công tôi đã xin cử đại binh để thay quý quốc vào giúp thiên tử, không dám phiền đến quý quốc phải đi xa xôi khó nhọc làm gì ?

Tần Mục công nói :

Ta sợ rằng Tấn hầu mới lập, chưa đủ quân để giúp thiên tử, vậy phải vội vàng đến đây, nay Tấn hầu đã cử đại binh đi giúp thiên tử thì ta đây chỉ việc Ngỗi yên mà chờ đợi tin mừng.

Kiền Thúc và Bách Lý Hề đều nói :

- Việc này là một việc đại nghĩa, vua nước Tấn sợ chúa công chia mất cái danh dự ấy, nên sai người đến nói để làm ngăn trở quân ta, chi bằng ta cứ tiến binh cùng với nước Tấn cùng giúp thiên tử Tần Mục công nói :

- Ta cũng biết việc này là một việc hay, nhưng quân ta không tiện đường đi, chỉ ngại rằng các nước Đông Di đem lòng ngăn trở. Nay Tấn hầu mới lên ngôi, nếu không có công trạng gì thì sao giữ yên được nước ; thôi thì ta nhường cho Tấn hầu.

Nói xong, liền sai công tử Chí theo Tả Yên Phủ đến Dĩ Thành để thăm Chu Tương vương, rồi lại rút quân về nước Tần. Tư Thần đem tin Tần Mục công lui quân về báo với Tấn Văn cồng. Tấn Văn công truyền tiến binh đến đất Dương Phàn. Quan trấn thủ Ơû đất Dương Phàn ra ngoài cõi nghênh tiếp. Tấn Văn công sai bọn Khước Tần đem quân vây đất ôn ấp ; lại sai bọn Triệu Thôi sang Dĩ Thành đón Chu Tương vương trở về kinh thành. Chu Công Khổng và Thiệu Công Quá mở cửa thành đón Tương vương vào.

Người đất ôn ấp nghe tin Chu Tương vương đã trở về kinh thành, liền họp nhau lại giết chết Đồi Thúc và Đào Tử, rồi mở toang cửa thành để đón quân nước Tấn vào. Vương tử Đái vội vàng đem Ngỗi hậu lên xe, tìm đường trốn sang nước Địch, nhưng quân sĩ đóng cửa lại, không cho ra. Vương tử Đái rút gươm chém chết mấy người.

Ngụy Thù vừa đi đến, quát to lên rằng :

- Thằng nghịch tặc kia, mày định chạy đi đằng nào ?

Vương tử Đái nói :

- Nhà ngươi tha cho ta trốn, ngày khác ta xin đến ơn.

Ngụy Thù nói :

Hỏi thiên tử có tha cho nhà ngươi, thì ta sẽ nới tay ?

Vương tử Đái nổi giận, rút gươm ra đâm. Ngụy Thù liền nhảy ngay lên xe, chém chết vương tử Đái. Quân sĩ bắt được Ngỗi hậu, đem đến nộp Ngụy Thù. Ngụy Thù nói :

- NÓ là một đứa dâm phụ, còn để làm gì !

Nói xong, truyền cho quân sĩ bốn phía cùng giương cung một lúc mà bắn chết Ngồi hậu. Ngụy Thù đem hai cái xác vương tử Đái và Ngồi hậu đến nộp Khước Tần. Khước Tần nói :

- Sao ông bắt được, lại không đóng cũi đem nộp, để thiên tử trị tội ?

Ngụy Thù nói :

Thiên tử tránh cái tiếng giết em, vậy mới mượn tay nước Tấn ta, thế thì ta giết ngay đi là hay lắm.

Khước Tần truyền đem chôn hai cái xác ấy, rồi sai người đến đất Dương Phàn để báo tin cho Tấn Văn công biết. Tấn Văn công nghe tin vương tử Đái và Ngồi hậu đã bị giết rồi, liền vào kinh thành yết kiến Chu Tương vương để báo tin thắng trận. Chu Tương vương bày tiệc thết đãi, lại đem vàng lụa ra tạ ơn. Tấn Văn công sụp lạy mà nói rằng :

- Trùng Nhĩ này không dám nhận vàng lụa, chỉ xin nhà vua gia ơn cho lúc chết được an táng theo lễ toại đạo thì Trùng Nhĩ này lấy làm đội ơn vô cùng.

Chu Tương vương nói :

Tiên vương ngày xưa đặt ra lễ phân biệt trên dưới, chỉ quan hệ Ơû những lúc sinh tử ấy, trẫm không dám vì ơn riêng mà bỏ phép công ; nay thúc phụ có công lớn, trẫm không dám quên, trẫm xin đem đất ôn, đất Nguyên, đất Dương Phàn và đất Toàn Mao để gia phong cho thúc phụ.

Tấn Văn công cáo từ lui ra. Dân nhà Chu già trẻ lớn bé kéo nhau đi xem mặt Tấn Văn công, đứng chật ních cả đường cái, đều thì thào bảo nhau rằng :

- Ngày nay lại thấy có Tề Hoàn công ?

Tấn Văn công sai Ngụy Thù đến nhận địa giới đất Dương Phàn, sai Điên Thiệt đến nhận địa giới đất Toàn Mao, sai Loan Chi đến nhận địa giới đất ôn, còn đất Nguyên thi Văn công thân hành đến để nhận.

Bởi vì đất Nguyên là phong ấp của Nguyên Bá Quán ; Nguyên Bá Quán vì cớ đánh giặc bị thua, nên vua nhà Chu đòi lại mà thưởng cho Tấn Văn công, Tấn Văn công sợ Nguyên Bá Quán không chịu, vậy phải thân hành đem quân đến. điên Thiệt đến Toàn Mao, Loan Chi đến đất ôn. Quan trấn thủ Ơû đất Toàn Mao và đất ôn đều mở cửa

thành ra nghênh tiếp. Còn Ngụy Thù đến đất Dương Phàn thì quan trấn thủ Ơû đấy là Xương Cát bảo những người dưới rằng :

Nhà Chu còn được bao nhiêu đất mà gia phong cho nước Tấn nhiều như vậy ta với Tấn hầu cùng là bề tôi nhà Chu, sao ta chịu phục ?

Nói xong, liền đem quân lên mặt thành để chống giữ. Ngụy Thù giận lắm, vây kín cả bốn mặt thành, rồi hạ lệnh rằng :

- Nếu không chịu hàng thì giết sạch cả !

Xương Cát đứng trên mặt thành trả lời rằng :

Đất Dương Phàn này là chỗ kinh kỳ, dân trong thành phần nhiều là họ hàng thân thích của thiên tử nhà Chu. Quý quốc cũng là bề tôi nhà Chu, sao lại tàn nhẫn đến thế ?

Ngụy Thù nghe lời, trong lòng cảm động, sai người báo với Tấn Văn công. Tấn Văn công bèn viết một bức thư đưa cho Xương Cát.

Trong thư đại lược nói rằng :

"Đất này là của thiên tử gia phong cho, nên tôi không dám trái mệnh, nếu tướng quân nghĩ đến họ hàng thân thích cửa thiên tử mà muốn đem dân đi nên khác thì tôi cũng xin tùy ý tướng quân ?

Tấn Văn công lại sai người đến bảo Ngụy Thù hãy hoãn binh, không nên đánh vội. Xương Cát tiếp được thư, liền truyền cho dân trong thành rằng :

- Ai muốn về nhà Chu thì đi, ai muốn theo nước Tấn thì ở.

Dân trong thành xin đi đến quá nửa. Xương Cát dời số dân ấy đến đất Chi Thôn. Ngụy Thù vào nhận lấy địa giới đất Dương Phàn.

Tấn Văn công và Triệu Thôi đem quân đến đất Nguyên, Nguyên Bá Quán nói dối những người dưới rằng :

- Quân nước Tấn vây đất Dương Phàn, đem dân ở đây giết sạch Dân đất Nguyên sơ hãi, quyết chí chống lại quân nước Tấn.

Quân nước Tấn bổ vây, Triệu Thôi bảo Tấn Văn công rằng :

- Dân không phục nước Tấn ta là vì nước Tấn ta chưa có điều gì tín nghĩa cả ; nay chúa công nên giữ lấy tín nghĩa thì không đợi phải đánh mà tự khắc dân phục.

Tấn Văn công nói :

Muốn giữ tín nghĩa thì phải làm thế nào ?

Triệu Thôi nói

- Xin chúa công hạ lệnh cho quân sĩ, mỗi người phải giữ lương ăn trong ba ngày, nếu ba ngày không hạ được thành Nguyên thì giải vây về nước.

Tấn Văn công theo lời. Đến ngày thứ ba quân sĩ bảo rằng :

Còn ngày hôm nay nữa thì hết lương ăn.

Tấn Văn công chẳng nói gì cả. Đến đêm hôm ấy, dân Nguyên trèo qua thành ra nói với Tấn Văn công rằng :

- Chúng tôi đã hỏi tin, biết là dân Dương Phàn không bị giết bao giờ ; vậy đến ngày mai, chúng tôi xin mở thành để đón chúa công.

Tấn Văn công nói :

- Hôm trước ta đây có hẹn trong ba ngày, nếu không đánh được đất Nguyên thì tức khắc giải vây rút về ; hôm nay đã là ba ngày rồi thì sáng mai thế nào ta cũng rút quân.

Quân sĩ đều can rằng :

Dân đất Nguyên đã định đến ngày mai mở cửa thảnh để đón chúa công vào thì chúa công nên tạm lưu lại một ngày nữa, dẫu có hết lương xin cho người sang Dương Phàn lấy, cũng chẳng xa gì !

Văn công nói :

- Tín nghĩa là một điều quý, ta đã hạ lệnh, hạn trong ba ngày, ai lại không biết, nếu nay lại tạm lưu một ngày nữa thì là người thất tín, dẫu có được đất Nguyên, cũng không ích gì !

Sáng sớm hôm sau, Tấn Văn công liền truyền giải vây rút quân về nước.

Dân đất Nguyên bảo nhau rằng :

- Tân hầu không thất tín thật là một ông vua có đức. Và những người dòng dây trèo xuống thành để đi theo vua Tấn cứ liên tiếp nối nhau mãi không hết. Nguyên Bá Quán không thể nào ngăn cấm được nữa, cũng phải mở cửa thành xin hàng. Quân nước Tấn đi đã được ba mươi dặm, dân đất Nguyên theo kịp ; Nguyên Bá Quán cũng viết thư đến xin hàng. Tấn Văn công truyền đóng quân lại một chỗ, rồi một mình đi xe vào thẳng trong thành. Dân trong thành thấy Tấn Văn công đều vui mừng nhảy múa. Tấn Văn công đãi Nguyên Bá Quán theo lễ khanh sĩ, cho Ơû đất Hà Bắc, lại sai Triệu Thôi làm quan trấn thủ Ơû đất Nguyên, kiêm lĩnh đất Dương Phàn và Khước Tần làm trấn thủ Ơû đất ôn, kiêm lĩnh đất Toàn Mao. Tấn Văn công từ khi cử đại binh đi giúp thiên tử nhà Chu, và giữ tín nghĩa với dân đất Nguyên, mới có cớ làm được bá chủ.

hồi 39

Triển Hỉ hỏi kế Liễu Hạ Huệ

Ngụy Thù đốt nhà Hỉ Phụ Cơ

Tề Hiếu công bấy giờ đang có ý muốn làm bá chủ, vẫn định dùng binh lực mà khôi phục lại sự nghiệp của Tề Hoàn công thuở trước, mới họp các quan đại phu lại mà hỏi rằng :

- Đang đời tiên quân ta là Hoàn công ngày xưa, năm nảo cũng đánh đông dẹp bắc ; nay ta cứ ngồi yên một chỗ, khác nào như người nằm trong vỏ ốc, không biết bên ngoài có việc chi cả, ta lấy làm xấu hổ. lắm ! Ta còn nhớ năm trước vua nước LỖ định giúp VÔ Khuy mà chống cự với ta, ta chưa báo được cái thù ấy, nay nước LỖ phía bắc kết giao với Vệ, phía nam kết giao với Sở, giả sử đem quân sang đánh ta thì ta lấy gì định lại cho nổi ? Bây giờ nước LỖ đang gặp năm mất mùa, ta muốn thừa cơ mà đánh trước đi, các ngươi nghĩ thế nào ?

Quan trường khanh là Cao HỔ nói :

Nước LỖ đang có nhiều nước giúp, ta đánh vị tất đã nổi.

Tề Hiếu công nói :

- Ta hãy thử sang đánh để xem chư hầu có đồng lòng với nước LỖ hay không ?

Tề Hiếu công liền cử binh sang xâm phạm phía bắc nước Lỗ, quân sĩ phi báo với LỖ Hi công. Quan đại phu là Tang Tôn Thần nói với LỖ Hi công rằng :

- Quân Tề sang đánh ta là có ý muốn báo thù, ta vị tất đã chống lại nổi, xin chúa công sai sứ ra từ tạ là hơn.

LỖ Hi công nói :

- Biết ai là người khéo ứng đối mà sai đi bây giờ ?

Tang Tôn Thần nói :

- Tôi xin cử một người là con quan tư không VÔ Hại đời trước, tên gọi Triển Hoạch, tên tự là Tử Cầm, làm quan sĩ sư, được phong Ơû Liễu Hạ, người ấy văn nhã ôn hòa, biết nhiều nghĩa lý, chỉ vì làm quan không hợp thói đời, nên mới từ chức bỏ về, nếu sai người ấy làm sứ thần ra nói với vua Tề thì vua Tề tất phải kính trọng.

LỖ Ki công nói :

- Ta cũng có nghe tiếng người ấy, chẳng hay bây giờ Ơû đâu ?

Tang Tôn Thần nói :

Hiện nay vẫn Ơû Liễu Hạ.

LỖ Hi công sai người đến triệu Triển- Hoạch. Triển Hoạch cáo ốm không đi được. Tang Tôn Thần nói :

- Triển Hoạch có người em tên gọi Triển Hỉ, dẫu quan chức còn nhỏ nhưng cũng có tài ứng đối nay sai Triển Hỉ đến nhà Triển Hoạch mà hỏi xem nên dùng cách nào để ứng đối với vua nước Tề.

LỖ hi công nghe lời. Triển Hỉ đến Liễu Hạ, vào yết kiến Triển Hoạch, thuật lại chủ ý của LỖ Hi công. Triển Hoạch nói :

Vua Tề đem quân sang đánh ta là có ý muốn nối sự nghiệp Tề Hoàn công ngày trước, nhưng không biết rằng muốn làm bá chủ thì trước hết phải đón phù thiên tử nhà Chu ; nay ta đem di mệnh của tiên vương ngày xưa mà trách vua Tề thi thiếu gì cách nói.

Triển Hỉ về nói với LỖ Hi công rằng :

Tôi đã hỏi được cách để ứng đối với vua Tề rồi.

LỖ Hi công đã sắp sẵn lễ vật để sai Triển Hỉ đi thương thuyết với Tề. Triển Hỉ đi đến phía nam sông Vấn, gặp tiền đội quân nước Tề, bèn xin với tướng tiên phong là Thôi Yến, đến yết kiến Tề Hiếu công. Thôi Yến đưa Triển Hỉ nói với Tề Hiếu công rằng :

- Chúa công tôi nghe tin xa giá nhà vua sắp sang qua địa giới nước tôi, vậy sai tôi đưa lễ vật sang kính biếu tướng sĩ nhà vua.

Tề Hiếu công nói :

- Người nước LỖ nghe tin ta đem quân sang đánh, có sợ hãi hay không ?

Triển Hỉ cười mà đáp rằng :

- Bọn tiểu nhân thì cũng có người sự hãi, chứ những người quân tử thì không ai sợ hãi chút nào cả.

Tề Hiếu công nói :

- Nước nhà ngươi, quan văn thì không có ai trí mưu như Thi Bá ; quan vũ thì không có ai vũ dũng như Tào Quệ ; vả nước nhà ngươi đang gặp năm mất mùa, ngoài đồng không có cây cỏ nào được xanh tốt, thế thì còn cậy vào đâu mà chẳng sợ hãi ?

Triển Hỉ nói :

Nước tôi không chắc cậy vào điều gì cả, chỉ chắc cậy vào di mệnh của tiên vương mà thôi ; tiên vương nhà Chu ngày xưa phong Thái công Ơû nước Tề, phong tiên quân tôi là Bá Cầm ở nước Lỗ, khiến hai nước cắt máu mà thề với nhau rằng : "Con cháu sau đời đời cùng giúp nhà Chu, chớ có làm hại lẫn nhau ? Lời thề ấy còn giao cho quan thái sử cất đi. Tề Hoàn công làm nên bá chủ, cũng vì biết hội chư hầu Ơû đất Kha để cùng nhau giúp thiên tử ; nay nhà vua lên ngôi đã được chín năm, người nước tôi vẫn mong nhà vua lại sửa sang bá nghiệp của Tề Hoàn công thuở trước. Bằng nay bỏ di mệnh của tiên vương, trái lời thề của Thái công, để đến nỗi không giữ được bá nghiệp của Tề Hoàn công thuở xưa thì tôi dám chắc rằng nhà vua tất không như thế.

Bời vậy mà nước tôi không lấy gì làm sợ hãi.

Tề Hiếu công nói :

Nhà ngươi về nói với LỖ hầu, ta xin cùng với nước LỖ giao hảo, không dùng binh nữa.

Nói xong, liền rút quân về. Triển Hỉ về nói với LỖ Hi công. Tang Tôn Thần nói :

- Quân Tề dẫu lui, nhưng có ý khinh ta, tôi xin cùng với Trọng Toại mượn quân nước Sở để đánh nước Tề.

LỖ Hi công lấy làm phải, liền sai Trọng Toại làm chánh. Tang Tôn Thần làm phó, đi sứ nước Sở. Tang Tôn Thần có quen nhau với tướng nước Sở là Thành Đắc Thần, mới nhờ Thành đắc Thần nói với Sở Thành vương rằng :

- Nước Tề bội ước Ơû đất Lộc Thượng, nước Tống giao chiến Ơû sông Hoàng Thủy, đều lả cừu địch với nước Sở cả ; nếu đại vương muốn đem quân hỏi tội hai nước ấy thì nước tôi xin đem quân làm tiên phong.

Sở Thành vương mừng lắm, liễn sai Thành Đắc Thần làm chánh tướng, Thúc Hầu làm phó tướng, đem quân sang đánh Tề, chiếm lấy đất Dương Cực, lấy đất ấy mà phong cho con Tề Hoàn công là công tử Ung và sai Thúc Hầu đóng đồn Ơû đấy để làm thanh viện cho nước Lỗ. Thành Đắc Thần thắng trận, thu quân về triều. Quan lệnh

doãn là Tử Văn, bấy giờ tuổi đã già rồi, xin nhường quyền chính lại cho Thành Đắc Thần. Sở Thành vương nói :

- Ta giận nước Tống, hơn giận nước Tề ; Thành Đắc Thần đã vì ta đánh nước Tề rồi, nhà ngươi nên vì ta đánh nước Tống, để báo thù cho nước Trịnh, sau khi đánh được Tống rồi, bấy giờ nhà ngươi sẽ từ chức. -

Tử Văn nói :

- Tài trí tôi kém Thành Đắc Thần xa lắm, xin đại vương cho Thành Đắc Thần thay tôi, tất có thể giúp đại vương đánh Tống được.

Sở Thành vương nói :

- Nước Tống đang thần phục nước Tấn, nay ta đánh Tống thì nước Tấn tất cứu, nếu không phải tay nhà ngươi thì sao địch nổi Tấn và Tống được, nhà ngươi nên vì ta mà giúp việc ấy.

Nói xong, liền sai Tử Văn ra duyệt binh Ơû đất Khuê (đất nước Sở) để tuyên thị quân pháp. Tử Văn muốn làm tỏ tài trí của Thành Đắc Thần, nên hôm duyệt binh, chỉ làm qua loa xong việc mà thôi, cả buổi sáng chẳng phạt một người nào. Sở Thành vương nói :

- Nhà ngươi ra duyệt binh mà không phạt một người nào thì sao cho có uy được ?

Tử Văn nói :

- Tôi ngày nay đã già yếu lắm rồi, nếu đại vương muốn lập uy thì tất phải dùng Thành Đắc Thần mới được.

Sở Thành vương liền sai Thành Đắc Thần ra duyệt binh Ơû đất Vi (đất nước Sở). Thành Đắc Thần ra duyệt binh, hiệu lệnh rất nghiêm, kẻ nào trái phép, đều trị tội cả. Trong một ngày hôm ấy, bảy người bị đánh và ba người bị xâu tai. Sở Thành vương mừng lắm, nói :

Thành Đắc Thần thật là có tài làm tướng.

Tử Văn lại xin nhường quyền chính cho Thành Đắc Thần. Sở Thành vương nghe lời, liền cho Thành đắc Thần làm lệnh doãn, kiêm giữ chức nguyên soái. Các quan triều thần đều đến nhà Tử Văn để chúc mừng về việc tiến cử Thành Đắc Thần, chỉ có quan đại phu là Vi Lã Thần nhân ốm không đến. Tử Văn bày tiệc để thết đãi. Khi việc đã được nửa chừng, có người vào báo với Tử Văn rằng :

- CÓ một cậu bé con Ơû ngoài cửa xin vào yết kiến.

Tử Văn cho vào. Cậu bé khi vào đến nơi, chắp tay cúi đầu để chào rồi đi đến chỗ cuối chiếu mà ngồi. Trong khi ngồi ăn thì cậu bé có ý không coi ai ra gì. Người ta nhìn kỹ mới biết là con trai Vi Lã Thần, tên gọi Vi Giả, mới mười ba tuổi. Tử Văn lấy làm lạ, hỏi rằng :

Ta tiến cử cho nước được một đại tướng, các quan triều thần đều chúc mừng cả, sao nhà ngươi lại không chúc mừng ?

Vi Giả nói :

Các ngài cho là một việc nên mừng, tôi thiết tưởng là một việc nên lo !

Tử văn nổi giận mà hỏi rằng :

- Tại sao nhà ngươi lại bảo là một việc nên lo ?

Vi Giả nói :

Thành Đắc Thần là một người vũ dũng mà không có tài quyết đoán, chỉ có thể dùng trong việc chiến tranh mà thôi, chứ giao cả quyền chính cho thì tất có ngày sinh hại. Tục ngữ có câu rằng : "Cứng quá thì gãy" tức là Thành Đắc Thần ngày nay đó ? Ngài tiến cử một người có thể làm hỏng việc nước, còn mừng nỗi gì ! Nếu sau nầy người

đó không làm hỏng việc nước thì bấy giờ tôi sẽ mừng, cũng chưa lấy gì làm muộn kia mà ?

Các quan đều nói rằng :

Đứa bé con ấy nói càn, chả nên nghe làm gì !

Vi Giả cười rầm lên mà lui ra. Các quan triều thần đều tan về cả Ngày hôm sau, Sở Thành vương cho Thành Đắc Thần làm thống tướng, cử đại binh cùng với quân Trần, Sái, Trịnh và Hứa cùng sang đánh Tống, vây đất Mân ấp. Tống Thành công sai quan tư mã là công tôn CỐ sang cáo cấp với Tấn Văn công. Tấn Văn công họp các quan

triều thần lại để thương nghị. Tiên Chẩn nói :

- Hiện nay nước Sở hoành hành thiên hạ là nước mạnh hơn cả. Sở lại có ơn riêng với chúa công. Nay nước Sở đánh Tề và Tống, sinh sự Ơû trung nguyên, ấy là lòng trời xui khiến để chúa công nêu được cái danh tiếng là cứu kẻ hên yếu ; sự nghiệp bá chủ, cũng bởi Ơû một việc này !

Tấn Văn công nói :

- Ta muốn cứu nước Tề và nước Tống thì nên làm thế nào ?

HỒ Yến nói :

- Nay Sở đang kết thân với Tào và Vệ, mà hai .nước ấy lại đều là cừu địch với chúa công ; nếu chúa công đem quân đi đánh Tào và Vệ thì tất Sở phải sang cứu, mà không quấy nhiễu nước Tề và nước Tống được nữa.

Tấn Văn công khen phải, liền đem mưu ấy bảo công tôn CỐ về nói trước với Tống Thành công, để Tống thành công cứ vững lòng mà chống giữ với quân Sở. Công tôn cố Vâng mệnh trở về Tống. Tấn Văn công lo ít quân, bàn với Triệu Thôi.

Triệu Thôi nói :

- Vua Vũ công ta ngày xưa Ơû đất Khúc ốc, mới có một đạo quân, đến đời Hiến công thêm lên hai đạo, mà mở rộng bờ cõi kể hàng nghìn dặm, huống chi nước Tấn ta ngày nay, đã có ba đạo quân ; ngặt vì một điều dân chưa biết lễ nghĩa, khó hợp mà dễ tan, nay chúa công nên duyệt binh, để khiến cho dân biết thân yêu người trên, mới có thể dùng quân đi đánh các nước được.

Tấn Văn công nói :

Đã có ba đạo quân thì cần phải có một quan nguyên soái, bây giờ biết dùng ai cho được ?

Triệu Thôi nói :

Người làm tướng, có vũ dũng chẳng bằng có trí mưu, có trí mưu không bằng có học thức. Nay chúa công muốn tìm người có vũ dũng và trí mưu thì chẳng thiếu gì, nếu muốn tìm người có học thức thì tôi chỉ biết có một mình Khước Cốc mà thôi. Khước Cốc năm nay đã ngoài năm mươi tuổi, mà vẫn còn chăm học lắm. Đã chăm học tất

biết trọng nghĩa ; đã trọng nghĩa tất biết thương dân ; biết thương dân thì mới có thể làm đại tướng mà đem quân đi đánh giặc được.

Tấn Văn công khen phải, liền sai người triệu Khước Cốc, phong cho làm nguyên soái. Khước Cốc chối từ không nhận. Tấn Văn công nói :

- Ta đã biết tài của nhà ngươi thì nhà ngươi không nên từ chối.

Tấn Văn công cố ép mãi, Khước Cốc mời chịu nhận. Tấn Văn công sai chọn ngày ra duyệt binh Ơû đất Bị Lư, chia quân làm ba đạo :

trung quân, thượng quân và hạ quân, sai Khước Cốc làm chánh tướng Ơû đạo trung quân, mà lấy Khước Tần làm phó tướng, lại sai HỒ Yển làm chánh tướng Ơû đạo thượng quân. HỒ Yến chối từ mà nói rằng :

- CÓ anh tôi là HỒ Mao ở đấy, khi nào tôi là em, lại dám Ơû trên Tấn Văn công liền cho HỒ Mao làm chánh tướng Ơû đạo thượng quân, mà lấy HỒ Yến làm phó tướng. Lại sai Triệu Thôi làm chánh tướng Ơû đạo hạ quân. Triệu Thôi cũng từ chối. Tấn Văn công liền cho Loan Chi lâm chánh tướng Ơû hạ quân, mà lấy Tiên Chẩn làm phó tướng. Khước Cốc trèo lên tướng đài để tuyên bá hiệu lệnh, các tướng

đều tin phục cả. Bỗng có một trận gió to, làm gây lá cờ đại tướng. Các tướng đều giật mình kinh sợ. Khước Cốc bảo các tướng rằng :

- Gây lá cờ soái là cái triệu ứng vào chủ tướng, vậy ta chẳng được cùng với các người đồng sự bao lâu nữa, nhưng chúa công ta tất làm nên được bá nghiệp.

Các tướng đều hỏi tại sao. Khước Cốc chỉ cười mà không trả lời.

Đầu năm sau, Tấn Văn công bàn mưu với Khước Cốc để định đi đánh Tào và Vệ. Khước cốc nói :

- Tôi đã bàn định với Tiên Chẩn rồi ; nếu ta chia ra để đánh Tào và Vệ thì không địch nổi với quân Sở được. Nay ta nên mượn đường nước Vệ để sang đánh Tào, tất nhiên nước Vệ không nghe, vì nước Vệ đang giao hiếu với nước Tào, khi ấy ta sẽ đem quân qua sông Hoàng Hà, lẻn sang đánh nước Vệ. Đánh nước Vệ rồi, ta sẽ thừa thế mà kéo

sang nước Tào ; vua nước Tào vốn không được lòng dân, lại thấy nước Vệ thua mà sợ uy ta, thì tất ta phá vỡ được Tào.

Tấn Văn công mừng lắm, nói :

- Nhà ngươi thật là một tướng quân có học thức !

Tấn Văn công sai người sang mượn đường nước Vệ để đi đánh nước Tào. Quan đại phu nước Vệ là Nguyên Huyền nói với Vệ Thành công rằng :

- Khi trước vua Tấn còn đi trốn, có qua nước ta, bấy giờ tiên quân ta không nghênh tiếp ; nay sai người sang mượn đường để đánh Tào, nếu chúa công không nghe thì nước Tấn tất đánh nước Vệ ta trước

Vệ Thành công nói :

Ta cùng với Tào cùng thần phục Sở, nếu ta để cho Tấn mượn đường đánh Tào thì e rằng chưa được lòng Tấn mà đã mua oán với Sở. Nước Tấn giận thì ta còn trông cậy có nước Sở, chứ nước Sở giận thì ta biết trông cậy vào đâu ?

Vệ Thành công không cho nước Tấn mượn đường. Sứ nước Tấn về báo với Tấn Văn công. Tấn Văn công nói :

- Quả nhiên như lời bàn của quan nguyên soái. Tấn Văn công bèn đem quân ra sông Hoàng Hà, kéo thẳng đến đất Ngũ Lộc (đất nước Vệ). Tấn Văn công nói :

- Chỗ này là chỗ ngày trước Giới Tử Thôi cắt thịt đùi cho ta ăn đây ?

Nói xong mủi lòng mà ứa nước mắt. Các tướng đều cảm động và than thở. Ngụy Thù nói :

Chúng ta nên đánh lấy thành này ấp kia để rửa cái sỉ nhục năm xưa cho nhà vua, cần gì mà phải thở than ?

Tiền Chẩn nói với Tấn Văn công rằng :

Ngụy Thù nói phải lắm ! Xin chúa công cho tôi đem quân đi đánh thành Ngũ Lộc.

Ngụy Thù nói với Tiên Chẩn rằng :

- Để tôi giúp ông một tay.

Hai người lẽn xe ra đi.

Tiên Chẩn sai quân sĩ đem cờ đỏ cắm hết mọi nơi cao Ơû trong rừng núi. Ngụy Thù nói :

- Tôi thiết tưởng binh pháp nên phải bí mật mới được. Nay lại cắm cờ như vậy, khiến quân giặc biết trước mà phòng bị, chẳng hay là chú ý thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

Nước Vệ vốn thần phục nước Tề, bây giờ đổi ý mà theo nước Sở, người trong nước vẫn không thuận, chỉ sợ Trung quốc ta đem quân đến đánh ; nay chúa công ta muốn nối sự nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công thuở xưa thì phải thị uy trước mới được.

Dân thành Ngũ Lộc trông thấy cờ nước Tấn cắm khắp mọi nơi, chẳng biết quân Tấn nhiều hay ít, đều hoảng hốt trốn chạy cả, quan trấn thủ cũng không tài nào cấm nổi. Khi Tiên Chẩn kéo quân đến, không có ai chống giữ, liền chiếm ngay được thành Ngũ Lộc, rồi sai người báo tin cho Tấn Văn công. Tấn Văn công mừng lắm, bảo HỒ Yển rằng :

- Ngày xưa quốc cữu thấy đứa nông phu cho ta viên đất, bảo là cái triệu được đất, câu nói ấy đến bây giờ mới nghiệm !

Nói xong, liền cho một viên lão tướng là Khước BỘ Dương làm quan trấn thủ Ơû thành Ngu Lộc ; còn đại binh thì tiến lên đóng đất Vu Địa (đất nước Vệ). Quan nguyên soái là Khước Cốc bỗng nhiên bị ốm.

Tấn Văn công thân hành đến thăm. Khước Cốc nói :

- Tôi cảm ân tri ngộ của chúa công, vẫn định cố công ra sức để báo đền, nhưng mệnh trời có hạn, đã ứng vào cái triệu gẫy cờ ngày trước, vậy tôi xin có một lời để hiến chúa công.

Tấn Văn công nói :

- Khanh muốn nói câu gì, ta cũng xin vâng lời.

Khước Cốc nói :

Nay chúa công đánh Tào và Vệ, chẳng qua cũng là muốn kiềm chế nước Sở, nhưng muốn kiềm chế nước Sở thì tất phải kết liên với nước Tề và nước Tần. Nước Tề đang ghét Sở tất muốn kết liên với ta ; nếu nhà vua sai sứ sang nước Tề thì chắc là Tề hầu sẽ đem quân đến, như thế thì Tào và Vệ sợ mà phải xin hòa, bấy giờ ta sẽ dụ được nước Tần, ấy là cái kế sách hay nhất để kiềm chế nước Sở đó !

Tấn Văn công khen phải, liền sai sứ sang giao hiếu với Tề, xin hai nước cùng kết liên với nhau để chống Sở. Bấy giờ Tề Hiến công đã mất rồi, người trong nước lập em là Phan lên nối ngôi, tức là Tề Chiêu công Tề Chiêu công mới lên nối ngôi, vì cớ nước Sở chiếm lấy đất Cốc, chính đang muốn kết liên với Tấn để chống với Sở, mới thân hành sang Vu Địa hội với Tấn Văn công. Vệ Thành công thấy quân nước Tấn chiếm được đất Ngư Lộc, vội vàng sai Ninh Du (con Ninh Tốc) đến nói với Tấn Văn công xin giảng hòa. Tấn Văn công nói :

- Nước Vệ đã không cho ta mượn đường, nay sợ mà xin giảng hòa thì không là thực lòng, phen này ta quyết đem quân vào phá tan đất Sở Khâu ? (kinh thành nước Vệ).

Ninh Du về nói với Vệ Thành công. Bấy giờ trong thành Sở Khâu thường vẫn huyên truyền là quân Tấn sắp đến, một buổi chiều năm lần kinh sợ, Ninh Du bảo Vệ Thành công rằng :

Nước Tấn đang tức giận ta lắm, mà người nước ta lại sợ hãi, xin chúa công hãy tạm tránh đi ; nước Tấn biết chúa công đã đi, tất không đến đánh đất Sở Khâu nữa bấy giờ ta sẽ xin giảng hòa với Tấn để yên nước nhà.

Vệ Thành công thở dài mà than rằng :

Tiên quân ta không may mà đã thất lễ với Tấn hầu ; nay ta lại không minh, không cho nước Tấn mượn đường, đến nỗi di hại cho người trong nước, ta cũng chằng còn mặt mũi nào mả Ơû đây được nữa !

Vệ Thành công sai quan đại phu là Nguyên Huyền cùng với em là Thúc Vũ giữ lấy quyền chính trong nước, còn mình thì tránh ra Ơû đất Tương Ngưu ; một mặt lại sai quan đại phu là Tôn Viêm sang cầu cứu nước Sở.

Quan nguyên soái nước Tấn là Khước Cốc đau nặng rồi mất.

Tấn Văn công thương xót vô cùng, sai người đưa linh cữu về nước Tấn để an táng, rồi cho Tiên Chẩn thăng chức nguyên soái, vì có cái công lấy được thành Ngư Lộc ; lại cho Tư Thần thay Tiên Chẩn làm phó tướng đạo hạ quân. Tấn Văn công muốn diệt nước Vệ, Tiên Chẩn can rằng :

- Tề và Tống bị nước Sở ức chế, nên ta mới đem quân đi cứu, nay chưa cứu được Tề và Tống mà đã diệt nước Vệ, thế thì không phải là cái đạo bá chủ cứu giúp những nước hèn yếu ; huống chi vua Vệ đà trốn đi nơi khác rồi, chi bằng ta đem quân sang vây nước Tào.

Tấn Văn công nghe lời, đem quân sang vây nước Tào, Tào Cung công họp các quan triều thần lại để thương nghị. Quan đại phu là Hi Phụ Cơ nói :

- Vua nước Tấn đem quân tới đây là báo cái thù ngày xưa chúa công khinh bỉ, đến tận nơi mà xem xương sườn, tất trong lòng tức giận lắm, ta không thể lấy sức mà địch nổi. Dám xin chúa công cho phép tôi đi sứ để giảng hòa với Tấn, mà cứu cho dân trong nước khỏi khổ sở.

Tào Cung công nói :

Tấn đã không cho Vệ giảng hòa, khi nào lại cho ta giảng hòa ?

Quan đại phu là Vu Lang nói với Tào Cung công rằng :

- Tôi nghe khi trước vua Tấn qua nước ta, Hi Phụ Cơ có mời về nhà để thết đãi, nay lại xin đi sứ để giảng hòa, tất là có ý muốn bán nước, xin chúa công chớ nghe. Chúa công nên chém Hi Phụ Cơ trước, rồi tôi sẽ có mưu kế lui được quân Tấn.

Tào Cung công nói :

- Hi Phụ Cơ bàn việc nước mà bất trung, đáng lẽ phải chịu tội chết, nhưng ta nghĩ hắn là một thế thần, vậy hãy dung thứ cho mà cách chức đuổi về.

Hi Phụ Cơ lạy tạ về nhà, từ bấy giờ đóng cửa không đi đến đâu cả . Tào Cung công hỏi Vu Lang rằng :

- Bây giờ nhà ngươi có mưu kế gì lùi được quân Tấn không ?

Vu Lang nói :

Vua nước Tấn vừa thắng một trận, tất là kiêu căng, tôi xin làm một tờ mật thư ước với vua Tấn rằng đêm hôm nay sẽ mở cửa thành ra hàng, rồi phục binh sẵn chờ khi vua Tấn vào thì sập cửa thành xuống, rồi phục binh xúm lại mà bắn, không lo quân Tấn không tan tành ư !

Tào Cung công theo kế ấy, Vu Lang đưa thư cho Tấn Văn công xin làm nội ứng. Tấn Văn công tiếp được thư, toan tiến quân vào thành nước Tào. Tiên Chẩn nói :

Nước Tào cũng chưa thiệt hại gì mấy mà đã xin hàng, chắc đâu không phải là dối, để tôi xin thử xem.

Nói xong, liền chọn một người mặt đẹp râu dài, đội mũ mặc áo giả làm vua Tấn để tiến vào thành nước Tào. Bột Đề tình nguyện làm người đánh xe. Đêm hôm ấy, trên mặt thành Tào đều cắm cờ hàng, cửa thành lại mở toang ; quân Tấn chưa vào được một nửa, bỗng thấy cửa thành đóng sập lại, tên Ơû bốn phía bắn ra như mưa, Bột Đề và hơn hai trăm người đều chết sạch cả. Tấn Văn công năm trước đi qua nước Tào cũng nhiều kẻ biết mặt, nhưng trong lúc đang rối tinh, chẳng ai phân biệt được thật hay là giả, vẫn tưởng là Tấn Văn công chết rồi, mãi đến sáng rõ, mới biết là Tấn Văn công giả. Quân Tấn còn nhiều người chưa vào cửa thành, trốn về báo với Tấn Văn công. Tấn Văn công nổi giận, thúc quân đánh thật gấp. Vu Lang lại hiến kế với Tào

Cung công rằng :

Chúa công nên đem những quân Tấn ta bắn chết vừa rồi, căng xác lên trên mặt thành khiến cho quân Tấn trông thấy phải khiếp sợ, sinh lòng chán nản, ta cố kéo dài được mấy ngày nữa thì nước Sở tất đem quân đến cứu.

Tào Cung công nghe lời, Quân Tấn trông thấy trên mặt thành nước Tào có căng xác người Tấn, đều đem lòng căm tức. Tấn Văn công bảo Tiên Chẩn rằng :

- Giả sử quân ta thấy vậy mà sinh biếng thì biết làm thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

- Phần mộ nước Tào, nay đều chôn Ơû ngoài phía cửa tây cả, ta nên chia lấy một nửa quân, đến đóng Ơû đấy, giả cách sắp sửa khai quật những phần mộ ấy, để làm cho dân trong thành phải sợ, sợ thì tất loạn, bấy giờ ta sẽ thừa cơ tiến đánh.

Tấn Văn công khen phải, truyền cho quân sĩ nói phao lên rằng sắp sửa khai quật phần mộ của người nước Tào. Rồi sai HỒ Mao và HỒ Yển đem quân đến đóng Ơû ngoài cửa tây, sắp sẵn thuổng cuốc để đợi đến giờ ngọ hôm sau thì đào. Quân nước Tào nghe tin ấy, đều sợ hãi rối rít cả lên. Tào Cung công sai người trèo lên mặt thành nói với quân Tấn xin tha cho, đừng khai quật phần mộ, lần này tình nguyện

thật bụng đầu hàng. Tiên Chẩn cũng sai người trả lời rằng :

- Nước ngươi đánh lừa để giết quân ta, lại căng xác Ơû trên mặt thành, vậy nên quân ta tức giận, nhất định khai quật phần mộ nước ngươi để báo thù ; bây giờ nước ngươi nên đem xác quân ta khâm liệm tử tế mà đưa giả, thì ta sẽ rút quân trở về.

Người nước Tào trả lời rằng :

- Đã như vậy thì xin khoan hạn cho trong ba ngày !

Tiên Chẩn nói :

Nếu trong ba ngày mà không đem giả, ta sẽ làm nhục đến tổ tiên nhà các ngươi

Tào Cung công quả nhiên đem những xác quân Tấn Ơû trên mặt thành xuống, khâm liệm tử tế để rồi xe ra trả quân Tấn. Tiên Chẩn mật sai HỒ Mao, HỒ Yến, Loan Chi và Tư Thần chia làm bốn đạo quân để mai phục sẵn, đợi khi nào người nước Tào mờ cửa thành đưa những thi thể quân Tấn ra, bấy giờ sẽ tiến vào mà đánh. Đến ngày thứ tư Tiên Chẩn sai người đứng dưới chân thành quát to lên rằng :

Ngày hôm nay có trao trả thi thể quân ta hay không ?

Người nước Tào Ơû trên mặt thành trả lời rằng :

Xin quí quốc lui quân ra ngoài năm dặm, nước tôi sẽ giao trả. Tiên Chẩn nói với Tấn Văn công, xin lui quân ra ngoài năm dặm. Khi người nước Tào đang xe những thi thể quân Tấn ra thì các đạo phục binh của quân Tấn thừa cơ tiến vào. Tào Cung công đang đứng trên mặt thành. Ngụy Thù đứng trên xe nhảy một cái lên đến thành xỉa vào giữa bụng rồi đem trói lại. Vu Lang trèo qua thành trốn chạy, lại bị Điên Thiệt chém chết. Tấn Văn công cùng các tướng vào thành lên ngồi Ơû trên nhà lầu. Ngụy Thù giải Tào Cung công đến nộp, Điên Thiệt thì dâng trình thủ cấp Vu Lang. Tấn Văn công truyền đem sĩ tịch của nước Tào ra xem, thấy những người làm quan đến chức đại phu kể hàng ba trăm người đều chiếu họ tên bắt hết cả, không sót một người nào nhưng không thấy tên Hi Phụ Cơ. CÓ người nói với Tấn Văn công rằng :

Hi Phụ Cơ vì có khuyên vua Tào giảng hòa với Tấn, đã bị vua Tào cách chức rồi !

Tấn Văn công kể tội Tào Cung công rằng :

- Cả nước người có một người bề tôi hiền mà ngươi không biết dùng, chỉ dùng một lũ tiểu nhân, tài nào mà không mất nước.

NÓI xong, liền sai đem giam lại một chỗ để chờ khi đánh được Sở rồi, sau sẽ phân xử ; còn ba trăm người đang có quyền thế bấy giờ đều bị giết cả, lại tịch thu gia tài họ đem thưởng cho quân sĩ.

Tấn Văn công lại hạ lệnh cho quân si, không cho ai được xâm phạm đến nhà Hỉ Phụ Cơ và xung quanh một xóm Hi Phụ Cơ ở, rồi chia quân làm hai đạo ; một đạo đóng Ơû trong thành nước Tào, còn một đạo theo Tấn Văn công trở về đại dinh.

Ngụy Thù và Điên Thiệt vẫn cậy nhiều công trạng, hay có ý kiêu ngạo, nay thấy Tấn Văn công trọng đãi Hi Phụ Cơ như vậy, Ngụy Thù tức giận mà bảo Điên Thiệt rằng :

- Chúng ta đi theo chúa công đánh nước Tào, bắt vua chém tướng, biết bao nhiêu là công trạng, mà không thấy chúa công nói gì đến ; Hi Phụ Cơ chẳng qua chỉ thết đãi được một bữa cơm, ân huệ đáng là bao nhiêu, mà chúa công trọng đại quá, thật là không được công bằng.

Điên Thiệt nói :

Người ấy nếu chịu làm quan thì tất chúa công ta trọng dụng, khi ấy bọn ta sẽ bị hắn đè nén, chi bằng ta cho một mớ lửa vào nhà hắn, cho hắn chết đi để khỏi di hại về sau ; dẫu chúa công có biết đi nữa, cũng chẳng giết chúng ta được mà sợ.

Ngụy Thù lấy làm phải, rồi hai người cùng nhau uống rượu.

Đêm hôm ấy họ đem quân đến vây nhà Hi Phụ Cơ phóng hỏa đốt nhà, lửa cháy ngất trời. Ngụy Thù đang say rượu, cậy có sức khỏe, trèo lên trên cái chòi cửa, chạy đi chạy lại để dò tìm Hi Phụ Cơ mà giết đi. Ai ngờ mấy cái cột chòi Ơû phía dưới đã bị lửa cháy, gãy mà đổ ra, Ngụy Thù Ơû trên chòi ngã lăn xuống đất, cái cột cháy ấy đè ngay lên ngực. Ngụy Thù hộc máu miệng ra, vội vàng trèo qua nóc nhà để chạy, suýt nữa thì chết cháy. Ra đến ngoài Ngụy Thù đau quá, chỉ nằm bẹp xuống đất, không thể đi được. Điên Thiệt trông thấy liền cởi áo đắp cho, rồi vực lên xe đem về. HỒ Yến và Tư Thần Ơû trong thành trông thấy ngọn lửa tưởng có binh biến, vội vàng dẫn quân đến, thấy nhà Hi Phụ Cơ cháy liền truyền quân sĩ cứu chữa, thì nhà đã cháy gần hết rồi. Hi Phụ Cơ đem mấy người nhà đi chữa cháy, bị khói xông vào mắt, ngã lăn xuống đất, bất tỉnh nhân sự. Vợ Hi Phụ Cơ ẵm một đứa con mới lên năm tuổi, tên là Hi Lộc chạy ra sau vườn, đứng nép Ơû dưới ao, mới được thoát nạn. Còn mấy tên người nhà đều bị chết cháy cả.

xung quanh một vùng gần đấy, cả thảy cháy đến hơn ba chục nóc nhà. HỒ Yển và Tư Thần dò xét, biết là Ngụy Thù và Điên Thiệt phóng hỏa, giật mình kinh sợ, vội vàng sai người đến đại dinh để báo với Tấn Văn công. Đại dinh đóng xa năm dặm, đêm thấy ngọn lửa, chưa hiểu là chuyện gì. Sáng hôm sau, Tấn Văn công tiếp được thư của HỒ Yến và Tư Thần mới biết rõ đầu đuôi, liền thân hành đến để thăm Hi Phụ

Cơ . Hi Phụ Cơ giương mắt nhìn Tấn Văn công, rồi dần dần nhắm mắt lại mà chết. Tấn Văn công thương xót vô cùng. Vợ Hi Phụ Cơ ẵm Hi Lộc sụp lạy Ơû dưới đất, vừa lạy vừa khóc. Tấn Văn công cũng ứa nước mắt mà bảo rằng :

Hiền tẩu chớ lo phiền, đã có tôi trông nom cho, không ngại gì cả.

Nói xong, tức khắc phong cho Hi Lộc ngay còn Ơû trên tay mẹ làm chức đại phu ; lại chu cấp cho vàng lụa nhiều lắm, để tống táng Hi Phụ Cơ, rồi đem vợ con Hi Phụ Cơ sang Ơû nước Tấn, chờ khi vua Tào quy thuận rồi, bấy giờ sẽ cho về. Sau Hi Lộc làm quan đại phu Ơû nước Tào. Tấn Văn công muốn chém Ngụy Thù và Điên Thiệt. Triệu

Thôi nói :

Hai người ấy ngày xưa đi tòng vong, khó nhọc trong mười chín năm trời, mới đây lại có công trạng lớn, chúa công nên dung thứ cho.

Tấn Văn công nổi giận mả nói rằng :

Ta sở dĩ thủ tín với dân được nhờ có pháp luật. Bề tôi không theo pháp luật thì sao gọi là bề tôi ? Vua không thi hành pháp luật với bề tôi được thì sao gọi là vua ? Vua chẳng ra vua, bề tôi chẳng ra bề tôi thì sao giữ được nước ? Các quan đại phu có công với ta thì nhiều lắm, nếu đều làm trái pháp luật cả thì từ nay trở đi, ta còn thi

hành pháp luật gì được nữa !

Triệu Thôi nói :

Chúa công nói phải lắm ? Nhưng Ngụy Thù là người vũ dũng, các tướng không ai bằng, giết cũng đáng tiếc ; xin chúa công giết một mình Điên Thiệt, cũng đủ làm gương cho kẻ khác, cần gì mà phải giết cả Ngụy Thù.

Tấn Văn công nói :

- Ta nghe Ngụy Thù bi thương Ơû ngực không dậy được, chẳng bao lâu cũng chết, còn tiếc gì mà chẳng trị tội để giữ cho pháp luật được nghiêm minh.

Triệu Thôi nói :

Tôi xin phụng mệnh đến hỏi xem nếu bệnh Ngụy Thù quả đã nguy thì chúa công hãy trị tội, nhược bằng còn mạnh thì nên lưu một viên hổ tướng ấy để dùng về sau.

Tấn Văn công gật đầu, liền sai Tuân Lâm Phủ đi đòi Điên Thiệt, và sai Triệu Thôi đến thăm bệnh Ngụy Thù.

hồi 40

Tiên Chẩn lập kế lừa Đắc Thần

Tấn, Sở giao binh tại Thành Bộc

Triệu Thôi phụng mệnh Tấn Văn công đến thăm bệnh Ngụy Thù Bấy giờ Ngụy Thù còn vết thương nặng ở ngực, vẫn nằm trên giường, chưa trở dậy được, nghe báo có quan đến thăm, liền hỏi người nhà rằng :

- Cả thảy có mấy người đến ?

Người nhà nói :

- Chỉ có một mình quan tư mã là Triệu Thôi.

Ngụy Thù nói :

- Hắn định đến dò xem ta có sống được hay không, nếu bệnh không sống được thì tất đem ta ra để trị tội đây.

Nói xong, liền sai người nhà lấy lụa bó kín ngực lại, để ra tiếp kiến Triệu Thôi. Người nhà nói - Tướng quân đau nặng lắng, không nên cử động vội.

Ngụy Thù quát to nên rằng :

Bệnh ta không đến nỗi chết, các người chớ nói càn !

Nói xong, liền đứng dậy, mũ áo chỉnh tề, ra tiếp kiến Triệu Thôi Triệu Thôi hỏi:

Nghe nói tướng quân bị thương nặng lắm, chúa công có sai tôi đến hỏi thăm.

Ngụy Thù nói :

- Bởi có quân mệnh, nên tôi phải miễn cưỡng ra đây. Tôi cũng tự biết tội mình là đáng chết, nhưng may mà chúa công ân xá cho thì cái thân sống thừa này xin hết sức để báo đáp.

Ngụy Thù lại nhảy lên mấy lần, để tồ cho Triệu Thôi biết là sức mình còn mạnh.

Triệu Thôi nói :

- Tướng quân cứ yên lòng mà chăm thuốc men cho chóng khỏi, rồi tôi xin tâu lại với chúa công.

Triệu Thôi về tâu với Tấn Văn công rằng :

- Ngụy Thù dẫu bị thương, nhưng gân sức còn mạnh lắm. Vả lại vẫn biết giữ phép làm tôi. nếu chúa công tha cho y thì sau này tất cũng dùng được việc.

Tấn Văn công nói :

- Nếu tha mà không trái với pháp luật thì ta có muốn giết làm gì !

Được một lúc, Tuân Lâm Phủ đưa Điên Thiệt đến, Tấn Văn công mắng rằng :

- Vì cớ gì nhà ngươi dám đốt nhà Hi Phụ Cơ ? .

Điên Thiệt nói :

-Giới Tử Thôi cắt thịt đùi để dâng chúa công mà cũng bị chết cháy, huống chi là Hi Phụ Cơ chi dâng có một bữa cơm ! Tôi đốt nhà Hi Phụ Cơ như vậy, là muốn cho Hi Phụ Cơ được phối hưởng ở đền thờ Giới Tử Thôi đó thôi !

Tấn Văn công nổi giận, nói :

Giới Tử Thôi chết cháy, có phải là lỗi tại ta đâu .

Nói xong, bèn ngảnh lại hỏi Triệu Thôi rằng :

Điên Thiệt dám làm việc trái phép đốt nhà Hi Phụ Cơ, thì nên bắt tội gì ?

Triệu Thôi nói :

- Cứ theo pháp luật thì đáng tội chết.

Tấn Văn công truyền đem Điên Thiệt ra chém, để làm lễ tế Hỉ Phụ Cơ, rồi bêu đầu ở cửa bắc, yết thị rằng :

, Từ nay ai làm trái phép thì nom vào đây !"

Tấn Văn công lại hỏi Triệu Thôi rằng :

- Ngụy Thù cùng đi với Điên Thiệt mà không biết can ngăn nay nên bắt tội gì ?

Triệu Thôi nói :

- Nên cách chức Ngụy Thù, vả bắt phải lập công chuộc tội.

Tấn Văn công bèn cách chức Ngụy Thù, cho Chu Chi Kiều thay vào.

Các tướng sĩ thấy vậy, đều bảo nhau rằng :

- Ngụy Thù và Điên Hiện có công tòng vong khó nhọc trong mười chín năm trời, nay làm trái phép mà cũng người thì bị giết, người thì bị cách chức, huống chi là kẻ khác ? Thế mới thật là phép nước không riêng ai cả, chúng ta nên cẩn thận mới được !

Lại nói chuyện Sở Thành vương đi đánh Tống, chiếm được đất Mân ấp, đang đem quân vây đất Hoài Dương, định làm cho nước Tống khốn quẫn phải xin hàng, bỗng nghe báo có sử thần nước Vệ là Tôn Viêm đến cáo cấp. Sở Thành vương triệu vào hỏi, Tôn Viêm báo cho Sở Thành vương biết chuyện nước Tấn đã chiếm mất đất Ngũ Lộc, vua nước Vệ phải chạy ra ở đất Tương Ngưu, và nếu nước Sở không đem quân đến cứu thì thảnh Sở Khau cũng khó lòng mà giữ nổi. Sở Thành vương liền chia quân ra làm hai đạo, cho Thành Đắc Thần cùng các vua chư hầu ở lại vây Tống, còn mình thì đem quân đi cứu Vệ Các vua chư hầu cũng đều lo trong nước có biến, cáo từ về cả, mỗi người cho một viên đại tướng ở lại : tướng nước Trần là Viên Tuyển, tướng nước Sái là công tử An, tướng nước Trịnh là Thạch Quỳ, tướng nước Hứa là Bách Trù, đều phải theo lệnh tướng nước Sở là Thành Đắc Thần cả.

Sở Thành vương đi đến nửa đường, nghe tin quân Tấn đã kéo sang đánh Tào, toan sang cứu Tào thì lại nghe tin quân Tấn đã phá vỡ nước Tào, vua Tào đã bị bắt rồi. Sở Thành vương giật mình sợ hãi mà nói rằng :

- Nước Tấn dùng quân sao mà thần tốc như vậy ?

Sở Thành vương liền đóng quân lại ở Thân Thành, sai người sang đất Cốc gọi công tử Ung và Dịch Nha về, rồi đem đất Cốc giao trả nước Tề, mà cùng với Tề giảng hòa ; lại sai người sang Tống, rút quân của Thành đắc Thần về, và báo Thành Đắc Thần rằng :

- Vua nước Tấn lưu lạc ở các nước ngoài mười chín năm trời, nay tuổi ngoại sáu mươi mới về làm vua nước Tấn, từng trải gian hiểm, am hiểu tình dân, chẳng qua cũng là lòng trời xui khiến, để làm cho nước Tấn được cường thịnh, ta khó lòng mà địch nổi, chi bằng ta hãy chịu nhường.

Thành Đắc Thần cậy tài, nghe Sở Thành vương nói lấy làm căm tức bảo các tướng chư hầu rằng :

- Quân ta chẳng bao lâu nữa thì phá vỡ kinh thành nước Tống, can gì mà bỏ !

Đấu Việt Tiêu cũng cho là phải. Thành Đắc Thần sai Đấu Việt Tiêu đến nói với Sở Thành vương rằng :

- Xin chờ lại ít lâu để phá vỡ nước Tống, bấy giờ sẽ rút quân trở về nhược bằng có gặp quân Tấn thì xin cố hết sức để thắng ; nếu đánh không được xin chịu tội chết.

Sở Thành vương sai người gọi Tử Văn đến mả hỏi rằng :

- Ta cho người triệu Thành Đắc Thần về, mà Thành Đắc Thần cố ý xin đánh, nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Tử Văn nói :

- Nước Tấn đem quân cứu Tống là muốn làm bá chủ, nhưng Tấn làm bá chủ thì nước Sở không lợi. Nay chỉ có Sở là đối địch nổi với Tấn, nếu Sở nhường Tấn thì Tấn là bá chủ. Vả Tào và Vệ xưa nay vẫn giao hiếu với ta, thấy ta nhường Tấn, thì rồi tất cũng theo Tấn. Bây giờ chúa công hãy cho Thành Đắc Thần đóng quân ở đấy để khiến Tào và Vệ đều được vững lòng, chẳng cũng nên lắm ru ! Nhưng chúa công

nên dặn Thành Đắc Thần phải cẩn thận, chớ nên khinh thường mà đánh nhau với Tấn ; nếu bất đắc dĩ thì cùng Tấn giảng hòa để chia nhau nam bắc, còn không đến nỗi mất thể diện.

Sở Thảnh vương theo lời, dặn Đấu Việt Tiêu về bảo Thành Đắc Thần rằng :

- Chớ có khinh thường mả đánh nhau với Tấn, nếu có thể giảng hòa thì nên giảng hòa.

Thành Đắc Thần được Đấu Việt Tiêu truyền lại lời dặn, mừng thầm Sở Thành vương không bắt rút quân ngay, liền ngày đêm đánh Tống rất gấp. Tống Thành công lúc trước thấy công tôn CỐ về nói rằng vua Tấn sắp đem quân đi đánh Tào và Vệ để giải vây cho Tống, liền cố sức chống giữ Sau thấy Thành Đắc Thần đánh gấp lắm, cũng có ý lo sợ Quan đại phu là Môn Dân Ban nói với Trung Thành công rằng :

Vua Tấn chỉ biết đem quân đi đánh Tào và Vệ để cứu Tống, mà không biết rằng quân Sở vẫn đánh Tống gấp như thế này. Tôi xin liều chết trèo qua thành ra mà đến nói với vua Tấn.

Tống Thành công nói :

- Mình cầu người ta đến hai lần, mà chi nói miệng không thì sao cho phải !

Nói xong cho người kê biên những đỗ bảo ngọc trong kho, làm thành sổ sách để đem dâng Tấn Văn công, hẹn khi nào lui được quân Sở rồi thì chiếu theo sổ sách mà đệ nạp. Môn Doãn Ban xin cho một người nữa đi theo. Thành công cho Hoa Tú Lão cùng đi. Hai người từ biệt Tống hầu, rồi trèo qua thành lên ra, tìm đến đại dinh Tấn Văn

công Môn Dân Ban và Hoa Tú Lão vào yết kiến Tấn Văn công, khóc mà nói rằng :

công tôi sai chúng tôi đem nộp quyển sổ có biên những lễ vật nhỏ mọn này đề dâng quý quốc, xin quý quốc thương tình mà đến cứu cho.

Tấn Văn công bảo Tiên Chẩn rằng :

- Việc nước Tống gấp lắm, nếu không đi cứu thì còn chi là Tống, mà nếu đi cứu thì tất phải đánh nhau với Sở. Ngày trước Khước Cực đã bàn với ta rằng : "Tất phải hợp sức với Tề và Tần thì mới kiềm chế nổi Sở. Nay Sở giảng hòa với Tề, trả lại đất Cốc cho Tề, còn Tần thì lại không có hiềm khích gì với Sở cả, ta biết làm thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

- Tôi có một kế, khiến cho Tề và Tần tự khắc phải đem quân đánh Sở

Tấn Văn công mừng lắm, hỏi :

- Nhà ngươi có kế gì mà thần diệu như vậy ?

Tiên Chẩn nói :

- Nước Tống lễ ta, kể cũng là hậu, nhưng ta nhận lễ rồi mới đi cứu thì sao gọi là nghĩa ? Chi bằng ta từ chối đi và bảo Tống đem những đồ lễ vật ấy mà chia biếu Tề và Tần, để Tế và Tần nói hộ với nước Sở. Khi Tề và Tần sai sứ đến nói với Sở mả Sở không theo, bấy giờ tất nhiên Tề và Tần phải sinh lòng hiềm khích với Sở.

Tấn Văn công nói :

Giả sử Tề và Tần nói mà Sở nghe thì tất Tề và Tần phải bắt Tống thần phục Sở, ta còn ích gì ?

Tiên Chẩn nói :

- Tôi lại có một kế, khiến cho Sở không theo lời Tề và Tần được.

Tấn Văn công nói :

- Kế gì ?

Tiên Chẩn nói : .

- Sở yêu Tào và Vệ mà ghét Tống. Nay ta đã đuổi vua nước Vệ, bắt vua nước Tào thì đất đai hai nước ấy đều ở trong tay ta. Mà hai nước ấy lại tiếp giáp với Tống, vậy nếu ta đem đất đai hai nước ấy mà cho Tống thì Sở lại càng ghét Tống lắm ; Tề và Tần nói hộ, chắc Sở Cũng không nghe nào ! Khi bấy giờ Tề và Tần thương Tống mà giận Sở, tài nào không phải kết liên với nước Tấn ta.

Tấn Văn công vỗ tay khen phải, rồi bảo Môn Doãn Ban kê biên các thứ bảo ngọc, làm thành hai quyển sổ để đem biếu Tề và Tần, sai Môn Doãn Ban đi sứ Tần, Hoa Tú Lão đi sứ Tề, lại dặn hai người cách thương thuyết với Tần và Tề sao cho khẩn thiết.

Hoa Tú Lão đến nước Tề, nói với Tề Chiêu công rằng :

- Tấn và Sở nay đang kình địch với nhau, cái nạn binh đao ấy tất phải nhờ quý quốc mới phân giải được. Nếu quý quốc có lòng giúp cho nước tôi giữ gìn được xã tắc thì là không những không dám tiếc các thứ bảo ngọc của tiên triều mà từ nay trở đi, xin mỗi năm một lần cống hiến, không bao giờ dám thôi.

Tề Chiêu công hỏi rằng :

Hiện bây giờ vua Sở đóng ở đâu ?

Hoa Tú Lão nói :

- Vua Sở cúng muốn giải vây cho nước tôi, đã rút quân về đóng ở Thân thành rồi, chỉ vì quan lệnh Doãn nước Sở là Thành đắc Thần mới lên cầm quyền chính, muốn lập công mà không chịu rút quân.

Tề Chiêu công nói :

- Vua Sở ngày trước lấy đất Cốc của ta, nay lại giao trả mà cùng ta giảng hòa, vậy thì vua Sở cũng không có ý tham muốn ; còn Thành Đắc Thần không chịu rút quân, để ta sai sứ đến nói giúp cho.

Tề Chiêu công liền sai Thôi Yến sang nước Tống để nói với Thành Đắc Thần.

Môn Dân Ban đến nước Tần, công nói với Tần Mục công như lời Hoa Tú Lão. Tần Mục công công sai công tử Chí đến nói với Thành đắc Thần.

Môn Dân Ban và Hoa Tú Lão lại trở về đại dinh Tấn Văn công.

Tấn Văn công bảo Môn Dân Ban và Hoa Tú Lão rằng :

- Ta đã diệt được nước Tào và nước Vệ, bao nhiêu những ruộng đất tiếp giáp nước Tấn, ta xin để biếu nước Tống.

Nói xong, liền sai Hồ Yến đưa Môn Doãn Ban đi nhận lấy ruộng ở đất nước Vệ, và Tư Thần đưa Hoa Tú Lão đi nhận lấy ruộng ở đất nước Tào. Các quan trấn thủ nước Tào và nước Vệ đều bị đuổi cả. Thôi Yến (sứ nước Tề) và công tử Chí (sứ nước Tần) đang thương thuyết với Thành Đắc Thần xin cho nước Tống được giảng hòa, bỗng thấy các quan trấn thủ nước Tào và nước Vệ kéo nhau đến nói với Thành Đắc thần rằng :

Quan đại phu nước Tống là Môn Doãn Ban và Hoa Tú Lão cậy thế nước Tấn đem quân sang chiếm lấy ruộng đất của nước chúng tôi.

Thành Đắc Thần nổi giận, bảo Thôi Yến và công tử Chí rằng :

- Người nước Tống ức hiếp nước Tào và nước Vệ như vậy, sao các ngài lại xin cho nước Tống giảng hòa, việc ấy tôi không dám vâng mệnh.

Thôi Yến và công tử Chí chán quá, tức khắc cáo lui về. Tấn Văn công nghe tin Thành Đắc Thần không theo lời Thôi Yến và công tử Chí, liền sai người đón đường mời Thôi Yến và công tử Chí về chốn đại dinh rồi bày tiệc để thết đãi mà phân trần rằng :

- Thành Đắc Thần kiêu ngạo vô lễ, nay sắp sửa giao chiến với nước Tấn tôi, xin hai quý quốc đem quân đến giúp cho.

Thôi Yến và công tử Chí nhận lời, rồi cáo từ về nước. Thành Đắc Thần họp các tướng sĩ lại mà thề rằng :

- Nếu ta không lấy lại được nước Tào và nước Vệ thì dẫu chết cũng không chịu lui quân.

Tướng nước Sở là Uyển Xuân nói với Thành Đắc Thần rằng :

- Tôi có một kế khiến không phái đánh mà tự khắc lấy lại được nước Tào và nước Vệ.

Thành Đắc Thần hỏi :

- Nhà ngươi có kế gì ?

Uyển Xuân nói :

Nước Tấn đuổi vua Vệ, bắt vua Tào, đều là vì nước Tống cả ;

nay nguyên soái nên sai sứ đến nói với vua Tấn xin giảng hòa : hễ nước Tấn trả lại đất nước Tào và nước Vệ thì ta cũng giải vây cho nước Tống. Hai bên cùng rút quân trở về, chẳng cũng hay lắm ru !

Thành Đắc Thần nói :

- Giả sử nước Tấn không nghe thì làm thế nào ?

Uyển Xuân nói :

- Nguyên soái nên bảo rõ cho người nước Tống biết ràng ta sắp thương thuyết để giảng hòa với Tấn mà giải vây cho Tống, vì nước Tống đang mong được giải vây, khác nào như một kẻ bị treo ngược mà mong người đến cởi ; nếu vua Tấn không nghe lời thì chẳng những hai nước Tào và Vệ oán Tấn, mà Tống cũng oán Tấn nữa. Bấy giờ ta họp ba nước oán Tấn mà đánh Tấn thì ta tất phải được.

Thành Đắc Thần nói :

Nay ai là người dám sang thương thuyết với quân Tấn ?

Uyển Xuân nói :

- Nếu nguyên soái sai tôi thì tôi xin vâng mệnh.

Thành Đắc Thần liền hoãn binh không đánh Tống vội, rồi sai Uyển Xuân sang thương thuyết với Tấn Văn công. Uyển Xuân đến đại dinh quân Tấn, vào nói với Tấn Văn công rằng :

Kẻ ngoại thần của nhà vua lâu Thành Đắc Thần có lời kính tỏ với nhà vua rằng : Tào và Vệ đối với nước Sở tôi, khác nào như Tống đối với quý quốc Nếu quý quốc trả lại đất cho Tào và Vệ thì nước tôi cũng xin giải vây cho Tống, hai bên cùng giảng hòa với nhau để dân chúng khỏi phải lầm than khổ sở.

Uyển Xuân nói chưa dứt lời thì HỒ Yến đứng ở bên cạnh, hầm hầm giận mà mắng rằng :

- Thành Đắc Thần nói vô lý quá ? Định bỏ một nước Tống chưa lấy được mà đòi hai nước (Tào và Vệ) của tấn đã lấy được rồi, thì sao cho phải !

Tiên Chẩn vội vàng giẫm vào chân HỒ Yến để làm hiệu, và nói với Uyển Xuân rằng :

- Kể ra thì tội nước Tào và nước Vệ cộng không đến nỗi đáng phải tuyệt diệt, chúa công tôi vẫn muốn bảo toàn cho. Xin hãy tạm nghi lại ở hậu dinh, để chúa công tôi thương nghị xem nên thế nào cho phải.

Loan Chi liền đưa Uyển Xuân vào nghỉ ở hậu dinh. HỒ Yến hỏi Tiên Chẩn rằng :

Nguyên soái định nghe lời Uyển Xuân hay sao ?

Tiên Chẩn nói :

- Lời xin của Uyển Xuân không nên nghe mà cũng không nên không nghe.

HỒ Yến nói :

Tại sao thế ?

Tiên Chẩn nói :

- Uyển Xuân đến đây là bởi mưu kế của Thành Đắc Thần, muốn mua ơn với Tống mà đổ oán cho nước Tấn ta đó. Ta không nghe thì Tào, Vệ và Tống đều oán ta cả, mà ta nghe thì nước Sở được ơn, chi bằng ta giảng hòa riêng với Tào và Vệ, để chia rẽ cánh ấy ra lại bắt giam Uyển Xuân, làm cho Thành Đắc Thần phải tức giận mà đem

quân sang đánh ta, tự khắc giải vây được cho nước Tống. Nếu không dùng kế ấy thì tôi e rằng Thành Đắc Thần giảng hòa riêng với Tống, tất nhiên Tống lại về bè với Sở mà bỏ ta.

Tấn Văn công nói với Tiên Chẩn rằng :

- Nguyên soái nghĩ phải lắm ! Nhưng ngày trước ta có chịu ơn vua Sở, mà nay lại bắt giam sứ thần nước Sở thì còn ra thế nào ?

Loan Chi nói :

- Sở ăn cướp nước nhỏ, khinh rẻ nước lớn, đó là một điều sỉ nhục cho trung nguyên. Nay chúa công không muốn làm bá chủ thì thôi, nếu muốn làm bá chủ thì đó cũng là điều sỉ nhục của chúa công. Việc gì mà phải băn khoăn vì một cái ơn riêng nhỏ mọn !

Tấn Văn công khen phải, liền sai Loan Chi bắt giam Uyển Xuân ở đất Ngũ Lộc, giao cho quan trấn thủ ở đấy là Khước BỘ Dương phải coi giữ cẩn thận. Còn bao nhiêu những người theo hầu Uyển Xuân đều đuổi về cả, để chúng truyền lại cho Thành Đắc Thần biết rằng : Uyển Xuân vô lễ đã bị nước Tấn bắt giam rồi, đợi khi nào bắt được lệnh doãn, sẽ giết một thể.

Các người theo hầu Uyển Xuân đều len lét cúi đầu chạy về. Tấn Văn công bắt giam Uyển Xuân rồi, lại sai người bảo Tào Cung công rằng :

- Chúa công tôi không phải là vì một điếu hiềm nhỏ ngày xưa mà bẻ lỗi nhà vua đâu, chẳng qua chỉ vì nhà vua thần phục nước Sở đó mà thôi. Nay nhà vua sai người đưa thư sang tuyệt giao với Sở thì chúa công tôi tức khắc trả lại nước Tào cho nhà vua.

Tào Cung công nóng lòng được tha, liền viết ngay một bức thư đưa sang cho Thành Đắc Thần. Thư rằng :

-Tôi sợ rằng xã tắc nước tôi sụp đổ. nhân dân khó tránh cái nạn chết chóc cho nên bất đắc dĩ phải thần phục nước Tấn, mà không thể phụng sự quý quốc được nữa ; nếu quý quốc trừ được nước Tấn, để gia yên cho nước tôi, thì có đâu nước tôi lại dám hai lòng .

Tấn Văn công lại sai người đến đất Tương Ngưu, hứa với Vệ Thành công nếu tuyệt giao với Sở thì trả lại nước Vệ cho. Vệ Thành công mừng lắm. Quan đại phu nước Vệ là Ninh Du can rằng :

ĐÓ là cái kế phản gián của nước Tấn, chúa công chớ nên theo.

Vệ Thành công không nghe lời Ninh Du, liền đưa thư cho Thành Đắc Thần, đại ý chừng nói như Tào Cung công. Thành Đắc Thần nghe tin Uyển Xuân bị bắt, thì gào thét mắng chửi ầm ý lên, nói rằng :

- Trùng Nhĩ ? Mảy là một thằng lão tặc, trời đánh không chết !

Khi trước trốn sang nước ta, khác nào như con cá nằm trên mặt thớt, nay về làm vua, lại dám bắt giam sứ thần nước ta, để phen này ta thân hành đến nói rõ cho mày biết.

Thành Đắc Thần đang hầm hầm nổi giận, bỗng có quân báo rằng :

Nước Tào và nước Vệ có thư đệ trình nguyên soái.

Thành Đắc Thần nghĩ thầm rằng :

Tào và Vệ đang lúc khốn khổ này, còn có việc gì mà đưa thư cho ta nữa ; hay là có do thám được tình hình nước Tấn mà định bảo riêng ta điều gì chăng, ấy là trời giúp cho ta được thành công đó.

Nói xong, mở thư ra xem, mới biết là thư Tào và Vệ tuyệt giao với Sở lại càng căm tức vô cùng, bèn quát to lên rằng :

- Hai bức thư này chính là đứa lão tặc kia bắt người ta phải viết đây ! Thằng lão tặc ! Thằng lão tặc ! Bây giờ, không phải là mày thì là ta, nhất định trong hai người phải có một người chết !

Đấu Việt Tiêu nói : .

Đại vương đã có dặn nguyên soái không nên đánh nhau với Tấn, nếu nguyên soái muốn đánh, phải tâu với đại vương mới được.

Vả Tề và Tần căm tức nguyên soái không nghe lời giải vây cho Tống, tất nhiên ngày nay đem quân giúp Tấn, vậy thì nước ta dẫu có Trần, Sái, Trịnh và Hứa giúp vào, nhưng địch lại với Tề và Tần sao nổi ?

Nguyên soái nên tâu với đại vương, xin thêm quân rồi sẽ đi đánh.

Thành Đắc Thần nói :

Nhà ngươi đi hộ ta, nên phải nhanh chóng mới được !

Đấu Việt Tiêu phụng mệnh Thành Đắc Thần đến đất Thân ấp nói với Sở thành vương xin thêm quân. Sở Thành vương nổi giận, nói :

- Ta đã dặn rằng chớ nên khinh thường đánh nhau với Tấn, nay Thành Đắc Thần lại cố xin ra đánh, phỏng có chắc được hay không ?

Đấu Việt Tiêu nói :

- Thành Đắc Thần đã có nói : nếu đánh không được, xin chịu tội chết.

Sở Thành vương vẫn không bằng lòng, chỉ sai Đấu Nghi Thân đem bốn nghìn quân giúp Thành Đắc Thần mà thôi.

Con Thành Đắc Thần là Thành Đại Tâm cũng xin đem quân đi đánh, Sở Thành vương thuận cho. Đấu Nghi Thân cùng với Đấu Việt Tiêu đem quân đến nước Tống. Thành đắc Thần trông thấy quân ít, lại càng tức giận nói rằng :

Dẫu không thêm quân, ta lại không thắng Tấn được à ?

Nói xong, họp quân bốn nước chư hầu cùng đi đánh Tấn. Tấn Văn công họp các tướng lại để thương nghị. Tiên Chẩn nói :

Nước Sở từ khi đánh Tề vây Tống đến nay, quân sĩ đều đã mỏi mệt cả, ta nên đem quân đánh ngay, chớ để mất cơ hội ấy.

HỒ Yến nói :

- Ngày trước chúa công ở trước mặt vua Sở, đâu có hẹn một câu rằng : "Ngày khác gặp nhau ở trung Nguyên thì xin tránh quân Sở ba xá" nếu nay đem quân ra đánh, chẳng hóa ra thất tín với Sở lắm ru !

Các tướng nghe lời HỒ Yến đều không bằng lòng mà nói rằng :

- Chúa công ta là vua một nước, mà phải rút quân tránh một viên tướng nước Sở thì nhục biết dường nào ! Không nên ! Không nên !

HỒ Yến nói :

Cái ơn của vua nước Sở, ta không nên quên, nay ta rút quân tránh đi, thế nghĩa là tránh nước Sở, chứ không phải tránh Thành Đắc Thần.

Các tướng lại nói :

Nếu ta lui mà quân Sở đuổi theo thì làm thế nào ?

HỒ Yến nói :

- Nếu ta lui mà quân Sở đuổi theo thì trái tại quân Sở, bấy giờ ta sẽ đánh.

Tấn Văn công nói :

- HỒ Yến nói phải lắm ?

Tấn Văn công truyền lui quân ra ngoài ba xá, đóng ở đất Thành Lộc. Tề Hiếu công sai người con Quyết Ý Trọng là Quắc Quy Phủ làm chánh tướng ; Thôi Yến làm phó tướng ; Tần Mục công cũng sai người con thứ là công tử Mẫn làm chánh tướng, Kiến Bính làm phó tướng, cùng đem quân sang đất Thành Bộc để giúp Tấn đánh Sở. Tống

Thành công thấy quân Sở giải vây rồi, cũng sai quan tư mã là công tôn Cố sang tạ ơn Tấn Văn công và giúp việc đánh Sở.

Quân Sở thấy quân Tấn lui ra ngoài ba xá, đều có ý mừng rỡ.

Đấu Bột nói :

- Vua Tấn đã chịu rút quân tránh chúng ta thì cũng vẻ vang cho ta lắm rồi, chi bằng ta nhân thế mà thu quân về, dẫu không công cũng được khỏi tội Thành Đắc Thần nói :

- Ta đã xin thêm quân, nếu không đánh một trận, còn ra thế nào ! Nay quân Tấn lui về là có ý nhát sợ, ta nên mau mau đuổi theo mới được.

Các tướng nước Tấn nói với Tiên Chẩn rằng :

- Quân Sở ngắm xem địa thế để lập đồn trại, lả có ý muốn thủ hiểm, ta nên đem quân đánh ngay.

Tiên Chẩn nói :

- Thành Đắc Thần đến đây là muốn cùng quân ta giao chiến, chứ không phải muốn thủ hiểm đâu.

Tấn Văn công cũng có ý nghi ngờ, không muốn đánh nhau với Sở

HỒ Yến nói ?

Sự thế ngày nay, ta đánh Sở mà thắng thì làm được bá chủ chư hầu. Nếu đánh không thắng thì ta rút quân về mà giữ thế thủ, nước Sở cũng chẳng làm gì ta nổi.

Tấn Văn công cũng chưa kiên quyết, đêm hôm ấy nằm mộng thấy hình như trong khi mình còn đi trốn, đang ở nước Sở, cùng với vua nước Sở đùa bỡn đánh tay nhau, nhưng yếu sức bị thua, ngã ngửa xuống dưới đất ; vua Sở nằm đè lên trên mình, đánh vào đầu chảy cả óc rồi hút lấy óc, đến lúc tỉnh dậy, lấy làm sợ lắm. Bấy giờ HỒ Yến cùng ngủ ở trong màn, Tấn Văn công gọi dậy, kể chuyện cho nghe và bảo rằng :

- Cứ như cái mộng này thì ta đánh Sở không được, ta bị Sở hút lấy óc, chắc là điềm xấu.

HỒ Yến nghe nói, liền chúc mừng rằng :

ĐÓ là cái điềm rất tốt ! Chúa công tất đánh được quân Sở.

Tấn Văn công nói :

- Sao lại bảo là rất tốt ?

HỒ Yến nói :

- Chúa công nằm ngửa thì được ánh sáng mặt trời chiếu vào ; vua Sở nằm trên mình, nghĩa là phục xuống đất mà chịu tội. óc là một vật mềm nhũn, vua Sở hút óc chúa công, nghĩa là phải mềm nhũn mà thần phục chúa công đó, xem thế thì tất chúa công đánh được quân Sở.

Tấn Văn công nghe nói, không nghi ngờ gì nữa. Trời vừa sáng,

quân lại vào báo rằng nước Sở cho người đến hạ chiến thư. Tấn Văn công mở xem. Thư rằng :

Quân Sở tôi muốn cùng với quân Tấn làm trò, xin nhà vua ở trên xe mà xem. Thành Đắc Thần nay cũng được ghé mắt một chút

HỒ Yến nói :

- Chinh chiến là một việc quan hệ mà dám nói là làm trò, kẻ kia không cẩn trọng như vậy thì tài nào mà khỏi thua.

Tấn Văn công sai Loan Chi viết thư đáp lại. Thư rằng :

Tôi còn nhớ ơn vua nước Sở, bởi vậy phải rút quân lui ba xá, không dám cùng với nguyên soái đối địch ; nay nguyên soái muốn xem quân hai bên, có đâu tôi lại không vâng lời. Sáng ngày mai xin ra tiếp kiến.

Sứ nước Sở về rồi, Tiên Chẩn điểm duyệt quân sĩ cả thảy hơn năm vạn người, ấy là chưa kể đến quân Tề và quân Tần đến giúp. Tấn Văn công trèo lên gò cao đứng xem trông thấy quân sĩ tiến thoái rất có thứ tự bằng lòng mà khen rằng :

ĐÓ là theo phép của Khước Cốc ngày xưa. Như thế có thể đối địch với quân Sở được.

Nói xong, liền sai đốn cây ở trên rừng xuống để làm các thứ chiến cụ. Tiên Chẩn truyền lệnh cho các hàng tướng sĩ : HỒ Mao và HỒ Yến đem toán thượng quân, cùng với phó tướng nước Tần là Kiến Bính tiến vào tả đội quân Sở, giao chiến với Đấu Nghi Thân ; Loan Chi và Tư Thần đem toán hạ quân, cùng với phó tướng nước Tề là Thôi Yến, tiến vào hữu đội quân Sở, giao chiến với Đấu Bột. Tiên Chẩn đã dặn bảo các tướng đủ các mưu kế ; còn mình thì cùng với Khước Tần và Kỳ Mãn đem toán trung quân để đối địch với Thành Đắc Thần. Tiên Chẩn lại sai Thân Lâm Phủ và Sĩ Hội, mỗi người đem năm nghìn quân, chia làm hai cánh để phòng khi tiếp ứng ; lại sai Quốc Quý Phủ (chánh tướng nước Tề) và công tử Mẫu (chánh tướng nước Tấn) đem quân đi phục sẵn ở phía sau quân Sở, để đợi khi quân Sở thua chạy thì xông vào mà chiếm cứ lấy đồn trại. Bấy giờ Ngụy Thù đã khỏi vết thương ở ngực rồi, tình nguyện xin làm tiên phong.

Tiên Chẩn nói :

Tôi đã sẵn có ý định nhờ lão tướng quân một việc : Từ đây đi về phía nam, đến đất Không Tang, là chỗ tiếp giáp với nước Sở, lão tướng quân nên đem quân phục sẵn ở đấy, đợi khi quân Sở thua chạy trở về thì đổ ra mà bắt.

Ngụy Thù mừng rỡ, vâng mệnh đi ngay. Bọn Triệu Thôi cùng với các quan văn vũ theo Tấn Vãn công lên đứng ở trên núi để xem trận. Tấn Văn công lại sai Chu Chi Kiểu sửa soạn thuyền bè sẵn Ở sông Nam Hà để đợi khi lấy được các xe lương thực của nước Sở thì vận tải đem về.

Sáng sớm hôm sau, quân Tấn cùng với quân Sở đều bày trận ở dưới chân núi Hữu Sản. Loan Chi nghe tin hữu đội nước Sở dùng quân Trần và quân Sái làm tiên phong, thì mừng thầm mà nói :

- Khi trước nguyên soái đã mật bảo ta rằng quân Trần và quân Sái nhút nhát mà dễ loạn ; ta đánh tan quân .Trần và quân Sái thì tự khắc hữu đội nước Sở phải thua.

Loan Chi sai Kiến Bính ra đánh. Viên Tuyển nước Trần và công tử An nước Sái tranh nhau lập công, xin với Đấu Bột để ra nghênh chiến. Chưa kịp nghênh chiến thì bỗng thấy quân Tấn kéo lui, Viên Tuyển và công tử An giục quân đuổi theo. Đuổi được một quãng, nghe có pháo nổ, quân mai phục của Tư Thần đổ ra đón đánh. Ngựa kéo xe của quân Tư Thần đều đội lốt da hổ cả. Ngựa nước Sở trông thấy, ngỡ là hổ thật, sợ hãi lồng chạy, xông cả vào hữu đội quân Sở, không gì có thể kìm hãm được nữa, thành ra quân Sở bị chết hại không biết bao nhiêu mà kể.

Loan Chi liền sai quân sĩ, giả làm quân Trần, cầm cờ hiệu nước Trần và nước Sái chạy đến phi báo với Thành Đắc Thần, nói hữu đội quân Sở đã thắng trận rồi, nên mu mau tiến binh, để đuổi quân Tấn. Thành Đắc Thần đứng trên xe trông thấy quân Tấn chạy toán loạn, cát bụi bay mù cả trời, không biết đó là kế của quân Tấn, mừng mà nói rằng :

Toán hạ quân của Tấn đã thua thật rồi !

Thành đắc Thần bèn truyền lệnh cho tả đội tiến binh. Đấu Nghi Thân trông thấy lá cờ đại của quân Tấn bay phấp phới, liền xông lại đánh HỖ Yến đem quân ra nghênh chiến. Đánh được mấy hợp, bỗng thấy đằng sau quân Tấn đại loạn, HỒ Yến vội vàng bỏ chạy ; lá cờ đại cũng thấy rút lui về phía sau. Đấu Nghi Thân ngỡ là quân Tấn tan vỡ, vội vàng giục tướng nước Trịnh và tướng nước Hứa, cùng nhau đuổi theo. Đuổi được một quãng, bỗng nghe tiếng trống vang lừng, Tiên Chẩn và Khước Tần đem quân đổ ra đánh chặn ngang, cắt đứt quân Sở ra làm hai đoạn. HỒ Mao, HỒ Yến đang chạy, cũng quay lại, hai bên đánh thốc vào. Quân Trịnh và quân Hứa sợ hãi bỏ chạy, Đấu Nghi Thân không sao cản lại được nữa, lại gặp tướng nước Tề là Thôi Yến đem quân đến đánh, Đấu Nghi Thân bỏ cả khí giới, lẩn mình trong đám bộ binh trườn vào trong núi mà trốn.

Nguyên toán hạ quân của nước Tấn giả cách thua chạy, cát bụi mù trời, là vì Loan Chi đâ cho đốn các cây ở trên núi buộc vào sau xe mà kéo lê đi, HỒ Mao lại sai cho dựng cột cờ đại lên xe rồi kéo mà chạy, cố làm ra vẻ loạn quân, đó đều là mưu Tiên Chẩn đã định sẵn từ trước để lừa quân Sở. Thành Đắc Thần chưa biết là trúng kế, vẫn tưởng tả đội và hữu đội đều thắng trận cả, lại sai con trai là Thành Đại Tâm đem quân ra tiếp chiến. Kỳ Man khi trước vâng mệnh Tiên Chẩn, chỉ giữ vững trận thế, không chịu đem quân ra đánh, bấy giờ thấy quân Sở nổi trống ra trận, Kỳ Man không thể nhịn được, sai người đi dò xem tướng nước Sở là ai. Quân sĩ về báo rằng :

- Tướng nước Sở mới mười lăm tuổi.

Kỳ Man nói :

Một đứa trẻ con như vậy còn có võ nghệ gì ! Ta quyết đem quân bắt sống.

Nói xong, tức khắc truyền nổi trống đem quân trận, cùng với Thành Đại Tâm giao chiến, đánh nhau hơn hai mươi hợp, chưa phân được thua. Đấu Việt Tiêu trông thấy Thành Đại Tâm đánh mãi không được, liền đứng ở trên xe, giương cung bắn một phát tên, trúng ngay vào dải mũ Kỳ Man. Kỳ Man giật mình kinh sợ, vội vàng lui về,

nhưng e náo động đại quân, phải vòng quanh ra phía sau trận mà trốn chạy. Đấu Việt Tiêu quát to lên rằng :

Viên tướng thua chạy ấy không cần đuổi làm chi, phải mau mau đánh vào trong quân để bắt lấy nguyên soái nước Tấn là Tiên Chẩn !

hồi 41

Thành Đắc Thần rút gươm tự tử

Tấn Văn công phụng mệnh. đăng đàn

Tướng nước Sở là Đấu Việt Tiêu cùng với Thành Đại Tâm không đuổi theo Kỳ Man, liền tiến binh xông vào đại quân nước Tấn.

Bỗng có hai toán quân Tấn đến tiếp ứng : Tuân Lâm Phủ đón đánh Đấu Việt Tiêu, Tiên Miệt đón đánh Thành Đại Tâm. Thành đắc Thần cầm cờ vẫy quân tiến vào, hăng hái mà reo rầm lên, nói :

Ngày nay quyết không để cho quân Tấn còn một mống nào sống sót !

Nói chưa dứt lời thì bỗng thấy Tiên Chẩn kéo đại binh đến, bấy giờ Thành Đắc Thần mới biết là tả đội vả hữu đội quân Sờ đã tan vỡ cả rồi, toan thu quân trở lại, nhưng không kịp nữa, bị quân Tấn vây kín cả xung quanh. Thành Đại Tâm ra sức phá vỡ vòng vây, Thành Đại Tâm không thấy Đấu Việt Tiêu đâu cả, lại quay vào tìm ; chẳng

ngờ Đấu Việt Tiêu đang xung đột ở trong đám quân Tấn để tìm cứu cha con Thành Đắc Thần, khi gặp được Thành Đại Tâm, mới biết là Thành Đắc Thần đã ra khỏi, liền cùng phá vòng vây chạy trốn.

Tấn Văn công đứng ở trên núi, thấy quân Tấn đã toàn thắng, sai người bảo Tiên Chẩn hạ lệnh cho quân sĩ chỉ đuổi quân Sở ra khỏi địa giới nước Tống và nước Vệ là được, không nên đuổi nữa, và cũng không được giết hại nhiều người, để đến nỗi tổn thương tình hòa hiếu hai nước và phụ ơn vua nước Sở ngày trước. Tiên Chẩn truyền thu quân về, không đuổi theo quân Sở nữa ; còn Kỳ Man khi trước dám trái lệnh ra đánh cũng truyền bắt giam để trị tội.

Trần, Sái, Trịnh và Hứa thấy hao binh tổn tướng nhiều lắm đều bỏ trốn về nước cả. Thành Đắc Thần cùng với Thành Đại Tâm và Đấu Việt Tiêu ra khỏi vòng vây, đem nhau về bản trại. Bỗng gặp quân sĩ bảo rằng :

- Đồn trại của ta, đã trông thấy cờ hiệu Tề và Tấn cắm đặc cả rồi !

Nguyên Quốc Quy Phủ (tướng nước Tề) và công tử Mẫn (tướng nước Tấn) nhân khi quân Sở bị vây, vào chiếm cứ lấy đồn trại của quân Sở, bao nhiêu lương thực thu hết cả. Thành Đắc Thần không dám đi qua, phải quặt ra đằng sau núi,men theo sông Như Thủy mà đi Đấu Nghi Thân và Đấu Bột cũng đem tàn quân chạy theo. Đi đến đất Không Tang, bỗng nghe mấy tiếng pháo nổ, có một toán quân chặn ngang đường, trên lá cờ tướng đề một chữ "Ngụy".

Nguyên xưa Ngụy Thù khi ở nước Sở, đã từng một mình đánh nổi con mạc thú, người nước Sở ai cũng phục là thần dũng, bấy giờ quân Sở trông thấy Ngụy Thù đều kinh sợ chẳng còn hồn vía nào cả.

Đấu Việt Tiêu bảo Thành Đại Tâm phò tá lấy nguyên soái là Thành Đắc Thần, rồi một mình cố sức, xông lại đánh nhau với Ngụy Thù.

Đấu Nghi Thân và Đấu Bột bất đắc dĩ cũng phải xông vào đánh giúp. Ba tướng nước Sở cùng nhau đánh với Ngụy Thù mà không địch nổi.

Bỗng có một người phi ngựa ở phía bắc đi đến, quát to lên mà bảo Ngụy Thù rằng :

- Nguyên soái vâng mệnh chúa công truyền phải bãi chiến, tha cho các tướng bên Sở được sống mà về nước, để báo lại cái ơn vua Sở biết trọng đãi ta trong khi còn đi trốn ?

Ngụy Thù nghe lệnh, liền dừng tay không đánh nữa, lại bảo quân sĩ đứng tránh ra hai bên, để cho các tướng nước Sở chạy được thoát. Bọn Thành Đắc Thần cắm đầu đi thẳng. Đi đến đất Liên Cốc, Thành Đắc Thần điểm duyệt tướng sĩ thấy chết hại rất nhiều, thì than van khóc lóc mà nói rằng :

- Ta muốn lảm cho nổi uy danh nước Sở, chẳng ngờ lại mắc phải mưu nước Tấn, đến nỗi thua quân, thật là tội đáng chết lắm !

Nói xong, liền cùng với Đấu Nghi Thân và Đấu Bột đều ở lại đất Liên Cốc, mà sai con là Thành Đại Tâm đến Thân Thành yết kiến Sở Thành vương để xin chịu tội chết. Sở Thành vương nổi giận mà mắng rằng :

- Cha mày khi trước đã có nói : "Nếu không đánh được quân Tấn thì xin chịu tội chết", nay còn kêu ca gì nữa ?

Thành Đại Tâm sụp lạy mà nói rằng :

- Cha tôi biết tội đã nhiều, toan liều mình tự tử, nhưng tôi cố ngăn lại, muốn để đại vương trị tội, khiến cho phép nước được nghiêm minh.

Sở Thành vương nói :

- Phép nước Sở xưa nay, ai đánh giặc bị thua, cũng phải chết cả, các tướng nên liệu mà tự xử, chớ để làm bẩn lưỡi gươm của ta.

Thành Đại Tâm thấy Sở Thành vương không có ý thương xót, thì khóc lóc mà lui ra, trở về báo cho Thành Đắc Thần biết. Thành Đắc Thần than rằng :

- Giả sử vua Sở có tha cho ta, thì ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà trông thấy phụ lão ở đất Thân và đất Tức nữa ?

Nói xong, liền ngảnh mặt về phía bắc lạy hai lạy, rồi tuốt gươm ra tự vẫn mà chết.

Vi Giả nghe tin Thành đắc Thần bị thua, hỏi cha là Vi Lô Thần rằng :

- Nghe nói quan lệnh doãn bị thua, chẳng hay có thực hay không ?

Vi Lã Thần nói :

- Thực đấy ?

vi Giả nói :

- Chẳng hay đại vương xử trí ra thế nào ?

Vi Lã Thần nói :

Thành Đắc Thần và các tướng đều xin chịu tội chết, đại vương chẳng động lòng thương.

Vi Giả nói :

- Thành Đắc Thần là người ngang ngạnh mà kiêu ngạo, không thể nắm quyền hành một mình được, nhưng nếu được một người trí mưu giúp vào, thì có thể lập công. Nay dẫu bị thua nhưng ngày khác báo thù được nước Tấn, tất là Thành Đắc Thần, phụ thân nên can đại vương để mà giữ người ấy lại.

Vi Lã Thần nói :

- Nay đại vương đang tức giận, nói cũng vô ích.

Vi Giả nói :

- Phụ thân không nhớ lời nói của người thầy đồng ở Phạm ấp tên là Quật Tự hay sao ?

Vi Lã Thần nói :

Con thử thuật lại cho cha nghe.

Vi Giả nói :

Quật Tự là người tài xem tướng lắm. Lúc đại vương ta còn làm thái tử, Quật Tự có nói : "- Đại vương cùng với Thành Đắc Thần và Đấu Nghi Thân, ba người này sau đều bất đắc kỳ tử. Đại vương nhớ lời ấy, khi lên làm vua, ban cho Thần Đắc Thành và Đấu Nghi Thân mỗi người một cái miễn tử bài, cất để làm cho lời nói của Quật Tự

không ứng nghiệm được nữa. Vì đại vương đang khi tức giận, nên không nhớ ra, nếu phụ thân nhắc đến thì thế nào đại vương cũng tha tội cho hai người ấy.

Vỉ Lã Thần tức khắc vào tâu với Sở Thành vương rằng :

Thành Đắc Thần tội dẫu đáng chết, nhưng khi trước đây được đại vương ban cho một cái miễn tử bài, vì vậy, tôi thiết tưởng đại vương cũng nên xá tội cho y.

Sở Thành vương ngạc nhiên mà rằng :

- Phải chăng là câu chuyện của Quật Tự ngày trước ? Nếu nhà ngươi không nhắc, thì ta quên hẳn đi mất !

Sở Thành vương sai quan đại phu là Phan Uổng cùng với Thành Đại Tâm tức khắc truyền mệnh cho các tướng đều khỏi tội chết Khi Phan Uổng và Thành Đại Tâm đi đến Liên Các thì Thành Đắc Thần chết đâm nửa ngày rồi. Đấu Nghi Thân đã thắt cổ treo lên xà nhà, nhưng thân thể to lớn, đứt dây rơi xuống lại vừa gặp có lệnh miễn tử đến, thành ra khỏi chết. Đấu Bột thì còn có ý chờ chôn cất xong Thành Đắc Thần và Đấu Nghi Thân, rồi mới tự tử, bởi vậy cũng khỏi chết. Thành Đại Tâm ở lại Liên Cốc để khâm liệm cho cha, còn bọn Đấu Nghi Thân, Đấu Bột và Đấu Việt Tiêu thì theo Phan Uổng về Thân Thành vào lạy tạ Sở Thành vương. Sở Thành vương thấy nói

Thành Đắc Thần đã tự tử rồi, thì thương xót vô cùng, rồi truyền thu quân trở về kinh đô nước Sở, cho Vi Lã Thần lên làm lệnh doãn, truất Đấu Nghi Thân ra trấn thủ Thương ấp, và Đấu Bột ra trấn thủ ở Tương thành.

Sở Thành vương lại nghĩ thương Thành Đắc Thần, cho con là Thành Đại Tâm và Thành Gia đều làm quan đại phu. Quan nguyên lệnh doãn nước Sở là Tử Văn, bấy giờ đã trí sĩ về ở nhà, nghe tin Thành Đắc Thần bị thua, thở dài mà than rằng :

Quả như lời nói của Vi Giả ngày trước ! Kiến thức của ta, lại không bằng một đứa trẻ con, chẳng cũng xấu hổ lắm ru !

Nói xong, hộc máu mấy thăng, nằm gục xuống giường không dậy được nữa, rồi gọi con là Đấu Ban đến mà dặn rằng :

Cha gần đến lúc chết, dặn lại con một câu này : chú con là Đấu Việt Tiêu, từ khi mới sinh ra, đã có hình dáng như con hùm con gấu, tiếng kêu như giống sài lang, đó là cái tướng diệt tộc ; bấy giờ ta đây nói với ông mày không nên nuôi, ông mày không nghe. Nay Vỉ Lã Thần chắc là không thọ, Đấu Bột và Đấu Nghi Thân cũng khó lòng

mà được toàn tính mệnh, sau này làm lệnh doãn nước Sở, không phải là mày thì tất là Việt Tiêu, Việt Tiêu là người tàn ác, được cầm quyền hành, tất sinh lòng phản nghịch, dòng dõi họ Đấu ta không khéo thì đến nỗi tuyệt tự. Khi ta đã chết rồi, nếu Việt Tiêu lên làm lệnh doãn thì mày nên trốn đi, kẻo mắc phải tai vạ đấy !

Đấu Ban sụp lạy xin vâng lời dạy. Tử Văn nói xong thì chết.

Chẳng được bao lâu, Vi Lã Thần cũng chết. Sở Thành vương nghĩ đến cái công Tử Văn bèn cho Đấu Ban lên làm lệnh doãn, lại đem Đấu Việt Tiêu làm quan tư mã và Vi Giả làm quan công chính.

Tấn Văn công từ khi đánh được Thành Đắc Thần, tiến quân vào đóng ở trong đồn trại quân Sở. Quân Sở bỏ lại lương thực nhiều lắm, quân Tấn lấy ra để ăn, lại nói đùa với nhau rằng :

- Thế này mới thật là người nước Sở mời ta đến ở, lại thết đãi ta đấy !

Các tướng nước Tề và nước Tần đều vào chúc mừng Tấn Văn công Tấn Văn công từ tạ không dám nhận lời chúc mừng mà nét mặt lại sắc buồn rầu. Các tướng nói :

- Nhà vua đánh được giặc mà sao lại có ý không vui ?

Tấn Văn công nói :

- Thành Đắc Thần vốn là người không chịu thua ai, ta dẫu thắng trận, phỏng đã chắc gì, bởi vậy ta có ý lo sợ.

Bọn Quắc Quy Phủ (tướng nước Tề) và công tử Mẫn (tướng nước Tần) đều cáo từ xin về. Tấn Văn công đem một nửa những đồ lấy được của nước Sở, đưa tặng nước Tề và nước Tần. Tướng nước Tắng là công tôn CỐ cũng cáo từ về nước. Tiên Chẩn cho áp giải Kỳ Man đến trước mặt Tấn Văn công rồi kể tội trái lệnh, gây mối nguy hại cho ba quân.

Tấn Văn công nói :

- Nhà ngươi trái lệnh nguyên soái như thế, nếu không có thượng quân và hạ quân đã đánh được quân Sở từ trước thì còn chống lại sao nổi ?

Tấn Văn công sai quan tư mã là Triệu Thôi định tội rồi chém đầu Kỳ Man để hiệu lệnh cho các quân sĩ :

- Từ nay trở đi, ai dám trái lệnh quan nguyên soái thì trông gương vào đãy !"

Quân sĩ thấy vậy, càng biết sợ uy. Tấn Văn công đóng ở Hữu Sẵn ba ngày, rồi thu quân về nước. Đi đến sông Nam Hà quân sĩ báo rằng :

Dưới sông chưa thấy sửa soạn thuyền bè gì cả.

Tấn Văn công sai người triệu Chu Chi Kiều vốn là tướng nước Quắc, khi trước đầu hàng, về làm tôi nước Tấn. Đến lúc Tấn Văn công đánh Sở, Chu Chi Kiều theo đi, vẫn có ý muốn lập công ; nhưng Tấn Văn công lại sai đi sửa soạn thuyền bè chực sẵn ở sông Nam Hà, để đợi đánh xong quân Sở thì về đấy. Bởi vậy Chu Chi Kiều không bằng

lòng, nhân lại vừa tiếp được tin vợ ở nhà ốm nặng, Chu Chi Kiều bèn nghĩ rằng quân Tấn đánh nhau với Sở, tất còn lâu ngày, liền lẻn về thăm vợ, ai ngờ mới được sáu ngày Tấn Văn công đã đánh xong quân Sở thu quân trở về rồi.

Tấn Văn công không thấy Chu Chi Kiều, tức thì nổi giận, sai quân đi bắt thuyền của dân. Tiên Chẩn nói :

- Dân ở xứ Nam Hà này, nghe tin ta đánh được quân Sở, ai không sợ hãi, nếu ta sai quân sĩ đi bắt thuyền, tất nhiên họ bỏ mà trốn cả, chi bằng ta hạ lệnh thuê thuyền là tiện hơn cả.

Tấn Văn công khen phải, rồi sai quân sĩ đi thuê thuyền. Được một lúc, thuyền đâu kéo đến, không biết bao nhiêu mà kể để đưa đại binh qua sông. Tấn Văn công bảo Triệu Thôi rằng :

- Ta đã báo thù được nước Tào và nước Vệ rồi, chỉ còn nước Trịnh là chưa báo được, nên nghĩ thế nào ?

Triệu Thồi nói :

- Chúa công kéo quân qua nước Trịnh thì tự khắc nước Trịnh phải xin thần phục.

Tấn Vãn công nghe lời. Đi trong mấy ngày nữa, bỗng gặp một đoàn xe ngựa, rước một vị quý nhân từ phía đông kéo đến. Tướng đi tiền đội của quân Tấn là Loan Chi ngăn lại mà hỏi rằng :

Quân nào ?

vị quý nhân ấy đáp rằng :

Ta đây là vương tử Hồ, làm quan khanh sĩ nhà Chu, Thiên tử nhà Chu nghe tin vua Tấn đánh được quân Sở, để giữ yên Trung quốc, muốn thân hành đến khao thưởng quân sĩ, vậy có sai ta đi báo trước cho biết.

Loan Chi tức khắc đưa vương tử HỔ lại yết kiến Tấn Văn công.

Tấn Văn công hỏi các tướng rằng :

- Nay thiên tử muốn thân hành đến để khao thường quân ta, vậy ở nơi đường sá lễ nghi nên thế nào ?

Triệu Thôi nói :

- Từ đây sang Hành Ung cũng gần, ở đấy có một nơi gọi là Tiễn Thổ đất phẳng mà rộng, ta nên nhật dạ khởi công để dựng lên hành cung nhà vua ở đấy rồi chúa công đem các vua chư hầu đi đón thiên tử đến ngự tại đấy, để cùng nhau làm lễ triều kiến, cho khỏi trái đạo vua tôi.

Tấn Văn công liền hẹn với vương tử Hổ, định đến ngày mồng một tháng năm thì đón thiên tử sang đất Tiễn Thổ. Vương tử HỔ cáo từ trở về . Đại binh nước Tấn thẳng đường keo sang Hành Ung. Đi được một quãng lại gặp một đoàn xe ngựa đi đầu là sứ thần nước Trịnh, tên là Tử Nhân Cửu. Nguyên Trịnh Văn công sợ quân Tấn đến hỏi tội, mới sai Tử Nhân Cửu đi xin giảng hòa. Tấn Văn công nổi giận, nói :

- Nước Trịnh nghe tin quân Sở thua, rồi mới chịu xin giảng hòa thì không phải là thực lòng, chờ khi ta nếu kiến thiên tử xong, bấy giờ sẽ đem quân đến tận dưới thành để nói chuyện.

Triệu Thôi nói :

- Từ khi ta cử binh đến nay, đuổi vua Vệ, bắt vua Tào, lại phá được quân Sở, uy danh đã lừng lẫy lắm rồi nếu lại còn đánh nước Trịnh nữa, thì quân sĩ mệt nhọc quá, xin chúa công cứ cho giảng hòa, nếu nước Trịnh còn có lòng khác thì ta nghỉ quân mấy tháng, rồi sẽ sang đánh, cũng chưa lấy gì làm chậm.

Tấn Văn công bèn cho nước Trịnh giảng hòa Đại binh kéo đến Hành Ung. Một mặt Văn công sai HỖ Mao và hồ Yến đem quân bản bộ đến đất Tiễn Thổ để dựng hành cung, một mặt sai Loan Chi vào kinh thành nước Trịnh để cùng với Trịnh Văn công hội thề Trịnh Văn công lại thân hành đến Hành Ung để tạ ơn Tấn Văn công đã cho giảng hòa. Tấn Văn công cùng với Trịnh Văn công nói chuyện rất là vui vẻ Trong khi nói chuyện, Tấn Văn công khen Thành Đắc Thần nước Sở là người vũ dũng. Trịnh Văn công nói :

Thành Đắc Thần nay đã tự tử ở đất Liên Cốc rồi !

Tấn Văn công. thở dài thương tiếc. Khi Trịnh Văn công lui ra rồi, Tấn Văn công nói riêng với các tướng rằng :

Ngày nay ta được nước Trịnh thần phục, cũng chẳng lấy gì làm mừng, chi mừng rằng nước Sở đã mất Thành Đắc Thần mà thôi.

Thành đắc Thần đã chết rồi, thì những người khác, ta chẳng lo ngại gì nữa, các người có thể nằm yên được !

HỒ Mao và HỖ Yến ra sức hơn một tháng trời, mới dựng xong vương cung, Tấn Văn công truyền hịch đi các nước chư hầu, hẹn đến mồng một tháng năm phải có đủ mặt ở đất Tiễn Thổ. Lúc bấy giờ, Trung Thành công (Vương thần) Tề Chiêu công (Phan) là những nước giao hiếu từ trước, Trịnh Văn công (Tiệp) là một nước mới quy phụ là

những nước đầu tiên đến dự hội. Còn như LỖ Hi công (Thân) Trần Mục công (Khoản), Sái Trang công (Giáp Ngọ) đều là về cánh nước Sở, nhưng sợ uy nước Tấn, cũng phải đến dự hội. Châu và Cử là nước nhỏ, chẳng kể làm chi, chỉ có Hứa Hi công (Nghiệp) thần phục nước Sở đã lâu không muốn theo Tấn ; Tần Mục công (Nhâm Hiếu) dẫu có giao hiếu với Tấn, nhưng xưa nay chưa dự hội với trung quốc bao giờ, vậy cũng ngần ngại không đến. Vệ Thành công (Trịnh), trước tránh ra Tương Ngưu , Tào Cung công (Tượng) hiện còn giam ở Ngũ Lộc, Tấn Văn công đã hẹn trả lại nước cho, nhưng chưa nói rõ, bởi vậy cũng không được dự hội. Vệ Thành công nghe Tấn Văn công sắp họp chư hầu, bèn bảo Ninh Du rằng :

Vua Tấn hội chư hầu mà không nói gì đến nước Vệ ta, thế thì nước Tấn còn căm tức ta lắm, có lẽ ta phải trốn đi nước khác.

Ninh Du nói :

- Nay chúa công chỉ nghĩ một đường trốn đi mà thôi thì sau này ai là người giúp cho chúa công được trở về nước, chi bằng chúa công nhường ngôi cho Thúc Vũ, lại sai Nguyên Huyến đưa Thúc Vũ đến Tiễn Thổ để xin dự hội. Nếu lòng trời còn tựa nước Vệ mà Thúc Vũ được dự hội thì Thúc Vũ được giữ ngôi nước Vệ, cũng như chúa công

giữ ngôi chứ sao. Huống chi Thúc Vũ vốn là người hiếu hữu, tất chẳng nỡ mà trả lại ngôi cho chúa công.

Vệ Thành công dẫu trong lòng không muốn, nhưng đã đến nước ấy cũng không làm thế nào được, liền sai Tôn Viêm phụng mệnh nhường ngôi cho Thúc Vũ, theo như lời của Ninh Du. Tôn Viêm phụng mệnh đi sang Sở Khâu để nói với Thúc Vũ, Vệ Thành công lại hỏi Ninh Du rằng :

Nay ta nên trốn sang nước nào ?

Ninh Du còn ngần ngừ chưa trả lời. Vệ Thành công nói :

- CÓ nên sang nước Sở không ?

Ninh Du nói :

- Nước Sở nay đang là một nước cừu địch với nước Tấn. Và khi trước ta đây đưa thư tuyệt giao với Sở, bây giờ còn sang làm gì, chi bằng ta sang nước Trần. Nước Trần sắp sửa thần phục nước Tấn, ta lại có thể nhờ nước Trần mà giao thiệp với nước Tấn được.

Vệ Thành công nói :

Đưa thư tuyệt giao, không phải tự ý ta, điều ấy hẳn nước Sở cũng biết. Vả nước Tấn và nước Sở sau này đối đãi với nhau như thế nào cũng chưa biết được, Thúc Vũ theo Tấn mà ta theo Sở thì có phải lại giữ được cả hai bên không ?

Vệ Thành công bèn đi sang Sở. Những người nước Sở ở biên giới trông thấy Vệ Thành công, đều đuổi theo mà mắng nhiếc. Vệ Thành công bất đắc dĩ lại phải quay sang nước Trần, và phục Ninh Du là người cao kiến.

Tôn Viêm phụng mệnh Vệ Thành công đến báo Thúc Vũ. Thúc Vũ nói :

- Tôi xin quyền giữ lấy nước mà thôi, dẫu chúa công nhường ngôi, lẽ đâu tôi dám nhận. .

Nói xong, liền cùng với Nguyên Huyền đến đất Tiễn Thổ để hội với các nước chư hầu, rồi lại sai Tôn Viêm về nói lại cho Vệ Thành công biết rằng khi sang đến Tiễn Thổ thì thế nào cũng vì Vệ Thành công mà xin Tấn phục quốc cho. Nguyên Huyền nói :

- Chúa công ta rất đa nghi, ta không sai con theo sang thì sao cho chúa công tin được ?

Nguyên Huyền liền sai con là Nguyên Dốc đi theo Tôn Viêm.

Công tử Chuyên Khuyển bảo riêng với Nguyên Huyền rằng :

- Chúa công chắc hẳn không trở về được, sao nhà ngươi không đem việc chúa công nhường ngôi mà công bố cho người trong nước biết rồi tôn lập Thúc Vũ lên làm vua, nhà ngươi làm tướng ? Tất nhiên vua Tấn cũng bằng lòng, bấy giờ nhà ngươi nhờ uy nước Tấn thì sẽ cùng Thúc Vũ cùng cầm quyền chính nước Vệ chả hơn ư ?

Nguyên Huyền nói :

Thúc Vũ còn có lòng với anh, nữa là ta lại dám quên vua hay sao ? Ta đi chuyến này, quyết nói với vua nước Tấn để xin trả lại nước cho chúa công.

Công tử Chuyên Khuyển nín lặng lui ra, nhưng lại sợ khi Vệ Thành công đã phục quốc rồi mà Nguyên Huyền tiết lộ lời nói của mình ra thì tất Vệ Thành công bắt tội, mới lập kế lẻn sang nước Trần, mật báo với Vệ Thành công, lại nói dối là Nguyên Huyền đã lập Thúc Vũ lên làm vua, và nhờ uy nước Tấn bảo hộ. Vệ Thành công tin là chuyện thực, liền bảo Tôn Viêm. Tôn Viêm nói :

- Việc ấy tôi không được biết. Nay Nguyên Dốc hiện đang ở đây, cha hắn có mưu gì thì hắn tất biết, sao chúa công không gọi mà hỏi xem ?

Vệ Thành công lại hỏi Nguyên Dốc. Nguyên Dốc nói :

Việc ấy chắc hẳn không có.

Ninh Du cũng nói rằng :

- Nếu Nguyên Huyền có lòng bất trung thì sao lại chịu sai con đến ở đây, xin chúa công chớ nghi ngờ.

Công tử Chuyên Khuyển lại nói với Vệ Thành công rằng :

Nguyên Huyến lập mưu làm phản chúa công kể đã lâu ngày, nay cho con sang ở đây, chính là muốn dò xem tình hình chúa công ra sao để phòng bị. Nếu Nguyên Huyền định xin với vua Tấn trả lại nước cho chúa công thì tất Thúc Vũ không dám dự hội, nhược bằng Thúc Vũ dám công nhiên dự hội thề thật là chí định chiếm ngôi, chúa công nên xét kỹ.

Vệ Thành công mật sai người sang đất Tiễn Thổ để dò xemn tình hình Thúc Vũ ra làm sao.

Xa giá Chu Tương vương ngự sang Tiễn Thổ. Tấn Văn công đem chư hầu ra đón Ở ngoài ba mươi dặm rồi rước về chốn vương cung.

Chư hầu làm lễ triều kiến xong, Tấn Văn công đem các phẩm vật lấy được của nước Sở ra dâng nộp. Chu Tương vương bằng lòng, nói :

- Từ khi Tề Hoàn công tạ thế rồi, nước Sở lại cậy sức mạnh, xâm phạm các nước Trung quốc, nay được thúc phụ đem quân đánh Sở để giữ yên nhà Chu ta, điều đó chẳng những một mình ta đội ơn, dẫu tiên vương nhà Chu ta thủa xưa cũng đội ơn nhiều lắm.

Ngày hôm sau, Chu Tương vương sách phong Tấn Văn công làm phương bá. Tấn Văn công lập một cái đàn ở bên cạnh vương cung, để hội thề với chư hầu. Đến hôm khai hội, Tấn Văn công lên đàn trước chư hầu lục tục theo sau. Nguyên Huyền hôm trước đưa thúc Vũ vào yết kiến Tấn Văn công, hôm ấy Thúc Vũ quyền nhận nghi vua nước Vệ, cũng được đứng phụ ở cuối tờ ước thư.

Vương tử HỔ tuyên đọc lời thế rằng :

Phàm các nước đồng minh ta, nên cùng một lòng giữ nhà Chu, chớ tàn hại lẫn nhau, kễ nào trái lời thề thì quỷ thần tru diệt .

Các vua chư hầu đồng thanh nói :

- Xin phụng mệnh !

Thề xong Tấn Văn công muốn đem Thúc Vũ vào tiểu kiến Chu Tương vương và lập làm vua nước Vệ để thay Vệ Thành công. Thúc vũ ứa nước mắt mà từ chối với Tấn Văn công rằng :

Ngày xưa Tề Hoàn công hội chư hầu ở đất Ninh Mặc, thế tử Hoa nước Trịnh là con mà làm phản cha, Tề Hoàn công còn đem lời trách mắng ; nay chúa công đang noi theo sự nghiệp của Tề Hoàn công thủa trước, mà lại muốn cho Thúc Vũ này là em mà làm phản anh hay sao ? Nếu chúa công có lòng thương đến tôi thì xin trả ngôi

vua nước Vệ cho anh tôi, anh tôi sẽ dốc một lòng thần phục quý quốc.

Nguyên Huyền cũng sụp lạy mà xin cho Vệ Thành công. Tấn Văn công thấy vậy, mới gật đầu thuận cho.

hồi 42

Tương vương thiết triều ở Hà Dương

Nguyên Huyền khiếu oan cho Thúc Vũ

Chu Tương vương thân hành đến Tiễn Thổ úy lạo Tấn Văn công, rồi lại trở về nhà Chu. Các vua chư hầu cũng cáo từ về nước cả.

Vệ Thành công từ khi nghe lời Chuyên Khuyển nói, có ý nghi ngờ, mới sai người đến đất Tiễn Thổ để dò xem tình hình Thúc Vũ ra sao. Bấy giờ thấy Nguyên Huyền đưa Thúc Vũ vào dự hội với các vua chư hầu, chưa kịp xét kỹ vội vàng về phi báo cho Vệ Thành công biết. Vệ Thành công nổi giận nói :

- Nếu vậy thì Thúc Vũ tự lập làm vua nước Vệ rồi. Nguyên Huyền là đứa phản tặc, tham cầu phú quý, phù lập Thúc Vũ lên làm vua ; lại sai con đến ở đây để dò xét tình hình ta, khi nào ta lại dung tha cho cha con nó.

Con Nguyên Huyến là Nguyên Dốc toan tìm lời phân giải. Vệ Thành công chém một nhát, Nguyên Dốc chết ngay. Những người theo hầu Nguyên Dốc vội vàng trốn về báo tin cho Nguyên Huyền biết. Nguyên Huyền nói :

- Con ta sống chết chẳng qua cũng là tại số, chúa công dẫu phụ lòng Nguyên Huyền này, nhưng Nguyên Huyền này có đâu dám phụ lòng Thúc Vũ !

Tư mã Man bảo Nguyên Huyến rằng :

- Chúa công đã có lòng nghi thì nhà người há chẳng nên từ chức bỏ về, để tỏ lòng tnmg thành của mình ru !

Nguyên Huyền thở dài mà than rằng :

Nếu tôi từ chức .bỏ về thì ai cùng Thúc Vũ giữ nước này ? Con ta bị giết là một việc riêng, lẽ nào ta vì một việc riêng mà không nghĩ đến nước hay sao ?

Nói xong, liền bảo Thúc Vũ viết thư xin Tấn Văn công trả lại ngôi vua cho Vệ Thành công.

Tấn Văn công sau khi đã phụng mệnh thiên tử lên làm bá chủ, liền thu quân về nước. Dân nước Tấn, già trẻ lớn bé tranh nhau đi đón, tưng bừng nô nức. Tấn Văn công về đến triều, bàn việc ban thưởng các công thần, lấy HỒ Yến làm công đầu, thứ nhì Tiên Chẩn.

Các tướng đều nói rằng :

- Trận Thành Bộc, ta phá được quân Sở, đều nhờ công Tiên Chẩn cả, nay lại lấy HỖ Yến làm công đầu là cớ làm sao ?

Tấn Văn công nói :

- Về việc Thành Bộc, Tiên Chẩn bảo ta rằng : "Nên đánh ngay quân Sở, chớ có bỏ mất dịp hay" mà HỒ Yến bảo ta rằng : "Nên lui tránh quân Sở, chớ bỏ mất điều tín nghĩa" Đánh được quân giặc, chẳng qua là cái công một thời ; giữ được điều tín nghĩa, mới thật là cái lợi muôn đời, thế thì HỒ Yến ở trên Tiên Chẩn là phải.

Các tướng đều tâm phục cả. HỔ Yến lại tâu rằng :

Tuân Tức ngày xưa chết vì cái nạn Hề Tề và Trác Tử, thật là một kẻ trung thần đáng nêu gương, xin chúa công bổ dụng con cháu, để khích lệ các bề tôi khác.

Tấn Văn công nghe lời, liền triệu con trai Tuân Tức là Tuân Lâm Phủ, bổ làm chức quan đại phu. Chu Chi Kiều đang ở nhà với vợ con, nghe tin Tấn Văn công sắp đến, vội vàng đón đường để yết kiến.

Tấn Văn công truyền giam lại một chỗ. Khi ban thưởng công thần xong, Tân Văn công liền sai quan tư mã là Triệu Thôi nghị tội Chu Chi Kiều. Chu Chi Kiều kêu van vì cớ vợ ốm. Tấn Văn công nói :

- Kẻ bề tôi đã hết lòng thờ vua thì dẫu thân mình cũng chẳng dám tiếc, huống chi là vợ con !

Nói xong, truyền đem ra chém.

Tấn Văn công từ khi đem quân đi đánh Sở, lần thứ nhất chém Điên Thiệt, lần thứ hai chém Kỳ Man, đến bây giờ lại chém Chu Chi Kiều, ba người ấy đều là bậc danh tướng mà làm việc trái phép cả, bởi vậy các tướng sĩ ai cũng sợ uy theo lệnh. Một hôm, Tấn Văn công ngự triều đang cùng với HỐ Yến bàn việc nước Tào và nước Vệ, bỗng tiếp được thư của nước Vệ gửi đến, Tấn Văn công nói :

- ĐÓ tất là thư của Thúc Vũ xin hộ cho anh.

Nói đoạn mở thư ra xem. Thư rằng :

Chúa công không nỡ diệt nước Vệ và đã hứa lời tha cho vua nước Vệ tôi. Người nước Vệ tôi ai cũng nghển cố trông chở việc làm cao nghĩa của chúa công. Vậy xin chúa công sớm liệu cho

Trần Mục công cũng sai sứ đến nước Tấn, xin lỗi hộ cho Vệ Thành công. Tấn Văn công viết thư hồi đáp, thuận cho Vệ Thành công về nước ; lại hạ lệnh cho Khước BỘ Dương chớ đem quân ngăn trở.

Thúc Vũ được tin Tấn Văn công tha cho Vệ Thành công về nước, vội vàng sai người sang nước Trần để đón Vệ Thành công. Trần Mục công cũng sai người khuyên Vệ Thành công về nước. Công tử Chuyên Khuyển bảo Vệ Thành công rằng :

- Thúc Vũ làm vua nước Vệ đã lâu, được người trong nước ai cũng quy phụ, và nước ngoài giao hảo, nay dẫu cho người sang đón, chúa công cũng chớ nên tin vội.

Vệ Thành công nói :

- Ta cũng lấy làm lo lắm !

Nói xong, liền sai Ninh Du đến Sở Khâu trước để dò xét tình hình. Ninh Du đến Sở Khâu, vừa gặp lúc Thúc Vũ đang bàn việc ở trong triều. Ninh Du vào triều, thấy Thúc Vũ không đặt chỗ ngồi ở chính giữa điện mà chỉ ngồi ở trái đông, lại trở mặt về hướng tây.

Thúc vũ trông thấy Ninh Du, vội vàng chạy ra đón vào, tiếp đãi rất lễ phép. Ninh Du giả cách hỏi rằng :

- Ngài đã quyền ngự ngôi vua, mà lại ngồi ở bên trái thì sao cho trọng thể thống ?

Thúc Vũ nói :

- Ngôi chính ở giữa là chỗ anh tôi ngự xưa nay, tôi ngồi Ở gian bên cạnh, cũng còn có ý sợ hãi, khi nào lại dám ngự ở gian giữa.

Ninh Du nói :

- Bây. giờ tôi mới biết rõ lòng ngài ?

Thúc Vũ nói :

Tôi vẫn ngày đêm mong nhớ anh tôi lắm, đại phu nên khuyên anh tôi mau mau về triều, để cho tôi được yên lòng. .

Ninh Du mới đính ước, hẹn đến ngày mùng một tháng sáu thì đưa. Vệ Thành công về nước. Ninh Du cáo từ lui ra, và nghe ngóng ý kiến của mọi người thì thấy nói các quan trong triều đều xúm nhau bàn luận, chỉ sợ vua cũ lại về thì tất nhiên trị tội những kẻ ở nhà , bởi vậy ai cũng lấy làm lo ngại. Ninh Du bèn nói với các quan rằng :

- Tôi phụng mệnh vua cũ đến đây để truyền . bảo cho các quan biết rằng khi vua cũ về nước, quyết không bắt tội ai cả ; nếu cắc quan không tin thì tôi xin cùng với các quan cùng thề.

Các quan đều nói :

Nếu cùng thề với nhau thì còn nghi ngại gì nữa !

Ninh Du liền cùng với các quan thề. Cắc quan đều bằng lòng cả.

Thúc Vũ lại sai quan đại phu là Trường lương chuyên giữ quốc môn, và dặn rằng phàm những người của Vệ Thành công thì bất cứ lúc nào, cũng mở cửa cho vào ngay. Ninh Du về nói với Vệ Thành công rằng :

Thúc Vũ thật lòng đợi chúa công về. chứ không có ý làm phản.

Vệ Thành công cũng có lòng tin. Khốn nỗi Chuyên Khuyển khi trước đây đem lời gièm pha Thúc Vũ, sợ khi lộ việc ra thì bi tội, nên lại nói với Vệ Thành công rằng :

- Tôi chỉ e Thúc Vũ cùngvới Ninh Du ước định nhau để làm hại chúa công, chi bằng chúa công cứ nhân lúc bất ngờ, về trước ngày hẹn thì mới có thể vẹn toàn được.

Vệ Thành công theo lời, truyền sắp sửa xa giá để về nước Vệ. Chuyên Khuyển xin làm tiến khu. Vệ Thành công cho đi. Ninh Du nói :

- Tôi đã hẹn ngày với người trong nước rồi, nay chúa công về trước ngày hẹn thì người trong nước tất có lòng nghi hoặc.

Chuyên Khuyển quát to lên rằng :

- Ninh Du không muốn cho chúa công chóng về là chủ ý thế nào ?

Ninh Du không dám can ngăn nữa, chỉ xin với Vệ Thành công cho đi trước để hiểu dụ người trong nước, khiến mọi người được yên lòng Vệ Thành công nói :

- Nhà ngươi hiểu dụ cho người trong nước biết rằng nay ta vội về là có lòng nhớ nước, chứ không vì cớ gì khác.

Ninh Du đi rồi, Chuyên Khuyển lại nói với Vệ Thành công rằng :

Ninh Du xin về trước, cũng đáng nghi lắm, chúa công phải đi mau mới được.

Vệ Thành công truyền cho quân sĩ đi mau. Ninh Du về đến quốc môn, Trường Dương hỏi biết là người của Vệ Thành công tức khắc mở cửa cho vào. Ninh Du nói :

Chúa công sắp về đến nơi ?

Trường Dương nói :

- Sao chưa đến hẹn mà chúa công đã về ngay như vậy ? Nhà ngươi vào thành báo tin cho Thúc Vũ biết, để tôi đi đón chúa công.

Ninh Du vừa mới quay mình đi khỏi thì Chuyên Khuyển đã đến nơi rồi. Chuyên Khuyển nói :

Chúa công đang đi sau

Trường Dương vội vàng đem quân đi đón. Chuyên Khuyển tiến thẳng vào trong thành. Bấy giờ Thúc Vũ đang đốc thúc quân sĩ quét dọn cung thất, rồi ngồi gội đầu ở giữa sân, thấy Ninh Du vào báo tin vệ Thành công về, nửa sợ nửa mừng, vừa toan hỏi vì cớ gì mà về trước ngày hẹn, thì lại nghe có tiếng xe ngựa rầm rầm, tưởng là Vệ Thành công đã về, tóc còn chưa ráo, vội vàng lấy tay vén lên, chạy ra đón,

chẳng ngờ lại là Chuyên Khuyển. Chuyên Khuyển sợ để Thúc Vũ sống thì sau này anh em hỏi nhau, lại tỏ rõ tội mình ra, liền giương cung bắn một phát, trúng ngay vào bụng Thúc Vũ. Thúc Vũ ngã gục xuống.

Ninh Du vợi vàng chạy lại để cứu thì đã không kịp rồi.

Nguyên Huyền nghe tin Thúc Vũ bị giết, thì giật mình kinh sợ và chửi rằng :

- Đứa hôn quân vô đạo ! Mày giết oan một người vô tội, trời nào có dung mày, phen này ta quyết sang kêu với vua Tấn, thử xem mày có ngồi yên được hay không ?

Nguyên Huyền lăn khóc một lúc, rồi bỏ trốn sang nước Tấn. Vệ Thành công về đến quốc môn, Trùng Dương đón. Vệ Thành công hỏi chuyện. Trường Dương nói :

Thúc Vũ có dặn tôi rằng chúa công muốn về lúc nào cũng cứ để cho vào, không được ngăn trở.

Vệ Thành công thở dài mà than rằng :

- Em ta quả không có ý gì khác cả.

Khi vào đến trong thành, trông thấy Ninh Du nước mắt dàn dụa chạy lại nói rằng :

Thúc Vũ đang gội đầu, nghe tin chúa công về, vội vàng mừng rỡ lấy tay vén tóc, chạy ra để đón, ai ngờ Chuyên Khuyển bắn chết, khiến cho tôi thất tín với người trong nước, xin chúa công xét cho.

Vệ Thành công hổ thẹn đáp rằng :

Ta đã biết Thúc Vũ oan rồi.

Nói xong, liền tiến thẳng vào trong cung. Các quan nghe tin lục tục ra đón, kẻ trước người sau, không được đều nhau. Ninh Du đưa Vệ Thành công đến xem thi thể Thúc Vũ : hai mắt Thúc Vũ còn mở trừng trừng như người sống vậy. Vệ Thành công ôm đầu Thúc Vú để kê lên trên đùi, rồi khóc òa lên rằng :

- Em ơi ? Vì em mà anh được về, nay vì anh mà em phải chết, đau lòng anh lắm ! .

Bỗng hai mắt Thúc Vũ sáng quắc lên, rồi dần dần nhắm lại.

Ninh Du nói :

Không giết Chuyên Khuyển thì sao cho thỏa linh hồn Thúc Vũ

Vệ Thành công tức khắc sai người bắt Chuyên Khuyển. Bấy giờ Chuyên Khuyển toan đi trốn, nhưng bị Ninh Du sai người bắt ngay được đem về nộp Vệ Thành công. Chuyên Khuyển nói rằng :

- Tôi giết Thúc Vũ cũng là vì chúa công !

Vệ Thành công nổi giận, nói :

- Mày cố tình gièm pha em ta, lại tự tiện giết người vô tội, nay còn toan đổ lỗi cho ta hay sao !

Nói xong, truyền đem ra chém, lại truyền lấy lễ quốc quân hậu táng cho Thúc Vũ. Người nước Vệ khi trước nghe tin Thúc Vũ bị giết, đều huyên náo cả lên, nay thấy Vệ Thành công chém Chuyên Khuyển và hậu táng cho Thúc Vũ, trong nước mới được yên ổn.

Quan đại phu nước Vệ là Nguyên Huyền trốn sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Văn công, sụp lạy ở dưới đất thuận lại câu chuyện Vệ Thành công nghi ngờ Thúc Vũ mà sai Chuyên Khuyển bắn chết Thúc Vũ, Nguyên Huyền vừa nói vừa khóc. Tấn Văn công động lòng thương xót, đem lời an ủi Nguyên Huyền, mời ra nghỉ ở nhà công

quán rồi họp triều thần lại để thương nghị. Tấn Văn công hỏi các quan rằng :

Ta nhờ sức các ngươi, đánh một trận mà thắng quân Sở, lại phụng mệnh thiên tử, hội chư hầu ở đất Tiễn Thổ, sát nghiệp bá chủ chẳng kém gì Tề Hoàn công thủa xưa, nhưng nước Tần không dự hội, nước Hứa không vào triều, nước Trịnh dẫu hội thề mà vẫn có lòng nghi hoặc, nay vua Vệ về nước mà dám tự tiện giết em là một người đã dự hội với ta, nếu ta không đem quân đi đánh thì sao cho thu phục được chư hầu, vậy chúng ta phải định kế như thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

Nước nào làm điều trái phép thì bá chủ có quyền đem quân hỏi tội. Tôi xin sẵn sàng binh mã để chờ lệnh.

HỒ Yến nói :

Làm bá chủ muốn thu phục được chư hầu, tất phải nhờ uy linh của thiên tử, nay thiên tử đã thân hành đến khao thưởng chúa công, mà chúa công thì chưa vào triều kiến thiên tử, vậy thì lấy gì cho người ta phục, chi bằng chúa công hiệu triệu chư hầu vào triều kiến thiên tử, nước nào không đến thì ta sẽ kể tội tiết mạn thiên tử mà đem quân đi đánh.

Triệu Thôi nói :

- Tử Phạm (tên tự HỖ Yến) nói phải lắm ! Nhưng tôi e rằng việc vào triều kiến thiên tử khó lòng mà làm xong sớm được

Tấn Văn công nói :

-Tại sao mà khó lòng?

Triệu Thôi nói :

- Chư hầu đã lâu nay không vào triều kiến thiên tử, bây giờ chúa công đem quân vào chốn kinh sư thì tất thiên tử có lòng nghi ngại mà kiếm cách để từ tạ, chi bằng ta đại hội chư hầu ở đất ôn ấp rồi mời thiên tử đến đấy để ta được triều kiến thì tiện được nhiều điều lắm : một là vua tôi không ngờ vực nhau ; hai là chư hầu không phải

đi xa khó nhọc ; ba là ở đấy đã sẵn có cung thất của vương tử Đái làm ngày trước, không phải tốn công xây dựng nữa.

Tấn Văn công nói :

Làm thế nào mà đem được thiên tử đến đấy ?

Triệu Thôi nói :

- Nay thiên tử đang muốn làm thân với nước Tấn ta, xin chúa công cho tôi vào sứ nhà Chu mà nói về việc ấy.

Tấn Văn cồng bằng lòng, liền sai Triệu Thôi vào nhà Chu liệu.

Thôi tâu với Chu Tương vương rằng .

Chúa công tôi cảm cái ơn thiên tử thân hành khao thưởng và phong chức phương bá, cho nên muốn đem chư hầu đến kinh sư để làm lễ triều kiến, vậy cúi xin thiên tử soi xét

chu Tương vương nín lặng, truyền cho Triệu Thôi hãy ra nghỉ ở công quán, và gọi vương tử HỔ vào để thương nghị. Chu Tương vương bảo vương tử HỔ rằng :

Tấn hầu xin đem quân đến kinh sư để làm lễ triều kiến, sự thể rất là bất trắc, trẫm muốn từ chối thì nên làm thế nào ?

Vương tử HỔ nói :

Xin nhà vua cho tôi được phép đến tiếp kiến sứ thần nước Tấn, để dò xét tình ý, nếu từ chối được thì tôi sẽ kiếm lời mà từ chối.

Vương tử HỔ đến tiếp kiến Triệu Thôi. Triệu Thôi nói đến việc Tấn Văn công xin vào triều. Vương tử HỔ nói :

Tấn hầu muốn xuất lĩnh các nước để vào triều kiến thiên tử, đó là một việc rất hay, chỉ ngặt một điều là các nước họp mặt ở kinh sư thì ngựa xe, lính tráng, ra vào tấp nập, dân nhà Chu lạ mắt, đem lòng nghi ky mà sinh ra điều nọ tiếng kia, lại tránh ra phụ lòng Tấn hầu, cho nên tôi nghĩ rằng việc này nên thôi đi là hơn.

Triệu Thôi nói :

- Chúa công tôi thực lòng nhớ mến thiên tử, ngày tôi ra đi, đã truyền hịch các nước, ước định họp nhau cả ở ôn ấp ; nếu nay thôi đi thì chẳng hóa ra chuyện đùa bỡn hay sao ?

Vương tử HỔ nói :

Vậy thì nên làm thế nào ?

Triệu Thôi nói :

Tôi nghĩ có một kế, nhưng không dám nói ra.

Vương tử HỔ nói :

Ngài có kế gì hay, tôi xin theo ý.

Triệu Thôi nói :

Đời xưa thiên tử có lễ đi tuần thú, để xem tục dân. Nay thiên tử mượn tiếng đi tuần thú, ngự ra đất Hà Dương (tức là ôn ấp) nhân đó chúa công tôi đem chư hầu đến làm lễ triều kiến, như thế thì giữ được cái thể tôn nghiêm của thiên tử mà khỏi phụ tấm lòng thành của chúa công tôi. Tôi nghĩ như vậy, không biết nên chăng ?

Vương tử HỔ nói :

Ngài bàn kế ấy thật là tiện cả đôi đường, để tôi xin tâu lại với thiên tử.

Vương tử HỔ vào triều, đem lời nói của Triệu Thôi tâu lại với Chu Tương vương. Chu Tương vương mừng lắm, hẹn đến ngày 1 tháng mười thì ngự Hà Dương. Triệu Thôi về nói lại với Tấn Văn công Tấn Văn công bá cáo cho chư hầu biết. Đến hôm ấy, Tề Chiêu công (Phan), Tống Thành công (Vương Thần), Lỗ Hi công (Thân), Sái Trang công (Giáp Ngọ), Tần Mục công (Nhâm Hiếu), và Trịnh Văn cõng (Tiệp) đều lục tục đến cả. Tần Mục công nói với Tấn Văn công rằng :

Ngày trước quý quốc chư hầu Ở Tiễn Thổ, nước tôi còn ngại đường xa đến chậm nên không dự hội. Ngày nay nước tôi xin đi theo phía sau chư hầu.

Tấn Văn công nhận lời. Bấy giờ Trần Mục công (Khoản) mới mất, con là Sóc mới lên nối ngôi, tức là Trần Cung công. Trần Cung công sợ, uy nước Tấn, cũng để tang mà đến dự hội. Các nước nhỏ như nước Châu và nước Cử đều cũng đến dự hội cả. Vệ Thành công tự biết mình có tội, đã toan không đi, Ninh Du can rằng :

Nếu ta không đi thì lại càng thêm tội, tất nhiên nước Tấn đem quân đến đánh.

Vệ Thành công bất đắc dĩ phải đi. Ninh Du, Hàm Trang Tử và Si Vinh ba người cùng đi theo. Khi Vệ Thành công đi đến ôn ấp, thì Tấn Văn công không cho vào yết kiến, lại phái một toán quân bắt mà giam lại. Các nước họp tại ôn ấp, cả thảy có mười nước là :

1 Tấn 6. Tần

2. Tễ 7. Trinh

3. Tống 8. Trần

4. LỖ 9. Châu

5. Sái 10. Cử

Chỉ có nước Hứa là một mực thủ hiểm, không chịu theo lệnh Tấn Văn công. Đúng ngày 1 tháng mười thì Chu Tương vương ngự đến. Tấn Văn công đem chư hầu đi đón, rỗi làm lễ triều kiến, mũ áo cân đai, trông rất nghiêm chỉnh. Khi triều kiến xong, Tấn Văn công đem sự tình Thúc Vũ nước Vệ bị oan tâu với Chu Tương vương, và xin sai vương tử HỔ cùng xử cái án ấy. Chu Tương vương thuận cho, rồi sai người gọi Vệ Thành công. Vệ Thành công mặc áo tù mà đến. Quan đại phu nước Vệ là Nguyên Huyền cũng đến. Vương tử HỔ nói với Tấn Văn công rằng :

- Chẳng lẽ hai vua tôi lại đối tụng nhau, xin cho người khác vào thay .

Nói xong, truyền cho Vệ Thành công lui xuống nhà dưới. Ninh Du theo liền bên cạnh Vệ Thành công không rời một bước. hàm Trang tử thay Vệ Thành công vào đối tụng với Nguyên Huyền. Sĩ Vinh được quyền làm trị ngục quan để đối chứng việc ấy, Nguyên Huyền miệng nói trơn như nước chảy, kể hết đầu đuôi từ khi Vệ Thành công trốn ở đất Tương Ngưu, dặn lại Thúc Vũ giữ nước như thế nào, về sau vì thế nào mà giết chết Nguyên Dốc và Thúc Vũ. Hàm Trang Tử nói :

ĐÓ là tại Chuyên Khuyển đem lời gièm pha, khiến chúa công lầm nghe, không can dự gì đến chúa công cả.

Nguyên Huyền nói :

- Chuyên Khuyển lúc trước có nói với tôi xin lập Thúc Vũ, nếu tôi nghe lời thì khi nào chúa công lại được trờ về ; chỉ vì tôi nghĩ đến cái lòng yêu anh của Thúc Vũ. mà cự tuyệt Chuyên Khuyển. Ai ngờ Chuyên Khuyển lập kế báo thù, nhưng nếu chúa công không có lòng nghi kỵ Thúc Vũ thì Chuyên Khuyển gièm pha thế nào nổi ? Tôi sai con tôi là Nguyên Dốc theo hầu chúa công, để tỏ bày tâm tích, ấy chính là do lòng tốt của tôi, thế mà tự chiên vô cớ, con tôi không có tội gì, chúa công cũng giết đi ; cứ suy việc giết con tôi là Nguyên Dốc thì cũng đủ biết chúa công có ý định giết Thúc Vũ rồi.

Sĩ Vinh bẻ lại rằng :

- Nhà ngươi vì việc con mình bị giết mà đem lòng thú oán, chứ không phải vì Thúc Vũ

Nguyên Huyền nói :

- Tôi vẫn thường nói : giết con là oán riêng, giữ nước là việc lớn, có đâu tôi dám vì oán riêng mà bỏ việc lớn. Ngày trước Thúc Vũ dâng thư xin với vua Tấn phục quốc cho anh thì bức thư ấy chính tay tôi làm, nếu tôi đem lòng thù oán, khi nào tôi chịu như thế. Việc giết Nguyên Dốc, trước tôi cũng cho là một sự nghe lầm, tất có ngày phải hối mà nghĩ lại, ngờ đâu lại đi lụy đến Thúc Vũ ngày nay !

Sĩ Vinh nói :

Thúc Vũ không có ý cướp ngôi, chúa công ta cũng đã xét tình rồi. Chẳng may bị Chuyên Khuyển giết, đó không phải là tự ý chúa công

Nguyên Huyền nói :

- Chúa công đã biết Thúc Vũ không có ý cướp ngôi, và những lời Chuyên Khuyển nói toàn là bịa đặt cả, thì sao không trị tội Chuyên Khuyển, mà lại nghe lời hắn ; trước thì hẹn đem quân về nước, mà khi về nước lại cho hắn làm tiền khu, rõ ràng là muốn mượn tay Chuyên Khuyển để giết Thúc Vũ, sao lại bảo rằng không biết ?

Hàm Trang Tử cúi đầu, không cãi được một câu nào. Sĩ Vinh lại bẻ Nguyên Huyền rằng :

Thúc Vũ dẫu bi oan khổ, nhưng Thúc Vũ là bề tôi, chúa công là vua, xưa nay bề tôi bị vua giết oan, biết bao nhiêu mà kể cho xiết !

Và chúa công đã giết Chuyên Khuyển, và làm lễ hậu táng cho Thúc Vũ thế là thưởng phạt phân minh lắm rồi, còn tội gì nữa !

Nguyên Huyền nói :

Ngày xưa, Kiệt giết oan Long Bàng, thì vua Thang cử binh đánh Kiệt ; Trụ giết oan Tỉ Can, thì Vũ vương cử binh đánh Trụ: Vua Thang và Vũ vương đều là bề tôi của Kiệt, Trụ cả, thế mà mắt trông thấy người trung lương. bị oan khổ, cũng phải cử binh để giết kẻ hung tàn. Huống chi Thúc Vũ cùng với chúa công là tình anh em, Thúc Vũ

lại có công giữ nước, không phải như Long Bàng và Tỉ Can mà thôi ; mà chúa công chẳng qua là chư hầu, còn ở dưới quyền thiên tử và phương bá, chưa phải là thiên tử như Kiệt và Trụ, sao lại cho là vô tội được?

Sĩ Vinh nghẹn lời, không cãi sao được nữa, lại nói lảng rằng :

- Chúa công dẫu trái nữa, nhưng nhà ngươi là bề tôi, nếu đã một lòng tận trung với chúa công thì sao khi chúa công về nước nhà ngươi không ra triều kiến mà lại bỏ trốn, là nghĩa thế nào ?

Nguyên Huyền nói :

- Tôi cùng Thúc Vũ giữ nước, thật là vâng mệnh chúa công. Chúa công đã không bao dung được Thúc Vũ, thì khi nào lại có lòng bao dung tôi ? Tôi trốn đi, không phải là sợ chết tham sống mà chỉ muốn bày tỏ cái oan khổ này cho Thúc vũ

Tấn Văn công nghe nói, ngảnh lại bảo vương tử HỔ rằng :

- Xem Sĩ Vinh và Nguyên Huyền qua lại bấy nhiêu lời thì rõ Nguyên Huyền là người thẳng thắn. Vua nước Vệ là bề tôi của thiên tử, tôi không dám trị tội, nay hãy xin trị tội những kẻ về bè cánh với vua nước Vệ.

Nói xong, liền sai đem chém tất cả những kẻ vây cánh của Vệ Thành công Vương tử HỔ nói :

- Tôi nghe nói Ninh Du là một quan đại phu có đức ở nước Vệ, mà trong việc này Ninh Du cũng hết lời khuyên bảo, nhưng vua nước Vệ không nghe. Vả việc này không can dự gì đến Ninh Du, vậy không nên bắt y chịu tội. Còn Sĩ Vinh được quyền chức tội ngục, mà xét đoán không minh thì nên trị tội trước nhất, Hàm Trang Tử biết là trái lẽ, không cãi câu nào, cũng nên giảm tội cho.

Tấn Văn công theo lời, truyền chém đầu SĨ Vinh, chặt chân Hàm Trang Tử, còn Ninh Du thì tha không hỏi đến. Tấn Văn công cùng vương tử HỔ đem những lời nói của bên nguyên và bên bị vào tâu với Chu Tương vương và xin trị tội Vệ Thành công. Chu Tương vương nói :

- Thúc phụ xử đoán thật là công minh, nhưng trẫm e rằng vì bề tôi mà giết vua thì sao cho phải đạo. Trẫm nói vậy thật không có tư tình gì với vua Vệ đâu !

Tấn Văn công sợ hãi, sụp lạy mà xin lỗi rằng :

Kẻ hạ thần không nghĩ đến điều ấy thiên tử đã dạy như vậy thì nên giải vua Vệ về kinh sư để tùy lượng trên xử đoán.

Tấn Văn công truyền cho quân sĩ giữ Vệ Thành công để giải về kinh sư ; lại một mặt cho Nguyên Huyền trở về nước Vệ mà lập vua khác Nguyên Huyền về đến nước Vệ, cùng các quan triều thần thương nghị nói dối là Vệ Thành công đã bị tội chết rồi, nay phụng mệnh thiên tử về lập vua khác. Các quan triều thần đều cử em ruột Thúc Vũ là công tử Thích, tên tự là Tử Hà. Công tử Thích vốn là người nhân hậu. Nguyên Huyền nói :

Lập công tử Thích là phải lắm, anh chết thì em nối.

Nói xong, liền tôn công thử Thích lên nối ngôi, Nguyên Huyền làm tể tướng. Từ bấy giờ nước Vệ mới hơi được yên ổn.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: