NGÔI NHÀ DÒNG HỌUSHER(The Fall of the House of Usher)
Vào một ngày gần cuối năm, suốt ngày, trời u ám và tịch mịch, với những đám mây đen thấp phủ ngang trời, tôi ngồi trên lưng ngựa rong ruổi khắp đồng quê vắng ngắt không một bóng người mà cũng chẳng có phong cảnh nào đẹp. Sau cùng, vào lúc chiều tà, tôi thấy hiện ra trước mắt tòa nhà của Usher. Không hiểu sao, vừa thoạt nhìn tòa nhà, tôi đã thấy một cảm giác nặng nề ảm đạm tràn ngập tâm hồn. Tôi ngắm phong cảnh trước mắt, ngắm tòa nhà, khu đất xung quanh, những bức tượng, những chiếc cửa sổ trông như những cặp mắt trống rỗng, và mấy gốc cây khô héo mà lòng thấy buồn rầu man mác. Tim tôi thấy lạnh buốt, đau đớn, tôi không thể làm dịu bớt cái ám ảnh nặng nề đó. Tôi dừng bước, suy nghĩ, và tự hỏi không biết tòa nhà của Usher có cái gì đáng kinh hãi đến thế? Thật là cả một sự huyền bí, tôi không thể nào tìm được câu trả lời.
Tôi giục ngựa tiến lên bờ hồ nằm kế bên tòa nhà. Mặt nước hồ đen ngòm và phẳng lặng. Tôi đứng ngắm cái hình ảnh lộn ngược ở dưới mặt nước của những ngọn cây quái dị và những chiếc cửa sổ trông như những cặp mắt trống rỗng.
Vậy mà bây giờ tôi phải tới ở ngay tại tòa nhà ảm đạm đó trong nhiều tuần lễ. Chủ nhân của nó - anh Usher - là bạn tôi từ thuở còn thơ, nhưng đã bao năm rồi tôi không được gặp. Mới đây tôi nhận được thư anh, một bức thư khẩn thiết đòi tôi phải đích thân trả lời. Anh viết về bệnh trạng thể xác anh, về bệnh trạng tinh thần của anh, và ý muốn được gặp tôi là bạn thân độc nhất của anh. Đó là đại khái nội dung bức thư, bức tâm thư của anh, nó đã không cho phép tôi từ chối.
Mặc dầu xưa kia, thuở còn thơ ấu, chúng tôi đã gần nhau nhiều nhưng thực ra tôi biết rất ít về anh. Tuy nhiên, tôi cũng được biết rằng gia đình anh, một gia đình rất cổ, đã từ lâu nổi tiếng là am tường nghệ thuật và vì nhiều nghĩa cử thầm kín đối với kẻ nghèo. Tôi cũng được biết rằng giòng họ anh vốn không đông đảo, không chia ra nhiều chi như các họ khác. Cái tên họ anh luôn luôn được giữ cha truyền con nối, và khi người ta nói "Nhà Usher" là người ta nói đến cả họ anh lẫn toà nhà của anh.
Khi tôi rời bỏ cái hình ảnh tòa nhà nằm dưới đáy hồ nhỏ để ngước mắt nhìn vào chính tòa nhà đó tôi thấy loé lên trongđầu óc một sự tưởng tượng kỳ lạ - đáng buồn cười đến nỗi tôi nói lên đây chỉ để tỏ cái sức mạnh của những cảm tưởngđang đè nặng lên hồn tôi lúc bấy giờ. Tôi thấy rõ ràng là ngay đến làn không khí bao quanh tòa nhà và miếng đất kia cũng rất khác biệt. Đó không phải là bầu không khí của trời đất sinh ra, mà là từ những cây khô héo, từ bức tường sám sịt, từ cái mặt hồ phẳng lặng kia phát ra - một bầu không khí bệnh hoạn, nặng nề, u buồn, chậm chạp mà tôi có thể nhìn thấy rõ. Tôi cố rũ bỏ cái mà tôi cho là một giấc mơ để nhìn cặn kẽ hơn vào ngay tòa nhà. Điều đáng nói nhất là cái vẻ "cổ lỗ sĩ" của nó. Không có một bức tường nào bị nứt lở nhưng nhữngviên đá trông có vẻ như đã bị hư nát từ lâu rồi. Có lẽ một cặp mắt sắc sảo sẽ khám phá ra được một vết rạn nứt nơi mặt tiền chạy từ trên nóc xuống tới chân tường và biến dạng trongmàu nước tối om của mặt hồ.
Tôi dong ngựa qua một chiếc cầu ngắn tiến tới căn nhà. Một tên gia nhân ra đỡ lấy cương ngựa, rồi tôi bước vào trong nhà. Một tên gia nhân khác lặng lẽ rón bước dẫn tôi đi qua nhiều khúc rẽ tối om rồi mới tới căn phòng của Usher. Tôi không hiểu sao, nhưng hầu hết mọi thứ tôi gặp ở đây quảđã phụ họa nhiều vào cái cảm giác quái dị mà tôi vừa nói lên lúc nãy. Những đồ vật chung quanh tôi, từ những bức mànche tường tối om, sàn nhà đen ngòm, tới những chiến lợi phẫm giành được trong những trận chiến tranh đã bị chìmvào quên lãng từ lâu rồi - tất cả những thứ đó đều vẫn lànhững vật tôi đã quen thuộc từ thuở còn là đứa trẻ thơ ngây. Tôi nhìn nhận rằng tất cả đều chỉ là những thứ mà tôi đã đoán biết trước, thế mà tôi vẫn ngạc nhiên khi thấy những sự tưởngtượng kỳ dị loé lên trong đầu óc tôi về những vật đơn giản ấy.
Tôi gặp vị bác sĩ của gia đình Usher tại cầu thang. Tôi có cảm tưởng không thể nào mến hoặc tin được cái khuôn mặt của ông ta cả. Ông nói với tôi như với vẻ sợ hãi, rồi đi thẳng. Tên gia nhân bấy giờ mở một cửa phòng rồi lùi lại sau để nhường bước cho tôi tiến vào.
Căn phòng đó thật là rộng và cao. Cửa sổ thì dài chứ không rộng, phía bên trên nhọn hoắt, mà lại được xây thật cao khỏi mặt sàn tối đen, quá hẳn tầm tay. Chỉ có một tia sáng yếu ớt, màu đỏ, lọt qua khung kính để soi sáng nhữngvật gần nhất và lớn nhất. Tuy nhiên, mắt người vẫn cố nhìn vào những góc phòng ở xa hoặc ở tít trên trần cao nhưngchẳng thấy gì cả. Những bức màn tối om che kín cả bốn bứctường. Bao nhiêu ghế bàn đều đã cũ. Sách vở vứt bừa bãi, nhưng vẫn không thể chứng tỏ có bóng người thường lui tới. Trên khắp mọi vật như đều có một vẻ u buồn bao phủ. Một bầu không khí ảm đạm lạnh lẽo bao trùm tất cả mọi thứ.
Khi tôi bước vào, Usher đang nằm dài trên giường vộingồi nhỏm dậy đón tôi với một vẻ nồng nhiệt mà thoạt tiên tôi không thể tin được. Nhưng nhìn vào mặt anh tôi thấy anh rất thành thực.
Chúng tôi an tọa. Và trong khi anh ngừng nói, tôi nhìn anh với một cảm giác vừa ngạc nhiên vừa đau buồn. Thật quả chưa từng có ai đã thay đổi nhiều như Usher, trong một thời gian ngắn ngủi như thế! Có thể nào đây là người bạn thuở thiếu thời của tôi không? Khuôn mặt anh trước kia vẫn đã có một vẻ khác thường. Nước da anh trắng bệch, cặp mắt, anh lớn và sáng quắc, đôi môi anh mỏng, màu không tươi nhưngđẹp, mũi anh cao gọn, tóc mềm mại, đỉnh đầu nở ra, tất cả đều hợp thành một sắc diện không dễ gì quên được. Nhưng nhày nay vẻ kỳ dị trên mặt anh đã tăng nhiều làm cho sự thayđổi càng rõ rệt khiến tôi đâm nghi ngờ không hiểu người đối thoại với tôi là ai nữa. Cái màu trắng bệch kinh khủng của làn da anh ngày nay, với ánh mắt long lanh kỳ dị kia là nhữngthứ trước tiên đã khiến tôi ngạc nhiên và sợ hãi là khác nữa. Tóc anh để mọc dài, và vì mềm nên không rũ xòa xuống mặt mà lại bồng lên. Mặc dầu cố gắng, tôi vẫn không thể nhận thấy ở anh còn một vẻ gì của con người bình thường cả.
Trông cử chỉ anh, tôi thấy ngay anh đang có nhiều biếnchuyển nội tâm, và sau đó, tôi biết anh đã cố gắng đè nén một sự xúc động đến cực độ. Tôi biết rõ điều này từ trước, phần là do bức thư của anh, và phần vì nhớ đến anh từ lúc còn là một đứa trẻ thơ. Những cử chỉ của anh thoạt đầu rất linh hoạt, nhưng sau đó thì trầm lặng quá. Giọng nói của anh, mới đầu chậm và run, nhưng đã đổi ngay thành một giọng mạnh mẽ, dõng dạc, có mạch lạc, tỏ ra anh đã hoàn toàn chế ngự được mình.
Bằng giọng đó, anh nói về mục đích cuộc viếng thăm của tôi, ý anh muốn được gặp tôi và lòng anh mong mỏi nhậnđược niềm hân hoan sâu xa và sức khỏe mà tôi sẽ truyền sang cho anh. Anh kể khá tỉ mỉ cho tôi biết về bệnh trạng của anh. Anh bảo đó là căn bệnh của giòng họ anh, một căn bệnh mà anh không hy vọng sẽ qua khỏi, nó chỉ là một chứng bệnh thần kinh - anh vội thêm, mà chắc chắn rồi sẽ hết. Chính chứng bệnh đó tự nó đã phát hiện một ít cảm giác kỳ lạ của anh, và khi anh kể cho tôi nghe, tôi thấy có một vài điều rấtthích thú nhưng đi quá phạm vi hiểu biết của tôi, mặc dầu lối kể chuyện của anh đã phụ thêm vào tính cách quái dị củanhững cảm giác ấy. Anh khổ sở nhiều vì các giác quan anh càng ngày càng nhạy. Anh chỉ ăn được những thức ăn vô vị, không chịu nổi mùi thơm của các thứ hoa, ra ngoài ánh sáng một chút là bị nhức mắt, và rất ít âm thanh không làm anh thấy ghê sợ.
Hình như anh bị ám ảnh vì một sự sợ hãi nào đó. Anh bảo:"Tôi sẽ chết, tôi phải chết mất, vì cái chứng bệnh thần kinh này. Tôi sẽ chết vì nó, chỉ vì bệnh này, chứ không vì một căn bệnh nào khác. Tôi sợ điều sẽ xảy ra, sợ cái kết quả về sau, chứ không phải sợ chính cái đang xảy ra bây giờ. Tôi run lênkhi nghĩ tới mọi việc, dù là nhỏ bé, nhưng có thể ảnh hưởng tới tình trạng căng thẳng của tâm hồn tôi. Thật ra tôi không sợ đau, mà chỉ sợ kết quả của cái đau - là sự kinh khủng. Tôi cảm thấy sớm muộn gì rồi cũng đến thời kỳ cả thể xác lẫn tâm hồn tôi cùng phải mất đi trong trận chiến đấu cuối cùngchống lại kẻ thù ghê sợ, đó là sự SỢ HÃI!"
Tôi cũng nhận ra, nhưng chậm, và qua những lời lẽ không có mạch lạc và mơ hồ của anh, một sự kiện kỳ dị về tìnhtrạng tinh thần của anh. Anh đang bị kẹp trong cái uy lực của những mối lo âu sợ hãi về căn nhà anh đang sống, căn nhàmà đã bao năm nay anh chưa hề bước ra khỏi cửa. Anh cảm thấy rằng, căn nhà, với những bức tường xám đen và cái hồphẳng lặng bao quanh, hình như trải bao năm qua đã giam chặt mất hồn anh rồi.
Tuy nhiên, anh nói rằng phần lớn nỗi buồn phiền đang đènặng lên anh có lẽ là do một cái gì dễ nhận thấy hơn, do cái chứng bệnh kinh niên - hay đúng hơn cái chết sắp tới củangười em gái yêu quý của anh, người độc nhất sống bên cạnh anh trong những năm trường đằng đẵng và ngoài anh ra, là người cuối cùng của giòng họ anh trên trái đất này. "Khi nó mất", anh nói với một giọng sầu não mà tôi không thể bao giờ quên được," thì sẽ chỉ còn có tôi (con người tuyệt vọngvà suy nhược) là người cuối cùng của giòng giõi Usher lâu đời này thôi."
Anh vừa nói đến đấy thì Madeline (tên nàng) bỗng từ từ đi quá căn phòng, cách khá xa chúng tôi và nàng không nhìnthấy tôi ở đó nên đi thẳng luôn. Tôi nhìn nàng với một sự ngạc nhiên kèm thêm cả một chút kinh sợ mà tôi vẫn không tài nào giải thích nổi. Tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực khi nhìn theo bước chân nàng. Mãi sau, khi cánh cửa khép lại sau lưngnàng, tôi quay lại nhìn người anh - nhưng Usher đã đưa tay lên che mặt và tôi chỉ còn nhìn thấy những ngón tay gầy của anh trắng bệch hơn bao giờ hết và những giòng lệ đang chảy qua những kẽ ngón tay.
Căn bệnh của Madeline lâu rồi, đã vượt khỏi khả năng của các vị lương y. Dường như nàng chẳng còn thiết gì nữa. Thân hình nàng cứ dần dần gầy tọp đi, yếu dần mãi, và thường khitrong một thời gian ngắn nàng lại ngủ li bì như một giấc ngủ ngàn năm của người chết. Cho tới hôm đó nàng chưa nằm liệt, nhưng vào chiều hôm tôi tới nhà thì sức mạnh của "kẻ tàn phá" (theo lời anh nàng nói với tôi đêm đó) đã khiến nàngkhông cưỡng nổi nữa. Tôi được biết rằng lần đó tôi trông thấy nàng có lẽ là lần cuối cùng, và sẽ chẳng còn bao giờ tôiđược nhìn thấy nàng nữa, ít nhất là trong khi nàng còn sống.
Những ngày kế tiếp sau đó, cả Usher và tôi chẳng ai nhắcđến tên nàng, và trong thời gian đó tôi còn mải cố gắng tìm cách nâng cao tinh thần của bạn tôi lên. Chúng tôi cùng nhau ngâm, họa, hoặc tôi ngồi nghe các bản nhạc man dại mà anh đàn, như trong một giấc mơ vậy. Và cứ như thế, khi tình bạn ngày càng nồng thắm càng làm anh cởi mở tâm tư với tôi bao nhiêu, tôi lại càng nhận thấy bấy nhiêu sự vô hiệu của mọi cố gắng của tôi, ngõ hầu đem lại an vui cho một tâm hồn chỉ thấy toàn một màu đen tối bao trùm lên tất cả mọi vật bằng một vẻ u sầu ảo não bất tận.
Tôi sẽ luôn luôn nhớ mãi những giờ phút tôi trải qua vớichủ nhân của tòa nhà Usher ấy. Nhưng tôi đành chịu không thể tìm ra được một ý nghĩa thực sự của những điều nghiên cứu của tôi về Usher. Tôi thấy trên tất cả mọi sự việc hìnhnhư có một ánh sáng kỳ dị nào rọi vào. Tôi cố nhớ lại một vài bản nhạc man dại mà anh đã sáng tác. Những bức họa củaanh, được thể hiện từng nét một do trí tưởng tượng của anh, không hiểu sao vẫn làm tôi rùng mình. Không có danh từ nào có thể diễn tả nổi những bức họa ấy. Nếu từ xưa có ai đã vẽ nên một ý tưởng, thì người đó phải là Usher. Ít nhất là đối với tôi - trong khi tôi còn ở trong tòa nhà đó - trong những bức hoạ của anh vẫn toát ra một cảm giác ghê sợ, kinh hãi và kỳ lạ.
Một trong những bức họa ấy có thể được tả ra đây bằng lời, dù chỉ tả được một cách yếu ớt. Bức tranh mô tả cảnh bên trong một cái hầm nhà hình vòng cung, có những bức tường thấp, sơn trắng và bằng phẳng. Hầm hình như xây rất sâu dưới mặt đất. Không cửa ra vào, không cửa sổ, cũng khôngcó cả đèn hay ánh lửa, vẫn có một luồng ánh sáng chiếu qua đem lại một nền sáng thật ghê rợn cho bức tranh.
Tôi đã nói tới cái trạng thái bệnh hoạn của những giác quan của Usher, cái trạng thái đã làm cho người bệnh đau khổ khi nghe hầu hết các bản nhạc. Những âm mà anhthưởng thức được thật rất hiếm. Có lẽ vì vậy mà điệu nhạccủa anh chơi khác hẳn với những điệu nhạc khác. Nhưng việc đó không giải thích được cái nghệ thuật kỳ diệu của anh. Chắc nghệ thuật đó là do cái uy lực kỳ dị của tâm hồn anh, chỉ họa hoằn mới phát hiện.
Tôi nhớ một cách dễ dàng lời ca của một trong những bảnnhạc của anh nhan đề Lâu Đài Ma. Do lời ca đó, tôi cho là tôi đã hiểu rõ (và cũng là lần đầu tiên) rằng Usher cũng biết rằng tâm hồn anh đã suy yếu đến bực nào. Bài ca mô tả một toà lâu đài nằm trong một thung lũng xanh tươi, có ánh sáng, có màu sắc, có cảnh đẹp, và khí trời êm dịu. Tòa lâu đài có hai cửa sổ sáng sủa khiến dân cư trong thung lũng may mắn ấy có thể nghe rõ tiếng nhạc và thấy những thần linh tươi cườinhảy múa quanh một vị vương giả. Cửa ra vào tòa lâu đài làm toàn bằng những vật quý giá, màu đỏ và trắng. Và những thần linh khác đang tiến vào qua cửa đó, với phận sự duynhất là ca những bài tán tụng đức khôn ngoan của vị vương giả bằng giọng ca thánh thót của chúng. Rồi bài ca tiếp sangmột đoạn buồn, bây giờ những người đặt chân tới thung lũng thì chỉ trông thấy, qua khung cửa sổ và trong ánh sáng màu đỏ, những bóng ma nhảy múa theo tiếng nhạc rạn vỡ, trongkhi đó tại nơi cửa ra vào không màu sắc, một làn sóng những bóng ma khác, cười the thé chứ không cười mỉm nữa, xô nhau chạy ra mãi mà không hết.
Cuộc đàm luận của chúng tôi về bài ca đó đưa đến một ýtưởng quái dị nữa trong đầu óc Usher. Anh tin rằng cỏ cây cũng cảm nghĩ được, và không những cỏ cây mà cả đến đá vànước cũng vậy. Anh tin rằng những tảng đá xám của tòa nhà anh, và cả những cái cây thật nhỏ bé mọc trên các tảng đá ấy, cả cái hồ nước cùng những cây chết khô đều có một áp lực thần bí đối với anh, khiến anh đến nông nỗi này.
Cả những cuốn sách - những cuốn sách mà bao năm nay anh đã nhai đi nhai lại - như ta có thể đoán biết, cũng đều mang tính chất man dại như trên. Usher thường hay ngồi mơmộng hàng mấy giờ đồng hồ để nghiền ngẫm một vài cuốn. Anh say sưa nhất với một cuốn sách rất cổ, viết cho một tu viện nào đó, nói về nghi lễ "canh thức bên cạnh tử thi".
Một buổi chiều kia tôi không thể không nghĩ đến cuốnsách đó và đến uy lực mà cuốn sách khả dĩ đã ảnh hưởng tới anh khi anh báo tin cho tôi biết là nàng Madeline đã chết và anh bảo là sẽ bảo quản tạm xác nàng một thời gian nữa tạimột trong số các hầm vòng cung ở trong tòa nhà. Lý lẽ thôngthường của anh viện ra là một lý lẽ mà tôi cảm thấy tôi phải tán thành. Anh đã quyết định hành động như thế (theo lời anhnói với tôi) là vì chứng bệnh của nàng, vì sự quan tâm vànhững sự ngờ vực quái dị của các vị lương y của nàng, và cũng vì quãng đường xa xôi từ nhà tới nghĩa trang, nơi chôn cất các thân nhân khác của gia đình anh. Hồi tưởng lại nétmặt của vị lương y mà tôi đã gặp ở cầu thang, tôi nghĩ có lẽ bạn tôi có lý.
Hai đứa chúng tôi khiêng xác nàng đến chỗ an nghỉ. Cái hầm vòng cung, nơi an nghỉ của nàng, nhỏ và tối om, và trải qua bao đời, chắc đã được chứng kiến nhiều quang cảnh quáiđản và đẫm máu rồi. Nó nằm sâu ngay bên dưới tòa nhà, dưới chính phòng ngủ của tôi. Cánh cửa ra vào làm bằng sắt dày, và vì nặng nề quá nên thường có tiếng cót két cọt kẹt khi mở ra, đóng lại.
Sau khi đặt xác Madeline vào trong căn phòng kinh khủng ấy, chúng tôi nhìn lại nét mặt nàng lần nữa. Giờ mới là lần đầu tiên tôi nhận thấy sự giống nhau giữa hai anh em họ, và lúc đó Usher mới bảo tôi rằng hai anh em cùng sinh ra mộtngày, và rất mực thông cảm nhau.
Chúng tôi không nhìn nàng lâu vì nỗi ngạc nhiên kinh hoàng còn tràn ngập trong lòng. Gương mặt nàng chỉ còn có một chút màu sắc, và trên đôi môi hình như còn vương một nụ cười. Chúng tôi đóng cánh cửa sắt lại và trở lên nhà trên, nơi đây cũng ảm đạm nặng nề chẳng kém gì ở dưới hầm.
Đến bây giờ, trong tinh thần bệnh hoạn của bạn tôi, như có một sự thay đổi. Anh bước vội từ phòng này sang phòng kia. Gương mặt anh, có thể nói là trông ghê khiếp hơn trước, và mắt anh không còn tinh thần nữa. Giọng nói anh run run như có vẻ sợ hãi ghê lắm. Lắm lúc, anh nhìn vào khoảngkhông hàng giờ đồng hồ như cố gắng lắng nghe một âm thanh nào mà tôi không cảm thấy được. Tôi thấy trạng thái của anh đang ảnh hưởng đến tôi một cách chậm chạp nhưngchắc chắn, và những tư tưởng man dại của anh cứ ám ảnh tôi hoài.
Đặc biệt nhất là vào lúc khuya, đêm thứ bảy hay thứ tám sau khi đã đặt xác Madeline vào trong hầm, khi tôi vàogiường ngủ, tôi mới thấy tất cả cái sức mạnh của những cảmgiác trên. Thời gian trôi qua, tôi vẫn không ngủ được. Tôi cố xua tan tình trạng căng thẳng ấy. Tôi cố cho rằng phần lớn,nếu không phải là hết tất cả, những cảm giác ấy, đều phát ra từ bầu không khí ảm đạm của căn phòng, từ những bức mànche tường tối om, khẽ lay động mỗi khi gió thổi. Nhưng vô ích. Người tôi run lên mặc dầu tôi cố tự trấn áp, và một cơn sợ hãi vô căn cứ bỗng nhiên xâm chiếm tâm hồn tôi. Tôi ngồidậy, nhìn vào bóng tối dày đặc của căn phòng và không hiểu sao, cố lắng tai nghe một vài tiếng động nhỏ tôi không biết từ đâu đến, khi cơn gió bão ở bên ngoài đã yên. Bị cơn kinhhoảng xâm chiếm quá mạnh, tôi mặc quần áo vào, rồi cứ đi đi lại lại trong phòng.
Mới đi được vài lượt, tôi chợt nghe thấy tiếng chân ai bước nhẹ ở cầu thang bên cạnh. Chính là Usher. Một lát sau, tôi nghe thấy anh tiến đến cửa phòng tôi, rồi anh bước vào, mang theo một ngọn đèn. Mặt anh vẫn trắng bệch, nhưng trong mắt anh thoảng một nét cười điên dại. Tuy vậy, tôi vẫnmừng vì có anh đến.
"Anh vẫn chưa trông thấy nó ư?" anh hỏi. Anh bước vội tới một chiếc cửa sổ và mở toang ra trong giữa cơn bão.
Luồng gió mạnh ùa vào gần như muốn nhấc bổng chúng tôi lên. Đêm ấy là một đêm bão tố, nhưng vẫn đẹp trời, vớimột vẻ lạ lùng bí hiểm. Những cụm mây dày đặc (thấp đếnnỗi như muốn đè nặng xuống tòa nhà) bay loạn khắp trời, nhưng chỉ vần quanh chứ không bay đi xa, che mất cả ánhtrăng và các vì tinh tú. Nhưng từ dưới này chúng tôi vẫn nhìn thấy mây bay nhờ ánh sáng phát ra bởi làn không khí từ mặt hồ tối đen và từ những tảng đá trên tường nhà bốc lên.
"Anh không được nhìn vào cảnh đó." Tôi bảo Usher trongkhi dìu anh từ cửa sổ trở lại ngồi vào ghế. "Cái cảnh tượng làm anh ngạc nhiên đó đã từng được thấy ở nhiều nơi khác. Có lẽ tại mặt hồ. Thôi, để tôi đóng cửa sổ lại, trời lạnh quá. Có một truyện này anh thích nhất, để tôi đọc anh nghe, vàchúng mình sẽ ngồi bên nhau cho qua cái đêm kinh khủng này nhé?"
Cuốn sách cũ mà tôi lấy ra là một cuốn sách do một người điên viết cho những người điên đọc và thật ra không phải làcuốn mà Usher thích. Nhưng chỉ có cuốn sách ấy là tiện bên tay. Nếu tôi có thể xét đoán anh qua cách thức anh ngồi lắngnghe hoặc tỏ vẻ chăm chú nghe tôi đọc với hy vọng lắng dịu tâm hồn anh, thì tôi đã nghĩ rằng tôi thành công lắm.
Tôi đọc đến đoạn truyện tả một người khỏe mạnh nhưng say rượu, bắt đầu phá vỡ một cánh cửa, và âm thanh rạn vỡ của gỗ khô vang lên suốt khu rừng xung quanh hắn. Đến đâytôi ngừng đọc vì hình như từ một nơi nào xa xăm trong toà nhà, cũng có những âm thanh đang dội đến tai tôi như nhữngâm thanh tôi vừa đọc trong truyện. Có lẽ sự tương hợp đó đã làm tôi chú ý, bởi vì chính các âm thanh, cùng với trận bãotáp đang tăng mạnh, chẳng có gì đáng làm tôi ngưng đọc hoặc lưu tâm tới cả.
Tôi lại đọc tiếp đoạn người đó bước vào bên trong cánh cửa đã vỡ, tôi gặp một con vật rất lạ lùng và ghê sợ mà người ta thường thấy tả trong các loại truyện hoang đường. Người ấy đánh nhau với con vật, nó ngã quỵ, rú lên một tiếng làm người ấy phải đưa tay lên bịt chặt tai lại.
Đến đây tôi ngừng đọc, và cảm thấy một cái gì thật quái dị vì chắc chắn lần này tôi có nghe thấy (dù không biết là xuấtphát từ đâu) một âm thanh trầm trầm nổi lên, xa xôi, mơ hồ,và kéo dài ra thật quái đản, một âm thanh mà tôi cho là giốngnhư tiếng hú của con quái vật trong truyện. Tôi cố tự chủ đểbạn tôi khỏi nhận thấy những cảm giác của tôi. Tôi không chắc là anh có nghe thấy những âm thanh đó, mặc dầu tôithấy anh có thay đổi. Anh cố nhích dần dần chiếc ghế anhngồi để quay mặt ra phía cửa phòng và tôi không nhìn rõ mặt anh nữa. Tôi thấy rõ môi anh rung rung như đang lẩm bẩmmột mình. Đầu anh gục xuống phía trước, nhưng tôi biết làanh không ngủ vì mắt anh vẫn mở và người anh lắc lư từ bên nọ sang bên kia.
Tôi lại bắt đầu đọc, và đọc nhanh đến đoạn truyện nói tớimột thanh sắt nặng rớt xuống sàn nhà bằng bạc gây nên một tiếng động rung chuyển thật mạnh. Tôi vừa đọc xong thì y như có một cái gì bằng sắt thật sự vừa rớt mạnh xuống mộtsàn bạc, tôi nghe rõ ràng có tiếng ngân lên nhưng ở xa lắm. Tôi mất hết tự chủ, và đứng bật dậy. Anh Usher vẫn ngồi, người anh vẫn khẽ lắc lư. Mắt anh nhìn xuống sàn nhà. Tôichạy lại chỗ ghế anh ngồi. Và khi tôi đặt tay tôi lên vai anh, thì toàn thân anh run lên bần bật, một nụ cười bệnh hoạn thoáng hiện trên môi. Anh khẽ nói thật vội như không biết làtôi có đứng đó: "Không nghe thấy ư? Có. Tôi có nghe, và đã nghe thấy. Lâu, lâu, lâu rồi, nhiều phút, nhiều giờ, nhiều ngày rồi, tôi có nghe thấy, nhưng không dám, không dám, không dám nói. Chúng ta đã bỏ nó còn sống vào trong hầm rồi. Tôi đã chẳng nói là các giác quan của tôi quá mạnh ư? Tôi có nghe thấy những cử động đầu tiên của nó từ nhiều, nhiều ngày rồi, mà tôi vẫn, không dám, không dám nói. Lại đến câuchuyện này - những tiếng động ấy là của chính nó đấy. Trời ơi, tôi bay đi đâu bây giờ? Có phải nó sắp hỏi tại sao tôi lại vội bỏ nó vào đấy không? Có phải tiếng chân nó ở cầu thang đó không? Có phải đó, tiếng tim nó đập mạnh đó không?" Nói đến đây, anh bật vùng dậy và hét lớn lên như thể cố gắngđể vùng dậy. Nó gần làm linh hồn anh thoát ra khỏi xác:"TÔI BẢO ANH LÀ NÓ ĐANG ĐỨNG Ở NGOÀI CỬA KIA KÌA!"
Và dường như những lời anh vừa nói có hiệu lực thể hiện thành sự thật, cánh cửa mà tay anh đang chỉ bỗng từ từ mở ra. Đó là vì gió thổi mạnh quá, nhưng lúc đó, ở phía ngoài cửaquả đúng là có nàng Madeline Usher đang đứng trong bộ đồ khâm liệm. Máu loang khắp chiếc áo trắng, và trên khắp hìnhdáng mảnh mai của nàng chỗ nào cũng có những dấu vết củamột sự vùng vẫy kinh khủng để thoát thân. Nàng đứng run rẩy ở cửa phòng trong giây lát, bỗng khẽ thét lên rồi ngã sấp vào người anh nàng. Bây giờ thì nàng chết thật sự, chết vì đau đớn và kéo theo cả ông anh nàng ngã vật xuống sàn, cũng chết nốt, chết vì những nỗi kinh hoàng mà anh vẫn e sợ.
Tôi vùng chạy ra khỏi căn phòng, ra khỏi căn nhà đó. Cơn bão tố bao quanh lấy tôi với tất cả sức mạnh của nó ngay khi tôi vượt qua cầu. Bỗng nhiên, có một luồng ánh sáng quái di chuyển động dọc theo vết chân tôi đi, và tôi ngoảnh lại để tìm xem nó ở đâu tới, vì sau tôi chỉ trơ có mỗi tòa nhà lớn tối đen mà thôi. Vệt ánh sáng đó là của mặt trăng đang lặn, tròn, đỏ như máu đang chiếu qua vết rạn của bức tường mặt tiền cănnhà mà tôi đã nói ở trên. Lúc mới đầu đó chỉ là một vết rạn khó nhìn thấy, nhưng trong khi tôi đứng nhìn, vết nứt rạn lan rộng mau chóng. Thế rồi, một cơn gió mạnh thổi tới, mặt trăng vừa hiện ra hoàn toàn, và tôi thấy bức tường lớn rã rời ra - có một tiếng động ầm ầm như vũ bão của ngàn thác nước đổ - rồi mặt hồ sâu và tối om dưới chân tôi từ từ khép lại mang theo vào bóng tối tất cả những gì còn sót lại của "NHÀ USHER."
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top