all truyen ma nguoi khan trang( part 2 of 2 )

ĐÊM TRĂNG RẰM 

CHƯƠNG I 

Đêm rừng! 

Trời tối mịt mùng, rừng rậm nên cây dày đặc, che kín cả bầu trời. Những ngôi sao trên cao không thể nào xuyên qua những tầng lá, để soi chút tia sáng xuống mặt đất. 

Trong ngôi nhà, nhóm sinh viên bốn người ngồi quanh cụ già, im lặng lắng nghe tiếng kể đều đều, buồn buồn…Câu chuyện gợi lại hình ảnh tang thương đã xảy ra từ lâu lắm. 

Bếp lửa cháy bập bùng. Ngoài trời bóng tối đặc quánh. Theo câu chuyện của cụ già, hình ảnh cô gái chết thê thảm dần dần hiện lên trước mắt các cô cậu sinh viên. Hòa với tiếng kể trầm trầm, họ nghe như đâu đó vang lên tiếng cọp gầm gừ từ một cõi xa xăm. 

Hoàng hôn bao trùm cả bầu trời phủ dần xuống cánh rừng, ánh sáng cứ tắt dần… tắt dần… rồi từ từ tàn lụi. 

Bóng tối tràn về. Tiếng gầm rú rùng rợn của thú rừng càng làm cho bước chân của hai anh em Chiến càng thêm hối hả. Bởi vì họ biết rằng càng về đêm, con đường này rất nguy hiểm, “Ông ba mươi” thường hay xuất hiện. 

Chiến kéo vội tay em thúc giục: 

- Trời tối rồi, đi nhanh lên đi em. 

Người em gái nhăn nhó: 

- Em mệt lắm, không đi nổi nữa đâu. 

Chiến đưa tay chỉ về phía trước: 

- Cố gắng lên em. Đằng trước có một căn nhà sàn rất cao, mình có thể xin trú ngụ được. 

Người em gái cằn nhằn: 

- Nếu anh không dẫn đi lạc đường thì bây giờ chúng ta đã đến nơi rồi đâu có bị kẹt giữa rừng. 

Chiến cười hiền lành: 

- Anh đâu có cố ý. Em ráng một chút nữa đi, kẻo… 

Chiến chợt đưa tay che miệng im lặng rồi đưa mắt nhìn dáo dác chung quanh làm tăng thêm sự tò mò của em gái. 

- Kẻo sao hả anh Hai? 

Chiến kề tai em thì thầm: 

- Là “Ông ba mươi” đó. 

Người em gái nhìn bóng tối che kín cả cánh rừng hoảng sợ kéo tay anh bước nhanh. 

- Mình đi nhanh lên anh. Em sợ lắm. 

Đáp lời cô là tiếng gầm rống của cọp dữ làm tăng thêm cảm giác rùng rợn của hai anh em. 

Giọng người anh như lạc đi: 

- Nhanh lên đi em! 

Nhận biết sự nguy hiểm sắp xảy ra hai anh em nắm tay nhau bước nhanh. Vừa bước vào sân nhà, hai anh em sững sờ chết đứng bởi ánh sáng như hai ngọn đèn pha chiếu vào mắt. Kèm theo ánh sáng ma quái ấy là tiếng gầm rống đầy uy lực thần bí. 

Người anh thét lên: 

- Cứu tôi với! Cứu tôi với! 

Nghe tiếng kêu cứu của hai anh em, người thợ săn vội vã thả chiếc thúng xuống, quát lên: 

- Từng người trèo lên thúng. Nhanh lên! 

Người anh mừng rỡ: 

- Em lên trước nhanh đi. 

Người em thúc giục: 

- Anh lên trước đi. 

- Không. Em phải lên trước. 

Người em cương quyết: 

- Nếu anh không chịu lên trước, em sẽ đứng mãi ở đây? 

Người thợ săn giục hối hả: 

- Nhanh lên! Cọp đến rồi kìa! 

Chiến nhìn ra, một con cọp to lớn vằn vện đang gầm vang và đang hướng hai chiếc đèn pha vào nhà. Anh kéo vội người em vào thúng: 

- Em lên đi! 

- Không. Anh phải lên trước. 

(??)

- Tôi phải xuống để trả thù cho em tôi. 

Người thợ săn la to: 

- Cậu trả thù cho em cậu hay làm mồi cho cọp? Cậu bình tĩnh lại đi, chúng ta không thể thắng nổi cọp. 

Chiến ôm đầu khổ sở: 

- Tại sao người chết không phải là tôi mà lại là em tôi? Yến, Yến ơi! Anh thật là tồi tệ, không thể nào cứu nổi được em. Anh đáng chết! Anh thật là đáng chết! 

Người thợ săn vỗ về: 

- Đừng tự trách mình nữa, đâu cũng là phần số cả. 

Chiến khóc nức nở: 

- Phần số. Phần số tại sao lại giáng xuống đầu em tôi? 

- Đừng quá đau buồn. 

- Ông bảo tôi đừng đau buồn à? Tôi làm sao mà không đau buồn cho được. Mẹ tôi vừa bị bệnh qua đời, chúng tôi đã mồ côi cha. Bây giờ lại phải mồ côi mẹ. Chúng tôi theo lời trối trăn của mẹ, định dắt nhau đến ở với người dì. Nào ngờ giữa đường xảy ra tai biến. 

- Xin chia buồn cùng cậu. 

- Bây giờ em tôi đã chết, tôi cũng không còn thiết sống nữa. 

- Dù sao thì mọi việc cũng đã lỡ. Tôi khuyên cậu, dù bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải tự giữ gìn mạng sống. 

- Nhưng tôi sống để làm gì khi tất cả những người thân của tôi đều bỏ tôi mà đi. 

- Cậu còn trẻ, tương lai còn dài. Đừng tự hủy diệt mình vì một phút nông nổi. 

- Nhưng… 

Chiến bỗng đưa tay ôm đầu: 

- Trời ơi sao bỗng dưng tôi đau đầu quá. 

- Cậu vừa trải qua một cơn chấn động mạnh. Hãy nghỉ ngơi đi, để tôi nấu cho cậu một chút cháo với thịt rừng, tôi mới vừa săn được nè. 

Chiến xúc động: 

- Ông! Ông thật tốt với tôi. 

- Đâu có gì. Hoạn nạn giúp nhau là lẽ thường mà. 

Chén cháo của người thợ săn thật ngon, thật ngọt. Nhưng Chiến không còn cảm nhận được hương vị của mùi thịt rừng nữa. Nỗi đau đớn đã quật ngã anh. Anh thiếp đi, chìm dần vào cơn mê đầy ác mộng. 

Chiến tỉnh dậy sau ba ngày đêm hôn mê được người thợ săn tận tình chăm sóc. Anh buồn ra cửa nhà sàn nhìn xuống sàn hồi tưởng lại cái chết bi thảm của đứa em gái yêu thương. Bỗng dưng anh dụi mắt như không tin ở chính mình. Yến! Đúng rồi! Em gái anh đang đứng trước sân vẫy gọi anh. 

- Yến! Em đó phải không? 

Chiến lao vội xuống cầu thang ra sân. Bóng cô em biến mất. Anh la to: 

- Yến! Em ở đâu? Ra ngay đi! Đừng đùa nữa, Yến. 

Nghe tiếng la của anh, người thợ săn choàng tỉnh dậy xuống sân kéo anh lên: 

- Cậu điên rồi hả? Nửa đêm xuống đây la hét. Bộ định làm mồi cho cọp hả? 

Chiến vẫn ngơ ngác: 

- Tôi vừa thấy em tôi ở đây. 

- Cậu bị ảo giác đó thôi. Em của cậu đã chết rồi. Cọp đã tha đi mất xác rồi. 

Chiến căm phẫn. 

- Cọp! Cọp! Tao sẽ giết mày để trả thù cho em tao. 

Người thợ săn nhìn Chiến lắc đầu. 

Xa xa, tiếng cọp gầm vang làm náo động cả khu rừng. Tiếng gầm rú của nó vang lên từng hồi ghê rợn như để chứng tỏ sức mạnh thần kỳ của mình. Muốn giết cọp quả là một chuyện phi thường, dân gian có mấy ai làm được. 

Chiến phải chấp nhận một điều đau thương là em gái anh đã chết. Anh cố nằm ỳ trên sàn nhà không muốn bước ra ngoài vì sợ rằng mình sẽ bị ác mộng như đêm qua. 

Trằn trọc mãi, không làm sao anh dỗ được cho mình ngủ. Vừa mới thiếp đi, bên tai anh nghe tiếng khóc nỉ non, ban đầu nho nhỏ, yếu ớt sau lại nức nở hơn. Người thợ săn nằm bên cạnh như cũng đã nghe tiếng khóc. Cả hai đưa mắt nhìn nhau rồi thận trọng bước ra cửa. Chiến kinh hoàng kêu lên: 

- Yến! Yến! Em gái của tôi. 

Một người con gái đang bị treo lơ lửng trên cây cổ thụ trước sân, khóc lóc thảm thiết. 

Người thợ săn ôm chặt lấy Chiến: 

- Bình tĩnh! Cậu đừng xuống sân. Cậu xem kìa! 

Chiến nhìn ra, hình ảnh khi nãy biến mất. Bầu trời vẫn yên lặng, không gian vẫn vằng vặc một ánh trăng non. 

Chiến ôm mặt khóc: 

- Có lẽ em tôi chết oan ức, tan xương nát thịt, không một nấm mồ nên hồn phách dật dờ, không tan. 

- Sáng mai, tôi và cậu sẽ vào rừng tìm xác cô ấy đem về chôn cất may ra có chỗ nương dựa, ấm áp cho vong hồn. 

- Ông nói rất phải. Tôi không biết lấy gì để đáp tạ ơn ông. 

- Cậu đừng nói đến ân nghĩa nữa. 

- Nhưng lòng tôi vẫn áy náy. 

- Chỉ cần cậu khỏe mạnh, bớt đau buồn là tôi vui rồi. 

Sáng hôm sau, lần theo vết máu khô người thợ săn và Chiến vào rừng tìm xác Yến. Đến trước một cái hang, cả hai phát hiện đống xương nằm trên một vũng máu vừa khô. 

Chiến nhặt chiếc vòng đeo tay lên rồi khóc rống: 

- Đúng rồi! Đúng là em tôi rồi. Chiếc vòng này là của nó đeo trên tay nè. 

Người thợ săn cởi vội chiếc áo của mình ra, nhặt mớ xương gói vào rồi thúc giục: 

- Chúng ta về mau kẻo nó phát hiện. 

Chiến nhìn lên trời tự nguyện: 

- Cọp! Cọp! Tao sẽ giết mày để trả thù cho em tao và bao nhiêu người vô tội. 

Rồi anh ôm lấy cái bọc xương mà khóc: 

- Yến! Yến ơi! Linh hồn em có linh thiêng hãy phù trợ cho anh diệt loài nghiệt súc trừ hại cho dân lành.

Sợ ở lâu bất tiện, người thợ săn kéo tay Chiến: 

- Chúng ta về ngay đi. 

Chiến nắm chặt tay người thợ săn: 

- Ông! Ông hãy giúp tôi diệt cọp đi. 

Người thợ săn gật đầu: 

- Cọp là loài vật “Hữu dũng vô mưu”, chúng ta không thể đối đầu với nó mà phải dùng kế mới được. 

- Ông đã có cao kiến gì?

- Chúng ta cần theo dõi nó, nắm được đường đi nước bước của nó, sau đó sẽ hạ độc.

- Ý của ông là.. 

- Ta còn trữ một lượng thuốc mê khá lớn, chỉ cần đợi lúc nó mê ngủ, ta xông thuốc vào hang cho nó mê man mới ra tay được. 

- Ý rất hay! 

Sau nhiều ngày theo dõi cọp, người thợ săn quyết định: 

- Đêm nay chúng ta sẽ hành động. 

Chiến lặp lại: 

- Phải. Chúng ta sẽ vào rừng mai phục chờ cọp ngủ say rồi thực hiện theo kế hoạch. 

- Cậu đã chuẩn bị đầy đủ chưa? 

Chiến đưa con dao sáng ngời lên: 

- Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng. Con dao này sẽ đâm thẳng vào quả tim của nó. Tôi sẽ lấy máu nó để tế mộ em tôi. 

- Đừng quá khinh địch. Cọp tuy mê nhưng sức mạnh nó vẫn còn. 

- Tôi biết rồi. 

Đêm đã về bóng tối tràn ngập núi rừng. Chiến nôn nao chờ giờ hành động. Chính tay anh sẽ giết cọp, sẽ lấy quả tim nó để tế vong linh em gái mình. Chờ đợi, hồi hộp rồi giây phút ấy cũng đã đến. Người thợ săn đưa mắt nhìn anh gật đầu: 

- Cẩn thận! 

- Vâng! Ông yên tâm đi! 

Người thợ săn giắt vô người con dao và cây súng săn rồi cùng Chiến lặng lẽ vào rừng. Đêm rừng đầy những bí ẩn và nguy hiểm. Trong bóng đêm người thợ săn từng bước chắc chắn, men theo một lối nhỏ vào hang cọp. 

Người thợ săn thì thào: 

- Cố nín thở đừng để nó phát hiện. 

Chiến gật đầu. Cả hai lần theo vách đá vào hang. Cọp đang ngủ say, đầu hướng ra cửa theo một tư thế cảnh giác. 

- Đeo mặt nạ vào. 

Chiến làm theo lời người thợ săn. Bằng một kỹ thuật tinh vi, người thợ săn mồi lửa phà một làn thuốc mê vào hang cọp. 

Con cọp chợt ngẩng đầu lên như vừa phát hiện một mùi vị lạ. Người thợ săn cùng Chiến giật thót người đu mình lên cửa hang nín thở. 

Trong trạng thái ngủ mê, thính giác của cọp như mất đi sự nhạy bén, nó lại từ từ lăn ra ngủ. Người thợ săn lại tiếp tục phà hơi thuốc vào hang cọp một liều cực mạnh. 

Chờ một thời gian cho thuốc mê thấm thật sâu vào cơ thể cọp, người thợ săn dùng một cục đá to ném vào đầu cọp. Con cọp vẫn không nhúc nhích. Người thợ săn bảo Chiến: 

- Thời điểm đến rồi chúng ta vào hang đi. 

Người thợ săn cùng Chiến vào hang. Vị chúa tể sơn lâm vẫn im lìm trong giấc ngủ không hay biết rằng cả một đời oanh liệt làm bá chủ của muôn loài sắp kết thúc. Chiến căm hờn kết liễu cọp bằng một lưỡi dao đâm thẳng vào tim. Máu cọp bắn tung tóe trong tiếng thét gào to của Chiến. 

- Yến ơi! Yến ơi! Anh đã trả thù cho em rồi. 

Không hổ danh là vị chúa sơn lâm của rừng xanh, trong cơn mê cọp gầm lên đau đớn rồi tấn công địch thủ. 

Người thợ săn quát to: 

- Cẩn thận. Chạy ra khỏi hang ngay. 

Vì thuốc mê ngấm sâu nên cọp không định được phương hướng, đầu nó va vào vách đá rồi ngã gục. Thế là hết đời oanh oanh liệt liệt làm kinh hồn vỡ mật mọi người. 

Đợi cọp chết hẳn người thợ săn hỏi Chiến: 

- Cậu định thế nào? 

- Tôi chỉ lấy quả tim cọp về tế vong linh cho em tôi. 

- Được rồi. Cậu cứ làm theo ý nguyện. Sáng mai ta sẽ vào lột da nó đem về đổi đồ dùng. Còn thịt nó sẽ phân chia cho dân dưới làng. 

- Tùy ông quyết định. 

Chiến dùng dao moi lấy quả tim cọp đem đến nấm mồ dưới gốc cây cổ thụ khấn vái: 

- Yến ơi ! Em sống khôn thác linh, về đây chứng cho anh trả thù cho em. Kẻ thù giết em đã chết dưới tay anh. Em yên lòng mà nhắm mắt đi nghe. 

Từ đó Chiến ở lại với người thợ săn không về làng nữa. Một đêm trăng ngồi trong nhà sàn, anh nhìn thấy xa xa phía rặng núi, bóng một cô gái cưỡi trên lưng con cọp bay vút qua, rồi mất hút trong khe núi. 

Anh lẩm bẩm: 

- Quái lạ! Mình phải tìm cho ra chuyện này mới được. Không thể có chuyện như thế được. 

Anh đã cố lần dò, nhưng không tìm thấy giấu tích gì. Vào những đêm trăng sáng, hình ảnh ấy vẫn hiện lên. Anh tự nhủ: 

- Có lẽ nơi cõi âm u nào đó, em gái anh đã thuần hóa được cọp dữ nên thường cưỡi nó dạo chơi. 

Không muốn chứng kiến hình ảnh đau thương làm gợi lên trong lòng anh nỗi mất mát thê thảm, anh bỏ rừng ra đi. 

Những người dân đêm đêm vào rừng bẫy thú cũng thường thấy hình ảnh cô gái cưỡi trên lưng cọp bay vút đi. Từ đó không ai dám lai vãng tới vùng chân núi. Dân ở đó dọn ra bìa rừng ở. Vùng rừng núi này lại trở nên hoang vu vắng lặng. 

Truyền thuyết về cô gái cưỡi cọp được lan truyền ra. Mọi người cho đó là vùng đất thiêng, không dám xâm phạm, chỉ có người thợ săn, ông vẫn ở mãi bên cái nhà sàn nơi mà cô gái bị cọp vồ và câu chuyện cái chết thê thảm của cô. 

Cụ già kể xong câu chuyện, mà không khí vẫn lặng đi. Mọi người như còn xúc động trước cái chết tức tưởi của cô gái. 

Giữa nhà sàn, bếp lửa vẫn cháy bập bùng. Không khí ấm áp vẫn không xua được nỗi sợ trong lòng hai cô gái. Hồng nhìn ra sân. Ngoài trời tối đen. Những bóng cây đen thẫm như ẩn giấu những đe dọa mơ hồ. 

Cô gái ngồi im một lát rồi khẽ nói: 

- Cụ ơi! Có phải cụ chính là người thợ săn trong câu chuyện không? 

Cụ già gật đầu: 

- Cháu nhận ra được ông sao? Phải, chính ông là người thợ săn đó. người đã chứng kiến cái chết oan khốc của cô gái trẻ. Mấy năm qua rồi, mỗi lần nhớ lại buổi chiều tối hôm đó, ông vẫn còn thấy đau lòng. 

Tuyết lên tiếng: 

- Còn người anh của cô gái, bây giờ ra sao hả ông? 

- Cậu ấy bỏ xuống chợ sinh sống, ban đầu thỉnh thoảng cậu ấy còn về thăm ông, nhưng mấy năm sau thì không thấy nữa. 

Cụ già ngừng một chút, rồi nói tiếp: 

- Có một điều mà đến nay ông vẫn không giải thích được, đó là chuyện trong buôn cứ một năm lại có một cô gái bị mất tích, ông nghĩ, có lẽ hồn oan của cô gái đó oán hận cõi đời, nên mỗi năm cứ bắt một cô gái đi theo. 

Hồng rùng mình: 

- Chuyện có vẻ hoang đường quá. 

- Nhưng nó có thật đó cháu. 

Cụ già lại trầm ngâm một lúc, rồi nói tiếp: 

- Hay là âm khí con cọp đó mạnh quá, nên còn lẩn khuất ở cõi đời, mỗi năm vào ngày nó chết, nó lại trở về bắt một cô gái vì nó nhớ thịt người. 

Nghe ông già nói, mọi người tự nhiên rùng mình. Gai ốc nổi đầy người. Duy chợt nhìn đồng hồ, rồi ra hiệu cho các bạn: 

- Khuya rồi, mình về cho cụ ngủ đi quý vị. 

Bốn sinh viên lần lượt đứng lên, chào cụ già rồi xuống cầu thang đi ra đường. 

Ngoài trời tối đen như mực. Duy cầm chiếc đèn pin rọi đường cho cả nhóm trở về nhà. 

Hồng liến thoắng: 

- Lần này mình đã không uổng công khi bỏ thành phố lên đây để đi thực tế. 

- Chúng ta là những sinh viên. Chúng ta đang sưu tầm những tư liệu văn học của dân tộc ít người. Câu chuyện của cụ già cũng là một tài liệu quý giá của chúng ta. 

Tuyết phụ họa theo Hồng. Duy băn khoăn: 

- Nhưng câu chuyện của cụ thật là thương tâm và cũng thật là đáng tiếc. 

Phong thắc mắc: 

- Thương tâm thì thật rồi. Còn vì sao lại là đáng tiếc? 

Duy trề môi: 

- Vậy mà cậu cũng tự hào mình là sinh viên sử học, chuyên bảo tồn lịch sử. 

- Ý của cậu là… 

- Các động vật hoang dã cũng gắn liền với lịch sử. Cậu không thấy là rừng nước ta đang tuyệt chủng hẳn cái giống cọp và các loài thú quý hiếm khác thì con người cứ bắn giết bừa bãi. 

- Ý của cậu là người anh đó không nên giết cọp để trả thù? 

- Không hẳn là vậy. Nhưng tớ rất là tiếc. Nếu là bây giờ, chúng ta sẽ có những chuyên gia để thuần hóa nó đưa nó vào khu tập trung nuôi dạy và bảo tồn. 

- Xem ra cậu rất có cảm tình với con cọp hung ác đó. 

- Cậu cho mình là người như thế nào mà dành hai tiếng “cảm tình” cho một loài thú dữ? 

Tuyết giảng hòa: 

- Thôi đi, hai cậu đừng cãi vã nữa. 

Hồng trầm ngâm: 

- Phải đó, mình đừng bàn luận những chuyện xưa đã qua mà bây giờ hãy nghĩ đến những điều thực tế đang xảy ra. 

Phong hỏi nhanh: 

- Hồng muốn nói đến chuyện các cô gái trong làng bị mất tích hằng năm à? 

- Phải. 

- Phong cũng thật thắc mắc. Không thể có những chuyện thần thoại ấy xảy ra giữa thế kỷ hai mươi mốt này. 

Duy khẳng định: 

- Có lẽ đây là một âm mưu của kẻ xấu lợi dụng sự mê tín của dân làng mà thực hiện âm mưu đen tối. 

Tuyết cũng đồng tình: 

- Đúng vậy. Chắc chắn đây là âm mưu của những người đang sống lẩn trốn pháp luật. Chúng ta cần phải góp phần vạch trần sự việc để tìm ra sự thật. 

- Nhưng chúng ta bắt đầu từ đâu bây giờ? 

Hồng lo lắng hỏi. Duy đề ra phương hướng: 

- Chúng ta bắt đầu điều tra từ những cô gái trong làng bị mất tích. 

Tuyết tán thành: 

- Đúng đó. Chúng ta sẽ hỗ trợ nhau nghe. 

Phong búng tay: 

- Lẽ đương nhiên rồi. 

Cả bọn hăm hở bước về nhà. Trong lòng mỗi người miên man suy nghĩ.

CHƯƠNG II 

Buổi sáng vùng cao, bình yên, phẳng lặng. Từng lớp sương mù tan dần… tan dần hiện ra trùng trùng điệp điệp một màu xanh của những đồi nương ngô thẳng tắp, từng đoàn… từng đoàn người mang những chiếc gùi, sau lưng đi làm rẫy. Tiếng trẻ con cười giòn bên lưng mẹ. Những người phụ nữ nở nụ cười sung sướng sửa lại chiếc địu, âu yếm nhắc nhở: 

- Ngoan nào! Đừng nghịch nữa. 

Hồng cùng cả nhóm vừa đi, tai lắng nghe tiếng suối chảy róc rách âm vang như một điệu nhạc vi vu, trầm bổng. Tuyết vẫn còn băn khoăn mãi chuyện đêm qua. 

Cô kéo tay Tuyết: 

- Đêm qua mình không làm sao mà ngủ được. Câu chuyện đêm qua của cụ già cứ làm mình ray rứt mãi. 

- Mình cũng vậy. Không biết là chuyện “ Cô gái cưỡi cọp” ấy có thật hay không? 

Người chủ nhà đi kế bên khẽ gật đầu: 

- Là có thật đó các cô à. 

Hồng nhanh nhẩu: 

- Bác Rô! Bác cũng biết chuyện này nữa à? 

Ông Rô chậm rãi nói: 

- Không chỉ riêng bác mà cả buôn làng này ai cũng biết chuyện đó cả. Đó là một câu chuyện thần bí và thương tâm của cái buôn này. 

- Có phải vì sự mất tích của các cô gái không bác? 

- Phải. Hằng năm, cứ vào đến ngày cọp chết là buôn làng lại phải mất đi một cô gái hiền ngoan, xinh đẹp. Tai họa này không biết phải hứng chịu đến bao giờ? 

- Chính quyền ở đây không có biện pháp gì ngăn chặn sao bác? 

Bác Rô lắc đầu: 

- Có. Nhưng vô hiệu quả. Các cô gái bản bị mất tích là một cách bí mật. 

Tuyết nói lên ý nghĩ của mình: 

- Cháu tin rằng có thể đây là một âm mưu của kẻ xấu lợi dụng sự mê tín của dân làng. 

Ông Rô lo sợ dáo dác nhìn quanh: 

- Đừng! Cháu đừng nói thế mà xúc phạm đến thần linh. Hồn cô gái ấy thiêng. Chúng ta phải cúng tế hàng năm để buôn làng được bình yên. 

- Chúng ta có thể cúng tế bằng những con vật mà. Sao lại dùng cả một mạng người. 

- Đó là ý thần linh. 

Như sợ mạo phạm, ông Rô chấm dứt câu chuyện: 

- Cháu đừng nói nữa, bởi vì đã đến nương rồi. Ở đây rất gần chân núi, cô gái ấy thường hay cưỡi cọp đi ngang đây lắm. 

- Cháu còn nhiều điểm nghi ngờ. 

Ông Rô xua tay: 

- Đừng tự rước họa vào thân. 

Rồi ông lầm lũi đi hái ngô. Hồng và Tuyết họp cùng Duy và Phong hái ngô phụ giúp mọi người. 

Duy vừa hái vừa hò reo: 

- Mình thi đua nghe các bạn. 

Phong hào hứng: 

- Thi như thế nào? 

- Ai hái nhiều nhất sẽ được thưởng. 

- Thưởng gì? 

- Một nụ hôn của Tuyết. 

Tuyết nhăn mặt: 

- Sao lại là Tuyết? 

- Tại vì… tại vì… 

Duy ngập ngừng càng làm Tuyết giận dỗi: 

- Duy phải nói cho rõ ràng nếu không thì Tuyết không tha cho Duy đâu. 

Mặt Duy đỏ bừng như gấc chín: 

- Vì môi Tuyết rất ngọt ngào. 

Phong giơ tay: 

- Tớ sẽ về giải nhất. 

Duy phản ứng: 

- Chưa chắc. 

- Tớ nhất định thế. 

- Tại sao cậu dám chắc là sẽ thắng? 

Phong đưa tay chỉ vào ngực: 

- Sức mạnh của tình yêu. 

Lần này thì Tuyết đã giận thật sự: 

- Các bạn đừng đem Tuyết ra làm trò đùa nữa. 

Nhìn Tuyết sắp khóc, Phong thấy lòng mình se lại. Anh vỗ về: 

- Xin lỗi. Bọn anh không cố ý làm cho Tuyết giận đâu. 

Tuyết nhìn Phong với ánh mắt dỗi hờn tha thiết: 

- Sao lại đem Tuyết ra mà đùa giỡn như thế? 

Trái tim Phong như thầm nói: 

- “Không phải là đùa đâu Tuyết”. 

Nhưng anh lại cười cầu hòa: 

- Xin lỗi. Anh thành thật xin lỗi và tối nay anh sẽ đền bù lại cho Tuyết. 

- Anh đền cho Tuyết cái gì? 

- Một đêm ngắm trăng bên bờ suối. 

Hồng chen vào: 

- Có Hồng tham gia không hay là đêm trăng chỉ có hai người? 

- Hồng! Làm sao mà Tuyết có thể thiếu Hồng được. 

Hồng nháy giọng: 

- Ối giời! Tình cảm thế. 

Mặt trời đã lên cao. Những chiếc gùi đã đầy ngô. Ông Rô gợi ý: 

- Các cháu hãy nghỉ một chút đi. Chúng ta nướng ngô ăn rồi sẽ cùng về làng. 

- Hoan hô bác Rô. 

Ngọn lửa bùng lên rồi tàn, để lại đống than hồng đỏ rực. Mùi ngô thơm phức làm bao tử mọi người xôn xao. 

- Thơm quá! 

Duy hít hà, ông Rô giải thích: 

- Ngô mới hái rất ngọt, các cháu tự nhiên đi. 

- Cám ơn bác Rô. Chúng cháu không khách sáo đâu. 

Mọi người cùng thưởng thức những trái ngô vừa thơm vừa ngọt. Ông Rô hài lòng cười sung sướng với thành quả lao động của mình. 

- Tuyết lãng mạn ghê. 

- Phong xem kìa! Dưới làn tro óng ánh từ những ngôi sao đổ xuống, con đường đất vàng ướt đẫm sương đêm, hương thơm thoang thoảng của những chiếc lá non vừa nhú. Vách đá thẳng đứng soi bóng xuống dòng suối đang ngủ dưới ánh trăng. 

- Phong cũng đã nghe được những tiếng vo vo nhè nhẹ của đám côn trùng. Chúng đang cùng nhau hòa tấu một khúc nhạc của đêm rừng. Hơi thở của đêm rừng cũng như hòa vào hơi thở của đôi vai nhau, hòa cùng tiếng đập của trái tim tựa như tiếng hát của mùa xuân làm ngây ngất lòng người. 

Duy và Hồng cứ đứng ngẩn người ra nhìn Phong và Tuyết. Hai người như hai kẻ mộng du đang lang thang trong hư ảo mà quên đi thực tế bên ngoài. 

Hồng ngơ ngác hỏi: 

- Các bạn làm sao thế? 

Tuyết như lắng đi cơn xúc động trong lòng cô cười gượng: 

- Mình có làm sao đâu. Chỉ là một niềm vui vì đã cảm nhận được cái đẹp của thiên nhiên. 

Hồng thở dài: 

- Rất tiếc, nơi đây là nơi nguy hiểm gây biết bao tang thương cho con người trong buôn làng. 

- Mình vẫn còn hoang mang về câu chuyện cô gái cưỡi cọp. 

Duy đồng tình: 

- Ai mà tin cho được cái chuyện hoang đường ấy. 

- Tuy là hoang đường, nhưng tại sao các cô gái vẫn liên tục bị mất tích. 

Phong băn khoăn đưa thắc mắc của mình ra. Tuyết đề nghị: 

- Chúng ta hãy tìm hiểu chuyện này để tìm cho ra một sự thật. 

- Nhất định rồi! 

Đang cùng nhau tranh luận, cả bốn người bỗng dừng lại đưa mắt nhìn về phía chân núi. Cô gái cưỡi cọp lướt ngoài phía vách núi. Bóng ấy sừng sững dưới ánh trăng. 

- Đuổi theo! 

Theo tiếng Phong và Duy, Hồng và Tuyết cũng vận dụng hết tốc lực của mình để đuổi theo. 

Cô gái mất hút vào chiếc hang. Duy định lao vào nhưng Phong cản lại: 

- Đừng vào. Bây giờ là ban đêm nguy hiểm lắm. Chúng ta về đợi sáng mai sẽ vào. 

- Phải đó. Chúng ta phải báo với chính quyền địa phương hỗ trợ. Biết đâu trong hang có kẻ xấu, chúng ta không thể chống chọi được. 

- Tuyết nói phải đó. Chúng mình về thôi. 

Phong kéo tay Duy cùng Hồng và Tuyết ra về. Trên đường đi, mọi người cứ im lặng làm không khí thêm nặng nề. 

Về nhà Phong căn dặn: 

- Các bạn hãy giữ kín chuyện thám thính trong hang kẻo mọi người lo lắng nghe. 

Cả ba người gật đầu: 

- Biết rồi! 

Đang nói chuyện thì nghe bên nhà gần đó tiếng lao xao than khóc. Phong giật mình bảo: 

- Chúng ta chạy qua đó xem sao. 

Đến nơi, trong nhà đã có mặt ông Rô cùng với mấy người trong làng. 

- Việc gì vậy bác Rô? 

Ông Rô trả lời Phong: 

- Con gái của thím Sin bị mất tích. Cả nhà đang đi tìm nhưng người đâu chẳng thấy, chỉ thấy thau đồ và đôi dép bỏ lại. 

Rồi thím ôm mặt khóc nức nở: 

- Chắc nó đã bị “Cô gái cưỡi cọp” bắt đi rồi. Trời ơi! Tôi khổ quá, chỉ có nó để an ủi mà sống lúc tuổi già, nay nó đã bỏ tôi mà đi rồi. 

- Thím đã trình báo với chính quyền chưa? 

- Rồi. Nhưng chắc cũng chẳng ăn thua gì. Trong làng đã biết bao cô gái ra đi không trở lại. Con tôi chắc cũng phải chịu chung số phận ấy thôi. 

Phong an ủi: 

- Thím đừng lo. Chúng cháu sẽ vào rừng tìm cô ấy cho thím. 

Ông Rô nhiệt tình: 

- Chúng tôi sẽ cùng đi với các cháu. 

Thím Sin xúc động: 

- Cám ơn. Cám ơn mọi người. Tôi cũng đi. 

- Thím đã quá mệt mỏi, hãy ở nhà chờ đợi đi. 

Phong nắm tay thím Sin: 

- Bác Rô nói phải đó thím Sin. Thím hãy ở nhà để chúng cháu đi. 

Thím Sin mếu máo: 

- Tôi ở nhà chờ tin mọi người nghe. 

Phong dắt mọi người vào rừng đến chân núi vào hang mà cô gái cưỡi cọp đã bay vào. Những bó đuốc cháy sáng rực, những tiếng gọi vang dội cả hang núi. Vô vọng, cuộc tìm kiếm hoàn toàn vô vọng. Đến sáng, mọi người thất vọng ra về trong nỗi đau mất mát. 

Thím Sin ngất đi khi biết rằng con gái mình sẽ đi mãi không về. 

Chung quanh hai người là một bãi cỏ rộng, trong ánh sáng đêm trông vàng như màu bơ. Những cây cổ thụ to mọc sừng sững chống lại những cơn bão rừng tàn khốc. 

Mọi người trong làng đều không ngủ được vì sự mất tích của cô gái. Đêm nay trong làng tổ chức một buổi họp về phương án đề phòng và truy tìm sự thật. Cuộc họp kết thúc trưởng làng mời một buổi tiệc vì buổi sáng hôm nay thanh niên trong làng săn được con heo rừng thật to. 

Phong dẫn Tuyết rời đám đông vào rừng, từng cơn gió mạnh ào ào lướt qua làm Tuyết khẽ rùng mình. Phong choàng cho Tuyết chiếc áo khoác của mình. 

- Tuyết! Em nghĩ thế nào về câu chuyện huyền hoặc này? 

- Em vẫn giữ ý kiến ban đầu. 

- Em cũng cho rằng đây là một âm mưu. 

- Phải. Ý anh thế nào? 

- Anh cũng nghĩ như em và quyết tìm cho ra sự thật. 

- Nhưng nguy hiểm lắm. 

- Dù phải đem sinh mạng mình ra để đổi lấy sự bình an của dân lành anh cũng không ngại. 

- Anh thật can đảm. 

- Em biết không? Ngày xưa cha anh cũng là một chiến sĩ. Chỉ vì bảo vệ cho dân mà phải hy sinh. Anh quyết lòng sống không hổ thẹn với người đã khuất. 

Tuyết nhìn Phong. Đôi mắt đen sâu thẳm nằm dưới hàng chân mày rậm. Một vầng trán cương nghị trên gương mặt thanh tao. Anh có một sức gợi cảm làm lòng cô xôn xao. Cùng học chung dưới một mái trường bao năm, vậy mà giờ đây cô mới nhận được tình cảm của mình. 

- Anh nói gì sai mà em nhìn anh dữ vậy? 

- Không? Em chỉ xúc động khi nghe anh kể về cha anh thôi. 

- Mẹ anh thì lại càng tội nghiệp hơn. Từ ngày cha anh mất, bà đã sống đơn độc một mình, thân cò gầy yếu, tần tảo nuôi con. 

- Bác ấy sống vô cùng cao cả. 

- Vì vậy anh nhất quyết không phụ tấm lòng của mẹ. 

- Em thì may mắn hơn anh. Em được sống trong hạnh phúc với cha lẫn mẹ. 

- Anh cũng rất ngưỡng mộ em. Là một tiểu thơ con của một vị giám đốc có uy danh trên thương trường mà lại dám đăng ký đi thực tế vùng rừng núi này. 

- Em cũng chỉ muốn tìm hiểu và ngắm nhìn quê hương đất nước mình thôi. Rừng núi quê mình thật là đẹp phải không anh? 

- Phải. Đêm rừng thật đẹp, thật quyến rũ. Em có ngửi được mùi hương nồng đượm và ngát thơm của các loài hoa dại, cánh mỏng như sương đó không? 

- Có. 

Tuyết vui sướng thốt lên: 

- Ánh trăng làm cho lòng người xao xuyến làm rung động những tình cảm thơ mộng thầm kín của tâm hồn. Trăng và hoa tuyệt vời quá! 

Trong cảm giác bềnh bồng, Tuyết cảm thấy như vòng tay của Phong đang ôm lấy người cô. Cô chưa kịp phản ứng thì môi anh đã chạm vào môi cô thì thầm: 

- Tuyết ơi! Anh yêu em! 

Tuyết cảm thấy trái tim mình như rộng mở, đầy ắp tiếng thì thầm của tình yêu. Trong ánh trăng đêm huyền diệu, người cô run lên niềm rung động đầu đời. 

- Phong! Em… 

- Ra trường xong, anh sẽ đưa mẹ đến gặp gia đình em.. 

- Nhưng… 

- Nhưng sao hả Tuyết? 

- Phải giữ bí mật việc này không để cho Hồng và Duy biết. 

Phong thở phào: 

- Tưởng chuyện gì, anh xin tuyệt đối giữ bí mật. 

- Mình đi cũng đã lâu rồi. Chúng ta quay về thôi. 

Trong nỗi xúc động dịu dàng, hai con người yêu thương thấy lòng mình thanh thản nhẹ nhàng. Phúc chốc họ quên đi những cạm bẫy chung quanh, một đôi mắt đang ẩn sau rặng cây đang nhìn họ dò xét và bực dọc. 

Đợi hai người đi thật xa, đôi mắt ấy mới lộ ra cùng một con người mặc trên người bộ đồ dạ hành màu đen. Gương mặt che kín cũng bằng khăn đen. 

Hắn đưa tay lên miệng huýt gió. Hai bóng đen khác xuất hiện cung kính: 

- Thủ lĩnh! 

Bóng đen khoát tay ra lệnh: 

- Theo dõi bọn nó xem chúng nó là ai? Đến đây làm gì? 

- Vâng, thưa thủ lĩnh. 

- Tình hình trong hang thế nào? 

- Rất ổn. Thủ lĩnh an tâm. 

Bóng đen hứ nhẹ: 

- An tâm! Tụi bay làm ăn thế nào mà sơ hở để lộ cửa hang cho chúng kéo đến quấy rầy. Vậy mà chúng bây còn nói đến hai tiếng an tâm được sao? Chúng bay tưởng ta là đứa con nít lên ba sao mà dỗ ngọt? 

- Xin thủ lĩnh bớt giận. Chúng ta sẽ cẩn thận hơn. 

- Bọn bây cũng thừa biết vi phạm nội quy hình phạt sẽ khốc liệt như thế nào rồi chứ? 

Hai bóng đen hoảng sợ quỳ xuống lạy: 

- Xin thủ lĩnh tha mạng. 

- Ta cho bọn bây một cơ hội đoái công mà chuộc tội. 

- Đội ơn thủ lĩnh, xin thủ lĩnh chỉ dạy. 

- Bằng mọi cách phải tiêu diệt bọn chúng. 

- Tuân lệnh thủ lĩnh! 

- Bọn bây đi đi! 

- Xin đa tạ thủ lĩnh. 

Nhìn theo bóng hai gã áo đen đã khuất sau cánh rừng già, bóng áo đen cười gằn: 

- Kẻ nào cản trở công việc của ta, kẻ đó phải chết. Phải chết! 

Bóng đen vung bàn tay chém vào khoảng không rồi cất tiếng cười vang vọng cả một góc rừng. 

Loay hoay phụ giúp mọi người trong buổi tiệc, Hồng quay lại tìm Tuyết thì Tuyết đã mất dạng. Cô hỏi Duy: 

- Duy, thấy Tuyết đâu không? 

Duy lắc đầu: 

- Không thấy. Mà cũng lạ, sao cũng chẳng thấy thằng Phong. 

Hồng nguýt dài: 

- Vậy mà cũng không biết. Người ta rủ nhau đi tâm sự đó mà. 

Duy vỡ lẽ: 

- Thì ra thế. Hai người thật là bí mật. 

- Chứ ai như Duy, lúc nào cũng oang oác cái miệng. 

Duy lừ mắt: 

- A! Cái cô này! Khi không lại mắng té tát vào mặt tôi như vậy? 

Hồng cảm thấy sự quá đáng của mình nên giảng hòa: 

- Xin lỗi Duy. Tại vì công việc tất bật Hồng hơi mệt nên nổi cáu. Duy đừng giận nghe. 

- Không sao. Không sao. Ai nỡ giận. Duy có điều Hồng mà nhăn nhó trông xấu lắm. Con gái thì phải duyên dáng, thùy mị, dịu dàng. 

- Kệ người ta! 

Nhìn Hồng mặt mày tiu ngỉu, Duy cười to:

 - Đó! Đó thấy chưa? Khuyết điểm không chừa. 

- Thôi đi Duy! 

Hồng quay lưng bỏ về. Duy nhìn theo cười, lắc đầu. 

Hành động của hai người từ đầu cho đến giờ đều được một thanh niên kia theo dõi không bỏ sót. Đến khi Hồng băng ra đường chạy về, anh ta vội vã bám theo. 

Hồng đang bước đi, cô chợt nghe tiếng bước chân hối hả sau lưng. Cô giật mình quay lại. Trước mặt cô là một thanh niên có mái tóc xoắn, bảnh trai nhưng rất ngầu. Nét bụi đời, từng trải hiện lên trên gương mặt phong trần của anh ta. 

- Anh là ai? Sao lại bám theo tôi? 

Người thanh niên cười nhạt: 

- Tại sao tôi phải bám theo cô? Đây là đường cái mà, mạnh ai nấy đi chứ. 

Hồng đuối lý nhưng vẫn cố gượng: 

- Nhưng tôi không thích anh đi sau lưng tôi như thế. 

- Cô không phải người vùng này? 

- Liên quan gì đến anh? 

Người thanh niên khẽ nhướng mày rồi nói: 

- Xin lỗi. Chào cô! 

Hồng nhìn theo bước chân người thanh niên lòng dấy lên nỗi nghi ngờ. 

- Anh ta là ai, thái độ hơi khác thường. 

Còn đang phân vân thì tiếng cười của Tuyết vang lên sau lưng: 

- Sao cảm anh ta lắm hay sao mà đứng nhìn theo ngẩn ngơ vậy? 

Hồng hờn dỗi: 

- Đừng suy bụng ta ra bụng người như thế. Mình không phải như bồ bỏ bạn mà đi riêng đâu. 

Tuyết hơi bối rối: 

- Mình đâu có định đi như thế, chẳng qua là… 

- Chẳng qua là không thể cưỡng lại được lòng mình phải không? 

Tuyết kêu lên: 

- Hồng! Không phải vì mình đi vì việc riêng đâu. Anh Phong muốn đi dò xét hòng có kế hoạch cứu cô gái bị mất tích hôm qua.

Hồng hốt hoảng: 

- Sao không gọi mọi người cùng đi? Đi một mình nguy hiểm lắm. 

- Chỉ là đi quan sát tình hình thôi. 

- Nhưng chúng ta phải hỗ trợ chặt chẽ với nhau để hỗ trợ khi cần thiết. 

- Trời khuya lắm rồi! Chúng ta vào nhà nghỉ đi. Ngày mai rồi sẽ tính. 

- Như thế cũng được. 

Đêm ấy, Hồng cứ trằn trọc mãi không sao ngủ được. Trong đầu cô cứ loanh quanh mãi những nghi vấn về người thanh niên. Anh ta là ai? Đến dự cuộc họp có ý đồ gì không? Anh ta chỉ lắng nghe mà không phát biểu ý kiến gì cả. 

Mải suy tư, Hồng chìm vào giấc ngủ mệt nhọc đến khi nghe tiếng chim hót líu lo của những chú chim rừng thì mặt trời đã len vào khe cửa, Tuyết và mọi người có lẽ đã lên nương. 

Một mình Hồng lang thang ra bờ suối. Cô mềm người nằm ngã xuống bãi cỏ rậm nằm ở một khúc ngoặt của dòng suối. Cô ngắm nhìn dòng nước lấp lánh dưới ánh nắng. Trước cảnh dịu dàng của vùng đất mát mẻ và êm ả cô thích được cô đơn, ngồi im và ngồi lâu đến nỗi những con thỏ rừng dám nhảy nhót chạy qua ngay dưới chân cô. 

Cô bỗng nghe thèm được ngâm mình trong dòng nước trong lành, mắt đăm đăm nhìn lên bầu trời xanh thẳm. Cô xuống suối bơi những sải dài thú vị. Khi đã no nê, cô leo lên những gềnh đá hái những bông hoa dại. 

- Ối chà! 

Cô bỗng ôm chân kêu lên đau đớn. Chân cô bị lật ngang vì trượt chân trên ghềnh đá đầy rong rêu. 

- Cô có sao không? 

Hồng ngạc nhiên: 

- Sao anh lại ở đây? 

- Cô chỉ cần biết là tôi không hề có ý theo dõi cô. Chân cô thế nào? 

- Tôi đau lắm. 

- Để tôi nắn chân cho cô nghe. Bàn chân cô bị trật khớp rồi. 

- Cám ơn anh. 

- Cố gắng chịu đau nghe. 

Một tiếng “rốp” vang lên. Hồng ôm chầm lấy ngực thét lên: 

- Á! Đau quá! 

- Xong rồi. Để tôi đưa cô về nghe. Ở đây lâu sẽ bị cảm lạnh đó. 

Hồng lắc đầu: 

- Tôi không đi nổi nữa. 

- Tôi cõng cô về nhé! 

- Như vậy bất tiện quá! 

- Cô đang bệnh mà. Đừng quá câu nệ. Miễn sao lòng mình trong sáng thì không ngại gì cả. 

Hồng xúc động: 

- Anh thật là tốt. Anh tên gì? Chúng ta vẫn còn chưa biết tên nhau nữa. 

- Tôi tên là Quốc. Còn cô? 

- Tôi tên Hồng. 

- Cô lên đây để làm gì? 

- Tôi là sinh viên khoa sử học, lên đây sưu tầm tư liệu văn học để về làm luận án thi tốt nghiệp. Còn anh, anh hiện đang làm gì? 

Quốc bối rối: 

- Tôi là thợ săn chuyên săn thú rừng đem xuống bán cho các nhà hàng dưới phố. 

- Anh có biết như vậy là phạm pháp không? Nhà nước nghiêm cấm việc săn bắn thú rừng, để bảo tồn các loài quý hiếm. 

- Biết vậy, nhưng tôi không còn cách nào khác hơn. Đến nhà rồi, cô vào đi. 

- Cám ơn anh. 

Hồng cà nhắc bước vào nhà với vẻ đau đớn. Quốc theo vào: 

- Cô ở nhà một mình à? 

- Mọi người đều lên nương cả rồi. 

- Để tôi về lấy rượu thuốc gia truyền đến bóp cho cô. Nghỉ ngơi vài ngày sẽ khỏe ngay. 

Hồng chưa kịp can ngăn thì Quốc đã vội chạy đi. Hồng mỉm cười một mình: 

- Mình đã nghi oan cho người tốt rồi. 

Một lát sau, Quốc đã trở lại. Anh vừa xoa nắn chân cho cô vừa động viên: 

- Ráng chịu đau một chút. Bóp thuốc này sẽ hết thôi. 

Hồng gợi ý: 

- Anh Quốc nè! Anh thường hay vào rừng lắm phải không? 

- Nghề nghiệp nên có lúc phải ở luôn trong ấy. 

- Anh có thể giúp tôi một việc không? 

- Việc gì cô cứ nói. 

- Ở đây anh có nghe chuyện “Cô gái cưỡi cọp” không? 

Quốc đổi nét mặt nhưng cố giấu: 

- Có nhưng cô Hồng quan tâm đến việc đó để làm gì? 

- Điều Hồng quan tâm không phải là cô gái ấy mà là sự mất tích của các cô gái trong làng. 

- Cô nên dưỡng bệnh đừng nghĩ đến chuyện đó nữa. 

- Chừng nào tôi hết bệnh anh dẫn tôi đi xem mộ cô gái và hang cọp đó nghe. 

Quốc hốt hoảng can ngăn: 

- Không! Cô đừng đi vào đó, nguy hiểm lắm. 

- Sao anh biết? Anh đã đến đó rồi à? 

- Không. Tôi chỉ nghe dân làng bảo nhau như thế. 

- Tôi phải đi vào trong ấy. 

- Cô đừng đi! 

- Tại sao? 

- Tại vì tôi lo cho cô. 

- Anh đừng lo. Chúng tôi có đông người không có vấn đề gì đâu. 

Biết không thể can ngăn Hồng được, Quốc buồn bã: 

- Tôi khuyến cáo cô cùng mọi người, đừng lân la đến đó nữa, sẽ rất nguy hiểm. Cô nằm nghỉ đi. Tôi về. 

- Cám ơn anh đã giúp đỡ tôi. 

Quốc quay mặt đi. Hồng băn khoăn suy nghĩ: 

- Thái độ của anh ta thật kỳ lạ. Anh ta có liên quan gì đến chuyện “Cô gái cưỡi cọp” không? Nhất định cô sẽ lưu ý đến anh ta nhiều hơn.

CHƯƠNG II (tiếp theo)

Bầu trời trong đẹp, cao thăm thẳm trải rộng trên cảnh vật. Nắng chiều từng sợi nhỏ ve vuốt, muôn lá hoa, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng hót véo von của một con chim đang phơi lông dưới nắng. Hồng, Tuyết, Duy và Phong mang ba lô đi thám hiểm chân núi. 

- Chúng ta hãy tìm đến nấm mộ dưới cây cổ thụ già như cụ già đã tả đi. 

Tuyết đề nghị. Cả bọn tán thành ngay: 

- Đúng rồi. Chúng ta nên bắt đầu từ đó đi. 

Càng gần đến ngôi mộ, con đường càng trở nên âm u bí ẩn. Cây cỏ mọc phủ cả trên lối đi. 

Phong dặn dò: 

- Các bạn nên cẩn thận. 

Duy trả lời: 

- Cậu đi trước vạch, mình đi sau bảo vệ hai tiểu thư. Nhưng nên nhớ là đừng để lạc đường đấy nhé! 

- Hôm cụ già tả mình đã lên sơ đồ trong não rồi, không lạc đâu. 

Mặt trời càng lúc càng lên cao, ánh nắng gay gắt xối lửa xuống, cây cỏ như muốn gục xuống vì hơi nóng. Mọi người như mệt lả, mồ hôi nhễ nhại tưởng chừng không chịu nổi cái nắng thiêu đốt của bầu trời. 

Phong động viên: 

- Các bạn cố lên. Cây cổ thụ ở trước mặt chúng ta kìa. 

Kẹp giữa hai bờ dốc, một lối đi hẹp chạy dưới những cây to rậm rạp đến một khoảng đất rộng. Một nấm mồ nhỏ nằm dưới tàn cây, hoang phế, rong rêu. 

Mọi người như bỗng nghe có một hơi lạnh, rởn cả gai ốc bao trùm lấy họ. Hồng khẽ rùng mình: 

- Quái lạ! Sao không khí ở đây lại ẩm ướt đến thế? 

Tuyết suy diễn: 

- Có lẽ nơi đây thiếu ánh nắng và có mùi tử khí. 

Phong cười xòa: 

- Đừng đoán mò nữa cô nương ơi. Người ta chết mười mấy năm rồi, xương cốt đã tiêu hao, còn đâu là mùi vị. 

- Biết đâu lại có kỳ tích. 

- Thì chúng ta đang tìm hiểu kỳ tích đó. 

Quan sát chung quanh một lúc lâu, Phong và Duy thất vọng: 

- Cũng chỉ là một ngôi mộ bình thường, không có gì khác lạ. 

- Chúng ta đến chân núi để đi vào trong hang đi, xem có gì lạ không? 

Duy tán thành: 

- Hồng nói đúng đó. Chúng ta đi đi. 

Họ lại trở ra con suối rộng, vượt qua khoảng trống bên kia suối, kéo dài đến tận chân núi. 

Họ im lặng đi bên nhau. 

Mặt trời xuống thấp hơn, trông như đang chảy máu. Những tia nắng lớn chiếu xuống làm con đường đất như chói lòa rồi mất hút vào đám mây đen to, nặng. Mọi người cảm thấy một luồng không khí lạnh tràn về. Bầu trời xám xịt gió mạnh dần lên cuốn theo những chiếc lá úa rời cành bay lả tả. 

Phong nhìn bầu trời rồi thúc giục: 

- Chúng ta đi nhanh lên. Trời sắp mưa rồi. 

Hồng tinh nghịch: 

- Mưa thì tốt chứ sao. Đang nóng bức cả người. 

- Nhưng chúng ta sẽ bị ướt hết đấy. 

Bầu trời như thấp xuống, vỡ ra trút xuống đất những giọt nước to rát cả da. Mưa cứ to dần, to dần rồi trắng đục cả bầu trời. Mọi người đã vào đến cửa hang. 

Phong vuốt nhẹ những giọt mưa đọng trên tóc Tuyết, âu yếm hỏi: 

- Em có lạnh không? 

Tuyết lắc đầu: 

- Không lạnh lắm đâu. Anh đừng lo. 

Hồng nhìn quanh hang đề nghị: 

- Nhân lúc trời còn mưa, chúng ta cùng đi vòng quanh hang đi. 

- Phải đó. Chúng ta vào hang xem có gì lạ không? 

Nghe Phong nói Duy đưa tay đề nghị 

- Tôi có một đề nghị. 

Cả bọn đưa mắt nhìn Duy: 

- Duy có ý kiến gì không? 

- Ý khác thì không, ý hay thì có. 

- Ý gì mà hay thế? 

- Tôi đề nghị trước khi đi, chúng ta hãy lấy ba lô ra lấy thức ăn ra giải quyết cái bao tử đang biểu tình trong bụng mình đã. 

Mọi người cùng nhau cười xòa. Sự nhiệt tình làm cho họ quên cả cái đói. 

- Đúng là một ý kiến hay. 

Bốn người cùng ngồi xuống giở lương khô ra ăn. Duy đưa chai nước suối cho mọi người uống, phần còn lại anh tu một hơi dài cạn sạch rồi quăng lên như điệu bộ một tài tử. 

- Xong rồi. Bây giờ có thể làm nhiệm vụ được rồi. 

- Vào! Chúng ta cùng đi. 

Phong nói như ra lệnh. 

Cả bốn người mọp thấp, lom khom đi vào hang. Trong hang không phát hiện được gì. Họ theo đường hang ra đến một con suối nhỏ. Phong thất vọng: 

- Thì ra cái hang này chỉ là một con đường thôi. 

Duy nhìn đồng hồ rồi than thở: 

- Mưa gần suốt cả tiếng rồi mà vẫn không tạnh. Trời lại sắp tối. Chúng ta làm sao mà đi về. 

- Xưa nay, Tuyết chỉ nghe mà không thấy, hôm nay cũng biết được cái dai dẳng như mưa rừng. 

Phong nhìn bầu trời lo lắng. 

- Nếu trời không tạnh, chúng ta phải làm sao đây? 

Hồng sôi nổi: 

- Thì cứ ngủ yên lại đây. Có sao đâu. 

Cả ba người quay lại nhìn Hồng, cô ỉu xìu: 

- Sao? Tôi nói sai à? 

- Có lẽ phải như thế thôi. 

Duy đáp nhẹ re. Hồng lôi trong ba lô ra tấm bạt nhỏ trải rộng ra: 

- Nào! Hãy ngồi xuống đây nghỉ ngơi đi các bạn. 

- Không ngờ Hồng chu đáo quá. 

Hồng liếc dài: 

- Dù sao người ta cũng là phụ nữ mà. 

Mọi người dựa lưng vào vách đá. Có lẽ do quá mỏi mệt nên ai cũng ngủ thiếp đi mà không hay biết ngoài trời mưa đã tạnh, vầng trăng đã lên cao gần tới đỉnh đầu. 

Bóng trăng len vào trong hang soi rọi những gương mặt vô tư trong giấc ngủ. 

Đang chìm trong giấc ngủ mệt mỏi, Hồng bỗng giật mình vì một tiếng động khẽ vang lên. Cô mở choàng mắt nhìn chung quanh, trong hang vẫn yên lặng, Phong, Duy và Tuyết vẫn còn say trong giấc ngủ. 

Hồng mỉm cười tự nhủ: 

- Có lẽ là do tiếng động của một chú chuột nào đi kiếm ăn đêm. 

Không muốn kinh động đến giấc ngủ của mọi người, Hồng nhẹ nhàng bước ra ngoài cửa hang. 

- Đêm rừng thơ mộng quá. 

Cô bật kêu lên. Cánh rừng mờ ảo dưới ánh trăng, sương đêm đã phủ dày trên mặt cỏ. Hồng đang ngây ngất với cảnh vật bỗng cô ngẩn người trố mắt kinh ngạc nhìn một sự kiện bất ngờ hiện ra. Bóng con cọp hiện ra trên vách đá khá lâu, rồi biến mất. 

Một tia sáng lóe lên trong mắt Hồng, cô nắm chặt hai bàn tay run rẩy vào nhau dồn thêm sức mạnh bước tới. Bóng cọp biến mất, Hồng ngơ ngác nhìn quanh. Cô gái cưỡi cọp lướt phía ngoài vách núi rồi mất hút vào vách rừng già. 

Hồng sợ cùng cực, Hồng chạy vào lay gọi các bạn lắp bắp nói: 

- Cô gái cưỡi cọp… Cô gái cưỡi cọp kìa. Dậy đi! 

Tiếng gọi của Hồng làm Phong, Duy và Tuyết choàng tỉnh. Phong vội hỏi: 

- Ở đâu? 

- Ngoài vách núi. Nhưng… 

- Nhưng sao? 

- Đã biến mất rồi. 

Duy thở khì như xua đi sự căng thẳng: 

- Vậy cũng nói. 

Phong điềm tĩnh hơn: 

- Nào, bình tĩnh nói cho mọi người nghe. Em thấy khi nào? 

- Em đang ngủ thì nghe có tiếng động, nên vội vàng ra khỏi cửa hang thì cô gái cưỡi cọp xuất hiện rồi biến mất. 

- Sao lúc ấy không gọi mọi người? 

- Sự việc xảy ra chỉ trong chớp nhoáng, em gọi không kịp. 

Duy ngáp dài: 

- Bây giờ là mấy giờ rồi? 

- Chỉ mới hơn nửa đêm thôi. 

Tuyết nắm tay Hồng: 

- Hồng ngồi nghỉ đi. Hồng đã quá mệt rồi. 

- Cám ơn Tuyết. 

Phong bảo mọi người: 

- Chúng ta hãy nghỉ ngơi lấy sức để sáng mai tiếp tục tìm hiểu. 

Cả bốn người lại ngồi dựa lưng vào vách đá. Không ai ngủ được, mỗi người rơi vào một trạng thái lo sợ như có bàn tay vô hình nào sẵn sàng siết lấy cổ mọi người. 

Vầng trăng đi qua hết vòm trời lặn xuống dải núi. Đâu đây một tiếng chim khe khẽ hót lên. Những tiếng chim ríu rít vang lên, mạnh dạn lên rồi trở thành líu lo vui vẻ. 

Hồng choàng tỉnh nhìn qua các bạn rồi lắc đầu: 

- Lại cũng còn ngủ. 

Cô giơ tay lên tỏ vẻ bất lực rồi đứng lên đi ra bờ suối rửa mặt. Cảnh trời rạng lúc ban mai thật đẹp, nhưng cô không còn lòng dạ nào mà ngắm nhìn. Cô vốc một vốc nước suối đưa lên mặt. Nước mát làm cô tỉnh táo. Cô quên đi bao tai họa sẽ đến với mình. 

Cô nhìn xuống dòng suối, nước trong thấy cả những chú cá lượn mình trong đám rong rêu. Mấy nhành lan trắng trong khe núi đang vươn mình khoe sắc. Một bông… hai bông… ba bông… Hồng cố hái cho bằng được những bông hoa bên khe nước. 

Hài lòng nhìn bó hoa trên tay. Hồng định quay lại. Cô bàng hoàng nhận ra cảnh vật trước mắt đã hoàn toàn thay đổi. Cô đi lối này, rồi lối này… vẫn không thể nào tìm lại được cái bờ suối trước cửa hang. 

Hồng ôm lấy đầu khổ sở: 

- Mình bị lạc đường rồi, làm sao mà tìm được lối đi đây? Không khéo mình sẽ bị chết đói giữa rừng mất. 

Bản năng sinh tồn thúc giục cô phải đi tìm đường hay ít ra cũng gặp được người đi rừng mà kêu cứu. 

Đến chiều, cô bị lạc vào nơi hoang vắng thấy một chòi cao ẩn dưới gốc cây cổ thụ, nếu không nhìn kỹ thì khó phát hiện. Đói quá, Hồng trèo lên chòi gọi lớn. 

- Có ai trong nhà không? Làm ơn cho tôi xin miếng nước. Tôi khát quá! 

Im lặng. Hồng lại gọi: 

- Có ai trong nhà không? 

Vẫn im lặng. Hồng càng tuyệt vọng. Cô tự hỏi: 

- Chòi hoang chăng? Hay là người trong nhà đã đi rừng cả rồi? Mình lên thử xem có cái gì ăn cho đỡ dạ rồi đợi chủ nhân về sẽ xin lỗi sau. 

Trên chòi lạnh lẽo, cảm giác bất an làm cho cô rùng mình. Nhìn quanh chòi, cô thật sự thất vọng vì không phát hiện được cái gì có thể ăn được. Định quay xuống thì Hồng kinh hoàng nhận ra một bà già quái dị đang đứng chắn cánh cửa. Hồng thụt lùi hét lớn: 

- Á! Bà là ai? 

Bà già cất tiếng cười ghê rợn: 

- Ta là ai à? Phù thủy cai quản khu rừng này. Ta đang đói, cô bé đến đây để nộp thịt cho ta phải không? Hồng xua tay: 

- Không. Không. 

- Không cũng không được. 

Bà già nhìn cô một cách thèm thuồng rồi le chiếc lưỡi dài liếm vào mặt cô. Cô sợ quá tung chạy. Bà già tung ra một trảo chộp lấy người cô. Cô lăn người ngã xuống sàn nhà. Cả người đau điếng nhưng vẫn cứ gượng dậy chạy vào rừng. Đằng sau bà già vẫn cứ rượt theo. 

Trời nhá nhem tối. Hồng vừa mệt vừa đói, hai mắt hoa lên nhưng vẫn cố chạy. Thình lình, cô trợt chân ngã xuống một cái hố rất sâu, đầu bị va chạm mạnh. Cô ngất đi, bên tai vẫn còn vẳng nghe tiếng bước chân rầm rập của mụ phù thủy đang đuổi theo con mồi. 

Tuyết mở choàng mắt ra. Sự việc đêm qua vẫn còn làm cô bàng hoàng. Cô quay sang tìm Hồng. Chỗ nằm của Hồng lạnh ngắt chứng tỏ Hồng đi từ lâu. Cô hốt hoảng la to: 

- Hồng! Hồng ơi! Hồng đâu rồi? 

Tiếng kêu của Tuyết đánh thức Phong và Duy dậy. Phong hỏi nhanh: 

- Việc gì mà em la to vậy Tuyết? 

Tuyết lắp bắp: 

- Hồng! Hồng nó đi đâu mất rồi. 

Duy làu bàu: 

- Cái cô này, đã bảo mà cứ đi lung tung. 

- Tìm Hồng nhanh lên! 

Theo lời Phong, tất cả cùng chạy ra khỏi cửa hang. Không thấy Hồng đâu, cả ba bắt tay làm loa gọi. 

- Hồng! Hồng ơi! 

Tiếng gọi của ba người vang động cả khu rừng, nhưng vẫn không có tiếng đáp lại của Hồng. 

- Chia nhau đi tìm, Tuyết vào hang chờ đi. 

- Không. Phong cho em theo với. 

- Cũng được. Nhưng nhớ bám sát theo anh, đường rừng dễ lạc lắm. 

- Em biết rồi. 

Phong và Tuyết đi ra bờ suối tìm Hồng. Duy men theo cánh rừng nhỏ, gọi to: 

- Hồng! Hồng ơi! 

Mọi người vừa đi vừa bẻ cây làm dấu trên đường. Suốt cả buổi sáng mà vẫn không tìm được Hồng. Tuyết sốt ruột: 

- Chúng ta quay lại hang xem Duy có tìm được Hồng không? 

Phong gật đầu nắm tay Tuyết đi như chạy về phía cửa hang. Duy vừa về đến mồ hôi ướt đẫm áo. Vừa thấy Phong, Duy hỏi: 

- Không tìm được Hồng à? 

Phong lắc đầu thất vọng: 

- Không biết Hồng có gặp nguy hiểm gì không? 

Tuyết tỉnh táo hơn, cô đề nghị: 

- Chúng ta nên trở về làng trình bày nhờ dân làng phối hợp đi tìm Hồng. 

- Tuyết nói đúng đó. Chúng ta trở về đi anh Phong. 

Phong gật đầu, bởi vì ngoài phương án đó anh không còn cách nào khác. 

Ba người hối hả chạy về làng. Ông Rô sau khi nghe ba người trình bày sự việc vội vã đánh trống tụ họp dân làng lại. 

Thoáng chốc, thanh niên khỏe mạnh trong làng đã có mặt. 

- Có việc gì vậy bác Rô? 

- Cô Hồng bị mất tích trong rừng. Chúng ta hãy vào rừng tìm cô ấy ngay. 

Mọi người xốc lên vai vũ khí vào rừng. Theo lối của Phong họ cũng xuất phát từ bờ suối nhưng vẫn không sao tìm được Hồng. 

Ông Rô lẩm bẩm: 

- Chắc lại bị cô gái cưỡi cọp bắt đi rồi. Thật là tội nghiệp. 

Mọi người chia nhau lùng sục kiếm tìm đến khi trời tối đành thất vọng trở về làng. 

Không tìm được Hồng, Tuyết gục đầu vào vai Phong khóc nức nở: 

- Hồng! Hồng ơi! 

Phong để yên cho Tuyết khóc trên vai mình, bởi vì anh biết rằng nước mắt sẽ làm vơi đi phần nào nỗi đau thương mất mát của con người.

CHƯƠNG II (tiếp theo)

Hồng tỉnh dậy, đầu óc choáng váng vì sự va chạm đêm qua. Cô vươn vai làm một vài động tác thể dục thì chân tay đã bị trói chặt cứng. Cô hoảng hốt la lên: 

- Thả tôi ra. Thả tôi ra ngay! 

Một giọng cười the thé vang lên: 

- Thả cô ra à? Được thôi. Cô hãy trả lời các câu hỏi của ta. 

Hồng ngơ ngác nhìn người đàn ông lạ, gương mặt bặm trợn, ngơ ngác hỏi: 

- Ông là ai? 

Người đàn ông lạ cười càng to: 

- Con nhãi ranh kia! Mày không có tư cách để hỏi tên tao. Mà mày hãy nghe tao hỏi đây. Mày là ai, vào đây làm gì? 

Hồng bình tĩnh trả lời: 

- Tôi là sinh viên lên đây đi thực tế để tìm tài liệu về văn học để làm luận án tốt nghiệp. 

- Mày là sinh viên à? 

- Phải. 

- Là sinh viên sao mày không ở dưới làng mà mày vào đây làm gì? 

- Tôi bị lạc đường. 

- Láo! Có phải mày cùng bọn kia vào đây để theo dõi bọn tao? Nói ! 

- Tôi không biết. Tôi không biết. 

- Mày không nói tao sẽ cắt lưỡi mày. 

Nhìn con dao sáng loáng trên tay người đàn ông kề sát mặt, Hồng hoảng hốt: 

- Ông… ông định làm gì tôi? 

- Làm gì mày à? Khôn hồn thì khai thật đi. 

Hồng tự nhủ: 

- Chắc bọn này có liên quan đến “Cô gái cưỡi cọp”. Nếu mình khai thật chúng sẽ giết mình và các bạn để bịt đầu mối. 

Nghĩ thế, Hồng nói cứng: 

- Chúng tôi chỉ là sinh viên đi thực tập không biết gì chuyện của các ông. 

- Láo! Bọn bây cố tình vào hang đá để thám thính. Bọn bay không qua mắt được tao đâu. 

- Không! Tôi đã nói rồi, chúng tôi không biết gì hết. Ông hãy thả tôi ra đi. 

- Thả mày à? 

Người đàn ông cười to, gằn giọng: 

- Đâu có dễ dàng như vậy. Chơ Rớt này thà giết nhầm chứ không thả nhầm bao giờ. 

Hồng kinh hoàng hỏi: 

- Ông là Chơ Rớt? 

- Phải. 

- Ông đang bị truy nã? 

- Mày cũng biết khá nhiều về tao đó chứ. Mày nên nhớ càng biết nhiều thì chết càng mau. 

- Không! Tôi không biết gì cả. 

- Bây giờ mày nói gì tao cũng không thể thả mày ra được. Bọn bây đâu! Nhốt nó vào hang đá cho tao. 

Hai gã áo đen xuất hiện: 

- Dạ, thủ lĩnh. 

Hai tên áo đen xốc nách lôi Hồng vào một chiếc hang nhỏ, Hồng la to: 

- Các ông định làm gì? Thả tôi ra đi. 

Một gã áo đen tát tai Hồng thật mạnh: 

- Khôn hồn thì câm họng lại. 

Hồng sợ hãi không dám lên tiếng, cô biết bọn người này đã mất hết nhân tính, gào than cũng chẳng ích gì. 

Hai gã áo đen xô Hồng ngã vào một đám cỏ trong hang. 

- Ngoan ngoãn nằm im đó đi. 

Một gã nhìn Hồng thèm thuồng. Gã bảo với gã kia: 

- Ê mày! Con nhỏ này ngon lành quá. 

Gã kia nhìn gã nọ hậm hực: 

- Mày chỉ giỏi có bấy nhiêu đó, có ngày chết không kịp trối. 

- Chớ mày nghĩ xem tối ngày cứ lẩn trốn trong cái hang này. 

Gã nọ đưa tay lên miệng: 

- Suỵt! Mày muốn chết hả? Thủ lĩnh mà nghe biết mày nản chí, ổng không để mày sống đâu. 

Chừng như biết rằng lời nói của gã nọ không phải là hăm dọa, gã kia im lặng rồi làu nhàu: 

- Mày không nói làm sao ai biết. 

- Ở đây đâu chỉ có tao và mày. 

Bước chân của hai gã xa dần. Hồng lo sợ: 

- Chắc là mình lọt vào tay một tổ chức nào rồi. Làm sao mà báo cho các bạn để giải nguy cho mình đây. 

Còn đang suy nghĩ Hồng giật mình vì tiếng nói của người lạ. 

- Thức ăn nè! Ăn đi! 

Một tên trùm kín mặt bước vào đưa gói thức ăn cho Hồng. Thấy Hồng cứ ngồi im, gã dịu giọng: 

- Ăn đi, kẻo kiệt sức đấy. 

Lời nói như lo lắng của hắn làm Hồng ngạc nhiên nhìn lên. Đôi mắt hình như quen thuộc lắm. 

Không để cho Hồng có thời gian thắc mắc, gã quay lưng bỏ đi. Hồng gọi giật lại: 

- Ông ơi! 

- Gì nữa đây? 

Gã hỏi và không quay mặt lại. 

- Tôi bị trói như thế này làm sao ăn được. 

- Tôi không thể cởi trói cho cô, như thế là vi phạm luật cấm sẽ bị xử phạt tàn khốc lắm. 

- Vậy tôi làm sao ăn được? 

- Thôi được rồi, cô chịu khó một chút tôi đút cho cô ăn nghe. 

- Cũng được. 

Gã áo đen quay lại cầm thức ăn đút cho Hồng. Hồng vừa ăn vừa gợi chuyện: 

- Ở đây là đâu vậy ông? 

Gã áo đen lầm lì: 

- Ăn đi! Đừng hỏi. 

Hồng vẫn cố gắng tiếp tục hỏi hầu tìm kế trốn thoát: 

- Sao ông lại tốt với tôi như thế? 

Gã áo đen ngập ngừng: 

- Vì… 

Rồi gã nạt ngang: 

- Cô muốn sống thì đừng hỏi nhiều. 

Hồng nín lặng. Cô biết mình không thể tìm hiểu được gì thêm ở cái gã áo đen lạnh lùng này. 

Hồng nghe hơi lạnh tỏa ra từ bốn bề vách núi, cảnh vật trong hang trở nên lờ mờ. Cô biết rằng đêm đã về rồi. 

Hồng thở dài lo cho số phận của mình: 

- Làm sao có thể thoát khỏi nơi đây? 

Hồng nghe như có tiếng bước chân vào cửa hang. Cô hoảng hốt hỏi: 

- Ai? 

Gã ban sáng định sàm sỡ với Hồng nói nhỏ: 

- Là anh đây. 

Hồng hỏi to: 

- Ông vào đây làm gì? 

Gã đưa tay bịt miệng Hồng: 

- Đừng la lớn. Anh vào đây để tâm sự với em mà. 

- Ông định làm gì tôi? 

Hồng van nài: 

- Ông ơi! Hãy tha cho tôi đi. 

- Thì anh có hành hạ gì em đâu. Anh sẽ đối xử nhẹ nhàng với em mà. 

Bàn tay gã ôm siết lấy Hồng sờ soạng vào vùng ngực. Đôi môi đầy gớm ghiếc phà hơi tanh nồng vào khắp mặt mũi Hồng. 

- Buông tôi ra! 

Gã cười khà khà: 

- Ngoan ngoãn đi nào. 

Hồng rơi vào tình trạng tuyệt vọng, cô gào lên: 

- Cứu tôi với! Cứu tôi với! 

Gã đưa tay bóp cổ Hồng hậm hực: 

- Hừ! Tử tế không muốn, thử xem mày còn la được không? 

Hồng đau đớn giãy giụa, lồng ngực như không còn dưỡng khí. Cô buông xuôi hai tay bất lực, một dòng nước mắt chảy dài trên đôi má. 

Bốp! 

Trong khoảnh khắc lơ lửng của một cơn giông tố, Hồng nghe tiếng động, vòng tay trên cổ cô được nới rộng. Gã nằm im bất động. 

Hồng vẫn còn bàng hoàng nhìn cái thân thể sóng soài trên mặt đất kia. Giây lâu, cô cố trấn tĩnh mình hỏi người áo đen bịt mặt. 

- Ông… ông lại cứu tôi? 

- Nhưng tạm thời thôi, tôi không thể cứu cô được mãi. 

Giọng anh ta như hờn trách: 

- Tôi đã cảnh cáo cô không được vào rừng nhất là cái hang này, cô không nghe nên phải gánh chịu hậu quả này. 

Hồng kinh ngạc: 

- Thì ra anh là… 

Biết mình đã bị lộ, gã áo đen cởi khăn che mặt ra. Hồng trố mắt run lên kinh hãi: 

- Anh là Quốc. 

- Tôi đây. 

- Anh là người xấu. 

- Cô nghĩ thế nào cũng được. Tôi đã có ý tốt khuyến cáo cô mà cô không nghe. Bây giờ chỉ có trời cứu cô được thôi.  

- Anh sẽ bị pháp luật trừng trị.  

- Chừng nào thì tôi không biết, chớ bây giờ, cô không thể yên thân với thằng Chơ Rớt đâu. 

- Hắn sẽ làm gì tôi? 

- Hắn là kẻ rất gian ác, hắn không chừa một tội lỗi nào. 

- Biết vậy, nhưng sao anh còn theo hắn? 

- Tôi có nỗi khổ riêng. 

- Anh hãy giúp tôi đi. 

- Bằng cách nào? 

- Anh hãy báo với bạn bè tôi để mọi người tìm cách cứu tôi. 

- Không được. 

- Tại sao? 

- Làm như vậy là phản bội tổ chức, cầm bằng nắm chắc cái chết cho mình. 

- Nhưng tổ chức anh là phạm pháp là phi lý. Có phải chuyện “Cô gái cưỡi cọp” cùng với sự mất tích của các cô gái trong làng có dính líu đến tổ chức của các anh? 

Quốc lo sợ: 

- Không. Tôi không biết. Cô đừng hỏi nữa. 

- Quốc! Nhân danh tình bạn, tôi muốn khuyên anh một điều, quay đầu lại là vừa. Anh đừng gây thêm tội ác nữa. 

- Tôi phải làm thế nào? 

- Anh hãy ra đầu thú, kể tội ác của bọn chúng. 

- Không. Tôi không thể. Tôi không thể phản bội lại người ân được. Không. Tôi không thể. 

Quốc bỏ chạy ra khỏi hang. Hồng lảo đảo như người say rượu. Cô choáng váng thật sự khi biết Quốc là một trong những con người đang thi hành lệnh, gây tội ác với đồng bào. 

Hình ảnh hôm nào của anh đã cứu cô bên bờ suối bỗng hiện lên làm lồng ngực nhói đau. Cô thiếp đi trong chán nản vì vỡ mộng. 

Trong cơn mê, cô thấy mình đang nằm trong móng vuốt của cọp. Cô run rẩy, đau đớn khi chiếc nanh nhọn hoắc của nó ngoạm lấy người cô trong tiếng cười man rợ của bọn dã man. Cô thét lên: 

- Á! 

- Tỉnh lại rồi à? 

Hồng mở mắt ra nhìn, một bộ mặt gần như là quỷ dữ của Chơ Rớt cùng đám thuộc hạ đang đứng vây quanh cô. 

- Các người định làm gì? 

Chơ Rớt cười to. Giọng cười như tiếng gầm rú của loài thú hoang như muốn xé toang màng nhĩ. 

- Làm gì mà khẩn trương vậy cô em? 

Hồng gượng đứng lên: 

- Các người mà bước tới, tôi cắn lưỡi tự tử đó. 

Chơ Rớt xua tay: 

- Đừng dại dột thế. Ta đến đây để chứng tỏ cho cô em biết được uy lực của thủ lĩnh trong tổ chức. Kẻ nào vi phạm kẻ đó sẽ bị xử lý đích đáng. 

Rồi Chơ Rớt phất tay ra lệnh: 

- Đưa nó vào đây. 

Tên cưỡng hiếp Hồng đêm qua bị đẩy vào. Hắn cúi lạy Chơ Rớt lia lịa: 

- Thủ lĩnh tha mạng! 

Chơ Rớt quát to: 

- Nói! Vi phạm nghiêm lệnh xử tội gì? 

Hắn lắp bắp: 

- Khi chưa có lệnh của thủ lĩnh tự ý hành động bị xử tội chết. 

Hắn sụp lạy Chơ Rớt như tế sao: 

- Xin thủ lĩnh tha mạng. 

Chơ Rớt lạnh lùng giơ bàn tay lên chộp vào đỉnh đầu của hắn bóp mạnh. Hắn rú lên: 

- Ái! 

Gương mặt hắn méo xệch sang bên từ từ biến dạng. Một dòng máu chảy ra trên khéo miệng. Hắn ngã xuống đầu vỡ ra, mắt mở to trừng trừng. Hắn đã biến thành kẻ không hồn rồi. 

Chơ Rớt dõng dạc nói: 

- Tất cả hãy nhìn hắn để mà làm gương. 

Hồng buột miệng nói: 

- Tàn nhẫn quá! 

- Rồi sẽ đến lượt cô em nếu cô em cứ mãi cứng đầu như thế. 

- Ông cần gì ở tôi? 

Chơ Rớt lại cất tiếng cười ngạo nghễ: 

- Cần gì ở em à? Cô em tự biết thân phận mình đi. Không phải cần mà là bắt buộc, bắt buộc cô em phải nói. 

- Ông muốn biết gì ở tôi? 

- Cô em là ai? Cô cùng đồng bọn đến đây để làm gì? 

- Tôi đã nói với ông nhiều lần rồi, tôi và các bạn là những sinh viên đi thực tế để tìm tư liệu làm luận án tốt nghiệp. 

- Tại sao lại vào hang này? 

- Chúng tôi vào trú mưa, trời tối nên phải ở lại. Sáng ra bờ suối rửa mặt rồi bị lạc đường. 

Chơ Rớt quát to: 

- Láo! Bộ mày tưởng qua mặt được tao à? Bọn mày là công an giả dạng vào đây thám thính bắt tao phải không? 

- Không. Tôi không phải. Tôi xin thề. 

Quốc xen vào: 

- Thủ lĩnh. Có lẽ cô ấy nói thật. 

Chơ Rớt quắc mắt nhìn Quốc: 

- Dựa vào đâu mà mày tin cô ta nói thật? 

- Cô ấy không biết võ thuật. Bọn công an thường được huấn luyện rất kỹ. 

Chơ Rớt trầm ngâm: 

- Dù là không phải cũng không thể tha được. Giết ngay để bịt đầu mối. 

Ánh mắt Quốc thoáng hoảng sợ: 

- Thủ lĩnh! Chúng ta nên giam giữ cô ấy lại đây mà dụ dỗ theo ta. Dù sao thủ lĩnh cũng cần một người đàn bà. 

Chơ Rớt lộ vẻ căm phẫn: 

- Đàn bà! Đàn bà à? Cũng vì đàn bà mà ta thân bại danh liệt. Phải chui rúc sống trong cái xó rừng này. Ta căm hận đàn bà, muốn giết tất cả. Mỗi năm một lần ta tìm bắt đem về một người đàn bà, dày vò xong rồi cắt máu tế cọp. Rất tiếc… ta không muốn phá lệ, cô gái vừa bị bắt đang chờ ta tế cọp. 

- Tất cả đã được chuẩn bị sẵn sàng, thưa thủ lĩnh. 

Chơ Rớt nhìn Quốc: 

- Mày thích nó à? 

Quốc bối rối: 

- Thưa thủ lĩnh… 

- Nếu mày thích thì cứ hưởng thụ đi. Tao cho nó sống thêm ba ngày nữa. Sau ba ngày, nhất định phải thủ tiêu. 

Biết không thể nào lung lạc được ý Chơ Rớt, Quốc miễn cưỡng vâng lời. 

- Tuân lệnh thủ lĩnh. 

Chơ Rớt và đám thuộc hạ kéo nhau đi. Quốc đến bên Hồng. Cô kinh hãi thét lên: 

- Anh định làm gì tôi? 

- Hồng yên tâm. Tôi không hại Hồng đâu. 

- Thật không? 

- Tôi nói dối Hồng làm gì. Bây giờ Hồng đừng kháng cự, cứ giả vờ ưng thuận. Tôi sẽ tìm cách cứu Hồng. 

Hồng hoài nghi: 

- Anh không sợ sao? 

- Sợ thì tôi sợ lắm, nhưng tôi còn sợ cho Hồng nhiều hơn. Tôi sẽ bất chấp nguy hiểm để cứu Hồng. 

- Sao anh lại tốt với tôi như vậy? 

- Vì… mà thôi, Hồng đừng tìm hiểu nữa. Nghỉ ngơi cho nó có sức mà chạy thoát. Tôi sẽ canh chừng cho. Bọn nó không dám làm bậy đâu. 

- Cám ơn anh. 

- Tôi chỉ mong Hồng được bình yên. 

Quốc nói nhanh rồi bước ra ngoài bỏ lại mình Hồng với những thắc mắc trong lòng. 

“Quốc là ai? Anh ta giữ nhiệm vụ gì trong tổ chức mà Chơ Rớt có vẻ vị nể? Tại sao anh ta lại cứu mình?” 

Hồng xua đi những suy nghĩ trong lòng. 

- Dù thế nào anh ta cũng là kẻ phạm pháp, đã từng nhúng tay vào tội ác. Anh ta và đồng bọn cần phải được pháp luật trừng trị.

CHƯƠNG III 

Bên ngọn đuốc dầu cháy sáng trong vách núi, Chơ Rớt lặng người nhìn pháp trường đã được bố trí sẵn. Hắn chợt hồi tưởng lại những sự việc đã qua. 

Là một thanh niên của rừng núi, Chơ Rớt đã quen sống với cái buôn, cái rẫy, cái cung, cái ná. Anh sống hiền hòa như bao thanh niên trong bản. Anh yêu, Hơ Mây, cô gái có gương mặt thanh tao, mái tóc dài bóng mượt như dòng suối lượn. Giọng nói của cô như tiếng hót líu lo của những chú chim rừng lúc ban mai. 

- Hơ Mây! 

Hơ Mây quay nặng nhọc bởi chiếc gùi đầy ngô trên lưng. 

- Chơ Rớt! Anh cũng đi rẫy đó à? 

- Phải. Hơ Mây để Chơ Rớt gùi phụ cho đỡ nặng nghe. 

Hơ Mây cười trong trẻo: 

- Chơ Rớt cũng gùi nặng còn hơn Hơ Mây, làm sao mà giúp được. 

- Nhưng Chơ Rớt làm đàn ông mà. 

- Thôi. Có Chơ Rớt, Hơ Mây không còn sợ trời tối nữa. Chúng ta nghỉ một chút đi. 

Lời đề nghị của Hơ Mây làm cho mắt Chơ Rớt sáng lên: 

- Được. Được. Để Chơ Rớt phụ đỡ cái gùi xuống cho Hơ Mây nghe. 

- Cái bụng Chơ Rớt thật là tốt. 

Nhìn Hơ Mây hớn hở đưa tay lùa những ngọn gió chiều vào lòng, Chơ Rớt nắm lấy tay Hơ Mây bóp nhẹ: 

- Hơ Mây! Cái bụng của Hơ Mây có thương Chơ Rớt không? 

Hơ Mây giật nẩy mình, rút vội bàn tay của mình về. Cô lắc đầu: 

- Không. Hơ Mây chỉ xem Chơ Rớt như người anh em thôi.

- Chơ Rớt muốn Hơ Mây bằng một tình khác, chớ không phải là người anh em. 

- Chơ Rớt! Hơ Mây xin lỗi. Cái bụng của Hơ Mây đã dành cho người khác rồi. 

- Người ấy là ai? 

Chơ Rớt hỏi dồn dập: 

- Chơ Rớt đừng làm cho Hơ Mây sợ. Hơ Mây không nói đâu. 

Hơ Mây vội vã mang gùi lên lưng rồi chạy về thôn, Chơ Rớt gọi theo: 

- Hơ Mây! Hơ Mây! 

Hơ Mây nghe tiếng Chơ Rớt kêu càng chạy nhanh hơn. Chơ Rớt gầm rít qua kẽ răng: 

- Kẻ đó là ai? Chơ Rớt này không thể thất bại như thế được. 

Chơ Rớt lặng thinh tìm hiểu. Anh luôn quan sát theo dõi Hơ Mây. Một đêm trăng Chơ Rớt nghe tiếng kèn lá du dương mời gọi. Anh trở dậy, bước ra ngoài sân. Anh sững sờ nhìn Hơ Mây chạy từ trong nhà ra ngã vào vòng tay A Dính. 

Máu nóng dồn ngược lên tim, Chơ Rớt dắt con dao vào người, lặng lẽ theo dõi hai người. 

Nhìn A Dính và Hơ Mây say sưa tình tự, âu yếm bên nhau, Chơ Rớt như mất hết lý trí. Anh thét to lên rồi vung con dao lao về phía A Dính. 

Hơ Mây kinh hoàng đẩy A Dính sang bên, con dao trong tay Chơ Rớt đâm sâu vào lồng ngực. Hơ Mây tắt thở trên mặt còn ngơ ngác không biết việc gì xảy ra. 

A Dính ôm chặt Hơ Mây gào to: 

- Hơ Mây! Hơ Mây! 

Nhìn Chơ Rớt đứng chết sững, tay vẫn còn cầm cán dao trên ngực Hơ Mây, A Dính thét to: 

- Chơ Rớt! Mày đã giết Hơ Mây rồi. 

Chơ Rớt kinh hãi buông rơi cán dao: 

- Không! Tôi không giết người. Tôi không giết người. 

- Chơ Rớt! Mày phải đền tội. 

- Không! Không! Tôi không giết người. 

Chơ Rớt chạy vào vùng sâu ẩn núp tránh sự truy bắt của công an. 

Lệnh truy nã anh phát khắp nơi. Trong rừng anh thu nạp những người trốn tránh pháp luật hoặc vô tình lọt vào tay thì một là ở lại, hai là chết. Dần dần những kẻ phạm pháp đều ngoan ngoãn dưới sự điều khiển của Chơ Rớt. 

Chơ Rớt thở dài: 

- Mới đó mà đã mười mấy năm rồi. Từ lúc còn là một thanh niên đầy nghị lực và sức sống ta đã trở thành một tên đàn ông già nua, một thủ lĩnh, giết người chẳng gớm tay. Vì ai? Chỉ vì đàn bà. 

Chừng như quá bức xúc, Chơ Rớt gầm lên: 

- Phải giết. Giết bọn đàn bà khốn kiếp đó. 

Rồi Chơ Rớt bật lên tiếng cười, âm thanh như đau đớn xót xa cho những gì mình đã mất. 

Đã hai ngày qua, Phong, Duy, Tuyết cùng mọi người trong làng vẫn đi tìm Hồng, nhưng vô vọng. 

Nhìn nét mặt chán nản hiện lên trên gương mặt mọi người, Phong động viên. 

- Mọi người hãy cố lên, chúng ta không thể bỏ cuộc được. 

Chừng như đã quen với sự việc này, dân trong làng dễ chấp nhận. 

- Chắc là bị “Cô gái cưỡi cọp” bắt rồi. Có tìm cũng vô ích thôi. 

Phong nhìn mọi người cố giải thích: 

- Dân làng đừng tin vào những điều mê tín ấy nữa. Chúng ta hãy cố tìm ra sự thật. 

- Đã mười mấy năm rồi. Chúng tôi phải hứng chịu sự trả thù của cọp. Các cô gái cứ lần lượt thay nhau đi, đâu có kiếm tìm được đâu. 

Biết không thể thuyết phục được dân làng. Phong van bác Rô: 

- Bác Rô! Cháu nhờ bác đem Tuyết về làng và trình báo với công an giùm cháu. 

Ông Rô gật đầu: 

- Bác sẽ làm hết sức mình. 

Tuyết phản đối: 

- Không. Em ở lại tìm Hồng. 

- Nguy hiểm và vất vả lắm. Tuyết, nghe lời anh về với dân làng đi. 

- Không. Em không về được. Một ngày chưa tìm ra Hồng là em không thể về. 

Phong thở dài: 

- Thôi được. 

Dân làng kéo nhau về sau khi để lại cho cả bọn lương thực đem theo. Duy hỏi Phong: 

- Bây giờ chúng ta làm gì? 

- Chia nhau đi tìm. 

Duy bực dọc: 

- Chia nhau đi tìm. Chia nhau đi tìm. Cậu không có một phương án nào khác sao? 

- Chúng ta đang chờ sự hỗ trợ của công an. 

- Sao cậu không báo cho công an sớm hơn. 

- Dân làng sợ cọp trả thù nên ngăn cản mãi. 

- Cậu mà cũng tin vào những điều huyền hoặc ấy sao? 

Tuyết can ngăn: 

- Các anh đừng cãi vã nữa. Chúng ta phải tìm cho ra Hồng biết đâu Hồng đi lạc, bị đói rồi ngất xỉu ở một nơi nào đó. Chúng ta hãy khẩn trương lên. 

- Chúng ta hãy tiếp tục tìm đi. 

Ba người lại chia nhau đi tìm Hồng. Tuyết vừa đi vừa nhìn từng gốc cây bụi cỏ xem có dấu tích gì của Hồng không. 

Đến một căn chòi cao ẩn dưới gốc cây cổ thụ, Tuyết nhìn thấy một tia sáng lấp lánh dưới gốc cây. Cô vội vã nhặt lên rồi reo to: 

- Anh Phong! Sợi dây chuyền này là của Hồng nè. 

- Chắc là Hồng đã gặp nguy hiểm rồi, chúng ta phải làm sao đây? 

- Mình tiếp tục tìm quanh đây xem có phát hiện được gì không? 

- Đây là chiếc đồng hồ của Hồng nè. 

- Đúng rồi. Mình theo lối này mà đi tìm đi. 

Theo con đường nhỏ, hai người tiếp tục mò mẫm kiếm tìm. Bất thình lình Tuyết xẩy chân trượt xuống hố. Cô la to: 

- Anh Phong! 

Phong nhào đến ôm choàng lấy Tuyết kéo lại. Nhưng đã muộn. Cả hai rơi xuống một cái hố sâu. Tuyết lo sợ: 

- Làm sao đây anh Phong? 

- Tìm cách leo lên. 

- Cái hố này rong rêu bám chặt, trơn quá, mình lại không có dây. 

Phong đi vòng quanh hố chợt anh phát hiện ra một lối đi nhỏ vừa đủ một người đi: 

- Tuyết có lối đi nhưng…. 

Hiểu ý Phong, Tuyết vội nói: 

- Có nguy hiểm mình vẫn phải đi. Bởi vì đó là con đường duy nhất mà. 

Phong gật đầu: 

- Anh đi trước, em theo sau. Bám sát lấy anh nghe. 

Cả hai lần mò đi trong đường hầm đến một ngã rẽ trong hang núi, Phong nghe tiếng động lạ, hình như là tiếng ngân nga của một bài thánh kinh. Anh kéo Tuyết núp hờ vào một ngạch trong hang núi. 

Sau khi bài thánh kinh đã hết, ánh sáng bỗng bừng lên khắp nơi. Cả hai kinh hoàng nhìn cảnh tượng kinh dị trong hang. Phía trên tảng đá cao, có một con cọp vằn vện đứng oai nghi, há mồm hung ác. Nhìn thật kỹ, Phong nói khẽ vào tai Tuyết: 

- Đừng sợ! Cọp nhồi bông. 

Một cô gái bị trói vào cột, một người mặc da cọp nhảy, phóng như điệu cọp quanh cô gái. Những người phía dưới quỳ sụp xuống lạy. Cô gái khóc lóc van xin: 

- Các người hãy thả tôi ra đi. Tôi van xin các người mà. 

Những gương mặt lạnh lùng, những ánh mắt tàn nhẫn vẫn nhìn cô. Trước cái chết cô gái gào lên thảm thương: 

- Tôi van xin các người, hãy tha cho chúng tôi đi. Hãy tỉnh ngộ lại đi. Đây không phải là cúng tế thần linh, mà là các người đang gây tội ác. 

Mặc cho cô gái kêu gào, người mặc bộ da cọp vẫn thản nhiên đến bên bệ đá, giơ cao chiếc dao lên rồi từ từ hạ xuống. 

- Đừng! Đừng mà! 

Tuyết chợt tỉnh dậy gây ra tiếng động, Chơ Rớt dáo dác nhìn quanh. Ánh mắt sắc lạnh của hắn chạm phải người Phong như một luồng điện cực mạnh. 

Phong kinh hoàng xốc Tuyết lên vai bỏ chạy. 

- Bỏ em xuống đi anh Phong. 

Biết Tuyết đã tỉnh hẳn, Phong đặt Tuyết xuống đất cùng nắm tay nhau chạy trốn. 

Phía sau, đám thuộc hạ của Chơ Rớt đuổi theo sát. Chúng la to: 

- Bắt nó! Đừng để nó chạy thoát. 

Bước chân của Tuyết càng thêm hoảng loạn. 

- Anh Phong! Chạy đi! Chạy về báo cho mọi người đi. 

- Anh không thể bỏ em, Tuyết. 

- Chạy đi. Nếu không chúng ta cùng chết vô ích. 

Giữa lúc Phong chưa biết xử trí ra sao, thì Tuyết vấp rễ cây té nhào: 

- Anh Phong! Chạy đi! 

Bọn thuộc hạ của Chơ Rớt chỉ còn cách anh và Tuyết mấy bước chân. Thấy Phong chần chừ, Tuyết gào lên: 

- Chạy đi! 

Tình thế bắt buộc Phong phải chạy nhanh để tìm cách cứu Tuyết. Một tên trói Tuyết rồi ra lệnh. 

- Đuổi theo thằng đó. 

Như có một sức mạnh thần kỳ nào phù trợ, Phong chạy ra ngoài thật nhanh thoát ra ngoài cửa hang đến bìa rừng. 

Lúc ấy, toán thợ săn vừa trờ tới, họ nhận ra Phong. 

- Anh Phong! Anh làm gì chạy dữ vậy? 

Phong thở hổn hển đáp: 

- Tôi phát hiện ra hang cọp nơi các cô gái mất tích bị giết. Bọn chúng đuổi theo tôi. Tuyết còn ở trỏng. 

Một người trong bọn sốt sắng: 

- Chúng ta vào hang cứu người đi. 

- Không được. Bọn chúng có súng. Chúng ta về báo công an hỗ trợ đi. 

- Đúng đó. Chúng ta hãy quay về đi. 

Đám thuộc hạ của Chơ Rớt thấy đông người không dám đuổi theo, vội vàng về báo cho Chơ Rớt biết. 

- Thưa thủ lĩnh, thằng đó chạy thoát rồi, chỉ bắt được con nhỏ này thôi. 

- Vô dụng! 

Chơ Rớt gầm lên: 

- Một lũ vô dụng. Chỉ có một con nhãi và một thằng tép riu mà bọn bây cũng để cho nó thoát. 

- Thủ lĩnh tha tội. Vì lúc ấy có một toán thợ săn xuất hiện cứu hắn nên chúng tôi phải rút lui không dám kinh động. 

- Hừ! Càng ngày càng thêm tồi tệ. Xem ra bọn bây không còn tác dụng nữa rồi. 

Đám thuộc hạ của Chơ Rớt hoảng sợ nhìn nhau. Lời nói của Chơ Rớt như một bản án tử hình dành cho họ. 

- Thủ lĩnh tha mạng. 

Chơ Rớt xua tay: 

- Bọn bây khỏi cần van xin nữa. 

Cả bọn quỳ xuống lạy lia lịa: 

- Xin thủ lĩnh tha mạng. Chúng tôi sẽ đoái công chuộc tội. 

- E rằng tụi bay không còn thời gian để đoái công chuộc tội. Bọn cảnh sát sẽ đến đây tiêu diệt chúng ta sau khi thằng đó về đến làng. Thiếu sót của chúng bay là để cho đám người đó chạy thoát. 

- Bây giờ chúng ta phải làm gì thưa thủ lĩnh? 

- Đưa con bé đó vào đây. 

Theo lời Chơ Rớt, Tuyết bị đẩy vào. Nhìn ánh mắt hung tợn của Chơ Rớt, Tuyết giật mình kinh hãi: 

- Các ông định làm gì tôi? 

- Hôm nay tao không có hứng thú giết người, bọn bây giữ nó lại làm con tin, bọn còn lại chia nhau tản mác mai phục, khi bọn chúng đến cứ ngỡ chúng ta đã bỏ đi sẽ xông vào, chúng ta sẽ tiêu diệt bọn chúng. 

Nghe âm mưu của bọn chúng, Tuyết hoảng sợ: 

- Các ông đừng gây tội ác nữa. 

- Cô em! Nên biết điều một chút đi. Ngoan ngoãn đi. Chờ bọn ta chiến thắng, cô em sẽ là món quà mừng công cho đám thuộc hạ của ta. 

- Tôi sẽ tố cáo các người. 

Chơ Rớt cười ngạo nghễ: 

- Mày còn cơ hội sao con nhãi? 

Nói xong, hắn nhét chiếc giẻ vào miệng Tuyết rồi ra lệnh: 

- Chỉ một thằng ở đây giữ nó. Còn tất cả theo đúng kế hoạch mà hành động. 

- Tuân lệnh thủ lĩnh. 

Bọn chúng kéo nhau đi mai phục. Tuyết hoang mang lo sợ lẫn mệt mỏi. Cô ngả đầu vào vách núi thiếp đi. Tên canh giữ Tuyết không biết nghĩ gì, nhìn Tuyết bỗng lắc đầu ngao ngán. 

Lê Trung ngả người trên chiếc ghế sofa nhắm mắt tận hưởng cái cảm giác sảng khoái trong người. Sáng nay, “sếp” vừa ký cho anh một giấy phép bảy ngày sau khi đã phá xong vụ án một đường dây ma túy. Anh sẽ cùng Uyển Vân đi Nha Trang hít thở cái không khí nồng nồng của gió biển, sẽ cùng ngâm mình trong làn nước biển buổi ban mai. Và sau đó là những nụ hôn ngọt ngào của cô nàng làm phần thưởng cho anh sau chiến công. 

Chuông điện thoại di động lúc nào cũng gắn chặt với anh reo vang. Anh thầm nghĩ: 

“Cha nội nào quái ác nhằm lúc này mà gọi điện. Chắc là lại có “độ nhậu” nữa rồi.” 

Lê Trung lắc đầu ngao ngán cho cái đám bạn của anh. Là một chiến sĩ an ninh ngoại tuyến anh luôn có những cuộc tiếp xúc với nhóm “xã hội đen” bên ngoài. 

Uyển Vân thường hay làu nhàu: 

- Không khéo rồi anh cũng hư như họ mất. 

Lê Trung vuốt tóc người yêu, giải thích: 

- Nhiệm vụ mà. Không lăn lộn như thế làm sao mà phá án. 

Mãi suy nghĩ anh quên cả bắt điện thoại. Nghe tiếng chuông reo dồn dập anh bỏ những hồi tưởng của mình trở về thực tại. 

- Alô. 

- Sao? Định không nghe điện thoại à? 

Lê Trung giật nẩy mình đứng lên nghiêm chỉnh trong tư thế của một chiến sĩ. 

- Báo cáo đại tá. 

Bên kia đầu dây, một giọng cười hiền lành vang lên: 

- Tôi không lấy cương vị thủ trưởng mà nói chuyện với cậu trong lúc này đâu. Cậu đang nghỉ phép à? 

Giọng cười của sếp làm anh lo lắng: 

- Có việc gì không thủ trưởng? 

- Đáng lý ra thì tôi không dám làm phiền anh, nhưng…

- Thủ trưởng cứ nói… Em lúc nào cũng sẵn sàng làm nhiệm vụ. 

- Tôi biết cậu lúc nào cũng năng nổ, nhiệt tình. Có một vụ án trong buôn làng Y, họ đang nhờ sự hỗ trợ của ta. Các chiến sĩ ở đây thì đã phân công cả. Bắt buộc tôi phải nghĩ đến cậu. 

- Chừng nào lên đường, thưa thủ trưởng. 

- Mười phút sau xe sẽ đến đón cậu. 

- Ngay bây giờ à? 

- Phải. Chúng ta không còn thời gian nữa. Cậu nhớ bằng mọi giá phải bảo vệ con tin, bắt cho được nhóm người đang ở trong hang. 

- Thưa thủ trưởng… Tôi có thể biết được tình tiết vụ án không? 

- Lên xe, người của ta sẽ trình bày cụ thể cho cậu biết. Cậu chuẩn bị đi. 

- Rõ! Thưa thủ trưởng. 

Lê Trung buông máy. Thế là đi toi chuyến du lịch, may là anh chưa điện cho Uyển Vân, nếu không thì mà dài cổ giải thích với cô nàng. 

Anh không có thời gian để chuẩn bị. Quơ vội mấy bộ quần áo, đồ dùng cá nhân cho vào chiếc balô, anh đã sẵn sàng lên đường. 

Tiếng kèn quen thuộc đã vang lên ngoài đầu ngõ. Anh chạy vội ra đường nhảy lên xe. Hai trinh sát quen thuộc nhìn anh mỉm cười: 

- Rất hân hạnh được cộng tác với đội trưởng. 

- Quỷ tha ma bắt các cậu. 

Lê Trung làu bàu trả lời Tuân và Thuận. Họ là những chiến sĩ trẻ, xông xáo, nhiệt tình. Lê Trung tin rằng họ sẽ là những cánh tay đắc lực của anh. 

- Thế nào? Vụ án ra sao? 

Nghe Tuân báo tình hình, Lê Trung cau mày: 

- Như vậy là có hai cô gái bị bắt. Cấp trên lệnh cho chúng ta bằng mọi giá phải giải thoát nạn nhân, bắt sống bọn chúng. Các cậu phải hết sức thận trọng. 

- Rõ! 

- Phương án của chúng ta là phải bí mật đột nhập vào hang nắm rõ lực lượng của chúng bên ngoài, bên trong phối hợp hành động. Tôi sẽ chịu trách nhiệm vào hang, còn các cậu cùng công an địa phương sẽ ở bên ngoài hỗ trợ khi tôi ra hiệu bằng một phát súng. 

- Rõ! 

Xe chạy vào thôn. Ở nhà trưởng làng, mọi người đã tập hợp sẵn sàng. Bóng tối đã hiện về trong cánh rừng. Lê Trung triển khai kế hoạch cho mọi người nghe rồi ra lệnh: 

- Chúng ta xuất phát. 

Mọi người theo con đường nhỏ đi sâu vào trong rừng, từng nhóm… từng nhóm phân tán nhau tiến vào vây chặt hang núi.

CHƯƠNG III (tiếp theo)

Quá mệt mỏi, Hồng mơ màng chìm trong giấc ngủ. Đột nhiên, cô giật mình bởi tiếng gọi nhỏ vang lên. 

- Hồng! Hồng ơi! 

Trong bóng tối lờ mờ cô nhận ra Quốc đang lay gọi mình. 

- Quốc! Anh Quốc phải không? 

Quốc dùng ngón tay che miệng Hồng: 

- Suỵt! Nói nhỏ. Anh vào để giải cứu cho em đây. 

- Làm sao ta rời khỏi nơi đây? 

- Anh sẽ đưa em ra ngoài cửa hang, sau đó em chạy về làng. 

- Có được không anh? 

- Chúng ta phải liều thử xem. Đã hết cách rồi. 

- Sao anh không cùng về với em? 

- Không được. Anh là tội phạm, anh không thể về làng được. 

- Chính quyền luôn khoan dung cho những người biết hối cải, quay về lẽ phải đường ngay. 

- Nhưng anh không thể làm kẻ phản bội được. Anh đưa em ra ngoài rồi sẽ vào chịu tội với thủ lĩnh. 

Hồng hốt hoảng: 

- Hắn sẽ giết anh chết mất. 

- Cái mạng của anh do người cứu. Bây giờ người có thể lấy lại bất cứ lúc nào. Em còn trẻ, tương lai còn dài, đừng bận tâm đến anh mà hãy trốn khỏi nơi đây, sau này đừng bao giờ đến đây nữa. 

Hồng nghẹn ngào: 

- Anh Quốc! 

- Chúng ta không có thời gian nữa đâu Hồng. Anh cởi trói cho em xong rồi, mau theo anh rời khỏi nơi này. 

Hồng cầm tay Quốc siết chặt: 

- Anh Quốc! Bảo trọng… 

Quốc lặng thinh, che giấu nỗi xúc cảm trong lòng. Lần đầu gặp Hồng, anh đã không kềm chế được lòng mình trước cái ánh mắt như cười pha lẫn một chút tinh nghịch lẫn bướng bỉnh đó. Vì yêu Hồng, anh đã liều lĩnh giải thoát cho nàng. 

Quốc lo ngại nhìn Hồng, cô đã gần kiệt sức bởi mấy ngày giam giữ. Anh vừa dìu Hồng, vừa bảo: 

- Cố lên Hồng. 

- Đứng lại! 

Một tiếng quát thật to vang lên làm mạch máu cả hai gần như đông cứng: 

- Mày định đưa nó đi đâu? 

Chơ Rớt xuất hiện, nòng súng trong tay sẵn sàng nhả đạn. Quốc bối rối: 

- Tôi đưa Hồng ra bờ suối tắm một lát, cô ấy đã không chịu nổi nữa rồi. 

Chơ Rớt cười to: 

- Mày gạt được ai chớ đâu có gạt được thằng Chơ Rớt này. Mày định đưa nó đi trốn phải không? Vì bọn đàn bà mà mày định phản bội lại tao à? 

- Không, thưa thủ lĩnh. 

- Đừng nói nhiều. Tao sẽ bắn nát tim nó rồi tới mày. 

- Đừng! Đừng thủ lĩnh. 

Quốc nói như van xin. 

- Xê ra! Nếu không thì đừng trách. 

- Thủ lĩnh! 

Bóng đêm bỗng bừng sáng vì một ánh chớp màu vàng, khẩu súng khạc đạn. 

Quốc ôm lấy Hồng lăn tròn tránh đạn. Chơ Rớt vẫn tiếp tục bắn. Hồng hét một tiếng chói lói rồi ngã nhào xuống đất. 

- Hồng! 

Hồng loạng choạng đứng lên ôm lấy bờ vai, viên đạn đã ghim vào vai máu tuôn ướt cả cánh tay. 

Hồng nói gấp gáp: 

- Anh Quốc! Chạy đi! 

- Không. Anh không thể bỏ em được. 

Quốc bồng Hồng lên, mặt nàng tái mét hai mắt nhắm nghiền. Mũi súng của Chơ Rớt vẫn hướng thẳng về hai người. 

Quốc nhắm mắt chờ viên đạn của Chơ Rớt bắn thẳng vào mình. 

- Đưa nó trở vào hang. 

Quốc thở phào, cơ hội sống của anh và Hồng vẫn còn. Quốc đặt tay lên vai Hồng: 

- Cần phải cầm máu cho Hồng gấp. 

Quốc nhủ thầm rồi xé toang chiếc áo trên người mình quấn chặt vết thương cho Hồng. 

- Mày thương nó lắm à? 

Quốc lặng thinh không trả lời Chơ Rớt. Chơ Rớt giận dữ gầm lên: 

- Mày định đưa nó trốn thoát phải không? 

- Thủ lĩnh hiểu lầm rồi. 

- Hiểu lầm à? 

Chơ Rớt gầm gừ. Quốc vội giải thích: 

- Thủ lĩnh giao nó cho em, nhưng mấy ngày nay người nó hôi hám quá, nên em định đem nó ra suối tắm rửa, chỉ có vậy thôi mà. 

Chơ Rớt hoài nghi: 

- Có thật không? 

- Em đâu dám nói dối thủ lĩnh. 

Chơ Rớt suy nghĩ một lúc: 

- Tạm thời tao tin chú mày. Chú mày có biết trong đám thuộc hạ người mà tao tin cậy nhất là chú mày…

- Thủ lĩnh! Em đâu dám phụ lòng ưu ái của thủ lĩnh. 

Chơ Rớt đưa tay chỉ vào Hồng: 

- Nếu mày thích nó, tao cũng không hẹp hòi gì, nhưng chú mày nhớ phản bội tao thì chỉ có một con đường chết mà thôi. 

Quốc lấm lét: 

- Thủ lĩnh! Em không dám đâu. 

Chơ Rớt ra ngoài cửa động quát to: 

- Tư Thông đâu? 

Một gã áo đen chạy vào: 

- Thủ lĩnh gọi thuộc hạ. 

- Mày hãy ở đây phụ thằng Quốc canh giữ con này. Thế nào bọn công an cũng mò lên đây. Sa vào tay bọn nó, chúng bay chỉ còn nước ôm bản án chung thân trong trại cải tạo mà thôi. 

Chơ Rớt nói xong, quay lưng bỏ đi. Gã áo đen có cái tên là Tư thông lầm lì đi ra ngoài cửa hang canh giữ. Quốc nhìn Hồng, lắc đầu tuyệt vọng. Hồng hiểu được cái nhìn của anh. Cô cũng đang cùng cực tuyệt vọng. Cô ôm vai kêu lên đau đớn. 

Máu từ vết thương túa ra thấm qua hết chiếc áo của Quốc. Hơi thở của cô như yếu ớt hẳn đi rồi ngất lịm. 

Quốc kinh hoàng lay gọi: 

- Hồng! Em tỉnh lại đi Hồng. 

Hồng như thấy mình chơi vơi vào một khoảng hư không nào đó. Hồn cô bay về một khoảng trời mênh mông, bốn bề đồng lúa vàng rực vây quanh. Và mẹ, mẹ cô với tấm lưng gầy cần cù, lầm lũi thân cò nuôi cô thành tài. 

Trong cơn mê cô thầm thì: 

- Mẹ! Con đã về bên mẹ rồi đây. 

Theo sự mô tả tỉ mỉ của Phong và được bóng đêm dày đặc đồng tình che chở, Lê Trung bò đến gần cửa hang mà không bị phát giác. 

Bằng một thế võ bí hiểm, anh hạ gục tên gác cửa không mấy khó khăn. Kéo hắn vào một gốc cây, anh vội thay bộ đồ đen cùng chiếc khăn trùm đầu của hắn rồi cầm lấy cây súng đứng gác trước cửa hang. 

Chờ một lúc khá lâu, anh thấy từ trong hang một bóng đen đi ra. Anh vội ngồi bệt xuống đất ôm bụng rên. 

- Mày đau bụng hả Long? 

Lê Trung mừng thầm trong lòng: 

- Thì ra gã khi nãy tên Long. 

Lê Trung giả bộ rên rỉ. Anh nói như đứt quãng: 

- Tao đau bụng quá. 

- Sao mày không kêu tao thế? 

- Tao sợ công an đến nên không dám vào sợ không ai báo động. 

- Thôi, mày vào đi. 

Lê Trung ôm bụng lom khom đi vào hang. Từng bước… từng bước anh bước vào hang ổ của địch. 

- Ê! 

Tim Lê Trung như muốn ngừng đập. Hắn phát hiện ra anh chăng? Lê Trung cố bình tĩnh anh nắm chặt khẩu súng trong áo sẵn sàng chiến đấu. 

- Gì vậy? 

- Chai rượu thuốc tao để trong hộc tủ mày uống vào một chút là hết ngay. 

Lê Trung thở phào nhẹ nhõm: 

- Biết rồi! 

Từng phút một trôi qua, Lê Trung lần mò vách đá đi sâu vào trong hang một cách thận trọng và cảnh giác… 

Ở ngoài cửa hang, Phong và Duy sốt ruột lo lắng. Cả hai bàn bạc với nhau. 

- Mình đi theo bờ suối đột nhập vào hang xem xét tình hình, có thể giúp đỡ gì anh Lê Trung không? 

Nghe Phong nói, Duy gật gù: 

- Phải đó. Mình cứ chờ mãi ở ngoài đây cũng không phải là cách đâu. 

Cả hai cùng tiến vào cửa hang theo con đường đi ở bờ suối. Trong bóng tối, cả hai như thằng mù chệnh choạng bước đi. Phong không dám pha đèn pin vì sợ bị phát hiện. Lá khô dưới chân sột soạt như tố cáo những bước đi của hai người, sự căng thẳng làm mồ hôi vã ra như tắm. 

Bỗng Phong nhìn xuống phát hiện ánh sáng tỏa ra từ một cái hang. Anh nói nhỏ vào tai Duy: 

- Chú ý đã đến hang rồi. 

Trong bóng đêm, cả hai lần theo vách núi tiến tới, chốc chốc phải dừng lại nghe ngóng những tiếng động của những cành cây khô gãy. 

Phong nhận ra Chơ Rớt, kẻ đã giết cô gái tế cọp trong hang cùng đám thuộc hạ đang vây quanh một cô gái mê man nằm dưới đất, cánh tay phải đầy máu. 

Phong rỉ tai Duy: 

- Hồng bị thương rồi. Làm sao cứu Hồng đây? 

Duy im lặng. Bởi hiện tại anh chưa tìm ra cách gì. Từng phút một trôi qua… Bất chợt Duy nghe ngọ nguậy trong bóng tối. Từ ánh sáng trong hang hắt ra, Duy nhìn thấy một con trăn dài đang cuộn tròn siết chặt chân anh. 

Duy run rẩy hét to: 

- Phong! Cứu tôi với. 

Tiếng la của Duy đã tố cáo hai người. Lập tức những nòng súng lạnh ngắt chĩa thẳng vào hai người. 

- Giơ tay lên! 

Ngay lúc ấy, một bóng đen xuất hiện và viên đạn bắn ra khỏi nòng. Một ánh chớp lóe lên, viên đạn bay qua bàn chân Duy rát rạt. 

Duy giơ cao hai tay lên và đưa mắt nhìn con trăn. Nó vẫn nằm cuộn tròn dưới chân nhưng cái đầu đã bị bắn nát bét. 

Hành động đầu tiên của Duy là nhảy người ra khỏi con trăn. Giọng Lê Trung vang lên anh cố kéo dài thời gian sau khi đã nổ súng ra hiệu cho lực lượng bên ngoài vào hỗ trợ. 

- Đứng im! Các anh đã bị bao vây. Buông súng xuống, đầu hàng đi. 

Sự việc chỉ xảy ra trong nháy mắt, Phong và Duy đã thoát ra sự nguy hiểm. Anh nghe lệnh của Lê Trung. 

- Thụt lùi lại ra ngoài cửa hang, bình tĩnh có chúng tôi bảo vệ. 

Phong và Duy thụt lùi ra ngoài. Hai nòng súng chỉa thẳng vào hai người bóp cò. 

- Đùng! Đùng! 

Hai tiếng nổ vang lên. Phong và Duy nhắm mắt chờ cái chết đến với mình, bởi hai người biết rằng một mình Lê Trung không thể bảo vệ nổi cả hai người. 

Bốp! Bốp! 

Hai khẩu súng rơi xuống đất. Hai gã áo đen ôm cánh tay rú lên. 

Một cú bắn tuyệt đẹp, Lê Trung cùng một lúc dùng hai tay bắn hai khẩu súng trúng chính xác mục tiêu. 

Chơ Rớt gầm vang: 

- Bọn khốn nạn! Hãy ra đây, đừng núp trong bóng tối mà giở trò nữa. 

Giọng Lê Trung vẫn vang lên chiêu dụ kéo dài thời gian bởi anh có lợi thế đang ở trong bóng tối, kẻ địch ngoài sáng. Lực lượng yếu, bọn chúng đông người, anh chỉ có một, phải dùng kế nghi binh. 

- Đầu hàng đi! Các anh đã bị chúng tôi bao vây, chỉ cần một chút kháng cự đạn sẽ ghim vào đầu các anh. 

Chơ Rớt hoang mang thầm nghĩ: 

- Tình thế bất lợi cho mình. Không biết bọn chúng có bao nhiêu người? 

Lúc đó, lực lượng bên ngoài đã vào hỗ trợ. Các nòng súng lên nòng kêu sắc lạnh. 

Tất cả những người trong hang đều đi ra ngoài, Duy vội chạy đến bên Hồng, cô ngất xỉu nhưng máu không còn chảy nữa. Duy lấy con dao nhỏ cắt một cánh tay áo đẫm máu của cô. 

Vai cô bị trúng một mảnh đạn, tuy xương không gãy nhưng mất máu khá nhiều. Duy lo lắng: 

- Trong tình trạng này, làm sao cấp cứu cho Hồng đây. 

Duy bế Hồng lên, hy vọng duy nhất là thoát khỏi nơi đây để săn sóc vết thương cho cô. 

Bên ngoài tiếng súng nổ vang lên, nhiều tiếng kêu thảm thiết vang lên, bọn áo đen ngã gục. 

Lúc Duy bế Hồng ra đến cửa hang thì cũng là lúc Chơ Rớt, Tư Thông và Quốc thụt vào. 

Chơ Rớt quát vang: 

- Ta ra lệnh cho các người ngoài kia bỏ súng xuống. Nếu không ta bắn nát sọ hai đứa này. 

Tiếng Lê Trung vang lên một mệnh lệnh: 

- Bảo vệ nạn nhân! 

Chơ Rớt cười vang: 

- Bọn bây ở ngoài làm sao mà bảo vệ nó trong hang được. Hôm nay bọn nó phải chết! 

Lê Trung la to: 

- Chơ Rớt. Đừng làm bậy nghe. Có thể thương lượng mà. 

- Thương lượng như thế nào? 

- Chúng tôi sẽ để các anh tự do ra ngoài nếu các anh thả hai người đó. 

Thấy Chơ Rớt lưỡng lự, Tư Thông la to: 

- Thủ lĩnh. Đừng tin bọn nó. Bên kia hang còn có một con tin, thủ lĩnh hãy khống chế nó mà bảo vệ mình. Ở đây chúng tôi lo. 

Chơ Rớt nhìn Tư Thông gật đầu. Lúc thập tử nhất sinh mới biết lòng trung thành của thuộc hạ, Chơ Rớt nhìn Quốc lo ngại. Quốc hiểu được cái nhìn ấy, vội nói: 

- Thủ lĩnh yên tâm. Chúng tôi sẽ bảo vệ thủ lĩnh đến hơi thở cuối cùng. 

Không trả lời Quốc, lần vào hang kế bên. Tư Thông buộc Duy phải để Hồng xuống đất, hắn ra lệnh cho Quốc: 

- Trói nó lại. 

Sợ Tư Thông nghi ngờ sẽ khử ngay Quốc vội trói Duy lại theo lênh hắn. Tư Thông dùng sợi dây quấn quanh cổ Hồng rồi ra lệnh: 

- Tất cả bỏ súng xuống, nếu không tao siết cổ nó. 

Lê Trung đã tiến đến cửa hang, anh thận trọng nép người vào mỏm đá, căng mắt chờ Tư Thông sơ hở để hành động. 

Bất ngờ Quốc đứng sau lưng đá cây súng văng khỏi tay Tư Thông. Tư Thông sững sờ: 

- Quốc! Mày phản bội à? 

Tiếng nói chưa dứt thì một tiếng nổ vang lên. Tư Thông nẩy người lên, rồi gục xuống, mắt vẫn còn mở to kinh ngạc. 

Nòng súng của Lê Trung chĩa vào Quốc: 

- Bỏ súng xuống đầu hàng đi! 

Quốc quay ngược cây súng chĩa vào đầu mình. Anh nhìn Hồng mỉm cười, ước nguyện cuối cùng của anh là cứu được Hồng, anh đã phản bội tổ chức phải tự xử thôi. 

Ngón tay anh chưa kịp đưa lên cò thì một tiếng nổ vang lên. Quốc ôm tay đau đớn cây súng văng xuống đất. 

Lê Trung cùng các chiến sĩ ập vào hang. Quốc gào lên: 

- Tại sao các người không để cho tôi chết? 

Lê Trung nghiêm nghị bảo: 

- Chết đâu phải là cách đâu. Anh có thể hối cải về với người thân để làm lại cuộc đời mà. 

- Tôi có thể sao? 

- Chính sách khoan hồng luôn dành cho những người thành tâm hối cải. 

Quốc ôm đầu: 

- Hãy cứu tôi! Hãy cứu tôi! 

- Anh yên tâm theo chúng tôi về đi. 

Rồi anh ra lệnh cho các chiến sĩ công an địa phương. 

- Các anh hãy đưa hai người đi cấp cứu. Số còn lại ở đây cùng chúng tôi đi cứu một cô gái nữa. 

- Vâng. 

Hồng và Quốc được đưa đi cấp cứu, Phong lo lắng hỏi Lê Trung: 

- Liệu tên Chơ Rớt có làm hại gì Tuyết không? 

- Tạm thời thì chưa. Chơ Rớt còn phải lợi dụng Tuyết để làm con tin bảo vệ mình. Anh yên tâm đi. 

- Có khi nào hắn liều lĩnh không? 

- Kinh nghiệm với bọn tội phạm cho tôi thấy rằng không. Chúng vẫn là kẻ tham sống sợ chết. Bọn chúng phải chừa cho mình một lối thoát chứ. 

- Chúng ta phải làm cách nào để cứu Tuyết. 

- Bọn tội phạm lúc nào cũng liều lĩnh ngoan cố. Nhưng lúc nào cũng thất bại trước sự ngoan cường, gan dạ và thông minh của ta. Tôi tin rằng chúng ta sẽ diệt được bọn chúng, giải thoát cho nạn nhân. 

Phong nhìn Lê Trung dõng dạc nói. Anh thật sự kính phục trước nghĩa cử của người chiến sĩ công an, vì bảo vệ cho dân mà quên đi bao nguy hiểm cho bản thân mình. 

Tin tưởng, anh chỉ còn biết tin tưởng mà chờ đợi tài năng xuất chúng của các anh để giải thoát cho Tuyết. 

- Tuyết! Ráng chờ nghe. 

Ước gì anh có được phép thuật “nhập khẩu truyền âm”, để nói với Tuyết bao điều

- Thưa cán bộ, gia đình tôi chỉ có hai anh em và một mẹ già. Tôi có người anh đã có gia đình. 

- Anh đã có vợ con chưa? 

- Dạ chưa. 

- Tại sao anh lại tham gia vào tổ chức của Chơ Rớt? 

Quốc thoáng ngập ngừng: 

- Thưa cán bộ, tôi… tôi không tham gia… 

Anh cán bộ nhìn Quốc nghiêm nghị bảo: 

- Anh hãy thành khẩn mà trả lời câu hỏi của chúng tôi. 

- Vâng. 

- Tổ chức của Chơ Rớt có bao nhiêu người? 

- Thưa cán bộ, chỉ có mười người. 

- Anh giữ nhiệm vụ gì trong tổ chức? 

- Thưa cán bộ, tôi không có nhiệm vụ gì cả. Hằng ngày tôi chỉ ở trong hang lo thức ăn cho Chơ Rớt. 

- Anh tham gia tổ chức này được bao lâu? 

- Tôi không tham gia, thưa cán bộ. Tôi bị bắt buộc. 

- Cứ cho là thế. Như vậy anh ở trong hang ấy được bao lâu rồi? 

- Hơn hai năm rồi. 

- Tại sao lại vào trong ấy? 

Một thoáng suy tư hiện lên trong mắt Quốc. Như một khúc quay chậm, ngày ấy hiện về. 

Anh cán bộ điều tra ngừng bút, anh lặng người đi theo câu chuyện của Quốc. Tấm màn bí mật về “Cô gái cưỡi cọp” dần dần được hiện lên. 

Rừng về đêm âm u, bóng tối dày đặc. Quốc cùng một toán người mang hàng vừa vượt biên giới vào Việt Nam băng rừng đến điểm hẹn. 

Một người trong nhóm dặn dò: 

- Tụi bay cẩn thận nghen, nếu gặp bọn kiểm lâm hay công an biên phòng thì phân tán ra để đến điểm hẹn, ông chủ sẽ cho người đón. Lúc này bọn chống buôn lậu nó quần dữ lắm. Lọt vào tay bọn nó với lượng ma túy trong người thì có nước lãnh án tử hình. 

Thì ra nhóm người đang cắt rừng đi đêm là nhóm buôn lậu. Họ đang vận chuyển ma túy, một chất độc hại về thành phố tiêu thụ. 

- Nghỉ một chút đi đại ca. 

Quốc làu nhàu, chừng như một người là trưởng nhóm lên tiếng. 

- Ráng lên đi. Ở giữa rừng nguy hiểm lắm, không sa vào tay công an cũng sẽ làm mồi cho thú dữ. 

Quốc rùng mình: 

- Như vầy nguy hiểm quá, đại ca ơi. Xong việc này, em xin ông chủ một số vốn về gác kiếm cưới vợ làm ăn cho rồi. 

- Mày tưởng ông chủ sẽ dễ dàng để yên cho mày thực hiện giấc mơ ấy lắm sao? 

Quốc ngạc nhiên: 

- Sao vậy? Ông chủ đã hứa với em. 

Tên trưởng toán cười nhạt: 

- Chú mày ngây thơ lắm. Đã leo lên lưng cọp thì phải ngồi trên lưng, chú mày đã gia nhập tổ chức thì phải sống chết với tổ chức. Có ý định rời bỏ tổ chức, làm lộ bí mật của tổ chức lập tức sẽ bị khử ngay. 

Quốc le lưỡi: 

- Vậy mình phải làm sao hả đại ca? 

- Còn biết phải làm sao hơn là cùng sống chết với tổ chức. 

- Em còn một mẹ già, em chỉ muốn kiếm chút ít tiền về cưới vợ nuôi dưỡng mẹ già thôi. 

- Chú mày đã nghiện chưa? 

Quốc lắc đầu: 

- Chưa. Em chỉ mới gia nhập và đi chuyến đầu tiên này. 

- Vĩnh viễn chú mày phải gắn chặt với tổ chức để bảo đảm sanh mạng của mày và sự bình yên của bà già mày. 

Quốc hoang mang: 

- Đây là một tổ chức phạm pháp, mình phải rời bỏ nó ngay, nếu không thì hậu quả sẽ vô cùng khốc liệt. Mẹ mình làm sao mà sống nổi nếu không có mình. 

Quốc lại tự trách mình: 

- Chỉ một phút ham vui nông nổi mà sa bẫy hối hận không kịp. 

Quốc buồn bã nhớ lại một đêm nọ cùng bạn bè vào một vũ trường. Sau khi nhảy nhót, chè chén say sưa, cao hứng, bọn chúng lôi anh vào sòng bạc. Đã thua trắng tay còn thiếu một số tiền với bọn cho vay nặng lãi. Rốt cuộc phải nhận lời đi vận chuyển hàng để trừ nợ. Bây giờ, phiêu lưu giữa rừng già, tánh mạng nguy hiểm. 

- Tất cả đứng im. 

Tiếng quát sắc lạnh vang lên giữa rừng đêm làm cả bọn sửng sốt. 

- Công an! Chạy! 

Ánh chớp lóe sáng những tiếng nổ chát chúa vang lên. Quốc cắm cổ chạy vào rừng mặc cho bao nguy hiểm vây quanh. 

Quốc cứ chạy, chạy mãi, đầu va vào gốc cây rướm máu mà vẫn không thấy đau. Cho đến khi anh mệt lả, đứng ôm gốc cây thở hổn hển. 

Chung quanh im lặng. Quốc mừng thầm vì mình đã chạy ra khỏi vòng phục kích. Nhưng anh đã vội mừng vì trong rừng đêm im ắng bỗng vang lên tiếng gầm rú man dại của chúa sơn lâm. 

- Chết rồi! Cọp. Làm sao bây giờ? Nó đánh hơi người rất thính. Nó sẽ phát hiện ra mình. Mình sẽ chết mất. 

Anh cứ chạy, chạy mãi mà không định được phương hướng. Càng chạy, tiếng gầm rú lại càng gần. 

Quốc sững sờ nhìn hai đốm sáng lóe lên trong đêm. Anh như nghe rõ tiếng nghiến răng kin kít của loài hổ dữ. 

Người Quốc run lên bần bật. Anh không còn sức lực để chạy nữa. Anh nhắm mắt lại chờ cái chết đến với mình. 

- Mẹ! Mẹ ơi! Con không về được nữa rồi. 

Giữa lúc thân thể anh sắp nằm trong móng vuốt của cọp thì… 

- Phập! 

Một tiếng động lạnh lùng vang lên. Cọp gầm lên đau đớn vì một mũi tên đá cắm sâu vào đôi mắt. 

- Phập! 

Thêm một mũi tên nữa cắm sâu vào lồng ngực cọp, máu tuôn như xối. Cọp lăn lộn, gầm rú, giãy giụa… Cây cối rạp xuống cả một vùng. 

Tàn hơi, cọp nằm im bất động. Quốc như người từ cõi chết trở về. Anh bàng hoàng, chơi vơi như người trong cõi mộng. 

- Ân nhân! Ân nhân! Xin lộ diện cho kẻ này được đáp tạ. 

(??) thầm nghĩ: Cũng đành phó mặc cho số trời. Không theo Chơ Rớt thì chẳng tìm được lối ra. Còn ở đây thì cũng chỉ làm mồi cho cọp. 

Chơ Rớt dẫn Quốc đi lòng vòng qua các gốc cây đến bên một bờ suối rồi vào hang động. Tên thuộc hạ đứng gác nhận ra Chơ Rớt cúi đầu chào: 

- Thủ lĩnh! 

- Trong hang có xảy ra chuyện gì không? 

- Dạ không, thưa thủ lĩnh. 

- Tốt.

Tên thuộc hạ đưa mắt nhìn Quốc như ngầm hỏi. Hiểu ý hắn, Chơ Rớt giới thiệu: 

- Đây là Quốc, người sắp ra nhập tổ chức của chúng ta. 

Quốc chào hắn: 

- Từ đây về sau xin được chỉ dạy. 

Tên thuộc hạ ậm ừ: 

- Có gì đâu. Người nhà cả mà. 

Chơ Rớt ra lệnh cho Quốc. 

- Theo ta! 

Quốc theo Chơ Rớt vào trong hang. Trong hang, ngọn đuốc sáng soi rõ chiếc bàn thờ, có cái đầu cọp nằm trên. 

- Quỳ xuống, tuyên thệ đi. 

Chơ Rớt ra lệnh, Quốc ngơ ngác hỏi: 

(??)

- Đây là bàn thờ tổ. Người nào muốn gia nhập tổ chức phải tuyên thệ tuyệt đối trung thành. Nếu không móng vuốt của cọp sẽ bóp nát thân thể. Chú mày hãy tuyên thệ thần linh phò trợ ban cho sức mạnh. 

Quốc quỳ xuống trước bàn thờ: 

- Xin thề. 

- Tốt lắm. Bây giờ ngươi hãy vào trong ngủ một giấc lấy sức đi. Ngày mai ta sẽ cho người tiêu thụ số hàng này để đổi lấy rất nhiều lương thực đồ dùng. 

Chơ Rớt quý mến Quốc hơn hẳn đám thuộc hạ của hắn làm nhiều người ganh tỵ. 

Quốc lặng lẽ sống trong hang, lòng anh không có định hướng gì. Nhớ nhà, nhớ mẹ, nhưng biết rằng không thể về thăm. Chắc mẹ anh đau khổ vì sự mất tích của mình. 

(??)

- Vào xem tế thần đi. 

Tư Thông kéo tay Quốc. Quốc ngơ ngác hỏi: 

- Tế thần gì? 

- Chú mày mới vào nên chưa biết. Hằng năm, vào ngày này đều có tổ chức tế thần để thần phò trợ cho chúng ta. 

- Vậy à? 

- Trong lúc tế thần, nhất nhất mọi chuyện chú mày nên im lặng đừng hỏi lôi thôi nhé. 

- Tôi biết rồi! 

Khung cảnh trong hang làm Quốc kinh hoàng thụt lùi mấy bước. Chơ Rớt đầu đội khăn đỏ, mặc bộ đồ da cọp, một cô gái bị trói dưới chân bàn thờ. 

Chơ Rớt quỳ xuống khấn vái xong rồi quay lại ra lệnh: 

- Tất cả hãy về chỗ ở của mình. Riêng Quốc ở lại. 

Bao ánh mắt lo ngại nhìn về phía Quốc. Tất cả đều im lặng rút lui ra ngoài. Sống lưng Quốc lạnh toát, toàn thân anh sởn gai ốc khi nghĩ rằng anh sẽ bị hành hình như cô gái kia. 

- Chú mày thắc mắc lắm phải không? 

Thái độ của Chơ Rớt làm Quốc yên tâm. 

- Xin thủ lĩnh tha tội. 

Chơ Rớt bỗng đăm chiêu: 

- Ta không hiểu vì sao ta có thể dễ dàng tha thứ cho chú mày như thế. Có lẽ là vì… hoàn cảnh của ta và chú mày quá giống nhau, ta cũng có một mẹ già ở dưới buôn, mười mấy năm chưa về viếng thăm. 

- Sao thủ lĩnh không lén về thăm? 

- Có mấy lần định về, nhưng lần nào xuống buôn cũng bị công an truy đuổi. Nhưng cũng nhờ hồn phách tinh anh của cọp phò hộ, lần nào cũng gặp may mắn. 

- Thần linh mà thủ lĩnh bảo là chiếc đầu cọp này à? 

- Phải. Câu chuyện huyền bí ấy đã xảy ra mười mấy năm rồi. Mười mấy năm như giấc mộng cuộc đời ta. 

Tiếng Chơ Rớt ngậm ngùi kể lại quá khứ của mình: 

- Hồi ấy, vì ngộ sát người yêu, ta phải trốn chui trốn nhủi trong rừng. Lúc ấy có hai anh em nọ đi lạc vào trong rừng, cô em bị cọp vồ xé xác. Người anh cùng bác thợ săn dùng thuốc mê vào hang giết cọp moi tim tế mộ. Lúc đó ta ở bên ngoài chứng kiến cảnh tượng đó. Sau khi họ bỏ đi, ta mới lẻn vào khấn vái cắt đầu cọp về thờ. 

- Sự việc là vậy. Nhưng sao phải giết một cô gái để cúng tế? 

- Ta từng nằm mộng thấy hồn ma của cọp về trên lưng cõng cô gái. Cô ta nói rằng mỗi năm phải cúng cho vong cô ta và cọp bằng máu và trái tim của một cô gái. Nếu không, cọp và cô gái không phù trợ mà còn tạo nhiều nạn kiếp. 

- Hoang tưởng! 

Quốc kêu lên rồi vụt nín lặng. Chơ Rớt chẳng những không giận mà còn gật đầu: 

- Ta cũng nghĩ vậy, nhưng ta đã lầm. Nếu không cúng tế cho cọp và cô gái như đòi hỏi thì cánh rừng này đã bị tiêu diệt từ lâu và ta đương nhiên là không thoát khỏi tử thần. 

Quốc hoang mang không biết đâu là thật đâu là giả. 

- Như thế thì anh tin và cho đó là sự thật à? 

Tiếng nói của người điều tra đưa Quốc về thực tại. 

- Ban đầu tôi không tin, nhưng sau đó thấy Chơ Rớt thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, trong việc săn bắn, tôi cũng tin rằng hồn cọp vằn đã theo bảo vệ hắn. Có lần Chơ Rớt bị cọp vồ tưởng đâu hắn phải nát xương dưới nanh vuốt của cọp, bỗng một trận cuồng phong cuốn tung bụi cát vào mặt cọp, nó phải buông Chơ Rớt và dụi mắt. Chơ Rớt thoát chết trong gang tấc. Vì thế, nên… 

- Nên mỗi năm Chơ Rớt đều bắt về một cô gái vô tội để cúng tế phải không? 

- Vâng. 

- Còn về việc cô gái cưỡi cọp đi trong những đêm trăng sáng là như thế nào? 

- Chơ Rớt rất có tài, hắn ta tạo ra một hình nộm giống cô gái cưỡi cọp rồi treo dây kéo từ chân núi xuống rừng, xong lại kéo về hang. Dân chúng bị ám ảnh bởi cái chết của cô gái năm xưa nên rất tin tưởng. Chơ Rớt lợi dụng sự sợ hãi đó để bắt cóc các cô gái và dùng phía cùng chân núi làm lễ tế vong linh cho cọp. 

- Hắn ta gây tội ác như thế mà không gặp phải sự kháng cự chống đối nào của dân làng sao? 

- Dân làng còn bị mê tín rất nhiều, ai cũng cho rằng việc cúng tế như vậy đem lại sự bình yên nên ai cũng phải bắt buộc chấp nhận. 

- Câu hỏi cuối cùng dành cho anh. 

- Cán bộ cứ hỏi. 

- Chơ Rớt là ân nhân của anh lại đối xử tốt với anh, thế tại sao anh lại phản bội để cứu Hồng? 

- Lúc Hồng bị uy hiếp lại mang vết thương trong người, cô ấy sốt mê man, tôi sợ nếu không cứu cô ấy thì cô ấy sẽ chết mất. 

- Tại sao anh lại không ngại sự nguy hiểm cho mình để cứu Hồng? 

Quốc ngập ngừng: 

- Xin phép cán bộ cho tôi được phép không trả lời câu hỏi này. 

Người cán bộ điều tra mỉm cười: 

- Được. Bởi vì đó là chuyện tình cảm riêng tư của anh. Chúng tôi không được phép xen vào. 

- Cám ơn cán bộ. 

- Anh có thể về trại nghỉ ngơi. Nếu cần, chúng tôi sẽ gọi anh lên hỗ trợ phá án, anh nghĩ thế nào? 

- Tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì để chuộc lại tội lỗi của mình. 

- Lòng nhiệt tình và sự hối cải của anh sẽ được nhà nước khoan hồng. 

- Cám ơn cán bộ. 

Anh cán bộ nhìn Quốc cười tinh nghịch: 

- Như thế có quá sớm không? 

Quốc lặng thinh. Đẩy chồng giấy dầy về phía anh, người cán bộ bảo: 

- Anh đọc lại rồi ký tên vào đây đi. 

Quốc ký tên vào biên bản hỏi cung rồi đi theo người chiến sĩ bảo vệ xuống trại. 

Anh cán bộ nhìn theo Quốc, khẽ mỉm cười: 

- Mình có thể giúp gì được cho anh ta? 

Đọc bản báo cáo về vụ án “Cô gái cưỡi cọp” xong, đại tá Nguyễn Hoàng ra lệnh: 

- Lập tức hỗ trợ lực lượng vào hang bắt cho được Chơ Rớt và bảo vệ nạn nhân. 

Trong đầu ông lên một phương án, phải kết hợp cùng công an thành phố Hồ Chí Minh lần cho ra đầu mối, bắt cho được bọn buôn lậu ma túy đang vận chuyển bằng đường rừng rồi vào thành phố. 

Ông chợt nghĩ đến Quốc, phải cảm hóa Quốc kết hợp với Lê Trung len lỏi vào tổ chức của địch để làm nội gián nắm rõ đường đi, nước bước của địch mà tung một mẻ lưới tóm gọn chúng, trừ họa cho dân lành. 

Một đêm đã trôi qua, Tuyết vẫn còn bị Chơ Rớt khống chế trong hang. Lê Trung và các chiến sĩ cũng chưa có cách gì tiếp cận Chơ Rớt mà cứu Tuyết. 

Chơ Rớt nhìn Tuyết. Là một sát thủ từng giết chết nhiều cô gái, Chơ Rớt không hề run tay. Sở dĩ hắn chưa giết Tuyết vì hắn muốn kéo dài thời gian tìm cách thoát ra khỏi hang. 

Tuyết sởn da gà khi bắt gặp cái nhìn của Chơ Rớt: 

- Ông định làm gì tôi? 

Chơ Rớt cười vang, cố ý nói to cho mọi người ở bên ngoài nghe: 

- Làm gì mày à? Giết mày! 

Trước mặt Tuyết bây giờ là một con quỷ dữ hơn là một con người, một con quỷ khát máu đang cầm dao dí vào ngực cô. 

Tuyết lắp bắp: 

- Đừng… đừng… 

Như con thú hoang bị thương, Chơ Rớt ấn lưỡi dao vào vùng ngực non trắng nõn nà của Tuyết. Dùng hết sức lực cuối cùng, Tuyết mím môi đá thẳng vào vùng hạ bộ của hắn, Chơ Rớt rú lên, lăn lộn, đau đớn, hắn giơ dao lên. 

- Tao sẽ moi tim mày con mọi. 

Chơ Rớt mắt đỏ ngầu, rướn người tới. Tuyết nhắm mắt chờ đợi cái chết đang ụp tới. 

Bụp. 

Chơ Rớt sấp mặt vào ngực cô, máu từ đầu hắn phun ra. Cô muốn thét lên nhưng cổ khản đặc. Hình ảnh cuối cùng trước khi ngất đi là Phong đang ôm lấy cô thảng thốt gọi. 

- Tuyết! Em có sao không? 

Mặc cho Phong lay gọi, Tuyết vẫn nằm im. mặt xanh tái, máu từ vết thương trên ngực tuôn ra. 

- Cầm máu cho nạn nhân. 

Tuân và Thuận lao vào cấp cứu sơ bộ cho nạn nhân. 

Lúc ấy đội binh viện trợ của đại tá Lê Hoàng vừa đến. Họ vội vã đưa Tuyết đi cấp cứu, thu dọn hiện trường đem xác Chơ Rớt ra khỏi hang. 

Lê Trung tựa người vào vách đá nhắm nghiền mắt. Một ngày đêm trong hang cùng sự căng thẳng của cuộc chiến đã làm tiêu hao hơi sức của anh. Phát súng chính xác nhả vào đầu của Chơ Rớt đã cứu Tuyết thoát chết. Anh đã hoàn thành nhiệm vụ. 

- Không biết thủ trưởng có để cho anh yên mà đi du lịch với Uyển Vân không? 

Nghĩ đến thủ trưởng anh lại lắc đầu: 

- Đúng là tuổi già không mệt mỏi. Tuổi trẻ như anh đôi lúc còn phải chào thua.

CHƯƠNG IV 

Sau một thời gian điều trị, Hồng và Tuyết đã bình phục hẳn. Phong và Duy vẫn túc trực an ủi hai nàng. 

Một buổi sáng, cả bốn người đến chào tạm biệt cụ già. Ông nhìn Hồng và Tuyết mặt vẫn còn xanh mét vì mất máu quá nhiều, thông cảm: đáng lý ra, không nên kể cho các cháu nghe mà.

- Ông đã làm hại các cháu. Làm hại các cháu. 

Hồng nheo mắt nhìn ông, trách ông: 

- Ông lại khách sáo nữa rồi! Đáng lý ra, tụi cháu phải cảm ơn ông chứ sao lại!

- Ông và dân làng đây phải cám ơn các cháu mới phải. Nhờ có các cháu mà câu chuyện về “Cô gái cưỡi cọp” được sáng tỏ. Các cô gái không còn bị bắt giết vì bọn cuồng tín đó nữa. Câu chuyện của mười mấy năm về trước lại làm thiệt hại cả dân làng. 

Tuyết bá lấy vai ông: 

- Ông ơi! Chúng cháu về rồi lâu lâu sẽ lên thăm ông 

- Tốt! Tốt lắm! Các cháu thật là tốt. 

Phong và Duy nhao nhao: 

- Ông cũng thật tốt đó. Ông ở lại mạnh khỏe nghe. 

- Các cháu về dưới cũng mạnh khỏe. 

Mặt trời lên cao, ánh nắng xuyên qua những cây to rậm rạp, biến thành những trận mưa ánh nắng soi mặt đất, làm cho cây thêm xanh và những bông hoa như nảy mầm. 

Bốn người cùng mang ba lô lên vai vừa đi vừa hát. Mọi người ai cũng phấn khởi với vụ án “ Cô gái cưỡi cọp”. Mặc dù vụ án không khởi tố vì Chơ Rớt và đồng bọn đã chết hết, nhưng lòng người ai cũng thỏa mãn vì kẻ gây tội ác đã bị xử lý thích đáng. 

Riêng Hồng, cô mang tâm sự buồn rười rượi. Từng bước chân giẫm lên lá khô, vóc một ngụm nước bên dòng suối mát… đâu đâu cũng có kỷ niệm của một dáng người. 

- Quốc! Quốc ơi! Anh đã chết rồi sao? 

Đối diện với gương mặt ôn hậu thoải mái quen thuộc của đại tá Nguyễn Hoàng, Lê Trung phát hiện có dấu hiệu không bình thường của ông. 

- Cậu ngồi đi Lê Trung. 

- Vâng, thưa đại tá. 

- Ban giám đốc công an tỉnh đã có quyết định khen thưởng và cấp phép cho cậu, nhưng…

- Nhưng thế nào, đại tá cứ nói. 

- Điểm du lịch lần này dành cho cậu không phải là những bãi biển thơ mộng như cái đầu lãng mạn của cậu tưởng tượng, mà là một điểm nóng bỏng, náo nhiệt… 

- Chắc đại tá gọi tôi không phải bàn chuyện du lịch chứ? 

Đại tá Nguyễn Hoàng mỉm cười: 

- Cậu có cái nhìn như xoáy được lòng người. Cậu có muốn vào thành phố Hồ Chí Minh một chuyến không? 

- Chắc không phải du lịch chứ đại tá. 

Đại tá Nguyễn Hoàng gật đầu: 

- Vừa du lịch vừa làm nhiệm vụ. 

- Xin đại tá cho tôi biết cụ thể. 

Đại tá Nguyễn Hoàng chậm rãi gạt điếu thuốc cháy dở vào gạt tàn: 

- Trong vụ án Chơ Rớt có một can phạm tên là Quốc. 

- Có phải anh ta là người đã cứu Hồng rồi định tự sát bị tôi bắn trúng vào cánh tay không? 

- Đúng. 

- Anh ta bây giờ như thế nào rồi? 

- Đã bình phục và chờ đoái công chuộc tội. 

- Nghĩa là... 

- Anh ta đã khai ra có một đường dây buôn ma túy từ thành phố Hồ Chí Minh bí mật vận chuyển qua tỉnh ta. Tôi ra lệnh chỉ thị cho cậu và Quốc đột nhập vào tổ chức chúng truy tìm đầu mối, tóm gọn một mẻ. 

- Nhưng phạm vi hoạt động này là của công an thành phố mà. 

Đại tá phẩy tay: 

- Tôi đã liên hệ với giám đốc công an thành phố. Trong yêu cầu người của chúng ta cùng hợp tác. Cậu hiểu rồi chứ? 

- Thưa hiểu. 

Đại tá Nguyễn Hoàng vỗ vai Lê Trung: 

- Rất tiếc phải điều cậu đi công tác trong thời gian này. Nhưng hiện nay lực lượng ta không ai có khôn ngoan như cậu. Hoạt động trong lòng địch, cậu biết đó mất mạng như chơi. Cậu phải hết sức thận trọng. 

- Rõ, thưa đại tá. 

Lê Trung đứng theo kiểu chào của nhà binh. 

- Tôi sẽ làm gì khi lọt vào tổ chức của chúng? 

- Cậu được đóng vai người cứu Quốc thoát chết. 

- Sự việc xảy ra cách đây hai năm rồi mà. 

- Mình sử dụng lại hiện trường mà hành động. Cậu sẽ đóng vai tướng cướp Phi Long từng bị công an tầm nã vì thành tích quá dày về cướp bóc, giết người. Hồ sơ của tướng cướp Phi Long đây. Cậu nghiên cứu đi. 

Đại tá Nguyễn Hoàng mở ngăn kéo bàn ra, lấy ra cho Lê Trung cặp hồ sơ:

- Trong này cậu sẽ được cung cấp các chi tiết về tướng cướp Phi Long. 

- Hồ sơ nghiên cứu chỉ có bây nhiêu thôi sao? 

Anh đưa tay trả cho đại tá Nguyễn Hoàng cặp hồ sơ. Trí óc nhanh nhạy đã in rõ mọi chi tiết về tướng cướp Phi Long. Lê Trung hỏi: 

- Bao giờ tôi có thể lên đường, thưa đại tá? 

- Cậu sẽ được gặp Quốc làm quen với nhau, phối hợp nhịp nhàng trước khi xuất phát. 

Lê Trung thở dài: 

- Tôi nghĩ mình chẳng khác nào cái chong chóng cứ xoay bên này rồi lại xoay bên kia. 

Đại tá Nguyễn Hoàng vỗ vai Lê Trung: 

- Đất nước cần những cái chong chóng như cậu. 

Lê Trung chỉ biết mỉm cười. Anh lúc nào cũng thật đuối lý trước vị thủ trưởng tài ba của mình.

- Báo cáo đại tá. Lê Trung sẽ hoàn thành nhiệm vụ. 

- Nhớ! Bằng mọi giá phải tóm gọn chúng cho bằng được. 

- Rõ, thưa đại tá. 

Lê Trung quay bước trước ánh mắt rạng ngời niềm tin của đại tá Nguyễn Hoàng. 

Gió đêm thổi lạnh mà Lê Trung vẫn cảm thấy ngột ngạt. Anh xuôi ngược nhiều nơi trên đất nước, đã quen với khí hậu mọi miền. Cơ thể anh rắn như thép, thích hợp với thời tiết và môi trường mọi nơi. Vậy mà tấm thân anh lại nóng rực lên, anh đang sắp đối đầu với nguy hiểm. 

Quốc cho anh biết về chủ nhân của mình. 

- Giang Vỹ , là tên của một đại phú gia chuyên kinh doanh các vũ trường, tổ chức các sòng bạc và buôn bán ma túy. Đàn em của hắn có mặt hầu hết các nơi trong thành phố. Cho vay nặng lãi, biến các con bạc thành con nợ và cuối cùng là bộ hạ của hắn. 

- Trở lại lần này anh có sợ gặp nguy hiểm không? 

- Không. 

- Tại sao? 

- Tôi muốn được trở lại là một con người bình thường là một công dân hợp pháp. 

Lê Trung siết cánh tay Quốc: 

- Xin chúc anh sớm được tròn ước nguyện. 

- Cám ơn anh. Anh cũng phải hết sức thận trọng. Bọn chúng phát hiện nội gián, anh sẽ gặp nhiều nguy hiểm. 

- Đừng lo cho tôi. Lăn lộn với bọn tội phạm nhiều năm, tôi cũng rút cho mình một số kinh nghiệm. Chúng chỉ đánh đòn phủ đầu lúc ban sơ, sau đó mọi việc sẽ êm xuôi. 

- Anh thật là tài. Bình tĩnh và đầy bản lĩnh. 

- Mèo lại khen mèo rồi. Chúng ta là người một nhà mà. 

Quốc nhìn Lê Trung kính phục. Anh thật là bình dị và đáng yêu. Trong công tác hết sức cởi mở mặc dù biết anh là can phạm. 

Đã vào đến nội ô thành phố, xe dừng lại một khách sạn kiêm vũ trường uy nghi, sừng sững trên đại lộ Trần Hưng Đạo. 

Hai mươi giờ, bóng đêm đã bao phủ nhưng không xóa được màu trắng sáng sủa của các ngọn đèn cao áp. Vào giờ này, khách đã đến thật đông, họ đang chực chờ hưởng một đêm hoang lạc. 

Quốc đến bên quầy nói nhỏ với người trông quầy mật khẩu: 

- “Báo en”. 

Người trông quầy nhìn Quốc từ đầu đến chân rồi hỏi nhỏ: 

- Anh muốn gì? 

- Tôi muốn gặp ông chủ. 

- Xin lỗi, ông chủ đang bận. 

- Anh có biết là tôi có thể đi thẳng lên phòng ông chủ mà khỏi cần qua tay anh không? 

Quốc bực dọc quăng điếu thuốc vào sọt rác, người trông quầy mềm mỏng. 

- Anh có hẹn với ông chủ? 

- Không. Anh báo với ông chủ tôi là Quốc, muốn gặp ông chủ có việc quan trọng. Nếu anh chặn cho lỡ việc của ông chủ thì hậu quả… xin lỗi, anh gánh không nổi đâu. 

Chừng như lo sợ trước câu hăm dọa của Quốc, người trông quầy nhỏ giọng: 

- Thôi được, anh chờ một lát. 

Người trông quầy nhấn chiếc nút trên máy. 

- Thưa ông chủ, có một người xưng tên là Quốc muốn gặp ông chủ có việc quan trọng. 

Không biết bên kia trả lời như thế nào mà người trông quầy bỗng đổi thái độ: 

- Ông chủ đợi anh trên phòng. 

Quốc ra hiệu cho Lê Trung cùng vào. Người trông quầy đưa tay ngăn lại: 

- Xin lỗi. Chỉ mình anh vào thôi. Còn anh kia ở lại. 

Quốc hất mặt hỏi: 

- Anh có biết anh ta là ai không mà lớn lối thế? 

- Xin lỗi. Là ai cũng thế. Đó là luật. 

Lê Trung muốn đi một vòng quanh dò xét tình hình. Anh bảo Quốc. 

- Anh cứ đi đi. Tôi nhân dịp này qua bên sàn nhảy chơi một lát. 

- Rất hân hạnh được phục vụ quý khách. 

Nhìn bộ mặt câng câng đầy khiêu khích của gã trông quầy, Lê Trung muốn đấm một quả cho vỡ mặt của gã, nhưng anh tự kiềm chế được mình. 

- Mình đến đây làm nhiệm vụ mà. Phải nhịn chúng thôi. 

Quốc đến bên Lê Trung làm vẻ cung kính: 

- Đại ca ở đây nghe. Em lên gặp ông chủ rồi sẽ mời đại ca lên sau. 

- Thôi được, mày cứ đi, bảo với ông chủ mày là tướng cướp Phi Long này không thể chờ lâu được nghe. 

Bốn chữ “tướng cướp Phi Long” đã thật sự làm tên trông quầy biến sắc. Nhưng kinh nghiệm cũng đã từng cho gã biết rằng, cũng có thể đây là cớm giả danh. 

- Dạ, đại ca chờ em một tí. 

Gã trông quầy nhìn Lê trung thầm nghĩ: 

- Người ta kháo nhau quả không sai mà. Tướng cướp Phi Long nho nhã mềm mỏng như một tay công tử. 

Lê Trung quắc mắt sắc lạnh đáp lại cái nhìn của gã trông quầy khiến gã cụp mắt xuống. 

Anh đi một vòng quanh vũ trường nghe ngóng và nghĩ cách tiếp cận giải vây cho Quốc khi cần thiết. 

Thoáng một cái, anh mất hút trong tầm kiểm soát của gã trông quầy. Tín hiệu phát ra từ chiếc máy anh đã biết phòng ông chủ đâu rồi. 

Cốc… cốc.. 

- Vào đi! Tiếng nói lạnh lùng của Giang Vỹ vang lên. Quốc lấy hết bình tĩnh bước vào: 

- Chủ nhân.

Giang Vỹ nhìn Quốc. Đó là người đàn ông khá điển trai, nước da ngăm, mũi cao, môi dày. Hắn thốt lên một câu đầy uy quyền và đe dọa: 

- Mày còn dám trở lại đây sao? 

- Chủ nhân! Lần này đàn em may mắn được thoát chết, nhưng không thể trở về đây ngay được. 

- Tại sao? 

- Một phần vì sợ làm lộ bí mật của chủ nhân, một phần vì… 

- Vì sao? 

- Đàn em bị khống chế. 

Giang Vỹ gằn giọng: 

- Khống chế à? Ai? Kẻ nào dám ngăn Giang Vỹ này chứ? 

- Tướng cướp Phi Long. 

Quốc nói nhỏ vào tai Giang Vỹ. Gương mặt của Giang Vỹ thay đổi: 

- Hắn đâu? 

- Hắn cùng đàn em sống trên rừng suốt hai năm nay. 

Giang Vỹ cười: 

- Hắn mà cũng có ngày đó hay sao? Ta nghe nói công an đã diệt gọn băng cướp đó và tướng cướp Phi Long lẩn trốn như một con chó. 

- Hắn đã đến đây. 

- Đến đây tìm cái chết à? 

- Hắn muốn làm đàn em dưới trướng của chủ nhân. 

- Đàn em của ta bao trùm cả Sài Gòn – Chợ Lớn này, thâu nhận nó làm gì? 

- Chủ nhân! Hắn rất giỏi võ thuật, hắn có thể giúp ta nhiều việc. 

Đột nhiên Giang Vỹ túm lấy tóc của Quốc, nòng súng chĩa thẳng vào màng tang anh: 

- Mày định làm nội gián dẫn công an vào đây bắt bọn tao phải không? 

- Chủ nhân! Đàn em không dám. Nếu chủ nhân không tin tưởng thì cứ bắn đi. Đàn em không có gì nói. 

- Mày tưởng tao không dám bắn à? 

- Em biết tài bắn của chủ nhân rất chính xác. 

Giang Vỹ thọc tay vào nách Quốc, ngón tay như mũi kim nhọn làm Quốc co rúm lại. 

- Nói! 

Quốc nhăn mặt: 

- Đàn em hết dạ trung thành, không có gì nói. 

- Mày ngoan cố hả? 

- Đàn em trở về đây là vì chữ tín với chủ nhân, không muốn phản lòng tin tưởng của chủ nhân thôi, muốn đem về món lợi trả số nợ phần em thôi.

Giang Vỹ thừ người suy nghĩ. 

Gã nói đúng. Sau vụ vận chuyển hàng bị bể, gã có thể trốn đi mà không cần về đây trốn . Đâu có ai ngu mà chui đầu vào rọ, có lẽ gã thật lòng muốn nương tựa vào mình. 

- Món lợi gì mà mày đem về cho tao? 

- Tướng cướp Phi Long. 

- Gã thì có thể giúp gì cho tao? 

- Hắn giỏi võ thuật, lại có tài qua mặt công an, có thể bảo vệ sòng bạc cho chủ nhân hoặc vận chuyển hàng. 

- Hắn có thể bị lộ không? 

- Cho đến giờ này mọi người kể cả công an không ai biết mặt tướng cướp Phi Long. Người ta chỉ biết rằng gã nho nhã như một thư sinh. Bây giờ gã có thể công khai xuất hiện mà không sợ bị lộ tẩy. Giang Vỹ nghe xuôi tai, hắn bảo Quốc: 

- Đưa hắn lên đây. 

- Không cần đâu. 

Từ cửa sổ, Lê Trung nhanh nhẹn nhảy vào trước Giang Vỹ. 

- Ngươi… làm sao ngươi vào đây được? 

Lê Trung bật cười: 

- Chỉ có năm tầng lầu mà không lên được tìm chỗ của Giang Vỹ thì đâu còn là Tướng cướp Phi Long nữa. 

Thấy Giang Vỹ còn sững sờ, Lê Trung giải thích trước ánh mắt sững sờ của Giang Vỹ:

- Chỉ vì tên trông quầy không cho ta vào đường hoàng gặp ông cho nên bắt buộc ta phải dùng hạ sách này, leo tường mà vào. 

- Ngươi muốn gì? 

- Cộng tác với ngươi. 

Giang Vỹ lắc đầu: 

- Ngươi không đủ tư cách. 

Giang Vỹ chưa nói hết câu thì một cú đá đã tạt vào sườn hắn. Cũng không hổ là một tay giang hồ lão luyện, Giang Vỹ lạng người né tránh cú đá của Lê Trung. 

Không cho gã có cơ hội lấy đà, Lê Trung dùng một cú đá tạt hai gót chân làm gã bị hất mạnh lên khỏi ngã tránh bị mất mặt trước thuộc hạ. 

Giang Vỹ buộc miệng: 

- Hảo hán! Đại hảo hán! Không hổ danh là tướng cướp Phi Long. 

- Không dám! Phi Long này chỉ là “múa rìu qua mắt thợ” trước mặt ông chủ thôi. Xin ông chủ chỉ giáo thêm. 

- Phi Long! Đừng khách sáo thế. 

- Phi Long này không phải là không có đất dụng võ, nhưng vì cảm tình với hắn. 

Lê Trung đưa tay cho Quốc: 

- Sau khi thoát chết trước móng vuốt của cọp, cùng tôi sống trong rừng sâu mà lòng ray rứt không yên với chủ cũ . Tôi mới đưa hắn về đây. Nếu ông không thâu nhận thì Phi Long này sẽ đi nơi khác. 

Giang Vỹ rối rít: 

- Không. Không. Ngươi cũng phải hiểu. Ta đâu có thể thâu nhận đàn em một cách bừa bãi như vậy. 

Lê Trung nói như bị chạm tự ái: 

- Ngay cả tư cách của Phi Long này cũng không sao? 

- Đối với ngươi thì khác hơn một chút. 

- Khác thế nào? 

- Ta không biết đưa ngươi vào vị trí nào mới xứng đáng. 

Lê Trung cười giòn giã: 

- Ông chủ! Phi Long này thích cái gì thì làm cái nấy, không chú ý đến danh phận. 

- Đành rằng thế, nhưng… 

- Ông chủ khỏi cần phải an ủi tôi nữa. Tôi đi đây. Xin đối xử tốt với người anh em của tôi. 

Giang Vỹ vội vàng kéo tay Lê Trung lại: 

- Nè! Sao mà vội thế? Cứ ở lại đây đi. Giang hồ tứ hải, huynh đệ với nhau cả, ngươi cứ ở lại đây, ta có dư sức lo mà. 

- Phi Long không thích cảnh ăn không ngồi rồi, không thích ngồi không mà hưởng lộc cả. Nếu ông chủ không có việc cần thì Phi Long này xin đi nơi khác. 

- Được rồi. Được rồi. Ta có một chân bảo vệ sòng bạc, tuy chưa có danh phận gì nhưng cũng cho ngươi tung hoành. 

- Cám ơn ông chủ. 

Giang Vỹ xua tay: 

- Người một nhà cả, đừng có ông chủ này, ông chủ nọ nữa. 

- Thuộc hạ… 

- Không phải xưng hô như thế. 

- Phải gọi như thế nào mới hợp lý? 

- Đại ca. Ta dù sao cũng lớn tuổi hơn ngươi, gọi bằng đại ca không thiệt thòi gì chứ? 

- Dạ tùy đại ca. 

Giang Vỹ cười to: 

- Tốt! Tốt lắm rồi. Mừng tri ngộ, đêm nay huynh đệ ta uống một bữa cho say đi. 

- Vâng. Xin cám ơn hảo ý của đại ca. 

Giang Vỹ quay sang Quốc: 

- Ngươi lo cho ta bữa tiệc đi. 

- Vâng. 

Những bước chân hối hả từ thang máy bước tới, phút chốc bàn tiệc theo ý muốn đã được bày biện. Khả năng phục vụ của nhà hàng, khách sạn kiêm vũ trường này quả là nhanh nhẹn. Giang Vỹ nâng ly lên môi: 

- Nào mời cạn ly. 

- Không say không về. 

“Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu”, anh hùng hảo hán dù vai trò nào khi từng uống cùng nhau cũng không thoát khỏi quy luật này.

CHƯƠNG IV (tiếp theo)

Lê Trung thả bộ theo dãy hành lang, miệng rít thuốc liên tục. Trong phòng các con bạc đang sát phạt lẫn nhau. Đã mấy ngày trong hang địch, anh phát hiện có rất nhiều việc phạm pháp của nhà hàng khách sạn kiêm vũ trường này. Được biết đúng như lời Quốc nói, đây là một đường dây ma túy. 

Người của Công an thành phố đã liên lạc cho anh, nhưng chưa lộ diện. Người ấy có thể đã có mặt đây hỗ trợ cho anh. 

- Đại ca! 

Nghe tiếng Quốc gọi, Lê Trung giả bộ làu nhàu: 

- Không có việc làm à? 

Quốc cúi giả lơ: 

- Xin đại ca điếu thuốc thôi. 

Lê Trung rút hộp thuốc ra thảy cho Quốc: 

- Cầm lấy mà hút, đừng làm phiền quá. 

- Đại ca biết điều quá! 

Quốc vừa nói vừa đưa tay bắt nhanh gói thuốc: 

- Đại ca! 

- Gì nữa? 

- Cho em cái bật lửa. 

Quốc đến sát Lê Trung nói nhỏ: 

- Chú ý “tên mập” đang theo dõi anh sát lắm. 

- Tình hình có gì mới không? 

- Hình như chúng chuẩn bị ăn hàng. 

- Thời gian, địa điểm. 

- Chưa nắm được. 

- Được. Đi làm việc đi. Không bọn chúng nghi ngờ. 

- Trong phòng ông chủ lúc nào cũng có hệ thống camera, anh cẩn thận nghe. 

Lê Trung gật đầu. Anh biết rằng bọn tội phạm rất xảo quyệt và tinh khôn. Thủ lĩnh của chúng lại càng tinh vi hơn. Nhưng không vì thế mà chánh quyền để yên cho bọn nó tung hoành quấy nhiễu dân lành. Ma túy là một chất độc nguy hại làm tan nát bao cuộc đời, làm suy đồi biết bao thế hệ trưởng thành của quốc gia. 

Hàng ngày anh chứng kiến bao kẻ vào đây nói là khuây khỏa giải trí, tìm vui, nhưng thật ra là đang hủy hoại mình. 

Đang suy nghĩ, Lê Trung nghe như có tiếng náo động bên trong, anh vội quay vào. Một đám thanh niên sau khi thua cháy túi đang giở trò quậy phá. Thấy anh vào “tên mập” hất hàm: 

- Phi Long! Làm nhiệm vụ. 

Thái độ khinh khỉnh của tên mập làm xốn mắt Lê Trung. Nếu là bình thường cú đấm của anh sẽ không tha cho hắn. Bọn đàn em của Giang Vỹ không phục anh. Bọn chúng cho rằng anh chưa có chiến công gì mà lại được ông chủ ưu đãi. Ganh ghét là lẽ thường. 

Lê Trung bước đến gần bọn quấy rối: 

- Sao? Thua cháy túi rồi à? 

Nhìn Lê Trung mảnh dẻ như một thư sinh, bọn chúng tỏ ra khinh địch. Một tên đi ngang mặt Lê Trung hất hàm: 

- Biết “bố mày” là ai không? 

- Không biết. 

Âm thanh chưa phát hết ra thì một quả không ngờ Lê Trung ra đòn nhanh như cả cú đấm thần tốc của anh. Hắn ôm mặt kêu rú lên: 

- Thằng này dám đánh tao. Tụi bây cho nó một bài học đi. 

Bọn chúng có hơn mười tên vây quanh Lê Trung. Đàn em của Giang Vỹ chuẩn bị vào tiếp ứng Lê Trung nhưng bọn chúng dừng tay im lặng bởi cái liếc mắt như ra hiệu của tên mập. 

- Mặc kệ nó. 

Hiểu ý tên mập định mượn dao giết người triệt hạ mình, Lê Trung thầm nghĩ: 

- Phải diệt bọn này để bọn đây nể mặt, có thế mới mong lần ra manh mối được. 

Lê Trung ra đòn tấn công như vũ bão và thật nhanh nhẹn, bọn chúng không phải là tay vừa, nhưng không làm sao tránh khỏi ngón đòn của anh. 

Bất ngờ, Lê Trung bị một gã đánh trúng. Biết không còn kịp Lê Trung nghiêng người né tránh cho quả đấm trượt qua vai lập tức anh xoay người phản công. Anh vung tay lên chặt ngược phía sau đấm tay trái vào cổ. 

Hắn ngã xuống, một dòng máu từ khóe miệng rỉ ra. Bọn còn lại như rắn không đầu, láo nháo. 

Lê Trung ra lệnh: 

- Đem hắn về mà săn sóc. Hôm nay tao tạm tha cho bọn bây, còn đến đây sanh sự thì đừng trách bàn tay này vô tình nhé. 

Bọn chúng lấm lét khiêng đồng bọn ra xe, rời khỏi sòng bạc. 

Nhiều tiếng vỗ tay của bọn đánh bạc vang lên: 

- Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! 

Tên mập bực tức: 

- Có gì hay ho mà khen ầm lên như thế. 

Lê Trung không trả lời hắn mà nói với tất cả mọi người. 

- Các người nghĩ sao nếu sự việc hôm nay đến tai ông chủ? 

Tên mập gầm gừ: 

- Mày định chửi tao “ton hót” với ông chủ lập công à? 

- Không. Nhưng tôi muốn biết vì sao các anh lại thản nhiên khi có người đến gây sự? 

- Một mình mày cũng chọi lại bọn tép riu đó rồi cần gì tới bọn tao phải ra tay. 

- Có nghĩa là anh muốn nói cái nhà hàng khách sạn này không cần sự có mặt của anh? 

- Mày ở đâu mà đến đây làm hẳn hả? Ông sẽ dạy cho mày biết lệ, tôn ti trật tự. Ông là chỉ huy cái chỗ này, ông biểu mày chết là mày phải chết. 

Lê Trung cười: 

- Thì ra là như vậy. 

Vừa nói, hắn vừa thoi một quả đấm vào bụng Lê Trung. Lê Trung lạng người sang một bên, tay phải chụp lấy cườm tay vặn chéo lên. Đấm đã giáng mạnh vào mặt hắn. Hắn né tránh nhưng không tránh được. Hắn run người lên vì đau, miệng la to: 

- Bọn bây đứng chết trân đó à? 

Bọn vệ sĩ của Giang Vỹ không dám bước lên giải cứu cho hắn, nhưng cũng không thể đứng yên. Chúng đồng loạt xông vào: 

- Dừng tay. 

Tiếng quát giận dữ của Giang Vỹ vang lên làm không khí trong phòng càng căng thẳng. Lê Trung buông tay tên mập ra, hắn mất đà chúi nhủi. 

- Xin lỗi đại ca. 

Lê Trung nói nhỏ: 

- Không cần phải xin lỗi, ta cũng biết cái bọn vô dụng này nghĩ gì, làm gì rồi. 

Quay sang tên mập, Giang Vỹ quát: 

- Thằng mập kia! Mày biết mày phạm tội gì rồi chứ? 

- Đại ca! Em chỉ mới nhất thời phạm tội lần này, xin đại ca tha tội. 

- Mày muốn gây loạn nơi đây mà làm phản phải không? 

Tên mập run giọng: 

- Đại ca! Em không dám. Em không dám. 

- Nghe tao hỏi. 

- Dạ. 

- Nhiệm vụ của mày ở đây là làm gì? 

- Thưa đại ca, bảo vệ sòng bạc. 

- Thế tại sao bọn chúng đến gây sự, mày lại làm thinh? 

- Thưa đại ca, đã có hắn xử lý rồi. 

Tên mập vừa nói vừa đưa tay chỉ Lê Trung. Giang Vỹ cười to: 

- Như vậy là mày đã tự xin từ chức rồi, đừng oán trách nhé. 

Biết mình lỡ lời, tên mập rối rít van xin: 

- Đại ca, em biết lỗi. Từ đây về sau em sẽ sửa chữa. 

- Không còn lần sau nữa đâu. 

Quay sang đám thuộc hạ, Giang Vỹ ra lệnh: 

- Từ bây giờ, chỗ này sẽ do Phi Long quản lý. Đứa nào trái lệnh… Xẹt! 

Bàn tay của đàn anh khét tiếng giang hồ chém vào khoảng không. Đó là dấu hiệu của chết. Bọn đàn em của tên mập run rẩy: 

- Không dám. Bọn đàn em tuyệt đối trung thành. 

- Tốt. Ai về chỗ nấy đi. 

Tên mập khép nép: 

- Còn em, thưa đại ca? 

- Ngươi sẽ được chuyển lên làm tạp vụ cho khách sạn. Chỗ này giao cho Phi Long. 

Tên mập kêu lên đau đớn: 

- Đại ca! 

Giang Vỹ dứt khoát: 

- Ta nói rồi thì không thể thay đổi. 

Giang Vỹ quay đi. Lê Trung nhìn thấy bóng Quốc vừa thoáng qua. Anh biết chính Quốc đã báo cho Giang Vỹ lật ngược thế cờ cho anh. 

- Mong sao cho cuộc chiến sớm kết thúc để anh trở về vị trí của mình. 

Lê Trung thầm nghĩ như tự động viên mình. 

Lê Trung chánh thức quản lý sòng bạc thay cho tên mập. Mỗi ngày anh từ bàn này sang bàn khác, nhìn một cách đặc biệt những con bạc tụ tập lộn xộn đó. Từ những con bạc xảo trá, đến những “điểm vàng” của trò bài lá. Tất cả cái xã hội t chi đến từ khắp nơi kéo đến từ những phút giây bước vào cuộc đỏ đen. Cao quý và bần tiện, tàn bạo và nhút nhát… cuối cùng rồi cũng phải trắng tay ra về trong mệt mỏi rã rời. 

Lê Trung chú ý đến một gã thanh niên chừng hai mươi bốn tuổi, gương mặt thanh mảnh, tóc hơi gài trông như một trai trẻ đang mải ham chơi. Gã thanh niên bước dần về phía Lê Trung. 

- Ở đây có cần người chia bài không? 

Lê Trung thoáng giật mình nói thầm: 

- “Mật khẩu”. 

Rồi anh thản nhiên hỏi: 

- Chú mày ở đâu? 

- Hải Phòng. 

- Sao chú mày không ở ngoải? 

- Tôi thích thành phố này. 

Mắt của người thanh niên lóe lên những tia sáng, bộ mặt trẻ dại của anh như đang nghĩ mà chỉ có Lê Trung mới nhìn thấy được. Biến đi thay vào đó nét mặt của Lê Trung lúc đầu: 

- Ở đây không nhận người làm. 

Người thanh niên thất vọng: 

- Đành vậy thôi. 

- Nhưng tao có thể xin ông chủ cho chú mày làm bồi bàn bên nhà hàng. 

- Như vậy cũng tốt. 

Người thanh niên nhìn anh lo ngại: 

- Liệu ông chủ có bằng lòng không? 

- Người khác thì không, nhưng riêng chú mày là do tao tiến cử, ông chủ sẽ nhận thôi. 

- Cám ơn anh. 

- Chú mày tên gì? 

- Hưng. 

- Nhớ nói chú mày là đàn em của tao trước kia, tướng cướp Phi Long nhé. 

- Dạ, đại ca. Em biết rồi. 

- Chú mày đợi một tý, tao cho người dắt lên gặp ông chủ. Nhớ ăn nói cẩn thận nghen. 

- Dạ, đại ca. 

Lê Trung bấm máy lên phòng Giang Vỹ. Giọng Giang Vỹ bực dọc: 

- Đứa nào đó? 

- Dạ, em đây đại ca. 

- Phi Long đó hả? 

- Dạ. 

- Chú mày có việc gì cứ nói. 

- Dạ, làm phiền đại ca em cũng không dám nhưng… 

- Cứ nói đi. 

- Tình cờ gặp lại một thằng em bên sòng bạc, nó đang trốn chui trốn nhủi. Đại ca thâu nhận nó làm bồi bàn nhà hàng cho nó kiếm hai bữa cơm giúp em nghe. 

- Việc này… 

Nghe Giang Vỹ ngập ngừng, Lê Trung sợ không nhận nên rối rít nói:

- Đại ca, đại ca thông cảm dùm đàn em đi. 

- Tao có bảo với chú mày là tao không nhận đâu. 

Giọng Lê Trung mừng rỡ: 

- Cám ơn đại ca. 

- Đưa nó lên đây. 

- Vâng. 

Lê Trung ra hiệu cho Hưng đi theo mình. Anh mừng thầm: 

- Phía bên khách sạn thì đã có Quốc, còn bên nhà hàng thì có Hưng, cần phải theo đám thực khách đến đây. Ai sẽ là người giao hàng trực tiếp cho Giang Vỹ? Trước mắt phải tạo niềm tin cho Giang Vỹ. Anh chỉ được Giang Vỹ giao nhiệm vụ quản lý sòng bài, chưa được kế cận Giang Vỹ. Cần phải bàn bạc với cấp trên tạo ra một cơ hội Giang Vỹ không còn nghi ngờ. Có thế mới mong phá án được. 

Sau khi thẩm vấn Hưng với từng câu trả lời thông minh, Giang Vỹ vui vẻ nhận Hưng vào làm một chân bồi bàn của nhà hàng hắn. 

Lê Trung lại có thêm một đồng minh. 

Một luồng gió mạnh lùa vào căn phòng yên tĩnh làm Giang Vỹ thoáng rùng mình. Đã khuya lắm rồi, cả một khu cao ốc như chìm sâu trong giấc ngủ. Giang Vỹ vẫn ngồi một mình bên ly rượu vàng sóng sánh. Mỗi đêm cứ vào giờ này, hai giờ sáng, hắn lại choàng tỉnh, ngồi một mình bên ly rượu chờ cho thời khắc qua đi. 

Hai giờ sáng. Thời điểm đó đã xảy ra làm tan nát một gia đình yên ấm, biến ông thành một kẻ tàn nhẫn không chừa một tội ác nào để trả thù hầu nguôi nỗi nhớ. 

Dĩ vãng lại hiện về trong ông như một cơn ác mộng… 

Hai giờ sáng, con tàu đưa ông và vợ con cùng một nhóm người ra khỏi hải phận Việt Nam. Lênh đênh trên biển, con tàu mất phương hướng vì la bàn bị hỏng. 

Trên tàu lao xao, lo lắng: 

- Làm sao bây giờ? 

Lúc ấy, ông cùng một tài công phụ trách lái tàu trấn an mọi người. 

- Không sao đâu. Chúng ta neo tàu chờ trời sáng sẽ đi tiếp. 

Nhưng phút giây chờ trời sáng không bao giờ đến cùng những người đi tị nạn. Bọn cướp biển tràn lên thuyền, khống chế và cướp tàu. Đứa con gái của ông bị chúng xé làm hai rồi quăng xuống biển. Vợ ông bị chúng cưỡng hiếp trước mặt ông. Ông bị chúng ép nhảy xuống biển. may mắn ông vớ được một tấm ván, ông bám chặt lấy nó như một cứu cánh. Sáng ra, ông được một tàu buôn cứu sống và ông theo con tàu ấy lăn lộn từ Âu sang Á với nghề thương buôn. 

Hai giờ sáng, cứ hai giờ sáng là ông phải thức giấc với nỗi suy tư trong lòng. 

- Mai Hương! Em còn sống hay đã chết từ cái đêm định mệnh ấy? 

- Ai? 

Giang Vỹ bỗng ngẩng phắt đầu lên, tia mắt sáng quắc nhìn lên đường thông gió nhưng đã muộn, hai bóng đen che mặt đã xuất hiện sau lưng dí mũi súng sắc lạnh vào hông. 

Lăn lộn nhiều năm với giang hồ, Giang Vỹ khá bình tĩnh. 

- Các ông muốn gì? 

- Ông chủ của chúng tôi muốn mời ông đến tổng hành dinh một chuyến. 

- Ông chủ của các anh là ai? 

Bóng đen quát khẽ: 

- Đừng nói nhiều. Đến đó rồi sẽ rõ. 

Giang Vỹ cố ý kéo dài thời gian. 

- Các ông liệu có thể thoát khỏi nơi đây qua được hàng rào bảo vệ của chúng tôi rồi hãy nói. 

- Ông có dám lấy sinh mạng mình phiêu lưu với chúng tôi không? 

- Chỉ cần đám bảo vệ của ông kháng cự là họng súng của chúng tôi sẽ không vị nể đâu. 

- Tôi chỉ là người buôn bán bình thường, tôi đâu có mua thù chuốc oán với ai đâu. 

Bóng đen cười gằn: 

- Giang Vỹ! Ông gạt ai, chớ không gạt được chúng tôi đâu. Đường dây ma túy của ông rải dài khắp nơi, và ông, ông đã về Việt Nam mở cơ sở trá hình, kinh doanh giả, thực chất là buôn bán ma túy. Vũ trường, kiêm nhà hàng khách sạn của ông chỉ là nơi tiêu thụ, ông còn tổ chức đánh bạc trái phép. 

Giang Vỹ tái mặt, không ngờ mọi bí mật của mình đều bị phát hiện. 

- Các ông là công an à? 

- Không. 

- Vậy các ông là ai? 

- Cũng như ông thôi. Ông chủ của tôi muốn ông phải nhường địa bàn kinh doanh này để ông chủ tôi quản lý. 

- Hoang đường! 

- Có hoang đường hay không gặp ông chủ chúng tôi rồi biết. 

Thình lình có tiếng gõ cửa và giọng nói của tên đàn em vang lên: 

- Đại ca còn thức à? 

Bóng đen ra lệnh: 

- Mở cửa đi. 

Giang Vỹ đi về phía cánh cửa. Hai họng súng vấn áp vào hông. Tên đàn em hốt hoảng khi thấy cảnh tượng trước mặt. 

- Việc gì vậy đại ca? 

Bóng đen quát khẽ: 

- Khôn hồn thì câm họng lại. Tránh đường. 

Tên đàn em gọi khẽ: 

- Đại ca! 

Biết gã không thể giải vây cho mình, Giang Vỹ bực dọc quát: 

- Tránh ra! 

Hai bóng đen thụt lùi, áp sát Giang Vỹ vào thang máy. Hệ thống báo động reo lên, bọn đàn em của Giang Vỹ đứng chật sân. 

- Đứa nào tiến tới, tao bắn chết hắn ngay. 

Bọn đàn em chờ lệnh của Giang Vỹ. 

- Tránh đường đi! 

Hai gã áo đen áp giải Giang Vỹ ra xe. Một tên bước đến cửa mở vào tay lái. Tên còn lại thúc giục. 

- Lên xe nhanh lên. 

Giang Vỹ đã bước vào xe, tên còn lại lơi tay súng chuẩn bị lên xe. 

Bốp. 

Cú đá nhanh nhẹn và chính xác của Lê Trung vào cổ gã áo đen làm cho hắn lộn nhào xuống đất. Lê Trung thét lên: 

- Đại ca! Xuống xe! 

Giang Vỹ vừa kịp hoàn hồn nhảy xuống xe, Lê Trung đang vật lộn với tên áo đen dưới đất. Giang Vỹ định tiếp ứng thì đã nghe Lê Trung kêu lên: 

- Ối! 

Gã áo đen chỉ chờ có thế và lăn một vòng chạy đến bên chiếc xe lao thẳng ra đường. 

Sự việc chỉ xảy ra trong chớp mắt, đến khi bọn đàn em của Giang Vỹ tiếp cận được thì mọi việc đã xảy ra. 

- Đại ca! Đại ca có sao không? 

Giang Vỹ hất mạnh gã đàn em ra. Hắn cúi xuống nhìn Lê Trung đang ôm cánh tay đẫm máu: 

- Phi Long! Ngươi có sao không? 

Lê Trung nhăn mặt: 

- Không sao. Đại ca thoát nạn là được rồi. 

Giang Vỹ ra lệnh: 

- Đem Phi Long vào. Gọi bác sĩ Thành đến săn sóc. 

- Đại ca! Có cần báo công an chận chiếc xe ấy lại không? 

Giang Vỹ tát mạnh vào mặt tên đàn em. 

- Đồ ngu! Tao không muốn rắc rối lôi thôi với bọn công an. 

Gã đàn em nhận một tát tai như trời giáng của Giang Vỹ sợ hãi thụt lùi về phía sau. 

Giang Vỹ quát to: 

- Bọn bây canh gác thế nào mà để chúng lộng hành như vậy? 

Tên đàn em lấm lét: 

- Đại ca! Bọn chúng hình như là từ trên trời rơi xuống, nếu vào cửa thì hệ thống báo động của ta đã reo rồi. Giang Vỹ cố nuốt giận: 

- Điều tra xem bọn nó thuộc nhóm nào mà dám động đến “Báo đen”. 

- Dạ thưa đại ca. 

- Bọn bây toàn là một lũ vô dụng. Nếu không có Phi Long, tao đã lọt vào tay bọn chúng rồi. 

Bọn đàn em của Giang Vỹ đứng im thin thít, bởi vì chúng vừa mục kích cảnh Phi Long đánh bọn áo đen: Táo bạo, mạnh mẽ, chính xác, lập được chiến công cùng ông chủ. Cả bọn đều nể phục.

 CHƯƠNG IV (tiếp theo)

- Phi Long! Vết thương thế nào rồi? 

Lê Trung gượng ngồi dậy, Giang Vỹ nói: 

- Chưa khỏe cứ nằm nghỉ đi. 

Lê Trung cười: 

- Không sao đâu đại ca. Vết thương nhỏ này có thấm thía vào đâu. 

- Tao hỏi thiệt chú mày nghe. 

- Đại ca cứ hỏi. 

- Kinh nghiệm giang hồ, chú mày từng trải chú mày có biết ai đã nhúng mũi vào việc này không? 

- Đại ca! Chờ ít hôm đàn em nhất quyết sẽ điều tra vụ này. 

- Sau này, chú mày khỏi quản lý sòng bạc nữa. 

Lê Trung nhổm dậy: 

- Sao? Đàn em làm gì phật ý đại ca à? 

Thấy thái độ của Lê Trung, Giang Vỹ cười to: 

- Chú mày chỉ có công chớ không có tội. Chú mày đã cứu tao, tao phải biết ơn chứ. 

- Đại ca! Bổn phận của đàn em là phải thế. 

- Nhưng bổn phận của đàn anh là cũng biết cư xử cho đúng luật. Sòng bạc sẽ giao cho đứa khác, từ nay chú mày sẽ sát cánh bảo vệ ta. Công việc làm ăn rất cần những người giỏi như chú mày. 

Mắt Lê Trung bừng sáng: 

- Cám ơn đại ca. 

- À! Còn cái thằng mà hôm kia chú mày đưa vào đó… 

Lê Trung giật mình: 

- Sao, hắn có vấn đề à? 

Giang Vỹ lắc đầu: 

- Không. Nhưng mà ta thấy hắn nhanh nhẹn, được việc lắm. Hắn ta thế nào? 

- Rất giỏi võ thuật. Lúc băng nhóm của đàn em bị truy quét, hắn cũng nhờ giỏi võ mới thoát được tay bọn công an. 

- Thật thế hả? 

- Đàn em dối gạt đại ca để làm gì? 

Giang Vỹ đứng phắt dậy: 

- Thôi, chú mày cứ nghỉ ngơi, vài hôm nữa mình sẽ bàn lại. 

- Dạ, cám ơn đại ca đã chiếu cố. 

Giang Vỹ đi rồi, Lê Trung trở lại bản chất thực của mình. 

- Thế là kế hoạch tiếp cận, tạo lòng tin cho Giang Vỹ đã thành công, mở đầu cho một sự thắng lợi. 

Lê Trung tự kiểm soát mình xem có sơ hở nào không. Anh cảm thấy hài lòng với sự việc xảy ra. 

- Đại ca! Ăn miếng cháo đi. Đàn em nấu đó. 

Lê Trung nhìn người mới đến cười tươi: 

- Hưng! Cậu tài thật! 

Hưng đưa tay gãi đầu: 

- Gì vậy đại ca? 

- Trong một thời gian ngắn mà cậu đã lấy được lòng ông chủ. Chúc mừng cậu. 

Hưng liếc nhìn Trung ý tứ: 

- Thật hả đại ca? 

- Còn tao nữa, tao cũng được lên làm cận vệ của ông chủ. 

- Chúc mừng đại ca. Đại ca oai ghê. Nếu đại ca không bị bệnh, em đã khui một chai sâm banh chúc mừng đại ca rồi. 

- Sau này chúng ta sẽ ăn mừng cũng không muộn. 

Cả hai đưa mắt nhìn nhau như thầm bảo: 

- Ngày thắng lợi đã sắp đến rồi. 

Vừa khỏi bệnh lên trình diện Giang Vỹ, Lê Trung phát hiện nét bực tức trên gương mặt của Giang Vỹ. 

- Đại ca! Có việc gì mà không vui vậy? 

Giang Vỹ nén bực dọc nói: 

- Mẹ kiếp! Lô hàng vừa vào thành phố đã bị lũ nào phỗng tay trên. 

- Đó là hàng gì vậy đại ca? 

- Một số linh kiện điện tử. 

- Thời điểm này mà chúng cướp những linh kiện điện tử thì quả là ngu ngốc. 

Lê Trung thắc mắc. Giang Vỹ gật đầu: 

- Chú mày nhận định đúng. Nếu là linh kiện điện tử thì đâu có gì đáng kể. 

- Đại ca. Trong đó có hàng đặc biệt à? 

Giang Vỹ im lặng. Lê Trung hỏi thêm: 

- Nhưng nó là hàng gì vậy đại ca? 

Đã tin tưởng Lê Trung, Giang Vỹ không giấu giếm: 

- Hàng trắng. 

- Ma túy à? 

- Phải. Từ lúc thằng Quốc băng rừng vận chuyển ma túy bị lộ, ta đã chuyển hướng qua cửa khẩu, qua mắt bọn công an bằng cách nhét vào các linh kiện khi là hàng này, khi là hàng khác, các phi vụ đều lọt qua trót lọt. 

- Còn lần này vì sao lại lọt vào tay người khác hả đại ca? 

- Khi xe chuyển hàng đi trên quốc lộ thì bị một nhóm người giả dạng cảnh sát giao thông đón đường cướp xe. 

- Sự việc xảy ra khi nào vậy đại ca? 

- Hai giờ sáng nay. 

Rồi hắn chửi rủa: 

- Mẹ kiếp! Tao đã bảo công việc làm ăn tao kỵ nhất hai giờ sáng mà bọn chúng cãi lệnh, cứ áp tải. 

- Tại sao giờ kỵ của đại ca lại là hai giờ sáng? 

- Mẹ kiếp! Nếu tao biết tại sao thì tao đã hóa giải nó rồi. 

- Bây giờ mình tính sao hả đại ca? 

- Tao nghi ngờ mình có nội ứng. 

Lê Trung giật thót người: 

- Nội ứng à? 

- Phải. Tao nghi thằng mập phản tao. 

Lê Trung thở nhẹ: 

- Tại sao? 

- Chú mày còn nhớ chuyện xảy ra dưới sòng bạc không? 

- Dạ nhớ. 

- Sau đó không lâu, xảy ra sự việc bọn khốn kiếp bắt cóc tao, rồi đến vụ cướp hàng này. Tao nghi là vụ này đều do thằng mập làm nội ứng chỉ điểm để trả thù tao. 

- Thằng mập làm sao biết được địa điểm và giờ chuyển hàng mà làm nội ứng? 

- Tao cũng đang thắc mắc. Chú mày điều tra xem đứa nào làm và diệt gọn cho tao. 

- Vâng, đại ca yên tâm. Phi Long này sẽ quét sạch bọn chúng. 

Giang Vỹ đặt tay lên vai Lê Trung thân mật: 

- Tao tin tưởng chú mà. Thôi, về nghỉ dưỡng sức đi. Sắp tới chú mày phải vất vả đó. 

- Cám ơn đại ca. 

Lê Trung vừa đi vừa nghĩ: 

- Là bọn thế nào? Vụ bắt cóc Giang Vỹ lần trước thì không cần suy đoán, còn lần cướp hàng này… 

Lê Trung cảm thấy buồn. Anh sắp đặt kế hoạch. 

Phải tìm Hưng bàn kỹ lại xem cậu ta có kế sách gì không? Thành phố này là địa bàn của cậu ấy mà. 

Hưng đang ngồi nhóp nhép mấy cái hột sen vừa tán gẫu với cô thâu ngân của nhà hàng. 

Lê Trung bước đến vỗ vai anh: 

- Có việc làm cho cậu đây. 

- Gì vậy đại ca? 

Thái độ nhanh nhẹn của Hưng làm Lê Trung bật cười. Anh thầm nghĩ: 

- Đúng là tác phong nhà binh mà. 

Lê Trung kéo Hưng đến một góc tối để vắn tắt tình hình: 

- Cậu có cách nào tìm ra bọn cướp hàng đó không? 

- Biển số của chiếc xe tải đó là mấy? 

Lê Trung cốc nhẹ Hưng: 

- Cậu thật là ngốc. Đương nhiên là khi vận chuyển bọn chúng phải dùng biển số giả rồi. 

- Em quên mất. 

- Sơ sót nhỏ trong nghề nghiệp sẽ dẫn đến hậu quả lớn đó nghe cậu. 

- Em xin nhận khuyết điểm. 

- Cậu có báo cáo và nhận chỉ thị thường xuyên của các “Đại bàng” không? 

- Có. Cấp trên bảo mình phải đề phòng tên Quốc sa ngã khai ra thì mất mạng. 

- Không. Quốc đã được ta giác ngộ. Vả lại, anh ta muốn được đoái công chuộc tội để làm một người dân bình thường. 

- Giai đoạn đầu đã đạt được, bây giờ chúng ta bắt đầu vào cuộc.

Lê Trung nắm chặt tay Hưng: 

- Đối diện kẻ thù không chỉ có gan dạ thôi mà còn phải bình tĩnh, thông minh nữa. 

- Xin ghi nhớ lời dạy đáng giá ngàn vàng của đại ca. 

- Quỷ tha ma bắt chú mày. 

Hai người rời nhau, bắt đầu một cuộc chiến mới, một cuộc chiến thầm lặng trong vòng vây của kẻ địch. Nào ai biết những bất trắc nguy hiểm nào sẽ đến với mình. 

Phòng cảnh sát điều tra công an thành phố mở một cuộc họp khẩn cấp. 

Trung tá Minh Hải triển khai ngay cuộc họp. 

- Z13 báo cáo về, có một lượng hàng ma túy rất lớn đã được chuyển vào thành phố. Tại điểm X. 

Trung tá Minh Hải chỉ vào bản đồ: 

- Chiếc xe tải chở hàng ấy đã bị cướp, Z13 yêu cầu chúng ta hỗ trợ điều tra xem bọn cướp hàng ấy thuộc tổ chức nào và cùng nhau phối hợp tìm cho ra số hàng ấy. 

Ông dừng lại một lúc nhìn xuống các sĩ quan đang chờ nghe chỉ đạo. 

- Lần này chúng ta phải một phen vất vả bởi vì thủ phạm quá tinh ranh không để lại một dấu vết gì. 

- Thưa thủ trưởng. Chúng ta phải bắt đầu từ đâu? 

Bạch Linh, cô trinh sát đầy nhạy bén của phòng cất tiếng hỏi. Trung tá Minh Hải mỉm cười đáp: 

- Ma túy được cất giấu trong các linh kiện điện tử, chúng ta tích cực điều tra, chỉ cần một chút manh mối, chúng ta cũng bám sát để điều tra. 

Bạch Linh uể oải: 

- Như vậy chúng ta phải đi khắp các cửa hàng trong thành phố rồi. 

Đại úy Tuấn Hoàng trêu: 

- Như vậy thì đã có dịp đưa Bạch Linh dạo chơi rồi. 

Trung tá Minh Hải gật đầu: 

- Đúng. Hai người sẽ đóng vai một cặp vợ chồng trẻ đưa nhau đi mua sắm để tiện việc điều tra. 

Hoàng Tuấn nhìn Bạch Linh như ngầm bảo: 

- Nói có sai đâu! 

Trung tá Minh Hải kết thúc cuộc họp: 

- Các trinh sát cùng đi thu thập tin tức, cố gắng phá án trong thời gian ngắn nhất để tránh việc chúng đem hàng đi phân tán. 

- Chúng tôi quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. 

Đó là quyết tâm và lời thề của chiến sĩ công an nhân dân. 

Cô gái bán hàng vui vẻ gật đầu chào Hoàng Tuấn và Bạch Linh đang sánh vai nhau bước vào cửa hàng. 

- Anh chị cần mua gì cứ xem thoải mái. 

Bạch Linh tươi cười: 

- Cám ơn em. Anh chị muốn mua một số mặt hàng điện tử. Em có hàng mới không? 

- Hàng mới thì cửa hàng em có rất nhiều, chị xem này! 

Cô gái giới thiệu từng mặt hàng cho Bạch Linh xem. Mặt hàng nào Bạch Linh cũng lắc đầu, làm cô ta ngao ngán. 

- Thế chị cần gì? 

- Chị muốn mua những mặt hàng mới về trong tuần này. Cô gái lắc đầu: 

- Hàng ế ẩm, cửa hàng em chưa có nhập thêm. 

Bạch Linh và Hoàng Tuấn đi các cửa hàng khắp nơi trong thành phố nhưng không thu thập được một tin tức gì. 

Hoàng Tuấn chỉ một cửa hàng đề nghị: 

- Chúng ta ghé cửa hàng này đi. 

- Đây là một cửa hàng ký gởi mà. 

- Công tác điều tra là không bỏ sót một chi tiết nào. 

- Vâng, bài học ấy bất cứ một trinh sát nào cũng nhớ cả. 

Quan sát khắp nơi, không có một điểm nào khả nghi, cả hai thất vọng định ra về thì lúc ấy có một xe chở hàng đỗ xịch lại. 

Người tài xế vừa bước vào, cô gái bán hàng đã vui vẻ chào đón. 

- Hôm nay có hàng à? 

- Phải. Ông chủ bảo tôi chở đến ký gởi số hàng này. 

- Là hàng gì vậy? 

- Một số linh kiện điện tử. 

Bạch Linh khẽ bấm tay Hoàng Tuấn. Anh vẫn cứ giả vờ xem xét các mặt hàng nhưng tai anh vẫn nghe rõ từng câu nói của cô bán hàng và người tài xế. Cái đầu điện tử của Bạch Linh chụp như in bảng số của chiếc xe tải chở hàng. Cô bá vai Hoàng Tuấn nũng nịu: 

- Anh ở đây chờ em qua bên kia đường mua một số đồ dùng rồi chúng ta cùng về nghe. 

Hiểu ý Bạch Linh, Hoàng Tuấn gật đầu: 

- Nhanh lên nghe! Anh không chờ lâu đâu. 

Bạch Linh đi qua một cửa hàng bán đồ may mặc chọn lựa. Biết chắc không ai theo dõi mình, cô mới liên lạc với sếp. 

Chưa đầy năm phút, hai chiến sĩ trinh sát đã bám theo chiếc xe chở hàng. Phòng cảnh sát điều tra đã có toàn bộ hồ sơ về chủ nhân chiếc xe cũng như mọi hoạt động của hắn. 

Triệu Long, bốn mươi lăm tuổi, chuyên mua bán các mặt hàng linh tinh ngoài chợ trời và cũng có một bảng thành tích dày cộm về hành vi phạm pháp. 

Giang Vỹ nói với Lê Trung, vẻ bực tức khôn xiết: 

- Ta đã hẹn ngày giao hàng với các đầu mối, làm sao đây? Hừ! Triệu Sơn! Mày dám phỗng tay trên hàng của tao à? Đâu có dễ dàng như vậy. 

- Bây giờ đại ca tính thế nào? 

- Việc trước tiên là phải điều tra thằng mập. 

- Thằng mập dính líu gì trong vụ này? 

- Thằng Mập trước kia là đàn em của Triệu Sơn. Lúc Triệu Sơn đi cải tạo, hắn bơ vơ ta mới nhận về. Không ngờ nuôi ong tay áo. 

Lê Trung gật gù: 

- Thì ra là vậy. 

Giang Vỹ đưa tay nhấn nút chuông gọi: 

- Bảo thằng mập lên đây. 

Chưa đầy ba phút thằng mập đã có mặt trong phòng. Nhìn thấy Lê Trung ánh mắt hắn lộ vẻ ghen ghét. 

- Đại ca gọi đàn em. 

- Mày ngồi xuống đó đi. Tao muốn bàn với mày chút việc. 

Ngỡ đã được Giang Vỹ tin cậy, tên mập khúm núm: 

- Đại ca cứ giao việc cho em, dù phải chết em cũng hoàn thành. 

Giang Vỹ cười mỉa: 

- Chú mày trung thành với tao đến thế sao? 

Tên mập nghe giọng nói của Giang Vỹ có vẻ gì bất ổn. Hắn chưa kịp phản ứng thì một nòng súng lạnh tanh đã chĩa thẳng vào màng tang hắn: 

- Nói! Số hàng của tao hiện giờ ở đâu? 

Tên mập lộ vẻ hoảng hốt: 

- Đại ca! Số hàng gì? Em không biết gì hết. 

Giang Vỹ nghiến răng ken két: 

- Mày giỏi lắm. Giả vờ hay lắm. Mày cấu kết với thằng Triệu Sơn cướp số hàng của tao. Mày giấu nó ở đâu? Khôn hồn thì khai ra mau. 

Tên mập run lẩy bẩy: 

- Đại ca! Oan cho em lắm đại ca. Tại có kẻ ghét em nên muốn hại em mà đại ca. 

- Nếu mày không làm thì ai hại được mày. “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ”. Tao đếm tới ba nếu mày không khai tao bắn nát óc mày ngay. 

Mắt tên mập như muốn đứng tròng. Tiếng Giang Vỹ vẫn vang lên đều đều: 

- Một! 

Vẫn im lặng. 

- Hai! 

Tên mập thoáng lưỡng lự… 

- Ba! 

- Tôi nói! Đừng bắn! Tôi nói. 

- Thế ra mày cũng sợ chết. 

Tên mập sụp xuống lạy Giang Vỹ lia lịa: 

- Đại ca tha mạng, em lỡ dại lần đầu. 

Giang Vỹ cười đểu: 

- Có thế chứ. 

Rồi hắn trở giọng quát vang: 

- Nói! Số hàng ấy hiện ở đâu? 

- Dạ, ở phòng 402 khách sạn M, lầu ba. 

- Tại sao giấu hàng ở trong khách sạn? 

- Hắn sợ lộ tẩy khi đem về nhà và để ở đó để giao hàng luôn. 

- Mày được chia bao nhiêu trong vụ này? 

Tên mập van lạy lia lịa: 

- Đại ca tha mạng, đại ca tha mạng. 

- Nói! Tao không thích dài dòng. 

Nòng súng lạnh ngắt dí thẳng vào đầu hắn. 

- Dạ, đại ca. Triệu Sơn hứa xong vụ này sẽ chia cho em năm mươi phần trăm. 

Tên mập sợ rung cả người. 

- Đại ca tha mạng em lần này đi. Từ giờ về sau, em không dám nữa đâu. 

- Mày còn lần sau sao? Tao sẽ cắt tay mày, cắt chân mày theo tỉ lệ năm mươi phần trăm không hơn không kém. Mày thấy thế nào? Có hẹp hòi gì cho mày không? 

- Đại ca! Tha cho em đi đại ca. 

- Tha cho một thằng phản bội như mày à? 

- Đại ca. 

Lê Trung đứng im xem cuộc diện bây giờ mới lên tiếng: 

- Chú mày muốn gì? 

- Vụ này nên để đàn em nó làm, đại ca nhúng vào chi cho bẩn tay. 

- Ý chú mày là… 

- Giao cho thằng Hưng nó xử bí mật, đừng để dính líu đến nhà hàng mình, bọn công an điều tra lôi thôi lắm. 

Giang Vỹ nghe Lê Trung nói hợp lý, hắn ra lệnh: 

- Giao nó cho thằng Hưng. 

Lê Trung ấn nút điện gọi Hưng, Hưng nhanh chóng có mặt. 

- Ông chủ! 

Giang Vỹ gật đầu lạnh lùng: 

- Ừ. 

- Đại ca gọi em có việc gì? 

- Mày đem thằng này đến một nơi vắng vẻ nào đó chặt hết chân tay nó rồi trở về đây chúng ta có nhiệm vụ mới. 

Hưng hiểu ý Trung khi giao việc này cho anh. Anh khống chế tên mập. 

- Đi! Tên phản bội! 

Đợi Hưng đưa tên mập đi rồi. Giang Vỹ mới hỏi Lê Trung: 

- Phi Long! Bây giờ chúng ta giải quyết thằng Triệu Sơn như thế nào? 

- Chúng ta cứ đàng hoàng đến khách sạn lấy về. 

- Mạo hiểm lắm không? 

- Em và thằng Hưng sẽ bảo vệ đại ca. 

- Bao giờ hành động. 

- Sáng mai. 

- Lần này tao giao phó tất cả cho chú mày. Nhưng thằng Triệu Sơn nó biết mặt tao. 

- Em sẽ hóa trang cho đại ca. Mình sẽ tiếp cận trao đổi mua bán với nó. Khi nó giao hàng chúng ta sẽ hành động. 

- Phải làm cho nó biết tay Giang Vỹ này không phải dễ xem thường. 

Hưng trói gô tên mập bỏ đằng sau xe. Anh chạy xe ra khỏi thành phố ra vùng ngoại ô đến một cánh đồng vắng. 

Sau nhiều lần quẹo quanh cua, biết chắc không có người theo dõi, Hưng mới đến điểm hẹn. 

Đằng xa có một chiếc xe hơi, anh nhá đèn ra hiệu. Tín hiệu đèn pha được đáp lại. Hưng mừng rỡ cho xe lao tới. 

- Nó đâu? 

Một người thò ra khỏi đầu xe hỏi Hưng. 

- Đằng sau xe. 

Tên mập bị trói gô nằm co ro như con heo luộc, miệng bị nhét khăn ú ớ. 

- Đưa nó qua xe. 

Tên mập bị lôi tuột ra khỏi xe. Hắn muốn kêu cứu nhưng cổ họng nghẹn cứng. Chắc rằng hắn phải chết. Phải chi hắn nghe Triệu Sơn, chuồn đi khi xe hàng bị cướp. Hắn không ngờ Giang Vỹ lại phát hiện ra Triệu Sơn quá sớm như thế. Bệnh chủ quan đã giết hắn. 

Hắn mơ màng nghĩ đến năm mươi phần trăm tiền của số hàng hắn sẽ được hưởng. Số tiền ấy đủ cho hắn và vợ con hắn sống một đời đế vương. Hắn sẽ giải nghệ an hưởng tuổi già. 

Nào ngờ, tiền đâu không thấy mà bây giờ hắn phải chịu cảnh hành hình năm mươi phần trăm. Tàn phế như thế sống mà làm gì, thà chết còn sướng hơn. Một dòng nước mắt chảy dài trên đôi má nung núc mỡ của hắn. Lần đầu tiên hắn khóc, hắn mới nếm được vị mặn đắng của giọt nước mắt. 

- Mày cũng biết khóc nữa sao? 

Hưng hỏi giọng trêu đùa: 

- Thôi, ngoan ngoãn theo các anh về. Thành khẩn khai báo sẽ được khoan hồng thôi. Mày không chết đâu mà sợ. 

Tên mập run lên không kềm chế được: 

- Thì ra hắn là nội gián. Mình lọt vào tay công an thì sẽ ở tù mãn đời luôn. 

- Đưa hắn về đi. 

Một bàn tay vỗ vai Hưng: 

- Cậu khá lắm Hưng. Bọn tớ ở đằng sau lúc nào cũng hỗ trợ và sẵn sàng bảo vệ cậu. 

Hưng riết lấy bàn tay của bạn cảm động: 

- Phá án xong, chúng mình nhậu một trận nghe. Nhớ các bạn quá. 

- Chúc thắng lợi. 

Hưng nhìn chiếc xe lao dần đi trong màn đêm mà lòng bùi ngùi. Cuộc chiến chỉ còn trong gang tấc nữa thôi là đã đi đến đích thắng lợi rồi. 

- Cố lên Hưng! 

Anh tự bảo với mình.

CHƯƠNG V 

Bảy giờ sáng, Giang Vỹ được Lê Trung hóa trang thật khéo cùng với Hưng đến khách sạn M theo kế hoạch… 

Lê Trung đến bên quầy nhìn cô quản lý cười tươi: 

- Chúng tôi cần lên phòng 402 lầu ba gặp ông Triệu Sơn. 

- Dạ, để tôi báo cho ông Sơn. 

Lê Trung giằng lấy tay cô gái trên máy điện thoại: 

- Không cần! Chúng tôi đã có hẹn với nhau rồi. Không làm phiền cô. 

- Vậy thì xin mời ông. 

Lê Trung ra hiệu cho Giang Vỹ và Hưng theo mình vào thang máy. Phòng 402 hiện ra trên lối đi. Lê Trung thoáng do dự nhìn Giang Vỹ. Hiểu cái nhìn của anh Giang Vỹ khẽ gật đầu. Lê Trung đưa tay gõ cửa. 

- Ai đấy? 

Giọng hắn đầy lo lắng. 

- Chúng tôi đến nhận hàng. 

- Sao sớm vậy? 

- Chúng tôi thay đổi giờ để đánh lạc hướng bọn theo dõi. 

Cánh cửa phòng được mở ra. Triệu Sơn yên tâm khi nhìn ba người. 

- Mời vào! 

Lê Trung nói: 

- Chúng tôi muốn nhận hàng. 

- Theo nguyên tắc tiền và hàng phải trao cùng một lúc. 

- Được. 

Lê Trung hất hàm ra hiệu cho Hưng mở nắp valy ra. Những xấp tiền bằng đô la được xếp ngay ngắn thành từng chồng. 

- Đưa hàng ra ngay đi. 

Giang Vỹ nóng mặt thúc giục. Triệu Sơn mỉm cười mở valy hàng ra. Giang Vỹ thử một miếng bột trắng trong ấy. Giang Vỹ gật đầu. Hàng được trao tay nhau. 

Lê Trung nhanh như sóc chồm đến kề nòng súng vào đầu Triệu Sơn. 

- Đứng im! 

Triệu Sơn cười nhạt: 

- Tao biết màn kịch này phải thế mà. 

Lê Trung giật mình. Anh đã nhanh mà hai người lạ mặt kia còn nhanh hơn. Hai nòng súng cũng đang chĩa thẳng vào đầu Giang Vỹ và Hưng. 

- Sao? Hai đổi một, bọn tao cũng còn lời chán. 

Tình thế bất lợi nghiêng về phía Lê Trung, anh bình tĩnh kéo dài thời gian. 

- Đừng làm bậy nghen! Chúng ta còn có thể thương lượng mà. 

- Thương lượng! Thương lượng thế nào? Phần lãi cũng thuộc về bọn tao cả. 

Triệu Sơn vừa nói vừa cười ha hả. Lê Trung tức giận muốn bóp cò cho hắn một phát. Nhưng còn tính mạng của đồng đội, anh phải cân nhắc kỹ càng. 

- Thả Triệu Sơn ra! 

Tên cầm súng chĩa vào Hưng quát lên. 

Lê Trung cũng tìm cách kéo dài thêm thời gian cho đồng đội anh tiếp ứng. 

- Một người đổi lấy một người. 

- Ai? 

- Đương nhiên là ông chủ. 

Lê Trung nói cứng. Anh thừa biết bọn chúng sẽ dùng Hưng đánh đổi với anh. 

- Mày có quyền lựa chọn sao? Tao cho mày một điều kiện, bên kia mày thả Triệu Sơn, bên này tao thả thằng oắt con này. 

- Tao có thể tin mày sao? 

- Tao có thể để cho thằng oắt này thong thả đi về phía mày, còn mày cũng làm ngược lại. Nòng súng của mày hoặc của tao có thể nhả đạn bất cứ lúc nào. 

- Cũng được. Thực hiện đi. 

Giang Vỹ phản đối: 

- Tại sao người được trao đổi không là tôi mà là thằng oắt đó? 

- Im lặng. Muốn sống thì câm mồm đi. 

Nòng súng của hắn nhích mạnh vào đầu Giang Vỹ. Lê Trung sốt ruột: 

- Bắt đầu đi. 

Lê Trung căng thẳng chờ đợi. Từng bước Hưng nhích dần về phía anh. Ánh mắt của Giang Vỹ nhìn anh như trách móc. 

Cuộc trao đổi đã xong, Lê Trung nhẹ cả người. Anh nói với Giang Vỹ: 

- Xin lỗi ông chủ. Ông chủ cố chịu đựng một chút. Ông còn có giá trị lợi dụng, bọn nó không thể giết ông đâu. 

Triệu Sơn cười khoái trá: 

- Mày thông minh. Bọn tao giết hắn làm gì chứ. Chỉ cần mày đem cho chúng tao số tiền chuộc hắn, bọn tao sẽ thả ra ngay. 

- Còn valy tiền đó? 

Lê Trung hất mặt về chiếc valy tiền bọn chúng đoạt trên tay Hưng. Triệu Sơn cười đểu cáng: 

- Đương nhiên là của ông mày rồi. Bây giờ thì đứng im cho bọn ông rời khỏi chỗ này. Bọn bây về đem đến cho ông năm chục ngàn đô để chuộc hắn. 

- Chúng tôi làm sao có số tiền ấy? 

- Mày ngu quá! Tiền nằm trong két của hắn chớ đâu. Hắn còn có gởi tiền khắp các ngân hàng quốc tế đó. Tụi bây đâu có ngờ đây là một cái bẫy phải không? Tao đâu có tin tưởng thằng mập đó, nên đã giăng bẫy chờ bọn bây. 

- Hừ! 

Lê Trung tự trách mình: Anh đã quá xem thường Triệu Sơn nên mới xảy ra việc đáng tiếc này. Đáng lẽ giờ này bọn chúng đều phải đưa tay vào còng thì chúng lại được tự do. Nhưng rồi lưới pháp luật không tha cho bọn bây. Càng kéo dài thời gian thì mẻ lưới sẽ tóm được nhiều con cá lớn. 

- Được. Mày cứ cho biết thời gian và địa điểm, bọn tao sẽ đem tiền đến. 

- Mày yên tâm về tổng hành dinh chờ điện thoại. 

- Đi! 

Triệu Sơn ra lệnh cho Giang Vỹ. 

- Ngoan ngoãn nhé. Kháng cự là mất mạng. 

Súng còn cầm trong tay, nhưng Lê Trung cũng không dám mạo hiểm. Dù Giang Vỹ là tội phạm, anh cũng phải bảo vệ mạng sống của hắn. Bọn chúng thụt lùi ra cửa kéo Giang Vỹ đi theo. Cánh cửa đóng sầm lại lập tức. Lê Trung nhìn Hưng lắc đầu: 

- Mình bị nhốt trong đây rồi. 

Hưng nhào đến chiếc điện thoại trong phòng, anh lộ vẻ thất vọng. 

- Bị cắt từ lâu rồi. 

Bỗng mắt Hưng sáng lên: 

- Anh Lê Trung! Chúng ta còn máy bộ đàm. Mình liên lạc với bố già đi. 

- Quỷ tha ma bắt cậu. Sao không chịu liên lạc đi! 

- Em còn đợi lệnh chỉ huy mà. 

- Giờ phút này mà cậu còn đùa được à? 

Hưng nhấn chiếc nút nhỏ trên đồng hồ đeo tay, đèn tín hiệu nhấp nháy. 

- Alô. Bọn chúng ra ngoài với con tin trong tay. 

- …. 

Hưng nhăn mặt gãi đầu: 

- Bọn em bị nhốt trong phòng không ra được. 

- … 

- Vâng, thưa thủ trưởng. 

Rồi Hưng quay sang báo cáo với Lê Trung: 

- Nhân viên khách sạn sẽ mở cửa cho chúng ta ra. 

Lê Trung cười như mếu: 

- Thật là mất mặt quá! 

Điểm hẹn chuộc con tin là một ngôi nhà hoang sát bìa rừng cách thành phố mấy trăm kilômét. 

- Địa bàn này của anh mà phải không anh Lê Trung? 

Lê Trung gật đầu rồi châm chọc: 

- Vậy chú mày cứ ở nhà ăn no ngủ kỹ đi. 

- Ai mà bỏ đồng đội thế? Em sẽ cùng đại ca chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. 

- Nhớ! Nguy hiểm cũng đừng chạy vào rừng kẻo bị cọp vồ đó. 

- Đại ca xem thường đàn em quá! 

- Đùa với đệ một chút thôi. Chuẩn bị sẵn sàng chưa? Chuẩn bị xuất phát. 

Hưng gập người: 

- Báo cáo thủ trưởng, đã sẵn sàng. 

Chiếc xe chạy vào khúc quanh của quốc lộ theo con đường mòn vào rừng. Đèn xe quét sáng rực dãy bìa rừng, ngôi nhà hoang hiện ra. Lê Trung khảo sát chung quanh một vòng, anh yên tâm đồng đội anh đã vây kín cả một khu vực. Lê Trung bắt tay làm loa gọi: 

- Triệu Sơn! Đem con tin ra ngay đi. 

Bên trong vẫn im lìm. 

- Triệu Sơn! Đừng làm trò khỉ nữa. 

Vẫn im lặng, Lê Trung tiến tới xem xét chiếc xe du lịch đen đang nằm bên gốc cây. 

- Bọn chúng đã đến đây rồi. Sao không chịu ra mặt? 

Lê Trung thầm nghĩ: 

- Mình có sơ sót bị bọn chúng phát hiện sao? 

Chuông điện thoại reo vang. Lê Trung bấm máy: 

- Alô! 

- Để bảo đảm an toàn, chúng tôi buộc lòng phải dời địa điểm. Về phía tay trái có một con đường mòn anh hãy đi khoảng một kilômét, người chúng tôi sẽ đón. 

- Xảo quyệt! 

Lê Trung chưa nói hết câu thì bên kia đã tắt máy chấm dứt liên lạc. Anh bảo Hưng: 

- Cậu ở lại liên lạc với mọi người, bí mật hỗ trợ mình. 

Hưng kêu lên: 

- Anh đi một mình nguy hiểm lắm, Lê Trung. 

- Nhiệm vụ quan trọng, nhất định phải bắt cho được bọn chúng để pháp luật trừng trị không để chúng lộng hành như thế. 

Hưng siết chặt tay anh: 

- Bảo trọng! 

Lê Trung gật đầu rồi lao mình đi trong đêm đen, độ khoảng một kilômét anh nhá đèn làm hiệu. Bên kia nhá đèn lại trả lời 

Lê Trung quát to: 

- Con tin đâu? 

- Đưa tiền ra đây. 

Lê Trung mở valy rọi đèn pin vào cho chúng kiểm tra. Lê Trung thúc giục: 

- Đưa con tin ra đây. 

Triệu Sơn cười khùng khục: 

- Đâu có dễ dàng như vậy được. 

- Triệu Sơn! Mày định giở trò gì đây? 

- Trò gì? Bọn tao đâu có dễ dàng mà tha cho con mồi như vậy. Mày hãy nhìn hắn kìa. Vẫn còn sống đó phải không? Bọn tao còn phải kiểm tra xem tiền của mày là thật hay giả nữa đã chứ. 

Lê Trung rút súng ra. Triệu Sơn càng cười to: 

- Đừng có dại mà chống đối với bọn tao. Mày chưa kịp nổ súng thì viên đạn đầu tiên đã xuyên qua ngực Giang Vỹ rồi. Tha cho mày vì mày đã không thất tín. Quay về đi chờ tin mới của bọn tao. 

Triệu Sơn còn đang cười khằng khặc thì hắn bỗng rú người lên đau đớn. Sau hắn cả bọn ba người cũng rú lên oằn oại. 

Lê Trung chợt hiểu, đồng đội anh không muốn làm náo động cả khu rừng yên tĩnh, nên đã dùng súng giảm thanh hỗ trợ cho anh. 

Những chiếc còng được cho vào tay bọn chúng. Hưng lao đến ôm chặt lấy anh mừng rỡ. 

- Lê Trung! Chúc mừng chiến công. 

Các chiến sĩ khám xét chung quanh valy tiền, hàng vẫn còn nguyên, chúng vẫn chưa kịp tẩu tán. Có lẽ chúng định chờ số tiền của Lê Trung đến rồi mới chia chác, hay là không đủ thời gian ở thành phố để ăn chia. 

Lê Trung bước đến bên Giang Vỹ: 

- Xin lỗi đại ca. 

Giang Vỹ bị trói bên gốc cây đã chứng kiến tất cả, hắn mở to trừng trừng đôi mắt nhìn Lê Trung lắp bắp: 

- Mày là… 

- Chiến sĩ công an. 

Giang Vỹ gục xuống như cây già bị cơn bão trong rừng chặt ngã. Một tên trùm buôn lậu phải sa lưới pháp luật. 

- Đưa tất cả về đồn. 

Lê Trung ra lệnh, anh cố hít lấy một làn không khí trong lành vào lồng phổi. 

- Cảm giác sảng khoái sau khi hoàn thành nhiệm vụ thật là tuyệt vời. 

Anh thốt lên rồi cùng đồng đội giải phạm nhân về trong niềm vui. 

Bản án tử hình dành cho những tên tội phạm thật đích đáng. Riêng Quốc được tha bổng vì đã lấy công chuộc tội. 

Ra khỏi tòa, anh như cánh chim bay bổng giữa bầu trời, anh gọi to: 

- Mẹ! Con đây mẹ! 

Bà mẹ già nua dang tay ôm lấy anh đôi mắt nhăn nheo tuôn trào giọt lệ: 

- Quốc! Mẹ tưởng không gặp được con nữa. 

- Mẹ! Mẹ ơi! Con đã được làm người rồi. 

- Con nhìn xem ai đây nè! 

Quốc kinh ngạc kêu lên: 

- Hồng! 

- Anh Quốc! Chúc mừng anh! 

- Sao Hồng biết mà đến đây? 

- Báo chí đăng tải khắp nơi vụ án đường dây ma túy này. Nhờ vậy, Hồng mới biết sau đêm đó anh vẫn còn sống và đang lập công chuộc tội. 

- Hồng! Tôi không xứng đáng với Hồng. 

- Làm người mấy ai không có lầm lỗi, quan trọng là biết hối cải, làm lại cuộc đời. 

Mẹ Quốc nói trong nước mắt: 

- Mừng ngày đoàn tụ, bác mời cháu về nhà bác dùng một bữa cơm cho ấm nhà. Từ ngày thằng Quốc bỏ đi, bác chẳng thiết tha gì đến cuộc sống. 

- Dạ cháu cám ơn bác. Mình đi anh Quốc. 

Quốc nắm tay Hồng: 

- Hồng! Cảm ơn em đã cho anh niềm tin cuộc sống. 

Trời thành phố như trong hơn, nắng như tươi đẹp hơn, để chào đón những con người quay về từ bóng tối. 

Lê Trung lại trở về với nhiệm vụ của mình sau khi chấm dứt chuyến du lịch vào thành phố Hồ Chí Minh. 

Sáng nay, đại tá Nguyễn Hoàng cho mời anh vào phòng làm việc. 

- Chào đại tá! 

Đại tá Nguyễn Hoàng nhìn anh mỉm cười: 

- Cậu có khỏe không? 

- Vẫn còn nhiều sức lực để dành cho những cuộc du lịch mà đại tá ban tặng. Bây giờ tôi được đi du lịch ở đâu thưa đại tá. 

- Nơi mà cậu thích. 

- Nghĩa là… 

- Ban giám đốc công an thành phố Hồ Chi Minh gởi công văn nhiệt liệt khen ngợi cậu và trích tặng cậu một số tiền thưởng trong quỹ của tổ chức. Còn ban giám đốc ở đây đã bàn bạc với nhau tặng cậu hai vé khứ hồi về thành phố biển cát trắng. 

Lê Trung gập người lại theo tư thế: 

- Cám ơn đại tá! 

- Chúc cậu vui vẻ một tuần đổi gió nhé! 

Cầm hai vé du lịch trong tay, Lê Trung hớn hở gọi điện cho Uyển Vân: 

- Uyển Vân! Chúng ta có dịp đi thành phố biển cát trắng như mong ước rồi. 

- Ai thèm đi với anh. 

Như quả bóng xì hơi, Lê Trung ỉu xìu: 

- Uyển Vân, vì công tác đột xuất nên không liên lạc được với em, giận anh nên em không đi, phải không? 

- Con gái nói không là có mà. 

- Uyển Vân! 

Lê Trung kêu lên trong hạnh phúc.

ĐƯA DÂU VỀ ÂM PHỦ 

Tại thôn An Lý có một ngôi nhà hoang, đã vắng người hàng chục năm rồi mà chẳng thấy ai là chủ tới viếng thăm. Người trong vùng đồn ngôi nhà đó có ma, nên càng cho thiên hạ thêm sợ và lánh xa. 

Vậy mà vào một đêm đầu mùa đông, lại có một anh chàng xách chiếc túi cũ, đi bộ vào ngôi nhà tối đen như mực. Anh ta dò từng bước, đi tới đâu, lũ dơi hoang đang bám trên trần nhà bay ra ào ào. Nếu Ià người khác thì sợ hết vía, nhưng anh chàng này thì lại bật cười và lẩm bẩm: 

- Chắc ai cũng tưởng tao sợ chúng mày, hóa ra tụi bay lại sợ tao phải bỏ chạy! 

Anh ta có vẻ thích thú chuyện những con dơi vỗ cánh bay đi. Nhưng thích nhất là khi anh ta bật diêm quẹt lên soi sáng cả một vùng, thì Ioài côn trùng, rắn rết thi nhau chạy thục mạng! 

- Tao lại chiến thắng! 

Tìm được một số que nhỏ, anh ta gom lại thành một bó, như cách người ta làm đuốc, rồi châm lửa to lên. Lát sau, ánh sáng từ cây đuốc tự tạo đó đã giúp cho căn phòng rộng đầy bụi và mạng nhện đã có vẻ ấm cúng hơn. Anh chàng lại tự nói: 

- Có thế chứ! 

Dùng mấy tấm bìa cũ rơi vãi dưới đất Iàm chổi, anh ta quét nhanh một vùng to hơn chiếc giường. Cả lớp bụi dày, nhờ bóng đêm nên không thấy bụi bay lên, nhưng hít vào khiến anh ta phải hắt hơi liền mấy cái. Tiếng hắt hơi mạnh lại một lần nữa khiến lũ dơi còn lại bay ra loạn xạ, có con bay vèo qua mặt, suýt nữa đã đập vào mắt anh ta. 

- Bay hết đi, ông mày nghỉ ngơi cho yên tĩnh! 

Lát sau, không khí trong phòng trở lại yên ắng đến lạ thường. Để nguyên cả quần áo, giày và chiếc mũ lụp xụp trên đầu, anh chàng ngã lưng đại xuống nền nhà, lấy chiếc túi cũ làm gối. Thế là anh ta có một chỗ nghỉ ngơi tuyệt vời! 

Cây đuốc tự tạo chỉ cháy được khoảng mười lăm phút thì tàn. Ánh sáng yếu dần đi và đến lúc nó tắt phụt, trả căn phòng về với bóng tối cố hữu của nó. Nhưng đâu hề gì, bởi anh chàng ta đã thở đều đi sâu vào giấc nồng. Có thể do anh ta đi đường xa quá quá mệt, hoặc cũng có thể do có chút hơi men trong người. 

Lúc gần sáng, bỗng nghe có tiếng cự cãi giữa hai người, một nam một nữ. Đầu tiên là tiếng của anh ta. 

- Yêu cầu cô đi chỗ khác, nơi đây là của tôi. 

Giọng nữ không vừa: 

- Ai nói nơi đây là của anh? Anh có biết ngôi nhà này đã bỏ hoang từ bao giờ không? Nó hoang tàn lúc nào thì tôi có mặt từ lúc ấy. Nó là chỗ của tôi! 

- Không đúng. Nhà hoang là nhà vắng chủ, vậy ai xí được chỗ nào thì là của người ấy! Cô cần chỗ ngủ thì hãy đi tìm phòng khác, tôi đang ngon giấc tại đây, không chuyển đi đâu cả! 

- Anh biết đang nói chuyện với ai không? Anh còn muốn sống nữa không? 

Một tràng cười phát ra, cùng với câu nói dứt khoát của anh chàng ngông cuồng: 

- Sống cũng được, mà chết cũng đâu có sao. 

- Anh... 

Giọng người nữ chợt dừng lại. Rồi một lúc sau, không còn nghe tiếng cãi vã nữa. Chỉ có những tiếng động đậy và thì thầm rất lạ tai. Việc này kéo dài cho đến khi gà gáy rộ. 

Sáng, trong lúc anh chàng lãng tử còn đang ngủ say như chết thì có một người bước vào phòng. Đó là một lão nông. Ông ta ngước nhìn lên trần nhà rồi buộc miệng: 

- Trúng to rồi. 

Thì ra ngay trên đầu ông ta có giăng một tấm lưới to và trong lưới có nhiều con dơi mắc kẹt, đang cất tiếng kêu chí chóe. 

- Sao bữa nay lũ dơi này lọt bẫy nhiều dữ vậy cà? 

Thì ra lão ta là người giăng tấm lưới thưa kia, nhầm bắt đàn dơi khi chúng vô tình bay ra bay vào ngôi nhà này. Bữa nay tha hồ cung cấp tiệm bán cháo dơi. Lũ dơi toàn con mập. Lão ta đặt chiếc giỏ mang theo xuống đất, chuẩn bị gỡ tấm lưới xuống. Vừa lúc ấy, lão ta phát hiện có anh: 

- Ai vậy? 

Tiếng hỏi của lão khá lớn khiến anh chàng đang ngủ giật mình. Anh ta nheo mắt nhìn lên, phần thì bị ánh sáng chiếu vào, phần mới vừa tỉnh ngủ, nên phải mất hơn chục giây anh ta mới cất tiếng hỏi: 

- Ông là ai vậy? 

- Tôi hỏi cậu là ai mà dám vào đây ngủ? 

- Có gì mà không dám! 

Anh ta vừa trả lời vừa bật ngồi dậy. Bỗng anh ta ngơ ngác hỏi: 

- Người của tôi đâu rồi? 

Ông già bắt dơi hỏi lại: 

- Còn có người khác nữa sao? 

- Có chứ. Nàng ngủ với tôi suốt đêm rồi. Mới đây mà... 

Lão già xẵng giọng: 

- Thì ra tụi bay là thứ mèo mả gà đồng, dẫn nhau vào đây làm bậy phải không? 

Gã kia trợn tròn mắt: 

- Ông chửi ai vậy? 

- Cậu đó. Cậu dẫn gái vào đây phải không? 

Anh chàng phát cáu: 

- Dẫn gái thì sao? Nhà này của lão chắc? 

Thấy thái độ trịch thượng của anh ta, ông lão cũng nổi nóng: 

- Nhà của tao, được chưa! 

Chẳng ngờ anh ta lại tưng tửng: 

- Có nhà sao không ngủ giữ, lại để cho lũ dơi và rắn rết làm ổ? 

- Tại vì… tại…

Thấy lão ta ấp úng, anh chàng lại cố tình trêu chọc: 

- Nếu muốn tìm chỗ nghỉ chân thì tôi nhường cho căn phòng bên trái đó, vào dọn dẹp đi, tránh chỗ để quan anh ngủ thêm chút nữa, rồi sáng mai dậy ta sẽ mời đi ăn cưới! 

Nghĩ mình gặp một tên tâm thần, nên lão già nạt ngang: 

- Im đi, để người ta làm việc! 

Lo bắc chiếc ghế cũ đứng lên và gỡ từng con dơi cho vào giỏ. Anh chàng kia có ý theo dõi, cuối cùng phát hiện ra việc bắt dơi ngộ nghĩnh của ông ta, anh không còn nói ngang nữa: 

- Thì ra bác giăng bẫy. Vậy mà nãy giờ không nói. Cháu xin lỗi.

Anh ta thích thú với công việc nên vội đứng lên phụ một tay. Lão già cũng không còn gay gắt nữa, lại hỏi:

- Cậu là người đâu tới đây, sao lại dám ngủ chỗ này? 

- Cháu ở xa, đi bộ hàng chục cây số, vào tới đây thì trời tối, tiện thấy chỗ này vắng nên ngã lưng đại.

- Thì ra là vậy. Nhưng Iúc nãy cậu nói còn có ai nữa? 

Anh chàng tính kể thật, nhưng kịp nghĩ lại nên nói khác đi: 

- Cháu chỉ đùa.. 

Ông lão chợt cười: 

- Hỏi chơi vậy chứ tôi thừa biết con gái nào dám theo trai vào chốn này. 

Khi bắt hết số dơi dính bẫy, lão hỏi: 

- Cậu có muốn lấy ít dơi làm thịt nấu cháo không? 

Anh chàng cười ngất: 

- Cháu trên răng dưới… quần đùi thế này lấy gì nấu nướng. 

- Rồi đây cậu đi đâu? 

Anh ta lại phá lên cười: 

- Có lẽ cháu sẽ ở lại đây một thời gian. 

Lão già lắc đầu liền: 

- Đâu có được! Cậu chưa biết, chứ nơi này... 

Lão ngại nên không nói tiếp. Nhưng anh chàng thì hầu như đoán được, anh ta tiếp liền: 

- Bác muốn nói tới ma chứ gì? Vậy thì cháu gặp rồi. Gặp ma nữ nữa kìa! 

- Cậu đừng có đùa. Người vùng này chưa một ai ngoài tôi dám vào đây, chứ đừng nói là ăn nói bạt mạng như cậu. Không nên đâu... 

Trước khi ra về, lão còn dặn với lại: 

- Tốt hơn hết là cậu nên tìm một chỗ nào đó mà ở. Nơi này không phải dành cho người . 

Anh chàng không đáp, chờ lão đi khuất rồi lại nằm xuống ngủ tiếp. Cả anh ta và lão già lúc nãy cũng không để ý, ngay bên cạnh chỗ anh chàng nằm có một tấm khăn lụa màu lục, còn rất mới, đang nằm vắt vẻo ở đó. Chiếc khăn chắc chắn là của một nữ nhân, mà phải là người sang trọng! 

Chuyện ngôi nhà hoang có người lạ đến cũng chẳng mấy chốc đã loan truyền ra khắp xóm. Cho đến trưa hôm đó thì từ ngoài vòng rào đã có rất đông người tụ tập xem kẻ to gan. 

Trong khi đó, anh chàng kia vẫn không hay biết gì, cứ ngủ li bì. Nhiều người bàn nhau: 

- Chuyện này phải đi trình báo mới được, biết đâu là... 

Người khác lại nói: 

- Nếu là kẻ gian thì không vào đó mà nằm ngủ! Ắt là kẻ tâm thần. 

Người ta đứng đợi mãi mà không thấy gì thì cũng chán, nên lần lượt ra về. Người còn lại sau cùng chính là ông lão bẫy dơi đêm qua. Ông ta đợi cho mọi người đi hết mới lẻn vào bên trong. Đó cũng là cách vào nhà thường khi của ông ta. 

Đi vòng ra phía cửa hông, thay vì đi cửa trước như lệ thường, ông lão nhấc một cánh cửa gỗ ngụy trang ra, rồi chui tọt vào bên trong. Đã rành đường đi, nên lão đi trong bóng tối không có gì khó khăn. Lát sau thì vòng ra tới căn phòng lớn mà ông ta đã gặp chàng trai. Không bật đèn, lão ta chỉ nhẹ đẩy một cánh cửa sổ ra, ánh sáng lọt vào khiến căn phòng sáng lên soi rõ mọi vật. 

- Cậu... 

Ông ta kêu lên kinh ngạc, khi thấy trước mặt mình là anh chàng kia đang nằm ngủ, nhưng trong vòng tay lại đang ôm một con chó. Đúng hơn đó là một con chó rừng... 

- Cậu... 

Ông ta chưa kêu hết tiếng thứ hai thì đã ngã lăn ra. 

Trong lúc mọi người còn đang xôn xao bên ngoài với đèn đuốc sáng choang, thì ở bên trong có người nói: 

- Tôi đây này, mọi người kêu gào gì dữ vậy? 

Đám người tụ tập kia với mục đích đi tìm ông lão bắt dơi. Sau khi ông ta vào đó cả ngày không thấy ra! Vừa nghe tiếng người thì mọi người mừng rỡ: 

- Ông Năm Lành kìa! 

Ông ta bước thẳng ra cổng ngôi nhà hoang trước sự ngạc nhiên của mọi người. Họ hỏi dồn: 

- Sao ông ở cả ngày trong đó vậy, làm cả nhà ông chạy tìm nháo nhác. 

Ông già chỉ tay vào trong: 

- Để cho người ta nghỉ ngơi! 

Mấy người kia quá đỗi ngạc nhiên: 

- Ai trong đó? 

Ông ta đáp tỉnh bơ: 

- Thì khách lạ! 

- Nhưng mà... 

Ra dấu cho mọi người đừng gây ồn, Năm Lành leo rào ra ngoài rồi mới nói: 

- Đó là người tốt, tôi phải giúp cậu ta làm một chuyện trọng đại cái đã... 

Trước những câu nói kỳ lạ của ông ta, nhiều người không thể tin được, đã phải cầm tay lão lay mạnh, như sợ lão bị mê sảng. Nhưng Năm Lành rất tỉnh táo: 

- Tôi không bị gì đâu! Chỉ có điều ta phải giúp con người đó. Anh ta sắp lấy vợ! 

Câu nói đó càng làm cho mọi người ngơ ngác thêm. 

- Ông Năm nói rõ đầu đuôi coi! 

- Thì nói rồi, người này mời chúng ta ăn đám cưới vào tối mai. Vậy bà con về đi, không có chuyện gì đâu. 

Đời nào mọi người chịu nghe, họ cứ hỏi mãi: 

- Ông gặp ai trong đó? Sao lúc nãy ông nói có người tâm thần, rồi bây giờ lại nói đám cưới là sao? 

Lão Năm Lành vẫn bình tĩnh: 

- Có gì đâu, biết được đó là người đang hoàng nhưng nghèo, họ cần mình giúp thì cứ giúp thôi! 

Phải mất gần nửa giờ sau, ông ta mới kể được rành mạch. 

- Đó là một anh chàng ta xa tới, anh ta gặp được một người phụ nữ cùng cảnh ngộ nên thương, và họ ngỏ ý sống cùng nhau, cho nên vừa rồi khi tôi vào gặp họ thì họ chính thức nhờ tôi đứng chủ hôn cho họ. Đám cưới tổ chức ngày mai. 

Có người cười to: 

- Làm đám cưới trong ngôi nhà hoang, chắc là cưới ma! 

Năm Lành lừ mắt nhìn anh ta: 

- Đừng nói bậy mà mang tội và... và... 

Lời Năm Lành chưa dứt thì tự nhiên gã kia trợn trừng đôi mắt rồi há hốc mồm như hình nộm. Mặt người lay gọi nhưng anh ta đã chết đứng, không cử động được. 

- Ông Năm, coi thằng Tình sao kìa. 

Năm Lành thở dài: 

- Tôi đã nói rồi, chuyện này đâu phải chuyện đùa. 

Ông vỗ lên vai anh chàng kia một cái, tự dưng anh ta cử động được, rồi tự nhiên vùng bỏ chạy như ma đuổi. Ông Năm lắc đầu bảo mọi người: 

- Mọi người cứ nghe tôi, chuyện gì giúp được ta cứ giúp. 

Rồi ông căn dặn từng người, ông ta nói: 

- Mọi người về đi, rồi tối mai đúng tám giờ tới đây để dự lễ cưới. Nhớ có quà gì mang theo quà nấy, giống như trong đám cưới bình thường. 

Chẳng hiểu sao mọi người lại răm rắp nghe theo. Không mấy người tin đó là chuyện thật, nhưng cũng theo lời Năm Lành, tối hôm sau họ tề tựu về ngôi nhà hoang dự đám cưới. 

Tối hôm ấy mọi việc diễn ra là thật! Ngôi nhà hoang đang tối sầm, bỗng đèn đuốc nổi lên sáng choang, tiếng nhạc vang lừng! 

Mọi người lũ lượt kéo vào cổng ngôi nhà hoang, chẳng biết do ai mở cổng mà sự đi lại được dễ dàng như có gia nhân. Khi vào nhà, họ ngạc nhiên vô cùng khi nhìn thấy gian đại sảnh của ngôi nhà lộng lẫy như một tư thất của đại phú hào! Có người chưa tin lắm, hỏi người bên cạnh: 

- Thật không vậy? 

Anh ta vừa mở miệng thì đã bị ngay một cái tát nảy lửa vào một bên má! Anh ta kêu lên: 

- Sao đánh tôi? 

Lại một cái tát nữa má bên kia. Lần này, những người đứng gần đều không một ai có hành động nhấc tay lên, nên chắc chắn không phải là họ đánh. Anh chàng bị đánh có lẽ hiểu mình bị trừng phạt vì câu hỏi ngớ ngẩn vừa rồi, nên sợ thất thần, lặng im như thóc! 

Vừa lúc đó, người ta nhìn thấy một thanh niên trẻ, quần áo chỉnh tề, đi bên cạnh một mỹ nữ, bước ra đứng giữa nhà. Tất cả đều buột miệng khen: 

- Đẹp đôi quá! 

Lời khen thì không sao, nên mọi người không ngớt tán tụng nhan sắc cô dâu. Năm Lành trở thành người chủ hôn, ông ta khăn đóng áo dài nghiêm chỉnh, dõng dạc tuyên bố. 

- Hôm nay là ngày trọng đại của chú rể Bá Thông và cô dâu Thùy Hương. Nào, chúng ta cùng nâng ly chúc mừng. 

Lạ một điều là trên tay mọi người đều cầm một ly đầy rượu. Họ cùng cụng ly mà không dám chần chờ. 

Có cả một toán nữ vũ công vừa xuất hiện. Họ nhảy múa thật vui. Trong phút chốc đã vây quanh cô dâu chú rể, kéo họ cùng xoay tròn theo tiếng nhạc chẳng biết vọng ra từ đâu, nhưng nghe rất gần và rất lạ tai. 

Đám cưới kỳ lạ kéo dài đến canh hai mới chấm dứt. Đèn trong nhà tắt dần. 

Mọi người lần lượt kéo nhau ra về. Tuy nhiên, vẫn còn vài người do quá tò mò đã lén nán lại, nấp vào cửa tiếp tục nhìn xem. 

Họ vừa nhìn thấy cô dâu chú rể kéo nhau vào phòng riêng thì bỗng tất cả bọn họ đều ngã lăn ra hôn mê... 

Ngày hôm sau, khi lý trưởng và một số dân làng vào ngôi nhà hoang thì chỉ còn thấy một cảnh hoang tàn như nó vẫn có. Giữa gian phòng chỉ còn lại duy nhất một bộ hài cốt! 

Cùng đi theo đoàn người còn có một vị đạo sĩ. Ông được thỉnh tới từ một ngôi chùa nổi tiếng cách đó không xa. Hòa thượng Chơn Thiện. 

Ông nhìn kỹ bộ hài cốt một lúc rồi thở dài: 

- Ta chậm quá rồi. Người đàn ông đó đã chết! 

Có người hỏi: 

- Thầy nói ai? 

Nhà sư lại thở dài: 

- Tội nghiệp anh chàng lang thang nào đó, do số đã tận nên lọt vào đây mà không may gặp phải lũ yêu tinh này. Chúng đã hại chết cậu ta. 

Năm Lành lúc đó đã tỉnh táo, nói như người đồng lõa: 

- Biết cậu ta bị oan hồn sai khiến mà tôi không làm được gì cứu, trái lại còn bị sai khiến... 

Vị đạo sĩ nhân từ: 

- Không trách ông đâu. Ông không bị hại đã là may rồi. 

Nhà sư Chơn Thiện nói tiếp: 

- Mọi người hãy theo tôi ra ngoài này sẽ rõ. 

Ông tới bên bức tường vòng rào ngoài của ngôi nhà, dùng gậy cày xới lớp đất, lát sau nơi đó ló ra một bộ xương trắng. Vừa trông thấy, mọi người đã kêu lên: 

- Xương người! 

Nhưng nhà sư đã lắc đầu: 

- Không phải xương người đâu, xương chó đó. Và đây chính là nguyên nhân của sự việc... 

Ông còn chỉ tay ra ngoài: 

- Ngày xưa nơi đây là một nghĩa địa. Người chủ ngôi nhà này không xem kỹ đã xây ngôi nhà trên nền nghĩa trang hoang phế đó, nên từ lúc xây xong đã không ở được, nên đành phải bỏ hoang. Chỉ vì cái bộ xương này. 

Ông dừng lại như nén xúc động, sau đó mới tiếp: 

- Ngày xưa, có lẽ cách đây đã hơn ba mươi năm, một hôm có một đám đưa dâu đi ngang qua đây về nhà chồng bên kia thôn xóm, khi đấy vùng này còn hoang vu lắm, nên hùm beo thú dữ rất nhiều. Và bi kịch đã xảy ra, kiệu hoa cô dâu bị một đàn linh cẩu tấn công. Chúng xé xác cô dâu ra rồi chia nhau ăn thịt. Cô gái đó chết oan, nên hồn phách cứ lang thang đâu đó... Và có lẽ vì còn vương vấn người chồng còn lại chốn trần gian, nên vong hồn cô gái cứ lẩn quất quanh đây, đêm đêm đi tìm đàn ông, mà cô nghĩ đó là chồng của mình! Ngôi nhà hoang này là nơi chốn cô ta nương thân và chờ đợi. Chẳng may cho anh chàng xấu số này, khi anh ta vào đây và ngủ lại... 

Nhà sư ngừng kể, đứng lên và bảo mọi người: 

- Sau khi bắt được hồn anh chàng tội nghiệp kia đi, thì coi như mọi chuyện kết thúc. Từ nay oan hồn cô gái kia sẽ chẳng còn quấy phá ai nữa đâu. Thôi, mọi người hãy về đi... 

Ông đi trước, mọi người cũng ùn ùn đi theo, bởi chẳng một ai can đảm nán lại. Họ rùng mình khi nhớ lại hình dáng bộ xương nằm chỏng chơ giữa nhà của chàng trai tội nghiệp! 

Giữa trưa hôm đó, chẳng hiểu sao tự dưng ngôi nhà hoang bốc cháy dữ dội. Chẳng một ai dám tới cứu chữa. Mà thật ra họ cũng muốn thiêu hủy những gì còn lại của một bi kịch...

ĐI KIỆN OAN HỒN 

Phần 1

Tiệc chưa tàn, nhưng Tấn đã hai lần suýt ngã vì chóng mặt. Lần đầu thì mẹ anh đi bên cạnh tưởng con trai mình do nhậu quá nhiều, nên bà nhắc khẽ: 

- Đứng uống nữa, cứ “dô dô” hoài, chịu gì nổi! 

Nhưng đến lần sau thì chính Hồng Hạnh, vợ Tấn đã lo lắng: 

- Anh không đi nổi nữa thì vào nằm một chút đi. 

Tấn định không nghe lời vợ, nhưng tới lúc mắt hoa lên, người lả đi thì Tấn mặc cho vợ dìu đi đâu đi theo đó. 

Hồng Hạnh đưa Tấn vào phòng tân hôn. Cô tự lo cho chồng và chưa định báo cho cha mẹ biết, bởi nghĩ Tân chỉ bị choáng một lúc rồi sẽ qua. Tuy nhiên, sau một lúc xoa dầu và làm vài động tác sơ cứu, Hồng Hạnh phát lo, bởi Tấn càng lúc càng như chìm sâu vào hôn mê. Hốt hoảng, Hạnh chạy ra ngoài báo cho mẹ chồng. Bà Hiệp Phát cuống lên, cùng con dâu chạy vào phòng, cùng với vài người khác. 

- Tấn ơi! 

Đó là tiếng gào lên của bà Hiệp Phát khi vừa chạm vào trán con trai. Linh tính nhạy bén của người mẹ đã không sai, bởi bà cảm nhận rằng Tấn đã không còn chút sinh khí nào nữa! 

Hồng Hạnh tiếp sau mẹ chồng, cô đưa tay đặt lên mũi Tấn và cô gào lên còn to hơn bà Hiệp Phát: 

- Trời ơi! 

Tấn đã ngừng thở! Toàn thân anh chàng đã bắt đầu lạnh. Những tiếng khóc cùng vỡ òa, biến tiệc tân hôn thành một khung cảnh hỗn loạn. Tin chú rể chết ngay đêm động phòng truyền loan ra thật nhanh. Phút chốc, cả những người hàng xóm cũng tò mò kéo tới xem. 

Hồng Hạnh tức tốc chở Tấn vào bệnh viện. Nhưng nơi tiếp nhận sau khi khám kỹ, người ta đã lắc đầu bảo: 

- Tim ngừng đập khá lâu rồi, không cách nào cứu được. 

Bà Hiệp Phát và Hồng Hạnh chết ngất ngay tại phòng cấp cứu của bệnh viện. Khi họ tỉnh lại thì hay tin Tấn đã được đưa xuống nhà xác. Cả hai chạy bay đi tìm. Nhưng khi bước vào nhà xác thì họ lại một phen kinh hoàng. Xác của Tấn không còn ở đó! 

Hồng Hạnh hỏi thêm thì người ta chỉ nói: 

- Có một người nào đó xưng là người nhà, họ làm thủ tục rồi nhận xác chở đi ngay bằng xe riêng. 

Bà Hiệp Phát quá đỗi ngạc nhiên: 

- Nhà tôi đâu có ai mà vào đây đem xác về? 

- Một người phụ nữ xưng tên mình là Tuyết Thu, đưa ra đủ giấy tờ chứng minh là thân nhân của người quá cố để nhận xác. 

Vừa nghe tới tên Tuyết Thu là bà Hiệp Phát giật bắn người: 

- Ai... ai là Tuyết Thu? Sao lại là nó? 

Hồng Hạnh đang suy sụp, nhưng cũng phải ngạc nhiên: 

- Tuyết Thu là ai mà từ nào đến giờ con chưa nghe nói tới? 

Bà Hiệp Phát không đáp. Bà lảo đảo bước ra sân như kẻ mất hồn. 

- Kìa, mẹ! Mẹ để con kêu xe... 

Nhưng bà mẹ chồng của cô như không còn nghe lời nói của cô nữa. Bà cứ bước đi, cho đến khi vấp chân ngã sóng soài trên đường. Hồng Hạnh hốt hoảng tới đỡ bà dậy thì phát hiện bà bị trào máu ở hai khóe miệng. 

- Mẹ! 

Tội nghiệp Hạnh, chỉ trong vòng một thời gian ngắn mà bao nhiêu chuyện xảy ra vượt quá khả năng chịu đựng của cô. Cô quỵ xuống trên thân thể bất động của bà mẹ chồng, và không còn chút sức lực nào để gượng dậy. Ở một góc khuất gần đó, có một bóng người đứng nhìn vào cảnh ấy hình như chăm chú lắm. Mãi đến khi có người tới vực hai người dậy, đưa vào khu cấp cứu. 

Sau cái chết của Tấn được hai ngày thì bà Hiệp Phát cũng trút hơi thở cuối cùng. Bà chết bởi nguyên nhân nào thì ngay cả ở bệnh viện người ta cũng rất mơ hồ. Họ chỉ ghi vắn tắt trong bệnh án: Trụy tim. 

Nhưng Hồng Hạnh không tin thế, bởi cô đã chứng kiến cảnh bà bị thổ huyết sau khi nghe đến tên Tuyết Thu nào đó. Nhưng bây giờ thì mọi việc coi như kết thúc, tìm ra nguyên nhân thật sự cái chết của bà mẹ chồng để làm gì nữa. Hạnh bỏ về nhà mình ngay hôm sau đám tang và kiệt sức nên ngủ vùi ngay từ rất sớm. Cho đến nửa đêm.. 

Hạnh choàng dậy khi nghe tiếng gõ cửa. Chạy ra mở cửa ngay, nhưng cô đã sững sờ bước lui lại trong sự kinh hãi. Bởi đứng trước mặt cô lúc ấy là một người con gái cỡ tuổi mình, có khuôn mặt rất đẹp, nhưng nét u buồn khó che giấu. 

- Cô là... 

- Tuyết Thu. 

Hồng Hạnh dù chưa biết Tuyết Thu là người thế nào nhưng tự dưng cô cũng bị giật mình. Có lẽ cô nhớ tới thái độ sợ hãi của bà mẹ chồng hôm trước với người tên Tuyết Thu này. 

- Cô cần gì ở tôi? 

- Cô không muốn biết tin chồng mình ở đâu sao? 

Bấy giờ Hồng Hạnh mới chợt nhớ. 

- Cô đưa xác chồng tôi đi đâu? Tại sao cô làm vậy? 

- Ai là chồng cô? 

- Tấn! Cô cướp xác Tấn trong nhà xác và chính vì chuyện đó nên mẹ chồng tôi mới chết! 

Tuyết Thu phá lên cười, trong âm thanh như có gì đó khiến người nghe ớn lạnh! 

- Chồng cô! Nghe nói tôi phát rùng mình, ha ha! 

Hồng Hạnh vừa bực, nhưng chẳng hiểu sao lại hơi sợ. Nhìn gương mặt người phụ nữ trước mặt mình lúc này, cô chợt hiểu phần nào lý do bà Hiệp Phát đã sợ. Hình như cô ta có điều gì đó bất thường... 

- Cô yêu Tấn từ bao giờ? 

Câu hỏi khiến Hạnh dù có nhịn hết cỡ cũng phải nổi cáu: 

- Cô làm gì có đủ tư cách hỏi điều đó! Tôi yêu cầu... 

Tuyết Thu hạ thấp giọng, mà trong âm thanh như đang rít lên: 

- Chẳng những đủ tư cách, mà còn được quyền bắt cô phải trả lời nữa kìa! 

- Chẳng những không, mà còn yêu cầu cô... 

Hồng Hạnh lặp lại gần giống như câu nói trịch thượng của cô ta, nhưng mới vừa nói được bấy nhiêu thì bất thần cảm giác như một bên má mình vừa bị ai đó tát một cái đau điếng! Nhìn thì thấy Tuyết Thu vẫn đang đứng cách mình hơn hai thước, Hồng Hạnh chưa biết chuyện gì đang xảy ra cho mình thì giọng đáng ghét kia lại vang lên: 

- Đây là sự cảnh cáo để cô nhớ là phải ăn nói lễ độ trước đàn chị của mình! 

- Tôi yêu cầu cô ra khỏi nhà tôi ngay. 

Lại một cái tát nữa ở má bên kia. Mà rõ ràng không phải do Tuyết Thu hành động, bởi cô ta vẫn không di chuyển đến gần. Lúc này Hạnh hơi nao núng, cô nghĩ chắc chắn là có một ai đó nữa đang đứng sau lưng mình. Nhưng khi quay lại thì hoàn toàn không có ai khác. Hồng Hạnh quay trở lại, thì không còn thấy Tuyết Thu đâu! 

Toàn thân Hồng Hạnh ướt đẫm mồ hôi, mặc dù lúc đó trời đang se lạnh. Cô bắt đầu hiểu. Vừa lúc ấy thì mẹ Hạnh từ nhà sau chạy lên, bà ngạc nhiên hỏi: 

- Con vừa nói chuyện vói ai vậy? 

Hạnh không muốn mẹ mình lo lắng, nên lắc đầu: 

- Dạ, đâu có ai. Con chỉ... tỉnh giấc và lẩm bẩm một mình thôi. 

Bà Oanh nhẹ lắc đầu: 

- Con không bình thường rồi... 

Bà nhắc Hạnh trước khi quay trở xuống phòng ngủ: 

- Ngủ nhớ đắp mền, nếu cần thì uống viên thuốc an thần vào. 

Bà cảm thông nỗi buồn của con gái, bởi theo bà thì với một cú sốc nặng như thế, không khéo Hạnh sẽ bị tâm thần. Vừa bước về tới phòng, chưa kịp vào thì bà Oanh giật mình khi nghe cửa phòng của con gái đóng sầm lại một cách bất thường, bà hoảng hốt vừa chạy lại vừa hỏi lớn: 

- Chuyện gì vậy Hạnh? 

Không có tiếng trả lời mà cửa phòng thì đóng kín. Nghĩ con không khóa cửa nên bà Oanh vặn tay nắm, nhưng cửa phòng đã khóa chặt. Gõ và gọi thật to vào, giọng bà Oanh gấp gáp: 

- Chuyện gì vậy Hạnh, mở cửa cho má coi! 

Vẫn im lìm. Nghĩ tới điều chẳng lành, bà Oanh đập cửa mạnh thêm. Người anh trai của Hạnh đang ngủ trên lầu phải chạy xuống: 

- Gì vậy má? 

- Tông cửa vào coi con Hạnh nó làm sao rồi! Mau lên! 

Thạnh lưỡng lự, nhưng nhìn nét lo lắng quá sức của mẹ, anh đành phải dùng hết sức mạnh tung cửa phòng. Bên trong không có ai. Bà Oanh điếng hồn: 

- Nó mới đây mà! 

Lục lạo khắp nơi trong phòng vẫn không hề thấy bóng dáng của Hồng Hạnh đâu, bà Oanh khóc òa lên, sợ hãi: 

- Không xong rồi Thạnh ơi, em con nó... nó không xong rồi! 

Bà không còn đủ bình tĩnh nữa, người như sắp ngã nếu không vịn vào vai con trai. Thạnh phải trấn an: 

- Chuyện gì má cũng bình tĩnh đã. Giờ này con Hạnh làm sao đi đâu được, trong khi cửa cổng vẫn còn đóng kín thế kia. Mà má thừa biết, nó xưa nay nhát, có dám ra khỏi nhà một mình vào ban đêm đâu. Để con... 

Thạnh soi đèn tìm khắp chung quanh sân vườn. Đến khi tới chỗ rào gần cổng, anh phát hiện một vạt áo phụ nữ mà nếu nhớ không lầm thì đó chính là vạt áo của Hồng Hạnh! 

Sợ mẹ lo, nên lát sau trở vào nhà Thạnh chỉ nói: 

- Chắc là do quẫn trí nó đi đâu đó, để con tìm. 

Nhìn đồng hồ thấy mới bốn giờ sáng, Thạnh cũng bắt đầu lo. Tuy nhiên, anh vẫn phải trấn an bà mẹ: 

- Mẹ đi ngủ đi, để con gọi điện thoại hỏi thăm. Con sẽ nhờ cả cảnh sát nữa. 

Nhưng bà Oanh đã hoàn toàn suy sụp, bà ngã xuống ghế sa lông, mặt mày tái xanh, hơi thở yếu dần... Thạnh hốt hoảng lo cứu chữa cho mẹ mình, nên anh không để ý vừa có một bóng người thoát ra từ cửa sổ phòng của Hạnh. 

Bàng hoàng khi tỉnh lại, thấy mình nằm trong căn phòng tân hôn nhà chồng, Hồng Hạnh lạnh toát mồ hôi, cô kêu lên: 

- Sao tôi lại... 

Biết trong nhà không có ai. Kể từ khi Tân chết, rồi bà Hiệp Phát qua đời và cô bỏ về nhà cha mẹ ruột, thì ngôi nhà này tạm đóng cửa, không người ở. Nhưng Hồng Hạnh vẫn cố lên tiếng lần nữa: 

- Có ai trong nhà không? 

Tất nhiên là chẳng có một ai. Mọi vật trong phòng vẫn cứ giữ nguyên. Những món quà cưới vẫn còn chất chồng ở trên bàn phấn và cả chiếc áo cưới Hạnh cởi ra để trên giường ngủ vẫn còn y chỗ cũ, chứng tỏ từ sau cái đêm kinh hoàng đó chẳng có một ai bước vào phòng này. 

Bật ra khỏi giường, Hạnh nhớ lại chuyện mới xảy ra, việc xuất hiện kỳ lạ của người tên Tuyết Thu, rồi những câu nói khó hiểu từ cô ta và nhất là việc tự nhiên biến mất của cô ả, rồi sau đó mấy giây là Hạnh đã hoa mắt, gian phòng tối sầm và cô chẳng còn biết gì nữa, cho đến lúc này... 

- Ai đã đưa mình tới đây? Chắc chắn là mình không thể tự đi. Hay là... 

Hồng Hạnh không dám suy nghĩ thêm, cô ngồi thừ người trên ghế, nhìn khắp gian phòng một lượt, rồi bỗng chợt nhớ tới bà mẹ chồng, Hạnh kêu lên khẽ: 

- Bà ấy... 

Tự dưng Hạnh muốn bước sang phòng bà Hiệp Phát. 

Cũng chẳng biết do sự thúc đẩy nào, chớ làm sao một ngườt nhút nhát như Hạnh lại dám có ý nghĩ táo bạo như vậy. Gian nhà rộng, trống vắng đến rợn người, vậy mà Hồng Hạnh vẫn bình thản một mình tiến về phía phòng riêng của bà mẹ chồng. Cửa phòng không khóa, bên trong đèn vẫn còn sáng. Có lẽ hôm xảy ra sự cố đến nay vẫn còn y nguyên vậy... 

Đẩy nhẹ cửa phòng, vừa bước vào Hồng Hạnh đã chú ý ngay tới một bức ảnh treo trên tường, trong ảnh có ba người, người ngồi là bà Hiệp Phát, còn một trong hai người đứng sau lưng bà là Tấn. Cạnh Tấn Ià một phụ nữ trẻ, rất đẹp, mà chỉ cần nửa giây là Hạnh nhớ ra ngay, cô kêu lên thảng thốt: 

- Cô ta! 

Người trong ảnh chính là... Tuyết Thu! 

- Như thế này là sao? Tuyết Thu là gì trong nhà này? Phải chăng... 

Trong đầu Hạnh vừa lóe lên một thắc mắc mà từ khi yêu Tấn, nhận lời làm đám cưới với anh, cô chưa hề nghĩ đến. Cô hoàn toàn không tin rằng Tấn đã có người con gái nào khác trước khi yêu và cưới mình. Bởi vậy giờ đây đứng trước bức ảnh lạ lùng này, Hạnh như người từ trên trời rơi xuống, cô ngẩn người khá lâu rồi mới tiến sát đến chỗ treo khung ảnh. Trong ảnh thì cả ba người rất tươi và hớn hở. Có lẽ ảnh chụp gần đây thôi, bởi gương mặt Tấn trong ảnh vẫn không có gì khác so với bây giờ. Và Tuyết Thu cũng thế, vẫn đôi mắt sắc như dao, nụ cười nhẹ đầy sức quyến rũ đó... 

- Phải chăng họ là... 

Đó là câu hỏi mà chỉ trong vòng vài mươi giây đã hiện lên trong đầu của Hạnh. Cô đi từ trạng thái ưu tư, lo lắng, thắc mắc, rồi cuối cùng quyết tâm khám phá cho bằng được! 

Từ ngày yêu Tấn rồi đám cưới, chưa bao giờ Hồng Hạnh bước vào phòng mẹ chồng, và nghe nói cuộc sống trong nhà này khép kín đến đỗi những người ăn kẻ làm ít người chịu nổi và làm lâu. Bà Hiệp Phát cực kỳ độc đoán, kỳ thị giàu nghèo, nên hầu hết người giúp việc đều bị cấm không bao giờ được bước vào khu vực riêng tư của chủ. Hạnh tưởng tượng, nếu không có biến cố vừa rồi thì chẳng biết cô chịu đựng bao lâu với bà mẹ chồng như vậy. 

Do không còn ngại ai khác dòm ngó, nên Hạnh yên tâm bắt đầu khám phá từng phần những gì cô thấy trước mặt. Đầu tiên là tủ quần áo, cô không hề chủ tâm tìm tiền bạc, nữ trang hay bất cứ vật gì quý giá, mà mục tiêu duy nhất của Hạnh là những gì có thể nói lên sự liên hệ của người phụ nữ tên Tuyết Thu kia! 

Và không khó lắm để Hạnh tìm ra một chiếc hộp gỗ bằng sơn mài khá đẹp. Thường các người có của hay dùng những chiếc hộp như thế để dựng những đồ vật riêng tư, quý giá. Mà ở đây ngay khi mở nắp ra Hồng Hạnh đã gặp ngay vật mình cần tìm: Một xấp ảnh khác chụp giữa Tấn và Tuyết Thu. Đây hẳn là những ngày hạnh phúc nhất của họ, bởi hầu hết mấy chục tấm ảnh đều chụp ở những thắng cảnh nổi tiếng, có cả vài bức chụp chân dung họ theo kiểu... vợ chồng. 

Máu nóng trong người Hồng Hạnh bắt đầu sục sôi, cô cố nén lắm mới có thể tiếp tục xem tiếp những ảnh và giấy tờ khác còn lại. Trong số này có một lá thư đề ngày cách đó khá lâu, chữ viết của phụ nữ. Thư của Tuyết Thu! Chẳng thể dừng được, Hồng Hạnh bóc lá thư ra xem. Một sự thật khiến tim cô đau nhói! Trong thư, Tuyết Thu gửi cho bà Hiệp Phát với lời lẽ khá nặng nề, mà qua đó Hạnh hiểu được rằng Tuyết Thu từng là vợ của Tấn. Họ yêu nhau nhiều năm và đã về sống chung với nhau khá lâu như vợ chồng, cho đến một ngày chính bà mẹ chồng đã can thiệp vào để chia rẽ, dẫn tới chuyện Tấn bỏ về nhà mẹ, trong khi Tuyết Thu bơ vơ nơi một xứ lạ nào đó... 

Một đoạn trong lá thư có nội dung: “Rồi bà sẽ nhận ra hậu quả của ngày hôm nay nó là thế nào! Tôi nguyền rủa bà, rồi dòng máu trực hệ của bà nó sẽ hận bà và... chuyện gì đó ắt bà biết rồi!”. 

Đặt lá thư xuống, Hạnh suy nghĩ mãi vẫn chưa hiểu hết. Tại sao qua những tấm ảnh thì họ vô cùng hạnh phúc, nhưng với lá thư thì lại hoàn toàn trái ngược! Phải chăng... 

Có một bưu thiếp đóng dấu từ nước ngoài gửi cho Tấn. Nhìn mặt sau Hạnh hiểu là của Tuyết Thu gửi. Nội dung ngắn gọn: “Nếu anh không qua thì chúng ta không bao giờ gặp nhau nữa!” 

- Thế này là thế nào? Tại sao bưu thiếp gửi cho Tấn mà lại nằm trong hộp riêng của bà Hiệp Phát? 

Chỉ cần động não một chút là Hồng Hạnh hiểu ngay. Như vậy có nghĩa là khi bưu thiếp gửi về đây, thay vì đưa cho Tấn, bà Hiệp Phát đã giữ lại. Cũng có nghĩa là bà ta muốn chia cắt tình yêu giữa Tấn và Tuyết Thu! 

- Thảo nào... 

Hạnh lẩm bẩm: 

- Cô ta cũng là nạn nhân... 

Ở một bưu thiếp khác, Hạnh đọc được: “Em đi đây, hẹn gặp lại nơi mà chúng ta từng hẹn! Tuyết Thu”. 

- Thì ra là như vậy. Tuyết Thu bị bức phải rời xa người mình yêu để rồi... 

Chợt Hồng Hạnh kêu Iên. 

- Cô ta chết chăng? Có thể lắm. Và cũng có thể... 

Bỗng dưng Hạnh run lên, tay đang cầm lá thư phải để rơi xuống đất. Xâu chuỗi lại những việc đã xảy ra, Hạnh lẩm bẩm: 

- Cô ta là ma! 

Vừa lúc đó, bỗng có những tiếng động rất lạ trên lầu. Giống như ai đó đóng cửa! Chỉ kịp cho vội chiếc hộp trở về chỗ cũ Hạnh hấp tấp rời khỏi phòng. Nhưng khi ra đến bên ngoài thì cô bối rối. Bởi cổng khóa chặt, mà cô thì không có chìa khóa! 

Cũng chẳng còn thì giờ để thắc mắc lúc tới đây mình vào bằng cách nào Hồng Hạnh chỉ còn biết vừa lo sợ vừa muốn kêu to lên, nhưng có lẽ do quá căng thẳng nên nhất thời không thể thốt được tiếng nào. Bỗng Hạnh giật mình, bởi cánh cổng tự dưng như có người mở ra. Mà tuyệt nhiên không thấy ai ở đó. Hạnh nhắm mắt lao đại ra khỏi cổng, rồi cứ thế cô chạy và chạy... trước sự ngạc nhiên của mọi người bên đường. Cũng chẳng biết về tới nhà lúc nào, cho đến khi người trong nhà phát hiện Hạnh nằm ngất ở ngay cửa nhà mình. 

Thấy con trở về, bà Oanh mừng khôn xiết, bà giục người gọi bác sĩ tới. Sau khi khám, vị bác sĩ thân quen của gia đình đã lắc đầu: 

- Sao bà để cháu nó suy nhược quá, người chẳng còn chút sinh lực nào mà hình như là không ăn uống gì từ mấy hôm rồi. 

Bà Oanh không muốn tiết lộ chuyện kỳ lạ đã xảy ra trong nhà cho nên nhanh chóng đưa bác sĩ về. Rồi suốt đêm đó, bà hầu như túc trực bên con gái và Hạnh thì vẫn mê man không tỉnh. 

Mãi đến khi mặt trời bên ngoài ló dạng thì Hạnh mới mở mắt ra. Nhìn thấy mẹ, cô khóc òa không nói được gì. Bà Oanh ôm con vào lòng hỏi nhỏ: 

- Sao con đến nông nỗi này? Đêm qua... 

Hồng Hạnh ôm mặt, như không muốn nghe câu hỏi đó. Rồi cô bật dậy chạy về phòng mình và đóng cửa lại. Bà Oanh phải năn nỉ mãi cô mới nói vọng ra: 

- Má để cho con yên, con muốn ngủ một giấc. 

Tuy lo lắng nhưng bà Oanh cũng chiều con, bà chỉ biết kéo chiếc ghế và ngồi ngay cửa ra vào, ý muốn canh cho con ngủ. Tội nghiệp cho bà mẹ già đã đau khổ, khóc lóc suốt đêm sau khi Hạnh đột ngột biến mất, giờ lại phải ngồi trong tâm trạng âu lo và mỏi mệt. Cho đến khi Thạnh từ ngoài bước vào, anh nhìn thấy mẹ ngủ gà ngủ gật như vậy và không biết chuyện em gái mình đã trở về, anh càu nhàu: 

- Con nhỏ này, không biết còn làm khổ bà già đến khi nào mới chịu thôi đây! 

Lời anh vừa dứt thì bỗng nghe từ trong phòng Hạnh có một tiếng thét giống như người bị bóp cổ. Hốt hoảng, Thạnh tung mạnh cửa phòng và càng kinh hãi hơn khi nhìn thấy em gái mình đang treo lơ lửng trên trần nhà! 

- Hạnh! 

Nhờ có sức và phản xạ nhanh, nên chỉ trong nháy mắt Thạnh đã nhảy được lên giường, đỡ hai chân Hạnh lên và gỡ được cổ cô nàng ra khỏi sợi dây thòng lọng. Hạnh còn thở, chứng tỏ việc chỉ mới xảy ra. 

- Sao vậy em? 

Nhận ra anh trai mình, Hồng Hạnh bám chặt lấy sợ hãi: 

- Đừng để họ bắt em đi! 

Thạnh ngạc nhiên: 

- Ai bắt em? 

- Đừng hỏi, em sợ lắm. 

Thạnh nhìn lên sợi dây treo cổ lúc nãy và anh kêu lên: 

- Nó đâu rồi? 

Sợi dây mới đó đã biến mất. Thạnh nghĩ có thể nó rơi trên sàn sau khi Hồng Hạnh được đưa xuống, nhưng nhìn thật kỹ hầu như khắp phòng, không hề có sợi dây nào! 

- Ai đã treo cổ em, hay tự em. 

Hạnh lại ngăn không cho anh mình hỏi: 

- Đừng hỏi, nếu anh còn muốn em sống... 

Nhìn thái độ quá sợ hãi của em gái, Thạnh không dám hỏi thêm, nhưng sau khi nhìn cổ Hạnh, Thạnh phải hỏi to: 

- Em bị ai cắn cổ phải không? 

Ở cổ Hạnh có hai dấu răng còn rướm máu, và vết hằn sâu của cái vòng thắt cổ. Thạnh chợt hiểu, anh lặng người đi và nghe mồ hôi tuôn chảy khắp thân thể...

Thật tình thì Thạnh không hề muốn vướng vào chuyện rắc rối này. Tuy nhiên, suốt mấy ngày đêm nhìn cảnh em gái mình cứ hết sốt cao lại lạnh cóng tay chân và cứ liên tục mê sảng, kêu la, thì lòng dạ Thạnh rối bời. Cuối cùng, Thạnh quyết định làm một việc mà xưa nay anh không bao giờ nghĩ tới: Đi tìm hồn ma đang ám Hồng Hạnh! 

Số là trong những khi mê sảng Hạnh thường gọi tên một người là Tuyết Thu, rồi sau đó lại lảm nhảm kể về những gì mình nhìn thấy ở nhà mẹ chồng. Do vậy, Thạnh nghĩ mọi chuyện xuất phát từ nhà chồng của Hạnh. Nên tối hôm đó, Thạnh đã một mình tìm đến ngôi nhà đang bỏ hoang ấy. 

Thật tình mà nói, từ lúc Hồng Hạnh nhận lời về làm dâu nhà đó, chưa bao giờ Thạnh nghĩ có ngày mình sẽ đặt chân đến đó. Bởi ngay từ buổi đầu, khi chạm mặt bà mẹ chồng của Hạnh, Thạnh đã không có cảm tình, hay nói đúng hơn là anh có ác cảm với bà ta. Chỉ biết lơ mơ bà ta đã chết, chớ Thạnh không ngờ bà ta và con trai chết rồi bỏ lại một cơ ngơi đồ sộ như thế này. Bởi vậy lúc lọt vào nhà xong, Thạnh mới giật mình lo lắng. Lỡ ai bắt gặp anh một mình đột nhập vào đây thì họ đâu nghĩ gì khác ngoài việc khẳng định anh là kẻ gian, vào nhà vắng chủ với ý đồ đen tối! 

Vốn là người chưa từng biết sợ bất cứ tà ma quỷ quái gì, nhưng phải thú thật, mới vừa đặt chân vào nhà, Thạnh đã rùng mình lạnh gáy. Cũng chưa hề được em gái kể về những gì đã trải qua ở đây, nhưng khi nhìn vào từng căn phòng, Thạnh lại có cảm giác rờn rợn... 

Vô tình anh lại lọt đúng vào phòng của bà Hiệp Phát. Những gì do Hạnh bới tung ra vẫn còn bừa bộn đó, và đặc biệt hơn là một bộ quần áo con gái màu hồng phấn treo lơ lửng giữa phòng, như cách người ta phơi sau khi giặt. Thạnh buột miệng: 

- Con gái gì vô ý vô tứ, quần áo treo giữa phòng mà coi được! 

Anh thuận tay kéo nó xuống và... như có một dòng điện chạy xuyên qua người khiến Thạnh rụt tay lại, hốt hoảng: 

- Có điện! 

Anh nghĩ điện có trong quần áo nên ngẩn người ra: 

- Điện sao lại…

Anh chưa nghĩ hết ý thì đã bị chiếc ống quần quất mạnh vào mặt đau điếng, như bị ai đó đánh bằng roi điện! 

Không thể tin được điều kỳ lạ ấy, nên Thạnh chỉ bước lùi ra một chút, đưa mắt nhìn kỹ bộ quần áo. Nó cũng giống như bao bộ trang phục phụ nữ khác, không hề có biểu hiện gì khác thường. Nhớ lại lời dặn của nhà sư Chơn Tánh, trụ trì chùa Giác Đức, nơi Thạnh vẫn thường lui tới để tập thiền: 

“Đối với những gì người đời gọi là quỷ ma, thì cách trừ khử hiệu quả nhất là dùng chính vật mà anh có cảm giác do ma chạm vào anh, để đối phó lại nó!”, Thạnh không nghĩ ngợi thêm, đã lột phăng chiếc quần đang mặc, quơ lên và cho chạm vào bộ quần áo đang treo lơ lửng kia. 

Lạ lùng thay, lần chạm này Thạnh không hề cảm thấy gì. Để thử nghiệm lại, Thạnh lặp lại bằng tay không thì y như lần đầu, anh cảm giác như vừa chạm vào dòng điện cực mạnh! 

Không dám xem thường nữa, Thạnh tiếp tục dùng chiếc quần của mình quất mạnh vào bộ đồ, và chỉ mấy giây sau nguyên cả bộ đồ đã bị kéo rơi xuống đất. Vừa thoáng thấy có dòng chữ viết trên ngực áo của bộ đồ kia, Thạnh cúi xuống đọc và giật bắn người kêu lên: 

- Tên tuổi của Hồng Hạnh! 

Thì ra ai đó đã ghi cả họ tên, tuổi của em gái anh. Thạnh bàng hoàng: 

- Họ yểm hồn con Hạnh! 

Đã từng nghe người ta nói chuyện muốn hại ai đó thì không cần giáp mặt, cứ lấy đồ người đó từng mặc, rồi viết tên tuổi lên và treo hay băm nát thì người bị hại sẽ chết ngạt như đang bị treo cổ hoặc đau đớn đến mạng vong, chẳng khác như đang bị ai đó phanh thây muôn mảnh. Nay chợt nhớ lại, Thạnh kêu lên: 

- Hạnh nó bị treo cổ bữa đó là bởi bộ đồ này đây. 

Anh tự tin hơn, nên tiện tay cuốn bộ đồ lại, cầm theo. Không có chuyện gì xảy ra sau đó. Và suốt cả buổi ấy, lúc Thạnh lục lạo khắp nơi, anh cũng không gặp phản ứng gì. Cho đến lúc anh rời nơi đó thì nghe phía sau lưng anh có tiếng người gào thét đầy giận dữ. Đáng lý phải dừng lại xem người vừa gào là ai, tự dưng anh như bị sức mạnh vô hình nào đó xô đẩy Thạnh đi nhanh ra khỏi nhà. 

Rồi chỉ phút chốc, Thạnh trở về nhà lúc nào không hay. Đến khi anh bước tới cửa phòng mẹ thì nghe từ trong đó có tiếng rất lạ của một người đàn bà lớn tuổi: 

- Nó chỉ nhằm vào tôi thôi, nhưng khi nhìn thấy con Hồng Hạnh cặp tay thằng Tấn hạnh phúc trong ngày cưới thì nó lại trút bao căm hờn lên đầu con Hạnh. Tôi chết rồi, nay nó quyết giết luôn kẻ mà nó cho là cướp hạnh phúc của nó! 

Thạnh bước vào thì thấy người đang nói là mẹ mình, nhưng giọng là giọng của người khác. Anh chưa kịp hỏi thì Hồng Hạnh ngồi ở một góc đã lên tiếng: 

- Mẹ chồng em nhập hồn vào má và nói những điều bí ẩn của nhà bà ta. 

Giọng nói lại hướng về phía Thạnh: 

- Vừa rồi cậu liều lĩnh đột nhập vào đó vô tình lại hay. Cậu đã làm cho hồn ma con đó hoảng sợ. Giờ nó đã trốn rồi. Tuy nhiên, đây chỉ mới tạm thời thôi, rồi nó sẽ trở lại, Hồng Hạnh còn chưa qua được nạn. 

Rồi bà chợt khóc òa lên, giọng nghẹn ngào theo từng tiếng nấc: 

- Chính tôi đã gây ra họa này. Ngày trước vì nghĩ con Tuyết Thu mang thai đứa con trong bụng không phải là giọt máu của thằng Tấn, nên tôi mới xúi con mình bỏ rơi nó lúc nó đang du học ở nước ngoài. Tuyết Thu uất hận nên tự tử chết, mang theo cả đứa hài nhi trong bụng. Tôi đâu ngờ chuyện ấy xảy ra, nên cưới vợ khác cho con mình. Giờ đây để mình tôi nhận những gì tôi đã gây ra. Các người hãy dẫn nhau đi đi. Đi tìm nơi nào tà ma không dám phạm tới mà tạm lánh thân. Khi nào yên thì hãy quay về. Nhanh lên. 

Hồng Hạnh cũng giục: 

- Ta đi nhanh lên anh! 

Thạnh nắm tay cả em gái và mẹ mình kéo đi, thì bà Oanh ghì lại, miệng la bai bải: 

- Ta phải ở lại đây chờ nó! Hãy đi đi! 

Hạnh hiểu sự việc hơn, cô nói khẽ với anh: 

- Xác là của má, nhưng giờ đây hồn là của mẹ chồng em, hãy nghe lời bà ấy! 

Không đành lòng bước đi, nhưng một lần nữa Thạnh như bị ai đó xô mạnh, anh chạy đi, lôi theo em gái. Thạnh nghĩ tới chùa Giác Đức, anh bảo Hạnh: 

- Mình tới cửa chùa, nơi đó sẽ an toàn hơn! 

Đang ngủ ngon giấc, bỗng Thạnh giật mình choàng dậy, bên tai anh vẫn còn văng vẳng tiếng gọi: 

- Về đi, má không sao rồi. 

Thạnh bước sang gọi em gái đang ngủ ở phòng khác ở phía sau chùa, Hồng Hạnh vừa mừng vừa lo: 

- Suốt đêm rồi em không ngủ được vì cứ lo cho má ở nhà. Vừa rồi em cũng nghe má gọi như vậy, chẳng biết lành dữ đây nữa! 

Hai anh em lên báo với sư Chơn Tánh, ông gật đầu bảo: 

- Ta cũng thấy là ổn rồi. Các con cứ về rước bà cụ, hãy đưa về đây cho bà cụ nghĩ dưỡng vài hôm. 

Anh em Hạnh về tới nhà, lúc đó mới rạng sáng nhưng đã thấy đèn trong nhà sáng choang. Họ lo lắng chạy bay vào thì thấy mẹ đang ngồi ở phòng khách, sắc mặt tươi tỉnh. 

- Má! Má có sao không? 

Hạnh vừa hỏi vừa sà vào lòng mẹ mình. Thạnh cũng bước tới nhưng chưa dám chạm vào mẹ. Bà Oanh hiểu ý, cười nói rất tự nhiên: 

- Bây giờ là má, chớ không còn là bà Hiệp Phát đâu! 

Nghe giọng của chính mẹ mình, hai anh em reo lên: 

- Đúng là thoát rồi! 

Chỉ tay về một cái hộp đặt trên bàn, bà Oanh bảo: 

- Hãy đưa bà mẹ chồng con vào chùa. Đó là hài cốt... 

Hạnh còn đang ngơ ngác thì bà Oanh giải thích: 

- Các con đi chưa được bao lâu thì nó đến. Oan hồn của con Tuyết Thu tới cùng với giọt máu uổng tử của nó cùng tới. Nó hung hăng lắm, nhưng sau khi nghe bà Hiệp Phát nói gì đó, cô ấy bỗng dịu lại và chỉ chiếu đôi mắt như hai bóng đèn pha vào thẳng bà mẹ chồng, vía của má nghe bà ấy thét lên một tiếng rồi thì mọi sự im bặt. Lúc má mở mắt ra thì đã thấy cái hộp này nằm đây rồi. Trên nắp hộp có ghi: “Ta tha cho bà ấy còn được hài cốt, hãy đưa bà ấy đi thật xa, như thế ta mới yên tâm rời nơi đây vĩnh viễn!” 

Bà Oanh ngừng nói một lúc, rồi tiếp lời: 

- Hình như trong chế giới âm cảnh họ cũng có cái luật riêng. Mà một khi đã nói là họ làm đúng. Má thấy từ lúc hồn Tuyết Thu bỏ đi rồi thì không khí không còn ngột ngạt nữa. Nó đã giữ đúng lời hứa với bà Hiệp Phát. 

Hồng Hạnh dè dặt hỏi: 

- Má có nghe lúc hai người nói chuyện họ đã nói gì không, mà sao Tuyết Thu chịu buông tha chúng ta? 

Bà Oanh gật đầu: 

- Má nhớ rồi, cái vía má lúc đó nghe được chính bà mẹ chồng con nói rằng bà sẽ đi kiện việc lạm sát của hồn ma Tuyết Thu. Bà nói trong việc này chỉ mình bà đền tội là đủ rồi, tại sao còn hại thêm con là người vô can? 

Hồng Hạnh giật mình: 

- Đi kiện, mà kiện ai? 

- Má nghe bà Hiệp Phát nói khi đi vào cõi âm thì bà mới biết cũng có những nơi để khiếu kiện những oan sai. Và hình như bà nói ra đúng nơi mà oan hồn của Tuyết Thu rất sợ. Má nghe cô ấy kêu lên sợ hãi, rồi cuối cùng đã chịu phép khi bảo với bà Hiệp Phát rằng cô ấy thôi không theo báo oán nữa. 

Thạnh và Hồng Hạnh thở phào nhẹ nhõm: 

- Làm tụi con hết hồn. Thôi, mình hãy mau đưa cái hộp hài cốt này vào chùa. Sư Chơn Tánh cũng có mời má tới đó nghỉ dưỡng. Tụi con thấy má nên đi ít hôm. Thiền môn là nơi ma quỷ không dám bén mảng tới, như thế má sẽ yên tâm hơn. 

Đích thân Hạnh bước tới ôm cái hộp hài cốt lên, cô ngạc nhiên khi cảm thấy nó quá nhẹ, không có vẻ gì có hài cốt bên trong, nên lên tiếng hỏi: 

- Sao như không có gì bên trong hết? 

Bà Oanh nói thật khẽ: 

- Theo má biết thì trong đó chỉ có mỗi bộ quần áo đàn bà mà thằng Thạnh mang về đêm qua. 

Thạnh kêu lên: 

- Bộ quần áo đề tên con Hạnh. 

Anh thuật lại chuyện mình gặp phải lúc đột nhập vào nhà bà Hiệp Phát, rồi kết luận: 

- Đây là vật mà hồn ma Tuyết Thu đã dùng để hại em Hạnh. 

Trong lúc Hồng Hạnh tái xanh mặt mày thì bà Oanh nhẹ giọng nói: 

- Má cũng có nghe hồn bà Hiệp Phát nói điều đó, nhưng sau khi bà dọa cho Tuyết Thu chịu nghe, thì chính bà đã nói với má rằng bộ đồ đó giờ đây là vật chứa hồn phách của chính Tuyết Thu. Đem hồn phách bị nhốt của nó vào chùa gửi trong đó thì khác nào giam cầm nó mãi mãi. Và biết đâu trong cảnh thanh tịnh, ngày ngày nghe kinh Phật thì dù là hồn ma cũng có thể được cảm hóa... 

Đồng tình với cách nhận xét của mẹ, anh em Thạnh tức tốc đưa mẹ và cả chiếc hộp đi theo vào chùa Giác Đức.

NGƯỜI CHỒNG CÕI ÂM 

Phần 1

Mụ chủ quán bar bực bội lắm suốt từ nãy đến giờ, nhưng do quán còn nhiều khách, nên mụ ta chưa nổi cơn tam bành. Đợi cho đợt khách khá đông rút khỏi quán, mụ gọi ngay tay quản lý vào trong và trợn mắt với anh ta: 

- Nãy giờ sao chưa tống cổ thằng ôn hoàng đó ra, còn để nó ngồi đó làm kiểng hay sao vậy? 

Tay quản lý Tám nhún vai: 

- Em mời nó ra ba lần rồi, nhưng nó móc một xấp tiền ra dằn lên bàn, hỏi bộ sợ nó không có tiền trả sao không bán. Mà chẳng hiểu sao thằng ấy lại có nhiều tiền quá chị Lệ? 

Mụ chủ Mỹ Lệ nghe nói tới tiền thì sáng mắt lên: 

- Nhiều đến cỡ nào? 

- Em thấy cả cọc dày, toàn giấy lớn, có đến nhiều triệu. 

Bà chủ Mỹ Lệ hơi dịu giọng: 

- Thấy nó ngồi uống rượu như uống nước, tao sợ nó quậy quán mình. Nhưng sao nhiều tiền mà nó chỉ ngồi một mình, không kêu em nào hết vậy? 

Quản lý Tám lắc đầu: 

- Em có hỏi, nhưng nó bảo không cần! Nhưng hình như nó đợi... 

- Đợi ai? 

- Con Thiên Nga! 

Mụ chủ giật mình: 

- Nó là khách của con Thiên Nga sao? 

- Hình như là vậy. Nhưng hồi nào giờ có thấy nó tới đây đâu mà là khách của con Thiên Nga? Hay là...

Mụ Mỹ Lệ kêu lên: 

- Đúng rồi! Nó là thằng người yêu hay là chồng gì đó của Thiên Nga! Vậy thì dù nó có bao nhiêu tiền mày cũng tống cổ nó ra mau! 

- Nhưng nó đã quyết ngồi lì rồi. Em thấy nó có lận vật gì trong lưng... 

Mụ Mỹ Lệ hạ thấp giọng: 

- Mày không nhớ là tối nay Thiên Nga có hẹn tiếp bàn khách của ngài Rôbe sao? Để nó ở đây lát nữa thế nào cũng sinh giặc cho coi! 

Quản lý Tám đành phải trở ra ngoài, anh lại thì thầm với hai tên đàn em làm nhiệm vụ bảo vệ, ngay sau đó hai tên ấy bước tới nói gì đó với người khách đang ngồi uống một mình ở chiếc bàn trong góc tận cùng. Chẳng hiểu cuộc nói chuyện ra sao, chỉ thấy người khách bất thần tung chân đạp đổ một lúc hai chiếc ghế, rồi anh ta đứng dậy quát lớn: 

- Kêu chủ quán ra đây! 

Quản lý Tám phải xuất hiện. Sau vài câu phân trần, anh chàng vẫn hung hăng: 

- Các người khinh người quá đáng, tôi uống là trả tiền sòng phẳng, việc gì đuổi tới đuổi lui thế này? 

Tám cố giải thích: 

- Không phải đuổi, chỉ là người anh đợi bữa nay không tới. Cô ấy nghỉ bán... 

Khách lại ngồi xuống: 

- Gọi chủ quán ra đây. 

- Chủ quán đi vắng. 

Anh ta quát càng to hơn: 

- Gọi mụ Mỹ Lệ ra đây. 

Một số khách chơi thấy không khí căng thẳng đã bỏ về. Thấy không ổn mụ Mỹ Lệ xuất hiện ngay. 

- Tôi đây. Anh cần gì? 

Người khách không nhìn mụ Mỹ Lệ, anh ta từ từ mở nút áo ngực ra, rồi bất thần bung cả phần ngực ngay trước mặt mụ Mỹ Lệ. 

- Trời ơi! Thằng... thằng... Một. 

Mụ nhận ra khách ở hình xăm hình con cá sấu nhe răng chiếm nguyên mảng ngực của anh chàng! Hình xăm lạ và hiếm thấy. 

- Mày... mày đã... 

Trong lúc mụ ta vừa nói vừa lùi lại như muốn bỏ chạy, thì người khách đanh giọng: 

- Mụ đứng lại đó! 

Bà Mỹ Lệ riu ríu làm theo bởi hồn phách mụ ta đã bay mất hết. Với mụ ta thì khách là hiện thân của ác quỷ, của hung thần. 

- Nói cho tôi biết Thiên Nga đâu? 

- Dạ... dạ... 

- Tao không ưa cái giọng giả dối đó. Nói mau, Thiên Nga đâu, gọi ra đây cho tao. 

Quản lý Tám đỡ hộ chủ: 

- Để em đi gọi. Anh chờ hơi lâu, bởi cô Thiên Nga hiện không có ở quán. 

- Tao biểu gọi ra đây! 

Vừa khi ấy có người lên tiếng từ phía cầu thang lên lầu: 

- Tôi đây. Ai cần gặp tôi mà không chút lịch sự nào hết vậy? 

Một cô gái đẹp lộng lẫy vừa bước xuống đã nghe nhiều tiếng xì xầm: 

- Cô Thiên Nga xuất hiện chi lúc này, lại có rắc rối to cho coi! 

Hình như nãy giờ nghe ồn ào, chứ Thiên Nga chưa nhìn thấy mặt người khách, cho nên khi vừa chạm mặt thì cô nàng đứng sững lại, há hốc mồm: 

- Anh... anh... 

Rồi muốn lùi lại, nhưng đôi chân cô ta lúc đó như bị đóng chặt xuống sàn nhà. Anh chàng khách ngửa mặt lên trời, cất một tràng cười mà bất cứ ai nghe cũng phải lạnh lưng! Cười xong, anh ta lại sa sầm nét mặt: 

- Ngồi xuống đây! 

Như một mệnh lệnh của tử thần, Thiên Nga riu ríu ngồi xuống mà người vẫn còn run. Quản lý Tám và mấy tên đàn em thấy thế, chúng lập công với bà chủ và với cô hoa khôi của quán, nguồn thu vô tận của bà Mỹ Lệ, nên đồng hè nhau tấn công lén từ phía sau bằng ghế và chai bia! 

Bụp! 

Ầm! 

Những âm thanh vang lên chát tai, rung chuyển cả quán. Ai cũng tưởng người khách đã là nạn nhân thê thảm dưới bàn tay côn đồ của mấy gã kia. Nào ngờ khi nhìn lại thì họ mới sửng sốt khi thấy ba người nằm sóng soài trên sàn nhà, đồ đạc đổ ngổn ngang. Mà người khách thì vẫn ngồi nghênh ngang ở ghế! Anh ta gằn giọng: 

- Còn thằng nào muốn chết nữa thì nhào vô! 

Bà Mỹ Lệ sợ lắm, nhưng trong tình thế này bà ta phải cố giàn xếp cho yên, để còn tiếp khách, nên run run giọng nói: 

- Cậu Một, tôi xin cậu, tôi lạy cậu. Có gì thì cậu từ từ giải quyết. Hay là cậu cứ đi ra ngoài trước rồi tôi khuyên con Thiên Nga ra theo cho cậu... 

Bà ta nhận được một tiếng quát như sấm: 

- Nhiều lời quá! 

Rồi anh ta thuận chân lại tung thêm mấy cú đá nữa, lần này thì hầu như tất cả bàn ghế ở gần đó đều ngã, gãy ngổn ngang. Anh chàng tên Một đứng bật dậy, ra lệnh: 

- Đi theo tao. 

Tưởng chỉ mình Thiên Nga phải theo lệnh, không ngờ khi bà Mỹ Lệ còn lưỡng lự thì đã bị hắn túm lấy tóc xách cao lên: 

- Đi! 

Hai tay xách hai người nặng ngót trăm ký, vậy mà hắn bước đi như bay, không vượt qua cửa, mà đi ngược cầu thang lên lầu. Sau khi định thần lại, có người la lên: 

- Mau gọi cảnh sát đi, nó còn trên lầu! 

Lúc ấy quản lý Tám tỉnh lại, anh ta nói: 

- Trên lầu không có lối ra, chắc chắn hắn đưa hai người vô một trong hai phòng, một là phòng bà chủ, hai là phòng cô Thiên Nga! 

Hắn tin chắc phen này khi cảnh sát tới thì tên hung hăng kia sẽ hết đường chạy. Mười phút sau thì xe cảnh sát hụ còi và có đến gần chục cảnh sát võ trang đầy đủ tới nơi. Sau khi nghe tường thuật lại đầy đủ chi tiết, họ hội ý và quyết định tấn công lên lầu. Hầu hết khách được yêu cầu ra hết bên ngoài, ngừa vạ lây. 

Với sự hướng dẫn của quản lý Tám, họ tung cửa phòng bà chủ trước. Không ai trong đó. Rồi đến phòng của Thiên Nga. Do tin chắc tên côn đồ có mặt trong phòng, nên có đến sáu cảnh sát cùng đồng loạt tung cửa và chĩa súng vào. 

- Đứng lên, cử động sẽ bị bắn. 

Nhưng họ tẽn tò nhìn nhau. Bởi trong phòng không hề có ai! Người chỉ huy hỏi: 

- Có đường nào thoát trên này không? 

Quản lý Tám cương quyết: 

- Dạ không! Nhà này có hai tầng thôi, không có sân thượng, mà các cửa sổ đều có song sắt kiên cố, không làm sao nhảy ra được! 

Sau khi xem lại, thấy đúng như lời nói đó, các cảnh sát lắc đầu ngao ngán: 

- Chịu thôi, không còn dấu vết gì thì biết làm thế nào. 

Vừa khi ấy có một bảo vệ kêu lên: 

- Có mấy cái này nè! 

Họ thấy hai bộ quần áo nữ và một mớ tóc dài nằm vắt ngang trên giường ngủ trong phòng Thiên Nga. Quản lý Tám vừa trông thấy đã kêu lên ngay: 

- Quần áo của bà chủ và cô Thiên Nga mặc lúc nãy! 

Rồi anh ta run run giọng: 

- Nguy rồi... thằng khốn đó đã... đã... 

Nhưng các cảnh sát quả quyết: 

- Chỉ mới năm mười phút thì hắn làm được gì! Có thể là hắn lột quần áo họ để họ không tẩu thoát được đó thôi. Biết làm cách này thì chứng tỏ tên này khá chuyên nghiệp đây! 

Quản lý Tám muốn chứng tỏ sự rành chuyện của mình: 

- Tên này xăm một hình xăm lớn giữa ngực, chứng tỏ là dân anh chị đúng nghĩa! Nội nhìn cái hình xăm bà chủ tui đã khiếp vía rồi! Cô Thiên Nga cũng vậy. 

Quan sát kỹ hơn các ngõ ngách lần nữa, các cảnh sát lắc đầu: 

- Thằng này chẳng khác nào quỷ ma, mới đó mà đã biến mất với hai người nữa! Ngoại trừ nó... phi thân! 

Một tên bảo vệ thêm vào: 

- Hắn ta mạnh như voi vậy đó. Hai tay xách hai người mà chạy như bay lên cầu thang. Tui nghĩ nó là... nó là... 

Anh ta định nói, nhưng nhớ mấy đòn đã bị hồi nãy thì bỗng im lặng, rụt cổ. 

Rôbe là một quan chức Pháp quyền uy tột bậc của tỉnh, nên nhà hắn ở đến cả một tiểu đội canh phòng và người phục dịch cũng năm bảy người. Lão ta có một vợ người bản xứ nhỏ hơn lão đến gần phân nửa số tuổi, do được lão cưng chiều hết mức. Nhưng mụ này thuộc loại đanh đá, dữ dằn, suốt ngày cứ canh me, gen tuông với ông chồng Tây già. Bà ta tên Tiên, nhưng thiên hạ ghét nên gọi trại ra thành Tiền: mụ Tiền. 

Hôm đó mụ gọi một người làm thân tín vào phòng riêng trong lúc Rôbe vắng nhà, mở tủ tiền định lấy mớ tiền để riêng, đưa cho đứa người làm này mang về nhà cho mẹ như lệ thường. Bỗng mụ kêu thét lên: 

- Tiền của tao đâu rồi? 

Con sen Hai Thảnh hốt hoảng: 

- Con không biết! Bà kêu, con mới vô đây thôi. 

Giọng chua như giấm của mụ Ba Tiền vẫn oang oang: 

- Tao mới để xấp tiền ở đây hồi tối. Mà trong phòng này chỉ có tao và ổng thôi. À mà ổng, ổng đi đâu sáng sớm nay mới tờ mờ đã đi rồi? 

Mụ ta chợt sờ vào một tờ giấy nhỏ đặt ngay trên xấp quần tây của Rôbe. 

- Gì vậy? 

Mụ cầm lên đọc: “Tiền cho gái có đòi được không? Cứ hỏi cô Thiên Nga sẽ rõ!” 

Như lợn bị chọc tiết, mụ Ba Tiền gào lên: 

- Lấy tiền cho gái, trời ơi! 

Con Hai Thảnh chưa rõ nên hỏi: 

- Ông cho ai hả bà? 

Sẵn cơn thịnh nộ, mụ ta túm lấy con nhỏ ở: 

- Mày biết con Thiên Nga nào đó không? 

Hai Thảnh hốt hoảng: 

- Dạ... dạ không! Em không biết. 

- Vậy ai biết? 

Thấy mụ quá dữ nên Hai Thảnh nói đại: 

- Chắc tài xế của ông biết! 

- Ờ, thằng tài xế! Kêu nó lên đây. 

Hai Thảnh lắc đầu: 

- Dạ, tài xế Ngọc sáng nay lái xe đưa ông đi sớm rồi! 

- Còn đứa nào nữa? Còn mấy đứa... 

Vừa lúc bên ngoài có người lên tiếng: 

- Dạ còn có con! 

Nhìn ra thấy tên cận vệ của Rôbe, mụ Tiền hỏi liền: 

- Mày biết con Thiên Nga? 

Cai Xạo vốn là người cận vệ thường đi theo chủ, anh ta thấy có Hai Thảnh thì hơi ngại: 

- Dạ thưa bà chủ, con chỉ... 

Hiểu ý anh ta, mụ Tiền bảo: 

- Không sao đâu, con Hai Thảnh là tâm phúc của tao. Biết gì nói tao nghe coi! 

Cai Xạo bước tới gần bà, nói như chuyện đại sự: 

- Thiên Nga là con đào số một của quán bar Địa Đàng, nơi mà ông chủ thường lui tới... 

Như bị chạm phải lửa, mụ Tiền nhảy dựng lên: 

- Sao bây giờ mày mới nói! 

Cai Xạo làm bộ ngây thơ: 

- Dạ, con tới đó thì chỉ có việc ngồi ngoài xe đợi, ông đi vô trong làm gì con đâu biết được. Chỉ có điều thỉnh thoảng ông chở cô Thiên Nga đó trên xe, biểu con đưa đi suối Xuân Trường ở Thủ Đức ăn nem... 

Mụ Ba Tiền run lên, mụ chụp lấy tên Cai Xạo: 

- Mày đưa tao đi tìm con đó ngay bây giờ. 

Cai Xạo hiểu là mình vừa dấn vào một cuộc phiêu lưu ngu xuẩn! Cũng chỉ vì muốn có vài ngàn tiền boa của mụ chủ. 

- Lẹ lên! 

Mụ kéo tay áo của Cai Xạo đi ngay, trước sự ngỡ ngàng của Hai Thảnh. Nó còn xớ rớ đó thì mụ Tiền quay lại quát: 

- Sao còn không theo để tiếp tao một tay! 

Hai Thảnh phấn khởi chạy theo, bởi nó biết, sau những vụ như vầy thế nào nó cũng được thưởng bằng gấp đôi tiền lương. Nó thầm cám ơn Cai Xạo... 

Vừa tới trước quán bar Địa Đàng mụ ta đã oang oang: 

- Chủ quán đâu. Dẫn con Thiên Nga ra cho tao coi! 

Nhìn thấy cửa quán đóng im ỉm, Cai Xạo ngạc nhiên: 

- Sao bữa nay quán lại đóng cửa? 

Hỏi mấy người xích lô đậu phía trước quán, họ bảo: 

- Quán đóng cửa từ qua tới giờ. 

Mụ Ba Tiền nghiến răng: 

- Chắc là bận đi chơi với thằng cha Rôbe rồi chớ gì! 

Nghe nhắc tới Rôbe anh chàng đạp xích lô hỏi liền: 

- Bà quen ông xếp Rôbe hả? 

Rồi không đợi khách trả Iời, anh ta nói tiếp ngay: 

- Ngày nào ổng hổng tới đây? Ổng là khách ruột của quán và của cô Thiên Nga. 

Nói tới đó chợt anh ta ngừng lại, nhìn bà khách sang trọng mà ái ngại. Mụ Ba Tiền quen giọng quát nạt gia nhân: 

- Nói tiếp. 

Gặp phải anh chàng xích lô ba búa, đâu cần biết bà ta là ai, đã hất hàm hỏi: 

- Bà nói chuyện với ai vậy? 

Mụ đành phải hạ giọng: 

- Tôi... tôi muốn anh nói tiếp cho nghe chuyện con Thiên Nga. 

Đã đoán hiểu phần nào, nên anh ta nói cộc lốc: 

- Không biết. Quán đóng cửa nghỉ rồi. 

- Nhưng... tại sao đóng cửa vậy? 

Lần này tới phiên anh xích lô trợn mắt, lớn tiếng: 

- Quán đóng cửa làm sao tui biết được. 

Hai Thảnh thấy tình hình căng thẳng, liền nhoẻn miệng cười tươi, lấy lòng, nhỏ nhẹ hỏi: 

- Cho em hỏi, sao quán lại đóng cửa vậy anh Hai? 

Nụ cười và lời nói lịch sự đã có hiệu quả ngay: 

- Chủ quán và cả Thiên Nga đều bị mất tích nên còn ai đâu thu hút khách, phải đóng cửa thôi! 

Nghe điều đó mụ Tiền hỏi tới: 

- Sao bị bắt, mà ai bắt? 

Anh chàng xích lô thấy ghét mụ ta nên không thèm trả lời, chỉ nói riêng với Hai Thảnh: 

- Có tay anh chị nào đó giành cô Thiên Nga với ông Tây Rôbe, cuối cùng anh chàng kia thắng, bắt cô nàng đi rồi, lại còn mang luôn bà chủ đi nữa. Thiệt là gan cùng mình! 

Lắng nghe một hồi, biết là ở đó cũng chẳng ích lợi gì, mụ Tiền ra lệnh: 

- Về nhà! 

Trước khi lên xe theo chủ, Hai Thảnh còn kịp nói lại với anh xích lô Ba Thời: 

- Bà ta là vợ lão Rôbe đó, bả đi đánh ghen... hụt! 

Chiếc xe hơi của mụ Tiền là xe tốt, loại mới toanh, nhưng khi khởi động máy thì lại không nổ. Mụ cằn nhằn tài xế: 

- Xe cộ sao không chăm sóc cẩn thận. Để thế này... 

Tài xế Năm là người chu đáo, chưa từng gặp trục trặc với chiếc xe này, nên cũng lấy làm lạ: 

- Xe mới mà, đâu kỳ như vầy. Hết hơi bình! 

Anh ta loay hoay mãi vẫn chẳng làm sao nổ máy được, đành phải nhờ tay xích lô: 

- Anh có thể giúp đẩy giùm được không? 

Tay xích lô Ba Thời nhún vai: 

- Được, nhưng chỉ đẩy khi nào trên xe chỉ có mình anh thôi. 

Mụ Ba Tiền nghe vậy quay sang đẩy tài xế Năm xuống: 

- Nhảy xuống đẩy đi, tôi giữ tay lái cho! 

Biết bà ta lái xe được, Năm nhảy xuống xe, kéo theo Hai Thảnh. 

- Phụ đẩy với tui chút. 

Thảnh vốn có cảm tình với tay xích lô này, nên mau mắn lo xuống, cùng tiếp nhau đẩy. Phải mất hai lần đẩy, chiếc xe mới chịu nổ máy. Nhưng bất thần xe lao lên với tốc độ rất nhanh! Tài xế Năm hốt hoảng: 

- Bớt ga đi bà chủ! Đạp thắng lại! 

Trên xe mụ Tiền cũng đã làm điều đó rồi, nhưng sao lạ quá, chiếc xe cứ đạp thắng thì nó lại tăng ga, còn nhả ga thì nó lại... tăng tốc còn điên cuồng hơn. Mọi người đứng chung quanh hoảng hốt la lên: 

- Chắc bà ta không biết lái xe hay sao mà chạy như... 

Mấy tiếng coi chừng chưa dứt thì đã nghe một âm thanh va đập kinh hoàng vang lên! 

- Chết rồi, bà chủ! 

Xe của mụ Tiền đâm ầm vào một chiếc xe chở gà vịt, xe bị lạc tay lái đâm luôn vào cột điện rồi mới chịu ngừng lại. Mụ Tiền bị đập đầu vào tay lái, gục luôn trên vô lăng. 

Trong khi đó thì chiếc xe tải nhỏ chở hàng sau khi bị đụng đã lật ngang, khiến cho lồng gà vịt bị vỡ. Cả trăm con gà, vịt xổng chuồng chạy tứ tung ngoài đường phố đông người, gây ra một cảnh huyên náo chưa từng thấy. 

Hai Thảnh và tài xế Năm đứng nhìn từ đầu đến cuối vụ tai nạn, khi thấy chiếc xe bà chủ đâm vào cột điện họ mới tức tốc chạy lại. Hai Thảnh hốt hoảng khi thấy chủ mình gục đầu trên tay lái, nó gọi to: 

- Bà chủ ơi! 

Mụ Ba Tiền bất động, một bên mặt mụ ta đầy máu. Một số người khác cũng chạy đến xem. Thật bất ngờ bỗng chiếc xe rồ máy, lùi lại và phóng như bay, trong lúc người lái xe vẫn gục đầu bất động! 

Tài xế Năm thét lên: 

- Cứu! Cứu! 

Chiếc xe như điên cuồng phóng đi giữa lúc xe cộ khá đông đang vô tư chạy mà không ngờ là tử thần đang ở phía sau họ! Nhưng cũng lạ, dẫu không ai lái, chiếc xe vẫn lạng lách và phóng mà không va chạm với ai. Đến một ngã tư, như có người điều khiển, chiếc xe tự động dừng lại, như chẳng có việc gì xảy ra. Lúc ấy mụ Tiền tỉnh lại. Mụ ngẩng lên và ngỡ là Năm tài xế ngồi bên cạnh, mụ vừa rên vừa càu nhàu: 

- Sao mày để tao... lái cho bị… 

Nhưng người đàn ông đang ngồi ghế cạnh mụ ta đã lên tiếng, giọng khác lạ: 

- Cho bà chừa thói đanh ác. 

Lúc ấy mụ mới tỉnh hẳn, giương mắt nhìn và kêu lên: 

- Anh... anh là ai? 

Người ngồi đó chẳng biết từ lúc nào, chính là... Một, tên côn đồ đã bắt bà chủ quán và Thiên Nga đi bữa trước. Anh ta phanh ngực áo ra như giới thiệu hình xăm cá sấu: 

- Hãy nhớ lấy tao. Đừng bao giờ đụng tới Thiên Nga nữa, nghe không? 

Rồi anh ta biến mất lúc nào mụ Tiền không hay. Mụ như bị thôi miên...

Phần 2 

Thiên Nga và mụ chủ Mỹ Lệ cùng ra về một lượt. Nhưng tình trạng của hai người thì khác hẳn. Trong khi Thiên Nga vẫn tươi tỉnh như bình thường, thì trái lại, mụ Mỹ Lệ eo xéo như gà mắc tóc. 

Người trong quán quá đỗi ngạc nhiên, ai cũng hỏi: 

- Có chuyện gì với hai người vậy? Tên cướp đó... 

Người vừa hỏi câu đó chưa kịp dứt lời đã bị ngay mấy cái tát nảy lửa. Họ tưởng bị bà chủ đánh, nhưng không phải, bởi lúc đó bà Mỹ Lệ đang nằm vùi trên giường, còn Thiên Nga thì đang ngồi ở bàn cách xa họ. Từ lúc đó hầu như chẳng người nào trong họ còn dám hỏi han lôi thôi nữa. Thiên Nga bỗng cũng khác thường hơn, cô nàng lúc trước thụ động, ít nói, miễn cưỡng tuân theo lệnh của bà chủ khi tiếp khách, thì nay lại có thái độ như chủ quán! Điều đó thể hiện qua cách cô xử sự. Để mặc cho mụ Mỹ Lệ nằm vùi trên giường, Thiên Nga một mình điều hành quán còn đâu ra đó hơn. Cô bảo tên quản lý Tám: 

- Từ nay mọi việc đều phải hỏi tôi. Tôi nhắc lại, mọi việc, chớ không phải riêng việc nào. Tôi là chủ! 

Quản lý Tám vốn là người tâm phúc lâu đời của mụ Mỹ Lệ, nên tuy nghe dặn vậy thì dạ dạ, nhưng trong lòng không khỏi thắc mắc, bất phục. Hắn gọi riêng mấy tên đàn em: 

- Con này bữa nay nổi chứng, còn xưng là chủ nữa! 

Lời hắn vừa dứt thì cũng giống như những người trước đó, bị ngay một cú đấm thẳng vào mặt, lảo đảo... Hắn quát lên: 

- Thằng nào đánh tao? 

Đáp lời hắn ta, lại một cái tát nữa, mà lần này tát còn mạnh hơn, chẳng khác lần hắn bị tên côn đồ hạ gục hôm trước. Bắt đầu nao núng, hắn nói khẽ với tên đàn em: 

- Giống như có ma vậy, mau chuồn đi thôi! 

Tuy nói vậy nhưng vì miếng cơm manh áo, bọn quản lý Tám cuối cùng vẫn tiếp tục làm việc. Bọn hắn thật sự ngạc nhiên, bởi từ đó mụ chủ Mỹ Lệ hoàn toàn mất hết quyền lực. Tệ hơn nữa, mụ ta còn tỏ ra sợ sệt Thiên Nga, nhất nhất những gì cô nàng nói ra mụ ta đều tuân theo. 

Rồi mọi sinh hoạt của quán bar Địa Đàng cũng trở lại bình thường. Khách sau một thời gian ngắn bị tác động bởi chuyện xảy ra, đã kéo nhau trở lại. Nhất là sau khi nghe tin cô hoa khôi Thiên Nga giờ đã không còn là độc quyền của những tên quan chức có máu mặt nữa, những khách bình thường lại thích tới Địa Đàng hơn, bởi họ có thể được Thiên Nga tiếp bất cứ lúc nào.

Một buổi tối…

Thiên Nga vừa ra khỏi phòng, chưa kịp bước xuống cầu thang thì đã nghe huyên náo ở ngay đầu thang lầu. Lão Tây Rôbe xuất hiện thật đột ngột và đang xông thẳng lên trước sự bất lực của đám bảo vệ. Lão ta hình như đang say, vừa bước lên vừa to tiếng:

- Đứa nào dám ngăn cản tao thì hãy chờ ăn đạn!

Lão ta bất ngờ rút từ trong áo ra một khẩu súng, khiến mấy tên bảo vệ bỏ chạy hoảng loạn. Cả quản lý Tám cũng sợ hãi, núp trốn vào gầm cầu thang. Lúc đó Thiên Nga và lão Tây chạm mặt nhau. Hắn bớt hùng hổ, nhưng cũng còn to tiếng:

- Em xúi tụi nó đuổi anh ra phải không? Vừa rồi tụi nó nói em đi vắng và đẩy anh ra ngoài, trong lúc anh biết chắc là em có mặt ở đây! Em nói xem, chính em không muốn tiếp anh phải không?

Hắn hỏi và chờ một câu xoa dịu của người đẹp, nhưng Thiên Nga lại nghiêm giọng:

- Nếu đúng vậy thì sao?

Không ngờ, lão Tây trố mắt nhìn người đẹp:

- Em vừa nói gì?

- Tôi nói là ông không nên tới đây nữa. Bởi những gì mà ông gây ra đã quá đủ làm cho rắc rối ở quán này rồi. Giờ mời ông về cho.

Rôbe xưa nay chỉ quen ra lệnh cho người khác, nên vừa nghe Thiên Nga nói vậy, lão ta gầm lên:

- Lũ khốn này đúng là hết muốn sống.

Lão ta vung cây súng trong tay, hướng nòng súng lên trời, nổ liền hai phát. Đúng là hắn chỉ bắn dọa thôi, nhưng hắn bỗng thét lên một tiếng, ôm lấy chân, đau đớn. Máu từ chân lão chảy ra ướt đẫm cả cầu thang. Thì ra hai viên đạn thay vì bay lên trần, đã xuyên thẳng vào bắp chân lão ta!

Không một chút nao núng, Thiên Nga hất hàm bảo một tên bảo vệ: 

- Lôi lão ta ra xe, bảo họ chở lão về và từ nay không được léo hánh tới đây nữa. 

Lão Rôbe còn quay lại định la lối tiếp, nhưng chợt lão trố mắt kinh ngạc, khi thấy bà vợ chằn tinh gấu ngựa của mình vừa xuất hiện sau lưng Thiên Nga! 

- Bà... bà sao lại... 

Mụ Ba Tiền đứng nép phía sau người đẹp, chẳng khác một đàn em! Giọng mụ ta cũng theo giọng điệu của Thiên Nga: 

- Lôi lão ta ra ngoài đi! 

Tên cận vệ lâu năm của lão Rôbe cũng vô cùng sửng sốt: 

- Bà... sao bà lại như thế? Ông chủ đang ra máu nhiều. 

Mụ Tiền quát lớn: 

- Cút đi ngay! 

Lão Rôbe ra xe rồi mà vẫn chưa thể hiểu tại sao có chuyện này. Từ hơn tuần nay bà vợ lão bỗng nổi cơn, thường la hét mỗi khi thấy mặt lão. Nhưng chưa bao giờ mụ ta lại có thái độ như hôm nay. Lão quay sang hỏi tên cận vệ: 

- Mấy bữa tao đi vắng, ở nhà đã có chuyện gì với bả vậy? 

Tên này thuật lại chuyện xảy ra hôm mụ Tiền đụng xe và kết luận: 

- Có vẻ như bà chủ đã bị chấn động não, nên tánh tình có nhiều thay đổi. Nhưng thay đổi đến như hôm nay thì quả là hơi lạ. 

Lão Rôbe quay sang hỏi tên Cai Xạo: 

- Nghe nói bữa đó mày có mặt trong vụ tai nạn? 

Cai Xạo lúng túng thấy rõ: 

- Dạ... bẩm bữa đó... 

Tên tài xế Năm không nhịn được, phải lên tiếng: 

- Bẩm ngài, hôm đó chính hắn đã tâu với bà chủ chuyện của ông với cô Thiên Nga. Sở dĩ bà chủ tới quán hôm đó cũng là do hắn ta mà ra. 

Lão Rôbe tánh nóng như lửa, vừa nghe nói vậy lão đã quên cả cơn đau do vết thương, đã quay sang tát liền cho tên đàn em mấy cái liền: 

- Đồ phản phúc! 

Lão ta thuận tay xô một cái mạnh, khiến cho Cai Xạo té bổ nhào ra khỏi xe. Xong, lão bảo tên cận vệ khác: 

- Mày ở đó trị cho một trận rồi kêu xe về sau, khỏi theo tao! 

Lão ra lệnh cho tài xế Năm vọt xe đi. 

- Thưa ngài, có cần đi bệnh viện không? 

- Ờ... ờ. 

Lão ta định ra lệnh tiếp, nhưng chẳng hiểu sao miệng mở ra khó khăn, còn hai mắt thì như bị ai đó kéo xuống, nặng trịch! Lão cố cưỡng Iại, nhưng cơn buồn ngủ lạ thường đột ngột kéo đến, khiến lão ta ngả đầu ra sau rồi chẳng biết gì nữa... 

- Có cần đi bệnh viện nữa không, ông chủ? 

Mở mắt ra, thấy mình không còn ở trong xe, mà đang nằm ở một nơi nào đó rất Iạ, lão Rôbe hỏi liền: 

- Tôi đang ở đâu? 

- Ở đây, ông nhìn không ra hay sao? 

Nghe giọng người lạ, lão cố nhìn lên thì quá đỗi ngạc nhiên, bởi đang đứng trước mặt lão ta lúc này là một người đàn ông cao lớn. Anh ta để mình trần, do đó vừa nhìn vào ngực là thấy ngay có hình xăm một con cá sấu cực to. 

- Mày... mày là… 

- Nhớ ra rồi phải không! Kể ra đầu óc sát nhân của ông cò Tây cũng không tồi chút nào. Ha ha! Gặp lại cố nhân sao không mừng vậy ngài? 

Giọng anh ta đầy mỉa mai, châm chọc, lại hàm chứa sự đe dọa mà riêng lão Tây già này hiểu hơn ai hết. Lão bắt đầu run thật sự. Nhất là cái hình xăm kia, nó gợi cho lão nhớ tới một chuyện cách đó gần năm năm. 

- Con cá sấu hai đuôi ở Vàm Sát, giờ đây nó vẫn còn đủ hai cái đuôi và lại thêm hai cái răng nanh mới mọc nữa! 

Câu nói của hắn càng như vẽ ra cảnh tượng ngày xưa! Khi ấy chính lão ta đã vừa dìm một tội nhân trẻ tuổi xuống dòng sông có con cá sấu đang chực sẵn vừa lên tiếng đe dọa như vậy. Con cá sấu hai đuôi cực kỳ hung ác, là trợ thủ đắc lực cho cò Rôbe mỗi khi muốn tra tấn và thủ tiêu tội nhân! 

- Một! Tôi nhớ ra anh rồi. Ngày ấy... đúng là tôi có... có tra tấn anh, nhưng chỉ dọa thôi, chớ nào có ý giết anh thật đâu. Xin anh... 

Lão ta giở giọng năn nỉ một cách gượng gạo, lại càng khiến cho Một điên tiết lên, hắn gầm to: 

- Câm ngay cái miệng mày lại! Mày biết tao phải mất bao nhiêu công sức để có được ngày hôm nay không? Hãy nhìn đây. 

Anh ta bất thần tuột luôn cả chiếc quần đang mặc xuống, để lộ hai vết thẹo cực lớn hầu như lấy đi gần hết phần mông! Giọng anh ta đầy bi phẫn: 

- Hai nhát cắn của con cá sấu hai đuôi đó! Mày nói chỉ dọa thôi, mà kết quả như thế phải không? 

Lão Rôbe linh tính biết điều tệ hại nhất sắp xảy ra, cho nên một cách nham hiểm, lão ta thừa lúc Một đang nói chuyện, đã nhanh tay rút khẩu súng trong lưng ra và bấm cò... 

Nhưng súng không nổ. Chỉ có tiếng cười của Một vang lên thôi: 

- Bản chất sát nhân của mày vẫn y nguyên! 

Lời vừa dứt thì cây súng trên tay lão ta đã bị văng ra xa, kèm theo một tiếng thét lớn từ mệng lão Tây già. Lão ta ôm hai tay vào hạ bộ của mình, máu từ nơi ấy chảy ra ướt cả sàn nhà: 

- Đừng! Đừng làm vậy! Hãy để cho tôi... 

Một lại cười nghe ghê rợn: 

- Sợ mất cái chuyên gieo rắc đau khổ cho người khác phải không! Vậy mày hãy nhớ lại xem, trong cơ thể này còn có những thứ gì từng là công cụ để hại người nữa không? Nếu không nhớ ra hết thì để tao nhớ giùm. Hễ nhớ tới đâu thì vật đó sẽ bị cắt rời như cái vừa rồi! 

Phụp! 

Kèm theo lời nói là một cú chặt mạnh, nguyên cả bàn tay của lão Rôbe đã bị văng ra rất xa. Lão chưa kịp thét Iên thì đã thấy từ miệng lão máu tuôn ra, đồng thời một vật nhỏ bằng ba lóng tay đang rơi nằm ngay trước mắt lão. Không nói được, nhưng lão hiểu, đó chính là cái lưỡi của mình vừa bị cắt ra. Lão Rôbe đau đớn tột cùng, sắp ngã chúi về phía trước thì như có bàn tay vô hình giữ lão lại. Giọng nói như lời tuyên án của Một: 

- Tao đã đợi gần năm năm một ngày này! Nhưng mày chưa chết được lúc này, khi chưa nghe chính người mà mày muốn chiếm đoạt lên tiếng! 

Lời nói đó vừa dứt thì Thiên Nga xuất hiện cùng với hai người phụ nữ khác: mụ Tiền và Mỹ Lệ! Họ cùng ngồi xuống trước mặt Rôbe. Thiên Nga là người lên tiếng trước: 

- Lão có nhớ hôm đó mấy tên bộ hạ của lão dụ tôi vào phòng riêng của lão không? 

Lão Rôbe đã mất lưỡi, lại đang trong trạng thái hấp hối thì làm sao trả lời được. Tuy nhiên những gì người khác nói thì lão nghe rõ hết. Lão không còn cách nào khác hơn là gật đầu trước các câu hỏi đúng và lắc đầu khi bị nói sai. Nhưng hầu như lão chỉ có gật đầu, bởi mỗi lời nói ra của Thiên Nga như là những thước phim quay chậm lại, trung thực đến từng chi tiết. 

- Lão không làm nhục tôi ngay, mà dã man hơn cho lột hết áo quần của tôi ra rồi bắt thủ hạ lôi một người đã bị tra tấn đến máu me đầy người ra đặt nằm ngay trước mặt tôi, để người ấy chứng kiến cảnh người yêu mình bị làm nhục! Người đó chính là anh Một đây. 

Một bị kích động mạnh hơn, anh ta chỉ vào mặt mụ Mỹ Lệ, quát lớn: 

- Còn mụ đã làm gì, đóng vai trò gì trong vụ đó, hãy nói mau! 

Mụ Mỹ Lệ riu ríu: 

- Dạ, tui không dám giấu. Ngày đó lão Rôbe cho tui tiền, biểu phải vu oan cho cậu là gian đảng, cướp của giết ngườí, để lão ta có cớ bắt giam. Chỉ vì lão ta muốn chiếm đoạt cô Thiên Nga đây. 

Mụ Tiền nãy giờ im lặng, bỗng lên tiếng: 

- Tôi cũng có tội trong vụ này! Chính tôi đã ngầm giàn xếp để cho chị Mỹ Lệ đây dễ bề thực hiện âm mưu. Bởi tôi biết, nếu cô Thiên Nga mà chiếm được trái tim của Rôbe thì tôi sẽ bị ra rìa, không mong gì lấy được ông ấy! 

Một đưa mắt nhìn sang Thiên Nga, cô mặt lạnh như băng, rít lên một tiếng: 

- Giết! 

Ngoại trừ lão Rôbe đã hầu như hết sức lực, còn lại hai mụ đàn bà. Sau tiếng rít của Thiên Nga, họ sợ hết vía: 

- Đừng giết tôi! Xin tha cho cái mạng giun dế này. 

Họ quỳ xuống lạy như tế sao, khiến Thiên Nga không nhịn được cười: 

- Tôi bảo giết là giết hai con gà, mua một con heo quay, để bữa nay ăn mừng. Các người có biết tôi mừng điều gì không? 

Không chờ họ đáp, Thiên Nga đã quay sang, ra lệnh: 

- Đem hết những thứ đó vào đây! 

Chẳng thấy một ai đứng gần đó, nhưng sau tiếng ra lệnh của Thiên Nga, đã có hai người đàn ông lực lưỡng khiêng vật gì đó đem đặt ngay trước mặt rồi quay đi ngay. 

Vừa nhìn thấy những vật kia bỗng lão Rôbe đang sắp chết cũng phải ú ớ kêu lên, rồi đến phiên mụ Ba Tiền cũng thất thần: 

- Thằng Minh, con Lý! 

Thì ra hai đứa bé tuổi trên dưới khoảng mười một mười hai. Một đứa trai một đứa gái, là con của Rôbe và mụ Ba Tiền. Chúng không bị trói, nhưng dường như đang ngủ ngon lành, Thiên Nga dịu giọng: 

- Chẳng ai làm hại chúng, mặc dù với tội lỗi mà cha mẹ chúng gây ra thì chúng cũng phải liên đới đền trả. Tôi tha cho và mang chúng đến đây, để cho cả nhà đoàn tụ cùng nhau. Bởi vậy hôm nay phải ăn mừng là vì thế. 

Mụ Ba Tiền mừng rơn, quên thân phận mình lúc này, đã nhào tới ôm hai con vào lòng. Lát sau khi mụ ngẩng lên thì chẳng còn ai cạnh mình, kể cả lão Rôbe đang bị thương tích đầy người. Hai đứa trẻ vẫn vô tư ngủ vùi. Lúc này mụ Tiền mới có thời gian quan sát ngôi nhà. Đây là gian nhà nhỏ, nhưng sạch sẽ và trông có hơi quen. 

Lúc nãy khi bị đưa vào đây trong tâm trạng sợ hãi, rồi bị tra vấn liên tục, nên mụ ta chưa kịp để ý. Lúc này mới đưa mắt nhìn khắp xung quanh, mụ chợt kêu lên: 

- Nhà... nhà của mình đây mà! 

Mụ ta đã nhận ra, đây chính là ngôi nhà mà trước khi lấy lão Rôbe, mụ đã ở. Mà lạ hơn nữa, khi đứng lên xem kỹ thì mụ nhận ra cả những đồ đạc trong ngôi nhà hiện tại, tức cái biệt thự đồ sộ của mụ với lão Rôbe. Tất cả đều đang ở đây! Nói tất thì chưa thật chính xác, nhưng hầu như những thứ cần thiết đều có. Có nghĩa là ai đó đã dọn giúp mụ sang đây, như một vụ chuyển nhà. 

Hơn nửa giờ sau thì hai đứa trẻ thức dậy. Chúng không chút ngạc nhiên, mà trái lại còn tỏ ra thích thú với khung cảnh mới. Con Lý nói với mẹ: 

- Cái ông gì đó dữ dằn lắm, ngực ổng có xăm hình con cá sấu, con sợ lắm, nhưng ổng không làm gì con, chỉ biểu con và Minh phải chuẩn bị để chuyển qua nhà mới. Đây là nhà mới phải không mẹ? Con khoái nhà này hơn! 

Bé Minh cũng nói: 

- Ở đây sướng hơn nhà cũ của mình, ở nhà cũ ngày nào con ngủ cũng thấy ma. Có con ma hung dữ cứ nhe nanh đòi ăn thịt con! Nó nói ba con làm ác, giết hại người lương thiện, nên có ngày nó sẽ trả thù! Mà làm gì vậy mẹ? Ờ mà con quên, con ma còn nói mẹ cũng có làm ác nữa. 

Mụ Tiền bụm miệng con không cho nói tiếp: 

- Con có muốn mẹ con mình chết hết không? Nín và ở đây rồi sẽ không còn gặp ma nữa. 

Ba mẹ con linh cảm thấy điều gì đó đang rình rập họ, cho nên cả hai đứa bé cũng tỏ ra ngoan ngoãn. 

Chuyện đời quay ngoắc 180 độ ở quán bar Địa Đàng. Lúc đầu có làm cho thiên hạ bàn tán, nhưng lâu dần họ cũng quen. Cô gái phục vụ Thiên Nga nghiễm nhiên trở thành chủ, trong khi mụ chủ cũ Mỹ Lệ thì thành cai gà, làm công ăn lương, hầu như cũng không làm cho những nhân viên trong quán thắc mắc gì. Trái lại, họ răm rắp nghe lời và còn luôn sợ hãi, không dám hó hé lời ra tiếng vào như trước kia. Đặc biệt là vai trò của ông chủ quán Văn Một. Người ta chỉ biết đến người này qua lời thiệu của Thiên Nga có một lần, rồi sau đó hầu như chẳng một ai nhìn thấy mặt ông ta nữa. Dẫu vậy, hầu như mỗi lần nhớ tới ông ta thì mọi nhân viên đều lạnh người. Họ mường tượng ông ta không phải là người, nhưng không dám nghĩ đó là một oan hồn. 

Chỉ chắc chắn một điều là kể từ khi lên làm chủ quán, ngoài nhan sắc trời phú, ngoài sự hấp dẫn quyến rũ vốn có, bây giờ Thiên Nga còn có sức thu hút khác thường hơn. Cô ta nhìn người đàn ông nào, dẫu người đó không có lòng đam mê, tức thì cũng phải xao xuyến và ngoan ngoãn như con cừu non. 

Có người đồn rằng Thiên Nga có được sức quyến rũ mê hồn đó là được ma ám. Người bị ma ám hành động theo sự điều khiển của hồn ma. Tuy nhiên, ngoài việc hớp hồn đàn ông ra Thiên Nga hầu như không làm gì cả... 

Phải chăng anh chàng Một đã ngầm hỗ trợ, giúp cho người yêu đổi đời? Không ai dám đoán chắc điều đó, nhưng nếu dám để ý, thì ắt sẽ thấy, cứ hằng đêm, sau giờ quán đóng cửa, Thiên Nga không hề đi chơi với khách nào, mà chỉ rút lên lầu, vào phòng riêng khóa chặt cửa lại. 

Mụ Mỹ Lệ biết hết. Biết rằng giờ đây Thiên Nga dành cả phần đời xuân sắc của mình để cống hiến cho người yêu chỉ hiện về ban đêm! Tuy nhiên mụ ta không bao giờ dám tiết lộ với ai về hiểu biết của mình. Bởi mụ còn muốn sống...

HOA NƯƠNG 

Tối hôm đó trời oi bức, Thanh Tuấn mở cửa bước ra ngoài cho thoáng. 

Nhưng khi đứng ngoài sân rồi anh lại cụt hứng, bởi trăng chưa lên, nhìn bầu trời tối đen Tuấn hết muốn tiếp tục ngắm cảnh đêm như thường khi, vội quay vào và tiếp tục ngồi bên giá vẽ. 

Vẽ là niềm đam mê của Tuấn, mặc dù anh không là họa sĩ, bởi vậy từ khi về nghỉ hè ở đây chỉ trong một thời gian ngắn mà Tuấn đã vẽ được bốn năm bức tranh phong cảnh. Bữa nay cũng vậy, từ chiều anh đã vẽ và sắp hoàn thành bức tranh Hoa và Bướm. 

Mà hôm nay cũng lạ, nguồn cảm hứng chừng như không dồi dào như mấy hôm trước, do đó sau khi vẽ gần xong bông hoa thì Tuấn không thể vẽ tiếp được. Cuối cùng anh bỏ cọ, leo lên giường nằm. Định đọc sách, nhưng cũng không thể được. Đến lúc quay trở lại định vẽ tiếp thì Tuấn vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện có một con bướm màu đỏ thắm y như con bướm thật sắp đậu lên đóa hoa sen mà anh vừa vẽ dở chừng chưa xong. 

- Ủa, mình đâu có vẽ con bướm? 

Đưa tay sờ thì rõ ràng con bướm do ai đó vẽ còn ướt sơn. 

- Ai vậy? Ai vào đây phá tôi? 

Anh hỏi đến mấy lần mà vẫn không có người đáp. Tuấn bực bội càu nhàu: 

- Ai mà vô ý thức quá, người ta đang vẽ mà lại... 

Bỗng phía sau có hơi thở của ai đó, Tuấn quay lại và sững sờ khi nhìn thấy một cô gái tuổi đôi mươi đang nhoẻn miệng cười với anh! 

- Cô là... 

Cô gái cúi đầu chào Tuấn rất lịch sự và hình như có điều chi đó bối rối. Tuấn chợt hiểu: 

- Cô vừa mới vẽ lên tranh của tôi? 

Cô gái lúng túng: 

- Dạ, chẳng qua quá ham vẽ nên mới mạo phạm, mong được tha tội! 

Tuấn không tài nào giận nổi trước nụ cười như hớp hồn người đó, nhất là lời nói như mật rót vào tai, anh cũng lắp bắp: 

- Cô... cô… Không sao cả... thật ra tôi cũng... 

Nàng trở nên tự tin hơn: 

- Từ lâu em mê vẽ mà chưa có dịp cầm được cây cọ, nên vừa rồi tình cờ bước vào đây em đã không kiềm chế được. Đã phá hư bức tranh của anh, em xin chịu lỗi. 

Tuấn thật lòng: 

- Không ngờ cô cũng có hoa tay lắm, con bướm vẽ lên tranh thật đúng ý đồ của tôi. Thú thật, nếu là tôi vẽ thì cũng chưa chắc đã đẹp bằng! 

Cô nàng e thẹn thật dễ thương: 

- Anh đừng làm em xấu hổ phải độn thổ bây giờ. 

- Tôi nói thật đó. Chắc hẳn là cô đã từng biết vẽ rồi. Hay là... 

Anh muốn mời cô nàng hằng ngày tới làm bạn vẽ cho vui, nhưng chưa dám ngỏ lời thì cô nàng bạo dạn hơn đã chỉ tay ra sau nhà, phê bình: 

- Nhà không đóng cửa như vậy, ai lẻn vào mà chẳng được. Thảo nào ngườí ta bước vào cả buổi vẫn không hay. 

Tuấn định cãi là lúc chiều anh đóng cửa cẩn thận nhưng chẳng hiểu sao anh lại chỉ cười rồi cứ đứng ngây người ra không nói được. 

- Kìa, nhà họa sĩ quên cả việc mời khách ngồi sao? 

Tuấn lúng túng: 

- À quên. Mời, mời cô ngồi. 

Nhưng anh quên là nhà chỉ có mỗì chiếc ghế duy nhất dùng để ngồi vẽ, nên vội kéo ra, mời lần nữa: 

- Mời cô ngồi tạm. Nhà của người độc thân có khác. Tôi chỉ mới dọn về đây có mấy hôm. 

Cô nàng lại cười rất tươi, chỉ vào chiếc ghế. 

- Dính đầy màu thế kia, mời khách ngồi được sao! 

Bấy giờ Tuấn mới để ý, lúc nãy do cẩu thả nên anh để màu vương vãi. Quýnh quá, Tuấn lấy vạt áo của mình lau vội, cô nàng còn nhanh hơn, đã chụp lấy tay chủ nhà, vừa cằn nhằn: 

- Sao lại làm vậy... 

Tuấn chợt giật mình bởi hơi lạnh từ tay của nàng truyền sang. 

- Tay cô... 

Nàng rút tay về rất nhanh, hơi lúng túng: 

- Em... em mới đi ngoài sương... 

- Cô cần sưởi không, tôi có lò than… 

Nàng đáp nhanh: 

- Dạ không sao, chỉ chút xíu là hết ngay thôi. 

Rồi nàng rất khéo tay, dùng một mảnh vải lau của Tuấn để trên sàn, lau thật sạch chỗ màu dính. 

- Mời chủ nhân! 

Tuấn xua tay: 

- Cô là khách, người ngồi phải là cô. 

Nàng không khách sáo nữa, kéo vạt áo và ngồi xuống. 

Dáng ngồi rất đẹp, khiến Tuấn phải kêu lên: 

- Ồ, hay là ngày mai cô ngồi mẫu cho tôi vẽ nhé! 

Nàng thẹn đỏ mặt: 

- Quê như em mà làm mẫu cho thiên hạ cười cho! 

Nói xong, nàng đứng vụt dậy rồi chạy nhanh ra cửa sau. Quá bất ngờ nên một lúc sau Tuấn mới gọi với theo: 

- Cô! Cô ở lại đã. Tôi nói thật lòng mà. 

Nhưng nàng không quay lại. Tuấn hốt hoảng gọi theo: 

- Tôi chưa biết tên cô mà! Cô ơi! 

Không hề nghe đáp. Mãi sau đó khi Tuấn chạy theo được vài chục mét thì mới nghe văng vẳng: 

- Hồng Liên! 

- Sen Hồng... 

Tuấn lẩm bẩm và tiếc nuối. Anh thắc mắc mãi về cô nàng. Tại sao ở một vùng quê hẻo lánh như thế này lại có thể có một cô gái đẹp như thế này? Mà cô ta kể cũng lạ, lúc thì bạo dạn, dám xông vào nhà lạ, lại nghịch phá, lúc lại e thẹn. 

Với sự tò mò, khiến Tuấn quyết định men theo lối cô ta vừa đi. Lúc nãy không kịp hỏi nhà cửa ở đâu, bây giờ làm sao tìm? Nhưng khi nhớ lại trong mấy ngày qua, Tuấn đã quan sát, gần đây chỉ có một xóm nhà duy nhất cách chỗ trọ của anh không xa, chắc chắn cô nàng đến từ đó. Nghĩ vậy nên Tuấn mạnh dạn bước nhanh về hướng có ánh đèn, là xóm nhà khoảng mười nóc. Anh chỉ mất gần mười phút đã tới nơi. Chưa vội hỏi ai, Tuấn chậm rãi bước qua từng nhà, mà nhà nào anh cũng lén nhìn vào, hy vọng bắt gặp bóng dáng cô nàng. Qua hết tám nóc nhà rồi mà vẫn chưa thấy gì, đến ngôi nhà thứ chín thì chợt nhìn thấy cánh cổng tre chưa kịp đóng, Tuấn mừng thầm: 

- Có thể là đây! 

Anh vừa cố nhìn vào trong thì đã nghe có tiếng quát từ bên trong nhà: 

- Con gái hư, mày đi đâu giờ này! 

Một tiếng kêu đau, rồi giọng nghe quen quen: 

- Con... con đi sang nhà bạn! 

- Đồ con hư. Tao nói cho mà biết, nếu lần sau mà còn đang đêm lẻn đi nữa thì đừng trách sao không nương tay! 

Rõ ràng vừa rồi là giọng của cô nàng! Thì ra nàng ta chỉ vì ghé qua nhà mình mà về bị đòn, Tuấn nóng mũi định lên tiếng gọi để chặn đòn roi kia, nhưng kịp dừng lại. Bởi anh biết, anh mà lên tiếng lúc này thì khác nào lửa cháy đổ thêm dầu! Bên trong lại những tiếng roi vụt mạnh, nhưng lần này nàng lại không khóc, không kêu. Hình như đang cố chịu đòn. 

Sốt ruột quá, nhưng Tuấn cũng chẳng biết làm sao. Cuối cùng nghĩ ra được một kế, anh tìm một hòn đá lớn, ráng hết sức ném nó thẳng vào cửa, gây ra một tiếng động thật lớn. Sau đó chạy đi khá xa, đứng đợi nghe động tĩnh. 

Quả nhiên có tác dụng. Có bóng một bà già bước ra cửa ngơ ngác tìm. Như vậy cô nàng đã không bị đòn roi nữa. Trời dần khuya. Thấy đứng lâu cũng không làm được gì, Tuấn cất bước về nhà, định bụng là sớm mai sẽ trở lại. 

Nhưng lạ thay, khi anh bước vào phòng mình thì đã thấy nàng ở đó! Nàng không ngại khi ôm chặt lấy Tuấn vừa khóc nức nở. Để như vậy một lúc, Tuấn từ từ gỡ tay nàng ta ra, an ủi: 

- Có chuyện gì thì bình tĩnh rồi giải quyết... 

Nàng đỡ khóc, nhưng vẫn còn xúc động, chưa nói được gì. Phải một lúc sau, chợt nàng trở lại giọng nũng nịu của mình: 

- Em suýt mất mạng rồi, đền cho em đi! 

Tuấn phải bật cười: 

- Ra giá đi, đền gì nào? 

Anh bất thần bẹo tay vào má, nàng để yên. Tuấn hỏi: 

- Sao lúc nãy nàng bị... 

Đưa tay chỉ một bên má còn sưng, nàng lại sụt sùi: 

- Lần này bị như vầy còn nhẹ. Những lần trước em còn bị bầm tím cả người... 

- Sao có chuyện ghê gớm như vậy? Ai là người gây ra? 

Một lần nữa nàng lại chụp lấy Tuấn, cầu cứu: 

- Giúp em với! Em không dám trở về nhà nữa, bà ấy sẽ giết em mất! 

- Bà nào? 

- Mẹ kế của em. 

Dỗ mãi nàng mới chịu nói ra: 

- Số là em có một kế mẫu, hiện em đang ở với bà ấy. Từ khi cha mất đến nay thì lúc nào bà ấy cũng đánh mắng em mỗi khi có dịp. Em hầu như bị nhốt suốt trong nhà, có lúc suốt cả tháng không nhìn thấy bóng mặt trời. Vừa rồi, lợi dụng lúc bà ấy đi vắng, em đã lẻn đi ra, ghé vào nhà anh chơi, định về trước khi bà ấy có mặt, nào ngờ chậm chân hơn, nên bà ta lôi em ra đánh không thương tiếc! 

Tuấn nổi máu nóng: 

- Sao lại có người ác như thế! Để sáng mai anh sẽ ghé nhà nói cho bà ta và nếu cần thì đi báo quan. 

Nàng hốt hoảng: 

- Đừng làm thế! 

- Vậy chẳng lẽ nàng chịu suốt đời cảnh này sao? 

Nàng lại sụt sùi một hồi nữa rồi mới nói rõ hơn: 

- Số là mới đây bà ấy ép em lấy một ông bá hộ đáng tuổi cha mình. Em phản đối thì bà ta nổi điên, càng đánh đập em nhiều hơn! 

Bất ngờ nàng hỏi: 

- Anh có thể giúp em trốn khỏi đây chăng? 

Tuấn ấp úng: 

- Được, nhưng mà... 

- Không nhưng gì cả, bây giờ em chỉ có hai con đường là bỏ đi khỏi nhà hay là chịu chết với sự tra tấn của bà ta. 

Nói dứt lời nàng vùng đứng dậy như sắp bỏ đi. Tuấn hốt hoảng kéo tay nàng ta lại. Vô tình nàng ngã hẳn vào lòng Tuấn, ngực áp vào ngực anh, còn môi thì lại áp đúng vào nhau! 

Chuyện gì giữa đôi trai gái đang độ xuân thì chỉ có hai người biết. Căn phòng trọ của Tuấn từ lúc đó cho đến gần sáng không hề có ánh đèn. Trong khi hai con người kia vẫn quấn lấy nhau, không hề ngủ. 

Mỏi mệt sau cuộc mây mưa, Tuấn ngủ vùi một giấc. Đến khi bị ánh mặt trời chiếu vào mặt từ khe hở ở cửa sổ thì anh chàng mới giật mình bật dậy. Cô nàng của anh không còn ở bên cạnh. 

- Hồng Liên! 

Gọi mãi chẳng nghe lên tiếng, Tuấn nhảy xuống đi tìm, cũng chẳng thấy bóng dáng đâu. 

- Đi đâu được nhỉ? 

Chờ đến trưa không thấy gì, Tuấn đành phải cuốc bộ trở lại xóm nhà đêm qua. Lần này Tuấn sững sờ khi nhìn thấy hơn mười nóc nhà chỉ còn trơ lại mái, các vách phiến đã tơi tả, gió lùa. 

- Là một khu nhà bỏ hoang từ lâu! 

Không thể tin vào điều này, Tuấn đi nhanh hơn, quanh khắp xóm từ đầu đến cuối cả chục lần, nó vẫn vậy! 

- Rõ ràng tối qua mình nhớ là ngôi nhà ở khoảng này mà! 

Tuấn dừng lại trước ngôi nhà hoang có vẻ bề thế hơn cả và giật mình khi thấy ngay giữa sân có một cái giếng, giữa giếng có một đóa hoa sen mọc thẳng từ dưới lên. Đóa sen hồng thật đẹp! Nhìn đóa sen anh chợt liên tưởng đến nàng Hồng Liên của mình, nên bất chợt thốt lên: 

- Hồng Liên! 

Tiếng anh vừa phát ra thì lạ thay đóa sen hồng bỗng vụt bay lên, tan tác trong gió. Từng cánh, từng cánh hoa tơi nằm rải rác trên mặt sân. 

Cũng vừa lúc Tuấn cảm giác như bị trúng gió, anh lảo đảo, rồi ngã quỵ xuống tại chỗ, hôn mê... 

Khi tỉnh lại, Tuấn vô cùng ngạc nhiên khi đứng trước mặt mình là một ông lão có gương mặt phúc hậu. Ông reo lên khi thấy Tuấn tỉnh lại: 

- Vậy là không sao rồi! 

Tuấn ngơ ngác: 

- Cháu bị sao vậy bác? Ở đây là... là... 

Chợt nhớ lại mọi chuyện, anh vụt hỏi: 

- Ngôi nhà kia... 

Anh khựng lại khi chỉ thấy trước mặt mình là xóm nhà hoang sơ, tiêu điều. Hình như hiểu ý, ông lão lên tiếng: 

- Cậu tìm người con gái có tên là Sen Hồng? 

Tuấn đáp ngay: 

- Đúng rồi! Nàng ấy... 

Ông lão thở dài: 

- Trong số gần chục đàn ông bị như cậu, chỉ có cậu là sống sót. Âu cũng là cái số... 

Ông kéo tay Tuấn đi về phía sau dãy nhà, chỉ gần chục ngôi mộ thấp lè tè: 

- Đó, kết cuộc của những người như cậu. Là những người đã biết cô Hồng Liên! 

Tuấn không tin điều anh vừa nghe, anh lớn tiếng biện bạch: 

- Nàng ấy là cô gái... 

- Một oan hồn chớ đâu phải người! 

Câu nói đó khác nào cú roi quất vào mặt, Tuấn chới với nói: 

- Sao lại thế! Nàng là... 

Ông lão kéo Tuấn ngồi xuống trước dãy mộ: 

- Chính ta đã chôn những ngôi mộ này. Tuổi họ đều trạc như cậu. Họ cũng qua đây, cũng gặp nàng ấy, rồi chỉ qua một đêm trăng gió cùng nhau, sáng ra thì nằm chết với cơ thể hầu như không còn chút thịt da nào. Cậu là người duy nhất như ta vừa nói, có được cái may mắn. Có lẽ do cậu số lớn, hoặc cơ địa lạ thường hơn. Chớ còn bất cứ ai dính tới nàng ta thì đều mạng vong! 

Ngừng lại một chút, ông kể tiếp: 

- Nguyên cả xóm này trước kia là của riêng một dòng tộc. Họ sống cùng nhau cho đến một ngày, khi người đứng đầu dòng tộc là ông bá hộ Vương Sùng bị bệnh qua đời đột ngột. Sau hiểu ra thì ra chính bà vợ kế đầu độc chồng, để hòng chiếm đoạt sản nghiệp. Bà ta đã thành công, truớc sự phản đối quyết liệt của những người trong thân tộc họ Vương. Chỉ trong một đêm, do uống nước từ cái giếng giữa sân nhà mà cả vài chục mạng đều ngã lăn ra chết cả! Chỉ duy nhất một cô con gái út của ông Vương là thoát được do ngủ quên trong phòng riêng suốt buổi chiều cho đến nửa khuya nên không uống nước có thuốc độc. Cô gái sống sót, chỉ lúc đó thôi. Bởi sau cùng cô ta cũng bị bà mẹ ghẻ phát hiện được và thật dã man, để trừ hậu họa, bà đã nhẫn tâm bắt cô con gái đáng thương đó đem bán cho một kỹ viện. Để rồi chỉ một đêm, do không chịu tiếp khách, nàng ta đã bị bọn ma cô gồm cả chục tên hãm hiếp. Quá nhục nhã, nàng ấy đã gieo mình xuống giếng tự tử! 

Tuấn thảng thốt kêu lên: 

- Hồng Liên! 

Ông lão thở dài: 

- Đúng, nàng ấy là Hồng Liên. Do bị chết oan ức như thế nên từ ấy nàng tìm cách trả thù, hễ gặp đàn ông là quyết không tha. 

Tuấn phẫn nộ: 

- Đáng lý nàng chỉ nên giết bà mẹ ghẻ thôi chớ! 

- Tất nhiên là bà quá phụ đó không thể thoát chết. Chỉ tiếc là do hận thù quá to lớn, nên Hồng Liên đã lạm sát. Tuy nhiên, xem ra khi gặp cậu thì nàng ta đã thay đổi. Hình như nàng ta đã yêu cậu thật sự rồi. 

Ông lão nói đến đó thì đứng dậy bỏ đi. Đi một quãng khá xa mới quay lại nói lớn: 

- Tốt hơn hết là cậu nên tránh xa nơi này. Nếu có duyên thì có ngày cậu sẽ gặp lại nàng ấy! 

Tuấn đứng thẫn thờ khá lâu...

LÂU ĐÀI OAN KHỐC

Phần 1 

Đêm Hoa Chúc 

Giọt champagne cuối cùng vừa rời khỏi chai trên tay cô dâu chú rể, cũng là lúc Thu Nguyệt nhận ra một điều lạ cô thì thầm bên tai Tuấn: 

- Anh... xem kìa! 

Tuấn cũng đã nhận ra màu đỏ khác thường của những giọt rượu cưới: Thay vì là màu hồng nhạt tươi sáng, lóng lánh, thì tự dưng nó trở thành đỏ sậm như máu! 

Trời! 

Đó là tiếng kêu của cả cô dâu và chú rể. Và tiếp theo là một tiếng rơi vỡ vang lên, khiến cho cả hai họ nhà trai và nhà gái ngồi bên dưới đều giật mình hướng lên sàn lễ đài. Nhất là song thân hai bên, họ chẳng hiểu chuyện gì nhưng vì thấy chai rượu rơi vỡ, họ tái mặt. Trong ngày cưới mà như thế này là một điềm gở! 

Bà mẹ Tuấn giọng run run: 

- Chuyện gì vậy ông? 

Ông Ninh cố bình tĩnh: 

- Chắc là tụi nó run tay. 

Rồi ông bước gần đến con trai: 

- Có gì không con? 

Tuấn hơi mất tự nhiên: 

- Dạ... không. Không có gì... 

Thu Nguyệt cũng được bà mẹ cô đến hỏi nhỏ: 

- Có việc gì hả? 

Tuấn đáp thay vợ: 

- Dạ, chúng con lỡ tay. 

Buổi lễ sau đó cũng diễn ra như không có việc gì xảy ra. Khi đến phần đi chào khách, Thu Nguyệt hầu như không còn đứng vững. Cô phải vịn vào chồng mà vẫn lảo đảo. Tuấn hốt hoảng dìu vợ vào phòng thay đồ. Lúc đó thì hầu như Nguyệt đã ngất lịm... Về đến nhà đã gần mười hai giờ đêm, tuy mệt, nhưng bà Ninh vẫn thở phào nhẹ nhõm: 

- Cứ tưởng là có chuyện lôi thôi. 

Ông Ninh cũng trút được gánh nặng: 

- Lúc tụi nó làm rơi chai rượu tôi muốn đứng tim luôn. Cũng may là rồi mọi việc cũng đâu vào đó. Hú vía! 

Lúc này bà Ninh mới nêu thắc mắc: 

- Mà ông có thấy gì là lạ ở con Thu Nguyệt không? Sao nó đi chào khách mà lại che “voan” ở mặt, làm chính tôi cũng nhìn không rõ mặt nó. Tôi thấy lúc làm rớt chai rượu mặt nó tái lắm... 

Ông Ninh cũng bảo: 

- Tôi cũng thấy lạ. Nhưng có lẽ nó sợ người ta thấy nét hốc hác nên làm thế. Mà cũng đẹp, thời buổi này người ta cũng cho cô dâu che mạng như vậy. 

Nhìn đồng hồ tường bà Ninh hơi lo: 

- Không biết giờ này tụi nó đã khỏe lại chưa, đã ngủ nghỉ gì chưa? 

Ông trấn an: 

- Bọn nó được tặng cho một đêm động phòng ở khách sạn thì đảm bảo là đầy đủ tiện nghi, nên chắc chắn là sẽ nghỉ ngơi tốt, bà lo gì. Thôi, ta cũng đi nghỉ, tôi oải quá, suốt sáng tới giờ toàn uống bia chứ có ăn được gì đâu. 

Trong lúc ông thay đồ đi tắm thì bà Ninh nhận một cú điện thoại. Ở đầu dây bên kia một giọng hơi lạ:

- Chào bà chủ đại gian Ninh, nhà doanh nghiệp giàu nhất cũng là người đàn bà tàn ác nhất! 

- Chị là... cô là? 

- Bà gọi tôi là chị thì hơi tổn thọ cho tôi. Cô thì hơi xa lạ, tuy nhiên còn có thể nghe được… Vậy bà cố nhớ xem, tôi là ai mà biết bà khá rõ vậy?

- Cô là ai?

Giọng bà Ninh đã bắt đầu mất bình tĩnh, thì trái lại người bên kia lại cố tình trêu chọc:

- Bà có giọng điệu như vậy với người vừa giúp cho đám cưới con trai bà được trót lọt, tốt đẹp hay sao?

Bà Ninh gắt lên:

- Cô nói năng bậy bạ, linh tinh gì vậy! Đám cưới con trai tôi thì dính gì đến cô hả?

Người bên kia cố tình cười châm chọc:

- Có dính đến chứ sao không! Theo bà thì chuyện đóng thế vai cô dâu để cho hai họ không mất mặt với bà con là việc làm không đáng được cảm ơn sao?

- Hả, cô nói…

- Cô dâu che mạng, bộ bà không thấy lạ sao?

- Hả?

Bà kêu lên một tiếng thì đứng thừ người ra, ống nghe trên tay bà vẫn phát ra tiếng đều đều ở bên kia… Vừa khi ấy ông Ninh từ trong nhà tắm bước ra, ông ngạc nhiên kêu lên:

- Bà sao vậy? Ai nói gì vậy?

Ông chạy nhanh lại chụp lấy ống nghe:

- Alô!...

Bên kia vẫn tiếp giọng điệu như từ nãy giờ:

- Tôi thấy bà xã ông hơi mau quên. Nhưng chắc ông thì nhớ. Vậy theo ông một người đóng thế vai con dâu ông để đi chào hai họ trong lúc cô Thu Nguyệt không thể tỉnh lại kịp lúc, đó là nghĩa cử gì? Có đáng khen và cảm ơn hay là…

Ông Ninh sửng sốt:

- Nói vậy là…

- Ông tin chưa? Tôi chính là người đã làm việc ấy. Và nếu ông biết điều thì hãy gọi tôi là ân nhân! Tôi tin ông có thể làm được việc ấy, nhưng bà vợ ông thì chắc là không. Bởi chắc ông hiểu vợ mình hơn ai hết, phải không ông Ninh? Bà ta là một người cố chấp, thủ đoạn và độc ác! 

Ông Ninh linh tính một việc gì đó không hay, nên dịu giọng: 

- Cô là ai và ý cô là thế nào? 

Một tiếng cười khẽ và rất sắc từ bên kia: 

- Ông muốn biết tôi là ai phải không? Điều này không khó, nhưng đúng ra vợ ông mới nên biết và tôi muốn chính tai bà ta nghe để biết tôi là ai. Mà bà ấy đâu rồi, sao lại để ông nói? 

Vừa lúc đó bà Ninh tỉnh lại, trông thấy ông cầm ống nghe bà đã quát lên: 

- Đừng nghe! 

Nhưng bà lại giành điện thoại, áp vào tai. Bên kia chừng như đoán được người đối thoại: 

- Bà tỉnh rồi sao! Mà cần phải tỉnh để nghe hết câu chuyện chớ, chưa gì đã lăn kềnh ra thì đâu còn khí thế của một người đại gian đại ác có tên là Thu Dung! 

Bị gọi đúng tên tộc, bà Ninh bối rối thêm: 

- Cô... cô nói rõ xem, con trai và dâu tôi đâu rồi? 

- Bà này lạ chưa! Con và dâu bà sao lại hỏi tôi? Chớ chẳng phải họ đang động phòng hoa chúc sao! Chuyện đáng biết bây giờ sao bà không hỏi tôi là ai nào? 

Giọng điệu đó càng lúc càng lộ rõ ý châm chọc, làm cho người nghe mất bình tĩnh. Bà Ninh không thể không hỏi: 

- Vậy cô là ai? Sao lại biết và xen vào chuyện đám cưới của con trai tôi? 

Bên kia rất bình tĩnh, giọng trầm xuống: 

- Bà nhớ Lan Ngọc? Và chắc bà chưa quên câu chuyện “lâu đài tình ái” năm nào chứ? 

Chỉ một câu hỏi ngắn đó đã làm cho bà Ninh đổ sụp hoàn toàn! Bà để rơi ống nghe và ngã xuống sàn. Lần này không được chống đỡ nên bà ta bị ngã khá nặng. Ông Ninh hốt hoảng: 

- Bà làm sao vậy? 

Nghe trong điện thoại vẫn còn vọng ra tiếng nói, ông Ninh một tay đỡ vợ lên, một tay cầm ống nghe: 

- Ai nói gì vậy? 

Giọng kia vẫn đều đều: 

- Bà ta lại không dám nghe hết sự thật rồi. Tôi chỉ mới nói tới toà “lâu đài tình ái”' và người phụ nữ tên Lan Ngọc mà đã làm cho bà ấy xúc động đến thế cơ à? 

Ông Ninh tưởng mình nghe lầm: 

- Cô nói... Lan Ngọc nào? Lâu đài tình ái ở Long Hải? 

- Ồ, ông nhớ ra rồi đó! Chuyện này đúng ra là vợ ông phải nhớ nhưng lại để ông nhớ thay rồi. Đúng đấy ạ, ngôi biệt thự ở giữa rừng Thùy Dương ngoài Long Hải, mà ngày còn xuân bà nhà ông gọi bằng cái tên thơ mộng “lâu đài tình ái”. Còn Lan Ngọc là ai thì trong số quen thân với Thu Dung vợ ông chỉ có một. Nếu cần thì chờ bà ấy tỉnh lại, bà ấy sẽ kể cho ông nghe. Thôi chào ông. Tôi sẽ gọi lại khi nào bà vợ ông có thể bình tĩnh nói chuyện... 

Bên kia cúp máy. Ông Ninh đưa vợ vào phòng riêng, phải hơn một phút sau bà mới tỉnh. Vừa mở mắt ra bà đã kêu lên: 

- Con chúng ta, chúng nó... 

Ông Ninh trấn an: 

- Tụi nó vẫn ở khách sạn chứ có làm sao đâu mà bà... 

Bà Ninh chụp điện thoại rồi tìm số ở tấm danh thiếp khách sạn nơi vừa tổ chức lễ cưới. Bà vừa quay số vừa run: 

- Alô! Khách sạn M phải không? Lễ tân hả? Tôi muốn liên lạc với phòng 415, con tôi là Tuấn…

 Bên kia đầu dây họ bảo bà đợi để nối máy. Khoảng 15 giây sau cô lễ tân báo: 

- Dạ, cho đến giờ này người ngụ trong phòng là chú rể Anh Tuấn và cô dâu Thu Nguyệt vẫn chưa có mặt. 

Tại phòng số 415 khách sạn M. 

Nhân viên khách sạn mở cửa phòng để vợ chồng ông Ninh vào. Họ nhìn thấy chiếc va ly chuẩn bị cho đêm hoa chúc của Tuấn và Thu Nguyệt vẫn còn đó. Thậm chí va ly chưa hề được mở ra, chứng tỏ họ chẳng hề trở về phòng sau lễ cưới. 

Người phụ trách lễ tân trực ca đêm qua xác nhận: 

- Chính cháu đã đưa chìa khoá phòng cho họ vào lúc đám cưới vừa xong. Cũng chính cháu đã cho người vào phòng này trước để cắm bó hoa hồng này cho họ như lời chúc đêm tân hôn hạnh phúc của khách sạn. 

Nhìn bình hoa tươi thắm bà Ninh càng sốt ruột hơn. Bà hỏi lại cô lễ tân: 

- Xâu chìa khóa cô đưa cho con tôi đã có trả lại chưa? 

- Dạ chưa. Cháu đang lo và sẽ báo cho lãnh đạo xử lý. Kể cả suất ăn sáng dành cho hai người cũng còn để ở kia, chứng tỏ hai anh chị ấy đã đi luôn sau khi lễ cưới chấm dứt. 

Trong lúc mọi người đang đau đầu về sự biến mất của đôi tân lang tân giai nhân thì chợt điện thoại trong phòng reo vang. Cô lễ tân khách sạn cầm máy lên nghe và chuyển ngay cho bà Ninh: 

- Có người muốn gặp bà. 

Bà Ninh vừa áp ống nghe vào tai đã hét toáng lên: 

- Lại nữa rồi. Mấy người đã làm gì con tôi? 

Ông Ninh giành lấy điện thoại: 

- Cô nói gì? Sao lại biết chúng tôi ở đây? 

Đầu dây bên kia vẫn giọng người tối hôm qua: 

- Ông bảo với vợ ông là phải can đảm đối mặt, chứ đừng gầm thét như con quỷ cái thế kia, chỉ phiền phức thêm mà thôi. Bây giờ hỏi bà ấy có muốn biết con và dâu của mình ở đâu không? 

Ông Ninh lắp bắp: 

- Cô nói với tôi cũng được, con tôi đang ở đâu? 

- Không. Tôi muốn bà ấy trực tiếp nghe kia. Ông nói lại một lần nữa rằng Lan Ngọc đang ở chỗ con của ông bà. Lan Ngọc muốn nói chuyện với bà ta! 

Biết có năn nỉ thêm cũng vô ích, ông Ninh chuyển máy cho vợ: 

- Cô Lan Ngọc nào đó muốn nói chuyện với bà. 

Dù lòng không muốn, nhưng chẳng hiểu sao tay bà Ninh vẫn nhận điện thoại và nghe. Bên kia bằng giọng sắc lạnh, khác với sự châm chọc đêm qua: 

- Bà muốn biết tôi là người hay ma phải không? Người sống thì dứt khoát là không rồi, bởi chính bà đã đem cái chết đến cho tôi cách đây đã 25 năm rồi kia mà! Người cõi âm hồn đang nói chuyện với bà đây, cho dù bà có muốn tránh, cố từ chối không nghe thì tôi cũng nói và bà cũng phải nghe. 

Giọng của bà Ninh giờ chỉ còn thì thào: 

- Tôi tôi không có... không làm... tôi không… 

- Cái nào bà cũng không, không lẽ tôi tự tìm cái chết trong lúc tuổi còn thanh xuân! Để tôi nhắc cho bà nhớ: Cái đêm họp mặt trong “lâu đài tình ái” bà đã... 

Bà Ninh bật khóc, vừa cất giọng van lơn: 

- Xin cô đừng làm gì hết! Ngọc ơi! Tôi... 

Giọng người bên kia dường như cũng kích động: 

- Nhắc cho bà nghe chơi vậy, chớ bà làm sao quên được cái đêm thảm khốc đó! Và bà cũng không thắc mắc là tại sao mãi đến bây giờ, tức 25 năm ngậm đắng nuốt cay, nạn nhân của bà mới ra tay đòi nợ không? Bà nhớ câu nói cuối cùng trước khi tôi trút hơi thở cuối cùng không? 

Bà Ninh bỗng dưng ngoan ngoãn như một đứa trẻ: 

- Dạ, dạ nhớ... 

- Tôi muốn chính miệng bà nhắc lại câu nói đó! 

- Dạ... Ngọc đã nói “chờ đi, khi nào đứa con đầu của mày lấy vợ thì mọi ân oán sẽ tới! Tao sẽ về... tao sẽ về...” 

- Và hôm qua đứa con đầu của bà cưới vợ là thời hạn của lời nguyền đã đến! 

- Tôi... tôi... 

- Đừng xúc động quá như vậy. Hãy nghe cho rõ đây: Muốn biết các con bà đang ở đâu thì hãy tới chiếc gối bên ngoài của chiếc giường tân hôn, giở lên và sẽ thấy nơi chốn. Nhưng nhớ một điều, trong tờ giấy đó chỉ một mình bà đọc và biết địa chỉ thôi và đọc xong rồi không được nói lại với ai, kể cả ông Ninh. Nếu bà làm ngược lại thì điều gì sẽ xảy ra với con trai bà ắt bà rõ hơn ai hết. 

Buông thõng ống điện thoại xuống, bà Ninh thất thần, nhưng vẫn cố gắng lê bước tới bên giường, giở lên và gặp một chiếc khăn lụa màu vàng, trên đó hiện rõ dòng chữ “lâu đài tình ái”! 

- Trời ơi! 

Bà thốt lên hai tiếng đó rồi ngã ra giường ngất đi. Ông Ninh hoảng hốt bước tới chụp chiếc khăn lên nhìn vào thì chẳng hề thấy gì. Dòng chữ lúc nãy đã biến mất! Các nhân viên khách sạn hốt hoảng gọi cấp cứu. Ông Ninh thì hoàn toàn không hiểu chuyện gì, có chăng là cái tên Lan Ngọc trong điện thoại… 

Quá mệt mỏi sau hai đêm liền gần như thức trắng, ông Ninh về nhà ngủ, để vợ ở lại bệnh viện với cô người làm. 

Ông về lúc một giờ sáng, cố dỗ giấc ngủ và ngủ được một lúc… Đến khi có tiếng chuông điện thoại đổ liên hồi. Cầm ống nghe ông sửng sốt: 

- Sao? Bà... bà mày đi đâu? 

Ông bỏ điện thoại, mặc luôn quần áo ngủ chạy bay đến bệnh viện. Chị người làm mếu máo kể: 

- Lúc gần sáng con còn đem nước tới đút cho bà, vừa chỉ chợp mắt một chút xíu thì bà đã đi đâu mất! 

- Đã tìm khắp nơi chưa? 

- Dạ rồi, nhưng chẳng thấy đâu... 

Cô y tá trực bảo: 

- Lúc đó là gần bốn giờ sáng, cháu đi vệ sinh ra thì thoáng thấy một bóng người mặc chiếc áo choàng đen từ phòng bệnh bước ra cùng một người nữa bước đi rất chậm. Cháu cứ ngỡ là người nhà bệnh nhân dìu thân nhân mình đi vệ sinh, nên không hỏi. Đến khi vào kiểm tra nhiệt độ thì đã không thấy bà ấy đâu. Cháu gọi chị này dậy… 

Chị Bảy giúp việc lúng túng có lẽ lo sợ bị rầy la: 

- Dạ... Con quá buồn ngủ... 

Ông Ninh lo lắng, nhưng cũng chẳng biết làm gì khác hơn là liên lạc với bên ông bà sui gia. Họ báo một tin làm ông càng lo sợ hơn: 

- Hồi nửa đêm, má con Thu Nguyệt mơ thấy vợ chồng con Thu Nguyệt đang bị giam trong một lâu đài! 

Người báo tin là bố của Thu Nguyệt, ông còn cho biết: 

- Hầu như suốt đêm qua nhà tôi không tài nào ngủ được. Bởi vừa chợp mắt thì nghe ai đó gọi ngoài cửa sổ, ai đó bảo rằng con Thu Nguyệt sẽ phải trả giá bằng mạng sống vì tội lỗi của một người tên là Thu Dung. Chúng tôi đã rà soát lại trong dòng họ mình thì chẳng có ai tên là Thu Dung cả. Vậy chẳng hay bên anh chị có ai tên như vậy không? 

Ông Ninh lặng đi trong mấy giây, bởi Thu Dung là tên vợ ông. Ông nghĩ có lẽ do quá căng thẳng nên ông sui gia đã quên Thu Dung có in trên thiệp cưới. Sợ hỏi thêm sẽ lộ chuyện lôi thôi, nên ông Ninh cáo từ. Về nhà ông nhận thêm một tin không vui nữa do người tài xế báo: 

- Thưa ông, có người chuyển tới gói đồ này. Hình như là quần áo của bà. 

Mở gói ra thì đúng là bộ quần áo của bà Ninh mặc lúc nhập viện: 

- Ai chuyển tới? 

- Dạ, có một người tên là Lan Ngọc gì đó đến tận đây gõ cửa và để lại gói đồ này. 

Ông Ninh tái mặt: 

- Anh có gặp người đó? 

- Dạ không. Tôi đang lau xe trong này thì nghe người kêu cửa, tôi chạy ra gần tới nơi thì nghe ở ngoài có tiếng người vọng vào nói là “của Lan Ngọc gửi” rồi đi nhanh đến nỗi tôi mở cửa liền mà cũng chẳng thấy! 

Ông Ninh tái mặt: 

- Sao lại vẫn là cô Lan Ngọc này? 

Ngồi thừ người rất lâu trong phòng, cố nhớ lại xem trong số bạn bè có ai là Lan Ngọc? Nhưng không tài nào ông Ninh nhớ ra được. Hay là bạn riêng của bà ấy? 

Chợt nghĩ đến điều đó, ông Ninh bước lại tủ chứa những sách vở, hình ảnh của vợ chồng ông và cả những gì mà thời trẻ ông và bà còn lưu giữ... Lần tìm gần nửa giờ, chợt trong số tập vở cũ có hai quyển sổ tay, vừa mở ra ông Ninh đã bắt gặp hai tấm ảnh khá cũ. Trong đó có một tấm chụp chung của hai cô gái thuở còn đi học, mà một trong hai người là vợ ông, còn cô gái kia thì ông chưa hề biết. Lật ra sau ảnh có ghi dòng chữ nắn nót “Thu Dung và Lan Ngọc mùa phượng vĩ 1955”. 

- Lan Ngọc! 

Ông Ninh đã bắt đầu hiểu. Thì ra cô ta là bạn xưa của vợ ông. Nếu tính tuổi thì bằng hoặc hơn tuổi vợ ông, nhưng sao qua điện thoại giọng cô ta còn rất trẻ? Vả lại một người như thế thì làm sao đóng thế vai con dâu Thu Nguyệt trong lễ cưới? 

Còn đang rối bời với bao câu hỏi trong đầu thì chợt điện thoại reo vang ngoài phòng khách. Chạy ra vừa cầm ống nghe ông Ninh đã nghe rõ giọng bà vợ: 

- Ông ơi, cứu tôi với, tôi bị lạnh. Tôi chẳng có gì che thân, tôi lạnh lắm... 

Nói đến đó thì cúp ngang, chỉ còn lại tiếng bíp bíp. 

- Alô! Alô! Bà đâu rồi? Bà... 

Chẳng còn một tín hiệu gì nữa.

Chuyện Hai Mươi Lăm Năm Trước 

Chiếc xe Peugeot 203 ngừng lại trước Grand Hotel ở bãi biển Long Hải. 

Từ trên xe hai cô gái bước xuống giữa tiếng trầm trồ của những người có mặt trên sảnh khách sạn. Bởi hai cô như hai bông hoa rực rỡ giữa mùa hè rực nắng vàng. 

Hai người, mỗi người một vẻ, nhưng nhan sắc thì có lẽ vượt trội so với những người có mặt. 

- Này Lan Ngọc, cậu nói mình ngụ ở một biệt thự riêng ở chỗ vắng người, sao giờ lại ghé đây? 

Người được gọi là Lan Ngọc là cô gái mặc chiếc đầm trắng tinh khiết, có khuôn mặt tròn, da sáng, mắt trong, vẻ phúc hậu, đoan trang, nghe bạn hỏi đã cười hồn nhiên: 

- Ghé đây một chút để bồ có dịp làm cho đám nam nhân ở đây lé con mắt chơi! Này nhé, dân ở khách sạn bậc nhất này toàn vương tôn công tử đây! 

Vừa lúc ấy có tiếng reo phía sau: 

- Gió lạnh đã thổi bông hoa hương sắc tới đây rồi! 

- Chẳng phải một, mà đến hai bông hoa kìa! 

Hai chàng trai mặc âu phục toàn trắng, mang giày da cũng một màu trắng được đánh xi khá bóng, họ chừng như đã đợi bông hoa này khá lâu. Lan Ngọc cười rạng rỡ: 

- Xin giới thiệu, đây là anh Quang bạn trai của mình, còn người kia là anh Hoàng, bạn của anh Quang. Thu Dung bạn chí cốt mà mình từng kể! 

Họ bắt tay nhau sau lời giới thiệu và ánh mắt của Quang đã dừng lại khá lâu khi nắm bàn tay cô gái tên Thu Dung. Hình như một luồng điện quang rất mạnh đã bắn ra từ cái nhìn đầu tiên đó... 

- Kìa, bộ có quen sao nhìn dữ vậy? 

Chính Lan Ngọc cũng cảm giác được cái nhìn kia, và cũng chính nhờ câu hỏi cắt ngang của cô nên hai người mới buông tay nhau ta. Quang hơi lúng túng: 

- Có cảm giác là hơi giống giống với ai đó... nhưng không phải... 

Thu Dung cũng chống chế: 

- Mình cũng nghĩ vậy, nhưng nhìn kỹ thì đúng là… rất lạ! 

Tội nghiệp anh chàng tên là Hoàng nãy giờ cũng bị thu hút bởi nét sắc sảo của Thu Dung, giờ cũng chỉ là kẻ đóng vai phụ, khi sau cái bắt tay của họ, đến phiên anh thì Dung chỉ nắm tay một cách qua loa rồi thôi, chẳng có lấy một lời xã giao. 

Lan Ngọc đã chủ động giục: 

- Thôi, mình đi chớ, kẻo muộn. 

Họ lên xe. Ngọc nhường tay lái cho Quang và đáng lẽ chỗ cô ngồi là ghế bên cạnh, phía trước, nhưng Quang đã bảo: 

- Em ngồi sau với Hoàng. 

Lan Ngọc không nghĩ gì, lại còn đùa với Thu Dung: 

- Bồ ngồi trước đó sẽ phải đứng tim vì lối chạy xe hướng xuống ruộng của anh ấy! 

Quang nói một câu đầy ngụ ý: 

- Có lọt xuống ruộng cùng với một người đẹp như Dung đây thì cũng không có gì phải ân hận! 

- Kìa, coi chừng con bò! 

Lan Ngọc la lên kịp thời, nếu không xe đã tông vào con bò đi qua lộ, trong lúc Quang mải liếc sang trêu chọc cô bạn gái của người yêu mình. 

Lan Ngọc càu nhàu: 

- Lái cho cẩn thận, không đùa đâu nhé. 

Hoàng cũng lên tiếng: 

- Thằng Quang này không biết sợ con sư tử Hà Đông ngồi ngay sau lưng sao chớ! 

Lan Ngọc nói mát: 

- Sư tử bị cắt mất móng vuốt rồi! 

Trong lúc mọi người lời qua tiếng lại như vậy mà Thu Dung vẫn im lặng, mắt hướng thẳng tới trước, càng lộ vẻ kiêu kỳ và quyến rũ lạ thường dưới mắt các chàng trai. Cái sắc diện này chính Lan Ngọc đã nhiều lần nhận ra và thầm phục bạn mình có sức hấp dẫn lạ thường mà ít có người con gái nào có được. 

- Nè Dung... 

Nghe Ngọc gọi, lúc này Dung mới quay lại: 

- Chuyện gì vậy? 

- Bị ai hớp hồn mà tư lự dữ vậy? 

- Con bò vàng lúc nãy! 

Câu pha trò của Dung làm cả bọn cười ồ và nhờ vậy không khí trở lại thân mật hơn. Ngọc hỏi: 

- Sao anh và anh Hoàng không tới thẳng biệt thự Thuỳ Dương mà bảo phải đón ở Grand Hotel? 

Quang chỉ tay ra phía Hoàng: 

- Tại thằng quỷ này nó đòi ghé đó để tìm xem con gái xứ biển này có ai để nhìn không! 

Lan Ngọc quay sang Hoàng: 

- Đã tìm được ai chưa anh Hoàng! 

Không suy nghĩ. Hoàng đáp: 

- Có rồi! 

- Ai vậy? Sao không giới thiệu? 

Bất ngờ Hoàng chỉ vào lưng Thu Dung: 

- Ở đây rồi còn giới thiệu gì nữa! 

Ngọc phá lên cười: 

- Thảo nào nãy giờ ai nấy đều thả hồn đi đâu đâu. Con Dung này, mày bị phạt đấy nhé! 

Thu Dung ngơ ngác hỏi: 

- Sao lại phạt? 

- Về cái tội… 

Quang hớt lời: 

- Tội làm người khác ngẩn ngơ thần hồn! 

Có tiếng tằng hắng của Lan Ngọc, khiến Hoàng bật cười: 

- Tớ ngẩn ngơ thần hồn nhưng lại có đứa bị vạ lây mới khổ chứ! 

Tự dưng Lan Ngọc thấy tưng tức trong lòng. Chẳng biết là do Quang và Hoàng cứ nói về “ai đó” mà hình như quên sự có mặt của cô, hay là tại vì cho đến lúc này Thu Dung vẫn phớt lờ mọi sự trêu chọc, bóng gió của hai người đàn ông, mà điều đó lại làm cho cô nàng lại càng… quyến rũ! 

Thậm chí tiếng tằng hắng vừa rồi cũng không làm cho Dung quan tâm. Đến nỗi Ngọc phải hỏi: 

- Nói chuyện đi chứ, con quỷ cái! 

Thu Dung chỉ cười nhẹ, rồi tiếp tục im lặng đưa mắt nhìn ra hai bên đường... 

Gần nửa giờ sau xe tới nơi. Rẽ vào một ngôi nhà có tường cao che chắn gió khá kín đáo, biệt lập với bên ngoài. Lọt vào trong thì trước mặt Thu Dung là cả một thế giới quyến rũ với những cây sứ đại trổ hoa trắng đầy cả một khoảng sân rộng. Ngôi nhà cổ xây theo kiến trúc châu Âu vừa nhìn đã bị thu hút bởi sự trầm mặc, cổ kính nhưng sang trọng của nó... 

Trong số bốn người có lẽ Dung là người duy nhất là khách lạ, bởi cô mới đến đây lần đầu... Lan Ngọc là chủ ngôi nhà, chính cô đã mời Thu Dung theo mình về đây với lời giới thiệu: “Mình muốn bồ có kỳ nghỉ hè tuyệt vời ở một nơi mà năm nào mình cũng ở rồi không còn muốn trở lại thành phố ồn ào đầy khói bụi nữa...” 

Lan Ngọc đã nói rất nhiều về gia đình về những kỳ nghỉ hè lý thú thơ mộng. Chỉ có điều chưa lần nào cô nàng nhắc đến Quang. Do vậy khi gặp Quang hôm nay Thu Dung có cảm giác là lạ và trong thâm tâm cô không tin họ là một cặp đôi lý tưởng. Nhất là khi bắt gặp ánh mắt khác thường của Quang, Dung đã có một linh cảm khó lý giải... 

- Kìa cô nàng, sao không vào thay đồ để còn ra biển nữa. 

Lan Ngọc nhắc, Dung mới nhớ ra là trước khi đi chính cô nằng nặc đòi phải để cho đi tắm biển ngay khi vừa tới. Sao bây giờ tự dưng Dung lại muốn được thơ thẩn quanh khu nhà, ngắm sứ đại nở hoa. 

Cuối cùng phải miễn cưỡng theo bọn họ ra biển, Dung một mình bơi ra thật xa, tránh hẳn nhóm của Quang và Lan Ngọc. Có tiếng gọi ơi ới từ trong bờ, nhưng Dung không quay lại nhìn. Cô đoán có lẽ Ngọc sợ cô nguy hiểm nên gọi vào. 

Với đứa con vùng sông nước như Thu Dung thì chuyện bơi xa bờ năm đến bảy trăm mét là chuyện nhỏ. Do đó cô tự tin tiếp tục bơi... Tuy nhiên, khi một đợt sóng cao ập đến, cùng lúc với dòng nước xoáy bên dưới, đã làm cho Dung chao đảo, mất định hướng và sặc nước, chới với... 

Mở mắt ra nhìn lên trần nhà Thu Dung ngơ ngác, vì cô đang nằm ở một nơi hoàn toàn xa lạ. Dần nhớ lại mọi việc, Dung định bật dậy, thì có một cánh tay ngăn lại, một giọng nói ấm áp: 

- Nghỉ ngơi đã, chưa khỏe hẳn đâu người đẹp. 

Người nói là Quang. Anh chàng mặc có mỗi chiếc quần soóc trắng, để lộ cả thân thể rắn chắc khoẻ mạnh. 

- Ở đây là.. 

Quang đáp khẽ: 

- Trong biệt thự Thùy Dương của Lan Ngọc. Hồi chiều em bị nước cuốn, may mà anh ra kịp... 

- Thì ra anh Quang đã… 

- Đã cứu nàng kịp thời và đã đưa nàng về dinh. 

Nhìn quanh tìm kiếm, Dung hỏi: 

- Thế Ngọc và anh Hoàng đâu? 

- Các người ấy mê tắm nên còn ngoài biển. Chỉ có mình anh đưa em vô và... 

Anh ta ngừng nói, vừa lúc Dung nhìn xuống thân mình và giật mình: 

- Vậy ai đã... 

Quang cười 

- Ai đã thay đồ cho chứ gì? Chuyện bất khả kháng mà. 

Dung ngượng đỏ cả mặt vừa nhảy xuống giường vừa cất tiếng gọi to: 

- Ngọc ơi! 

Cô vừa bước đến cửa thì Quang đã ôm ghì lại, hơi thở của anh ta rất nóng ở gáy. 

- Đừng, anh Quang... 

Nhưng anh chàng như con hổ đói, đã thật nhanh đặt lên môi cô một nụ hôn và càng ghì chặt hơn… 

- Dung ơi! Ra sao rồi? 

Tiếng của bạn Ngọc bên ngoài. Lúc này hai người mới rời nhau ra. Dung thoát ra khỏi phòng và chạm mặt Ngọc ở phòng khách. 

- Hồi nãy bồ làm mình hết hồn, cũng may anh Quang bơi giỏi và anh cũng là tay cấp cứu cừ khôi nên mình mới yên tâm để ảnh một mình đưa bồ về nhà. Sao rồi, tối nay vui một trận được chứ? 

Thấy bạn không một chút nghi ngờ, Thu Dung cũng gượng cười: 

- Chính cái tài bơi sông của mình đã hại mình. Mình cảm ơn cậu. 

Lan Ngọc cười: 

- Cảm ơn anh Quang, chớ sao lại là mình. 

Đã có tiếng của Quang sau lưng: 

- Khỏi cảm ơn, chỉ cần cười cho vài nụ là đủ rồi. 

Thu Dung cúi xuống tránh cặp mắt của anh ta. Trong lúc Lan Ngọc vô tư chẳng để ý gì, cô giục: 

- Cậu còn mệt thì vào trong nghỉ thêm một chút nữa, mình đi tắm lại, rồi ra ta chuẩn bị buổi tối ngoài sân. Mình đã nhờ người làm sẵn các món ăn, khoảng bảy giờ họ sẽ mang tới. 

Thu Dung vẫn còn chưa tự chủ sau “sự cố” vừa rồi, nên chỉ cười nhẹ với bạn rồi trở về phòng đóng kín cửa lại. Nằm rất lâu cô mới nghe tiếng gọi của Ngọc từ bên ngoài. Họ ơi ới gọi nhau ra sân ăn cơm, một cách miễn cưỡng Thu Dung cũng phải ra chứ thật sự cô không muốn tới. Chẳng biết do tai nạn sóng biển vừa chiều hay do cái gì khác.. 

Trong suốt buổi ăn dù Quang và cả Lan Ngọc đều cố tình pha trò, hoạt náo, nhưng Dung chỉ tham gia lấy lệ. Rồi bữa ăn cũng qua nhanh, kém vui, nhất là phía Dung. 

Xong bữa cơm Thu Dung đứng dậy trước, cô nói với Ngọc: 

- Đừng lo cho mình, tự dưng mình thấy khó ở... có lẽ mình vẫn còn bị choáng. Hãy để mình một mình, mình cần thư giãn. Sáng mai gặp lại. 

Hơi ngạc nhiên về thái độ của bạn, nhưng nghĩ Dung mệt thật sự nên Lan Ngọc cũng không ép. Cô chỉ đưa mắt liếc sang phía Quang và bắt gặp ánh mắt anh chàng đang dõi theo Dung. Hoàng là người nhìn thấy Ngọc cau mày... 

Thay vì trở về phòng, Dung bách bộ ra phía sau ngôi nhà. Gió biển nhè nhẹ phả vào mặt, lướt qua làn môi và chợt làm cho cô nhớ lại hành động lúc nãy của Quang. Nụ hôn đầu đời sao lại trao cho người tình của bạn? Mày sao vậy hả Dung? Mày là đứa đẹp và quyến rũ nhất trong đám bạn bè, chỉ kém Lan Ngọc về sự giàu có, sao hả cớ gì lại như vậy? 

Dung chợt rùng mình. Cô kéo cổ áo, bước tới một gốc sứ già ở một nơi vắng và khuất, dựa lưng vào đó. Gió nhẹ hơn, dễ chịu hơn. Dung muốn ngủ một giấc vì lúc này hai mí mắt cô cảm giác nặng và cứ muốn nhắm mắt... 

Một bàn tay đặt nhẹ lên vai làm Dung giật mình mở mắt ra và... 

- Cô là…? 

Trước mắt Dung lúc ấy không phải là Quang, cũng chẳng phải là Lan Ngọc mà là một phụ nữ lạ. Trong bóng tối nhưng Thu Dung cũng nhận ra bộ áo váy trắng rất thanh thoát, sang trọng mà cô ấy đang mặc. Cô ta có mái tóc dài xõa gần đến thắt lưng, một vài cọng tóc tung bay theo gió. 

- Cô là ai? 

Dung lặp lại câu hỏi nhưng lần này vẫn không nhận được câu trả lời. Chỉ thấy cô gái lạ quay bước đi về phía cuối ngôi nhà và chẳng hiểu sao, như có một hấp lực lạ thường nào đó khiến Dung bật dậy và bước theo. 

Vượt qua một hàng sứ cổ thụ nữa lúc này Thu Dung mới phát hiện ra phía trước mặt có một dãy nhà ngang chìm trong bóng tối. Đây có lẽ là ngôi nhà phụ của ngôi biệt thự đồ sộ phía trước. Loại nhà này thường chỉ dành cho người giúp việc ở hoặc để làm nhà xe, nhà kho. Mà trông dáng vẻ cô gái này thì không có chút gì là người ăn kẻ làm trong nhà. 

Cô gái biến nhanh vào trong đó. Thu Dung còn ngập ngừng ở ngay cửa vào thì một cánh tay đã kéo cô vào rất nhanh. Dung lại mất thăng bằng, ngã chúi về phía trước. Cô chưa kịp kêu lên thì đã chạm vào một ai đó ở phần tối nhất của gian phòng. 

Một giọng nói nhẹ mà sắc lạnh: 

- Cô ngồi đi. 

Không thấy được, cũng không chủ động, nhưng Dung đã được ngồi lên một chiếc ghế nhỏ có sẵn. 

- Cô có yêu anh ta không? 

Không thấy mặt người hỏi, nhưng đoán người được hỏi là mình nên Thu Dung ngơ ngác hỏi lại: 

- Yêu ai? Bà hỏi tôi? 

Một giọng cười không bình thường: 

- Trong phòng này ngoài tôi, cô và đứa ở của tôi ra thì chẳng còn ai nữa. Mà đứa tớ gái của tôi thì đã bước ra ngoài rồi. Tôi hỏi cô đó. 

- Bà hỏi về ai? Tôi yêu người nào? 

- Cái anh vừa hôn cô lúc nãy! 

Chụp tay lên môi, Dung run cả người. Lúc ấy trong phòng Dung chỉ có cô và Quang, sao người này lại biết? 

- Sao cô không trả lời, hay tại tôi nói sai? 

- Dạ... 

- Khỏi nói, tôi hỏi nhưng đã có câu trả lời. Bởi ngay từ lúc trưa ở tiền sảnh khách sạn Grand Hotel tôi đã thấy cô bị “tiếng sét ái tình” đánh trúng tim rồi! Cái anh chàng Quang đó xem ra cũng giống như cô, anh ta cũng trúng mũi tên ái tình rồi, nên chẳng phải chỉ một nụ hôn đó, anh ta còn dám làm chuyện hơn đó nữa kìa! 

- Thưa bà... 

Một bàn tay lạnh tê người, vừa chạm vào một bên má của Dung, khiến cô rùng mình. Giọng người ấy cũng lạnh không kém: 

- Cô nên nhớ ngôi nhà này được người ta đặt cho cái tên là “lâu đài tình ái”, do đó bất cứ ai sắp bước vào hoặc ở trong đó rồi đều sẽ không thoát khỏi cái quy luật của tình yêu! Cô đã bị tiếng sét ái tình đánh trúng có nghĩa là cô đã ứng với lời nguyền nơi đây. 

- Lời nguyền gì? Tôi đâu có.. 

- Lời nguyền của tôi, cô hiểu chưa! 

Giọng bà ta như từ một cõi âm ty vọng về, làm cho Thu Dung không còn ngồi vững trên ghế, cô ngã chúi lần nữa và lần này chẳng có ai đỡ nên cả thân người Dung sóng xoài trên nền gạch. 

Người báo động đầu tiên về sự vắng mặt của Thu Dung là Quang. Anh ta tỏ ra lo lắng hỏi: 

- Lúc nãy cô ấy bảo về phòng hay đi đâu? 

Lan Ngọc đăm chiêu: 

- Nó chỉ nói là khó ở rồi đi về. Em cứ ngỡ là nó về phòng. Nhưng tại sao anh biết Dung không có trong phòng? 

Quang hơi lúng túng: 

- Thì vừa ăn xong anh muốn hỏi Dung... có cần thuốc gì không anh đi mua... anh gõ cửa phòng không nghe đáp, anh đẩy vô vì phòng không có khóa... 

Lan Ngọc vẻ không đồng tình: 

- Đúng ra anh nên báo cho em. Phòng con gái mà anh tự tiện mở như vậy là đúng sao? 

Tuy nói vậy nhưng Lan Ngọc vẫn cùng Quang và Hoàng chạy ra ngoài tìm Dung. Cô phân công: 

- Anh Hoàng chạy ra biển xem có Dung ở ngoài đó không. Giờ này biển vắng lắm, rất dễ tìm. Còn tôi với Quang tìm chỗ vườn. 

Tuy là nhà của mình, tuy nhiên lâu lâu Lan Ngọc mới ra một lần, nên ít khi có dịp ra các ngóc ngách như thế này, cô tỏ ra lúng túng, đi dò từng bước Quang phải giục mấy lần: 

- Ngọc đi nhanh đi chứ, lỡ có chuyện gì thì sao! 

Phải mất gần năm phút sau họ mới ra tới dãy nhà ngang phía sau. Ngọc nhìn và chán nản: 

- Nó nhát gan, làm gì dám ra mấy chỗ vắng này. 

Nhưng Quang có vẻ chăm chú dãy nhà chìm trong bóng tối: 

- Ngọc chờ đây, anh vào lấy đèn pin. 

Quang chạy đi, lát sau trở ra với đèn soi trên tay, anh kéo tay Ngọc: 

- Ta vào xem thử. 

Lan Ngọc chưa một lần vào chỗ này, chỉ nghe ba cô bảo đó là nhà dành cho người giúp việc ở, nhưng từ khi ba bệnh không ra đây nữa thì người làm chỉ còn mỗi ông Tư già ở và ngủ ngay gian nhà lớn và cứ đến cuối tuần thì trở về thăm gia đình ở Long Đất. 

- Cửa không khoá. 

Quang chủ động đẩy cửa vào, lia đèn pin vào trong và Ngọc lại là người kêu lên trước: 

- Có ai kìa! 

Họ phát hiện Thu Dung nằm ngất lịm ở phía cuối phòng, nơi có một chiếc giường cũ, chẳng có chăn màn gì cả. Không chần chừ, Quang cúi xuống đỡ Dung lên, anh đưa tay sờ lên ngực trước sự ngạc nhiên của Ngọc. 

- Còn sống! 

- Dung làm gì trong đó và tại sao…? 

Thu Dung chỉ nhẹ lắc đầu trước câu hỏi của Lan Ngọc: 

- Mình cũng không biết. 

Biết Dung vẫn còn bị sốt nên Ngọc cũng không hỏi nhiều, cô ra dấu cho Quang cùng ra khỏi phòng: 

- Có lẽ có chuyện gì đó khó nói, nhưng Dung còn mệt, đừng làm phiền nó. 

Rõ ràng là Quang không an tâm, nhưng không tiện nói nên anh đi về phòng. Vừa thấy mặt Hoàng đã hỏi: 

- Cô ấy vào làm gì chỗ ấy để bị như vậy? Cô ấy có kể gì không? 

Quang lắc đầu, vẻ suy tư... Thấy thế Hoàng cũng không hỏi gì thêm. Nằm một lát không nghe Quang nói gì nên Hoàng ngủ rất nhanh. 

Đêm khuya dần... 

Cả ngôi nhà rộng chỉ có bốn con người và có lẽ họ sau một ngày đã có quá nhiều chuyện, đã bắt đầu một giấc ngủ say. Duy chỉ có một người... 

Quang chờ Hoàng ngủ thật say mới cầm đèn pin, bước nhẹ ra ngoài. Đích đến của anh chàng tất nhiên là dãy nhà phía sau. Lúc đầu hôm do vội vàng cấp cứu Dung và mọi người chưa tìm hiểu kỹ nơi mà Quang cho là còn nhiều điều bí ẩn... 

Vẫn như những gì Quang đã nhìn thấy lúc nãy, căn phòng trống không, đầy mùi ẩm mốc. 

Thu Dung bị ngất do lỡ vào đây rồi quá sợ? Quang không tin như vậy. Dứt khoát là có một biến cố nào đấy... 

Tắt đèn pin, Quang quyết định làm một cuộc mai phục trong bóng tối. Anh chờ đợi một điều gì đó mà chính anh cũng không biết sẽ là chuyện gì. 

Quang rất tự tin, bướng bỉnh và gan góc nữa, nhưng ngồi trong bóng tối như vậy tự dưng anh rùng mình. Một cái lạnh không biết từ đâu tới đã khiến toàn thân Quang gai ốc nổi đầy. Đến lúc anh hiểu cái lạnh đến từ một bàn tay gầy guộc thì cũng là lúc cả thân thể nặng trên sáu mươi ký của anh đã bị lôi đi một cách nhẹ nhàng... 

Đến một nơi nào đó, Quang mơ màng hiểu là mình được ấn ngồi xuống. Dần dần Quang tỉnh táo trở lại, anh cố căng mắt ra xem nơi mình đang ngồi là ở đâu, nhưng không tài nào thấy được gì. 

Chợt đèn bật sáng. Trước mặt Quang là một phụ nữ mặc đồ lụa toàn màu hồng. Vừa trông thấy anh chàng đã kêu lên: 

- Ngọc! Lan Ngọc! 

Người phụ nữ mà Quang vừa gọi là Lan Ngọc không nói năng gì, lẳng lặng đưa tay kéo chiếc khăn trùm đầu ra, một mớ tóc dài quá mông xõa xuống, làm cho Quang khựng lại: 

- Kìa, Ngọc... mà không... 

Quang định chồm lên, nhưng hai đầu gối anh như bị khớp chặt, khụy xuống trong tư thế quỳ. 

Đèn lại tắt, bàn tay lạnh như băng của người phụ nữ chụp vào đỉnh đầu Quang khiến cho anh cảm thấy nóng ran toàn thân. 

Có một giọng nói nghe rất lạ rót vào tai Quang, dù rất khẽ nhưng anh nghe rất rõ: 

- Hãy yêu như con tim mách bảo. Hãy làm đi! 

Những bước chân rất nhẹ xa dần... 

Khi Quang hết cảm giác mất lực, anh vùng đứng lên như phát cuồng, cắm đầu chạy một mạch vào nhà lớn. 

Đập cửa phòng thật mạnh và phải chục giây sau Lan Ngọc mới mở cửa. Cô còn ngáy ngủ, vô cùng ngạc nhiên khi thấy người yêu trong bộ dạng như vậy: 

- Anh làm sao vậy Quang? 

Nhìn Ngọc như một người lạ: 

- Em chính là… Ngọc? 

Lan Ngọc phải gắt lên: 

- Bộ anh say rượu rồi hả? Mở mắt to mà nhìn đi! 

Cô giận dỗi bỏ trở vô phòng, Quang bước theo nắm vai cô kéo lại và đưa tay kia vuốt lên tóc Ngọc: 

- Không đúng rồi... tóc người ấy dài hơn nhiều... 

Không còn kiềm chế được nữa, Ngọc la to lên: 

- Anh làm sao vậy Quang? Anh uống rượu lúc nào mà bét nhè như thế này hả? 

- Anh đâu có uống tý nào... 

Rõ ràng ngửi chẳng có mùi rượu, Lan Ngọc càng ngạc nhiên hơn: 

- Có chuyện gì vậy? 

Nhìn thẳng vào mắt người yêu, giọng Quang căng thẳng: 

- Em ra ngoài đó làm gì? 

- Ngoài nào? 

- Chỗ dãy nhà ngang, nơi Thu Dung bị ngất? 

Lan Ngọc tròn xoe đôi mắt: 

- Anh sao vậy Quang? Từ nãy giờ em ngủ, chưa hề ra khỏi phòng này! 

Quang hơi bình tâm lại: 

- Mà không thể... đúng là không thể... 

- Quang! Anh có bị sao không vậy? Anh... 

Quang bất thần lao ra ngoài rồi biến nhanh vào trong bóng tối. Ngọc vừa đuổi theo vừa gọi to: 

- Quang! Quang! 

Lần theo tiến bước chân, Lan Ngọc ra tới ngoài sân rồi rẽ sang hông nhà, nơi có hàng sứ cổ thụ. Và ở nơi gốc sứ cuối cùng Ngọc nhẹ bước hơn, bởi trước mắt cô đúng là bóng của Quang đang dừng lại. Không muốn kinh động, sợ Quang lại chạy tiếp. Ngọc đứng nép vào bụi hoa ngọc lan. Cách đó chưa đầy năm mét. Quang đang từ từ ngồi xuống cạnh gốc sứ. Và thật bất ngờ có cánh tay của ai đó đã ngồi sẵn ở đó đang vươn lên kéo đầu Quang ghì xuống. 

Trong phút chốc hai thân thể nhập vào nhau dựa hẳn vào gốc cây. Tưởng mình hoa mắt, Ngọc đưa tay dụi mắt mấy lần còn chân thì bước thêm vài bước thật nhẹ, gần hơn... 

Trong đêm thanh vắng, chợt có những tiếng thì thầm nhưng khoảng cách gần nên Ngọc cũng nghe rõ: 

- Dung đây mà! Em cứ nhắm mắt lại và nằm yên. Đúng rồi... cứ thế... 

- Quang! Em cũng không biết tại sao em lại phải ra đây với anh... em chịu không được nữa rồi... Người em nóng rần như lửa cháy! Em cần anh. Quang ơi. 

- Trời ơi! 

Tiếng thảng thốt này là của Ngọc. Những gì đang diễn ra trước mặt là thật sao? Quang và Thu Dung đang làm cái trò gì ở đây? 

Muốn nhào ngay tới cho họ một trận, nhưng chẳng hiểu sao người Ngọc như mất hết sức lực. Cô đứng đó trào nước mắt và uất nghẹn. Để rồi lặng lẽ lùi bước. 

Ở phía sau cô vẫn còn nghe tiếng thì thầm của Quang và cô bạn gái thân nhất của mình... 

Nằm mãi mà không tài nào chợp được mắt, Lan Ngọc bật dậy định bước ra khỏi phòng, nhưng nghĩ sao cô lại nằm xuống. Và cứ thế, đã gần trắng đêm mà cô chẳng thể nào ngủ được. Cuối cùng Ngọc chỉ còn biết khóc. Những giọt nước mắt có thể làm vơi đi nỗi khổ, ít ra là trong lúc này… 

Ở bên ngoài cửa sổ, đứng thu mình trong bóng tối dày đặc là bóng người phụ nữ mà cả Quang và Dung từng gặp ở dãy nhà ngang. Bà ta đã lặng lẽ nhìn vào phòng và theo dõi mọi cử chỉ của Lan Ngọc. Đến khi Ngọc khóc thì ngoài này bà ta cũng rơi nước mắt theo. Trời bắt đầu sáng... cũng là lúc bóng người bên ngoài nhẹ nhàng dời bước đi về phía dãy nhà ngang. 

Trong phòng Ngọc bước hẳn xuống giường, sau vài phút lưỡng lự, cô dứt khoát bước ra khỏi phòng. Nơi Ngọc dừng bước là phòng của Thu Dung. Trước khi giơ tay gõ cửa trong lòng Lan Ngọc đã có một quyết tâm, cô sẽ nói thẳng với con bạn táng tận lương tâm về hành động không phải của nó. 

Sau mấy tiếng gõ, Ngọc đứng đợi và hơi sốt ruột. Cô lại gõ lần nữa... và lần nữa... Vẫn chẳng nghe động tĩnh gì từ bên trong. Không thể đợi thêm, Ngọc đẩy cửa vào. Và cô khựng lại, bởi căn phòng không có ai. Thu Dung đâu? 

Chạy sang phòng của Quang, càng ngạc nhiên hơn khi Quang cũng không có trong đó. 

- Họ đã đi cùng nhau từ nửa đêm! 

Đó là lời của ông già Tư. Ông nói rõ hơn: 

- Tôi về từ chiều qua, nhưng thấy cô chủ có nhiều bạn bè nên tôi ngủ ngoài hành lang. Vào lúc nửa đêm thì tôi thấy cậu Quang đi ra cùng với một cô gái nào đó, chắc là bạn của cô. Họ đón xe thổ mộ, có lẽ ra bến xe đó để về Sài Gòn. 

Cơn uất trong lòng Lan Ngọc đã lên đến tột đỉnh. Cô chẳng nói thêm lời nào, vùng chạy ra sân lấy xe đuổi theo. Tuy nhiên, khi xe đã nổ máy rồi ông Tư đứng trong nhà nói vọng ra: 

- Mấy bánh xe đã xẹp lép hết rồi làm sao chạy được nữa cô chủ ơi! 

Bước xuống nhìn bốn bánh xe đều bị xì, Lan Ngọc đứng lặng người, hai tay nắm chặt, người run lên vì giận. Cuối cùng Ngọc quyết định đón xe thổ mộ, nhưng ông già Tư đã cản lại: 

- Giờ cô có ra đó thì cũng đã trễ rồi. Tốt hơn hết là chờ tôi gọi thợ đến bơm bánh xe, xong cô về sài gòn gặp họ cũng chưa muộn. 

Chẳng còn cách nào hơn, Lan Ngọc quay vào nhà với nỗi lòng tê tái... 

Ở một bụi cây từ hông nhà, có đôi mắt của người phụ nữ lén nhìn ra và nhẹ thở dài. Trong khóe mắt của bà ta ươn ướt những lệ... 

- Ngọc, hãy tha lỗi cho mẹ. Chính mẹ đã cản không cho con đuổi theo họ. Đừng luyến tiếc chi một người đàn ông như vậy con ạ... 

Bà vừa lẩm bẩm vừa quay đi...

Phần 2 

Chuyện Tội Lỗi Ở Lâu Đài 

Suốt gần một tháng ở Long Hải về Thu Dung như đắm chìm trong cơn trầm uất. Chỉ còn bốn ngày nữa là tới ngày thi Tú Tài toàn phần vậy mà cả nhà chẳng thấy Dung đụng đến bài vở để ôn luyện gì cả, khiến ai cũng lo. Tuy nhiên, không ai nghĩ là Dung bỏ thi và biến mất khỏi nhà một cách kỳ lạ! 

Ba mẹ Dung nháo nhào đi tìm con. Và nơi mà họ nghĩ tới đầu tiên là nhà Lan Ngọc, bởi Ngọc và Dung con họ là đôi bạn thân thiết nhất. Nhưng chính Lan Ngọc đã làm cho họ lo sợ thêm, khi cô với vẻ mặt lạnh lùng trả lời họ: 

- Từ ngày ra nhà con ở Long Hải trở về, giữa con và Dung đã không còn liên lạc với nhau nữa. 

Bà Liên, mẹ của Dung ngạc nhiên hỏi: 

- Chính con rủ nó ra đó chơi, còn nói là sẽ cùng ở đó suốt mấy tháng hè nữa, sao đột ngột bỏ về rồi nay lại có chuyện này? 

Lan Ngọc không nói gì thêm quày quả bỏ vô nhà. Ba của Dung thấy vậy bảo vợ: 

- Thái độ của nó như vậy bà còn hỏi gì nữa.Thôi về. 

Về nhà bà Liên vẫn không yên. Bà vào phòng con gái lục hết tủ này đến tủ nọ, cố tìm xem có chút dấu vết nào của Dung còn để lại không, để còn hy vọng tìm ra con... 

Ở nhiều trang của quyển tập giấy trên bàn là chữ của Dung ghi nhiều lần dòng chữ “lâu đài tình ái”... “lâu đài tình ái”... “Long Hải”... “Long Hải”… 

- Hay là nó ở đó. 

Bà Liên có lần đi chơi Long Hải có đi qua chỗ ngôi biệt thự lớn đó bà có biết đó là nơi ba má của Lan Ngọc trước khi mẹ Ngọc chết. Bà thường nghe người ta gọi đó là “biệt thự Thùy Dương” chứ chưa bao giờ nghe nói tới “lâu đài tình ái” nào đó... Nhưng biết đâu? Tự dưng trong lòng bà Liên nôn nóng và như có ai đó thúc giục, bà cứ muốn đi Long Hải. Trong lòng bà có một chút hy vọng mỏng manh...

Đã từng biết địa điểm, nên việc tìm đến ngôi biệt thự không khó lắm. Nhưng do nơi đây rất ít nhà xung quanh, nên việc hỏi thăm là không dễ. Cũng may, vừa lúc ông già Tư, người quản gia ngôi nhà vừa mới đi đâu về, bà Liên đã khéo léo hỏi và được ông mời vào nhà, ông kể: 

- Hơn một tháng trước thì đúng là có mấy cô về đây. Cô Thu Dung ở lại hai ngày rồi nghe nói không được khỏe nên về trước. Cô Lan Ngọc nhà này với hai người nữa cũng về sau đó. Từ ấy không thấy ai trở ra. 

Bà Liên thất vọng: 

- Con Dung nhà tôi vừa rồi lại đi, tôi tưởng nó ra đây, nên mới lặn lội đi tìm. Chà, biết làm thế nào đây, trời đã quá tối. 

Ông già Tư mau mắn: 

- Không việc gì bà phải lo, dù gì bà cũng là chỗ quen biết, nên tối nay bà cứ ở lại. Sáng mai có xe tôi sẽ đón để bà về. 

Chẳng còn cách nào hơn, bà Liên phải ở lại đó. Và một cách ngẫu nhiên bà được bố trí ngủ đúng căn phòng của Lan Ngọc. 

Căn phòng khá đầy đủ tiện nghi, lại được chủ nhân lui tới thường xuyên nên không khí ấm cúng vẫn còn, đặc biệt là ngay trên gối vẫn còn đặt một quyển sổ dày. 

Dù không có tính tò mò, nhưng vì phải dọn dẹp trước khi ngủ, nên vô tình bà Liên lấy quyển sổ dẹp nơi khác và từ trong sổ rơi ra một mảnh giấy nhỏ viết chi chít những chữ... “Thu Dung! Mày phải trả giá...” 

Dòng chữ này đập vào mắt bà Liên, nên dù không muốn bà cũng phải cầm lên đọc kỹ. Nội dung mảnh giấy đã làm cho bà sửng sốt, bà lẩm bẩm như không tin là thật: 

- Có chuyện này sao? Thảo nào... 

Bà nhớ thái độ của Lan Ngọc ngày hôm qua cũng với những lời cay đắng mà Ngọc đã viết lên án Dung nặng nề về việc Dung đã cướp người yêu của nó. Thảo nào Ngọc nó hận thù như thế... 

Lòng người mẹ nào lại không đau khi con gái mình làm chuyện xấu và bị bạn bè lên án nặng nề. Bà Liên nén lắm mới không bật ra tiếng khóc, nhưng nỗi đau đã làm cho bà như kiệt sức cứ muốn ngã ra giường. Tuy nhiên, vừa khi ấy có tiếng bước chân dừng lại ở ngoài cửa phòng. Bà Liên ngỡ là ông già Tư nên vừa không muốn mở cửa tiếp ông, cũng lại không muốn ông ta nhìn thấy mình xem lén sổ sách của Lan Ngọc, nên rất nhanh, bà bước vô nhà vệ sinh và đóng cửa lại. Chờ một lúc, vẫn không nghe tiếng gõ cửa, bà Liên hé cửa phòng vệ sinh nhìn ra và suýt kêu lên, bởi có một người phụ nữ đang nhẹ đẩy cửa bước vào: 

- “Lan Ngọc”… 

Bà Liên kêu khẽ khi nhìn rõ mặt người vừa bước vô. Khuôn mặt ấy giống như in với Lan Ngọc, chỉ khác chăng là tóc dài hơn... 

Một cách rất tự nhiên bà này bước về phía bàn phấn, nơi quyển sổ do bà Liên vừa đặt ở đó. Lật tìm tờ giấy mà bà Liên vừa nhét vô trở lại, người này đọc lướt qua rồi đặt xuống như đã từng đọc nhiều lần. Và lạ lùng hơn là bà ta bật khóc! Từ trong nhà vệ sinh bà Liên nghe rõ bà ta vừa khóc vừa tự nói một mình: 

- Ngọc ơi, mẹ đã hại con, đã làm cho con gái yêu của mẹ phải đau khổ như thế này, lỗi của mẹ, mẹ biết. Nhưng mẹ làm sao bây giờ, khi mẹ không muốn con gái mẹ lâm vào đường tình đau khổ giống như mẹ. Nếu biết chuyện thằng Quang bỏ con chạy theo đứa bạn thân của con là do mẹ xếp đặt, do mẹ gây ra thì chắc là con sẽ oán hận mẹ biết dường nào phải không! Mẹ xin con... 

Bà ta ngừng lại một lúc chắc vì quá xúc động và cũng có thể là do nước mắt đã làm nghẹn lời…Từ nhà vệ sinh bà Liên nhìn thấy đôi vai người phụ nữ cứ run lên từng hồi, càng lúc cơn xúc động càng mạnh hơn. Sự nhạy cảm của một người phụ nữ đã thôi thúc bà Liên muốn bước ra giúp gì đó... Nhưng vừa lúc ấy giọng ai oán lại cất lên: 

- Đã gần chục năm rồi, mẹ cứ đợi con lớn khôn để chỉ có làm điều này thôi. Thật là oái oăm, trong khi thiên hạ mong ngày mong đêm để thấy ngày con mình biết yêu, rồi làm đám cưới... thì trái lại mẹ muốn con đừng yêu ai hết. Vì từ cuộc đời mẹ, mẹ đã hiểu thế nào là tình yêu và hạnh phúc! Ngày xưa, thuở bắt đầu yêu nhau thì cha con đã hứa hẹn với mẹ đủ điều, nhất là sẽ chung thủy với mẹ suốt đời, nào là chỉ biết chỉ có mỗi mình mẹ! Vậy mà, lúc mẹ mang thai con cũng là ngày mẹ bắt gặp ba con đưa người phụ nữ khác về làm chuyện tội lỗi ngay trên giường của mẹ! Mẹ đã đau khổ đã khóc và đã điên cuồng vì ghen, để rồi phải nhận hậu quả ê chề. Phải chết vì máu sản hậu ngay một ngày sau khi con ra đời. Mẹ chết ngay tại ngôi nhà này, nơi mà ngày đầu tiên khi yêu mẹ ông ấy nói là “lâu đài tình ái của đời ta”! Từ ngày đó con lớn lên không có mẹ cùng với lời dối trá của ba con. Ông ấy đã nói với con rằng mẹ chết vì khó sinh phải không? Mẹ sinh con đâu có khó, mà dễ và nhanh nữa là khác... Để cho con ra đời an toàn và để cho mẹ nhận lãnh kết cuộc thảm khốc! Ngọc ơi, con đã thấy lời của mẹ là đúng chưa, khi đàn ông của con chỉ trong nháy mắt đã bị tiếng sét ái tình với người con gái khác! Đàn ông là như thế đó, hãy xa họ trước khi quá muộn... 

Những tiếng sau cùng bà nói trong uất nghẹn và chừng như đã kiệt sức... Gian phòng bỗng tối sầm, đồng thời tiếng chân bước rất nhẹ, xa dần... Bà Liên chạy ra bật công tắc điện lên và lúc này chẳng còn ai cả. Người phụ nữ xưng là mẹ Lan Ngọc đã đi lúc bóng tối bao trùm. 

Lúc ấy có tiếng nói của ông già Tư: 

- Bà ngủ được không mà cứ tắt mở đèn hoài vậy bà Hai? 

Mừng quá bà Liên mở cửa ra và hỏi dồn: 

- Nhà này còn có bà chủ sao hồi chiều ông nói không có ai. 

Ông già Tư thở dài: 

- Bà chủ lớn đã chết cách đây tám đến chín năm rồi, còn bà chủ sau cũng đã quy tiên cách đây ba năm rồi, lấy đâu ra chủ nữa! 

Bà Liên kể lại chuyện vừa rồi và hỏi: 

- Như vậy là sao? Chẳng lẽ là... ma? 

Ông già Tư trầm ngâm: 

- Tôi ở đây hơn mười năm rồi mà nào có thấy ma cỏ nào đâu. Cũng chưa bao giờ gặp bà chủ như lời bà kể. Mặc dầu lúc còn sinh tiền bà ấy rất thương tôi, giúp đỡ tôi nhiều. Tội nghiệp, đó là một người chủ nhân từ, dễ thương và đáng kính. 

Bà Liên dò hỏi: 

- Vậy ông có hay chuyện bà ấy chết vì quá ghen không? 

Ông lắc đầu: 

- Có biết chuyện bà ấy ghen với bà Ngọc Oanh, nhưng khi bà chết thì cả nhà đâu ai biết lý do gì... 

- Chết ngay trong nhà này? 

- Đúng. Khi ấy bà còn cả tháng nữa mới sinh nên đòi ông chủ chở xe hơi ra đây đổi gió. Nào ngờ nửa đêm hôm đó bà trở bụng sinh, chưa kịp đưa đi bảo sinh viện thì bà ấy đã sinh rồi, phải nhờ một bà mụ xứ vườn này lo giùm. Cũng may là đứa bé ra đời an toàn... Chỉ có điều bất hạnh là chỉ một ngày sau, mới sáng sớm, lúc ấy bà vợ bé Ngọc Oanh đột ngột xuất hiện thì chút xíu sau cả nhà tá hỏa lên vì bà chủ bị máu sản hậu chặn tắt thở! 

Bà Liên nghe kể cũng phẫn uất: 

- Chính con quỷ cái Ngọc Oanh là nguyên nhân làm cho bà chủ đó chết. Đàn bà mới sinh mà bị sốc như vậy làm sao chịu nổi. 

Ông già Tư ngán ngẫm: 

- Mấy người nhà giàu sao lắm chuyện rối rắm. Như vừa rồi mấy cô cậu bạn cô Lan Ngọc ra đây cũng nghe nói rắc rối sao đó nữa, rồi người giận, người hờn. Đúng là… 

Ông già chưa nói hết câu đã ngừng khi chợt nhớ người đứng trước mặt mình là mẹ của bạn cô chủ... Bà Liên cười thân thiện với ông: 

- Không có gì đâu, có chuyện gì ông cứ nói. Có phải cô Ngọc nhà này giận con gái tôi không? 

- Dạ, tôi chỉ nghe nói chứ không rõ lắm, bởi hôm đó tôi xin phép về thăm nhà bên Long Đất. 

- Ông có biết cái cậu gì là bạn trai của cô Ngọc? 

Ông Tư đáp ngay: 

- Có. Cậu ấy đã ra đây nhiều lần và nghe nói là sắp cưới cô Lan Ngọc. 

Bà Liên thở dài, quay đi chỗ khác và chép miệng: 

- Oan nghiệt! 

Tưởng nói mình, ông Tư hỏi: 

- Bà nói gì? 

- À, không, tôi chỉ… 

Bà Liên quay vào và dặn: 

- Sáng mai khi nào có xe thổ mộ đi ngang qua ông nhớ gọi lại giùm, tôi ra bến xe về sớm. 

Đêm đó bà chốt chặt cửa phòng, cố dỗ giấc ngủ, không tài nào chợp mắt được, hễ vừa nhắm mắt là hình ảnh bà mẹ đáng thương của Lan Ngọc lại hiện về. Hình ảnh đôi vai bà ấy run run cùng với tiếng nấc nghẹn càng lúc càng làm nao lòng bà… 

- Không thể về ngay được! 

Người phụ nữ yếu đuối như bà Liên bỗng nhiên mạnh mẽ hẳn. Bà mở cửa phòng nhẹ bước ra ngoài. Trời vẫn còn tối nên tầm nhìn bị hạn chế. Tuy vậy, bà vẫn thấy một bóng người đứng ở cửa sổ phòng bà vừa rời bước đi về dãy nhà ngang. 

Lần bước theo, cuối cùng bà Liên thấy người phụ nữ kia lách mình vào trong đó, không còn sợ nữa, bà Liên nối bước vào bên trong bà khựng lại ngay ở cửa, bởi từ bên trong có tiếng người vọng ra: 

- Bà không nên vào. Đây là nơi oan nghiệt, ai đã bước vào đều vướng phải bất hạnh. Bà là người ngoài nên tôi không muốn bà phải đau khổ, chỉ đứa con bà là đủ rồi… 

- Nhưng… 

Bà Liên cố lên tiếng, nhưng một lần nữa bị chận lại: 

- Cái “lâu đài tình ái” này toàn đem lại nỗi bất hạnh cho con người thôi. Bà hãy sớm rời đi ngay trước khi quá muộn. Bà đi đi! 

Những lời xua đuổi quyết liệt như vậy mới làm cho bà Liên bước lùi. Bà hoang mang chẳng hiểu sao người phụ nữ lại không muốn bà ở lại? Một lần nữa bà đem chuyện kể cho ông già Tư nghe, nhưng ông này chỉ lắc đầu bảo: 

- Tôi không tin có những chuyện kỳ quặc đó. Có lẽ bà lạ chỗ, lại bị ám ảnh nỗi sợ, nên thấy những chuyện kỳ bí đó. Ở dãy nhà ngang đó có ngày nào tôi không vào lấy dụng cụ làm vườn, có ma cỏ gì đâu! 

Bà Liên cũng muốn rời khỏi nơi kỳ lạ này ngay, nhưng phải nấn ná tới trưa hôm đó, khi ông Tư đón giùm được chuyến xe lam chạy ra Bà Rịa thì bà mới đi, mà lòng vẫn không an. Chuyện xảy ra ở tòa nhà cùng với sự bặt vô âm tín của con gái thì làm sao một người mẹ như bà Liên có thể không lo lắng… 

Sự trở lại biệt thự ở Long Hải của Quang làm cho ông già Tư ngạc nhiên, nhất là việc không có Lan Ngọc đi cùng: 

- Sao cậu đi một mình? 

Quang chừng như đã có dự tính trước nên đáp không chút lúng túng: 

- Dạ, cháu đang chuẩn bị làm luận án tốt nghiệp nên cần một nơi yên tĩnh như nơi này. Cháu cũng không báo cho Lan Ngọc vì sợ cô ấy bận bịu cho cháu mà ảnh hưởng đến kỳ thi Tú Tài lần này. Vậy trong thời gian cháu ở đây xin ông Tư đừng quan tâm lo gì cho cháu. Hằng ngày cháu sẽ ra biển hoặc nơi nào đó thích hợp để viết luận văn, chỉ về ngủ ban đêm thôi. 

Ông già Tư vốn ít nói, lại biết tôn trọng sự riêng tư của nhà chủ kể cả bạn bè của cô chủ. Bởi vậy khi nghe Quang nói, ông đã không phản đối gì lại còn đề nghị: 

- Hay là nhân tiện cậu có mặt ở đây tôi giao nhà cho cậu trông coi. Tôi có việc phải về Long Đất vài tuần, khi nào cậu cần về Sài Gòn thì cứ việc bấm khóa ngoài, khi về tôi sẽ mở. 

Quang có vẻ thích thú lắm, anh nói ngay: 

- Cháu sẽ chu toàn mọi việc ở đây, ông Tư cứ đi, chừng nào về cũng được. 

Ngay chiều hôm đó ông Tư đi ngay. Quang đóng cửa phòng lại và lục đục gì đó rất lâu… Đến nửa khuya đêm đó anh ta rón rén đứng đợi ở cổng và lát sau đón một người con gái nào đó đội nón che gần hết khuôn mặt. Cả hai không nói gì, đã lặng lẽ dìu nhau về phòng riêng. 

Từ đó đến sáng hôm sau, mãi đến khi mặt trời lên cao rồi mà vẫn chưa thấy Quang ra ngoài... 

Cho đến quá nửa trưa, chợt một chiếc ô tô dừng ngay trước cổng. Người nhấn còi inh ỏi để gọi cửa chính là Lan Ngọc! 

Cô chờ mãi chẳng thấy ông già Tư ra mở cổng thì bực bội ra mặt, vừa bước xuống xe cô vừa quát tháo ầm ĩ: 

- Ông ở đâu mà không mở cửa, ông Tư ơi! 

Cuối cùng phải dùng chìa khoá riêng tự mở cửa cho xe vào sân, Lan Ngọc vẫn chưa hết lầu bầu: 

- Cái ông già này lại đi đâu nữa rồi... 

Vừa bước vào phòng khách, nhìn thấy đôi giày tây hai màu quen thuộc, Lan Ngọc nóng bừng cả mặt, cô gằn giọng một mình: 

- Biết ngay là ra đây mà! 

Tất cả phòng trong ngôi nhà rộng lớn này Lan Ngọc đều có chìa khoá, nên cô đi nhẹ bước đến một căn phòng và tra chìa vào, nhẹ nhàng mở ra. Hai người trong phòng quá bất ngờ trước sự xuất hiện của Lan Ngọc, nên chỉ vội kéo chăn che vội thân thể lõa lồ của họ. 

Quang líu cả lưỡi: 

- Ngọc! Em... em ra… em... 

Lan Ngọc không thèm nhìn Quang, mà đôi mắt tóe lửa đang nhìn về cô gái nấp sau lưng Quang. Cô rít lên: 

- Thật tao không ngờ mặt mày dày đến thế này Dung! Đúng là nuôi ong tay áo! 

Đến lúc này thì cô gái đang dùng chăn che thân đã phải lộ diện. Đó đúng là Thu Dung! 

Và thật bất ngờ, cả Dung và Quang đều trơ tráo để thân thể hớ hênh như thế đứng thẳng lên ngay trước mặt Lan Ngọc. Quang là người lên tiếng: 

- Đến nước này thì anh cũng chẳng còn dấu nữa: Anh và Thu Dung yêu nhau, tụi này ra đây là có ý định chờ em ra đây để nói rõ và chính thức báo cho em biết, cuối tháng này tụi anh sẽ làm lễ cưới! 

Lan Ngọc đứng bất động một lúc khá lâu, trước khi lấy lại bình tĩnh và thét lên: 

- Khốn nạn! Các người là một lũ khốn nạn! Lũ mất hết nhân cách, không còn là người! 

Mặc cho những lời xỉ vả của Ngọc. Quang kéo tay Dung đi: 

- Ta không cần ở đây nữa, về thôi. 

Chơi với nhau từ ấu thơ, chưa bao giờ Lan Ngọc thấy bộ mặt trơ tráo của Thu Dung như hôm nay. Khi bước ngang qua chỗ Ngọc đứng, Thu Dung còn cố ý ngã đầu vào vai Quang thật là tình tứ. 

Sức người chịu đựng có hạn, Lan Ngọc như con thú dữ lao theo hai người, vồ lấy Dung kéo ngã cô ta xuống. Và thật ngạc nhiên, thay vì phải đứng lại để can hai người ra, thì đàng này anh ta chỉ nhìn qua rồi bước đi thẳng ra chiếc mô tô đã để sẵn ở sân. Anh ta nổ máy và chờ… 

Trong nhà sự việc xảy ra không như anh ta nghĩ. Lúc đầu thì Lan Ngọc ra tay trước, đè được Dung xuống, túm lấy tóc và đánh túi bụi. Dung thường khi là cô gái dịu dàng, yếu đuối, nhưng giờ phút đó chẳng hiểu sao lại khỏe đến lạ thường, cô quật ngược và trở thành người áp đảo Lan Ngọc bị lâm vào thế bị phản công, bị Dung dùng cả hai tay bóp cổ và càng lúc càng siết mạnh, Lan Ngọc ban đầu còn cố vùng vẫy, nhưng dần dần đuối sức và buông thỏng hai tay, miệng thều thào: “Chờ đi khi nào đứa con đầu của chúng mày cưới vợ thì mọi ân oán sẽ tới! Tao sẽ về... tao sẽ về…” 

Thu Dung dường như không ý thức được việc mình vừa làm, nên khi buông tay ra, nhìn lại Lan Ngọc đang nằm bất động, cô giật mình bước lùi mấy bước, mồm há hốc: 

- Lan Ngọc! Sao... sao lại thế này? 

Ngoài sân Quang gọi vào thúc giục: 

- Đi nhanh đi, kẻo khuya lắm rồi! 

Như người mất trí, Thu Dung quay đầu chạy một mạch và phóng lên xe ôm lấy Quang. 

- Đi thôi anh! 

Quang hỏi nhanh: 

- Có chuyện gì vậy Dung? Lan Ngọc sao rồi? 

Không cần câu trả lời, Quang rồ xe chạy biến trong đêm tối. 

Trong nhà, khi Quang và Dung đi rồi, đã có một bóng trắng xuất hiện. Đó chính là người phụ nữ mẹ của Lan Ngọc. 

- Ta hại con rồi Ngọc ơi! 

Một thân thể như ảo như thật ôm lấy xác Lan Ngọc...

Hai Mươi Lăm Năm Sau 

Một người đàn ông tuổi trên dưới sáu mươi, tóc đã bạc trắng, nhưng dáng đi vẫn còn nhanh, gọn. Ông ta ngồi xe cùng với một phụ nữ trẻ hơn có lẽ hơn chục tuổi. Họ bảo tài xế chạy qua chạy lại trước khu rừng dương có đến chục lần, chừng như là đi tìm nhà ai đó. 

Đến lúc không còn kiên nhẫn nữa, người phụ nữ mới bảo: 

- Hai mươi mấy ba chục năm rồi, bao nhiêu là thay đổi làm sao ông tìm cho ra. Cứ tìm ai đó hỏi thì may ra... 

Nghe theo, người đàn ông bảo tài xế: 

- Anh dừng chỗ nhà ngói có cây mít kia cho tôi. 

Ông ta hỏi một ông cụ đang ngồi vá lưới trước cửa nhà: 

- Xin phép bác, ở đây bác có biết một ngôi nhà lớn mà cách đây hai mươi năm người ta hay gọi là “lâu đài tình ái” không? 

Ông cụ đang chăm chú làm việc, nghe hỏi vội ngẩng lên, gỡ mắt kính ra, nhìn chăm chú vị khách, vẻ ngạc nhiên: 

- Ông từng ở xứ này? 

- Dạ... ngày trước tôi có ở đây. Nhưng lâu ngày quá, giờ trở lại đây sao lạ quá? 

Vừa lúc đó có một cậu con trai tuổi mười tám đôi mươi từ trong nhà chạy ra lên tiếng: 

- Ông này hỏi ngôi nhà ma đó ông nội ơi! 

- Ngôi nhà ma? 

Vị khách vừa hỏi vừa nhìn lên cậu trai. Anh ta chỉ tay về phía xa: 

- Đúng là có ngôi biệt thự cổ mà hồi đó người ta gọi là “lâu đài tình ái” ở đàng kia, chỗ cuối dãy thùy dương này. Nhưng bây giờ không ai gọi cái tên ấy nữa. Ông phải hỏi ngôi nhà ma thì thiên hạ mới biết. 

- Tại sao vậy? 

Chàng trai cười: 

- Tại vì nó có ma! 

Vị khách không tiện hỏi thêm nên cảm ơn rồi trở ra xe. Người phụ nữ trên xe hỏi: 

- Họ nói gì vậy? 

- À… họ chỉ cho chỗ kia. 

Hình như vị khách tóc bạc này muốn dấu những chi tiết mà cậu trai vừa nói. Chỉ đường cho tài xế chạy xe qua dãy thùy dương, ông ta đã nhận ra một ngôi nhà rêu phong nằm khuất sau nhiều cây cối. Ông quay lại bảo: 

- Mình và chú tài xế về khách sạn ở đó chờ, tôi vào nhà người quen có lẽ nói chuyện lâu. Khi nào xong tôi sẽ tự tìm về. 

Người phụ nữ không hài lòng: 

- Ông vào thì cứ vào, tôi ở ngoài này chờ cũng được. Chứ ở đây xe cộ đâu mà đón. 

Người đàn ông dứt khoát: 

- Đã nói là chờ không nổi mà, cứ về khách sạn đi. Còn tôi sẽ tự lo được rồi! 

Biết không thuyết phục được chồng, bà ta cùng tài xế trở lại khách sạn cách đó ngót chục cây số. Vị khách lúc ấy mới bước thẳng vào nhà không một chút bối rối. Như là người đã từng đến nơi đây rồi… 

Dừng lại giữa sân, ông ta quay nhìn mọi hướng và chép miệng: 

- Thay đổi quá nhiều! 

Quả là như thế. Ngôi nhà ngày xưa từng được gọi là “lâu đài tình ái” hay biệt thự Thùy Dương giờ đây còn trơ lại là một ngôi nhà cổ, mái ngói và xung quanh tường rêu phong phủ đầy. Phần sân ngày xưa có lẽ trồng nhiều hoa thơm cỏ lạ, giờ đây chỉ là cỏ dại và dây leo vô trật tự. 

Cửa chính ngôi nhà mở toang với một phần bên dưới của cánh cửa bị mối mọt ăn rơi rụng, chứng tỏ là nhà vô chủ. Tuy thấy như vậy, nhưng vị khách vẫn bước vào và cất tiếng gọi: 

- Có ai ở nhà không? 

Lời ông ta bị chặn lại: 

- Ông khoan nói, để cho hồn người con gái xấu số này nói hết đã. Tôi cũng ghi nhận sự sốt sắng của ông khi chỉ mới nhận được tin qua điện thoại báo là người tình cũ của ông và đứa con trai, giọt máu rơi của ông bị nạn, vậy mà ông từ nước ngoài vượt vạn dặm về đây ngay, chứng tỏ ông còn yêu người ấy lắm! Nhưng có điều này tôi muốn biết, tại sao hai mươi lăm năm trước vì người phụ nữ đang nằm trên giường kia mà ông nỡ phản bội tôi, người mà ông từng yêu thương suốt sáu, bảy năm trời, thế mà khi trốn ra nước ngoài chỉ nửa năm sau ông đã quên ngay người phụ nữ tên Thu Dung đó, để lấy người vợ trẻ hơn mình trên chục tuổi? À mà này, sao đã có can đảm dẫn người vợ mới về đây rồi mà ông lại để cô ta ở khách sạn, điều ấy không nên đâu. Do đó tôi đã thay mặt ông đưa cô ta tới đây để cô ấy tận mắt chứng kiến tấm lòng của ông! 

Vừa lúc ấy có tiếng phụ nữ gọi ngoài cửa: 

- Anh Quang! Chuyện gì đang xảy ra vậy? 

Người vừa lên tiếng đó như vừa bị đẩy từ ngoài cửa vào ngã nhào trên sàn nhà. Đó là người vừa đi cùng xe với người được gọi tên là Quang. Vừa trông thấy ông ta đã hốt hoảng: 

- Lan Ngọc! Em làm gì người này, cô ấy vô tội... 

Một giọng cười sắc lạnh vang lên: 

- Như thế là chỉ mình ông là có tội thôi, phải không ông Quang! Thế còn con đàn bà nằm trên giường kia cũng vô tội sao? 

Quang lúng túng: 

- Cô ấy cũng chỉ vì yêu anh nên mới làm thế. Cả hai chúng tôi sau đó đã ân hận, bằng chứng là chúng tôi đâu có sống với nhau, anh đi nước ngoài còn Thu Dung đi lấy chồng và sinh con với người khác… 

Lại một tràng cười cắt ngang lời ông ta: 

- Sinh con với người khác ư ông Quang? Tôi chưa thấy người đàn ông nào vô tâm, bạc nghĩa đến độ như ông! Ông không nhận cả giọt máu tội lỗi, kết quả của mối tình xấu xa giữa ông và con đàn bà vô lương tâm kia nữa sao? Có thật ông không nhận đứa con ruột thịt của mình bỏ lại cho người đàn ông khác nuôi thay sao. 

Vừa lúc ấy người phụ nữ nằm trên giường tỉnh lại. Bà ta sợ hãi khi trong phòng có quá nhiều người. Nhưng khi bắt gặp ánh mắt của Quang thì bà ta bật dậy, quên cả việc mình với tấm thân thiếu vải che đậy: 

- Ông là… là Quang 

- Quang đây. Sao ra sự thể này Thu Dung? 

Nhận ra mình trong tư thế trơ trẽn. Bà Ninh chụp chăn quấn ngang người vừa lùi lại khi ánh mắt chạm vào người ngoài cửa. 

- Tôi... tôi... 

Giọng của Lan Ngọc càng thêm sắc lạnh: 

- Bữa nay không có việc chối tội ở đây! Mấy người biết tại sao tôi gom về đủ mặt tại chốn này rồi chứ gì? Cũng tại căn phòng này hai mươi lăm năm về trước tôi tốt bụng đưa con bạn gái thân nhất của mình về ăn nghỉ rồi nó lại sinh tâm phản bội cướp người yêu của bạn và làm chuyện đồi bại cũng chính trên chiếc giường này. Và còn ghê tởm hơn, nó đã nhẫn tâm giết chết bạn mình để đoạt hẳn người đàn ông cho riêng mình cũng tại đây! Đã qua hai mươi lăm năm chịu đựng, chờ đợi đến ngày hôm nay là quá sức đối với một người con gái tốt bụng, tin bạn, tin người yêu để rồi thiệt thân. Hai mươi lăm năm, một thiên trường hận, có đúng không Quang và Dung? Và giờ phút này cả hai chúng mày hãy tự nói xem tao phải báo đáp như thế nào đây cho phải lẽ? 

Lúc này bà Ninh lên tiếng: 

- Lan Ngọc, mình và anh Quang… 

Lan Ngọc chận lời: 

- Mày giờ này phải xưng đúng danh là vợ ông Ninh, chớ sao đủ tư cách ghép đôi cùng với Quang trước mặt vợ mới của anh ta kia! 

Người phụ nữ vợ của Quang ngơ ngác hết nhìn người này rồi người kia, hoàn toàn không hiểu chuyện ra sao... 

Mãi đến lúc Lan Ngọc lại lên tiếng: 

- Cô cần phải biết, người gọi là chồng cô cách đây hai mươi lăm năm trước là người yêu của tôi, rồi phụ tôi để chạy theo con đàn bà dâm đãng, lăng loàng kia... Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, sau khi để cho con ấy một cái bầu hai tháng, hắn lại cao chạy xa bay. Nay đã rõ rồi thì cô hãy liệu mà giữ thân, cô sẽ lại là một nạn nhân nữa của hắn ta đấy. 

Bà Ninh dù rất muốn giải thích, nhưng trong lòng bà ta giờ lại đang hoang mang với lời nói của Lan Ngọc. Và Quang nhận ra sự hoang mang đó, ông ta nhìn xoáy vào người tình cũ: 

- Điều đó là sao Dung? 

Bà Ninh còn đang lúng túng thì đã nghe từ bên ngoài có nhiều tiếng lao xao và cuối cùng là lệnh của Lan Ngọc: 

- Cho chúng nó vào đi! 

Hai người bị đẩy vào phòng đó là Tuấn và Thu Nguyệt! Vừa gặp mẹ Tuấn đã kêu lên: 

- Mẹ, sao mẹ lại ở đây? 

Nhìn thấy con và dâu, bà Ninh chết điếng, người lạnh toát như một thủ phạm bị bắt tại trận khi đang hành động tội lỗi! Bà chưa biết phải ứng phó thế nào thì Quang đã hỏi: 

- Đây là con của em? 

- Của chúng ta thì mới chính xác chứ, còn ngại gì nữa mà cha con không nhìn nhau lần cuối đi! 

Giọng Lan Ngọc nghe như một lời phán quyết, khiến cho bà Ninh hoảng hốt, van lơn: 

- Tôi xin cô, hãy tha cho chúng nó. Lan Ngọc ơi! Muốn làm gì thì hãy nhắm vào tôi đây, chứ tụi nó vô tội. 

- Tôi xin... 

Tuấn ngơ ngác: 

- Mình có tội gì với ai vậy mẹ? 

Bà Ninh bước tới ôm con trai vào lòng, lo lắng hỏi: 

- Mấy hôm nay con ra sao? Có ai làm gì con và Nguyệt không? 

Cô dâu Thu Nguyệt khóc nức nở: 

- Con sợ quá mẹ ơi! 

Tuấn nói cho mẹ an lòng: 

- Mấy hôm nay tụi con bị nhốt trong gian phòng tối om om và chẳng ai hỏi han hay làm gì cả, nhưng con và Nguyệt đều phát khiếp vì cứ đêm tối là nghe tiếng người nói mà không thấy người. Mãi tới lúc nãy có ai đó lôi tụi con tới đây mà tụi con vẫn không nhìn ra ai lôi đẩy mình đi: Mà sao mẹ cũng ở đây? Hay là mẹ cũng… 

Bà Ninh đột ngột chỉ về phía người đàn ông: 

- Con chào ba con đi! 

Trong lúc Tuấn giương mắt nhìn ngơ ngác thì Quang đã hỏi nhanh: 

- Nó sinh ra lúc nào? 

Bà Ninh đáp sau một tiếng thở dài: 

- Anh đi được sáu tháng thì thằng bé ra đời. Ba nó sau này biết nhưng ông ấy tốt bụng vẫn coi như con mình. 

- Kìa mẹ! Mẹ nói gì vậy? 

Tuấn hết nhìn mẹ lại nhìn người đàn ông lạ. Quang thì chừng như đã tin, bởi trông Tuấn lúc này chẳng khác gì với ông thời trẻ. 

Không còn kiềm chế được, Quang cũng bước tới ôm chầm lấy con trai trước ánh mắt lạ lùng của bà vợ ông ta. 

Tất cả dường như chẳng ai thốt ra lời nào sau giây phút đó bởi bất chợt gian phòng trở nên lạnh lạ thường cùng lúc ánh sáng tắt phụt, mọi vật chìm sâu trong bóng tối...

Phần 3 

Ông Ninh tỉnh giấc bởi tiếng chuông điện thoại reo liên hồi. Đầu dây bên kia vẫn giọng nói mà ông đã nghe mấy hôm nay: 

- Hãy tới mà đón họ về! 

- Họ ở đâu? 

- Ở đúng căn phòng 415 khách sạn tân hôn bữa trước! 

Bất kể giờ giấc, lúc đó là hai giờ sáng, ông Ninh đi ngay tới khách sạn M. Nhân viên lễ tân rất đỗi ngạc nhiên khi nghe ông nói, họ quả quyết: 

- Căn phòng đó hiện đang bỏ trống, đến sáng mai thì mới có khách đã đăng ký trước. 

- Nhưng con tôi đang ở đó! 

Thấy ông Ninh có vẻ căng thẳng, họ đành phải cho người dẫn lên đến tận nơi. Trước khi mở cửa người bồi phòng nói: 

- Chính tôi mới vừa mở cửa vào dọn dẹp hồi đầu hôm nay, làm gì có ai trong đó. 

Nói thế nhưng cô ta vẫn mở cửa phòng. Và cô đã tròn xoe mắt khi thấy hai người đang ngủ say trên giường! 

Ông Ninh reo lên: 

- Tuấn đây mà! 

Cả hai, Tuấn và Thu Nguyệt choàng tỉnh. Họ vẫn chưa biết mình đang ở đâu, khi trông rõ cha Tuấn vẫn chưa tin: 

- Ba, có phải ba không? 

Thu Nguyệt thì như kẻ mộng du, cô nhìn lơ mơ mọi người, miệng nói lảm nhảm như đang mơ… Ông Ninh phải lay con trai: 

- Ba đây, còn mẹ con đâu, các con có gặp bà ấy không? 

Nghe nhắc đến mẹ, Tuấn mới hoàn hồn: 

- Mẹ bị nguy rồi ba ơi! 

- Mẹ con làm sao, Tuấn? 

Tuấn không nói gì thêm, trở lại trạng thái lơ mơ giống như Thu Nguyệt. Dù ông Ninh có hỏi thêm gì họ cũng im lặng… 

Mãi đến khi theo cha về tới nhà Tuấn mới nói một câu không rõ ràng: 

- Ngôi nhà hoang, biệt thự Thùy Dương ở Long Hải... 

Riêng Thu Nguyệt thì ôm mặt khóc, thần kinh chừng như bị kích động mạnh nên nỗi một tiếng động xung quanh cũng làm cô giật mình kêu thét lên! 

Ông Ninh nhìn các con mà lo lắng vô cùng. Ông ngồi cạnh bên chúng, chờ Tuấn tỉnh lại hỏi cho rõ đầu đuôi. Mãi đến sáng hôm sau, vô tình nhặt được mẫu giấy nhỏ rơi ra từ túi áo của Tuấn. Trên tờ giấy ghi dòng chữ viết tháu: “Hãy đưa họ ra khỏi đó, nếu không thì những người còn lại cũng sẽ giống như họ...” 

- Chẳng hiểu gì cả! 

Ông Ninh thở dài, bởi dòng suy nghĩ của ông bị bế tắc ở đó...

Nhưng cuối cùng, ông nhớ lại câu nói của Tuấn lúc ở khách sạn, ông lẩm bẩm: 

- Biệt thự Thùy Dương, ngôi nhà hoang ở Long Hải… 

Ông reo lên: 

- Đúng rồi! 

Việc tìm ra ngôi nhà không khó lắm với ông Ninh. Nhưng khi bước vào sân thì đúng là gay go đối với một người chưa từng giáp mặt với nỗi sợ hãi như nhà nghiệp chủ vốn hiền lương như ông này… 

Ngôi nhà hoang vắng như thế này sao gọi là biệt thự Thùy Dương. Cũng may là trước lúc vào đây ông đã được một chủ quán nước ở cách đó hơn cây số đã nói khá rõ: 

- Cái tên biệt thự Thùy Dương là người chủ đặt cho hơn hai mươi năm trước, lúc họ còn lui tới nơi đây. Chớ còn sau này khi họ bỏ hoang thì chỉ có rắn rết, dơi, chuột chọn làm nơi cư trú không một ai bén mảng tới. 

Nghe vậy và nhất là khi giáp mặt, nhìn vẻ hoang sơ tối tăm của ngôi nhà, ông Ninh định quay ra. Nhưng nghĩ đến vợ và cú điện thoại của ai đó, ông thu hết can đảm bước sâu vào nhà. 

Và cũng không lạ khi chỉ có một phòng duy nhất trong ngôi nhà hoang là mở cửa. Do cửa mở rộng, ánh sáng bên ngoài lùa vào nên tầm mắt ông Ninh nhìn suốt được mọi vật ở trong đó... 

- Trời ơi! 

Ông kêu lên thảng thốt khi nhìn thấy có hai bộ xương người nằm sóng đôi trên sàn nhà! 

Vốn không quen với những chuyện gây cảm giác mạnh nên ông Ninh định bước lùi, nhưng chợt ông nhìn thấy ở cổ tay một bộ xương có đeo một chiếc vòng cẩm thạch có bọc vàng với hình chạm khắc đặc trưng. Vật mà vừa thoạt nhìn thấy ông đã nhận ra ngay, bởi chính ông đã mua nó từ Hồng Kông về tặng vợ? 

- Trời ơi, Thu Dung! 

Vật chứng thì đã chắc, nhưng ông Ninh lại không tin đó là hài cốt của vợ, bởi từ lúc bà ra đi đến nay mới mấy ngày, nếu có chết thì đâu đã phân hủy trơ xương như thế? 

Còn đang phân vân thì ông Ninh nghe vọng ra từ căn phòng đóng kín cửa phía sau ông, giọng của một phụ đứng tuổi: 

- Hài cốt của chính vợ ông đó, hãy đem về chôn cất đi. Người nằm bên cạnh là cha ruột của đứa con mà ông đang nuôi dưỡng, đem đi hay không là tùy ông. Nhưng tôi nói cho ông rõ, nếu xương cốt mà để đây thì đời đời sẽ luân phiên trong nhà ông và nhà người kia rồi sẽ lần lượt bị kết cục bi thảm như thế này! Hãy đưa họ đi... 

Thấy ông Ninh còn lưỡng lự, người đó nói tiếp: 

- Ông muốn biết tôi là ai mà lại giúp ông trong việc này? Tôi chính là người đã gọi điện cho ông sáng nay. Tôi cũng chính là mẹ đẻ ra Lan Ngọc và cũng chính tôi, vì tôi mà ngày trước cách đây hai mươi lăm năm tụi nó mới gây rắc rối cho nhau, dẫn đến oan khốc như vầy ngày hôm nay. Tôi ân hận quá và ước muốn duy nhất bây giờ là chấm dứt sự hận thù ở đây. Rồi đây tôi và con Lan Ngọc sẽ rời xa vĩnh viễn... Ông hãy mau đi đi, trước khi con Ngọc trở về đây vào trời tối! 

Không chút chần chừ, ông Ninh quơ vội tấm trải giường xé ra bọc riêng hai bộ xương rồi vội vã đưa hài cốt vợ ra xe, chạy một mạch về Sài Gòn... Từ trong phòng kín cái bóng lướt nhẹ như sương khói của người phụ nữ, mẹ của Lan Ngọc bước ra. Bà nhìn bộ xương cốt còn bỏ lại, khẽ lắc đầu thở dài… 

Đúng là oan nghiệt! Bởi nếu để bộ xương ở lại, như bà nói lúc nãy với ông Ninh, thì mãi mãi hồn phách của người này sẽ lệ thuộc vào con gái bà. Anh chàng Quang sẽ vĩnh viễn chịu sự sai khiến của Lan Ngọc và rồi đời đời kiếp kiếp sẽ nối tiếp những chuyện hận thù, báo oán không dứt... 

Vậy phải làm sao? 

Hồn phách của người đàn bà đã một đời chịu oan khổ nay lại đứng trước điều khó... Bởi nếu bà không tự tay đem bộ hài cốt ra khỏi đây, mà điều đó là không thể trong thế giới cõi âm, nếu phạm phải thì hồn bà sẽ là hồn ma bóng quế, là oan hồn uổng tử không chốn dung thân, nhưng thêm một điều ác nữa đối với Quang thì lòng bà không muốn. 

“Lan Ngọc, hiểu cho mẹ, mẹ phải làm một việc mà con sẽ không hài lòng. Nhưng mẹ đành phải thôi... Mẹ muốn con siêu thoát, đừng lo cho mẹ.”

Bà cúi xuống xách bộ hài cốt và bước nhanh ra ngoài, hướng về phía sân sau ngôi nhà. Bộ hài cốt được bà đặt dưới gốc cây sứ già, nơi mà ngày xưa Quang và Thu Dung bắt đầu cuộc tình. 

Ý của bà rất rõ: Bà dành bộ xương này để đến một ngày nào đó cô vợ của Quang trở lại mang đi, hay làm gì đó tùy cô ta. Nó thuộc về người đàn bà ấy chứ không phải là Lan Ngọc con gái bà. Lan Ngọc phải siêu thoát, chớ không thể vướng hệ lụy tình ái linh tinh... 

Đào một hố sâu cạnh gốc sứ, đặt bộ hài cốt vào đó xong, bà đứng lặng người khá lâu. Bà hiểu đây là lần cuối cùng bà còn lảng vảng nơi đây. Bởi sau vài khoảnh khắc nữa thì một lần nữa tuy cùng là hồn phách, nhưng giữa bà và Lan Ngọc sẽ không còn bao giờ gặp lại nữa. 

Ở khách sạn bãi biển Long Hải có một người phụ nữ đến thuê phòng nói là chỉ ở qua đêm với chồng, nhưng đã qua ba ngày, kể từ khi người chồng đi đó không thấy trở lại, thì bà ta ở miết trong phòng không hề thấy bước ra ngoài nửa bước. Mỗi ngày các hầu phòng vào làm vệ sinh phòng có hỏi chuyện thì bà ta chỉ ra hiệu là không cần gì, rồi sống lặng lẽ như vậy... 

Qua ngày thứ tư thì quản lý khách sạn trực tiếp lên phòng hỏi vị khách nữ này coi bà có bệnh gì không, thì phát hiện bà ta nằm bất động. Người ta vội chở bà đi bệnh viện. 

May mà cứu kịp thời. Các bác sĩ ở bệnh viện kết luận: 

- Bệnh nhân ngất do suy dinh dưỡng, có lẽ mấy ngày liền do không ăn. Ngoài ra còn triệu chứng bị sốc nặng nên thần kinh không ổn định. 

Ngày hôm sau thì bà ta tỉnh lại, nhưng cứ luôn mồm gọi tên chồng là Quang và đôi khi còn chấp tay lạy tứ phương tám hướng với lời van lơn một người nào đó tên là Lan Ngọc! 

Trong lúc bệnh viện chưa kịp làm thủ tục xuất viện thì các y tá đã phát hiện ra người phụ nữ đó đã biến mất. 

Bà ta cũng không trở lại khách sạn. Vài tuần sau, người ở quanh ngôi nhà hoang rất ngạc nhiên khi thấy ngôi nhà đó sáng đèn. Ban ngày người ta còn thấy một phụ nữ trên bốn mươi tuổi, dáng vẻ rất sang trọng, nhưng lại ăn mặc toàn đen, rất giản dị, thường ra ngồi im lặng ở sân nhà, đưa mắt nhìn ra xa xăm... 

Chiều chiều, nếu ai tinh ý nhìn vào sân sau ngôi nhà sẽ thấy người này ngồi trước ba ngôi mộ mới đắp, thành kính khấn vái. Những ngôi mộ ấy có lý do chính bà ta đắp lên... Trong những lúc lâm râm khấn, từ miệng bà ta cứ phát ra những cái tên “Quang... Lan Ngọc...” 

Người phụ nữ ấy chính là vợ sau của Quang. Bà ta làm công việc này hình như là theo một mệnh lệnh của ai đó, hoặc cũng có thể là do tự nguyện... 

Có điều lạ mà chính những người ở xung quanh cũng nhận ra, ngôi nhà hoang mà trước đây họ thường gọi là ngôi nhà ma, thì nay lại chẳng có một hiện tượng nào khác thường, kỳ bí... 

Người phụ nữ ấy vẫn ngày ngày lặng lẽ sống và không hề thấy bà ta bước ra khỏi cổng nhà. Thỉnh thoảng có người mang thức ăn tươi sống tới cung cấp, rồi ra về, chứ không bao giờ được cho vào nhà...

MƯỜI BA OAN HỒN 

Dọn về ngôi nhà mới mua được hai tháng, nhưng hầu như chẳng đêm nào vợ chồng chị Lành ngủ được yên giấc. Nhất là chị Lành, hễ chợp mắt được một vài giờ thì vào lúc nửa đêm, y như là chị phải giật bắn người, ngồi bật dậy, ngơ ngác tìm quanh bởi cảm giác như có ai đó đang có mặt trong nhà. Có lần anh Lành hỏi, thì chị nói: 

- Vừa rồi có ai nắm chân em lay thật mạnh, mà cái tay ấy lạnh như nước đá! 

Anh Lành cũng nói: 

- Thì tui cũng vậy, hồi nãy như có ai đó ngồi đè lên bụng tôi, tức thở muốn chết mà kêu không được! 

Thế là hai vợ chồng lại thức. Mà thức thì không sao, hễ ngủ lại thì thế nào cũng gặp những chuyện kỳ lạ như vậy. Suốt mấy đêm liền như vậy, cuối cùng chịu không nổi anh Lành mới đi tìm một người lớn tuổi trong xóm để hỏi thăm. Sau khi nghe anh kể đầu đuôi, chú Tư Ấn trầm ngâm một lúc rồi mới nói: 

- Tao nói thiệt, không riêng vợ chồng tụi bây. Ngôi nhà đó từ lúc mới cất từ 3 năm trước, chưa ai về ở được quá sáu tháng! 

Hai Lành nghe lạnh cả người. Anh lo sợ hỏi: 

- Chuyện ra sao chú Tư? 

Chú Tư Ấn kể rành rọt: 

- Tụi bây không hỏi nên người ta không nói, sợ tụi bây nói là dân ở đây nhiều chuyện. Nhưng nay đã như vậy rồi thì tao kể hết cho nghe. Ngôi nhà đó ngay từ lúc mới cất thì đã gặp chuyện như vậy rồi. Nói thẳng ra, nhà đó có ma! 

Hai Lành càng lạnh lưng hơn: 

- Trời ơi, nói vậy đó là... ma sao! Thảo nào tay chân nó lạnh như… xác chết! 

Chú Tư Ấn kể tiếp: 

- Hồi năm ngoái cả gia đình sáu người trong một đêm khi đang nằm ngủ trên giường đã giật mình tỉnh dậy và... thấy mình đang nằm phía sau nhà như có ai khiêng ra lúc họ ngủ! Mà không phải một lần, mấy đêm sau cũng y như vậy. Đến ngày thứ ba thì không ai còn dám ngủ trong nhà nữa, phải đi ngủ nhờ nơi khác, thì không có gì xảy ra nữa. Chịu không nổi, họ treo bảng bán nhà. Gần cả năm không ai dám mua. Xui rủi thế nào tụi bây lại về đây mua. 

- Nhưng có ai biết tại sao lại có ma như vậy không chú? 

Chú Tư Ấn cười khà khà: 

- Nếu biết thì còn nói gì nữa! 

Tuy vậy, lúc Hai Lành sắp ra về thì chú Tư kéo lại, nói khẽ: 

- Điều này tao chỉ nói riêng với mày thôi, đừng kể lại với ai chuyện là vầy… 

Chú ngừng lại, nhìn quanh như sợ có người nghe: 

- Nghe nói dưới nền nhà, chỗ phòng ngủ của tụi bây ngày trước có mấy nấm mồ… 

Vừa nghe kể tới đó Hai Lành đã đứng bật dậy lên: 

- Hèn chi có lần con nghe có tiếng người kêu vọng lên từ dưới đất! 

Chú Tư đứng lên và ra dấu cho Lành theo mình: 

- Mày muốn biết thêm thì đi theo tao. 

Hai Lành bước theo mà trong lòng ngổn ngang những câu hỏi. Tới chỗ bìa rừng, nơi có con suối cạn chảy qua, chú chỉ tay và hỏi: 

- Đã lần nào mày xuống dưới lòng suối này chưa? 

Hai Lành lắc đầu: 

- Từ ngày về đây, ngoài khu vườn nhà con, con chưa từng đi tới đâu cả. Vả lại, thấy dòng suối cạn nước, con đâu có hứng thú mà xuống đó. 

Nghe Lành đáp thế, chú Tư Ấn muốn nói điều gì đó, nhưng chợt có người gọi ơi ới phía sau: 

- Anh Lành! Anh Lành! 

Hai Lành hốt hoảng: 

- Con vợ con. Chẳng hiểu nhà có chuyện gì? 

Lúc ấy vợ Hai Lành chạy tới, chị ta mặt mày tái mét: 

- Về nhà mau lên, má... má có chuyện rồi... 

- Má sao rồi? 

Chị Lành vẫn còn chưa bình tĩnh: 

- Má... bị... bị ma bắt đi rồi! 

Chú Tư Ấn cũng ngạc nhiên: 

- Ma bắt thế nào? 

Lúc ấy vợ Lành mới nói rõ hơn: 

- Tui đi chợ về tới thì nghe mấy đứa nhỏ nói bà nội ngủ từ sáng tới giờ chưa dậy. Đoán là có chuyện không lành, tui gõ cửa phòng bà già thì không nghe trả lời, cửa lại cài then bên trong. Hoảng quá tui kêu ông Lành thì chẳng thấy đâu, phải nhờ mấy đứa ở nhà bên phá cửa phòng vô, chẳng thấy bà già đâu, trên giường chăn màn còn nguyên! 

Hai Lành nắm tay vợ chạy bay về nhà. Đúng như lời vợ kể. Hai Lành tìm khắp phòng chẳng phát hiện điều gì khả nghi. Còn đang hoang mang thì từ bên ngoài có tiếng của ai đó gọi: 

- Ra mà khiêng bà Tám vô ngay! 

Cả nhà chạy ra thì thấy hai người hàng xóm khiêng một người trong tình trạng giống như xác chết. Vừa nhìn thấy, Hai Lành đã kêu lên: 

- Má! 

Hai người hàng xóm kể: 

- Lúc đi hái cà phê về, ngang khu rừng lồ ô thì tụi tui thấy bà Tám nằm trong bụi gai, hình như đã mê man từ lâu rồi. 

Cả nhà lay gọi thật lâu bà mới tỉnh lại, vừa nhìn thấy người chung quanh bà la hoảng lên, rồi bò lê, lùi vào vách nhà như đang sợ hãi tột độ. Hai Lành phải lên tiếng: 

- Con đây mà. Má sao vậy? 

Nghe tiếng con, bà Tám càng sợ hơn, bà đưa hai tay lên lạy lia lịa, vừa van xin: 

- Đừng... đừng hại tui! Tha cho tui... 

Chú Tư Ấn đứng bên ngoài quan sát nãy giờ, nhẹ lắc đầu rồi đi thẳng về nhà. Chừng như có điều gì đó chú chưa nói ra… 

Nghe Hai Lành báo tin sắp dọn nhà đi, chú Tư trầm ngâm một lúc rồi nói: 

- Hôm qua tao muốn kể cho mày nghe chuyện này, nhưng chưa kịp. Bây giờ tao hỏi thiệt, mày sợ hồn ma rồi phải không? 

Hai Lành nhìn ông, ngạc nhiên: 

- Sao chú hỏi vậy? Ma thì ai không sợ. Nhất là những chuyện vừa xảy ra đó, theo chú chẳng lẽ không đáng sợ sao? 

- Đáng sợ, nhưng tao thấy chưa đến đỗi phải dọn nhà đi. Bởi để ý điều này hầu hết những người ở trong nhà mày trước đây, rồi tới mày nữa, đã có ai bị ma hại chưa? 

Hai Lành chau mày: 

- Hình như là chưa. Nhưng không có nghĩa là sẽ không bị. Như chuyện má con hồi chiều, theo bà kể lại thì lúc đang ngủ thì dường như có ai đó khiêng lên, chạy như bay trong không trung rồi ném vào nơi nào đó. Họ đông lắm, có đến hơn chục người, đứng vây quanh má con như chực ăn tươi nuốt sống, nói là má con chiếm nhà của họ, phải dời đi ngay, nếu không thì... 

Kể đến đây Hai Lành chợt rùng mình, người ớn lạnh và không dám kể nữa. Hỏi thì anh ta giọng run run nói: 

- Như có ai đó muốn bóp cổ con! 

Chú Tư Ấn cũng chợt rùng mình, chú bảo: 

- Chuyện không đơn giản như tao nghĩ. Thôi, mày về lập mâm nhang đèn bày ra ở giữa nhà, để tao cúng vái cho. 

Tối đó đích thân chú Tư Ấn khấn vái. Hai Lành nghe được trong những câu khấn có nhắc tới vong hồn ai đó gọi là Cậu Ba, mợ Ba, thì kinh ngạc lắm, đợi sau buổi cúng Hai Lành liền hỏi: 

- Cậu mợ Ba nào vậy chú Tư? 

Tư Ấn chờ cho những người hiếu kỳ về bớt, lúc ấy mới hạ giọng kể: 

- Cách đây trên mười năm, xóm này còn là một bãi đất hoang, đã xảy ra một câu chuyện mà tới giờ nhắc lại tao còn rùng mình… 

Chú vừa nói đến đó thì bỗng đèn đóm trong nhà vụt tắt hết, cả mâm đồ cúng cũng như có ai đó xô ngã, đổ tung tóe! 

Khi đốt được đèn lên thì Hai Lành kinh hoàng khi thấy chú Tư Ấn ngã lăn ra, miệng trào máu tươi! 

Tuy vậy tính mạng chú không sao. Lúc bình tĩnh lại, chú lẳng lặng bước ra khỏi nhà, ai hỏi gì cũng không nói. 

Đêm đó chẳng một ai trong gia đình Hai Lành dám ngủ. Bỗng đến hơn canh ba thì bỗng nghe có tiếng khóc của ai đó văng vẳng bên tai. Càng lúc tiếng khóc càng rõ hơn, nhưng không phải phát ra từ bên ngoài, mà hình như ở ngay trong nhà. Người này nhìn người nọ, chẳng ai khóc mà hầu hết đều sợ hãi. Nghe kỹ lại, bỗng vợ Hai Lành chỉ xuống đất, thều thào: 

- Ở… ở dưới đó! 

Hai Lành cũng nghe vậy. Sợ nói ra bà mẹ và mấy đứa con sợ, nên anh kề tai vợ nói khẽ: 

- Có khi nào... ở dưới có mộ không? 

- Dưới… mộ? 

Cả hai đều rùng mình, nhưng họ không có thì giờ để nghĩ ngợi thêm nữa, bởi vừa khi ấy chiếc giường ngủ của họ bỗng rung lắc dữ dội và rồi chúng đổ sụp xuống làm vợ chồng con cái đều bị bắn tung ra nền nhà. 

Mấy đứa bé khóc thét lên vì sợ. Và cũng từ lúc đó tiếng khóc lạ từ dưới đất cũng im bặt. Vợ chồng Hai Lành bò dậy, vừa định kéo các con mình ra thì chợt tiếng khóc lại vang lên, mà lần này nhiều giọng cùng cất lên một lượt, nghe rùng rợn lạ thường! 

Hai Lành bình tĩnh hơn vợ, anh nói khẽ: 

- Em ở đây với mấy đứa nhỏ, đừng làm gì kinh động, để tôi ra ngoài này… 

Chạy thẳng tới nhà chú Tư Ấn, vừa gặp chú từ trong nhà ra, Lành nói liền với chú ý định của mình. Nghe xong chú Tư có vẻ tán thành, nhưng vẫn còn ngại: 

- Tao là người không biết sợ, nhưng hôm qua tự nhiên bị hộc máu rồi về nhà tao bị sốt suốt đêm, làm cho tao lo... Nhưng mà được, tao sẽ cùng làm với mày. 

Chú đi huy động thêm năm sáu người nữa rồi cùng kéo tới nhà Hai Lành. Theo ý chú, Hai Lành bảo vợ thịt ngay con gà trống cồ, dọn một mâm hoa quả thịnh soạn, đồng thời đi mời khá nhiều bà con gần đó tới cùng chứng kiến. 

Lời khấn của chú Tư Ấn, bà con ai cũng nghe rõ: 

- Tôi, Nguyễn Văn Ấn, thường gọi Tư Ấn, nay đứng trong nhà của Hai Lành, có mặt cả bà con chòm xóm chứng kiến, tôi xin thành kính dâng chút lễ mọn, cùng tấm lòng thành, kính xin các vong hồn uổng tử, những vị đã thác và chôn thân ở chốn này, xin hãy về đây chứng giám cho sự biết lỗi của gia đình Hai Lành và cả thôn chúng tôi, mà rộng lòng hỉ xả, đừng hiển linh ra oai nữa. Hãy cho phép chúng tôi khai quật và đem hài cốt quý vị lên, để chúng tôi mai táng một nơi khác đàng hoàng hơn, trang nghiêm hơn. Nếu quý vị bằng lòng thì xin thể hiện bằng cách thổi tắt ngọn đèn chính giữa ba ngọn đèn cầy đang cháy. Được vậy chúng tôi xin một lần nữa dâng lên quý vị ba lạy. 

Chú và cả nhà Hai Lành đều cúi lạy rất thành kính. Những người đứng xem gần đó cũng đồng lạy theo. Và... thật lạ lùng, ngọn đèn ở chính giữa tự dưng tắt phụt, trong khi hai ngọn kia vẫn cháy! 

Chú Tư Ấn reo lên: 

- Được phép rồi! 

Chú ta hiệu cho hơn chục người dùng cuốc xuổng bắt đầu đào bới ngay chỗ giường ngủ của Hai Lành. Lúc đầu có lẽ còn e ngại, nên một số người chưa dám đào bới thẳng tay, sau vài phút, khi thấy không có chuyện gì xảy ra, họ mới bắt đầu đào cật lực. 

Đào xuống khoảng hơn nửa thước thì một người kêu lên: 

- Có cái gì giống như... nắp quan tài! 

Đích thân chú Tư Ấn soi đèn nhìn kỹ rồi nói: 

- Anh em nhẹ tay thôi, đừng làm kinh động người đã khuất. 

Sau vài phút nữa thì chính người phát hiện lúc nãy lại nói: 

- Hình như không phải nắp hòm... chỉ là một miếng ván lót ngang thôi. 

Họ kéo được tấm ván đó lên thì lộ rõ cả một đống xương trắng toát, phản chiếu dưới ánh đèn! 

Hai Lành nói to: 

- Xương người! 

Chú Tư Ấn nhìn cảnh tượng trước mắt, ông lẩm bẩm: 

- Đúng là cảnh ngày xưa rồi... 

Từ đó đến mười giờ sáng, họ đưa lên mặt đất gần trọn vẹn mười bộ xương người. Nhiều người đã mệt nên muốn ngưng đào, mà theo họ như thế chắc là đủ rồi, nhưng Tư Ấn chưa chịu: 

- Nếu tôi nhớ không lầm thì tới mười ba bộ xương mới đủ! 

Ai cũng ngạc nhiên: 

- Sao ông biết? 

Tư Ấn nghiêm giọng: 

- Vụ thảm sát mười ba người trong một gia đình tại chốn này cách đây mười một năm, nhưng do ngày đó, trong số bà con đây không ai có ở đây, nên không biết. Còn tôi, là người duy nhất che chòi giữ rẫy nên đã vô tình chứng kiến từ đầu đến cuối… Đúng là phải mười ba mạng người! 

Các tay đào đất lại tiếp tục đào và quả nhiên, đến hơn mười hai giờ trưa hôm đó thì họ đã lấy lên được mười ba bộ xương hài cốt không thiếu một lóng xương. 

Vợ chồng Hai Lành do không dư dả, nên chú Tư Ấn vận động bà con góp thêm vô được một số tiền để đi mua quan, quách về khâm liệm, đem mai táng ở đỉnh đồi trọc gần đó. Đến chiều tối đó thì mọi việc hoàn thành. Một buổi cúng mả mới diễn ra, tuy không linh đình lắm, nhưng cũng rất trang nghiêm. 

Chú Tư Ấn kể lại: 

- Ban đầu tôi không biết họ là ai. Chỉ biết lúc đó là nhá nhem tối, sau khi đi rẫy về, tui đang lui cui nhóm lửa định nấu cơm thì chợt thấy có ánh đèn pha từ ngoài đường cái rọi thẳng vào, ánh sáng đó báo cho tôi điều chẳng lành, nên nhanh tay tôi dụi tắt bếp lửa, núp trong chòi xem động tĩnh. Một lát sau thì một chiếc xe tải lớn bám đầy bùn đất, chứng tỏ nó từ xa đến, từ từ chạy vào phía rẫy. Cũng may là nó không cán phải cái chòi lá của tôi và cũng nhờ vậy họ không phát hiện có người rình thấy mọi việc… 

Chiếc xe tải sau đó tắt hết đèn, rồi từ trên xe nhảy xuống bốn người đàn ông. Trên tay những người này đều có súng, ngoài ra có hai người còn cầm theo nào xuổng, cuốc, búa, dao... Người thứ năm, tới sau đó chừng mười phút, xem ra mới là người cầm đầu của nhóm kia. Tên này nói gì đó, hình như là ra lệnh. Lập tức bốn tên trước đó mở bửng sau của thùng xe và lôi từ trong đó ra nhiều cái bao cột kín miệng. Ban đầu tôi tưởng đó là bao hàng hóa, nhưng sau đó thì nhận thấy nhiều bao tải đó nhúc nhích, cựa quậy và còn phát ra những tiếng kêu như kêu cứu! Lúc này thì tôi đã hiểu. Nhưng khi hiểu, tôi lại càng run khi nghĩ tới số phận mình... 

Đằng kia, bốn tên cầm súng, đưa súng lên, nhưng thay vì bắn, chúng trở báng súng đập mạnh vào từng bao. Cứ mỗi lần đập thì có những tiếng rú không phát ra được, do bị nhốt chặt trong bao, nên âm thanh kỳ dị, thê thảm lắm! Cứ thế, lần lượt mười ba chiếc bao tải đều chịu chung một số phận. Chứng kiến tới phút đó thì người tôi lạnh toát mồ hôi, thần khí biến đi tự lúc nào rồi... vừa hoang mang thì chợt có đứa trong bọn chúng la lên: 

- Hình như có cái chòi đàng kia! 

Dù gần như đã kiệt sức vì sợ, nhưng bản năng sinh tồn đã khiến tôi bò lết được ra khỏi chòi, rồi cứ thế tôi thoát chạy, chạy và chạy… Cho đến lúc nào đó tôi ngất đi... 

Khi tỉnh lại thì tôi thấy mình nằm bên một dòng suối. Có lẽ nhờ nước suối mát đã giúp tôi tỉnh lại. Chẳng biết tình hình ở chỗ chòi ra sao, tôi thắc mắc, nhưng với sức lực lúc ấy tôi đành nằm đó chờ... Ngày hôm sau khỏe lại tôi định mò về, nhưng khi đi tới vạt rừng gần rẫy thì tôi phát hiện ra chiếc xe tải vẫn còn đậu ở đó, nên không dám về, tôi quay lại cánh rừng già và ở đó đến ba, bốn ngày sau… 

Lúc tôi quay lại lần nữa thì hỡi ôi, cả một vùng rừng rộng lớn, trong đó có cái chòi và rẫy của tôi đã bị ai đó đốt sạch. Lần tìm mãi tôi cũng chẳng tài nào nhận ra chỗ cũ là chỗ nào. Hình như bọn người gây án xong đã đốt để phi tang! 

Như thế là ý định định báo làng chuyện đã chứng kiến tôi đành để trong lòng. Muốn bỏ đi để không bị ám ảnh, nhưng tứ cố vô thân, lại không có tiền bạc, nên cuối cùng tôi đành phải ở lại đây. Dựng một cái chòi khác ở tạm. Rồi lần lần những năm sau bà con mình tới định cư càng lúc càng đông. Tôi cũng không biết những cái xác người bị giết ngày ấy được chôn ở đâu và bọn người gây án là ai… Mãi mấy năm gần đây tình cờ khi đi qua làng bên, tôi nghe có người kể rằng, khoảng thời gian đó có một vụ tranh chấp hàng hóa buôn lậu mà nguyên đoàn người đi từ thành phố lên đã bị chận lại bởi một chiếc xe tải của bọn côn đồ và sau đó chúng đã bắt hơn chục người trong đoàn mang đi biệt tích… Nghe vậy tôi nghi có liên quan tới vụ mình chứng kiến, nhưng cũng không dám nói ra. Cho đến khi ngôi nhà này xảy ra nhiều hiện tượng kỳ lạ, khiến những gia đình trước đây phải bỏ đi thì tôi mới nghi ngờ. Không ngờ nó lại đúng. Chính những người bị hại ấy đã được chôn chung trong một nấm mồ ở đây! 

Nghe chú kể xong ai nấy đều rùng mình, bất giác có người khóc ngất lên! 

Những ngày sau đó, gia đình Hai Lành ngủ được yên giấc, không hề thấy bất cứ hiện tượng nào nữa. Ban đầu sau khi khai quật hài cốt xong, vợ Hai Lành cũng còn lo, nên bàn với chồng là nên bán nhà, đi chỗ khác để làm ăn hơn. Nhưng Hai Lành nói: 

- Mình đã được người khuất mày khuất mặt chấp nhận cho ở lại rồi, thì còn lo gì nữa. Theo tui, biết đâu chính ngôi nhà này sẽ giúp cuộc đời mình đi lên không chừng. 

Đúng như ước mơ của Hai Lành, mấy mùa rẫy liên tiếp nhà anh trúng vụ, hết cà chua rồi đậu leo và mới nhất là vụ cà phê trúng chưa từng thấy. Chỉ ba năm sau ngôi nhà cũ đó được thay bằng ngôi nhà đúc hai tấm thật khang trang. Nếu ai để ý sẽ thấy ngay trong nhà, ngoài bàn thờ tổ tiên, Hai Lành còn có một bàn thờ khác, trên đó có mười ba bát nhang mà lúc nào cũng ngát hương thơm. 

Câu chuyện về mười ba bộ hài cốt hay mười ba oan hồn được truyền miệng khác xa với trước đó…

XÁC AI TRONG QUAN TÀI 

Buổi tối đêm ba mươi, trời tối ngửa bàn tay không nhìn thấy, nên bác ba chủ nhà gọi con gái: 

- Đốt cho ba cây đèn coi, con út. 

Lát sau cây đèn dầu loại lớn được mang lên đặt giữa bàn. Quanh bàn đã có năm người, nhìn một lượt, bác Ba ngạc nhiên hỏi: 

- Ủa, thằng Sáu Sự đâu không thấy? 

Một người lên tiếng: 

- Hồi nãy nó nói mình nhậu nhưng ít mồi quá nên nó xách chĩa ra đồng kiếm vài con ếch về nướng. 

- Có lý à nghen! 

Vừa lúc đó đã có tiếng từ sau vườn vọng tới: 

- Mấy cha ở đó nói dóc hoài, chẳng ai đi kiếm mồi hết! 

- Thằng Sáu Sự về kìa! 

Sự bước vô với xâu ếch khá nặng. Bác Ba khen: 

- Thằng giỏi đa! Tao mà còn con gái lớn cũng dám gả cho thằng này lắm a! 

Sự chỉ vô trong: 

- Còn chớ sao không, bác Ba. 

- Hết rồi mày. Con Tư tao gả gồi năm ngoái, giờ chỉ còn con út, nó mới có 15 tuổi... 

Ai đó nói thêm: 

- Thằng Sự giỏi làm, kiếm chừng vài chục giạ lúa là nuôi con út đủ lớn gồi, lo gì chú Ba! 

Mọi người cười ồ, chợt Út chót bước ra với dĩa khô nướng, miệng chẩu ra: 

- Ai thèm lớn! 

Chú Ba điểm mặt từng người: 

- Đứa nào muốn có mồi nhậu bữa nay thì đừng có lộn xộn với nó! 

Lại một tràng cười nữa vang lên. Sáu Sự xách xâu ếch đi thẳng ra nhà sau định cùng làm với Út chót thì bị phát hiện, nhiều người cùng la lên: 

- Bác Ba làm trọng tài mà thiên vị quá, ai chịu! 

Chú Ba trợn mắt: 

- Ai thiên vị ai tụi mày? 

- Thì chú thiên vị thằng Sáu Sự. Nó ỷ kiếm được mồi rồi rút ra sau bếp làm với cô Út, sướng quá vậy!

Chú Ba cười khì: 

- Nó bắt được ếch đem về thì cùng làm với con Út là hợp lý, chớ còn sao nữa? Hổng lẽ cả bọn bây đều muốn xuống bếp sao, hả? 

Họ đồng thanh: 

- Thà cùng xuống, cùng làm, vậy mới công bằng. 

- Thôi đi mấy ông con, cái bếp có chút xíu, cả đống cùng xuống cho nó sập nhà sập cửa người ta! 

- Vậy thì phải xí xùm thôi, ai thắng thì được làm ếch cùng Út, ai thua thì ngồi đây chờ ăn. 

- Ờ, nghe cũng có lý, vậy kêu thằng Sự lên đi! 

Chợt chú Ba lên tiếng: 

- Tao có ý này hay hơn. Thằng Sự mày lên đây tao nói. 

Chờ mọi người đông đủ, chú bảo: 

- Ở trại đóng hòm phía sau nhà tao đang có sáu chiếc quan tài vừa đóng xong, vậy lần lượt sáu thằng bây có dám ra ngoài đó không? 

Họ đều là thợ mộc, chuyên đóng quan tài gia công cho nhà chú Ba, vậy thì việc này đâu có gì là ghê gớm... Sáu Sự cười to: 

- Chú Ba không nhớ là có lần trời lạnh quá con còn chui vô đó nằm rồi ngủ quên hay sao. Nhằm nhò gì chú! 

- Việc ban ngày ban mặt tụi bây là làm ngoài đó thì khác, còn bây giờ là đêm tối. Tao đố sáu thằng bây, mỗi thằng cầm một cây đèn cầy ra đặt vào trong quan tài rồi vô đây, đèn của ai không tắt và đặt đúng tâm điểm nhất thì người đó thắng cuộc, tao sẽ xem xét để mai mốt gả con Út cho đứa đó! 

- Dễ ợt! 

Sự dành đi trước và được mấy người kia đồng tình. Anh cầm theo đèn và tự tin bước ra phía sau. Xưởng mộc cách nhà ở khoảng năm mươi bước chân buổi tối không thắp đèn nên khi ánh nến rọi vào nhìn thấy những chiếc quan tài nằm san sát bên nhau, nếu ai yếu bóng vía ắt phải rùng mình. Nhưng đã quá quen, nên anh đi thẳng tới chiếc quan tài trong cùng, để chứng tỏ mình không sợ, rồi bình tĩnh giở nắp quan tài ra, đặt cây đèn vào giữa tâm điểm và lùi bước.

Đi qua một, hai, đến cái quan tài thứ ba thì chợt có một bàn tay mềm mại, lạnh như băng từ trong nắp áo quan thò ra và nắm chặt lấy Sự!

Sáu Sự chưa kịp có phản ứng gì thì đã bị kéo ghị về phía quan tài. Sức kéo của bàn tay nhỏ nhắn kia vậy mà mạnh đến đỗi Sự bổ nhào và rơi tõm vào bên trong chiếc quan tài đã mở nắp sẵn!

Sự không còn hay biết gì nữa.

Ở trong nhà mọi người chờ. Năm phút, mười phút rồi gần hai chục phút…

Sốt ruột quá nên có ai đó nói:

- Thằng này sợ quá dám trốn về nhà luôn lắm a!

Chú Ba có vẻ bênh Sự:

- Thằng trời đánh bảy búa không chết như nó thì sợ gì. Chắc là…

Chờ đến nửa giờ vẫn không thấy Sự trở ra, lúc ấy mỗi người một cây đèn, cùng chạy ra xưởng mộc. Họ nhìn thấy cây đèn cầy vẫn còn cháy, nhưng không thấy Sự đâu. Chợt có người kêu lên:

- Có cái gì ló ra từ quan tài này nè!

Mọi người nhìn thì thấy chiếc quan tài thứ ba ló ra một vạt áo trắng. Chú Ba có linh tính chẳng lành, chú nhanh tay kéo nắp áo quan ra và mọi người đều kêu lên:

- Thằng Sự!

Sáu Sự nằm im trong quan tài, trên mình còn phủ một chiếc áo phụ nữ tỏa hương thơm phức!

Cũng may, sau khi được trở vô bệnh viện, Sự được cứu sống. Tuy nhiên kể từ lúc ấy đầu óc Sự không còn được bình thường như trước. Vừa mở mắt ra, Sự đã hốt hoảng chụp vào khoảng không, kêu gào rất lạ:

- Nàng đâu rồi, nàng ở đâu? Kìa, hãy lại đây cùng ta… lại đây đi.

Bà Hai, mẹ của Sự lo sợ gọi con: 

- Má đây con. Má đây. 

Nhưng hầu như Sự không còn nhìn thấy ai, mắt hướng về khoảng không như tìm kiếm ai đó. Và bất ngờ, như vừa nhớ ra, Sự gọi to: 

- Thắm ơi! 

Ai nấy đều ngơ ngác, bởi đâu biết Thắm là người nào? Còn Sự, sau khi kêu, anh nhảy xuống đất và chạy bay ra cửa, rồi cứ thế mà cắm đầu chạy như điên. Những người đuổi theo phía sau chẳng tài nào đuổi kịp. 

Sự chạy về hướng Tây, hết xóm nhà đông đúc, cuối cùng rẽ vào một đường vắng rất ít nhà cửa. Tuy nhiên, như có lực vô hình nào đó đưa đường, Sự quẹo vào ngõ một ngôi nhà ngói ba gian nằm lọt giữa những hàng cây um tùm. 

Người trong nhà bước ra hỏi: 

- Anh kiếm ai? 

Sự đáp rất ngang tàng: 

- Thắm đâu? 

Người nhà vừa hỏi là một phụ nữ trung niên, vừa nghe Sự hỏi tên Thắm đã quay vào trong gọi lớn: 

- Chị Tươi ra coi nè! 

Người đàn bà lớn tuổi hơn, chừng như là chủ nhà, từ trong bước ra nhìn Sự từ đầu đến chân, cất tiếng hỏi: 

- Cậu kiếm ai? 

- Thắm đâu? Kêu Thắm ra đây cho tôi, tôi cần gặp Thắm! 

Bà chủ nhà trợn tròn mắt nhìn Sự, trong lúc người phụ nữ còn lại thì bước lui mấy bước, vẻ sợ hãi. Thấy họ chưa trả lời, Sự lại la lớn: 

- Đưa Thắm ra đây cho tui! 

Và không kiên nhẫn nữa, anh ta đi thẳng vào nhà. Lúc này bà chủ nhà vừa bước lui vừa kêu lên: 

- Ông ơi, ra coi ma quỷ gì đây nè! 

Tuy gọi vậy nhưng bà thừa biết giờ ấy ông chồng đâu có mặt ở nhà. Sự chẳng màng đến sự kêu la hoảng hốt kia, anh bước gần hơn đến chỗ chiếc bàn thờ và nhìn lên đó, một bức ảnh chân dung... hình của Thắm đặt trên đó! 

Trước sự bất ngờ của hai người đàn bà, Sự nhảy tới chụp lấy bức ảnh thờ rồi ôm chặt vào lòng như ôm người thân thương của mình! 

- Thắm ơi, anh tìm được em rồi, hãy về nhà với anh, má đang đợi, mọi người đang chờ để dự lễ cưới của tụi mình! 

Người phụ nữ nhỏ tuổi lùi sâu vào trong, ôm chặt người kia, giọng như lạc thần: 

- Gặp ma quỷ rồi chị Tươi! Lạy đi, nhanh lên! 

Hai người cùng sụp xuống lạy lấy lạy để. Trong lúc đó, thì Sự cứ ôm khư khư tấm ảnh và lui bước đi ra ngoài... 

Bà Hai, má của Sự và khoảng gần chục người nữa đi theo gần rụng giò mà vẫn không theo kịp Sự. Anh chàng cứ chút chút lại quay lại nói: 

- Ráng chút nữa đi, sắp tới nhà rồi đó. 

Cuối cùng họ tới trước cổng ngôi nhà ngói ba gian mà hôm qua Sự đã lấy bức ảnh đem đi. Sự giục: 

- Vô nhà đi, đàng gái đang đợi! 

Trong nhà vừa trông thấy Sự đã hốt hoảng, may là hôm nay có đàn ông ở nhà. Ông chủ nhà Tư Toàn đứng chận ngang cửa hất hàm hỏi: 

- Cái cậu ngang tàng kia, bữa nay tính tới quậy nữa hả? 

Chợt nhìn thấy Chú Ba chủ trại hòm cũng có mặt trong đoàn khách. Tư Toàn reo lên: 

- Ủa, anh Ba đi đâu vậy? 

Nhìn thấy mọi người với mâm, quả trịnh trọng. Tư Toàn ngơ ngác: 

- Sao có chuyện này? 

Lúc này chú Ba mới lên tiếng: 

- Thằng Sự con chị Hai đây là người làm công cho tui, bữa nay nó một hai nói má nó phải đem lễ vật đến đây hỏi vợ cho nó. Tui đâu ngờ là nhà anh. 

Vợ Tư Toàn chỉ mặt Sự nói: 

- Ngày hôm qua chính thằng này tới đây ăn cắp tấm hình thờ của con gái tui chạy đi, chớ cưới hỏi gì! 

Mẹ của Sự ngơ ngác: 

- Chuyện đó là sao? 

Tư Toàn bình tĩnh hơn, mời mọi người vô nhà rồi mới kể: 

- Con gái tui tên Thắm, nó chết hồi năm năm trước lúc vừa tròn mười tám tuổi. Tui chỉ có mình nó, chớ còn đứa nào nữa đâu mà gả với cưới. 

Sự vẫn mang bức ảnh thờ theo, vừa chỉ vào ảnh vừa cười nói: 

- Vợ người ta ở đây mà nói là chết, chết chỗ nào? 

Chú Ba liền thuật lại chuyện Sự chẳng biết thế nào mà nhảy vô quan tài rồi ngất trong đó cho chủ nhà nghe... Vừa nghe xong Tư Toàn kêu lên: 

- Dám từ chuyện đó lắm! 

- Anh Tư nói vậy... là sao? 

Tư Toàn kể: 

- Cách đây vài tháng, chỗ chôn con Thắm nhà tui bị ngập nước. Mộ bị sạt lở, nên tui cho bốc mộ, đổi sang quan tài khác, đem mai táng ở chỗ gò cao hơn. Nghe nói có mấy người thợ đào mộ đã lấy chiếc quan tài cũ đem bán cho một trại mộc nào đó và do áo quan lúc chôn con gái yêu của tôi, tôi đã đóng bằng ván loại tốt, lại dầy gấp đôi ván thường, nên có thể thợ mộc nào đó đã xẻ mỏng ván ấy ra rồi đóng thành hai cái quan tài đem bán! Tui nghi chắc là như vậy. Bởi tui nghe nói hễ dùng áo quan cũ mà chôn người mới là sẽ có chuyện... 

Trong chuyện này chỉ có chú Ba là rõ. Nghe kể chú muốn lên tiếng xác nhận nhưng ngại nên chỉ im lặng. 

Thật ra đúng là mấy tháng trước chú có mua của một người buôn gỗ gần chục miếng gỗ gõ mun cũ nhưng còn rất tốt và đem về xẻ ra để... đóng hai chiếc quan tài mới! Mà một chiếc tối đó Sự đã ngã vào... 

Tư Toàn trầm ngâm một lúc rồi nhìn sang Sáu Sự: 

- Chú em này chắc là bị con Thắm nhà tui nhập về hoặc là bị nó ám sao đó… 

Một người trong đoàn đi rước dâu khá rành chuyện này, cũng xác nhận: 

- Nhẹ thì bị hành xác, đau ốm, còn nặng như thằng Sự đây thì bị hồn người chôn trong quan tài trước ám suốt đời cho đến khi nào… chịu làm đám cưới mới thôi. 

Bà mẹ Sự hỏi lại: 

- Cưới ai? 

- Thì cưới người chết đó chớ cưới ai nữa. Như thằng Sự đây thì cưới... con nhà này! 

Chuyện nghe cực kỳ vô lý, nhưng cuối cùng cả hai bên đều đồng ý cho tiến hành hôn lễ! 

Tất nhiên chỉ là hình thức. Nhưng cũng có đủ lễ lạy bàn thờ tổ tiên, lạy người sống và trao quà cưới, lễ rước dâu. Tất cả đều chỉ một mình chú rể Sáu Sự đóng vai. Trong lễ rước dâu, lần đầu tiên người ta thấy cô dâu đi bên cạnh chú rể chỉ là... bức ảnh chân dung! 

Lạ một điều là kể từ sau “lễ cưới” đó, Sự lại tỉnh táo như trước. Mọi người ai cũng mừng. Chỉ có cô Út con chú Ba là hơi buồn. Hiểu ra mới biết, dù âm thầm nhưng Út đã có cảm tình với anh chàng Sáu Sự thật thà như đếm kia. Phải chi không có chuyện oái oăm đêm đó thì… 

Cô Út ngồi khóc một mình...

CUỘC BÁO THÙ CỦA NHỮNG GIỌT MÁU 

Rừng U Minh những năm 1940... 

Con kênh thứ Mười, phía trái tính từ Sông Cá Lớn, chảy ra biển, từ một năm nay có một gia đình từ xa đến định cư xây nhà ở ngay ngã ba kênh. Hai vợ chồng tuổi trên bốn mươi, chỉ có một mụn con, lại là gái, nhưng xem ra họ sống khá hạnh phúc. Người chồng giỏi giang. Ngoài nghề đi rừng mật ong, còn có biệt tài đặt trúm bắt lươn. Cả vùng gần đó điều thán phục tài đặt ba chục ống trúm thì tất cả đều có lươn chui vào. Có người cho rằng Năm Tỵ, tên người đàn ông, có bí quyết pha chế mồi, cho nên quyến rũ lũ lươn bằng mọi cách phải chui vào trúm. Cũng có người đồn rằng do Năm Tỵ có “bùa ngãi” nên lươn hay rắn hễ đi ngang qua trúm đều phải chui vô! 

Năm Tỵ mặc cho những lời đồn đại, anh ta cứ ngày ngày làm công việc của mình, kiếm cơm nuôi vợ con. Mùa nước nổi năm đó lươn cá quá nhiều, nên có đêm Năm Tỵ phải ra đồng thăm trúm hai lần, mà lần nào cũng bắt được vài chục con lươn vàng ngậy. Bà vợ Năm Tỵ đem ra chợ bán đến đỗi “dội chợ”, nên có người khuyên sao không chế biến ra những món ăn khác bán cho thiên hạ ăn bớt vì số lươn quá nhiều. 

Và Năm Tỵ đã nghe theo. Vợ chồng anh cùng cô con gái 16 tuổi mỗi buổi sáng sớm và xế trưa đều nấu nồi cháo lươn bán cho mọi người ăn sáng và ăn giặm buổi chiều. Ban đầu tính làm chơi, không ngờ hàng cháo ở ngã ba kênh lại bán chạy như tôm tươi! Thứ nhất là do cây nhà lá vườn nên chủ quán bán giá rẻ, vừa túi tiền của người nghèo, nhưng quan trọng hơn có lẽ là do chất lượng cháo. 

Nhiều người ở xa nghe nói một nông dân mà nấu cháo lươn ăn ngon thì không tin. Nhưng khi đã một lần đến ăn thử thì đều phải công nhận là đúng. Có người thắc mắc hỏi bí quyết nấu thì Năm Tỵ thật thà nói: 

- Đâu có gì đâu, bởi trước đây tui sống ở Biển Hồ Campuchia, nên có học theo cách nấu cháo lươn của bản xứ, họ nấu cháo bỏ thêm huyết lươn, nên nước ngọt hơn bình thường. 

- Hèn chi... 

Nhìn cái màu cháo hơi nâu nâu, có người hơi nhợn, nhưng nhiều người vẫn công nhận: 

- Đúng là có máu lươn vào nó ngọt lạ thường! 

Từ ấy người ta gọi luôn món cháo đó là cháo huyết lươn. 

Cái quán lá của Năm Tỵ bắt đầu nổi tiếng như cồn! Đến nỗi ông chủ quán không còn đủ sức đêm đêm đi ra ruộng đặt trúm bắt lươn nữa, mà phải dặn nhiều mối lái mang lươn tới mới đủ bán. 

Qua mùa nước nổi thì lượng lươn bắt được ít đi, nên vợ Năm Tỵ phải đi ra các chợ xa để thu mua. Một hôm Năm Tỵ bảo: 

- Để tui qua bên chợ Thứ Mười Một coi có mối chở lươn từ vùng khác tới bán không, tôi sẽ mua rồi dặn họ mang tới tận nhà cho mình. 

Anh chèo ghe đi từ sáng sớm mà mãi tới khi mặt trời lên khá cao mới tới nơi. Chợ đã tan gần hết, nhất là dãy bán cá, lươn, chỉ còn lại đúng một người bán. Năm Tỵ hơi thất vọng, nghĩ là mình đã lỡ chuyến chợ hôm nay, tuy nhiên cũng bước tới hỏi thăm: 

- Chị còn gì để bán không? 

Câu trả lời thật bất ngờ: 

- Chỉ còn có lươn, còn cá tôm thì hết sạch rồi. 

- Ừ, thì lươn. Tôi cần mua lươn. 

Chị bán hàng mau miệng: 

- Lươn còn nhiều, tui bán hạ giá cho anh, để còn về sớm. 

Nhìn chiếc thùng thiếc lớn đậy nắp kín. Năm Tỵ biết là nhốt lươn trong đó, tiện tay giở nắp ra,vừa hỏi:

- Còn nhiều không chị? 

- Cả một thùng luôn! Chẳng biết bữa nay gặp ngày gì mà bán từ sáng tới giờ chỉ được có nửa ký lươn buồn ngủ gần chết. 

Nhìn vào thùng lươn thấy nước toàn một màu đỏ như máu, Năm Tỵ giật mình: 

- Sao vậy chị? Bộ chị cắt cổ lươn trong thùng hả? 

Chị ta thở dài, chán nản: 

- Cũng tại ông chồng say xỉn của tôi mà ra cả. Ai đời dặn bắt lươn bỏ vô thùng đem bán mà do quá xỉn, ổng bỏ lộn cái thùng bên trong có lớp thiếc đục lỗ, làm cho đám lươn luồn lách trầy da, xứt thịt, máu chảy tùm lum, nên chẳng ai dám mua, họ chê lươn bị rách da, bị bịnh! 

- Ủa, sao lại có cái thùng như vậy để làm gì? 

Lúc này chị ta mới kể rõ: 

- Vợ chồng tui là dân gốc ở Biển Hồ mới về, hồi ở bên đó chồng tui chuyên bắt lươn nấu cháo. Chuyện cái thùng có lót lớp thiết đục lỗ lật ngược cạnh bén vào trong là để nhốt lươn, cho chúng luồn lách chảy máu mà khỏi cần phải cắt cổ hay cắt đuôi lấy huyết. Khi về đây, tụi tui bỏ nghề nấu cháo huyết lươn nên cái thùng này đem dẹp qua một bên, đâu ngờ tối qua ổng lộn hồn lộn vía... 

Năm Tỵ hiểu ra, anh lẩm bẩm: 

- Tui cũng có nghe nói người ta lấy huyết lươn bằng cách đó, nhưng về đây tui không dám làm vậy, mà chỉ chặt đuôi lươn cho máu chảy từ từ, huyết hứng vô tô. Như vậy đỡ làm hư da lươn. 

Rồi anh ta lại hỏi: 

- Chị nói anh nhà trước cũng làm nghề bán cháo huyết lươn hả? Tui cũng đang làm… 

Chị kia thở dài: 

- Cái nghề đó dễ làm, dễ kiếm tiền, nhưng từ khi thằng con lớn tui bị lươn cắn chết thì vợ chồng tui bỏ nghề luôn. 

- Lươn sao cắn chết người được? 

- Vậy mà thằng con trai lớn của tui chết thảm bởi những con lươn quỷ quái. 

Năm Tỵ cười khẩy, bởi anh ta quá rành những con lươn. Anh càng muốn chứng tỏ là chị nói nhảm, nên vừa nói vừa thọc tay vô thùng lươn: 

- Tôi sẽ mua hết số lươn này, miễn là chị bán rẻ rẻ một chút. 

- Được rồi, tôi bán nửa giá thôi. 

Chị ta vừa nói dứt câu, thì chợt nghe Năm Tỵ thét lên một tiếng, vừa giựt tay ra khỏi thùng lươn! Chị bán hàng há hốc miệng khi nhìn thấy nguyên cánh tay của Năm Tỵ đều bị những con lươn cắn và đeo dính vào, rồi quấn chặt lấy! Có đến ngót chục con lươn trên cánh tay, thật khủng khiếp! 

- Trời ơi, bớ người ta! 

Hình ảnh trước mắt giống hệt như xảy ra với con trai chị cách đây không lâu! 

Nhiều người nghe kêu đã bu lại xem và ai nấy đều lạnh toát mồ hôi trước cảnh tượng chưa từng nhìn thấy bao giờ. Vài người ù té chạy như bị ma đuổi. Tội nghiệp Năm Tỵ chỉ trong phút chốc, cả thân người to khỏe đã từ từ teo tóp lại rồi ngã vật ra đất, nằm bất động! 

Năm Tỵ chết được mười ngày thì chợt chiều hôm đó có một ông già người Miên ghé qua nhà, ông xưng mình là Thạch Xà Uôn và lên tiếng hỏi ngay khi nhìn thấy bàn thờ giữa nhà: 

- Thằng này chết vì những giọt máu phải không? 

Vợ Năm Tỵ đang đau buồn vì chồng, lại nghe hỏi ngang như vậy thì xẵng giọng: 

- Liên can gì tới ông? 

Ông già Miên vẫn cái giọng đó: 

- Tao tới sớm một chút thì nó không chết. Nhưng mà cũng phải thôi, làm ác gặp ác? 

- Ai nói chồng tui làm ác? 

- Giết cả ngàn sanh mạng mà không ác sao? 

Con gái Năm Tỵ từ trong bước ra cãi: 

- Ba tui chỉ nấu cháo lươn bán, chớ giết ai bao giờ! 

Ông già Miên nghiêm giọng: 

- Ta từ Biển Hồ về đây cũng chỉ vì chuyện này. Ta nói cho mà biết, những con lươn theo truyền thuyết thì nếu sống quá mười năm sẽ biến hình thành con vật khác, chúng là những con vật có linh hồn, máu của nó giống như máu người, vì vậy… 

Ông nhìn quanh rồi chỉ vào những dụng cụ nấu cháo vừa nói: 

- Mỗi ngày giết vài chục sanh mạng bằng cách cho máu nó chảy từ từ như vậy đâu phải là việc tốt. Ta có lòng tốt, ta khuyên các người từ nay nên bỏ hẳn cái kiểu ăn uống bất nhơn này đi và dẹp quán ngay, nếu không muốn hậu quả kinh khiếp hơn! 

Nói xong ông ta bước ra ngoài rồi mất dạng... 

Từ đó không ai còn thấy người còn lại trong gia đình Năm Tỵ mở cửa quán. Và lạ hơn nữa, từ ấy món cháo huyết lươn chẳng hẹn mà cũng biến mất luôn...

HỒN OAN LINH MIÊU

Ở một mình trong ngôi biệt thự cổ rộng mênh mông là điều mà Thúy Liễu không bao giờ nghĩ tới. Vậy mà giờ đây cô phải chịu đựng. Chỉ bởi một lý do bất khả kháng: Về nhà cũ để bốc mộ cho cha mẹ và người chị gái. Mộ ông bà thì nằm ngay ở sau vườn gần nhà, còn mộ người chị thì chẳng hiểu sao lại chôn ngay trong nhà hầm! 

Lúc về để chuẩn bị công việc thì có nhiều người, nhưng khi sắp thực hiện thì bỗng dưng cả bốn người trong nhóm thợ đào huyệt đều ngã bệnh lạ, mà căn bệnh cũng rất lạ, tất cả họ đều bị chảy máu mũi, rồi tay chân đau nhức lạ thường, thậm chí không lê bước được. 

Bởi vậy, lúc đầu Thúy Liễu chỉ tính ở lại có một ngày đêm, nhưng gặp sự cố như thế nên cô đã phải lưu lại đến ngày thứ ba rồi mới chỉ đào có hai huyệt của cha mẹ. Trong ba ngày mà phải thay đến bốn kíp thợ. Tốp đầu thì bị ngã bệnh như đã nói, còn ba tốp sau thì lần lượt người thì bị cuốc nhầm vào chân, người bị miểng chai văng trúng mắt, còn hai người nữa trên đường tới chỗ làm việc thì bị tông xe! Tuy gặp điềm gở như thế, nhưng Thúy Liễu vẫn không nản chí, cứ hô hào mọi người tiếp tục, mặc dù phải trả tiền công cao gấp đôi. Bởi một lý do thầm kín mà Liễu không hề tiết lộ với ai: Trước đấy hai tuần, liên tiếp trong ba đêm Liễu đều mơ thấy ba mẹ mình về báo mộng, bảo phải bốc hết mộ ra khỏi ngôi nhà, bởi nơi đó sắp bị san bằng và ô nhiễm nặng. 

Quả nhiên, chỉ mấy ngày sau thì Thúy Liễu, người thừa kế duy nhất của ngôi nhà cổ đã nhận được một thông báo di dời có đền bù, để người ta xây dựng ở đó một… lò hỏa táng! 

Lúc sắp bắt đầu công việc thì Liễu gặp khó. Bởi cô chỉ biết vị trí hai ngôi mộ của cha mẹ, riêng mộ của chị Thúy Lan thì không biết ở đâu. Lúc sinh tiền cha mẹ Liễu cũng chưa bao giờ tiết lộ cụ thể, chỉ nói là “chôn trong đất nhà mình”. Cuối cùng Liễu phải đi tìm bà vú già năm xưa từng nuôi nấng chị Thúy Lan thì mới được tiết lộ là Thúy Lan được chôn ngay trong nhà hầm của ngôi nhà cổ! Hỏi tại sao vậy thì bà Vú Mười chỉ lắc đầu, không nói, có lẽ ngại điều gì đó... 

Cuộc khai quật mộ Thúy Lan tiến hành sau cùng. Nhưng trước đó vài giờ lại xảy ra chuyện. Cả bốn người thợ đào mới thuê đều kêu đau đầu rồi lăn lộn rên la! Hoảng quá, Thúy Liễu phải đối hương khấn vái vong hồn chị mình, xin phù hộ cho công việc được suôn sẻ. Cuộc cúng vái phải lập lại đến lần thứ ba thì nhang đèn mới chịu cháy, có nghĩa là người khuất mặt đã chứng giám cho! 

Người ta phải giở lớp đá dầy cả tấc lên, rồi lại đào thêm gần cả mét nữa thì mới chạm vào nắp quan tài. Thúy Liễu đứng chứng kiến đã thầm nghĩ, có lẽ do quá thương cô con gái chết trẻ nên cha mẹ cô đã cho chôn xác con ngay trong nhà và làm mộ huyệt khá kiên cố như vầy… 

Chiếc quan tài được đưa lên và cạy nắp một cách cẩn thận… Tuy nhiên khi nắp vừa bật ra thì cả Thúy Liễu và bốn người thợ đều ngớ người, mồm há hốc! Bởi trong quan tài không hề có xác hay hài cốt người, mà chỉ có xác một con mèo đen! Nhưng càng lạ hơn nếu tính theo ngày chôn Thúy Lan thì đến lúc đó đã trên năm năm, có nghĩa là dù xác người hay thú, thì điều đã phân hủy. Vậy mà xác con mèo vẫn nguyên vẹn như lúc mới chôn! 

Trong lúc mọi người còn đang quá đỗi ngạc nhiên thì chuyện lạ lùng không thể tin được đã xảy ra: Xác con mèo đen bỗng phóng ra khỏi quan tài và lao vút đi như ánh chớp rồi mất dạng ngoài màn đêm! 

Người đầu tên xuất hiện tại ngôi nhà cổ ngay sáng hôm sau khi sự cố xảy ra lại là bà Vú Hai. Sự có mặt của bà làm cho Thúy Liễu ngạc nhiên, nhưng cô lại mừng vô cùng, bởi vú là người duy nhất biết về cái chết của Thúy Lan. Không đợi Liễu kể, vú đã hỏi ngay: 

- Có phải đào lên gặp con linh miêu không? 

Thúy Liễu kinh ngạc: 

- Linh miêu là gì? 

Bà Vú kể: 

- Hôm trước tôi chưa dám kể, chớ thật ra cô Thúy Lan chết vừa được vài giờ thì có con mèo đen lạ, chẳng biết từ đâu nhảy vào nhà rồi phóng qua xác cô chủ nhỏ. Lúc ấy ai cũng sợ điếng hồn, nhưng im lặng không dám nói. Chỉ có tôi là lo sợ, tôi có nhắc bà chủ, nhưng do sợ, bà cũng chẳng nói lại với ai. Đêm qua, đang ngủ thì đến nửa đêm tôi nghe có tiếng kêu khóc của ai nghe quen quen. Khi tôi tỉnh lại thì tôi thấy cô Thúy Lan ngồi khóc ngoài cửa sổ! Tội nghiệp cô, hồi đó trẻ đẹp, trắng trẻo, vậy mà nay xanh xao, già đi thấy rõ. Tôi hỏi nguyên do thì cô nói từ khi chết đến giờ hồn không siêu thoát được, do bị con linh miêu nó canh giữ miết một bên. Nay thì… 

Bà chỉ tay vô chiếc quan tài hôm qua đào lên rồi xảy ra chuyện nên còn để nguyên trên sàn nhà hầm, vừa nói: 

- Cô Liễu coi có phải xác cô Lan ở trong đó không? 

Chính mắt Thúy Liễu đã trông rất rõ lúc bốc mộ hôm qua, nhưng cũng nghe lời bà vú, cô bước tới xem và... kêu rú lên: 

- Bộ hài cốt! 

Quả vậy, trong quan tài lúc này có hẳn một bộ xương người! Nhìn bộ tóc dài quá lưng, vú Hai khóc nức nở: 

- Cô Lan đây mà. 

Làm một lễ cúng xong, vú Hai nói khẽ với Liễu: 

- Như vậy là cô Lan đã siêu thoát được rồi. 

- Nhưng còn... 

- Cô Ba muốn hỏi con linh miêu chớ gì? Theo tôi biết thì một khi con linh miêu ấy thoát ra khỏi quan tài thì nó chẳng còn quay lại được nữa. Ngày xưa tôi từng nghe bà nội tôi kể như vậy và tôi tin chắc là lần này cũng vậy thôi. Cô yên tâm và lo đưa ba bộ hài cốt về nơi an toàn hơn để an táng đi. Và tốt hơn hết là cô cũng không nên lưu lại nơi đây lâu. 

Không nói ra, nhưng trong lòng Thúy Liễu đã quyết sẽ không bao giờ trở lại lần nữa…

HỒN MA ĐÀO HÁT 

Gánh hát Trăng Non vừa dọn đến rạp thì trời đổ cơn mưa lớn chưa từng thấy ở xứ Ngã Năm này. Ông bầu Ngọc là người rầu thúi ruột, nhìn mưa rơi như trút nước bên ngoài, lòng ông tê tái, thở dài: 

- Cái kiểu này thì... húp cháo nữa rồi! 

Những nhân viên trong đoàn cũng cùng tâm trạng, họ bồn chồn hỏi nhau: 

- Chiều nay lấy gì nấu ăn đây? 

Nghe họ nhắc, bầu Ngọc chợt nhớ là gạo nấu ăn tập thể đã hết. Tiền chợ cũng đã cạn từ chiều hôm qua, theo dự tính thì ngay sáng nay khi gánh dọn đến thì sẽ cho bán vé ngay, lấy tiền đó để đi chợ. Mà như thế này thì... 

Tuy nhiên, với kinh nghiệm hơn mười năm đi hát, ông bầu vẫn lên tiếng an ủi anh em: 

- Mưa lớn thế này thì sẽ mau tạnh. Chúng ta cứ chuẩn bị dượt lại tuồng, còn bộ phận quảng cáo thì chuẩn bị để khi trời ngớt mưa thì đánh trống, phát loa ngay, để khán giả biết. Nhớ nhấn mạnh là đợt này chúng ta có tuồng mới, lại có thêm đào kép ở gánh lớn chuyển về. Tôi biết khán giả xứ này nhiệt tình lắm, mà mùa vụ này họ lại mới vừa trúng lớn nữa. 

Anh em trong đoàn ai cũng hy vọng lời động viên đó là sự thật, nên cùng lao vào công việc chuẩn bị. Một nhạc công lớn tuổi bảo cô đào mới Phi Phụng: 

- Người ta nói tổ thường đãi người mới, vậy Phi Phụng hãy thắp nhang vái tổ và cầu thổ địa, thổ thần ở đây, xin được phù hộ. 

Phi Phụng nghe lời, thành kính cúng vái. Đến mười một giờ thì mưa đột ngột ngừng, trong lúc mây đen còn đen bốn phía. Bầu Ngọc mừng quá: 

- Trời còn thương chúng ta mà! 

Thế là các bộ phận trong đoàn phấn khởi lao vào công việc. Loa lập tức phát vang, quảng cáo cho đoàn hát Trăng Non. Sắc mặt mọi người trong đoàn đều rạng rỡ. Cô đào Phi Phụng nghĩ là tổ đãi mình thật, nên chấp tay thầm khấn và cám ơn người khuất mày khuất mặt và sau đó cô tìm bầu gánh nói lời cám ơn ông đã ưu ái dành cho cô vai diễn lần này, để cô có dịp ra mắt bà con nơi chôn nhau cắt rốn. Bởi quê hương của Phi Phụng chính là vùng Ngã Năm này. 

Ngay lúc ấy, chợt từ phòng thay quần áo của các nữ diễn viên có tiếng ngã đổ rất lớn. Ai nấy hoảng hốt chạy vào thì trong phòng không có ai, cũng chẳng có gì ngã đổ, mà chỉ có một dòng chữ bằng sơn đỏ của ai đó mới viết trên nắp rương quần áo của Phi Phụng. Người ta đọc được dòng chữ một cách dễ dàng: CẢNH CÁO CON PHI PHỤNG, NẾU MÀY LÉNG PHÉNG VỚI THẰNG BẦU GÁNH THÌ COI CHỪNG HỘC MÁU NGAY! 

Mọi người nghi ngờ, đưa mắt nhìn nhau. Còn bầu Ngọc thì lên tiếng như vừa đính chánh, vừa dò xem ai là người viết: 

- Chuyện bậy bạ như vầy mà cũng nói được hả? Ai là người mới viết những chữ này? 

Cô đào già Ngọc Nga là người lớn tuổi nhất trong giàn đào, cũng là người được nể trọng trong đoàn quả quyết: 

- Trong đoàn không ai có ý nghĩ bậy bạ này. Mà nhìn tuồng chữ cũng như màu son để viết, thì dứt khoát trong gánh mình không ai là tác giả. Mấy người xem, chữ viết rất đẹp, lại viết bằng thứ sơn mà trong đoàn mình làm gì có! 

Có ai đó nói khẽ: 

- Coi mấy ông thợ vẽ quảng cáo coi... 

Nhưng cô đào Ngọc Nga cũng bác ngay: 

- Mấy ông thợ vẽ trong đoàn vẽ bằng màu bột pha nước đã bôi xóa, còn đây là sơn dầu, mà chữ con gái, còn đám thợ vẽ của mình toàn là nam... 

Phi Phụng vì mắc cỡ nên ôm mặt khóc nức nở, làm cho bầu Ngọc cũng áy náy: 

- Ai mà ác nhơn như vậy có phải là giết con nhỏ không. Tui coi Phi Phụng như em cháu, ai đi làm chuyện bất nhơn đó… 

Thật ra mọi người trong đoàn đều có chung ý nghĩ là bầu gánh và Phi Phụng chưa hề có gì với nhau. Nhưng chuyện đời mà… 

Buổi hát may mắn được diễn ra suôn sẻ. Nhờ trời hết mưa sớm và cũng nhờ khán giả tò mò kéo tới ủng hộ giàn đào kép mới, cho nên mới sáu giờ chiều thì vé đã bán được trên phân nửa rạp. Như vậy là thành công rồi! 

Bầu Ngọc phấn khởi quá tuyên bố: 

- Nếu đêm mai cũng được như vầy tui sẽ thưởng cho mỗi người một ngày lương! 

Buổi diễn còn nửa giờ nữa sẽ bắt đầu. Bộ phận lo kê ghế trong rạp khi bật đèn để chuẩn bị thì tá hỏa lên khi thấy tất cả các dãy ghế đều lật nghiêng, ngã ngửa, nhiều cái chồng lên nhau như sau một trận động đất! 

Chỉ có ba người trong bộ phận này, nên nhìn cảnh tượng đó họ chỉ biết dậm chân kêu trời: 

- Chết rồi, làm sao dọn cho kịp giờ diễn. 

Bầu Ngọc nghe báo cũng bước ra xem, ông tái mặt: 

- Ai làm chuyện này vậy? Chắc chắn có kẻ muốn phá chúng ta. 

Nhưng soát qua một lượt, chẳng có ai khả nghi, nên ông bầu chỉ còn biết hô hào mọi người trong đoàn, chỉ trừ đào kép đang hóa trang chuẩn bị ra diễn, còn tất cả đều phải tiếp tay nhau, cùng xếp lại băng, ghế. Cho đến sát giờ diễn thì công việc cũng tạm xong. Tuy nhiên, khi xướng ngôn viên vừa giới thiệu xong nội dung buổi diễn và cám ơn khán giả, thì một tin sét đánh lại tới: Đào chánh Phi Phụng tự dưng lăn đùng ra, miệng trào máu tươi trông thật khủng khiếp! 

Cũng may màn đầu chỉ là hoạt cảnh của các vai phụ và hài, nên buổi hát cũng phải mở màn cho đúng giờ. Bầu Ngọc sốt vó, giục mọi người: 

- Mau tìm cách cứu tỉnh cô ta đi! 

Nhưng thầy tuồng lắc đầu ngao ngán: 

- Cổ ngất rồi thì còn cứu cái gì nữa phải đưa đi nhà thương ngay thôi! 

Trong khi vài người cõng Phi Phụng ra ngoài đưa đi bệnh viện thì bầu Ngọc như ngồi trên lửa: 

- Chết rồi, đâu có ai đóng thay Phi Phụng! 

Chợt có cô đào phụ, tuổi cỡ Phi Phụng, lên tiếng: 

- Để tui đóng thế cho! 

Chính ông thầy tuồng cũng lắc đầu: 

- Đây là vai chánh, mày thì chưa tập tuồng ngày nào thì diễn làm sao được mà đòi thay với thế! Kiểu này phải ra cáo lỗi với khán giả thôi ông bầu ơi! 

Nhưng cô đào phụ Yến Oanh vẫn cương quyết:

- Tui nói đóng được thì cứ tin tui đi. Hãy lấy trang phục của đào chánh ra đây!

Nhìn sắc vóc của cô ta cũng không thua gì Phi Phụng, mà lại thấy cô ta nói cứng, nên bầu gánh đành phải gật đầu:

- Biết sao bây giờ…

Trong lúc ông thầy tuồng đứng ngồi không yên thì cô đào phụ Yến Oanh chừng như không hề lo lắng, cô còn nhắc ông:

- Tới đoạn người con gái trao quạt tặng người yêu ông nhớ lấy cây quạt thờ trên bàn thờ tổ đưa cho tôi nghe chưa!

Cái giọng ra lệnh đó ngay như ông bầu gánh còn không dám, chớ đừng nói là cô ta, vậy mà xem ra ông thầy tuồng không có phản ứng gì, lại còn giục mọi người đi lấy cây quạt. Đến lúc này thì ông bầu Ngọc mới ngăn lại:

- Đó là vật thờ tổ, sao lấy được?

Vừa nghe vậy cô Yến Oanh đã quay lại cự liền:

- Tui nói được, ai dám cãi!

Lạ thường thay, sau câu nói đó thì cả bầu gánh cũng im re, thậm chí không dám lắc đầu. Vừa lúc đó tới màn của vai chánh.

Yến Oanh tự tin bước ra sân khấu. Và trước sự ngạc nhiên của cả đoàn đang núp trong cánh gà, cô ta bắt đầu bằng một lớp đối đáp với nam chánh thật sôi nổi và trơn tru. Trơn tru đến nỗi ai nấy đều kinh ngạc, tưởng chừng như đó là… đào chánh Phi Phụng!

Trong rạp từng tràng pháo tay nổi lên khi Yến Oanh bắt đầu vô vọng cổ. Có thể nói về giọng ca thì cô này còn hay hơn cả Phi Phụng. Bên cánh gà chính thầy tuồng cũng phải thốt lên:

- Trời đất ơi, nó ca còn ngọt hơn Phi Phụng và giống y như… Phượng Thúy ngày nào!

Vài người khác cũng thốt như vậy:

- Phượng Thúy!

Dưới hàng ghế khán giả, ngoài vỗ tay cuồng nhiệt, nhiều người còn la lớn:

- Cô Phượng Thúy tái sinh!

Tất nhiên là bầu gánh nghe rõ hơn ai hết, nhưng lúc đó quai hàm ông ta đang bị cứng lại, người lạnh toát mồ hôi! 

- Kìa ông bầu, ông có được viên ngọc quý rồi đó! 

Nhưng khi nhìn lại bầu Ngọc thì họ hoảng hốt, bởi lúc ấy ông bầu đã quỵ ngã xuống chân cánh gà, hơi thở gấp như đang bị ai đó bóp cổ! 

- Ông bầu! Ông bầu! 

Mấy người cùng xúm lại cứu chữa, nhưng không hiệu quả gì, cuối cùng lại phải đưa ra bệnh viện. 

Còn ở rạp thì khỏi phải nói, khán giả được một bữa đầy ngạc nhiên, hứng thú trước giọng ca mà họ cho là giọng ca vàng. Theo họ thì từ khi cô đào Phượng Thúy chết đi đến nay đã hơn sáu năm, thì chưa có ai ca diễn hay như cô đào nhỏ tuổi này. 

Tan buổi hát, thiên hạ còn tụm năm tụm ba trước cửa rạp để bàn tán. Vài người nhìn lên bảng quảng cáo tên tuổi diễn viên đã không khỏi ngạc nhiên khi không thấy tên tuổi của Yến Oanh, chỉ có tên Phi Phụng. 

Trước khi ra về họ còn hẹn nhau: 

- Ngày mai ra coi nữa! 

Nửa đêm hôm đó, tại bệnh viện… 

Lúc bầu Ngọc vừa tỉnh lại thì vô cùng ngạc nhiên khi người nằm giường gần đó nói: 

- Có cô nào đó đẹp lắm vừa tới đây gởi cho ông cái này. 

Bầu Ngọc cầm xem thì thấy đó là chiếc quạt trên bàn thờ tổ! Có dòng chữ ghi trên cán quạt: Cây quạt này là của ai, nhớ không? Nếu nhớ thì từ nay chỉ để yên trên bàn thờ, không ai được đụng tới, ngoại trừ Phượng Thúy! 

Mới vừa hồi tỉnh sau cả giờ mê man, mà vừa đọc dòng chữ đó, bầu Ngọc phát mệt trở lại, tinh thần như bị hoảng loạn. Lát sau ông mới hỏi người bên cạnh: 

- Cô ta... vô đây có nói gì nữa không? 

Người kia lắc đầu: 

- Chỉ nói đúng một câu lúc nãy, còn thì đứng nhìn ông một lúc và nhếch miệng cười rồi bước ra. Ở bên phòng bệnh của Phi Phụng thì chính bà lao công đang chăm sóc cho cô đào, sau lúc nửa đêm một chút, đã sững sờ khi thấy có một người mặc áo dài đen, đầu choàng chiếc khăn giống như khăn diễn trên sân khấu, bước vô phòng rồi đứng nhìn. Sau đó người ấy đưa tay lột chiếc khăn choàng ra…

- Cô... cô Phượng Thúy. 

Phượng Thúy vốn là đào chánh của gánh Trăng Non từ hơn chục năm trước, do đó không một ai trong đoàn là không quen mặt. Thậm chí còn biết rõ cả dáng đi, giọng nói, tiếng cười của cô. Cho nên nhìn người trước mặt, dù đã cách xa ngót bảy năm kể từ ngày cô chết đi do một tai nạn, nhưng chị lao công cũng không thể nhìn lầm. Chị lặp lại lần nữa: 

- Cô Phượng Thúy còn nhớ tui không? Tui là Năm Lài nè! 

Nhưng trước sau gì người đứng kia vẫn im lặng, mắt thì nhìn chòng chọc vào chỗ Phi Phụng nằm. Chị Năm Lài chợt hiểu, bắt rùng mình: 

- Cô… cô Phụng đang còn mê man… xin cô… 

Phượng Thúy chợt phá lên cười, giọng cười nghe lạnh cả người, làm cho những người ở phòng bên cạnh cũng giựt mình. Chị lao công hơi run vì sợ, nhưng dường như hai chân đã mềm nhũn, không nhúc nhích được, đành ngồi im. 

Phượng Thúy bước tới gần bên giường bệnh nhân, rồi bất thần vung tay lên, chụp xuống ngay giữa ngực Phi Phụng. Không nghe tiếng kêu la nào hết, cùng lúc Phượng Thúy quay bước ra cửa, mất dạng... 

Đến lúc này Năm Lài mới hoàn hồn, chạy lại chỗ Phi Phụng, cứ sợ cô ta bị nguy sau cú chụp vừa rồi. Tuy nhiên, trước sự ngạc nhiên của chị, Phi Phụng bật ngồi dậy, người tỉnh táo như lúc chưa bệnh, lại cất tiếng hỏi: 

- Chị ấy đi rồi hả? 

- Cô nói ai? 

- Chị Phượng Thúy! 

- Lúc nãy cô biết? 

Phi Phụng thuật chuyện: 

- Tui thấy rõ chị ấy đến bên tôi và nói rằng đáng lẽ chị ấy đã giết tôi, bởi tôi dan díu với ông bầu, nhưng nghĩ lại thấy tôi chỉ là nạn nhân, nên tha cho. Chị nói chỉ trị tội ông bầu thôi... 

Năm Lài nhẹ thở dài, nói chỉ mình Phi Phụng nghe: 

- Chị đã theo gánh này từ hồi ông bầu Ngọc còn là kép phụ của đoàn. Khi ấy cô Phượng Thúy là đào chánh, được mọi người ái mộ theo đuổi, trong đó có anh kép Thế Ngọc mà bây giờ là bầu Ngọc, nhưng cô Thúy chỉ thương có mỗi anh kép chánh Trọng Tài. Ỷ mình có gia đình giàu có hơn, nên Thế Ngọc bắt ép Phượng Thúy phải yêu mình, nếu không sẽ nói với cha mình, lúc đó là bầu gánh, sẽ sa thải ngay! Dĩ nhiên là cô Thúy cự tuyệt và vì vậy... 

Chị ta kể tới đó thì ngừng lại, tỏ vẻ ái ngại, không dám nói nữa... Phi Phụng phải năn nỉ: 

- Chị làm ơn nói cho em nghe đi, em muốn biết để còn tránh những sai lầm… 

Năm Lài ngập ngừng một lúc rồi tiếp: 

- Một đêm mưa gió lớn, khi vừa dứt buổi hát, cô Phượng Thúy vội vã che dù đi ra ngoài, mà ai cũng biết là cô đi hẹn với kép Trọng Tài, mà chỗ hẹn của họ là ở bên kia sông. Khoảng vài giờ sau đó, có người chạy về đoàn báo tin rằng chiếc xuồng mà cô Phượng Thúy đi qua sông đã chìm ở giữa dòng! Người ta tức tốc bơi xuồng ra, rọi đèn tìm kiếm, nhưng không thấy Phượng Thúy đâu. Qua ngày hôm sau thì mới vớt được xác cô Thúy lên và người ta phát hiện chiếc xuồng Phượng Thúy thường dùng đã bị thủng một lỗ lớn ở phía sau lái. Đã có nhiều nghi vấn về chuyện chiếc xuồng lủng, nhưng rồi mọi việc cũng trôi qua, do ông bầu gánh không muốn làm lùm xùm sẽ có ảnh hưởng đến đoàn hát. 

- Vậy sao từ lúc em vô đoàn đến nay không hề nghe ai nhắc tới tên cô Phượng Thúy? 

Năm Lài nói khẽ hơn: 

- Ông bầu cấm, nên đâu ai dám nhắc. 

Phi Phụng ngạc nhiên: 

- Sao lại cấm? Hay là giữa họ đã có... 

Năm Lài đưa tay bụm miệng Phụng mà không kịp, nên lo lắng: 

- Em còn muốn yên thân thì đừng có nói lôi thôi nữa. Mình còn theo nghề này thì chỉ muốn sao có được miếng cơm… 

- Nhưng... 

- Chị đã nói rồi mà! Theo chị, em được hồn cô Phượng Thúy nói như vậy là em không sao rồi. Nè, em biết không nghe nói mấy người sống chết oan thường linh lắm, họ mà trả thù thì... 

Chị ta ngừng lại, suy nghĩ gì đó một chút rồi mới tiếp, vẻ nghiêm trọng hơn: 

- Chị nhớ ra rồi, lâu nay, có đến sáu bảy năm rồi, kể từ ngày kép Thế Ngọc lên thay cha làm bầu gánh thì chưa bao giờ đưa đoàn về diễn ở đây, không hiểu sao lần này ổng lại… 

Phi Phụng thắc mắc: 

- Sao vậy? Xứ này thích coi hát lắm mà? 

Năm Lài chứng tỏ mình rành nhiều chuyện, nên lại không giữ miệng được: 

- Chị không giấu em, chính nơi đây, ở con sông này là nơi Phượng Thúy đã bị chìm ghe chết. Từ nào đến giờ đoàn không về đây thì không có chuyện. Nay vừa mới về đã xảy ra rắc rối thế này. Đúng hồn ma cô Phượng Thúy đã kiên nhẫn chờ bao lâu nay để trả thù đây mà! 

Rạng sáng hôm sau thì người trong bệnh viện phát hiện bầu Ngọc trốn đi đâu mất. Ông ta không trở về đoàn sau khi tỉnh lại, mà lại một mình bơi xuồng ra giữa dòng sông và... gieo mình xuống đó! Dẫu là người biết bơi, nhưng chẳng hiểu sao ông bầu lại chìm sâu rồi không trồi lên... Cho đến hai ngày sau người ta vớt được xác ông ngay tại nơi Phượng Thúy được vớt ngày trước. Oan oan tương báo chăng? Cả đoàn hát rúng động, tính nghỉ hát sau cái chết của ông bầu, tuy nhiên chính cô đào đóng thế vai Yến Oanh lại quyết định: 

- Ta phải tự cứu mình bằng cách tiếp tục diễn sẽ có vong hồn cô Phượng Thúy giúp đỡ, lo gì… 

Nghe kỹ ra thì giọng nói của Yến Oanh lúc ấy không phải là chính giọng của cô, mà là của... Phượng Thúy! Cô đào Chánh đã nhập vào Yến Oanh để gián tiếp lèo lái đoàn hát. Và cũng chính cô mấy đêm trước đã ứng vào để Yến Oanh diễn xuất thần vai chính bất đắc dĩ! 

Gánh hát Trăng Non vẫn tiếp tục sống với hình thức tập thể. Người nhà của bầu Ngọc được chia phần sòng phẳng, số còn lại anh chị em trong đoàn chia nhau. Nhờ vậy cuộc sống của họ được khấm khá hơn, không khí trong đoàn hòa đồng, vui vẻ hơn trước rất nhiều. Ở hậu trường đoàn hát lúc nào cũng có bàn thờ cô đào Phượng Thúy với khói hương không lúc nào ngưng…

LỜI THỀ MA NỮ 

Phần 1 

NGÔI MỘ CÔ ĐƠN

Vừa chọn bộ đồ để trên giường, định khi tắm xong trở ra Son sẽ mặc, thì lại biến đâu mất! Son tưởng mình đãng trí nên tự đi tìm lại trong tủ, tất nhiên là không có. 

- Chị Năm ơi... 

Son vừa cất tiếng gọi đã im bặt ngay, bởi cô nhớ ra mình... không có gì trên thân mình! 

Bên ngoài có tiếng của Năm, cô người làm: 

- Cô Ba kêu tôi có gì vậy? 

Bước lùi vào nhà tắm, Son hỏi vọng ra: 

- Nãy giờ chị có vào phòng tôi không? 

- Dạ đâu có. Tôi đang làm bếp với bà mà. 

- Vậy… 

Thay xong quần áo khác, Son bước ra, thấy Năm Lành còn đứng đó, cô gay gắt: 

- Nhà này bây giờ có ma hay sao mà thứ gì vừa để cũng mất! 

Năm Lành hơi khó chịu: 

- Cô Ba nói vậy tội cho em. 

- Vậy chứ bộ đồ tôi mới để đây biến đâu? 

- Cô để ở đâu? 

- Trong phòng tôi chứ đâu! 

- Phòng cô Ba thì lúc nào cũng khóa cửa, ai mà vào lấy được. 

Lời nói của Năm đúng hoàn toàn, bởi khi nãy cô mở cửa ra thì cửa ở tình trạng còn khóa chốt bên trong. Vậy thì… 

Son thừ người ra, lẩm bẩm: 

- Không thể nào... 

Trở vào phòng, vừa đến bàn viết Son phát hoảng, bởi quyển nhật ký cô đang viết đêm qua đã không cánh mà bay! 

- Năm Lành. Vào đây mau! 

Năm Lành vừa quay xuống nhà bếp, nghe gọi vội quay trở lại. Vừa thấy mặt nó Son đã quát ầm cả lên: 

- Cuốn sổ tôi để trên bàn đâu? 

Lành ngơ ngác: 

- Dạ, em đâu có biết cuốn sổ gì! Nó ở trong phòng cô mà. 

Lời nhắc này lại một lần nữa khiến Son ngỡ ngàng. Rõ ràng những gì trong phòng cô thì không thể hỏi người làm được. Xưa nay phòng riêng của Son là tuyệt đối không một ai được vào, chứ đừng nói là vào lấy đồ. Bất cứ người làm nào muốn gì thì chỉ được phép đứng bên ngoài nói vào thôi. Năm Lành vốn là người được cắt đặt phục vụ riêng cho Son, nhưng cũng chưa một lần được bước chân vào trong. 

Tuy biết là vậy, nhưng Son vẫn hỏi: 

- Vậy nó ở đâu? 

- Cô Ba thử kiếm kỹ lại coi. 

- Kiếm rồi. Đâu chị vào tìm lại giùm tôi coi! 

Năm Lành tới bên bàn viết chợt cô nhìn ra cửa sổ và kêu lên:  

- Cô Ba không thấy cái gì sao! 

Theo tay chỉ của Lành, Son nhìn thấy một chiếc áo phụ nữ nằm vắt ngang nhánh cây bên ngoài cửa sổ. 

- Của ai vậy? 

Lành ngạc nhiên: 

- Cái áo không phải của cô sao? 

Son lắc đầu: 

- Tôi đâu có loại áo này. Chị với tay được thì kéo vào thử xem? 

Năm Lành thò tay ra cửa sổ vừa mở, chỉ cần rướn tay một chút là lấy được chiếc áo vào. Lúc này chị mới phát hiện áo chỉ còn lại vạt trước, vạt sau đã bị đứt ngang. 

Kiểu may của áo, màu sắc, thoạt nhìn đã phân biệt được ngay, nó là của một người trẻ, nhưng được may cách đây khá lâu, nhất là kiểu cổ áo, thuộc loại khá xưa. 

Son lắc đầu: 

- Đây chắc là áo của ai phơi rồi bị gió bay, mắc trên đó. Chị đem bỏ ra ngoài đi. 

Năm Lành cầm chiếc áo lên xem kỹ lại lần nữa. Chợt có một cơn gió thốc thổi chiếc áo bay vèo ra ngoài cửa, khiến Son giật mình: 

- Coi chừng! 

Chiếc áo như cánh diều bay một vòng, trước khi hạ thấp độ cao và cứ thế là đà trên mặt cỏ bay đi về cuối khu vườn và mất hút! Son quá đỗi ngạc nhiên trước hiện tượng vừa rồi, cô hỏi: 

- Sao kỳ vậy chị Năm! 

Năm Lành cũng không thể hiểu được, chỉ đáp: 

- Có thể do luồng gió... 

Tự dưng Son bắt rùng mình, cô giục: 

- Thôi, chị đóng cửa lại đi. 

Chờ cho Năm Lành gài chặt cửa sổ lại, Son bảo: 

- Thôi, hông tìm nữa. Mà chị cũng đừng nói cho ai biết chuyện này. Kể cả chuyện vừa rồi nữa. 

- Dạ, chuyện gì vừa rồi cô Ba? 

- Thì chuyện chiếc áo bay. 

Chẳng hiểu ý cô chủ, nhưng không dám hỏi, Năm Lành bước ra ngoài mà lòng chưa hết thắc mắc. 

Phần Son, khi đứng lại một mình trong phòng, cô cứ bị ám ảnh mãi chiếc áo và cứ nghĩ là cách bay của nó phải chăng là muốn hướng dẫn tới một nơi nào đó. 

Với suy nghĩ đó mà gần suốt đêm hôm ấy, Son không tài nào ngủ ngon giấc. Hễ mỗi khi nhớ tới thì cô bật dậy và kêu lên một cách ngẫu nhiên, như được ai mớm lời: 

- Ở ngoài nơi lạnh lẽo đó! 

Chính Son cũng không biết mình nói về ai. Chỉ thấy trong lòng càng lúc càng thấy bồn chồn, như muốn đi ra ngoài. 

Cho đến khi trời rạng sáng thì nỗi bồn chồn không còn kìm giữ được, Son khoác vội chiếc áo khoác mỏng, rồi lẻn đi ra ngoài, không để ai phát hiện. 

Khu vườn nhà Son rất rộng, trước đây khi ba cô còn sống thì đã từng trồng một vườn lan khá lớn, với nhiều giống lan nổi tiếng nhất vùng cao nguyên này. Khi ba cô mất thì những giò lan cũng từ từ tàn tạ theo, bởi không ai chăm sóc, nhưng hình như vẫn còn những giò bám vào các gốc cây to trong vườn, theo hơi sương sớm tỏa hương thơm ngát. 

Son đi nhanh theo lối mòn mà từ nào đến giờ cô chưa một lần đặt chân tới. Chợt nhận ra một mảnh vải màu giống như màu chiếc áo lúc nãy, Son dừng lại nhìn và kêu lên: 

- Đúng là vạt áo ấy! 

Cô cầm lên xem kỹ và không khỏi kinh ngạc, bởi đó là vạt áo sau mà chiếc áo lúc nãy bị mất. 

- Đây là… 

Có một vật gì đó rơi mạnh ngay sau lưng, Son giật mình nhìn lại và không khỏi sửng sốt. 

- Quyển sổ! 

Thì ra đó chính là quyển nhật ký mà cô đã bị mất. Cầm trên tay mà Son chưa tin là thật, cô đưa mắt nhìn quanh nhưng chẳng thấy bóng dáng ai. Cũng chẳng có một tiếng động nào chứng tỏ có người gần đó... 

Nỗi bồn chồn trong người lại trỗi dậy, Son bỏ phần vạt áo lại đó bước tiếp theo con đường mòn. Qua khỏi khu trồng lan cũ, đến một bãi đất trống, lúc này Son mới phát hiện ra còn có một khu đất rộng khác tiếp nối với khu vườn. Thì ra đất của ba cô rộng hơn cô tưởng nhiều, vậy mà khi chết ông trăng trối lại Son phải cai quản toàn bộ đất đai này, đừng để ai xâm chiếm. 

Đi một quãng nữa thì ra tới một nơi mà phía trước mặt có hai cây cổ thụ nằm trơ trọi giữa bãi cỏ lớn. Xa xa mới là chân đồi. Như vậy có nghĩa là đất đai nhà Son ra tận ngoài đó. 

Đi nữa hay thôi? Đúng ra bình thường thì Son sẽ không bao giờ tiến tới một nơi như thế này, nhưng lúc này hầu như là ai đi chứ không phải cô. Cho nên khi bước vào mấy chỗ có nhiều cỏ gai, Son vẫn gồng mình mà bước. Một lát sau, cô dừng lại chỗ gốc hai cây cổ thụ và ồ lên kinh ngạc khi thấy dưới gốc có một ngôi mộ nằm cô quạnh! 

Và càng ngạc nhiên hơn khi ngay trước bia của ngôi mộ có một vật mà vừa nhìn thấy Son đã reo lên:

- Bộ quần áo! 

Thì ra đó là bộ quần áo mà Son bị mất trong phòng! 

- Sao nó lại ở đây? 

Giữa quyển nhật ký vừa được ném trả lại và bộ quần áo này nằm cách nhau không xa, nhưng điều khiến cho Son ngạc nhiên là chỗ để bộ đồ. Tại sao là trước ngôi mộ? Mộ này của ai? 

Đến khi nhìn lên bia mộ thì Son càng ngạc nhiên hơn với dòng chữ tên người chết trên đó: Nguyễn Thị Son. 

Tại sao lại có sự trùng hợp đến lạ lùng như thế Son đứng thừ người, đầu óc cô quay cuồng một cách khó hiểu... 

Có lúc Son tưởng chừng như mình không còn đứng vững. Cô phải đưa tay vịn vào đầu bia mộ để không bị ngã... 

- Cô Ba, sao cô lại nằm ngoài này? Cô bị ai làm gì vậy? 

Son mở mắt ra nhìn thấy Năm Lành thì ôm chầm lấy và giục: 

- Cho tôi ra khỏi đây ngay! 

Lành ngạc nhiên: 

- Ra khỏi đây, vậy lúc nãy cô vào làm gì mà bây giờ đòi ra? 

Nghe hỏi, Son đưa mắt nhìn và ngạc nhiên vô cùng, bởi nơi cô đang nằm không phải là chỗ đầu mộ, mà một căn phòng hoàn toàn xa lạ. 

- Đây là chỗ nào? 

- Là nhà thờ dòng họ. Là từ đường nhà họ Lưu mà từ lâu cô Ba không bao giờ bước vào và còn dặn tôi tớ khác, ngoài tôi ra không ai được vào đây nữa. Hồi nãy nếu tôi không tình cờ đi ngang qua đây và nghe tiếng rên trong này thì chắc khó mà phát hiện ra cô đang nằm. Tôi mạo muội vào đây để cứu cô, mong cô đừng rầy. 

Son bắt đầu hoàn hồn, nhớ lại chuyện khi nãy, cô hỏi: 

- Ngôi mộ ngoài kia của ai vậy? 

- Mộ nào? 

- Ở tuốt ngoài bãi cỏ trống, phía sau vườn lan. 

Lành lắc đầu: 

- Tôi không biết. Chỉ biết là nhà mình có một khu nghĩa trang riêng ở cách đây vài cây số. Mộ ông bà chôn ở đó. 

- Tôi không hỏi ở đó, mà là ngôi mộ. Dưới cây cổ thụ ngoài kia kìa. Tại sao... 

Cô định hỏi về cái tên Nguyễn Thị Son nhưng thấy không tiện, vả lại vừa khi ấy chợt nhìn thấy có bức ảnh chân dung thờ riêng, tách biệt với những nhà thờ khác trong phòng, cạnh lư hương có vật gì đó mà vừa thoạt nhìn Son đã giật mình: 

- Cái gì kia? 

Cô nhào tới ngay và reo lên: 

- Đồ của tôi mà. 

Đó là bộ quần áo và cuốn sổ nhật ký! Những thứ này cùng với Son nằm ở chỗ ngôi mộ, mà sao… 

- Bàn thờ này thờ ai vậy chị Năm? 

Năm Lành hơi lúng túng: 

- Vật này chính ông gửi lại cho tôi. Ông dặn đến khi nào cô lấy chồng thì mới đưa. Nhưng nay tôi nghĩ… 

Son hơi rụt rè khi tiếp nhận vật ấy, cô nhẹ giọng: 

- Tôi xin lỗi chị. Tôi tôn trọng những gửi gắm của ba tôi với chị, nhưng... 

Năm Lành nói: 

- Cũng đã đến lúc rồi cô Ba. Lâu nay chỉ vì mấy thứ này mà níu kéo tôi ở lại đây, chứ đúng ra tôi đã đi lấy chồng rồi. Cô chưa có chồng, nhưng giờ cô là người thừa kế, cai quản hết sản nghiệp này, nên có đủ tư cách để xem những gì ông để lại. Cô cứ đem về phòng và từ nay giữ lấy. 

Son muốn mở gói đó ra ngay, nhưng nghe Lành nói, cô cầm đem về phòng mình. Vừa mở ra, Son đã giật mình khi thấy đúng là chữ viết của ba cô ngay bên ngoài một quyển sổ: “Những điều con gái ba phải biết trước khi đi lấy chồng”. 

Trong số con của ba thì Son là đứa duy nhất thuộc giới nữ. Còn lại hai người con trai thì một đã chết, một thì mất tích ngay từ nhỏ. Vậy đích thực đây là vật ba để lại cho mình rồi! Son thẫn thờ một lúc mới từ từ mở quyển sổ ra... Đây là một tự truyện mà ba cô viết y như thật. Đọc đến đâu, câu chuyện như sống lại với đầy đủ các chi tiết... 

“Phan Rí mùa hè năm 1958... Sửa soạn xong hành lý, chưa kịp xách đi thì Chu Sa giật mình khi thấy có ai đó kéo cái vali của mình lên. 

- Hành lý của cô đã bị đánh cắp! 

Nghe giọng nói, Sa không cần quay lại cũng biết đó là ai. Cô nghiêm giọng: 

- Người ta đi có người vui lắm mà! Mà vui cũng phải, hết còn kỳ đà cản mũi nữa rồi! 

Anh chàng Lợi xịu mặt: 

- Người ta sợ trễ không kịp tiễn nên ba chân bốn cẳng chạy về, còn giận nữa... 

- Ai mà dám giận hờn. Người ta có nơi để mà giận rồi, còn cần gì nữa mà làm bộ. 

- Kìa, Sa, sao em lại nói vậy? Bộ muốn anh cắn lưỡi tại đây để em đi mới hài lòng sao! 

Lợi nói chưa dứt lời đã ngã chúi xuống đất, đầu đập thẳng vào nền nhà vang lên một tiếng làm cho Sa hốt hoảng: 

- Anh điên hả? Làm gì vậy, trời ơi là trời! 

Cô cúi xuống thì thấy máu từ đầu của Lợi tuôn ra ướt đẫm cả cổ áo. Lợi thì nằm bất động! 

- Lợi ơi, em xin lỗi. Em nói đùa mà! 

Cô đang sợ thất thần, chưa biết phải làm sao thì chợt Lợi ngồi bật dậy, cười như mếu: 

- Nghe em nói vậy anh hết đau rồi! 

Tuy nói là hết đau nhưng Lợi phải dùng tay bịt chỗ vết thương ở đầu, mặt thì xanh dờn. Sa phải gắt lên: 

- Đưa em xem vết thương coi sao đã! 

Lợi tự lấy khăn tay của mình cột ngang đầu và trấn an: 

- Không sao mà. Lúc đập đầu xuống anh đã chọn bên không nguy hiểm, chứ ai lại... 

- Chọn chọn cái nỗi gì, anh chứng nào vẫn tật nấy, lỡ trúng chỗ nghiệt thì sao? Chết liền không nói gì, chạm thần kinh rồi... điên điên khùng khùng ai chịu nổi! 

Lợi đưa tay lên định nắm tay người yêu nhưng khi nhận thấy tay mình đầy máu, anh vội nói: 

- Chờ anh rửa tay một chút rồi đưa em ra ga. Còn kịp giờ mà! 

Chính Sa theo Lợi ra sau nhà và cũng chính cô rửa vết thương, thấy vết thương không sâu cô mới yên tâm, nhưng vẫn cằn nhằn: 

- Bộ anh tính làm nũng để em ở lại hả? Em nói rồi, em chỉ đi trước ít bữa, rồi đầu năm học anh cũng vào mà, chứ có bỏ đi luôn đâu mà dữ vậy? Hôm qua anh nói gì nhớ không, em giận lắm. 

Lợi xuống giọng: 

- Hôm qua anh bậy, nói năng càn quấy, em tha cho. Cũng chỉ vì anh nghe người ta nói... em đi chuyến này là đi để lấy chồng, bỏ anh! 

Sa trừng mắt: 

- Họ nói vậy mà anh cũng tin hả? Nếu tin thì... em đi luôn! 

Cô bỏ ra nhà trước, Lợi ôm đầu chạy theo, năn nỉ: 

- Anh xin lỗi mà. Không tin em thì tin ai. 

- Đi tìm con Mỹ Hoa xóm chài đi, nó tuyên bố với mọi người nếu không lấy được anh thì nó thề đi bằng đầu xuống đất đó! 

- Chuyện đó anh giải thích rồi mà. Tuyên bố là của nó, còn có gì hay không là ở anh, em không tin sao? 

- Tin gì nổi! 

Vừa nói Sa vừa xách va li đi một nước ra thẳng đường, Lợi đành phải chạy theo nhưng chợt Sa quay lại quát lớn: 

- Anh để quần áo đầy máu me như vậy ra ga hả? 

Lợi chợt nhớ, anh vội nói: 

- Vậy em đi ra đó trước, anh tạt qua nhà thay áo đã! 

- Không cần! Trong nhà có sẵn cái áo của anh mắc mưa hôm trước, em giặt ủi rồi, treo chỗ móc áo. 

Lợi chạy bay vào nhà thay áo. Khi trở ra anh thấy Sa vẫn đứng đợi. Vậy là cả hai cùng cười và nắm tay nhau đi như chưa có gì xảy ra. Đôi tình nhân này như vậy đó, yêu rồi giận, giận rồi lại yêu. Và sau mỗi lần như thế thì tình yêu của họ càng tăng thêm. 

Ra tới ga, vừa kịp lúc xe chạy, siết chặt tay người yêu Sa nói qua màn nước mắt: 

- Mau mau vào với em. Đừng để em đợi lâu. 

- Anh sẽ vào ngay tuần sau! 

Tàu chạy khá xa rồi mà bóng Lợi vẫn còn đứng yên trên sân nhìn theo và nghe nỗi đau gặm nhấm tâm hồn. Vết thương trên đầu có làm cho anh đau, nhưng thật ra nỗi đau trong lòng mới là cơn đau thật sự. Nhớ đến gương mặt của Sa lúc lên xe, lòng Lợi càng quặng đau. 

Thẫn thờ khi bước về nhà, Lợi như người mất hồn. Chợt có tiếng gọi từ sau: 

- Anh Lợi đi đâu mà em kiếm suốt từ sáng tới giờ! 

Một cô gái đẹp sắc sảo, ăn mặc ra dáng con nhà giàu, vừa bước xuống chiếc xe hơi riêng vừa ôm lấy vai Lợi, nũng nịu: 

- Người ta chờ muốn chết luôn! Ba má đang đợi anh ở nhà, có việc quan trọng lắm, anh lên xe ngay đi, về với em! 

Lợi lưỡng lự, nhưng chợt thấy có bóng người quen ở đằng xa, nên anh đành phải leo nhanh lên xe để tránh mặt. Thấy đầu Lợi có vết thương, cô gái lo lắng: 

- Anh bị sao vậy? 

Lợi sợ cô nàng chạm vào vết thương, nên vội lấy tay ngăn lại: 

- Hoa đừng đụng vào. 

Thì ra cô gái này là cô Mỹ Hoa, cô đã từng tuyên bố “nếu không lấy được Lợi thì tôi sẽ đi bằng đầu!”. Lợi ngồi im ở góc ngoài của băng sau thì cô nàng đã kéo mạnh vào sát với mình: 

- Bộ sợ em lây bệnh hả, sao ngồi xa vậy! 

Cô ta quay về phía tài xế: 

- Anh cho xe chạy ra nhà hàng Tân Hòa Lợi chứ đừng về nhà! 

Lợi ngạc nhiên: 

- Sao em nói hai bác đợi ở nhà? 

Hoa chẩu môi ra: 

- Không về có được không? Bữa nay phải bắt anh uống rượu cho bò luôn, để trị cái tội cứ lần lựa mãi chưa chịu chọn ngày cưới! Mà tôi cũng thông báo luôn, lát nữa tôi sẽ chính thức tuyên bố... 

Lợi hoàn toàn bị động trước cô ả này, nên suốt trong buổi cùng ngồi tại nhà hàng chỉ toàn nghe cô ả nói, còn Lợi thì toàn nghe và gật. Gần cuối bữa tiệc, trong lúc Lợi đã phải uống đến ly thứ sáu, uống gần hết nổi thì Mỹ Hoa lại rót đầy một ly nữa, cùng cụng ly: 

- Anh hãy uống hết ly này nữa, coi như đoạn tuyệt tất cả những gì còn lại. Quên luôn con nhỏ Chu Sa nghèo khổ của anh đi! 

Trong cơn say bí tỉ, nhưng nghe câu nói đó, Lợi phản ứng ngay: 

- Cô nói ai là nghèo là khổ? Người ta nghèo khổ nhưng đâu có ăn nhờ ăn xin gì của cô! 

Mỹ Hoa phá lên cười: 

- Coi kìa, vừa động đến người yêu bé bỏng thì đã giãy nảy lên rồi. Nó nghèo thì tôi nói là nghèo, có sao đâu mà bắt bẻ! 

Lợi đứng dậy định sấn tới thì... bất chợt ngã chúi tới trước, nằm bất động. Mấy người phục vụ trong quán nháo nhào chạy tới định đỡ lên ghế thì đã nghe Mỹ Hoa bảo: 

- Khiêng luôn anh ta lên phòng 101 trên lầu. Phòng tôi đã thuê sẵn rồi. 

Lợi được đưa lên phòng trong tình trạng say như chết. Và một màn kịch bắt đầu... 

Khoảng nửa giờ sau, có một chiếc xe hơi đỗ trước nhà hàng khách sạn Tân Hòa Lợi: Trên xe có bốn người bước xuống gồm ba má của Mỹ Hoa: ông bà Phán Hòa và... cha mẹ của Lợi: ông bà Bảy Khá! 

Họ đi thẳng vào khách sạn, không cần hỏi ai, họ xông thẳng lên lầu đến trước phòng 101 và không cần gõ cửa, cứ xô thẳng vào! Mấy người phục vụ không kịp can ngăn thì đã bị bà Phán Hòa đuổi đi: 

- Mấy người không có việc gì ở đây, xin đi cho. Đây là chuyện riêng của gia đình chúng tôi, để chúng tôi giải quyết! 

Khi mấy người phục vụ đi ra hết thì đích thân ông Phán Hòa đẩy tung cửa vào. Người kêu lên đầu tiên là bà Bảy Khá: 

- Trời ơi! 

Trước mắt họ là một cảnh tượng làm xốn mắt bốn người lớn! Lợi đang trần truồng cùng với Mỹ Hoa... trên giường. Và hình như hai người đang ngủ say sau một giấc vu sơn! 

Bà Phán gào lên: 

- Trời ơi là trời! Con gái tôi... nó… nó... 

Ông Phán thì gầm lên: 

- Thằng khốn này, nó dám... nó… 

Ông nghẹn lời, trong lúc bà Bảy thì thất thần. Chỉ có ông Bảy Khá thì lặng người đi, vừa quay chỗ khác vừa lẩm bẩm: 

- Nghiệp chướng nè trời ơi! 

Rồi tất cả họ đều lặng thinh. Có lẽ sợ làm ầm lên thì xấu hổ… Nhìn nét mặt đỏ bừng của ông Phán Hòa đủ biết ông giận ghê gớm. Rồi bằng giọng nhẹ nhàng hiếm thấy, bà Phán bảo: 

- Gọi tụi nó dậy rồi về nhà tôi, mình giải quyết, chứ làm ầm ĩ ở đây thì ích lợi gì! 

Chú Bảy Khá lẳng lặng bỏ xuống nhà và ông lầm lũi đi bộ về nhà mà không chờ xe và bà vợ tội nghiệp của mình. 

Buổi tối đó, người đi chài lưới bắt gặp chú Bảy nằm thoi thóp trên bãi. Nếu không kịp khiêng chú lên thì thủy triều kéo chú ra xa và coi như xong một đời. Khi người ta đem được chú về nhà thì thím Bảy ngồi khóc rưng rức bên cạnh Lợi nằm như xác chết! 

Thấy chú, thím Bảy lại càng khóc dữ hơn: 

- Ông chỉ biết cho thân ông thôi, còn để tôi với lũ người quyền thế đó. Họ nhục mạ, mắng chửi đã đời rồi còn đặt điều kiện này điều kiện nọ, mà mình có quyền đâu mà cãi cọ, từ chối. 

Đang trong trạng thái kiệt sức, vậy mà chú Bảy cũng gượng dậy, hỏi: 

- Họ bắt cái gì? 

- Thì còn gì nữa, con mình đã làm chuyện tác tệ với con gái họ, họ không thưa kiện cho đi tù là may. 

Chú Bảy gào lên: 

- Tôi biết thằng con trai tôi, nó đâu có ưa gì con nhỏ đó mà lấy! 

- Nhưng chứng cớ ràng ràng ra đó còn chối gì nữa! 

- Chứng cớ gì… 

Nói được mấy tiếng rồi chú ngất đi. Mấy người đưa chú về thuật lại: 

- Hồi chiều thấy ông ấy uống thật nhiều rượu rồi đi ra biển trầm mình dưới đó cho đến tối, muốn tự tử hay sao mà khi kéo ông ấy lên ông ấy còn kháng cự. 

Đến lúc đó thì Lợi mới tỉnh lại. Vừa bật dậy, thấy cha mẹ như thế Lợi hốt hoảng: 

- Có chuyện gì vậy má? 

Thím Bảy thuật lại đầu đuôi rồi hỏi giọng nghiêm: 

- Bộ mày thèm khát chuyện đó sao làm vậy hả Lợi? 

Lợi ngơ ngác: 

- Con có làm gì đâu! Con chỉ… 

Anh nhớ lại rồi kêu lên: 

- Chết rồi, con bị phục rượu rồi! Con bị... 

- Phục hay không má không biết, chỉ thấy con và con đó trần như nhộng trong phòng khách sạn. Vợ chồng Phán Hòa cũng thấy và họ làm dữ, họ đòi bồi thường tiết trinh con gái họ và còn đòi... 

Lợi quá phẫn uất: 

- Con gái họ đã gây ra chuyện này mà còn làm lớn chuyện nữa sao! 

Thím Bảy thuật rõ hơn: 

- Chính con Mỹ Hoa nói rằng khi thấy con uống quá say đã nhờ người khiêng về phòng khách sạn, định giúp con dã rượu, nào ngờ con nổi thú tính, cưỡng hiếp nó. Nó chống cự không lại nên xuôi tay. 

Lợi thật sự không chắc mình đã làm gì trong cơn say, nhưng chuyện ấy thì chắc là không. Anh cố giải thích: 

- Con thề với má là con không bao giờ! 

- Má tin con, nhưng họ đâu có tin. Mà họ thì quyền thế trong tay, lại giàu có nhất làng này, mình làm sao đối đầu lại với họ, con! 

Bà lại khóc nức nở. Lợi bất nhẫn nhìn mẹ mình, đột nhiên anh đứng dậy dợm bước ra ngoài. Thím Bảy hốt hoảng: 

- Con còn tính đi đâu nữa? 

- Con phải qua nhà nói cho họ hiểu! 

Thím Bảy nắm tay con lại: 

- Má xin con, đừng làm lớn chuyện mà thiệt thân. Chỉ việc họ thưa con cưỡng hiếp con gái họ thì con trả lời sao? Ba má nghèo, đâu có tiền đi hầu tòa hay đền bù hả con! 

Lợi ngồi xuống, ôm lấy đầu, rên rỉ: 

- Rồi con ăn nói sao với Sa đây! Cô ấy cũng nghèo nên mới đi Sài Gòn làm mướn, trước khi đi cô ấy còn căn dặn con là hãy ráng giữ mình, ít bữa cùng lên đó với cô ấy để cùng làm thuê làm mướn kiếm tiền gửi về cho gia đình... 

Thím Bảy cũng nói: 

- Tao với ba mày mới vừa gặp bên gia đình con Sa, hứa với họ là Tết này sẽ đưa sính lễ qua để làm đám hỏi cho tụi bay. Bây giờ biết tính sao đây... 

Chú Bảy đột ngột ngồi dậy, chú không nhìn vợ con, mà nhìn thẳng lên trời cao, nói như nói với ông trời: 

- Tình thế này thì chỉ có cái chết mới hết nhục thôi. 

Chú bật đứng dậy, nhưng bị ngã trở xuống. Nhìn cha như vậy, tự dưng bao nhiêu phẫn uất trong lòng của Lợi như đợt sóng trào, anh hét lên một tiếng rồi lao vút ra ngoài. 

- Con ơi, đừng... 

Tiếng kêu thảng thốt, tuyệt vọng của người đàn bà tội nghiệp…

PHẦN 2 

Đêm hôm đó Lợi đã quậy phá nhà vợ chồng Phán Hòa. Nhưng cuối cùng anh đã bị trói gô đưa về đồn. Tên đại úy trưởng đồn lệnh cho thuộc hạ còng tay chuyển ngay Lợi lên tỉnh trong đêm đó. Hay tin, bà Bảy Khá đã đến đứng ngoài đồn gào khóc và bị đánh đập nặng tay. Những việc đó đã diễn ra trước mặt Lợi, nên anh càng đau lòng... 

Tuy nhiên, ngay sáng hôm sau thì có lệnh thả Lợi ra, sau khi anh chịu ký vào tờ giấy thú nhận việc làm sai trái với Mỹ Hoa, và hứa chịu trách nhiệm danh dự với gia đình Phán Hòa. 

Được thả ra nửa ngày sau thì đích thân vợ chồng Phán Hòa sang nhà cha mẹ Lợi làm hòa. Chính ông Phán đã tuyên bố. 

- Chẳng qua hiểu lầm. Nay cháu Lợi nó biết hối thì vợ chồng tôi cũng không hẹp hòi gì mà không tha thứ cho nó. Ngay ngày mai, anh chị cứ để tụi tôi lo hết mọi chuvện, lễ hỏi sẽ được tổ chức. Một tuần sau thì đám cưới luôn! 

Vợ chồng Bảy Khá chỉ còn nước lặng thinh chấp nhận. Lợi thì như kẻ mất hồn, người ta nói gì anh cũng dạ dạ, vâng vâng. 

Đám hỏi cử hành mà mọi thứ từ quần áo, nữ trang, cho đến việc đãi đằng đều do nhà gái lo liệu. 

Cho đến ngày cưới cũng vậy. Khi lễ cưới vừa xong thì xảy ra một cuộc cãi vã dữ dội giữa Lợi và Mỹ Hoa. Bởi vừa lột áo cô dâu ra, Mỹ Hoa đã không giấu được cái bụng đã to lên của mình trước mặt Lợi! Anh chàng điếng người: 

- Như vậy là cô gạt tôi phải không? 

Mỹ Hoa cười đầy thách thức: 

- Bây giờ mới biết sao? Bộ mấy người tưởng dễ lấy được tôi hả? Chỉ có đổ vỏ thì mới tới anh thôi, hiểu chưa! 

Không dằn được, Lợi sấn tới đánh cho con đàn bà lăng loàn hai tát tai, và thế là cô ả la bài hãi, khiến cả nhà rung động. Vợ chồng Phán Hòa hăm dọa: 

- Mày có thái độ này thì lập tức cả mày, cha mẹ mày đều tù rục xương. Mày có nhớ cái giấy mày ký trước khi được thả ở đồn cảnh sát không? 

Ông ta ném tờ giấy trước mặt Lợi và bảo: 

- Đây là bản sao y từ nguyên bản, có chứng thực của chính quyền, mày đọc lại coi! 

Lợi không muốn đọc làm gì cái tờ giấy nhục nhã đó, tuy nhiên khi liếc qua anh phát hiện có điều là lạ, anh cầm lên và kinh hoảng: 

- Tại sao có thêm điều khoản này? 

Phán Hòa cười khẩy: 

- Điều khoản nào? 

- Thì điều sau này. Hồi tôi ký đâu có điều này? 

Ông Phán giằng lấy, đọc to lên: 

- Tôi cam kết nếu sau này bội ước với gia đình cô Mỹ Hoa thì sẽ chịu bồi hoàn số tiền coi như đền danh dự là mười lượng vàng ròng. Nếu tôi thất tín thì tôi và cha mẹ tôi sẽ chịu hình phạt trước pháp luật, nhà cửa tôi sẽ bị tịch biên để bù vào. 

Đọc xong, ông Phán hỏi lại: 

- Cậu còn lớn lối nữa hết? 

Lợi vẫn la to: 

- Điều này là bịa đặt! Lúc ký tên tôi không hề thấy điều này. Tôi không thừa nhận! 

Một viên lục sự tòa án hình như đã được mời sẵn từ trước, xuất hiện và nghiêm giọng bảo Lợi: 

- Mọi việc sẽ đơn giản hơn nếu cậu không gây rắc rối gì cho gia đình! Bằng không thì ngay lúc này, tôi sẽ lập biên bản và cậu sẽ nhận mọi hậu quả! 

Chuyện diễn ra chóng vánh chỉ trong vài mươi phút, vậy là Lợi lại đưa cổ vào thêm một cái tròng nữa. Anh đổ gục xuống trong nỗi thất vọng ê chề... 

Ngay lúc đó, có một người xuất hiện trước cổng nhà. Người ấy nhìn vào theo dõi bóng của Lợi từ lúc anh bước xuống xe hoa cùng với vợ. Cô đứng nép vào một góc tối khóc một mình. Đó là Sa. 

Rồi đột nhiên cô ngã xuống. Có lẽ do đứng lâu và cũng bởi do quá xúc động. Chẳng một ai hay biết, cho đến khi có người đi qua phát hiện họ liền chở đi bệnh viện. Tại đây, người ta đã cứu tỉnh được Sa, nhưng vị bác sĩ trực đã lo lắng nói: 

- Chẳng biết thân nhân cô này ở đâu. Cô ấy có thai hơn bốn tháng rồi! 

Mãi đến lúc có người biết chuyện chạy đi báo tin cho Lợi hay, anh tới bệnh viện thì Sa đã đi mất! Chỉ có một mảnh giấy nhỏ được đề gửi tên anh ở đó với nội dung thật ngắn gọn: “Em mang trong mình dòng máu của anh và em sẽ nuôi dưỡng nó. Em đặt tên con là Son, để nhắc cho anh nhớ, lòng em lúc nào cũng son sắt và cũng cho nó có nghĩa giống tên em. Em là Chu Sa cũng là Son...”

Nghe các bác sĩ trong bệnh viện kể lại, Lợi biết là Sa cũng mang thai bằng với cái thai trong bụng của Mỹ Hoa, và đó đúng là kết quả của những lần vụng trộm giữa anh và Sa cách đây hơn bốn tháng... 

- Cậu Hai, cô Hoa đang đợi ngoài xe. 

Lợi giật mình, thì ra con quỷ cái đó lúc nào cũng bám sát anh, nhất cử nhất động của anh đều không qua mắt được nó! Lợi ức lắm, nhưng cũng đành phải trở ra. Vừa thấy mặt anh, Mỹ Hoa đã đay nghiến: 

- Chung tình dữ há? Thăm viếng “bà bầu” mà sao không mang theo quà cáp gì hết, đây tôi đưa cho quà nè, tìm mà cho nó! 

Lợi trừng mắt với cô ta: 

- Cô muốn gì đây? 

Hoa cười nửa miệng: 

- Có muốn gì đâu ngoài việc đem tiền tới cho nó mà nó làm cao không nhận. Đồ ngoan cố, không biết thân biết phận, cho chết đường chết chợ, đáng đời. 

Lợi giận tím ruột bầm gan, anh muốn giết chết ả rồi ra sao cũng được, nhưng vừa nắm bàn tay lại thì chợt nhìn thấy cái bụng đang mang thai của ả. Dẫu không là con mình, nhưng nó vẫn là một sinh linh vô tội. 

Lòng của Lợi dịu xuống, anh thở dài, nhắm nghiền mắt, mặc cho số phận... Giọng cô ả vẫn đều đều: 

- Tôi tiếc là lúc nãy bị cái bụng bầu này nên không đuổi theo kịp khi nó lên xe lửa xuôi Sài Gòn, chứ không thì cho nó một trận! 

Những lời độc địa đó dẫu sao cũng cung cấp cho Lợi một tin tức biết được là Sa vẫn trở về nơi mà trước đây cô đã đến. 

- Có muốn đi thăm nó không? Ngày mai này tôi theo ba tôi đi Sài Gòn, mà không chừng kỳ này mua nhà luôn trong đó nữa! 

Lợi không buồn trả lời. Để cho ả ta muốn nói gì thì cứ việc nói. Khi xe chạy về tới nhà thì Lợi đã ngủ từ lúc nào rồi. 

Mỹ Hoa sinh con ra chưa được ba ngày thì một chuyện động trời lại đến. Đứa hài nhi đã chết lúc nằm ngủ bên mẹ! Trong lúc mọi người quýnh lên vì chuyện đó thì Hoa dửng dưng như không. Cô ta còn nói: 

- Số nó như vậy thì biết sao bây giờ! 

Có người nói rằng cô ả cố tình triệt đứa con đi, bởi là con hoang, chứ chẳng phải vô cớ mà chết như vậy! Tuy có thể đó là ác khẩu, nhưng với Mỹ Hoa thì đâu phải hoàn toàn vô lý... 

Rảnh tay rồi Mỹ Hoa mặc sức ăn diện, chơi bời. Cô mặc tình giao du, hết người này tới đám nọ, toàn là những cuộc chơi đêm. Lợi biết hết, nhưng anh không thèm để ý. Mà có để ý, có mở miệng nói thì ả có nghe cho đâu! 

Trong hoàn cảnh như vậy làm cho Lợi càng quyết tâm hơn trong việc đi tìm Sa. Anh bỏ ra ngoài hai tuần lễ để tìm, và cuối cùng thì công sức của anh cũng được đền bù. Anh tìm được mẹ con Sa ở một khu phố nghèo.

Sa sau khi buồn chán trở về Sài Gòn thì đã đôi lần có ý định quyên sinh. Nhưng nghĩ tới đứa con trong bụng, cuối cùng cô quyết phải sống, phải sinh con ra và nuôi dưỡng nó như những gì đã hứa với Lợi. Cô không mong gì gặp lại người tình đầu, tuy nhiên lòng dạ cô vẫn cứ thấp thỏm trông chờ... 

Hôm nhìn thấy Lợi bước vào nhà, không kiềm chế được Sa đã sà ngay vào lòng anh, khóc nức nở. Và chỉ biết khóc thôi... 

Từ hôm đó, Lợi âm thầm tới lui. Anh kín đáo và cũng được những người ở chung nhà với Sa thương nên chẳng ai để ý gì... 

Vậy mà vào một buổi trưa, khi Lợi tới như thường lệ thì không thấy Sa trong nhà. Dì Tư, người chủ nhà bế bé Son từ hàng xóm về hốt hoảng nói: 

- Sáng nay cô Sa nhờ tôi bế giùm con cho cô ấy đi ra đầu ngõ đây mua đồ ăn, thường thì năm phút sau sẽ về, nhưng sao chờ hoài từ sáng tới giờ không thấy đã hơn một buổi rồi. Cô ấy có bao giờ bỏ con quá nửa tiếng đâu! 

Lợi cũng bắt đầu lo. Anh chờ thêm một lúc nữa rồi dặn Dì Tư chủ nhà: 

- Dì giữ cháu giùm cho con, đừng giao nó cho bất cứ ai. Để con đi tìm mẹ nó. 

Lợi tìm suốt ba bốn ngày mà vẫn không gặp được Sa. Anh tìm cách liên lạc về Phan Rí cũng không có tin gì của cô. 

Đoán là có điều không lành, nên một mặt vẫn tiếp tục tìm kiếm, một mặt Lợi đưa bé Son đi gửi một nơi khác an toàn hơn. Khoảng mười ngày sau, lúc đang ngủ ở nhà, Lợi nghe như có ai gọi mình. Bật dậy chưa kịp lên tiếng hỏi thì anh nghe từ ngoài cửa sổ có tiếng của Sa: 

- Em bị người ta giết rồi! Họ bỏ xác em ở bãi rác cạnh bờ sông có cây cầu lớn cho xe lửa chạy ngang. Họ bó em có một chiếc chiếu thôi, lạnh lắm. Hãy giúp em với! 

Lợi bàng hoàng, ngay nửa đêm anh đã tức tốc tới đó. Theo lời Sa nói thì nơi ấy không đâu khác hơn là cầu Bình Lợi. Anh tìm được ngay một bãi rác và sẵn mấy người thu dọn rác đang làm việc đêm, anh nhờ họ giúp đào tìm. Không khó để họ tìm ra một cái xác được bó trong một chiếc chiếu, chôn bên cạnh đống rác lớn. 

Đúng đó là xác của Sa! Cô chết với nhiều vết thương trên người, có lẽ là bị một nhóm người hành hung có chủ mưu, nên việc phi tang xác cũng khá kín đáo, nếu vong hồn Sa không báo mộng thì khó lòng ai tìm ra! 

Nghĩ việc tày trời này là do bàn tay của Mỹ Hoa, nhưng không có bằng chứng nên Lợi chỉ biết uất hận, chịu đựng. Tuy nhiên, nửa đêm hôm đó thì điều gọi là quả báo đã nhãn tiền! 

Đang ngủ bỗng Hoa giật mình tỉnh giấc, sờ tay qua bên cạnh chạm phải một người, cô ả hốt hoảng: 

- Ai? 

Ả định bật dậy đi mở đèn thì hình như bị kéo ghì xuống, ngã sấp lên thân thể kế bên. Tay ả vừa chạm vào thân thể đó đã phát hoảng kêu lên: 

- Cái... cái này... 

Ả ta lạnh cả người khi nhận ra người nằm cạnh mình là một… tử thi, da thịt lạnh ngắt! 

Đèn không được bật, nhưng tự dưng sáng lên, đủ cho ả nhìn rõ mặt tử thi đó là... Chu Sa! 

- Bớ! 

Ả cố sức gào lên và phóng được xuống khỏi giường. Đèn lúc ấy lại vụt tắt! 

- Bớ người ta! Bớ... 

Trong ngôi nhà vườn mới mua, buổi tối chỉ có ả ta và Lợi. Tuy ngủ riêng phòng nhưng gần đó, nên khi nghe kêu la thì người chạy sang chính là Lợi. Anh hỏi trống không: 

- Chuyện gì vậy? 

Ả nghe tiếng Lợi thì lao ra ôm chầm lấy run rẩy. 

- Nó... nó ở trong đó! 

- Ai? 

- Con... con Sa! 

Nghe mấy tiếng đó, Lợi giật mình: 

- Tại sao là Sa? 

Anh lao vào phòng, hỏi: 

- Sa ở đâu? 

Hoa chỉ lên giường: 

- Ở đó! 

Lợi nhìn lên giường thì chẳng thấy gì, nên xẵng giọng: 

- Có gì đâu. 

Mỹ Hoa bước trở vào, len lén nhìn lên và ngạc nhiên: 

- Sao kỳ vậy. Nó mới đó mà... 

Lợi nhìn thẳng vào mặt ả, gắt lên: 

- Cô đã giết chết Sa phải không? 

Mỹ Hoa thoáng một chút sợ hãi, nhưng vẫn mồm mép chối phăng: 

- Tôi biết gì chuyện của nó! Tôi… đâu có gặp nó! 

- Không gặp nhưng mướn người giết phải không? 

- Không... không biết... 

- Tôi đã lấy xác của cô ấy được rồi. Lũ khốn nạn các người chôn xác cô ấy ở bãi rác thối tha, định phi tang mà đâu có được! 

Hoa suy sụp hoàn toàn, cô ả ngã quỵ xuống sàn, vừa ôm mặt khóc nức nở. 

Đó khác nào một lời thú tội! Tuy nhiên, khi Lợi hỏi thêm thì cô ta vẫn giở giọng đanh đá. 

- Chuyện về con Sa thì không dính gì đến tôi. Nhưng tôi cảnh cáo, bất cứ ai nhắc tới con đó trong nhà này thì đừng trách! 

Lợi hậm hực bước ra, nói với lại: 

- Chuyện cái xác vừa rồi chưa làm cho cô sợ sao? Hồn ma thì đâu chừa ai mà không báo oán. Vay trả, trả vay mà, liệu mà sống cho ra con người! 

Anh về phòng mình mà lòng dạ không yên. Phải chăng do quá vội nên anh chỉ chôn tạm cái xác của Sa phía sau một ngôi chùa nhỏ ở ngoại ô, chưa xây kim tĩnh, cũng chưa có bia mộ, nên cô ấy về đây báo? Mà báo để làm cho con quỷ cái kia sợ là điều Lợi vừa lòng, tuy nhiên khi nghĩ đến cảnh Sa nằm quạnh quẽ một mình anh lại xót xa… 

Hay Ià... Lợi chợt nghĩ và anh cho là đắc sách, nên reo lên: 

- Phải rồi! Vậy mà mình không nghĩ ra… 

Ngay trưa hôm đó, Lợi đã thuê 2 người thợ cùng với anh âm thầm bốc mộ Sa từ chùa về chôn ngay khu vườn trong nhà, nơi có bãi đất trống khá lớn mà người chủ trước trồng lan và các loại cây ăn trái. Nhờ khu vườn rộng, có cổng hậu, mà ả kia thì hầu như đi suốt, nên việc cải táng diễn ra không hề bị phát hiện. 

Chôn xong, Lợi hài lòng lắm, anh thầm khấn: 

- Từ nay em về đây ở với anh. Nơi này sẽ là của em. 

Để tránh sự để ý của Mỹ Hoa, Lợi đặt làm một bia mộ, khắc tên người chết là... Nguyễn Thị Son, thay vì Sa. 

Phần bé Son thì Lợi nhờ người nuôi dưỡng rất chu đáo. Con bé lớn lên càng ngày càng giống với mẹ nó như khuôn đúc! 

Trong khi đó thì ở nhà Mỹ Hoa cứ liên tục bị quấy phá. Cô ả hầu như không đêm nào ngủ mà không nhìn thấy Sa hiện về! Mỗi lần như vậy thì ả thét lên chẳng ngủ nghê gì được! Ả sợ nên phải xuống nước năn nỉ Lợi: 

- Từ nay anh đừng ngủ riêng nữa, qua ngủ với tôi đi. Tôi hứa... 

Làm sao Lợi có thể chung đụng với cái thân xác đi dâng cho mọi người đàn ông của ả, nên Lợi từ chối thẳng thừng: 

- Hồi đó cô đuổi tôi ra khỏi phòng, thề là có chết cũng không chung đụng với tôi mà! Bây giờ sợ thì đi kiếm mấy thằng đang đeo theo cô đó, rước nó về! 

Mỹ Hoa đâu có vừa: 

- Tôi sợ mất mặt mấy người nên chưa làm, bây giờ thách hả, tôi làm liền cho coi! 

Ngay tối hôm đó, đưa một gã nhân tình về ngủ. Lợi hay biết, nhưng vờ như không. Mặc cho ả muốn làm gì thì làm. Đến nửa đêm, bỗng nghe tiếng la thất thanh từ phòng ả: 

- Bớ người ta, giết... giết người! 

Ả gọi đến lần thứ ba. 

Lợi không thể không chạy qua và anh sững người lại khi nhìn thấy xác của gã nhân tình nằm sóng soài trên sàn nhà. Và càng rùng rợn hơn cả là hai tai của tên nọ đều bị mất. Miệng hắn đầy máu, hình như lưỡi cũng đã bị cắt! 

Vừa thấy bóng Lợi, ả nhào ra ôm cứng nhưng không phải để cầu cứu, mà để hô hoán lên: 

- Nó… nó giết người. Chính nó! 

Lợi hoảng hồn trước sự vu khống trắng trợn của ả. 

- Cô dẫn trai về nhà, chơi bời thế nào để nó chết, rồi bây giờ giá họa cho người ta phải không? 

Ả lại nhào tới, hung hăng như con hổ cái, khiến cho Lợi chẳng còn cách nào hơn là phải thẳng tay tát cho ả hai bạt tai, vừa hét: 

- Đồ lăng loàn, đĩ thỏa! Tao vái cho oan hồn Sa về bẻ cổ, vặn họng mày cho rồi! 

Trong lúc mạnh tay đánh, khiến cho Mỹ Hoa ngã nhào vào phòng, đúng ngay vào chỗ tử thi đang nằm. 

- Cứu… 

Nhưng khi nhìn lại thì chẳng còn thấy xác của gã nhân tình đâu? Chính Lợi cũng ngạc nhiên, bởi mới vừa ở đó. Anh lẩm bẩm: 

- Không lẽ... 

Anh nghĩ tới Sa và hả dạ lắm, hất hàm bảo: 

- Có gì để giá họa nữa không? Đi mà rước thêm vài thằng nữa về. 

Anh bỏ đi ra ngoài trong lúc Mỹ Hoa ngồi khóc như một người tâm thần... 

Vừa sáng sớm hôm đó, người làm công không ngủ lại đêm là Năm Lành tới. Chị ấy rụt rè nói nhỏ với anh: 

- Ở góc đường cách nhà mình một quãng xa, có một xác chết đàn ông, người bị thương tích khắp thân thể, mà hình như tai cũng bị cắt nữa, xe cấp cứu đang tới chở đi! 

Lợi chạy nhanh ra xem, vừa đủ thì giờ nhìn thấy mặt xác chết. Đúng là tên nhân tình của Mỹ Hoa! 

Còn đang bần thần suy nghĩ xem tại sao xác hắn lại ra đây nhanh như vậy thì… chợt Lợi nghe có người nói khẽ bên tai: 

- Về nhà liền đi, ả ta đang rắp tâm hãm hại anh đó. Coi trong hộc bàn viết! 

Lợi nhìn sang thì thấy người vừa nói với mình là một cô gái đầu đội chiếc nón lá che khuất gương mặt, cô nàng quay đi ngay mà không đợi cho Lợi hỏi gì. Nhìn tấm lưng tròn giống hệt như của Sa, Lợi chạy theo gọi lớn: 

- Sa! 

Nhưng chỉ thoắt một cái thì cô nàng đã biến mất trong dòng người đi làm buổi sáng. 

Không kịp suy nghĩ thêm, Lợi chạy nhanh về nhà và kịp nhìn thấy Mỹ Hoa vừa từ trong phòng anh bước ra. Định la lên, nhưng chợt nhớ tới lời cô gái lúc nãy, Lợi nép vào một nơi, chờ cho cô ả về phòng mình, anh bước nhanh vào, kéo hộc tủ bàn viết ra, quả nhiên thấy một gói vải để trong đó. Mở ra thì thấy có một số nữ trang quý giá! 

- Nó định vu oan giá họa cho mình đây! Nó định nhổ mình ra khỏi nhà này để đỡ rắc rối! 

Giận run lên nhưng Lợi cố kiềm chế, anh cầm số nữ trang đó trong tay, nhẹ bước qua phòng ả, đứng nép bên ngoài nghe ngóng. Bên trong có tiếng giội nước ào ào. Cô ả đang tắm! 

Lợi xoay cửa, cửa không khóa, anh nhẹ bước vào và đi nhanh tới chỗ bàn phấn của ả, đặt nhanh gói nữ trang vào đó rồi đi trở ra, trong lúc Mỹ Hoa vẫn còn tắm, mùi nước hoa ả xức bay ra thơm phức... 

Lợi trở về phòng ngồi đợi. Quả nhiên, chỉ vài phút sau anh đã nghe tiếng ả tru tréo: 

- Mới còn đây bây giờ biến đi đâu rồi. Trời ơi, nó lấy hết tài sản của tôi rồi! 

Ả sang dộng cửa phòng Lợi ầm ầm, vừa gào lên: 

- Tôi nuôi ong tay áo mà! Thằng khốn nạn, mày mau mở cửa ra mau! 

Lợi bình tĩnh bước ra mở cửa, vừa trông thấy anh, ả đã xỉa xói: 

- Không dễ nuốt trôi đồ của bà đâu, thằng khốn nạn! 

Ả xông thẳng vào phòng, lục tung đồ đạc lên, vừa gào thét: 

- Nữ trang của tao là của cải ba má tao để lại làm vốn liếng, mày đã không giúp gì cho nhà này, bây giờ lại tính cuỗm hết đi chứ gì! 

Ả xông tới tủ bàn viết, Lợi liếc mắt xem… quả nhiên ả mở nhanh ra vừa la lớn: 

- Đây mà... 

Nhưng lời của ả bị tắt ngang, bởi trong hộc tủ trống không! Nhưng vốn đã có chủ định nên ả lại tiếp tục gào lớn: 

- Mày giấu những thứ đó ở đâu? 

Bây giờ Lợi mới quát: 

- Nói lăng nhăng cái gì? Tại sao xông vào phòng người ta mà làm lung tung thế này, muốn gì? 

- Tao muốn kiếm của vừa bị mất, mày lấy chứ không ai vào đây! Mày giấu ở đâu thì đem ra ngay không thì tao nhờ người khác xét! 

Lợi ngồi xuống ghế, giọng tỉnh như không: 

- Muốn xét thì cứ xét. Nhưng nếu không có thì tính sao nào? 

Mỹ Hoa điên cuồng sục sạo khắp nơi, dĩ nhiên là không có gì. Vừa khi đó, Năm Lành báo có nhân viên công lực tới, nói là theo yêu cầu của chủ nhà. Mỹ Hoa ra lệnh: 

- Mày cho người ta vào! 

Bốn nhân viên cảnh sát vào cùng với một thừa phát lại, ông ta nói: 

- Chủ nhà là Phan Thị Mỹ Hoa, yêu cầu chúng tôi lập biên bản ông Nguyễn Thành Lợi, chồng có hôn thú nhưng đang sống ly thân, chiếm dụng bất hợp pháp tài sản riêng của bà. Vậy yêu cầu ông Lợi để chúng tôi làm nhiệm vụ. 

Lợi rất lịch sự: 

- Tôi là Lợi rất sẵn sàng để quý ông thi hành nhiệm vụ. Mời! 

Họ tiến hành khám xét rất kỹ từng nơi trong phòng. Sau hơn nửa giờ chính vị thừa phát lại tuyên bố. 

- Chúng tôi không phát hiện bất cứ vật gì như lời tố cáo của bà Mỹ Hoa. Vậy chúng tôi lập biên bản thực tế. 

Nhưng Lợi lại yêu cầu: 

- Tôi là người bị tố cáo, nhưng khám xét không có, như vậy là tôi bị vu cáo. Vậy trước khi lập biên bản, tôi yêu cầu quý ông xét chính phòng riêng của cô Mỹ Hoa đây. Xem những gì mà cô ấy nói là mất, sự thật ra sao? 

Lời yêu cầu hợp lý đó của Lợi được chấp thuận. Mỹ Hoa vừa ấm ức, giọng mỉa mai: 

- Cũng chưa chắc là vô tội đâu! Có khéo giấu thì rồi cũng lòi ra thôi. 

Nhân viên công lực kéo sang khám xét phòng của ả, và không khó để họ tìm ra bọc nữ trang trong tủ bàn phấn. Khi một nhân viên công lực cầm đưa gói vải lên thì Mỹ Hoa biến sắc: 

- Sao... sao kỳ vậy? 

Vị thừa phát lại nghiêm giọng: 

- Chúng tôi sẽ lập biên bản vụ víệc này. Như vậy những điều bà Mỹ Hoa tố cáo là không đúng sự thật. Nếu ông Lợi truy tố ra tòa thì bà Hoa phải chịu trách nhiệm về tội vu khống! 

Các ông ấy đi rồi thì đến lượt Mỹ Hoa làm toáng lên trong nhà, có lẽ để trút cơn giận vì bị bẽ mặt. Cô chửi bới Lợi không tiếc lời và còn quá quắt hơn, nhào qua phòng anh để đấm, đập hòng làm nhục anh. Lợi cố nhịn, nhưng Hoa thì càng làm tới. Cô ta còn cầm dao hăm dọa: 

- Nếu mày không ra khỏi đây thì tao quyết ăn thua đủ với mày. Một là mày chết hay là tao! 

Ả ta đâm dao loạn xạ nhắm vào Lợi. Tuy nhiên Lợi né tránh được. Bỗng nhiên anh thấy cô ả lảo đảo rồi kêu thét lên: 

- Chết tôi rồi! 

Con dao ả cầm đâm chém nãy giờ, chẳng hiểu sao lại cắm ngập vào một bàn tay của chính ả! 

Ả đau đớn chạy về phòng mình rồi từ lúc ấy đóng cửa lại, gào khóc inh ỏi trong đó... 

PHẦN 2 (tiếp theo)

Mỹ Hoa càng ngày càng lún sâu vào những cuộc trác táng. Cô ả nghe lời ai đó xúi bảo, đã rước một tay thầy pháp người Tàu về nhà làm phép, đặt vật yểm và có vẻ yên tâm hơn, khi đêm đêm ngủ không còn bị ác mộng nữa. 

Điều đó có lẽ do ả ít về nhà. Cha mẹ ả còn để lại một căn nhà khác, nên ả chuyển sang đó ở hẳn, để dễ bề rước trai về nhà. Lợi thấy dễ thở hơn, vì hằng ngày anh đỡ phải nghe và thấy những lời lẽ hành động trái tai gai mắt. Một phần nữa, anh cũng được tự do thăm viếng mộ của Sa mà không sợ Mỹ Hoa phát hiện. 

Vào một đêm trăng cuối tuần, chờ cho trăng vừa lên, Lợi lại ra phần mộ ngoài vườn và theo thông lệ, anh ngồi đó cho đến khi trăng tàn mới vào nhà. Những lần như vậy Lợi cảm thấy mình ngủ rất ngon...

Nhưng đêm nay thì khác. Lầm lũi bước, khi gần tới nơi chợt Lợi giật mình khi thấy có một bóng người đang quỳ trước ngôi mộ! 

- Ai vậy? 

Lợi nhẹ bước đến gần hơn và kinh ngạc khi nhận ra đó là Mỹ Hoa! Không tin vào mắt mình, Lợi phải dụi mắt nhìn kỹ, khi biết mình không lầm, anh ngồi thụp xuống và nghe ngóng xem ả ta nói gì, bởi có tiếng lầm bầm từ miệng ả. 

- Tôi xin nghe, xin nhận hết những gì cô nói. Tôi biết lỗi mình... 

Một giọng nói quen thuộc khiến Lợi không kiềm chế được, thốt lên: 

- Sa! 

Đúng là giọng của Sa: 

- Hồn ma không biết nói ngược những gì mình đã nói ra. Cô biết trước lúc tắt thở ở bãi rác, tôi đã nói gì không? Đó là một lời thề chưa trọn vẹn, bởi thủ đoạn của cô quá tàn ác, đòn thù quá nhẫn tâm, nên tôi đâu kịp nói hết ý mình. Vậy nay tôi lặp lại rõ hơn: Với tôi, ai đã vay gì thì phải trả nấy! Cô đã cướp mất tình yêu của tôi thì phải trả lại trọn vẹn! Cô đã cướp mạng sống của tôi thì cũng phải trả lại. Cô hiểu chứ? 

Chỉ nghe Mỹ Hoa đáp lí nhí, nhưng chừng như đã đáp ứng được yêu cầu, nên giọng của Sa chỉ ngắn gọn: 

- Tôi sẽ chờ xem cô hành động... 

Mỹ Hoa đứng lên, cúi đầu rời khỏi đó như chạy trốn. Lợi nhìn theo một lúc rồi bước tới bên mộ, lên tiếng: 

- Sao em để ả biết chỗ này, lỡ ả ta không thật lòng thì sao? 

Im lặng... 

Lợi ngồi ở đó rất lâu mới trở vào nhà. Vừa về tới thì anh đã thấy Năm Lành đứng lấp ló ở ngoài, có vẻ đợi anh đã khá lâu. Cô nói ngay: 

- Cậu hay chuyện gì chưa? Người lái taxi chở mợ Hoa đi hằng ngày mới tới đây kêu cửa bảo rằng phải đi cứu mợ ấy ngay thôi, kẻo không kịp! 

Lợi ngạc nhiên: 

- Có chuyện gì? 

- Anh ta nói mợ Hoa bị bốn năm người đàn bà lạ vây đánh, máu me đầy người và còn... lột hết quần áo bêu riếu giữa đường nữa! 

- Chuyện xảy ra lâu chưa? 

- Cách đây chừng hơn một giờ! 

Lợi lắc đầu: 

- Chuyện đó là không thật. Bởi tôi mới gặp cô ta đây. Gặp ở... 

Lợi không muốn tiết lộ chuyện vừa rồi, nhưng vẫn quan tâm tới lời kể của Lành anh hỏi lại: 

- Chị biết nhà của người tài xế đó? 

- Dạ biết, anh ta có chỉ, ở gần đây thôi. 

- Chị đưa tôi tới đó ngay. 

Khi gặp người tài xế, anh ta kể lại: 

- Mấy người đàn bà kia nghe nói đều là vợ của những người đàn ông mà đêm nào cũng đi nhảy đầm, uống rượu với cô Hoa. Họ hợp lại đánh ghen. Nếu hồi chiều không có một điều kỳ lạ xảy ra thì chắc là cô Hoa không thể sống nổi! 

Lợi hỏi: 

- Điều kỳ lạ gì? 

- Tôi chứng kiến từ đầu, bởi lúc ấy cô Hoa vừa bước xuống xe tôi thì bị ngay một nhóm năm sáu người áp tới túm tóc, lôi xềnh xệch vào lề và thi nhau đấm, đá. Rồi một người trong bọn hô lên và có bốn tên côn đồ dữ dằn đứng sẵn gần đó nhào ra. Chúng định lôi cô Hoa lên chiếc xe hơi đậu sẵn, một tên ra lệnh: Chở nó chôn ở bãi rác! 

Nghe tới đó, Lợi kêu lên: 

- Bãi rác cầu Bình Lợi! 

Người tài xế gật đầu: 

- Nơi đó rất nổi tiếng. Ai muốn tự tử thì ra cầu mà nhảy xuống. Còn ai chết không có người thừa nhận cũng bị vùi xác nơi bãi rác gần đó? 

Năm Lành chen vào hỏi: 

- Chú nói điều kỳ lạ gì? 

Người tài xế kể tiếp: 

- Lúc họ sắp tống cô Hoa lên xe, tôi định la lên để gọi người cứu cô ấy, nhưng không có ai chung quanh nên lại sợ bị chúng thanh toán. Trong lúc chưa biết phải làm gì thì chợt tôi nhìn thấy cả bọn côn đồ bị bắn tung ra khỏi xe, rồi chiếc xe chạy vọt đi mà không thấy tài xế lái! Cô Hoa nằm trong xe ấy… 

Lợi không hỏi thêm, kéo Năm Lành về, anh chỉ nói riêng với cô người làm: 

- Cô ấy vay cái gì thì trả cái nấy thôi. 

Lành không hiểu, nhưng không dám hỏi… Chỉ đến khi về tới nhà, cô mới nói: 

- Thưa cậu, hồi chiều có một cô bé gái tới tìm cậu. 

Lợi giật mình: 

- Cô ấy là ai, có gặp Mỹ Hoa không? 

- Dạ không. Đó là một bé gái tuổi chừng mười hai mười ba, rất xinh. Con hỏi tìm cậu có việc gì thì cô bé e dè không nói, chỉ bảo là bữa khác sẽ tới tìm. 

Nghĩ đến Son, Lợi vụt hỏi: 

- Có phải con bé cột tóc đuôi gà, có cái nốt ruồi trên môi trái không? 

Năm Lành gật đầu đáp: 

- Dạ phải. 

- Con Son! 

- Son là ai vậy cậu? Con nhỏ hết sức dễ thương, phải chi cậu có một đứa con như vậy thì hay biết mấy! 

Câu nói vô tình làm nhói đau con tim của Lợi. Chợt anh hỏi: 

- Nếu tôi nhận một đứa như vậy về làm con ở đây, chị thấy có được không? 

Lành reo lên: 

- Được quá đi chứ cậu! Hay là cậu xin nó về nuôi đi, nó con của ai vậy? 

Lợi cười nhẹ: 

- Làm sao được khi còn con chằn cái đó ở nhà? 

Rồi anh đăm chiêu, lẳng lặng đi về phòng riêng... Anh biết, con Son đi tìm anh bởi nơi nuôi nó giùm anh lâu nay sắp sửa chuyển đi nơi khác, không tiện giúp nữa… 

Ngày hôm sau, người ta tìm gặp chiếc xe hơi không có ai lái, lủi xuống sông ở cầu Bình Lợi. Trên xe có xác một phụ nữ. Người này mình đầy thương tích, khi vớt lên người ta tìm được giấy tờ trong túi xách của cô ta, tên Phan Thị Mỹ Hoa! 

Lợi nhận xác cô ả về, làm lễ mai táng trọng thể. Do không ai để tang, bởi dòng họ Phan chỉ còn lại Mỹ Hoa là người duy nhất, nên Son đứng cư tang như tư cách con gái. Son tuy biết đó không phải là mẹ ruột mình, nhưng vẫn nghe theo lời cha, con bé vẫn ngoan ngoãn để tang. 

Từ hôm ấy, Lợi đã đưa con gái về ở chung. Anh chưa cho con biết vội mồ mả của mẹ nó, bởi anh làm đúng theo lời dặn của Sa khi vong hồn cô về bảo rằng dẫu sao thì cô cũng đã chết, cô không muốn con gái nghe kể chuyện về cuộc đời bi thương, bạc phận của mình mà sinh chán chường, không dám lấy chồng. Do vậy, ý Sa là muốn khi nào Son chính thức lấy chồng thì mới nói rõ thân phận và chỉ mộ để nó biết... 

Đọc hết tập sách viết tay khá công phu, Son ngẩng lên hỏi: 

- Khi ba em chết, sao trước đó không thấy ba bệnh hoạn gì mà lại chết quá đột ngột? 

Năm Lành thở dài: 

- Khi cô về đây được vài năm thì sức khỏe của ông chủ đã ngày càng yếu. Cô không để ý, chứ đêm nào tôi cũng thấy ông đi bộ ra phần mộ của mẹ cô và ngồi đó đến quá nửa khuya mới vào nhà. Ông buồn vì nhớ mẹ cô, cứ thơ thẩn và khóc. Trước khi chết mấy hôm, tôi được ông gọi lại và đưa cho cái hộp có di vật này, căn dặn là phải đưa cho cô khi nào cô lấy chồng. Tuy nhiên, do cô biết được những bí mật về mẹ mình nên tôi đành phải phá lệ. Mà tôi nghĩ, có lẽ mẹ cô cũng muốn cho cô biết sớm, nên mới hiện về lấy mấy thứ của cô và hướng dẫn cô tìm ra ngôi mộ ngoài kia. 

Son thắc mắc hỏi: 

- Sao ba thương mẹ, lại chết sau mụ kia, vậy sao xác ba không chôn ở cạnh mẹ, mà lại chôn ở nghĩa trang, nằm cạnh mụ ta? 

Năm Lành mắt sáng lên: 

- Về việc này cũng là do ý của ông chủ. Trước khi chết ông trối lại, dặn tôi làm như vậy. Cô nhớ, lúc ông qua đời thì cô đang đi du học, về không kịp, nên mọi điều ông mới viết vào cuốn sổ đó. Thật ra ông đâu có nằm chung với bà Mỹ Hoa! 

Son ngạc nhiên: 

- Vậy ba em được chôn ở đâu? 

- Ở ngay trong vườn này! Ngay bên cạnh mẹ cô! 

Son trố mắt, không tin: 

- Tôi đâu có thấy mộ nào ngoài mộ của mẹ? 

- Cô đi với tôi ra đó.

Theo Năm Lành ra ngôi mộ có tấm bia Nguyễn Thị Son, Son nhìn quanh và nói: 

- Nào có mộ ai? 

- Ngay dưới chân cô đó. 

Lúc này, Son mới để ý mình đang đứng trên một tấm xi măng bằng phẳng, cô hỏi: 

- Không lẽ là ở đây? 

- Đúng rồi. Sở dĩ xây không có nấm mộ là bởi lời dặn của ông. Ông bảo rằng: “Cũng theo lời mách bảo của mẹ cô, nhằm tránh cho cô cái dốp bị chết bất đắc khi có cha mẹ đều là hồn ma!” 

Son kinh hoảng: 

- Ba tôi cũng là… ma sao? 

- Chính ba cô tự nguyện xin với mẹ cô được như vậy. Ông đã mấy lần về báo cho tôi biết như vậy. Ông còn giải thích thêm rằng, không phải ai chết cũng thành ma. Có oan ức, trắc trở thì mới là oan hồn. Ba cô không thuộc diện đó, nên phải cần có sự dẫn dắt của mẹ cô mới thành ma và để ở cõi âm giờ này hai ông bà mới bên nhau được. 

Son sụp xuống lạy trước hai ngôi mộ và khóc: 

- Ba má, về sau con có chết cũng xin được thành ma con muốn được ở bên ba má thôi!

MA XÓ SI TÌNH 

Phần 1

Khi được phân công phụ trách lai tạo giống cho đồn điền cao su, Điền ngại nhất là chuyện phải tìm chỗ trọ. Bởi nông trường chỉ định anh ở chung với nhiều người trong một ngôi nhà mới xây thì Điền ngán ngẩm, lắc đầu: 

- Tính tôi không chịu được sự chung đụng quá đông người, phải chi có nhà riêng, nhỏ cũng được… 

Tiêu chuẩn của công ty là như vậy, bắt buộc nhân viên phải tuân theo. Tuy nhiên, sau bữa cơm chiều hôm đó. A Tư, một thầy cai gốc người địa phương, đã kéo tay Điền ra ngoài và chỉ: 

- Cậu kỹ sư có thấy xóm nhà bên kia không? 

- Nhà của công nhân ở? 

- Đó là xóm cư dân địa phương, một số họ làm công nhân trong này, còn lại đi làm rẫy làm rừng và các nghề khác. Cậu kỹ sư có muốn qua ở bên xóm đó không? 

Điền nghe là thích thú liền: 

- Có được không? Người ta có cho mướn nhà à? 

A Tư cười: 

- Vùng này không có chuyện thuê mướn nhà. Người ta thích thì cho ở không thôi. 

Điền chán nản: 

- Vậy làm sao ở được. Bởi tôi mới tới, chưa quen ai ở đây, làm gì có được người thích hay ưa. 

A Tư cười khó hiểu: 

- Có người thích mà cậu kỹ sư không biết đó thôi! 

- Ai? 

- Cậu có muốn biết không? 

- Sao lại không! 

A Tư kéo tay Điền: 

- Giờ này còn sớm, vậy cậu theo tôi qua bên kia chơi. 

- Bên xóm nhà đó? 

- Phải! Ở đó cậu sẽ biết ai là người thích mình! 

Họ đi xuyên qua nhiều luống cao su thì tới xóm nhà tranh. Đúng hơn đó là những nhà sàn đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số. Lúc này A Tư mới nói: 

- Tôi ở đây. Nhà tôi chỗ có hai con trâu cột dưới sàn đó. 

Vừa bước lên sàn, Điền đã nghe có tiếng chân chạy rung rinh sàn nhà. A Tư cười bảo: 

- Nó mắc cỡ khi có đàn ông về nhà đó! 

A Tư có vợ và hai đứa con lên tám, chín tuổi. Họ không chào khách theo kiểu người Kinh, mà kéo nhau chạy biến vào nhà trong. A Tư phải lên tiếng: 

- Có khách quý tới nhà, Mèng Lan đâu không ra đón? 

Vợ anh ta nói vọng từ bếp: 

- Nó trốn rồi! 

- Đi kêu nó về đây, tôi có chuyện nói! 

Một đứa con của A Tư, chạy ra nói nhỏ vào tai bố, nhưng những lời của nó chẳng khác nào hét cho mọi người nghe: 

- A cô đâu có đi đâu, nấp trong nhà kia kìa! 

A Tư cười ngất: 

- Con trẻ chúng tôi như vậy đó, chúng không biết nói lén! 

Rồi anh quay vào trong nhà, lát sau nắm tay một cô gái đi ra. Vừa trông thấy cô nàng thì tim của Điền muốn loạn nhịp! Anh phát lúng túng: 

- Đây… đây là... 

- Nó là em gái tôi, tên là Mèng Lan, mà người Kinh các anh hay gọi là Mường Lan đó. 17 tuổi, chưa có đứa nào ngấp nghé! 

Nghe ông anh mình giới thiệu, cô gái thẹn đỏ mặt, quay người định chạy. Nhưng A Tư đã đoán trước nên nắm chặt cô ta lại, nghiêm giọng: 

- Ở lại nói chuyện đàng hoàng! 

Rồi anh quay sang Điền, bảo: 

- Người mà anh muốn biết có thích mình hay không! 

Điền không tin trong bản làng rừng rú này lại có một cô gái đẹp lạ thường như thế này. Mà lại là người thích mình. 

- Anh Tư nói… giỡn chi vậy! Tôi... tôi... 

A Tư cười lớn: 

- Anh là con trai người Kinh mà rụt rè như con gái. 

Rồi anh chủ động nắm tay em gái mình đến gần Điền: 

- Nó tới kiếm tôi ở chỗ làm, thấy cậu kỹ sư một lần mà về nhà cứ nhắc hoài! Con gái dân tộc một khi đã nhắc tới cậu trai nào thì coi như... yêu người ấy! 

Điền la lên: 

- Sao có chuyện đó được. Lỡ cô đây… không ưa tôi thì sao? 

Không ngờ vừa khi ấy cô gái lại vọt miệng nói: 

- Ai nói tôi không ưa? 

Câu nói bất ngờ của cô gái khiến cho Điền ngơ ngác. Anh thật sự lúng túng: 

- Cô... cảm ơn cô. Cô... 

A Tư nói chen vào: 

- Nó tên Mèng Lan, mà thôi, kêu Mường Lan cho dễ nhớ! Em gái tôi cũng không biết nói khác lòng mình. Thích thì nói là thích. Cậu kỹ sư thì sao, có thích nó không? 

Điền như gà mắc tóc: 

- Thì... thì... thích chứ! Nhưng mà… 

A Tư vỗ mạnh lên lưng em gái: 

- Mày không phải ê chề bởi bị từ chối đấy nhé! Sao không tạ ơn người ta đi! 

Mường Lan bất ngờ chụp vào bàn tay của Điền, cúi xuống hôn vào đó một cái, rồi vụt chạy vào nhà! Điền còn ngơ ngác thì A Tư lại nói: 

- Thủ tục coi như xong rồi đó. Cậu kỹ sư về lo chuẩn bị chuyển đồ qua đây đi. 

Điền lại một phen ngạc nhiên: 

- Đồ đạc gì? 

- Thì quần áo, đồ đạc của cậu đó. Coi như nhà này chấp nhận cho cậu tới ở rồi đó! 

Anh ta sợ Điền không hiểu nên giải thích thêm: 

- Nhà người Thượng, nếu muốn quyết định điều gì thì phải hỏi con vợ hay con đàn bà trong nhà, nó nói nó thích là nó đồng ý! Mường Lan thích cậu, tức là nó cho cậu ở nhà này! 

- Nhưng mà... 

A Tư nghiêm giọng: 

- Người Thượng ghét nhất là bị từ chối lòng tốt của mình. Cậu khó mà sống được ở đất này nếu cậu không đáp lại sự mời mọc của nó! 

Anh ta lấy ra chén rượu cần, mời Điền cùng uống: 

- Cậu phải say với tôi bữa nay, bắt đầu từ ngày mai thì khi tôi muốn mời cậu uống rượu thì phải xin phép. 

Tưởng anh ta nói chơi, nhưng Mường Lan nghiêm giọng nói: 

- Đúng là như vậy. Con trai người Kinh có sợ mà bỏ chạy không? 

Đã bắt đầu hiểu về tính cách của người thiểu số, nên Điền bớt sự ngỡ ngàng, anh bắt đầu dạn dĩ hơn trong nói chuyện và cũng biết đùa: 

- Chừng nào sợ thì chạy cũng không muộn! 

Cô nàng cười khúc khích: 

- Để rồi coi, chạy có thoát không! 

Tối hôm đó tuy chưa chính thức chuyển tới ở, nhưng do uống quá nhiều rượu nên Điền phải ngủ lại. Anh ngủ một giấc ngon lành mãi đến quá nửa đêm. 

Lúc Điền tỉnh giấc không phải do tự nhiên, mà anh cảm giác như có ai đó nắm chặt bàn chân mình và cào nhẹ vào đó, gây nhột khó chịu, mà nhột là việc mà Điền chịu đựng dở nhất, anh vùng kéo chân ra. Nhưng càng kéo thì như bị giữ chặt hơn. Đến khi Điền vùng ra được thì nghe ai đó cười thành tiếng trong trẻo rồi vụt chạy rất nhanh ra ngoài cửa... 

Không suy nghĩ, Điền tức tốc đuổi theo ra ngoài, xuống cầu thang nhà sàn thì bắt gặp bóng người chạy không nhanh phía trước mình. 

- Mường Lan, cô này quá quắt thật! 

Vừa lẩm bẩm, Điền vừa đuổi theo nhanh hơn. Chỉ vài trăm thước thì bóng người chạy trước chậm lại và cuối cùng nhoài người về phía trước nửa như nằm xuống, nửa như bị ngã! Điền nghĩ là cô nàng muốn đùa với mình nên vừa chạy tới cũng ngã nhoài theo, chống tay, kề mặt mình rất gần mặt nàng ta, vừa hổn hển nói: 

- Cô này ác thật, nửa đêm mà bắt người ta chạy gần chết luôn! 

Nàng im lặng không nói gì. Điền gọi khẽ: 

- Mường Lan! 

Gọi đến lần thứ hai vẫn chưa thấy cô nàng động đậy. Điền hốt hoảng gọi to hơn lần nữa: 

- Lan! 

Và nhanh tay chụp lấy vai nàng kéo nàng nằm quay mặt trở lên, và... 

- Trời ơi! 

Trước mặt Điền không phải là Mường Lan, mà là một gương mặt xanh như chàm, đôi mắt không có tròng đen và ở miệng chiếc lưỡi lè ra gần cả tấc! Điền choáng váng và cố lắm cũng chỉ bò được vài bước rồi ngất đi... 

Sáng hôm sau, cũng chính Mường Lan đi rẫy sớm đã phát hiện ra Điền nằm bất động ngoài rừng. Cô nàng không ngại, đã cúi xuống đỡ anh dậy và hô to lên: 

- Cứu người với! 

Lúc A Tư và vợ chạy ra thì họ ngơ ngác hỏi: 

- Sao vậy? 

Mường Lan kể lại và giục anh mình: 

- Cho anh ta vào nhà đi, người không còn chút ấm nào! 

Điền được đưa lên nhà sàn và người lo lắng nhất là Mường Lan, cô nhìn anh mình như cầu cứu, xem làm cách nào đó giúp Điền tỉnh lại. A Tư bảo: 

- Phải giúp nó có lại hơi ấm thôi. Mày làm đi! 

Mường Lan sau một chút e ngại, đã bất thần nằm nguyên thân mình lên người của Điền, theo kiểu thân trùm lên thân. Quả nhiên chỉ sau một lúc thì Điền nhẹ cử động, lúc đó Mường Lan vẫn chưa hay, cô vẫn nằm một cách vô tư. Khi tỉnh hẳn, Điền vùng bật dậy thật nhanh, khiến cho cả thân thể Mường Lan bị hất tung sang bên! 

- Nó! Nó... 

Điền hốt hoảng, không kịp nhìn Lan, anh đã đứng lên tính chạy. A Tư phải níu lại và nói: 

- Cậu bị ngất ngoài rừng, chính con Mường Lan đã gặp và cứu cậu về đây! 

- Nhưng, chính là nó... 

- Là Mường Lan đó, nó phải dùng hơi ấm của mình để cứu cậu đó! 

Lúc ấy Mường Lan cũng vừa bật dậy, cô nhăn mặt: 

- Làm người ta đau gần chết! 

Đã trông thấy mặt Mường Lan rồi, nhưng Điền vẫn còn bị ám ảnh bởi gương mặt hồi đêm, anh bước lùi lại mấy bước, giọng run run: 

- Cô... cô không phải là... là con quỷ đó sao? 

A Tư cũng ngạc nhiên: 

- Cậu nói gì vậy, con quỷ nào? 

- Tôi... tôi bị… 

Mường Lan chợt lên tiếng: 

- Hay là anh bị… 

Vừa nói tới đó thì bỗng dưng cô nàng ngã lăn ra, người lạnh ngắt! A Tư hốt hoảng: 

- Mèng Lan, mày sao vậy? 

Anh và vợ cùng đỡ Lan dậy, nhưng cô nàng mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt... 

Sau tai nạn đêm hôm đó xảy ra, tự dưng Điền trở nên ít nói hẳn. Tuy cũng chuyển tới ở nhà A Tư, nhưng giữa anh và cô nàng Mường Lan như có một khoảng cách. Hai người tránh gặp mặt nhau, mà nếu có gặp thì cũng rất ngượng, không nói chuyện và chào hỏi. Điều này không lọt khỏi mắt A Tư. Một hôm, anh này kêu em gái mình ra và hỏi: 

- Có chuyện gì vậy? 

Lan cũng tránh cả việc trả lời anh mình, bằng cách bỏ chạy đi nơi khác. Suốt cả tháng trời như vậy. Một buổi tối, tình cờ A Tư bắt gặp Lan ngồi khóc một mình trong góc nhà, anh dò hỏi mãi thì cô mới nói được đúng một câu: 

- Người ta không cho nói! 

Thế thôi. Rồi Lan lủi mất trong bóng tối. Cả ngày hôm sau cũng không thấy cô nàng đâu. Hoảng quá, A Tư phải cầu cứu tới già Phang, được coi như thầy mo trong bản. Ông không cần phải suy nghĩ lâu, đã nói: 

- Phải đuổi ngay người lạ đó ra khỏi nhà thì con nhỏ mới trở về được! 

A Tư ngạc nhiên: 

- Người lạ nào? 

- Thì cái người khiến nó không dám về nhà! 

A Tư lẩm bẩm: 

- Cậu kỹ sư? 

Hỏi gì thêm ông già Phang cũng không nói. A Tư lo quá, cuối cùng ông đành phải đem chuyện nói với Điền. Chẳng ngờ chính Điền lại là người chủ động nói trước: 

- Chắc là tôi phải dọn trở về công ty ở quá, A Tư. 

A Tư ngạc nhiên thật sự: 

- Sao cậu kỹ sư có ý đó? 

- Nói thật, từ hôm dọn về đây đến giờ tôi thấy như mình đã gây ra một điều gì đó không phải, cho nên cô Mường Lan cứ tránh mặt hoài. Hồi tối qua, tôi đang ngủ thì có người tới đuổi tôi đi, dọa nếu còn ở lại thì họ sẽ không tha mạng! 

Hỏi thêm gì Điền cùng không nói, cứ lẳng lặng xách túi ra đi. Vợ A Tư đứng trong nhà nhìn theo và khẽ thở dài, quay vào một góc, nói rất khẽ: 

- Đi rồi! 

Chẳng biết chị ta nói với ai nhưng sau đó nghe có tiếng khóc nức nở trong ấy... 

Hồi lâu sau, khi A Tư từ ngoài vào thì bắt gặp ở góc bếp có chiếc áo thun của Điền, anh cầm lên và nói: 

- Cậu ta vội đi nên quên, để lát nữa đi làm tôi đem theo trả cho cậu ta. 

Nhưng bà vợ anh đã giằng lại và nói: 

- Cái này mà mất thì con Mèng Lan cũng sẽ không về! 

Chị ta giành lại và nhét nó lại đúng chỗ lúc nãy. A Tư tái mặt: 

- Chẳng lẽ con Lan đã... đã... 

Anh ta không dám nói hết câu, mà chị vợ cũng không dám đứng đó nữa, vụt chạy ra ngoài. Tần ngần một lúc, A Tư vừa bước đi vừa than một mình: 

- Giàng không còn thương nhà này nữa rồi! 

Và anh ta khóc. Chẳng hiểu vì sao!

Phần 2 

Điền tìm được nơi ở mới. Không phải khu tập thể trong công ty, mà nhà riêng. Có một người công nhân dư một căn nhà nhỏ cách văn phòng công ty hơn cây số, nằm bên đường nhựa chạy ra lộ cái. Tuy không khang trang lắm, nhưng chỉ cho một người độc thân như Điền ở. Anh dọn về đó có vẻ yên tâm, mặc dù trong lòng như có chút gì đó vương vấn, bồn chồn mỗi lần hướng về phía xóm nhà của A Tư. 

Ngay tối đó, để dỗ giấc ngủ. Điền ngồi uống rượu một mình, cửa nẻo đã gài chặt, nên anh chàng ung dung nhâm nhi, nghĩ nếu có lỡ say thì ngã đại ra sàn nhà mà ngủ cũng chẳng sao. Và anh đã như thế thật. 

Khi nhậu và lúc say nằm ngủ, Điền vẫn để nguyên bộ quần áo đi làm về. Nhưng sau một giấc ngủ vùi, lúc mở mắt ra với cái đầu còn nặng vì hơi men, bỗng Điền hết sức ngạc nhiên khi nhận ra mình đang nằm trên gối, mền hẳn hoi, và trên người anh cũng đã không còn bộ đồ đi làm nữa, thay vào đó là bộ đồ mặc ở nhà! 

Điền bật dậy rất nhanh, nhìn quanh một lượt và còn ngạc nhiên hơn nữa khi thấy một mâm cơm đã dọn sẵn trên sàn. Hơi nóng từ thức ăn còn bốc lên, chứng tỏ cơm mới vừa được dọn! 

- Ai trong nhà? 

Điền thốt lên và quay đi tìm. Ngôi nhà sàn tuy không lớn lắm, nhưng do ở một mình, lại không có bày biện đồ đạc gì, nên phải một lúc sau Điền mới tìm được khắp. Cửa nẻo vẫn gài chặt bên trong, sàn nhà, vách nhà cũng không có nơi nào trống để một người nào đó có thể lẻn vào. Lại càng không thể có chuyện ai đó nấp bên trong... 

Định không ăn mâm cơm dọn sẵn đó, nhưng vừa khi ấy tự dưng bụng Điền lại cồn cào, khó cưỡng nổi, nên cuối cùng anh đành phải ngồi xuống cầm đũa và nói như khấn trước khi ăn: 

- Của ai chẳng biết, đã có lòng với người độc thân này thì xin nhận. Ăn vào nếu có vấn đề gì thì cũng không dám trách. 

Điền ăn một cách ngon lành. Ăn xong, anh tự dọn vào một góc để đó. Lúc ấy anh mới kịp nhận ra, hầu hết những chén, tô và vật dụng đựng thức ăn không phải là đồ trong nhà mình! Mà tất cả những thứ đó nó trùng khớp đến lạ lùng những món phải đi mua sắm mà Điền đã liệt kê vào một tờ giấy khi dọn về nhà mới, chưa kịp đi mua sắm. Định ngày nghỉ sẽ làm việc này... 

Ăn no thì trong bụng Điền đã hết cồn cào. Điền nhìn đồng hồ tay thì thấy mới có hơn một giờ sáng, nên chẳng còn cách nào hơn là phải nằm lại chờ sáng. Tuy nói là chờ sáng nhưng có lẽ do cái bụng dễ chịu, nên vừa nằm một chút là Điền lại ngủ say. 

Đến khi gà gáy vang thì Điền mở mắt ra, và một lần nữa quá đỗi ngạc nhiên khi cả mâm chén bát đêm qua đã được ai đó rửa sạch! 

- Ai trong nhà tôi vậy? Nếu không ra thì từ bây giờ tôi phải bỏ đi, không dám ở nữa! 

Mặc cho Điền nói, chung quanh anh vẫn hoàn toàn im lặng. Sáng hôm đó khi đi làm Điền không nói lại với ai chuyện lạ ở nhà mình. Khi ra chỗ vạt rừng ươm cây giống, anh gặp A Tư ở đó, anh ta có vẻ ngại khi phải nói chuyện với Điền: 

- Anh ở chỗ mới có tốt không? 

Điền vui vẻ: 

- Cũng được, nhưng không được như ở nhà anh. Cô Mường Lan có khỏe không? 

Câu hỏi vô tình chạm vào nỗi ưu tư của A Tư. Anh ta thở dài: 

- Nó bỏ nhà đi từ bữa đó không thấy về. Chẳng biết là đi đâu nữa... 

Điền lo lắng: 

- Sao anh không nhờ người đi tìm lỡ có chuyện gì thì sao? 

A Tư lắc đầu: 

- Chắc là không sao. 

Điền tự trách mình: 

- Trong việc này có trách nhiệm của tôi nữa. Nếu tôi không dọn tới ở thì đâu có chuyện này... 

A Tư trầm ngâm một lúc rồi bảo: 

- Cái số của nó như vậy. Nhưng chắc là rồi cũng không có điều gì. Nó sẽ về thôi. 

- Nhưng anh và cô ấy đâu có bà con gì ở gần đây? Vậy cô ấy đi đâu, ở đâu? 

A Tư không tiện nói ra điều đang nghĩ trong lòng, anh ta chỉ lửng lơ: 

- Con gái xứ này khó mà chết vì hùm beo trong rừng lắm. Giàng không hại nó mà. 

Điền quả quyết: 

- Ngày mai chủ nhật, tôi sẽ cùng với anh và một số anh em khác tổ chức đi tìm cô ấy. Tôi phải tìm cho được Mường Lan về mới yên tâm. Mai mình đi nhé! 

Lời động viên của Điền không khiến cho A Tư phấn khởi lắm, mặc dù anh ta cũng gật đầu: 

- Được rồi, mai tôi sẽ báo cho cậu biết. 

Nhưng chuyện đi tìm Mường Lan vào ngày mai đã không thực hiện. Bởi ngay chiều hôm đó cô đã trở về. Nhìn thấy Mường Lan với nét mặt tươi tỉnh, không một chút mệt nhọc sau mấy ngày vắng nhà, vợ chồng A Tư muốn hỏi nhưng còn ngại, thì chính cô nàng đã tự nói: 

- Tôi về để lấy đồ đạc ra nhà chồng ở! 

Nói xong cô đi soạn một số đồ đạc riêng, rồi rút vào góc trong ngôi nhà ngồi một mình rất lâu. Theo phong tục của bộ tộc thì khi không còn cha mẹ, thì người vợ của anh ruột, tức bà chị dâu của Mường Lan sẽ đứng ra lo liệu chuyện hôn nhân của cô em gái. Nhưng ở đây, khi nghe Mường Lan tuyên bố như vậy thì chẳng nghe A Tư có ý kiến gì. Một lúc sau chị mới kéo tay chồng vào một nơi riêng, nói nhỏ: 

- Làm sao mình làm được việc đó, khi cô em này đâu có chịu nghe mình. Cô ấy có người bảo cho nghe rồi, cứ để cho người ta lo. 

Chị ta nói như vậy rồi lẳng lặng bỏ đi ra ngoài. A Tư hiểu phần nào nên cũng im lặng, để mặc cho Lan. Tối hôm đó bà vợ anh bảo: 

- Con Mèng Lan đã tìm được chỗ để “về nhà chồng” rồi đó! 

Sáng ra mới biết, nơi “về nhà chồng” của Mường Lan là cái góc ngôi nhà ông già của A Tư cất này xưa, dùng làm nơi chứa vật dụng lưu trữ làm mùa. Lan đóng kín cửa cầu thang không cho ai ra vào. A Tư muốn hỏi chuyện với em cũng phải đứng dưới đất nói vọng lên: 

- Mày làm gì cũng phải nhớ ông cha vẫn còn hồn phách ở đây, là máu mủ ruột rà, tao không bỏ mày được nghe chưa! 

Đối với người thiểu số thì những câu nói như vậy là đầy tình nghĩa, đầy trách nhiệm với nhau, nên chỉ cần nói bấy nhiêu đó rồi A Tư bỏ đi vào nhà. Anh dặn vợ hằng ngày phải cơm nước đầy đủ mang ra cho cô em và không được hỏi han bất cứ chuyện gì, nếu Mường Lan không hỏi. 

Nhưng chỉ được hai ngày, bỗng vợ A Tư chạy đi tìm chồng và báo tin: 

- Tôi lo cơm nước đầy đủ cho cô ấy, mình ăn gì thì cho cô ấy ăn như vậy, nhưng hai ngày rồi, bữa nào cô Mèng cũng bảo tôi dọn mâm giống như nấu cho người Kinh ăn, sao cô ấy lại quen ăn mấy thứ đó? 

A Tư trầm ngâm một lúc rồi đáp: 

- Thì ráng mà chiều nó đi. Bà đóng vai mẹ có con về nhà chồng mà! 

Chị Phèng Liu vốn là người tốt bụng, nên tuy có cực vì yêu cầu của cô em chồng, nhưng cũng ráng lo. Chị ta không quen nấu món ăn của người Kinh, cũng phải cố ra chỗ bếp công ty học cách nấu của mấy người đầu bếp ngoài đó. 

Lạ một điều là mỗi ngày Mường Lan chỉ ăn một lần vào buổi chiều tối. Buổi sáng và trưa thì không hề thấy cô nàng đâu. Ra nương rẫy thì thấy mọi việc đồng áng vẫn được Mường Lan làm chu đáo, chẳng biết từ lúc nào, bởi lúc A Tư và vợ ra dòm ngó thì chẳng hề gặp Mường Lan đâu. 

Chị Liu nói với chồng: 

- Cô ấy có chồng thật rồi. Vậy mình cũng phải tính việc xây nhà riêng cho cô ấy chứ. 

A Tư cũng đồng tình: 

- Phần đất phía bên kia bụi tre ngày trước tính xây cái nhà hội dòng tộc, nay mình xây cho nó cái nhà với số vật liệu dự trữ đó. Nhưng hỏi nó xem, nó có chịu không đã! 

Chị Liu bảo: 

- Cô ấy đời nào chịu nhận, mình cứ việc xây rồi giao sau. Nhưng nếu có ai hỏi việc này thì làm sao trả lời? 

A Tư bảo: 

- Tôi sẽ bảo mọi người là con Mèng Lan có lời hứa với con trai xứ khác, ở nhà riêng để chờ cưới. Phong tục người mình có điều đó mà. 

- Nhưng sau này biết lấy ai để trám vào chỗ con trai xứ khác đây? 

- Chuyện đó thì để rồi tính. Bộ bà không thấy bây giờ mình cũng đâu có giải quyết được gì trong chuyện của nó. 

Họ quyết định như vậy và âm thầm đi kêu người chuẩn bị cất nhà. Tuy nhiên đến bữa cơm chiều, khi chị Liu mang cơm ra thì nghe Mường Lan nói vọng từ trong nhà ra: 

- Xây nhà sao không xây kiểu người Kinh? 

Chị Liu giật mình: 

- Cô biết chuyện rồi sao? 

Lan nói rõ ý hơn: 

- Có xây thì xây nhà theo kiểu người Kinh, đừng xây nhà sàn người ta không chịu! 

- Người ta là ai? Mà làm sao mình xây nhà theo kiểu người Kinh ở giữa xóm thượng được. 

- Xây cho người Kinh ở thì phải theo kiểu của họ chứ. 

Chị Liu vô cùng ngạc nhiên: 

- Cô sẽ lấy chồng người Kinh? 

Lan gắt lên: 

- Đã lấy rồi chứ còn sẽ gì nữa! 

- Kìa, cô Mèng… 

Mường Lan ra nhận mâm cơm rồi đóng sầm cửa lại, giận dỗi: 

- Không thì thôi, đừng hỏi nhiều quá! 

Chị Liu chạy nhanh về kể cho chồng nghe, A Tư giật mình nói: 

- Lấy chồng người Kinh? Vậy sao bữa trước nó một hai đuổi cậu kỹ sư đi? Cậu cũng là người Kinh… 

Ngừng một lúc, A Tư nói: 

- Biết vậy lúc đó tôi nói thẳng ra ý mình, để cậu ấy đừng ra đi. 

- Ý gì? 

- Thì tôi có ý muốn ghép đôi cho cậu ấy với Mèng Lan nhà mình. Con Mèng Lan đầu tiên cũng thích cậu ấy lắm, chính nó đã xúi tôi mời cậu ấy về nhà đó chứ. Chẳng hiểu sao chỉ được một lúc thì lại xảy ra chuyện ghét nhau đến không muốn nhìn nhau như hai đứa nó? 

Chị Liu bảo: 

- Tôi thì lại nghĩ khác. Trong chuyện này có những điều như tôi nói với ông đó. Cứ để coi… 

A Tư đã được vợ cảnh báo một số điều, nhưng anh còn bán tín bán nghi, nên cho đến giờ này anh vẫn chưa nói ra. Kể cả việc riêng với kỹ sư Điền, đáng lý ngay hôm Điền dọn đi, anh cần phải nói một số việc cho Điền biết, nhưng chẳng hiểu sao anh lại thôi. 

Buổi sáng chủ nhật đẹp trời, Điền vừa tính thay đồ qua thăm nhà A Tư thì có tiếng xe hơi ngừng trước nhà. Do ở ngay trục đường lớn, nên xe cộ chạy qua khá nhiều nhưng ngừng ngay trước cổng thì ít khi. 

Nhìn ra thấy chiếc xe hơi nhà khá sang trọng thì Điền lại càng ngạc nhiên hơn. Anh nghĩ chắc là xe nào đó ngừng đổ nước hay nghỉ xả hơi gì đó nên cũng không bước ra. Tuy nhiên, vừa lúc đó có tiếng gọi đúng tên anh: 

- Điền ơi, anh có nhà không? 

Tiếng gọi thật quen, Điền phải bật dậy chạy ra ngay và anh kinh ngạc kêu lên: 

- Phương Dung! 

Cô gái vừa bước xuống xe và đang vẫy tay từ dưới đường khiến cho Điền vừa mừng vừa sửng sốt. Quả thật Điền không ngờ anh có người khách này tới đây. 

- Không mời người ta vào nhà hả? 

Mãi sững sờ nên Điền bị giật mình, lúng túng: 

- Vào... vào nhà đi. Trời ơi, sao em lại lên được đây? 

Phương Dung nheo mắt: 

- Vậy mới tài chứ! 

Cô quay lại dặn ai đó trên xe: 

- Chú cứ đi đi mai hay mốt ghé lại đón cháu cũng được! 

Người trên xe có lẽ là tài xế riêng của gia đình Phương Dung, sau một tiếng dạ, anh ta cho xe vọt đi ngay. Phương Dung tay xách va li, bước nhanh vào nhà, vừa đến gần Điền, bất ngờ cô nàng bỏ va li xuống, ôm chầm lấy anh hôn tới tấp vào mặt mũi, khiến Điền phải cuống lên: 

- Em... em đừng làm vậy. Người ta... 

Nhưng Dung hầu như không còn nghe gì nữa, cô nàng cứ ghì lấy và hôn như sợ bỏ ra sẽ mất! 

Đến khi Dung vừa buông ra thì Điền thở không muốn kịp. Anh trố mắt nhìn cô nàng, tưởng chừng như Dung muốn hôn để trả thù anh. Mà quả vậy, Phương Dung nói thẳng ra ý mình: 

- Cho chừa cái tội bỏ người ta đi biệt cả mấy tháng nay! 

Sợ những người qua đường nhìn thấy, Điền kéo nàng ta vào nhà, đóng cửa lại rồi mới nói: 

- Ai chỉ em biết anh ở trên này? 

- Cũng may là có người còn tốt bụng chỉ cho em biết nơi anh trốn, chứ nếu không thì em có hóa đá chưa chắc gì gặp lại anh! 

Bị trách móc một hơi nhưng Điền vẫn bình tĩnh: 

- Làm sao em biết nhà? 

- Em tới công ty hỏi thì người ta chỉ. Họ còn nói, không biết anh đã dọn về đây hẳn chưa, hay còn ở trong buôn người Thượng. Bộ anh muốn lấy vợ Thượng sao vào tận buôn của họ mà ở? 

Điền biết tính của cô nàng, nên vội chuyển hướng: 

- Sao em không giữ tài xế lại, để lát nữa anh ta chở em ra thị trấn tìm khách sạn, chứ ở đây làm sao anh có giường nệm cho cô tiểu thư nhà họ Đoàn ở đây. 

Phương Dung nổi máu ngang ngạnh lên liền: 

- Bây giờ đuổi phải không? Mà càng đuổi thì con này lại càng bám chặt luôn. Tính ở chơi mai mốt về, mà đã nói vậy thì đằng này ở luôn, ở thật chứ không ở chơi nữa! 

Định cúi xuống lấy va li để đem vào giường ngủ của Điền như một cách khẳng định quyết tâm của mình, nhưng bỗng cô nàng kêu lên: 

- Ủa, cái va li mới đây mà? 

Chẳng còn chiếc va li mà rõ ràng Phương Dung mới đặt xuống. Chính Điền cũng ngạc nhiên: 

- Ủa, đâu có ai lấy. Anh cũng mới thấy nó đây mà... 

Cả hai tìm một lượt trong nhà, rồi mở cửa ra ngoài, cũng chẳng thấy. Dung phải gắt lên: 

- Cái xứ gì kỳ cục quá, đồ đạc để trong nhà cũng mất! Làm sao bây giờ hả Điền? 

Điền cũng bối rối, anh đành phải nói: 

- Trong va li nếu chỉ có quần áo không thì mình có thể ra chợ mua lại một ít. Chỉ sợ có thứ gì quý thì khó... 

Phương Dung ấm ức, cứ tắc lưỡi, bặm môi mãi. Cô nàng hỏi lại lần nữa: 

- Ở đây bộ kẻ cắp nhiều lắm sao? Vậy anh ở mà làm gì. Đúng là... 

Điền trừng mắt: 

- Em đừng hồ đồ. Nơi đây nhà xa nhau cả trăm thước không có người tham, cho dù em để tiền ngay trước mặt cũng không lấy, đừng nói là... 

Vừa lúc đó chợt có người gọi ngoài cửa: 

- Cậu kỹ sư ơi, cái này phải của nhà cậu không, nó bay tung tóe ở ngoài đường nè. 

Điền chạy ra thấy chiếc va li bị mở tung, quần áo đổ ra ngoài, vài cái bay theo gió, nên quay lại hỏi: 

- Phải cái va li của em không? 

Phương Dung nhìn ra và mừng rỡ: 

- Đúng là của em! Mà sao lại... 

Điền sợ cô nàng bước ra sẽ gây chú ý cho mọi người, nên chạy nhanh ra vừa dặn lại: 

- Để anh ra lấy cho! 

Anh ra ngoài cổng và nhìn thấy chiếc va li bị mở ra có lẽ do bị rơi chứ không phải do bị mở và lục lạo, bởi hầu như mọi vật còn đầy đủ. Gom tạm lại ôm vào nhà, vừa đặt xuống sàn anh đã bảo: 

- Em kiểm lại coi có mất thứ gì không? Nếu là trộm thì người ta đã không kêu cho mình lấy lại! 

Phương Dung hơi ngượng, nhưng vẫn kiểm tra lại thật cẩn thận. Sau cùng cô nàng xác nhận: 

- Còn đủ cả. Mà lại có dư cái này! 

Cầm sợi dây chuyền đan bằng sợi cỏ nhuộm màu như vải thổ cẩm của người dân tộc đưa lên, Phương Dung phải buột miệng khen: 

- Cái này ở đâu đẹp quá! Mà sao nó lại lẫn trong đồ đạc của em. Chắc là... 

Tuy xác định không phải là của mình, nhưng bởi thấy nó khá xinh, nên cứ cầm ngắm mãi. Trong lúc Điền lại buột miệng: 

- Mường Lan! 

Dung hỏi lại: 

- Cái gì là Mường Lan? Mường Lan là tên vật này hả? 

Túng thế, Điền đành gật đại: 

- Đúng rồi. 

Anh đã nhận ra, chiếc vòng cỏ đó là của Mường Lan hay đeo trên cổ. Cô nàng khéo tay nên cứ chiếc này cũ thì lại tự tay đan, bện chiếc khác để đeo. Nó là của riêng, không lẫn với ai được, nên vừa nhìn thấy là Điền nhận ra ngay. 

Phương Dung tỏ ra thích thú, cô thuận tay đưa lên cổ và đeo nhanh vào, khoe với Điền: 

- Anh thấy em đeo có đẹp hơn mấy cô người Thượng không nào? 

Điền hốt hoảng: 

- Sao em làm vậy? Đừng... 

Nhưng không còn kịp nữa. Tự dưng tim của Điền đập nhanh, anh có cảm giác như mình vừa phạm phải một sai lầm gì đó... 

- Sao mặt mày anh xanh lè vậy, Điền? Bệnh hả? 

Điền xua tay: 

- Không, anh chỉ hơi chóng mặt... 

Tuy nói vậy, nhưng khi đến ngả lưng xuống giường thì Điền không dậy được nữa. Người anh nóng bừng khiến cho Phương Dung phải hoảng lên: 

- Trời ơi, làm sao bây giờ, anh nóng quá chừng Điền ơi! 

Lạ nước lạ cái, lại gặp trường hợp khó xử này nên Dung quýnh lên, sợ thất thần. Cô chưa biết phải làm sao thì chợt có mấy người hàng xóm chẳng biết do ai báo tin, đã kéo sang và lo lắng nói: 

- Cậu kỹ sư có cần chở đi bệnh viện không? 

Tuy hỏi vậy, chứ họ đã gọi sẵn chiếc xe cấp cứu của nông trường, người ta tức tốc đưa Điền ra chợ cách đó gần mười cây sô. Phương Dung đòi theo nhưng họ không cho, còn bảo: 

- Người bệnh mà có con gái bên cạnh không tốt! 

Họ chở Điền đi khá lâu rồi mà Dung vẫn chưa hoàn hồn. Trước nhất là lo cho bệnh của Điền, thứ hai là chẳng biết cô ta đêm nay phải đối phó làm sao trong ngôi nhà vắng và lạ này. 

Nói là nhà của Điền, nhưng khi không có anh ở nhà, lại ở một xóm hết sức lạ lẫm này, liệu Dung có chịu đựng nổi sự sợ hãi đêm nay không? 

Muốn đi tắm nhưng lưỡng lự mãi, cuối cùng Dung mới mò được vào cái gọi là phòng tắm. Cô ngao ngán tự hỏi: 

- Sao sống như thế này mà Điền chịu được? 

Nhớ lại khi hay tin Điền đột nhiên biến mất khi sắp tới ngày làm lễ đính hôn giữa hai người, Dung lúc nãy muốn trách móc, nói ra hết cơn bực dọc giận dỗi của mình, nhưng chưa kịp nói thì Điền đã bị như thế rồi. Giữa Điền và cô đã xảy ra vài hiểu lầm, thậm chí là bất đồng quan điểm trong việc tiến tới hôn nhân, nhưng không thể vì thế mà anh ta lại bỏ hết ở thành phố, lên xứ khỉ ho cò gáy này để sống cuộc sống quá kham khổ như thế này. 

Đành rằng cô là con nhà giàu, còn Điền có gia cảnh không bằng nàng, nhưng là một kỹ sư mới ra trường, vừa tài năng vừa đẹp trai lại có một tương lai xán lạn khi có được sự trợ giúp của gia đình bên vợ như gia đình Đoàn đại gia lừng lẫy trong thương trường như cha mẹ cô, anh ta sẽ phất lên mấy hồi, cũng lên xe xuống ngựa, cũng là bậc vương tôn công tử, chứ đâu phải là hạng khố rách áo ôm... 

Mải lo suy nghĩ và tức tối, Phương Dung quên cả giữ ý, cứ cởi phăng quần áo ra, ngồi bên lu nước tắm mà không có gì che chắn. Tuy nhiên cửa nẻo đã khóa chặt, lại ở nhà chắc chắn là chỉ có một mình, nên cô nàng yên tâm tắm táp cho đã. Phải đến hơn mười lăm phút sau thì cô nàng mới thôi tắm, đồng thời nhìn lại thấy lu nước đầy lúc nãy chỉ còn lại phần cặn bên dưới. Cô ta đã tắm hết cả phần của Điền trong hai ngày liền. Cô ta đâu có biết là vùng này nước quý như vàng! 

Sau khi lau khô thân thể, Dung định lấy quần áo ra mặc thì một lần nữa phát hoảng lên, bởi cái va li đó lại biến mất! Tất cả quần áo ở trong đó, kể cả bộ quần áo dơ vừa thay ra cũng không còn. 

Cô nàng cuống cuồng, lấy chiếc mền quấn người lại và người thì run rẩy, hai hàm răng cứ va vào nhau liên hồi. Chuyện gì đang xảy ra ở đây? Một câu hỏi mà dẫu có biết cô ta cũng không dám trả lời. 

Ở thế cùng, Phương Dung đành phải tới chỗ để quần áo của Điền, chọn đại một bộ mặc trong nhà mặc vào. Nó rộng thùng thình, nhưng như thế còn hơn là tênh hênh. 

Đến lúc này, cô ta mới cảm thấy đói bụng. Suốt từ khi rời khỏi nhà, do ăn sáng muộn nên buổi trưa cô không ăn dọc đường, tới đây rồi hết chuyện này tới chuyện khác, trong bụng của Dung hầu như trống rỗng. Định tới chỗ đặt bếp xem có gì có thể ăn được, thì chợt cô trông thấy một mâm cơm đã dọn sẵn, tuy có hơi nguội nhưng chưa có ai ăn. 

- Có lẽ Điền dọn mà chưa kịp ăn đây! 

Phương Dung nghĩ vậy nên ngồi xuống ăn ngon lành. Ăn gần xong, cô mới để ý và buột miệng khen: 

- Anh chàng có một mình mà cũng nấu đủ món, giỏi thật đó! 

Ăn đến no, không nghĩ tới việc phải chừa cho Điền. Xong xuôi cô nàng ngã lưng ra giường như nhà của mình. Cơn buồn ngủ kéo đến thật nhanh khiến cho cô ta không còn kịp nghĩ về chiếc va li bị mất một cách bí hiểm! 

Đến quá nửa đêm... 

Khi giật mình tỉnh giấc thì cái cảm giác đau râm ran trong bụng bắt đầu tăng lên. Một lúc sau thì cơn đau quặn đến chịu không nổi, Dung phải nhảy xuống giường định tìm chỗ đại tiện. Nhưng tìm ở đâu nếu không ở bên ngoài, ở vùng rừng núi này mọi người vẫn đi vệ sinh ngoài đồng, bụi, nhưng làm sao cô nàng dám làm chuyện đó? 

Cơn đau càng lúc càng dữ dội, đến nỗi Dung đã ngã nhoài trên sàn nhà, và để mặc cho những gì bụng dạ cô không chịu nổi cứ tống ra. Nó lại tống ra bằng miệng. Cô nàng nôn ói một trận không thể tưởng nổi! Phải đến hơn nửa giờ sau thì cơn đau mới dịu lại và cơn tháo dạ cũng chấm dứt. 

Lúc này nhìn lại Dung mới bàng hoàng, không tin vào mắt mình nữa. Bởi những gì cô ta nôn ra vừa hôi thối lại vừa kỳ dị! Nó gồm toàn những con vật gớm ghiếc, toàn những con ếch, nhái, ễnh ương, sâu bọ, chuột con, thậm chí có cả vài con rắn con bị cắn đứt nhiều khúc! 

- Trời ơi! 

Cô ta kêu lên vừa bật dậy, và cứ thế bò lê lết về phía bếp. Vô tình cô nàng bò ngang qua chỗ mâm cơm lúc nãy và một lần nữa cô thét lên kinh hãi: 

- Bớ!... 

Cô nàng nhìn thấy trong mâm cơm còn lại những con vật giống như vậy! Có nghĩa là lúc nãy cô nàng đã ăn cơm bằng những thứ gớm ghiếc này chứ không phải là món ngon vật lạ! 

- Trời ơi, bớ ngưới ta! 

Vừa kêu xong thì cô ta ngã chúi về phía trước, người bất động. Vài người hàng xóm nghe la đã chạy tới dộng cửa gọi lớn: 

- Cậu kỹ sư ơi! 

Có người lại nói: 

- Cậu ấy được chở đi nhà thương lúc chiều, đã về đâu! 

- Vậy sao có tiếng kêu cứu trong đó? 

Bàn nhau chán, có người đánh bạo tông cửa vào. Nhưng khi nhìn thấy cảnh tượng bên trong thì họ không khỏi bàng hoàng. Tất cả đều phải bịt mũi mới không phải ngửi thứ mùi hôi thối lạ lùng. Rồi không ai bảo ai, họ cũng lần lượt rút lui, để mặc cho cô ả nằm đó với ễnh ương, cóc nhái... 

Phần 2 (tiếp theo) 

Phần Điền thì khi ra tới bệnh viện, anh đã tỉnh lại như chưa từng có bệnh! 

Chính anh cũng ngạc nhiên tự hỏi: 

- Mình sao vậy? 

Đến nửa đêm hôm đó thì Điền đã hiểu vì sao anh lại ngã bệnh đột ngột như thế. Bởi lúc nằm mơ màng ngủ thì anh nghe có người nói bên tai: 

- Hãy nằm ngủ cho ngon, đến khi nào cô ả chán bỏ về thì hãy về nhà. Anh đâu có ưa gì cô ả phải không? 

Giọng nói nghe quen lắm, nhưng khi mở mắt ra thì chẳng thấy ai. Điền giả vờ nhắm mắt lại ngủ, cố chờ xem cô ta có trở lại hay không. Nhưng hình như cô ta biết nên cho đến lúc ngủ lại thật Điền không hề nghe gì nữa! 

Sáng sớm hôm sau khi vừa mở mắt ra, Điền lại một phen giật mình khi nhìn thấy chiếc va li của Phương Dung đang nằm ở cạnh giường! 

Điền nhớ lại cảnh Phương Dung phải khổ sở đến cỡ nào khi không tìm thấy va li quần áo này, cũng như cảnh cô nàng phải một mình ở lại trong ngôi nhà xa lạ đó. Dù không còn thương cô gái đỏng đảnh này nữa, nhưng Điền cũng thấy tội nghiệp và lo lắng cho nàng ta. Anh có ý muốn xin về thì cô y tá trực bác bỏ ngay: 

- Giờ này mới sáng sớm, bác sĩ khám bệnh chưa vào, làm sao cho anh về được. Việc gì cũng phải đợi đến mười giờ. Nhưng lúc tối qua có người dặn lại chúng tôi là phải để cậu nghỉ trong này vài hôm, đợi ổn định hẳn rồi mới được về! 

Điền ngạc nhiên: 

- Ai dặn? 

- Một cô gái trẻ, nói là vợ cậu! 

Điền ngồi bật dậy kêu lên: 

- Ai là vợ tôi? Làm gì có… 

Cô y tá cười ý nhị: 

- Mấy cậu trai trẻ có vợ đẹp lại thường giấu giếm. Chẳng bù với phụ nữ, như cô vợ cậu, dù trẻ nhưng vẫn một điều chồng tôi hai điều chồng tôi ngọt xớt! 

- Tôi đã nói rồi mà, người đó… 

Cô y tá vẫn trêu: 

- Vợ hay người yêu sắp cưới cũng như nhau thôi. Trông cô ấy đẹp và dễ thương lắm, lại ăn nói thật thà, dễ thương nữa! 

Chị ta móc trong túi ra một sợi dây cỏ nhiều màu đưa cho Điền xem: 

- Vợ cậu dễ thương lắm, mới gặp tôi lần đầu mà đã tặng cho món quà thật đẹp mấy chị em trong bệnh viện ai cũng thích, cứ đòi đợi cô ấy trở lại để xin thêm! 

Điền giật mình: 

- Người thăm tôi là cô gái cho chị cái này? 

Chị y tá ngạc nhiên: 

- Bộ ngoài cô này cậu còn có nhiều cô khác nữa sao? Thật, sợ mấy ông đàn ông luôn, đủ thứ cô! 

Điền xua tay: 

- Chị hiểu lầm rồi. Tôi muốn hỏi có đúng là cô ấy vào đây không? Đó là cô gái người dân tộc, da ngăm đen nhưng duyên dáng... 

- Đúng, cô ấy còn xưng tên mình là Mường Lan nữa! 

Nhìn sắc mặt rạng ngời lên của Điền, cô y tá cũng vui lây: 

- Có được cô vợ như vậy còn hơn lấy tiên rồi, còn đòi gì nữa! 

Chị ta nói xong bỏ đi ra ngoài rồi mà Điền vẫn còn ngẩn ngơ. Anh lầm bầm như trong cơn mơ: 

- Mường Lan, cô ấy... 

Điền không nghĩ là Lan vào tận đây thăm mình và còn xưng là vợ nữa. Anh quay sang người bệnh nằm bên cạnh dặn: 

- Nếu tôi có ngủ quên mà cô gái nào đến kiếm, anh làm ơn kêu tôi dậy gấp giùm! 

Mấy người chung quanh che miệng cười. Điền ngạc nhiên: 

- Sao vậy? 

Anh bệnh nhân nằm cạnh nói: 

- Anh dặn có cô nào nữa, có nghĩa là sẽ còn nhiều cô khiến tụi tôi phát ớn lạnh! Chỉ cái cô mà y tá vừa nói thôi, cậu cũng đủ mệt rồi, nói chi tới mấy cô nữa! Cậu có biết cô gái ấy dặn tụi tôi sao không? Cô ấy bảo, nếu thấy cô nào khác vào đây thì tụi tôi phải bước ra khỏi phòng này, nếu không muốn mang họa lây! 

Một người nữa lại thêm: 

- Cô gái đó đẹp mà coi bộ ghen lắm à nghen! Nhưng xem ra cô ấy thương cậu dữ lắm, nhà không biết ở đâu mà từ hôm qua tới nay thấy đến cả chục lần! Hình như cô ấy ở đâu đó bên ngoài hành lang bệnh viện này chứ không về nhà. 

Điền nghe vậy vụt bước xuống giường chạy bay ra ngoài, đi dọc hành lang tìm. Cũng có vài chục người nằm ngủ theo hành lang nhưng không có cô nàng... 

Đến khi Điền trở lại phòng thì nghe anh chàng lúc nãy nói: 

- Cô ấy mới vừa vào lấy cái va li đi rồi! 

Điền không còn đủ sức để chạy theo nữa. Anh đứng lặng đó mà không biết nên buồn hay vui... 

Nhưng sự háo hức trong lòng đã nói rằng anh chấp nhận một người vợ như vậy! 

Nôn nao đợi, nhưng cũng phải hơn 10 giờ Điền mới được bác sĩ cho xuất viện. Vừa nhận được giấy ra viện, Điền đã không kịp cảm ơn đã chạy bay ra ngoài. 

Còn đang hỏi thăm xe về nông trường thì chợt anh nghe tiếng còi xe sau lưng. Quay lại. Điền giật mình khi thấy đó là chiếc xe chở Phương Dung tới nhà bữa trước! 

Còn đang khó chịu vì nghĩ cô nàng đỏng đảnh lại tới tận bệnh viện thăm, thì người tài xế nhoài người ra gọi: 

- Cậu có về không tôi chở về luôn? 

Nhìn lên xe thấy chỉ có tài xế. Điền ngạc nhiên: 

- Cô Dung đâu? 

- Dạ, em đi qua Đơn Dương từ bữa đó, nay mới quay về đón cô ấy. Vừa rồi khi chạy tới gần đây thì có một cô gái đón xe lại, và cho biết cậu đang nằm viện ở đây, bảo tôi ghé đón, cô ấy còn cho cả số phòng cậu nằm nữa. 

Điền ngơ ngác: 

- Rồi cô ấy đâu? 

Tài xế cười: 

- Cô ta xuống ở đầu con dốc, nói là đi có việc. 

- Cô ta có nói tên là gì không? 

- Dạ không. Chỉ nói gửi trả cô Dung cái va li. 

Nhìn thấy chiếc va li trên xe, Điền im lặng một lúc, hình như anh hiểu anh phải làm gì. Anh tài xế phải hỏi lại: 

- Cậu có về không? 

Điền đáp nhanh: 

- Cảm ơn anh, anh về nói cô Phương Dung là bệnh tôi cần phải chuyển về Sài Gòn điều trị đi xe của bệnh viện, nên không cùng đi với cô ấy được. 

Nói xong, Điền bước nhanh sang hướng khác. Vừa đi được vài chục bước, anh đã nghe có người gọi: 

- Cậu kỹ sư! 

A Tư đang đứng bên đường với chiếc xe thồ cọc cạch, mắt rạng ngời, vẫy tay cho Điền: 

- Về nhà đi thôi! 

Điền tiến tới bên anh đưa chiếc giỏ quần áo cho anh ta, chẳng hỏi gì thêm, leo lên xe cho anh ta chở. Chạy được một đoạn A Tư mới nói, giọng phấn khởi: 

- Về nhà tôi luôn nghe. Tôi đã cất xong cho cậu cái nhà kiểu người Kinh, đẹp lắm, và cũng có người đang chờ! 

Điền ngạc nhiên: 

- Sao lại cất nhà cho tôi? 

- Thì về đi sẽ biết! 

Đường xa đến hơn chục cây số, vậy mà anh ta đạp xe đi vù vù, chẳng có vẻ gì là mệt. Và lạ hơn nữa là chỉ chưa đầy mười lăm phút sau là đã về đến xóm nhà. 

Quá đỗi ngạc nhiên trước ngôi nhà mới cất theo lối người Kinh nằm lọt giữa khu nhà sàn kiểu người Thượng. Điền không tin vào mắt mình nên cứ nhìn tới nhìn lui và hỏi lại: 

- Anh cất thật đây sao? 

- Còn thật với giả gì nữa. Hãy bước vào khai trương nhà mình đi! 

Điền còn đang rụt rè thì đã thấy bóng của Mường Lan xuất hiện ngay ngạch cửa với nụ cười thật tươi:

- Người ta thì rể đi đón dâu, còn đây dâu chờ đón rể. Vậy thì vào đi. 

Ngẩn ngơ trước sắc đẹp rạng rỡ của nàng ta, Điền thầm kêu lên: 

- Còn đẹp hơn hôm trước nữa! Nhưng sao…

Lúc anh bước qua ngang chỗ nàng đứng thì nghe nàng hỏi thật nhỏ: 

- Ngạc nhiên là sao mới ở ngoài bệnh viện mà bây giờ đã ở nhà rồi, phải không? 

Điền nhìn sững cô nàng, chưa kịp hỏi lại thì nàng đã vụt biến mất vào bên trong mang theo nụ cười mê đắm! 

Nhìn thấy trong nhà bày biện đủ mọi thứ giống như cách của người Thượng, mà món nào cũng mới toanh, Điền chưa kịp hỏi thì đã nghe nàng nói vọng từ trong ra: 

- Của bạn bè anh gửi tặng đó. Bộ ghế tiếp khách này của anh kỹ sư Thông ở Biên Hòa, còn cái bàn và tủ áo của anh giám đốc nông trường. Chỉ có giường, màn, chiếc gối là của em thôi! 

Điền không thể nào tin: 

- Sao mấy người đó biết? Sao họ lại tặng? 

- Quà cưới mà!... 

A Tư giục: 

- Vào nhà nhanh lên đi, để còn chuẩn bị đón khách! Trưa nay họ tới đó! 

Điền trố mắt: 

- Ai tới? 

- Thì bạn bè cậu. Và còn có... cha mẹ cậu nữa! 

Điền chẳng còn kiềm chế được nữa, anh kêu lên: 

- Sao cha mẹ tôi lại tới đây. Họ... họ... 

Mường Lan nói vọng từ trong ra: 

- Đám cưới con trai mà cha mẹ không có mặt sao được! 

Đến lúc này thì Điền chỉ còn biết ngẩn ngơ. Anh lóng ngóng trong ngôi nhà được gọi là nhà cưới của mình đến tội nghiệp! Lát sau, A Tư kéo anh ra một góc và nói: 

- Nếu không giải thích thì chắc là cậu không hiểu. Mấy ngày qua một mình con Mèng Lan đã làm hết mọi chuyện, chỉ vì nó... thương cậu. Mặc dù... 

Anh ta ngập ngừng, phải một lúc sau mới tiếp lời: 

- Mặc dù nó đang mang thân phận là một… con ma xó! 

Điền sửng sốt đến độ tim muốn ngừng đập luôn: 

- Anh... anh nói...? 

A Tư vẫn chậm rãi nói: 

- Nó bị hồn một con ma xó nhập, cho nên có lúc nó muốn đuổi cậu đi. Chứ thật ra trong lòng nó thương cậu lắm, nó muốn lấy cậu làm chồng... 

Điền chen ngang hỏi: 

- Lúc đầu tôi vẫn thấy cô ấy bình thường mà? 

A Tư gật đầu: 

- Nó bình thường cho đến cái hôm mà cậu chạy đuổi theo một người con gái nào đó ra ngoài rừng rồi bị ngất ở ngoài đó. 

Nhớ lại chuyện ấy, Điền kêu lên: 

- Đúng rồi! Bữa đó khi đang ngủ tôi bị ai đó cào vào chân, tôi dậy thì thấy cô gái chạy ra ngoài, tôi tưởng đâu là Mường Lan nên đuổi theo. Đến khi cô ấy ngã, tôi ngã ập lên người cô ấy, và... chợt thấy bộ mặt ma chứ không phải người, tôi sợ quá và đã ngất đi! 

- Con Mèng Lan đã cứu cậu đem vào nhà, nhưng cũng chính vì vậy mà nó bị hồn con ma xó nhập vào. 

Điền hốt hoảng: 

- Vậy là cô ấy thành ma luôn sao? 

A Tư thở hắt ra một hơi: 

- Cũng may là không hẳn như vậy. Tôi nói để cậu rõ hơn, xứ Mường chúng tôi có mấy loài ma, nào là ma trành, ma lai, ma xó. Trong số này thì ma xó là hiền lành nhất, chỉ có bám theo người để được… yêu mà thôi. Tuy con Mèng Lan bị hồn ma nhập, nhưng là con ma xó cũng hợp với nó, bởi nó cũng đang muốn theo cậu. 

Điền lo lắng: 

- Nhưng dẫu sao thì cô ấy cũng… 

A Tư nói đầy tự tin: 

- Vừa rồi tôi đã nhờ thầy xem kỹ, người ta nói con Mèng Lan bị con ma xó đó nhập hồn chỉ nhằm mục đích chính là… thương cậu. Chính nó đã giúp cho Mèng Lan làm những việc mà chỉ có hồn ma mới làm được mà thôi. Ví dụ như… ghen, như bám theo cậu như hình với bóng. Nó là một hồn ma hiền lành và nó sẽ rời bỏ cậu, để cho Mèng Lan trở lại thành người bình thường khi nào cậu với Mèng Lan có con! 

Điền chẳng biết làm sao trong lúc này. Anh cứ ngây người ra. Chừng như hiểu ý anh, A Tư đi đâu một lúc, khi trở vào đã nói khẽ: 

- Cậu đừng nghĩ đến chuyện bỏ đi. Ma xó hiền lành nhưng một khi nó đeo ai thì đừng hòng thoát. Cậu muốn trốn về thành phố nó cũng theo suốt đời! 

Nghĩ là anh ta nói đúng, nên sau đó Điền phấn khởi trở lại, bắt tay vào lo công việc sắp tới. Nhất là mỗi khi nhìn vào bếp, thấy Mường Lan với khuôn mặt rạng rỡ thì bao nhiêu lấn cấn trong lòng Điền như tan biến hết…

NỬA ĐÊM CẦU CƠ 

Phần 1

Lưỡng lự rất lâu, cuối cùng Tiến cũng đồng ý để các bạn bày bàn cầu cơ ra. Sinh, người bạn khá rành chuyện này đề nghị: 

- Cầu cơ cần một không gian yên tĩnh, một quãng thời gian thích hợp thì có rồi, bây giờ là 11 giờ đêm, rất tốt cho việc này, còn phòng này thì e không đạt. 

Anh ta đưa tay chỉ lên lầu trên: 

- Lầu thượng có ai ngủ không? 

Tiến lắc đầu: 

- Trên đó chỉ để lâu lâu lên ngắm trăng thôi. Phòng bỏ trống. 

- Tốt, ta lên đó đi. 

Cả bọn lỉnh kỉnh dọn đồ nghề lên phòng trên sân thượng. Có tất cả bốn người tham dự, ngoài Tiến và Sinh, còn có Hương và Lộc. Là người nữ duy nhất nên Hương được soi rất kỹ, bị Sinh hỏi thẳng thừng: 

- Tôi hỏi điều này có hơi kỳ một chút, nhưng theo lệ của một buổi cầu cơ thì... không được dơ mình. Chẳng biết bà... 

Hương thẹn đỏ mặt: 

- Nhiều chuyện! Nhưng... người ta đâu phải lúc nào cũng... dơ đâu! 

Sinh cười lớn: 

- Vậy là ổn rồi, ta có thể tiến hành buổi cầu cơ! 

Rồi anh ta quay lại Hương nói thêm: 

- Cái này không phải do anh vẽ ra, mà bắt buộc nó như vậy. Đã mấy lần rồi, tụi anh cầu mà không linh, bởi trong số người tham dự có cô đang bị kẹt... 

Hương xua tay: 

- Hiểu rồi, nói rồi, tiến hành đi! 

Tiến chen vào nói đỡ: 

- Mày nói tới nói lui hoài. Hương đã gồng mình ngồi dự vụ này đã là quá cỡ rồi, hãy để cho cô ấy còn dũng khí để mà tiếp tục chứ. 

Hương thấy có đồng minh thì tự tin hơn: 

- Có anh Tiến em chẳng sợ gì! 

Mấy người bạn đều nheo mắt cười. Bởi ai cũng biết Hương là người yêu của Tiến. 

Lộc nói nhẹ nhàng: 

- Người ta có băng đảng với nhau đó nghen, thằng Sinh liệu hồn! 

Sinh yêu cầu mọi người cùng khấn theo công thức anh đưa ra, sau đó anh hỏi: 

- Hôm nay ai muốn trực tiếp cầu? 

Tiến nhìn Lộc, rồi nhìn sang Sinh, anh bảo: 

- Một trong hai đứa bay làm đi. 

Lộc nhìn Tiến: 

- Sao không phải là mày? 

Sinh thì lại nói: 

- Theo tao thì người thích hợp nhất để đứng ra trực tiếp cầu là Hương. Tụi bay biết sao không, cầu cơ phải theo tuần trăng, đêm nay trăng sáng là thuộc âm vượng, như vậy người phụ nữ cầu là thích hợp nhất. 

Hương nghe vậy xua tay lia lịa: 

- Thôi, em không làm đâu. 

Nhưng bất ngờ Tiến lại nói: 

- Hương thử đi. 

Trố mắt nhìn Tiến, Hương ngạc nhiên: 

- Sao anh muốn em làm? 

Tiến nghiêm giọng: 

- Em là người nữ duy nhất ở đây, lại là thời điểm thích hợp nữa, sao lại không thử? 

Hương lưỡng lự: 

- Nhưng mà em... em sợ. 

Tiến động viên: 

- Cứ thử một lần xem sao. 

Mấy người kia đều tán thành: 

- Ý kiến hay, Hương làm đi! 

Chẳng còn cách nào hơn, Hương đành rụt rè nói: 

- Mấy anh xúi đó nghen, nếu có gì thì... 

Lộc cười to: 

- Thì thằng Tiến chịu! 

Sinh hướng dẫn: 

- Em cứ đặt tay lên con cơ này, như vậy đó, ngồi ngay ngắn lại, tập trung tư tưởng thật thành tâm, đừng nghĩ gì khác ngoài cầu cho ai đó về để mình hỏi. 

- Nhưng... biết hỏi ai? 

- Nếu không nhắm hỏi người nào cụ thể, thì cứ thành tâm cầu, không cần nói tên, có người nào hợp vía mình sẽ về giúp mình ngay! 

Hương vẫn hơi sợ: 

- Em ngại quá... hay là em cầu vong ba em vậy! 

Cô đặt tay lên miếng cơ nhắm mắt lại và lâm râm khấn: 

- Từ ngày ba mất, con chưa một lần thấy ba về, vậy nay ba thử về với con, nói cho con nghe xem ba đang cần gì? 

Lần đầu tiên tham gia trò này, nên Hương rất nghiêm túc thành tâm, nhắm mắt thật lâu mà chưa dám mở ra. Gần hai phút trôi qua vẫn chưa thấy có gì lạ. Bỗng ngay sau đó ở ngón tay đặt trên cơ có dấu hiệu tê tê nhẹ, rồi như có luồng điện năng chạy qua và con cơ chuyển động lướt rất nhanh trên tờ giấy có những ô chữ từ A đến Z. Ban đầu con cơ dừng rồi chạy và lại dừng... chưa rõ là muốn dừng ở đâu, muốn nói gì. 

Sinh là người rành, nên nhìn là biết ngay cuộc cầu cơ đã có kết quả! Anh bảo khẽ vào tai Tiến: 

- Đừng ai lên tiếng, để cho Hương cứ tự nhiên. 

Sau vài giây chưa ổn định, mấy vòng sau thì con cơ theo ngón tay của Hương đã bắt đầu chậm lại và ngừng lại ở ô chữ B. Sinh lấy giấy ra ghi lại trên đó những chữ mà cơ dừng lại. Tiếp theo là chữ A, rồi chữ M, chữ U, chữ N, chữ G. Ngập ngừng một lúc nữa, tay của Hương lại chạy tiếp đến chữ G, chữ A, chữ P, chữ L, chữ A, chữ I, chữ C, chữ O và chữ N. Ngừng lại một lúc lại tiếp ở chữ C, chữ O, chữ N, chữ L, chữ O, chữ N, chữ Q, chữ U , chữ A. 

Sinh ráp lại và đọc nhỏ cho hai bạn nghe: 

- Bài cơ vừa rồi cho mấy chữ như thế này: BA MỪNG GẶP LẠI CON, CON LỚN QUÁ. 

Tiến giật mình, anh hỏi khẽ: 

- Ba của Hương về thật hả? 

Ra dấu cho bạn không hỏi lớn, sợ kinh động đến Hương. Anh bảo khẽ: 

- Hãy để cô ấy cầu, tao sẽ ghi đầy đủ rồi chuyển dịch lại cho tụi bay nghe! 

Hương như quên chung quanh, cô chú tâm vào và con cơ lại tiếp tục chuyển động. Cứ hết chữ này lại sang chữ khác. Chợt đến một lúc thì tay của Hương run lên, cô suýt làm văng con cơ ra ngoài bản chữ! Lúc này toàn thân Hương như bị kích động theo cái gì đó, mà thoạt nhìn Tiến hốt hoảng kêu lên:

- Hương, sao vậy? 

Nghe tiếng kêu của Tiến, bỗng dưng Hương ngã bật ra phía sau! Vừa lúc Sinh tiếc rẻ: 

- Phải chi Hương cố gắng một chút nữa thì có thêm chi tiết lạ lắm! 

Anh ta cầm tờ giấy ghi được lúc Hương chuyển động nhanh trước khi ngã, đọc cho mọi người nghe: 

- Sau câu BA MỪNG GẶP LẠI CON, CON LỚN QUÁ là đến câu: BA NHỚ NHÀ LẮM, MUỐN VỀ MÀ KHÔNG ĐƯỢC. BỮA NAY MUỐN NÓI MÀ BỊ… BỊ… HỌ GIÀNH, HỌ KHÔNG CHO…, GẶP EM RỒI! GẶP ĐƯỢC NGƯỜI MÀ ANH ĐỢI LÂU NAY… 

Tiến lo cứu tỉnh Hương, cũng may là sau đó Hương tỉnh lại, cô kêu nhức đầu, chóng mặt. Cho cô uống ly nước xong, Sinh hỏi liền: 

- Lúc nãy Hương thấy gì vậy? 

Hương lắc đầu: 

- Có thấy gì đâu, chỉ cảm giác như ai đó lôi ngón tay mình đi, khiến mình không tự chủ được, vậy mình làm gì lúc nãy? 

Đưa cho cô xem bảng chữ Sinh ghi được, Tiến hỏi: 

- Cái này là ý gì vậy? 

Hương lại lắc đầu: 

- Em không biết. 

Sinh giải thích: 

- Lúc đó là thần giao cách cảm. Giữa âm dương được nối với nhau bằng con cơ. Người chết muốn nói gì đó thì nhập vào con cơ và tay người sống tiếp nhận thông tin từ người chết qua thần giao ấy. Ở đây có điều lạ là giữa lúc ba của Hương đang nói, chẳng hiểu sao lại có ý khác chen vào? Đúng là bác ấy đã bị hồn nào đó khống chế, chen để nhập vào cơ, khiến cho Hương chịu không nổi phải ngã ngang! 

Hương xác nhận: 

- Em đang lâng lâng thì tự nhiên điện trong người như bị chạm, khiến đầu óc em quay cuồng, không làm chủ được bản thân! 

Tiến trách Sinh: 

- Hương không quen chuyện này, mày làm cho cô ấy bị thế này... 

Hương gượng cười: 

- Không sao đâu. Giờ thì em khỏe lại rồi. Thôi, mấy anh tiếp tục làm đi, em ngồi coi. 

Lạ là từ phút đó chẳng một ai cầu cơ được nữa kể cả Sinh cũng chịu thua. Anh ta nói: 

- Thôi mình để hôm khác. Bữa nay bày ra nhậu một chầu đi! 

Hương cũng tham gia, nhưng tự dưng cô mất vui. Đầu óc Hương như có cái gì đó lởn vởn… 

Đến gần nửa bữa nhậu thì Hương đòi về, Tiến phải đứng lên đưa người yêu ra tận cửa. Anh chuẩn bị dắt xe ra thì Hương ngăn lại: 

- Em hơi chóng mặt, để em về xích lô tốt hơn. 

Tiến lo lắng hỏi lại: 

- Em có sao không? 

- Không, chẳng sao cả. Em về đây. 

Tiến cứ nhìn theo, anh lo lắng cũng phải, bởi rõ ràng trong sắc diện của Hương thì dường như đã có điều gì đó không ổn. Anh tự trách là lúc nãy đã không ngăn chuyện Hương tham gia cầu cơ. 

- Lên nhậu tiếp chứ anh chàng si tình, đứng ngẩn ngơ hoài vậy! 

Bị các bạn giục mãi nên Tiến đành phải trở lên tham gia cuộc vui, nhưng đầu óc nghĩ mãi về thần sắc không bình thường của người yêu. Một lúc sau, Tiến vẫn còn nhắc lại với Sinh: 

- Cậu quá vô ý, Hương mà có chuyện gì mình không cho cậu yên đâu! 

Sinh phải trấn an: 

- Làm gì có chuyện mà lo cho mệt! Cả triệu người cầu cơ chứ có riêng gì Hương đâu. 

- Nhưng Hương thì khác. Nhất là chuyện ba cô ấy lúc nãy, mình sợ sợ… 

Lộc là anh chàng vô tâm nhất trong bọn, chen vào nói: 

- Cầu cơ chỉ là chuyện đẩy một miếng ván đi tới đi lui, các cậu quan trọng hóa nó chi cho mệt! 

Sinh là người cuồng tín về cầu cơ, nghe Lộc nói vậy anh ta chĩa mũi dùi sang Lộc: 

- Cậu biết gì mà bình với luận! Cậu có biết miếng cơ làm bằng gì không? Nó làm từ miếng ván lấy ở nắp hòm chôn người chết lâu năm! Phải là ván nắp hòm mới linh nghe chưa! 

Thấy hai người sắp cãi vả căng thẳng Tiến xua tay: 

- Thôi, dẹp chuyện đó qua một bên đi. Cũng dẹp luôn vụ nhậu này, tao mất hứng! 

Tiến bỏ đi về phòng mình ở tầng dưới và ở luôn, mặc cho các bạn muốn làm gì thì làm... 

Tuy bị Tiến bỏ ngang buổi nhậu, nhưng bởi chỗ quá thân tình, từng ngủ nhà của nhau bao nhiêu lần, nên sau khi Tiến bỏ đi về phòng riêng thì Sinh và Lộc vẫn tiếp tục cuộc vui. Sinh nói: 

- Để cho thằng Tiến nó ngủ đi, tao với mày chơi tới sáng. Mà nếu hứng thì một lát mình lại cầu cơ xem thử coi có gặp hồn ma nữ nào mình mời về. 

Lộc tròn mắt nhìn bạn: 

- Mày ăn nói không giữ mồm giữ miệng gì hết! 

Sinh cười xòa: 

- Nói chơi vậy chứ cỡ bợm nhậu như tao với mày thì cầu cơ ai về mà cầu cho mất công! Muốn cầu thì phải trai tịnh, phải lòng thành. Mày thấy con Hương không, nó còn con gái, lại trong sáng, nên vừa cầu là ứng ngay! Chính tao cũng hoảng hồn vì vụ hồi nãy! 

- Theo mày thì con Hương nó bị gì vậy? 

Đang bô bô cái miệng do men rượu, vậy mà khi nói tới chuyện này Sinh cũng hạ thấp giọng: 

- Nó gặp cái vong của ai đó! 

- Tức hồn người chết chứ gì? 

- Tao tin là chuyện đó có thật! Mày thấy mắt con Hương lúc đó không? 

- Phải, xanh mét! Lúc ấy tao sợ điếng hồn luôn! 

- Có điều là khi thằng Tiến hỏi, tao phải giả vờ là không có chuyện gì. Thật ra cho tới lúc này tao vẫn còn run! 

Lộc uống một hơi cạn ly rượu trong tay: 

- Từ nay dẹp cái chuyện cầu cơ đi, tao không thích cái trò này! 

Thay vì gật đầu tán thành, Sinh lại đáp ỡm ờ: 

- Nhưng nó lại có cái hay riêng. Thú vị thì đúng hơn. Tao vẫn thích chơi nó, bởi không không gì có thể vừa sống ở cõi đời này lại có thể hiểu được người ở thế giới bên kia! 

Lộc đang định nói gì đó thì chợt nghe tiếng la lớn từ tầng dưới! Sinh hốt hoảng: 

- Tiếng của thằng Tiến! 

Khi họ chạy xuống thì thấy Tiến nằm dài trên sàn nhà trong phòng anh ta, ở cổ vẫn còn sợi dây thòng lọng bị đứt! 

Họ tức tốc vực Tiến dậy rồi thay nhau cõng Tiến chạy ra cửa, đưa đi trạm xá gần đó. Bởi nhà Tiến lúc ấy không có ai khác, mà việc cấp cứu thì Sinh và Lộc đều không rành, và lại thấy tình trạng của Tiến như vậy họ đều sợ thất thần, đâu dám tự lo ở nhà. 

Cuối cùng, người ta cũng giúp cho Tiến tỉnh lại. Người mừng nhất là Lộc, người được phân công ngồi trực suốt mấy tiếng đồng hồ ở trạm xá. 

- Lạy trời, mày tỉnh lại rồi! 

Tiến nhìn bạn mà mãi một lúc sau mới nhận ra: 

- Ủa, mày hả Lộc? Mày làm gì ở đây hả? 

Lộc vừa đáp vừa ngáp dài: 

- Sợ mày chết, nên ngồi canh từ tối qua tới giờ chứ làm gì! 

Tiến ngồi bật dậy, nhưng phát hiện cổ mình bị đau, kêu lên: 

- Cổ tao...! 

- Mày bị ai đó cột cổ, hay tự mày treo cổ tự tử, mà lúc tao với thằng Sinh chạy xuống thì thấy sợi dây thòng lọng còn dính trên cổ mày. Sao vậy Tiến? 

Từ từ Tiến nhớ lại, anh đưa tay sờ nhẹ lên cổ và rùng mình: 

- Nó muốn giết tao! 

- Mày nói ai? 

Giọng của Tiến vẫn còn run: 

- Thằng nào đó kỳ lạ lắm, nó như từ dưới nước chui lên, người nhớp nháp, tay chân lạnh như băng và chẳng hiểu sao tự dưng nhào tới ôm chầm lấy tao, đè tao xuống rồi rít lên: “Mày phải chết! Mày không được quyền yêu nàng ấy!”. 

Tiến cứ sờ lên chỗ đau ở cổ và kể tiếp: 

- Tao cũng chẳng hiểu sao thằng đó nó nhấc nổi tao chỉ với một tay, còn tay kia thì cột tao lên cây quạt trần trong phòng. Tao ngạt thở quá nên kêu thét lên, đồng thời vùng vẫy dữ dội, thế rồi…

Lộc tiếp lời: 

- Tao và thằng Sinh nghe mày kêu nên chạy xuống thì kịp nhìn thấy mày nằm dài trên sàn, ở cổ còn sợi dây thòng lọng bị đứt. Chắc là do dây mục, mày vùng vẫy mạnh quá nên nhờ vậy mày mới thoát chết! 

- Tụi bay có gặp thằng đó không? 

Lộc ngạc nhiên: 

- Thằng nào? 

- Thì cái thằng đã treo cổ tao! 

- Có thấy ai đâu. Hay là mày nằm mơ? 

Tiến chợt nhớ lại từng lời hắn nói, anh bỗng đứng phắt dậy, kêu lên: 

- Không xong rồi, Hương của tao! 

Lộc không hểu: 

- Hương bị sao? 

Tiến vọt chạy ra cửa, vừa nói vọng lại: 

- Tao phải đi tìm Hương, cô ấy nguy mất! 

Lộc chạy theo nhưng không còn kịp, bởi tuy mới vừa tỉnh lại, nhưng Tiến chạy nhanh như một vận động viên điền kinh, chỉ loáng một cái, anh ta đã mất hút phía trước… 

Khoảng hơn mười lăm phút sau thì Tiến đã có mặt ở trước nhà của Hương, anh không theo thông lệ gọi cửa từ tốn, lại dộng cửa ầm ầm: 

- Hương ơi Hương! 

Gọi tới lần thứ hai thì nghe có tiếng dép lê từ trong đi ra, giọng của mẹ Hương: 

- Ai mà kêu réo như giặc vậy? 

Tiến quên cả lịch sự: 

- Hương. Hương có nhà không? 

Bà Thoa nhìn Tiến với vẻ ngạc nhiên: 

- Có chuyện gì vậy Tiến? 

- Dạ, con hỏi Hương có nhà không? 

Bà Thoa nghiêm giọng: 

- Bác đang trông đứng trông ngồi nó đây. Tối qua cháu tới đây chở nó đi mà đến khuya vẫn không thấy về, cả nhà không ai ngủ nghê gì được vì chờ nó. Sao bây giờ cháu còn hỏi? 

Tiến điếng hồn: 

- Hương đâu còn ở nhà cháu. Hương... Hương... 

Vừa lúc ấy, Phượng, em gái của Hương từ trong nhà bước ra nói: 

- Hồi gần sáng em với thằng Hải qua nhà anh gọi cửa mà chẳng có ai ở nhà, đèn trong nhà tắt tối thui. Chị Hương từ lúc đi với anh thì đâu có về đây! 

Tiến giục: 

- Biết đâu tối qua Hương về mà khuya quá không dám gọi cửa, em thử vào phòng cô ấy xem. 

Bà Thoa cũng nói: 

- Con vào coi thử thế nào! 

Phượng chạy vào lát sau trở ra hốt hoảng nói: 

- Không có chị Hương trong đó, nhưng có bộ đồ chị ấy mặc tối qua khi đi với anh! 

Tiến nhìn thì đúng là bộ đồ Hương mặc tối qua. Anh lặng người đi… 

Bà Thoa cứ hết ngồi khóc rồi lại nằm khóc. Đã ba ngày rồi con gái bà vẫn chưa trở về. Mà Hương có thể đi đâu được chứ, khi mà từ nào đến giờ cô chưa một mình rời khỏi nhà bao giờ, cũng chẳng có bà con thân thuộc nào khác ngoài những người mà mấy hôm nay bà và Phượng đã chia nhau đi tìm mà chẳng có kết quả gì. 

Thằng Hải, đứa em út trong nhà rất thương chị Hương, nên cũng bị suy sụp theo mẹ. Nó cũng nằm vùi, nhưng mỗi khi nhớ ra điều gì, nó đều bật dậy và chạy đi tìm. Vẫn là sự thất vọng, bởi kể cả những người bạn thân, sơ gì của Hương đều quả quyết: 

- Từ ba ngày qua không hề thấy Hương tới. 

Phượng thì cứ cầm bộ quần áo Hương cởi bỏ lại trước khi biến mất và thắc mắc hoài: 

- Chị ấy mặc gì để đi mà bộ đồ này bỏ đây, trong khi quần áo khác không thiếu bộ nào? 

Nghe thế, bà Thoa càng lo sợ thêm: 

- Có khi nào... nó chết rồi không? 

Phượng trấn an mẹ: 

- Không đến nỗi đâu mẹ. Chỉ có điều... 

Chính Phượng cũng không tìm ra một nguyên nhân đủ thuyết phục để nói cho mẹ mình hết lo. 

Bà Thoa nhớ ra, vội hỏi con: 

- Con nhớ đường tới chùa Bảo Thiên không? 

- Dạ nhớ. Mẹ muốn tới đó? 

- Mẹ muốn đốt nhang cầu nguyện cho nó. Sẵn dịp mẹ hỏi sư thầy xem... 

Trong lúc hai mẹ con đang chuẩn bị để đi thì chuông điện thoại reo vang. Phượng đứng gần nên cầm ống nghe. 

Tuy nhiên, bên kia đầu dây chẳng có ai lên tiếng. Phượng cáu lên, hỏi lớn: 

- Ai vậy? 

Chẳng ai đáp. Phượng bực quá định đặt máy xuống, thì nghe có giọng ồ ồ như người bị đàm chặn ngang cổ: 

- Sẵn sàng chưa, mau đi! 

Phượng hốt hoảng quay vào gọi mẹ: 

- Mẹ ra nghe coi cái gì nè! 

Bà Thoa chạy ra cầm lấy ống nghe: 

- Alô, ai... 

Bên kia đầu dây vẫn cái giọng ồ ồ đó: 

- Tôi đây... 

Rồi cúp máy. Bà Thoa quay sang con: 

- Ai vậy? 

Phượng lắc đầu: 

- Con đâu biết. Ông ta giục mình mau đi? Nhưng ông ta là ai? 

Bà Thoa đang gấp đi nên bảo: 

- Chắc là ai đó gọi nhầm số, hoặc mấy người rảnh việc quấy phá đó thôi. 

Bà vừa định quay đi thì chuông điện thoại lại reo. Lần này Phượng vẫn là người nhấc máy lên: 

- Ai vậy? 

Vẫn cái giọng như không còn hơi nữa cất lên: 

- Mau đi... 

Cô quay sang mẹ, nói thật nhỏ: 

- Cái ông hồi nãy. 

Bà Thoa chụp lấy máy: 

- Ông muốn gì? Coi chừng…

Đầu dây bên kia nói gì đó mà tự dưng bà xanh mặt, lắp bắp: 

- Ông... ông đó sao? 

Phượng kinh ngạc: 

- Ai vậy mẹ? 

- Ba con! 

Câu nói của bà khiến cho Phượng sững sờ: 

- Sao lại là ba con? Ba chết cả chục năm rồi... 

Giọng bà Thoa lạc thần: 

- Ba con đó... 

- Nhưng... 

- Ba con bảo mình hãy mau đi ra khỏi nhà, nhưng đừng tới chùa. Bảo tới nghĩa địa nào đó... rồi cúp máy, giống như ba con bị ai đó bóp cổ không cho nói! 

- Sao má biết là ba. Người chết sao nói chuvện được? Hay là… 

- Hồn ma của ba con! 

Phượng điếng hồn: 

- Ba hiện hồn! Sao ba không nhận ra con? 

Bà Thoa nhẹ lắc đầu: 

- Làm sao mẹ quên giọng nói của ba con được, dẫu là hơn mười năm rồi... Ba con nói vậy là có ý gì đó muốn bảo chúng ta, mà sao câu nói lại không trọn vẹn? 

Chuông điện thoại lại reo lần nữa. Lần này vẫn là Phương chụp nhanh ống nghe: 

- Alô, ông… ủa, ai như chị Hương vậy? Chị Hương! 

Bà Thoa mừng lên: 

- Lạy trời, con Hương! 

- Chị Hương, chị đang ở đâu vậy, cả nhà đang lo cho chị đây… 

Bỗng Phượng khựng lại, giọng hốt hoảng: 

- Chị bị sao vậy? Ai làm gì chị vậy, chị Hương? 

Bà Thoa kinh hãi giật lấy ống nghe: 

- Hương, con ở đâu? 

Trả lời bà là một loạt những tiếng ặc... ặc như người bị bóp cổ! Khiến cho bà Thoa rú lên: 

- Con ơi, ai làm gì con? 

Máy bị cúp. Ống nghe trên tay bà Thoa rơi xuống. Bà như người mất hồn, chỉ thều thào: 

- Cha con... nó... bị... bị…

Phượng cầm lại ống nghe kề vào tai, bên kia máy chưa cúp, nhưng có lẽ bị gác hay treo lửng lơ, nhiều tiếng động rất kỳ lạ nghe như ở một nơi hoang vắng nào đó... 

Phượng nghe kỹ rồi la lên: 

- Giống như tiếng ếch nhái, ễnh ương kêu vậy! 

Bà Thoa không còn đủ sức lên tiếng nữa, bà ngồi bệt xuống sàn, giọng nhừa nhựa: 

- Cha con nó... 

Rồi bà ngoẹo sang một bên, Phượng hốt hoảng: 

- Mẹ! Mẹ! 

Nhưng bà đã ngất đi người lạnh ngắt.

Phần 2   

Hương lặp lại lần thứ hai mà vợ chồng ông bà già vẫn chưa nghe rõ: 

- Cô nói gì? Cô là... 

- Dạ, cháu là Hương, cháu là người mà anh Tòng đã rước về. 

Bà già Hai trố mắt: 

- Thằng... Tòng? Cô… cô có điên không vậy? Cô là... là... 

Ông Hai thì bình tĩnh hơn: 

- Thời buổi này lắm mưu ma chước quỷ, nhưng cô giở trò này thì chứng tỏ cô còn non lắm, không gạt được vợ chồng già chúng tôi đâu! 

Hương vẫn cố nói: 

- Cháu nói thật mà, anh Tòng cho cháu địa chỉ này, bảo cháu về... hầu hạ hai bác. Anh ấy nói sẽ cưới cháu mà. Hai bác đừng nghi ngờ... 

Bà Hai la lên: 

- Cô còn nói nữa thì tôi kêu làng xóm tới bây giờ! 

Hương rút ra một chiếc lắc đeo tay, đưa cho bà Hai: 

- Anh Tòng bảo con đưa cho hai bác làm tin. Chính anh ấy... 

Vừa nhìn thấy tín vật, bà Hai kêu lên liền: 

- Đúng là của thằng Tòng rồi ông ơi. 

Ông Hai cầm lấy và nói: 

- Hồi nó chết, chính tôi đã chôn vật này theo với nó đây mà! 

Bà Hai quay sang Hương, hỏi trong sự hoài nghi: 

- Sao cô với nó lại…? 

- Dạ, cháu mới gặp anh ấy đây, nhưng chúng cháu đã phải lòng nhau ngay. Cháu về đây là theo ý anh ấy. Anh Tòng nói, do chết sớm nên không kịp báo hiếu cho cha mẹ, nhờ cháu về ở đây và làm giúp anh chuyện ấy! 

Ông Hai bắt đầu tin: 

- Cô gặp nó trong dịp nào? 

Hương nói thật: 

- Dạ, khi cầu cơ. Anh ấy về và không rời cháu nửa bước. Cháu bỏ nhà ra đi vì anh ấy và chính anh đã đưa cháu về tận đây.... 

Bà Hai hỏi dồn: 

- Sao nó không vào nhà? Nó đâu? 

- Dạ, anh Tòng nói âm dương cách trở, nên anh ấy chưa về được. Đợi khi nào cháu được hai bác chính thức công nhận là con dâu rồi thì anh sẽ tìm cách về thăm hai bác. 

Quay sang chồng, bà hỏi ý: 

- Bây giờ ông tính sao đây? 

Ông Hai nhìn kỹ Hương, rồi nhẹ giọng: 

- Biết sao bây giờ khi nó đã muốn như vậy. Chuyện này chính tôi cũng đã mơ thấy thằng Tòng bảo như vậy.

Bà hỏi lại Hương: 

- Nhà của cháu ở đâu? 

- Dạ, ở Gia Định. Nhưng hiện giờ cháu không được phép liên lạc về nhà. Cháu bị... 

Cô muốn nói đang bị cái vong của Tòng ngăn cản, nhưng ngại không dám nói thẳng ra. 

Thấy thái độ lúng túng của cô, bà Hai đoán được phần nào: 

- Nếu chưa muốn nói thì thôi. 

Hương phấn khởi trước sự dễ dãi của bà: 

- Dạ, như vậy hai bác cho phép cháu ở lại đây phải không ạ? 

Trong khi họ chưa trả lời thì chính Hương lại thở dài: 

- Bây giờ hai bác có đuổi cháu cũng chẳng biết phải đi đâu, bởi anh Tòng nghiêm cấm cháu trở về nhà, cấm không cho ở nơi nào khác! 

Bà Hai thở dài, thổ lộ: 

- Thằng Tòng lúc còn sống tính nó ghen dữ lắm. Lúc nó và con Huệ thương nhau... 

Hương xen vào hỏi: 

- Huệ là ai vậy bác? 

- Là vợ sắp cưới của nó. Ngày ấy hai đứa nó thương nhau sáu bảy năm, chuẩn bị đám cưới thì bỗng con Huệ bỏ nó ra đi! Chỉ vì chịu không nổi tính ghen tuông quá độ của nó. Con Huệ đi và sau đó tự tử chết, sau đó Tòng cũng chết theo. 

Ông Hai cũng thở dài, nói tiếp: 

- Từ đó trong làng này ai cũng đồn rằng, hễ có cô gái nào mà dính tới thằng Tòng là sẽ không bao giờ xa được nó! Cũng may là nó đã chết, chứ không thì vợ chồng tôi sẽ mang tiếng là dạy con kiểu ghen tuông kỳ quặc đó! 

Bà trách ông: 

- Nó là con mình, sao ông cho rằng nó chết là may! 

Ông Hai tỏ ra thông thoáng: 

- Mình trong nhà nói với nhau mà. Vả lại cô này đây, chẳng hiểu số phận sao lại dính tới thằng Tòng. Tôi nói thật, tôi lo nhiều hơn mừng. 

Nhưng Hương vẫn bình thản: 

- Cháu chấp nhận. 

Bà Hai lại thở dài, rồi bà nhìn sang Hương, nói: 

- Cháu cứ ở lại đây. Nhưng bác nói trước... 

Hương phấn khởi, đi thẳng ra nhà sau, nhanh chóng hòa nhập như một thành viên trong nhà. Vợ chồng ông Hai nhìn nhau, bàn riêng: 

- Tôi tội nghiệp con nhỏ này. Chắc cha mẹ nó đau khổ lắm khi mất đứa con gái như vậy. Bây giờ ông tính sao, chứ không lẽ để thế này coi sao được. 

- Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với tụi nó, nhưng việc chứa chấp một đứa như con nhỏ này tôi e là sẽ rắc rối đây. Nhìn cung cách cũng biết nó là con nhà đàng hoàng, việc nó bị như vậy đúng là một tai nạn. Tôi tính... 

Ông trầm ngâm một lúc rồi nói đủ cho bà nghe: 

- Bà thử lén xem giấy tờ tùy thân của nó, xem nhà cửa nó ở đâu. Tôi tính… 

Bà Hai gật đầu: 

- Thì để từ từ... 

Ngay tối hôm đó, trong lúc vợ chồng ông bà chưa ngủ thì chợt nghe có ai gọi rất khẽ ngoài cửa sổ: 

- Tôi đây! Tôi là ba của con Hương... 

Bà Hai giật mình gọi khẽ chồng: 

- Ông ra coi, ba con Hương! 

Ông bước ra cửa sổ nhìn thì chẳng thấy bóng dáng ai, toàn một màu đen tối. Ông vừa định quay trở vào thì giọng nói lại vang lên đủ cho họ nghe: 

- Thằng con của ông bà nó không cho tôi nói... Ông bà hãy mau mau tìm mộ của nó, dời đi liền nơi khác. 

- Mau lên… 

Tiếng nói tới đó thì im ngang. Dường như người nói bị chuyện gì hay sợ ai đó nên nín thinh. Rồi sau đó thì chẳng còn nghe nữa... 

Bà Hai hốt hoảng: 

- Coi chừng, thằng Tòng hại người ta. 

Ông Hai gọi Hương đang ngủ ở nhà sau lên và hỏi: 

- Ba cháu thế nào? 

Hương hơi bất ngờ, đáp nhanh: 

- Dạ, ba cháu đã chết rồi! 

Hai ông bà giật mình: 

- Vậy sao mới rồi… 

Ông đưa tay ngăn bà lại: 

- Đừng nói, để tôi... 

Ông quay sang Hương, hỏi thật nhỏ: 

- Mồ mả ba cháu chôn ở đâu? 

- Dạ, ở chùa Bảo Thiên. 

Bà Hai kêu lên: 

- Chùa Bảo Thiên! Thằng Tòng cũng chôn ở đó. 

- Dạ, ba cháu.... 

Cô vừa nói tới đó thì bỗng kêu lên một tiếng đau đớn bởi một bên má hình như vừa bị ai đó tát một cái. 

Ông Hai nói riêng với vợ: 

- Thằng Tòng nó ngăn không cho con nhỏ nói đó! 

Ông bấm tay vợ và ra dấu cho Hương ở yên đó, không nói gì. Khi ra tới ngoài ông cũng chẳng nói lời nào, kêu xe đi mà chẳng biết đi đâu. 

Đến khi xe ngừng trước chùa Bảo Thiên, bà Hai ngạc nhiên: 

- Ông tới đây làm gì? 

Không nói, ông kéo tay bà đi thẳng ra sau chùa, nơi có khoảng đất trống dùng làm nghĩa trang, có khá nhiều mộ. Đến thẳng ngôi mộ xây đề dòng chữ trên mộ bia: Nguyễn Văn Tòng, ông bảo: 

- Tôi đoán không sai mà, bà thấy cái cây lớn tàn che khuất cả ngôi mộ kia không? 

Bà Hai nhìn và giật mình: 

- Năm ngoái vào tiết Thanh minh, mình còn thấy cái cây này nhỏ xíu. Thấy nó có bông đẹp nên tôi không cho đốn, không ngờ cây mau lớn quá, giống như cây trồng năm mười năm không bằng! 

Ông Hai chép miệng: 

- Đúng là không nên trồng cây lớn gần mộ. Rễ của nó có thể ăn xuống quan tài, không nên! 

Ông nhìn kỹ một lúc, vừa định vào chùa hỏi gì đó thì đã nghe giọng hiền từ của vị sư trụ trì: 

- Chào ông bà tới thăm mộ. Mô Phật, bần đạo mấy hôm nay có ý muốn tìm người nhà của ngôi mộ này, cũng chỉ vì cái cây đó. 

Quay lại xá vị sư thầy, ông Hai nói liền: 

- Con đang tính vào chùa xin ý kiến thầy để bứng cái cây này đi, thì may có thầy đây... 

Sư thầy bảo: 

- Một khi cây lớn nằm giữa hai ngôi mộ thì phải bứng ngay, bởi nhiều khi rễ nó ăn phạm vào mộ nào đó thì không nên. 

- Bạch thầy, con sẽ làm ngay. Sẽ bứng cái cây này xin thầy cho phép. 

Vừa khi ấy có tiếng người xôn xao sau lưng, sư thầy quay lại, lên tiếng: 

- Thiện tai, thiện tai! Tôi mới có ý nhắc tối qua thì bà cũng tới! 

Người vừa tới chính là bà Thoa, mẹ của Hương. Bà cùng đi với Phượng. Thấy có ông bà Hai, bà Thoa định hỏi gì đó nhưng chưa tiện lên tiếng thì sư thầy đã hỏi: 

- Đã tìm được cô Hương chưa? 

Bà Thoa mếu máo: 

- Dạ bạch thầy, chưa. Hôm qua nó có điện về, nhưng mới nói được mấy tiếng thì như bị ai đó cấm không cho nói. Con đang lo nên định tới đây hỏi ý thầy... 

Trong lúc mẹ nói chuyện với sư thầy thì Phượng ngồi xuống ngôi mộ bên cạnh mộ của Tòng, đưa tay bứt những cọng cỏ mọc che mộ bia. Cô bảo mẹ: 

- Mộ của ba hình như bị nứt một bên nè mẹ. 

Vừa nghe Phượng nói, ông Hai hỏi liền: 

- Cô đây là gì của cô Hương? Có phải cô Hương có cái nốt ruồi bên mép trái không? 

Phượng ngạc nhiên: 

- Sao bác biết chị cháu? 

Bà Thoa cũng hỏi: 

- Ông biết con gái tôi trong trường hợp nào? Đúng là nó có nốt ruồi trên mép. Nó còn... 

Bà Hai buột miệng nói: 

- Nó đang ở nhà tôi! 

Bà Thoa tròn mắt ngạc niên: 

- Có đúng không? Lạy trời... 

Ông Hai đột ngột bảo: 

- Tôi nghiệm ra rồi, mộ này của thằng Tòng, còn mộ này của ba con Hương. Như vậy nguyên nhân là bởi cái rễ cây này! 

Ông không nói gì thêm, hỏi sư thầy mượn cây cuốc của nhà chùa, rồi tự tay ông cuốc xuống chỗ gốc cây. Càng đào sâu thì rõ ràng cây có rễ rất dài, chia làm hai nhánh. Một rễ ăn sâu xuống ngay áo quan của Tòng, đâm thủng ván hòm, xuyên vào trong. Còn nhánh kia thì ăn qua ngôi mộ của ba Hương, và lạ lùng làm sao, cả cái rễ dài và to ấy nằm vắt ngang qua quan tài, rồi lại vòng xuống bên dưới trổ đầu rễ trở lên, chẳng khác nào cỗ quan tài bị trói, cột chặt! 

Vừa nhìn thấy rõ cảnh đó, ông Hai quay sang sư thầy xá một xá rồi nói: 

- Con không tin dị đoan, nhưng những gì được nghe từ nào đến giờ thì xin quả quyết rằng, chính hai cái rễ cây này đã khiến cho hai vong hồn nằm ở hai ngôi mộ này liên hệ với nhau. Thằng con trai tôi nhỏ, nhưng nó lại làm cái việc trói chặt ông anh đây. Bởi vậy... 

Bà Thoa nói nhanh: 

- Bởi vậy lâu nay vong hồn ông nhà tôi như bị ai đó bóp cổ, không cho nói, không làm theo ý muốn! 

Ông Hai lo sợ: 

- Bà vào chùa xin sư thầy một bó nhang ra đây, tôi sẽ cúng vong họ. 

Sư thầy chừng như không muốn chứng kiến chuyện cúng vái hồn ma, nên ông niệm Phật rồi quay bước vào trong. Ở ngoài này, sau khi vợ đem bó nhang ra, ông Hai đốt lên và khấn: 

- Con sống khôn thác thiêng, vốn tính con là hiền lành, đâu muốn hại ai. Chỉ vì con hận con vợ trước bỏ con mà đi nên con muốn trả thù những phụ nữ khác. Nhưng con nên nhớ rằng, người như cô Hương đó không có thù oán gì với con, sao con nỡ hại đời cô ấy. Người ta còn có cha mẹ, gia đình, vậy hãy để cô ấy tự do... 

Ông vừa vái xong thì cầm nhanh cây búa lên, dang thẳng tay chặt phụp xuống hai cái rễ cây, làm cho nó đứt lìa khỏi thân cây! Lạ thay, từ chỗ vết chặt đứt có những giọt máu chảy ra, chẳng khác chặt phải thân người. 

Đột nhiên ông Hai ngã bật ra ngoài, mặt mày trắng bệch! Bà Hai hoảng hốt: 

- Kìa, ông! 

Nhưng ông Hai xua tay: 

- Tôi không sao. Không sao... 

Bà Thoa cũng trong tình trạng như vậy, nhưng bà vẫn còn tỉnh táo, bảo con gái: 

- Con đưa má về nhà. Má có linh tính như con Hương nó đã về. 

Linh tính của bà Thoa không sai. Lúc họ vừa xuống xe thì đã thấy bóng Hương trong nhà. Cô ngơ ngác: 

- Má đi đâu vậy? Mà sao con lại về được đây? 

Ôm con vào lòng, bà Thoa nức nở khóc: 

- Vậy là tốt rồi! Để rồi mẹ sẽ nói cho nghe. Đi tắm rửa đi, rồi làm ngay mâm cơm cúng ba con! 

Phượng phấn khởi lắm: 

- Tiền hung hậu kiết chị Hương ơi! 

Hương cố hỏi mà mẹ và em gái không chịu nói. Lát sau bà Thoa trấn an: 

- Má nói vui thì cứ vui. Từ nay con không còn phải lo sợ gì nữa. 

Hương cũng cảm thấy người nhẹ nhõm, cô siết chặt tay mẹ và em, vừa hỏi: 

- Thằng Hải đâu? 

- Tội nghiệp thằng nhỏ, nó thương con quá nên một mình về quê tìm rồi. Để má nhắn cho nó về. 

Hôm sau… 

Và những hôm sau nữa... Cuộc sống gia đình bà Thoa yên ổn. Hương ngủ ngon giấc và hầu như không còn bị ám ảnh bởi chuyện lạ lùng kia nữa. Bà Thoa lên kế hoạch dời ngôi mộ của chồng đi nơi khác. Bởi dù sao bà cũng còn rùng mình mỗi khi nghĩ tới hai cái rễ cây nọ...

LÒ RÈN BÊN BỜ SUỐI 

Tám Được quay tay búa mỗi lúc một nhẹ dần. Ngọn lửa trong lò đang cháy đỏ và vài mảnh than sáng rực chực rơi ra. Trời đã về chiều. 

Sau một ngày làm việc cật lực, ông Tám đang lơi tay búa và sắp kết thúc công việc trong ngày. Thường khi ông chỉ làm việc tới giữa trưa là nghỉ, lúc này phải làm dồn nhiều việc do bà con trong làng đang vào mùa khai khẩn, cày cấy nên lò rèn của ông - cái lò rèn duy nhất trong vùng - phải đáp ứng nhiều hơn nào cuốc, xẻng, dao, rựa... 

Một năm có một mùa làm rẫy nên nghề rèn dao, cuốc rựa.. phải biết đón lấy cơ hội... lượm tiền. Hà hà… 

Ông Tám hả hê nhìn lại vật dụng vừa gò lại xong, cho hết thảy vào nước ngâm. Ngày mai, nếu có thời giờ ông sẽ gọt lại mấy con dao, rựa rồi mài lại. Ngày mốt giao hàng. Bây giờ nghỉ được rồi. Nhưng vì sao ông Tám lại chọn bờ suối này làm nơi trú ngụ và mở lò rèn? 

Vì ở đây là ngã ba suối nên liên lạc với cánh đồng bậc thang ngoài kia mà cũng rất gần với mé rừng cho nhiều cây tốt giúp ông đốt lò. Nhưng có một điều ông Tám chưa hài lòng là con suối thường làm lũ lụt dâng tràn và ổ nước xi xả xuống cánh đồng phía cuối làng gây nhiều tổn thất cho bà con. Làm sao cản được nước lũ? 

Ông Tám lấy áo quần ra suối tắm. Ông men theo ghềnh đá chọn chỗ nước chảy nhẹ nhất để ngồi gột rửa bụi đất trên người. Con suối nước chảy khá mạnh. Là ngã ba nên nước từ hai nhánh suối chảy vào tạo thành dòng chảy rất xiết. Mấy bữa nay mưa trên nguồn mù cả đất trời nên nước tràn xuống dữ dội tạo thành những cơn lũ nhỏ tung bọt trắng xóa ghềnh đá. 

Rồi thì mặc cho dòng nước cắt ngang vỗ mạnh vào ghềnh đá, ông Tám Được vẫn bơi ra giữa dòng lặn hụp thỏa chí. Cả ngày cởi trần trùng trục, da thịt đỏ theo lửa trong lò, giờ được ngâm trong dòng suối lạnh... ông Tám thấy khỏe vô cùng... 

- Mình cũng giống cây rựa kia... ha ha... Nung cháy đỏ rồi được ngâm trong nước. Có vậy mới chắc da chắc thịt… 

Trời sập tối. 

Ông Tám Được kịp bắt cho mình một nồi cơm trên đám than hừng hực cháy. Ông Tám chỉ nấu một lon gạo cho mỗi mình ông ăn thôi. Hôm nay, thằng nhỏ phụ việc xin nghỉ để xuống làng đi lễ lạc gì đó. Cái chòi và lò rèn còn mình ông Tám bên ngã ba suối và cánh rừng với nhiều cây to đang chìm dần vào bóng tối. 

- Mình còn một ít khô... Hà hà... 

Ông Tám thắp đèn dầu cho cái chòi sáng lên và lấy từ vách nhà hai miếng khô cá thật ngon. 

Bữa cơm chiều đạm bạc của ông chủ lò rèn chỉ có cá khô và vài ly rượu trắng thơm lừng... 

Lúc con trăng rừng lên cao ngang ngọn đồi phía làng thì ông Tám đi ngủ: 

- Ái chà... cái thằng phụ việc giờ này đang xem phim dưới làng. Mệt quá rồi... đi ngủ thôi. 

Ông Tám trải đệm nằm cạnh cửa vào căn chòi bé nhỏ của mình với tấm phên được chống lên cao và hình như chẳng bao giờ ông hạ nó xuống... Tấm vải dù kéo ngang ngực ông. Vậy là ông ngủ ngon lành... 

Ngoài bờ suối, bế lò hãy còn đỏ lửa. Chai rượu đã vơi, mấy miếng khô vụn còn nằm trên dĩa… 

Sương xuống nhiều làm ánh trăng cũng bạc trắng như sương... 

Một cái bóng trắng từ vạt rừng bên kia mò qua gặp cái bóng trắng khác từ lòng suối mò lên. Cả hai bước tới chòi lá ông Tám Được. Dưới ánh trăng chỉ thấy họ là hai người đàn ông tuổi khoảng ngoài ba mươi, tóc dài quá vai, râu ria bờm xờm. Họ là cư dân trong vùng hay lâm tặc? 

- Còn chút rượu này. Mình nhậu chia tay nhé? 

- Có vài miếng khô hà... Lão già Tám này “phá mồi” chứ nhậu gì? Hà hà… 

Hai bóng trắng ngồi xếp bằng đối diện nhau ở giữa là chai rượu còn lưng chai và dĩa khô cá. Lửa trong lò còn cháy hắt ánh sáng lung linh ra bờ suối trong veo. Ánh trăng bị che bởi đám mây vừa kéo ngang bầu trời. 

- Mày đừng nói lão già Tám phá mồi. Ông ấy nướng khô ăn cơm mà. Ông ấy làm vài ly cho ấm bụng thôi. Ái chà... mày rót rượu đi chứ... 

- Ừ! Rượu ngon quá chừng… 

- Ngon như thứ rượu mày uống năm ngoái rồi chui vào bánh xe be kéo gỗ không? 

- Mày nhắc chi chuyện đó... ớn quá chừng. Chết là hết... chuyện! 

- Hết sao được. Mày chết cũng như tao chết chỉ là một chuyện. Còn mày sắp đi, tao cứ ở đây canh con suối này hoài là chuyện khác... 

- Ừ phải. Nhưng mà, ma da này.. 

- Nhưng cái gì... Uống đi. Tao chờ... khát nước rồi đó thằng... ma rừng rú! 

Cái bóng trắng kia cười nghiêng ngả: 

- Ừ! Tao là ma rừng còn mày là ma da. Hai đứa mình đều ma chứ có khác gì đâu! Tao... uống đây! 

Hai bóng trắng uống lai rai vài ly, im lặng và cùng nhìn vầng trăng sáng vừa nhô ra khỏi đám mây. Một người hỏi: 

- Bữa nay... mùng mấy? 

- Mười sáu rồi chứ còn mùng gì nữa. Trăng sáng trưng kia kìa! 

- Mai mười bảy… mày được chuyển xuống dưới? Rồi chừng nào... đầu thai? 

- Mày hỏi... chuyện tao chưa biết không hà? 

- Hì hì... 

- Tao nói cho mày mừng nha! Hồi sáng tao nhận lệnh chuyển đi, có hỏi thăm thằng ma đưa văn thư, nó nói tuần sau ngày hăm bốn có hai nhân mạng tới đây... chết ở cái suối này để thế chỗ cho mày đó ma da. Chắc mày cũng sẽ chuyển xuống dưới! 

- Vậy sao? Mừng quá chừng. Tao ở đây sáu tháng rồi… buồn quá. Với lại... gần cái lò rèn của lão Tám... nóng... muốn chết. 

- Ủa! Mày chết rồi mà! 

Ông Tám ở rừng mấy năm nay gặp ma hoài mà nào có sợ gì? Có đêm ông thấy cả bầy ma kéo đi lũ lượt từ bên kia suối ngang qua cánh rừng này đi thẳng lên rẫy. Họ đi đâu vậy? Thì ra bọn ma đó đi ra rẫy mót lúa hay đào trộm khoai củ gì đó. Ma đói mà. Không ai cúng kiếng nên cả bọn lang thang... 

Có lần ông thấy hai con ma ngồi tâm sự ngoài suối. Trời khuya lạnh buốt mà họ vẫn tình tứ, ông kêu mấy tiếng thì hai đứa ma tình nhân đó biến mất. Chắc tụi nó... mắc cỡ. 

Hai bóng trắng vừa uống rượu, ăn khô của ông Tám Được chính là hai con ma mà ông Tám đã quen. Một thằng thành ma vì uống rượu say lái xe honda chui đầu vào lòng xe be kéo gỗ. Xe cán nát óc. Còn thằng ma da kia chết đuối dưới con suối hung dữ này vào mùa lũ cách nay sáu tháng. Ông Tám hết sức cố gắng cứu nó... mà cứu không được. Đó là thằng ma... đi tìm vàng. Nó chết dưới suối rồi trở thành ma da. 

Lần đó... 

Mưa ba ngày ba đêm nên nước đầu nguồn đổ về khá mạnh. Nhìn nước đỏ ngầu đầy xác lá mục ông Tám lo ngại cho mùa vụ dưới làng. Lũ mạnh vậy cuốn trôi hết rau, khoai, ngập úng cả cánh đồng. Dân làng sẽ thiếu cái ăn đây. 

- Cầu cho ông bớt mưa. Mưa vậy... làm ăn gì cũng khó. 

Ăn cơm xong, thấy trời còn mưa, ông Tám định nằm nghỉ lưng một lát thì thằng nhỏ phụ việc lò rèn kêu ông hỏi: 

- Ông Tám ơi... vùng này có mỏ vàng hả ông Tám? 

Ông Tám với tay lấy cây quạt, quạt nhè nhẹ đáp: 

- Có! Mà tuốt bên kia đồi Chuối lận. Mày tính bỏ tao đi đào vàng hả? 

Thằng nhỏ chừng mười sáu tuổi, nó cười hề hề: 

- Ý không có đâu ông Tám. Con thấy ở dưới làng người ta tụ tập đông lắm. Họ nói đi đào vàng... trong núi. 

Ông Tám chép miệng: 

- Trong núi làm gì có. Vàng ở lạch suối đầu nguồn bên kia đồi. Tìm có vàng thì ham lắm nhưng rồi chia nhau, giành nhau chém giết lẫn nhau chứ có hưởng một mình được đâu. Nghề đó... khốn nạn lắm. Sinh mạng mỏng manh. 

Nghe nói vậy thằng nhỏ phụ việc không trả lời. Nó im lặng suy nghĩ lời ông Tám nói. Ông Tám là cha chú nó, là thầy dạy nghề cho nó. Ông nói chắc chắn đúng. 

- Nhưng mà... - Nó hãy còn tò mò muốn biết thêm chuyện tìm vàng. - Mưa vậy trên đó người ta tìm vàng được không ông Tám? 

- Hên xui. 

- Là sao ông Tám? 

- Tìm ngay chỗ có vàng thì hưởng. Còn bằng không thì... thôi! 

Im lặng một lát sau, ông Tám nói thêm: 

- Cái đó là trời cho ai nấy hưởng. Còn cơm mày ăn, quần áo mày mặc, tiền mày xài... là của tao cho mày. Tao cho mày vì mày phụ công chuyện với tao. Vậy thôi. Đừng hỏi nữa tao ngủ chút xíu coi... cái thằng lộn xộn! 

Trời dứt mưa lúc xế trưa… 

Thằng nhỏ đặt vài thân củi to vào lò tiếp tục làm công việc bơm ống thụt. Ông Tám dặn phải luôn giữ lửa trong lò có độ nóng. Xứ này là rừng có nhiều cây không lo tốn củi. 

Những tia lửa dày, mạnh mẽ phun lên ào ào tạo thành những tiếng khè khẹt liên hồi theo nhịp bơm hơi của thằng nhỏ. Lò lửa nóng khiến thằng nhỏ thấy ấm trong người rồi chẳng bao lâu mồ hôi nó tuôn ra ướt đẫm cả người... 

Đang làm công việc thường ngày của nó, chợt thằng nhỏ thấy bên mé rừng có một người đi ra trên vai vác một cái bao coi bộ nặng. Đó là một người đàn ông khoảng ngoài ba mươi tuổi. Anh ta vác cái gì vậy? 

- Ê thằng nhỏ… - Người đàn ông kêu nó. 

- Cái gì chú ơi! - Thằng nhỏ nói. 

Người đàn ông dò từng bước đi qua ghềnh đá để đến cái chòi lá của ông Tám lò rèn. Trên vai anh ta là quần áo, dao rựa, cây cuốc nhỏ và một ít lương thực. Anh ta đi tìm vàng miệt trên, sẵn đường qua đây, ghé hỏi chuyện có ý hỏi thăm đường đi nước bước... 

Không may cho người tìm vàng. Vàng chưa thấy mà cái chết cận kề. Bàn chân anh ta đặt lên bậc đá đầy rêu xanh nên trượt ngang. Vậy là anh ta chới với mấy giây rồi té xuống suối ngay ngã ba với con nước rất mạnh tràn qua ào ạt... Bao đồ nghề bị nước cuốn trôi cùng với người chủ của nó... 

Thằng nhỏ hốt hoảng la lên: 

- Ông Tám ơi có người té suối! 

Ông Tám Được vừa chợp mắt nghe thằng nhỏ phụ việc la hoảng vội bật dậy liền. Ông lao ra suối, chạy theo cái bao và một con người đang bị nước cuốn trôi đi. Bất kể hiểm nguy ông phóng xuống dòng nước đang chảy xiết, vươn hai tay bơi theo thật nhanh… 

Ngay ngã ba suối là vùng nước xoáy dữ dội. 

Ông Tám không nhìn thấy người bị nạn đâu cả. Ông lo trong bụng: 

- Đâu mất rồi? Trời ơi... có nước chết! 

Ông lao qua bên này, bơi qua bên kia để mong cứu người đàn ông vô phước bị nước cuốn kia. Chắc anh ta không biết lội, chắc anh ta bị va chạm lúc té xuống suối nên bất tỉnh, rồi thì... 

Ông Tám trồi lên đưa tay vuốt nước trên mặt rồi quay lại lò rèn lắc bàn tay với thằng nhỏ phụ việc. Thằng nhỏ hiểu ý lắc tay lại có nghĩa là nó cũng không thấy người đàn ông kia đâu cả. 

- Thôi tiêu rồi... 

Ông Tám Được bỏ cả buổi chiều lặn hụp dưới suối, bơi tuốt xuống dưới thật xa để tìm kiếm mà vớt xác người xấu số kia lên. Nhưng ông chỉ mò được cái bao dụng cụ đào vàng của anh ta mà thôi. Đúng là chưa tìm được vàng đã thiệt thân. 

- Hên xui! Thằng này xui tận số luôn… 

Ông Tám rời con suối, leo lên bờ đi thẳng vào chòi. Vài phút sau ông trở ra với ba cây nhang trong tay. Ông thắp nhang cắm bên bờ suối với lời khấn chân thành: 

- Tôi chưa biết anh là ai. Thấy anh gặp nạn mà không cứu được thật cũng ái ngại. Anh có chết thiêng thì cho tôi thấy xác anh vướng lùm cây nào, bờ đá nào để tôi đưa lên chôn cất tử tế. 

Đêm hôm sau, ông Tám Được thấy anh chàng tìm vàng về báo mộng. Và ông tìm được xác anh ta đem chôn ở mé rừng cạnh con suối cách cái chòi ông vài trăm mét. 

Lâu lâu ông Tám thấy anh ta về, đứng xớ rớ trước lò rèn rồi bỏ đi. 

Anh ta trở thành ma da “thường trú” ở con suối này. Và con suối trở nên dữ dằn, dòng chảy xiết, nước vỗ vô bờ ì ầm. Làm như thằng tìm vàng chết tức tưởi nên nó khuấy động dòng nước cho đã cơn tức tối. 

Từ ngày đó tới nay là sáu tháng. Thỉnh thoảng thằng “ma tìm vàng” đến ngồi bên bờ suối gục đầu giữa hai gối rầu rĩ. Có lẽ nó tiếc cho giấc mơ làm giàu trên bãi vàng đồi Chuối đã vượt xa tầm tay nó? Hay nó nhớ quê? 

Sau này khi hai người thân thiện nhau thì nó ứng mộng nói cho ông Tám biết nó phải ở lại con suối này rất lâu, lâu cho đến khi có ai đó chết ở con suối này thay thế cho nhiệm vụ ma da của nó mới thôi. Nó chờ đợi ở ông Tám hay thằng nhỏ phụ việc là người thay thế nó. 

Nhưng cả hai đều sống phây phây... 

Có lần thằng ma da đến uống rượu với ông Tám, lúc ngà ngà say nó nói lời cám ơn ông Tám đã cố mà cứu nó, nhưng số phận của nó đến đó là hết cho nên ông Tám có ráng cách mấy cũng uổng công: 

- Sống chết có số ông... già ơi. Tôi... biết ông sống dai lắm. Phải chi ông... thay thế cho tôi thì hay lắm. Ông là người nhân đức... 

- Tao sáu mươi mấy rồi. Có đi cũng chẳng sao. Nhưng mà cái số tao chưa tới. 

- Ừ! Tôi… cũng biết vậy. 

Thằng ma da thở dài lúc con trăng ngả hẳn về Tây. Nó uống tiếp một hớp rượu nữa rồi đi. 

Nó xuống suối... 

Ma thì có gì lạ? 

Nhưng lạ là lần này ông nằm ngủ chập chờn nghe hai thằng ma nói chuyện mà thấy nổi gai ốc. Sẽ có hai nhân mạng đến đây, chết ở cái suối này để thế chỗ cho thằng ma da đi về cõi âm? Vậy hai người sắp chết ở con suối này, ngày hăm bốn sắp tới là ai? 

Thằng nhỏ phụ việc trở lại lò rèn vào sáng hôm sau. Nghe ông Tám kể chuyện tối qua ông thấy hai thằng ma, nó rùng mình: 

- Thấy ghê vậy ông Tám? Ủa mà sao lúc con... ở đây... con không thấy... ma hả ông Tám? 

- Mày nặng... bóng vía quá làm sao thấy? 

- Nặng bóng vía là sao ông Tám? 

- Mày biết vậy thôi đừng hỏi lòng vòng. Coi đốt lò đi. Bữa nay còn một mớ đồ nữa đó... 

Ông Tám nói xong thì bỏ đi. Ông không bỏ đi cái thằng này còn hỏi tiếp nữa. Mệt. 

Ông Tám ngồi gọt dao rựa ngoài khoảng đất trống mà suy nghĩ riết. Thằng ma rừng nói với thằng ma da sẽ có hai mạng đến thay thế vị trí cho thằng ma da vào ngày hai mươi bốn. Hai mạng đó là ai? Không lẽ là ông và thằng nhỏ phụ việc? Nếu là ông thì chẳng ngại gì. Tội nghiệp thằng nhỏ còn quá trẻ. Nó chết uổng lắm. 

Ông Tám tiếp tục suy nghĩ. Dân làng chỉ đặt hàng ông làm lúc ông xuống chợ. Rựa cỡ nào, dao cỡ nào, lưỡi cuốc nào đều được người đặt hàng ghi sẵn cùng với tên họ. Ông cứ làm xong là xuống chợ giao hàng. Còn người tìm vàng lúc này không đi qua đây nữa vì đã có con đường tắt từ chợ lên thẳng đồi Chuối. 

Vậy thì vùng này còn ai léo hánh tới đâu mà có tới hai mạng người? Thằng nhỏ vô tư chẳng biết mối lo canh cánh trong lòng ông Tám. Ngày hai mươi hai tới. Còn hai ngày nữa thôi… 

Giữa trưa ông Tám kêu thằng nhỏ giao việc: 

- Mày vác mớ dao rựa đó xuống chợ giao cho ông Năm bán tạp hóa. Có tờ giấy đây. Dặn ông Năm giao cho khách giùm tao. Tiền bạc tính sau nghen... 

- Dạ. 

- Rồi mày... 

Ông Tám đang lựa lời nói khéo. 

- Sao ông Tám? 

- Mày ở chơi dưới đó hết ngày hai mươi lăm hãy lên. Tao mắc công chuyện phải đi vài bữa. 

- Ông Tám đi thì con lên đây coi chừng chòi... 

Ông Tám xua tay: 

- Không được! Lúc lên ghé chợ cõng một bao gạo, lấy một ký khô, một chai dầu ăn... Nói ông Năm... cho trừ vào tiền dao rựa giao khách hàng ở dưới. Dư thiếu tính sau. 

- Tao dặn có nhớ không? 

Thằng nhỏ gật đầu lặp lại: 

- Ở chơi sáng hai mươi sáu lên. Cõng gạo, xách khô, chai dầu ăn con két… 

Ông Tám chỉ cái bao ở gốc cây: 

- Đi đi… Tao dặn phải nhớ không được trái ý của tao nghe chưa! 

Thằng nhỏ vác đồ đi liền. Vừa đi nó vừa lấy làm lạ về cử chỉ của ông Tám: 

- Mấy bữa nay thấy ông Tám kỳ kỳ... 

Cả ngày hai mươi bốn ông Tám chẳng làm gì cả. Ông nấu cơm ăn xong thì ngồi trước chòi hút thuốc. Nhìn ống bể lạnh tanh ông thấy buồn. Ngọn gió rừng lào xào và tiếng suối reo làm lòng ông khó chịu. Trong đầu ông cứ xoay mãi câu hỏi: Hai mạng người hôm nay là ai? Là ai? Hay là chính ông và một ai nữa sẽ tới đây theo lời xúi giục của thần Chết? 

- Không phải mình. Thằng ma da nói sống chết có số. Mình chưa tới số chết sao được? 

Ông Tám vấn điếu thuốc bập lửa đốt hút chơi. Sống ở đây lúc nào cũng có lửa lò rèn ấm áp đã quen, bữa nay không đốt lò thấy thiếu thiếu. Phải hút thuốc bù vào. 

Uống miếng rượu cho ấm. Phải rồi. Ông Tám đứng dậy bước vào chòi rót rượu. Ông tìm chai rượu mấy bữa trước còn chút ít. Xong ông tìm cái ly. Loay hoay tìm kiếm trong chòi một hồi ông Tám mới có được gói đậu phộng rang, thằng nhỏ phụ việc mua ăn còn bỏ lại nửa gói. 

- Vậy được rồi... 

Ông Tám thích thú đem hết ra ngoài dự tính sẽ lai rai chơi một mình bên bờ suối. Nhưng khi ông bước ra thì ông liệng hết rượu, đậu, cái ly... hốt hoảng la lên:

- Đừng có xuống suối... 

Ngoài kia có một cô gái đang lần bước theo ghềnh đá mò xuống suối… Ông Tám chạy nhanh ra, miệng kêu: 

- Ê! Có nghe không… Đừng... đừng... 

Ông chưa nói hết lời thì cô gái nọ trượt chân ngã nhào xuống suối. Dòng chảy lúc này đang mạnh, chỉ trong tích tắc cô ta đã bị nước cuốn trôi, hai cánh tay đưa lên chới với trong ngàn bọt nước sủi lên đỏ ngầu... 

Ông Tám lao xuống suối đón đầu kịp nắm cánh tay đó. Thằng ma da dưới suối trồi lên nắm chân cô gái nọ ghì xuống. Ông Tám cảm thấy lực kéo đó biết rõ thằng tìm vàng đang cố thoát kiếp ma da ở con suối này. Ông bậm môi dùng hết sức lôi, dùng hai chân đạp nước thật mạnh để nhanh chóng vào bờ. Ông hét lên một tiếng: 

- Để tao cứu người ta chứ? 

Thằng ma da có lẽ nghe tiếng hét của ông già lò rèn giật mình buông lơi sức kéo. Nhờ vậy ông Tám đạp nước thật mạnh mới đưa được cô gái vào bờ, đẩy lên ghềnh đá. Vậy là thoát. 

Cô gái trẻ mặt mày xanh lét. Cô lạnh run hay thoát chết mà vẫn còn run? Ông Tám đưa cô ta vào chòi rồi lấy khăn đưa cho cô gái. Lúc này ông Tám mới nhìn thấy cái bụng cô ta tròn vo. Thì ra cô gái này có thai. Ông thở khì: 

- Đúng là... hai mạng người! May mà mình cứu kịp... 

Ngoài con suối tự nhiên nước chảy rất mạnh. Bọt nước trắng xóa tung lên ghềnh đá. Tiếng nước gầm gừ dữ dội ầm ì, ầm ì liên tục... Ông Tám bước ra ngoài cảm được một luồng gió lạnh thổi tạt vào mặt mình. Ông thì thào: 

- Tao... tao... xin lỗi! 

Đưa cô gái về chợ xong, ông tạt qua hàng tạp hóa. Ông muốn mua ít đồ hàng mả cúng thằng ma da sẵn dịp kêu thằng phụ việc về luôn. 

- Sao ông Tám dặn sáng hai mươi sáu con lên. Bây giờ kêu lên? 

Thằng phụ việc mê chơi vừa nhìn ông vừa hỏi. 

- Mày hỏi lung tung chi vậy. Nè... xách giỏ đồ cho tao. Về! 

Đồ hàng mả ông Tám mua cho thằng ma da là nhang đèn, mấy bộ quần áo, hai xấp vải, vàng mả, tiền bạc và một con ngựa, một cái thang... Tất cả đều làm bằng giấy. 

Có hai món là thật là chai rượu nếp, hai con cá khô. 

Thằng nhỏ với tay lượm bịch đậu phọng rang bỏ luôn vào giỏ mây... Hai ông cháu trở lên lò rèn. 

Hình ảnh cô gái trẻ có thai làm ông bàng hoàng cả người. Cô ta có thai với ai mà phải đi trầm mình tự tử vậy? Cô quyết đi tìm cái chết nhưng khi cô trượt chân té xuống dòng nước thì hốt hoảng giơ tay lên níu kéo cuộc sống. Con người ta ai chẳng muốn sống. Chết là do số thôi. Trước đây ông Tám cũng từng cứu thằng ma da mà không cứu được. Tại số nó phải chết. Còn cô gái thì chưa... dù cho thằng ma da cố kéo chân cô gái để mong được hóa kiếp. 

- Mình làm thằng ma da thất vọng. Mình cải... số Trời? 

Ông Tám nói lầm bầm trong miệng làm thằng nhỏ phụ việc nhìn ông chẳng hiểu gì cả. 

Đêm đó ông Tám bày áo quần, vải vóc, dựng con ngựa bên cạnh xấp tiền, vàng... ngoài ghềnh đá. Con suối bỗng dưng dịu lại. Chắc thằng ma da đang tò mò muốn biết ông Tám đang làm cái gì. 

Ông Tám đốt hai cây đèn cầy, thắp nhang vái với lời lẽ êm ái nhẹ nhàng của người biết lỗi: 

- Ma da... Mày lên đây nhận chút quà mọn của Tám Được này. Rồi uống rượu... chia tay với tao. Đêm nay mày đi mà. Phải không? Mày đừng trách tao vô tình với mày. Tao làm chuyện cải mệnh trời vì tao không thể thấy người ta sắp chết mà không cứu. Nếu tao vì mày mà bỏ đi thì tao không còn là Tám Được nữa, tao không còn là... thằng người nữa. 

Ba cây nhang cắm dưới đất trong chốc lát tàn nhang cong lại. Ông Tám biết thằng ma da đang nghe ông nói và bằng lòng với lý lẽ của một con người ngay thẳng. Ông bày rượu ra, kêu thằng nhỏ đem khô nướng ra rồi rót rượu mời thằng ma da chắc đang lẩn quẩn đâu đây: 

- Uống vài ly gọi là tiễn biệt nhé ma da. 

Ông Tám uống trước, rót tiếp ly khác đặt xuống đất. Chiếc ly rung nhẹ. Rượu còn nguyên nhưng thằng ma da đã uống một hớp coi như nó chấp nhận lời ông chủ lò rèn. 

- Tao gửi mày tiền, vàng, quần áo, vải vóc và... con ngựa để mày đi về cõi âm cho nhanh. Hình như mày cũng bị trễ vài tiếng đồng hồ rồi? Thôi, xuống suối lấy hành lý của mày để đi cho kịp giờ. 

Một mình ông Tám uống hết ba ly rượu gọi là đưa tiễn thằng hàng xóm ma da. Xong, ông đốt hàng mả, kêu tên thằng ma da để giao nhận. Ông đốt luôn con ngựa giấy. Và động tác sau cùng là ông dựng chiếc thang giấy từ mép ghềnh đá bên bờ suối lên bờ. Vừa đốt chiếc thang giấy, ông Tám vừa nói như lời cầu xin các đấng thiêng liêng cõi trên, cõi dưới: 

- Thằng ma da tới lúc phải đi. Lẽ ra có hai nhân mạng thay thế cho nó ở vị trí ma da con suối này. Nhưng tôi đã cứu sống hai mẹ con người ta. Nay xin các vị khuất mặt khuất mày tha thứ và giúp cho thằng ma da được dùng chiếc thang giấy này đi vào cõi khác, nhanh chóng siêu thoát. 

Ngọn lửa cháy lung linh liếm dần chiếc thang giấy. Khi ngọn lửa bao trùm chiếc thang thì có một cái bóng trắng từ con suối tối đen nhẹ nhàng bước qua chiếc thang leo lên ghềnh đá ngay chỗ ông Tám ngồi. Cái bóng đó leo lên yên con ngựa trắng vừa rung lục lạc kêu leng keng bên vách chòi lá của ông già Tám. 

Ông Tám đứng dậy nhìn thằng ma da. Nó vừa thay quần áo mới, tay cầm xấp tiền giấy rãi khắp nơi. Rồi thì nó cười với ông, ghìm dây cương ngựa, trở bước... 

Ông Tám đứng nhìn theo bàn tay vẫy mãi... 

Thằng ma da đi khuất sau cánh rừng ông Tám mới thở phào tan hết âu lo. Thằng ma da đi trước lúc nửa đêm, nghĩa là kịp giờ hóa kiếp... Ông Tám rất mừng... 

Từ đó trở đi, con suối trở nên hiền hòa dù cho mưa trên nguồn có nhiều hay ít. Ngã ba suối cũng êm ái hơn, dòng chảy dịu lại, đầy ắp phù sa đất đỏ badan. 

Mùa vụ trên cánh đồng dưới kia nhờ vậy mà vô cùng xanh tốt. Dân làng no ấm, hạnh phúc. 

Vì sao? Việc này chỉ một mình ông Tám hiểu.

MIẾU BA CÔ

Phần 1

Thiên Hương con gái út của ông bà Phát Đạt, chủ hãng xuất nhập cảng 18 ngành lớn tại thành phố Sài Gòn vào những năm 1950... sinh ra và lớn lên trong một gia đình giàu có, nên đương nhiên cô gái rượu Thiên Hương được nuông chiều và hưởng mọi ưu đãi hơn nhiều bạn bè đồng trang lứa. 

Ngay từ khi chuyển từ tiểu học sang đệ nhất cấp, thay vì vào học một trường trung học danh tiếng tại Sài Gòn như Áo Tím, Chassecloup Laubat.... Thiên Hương được cha mẹ gửi vào một trường Dòng ở Đà Lạt được chế độ nội trú. Do vậy mỗi năm về thăm nhà chỉ vào dịp nghỉ hè hay lễ tết. 

Lúc đầu Thiên Hương phản đối dữ dội bằng cách tuyệt thực mấy ngày liền trong nhà nội trú, bởi làm sao một cô gái mới lớn đang ham chơi, ham vui với nhiều bạn đồng trang lứa lại có thể bị giam hãm trong bốn bức tường trường nội trú nhà Dòng với chỉ toàn học trò nữ! 

Các bà sơ trong trường Dòng ngay tuần lễ đầu tiên đã có ý định trả con bé bướng bỉnh về với gia đình, nếu không có sự xuất hiện của một chàng trai 18 tuổi. Chuyện hơi lạ, nhưng đó là sự thật và là bước ngoặt trong cuộc đời của Thiên Hương. Chàng trai ấy là Thái, học sinh đệ nhị cấp đang chuẩn bị thi tú tài phần 2 vào cuối năm ở Sài Gòn. Anh chàng là con một gia đình trí thức trung lưu ở Đà Lạt, nên thỉnh thoảng về thăm nhà trên đó. Vào cuối tuần năm ấy Thái tình cờ có mặt bên bức tường rào cao của nhà Dòng, đúng lúc cô bé Thiên Hương vì không chịu nổi cảnh tù túng của trường nội trú nên bắt chước bạn bè tìm cách leo rào ra ngoài. 

Hầu hết dân leo rào đều có kinh nghiệm nên những chuyến trốn đi rồi quay về của họ đều êm xuôi, trót lọt. Chỉ có Thiên Hương đúng là dân tay mơ, mới trốn lần đầu, nên thay vì nối hai tấm trải giường vào nhau rồi cột một đầu ở cành cây bên trong, một đầu thòng ra ngoài và cứ thế đu ra, Thiên Hương vừa mới xuống khỏi đầu tường chưa tới một mét thì dây vải đã sút mối nối và cô bé rơi tự do xuống mặt đất cách gần hai mét. 

Tưởng chết. Thiên Hương nhắm mắt lại sau khi thét lên một tiếng. Nhưng lạ thay, cô cảm thấy té thật êm, như có ai đỡ bên dưới. Mở mắt ra, suýt nữa Hương đã kêu lên lần nữa, bởi đang bế cô trên tay là một cậu con trai mặt còn non choẹt nhưng có nụ cười rất người lớn. 

- Anh... 

Thái, chàng trai “định mệnh” của cô bé trốn tường rất ga lăng: 

- Tấm thân này mà đo đất thì còn gì là mình hạc xương mai nữa. Cô bé! 

Thiên Hương dù đang hết vía nhưng cũng kịp bật dậy làu bàu: 

- Dám ôm người ta... 

Chẳng một chút tự ái, Thái lịch sự giới thiệu: 

- Mình là Thái nhà ở gần đây. Còn đàng ấy chắc là mới trốn trường lần đầu? 

Như vớ được phao giữa dòng, Thiên Hương quên hết e thẹn: 

- Nhà ở gần đây hả? Vậy cứ cuối tuần ra đây đỡ giùm tấm thân bé bỏng này nhé. 

- Và kiêm luôn hướng đạo, dẫn đường chứ gì? 

Thiên Hương nhún vai rất “đầm”: 

- Cái đó còn tùy... 

Họ gần tuổi nhau, nên rất dễ thân thích, nhất là khi biết Thái cũng từ Sài Gòn lên. Hương đã hỏi thẳng: 

- Mình về nhà cậu chơi được không? 

Thái cũng có cử chỉ rất “Tây”: 

- Oui, mademoiselle (Vâng, được thôi tiểu thư). 

Thiên Hương như chim được xổ lồng, chạy tung tăng về phía trước, làm Thái phải gọi giật lại: 

- Ở phía này cơ! 

Họ sóng đôi bên nhau như đôi bạn đã quen biết lâu ngày, và mãi khi về gần đến nhà Thái, anh chàng mới hỏi: 

- Đàng ấy tên gì vậy, chưa xưng ra? 

- Thiên Hương! 

Thái buột miệng khen: 

- Hương thơm của trời! 

Thiên Hương sửa lại: 

- Mình khoái được gọi là hương sắc của trời hơn. 

- Ô, cái nào cũng “très jolie” (đẹp tuyệt) cả! 

Họ thân nhau từ hôm ấy. Nhờ thế Thiên Hương thôi không tuyệt thực nữa và cũng chẳng còn ôm gối khóc mỗi đêm như trước nữa. Trái lại, cô nàng cứ mong ngóng cho mau đến chiều thứ bảy để được leo tường và được anh chàng đẹp trai đón sẵn dẫn đi chơi khắp nơi ở Đà Lạt và sau đó còn được về nhà anh chàng ăn những bữa cơm gia đình thật vui. 

Thái ở nhà ôn bài thi một tháng và lại phải trở xuống Sài Gòn thi tú tài toàn phần năm ấy. Anh chàng thi đậu và có được ba tháng hè ở Đà Lạt trước khi vào đại học. Phần Thiên Hương thay vì về nhà cha mẹ như mong ước buổi đầu, vậy mà hôm ba má lên đón, cô bé đã từ chối thẳng thừng: 

- Con không thích về nhà nữa. Về rồi lại phải đi, con không chịu nổi cảnh chia tay. 

Đó là một cách nói. Thật ra cô nàng chỉ muốn ở lại Đà Lạt với mối tình đầu của mình. Suốt ba tháng hè đó chàng trai vừa tròn 18 tuổi với cô nàng tuổi 16 đã bắt đầu những ngày đẹp nhất của cuộc tình - Từ Thủy tạ, Hồ Xuân Hương, cho đến Thung Lũng Tình Yêu, hồ Than Thở, thác Cam Ly... nơi nào cũng có dấu chân của họ. 

Đó là khởi đầu của cuộc tình, nhưng cũng là khởi đầu của một bi kịch về sau... 

Sáu tháng sau. Khi Thái đã vào học đại học năm thứ nhất, thì cũng là lúc ở Đà Lạt cha mẹ Thiên Hương đã đích thân lên tận trường chính thức xin với các sơ cho con gái mình nghỉ học. Họ không giải thích thật lý do cho Thiên Hương nghỉ học, nên lúc mới nghe Hương đã phản đối ầm ĩ. Đến khi suy nghĩ lại thì cô chợt vui, bởi chuyển về Sài Gòn có nghĩa là sẽ ngày ngày gặp người yêu! 

Tuy nhiên, niềm vui của Thiên Hương đã bị dập tắt, ngay ngày đầu trở lại nhà, Thiên Hương đã đối diện với một bi kịch: cha mẹ Hương mời cơm một người bạn làm ăn tại nhà, và trong bữa ăn đó Hương được đưa ra giới thiệu với những câu nói như sét đánh ngang tai. Mẹ Hương nói với khách: 

- Cháu nó còn hai năm nữa mới lấy tú tài 2, nhưng ngay bây giờ hai bên chúng ta có thể hứa với nhau một lời về hôn ước của chúng nó. 

Ông Phát Đạt nói cụ thể hơn: 

- Ngay tuần này anh chị có thể cho tiến hành lễ hỏi. Hai năm sau thì cưới. 

Thiên Hương nãy giờ đứng nghe mà như từ trên trời rơi xuống, tưởng chừng như mẹ mình đang nói về ai đó... Cho đến khi mẹ cô kéo tay con chỉ về phía hai người khách: 

- Đây là hai bác Phúc Lợi, cha mẹ của Thiên Phúc, người sẽ là chồng của con sau này. Con hãy chào hai bác đi. 

Thiên Hương không còn tự chủ được, cô cắn chặt đôi môi như muốn bật máu ra, rồi vụt chạy ra ngoài như người bị ma đuổi!... 

Vân Hạnh, 18 tuổi con của một nhà tư sản, chủ một đồn điền thuộc loại nổi tiếng ở vùng đất đỏ. Nổi tiếng không chỉ vì bề thế làm ăn, mà còn là một trong hai cô con gái của ông bà chủ. Mà trong số này Vân Hạnh thuộc hàng hoa khôi. Cô nàng tuy mới ở tuổi 18, nhưng đã làm chết mê chết mệt hàng vài chục những vương tôn công tử đương thời. Hầu hết những kẻ trồng cây si đều thuộc hàng có máu mặt của Sài Gòn... 

Nhưng, không như mọi người nghĩ, không đúng như ước của cha mẹ, người lọt mắt xanh của Vân Hạnh lại là một anh tú tài nghèo, người thất cơ lỡ vận phải rời Sài Gòn lên tận vùng đất đỏ để xin làm chân thư ký quèn tại đồn điền cao su Nguyễn Đình. Câu chuyện tình của đôi trai gái không đồng giai cấp này bắt đầu từ một chén mủ cao su. 

Hôm ấy Vân Hạnh, Như Lan hai chị em con ông chủ theo cha lên đồn điền để dự một buổi dạ vũ do chính ông chủ, cha của hai cô gái đứng ra tổ chức để chiêu đãi quan chức cấp lớn của Pháp. Khách dự gồm hơn trăm người có máu mặt thời ấy. Họ đến vì nể nang sự giàu có của chủ gia một phần, nhưng bởi sức hút của nhan sắc hai cô con gái rượu của Nguyễn Đình thì nhiều hơn. Gia đình khách mời nào cũng dẫn theo các cậu con trai quý tử của họ với một mong ước duy nhất: con họ sẽ lọt được vào mắt xanh của hai vị tiểu thư họ Nguyễn, đặc biệt là Vân Hạnh. 

Buổi chiều trước tiệc dạ vũ, xe đưa cả nhà Nguyễn Đình lên tới đồn điền. Thấy còn sớm, chính Vân Hạnh đã đòi được đi ra vườn cao su chơi. Trái với cô em, cô chị Như Lan thì tỏ ra kiêu kỳ, đã bài bác ý tưởng của em: 

- Có gì ngoài mấy gốc cao su mà chơi. Tao mệt muốn chết, chỉ muốn nằm ngủ một giấc trước khi buổi tiệc bắt đầu. 

Thấy chị không muốn đi. Vân Hạnh rủ người tớ gái cùng đi. Cô còn dặn: 

- Chị đừng nói với ba tôi là đưa tôi ra rừng nghen. 

Như con chim xổ lồng, Vân Hạnh chạy nhảy tung tăng giữa mặt đất dầy những lá cao su rụng. Nhũng hàng cây thẳng tắp ngút mắt đã làm cho cô thích thú vô cùng. 

Cứ chạy ôm hết gốc cây này đến gốc cây kia làm cuộc trốn tìm với cô tớ gái. Mải mê chạy giỡn, chỉ một lúc sau họ đã đi khá xa. 

Người tớ gái phải nhắc: 

- Cô Ba đừng đi xa quá kẻo trời tối. 

Vân Hạnh một khi đã vui rồi thì có trời cản. Cô vừa chạy thẳng tới phía trước và nói vọng lại: 

- Chị không đi thì cứ đi về, tôi sẽ tự về khi nào mỏi chân. 

Chạy một mạch đến khi cảm thấy mệt, cô bé mới dừng lại vịn gốc cao su nghỉ. Chợt nhìn thấy chén hứng nhựa đang bắt đầu có những giọt nhựa trắng chảy xuống. 

Thật là hình ảnh ấn tượng mà trước đây dù đã vài lần theo cha lên đây nhưng Hạnh chưa bao giờ tận mắt thấy nên trố mắt nhìn. Rồi không ngăn được sự tò mò, Vân Hạnh đưa mấy ngón tay chấm vào chén mủ đặc biệt đó. 

Cảm giác đầu tiên là sự mát lạnh, nhưng sau đó khi rút ngón tay lên thì cô bé mới hoảng hốt: Mủ cao su quấn chặt lấy ngón tay, càng ngọ nguậy, thì các ngón tay lại càng dính vào nhau! 

Vân Hạnh quýnh quáng đưa bàn tay còn lại chụp vào các ngón tay đang dính mủ. Nó lại thê thảm hơn, chỉ trong vài giây sau cả hai bàn tay cô gần như dính liền vào nhau.

Cô bé bướng bỉnh sắp òa lên khóc vì chẳng biết làm sao chợt có ai đó chụp vào tay cô với chiếc khăn mùi xoa trắng tinh, kèm câu nói: 

- Phải dùng cái này thì mới gỡ rối được, thưa tiểu thư. 

Nhìn lại thấy người đang nắm tay mình là một chàng trai lạ. Suýt nữa Hạnh đã kêu thét Iên. Nhưng như đã đoán trước anh chàng kia lịch sự nở nụ cười hiền hòa. 

- Tôi là thư ký trong đồn điền này, cô đừng sợ. Cứ đứng yên để tôi giúp cho. 

Bàn tay thuần thục, chỉ lát sau thì cả hai tay Vân Hạnh đã sạch trơn. Tuy nhiên, thấy ở các kẽ tay còn rít, anh chàng lại rất bất ngờ kéo ngay vạt áo sơ mi đang mặc lên lau một lần nữa. Hạnh muốn ngăn anh ta lại nhưng không còn kịp, cho đến khi cử động thấy không còn vướng víu gì, cô mới lên tiếng: 

- Cám ơn anh. Chiếc áo của anh... 

Chàng tai mỉm cười thân thiện: 

- Đâu có sao, dân làm cao su thì ai mà không dính mủ. Có mủ mới có tiền! 

Bây giờ Hạnh mới chợt lo: 

- Trời sắp tối rồi... 

Cô quay bước về, nhưng chợt nhớ mới lên tiếng hỏi: 

- Anh tên gì? 

- Phú. 

- Tôi Ià Vân Hạnh. 

Chàng trai tên Phú đã mau miệng: 

- Là con ông chủ. 

Vân Hạnh đang hối hả quay về nên không kịp nói thêm câu nào. Đến lúc đi vài mươi bước rồi cô mới quay lại thì bắt gặp chàng đang đứng lặng nhìn theo... 

Buổi dạ vũ hôm đó tự dưng Hạnh kêu đau bụng và xin không ra dự. Khi cha mẹ cô vào bắt ra thì Hạnh cố làm như đau dữ dội, nên bà mẹ cô đã lo ngại thật sự: 

- Có lẽ con nhỏ không quen gió độc ở xứ này nên như thế. Tui nói rồi, có tiệc tùng gì thì tổ chức ở Sài Gòn, lên làm chi cái đất đầy những chướng khí chết người này chẳng biết! 

Thấy vợ cằn nhằn và vốn cưng cô con gái út nên dù đám khách ngoài kia đều mong muốn Vân Hạnh xuất hiện. Ông Nguyễn Đình cũng đành phải ra ngoài với lời cáo lỗi. 

Cô chị Như Lan thì rất khoái, bởi vắng cô em gái như thỏi nam châm thì cô sẽ trở thành cục nam châm hút hết các chàng trai đêm nay. 

Và thay vì phải trở về Sài Gòn ngay sáng sớm hôm sau nhưng viện cớ là quá mệt, đi không nổi, nên Vân Hạnh xin ở lại một ngày nữa. Chiều con, nên ông bà Nguyễn Đình đã để lại bà vú già lo chăm sóc cho Vân Hạnh, còn họ và Như Lan thì về trước. 

Ngay khi ba mẹ vừa rời khỏi đồn điền thì Vân Hạnh đã tung mền ngồi dậy, gọi người tớ gái hỏi liền: 

- Ở đây có ai là thư ký tên Phú? 

Chị người làm vốn đã phục vụ lâu năm nên khá rành: 

- Dạ có. Thầy Phú làm ở văn phòng bên kia, còn ở ngôi nhà nhỏ phía sau, cách đây vài trăm thước. 

- Anh ta ở... một mình? 

Chị người làm gật đầu: 

- Chỉ có một mình. Nghe nói chưa vợ con gì hết. Từ ngày lên đây đến ba, bốn năm rồi cũng chẳng thấy người thân nào lên thăm. 

Chỉ hỏi bấy nhiêu đó thôi. Hạnh cho người tớ gái đi ra. Và ngay sau đó cô đóng vai trò của cô chủ nhỏ, đã đột ngột viếng thăm văn phòng của đồn điền. Cô bước vô phòng làm việc của gần một chục nhân viên, đảo mắt một vòng mà không hỏi một ai. Có vài nhân viên biết mặt cô chủ nên kính cẩn đứng lên chào rất lễ phép. Số còn lại cũng làm như vậy. Có người lên tiếng hỏi: 

- Thưa cô chủ, cô có cần gì không? 

Không trả lời câu hỏi, cô hỏi lại: 

- Nhân viên ở đây chỉ bấy nhiêu người đây sao? 

Một bác lớn tuổi vội đứng lên đáp: 

- Dạ, còn thư ký Phú đang có việc ngoài rừng. 

Hạnh lễ phép chào mọi người rồi bước nhanh. Chẳng ai hiểu mục đích cuộc viếng thăm đột xuất của cô chủ nhỏ nên thấy lo lo... 

Chỉ có Vân Hạnh là thấy vui vui khi không chạm mặt “thầy ký” Phú trong văn phòng đông người. Cô đi thẳng ra rừng và lúc ấy mới thấy rối, bởi vườn cao su đến mấy trăm mẫu, lối đi nào cũng giống nhau biết đi hướng nào để không bị lạc đường? 

Cũng may, ngay trước tầm mắt của Hạnh là một ngôi nhà sàn nhỏ, mà chợt nhớ lại lời chị người làm nói. Cô nghĩ đó là nhà của Phú. Không một chút nghĩ ngợi. Hạnh bước thẳng về hướng đó. 

Nhà đóng cửa, cả cửa sổ và cửa cái, mặc dù không có khóa ngoài nhưng Hạnh đoán là không có người ở trong. Nhìn đồng hồ tay thấy mới hơn mười giờ. Hạnh chép miệng: 

- Phải đến trưa anh ta mới về... 

Cô lưỡng lự một chút, cuối cùng mò trong túi áo ra một chiếc khăn tay màu trắng thơm phức nước hoa định đặt nó ở khe cửa sổ, nhưng để vào rồi lại lấy ra, thấy không ổn. 

Không có cách nào đặt chiếc khăn mà chủ nhà khi về mở cửa có thể nhìn thấy ngay và hiểu rằng có người đã để lại chiếc khăn mà thầy ký đã lấy ra lau mủ cao su cho người chưa từng quen biết... 

Lại lưỡng lự một hồi nữa, chợt Hạnh phát hiện cửa cái chỉ khép hờ. Cô đánh bạo đưa tay đẩy vào. Cửa mở dễ dàng. Bên trong nhà khá đơn sơ. Chỉ một chiếc giường cá nhân với một chiếc gối, một chăn đắp được xếp ngay ngắn. Một tủ quần áo nhỏ, một bàn viết, trên vách treo khá nhiều tranh vẽ. Có lẽ do chủ nhân ngôi nhà đã vẽ... 

Biết là hơi quá đáng khi tự tiện thâm nhập nhà người khác, nhưng lúc đó chẳng hiểu sao Vân Hạnh lại đánh liều bước rón rén vào. Không khí trong nhà khá ấm cúng, dễ chịu. 

Chỉ tính bước vô tìm chỗ để chiếc khăn rồi ra ngay nhưng chính sự ấm cúng của gian nhà đã làm cho Hạnh lưu lại thêm. Cô bước tới bên bàn viết, nhìn mấy quyển sách xếp ngăn nắp, trên bàn là một xấp giấy trắng còn nguyên, có lẽ chủ nhân đang định viết gì đó... 

Bỗng cô nhìn được mấy dòng chữ ở đầu trang. Chữ viết khá đẹp, rất bắt mắt. Và đặc biệt nhất là ở nội dung. Dù không muốn đọc trộm nhưng Vân Hạnh cũng liếc thấy mấy chữ: “… cô nàng như một bông hoa lạ từ trên trời rơi xuống, làm sáng rực lên cả một góc rừng cao su vốn xám xịt một màu buồn tẻ. Mình đã liều lĩnh nắm lấy bàn tay như những búp hoa đỏ, mặc dù là để giúp nàng lau mủ cao su, nhưng nghĩ lại mình thấy đáng ăn mấy bạt tay vì tội liều. Nhưng cũng chính vì thế mà cho tới bây giờ mình vẫn còn bồi hồi, chắc là sẽ mất ngủ hôm nay và còn nhiều hôm nữa…” 

Đoạn viết chỉ bấy nhiêu đó, nhưng Vân Hạnh đọc xong, lại phải đọc lại lần nữa và cứ nghĩ nó dài ra... Cô cười một mình khi biết anh chàng đang viết về mình. 

Thì ra... 

Một tiếng kẹt ở cửa làm cắt đứt mạch suy nghĩ của Hạnh. Phú bước vào đột ngột và cả hai đều sửng sốt nhìn nhau. 

- Cô… 

- Anh... 

Họ chỉ thốt được nửa tiếng đó rồi lúng túng nhìn nhau… mãi mấy mươi giây sau Hạnh mới lắp bắp nói:

- Tôi… chỉ... 

Cô đưa chiếc khăn tay tới trước mà không nói thêm lời nào. Còn Phú thì sau phút đột ngột đó đã lấy lại bình tĩnh: 

- Tôi đi ra ngoài ít khi khóa cửa, vì trong nhà chẳng có gì đáng giá... 

Vân Hạnh cũng bình tĩnh hơn, cô chỉ tờ giấy đang viết dở dang hỏi: 

- Cái này mà mất thì anh có tiếc không? 

Lúc này Phú mới chợt giật mình, anh chàng biết cô nàng đã đọc. 

- Tôi... tôi... 

- Viết về ai đó mà không được phép của người ta là có tội đó nghen. 

Cô đút chiếc khăn tay vào lại túi mình: 

- Định đem chiếc khăn này để đền lại anh, nhưng anh đã viết như vậy thì thôi... 

Cô bước ra cửa. Phú chợt móc trong túi mình ra một chiếc khăn dính đầy mủ cao su và cười: 

- Nó vẫn còn dùng được mà! 

Hạnh đứng sựng lại, rồi chẳng hiểu sao cô móc chiếc khăn của mình ra, đặt vào tay Phú, còn chiếc khăn dính mủ cao su của Phú thì cô giật lẹ và nhét vào túi. Xong đi nhanh ra ngoài. Cô nói với lại: 

- Như vậy là huề nhé... “thầy ký”! 

Đó, mối tình của họ bắt đầu như vậy đó. Vậy mà khắng khít, dính chặt còn hơn nhựa cao su dán vào nhau. 

Từ đó, cứ chiều chứ bảy là Vân Hạnh lại đòi lên đồn điền cho bằng được thay vì đi Vũng Tàu, Long Hải chơi với gia đình. Ban đầu ba má Hạnh chỉ ngạc nhiên sao cô con gái cưng của mình lại thay đổi nếp sống nhanh như vậy? Nhưng lần hồi họ phát hiện ra chuyện động trời. Đối với họ việc con gái con chủ đồn điền mà yêu một người làm công là một chuyện như trời long đất lở, không thế nào chấp nhận được. 

Kết cuộc là thầy ký Phú bị đuổi việc, cho một số tiền và buộc phải đi định cư ở một vùng xa xôi trên cao nguyên. 

Vân Hạnh thì hụt hẫng đau khổ và đã vài lần tìm cách tự tử...

Phần 2 

Thu Hà sinh ra trong một gia đình nghèo. Cô bé lớn lên trong cảnh túng thiếu của cha mẹ, cùng một bầy anh chị em sáu người. Những tưởng Hà sẽ không được học hành hoàn chỉnh, bởi hoàn cảnh thiếu trước hụt sau ấy... 

Tuy nhiên với sự siêng năng, chăm chỉ nên Hà đã vượt qua tiểu học, rồi trung học. Năm đệ tứ. Hà thi đậu trung học đệ nhất cấp, rồi học lên ban tú tài. 

Đang học đệ tam thì bước ngoặt cuộc đời Hà bắt đầu, khi cô đi dạy kèm tại nhà một đại tư bản ngành đồn điền. Ông Nguyễn Đình. Tại đây số phận đã đưa đẩy để Thu Hà gặp Tuấn, người anh cả của Vân Hạnh và Như Lan. 

Là con cả của đại tư bản, việc kế nghiệp cha là đương nhiên đối với Tuấn, nhưng tính tình của chàng trai này thì lại hoàn toàn ngược lại với ông chỉ biết kinh doanh và tiền bạc, do vậy bất cứ lúc nào được cha nhắc đến chuyện kế nghiệp thì Tuấn luôn dửng dưng. Niềm đam mê duy nhất của Tuấn là đi đây đi đó để giúp đỡ người nghèo, trẻ mồ côi. Do vậy, khi gặp Thu Hà, cô học trò nghèo đi dạy kèm thì con tim nhân hậu của Tuấn đã xao xuyến. 

Họ đã yêu nhau một cách tự nhiên như bao nhiêu đôi trai gái khác. Nhưng họ quên rằng rào cản lớn nhất mà họ phải vượt qua chính là gia đình. Cụ thể là nhà tỷ phú đồn điền Nguyễn Đình. 

Sau sự cố cô con gái út Vân Hạnh yêu chàng thư ký đồn điền, hai ông bà Nguyễn Đình đã căng thẳng đầu óc để đối phó, cản ngăn và vừa yên tâm sau màn hạ độc thủ bằng cách đuổi thư ký Phú đi mất tiêu, trở về thì họ hết sức kinh ngạc khi phát hiện một quả bom nổ chậm khác đang ở trong nhà.

Hôm đó lúc vừa trong bệnh viện trở về sau ca tự tử bằng thuốc ngủ của Vân Hạnh, đang ngồi nghỉ mệt ở phòng khách thì anh con cả bước ra, tay trong tay với Thu Hà. 

Trước cái nhìn kinh ngạc của cha mẹ, Tuấn đã bình tĩnh thưa thật mọi chuyện: 

- Thưa ba má, con và Thu Hà yêu nhau, chúng con xin làm đám cưới sau khi Hà xong tú tài toàn phần... 

Chưa để con nói hết câu, bà Nguyễn Đình đã quát lên: 

- Mày vừa nói gì hả? 

Lâu nay vốn buồn lòng vì thái độ dửng dưng với công việc kinh doanh của đứa con trai cả, nay ông Nguyễn Đình như lửa cháy đổ thêm dầu, thuận tay ông chụp chiếc gạt tàn thuốc trên bàn ném thẳng về phía Tuấn kèm tiếng quát: 

- Thằng bất hiếu, cút đi khỏi mắt tao! 

Chẳng biết vô tình hay cố ý, chiếc gạt tàn đã bay trúng thẳng vào mặt Thu Hà. Tội nghiệp cô bé đang khúm núm nép bên mình người yêu đã gục ngay xuống, máu đầm đìa trên gương mặt xinh đẹp. Mặc cho Tuấn hốt hoảng ôm thân thể Thu Hà. Ông bà Nguyễn Đình thản nhiên bước về phòng riêng. 

Bị chấn thương khá nặng, nhưng may mắn không nguy hiểm đến tính mạng. Thu Hà phải nằm bệnh viện đến cả tuần. Tuấn ở cạnh người yêu suốt những ngày đó và cũng từ lúc đó Tuấn thề với lòng là sẽ không bao giờ trở lại mái nhà mà cha mẹ chỉ là những người chỉ biết có đồng tiền, quên hết mọi thứ trên đời... 

Và tuy nằm cùng bệnh viện với Vân Hạnh, cách nhau chỉ vài phòng, mỗi khi ông bà Nguyễn Đình vào thăm con gái đều đi ngang và nhìn thấy nhưng chưa bao giờ Thu Hà được họ ghé hỏi thăm một tiếng. Cô buồn tủi là đương nhiên, mà Tuấn cũng vừa buồn vừa hận. 

Đợi những lúc Vân Hạnh ở một mình, Tuấn đã vào tâm sự và an ủi em gái. Khi biết chuyện Thu Hà bị nạn, Vân Hạnh đã khóc rất nhiều và có lần đã thốt lên: 

- Em không chết được thì có sống em cũng sống với người mình yêu. Anh Hai có dám như vậy không? 

Tuấn xiết chặt tay em: 

- Anh ủng hộ em và ngược lại em cũng đứng về phía anh và Thu Hà chứ? 

Vân Hạnh vui trong ánh mắt: 

- Chắc chắn như vậy. Để tối nay nếu khỏe em sẽ qua thăm chị ấy. 

Bất ngờ Hạnh hỏi: 

- Anh Hai có biết ba má đuổi anh Phú đi đâu không? 

Tuấn gật đầu: 

- Chưa chắc là chính xác nhưng anh nghĩ một nơi nào đó ở Đà Lạt. 

- Đà Lạt thì đâu có xa. 

Tuấn tỏ ra rành chuyện: 

- Không xa lắm nhưng đồn điền trà thì từ Đà Lạt đi vào khá hiểm trở. Em nhớ đồn điền trà của ba má không? 

Vân Hạnh gật: 

- Em có nghe nói nhưng chưa tới đó lần nào. 

- Phú bị đẩy ra đó với một điều kiện ngặt nghèo, khó lòng trở về. 

Hạnh mừng thầm, cô tự hứa với lòng: “Giá nào mình cũng gặp lại Phú...” 

Từ hôm ở bệnh viện trở về, Vân Hạnh gần như sống biệt lập trong phòng riêng của mình. Cô không xuất hiện trong các bữa cơm gia đình, cũng không ra ngoài mỗi khi có mặt cha mẹ ở nhà. 

Người trước kia thường đi ra ngoài hoặc chuyện trò, vui chơi cùng cô là Như Lan. Kể từ lúc xảy ra chuyện thì hầu như Vân Hạnh cũng không muốn gần. Hai chị em trước ngủ chung phòng, nhưng từ lúc trở về nhà thì chính Hạnh đã mang đồ đạc cá nhân sang căn phòng trống bên cạnh để ở hẳn. 

Tuấn cũng đi khỏi nhà, trong số anh chị em chỉ duy có Vân Hạnh là đồng cảm với anh mình, vậy mà từ lúc ra đi Tuấn cũng không hề liên lạc gì. Giữa Hạnh và Thu Hà từ lúc đó cũng thân tình hơn, thương yêu nhau hơn. Có lẽ mối cảm thông này bắt nguồn từ sự đồng cảnh ngộ ngang trái như nhau. 

Phần ông Nguyễn Đình thì có lẽ sợ làm căng hơn nữa thì con gái sẽ tự tử lần nữa, nên họ không còn kiểm soát quá chặt như trước. Họ để Hạnh sống tự do theo ý cô và dành hẳn chiếc xe hơi mới mua cho Hạnh muốn lái đi đâu tùy thích. Một phần có lẽ cũng do ông bà đã quá tự tin khi nghĩ đã cắt đứt sự liên lạc giữa Hạnh và thư ký Phú. Phần nữa họ cũng muốn Vân Hạnh được dịp giao du với bạn bè khác, nhất là trong giới thượng lưu để cô có cơ duyên gặp được ai đó, quên hẳn mối tình trái ngang kia đi. 

Vân Hạnh hầu như chẳng bữa vào về trước bảy giờ tối. Có hôm Như Lan muốn làm lành với em gái, đã đề nghị được đi chung xe ra chợ mua đồ, nhưng Hạnh đã thẳng thừng từ chối: 

- Khi nào chị đi tìm được Phú về đây thì chị em mới còn có nghĩa là chị em. Còn không... 

Như Lan biết lỗi mình, cũng chính vì cô đã mét mọi chuyện về mối quan hệ giữa Vân Hạnh và Phú lại còn thêm mắm dặm muối để cha mẹ làm quyết liệt chuyện chia cắt tình yêu của họ. 

Một mình lái xe đi hết nơi này đến chỗ nọ, giao du với đủ thứ bạn bè. Tuy nhiên không như mong đợi của ông bà Nguyễn Đình, hầu hết người Vân Hạnh kết giao không một ai trong giới giàu có. Trong số bạn học cũ mới. Hạnh chỉ toàn lựa những người trong giới bình dân, lao động để kết giao. 

Và chiều thứ bảy hôm đó cuộc hẹn của Vân Hạnh không phải với bạn trai, mà là với hai cô gái: Một người học chung trường với Hạnh, dưới cô một lớp từ năm tiểu học và một người nữa là Thu Hà. 

Sau khi nằm bệnh viện ba ngày, Thu Hà xuất hiện và nghỉ hẳn việc dạy kèm tại nhà Hạnh, nhưng mối liên hệ giữa họ lại trở nên thắm thiết hơn. Do đó khi nhận được lời rủ của Hạnh, hẹn gặp tại một quán vùng ngoại ô thì Thu Hà đã nhận lời ngay. Tuấn biết chuyện đòi cùng đi nhưng Hà cương quyết không cho: 

- Chuyện con gái với nhau, đàn ông đi làm gì? 

Vân Hạnh, Thu Hà đến nơi trước. Về người khách thứ ba. Thu Hà cứ thắc mắc mãi: 

- Ai vậy Hạnh? 

Vân Hạnh ra vẻ bí mật: 

- Cũng không lạ, nhưng để gặp sẽ biết. Khi người đó tới thì Thu Hà ngạc nhiên vô cùng, reo lên: 

- Thiên Hương! 

Thiên Hương nhỏ hơn hai người một tuổi, học dưới một lớp ở tiểu học cho đến khi Hương chuyển lên Đà Lạt học trường Dòng. Tuy ít gần, nhưng do thân nhau từ nhỏ nên lúc nào gặp lại nhau họ mừng hơn là chị em ruột. 

Cuộc hội ngộ thật bất ngờ, chính Thiên Hương phải lên tiếng: 

- Em cứ tưởng chị Vân Hạnh rủ đến gặp ai, không ngờ là chị. Sao, chị Hà đã ra trường chưa? 

Siết chặt tay cô bạn nhỏ. Hà mắng yêu: 

- Xa mặt cách lòng nên quên hết rồi. Mình hơn cậu một lớp, mà năm nay cậu đệ tam phải không? 

Vân Hạnh chen vào: 

- Mới lớp đệ tứ thôi. Bỏ học từ đầu năm thì làm sao lên đệ tam được. Thu Hà ngạc nhiên: 

- Ủa, sao bỏ học? Nghe cậu học ở Đà Lạt mà. 

Vô tình bị chạm vào nỗi đau, Thiên Hương sẽ không vui nhưng Vân Hạnh vẫn kể lại sơ lược chuyện Hương và Thái bị gia đình ngăn trở. Và cuối cùng cô nói một câu mà cả ba đều nhìn nhau: 

- Ba đứa con gái bị chính cha mẹ mình cướp mất tình yêu! 

Trong nỗi cảm thông sâu sắc họ cùng siết chặt tay nhau và nước mắt cùng tuôn trào. Hồi lâu Hạnh mới nói: 

- Hương sống ra sao bấy lâu nay? 

Cười héo hắt. Hương đáp chán chường: 

- Mình chỉ còn biết vẫn đi tìm Thái trong vô vọng. 

Hạnh nhẹ lắc đầu: 

- Mình đâu hơn gì bồ. Cha mẹ mình còn ác hơn, họ dùng tiền bạc và cả thủ đoạn nữa, đày Phú đi biệt tăm. 

Giọng Thiên Hương càng buồn hơn: 

- Thái bị ba má mình làm nhục nên bỏ học trở về Đà Lạt. Mình lên đó tìm, nhưng chẳng ai biết Thái đi đâu, cả năm nay không liên lạc về. 

Hỏi đến chuyện của Thu Hà thì chính Vân Hạnh lại kể rõ hơn: 

- Anh mình đã bỏ nhà đi từ cả tháng nay đến Hà cũng không biết tin. Hôm qua mình nghe trong nhà nói ba má mình đã hoàn tất thủ tục để anh ấy đi du học ở Pháp. Một kiểu chia cắt tình cảm của anh Tuấn và Hà. Mình phản đối, nhưng hiện tại mình còn nghĩa lý gì với gia đình nữa... 

Bữa tiệc hội ngộ giữa ba người bạn gái đã biến thành tiệc nước mắt. Ai kể lại chuyện mình cũng bằng sự chán chường. Sầu thảm và cuối cùng là khóc. Thiên Hương có vẻ bi thảm hơn, cô tỏ ra hối tiếc: 

- Chính mình đã hại Thái. Anh ấy nhà tuy nghèo nhưng ham học và học giỏi, nếu không yêu mình thì chỉ mấy năm nữa anh ấy tốt nghiệp, tương lai rạng rỡ trước mắt. 

Hạnh cũng chẳng hơn gì: 

- Phú đang yên ổn với đồng lương khiêm tốn, nhưng như thế cũng đủ để anh ấy sẽ học tiếp trong vài năm tới. Gia đình anh ấy ở tỉnh xa chỉ trong cậy vào mình anh ấy thôi. 

Thu Hà từ đầu chỉ lẳng Iặng nghe và thở dài. Hạnh phải lay vai: 

- Hà có ý kiến gì đi chứ... 

Thu Hà khóc. Với cô, cú sốc vừa rồi là quá nặng. Vừa mất người yêu vừa bị ông bà Nguyễn Đình đến tận nhà xỉ vả làm nhục, đến nỗi giờ đây mỗi khi ra khỏi nhà cô không dám ngẩng nhìn mọi người. 

- Hay là thế này... 

Vân Hạnh đề xuất: 

- Bọn mình đi Đà Lạt. 

Thiên Hương ngạc nhên: 

- Lên đó làm gì? 

Thu Hà cũng nói: 

- Mình bây giờ chán mọi thứ, chẳng thiết đi đâu. 

Giọng Hạnh trở nên nghiêm túc: 

- Mấy người có nhớ trên đường đi Đà Lạt, qua đèo Bảo Lộc có mấy ngôi chùa nhỏ vắng vẻ? 

Như hiểu được ý Hạnh, Thiên Hương reo lên: 

- Đi tu! 

Hạnh xiết tay bạn: 

- Bồ dám không? 

- Có gì đâu mà không dám. Đi tu là bỏ lại trần gian những phiền lụy, sân si. Mình cũng đã từng nghĩ... 

Vân Hạnh nói như một người đang thuyết giảng giáo lý: 

- Chỉ có chốn ấy mới làm cho mình thanh thản. Mình sẽ quên được bên kệ kinh. Mình sẽ... 

Thu Hà chợt hỏi: 

- Nhưng ai cho mình vào đó tu? Mình nhớ nơi đó chỉ có mấy cái am cỡ rất nhỏ, không phải chùa... 

Thiên Hương tỏ ra rành rẽ: 

- Đúng là không có chùa Iớn. Nhưng cần gì, miễn là có chỗ để mình ở cùng nhau. Mình chỉ cần ở cùng nhau, không cần tu cũng được. 

Vân Hạnh tính chi li hơn: 

- Ba đứa con gái mà ở chỗ vắng vẻ đó thì khó yên. Chỉ có trong lốt nâu sồng thì mới ổn. Mình nghĩ, am hay cốc vắng, bỏ hoang càng tốt. Quan trọng là mấy bồ có dám không đã? 

Trong một phút bốc đồng cả ba cùng ôm chặt lấy nhau, giọng quyết tâm: 

- Không hối tiếc gì cả! 

Vân Hạnh vạch chi tiết: 

- Sẵn mình có xe, chính mình sẽ lái và bọn mình cùng đi ngay sáng mai. Lên tới đó mình sẽ cho xe xuống vực, còn bọn mình thì leo lên chỗ cái am cũ trên núi. 

- Đồng ý chưa? 

Cả ba đồng thanh: 

- Cùng nhau!

Phần 3

Thật đúng giờ. Lúc bảy giờ sáng, cả ba đã gặp nhau ở một góc đường. Mỗi người chỉ mang theo một túi quần áo như một cuộc du lịch ngắn ngày. Vân Hạnh chu đáo hơn, cô bảo: 

- Phải mua theo gạo, muối, tương chao và nhiều lương khô. Mình sẽ tự lực khá lâu chứ chẳng có ai giúp đỡ đâu. 

Họ khởi hành lúc tám giờ. Hạnh lái xe rất giỏi, lại là xe nhà quen tay lái nên hơn năm giờ sau cả bọn đã lên tới chân đèo Bảo Lộc. 

Đường vắng nhưng leo dốc khá nguy hiểm, nên Hạnh cho xe chạy thật cẩn thận. Một phần là phải để mắt tìm địa điểm cái am cũ trên triền núi. Vừa trông thấy, Thiên Hương đã reo lên: 

- Ở trên kia kìa! 

Cả ba xuống xe và cùng sóng bước leo dốc lên am như những tín đồ đi tìm đất thiêng để thăm viếng. Phải mất hơn mười phút họ mới lên tới nơi. Đó là một am cũ, được xây bằng gạch, nhưng có lẽ từ lâu lắm rồi không có người ở hoặc lui tới nên khắp nơi nhện giăng, bụi bám đầy. Thiên Hương hơi đăm chiêu khi nghĩ đến những ngày phải sống ở một nơi như thế này… 

Tuy nhiên Vân Hạnh thì lại hài lòng, cô nắm tay hai bạn siết chặt, như để động viên họ: 

- Nơi này là tốt rồi. Vừa gần đường lộ nhưng lại tránh được sự tò mò của người đời. Mình chịu ở đây. Cho dù mai mốt các bồ có ai đó bỏ cuộc giữa chừng thì mình cũng quyết ở lại một mình. 

Cả Hương và Thu Hà đều nêu quyết tâm: 

- Tụi này theo Hạnh đến cùng. Chúng ta không còn gì để mà luyến thế nữa... 

Hạnh giục: 

- Vậy thì chúng ta mau xuống xe đem đồ đạc lên đây rồi mình còn tìm cách đẩy xe xuống vực nữa. 

Cả ba lại theo nhau trở xuống. Thiên Hương gợi ý: 

- Thu Hà mang đồ lên cùng với mình, để Hạnh lo vụ cái xe. 

Hai người hì hục đem ba va li đồ cùng với mấy thứ như gạo, muối, lương khô và nồi niêu soong chảo lên am. Xong Hương bảo: 

- Hà ở trên này lo quét dọn sơ cho có chỗ để đồ, còn mình trở xuống giúp Hạnh. 

Trong khi đó thì Hạnh đã nổ máy cho xe ra sát mép vực. Dù chả quen việc này, nhưng cô nghĩ chỉ cần vô số, rồi mở cửa bước xuống, sau đó đưa tay đẩy xe tới một chút là chiếc xe sẽ lao xuống vực sâu. Như thế là hết, cắt đứt mọi liên hệ với gia đình, với quá khứ... 

Và cô làm đúng như thế. Nhưng oan nghiệt thay, khi Hạnh cố sức đẩy cánh cửa xe đang mở tới trước, chiếc xe chuyển động và lao nhanh hơn dự đoán của cô. Cùng lúc một chân Hạnh bị vấp cục đá ngã chúi về trước, tay cô vướng vào tay nắm cửa chiếc xe. Chiếc xe lôi theo cả Vân Hạnh! 

Thiên Hương vừa tới, cô chứng kiến toàn bộ cảnh rùng rợn vừa rồi với sự hoảng hốt tột cùng, cô há to mồm kêu thét lên: 

- Hạnh! 

Rồi như một quán tính, hoặc do một động lực vô hình nào đó đã đẩy Hương về phía vực. Cô còn kịp nhìn thấy Hạnh văng ra chới với rồi mất hút dưới vực sâu thăm thẳm. 

Không còn tự chủ được nữa. Thiên Hương nhắm nghiền đôi mắt lại, người ngã trong tình trạng vô thức về phía vực sâu. 

Thu Hà đang ở trên am tự dưng cô nghe những âm thanh kỳ lạ, đã vội lao nhanh xuống. Vừa kịp nhìn thấy Thiên Hương rơi từ mép vực xuống. 

Đang chới với bên bờ vực. Thu Hà chỉ còn kịp kêu lên một tiếng thảng thốt, rồi như có ai đó từ phía sau đẩy tới. Toàn thân cô gái tội nghiệp đã rơi theo hai bạn của mình! 

Lúc đó trời vừa hoàng hôn. Trên đỉnh Bảo Lộc sương xuống nhiều và trời tối rất nhanh... 

Ngay đêm hôm đó khi đang ngon giấc bỗng bà Nguyễn Đình kêu to rồi ngồi bật dậy. Ông cũng dậy theo ngạc nhiên: 

- Bà sao vậy? 

Sờ tay chân, trán, mặt của vợ đẫm mồ hôi. Ông Nguyễn Đình lo lắng: 

- Bà gặp ác mộng? 

Người đàn bà thường khi rất đanh đá, giọng sắc lẻm, giờ bỗng òa lên khóc rất thảm hại. Ông Đình phải gắt lên: 

- Chuyện gì vậy? 

Lúc này bà mới ôm lấy ông, giọng run run: 

- Tôi thấy con Hạnh và hai đứa bạn nó nữa, trong đó có con Thu Hà bồ thằng Tuấn, đứa nào người cũng đầy máu, tóc tai rũ rượi. Nó đứng ở đây nè, nhìn tôi mà khóc chứ không nói gì hết... 

Ông Nguyễn Đình thở phào: 

- Tưởng gì, chứ còn ba cái chuyện mộng mị... 

Nhưng bà vẫn không ngưng khóc: 

- Vía tôi thấy rõ ràng lắm, con Vân Hạnh như muốn nói gì đó với tôi nhưng chưa kịp thì có ai đó kéo nó đi, nó biến mất. Tôi lo quá, làm sao đây ông? 

Bật đèn sáng lên, ông Nguyễn Đình gọi to: 

- Như Lan dậy đi sang ba hỏi! 

Như Lan còn ngái ngủ, vừa bước sang đã bị mẹ hỏi dồn: 

- Con Vân Hạnh đi đâu từ sáng đến giờ? 

Như người ở cõi trên. Như Lan lắc đầu: 

- Con làm sao biết được... 

Cả vợ chồng Nguyễn Đình đều chạy sang phòng riêng của Hạnh. Mở cửa ra chẳng thấy ai, chợt ông bước hẳn lại bàn phấn cầm lên một mẩu giấy nhỏ với những dòng chữ của Hạnh: 

“Thưa ba má. 

Con bất hiếu đã từ lâu làm ba má mất vui và lo lắng nhiều. Nay con quyết không làm phiền ba má nữa. Con sẽ chọn một nơi thật xa, một nơi không có những phiền toái của cuộc đời, để gởi thân nơi đó. Ba má đừng tìm con bởi con muốn như vậy! 

Xin ba má tha thứ cho con…” 

Ông buông thõng một câu: 

- Nó bỏ nhà đi rồi. 

Bà giật lấy lá thư, vừa đọc xong đã chết điếng: 

- Không xong rồi! Giấc mơ vừa rồi... 

Trong ngày đó chẳng hẹn mà cha mẹ của Thiên Hương và Thu Hà cũng đều chạy qua kể chuyện gần giống như giấc mơ của mẹ Vân Hạnh. 

Má Thiên Hương kể: 

- Nửa đêm tôi nghe tiếng con Thiên Hương kêu má ơi cứu con, khi tôi mở mắt ra nhìn thấy nó đứng kế bên con Hạnh với một đứa nữa, cả ba máu me đầy người như bị tai nạn xe cộ gì đó... 

Ông Nguyễn Đình lúc đó mới hoảng: 

- Chiếc xe! Chết rồi, con Hạnh lái xe đi... 

Ông gọi mấy tài xế trong nhà hỏi thì ai cũng đáp: 

- Đúng là sáng sớm này cô Tư có lái xe đi nhưng cũng tưởng như thường khi cô vẫn đi... 

Chị người làm trong nhà thuật lại: 

- Khi đi cô Hạnh có biểu tôi lấy cho mấy cái nồi, chảo và ít đồ nấu bếp, cả gạo nữa, tôi hỏi đi đâu thì cô nói đi chơi với mấy người bạn. Mà cũng lạ, từ nào giờ cô Hạnh có quen nấu nướng gì đâu? 

Bà Đình phụ họa: 

- Khi nấu cơm còn không biết vo gạo làm sao nữa thì đem theo nồi niêu để làm gì. Hay là nó đi xa lâu ngày? 

Ông Đình gắt: 

- Thì nó đã viết trong thư đó, nó đi luôn mà. 

- Nhưng đi đâu mới được, mà tại sao có cả Thu Hà nữa? 

Đó là sự lên tiếng của Tuấn. Từ cả tháng nay đây là lần đầu tiên anh trở về nhà. Thấy Tuấn, bà mẹ mừng quýnh: 

- Tuấn ơi, đi tìm tụi nó đi con! 

Tuấn kể: 

- Hồi nửa đêm con cũng thấy Thu Hà hiện về, mặt mày giập nát, máu me đầy người. Cô ấy không nói gì chỉ đứng khóc rồi sau đó biến đi... 

Chọn lựa mãi, cuối cùng ông Hồng Phát quyết định lấy vùng đất thung lũng dưới chân đèo Bảo Lộc để lập trang trại. Nhiều người hỏi mỉa mai ông: 

- Bộ hết chỗ sao ông lại chọn cái lòng chảo như chốn địa ngục này để lập ấp? 

Ông Hồng Phát nói riêng với từng người, không để ba cậu con trai nghe: 

- Mục đích của tôi là muốn ba thằng phá gia chi tử này sống cách ly với mọi người nên mới chọn nơi đây, chứ đâu phải không biết. 

Nhìn ba cậu con trai tuổi sung sức, nhưng xem ra cậu nào cũng yểu điệu như thục nữ, mấy người bạn ngán ngẩm: 

- Ba bảy hai mốt ngày là tụi nó bỏ trốn khỏi đây hết, lúc đó ông ở một mình với ma! 

Ông Hồng Phát cười gượng: 

- Đành phải thử xem sao, chứ hồi năm ngoái tôi đưa tụi nó về Cần Thơ. Vô tận trong chốn khỉ ho cò gáy vậy mà chỉ bốn ngày là chúng bỏ về Sài Gòn hết. Anh biết thằng lớn tên Thanh đó đã phá của tôi hết hai cái xe hơi, một căn phố lầu. Còn thằng Dương, em kế nó thì bán nguyên hai chiếc xe hàng chở cá. Thằng Ngọc là em út tưởng khá hơn, nhưng mới chưa đầy một năm nó đã ăn cắp bằng khoán nhà đem đi cầm cố đến hai lần, tôi phải đi chuộc về thiếu điều tán gia bại sản vì chúng nó. 

Rồi ông thở dài, nói tiếp: 

- Tất cả tiền của chúng đều đổ vô mấy đứa vũ nữ và sòng bạc Đại Thế Giới, Kim Chung hết. 

Một người bạn lắc đầu: 

- Đã chứng nào thì rồi vẫn tật nấy thôi. Ông có đưa chúng xuống đây thì rồi cũng có ngày chúng trốn đi thôi. 

- Biết vậy, những dù sao thì cũng phải làm. Mà mấy ông nên nhớ, con đường từ trên lộ cái xuống đây chúng ta phải nhờ những người thượng dẫn đường, có lúc còn phải võng đưa đi thì mới vượt qua được mấy con suối, khe sâu vực thẳm. Tôi hy vọng sự hiểm trở này sẽ cầm chân chúng lâu hơn. Đợi cho đến lúc tôi với má nó bán hết tài sản, gom lại vốn rồi về quê làm ăn. Lúc đó chúng nó có về cũng chẳng sao. 

Ông Hồng Phát tổ chức cũng khá hợp lý: Ông mướn người phát hoang năm mẫu đất rừng, sau đó cho trồng giống thông ba lá, là loại thông sắp tuyệt chủng ở Đà Lạt. Theo ông, việc trồng thông tuy lâu có huê lợi nhưng lại là cách tốt nhất để buộc chân ba cậu phá gia chi tử. Thanh lớn nhất làm nhiệm vụ cai quản chúng, Dương đã từng học ngành canh nông nên quán xuyến phần kỹ thuật. Riêng cậu út Ngọc thì lo việc điều động nhân công về giờ giấc, công việc, tiền công thì ông trả trực tiếp cho những người thượng ở trong núi để họ giúp việc trồng trọt, chăm sóc rừng, lại trả trước sáu tháng một lần, nên ba cậu con trai hầu như không ai nắm tiền để chi tiêu. 

Ông cất một ngôi nhà lớn ở giữa trang trại để ba người cùng ở. Nhưng cả ba đều phản đối, đòi ở riêng. Ngọc nói: 

- Con chỉ muốn ở một cái chòi nhỏ cũng được miễn là cái thế giới riêng của con, để con sáng tác thơ văn. 

Biết đâu con út của mình có năng khiếu văn chương, nên ông Hồng Phát thuận theo, nhờ người dựng cho Ngọc căn nhà sàn rất xinh ở một góc vườn. Thanh thấy vậy cũng đòi: 

- Con và Dương ở chung nhưng nhà có hai cửa cái hướng về hai hướng khác nhau, để mạnh ai nấy ra vào, sinh hoạt riêng tư. Con muốn có thì giờ nghiền ngẫm quá khứ để quên nó đi. 

Dương cũng nói: 

- Con sẽ tạo một khu vườn ươm riêng để nghiên cứu các loại giống cây trồng. Vậy ba mua về cho con các loại hạt, đủ loại hết. 

Thấy các con đều có ý muốn trụ lại như vậy, ông Hồng Phát thấy yên tấm lòng vô cùng. Ông ra về lòng mừng thầm nghĩ rằng, hy vọng lần này kế hoạch của ông sẽ không thất bại. 

Ông trở về Sài Gòn thu xếp công việc. Những dự tính như thu gom tài sản, bán nhà... không ngờ diễn ra nhanh hơn dự tính. Chỉ hai tháng sau là xong. Vợ chồng ông chuyển cả về Cái Răng, Cần Thơ lập nghiệp. 

Ba tháng sau ông trở lên Bảo Lộc. Phải mất cả nửa ngày ông mới tới được trang trại. Và việc thấy đủ mặt cả ba cậu con trai làm ông vui sướng khôn tả. Nhất là tất cả họ lại trong trạng thái khỏe mạnh, vui vẻ, yêu đời hơn sự tưởng tượng của ông. 

Ngọc mau mồm mau miệng nhất trong ba anh em, đã lên tiếng ngay: 

- Ba khỏi lo gì nữa cho tụi con. Anh Dương đã gieo được lúa để có gạo ăn, ảnh còn trồng được nhiều rau, trái mà không đợi giống của ba đem lên. Tất cả đều do có người mang tặng. Còn anh Thanh thì ngày nào cũng đi vào núi để tìm thông giống và săn bắn, đồ ăn thừa, có thể bán nữa! Còn con thì… viết được gần nửa cuốn tiểu thuyết khi nào xong sẽ nhờ ba đem về Sài Gòn in. 

Ngạc nhiên về chuyện đó, ông thử hỏi: 

- Không đứa nào muốn bỏ về Sài Gòn sao? 

Cả ba đều dứt khoát: 

- Tụi con sẽ ở luôn nơi đây. Mà không chừng... cưới vợ sinh con nữa! 

Nghe như chuyện cổ tích, ông Hồng Phát cười ngất tỏ vẻ không tin. Thanh xác nhận y như thật: 

- Tụi con sẽ cưới vợ ở đây! 

Ở lại trang trại ba ngày, ông Hồng Phát âm thầm tìm hiểu xem có phải ba đứa con mình đã tìm gặp các cô gái trong vùng núi này và kết họ? Nhưng ông chỉ mất công vô ích. Vùng vực sâu hẻo lánh này chỉ những người Thượng bản khai sinh sống, còn cô gái trẻ thì cô nào cũng mình trần, da mốc thâm sì và hầu như không bao giờ chịu tới gần người Kinh. Dứt khoát họ không phải là đối tượng của ba đứa con ông. 

Cuối cùng ông cũng tìm ra một kết luận cho riêng mình: các con ông đã thích nghi với công việc và đã thật sự hồi tâm biết suy nghĩ, biết lo tu thân... 

Khi ra về ông vui lắm...

Phần 4

Nhưng chắc chắn có một điều mà người cha tội nghiệp kia không bao giờ biết: Đó là cả ba đều đã thật sự có... người tình! 

Bắt đầu chuyện của Ngọc, cậu út mê văn chương, tâm hồn lãng mạn... 

Hôm đó vào giữa tháng, trăng tròn và sáng vằng vặc soi khắp khu thung lũng, đẹp như một bức tranh thủy mặc. Ngồi từ trong phòng trên nhà sàn nhìn ra, Ngọc bất giác buột miệng ngâm mấy câu thơ tình. 

Chợt có người cất ngang dòng thi hứng của anh: 

- Đúng là thi sĩ đa tình! 

Giật mình, Ngọc quay lại nhìn và vô cùng sửng sốt khi thấy đứng giữa phòng riêng của mình là một cô gái mặc bộ quần áo lụa màu hồng đẹp như tiên nga! 

- Cô… cô là…?

Thấy Ngọc lúng túng, cô gái tiến lại gần hơn và nhoẻn miệng cười đến đất trời cũng nghiêng ngả đắm say: 

- Khách vào nhà mà chẳng mời ngồi sao? 

Bấy giờ Ngọc mới ấp úng: 

- Cô làm sao cô... vô phòng được, khi cửa phòng tôi đã cài then? 

Quả nhiên cửa ra vào vẫn còn cài then bên trong. Cô gái lại giữ nguyên nụ cười: 

- Chỉ vì như vậy mà tôi không được cho phép ngồi phải không? 

Ngọc đành phải đứng lên nhường chiếc ghế duy nhất cho cô nàng ngồi, nhưng cô gái đã chủ động ngồi ngay lên giường ngủ vừa nũng nịu nói: 

- Mệt muốn đứt hơi, lại bị lạnh nữa, phải chi được phép nằm nghỉ một lát có lẽ thích lắm đây. 

Vừa nói cô nàng vừa ngả ra nằm tỉnh bơ như người quen thân. Ngọc càng khó xử hơn: 

- Cô… cô là… cô là… 

Cô gái mắt nhắm nghiền, giọng buồn ngủ thật sự: 

- Người ta bị lạnh cả đêm, có thể là bị cảm lạnh rồi cũng nên... 

Rồi cô ta thả hồn vào giấc điệp. Ngọc chẳng có cách nào khác, đành ngồi đó nhìn vị khách không mời. Lúc này anh chàng càng thẫn thờ, xao xuyến mãnh liệt hơn trước sắc đẹp phi thường của cô gái đang ngủ. Tưởng chừng như đây không phải là thực tế, mà là một giấc mơ nào đó... cho đến khi cô nàng lên tiếng mà mắt vẫn nhắm nghiền: 

- Người ta sắp chết rồi sao nhẫn tâm không cứu vậy? 

Như có sự thúc giục vô hình nào đó, Ngọc bước tới đưa tay sờ lên trán cô gái và định đi tìm thuốc cảm. Chợt cô gái đưa tay nắm chặt lấy tay Ngọc, giục giã: 

- Hãy cạo gió giúp đi. Nhanh lên! 

Ngọc nghe theo như cái máy. Anh hơi gượng khi kéo áo cô gái lên để thoa dầu, nhưng cô gái không e thẹn gì, còn rướn người lên để cho Ngọc dễ kéo áo lên. Phần da thịt cô ta hiện ra trước mắt trắng muốt, làm cho Ngọc như hoa mắt, mặt nóng ran, trống ngực đánh liên hồi... 

Cạo xong phần lưng, tự động cô gái xoay lại phần ngực. Thấy Ngọc còn đang do dự, cô nàng giọng yếu ớt giục: 

- Cạo luôn ngực nữa mới đỡ. 

Ngọc làm theo và gần như lúc đó những ngón tay anh không còn do mình tự điều khiển nữa. Cứ nhìn vào bộ ngực phập phồng lên xuống hai mắt Ngọc lúc mờ, lúc tỏ hơi thở cũng phập phồng theo. 

Đến một lúc tự dưng cô gái kêu lên: 

- Em lạnh quá, lạnh đến chết mất! 

Ngọc bừng tỉnh, đưa tay sờ vào da thịt cô nàng thì bất giác kêu lên: 

- Lạnh như băng! Trời ơi... 

Cô nàng vẫn nói: 

- Không còn cách nào khác nữa. Phải nằm đè lên người em thì mới cứu được em thôi. Em chết mất, trời ơi! 

Tiếng kêu của nàng như mũi kim xuyên con tim Ngọc, anh không còn tự chủ nữa, nhanh nhẹn leo lên nằm úp thân lên người cô gái. 

Và cứ thế... 

Lát sau Ngọc có cảm giác là toàn thân cô nàng đã ấm trở lại. Hơi thở cô ta đều hơn. Nhưng phần Ngọc thì từ từ chìm vào giấc ngủ sâu... 

Ngọn đèn dầu đã cháy hết tim, từ từ tắt lịm... 

Chuyện củaThanh thì bắt đầu từ một buổi trưa. Lúc đó Thanh đang nghỉ chân bên bờ suối sau một buổi sáng lội bộ đi gần khắp cánh rừng tìm cây giống. Không tìm được cây, Thanh quay sang săn bắn, công việc mà gần như ngày nào anh cũng làm. Nhưng thật không may, hôm nay Thanh bắn đến gần hai chục mũi tên mà chẳng làm bị thương một con thỏ. Chán nản Thanh đã ngồi nghỉ, rồi gió mát làm anh thiếp đi lúc nào không hay... 

Chợt có tiếng ai rên gần đâu dó khiến Thanh choàng tỉnh. Trước mắt anh là một cô gái người Kinh tuổi chưa đến 20, đang ngã quỵ trên thảm cỏ xanh, máu ở một bên vai cô chảy ướt cả áo. 

Chẳng thể nhận thức được là đang tỉnh hay mơ. Thanh lên tiếng: 

- Cô bị sao vậy? 

Đáp lại câu hỏi của Thanh chỉ là những tiếng rên yếu ớt. Xem chừng cô gái đã quá kiệt sức rồi, nên Thanh bước nhanh tới định đỡ nàng ta lên. Tuy nhiên, khi vừa chạm vàoThanh đã phải kêu lên: 

- Cô lạnh quá! chắc là... 

Thanh nhanh tay bế xốc cô gái lên định đưa về nhà mình. Nhưng vừa lúc ấy một cơn mưa to ập đến, nên dù không muốn Thanh cũng phải bế cô nàng đi ngược theo dòng suối, nơi anh nhớ rõ có một túp lều bỏ hoang của những thợ đốn gỗ. 

Căn lều tuy đã cũ, cũng đã lâu không có người ở, tuy nhiên nó vẫn còn kín đáo, đủ sức che mưa. Đặt cô gái xuống, bấy giờ Thanh mới nhìn kỹ, cô ta đẹp như một cô gái thành thị, cách ăn mặc thì đúng là một người từ thành phố tới. Đã lâu lắm rồi không được nhìn thấy nhan sắc như thế này nên Thanh cứ ngồi nhìn mê mẩn, quên cả việc cứu chữa vết thương cho cô ta. 

Mãi đến khi cô gái tỉnh lại, rên mấy tiếng nhỏ thì Thanh mới chợt giật mình, anh chạy ra ngoài tìm nhúm lá cây mà những người dân thiểu số quanh vùng chỉ dẫn dùng để trị thương, đem trở vô tìm cách kéo vai áo ra để đắp thuốc. Nhưng loay hoay mãi mà chẳng làm sao kéo được tay áo quá chật. Đột nhiên Thanh thấy người con gái đưa tay lên cởi nút áo và tuột nhanh cả phần trên, để lộ ra phần vai bị thương. Một vết thương khá sâu. Nhúm lá được đắp vào có hiệu quả tức thì, máu không còn chảy nữa. Lúc này cô gái cũng đã tỉnh lần. Cô lấy một mũi tên còn dính máu, đưa cho Thanh xem: 

- Ai đâu mà quá ác độc, bắn em mũi tên này, may mà chưa chết… 

Thanh giật mình khi nhận ra đó là mũi tên của mình. Anh lẩm bẩm: 

- Lúc nãy mình bắn trúng con thỏ mà? 

Cô gái nghe được giương mắt nhìn Thanh: 

- Anh đã bắn? 

Thanh càng lúng túng hơn: 

- Tôi... tôi bắn con thỏ. Bắn trúng nó rõ ràng... 

Lại một tiếng rên đau đớn. Cô gái dường như quá đau nên chụp cả hai tay vào người Thanh bóp mạnh. Dù rất đau nhưng Thanh cố chịu dựng và anh hơi yên tâm vì lúc ấy hai bàn tay cô gái đã không còn lạnh buốt như lúc nãy. 

- Suýt giết người mà chỉ đắp chút thuốc là xong sao? 

Thanh gỡ tay cô nàng ra, nhưng cô ta vẫn cố bấu chặt như cố tình giữ anh lại, lúc này Thanh mới pha trò được một câu: 

- Tôi không bỏ đi đâu, đừng lo! 

Vòng tay không còn bấu đau nữa mà là ôm nhẹ nhàng, rất dễ chịu. Thanh thầm mong cô ta cứ giữ yên như vậy... 

- Anh là người Đà Lạt xuống đây đi săn? 

- Không, tôi ngụ ở đây. Ở trang trại đàng kia. Còn cô? Sao lại lạc tới chỗ thâm sơn cùng cốc này? 

- Tôi ở Sài Gòn, lên đây đi săn cùng bố tôi sáng nay và bị lạc và bị nạn. Giờ chẳng biết bố tôi ở đâu rồi? 

Bấy giờ giữa họ đã có vẻ thân tình hơn, Thanh hỏi: 

- Cô tên gì? 

- Diệu Anh. 

- Tôi là Thanh, anh cả của nhóm ba anh em độc thân ở trang trại này. 

Giờ cô gái mới cười. Cô ta bật dậy như chưa hề bị thương và còn cười đùa: 

- Tôi chỉ một mình mà đến ba hàng độc thân. Vậy biết chọn ai bỏ ai? 

Thanh dang rộng hai vai như khoe thân hình to khỏe của mình: 

- Như vầy chắc không đến nỗi tệ? 

- Cái đó còn tùy... 

Cơn mưa bên ngoài đã dứt. Cô gái có vẻ lo lắng: 

- Bây giờ mới gay, chẳng biết làm thế nào để trở về Đà Lạt! 

Thanh nhìn mặt trời thấy còn sớm, nên bảo: 

- Tôi cũng chỉ mới lên xứ này chưa lâu nên không rành đường rừng núi quanh đây. Vậy cô nên ở lại, chờ vài bữa xem người nhà cô có trở lại tìm hay không. Còn nếu không thì tôi sẽ thuê người Thượng đưa cô đi... 

Cô ta le lưỡi rùng vai: 

- Ở lại nơi cái chòi này? 

Thanh cười: 

- Ai lại thế. Trang trại tôi có đủ tiện nghi, nếu cô Diệu Anh không ngại ba chàng độc thân thì về đó tạm mấy hôm, vừa điều trị thêm vết thương. 

Từ phút ấy đúng là phút giây định mệnh của Thanh... 

Dương dậy thật sớm, anh dặn hai anh em còn ở nhà: 

- Tôi ra rừng, vô bản người Thượng để tìm giống cây và nghiên cứu thổ nhưỡng, lúc nào xong mới về.

Anh chàng nói vọng vào cho Thanh và Ngọc nghe chứ thật ra từ cả tuần rồi chưa hề thấy họ thức sớm như trước đây. Cứ đóng cửa phòng ở miết trong đó... 

Anh còn nghe Ngọc nói vọng ra từ nhà sàn: 

- Đã bảo rồi, đừng gọi mà. 

Dương không đi sâu vào rừng mà đi ngược lại về phía thung lũng gần con đường đèo Bảo Lộc. Nơi đó có dòng suối chảy qua, nước quanh năm mát rượi, mà thường khi nếu không gấp gáp chuyện gì Dương vẫn thường hay đắm mình dưới dòng nước mát đó hàng giờ liền. 

Buổi sáng hôm đó trời khá đẹp, ánh nắng rọi xuyên qua cành lá xuống mặt nước trong xanh, cộng với tiếng róc rách làm thành một âm thanh và cảnh sắc mà bất cứ ai nhìn thấy cũng phải rung động bồi hồi. Dương cảm thấy trong người uể oải nên thay vì đi tìm cây thuốc trước, anh lại nẩy ra ý nghĩ sẽ tắm suối một chặp để thư giãn. 

Dòng nước mát quả có tác dụng rất tốt, chỉ ngâm mình vài phút Dương đã cảm giác thư thái, cứ muốn nhắm mắt ngủ một giấc. Do đã khá quen với đoạn suối này nên Dương ôm một gốc cây trôi giữa dòng rồi cứ thế thả mình lềnh bềnh theo nước trôi mà không cần quan sát hai bên bờ suối. 

Chợt đến một đoạn nước nông. Dương cảm giác như va chạm một vật gì đó khác thường, anh nhìn lại kêu lên: 

- Một người! 

Quả là một người đang nằm vắt ngang thân thể nửa trên bờ nửa dưới suối. Lại là một phụ nữ! 

Dương nhìn thấy dòng máu từ thái dương cô gái thì hốt hoảng gọi to: 

- Cô ơi, có sao không? 

Cô gái im lặng, nhưng nhìn hơi thở nhấp nhô ở ngực áo Dương hiểu là cô ta còn sống. Không chậm một giây. Dương bế xốc cô nàng lên và chuyển lên bờ, tìm một chỗ bằng phẳng đặt xuống. Việc đầu tiên là xé vạt áo lau khô chỗ vết thương ở thái dương và băng lại để cầm máu. 

Khoảng năm phút sau cô gái tỉnh lại, nhìn thấy Dương, cô hoảng hốt bật dậy ngay: 

- Ông là... 

Dương cố tạo vẻ thân thiện: 

- Tôi ở trang trại gần đây, vừa rồi nhân đi tắm suối thì gặp cô bị nạn. 

Cô gái chưa hết vẻ sợ hãi, hai tay ôm ngực, mắt nhìn láu liên khắp nơi như sợ có ai theo đuổi. Dương phải trấn an: 

- Nơi này ngoài cô và tôi ra thì không có một ai khác. Người ta gọi đây là thế giới khác mà. 

Cô gái vẫn chưa yên tâm: 

- Họ rượt đuổi theo tôi, họ sẽ bắt tôi lại, tôi... 

- Họ là ai? 

Cô gái im lặng hồi lâu mới kể lại chuyện: 

- Tôi bị gia đình ép gả cho một tên nhà giàu lớn tuổi hơn cha mình. Ông ta mang tôi lên Đà Lạt, đi ngang qua đèo tôi lợi dụng xin đi tiểu và lao xuống vực. 

Dương kêu lên: 

- Sao cô dại vậy, cô có biết là mình đồng xương sắt mà rơi xuống đây cũng nát tan ra, nói chi con người. 

Nhìn một lượt khắp người cô gái. Dương hỏi: 

- Cô xem còn bị thương ở đâu nữa không? 

Cô gái thử cử động chân tay rồi lắc đầu: 

- Không sao cả. Có lẽ lúc sáng này tôi đã rơi lên một tàng cây rồi sau đó rơi xuống dòng suối sâu... 

Dương chép niệng: 

- May quá cho cô. Đúng rồi, ở cách đây vài trăm mét thượng nguồn của dòng suối này, nơi đó rất sâu, nước từ đó đổ về đây. Có lẽ cô đã rơi và trôi từ đó xuống tấp vô chỗ này... 

Thấy cô nàng thương tích không nặng lắm nên Dương gợi ý: 

- Thương tích của cô không biết thế nào hay là tôi đưa cô về trang trại nghỉ tạm, đợi người nhà cô tới tìm... 

Cô gái cắt ngang: 

- Không bao giờ! Nếu họ tới tìm thì tôi thà đi luôn vô rừng sâu cho hổ beo ăn thịt còn dễ chịu hơn. 

Dương đưa tay cho cô ta nắm và đứng dậy: 

- Cô đi được chứ? 

Thử bước tới, chợt cô nhăn mặt có vẻ đau. Dương phải cúi người xuống bảo: 

- Cô không thể đi được rồi, hãy lên lưng tôi cõng cho. Đừng ngại. 

Mà cô gái chẳng chút ngại ngùng, bám trên lưng Dương một cách tự nhiên. Con đường từ suối về nhà ngót gần cây số lại gập ghềnh khó đi, nhưng sao cõng thêm một cô gái trên lưng mà Dương vẫn không hề thấy mệt. Anh thầm nghĩ và cười một mình... 

Vì không muốn để Thanh và Ngọc nhìn thấy, nên Dương đưa ngay cô về phòng riêng. Và để cho cô gái an tâm. Dương bảo: 

- Đây là nhà riêng của ba anh em chúng tôi. Mỗi người một thế giới riêng, chẳng ai phạm vào ai. Họ cũng chẳng thắc mắc gì việc có người lạ. Cô sẽ nghỉ trên giường kia, còn tôi sẽ ngủ ngoài hàng ba này, chỗ này đêm đêm tôi vẫn nằm đọc sách và ngủ quên nhiều lần. 

- Nhưng... 

- Cô đừng ngại, tôi chưa bao giờ làm điều gì xằng bậy với ai. Nhất là hiện tại tôi đang… tu tâm. 

Nếu tinh ý Dương sẽ thấy cô gái quay đi chỗ khác và mỉm cười. 

Dương thường khi rất ít nói, lầm lì nhất trong số ba anh em, vậy mà hôm nay anh ta lại hoạt bát lên hẳn. Vừa lăng xăng lo dọn dẹp phòng, chuẩn bị che chắn chung quanh giường ngủ vừa giải thích: 

- Tuy đây là phòng riêng, nhưng còn có tôi nên cô cần phải riêng biệt hơn. Trong phòng này có đủ tiện nghi cả, nào phòng tắm, phòng vệ sinh và cả bếp riêng. Hai anh em khác của tôi cũng có thế giới như thế này nên mạnh ai nấy lo, không bao giờ họ sang đây. Nếu lỡ có gặp họ ngoài sân thì cô cứ nói là... bạn ở Sài Gòn lên. Mà cô quý danh là gì, tôi biết được chứ? 

- Thu Nga. 

- Tôi là Dương. 

Đêm hôm đó lần đầu tiên trong phòng ngủ của Dương có mặt một người con gái. Đầu hôm Dương nằm ngủ ở hàng hiên, nhưng từ nửa đêm về sáng thì chẳng còn thấy bóng dáng anh chàng ở bên ngoài nữa...

Phần 5

Một tháng sau, ông Hồng Phát lại trở lên trang trại. Nhưng thay vì được những người thiểu số ở vùng núi đưa vượt rừng vượt thác, thì lần này ông Hồng Phát phải vô cùng khổ sở mò mẫm đi một mình đến gần nửa đoạn đường. Nguyên là bởi chẳng làm sao tìm được bóng dáng ai để mà nhờ. Tìm đến nhà cửa họ thì vắng tanh, kể cả nương rẫy của họ cũng không có người, kể cả người già và trẻ con cũng đi đâu mất cả. 

Phải đến khi trời đứng bóng, lúc mà đôi chân ông Hồng Phát đã rã rời và đầy vết trầy xước thì ông mới gặp được một già làng. Người này đã khá quen mặt, những lần trước đã từng đưa cha con ông Hồng Phát vào trang trại. Hỏi về sự vắng mặt khó hiểu của mọi người ở phía ngoài kia, già A Dúp giọng đầy lo lắng: 

- Họ đã bỏ làng chỉ bởi... sợ ma! 

Thấy chuyện lạ ông Hồng Phát hỏi tới: 

- Có chuyện như vậy sao? 

Già Dúp kể: 

- Cách đây gần nửa lần trăng tròn thì xảy ra chuyện hai thanh niên đi săn đã bị chết giữa rừng, mà người nào cũng bị moi ruột gan ra! 

- Ai đã làm chuyện đó? 

Già Dúp đưa hai tay lên trời: 

- Chỉ có Giàng mới biết. 

- Mấy con ma đó ở đâu mà ra? Sao mấy lần trước tôi lên lại không nghe nói. 

Nhìn vào ông Hồng Phát với vẻ hơi lạ và mãi một lúc già Dúp mới nói tiếp: 

- Nó ở chỗ mấy thằng con của ông! 

- Cái gì? Tại sao là các con tôi? 

Gà Dúp móc trong lưng ra một chiếc lắc đeo tay bằng bạc có khắc mấy chữ Thanh - Dương - Ngọc và nói: 

- Có phải của con ông không? 

Cầm vật chứng trên tay, ông Hồng Phát gật đầu xác nhận: 

- Đúng là của con tôi rồi. Cả ba đứa, mỗi đứa đều đeo chiếc lắc giống như vầy từ nhỏ. Nhưng ông lấy ở đâu ra? 

Kéo ông Phát tới một gốc cây to, già Dúp chỉ về phía trước và nói: 

- Đêm nào người làng tôi cũng nhìn thấy ba cái bóng trắng xõa tóc dài chạy lướt trên mặt cỏ từ trong trại của ông ra ngoài. Chúng đi vào các làng của chúng tôi và phá phách. Hễ đàn ông nào vô phước đi ra ngoài thì đều gặp nguy. Chính tôi đã liều bám theo chúng mấy đêm liền... cho đến cái đêm mà hai thằng con trai nhà bà Hơnen bị hại thì tôi nhặt được chiếc vòng này bỏ lại chỗ đó. 

Không thể tin được những điều vừa nghe, ông Phát xua tay: 

- Không thể nào như thế. Các con tôi ở với nhau, làm gì có con gái nào vô đó? Hay là ma rừng ma xó gì đó trong bản làng của các ông? 

Già Dúp giận dữ: 

- Ma của người chúng tôi không ác độc như vậy! Và ma của chúng tôi không mặc đồ trắng, xõa tóc dài như ma của người Kinh các ông. 

Nghĩ nếu có hỏi thêm chỉ rối trí, ông Hồng Phát nhờ già Dúp đưa mình vào trang tại. Nhưng già Dúp chỉ hứa: 

- Tôi chỉ đưa ông vô tới đầu thung lũng thôi, tôi không vô trang trại ông nữa. 

Mặt trời hơi ngả về Tây thì họ tới nơi. Ông Phát một mình vô trang trại và cũng hơi ngạc nhiên bởi sự vắng lặng khác thường nơi đây. Thấy cửa nhà của Thanh và Dương đều khóa chặt ông đi sang nhà sàn của Ngọc thì cũng thấy cửa đóng, tuy không khóa ngoài nhưng dường như không có Ngọc ở nhà.

Ông cất tiếng gọi đến lần thứ ba vẫn không nghe trả lời, nghĩ có lẽ các con ông đã ra rừng nên ông Phát bước tháo lui. Chợt có một thứ âm thanh nghe là lạ phát ra từ trong nhà. Giống giọng của Ngọc? 

Hoảng hốt, ông Phát bước lên thang chạy tới đẩy cửa vào. Trước mắt ông một cảnh tượng hãi hùng: Ngọc nằm trên sàn nhà, người trần truồng, còn trên cổ thì hai dòng máu chảy ra đã đông đặc lại. 

Đưa tay sờ mũi thấy Ngọc vẫn còn thở. Ông Phát hét to lên: 

- Thanh ơi! Dương ơi! Sang đây. 

Mặc cho ông kêu gào, chẳng thấy bóng dáng Thanh, Dương đâu. Linh tính điều không lành. Ông Phát chạy sang tông cửa phòng họ và một lần nữa ông kinh hãi khi thấy cả hai nằm thiêm thiếp trên gường, người gầy rạc. 

Phải mất cả giờ gào thét khản cả cổ, cuối cùng ông Phát mới thấy già Dúp xuất hiện cùng một số dân bản. Già Dúp nhìn ba chàng trai trong tình trạng đó, đã có nhận xét: 

- Họ bị ma quỷ hại rồi. Đích thị là ba cái bóng ma áo trắng đó chứ chẳng ai vô đây. 

Nhìn kỹ trên gối ở cả ba phòng ngủ của ba chàng trai đều còn vương lại nhiều sợi tóc phụ nữ dài và đen. Nhưng khi đưa lên mũi ngửi thì già Dúp cảm thấy mùi tanh rất khó chịu. Ông già kêu lên: 

- Mùi này giống như mùi xác chết! 

Ông Hồng Phát cũng có cảm nhận như vậy. Nhưng vì quá lo cho sự an nguy của các con nên ông giục mọi người: 

- Kệ những sợi tóc đi, hãy giúp tôi đưa các con tôi đi cứu chữa giùm, tôi lạy các ông. 

Già Dúp tỏ ra khá rành chuyện tà ma, ông nói: 

- Bị chuyện này có chở đi nhà thương cũng vô ích. Để tôi chữa cho. 

Ông đích thân đi ra rừng, hơn nửa giờ sau trở vô với một nhúm cỏ và nắm lá trên tay. Ông bảo mọi người: 

- Trong lúc tôi đổ thuốc cho họ thì ai đó hãy giúp tôi nấu ba con gà, lấy nước cất cho họ uống khi tỉnh lại. 

Phương pháp chữa bệnh ấy tỏ ra có hiệu quả. Khoảng vài giờ sau thì cả ba đều tỉnh lại. Trong số đó có Ngọc là yếu hơn và tỏ ra vẫn còn kinh hoàng khi nhìn thấy mọi người. Anh kêu thét lên từng chặp:

- Đừng! Đừng hút máu tôi! 

Riêng Thanh và Dương thì cứ mở mắt ra rồi lại nhắm nghiền lại, ai thính tai lắm thì mới nghe họ gọi rất khẽ trong miệng: 

- Đừng đi, Thu Nga. Đừng đi... 

- Diệu Anh, anh muốn chết cùng em, chờ anh với! 

Ông Hồng Phát cũng muốn phát điên với ba đứa con của mình. Ông bất lực nhìn họ như nửa sống nửa chết, như điên như dại mà thở dài... 

Già Dúp và đám dân bản lần lượt ra về. Trước khi đi già Dúp còn nói với lại: 

- Nơi này không ở được đâu, hãy đốt trại mà đi đi! 

Không trả lời, nhưng trong ý nghĩ của ông Hồng Phát cũng đã tính tới điều tương tự như vậy... 

Trên đường lên Đà Lạt, không lần nào Thái gặp rắc rối như lần này chuyến xe đò anh đi đang chạy bon bon từ Sài Gòn lên một cách ngon lành, bỗng dở chứng khi lên đến giữa đèo Bảo Lộc. Chính bác tài xế cũng ngạc nhiên càu nhàu: 

- Chiếc xe mới làm lại máy, nó chạy hai chuyến rồi đâu có triệu chứng hư hỏng gì... 

Bác tài xuống xe, dở nắp capô kiểm tra máy thấy không có gì bất thường, lại leo lên xe nổ máy thử. Xe nổ máy ngon lành! Lúc đó Thái và hành khách đang xuống nghỉ chân, được kêu gọi trở lên xe đi tiếp. Thái bước lên sau cùng... 

Tuy nhiên điều lạ đã xảy ra: lúc Thái vừa lên xe thì máy đang nổ bỗng tắt. Bác tài đề lại thì vẫn không chạy. Lại yêu cầu xuống xe tránh cho xe tuột dốc và Thái là khách đầu tiên bước xuống. Lạ thay khi Thái vừa đặt chân xuống đất thì tự nhiên máy xe lại nổ! Thái bực dọc bước trở lên và... máy xe lại trở chứng! 

Việc này lặp lại đến lần thứ tư. Đến Thái cũng ngạc nhiên, anh thử không lên xe lần sau cùng và bảo tài xế. 

- Anh thử tắt máy rồi đề lại xem sao? 

Tắt, mở máy một cách dễ dàng như chẳng có gì xảy ra. Nhưng hễ Thái bước lên là máy lại cứ ì ra đó, làm cách nào cũng không hoạt động. Cuối cùng một vị khách lớn tuổi phải có ý kiến: 

- Hình như cậu này quá nặng bóng vía! 

Một người khác cũng góp vào: 

- Thường mấy người nặng vía đi xe hay gặp trục trặc lắm. 

Thái phát cáu lên: 

- Làm sao biết nặng hay nhẹ? Tôi đi xe cũng trả tiền như mọi người và đã đi hơn chục năm nay trên con đường này mà có gặp gì đâu? 

Đến lần thứ sáu vẫn còn rắc rối, đợi đến khi Thái bước xuống xe, bác tài xế phải lên tiếng năn nỉ Thái: 

- Cậu làm ơn giúp mọi người đi về nhà sớm. Tôi trả tiền xe lại cho cậu, lát nữa còn mấy chuyến xe nữa lên cậu đi giùm… 

Một hành khách ngồi gần Thái đã chủ động chuyển chiếc túi xách của anh xuống như một thái độ dứt khoát đuổi vị hành khách xúi quẩy xuống cho rồi! 

Dù muốn phản đối, nhưng trước tình thế đó Thái đành phải chấp nhận, Anh ngán ngẫm đứng một lúc rồi lê bước từ từ lên đỉnh đèo, hy vọng đón được chuyến xe khác để về nhà nghỉ ngơi. 

Đi chưa được trăm mét bỗng một cơn mưa như trút nước đổ xuống. Mưa trên vùng cao là vậy, chợt đến không đoán trước được. 

Nhìn quanh tìm một nơi khả dĩ có thể đứng trú mưa, chợt Thái nhìn lên phía núi và thấy một cái miếu. Không chút lưỡng lự, Thái cố leo lên các bậc đá thật nhanh để lên đó. Anh nghĩ, dù sao vẫn tốt hơn đứng chịu trận giữa đèo trơ trọi như thế này. 

Lên đến nơi thì đôi chân Thái đã mỏi nhừ, anh thấy cửa miếu không đóng nên bước luôn vào. Bên trong tối om, thoạt nhìn không thấy gì... 

Mùi ẩm mốc xông lên mũi đến khó chịu, nhưng Thái vẫn cố chịu, bởi giờ phút này ngoài nơi đây thì không còn nơi nào khác để trú mưa. 

Ngồi khoảng mười lăm phút thì mắt đã quen với bóng tối. Thái đảo mắt một lượt. Không có bệ thờ, cũng không tượng hay bất cứ vật gì thường thấy của một ngôi miếu. Ngoại trừ... 

Thái chú ý đến mấy vật gì đó như túi xách đang đặt dưới sàn còn ngổn ngang. 

- Như vậy là có người ở? 

Sẵn bao diêm trong túi, Thái vừa bật lên vừa lên tiếng: 

- Có ai trong miếu không, tôi xin tá túc... 

Chẳng có ai đáp. Khi đó Thái đã nhìn rõ có ba chiếc túi xách và một bao căng đầy những vật gì đó bên trong... 

Đưa tay chạm vào thì thấy bụi đã bám, chứng tỏ chúng đã được để ở đó khá lâu. 

Chợt anh kêu lên: 

- Cái này... 

Một trong ba túi xách gây sự chú ý của Thái. Anh bước tới cầm lên và thấy rõ cái thẻ nhỏ ghi mấy chữ Thiên Hương trên đó. 

- Của Thiên Hương! 

Thái không thể lầm được, chính anh cùng Hương đã đi mua chiếc túi này tại chợ Đà Lạt khi Thiên Hương còn học nội trú trên đó. Đánh bạo mở túi ra, rõ ràng đều là quần áo của Hương. Thái kêu lên thảng thốt: 

- Thiên Hương, em ở đây mà! Hương ơi! 

Trời đang mưa, sấm rền vậy mà tiếng gọi to của Thái vẫn vang ra bên ngoài. Anh gọi đến hơn mười lần đến khàn cả cổ mà vẫn chẳng ai đáp lại. Thái như điên cuồng thoát chạy ra ngoài bất chấp gió mưa. Vừa chạy vừa gào thét, gọi tên Thiên Hương. Như anh đã gọi trong tuyệt vọng từ sáu tháng trước, khi hay tin Hương mất tích. 

Cho đến khi cơn mưa dần tạnh thì Thái cũng lả người đi, anh quỵ ngã ngay trước cửa miếu.

Phần 6 

Chuyến xe chót lên Đà Lạt vù chạy, bỏ lại hai hành khách vừa mới xuống xe trước đó mười lăm phút khi xe bị hỏng máy. 

Tuấn bực tức nói: 

- Họ đổ thừa tại mình mà xe chết máy trên đèo và lợi dụng lúc mình đi vệ sinh đã bỏ chạy, quân khốn kiếp! 

Phú bình tĩnh hơn, chỉ chép miệng than: 

- Từ đây về tới thị trấn Bảo Lộc cũng mất cả năm bảy cây số, biết đi làm sao đây? 

Tuấn vẫn còn ấm ức vì bị vu cho là người nặng bóng vía, anh đấm đấm tay lên trời: 

- Xe họ hư máy là tại xe cũ, chứ sao lại đổ thừa mình chứ! 

Phú nhớ lại và bất giác nói: 

- Mà kể cũng lạ thật, tại sao mỗi lần hai người mình bước lên xe thì máy lại không nổ nữa. Hễ mình bước xuống thì máy lại nổ? Họ đã thử đến hơn chục lần chứ bộ... Anh có thấy kỳ không anh Tuấn? 

- Ờ thì cũng kỳ... nhưng mình không tin chuyện dị đoan bậy bạ đó. 

Phú cười như mếu: 

- Nhưng cánh tài xế họ tin và cả các hành khách họ cũng nghĩ như vậy mới chết mình! 

Tuấn nhìn đồng hồ tay và càng lo thêm: 

- Đã hơn năm giờ rồi, làm sao về Đà Lạt đây? Thái chờ trên đó chắc là lo lắm đây, mình đã hẹn Thái chắc chắn là bọn mình sẽ cùng gặp ở nhà Thủy Tạ mà... 

Nghe nhắc đến Thái. Phú hỏi: 

- Mình chưa biết mặt Thái, nhưng nghe anh Tuấn nói thì Thái tội Iắm phải không? 

Tuấn thở dài: 

- Kề từ khi Thiên Hương mất tích cùng với Vân Hạnh và Thu Hà, thì Thái gần như điên như dại, bỏ cả học hành, cứ đi lang thang khắp chốn để tìm. Mình và cậu tuy cũng đau khổ nhưng vẫn còn bình tĩnh hơn nó... 

Phú nghe nhói trong tim khi nghe Tuấn nhắc lại chuyện đau lòng. Anh cúi gầm mặt không nói gì... mãi hồi lâu anh mới bảo Tuấn: 

- Cám ơn anh Tuấn đã lặn lội lên tận vườn trà cho em hay chuyện Vân Hạnh. Nếu không chắc là còn lâu lắm, em vẫn đinh ninh Hạnh vẫn còn ở nhà. 

Tuy cơn mưa vừa ngớt nhưng gió vẫn thổi mạnh và lạnh hơn. Phú có kinh nghiệm sống ở vùng này hơn, nên bảo: 

- Trời này sẽ còn mưa nữa đây, mà mưa lớn nữa. Mình liệu mà tìm chỗ trú mưa, kẻo... 

Chợt Phú kêu lên: 

- Ở trên kia có cái gì giống như nhà! 

Tuấn nhìn theo thì cũng nhận ra lờ mờ một ngôi miếu, anh chán nản: 

- Chỉ là một ngôi miếu hoang, mình từng nhìn thấy mỗi lần đi qua đây. 

Nhưng Phú vẫn tỏ ra quan tâm: 

- Một ngôi miếu lúc này có vẫn hơn không. Mình lên đó trú mưa đi. Tuấn không hề muốn, nhưng lúc này chẳng còn cách nào hơn nên sau vài giây do dự, anh gật đầu: 

- Được rồi, mình cứ lên trên đó khi nào nhìn thấy có ánh đèn xe đi lên thì mình chạy xuống chặn họ lại quá giang. 

Trời không còn sáng nữa, nên việc leo lên dốc có hơi vất vả. Phải hơn năm phút sau họ mới lên tới gần ngôi miếu, Tuấn đi trước, chợt anh khựng lại nhìn thấy có vật gì đó trước cửa miếu, anh kêu lên: 

- Có người kìa! 

Rõ ràng có người nằm sóng soài trước cửa miếu. Phú nhanh chân hơn, bước tới cúi xuống và reo lên:

- Anh ta còn thở anh Tuấn ơi! 

Tuấn bước đến sát hơn và lần này đến lượt anh kêu lên: 

- Thái đây mà! 

Họ đỡ Thái vô trong miếu. Bật diêm sáng lên, soi rõ mọi vật. Tuấn không kiềm chế được xúc động khi nhìn thấy chiếc túi xách màu đỏ: 

- Đây là... 

Anh lao tới mở vội túi xách ra và nhận từng món trong đó. Tất cả là của Thu Hà. Đúng là của Thu Hà rồi! 

Phú cũng lấy chiếc túi xách màu đen còn lại, vừa mở ra thì chính Tuấn hét lên: 

- Cái đó là của Vân Hạnh! 

Vừa lúc đó Thái cũng vừa tỉnh lại. Anh vô cùng ngạc nhiên khi thấy hai người. 

- Sao lại... 

Tuấn mừng lắm: 

- Cậu đã tìm gặp họ rồi phải không? 

Thái ngơ ngác: 

- Gặp ai? 

- Thiên Hương, Vân Hạnh, Thu Hà. 

Thái nhìn sang những chiếc túi xách và bất giác kêu to: 

- Thiên Hương! 

Niềm hy vọng vừa lóe lên trong Tuấn và Phú đã tắt lịm sau khi Thái kể chuyện đã chạy tìm khắp nơi mà chẳng có tăm hơi gì. 

Tuấn nhìn bụi bặm bám bên ngoài các túi xách, anh càng thất vọng hơn: 

- Họ đã ở đây khá lâu rồi,cứ nhìn bụi bặm thì biết. 

Phú lục lọi túi thức ăn và xác nhận điều đó: 

- Thức ăn đã hư thối từ lâu rồi, chứng tỏ họ chưa ăn đã... 

Thái không dám tin vào sự thật: 

- Nhưng họ để đồ đạc ở đây rồi đi đâu? Họ là con gái thì đi đâu xa được. 

Tuấn cũng nói: 

- Khi đi Vân Hạnh lái xe. Vậy để xe ở đâu mà lại lên đây? Hay là... 

Mấy lời nói của Tuấn đã làm cho Thái và Phú sững sờ. Họ nhìn nhau không nói gì nhưng hình như đều có chung một ý nghĩ... 

Tuấn kéo tay hai bạn: 

- Đi! Ta xuống dưới kia! 

Họ lao xuống đường rất nhanh. Tuấn vẫn là người dẫn đường, anh giục: 

- Hồi nãy trước khi lên đây tôi nhìn thấy một chiếc xe bỏ nằm bên vách núi, ta tới đó xem. 

Đường đèo dốc quanh co, lại tối thăm thẳm, vậy mà ba chàng trai vẫn băng băng lao đi. Khoảng hai mươi phút sau thì tới chỗ chiếc xe. Họ thất vọng ngay, bởi đó là một chiếc xe tải nhẹ cũ. 

Quá thất vọng, họ đều ngồi bệt xuống cạnh chiếc xe. Lát sau có ánh đèn pha từ dưới dốc quét lên. Rồi một chiếc xe tải nặng chạy lên khá chậm. Khi nhận ra có người bên cạnh chiếc xe chết máy, tài xế hỏi với xuống: 

- Xe “ban” hả? Có cần giúp đỡ gì không? 

Tuấn nhanh miệng: 

- Không phải xe của chúng tôi. Tôi muốn hỏi, gần đây anh có thấy chiếc xe du lịch nào bỏ lại đây không? 

Một chị đi buôn ngồi bên cạnh tài xế vọt miệng nói: 

- Không có xe nào bỏ lại, chỉ có một chiếc lọt xuống vực này mà thôi. Nhưng lâu lắm rồi... 

Cả ba chàng đều lao ra bám cửa xe, hỏi dồn: 

- Chị nói rõ hơn được không. Tai nạn thế nào? 

Chị kia giục tài xế: 

- Tới chỗ bằng phẳng kia dừng lại một chút. 

Chị ta thuộc loại người lắm điều thích huyên thuyên chuyện thiên hạ, nên đây là dịp để trổ tài: 

- Tui đi buôn bán qua lại con đường này thường ngày nên chyện gì xảy ra tôi cũng biết. Chuyện chiếc xe lao xuống vực đó ít người biết lắm, chỉ có tôi đã vô tình nghe được một người dân thiểu số dưới thung lũng bên dưới đèo kể lại. Họ thấy chiếc xe lao xuống và nhiều người rơi ra. 

Thấy ba chàng trai đang lo lắng tội nghiệp, nên bác tài xế đề nghị: 

- Các cậu leo lên xe, tui đưa giúp về Đà Lạt rồi tính sau. Chuyện của bà này kể đâu đã xác thực gì. 

Cả ba đều buông tay cùng lúc không bám cửa xe nửa. 

Phú khoát tay: 

- Cám ơn, anh đi đi, tụi tui ở lại có chút việc. 

Bác tài cảnh giác: 

- Trời này mà ở lại trên đèo là nguy hiểm lắm đó nghen. 

Mặc cho lời cảnh báo, cả ba vẫn thẫn thờ đứng trơ trọi giữa đêm đen với nỗi lòng nặng trĩu... 

Họ tìm cách xuống thung lũng. Phú là người mở đường bởi anh là người sống ở vùng rừng núi lâu năm. Đầu tiên họ theo hướng phía gần chân đèo đi ngược lên. Đây là con đường xa và nguy hiểm, nhưng chẳng còn cách nào hơn, bởi bấy giờ đang là mùa mưa, nước ở các dòng suối dâng cao và luôn gây nguy hiểm cho người vượt qua nó. 

Cũng may cho họ, vừa rời khỏi chân đèo một quãng hơn cây số họ đã gặp một người dân địa phương. Anh ta là người thiểu số nói được tiếng Kinh nên sau khi nghe Phú hỏi về tung tích những chiếc xe bị rơi, anh ta chỉ tay về phía trước: 

- Cách đây hơn năm cây số ở đó thường có tai nạn rơi xe. Người ở thung lũng đều tránh xa không dám dựng nhà nơi ấy... 

Có người dẫn đường nên việc đi đứng của ba người đỡ nguy hiểm hơn. 

Trong số họ có Thái là tỏ ra suy sụp hơn cả. Từ lúc tỉnh dậy đến giờ lúc nào Thái cũng luôn miệng gọi Thiên Hương và đi đứng cứ như người mộng du. Tuấn phải nhắc nhở: 

- Cậu như thế thì làm sao đi tìm kiếm cho được. Dù sao cũng đã đến nước này rồi, phải dũng cảm đương đầu với thực tế chứ... 

Tuy mạnh miệng nói với Thái như vậy nhưng trong lòng Tuấn tan nát, rối bời không hơn gì bạn. Tình yêu đối với Thu Hà đã làm cho Tuấn sống mà như chết suốt gần sáu tháng qua. Anh đã bỏ cả suất đi Pháp du học theo lệnh cha mẹ và bỏ nhà đi tìm Vân Hạnh và Thu Hà ở khắp mọi nơi. Anh đã từng lên Đà Lạt mấy lần và do đó mới gặp được Thái và nảy ra ý nghĩ tìm Phú để cùng đi tìm những người họ yêu thương. 

Chỉ có Phú là lúc nào cũng im lìm luôn giấu tình cảm của mình, dù trong lòng anh cũng chẳng khác gì hai bạn cùng cảnh ngộ. Nhất là lúc anh bị ông bà Nguyễn Đình làm áp lực buộc anh phải chấp nhận lưu đày lên đồn điền trà, nơi mà sự khắc nghiệt không thua gì thung lũng dưới vực sâu này. Anh đã chịu đựng sự chia lìa với Vân Hạnh đến hơn sáu tháng, nhưng luôn tin tưởng rằng người yêu anh sẽ chờ đợi và cuối cùng sẽ được tái hợp cùng nhau. 

Người dẫn đường đưa họ vượt qua một thác nước nhỏ, men theo con suối nước chảy siết đưa về phía gần chân đỉnh đèo, anh ta bảo: 

- Ở đoạn đó xe thường xuyên rơi xuống, có lúc có xác người trôi về phía này, người làng vớt được và đem chôn ở chỗ kia. 

Anh ta chỉ về một đồi thấp, nơi có hơn chục ngôi mộ cỏ đã mọc xanh rì. Phú sốt ruột hỏi: 

- Làm cách nào đi về phía đó nhanh hơn? 

Người dẫn đường xua tay: 

- Nơi đó không tới được đâu. Xe trên đèo lúc nào cũng có thể rơi xuống đầu các anh. 

Tuấn cương quyết: 

- Anh cứ đưa chúng tôi tới gần nơi đó, rồi chúng tôi sẽ tự đi. 

Khoảng một giờ sau họ tới giữa con suối, ngước nhìn lên trên thăm thẳm, Tuấn bất giác than: 

- Như thế này mà xe rơi xuống làm sao sống nổi! 

Cả ba người đều không ai bảo ai, đã lặng người mấy mươi giây. Thái, người yếu đuối hơn cả, nắm lấy tay Tuấn giọng run run hỏi: 

- Làm sao bây giờ anh Tuấn? 

Tuấn chưa biết tìm lời gì để an ủi, chỉ nghe Phú kêu lên: 

- Có một chiếc xe trong hốc đá đằng kia! 

Theo hướng tay của Phú, Tuấn nhìn theo và hốt hoảng: 

- Xe đó là xe của Vân Hạnh! 

Chiếc Simca 9 sơn hai màu xanh và đen nổi bật giữa hốc đá, cả bảng số xe nữa, đứng cách hơn năm mươi thước vẫn nhìn rõ. Tuấn chẳng ngại chướng ngại phía trước, vạch cỏ gai bước nhanh về phía chiếc xe. Lại gần mới nhận ra phần đầu xe đã bị giập nát, các cửa xe đều bung ra, nhưng phần đuôi xe thì vẫn nguyên vẹn. 

Cả ba người trong trạng thái lo sợ, bước từng bước đến bên xe đưa mắt nhìn vào trong... Trong xe chẳng hề có ai, dù là một bộ xương người. 

Thái đã khóc ngất từ nãy, anh vịn vào vai Tuấn như nhờ sự tiếp sức, miệng thì lẩm bẩm: 

- Thiên Hương có thể còn sống không, anh Tuấn? 

Phú tỏ ra rành hơn: 

- Thường những người ngồi trong xe rơi xuống vực đều bị bắn tung ra ngoài. Ta hãy tìm chung quanh đây... 

Một cuộc lùng sục cật lực cho đến lúc trời xế trưa vẫn chưa thấy gì. Hơi nản lòng, Tuấn đề nghị: 

- Chúng ta vào trong bản kia nghỉ trưa, chiều tìm tiếp. 

Thái chưa muốn đi khiến Tuấn phải nhắc lại lần nữa: 

- Họ đã rơi xuống đây sáu tháng rồi, có tìm gặp cũng chỉ là... 

Tuấn bỏ lửng câu nói, cả ba cùng đi về phía làng. Người dẫn đường còn chờ họ trên đồi, anh ta chỉ về phía một trang trại lớn: 

- Muốn nghỉ ngơi thì vô trang trại bỏ hoang kia kìa. 

- Trang trại sao lại bỏ hoang? 

Phú hỏi. Anh dẫn đường nói rõ: 

- Đây là trang trại của một ông từ Sài Gòn lên lập cho ba người con trai. Nhưng họ chỉ ở được ba bốn tháng thì suýt bỏ mạng... 

Tuấn ngạc nhiên: 

- Sao vậy? 

- Họ bị ma bắt hồn! 

Cả ba bị cuốn hút vào câu chuyện ma. Khi anh ta kể đến việc có ba con ma nữ thì Thái là người nhạy cảm hơn cả, đã kêu lên: 

- Thiên Hương không thể là ma được! 

- Nhưng có ai bảo Thiên Hương là ma bao giờ? - Tuấn bảo. 

Tuy nhiên càng nghe người dẫn đường kể thì chính Tuấn cũng thấy giống những người yêu của họ. Cho đến khi được đưa lên ngôi nhà sàn thì chính Thái đã reo lên khi nhìn thấy chiếc lược cài tóc nằm trên giường: 

- Cái này là của Thiên Hương! 

Chính Thái đã mua tặng Hương chiếc lược màu tím có hình con bướm vàng với hai chữ TH lồng vào nhau. 

Đúng là Thiên Hương từng sống ở đây? Cô ấy còn ở đây! Thái chạy khắp trong ngoài nhà lùng sục, vừa kêu to: 

- Thiên Hương! Hương ơi. 

Anh chàng dẫn đường lắc đầu: 

- Anh ta điên rồi! Chính cô gái ma từng vào căn nhà sàn này và làm cho con trai út ông chủ trang trại gần mất mạng, sao lại là người yêu của anh chàng này! 

Ở những căn phòng khác. Tuấn và Thái đều tìm gặp những vật dụng của Thu Hà và Vân Hạnh. Cầm trên tay chiếc khăn quàng cổ màu hồng nhạt mà khi lên đồn điền. Hạnh đã choàng cũng như đã từng quàng cho Phú lúc Phú bệnh. Ở một góc khăn còn hằn rõ hai chữ VH do chính tay Phú ghi. 

Tuấn thì nhặt được một chiếc đồng hồ đeo tay để trên bàn viết của một căn phòng. Chiếc đồng hồ đó là quà tặng của anh cho Thu Hà lúc hai người quen nhau được một tháng nhân lần Tuấn đưa người yêu đi chèo ghe ở Phú Định. 

Người dẫn đường kể đầy đủ chuyện ba con ma nữ hại ba đứa con trai chủ trang trại Hồng Phát. Câu chuyện ông kể làm Tuấn, Phú và Thái nghe lạnh cả người...

Phần 7

Cuối cùng thì chính Phú cũng tìm được ba bộ xương người nằm ở một bãi đá phía hạ nguồn dòng suối. Anh nhận ra sợi dây chuyền mặt vàng có lộng hai chữ VH còn đeo ở xương cổ. 

Họ mang cả ba bộ xương lên và ngay hôm đó họ đặt giữa miếu hoang một mâm nhang đèn trịnh trọng. Lễ cúng chỉ với những nải chuối rừng và cả ba chàng trai đều ngồi ở các góc phòng trên tay ôm ba bộ xương, người thừ ra, mắt nhìn về phía trời xa... 

Ngày hôm sau và cả tuần sau nữa, họ vẫn như những người hóa đá ngồi lặng yên trong miếu... 

Rồi đến một hôm bỗng dưng họ biến mất chẳng để lại chút tăm hơi nào... 

Có tin đồn rằng cả ba do quá đau khổ và chán chường đã mang theo xương cốt người yêu đi sâu vào vùng rừng núi để chôn chặt cuộc đời còn lại... 

Cũng có tin nói rằng trong một đêm tăm tối, mưa gió bão bùng, vì quá tuyệt vọng cả ba đã lao mình xuống vực... 

Chẳng ai biết điều nào là đúng. Chỉ có điều là kể từ khi ấy những người chạy xe qua đèo Bảo Lộc đều kháo nhau rằng đêm đêm họ thấy có ánh đèn trên ngôi miếu hoang. Thỉnh thoảng còn có tiếng khóc trên đó vọng xuống... 

Có người còn quả quyết rằng chính họ đã từng nhìn thấy ở đoạn đèo gần ngôi miếu thỉnh thoảng xuất hiện ba bóng con gái mặc toàn đồ trắng. Họ đứng ủ rũ bên đường gần bờ vực. Có khi lại thấy họ đứng giữa ngã ba như chờ đón xe lên xuống. 

Nhiều tài xế nói rằng nếu lái xe qua đó mà không thành tâm khấn vái thì rất dễ hoa mắt, xe rất dễ bị rơi xuống vực. 

Có người còn quả quyết rằng dù gia đình ông Nguyễn Đình và Phát Đạt không biết cụ thể về cái chết của các con họ, nhưng tự dưng họ rất sợ đi qua đường đèo Bảo Lộc. 

Rồi chẳng biết do ai mà ngôi miếu hoang trên núi đã được trùng tu, có bệ thờ, có bàn hương và có người thường xuyên đến lễ cúng, và ngay cạnh miếu mọc lên ngôi mộ bia, nhưng ai cũng biết để chôn tượng trưng ba cô gái chết oan. Cũng từ đó người ta gọi ngôi miếu ấy là Miếu Ba Cô và mộ ba oan hồn... 

Gọi riết thành danh. Sự linh ứng cũng ngày càng tăng. Dân đi buôn rất tin tưởng và thường dừng xe lại cúng. 

Không nghe có sự phá phách nào từ những oan hồn trong miếu…

MA ĐỎ ĐEN 

Phần 1

Sòng bạc Đại Thế Giới một chiều cuối năm 1955... 

Vì là ngày cuối tháng, lại cận Tết, nên khách chơi ở các bàn trong toàn khu Casino lớn bậc nhất Sài Gòn hơi ít người hơn thường lệ. Đặc biệt là các sòng Roulette, nơi các tay chơi tài tử thường có mặt...

Do đó khi có hai người khách bước tới đặt tiền thì các hồ-lì vui ra mặt. Những tiếng “hối a” vang lên báo hiệu vòng quay Roulette bắt đầu, gây chú ý cho các tay chơi đang còn lưỡng lự chưa biết phải ghé vào bàn chơi nào. Cuối cùng họ cũng tấp vô bàn đang có hai vị khách một nam một nữ đang hào hứng chơi. 

Người nữ tuổi trên dưới ba mươi, nhưng trông dáng như gái mười tám đôi mươi. Cô nàng ăn mặc bộ sườn xám bằng gấm Thượng Hải màu vàng anh trông nổi bật, vừa sang trọng quý phái. Còn trang sức trên người cô ta thì bất cứ ai thoạt nhìn cũng phải lóa mắt, bởi hai chiếc vòng tay bằng bạch kim nạm mấy chục viên kim cương sáng óng ánh. Còn hai bên tai thì long lanh đôi hoa tai hồng ngọc lớn cỡ ngón tay cái mà bất cứ dân sành nữ trang nào cũng đều mơ ước, thèm thuồng... 

Đặc biệt nàng ta mang theo tiền mặt thật nhiều chứa căng cả chiếc ví tay loại lớn. Đánh thì khiến cho các người bên cạnh tối tăm mặt mũi khi cô ta đặt mỗi cây bài đến cả xấp tiền phỉnh trị giá lớn. 

Đã qua bốn vòng RouIette, cô nàng đặt trước sau bốn lần mà lần sau đều gấp đôi lần trước. Cô ta đều thắng. Các “hồ-lì” đã bắt đầu run, họ ngầm đưa mắt cho nhau để báo cho quản lý cuộc chơi đang đứng gần đó. Nhưng hầu như ban quản lý bất lực, bởi luật chơi ở sòng nếu không phát hiện khách có biểu hiện gian lận, thì họ có thắng đến đâu thì cũng không có quyền ngăn họ lại. 

Đến ván thứ năm thì vị khách nữ này đặt hết số phỉnh đã thắng từ đầu vào một tụ duy nhất. Các khách chơi khác nãy giờ chứng kiến vận hên của cô nàng nên chẳng ai bảo ai đều nhất loạt đặt đúng vào tụ đó. Số tiền lên quá cao, khiến cho cô hồ-lì hơi chùn tay. Bởi nếu cô nàng tiếp tục thắng ván này nữa thì có nguy cơ phải báo cho giám sát cuộc chơi đưa thêm tiền ra chung. 30 giây... 20giây... 15glây... 10 giây... 

Theo quy định thì đúng 30 giây sau khi khách đặt đủ tiền, Roulette phải quay để biết thắng thua. Chỉ còn khoảng 4 giây sau cùng bỗng người khách nam mặc bộ veston mà trắng nãy giờ đứng cạnh người đẹp, vội đặt tay vào tụ bài phía bên kia, từ phía bên số chẵn, ngược với số lẻ mà cô nàng đang đặt tiền. Tổng số tiền mà vị khách nam này bỏ ra ngang bằng với đối thủ. 

Khi anh chàng giơ tay lên thì cả sòng ồ lên kinh ngạc! 

Có người buột miệng thốt lên: 

- Kỳ phùng địch thủ! 

Cô hồ-lì thở phào nhẹ nhõm. Bởi như thế có nghĩa là, nếu kết quả vòng Roulette có thế nào thì nhà cái cũng không hề thua đồng nào, ăn bên này chung sang bên kia. 

“Hối a” lại vung lên và mọi người nín thở chờ đợi vòng Roulette từ từ dừng lại... 

Và ai đó đã kêu lên: 

- Bên chẵn! 

Vị khách nam điềm tĩnh đưa tay gom hết số tiền cả vốn lẫn lãi về phía mình. Người phụ nữ chẳng quan tâm, lại móc từ túi ra một xấp tiền dày, tiếp tục đặt vào làn số lẻ. Các người chơi khác lúc này đang phân vân chưa biết nên theo ai... có một số thì thấy anh chàng mặc veston trắng đang hên nên theo. Nhưng cũng có nhiều người khoái theo người đẹp nên lại theo về bên số lẻ. 

- Hối a! 

- Hối a! 

- Hối a! 

Ba lần vòng Roulette quay rồi ngừng thì đủ ba lần nữa chàng trai lại thắng. Đến lúc này không cần chú ý cũng đã thấy đôi tay người phụ nữ hơi run run khi bàn tay cô từ trong túi móc ra chỉ còn một xấp tiền mỏng. 

Nàng ta cởi hết nữ trang đeo trên người ra, bảo cô hồ-lì: 

- Ở đây ai đổi những thứ này ra tiền mặt? 

Cô hồ-lì đưa tay chỉ về một quầy: 

- Ở đàng kia họ sẵn sàng mua hoặc cầm thế. 

- Tôi muốn bán đứt và chơi hết! 

Giọng cô ta chẳng tỏ vẻ gì nuối tiếc hay mất bình tĩnh. Cô hồ-lì ra hiệu cho một nhân viên ở gần đó: 

- Dẫn cô này tới quầy thu đổi! 

Chợt chàng trai mặc veston đưa tay ra hiệu: 

- Xin phép, tôi có thể đổi cho cô. Được chứ? 

Nhìn sang người đang gom hết tiền của mình, thoáng một chút khó chịu, nhưng bỗng cô nàng gật đầu: 

- Được! 

- Cô muốn lấy bao nhiêu? Đống tiền này khoảng bốn triệu, cộng thêm một chi phiếu sáu triệu nữa, cô đồng ý? 

(Đồng tiền thời ấy trị giá khá lớn, có thể lên đến trên 100 lượng vàng). 

Một thoáng chau mày, rồi cô nàng gật đầu mà không nhìn vào anh chàng nọ. Anh chàng nói với cô hồ-lì: 

- Cô cứ cho chúng tôi đặt bằng tiền này, tôi sẽ chịu trách nhiệm về cuộc chơi này. 

Anh ta lẳng lặng móc trong ví ra một tờ chi phiếu ghi sẵn số tiền sáu triệu. Loại chi phiếu chi trả cho người cầm phiếu. Đặt nó vào chung với cả số phỉnh đã thắng từ nãy giờ và vẫn cứ đặt bên số chẵn. 

Cô hồ-lì sắp sửa khui thì chợt cô nàng đổi ý: 

- Tôi muốn đổi bên, ông đồng ý? 

Đây là lần đầu tiên nàng ta nhìn sang đối thủ và nhận ngay một nụ cười và cái gật đầu: 

- Tùy cô chọn. 

Đống tiền và số nữ trang quý giá hoán đổi cho nhau nhanh gọn. 

- Hối a! 

Roulette quay nhanh rồi chậm lại và... 

- Số lẻ! 

Trong khi mọi người đổ dồn vào nhìn anh chàng thắng cuộc thì chẳng ai để ý khi cô nàng thất thểu rời sòng bạc bước thẳng ra cửa. 

Đến khi gom xong tiền vào chiếc cặp to mang theo sẵn, anh chàng lao vút theo ra. 

Chiếc taxi dừng lại, cô nàng mở cửa sau vừa leo lên thì ở cửa phía ngoài đường cũng có người leo lên theo. Đó là anh chàng vừa thắng canh bạc lớn. 

- Ai cho phép ông! 

Cô nàng gắt lên vừa định bảo ông tài xế đừng chạy, thì chiếc xe đã chồm lên và lao vút theo đại lộ hướng về phía Đông thành phố. Giọng anh chàng nghe dễ mến: 

- Xin lỗi cô, tôi không có ý làm phiền nhưng trong tình thế này tôi cũng không thể đứng chờ xe ở bên vệ đường, sẽ nguy hiểm. Xin cô cho tôi quá giang một đoạn. 

Cô nàng hầu như không còn đủ sức để tranh luận, nhẹ khép đôi mắt lại, ngã lưng ra sau như đang tìm giấc ngủ, trước khi dặn tài xế: 

- Chạy lên cầu Bình Lợi! 

Khi xe chạy ra gần tới chợ Bà Chiểu thì anh chàng mới chợt hiểu: “Cầu Bình Lợi... nơi thiên hạ thường nhảy sông tự tử!” 

Nhìn sang cô nàng, thấy cô ta vẫn nhắm nghiền, anh chàng kín đáo ra dấu cho anh tài xế quẹo về hướng khác. 

Đến một Hotel hạng sang, anh chàng bảo taxi dừng lại định lay gọi cô nàng dậy, bỗng anh ta giật nảy mình khi phát hiện trên tay cô nàng đang cầm một tuýp thuốc ngủ! 

Không nhờ ai giúp, đích thân anh ta bế xốc cô nàng lên và đi thẳng vào khách sạn. Năm phút sau họ đã ở trong một phòng đầy đủ tiện nghi. Lúc ấy cô nàng vẫn ngủ say. Nhìn ống thuốc ngủ còn lại khá nhiều, anh chàng hơi yên tâm nói một mình: 

- Cô ta chỉ mới uống đủ để ngủ một giấc thật ngon chớ chưa thể chết được. 

Đứng nhìn cô nàng ngủ, anh ta khẽ cười, nụ cười lạ và đầy thỏa mãn. Rồi rất nhẹ nhàng anh ta đặt túi bạc, cả tiền mặt, số nữ trang và cả tấm chi phiếu và một mảnh giấy nhỏ ghi hai chữ Vũ Đạt... bên cạnh cô nàng. Xong xuôi anh nhẹ đưa tay cởi từng nút áo và... cuối cùng thì trên thân thể cô nàng chỉ còn da thịt. 

Trong hoàn cảnh này thì mọi người đàn ông đều sẽ hành động giống nhau: Chiếm đoạt thân xác cô nàng đang vô phương chống đỡ kia! 

Nhưng thật lạ, anh ta chỉ nhìn ngắm một hồi rồi thốt một câu khó hiểu: 

- Sòng phẳng nhé, Kiều Thu! 

Rồi anh ta bước ra khỏi phòng, khóa cửa lại, số tài sản khổng lồ vẫn để yên bên cạnh cô nàng... 

Sáng hôm sau người ta phát hiện cô nàng tên Kiều Thu nằm chết trên giường với ống thuốc ngủ đã uống đến viên cuối cùng. Tờ giấy có tên Vũ Đạt bị vò nát vứt dưới chân giường... 

Ngoài những người trong gia đình nạn nhân thì không còn ai biết điều bí ẩn sau cái chết của Kiều Thu. Cô nàng vốn là con gái rượu của một vị quan đại thần của triều đình. Nhà giàu nổi tiếng của Sài Gòn thời ấy. Từ tấm bé cô nàng đã được cha mẹ hứa gả cho con trai của một vị đồng liêu. Tuy nhiên, khi cả hai lớn lên thì Kiều Thu theo gia đình vào Sài Gòn tiếp tục cuộc sống giàu sang, còn anh chàng Vũ Đạt thì lại không may phải sống trong gia cảnh ngày càng khánh kiệt, đến nỗi phải bỏ xứ tha phương, cầu thực. Khi cả hai lên mười tám tuổi thì bà mẹ già nua thất thế mới bảo con trai tìm đến gia đình người bạn đồng liêu năm xưa để nhắc lại lời hứa thời trước. Hy vọng ít nhất họ cũng còn chút tình nghĩa, giúp đỡ cho Vũ Đạt lập thân. 

Nào ngờ khi Vũ Đạt tới đưa phong thư lúc lâm chung cha anh để lại gửi cho người bạn đồng liêu cựu thượng thư bộ lễ Ngô Quý thì bị một gáo nước lạnh vào mặt. 

Người ta chẳng những không nhớ lời hứa xưa mà còn nặng lời xua đuổi Vũ Đạt đi như đuổi tà, kèm theo những lời miệt thị nào là nghèo hèn không biết thân phận, nghèo mà còn muốn mơ màng chuyện viễn vông! 

Cũng đúng cái ngày Vũ Đạt bị xua đuổi đó, anh chàng đã đau lòng chứng kiến hôn lễ của Kiều Thu, người đáng ra là ý trung nhân của chàng, với một gã nhà giàu lớn. 

Kiều Thu chẳng hề biết mặt Vũ Đạt. Cô nàng chỉ nghe kể chuyện nên hôm đó cô ta đã âu ếm ôm eo người chồng giàu đi qua trước mặt người con trai đau khổ... 

Vũ Đạt ôm mối hận lòng ra đi với lời thề độc: Sẽ trả thù con người bội bạc kia. 

Trong khi đó, sau khi lấy chồng giàu, sống hạnh phúc chỉ được nửa năm, rồi là những ngày trong địa ngục. Chồng Kiều Thu lấy cô ta chỉ là để moi tiền trong nhà vợ và thậm chí đem vợ ra để mồi chài các quan chức quyền thế trong các phi vụ làm ăn bất chính. Kết quả là mặc cho chồng lao vào các vụ làm ăn đen tối, những cuộc tình vụng trộm đầy tội lỗi... Còn Kiều Thu thì buồn chán, nhắm mắt theo những cuộc đỏ đen thâu đêm suốt sáng... Mà kết cục canh bạc Roulette ở Đại Thế Giới hôm đó... 

Cuộc trả thù cay độc của Vũ Đạt, lúc ấy đã trở thành một Thần bài từ Ma Cau.

Phần 2 

Mười năm sau... 

Trong giới tay chơi của Sài Gòn thời đó, Vũ Đạt nổi lên như một đại gia. Làm ăn lớn thành đạt, lại là tay chơi cỡ bự trong các trà đình, tửu điếm. Đặc biệt chủ của nhiều con ngựa đua nổi tiếng. Hôm ấy là chiều chủ nhật... 

Buổi đua ngựa “Độ Hội” sẽ diễn ra vào độ thứ ba của độ đua trong chiều này. Dân “tuyệt phích” đều bàn tán xôn xao về Độ Hội khi trong danh sách tám con tuấn mã có tên những con ngựa lừng danh đương thời. Nhưng vẫn có người bàn về con ngựa Bạch Hồ Điệp. Một người bảo: 

- Đây là con ngựa què, đã nghỉ đua từ hơn một năm nay nên hầu như dân cá độ quên hẳn tên của nó rồi, nay đem ra đua lại chẳng qua là làm trò cười mà thôi! 

Khi cuộc đua chính bắt đầu, thì quả nhiên dân đánh cá đều dồn tiền mua vé những con ngựa lừng danh. Chỉ riêng một người làm ngược lại, ông ta mua hết số vé ở một quầy vé cho cặp 2x8. Số 8 là con ngựa lừng danh, còn số 2 là con Bạch Hồ Điệp. Kết quả là Vũ Đạt trúng lớn chưa từng thấy, bởi chỉ duy nhất ông ta mua tập vé 2x8. 

Rời trường đua vào chập tối. Vũ Đạt tự lái chiếc ôtô Peugeot 504 về thẳng nơi nuôi và huấn luyện cho ngựa Bạch Hồ Điệp, ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn. Khoảng hơn một giờ sau thì con ngựa vàng cũng được đưa về tới. 

Nhìn nét mệt mỏi của con ngựa, Vũ Đạt thương nó vô cùng. Ông vỗ về con ngựa cưng và nói với chú nài ngựa Tư Hơn: 

- Chú mày giỏi lắm, cú doping này tao sẽ nhớ đời! 

- Đây tiền thưởng cho tài năng của chú. 

Ông ta còn nựng nịu con ngựa cưng thêm một lúc nữa rồi mới ra xe đi về. 

Nhưng khi vừa mở cửa xe, Vũ Đạt chợt nghe một tiếng hí vang, nghe thảm thiết của chú ngựa ngoài chuồng! 

- Chuyện gì vậy Tư Hơn? 

Chú nài chạy hớt hãi kêu lớn: 

- Con ngựa... ông chủ ơi! 

Bước lại chuồng, Vũ Đạt kịp nhìn thấy con ngựa nằm lăn lóc trên nền đất. Và chỉ trong vòng chưa đầy nửa phút, phần thịt da của con ngựa đã nhanh chóng biến mất giống như bị bốc hơi. Cuối cùng nơi nó nằm chỉ còn một bộ xương trắng! 

Sự việc diễn ra quá nhanh chóng, bất ngờ, nên từ người quản gia cho tới Vũ Đạt đều sững sờ, ngơ ngác. Là ông chủ thật sự chi tiền nuôi ngựa và làm độ, nhưng đây là lần đầu tiên Vũ Đạt lúng túng và bị động. Mãi sau đó ông ta mới quyết định: 

- Các ngươi đừng loan truyền chuyện này ra ngoài. 

Nói xong ông ta ra xe chạy ngay về Sài Gòn. Trong lúc bước lên xe do quá vội nên Vũ Đạt đã không để ý gì phía sau, mãi đến lúc xe ra đường lớn thì bất ngờ có một giọng nói làm cho ông ta giật mình: 

- Kính chào nhà tỷ phú. 

Chưa kịp quay lại thì đã có một bàn tay đặt lên vai như câu nói ra lệnh: 

- Nên tập trung lái xe thì hơn, chúng ta sẽ còn thì giờ để nói chuyện. 

Giọng phụ nữ này nghe quen quen nhưng nhất thời Vũ Đạt chưa thể nhận ra, ông ta nhìn qua kính chiếu hậu thì chỉ thấy một người mặc trang phục toàn màu đen, đầu và mặt hầu như được che kín bởi chiếc nón rộng vành. 

Xe về gần ngã tư Bảy Hiền thì người phụ nữ bảo: 

- Chạy thẳng đến trước, chỗ khu vực đất Thánh Tây. 

Lúc này Vũ Đạt mới lên tiếng hỏi: 

- Cô là ai và tới chỗ đó để làm gì? 

Một giọng cười khô và lạnh: 

- Biết sớm làm gì để mất thú vị đi. Ông là người có máu lạnh, trầm tĩnh bậc nhất để thắng đối thủ trong các sòng bạc mà, ông Thần bài! 

Đã gần mười năm rồi không ai gọi mình bằng hai từ Thần bài, nên khi vừa nghe Vũ Đạt đã không còn tự chủ được, ông ta quay nhanh lại nhìn. Và... mấy tiếng thắng gấp của vài chiếc xe xung quanh bởi do mất tập trung nên suýt nữa Vũ Đạt đã lạc tay lái đâm vào dòng xe đang lưu thông đi ngược chiều. 

Giọng người nọ nghiêm khắc hơn: 

- Tôi bảo ông phải cẩn thận. Chưa thể chết như thế này đâu! 

Khi xe đến ngang đất Thánh Tây người ngồi sau bảo: 

- Dừng đây được rồi! 

Chiếc xe chưa dừng hẳn thì cửa sau đã mở ra và khi Vũ Đạt quay lại thì đã thấy bóng người áo đen đã rất nhanh bước về phía nghĩa địa và phút chốc mất hút phía trong. 

Dù trời đã tối nhưng khu nghĩa địa sang trọng này đèn sáng trưng, nên Vũ Đạt dễ dàng nhìn thấy người phụ nữ vào phía trái, nơi những ngôi mộ của những người quý tộc. 

Một chút ái ngại, nhưng chẳng hiểu sao Vũ Đạt lại xuống xe và đi nhanh theo. Người bảo vệ nghĩa trang vẫn còn ngồi ở gần cổng, mà đúng ra ông ta sẽ ngăn không cho khách vào nghĩa địa ban đêm, nhưng thấy đi xe hơi sang trọng nên không chận lại. 

Vũ Đạt bước nhanh cố bắt kịp người phụ nữ kỳ lạ phía trước. Tuy nhiên, khi đến dãy mộ thứ ba thì chẳng còn thấy bóng dáng cô ta đâu. 

Quay một lượt tìm khắp nơi cũng chẳng thấy gì, ông ta hơi nản, định quay ra, thì chợt phát hiện có một chiếc nón rộng vành. Loại nón dành cho các bà quý tộc đội đang nằm trước một ngôi mộ cẩn đá cẩm thạch. Nhờ ánh đèn soi sáng rõ nên vừa bước đến gần, Vũ Đạt đã đọc được ngay trên mộ bia dòng chữ “Nơi an nghỉ của Ngô thị Kiều Thu” 

- Kiều Thu! 

Đứng lặng người khá lâu. Vũ Đạt tự dưng nghe lạnh khắp người, ông ta rùng mình lảo đảo... 

Câu chuyện truyền miệng liên quan đến độ ngựa về ngược ở trường đua Phú Thọ, mà người trúng tiền triệu đã được ca tụng hết lời. Có người đã tỏ ra rành chuyện đã kể rằng: 

- Vũ Đạt là Thần bài, ngày trước đã từng dùng con mắt thôi miên để thắng trận Roulette ở Đại Thế Giới, khiến một mệnh phụ phu nhân phải tự sát vì thua hết sản nghiệp! 

Người khác thì thêu dệt đủ điều về cái tên tỷ phú Vũ Đạt. Họ ngạc nhiên về sự đánh đâu thắng đó và cả việc làm ăn cũng thế, hễ bước vào lĩnh vực nào thì hầu như ông ta chỉ có thắng chứ chưa bao giờ thua. Và người ta bắt đầu vừa nể phục vừa sợ con người này. 

Cho đến một tuần lễ sau độ ngựa về ngược lịch sử, thì chuyện con chiến mã Bạch Hồ Diệp tự dưng mất tích đã đồn ra ngoài. 

Lời đồn không dừng lại ở chuyện con ngựa bị chết bí hiểm. Mà đặc biệt hơn còn có một chuyện kể rằng nhà tỷ phú Vũ Đạt bị quỷ ám nên cứ thỉnh thoảng lại đi vào nghĩa địa đất Thánh Tây hẹn hò với một hồn ma! Chuyện này do chính người bảo vệ nghĩa trang kể cho nhiều người nghe. 

Có nhi ều người tò mò theo dõi và đã cũng xác nhận lời đồn kia là hoàn toàn đúng. Chính vợ của ông ta đã âm thầm bám theo vào tận nghĩa địa và nhìn tận mắt cảnh Vũ Đạt quỳ gối trước một ngôi mộ có tên mộ bia là Kiều Thu! 

Và cũng từ đó việc làm ăn của Vũ Đạt tự dưng sa sút đến khó hiểu. Liên tiếp ba chuyến hàng nhập khẩu của công ty ông ta đều gặp tai họa! Chuyến thứ nhất gồm một nghìn tấn hóa chất chở trên một tàu hàng quốc tế bị chìm khi đang đi trên vùng biển khơi. Chuyến thứ hai gồm máy móc và hàng điện tử trị giá hàng tỷ đồng đã bị thiêu trụi trong một trận hỏa hoạn khi đã bốc lên khỏi tàu chờ chuyển đi. Và chuyến hàng thứ ba gồm hàng gia dụng, đá quý trị giá đến hơn bốn tỷ đồng đã bị đánh cướp khi tàu đi qua eo biển Malacca! 

Mà xui xẻo hơn là tất cả số hàng hóa trong các tai nạn đều có vấn đề khai man nhập khẩu nên đã không được bảo hiểm quốc tế bồi thường! 

Nhưng tai họa kỳ lạ nhất là chuyện cháy cao ốc mười tầng của ông ta tại Ma Cau. Đó là tòa cao ốc văn phòng một công ty hải ngoại của Vũ Đạt kiêm luôn sòng Casino lớn. Đêm đó có một người nhìn thấy một phụ nữ thua bài đã lên sân thượng của tòa nhà lao mình xuống tự vẫn. Khi người ta la lên báo động thì cũng đúng lúc lửa ở tầng ba phát lên dữ dội, trong phút chốc cả nhà cao ốc đồ sộ đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Lạ một điều là sau đó chẳng có ai tìm thấy thi thể của người phụ nữ nhảy lầu. 

Vũ Đạt từ ấy gần như là người bị tâm thần. Trái hẳn với một nhà doanh nghiệp trung niên thành đạt, hoạt bát, kênh kiệu trước đây. Bây giờ ông ta trở thành một con người phờ phạc, chán chường và hầu như không muốn nói gì với ai. 

Một buổi tối cuối tuần... 

Trên tầng năm của một khách sạn sang trọng, tại một bàn ở góc ngoài cùng sát chỗ nhìn xuống đường, có một phụ nữ vận dạ phục màu toàn đen ngồi sẵn đó như chờ đợi ai... 

Mười lăm phút sau thì từ cầu thang có một người đàn ông trung niên chậm bước đi lên, tiến lại chiếc bàn đó... 

Người phụ nữ không ngẩng lên vẫn biết có người tới, đã lên tiếng: 

- Ngồi đi! 

Nhưng người mới tới không ngồi vào chiếc ghế trống mà lại bất thần quỳ gối xuống, mặt cúi gằm. 

Người phụ nữ lẳng lặng móc trong túi ra một tờ giấy nhỏ đặt lên bàn rồi đứng lên. Trước khi đi bà ta nói một câu ngắn gọn: 

- Trả lại ông tờ chi phiếu ngày trước ông có lòng tặng nó cho tôi. Tôi đã không dùng, đúng hơn là không kịp dùng thì đã bị chết. Ông nhận lại nó vì nó là của ông… 

Bà ta nói xong bỏ đi và mất bóng rất nhanh sau lùm cây kiểng của tầng thượng... 

Sáng ngày hôm sau, hầu hết các báo đều đăng tin về một người đàn ông nhảy từ lầu năm của khách sạn tự tử. Theo giấy tờ tùy thân thì đó là nhà tỷ phú Vũ Đạt...

LỜI NGUYỀN 

Phần 1

Sự việc xảy ra thật đột ngột, khiến ngay cả các đào kép cùng diễn trên sân khấu đêm đó cũng không thể ngờ: Cô đào mới nổi tiếng, rất được khán giả ái mộ, khi vừa bước ra sân khấu, hát chưa được mấy câu vọng cổ thì đã lăn đùng ra, mồm thổ huyết và tắt thở ngay khi vừa được khiêng vô hậu trường. Người nhắc tuồng vốn nép nơi cánh gà để nhắc từng lời thoại cho diễn viên, đã thuật lại: 

- Tôi không thấy vẻ gì bất thường nơi cô Cúc Hương cả. Lúc cô bước ra sân khấu còn dặn nhỏ tôi rằng, nhắc giùm lớn lớn một chút bởi đoạn cô diễn có tiếng kèn, tiếng trống rùm beng, nhắc nhỏ khó nghe. Tôi còn thấy cô ấy nheo mắt cười nữa... Vậy mà chỉ nửa phút sau, khi vừa ca đến câu “...Anh hãy nhớ giây phút này ở tại bến sông đêm trăng vằng vặc có người con gái sẽ mãi mãi đợi anh ngày trở lại với trọn con tim nồng cháy tình yêu...”, khi bàn tay cô vừa đặt lên ngực trái chỗ trái tim thì bỗng lảo đảo, tiếng ca đứt đoạn và ngã lăn ra chết liền. 

Cả đoàn hát xôn xao bàn tán. Có người nói rằng cô đào Cúc Hương bị lao lực quá nhiều, nên khi cố gắng diễn đoạn chia ly người yêu đã quá xúc động và bị tai biến... Nhưng người khác thì cãi lại, nói rằng đó chỉ mới là đoạn mở đầu cho một trường đoạn bi thương, chưa có gì là gay cấn, vậy nguyên nhân làm cho cô ấy thổ huyết không phải là do quá lao lực hay xúc động! 

Ông chủ đoàn hát Huỳnh Bá thì rối bời tâm trí trước biến cố này. Bởi đoàn hát của ông chỉ mới chuyển đến hát ở thị trấn này có một đêm, khán giả còn thưa thớt, thu chưa đủ số bỏ, vậy mà nay lại gặp phải tai nạn này thì không cách nào tránh khỏi cái đói cả đoàn. 

Cúc Hương là đào chính rất ăn khách ở đoàn Trăng Thanh, ông bầu Huỳnh Bá phải chuộc với số tiền không phải nhỏ, nay mất cô ta thì làm sao tìm người thay thế? 

Đạo diễn Lệ Kim hiến kế: 

- Ông phải lên ngay Mỹ Tho, tìm tới gánh Hương Đồng thương lượng mượn về cô đào trẻ nhiều triển vọng Mộng Huyền thì mới hy vọng cứu vãn tình thế. 

Ông Huỳnh Bá lo lắng: 

- Đó là đào chiến của họ, dễ gì họ nhả ra cho mình. 

Lê Kim tỏ ra rành chuyện: 

- Đúng là đào chiến nhưng bên đó còn có hai cô nữa tuy mới nổi nhưng cũng ăn khách nhất nhì hiện nay. Họ là chỗ thân tình, tôi nói có lẽ cũng không khó... 

Lê Kim được giao nhiệm vụ thuyết khách. Và quả nhiên anh ta đã thành công. 

Chỉ một ngày sau Lê Kim đã từ Mỹ Tho về với người đẹp Mộng Huyền đi cùng. Cả đoàn phấn khởi vô cùng, tạm quên đi cái tang cô đào Cúc Hương còn mới đó... Ông Huỳnh Bá dõng dạc tuyên bố. 

- Mộng Huyền sẽ cứu đoàn của chúng ta, nên anh chị em không sợ đói nữa! 

Đạo diễn Lê Kim cho đào Mộng Huyền tập ngay vở “Lời hẹn ngày xưa” mà Cúc Hương đóng dở dang.

Dĩ nhiên vai chính của Cúc Hương bây giờ là Mộng Huyền. Khi tập đến đoạn lời ca mà Cúc Hương đang lên giọng thì ngã ra thổ huyết, anh nhắc tuồng Trần Thanh nhắc lại: 

- Đó… đó, chính ở đoạn này! 

Đạo diễn Lê Kim ngại Mộng Huyền sợ nên gạt ngang: 

- Nhắc làm gì chyện đó! 

Nhưng Mộng Huyền đã cười to: 

- Lời ca ngọt như thế có gì đâu mà sợ. Chắc tại chị Hương có bệnh gì đó... 

Các buổi tập trơn tru... Mộng Huyền chứng tỏ khả năng bằng cách vào vai khá ấn tượng. Bầu Huỳnh Bá rất phấn khởi: 

- Cô ta còn sáng sân khấu hơn cả Cúc Hương nữa! 

Trần Thanh cũng phụ họa: 

- Cô này sáng dạ hơn hẳn, lời thì chỉ đọc qua vài lần đã thuộc lòng không phải nhắc từng chữ như mấy người kia. Cổ ca cũng ngọt và dài hơi hơn Cúc Hương. 

Tóm lại mọi người đều ưng ý, kỳ vọng nhờ cô đào mới này mà khán giả sẽ đến rạp đông hơn. 

Đêm diễn đầu tiên của vở “Lời hẹn ngày xưa” khá thành công khi mới bảy giờ tối mà khán giả đã kéo đến đầy rạp. Đạo điễn Lê Kim mừng quá có dịp tâng công: 

- Quả mình chọn người không sai. Mộng Tuyền đúng là cứu tinh của gánh Huỳnh Bá rồi! 

Buổi diễn bắt đầu. Chỉ mười phút sau là vai chính Mộng Huyền xuất hiện, và câu vọng cổ cảnh chia ly lanh lảnh cất lên: “...Có người con gái sẽ mãi mãi đợi anh ngày trở lại với con tim nồng cháy tình yêu...” Và khi bàn tay Mộng Huyền vừa đặt lên ngực trái thì cũng là lúc cô ta lảo đảo máu trong miệng trào ra! 

- Trời ơi! 

Khán giả kêu lên. Tuy nhiên cũng có người tưởng đó là một cảnh tạo ra của vở tuồng, nên vỗ tay tán thưởng tài diễn xuất sống động của cô đào chính! 

Chỉ có người ngồi hai bên cánh gà là tái mặt! Ông bầu Huỳnh Bá hốt hoảng: 

- Lại có chuyện nữa rồi! 

Lê Kim chứng kiến từ đầu, ông nhảy đại ra sân khấu bế xốc Mộng Huyền vào, giục ầm ĩ: 

- Mau đưa đi bệnh viện! 

Nhưng không còn kịp nữa rồi. Cũng giống như trường hợp của Cúc Hương hơi thở của Mộng Huyền đã ngừng hẳn.

Phần 2 

Các bác sĩ ở bệnh viện sau khi đã khám nghiệm kỹ cả hai trường hợp của hai cái chết trước sau đều có cùng một nguyên nhân: Bị vỡ mạch máu não. 

Như vậy gánh hát không gặp rắc rối về hình sự. Tuy nhiên có điều rất khó hiểu, bởi cả hai Cúc Hương và Mộng Huyền đều không bị chứng bệnh về tim mạch, lại là người có sức khỏe rất tốt. Như vậy là tại sao? 

Câu chuyện không dừng lại ở đó. Chỉ một ngày sau thì khắp nơi đều đồn ầm lên rằng hai cô đào hát đã làm gì đắc tội với người cõi âm nên họ bẻ cổ, bắt hồn ngay trên sân khấu! 

Một đồn mười, mười đồn trăm, câu chuyện lan rộng ra khắp nơi. Đến nỗi không còn ai dám đi xem hát nữa! 

Gánh hát Huỳnh Bá lâm vào hoàn cảnh bi đát: Đào kép nghỉ hát, không tiền ăn, nên ai nấy phải tính tiền đào thoát các nơi tìm kế sinh nhai. 

Ông bầu Huỳnh Bá như ngồi trên lửa. Ông năn nỉ hết người này đến người kia hiến kế giúp ông gỡ thế bí. 

Trong số người thân cận thì đạo diễn Lê Kim là người có nhiều sáng kiến nhất. Anh suy nghĩ mãi rồi cuối cùng đưa ra ý kiến: 

- Trước tiên ta phải tìm cách giữ chân đào kép rồi sau đó mới tính tới chuyện mở màn hát trở lại. 

Ông bầu chán nản: 

- Tiền ăn còn không có nói gì đến chuyện giữ chân đào kép. Đó là chưa nói lấy ai làm đào chính để diễn? 

Lê Kim tự tin bảo: 

- Vậy mà có! Ông bầu có nhớ ông chủ nhà máy xay lúa ở bên kia sông không? 

- Ông Thuận Phát giàu nhất vùng này? 

- Và cũng là mạnh thường quân, nhất là rất mê hát cải lương, ái mộ đào hát! 

Bầu Huỳnh Bá có vẻ quan tâm: 

- Ta nhờ ông ta giúp. Nhưng gánh ta đâu còn đào chính để thúc đẩy ông ấy mặn mà giúp? 

Lê Kim quả quyết: 

- Trong đoàn vẫn còn cô đào thứ sắc vóc ưa nhìn, từng được ông Thuận Phát cầm tiền lên sân khấu tặng hồi ta về đây diễn lần trước! 

- Anh nói con Cẩm Hường. 

- Đúng y chang! Ta cùng dẫn con nhỏ đó sang gặp thì ắt xong việc. 

Họ kéo nhà sang sông. Quả đúng như suy đoán của Lê Kim. Vừa trông thấy Cẩm Hường, ông Thuận Phát đã phấn khởi ra mặt, mời mọi người ra phòng khách thết trà, bánh. 

Lê Kim giỏi tài ăn nói, đã rào đón một hồi rồi đi thẳng vào đề: 

- Chắc ông chủ đã biết đoàn chúng tôi chẳng may gặp nạn ở địa phương này và hiện nay không còn kinh phí để chuyển đoàn đi nơi khác trình diễn. Các đào kép lâm vào bế tắc, bữa đói bữa no, mà trong số đó khó khăn hơn hết là cô Cẩm Hường đây... 

Đã được hướng dẫn trước, Cẩm Hường đã “vào vai” thật ngọt bằng cách ngồi khóc y như thật! Ông chủ Thuận Phát đã vuốt tóc thần tượng của mình vỗ về: 

- Có qua ở đây rồi, đừng lo! 

Rồi ông quay sang bầu gánh: 

- Chuyện quan trọng như vậy sao ông không báo cho tôi ngay! Được rồi! tạm thời các ông chở năm bao gạo về, khô, mắm có sẵn cùng với một ít tiền lo cho anh chị em. Riêng cô Cẩm Hường ở đây tối tối đàn ca giúp vui cho nhà máy chúng tôi. 

Lê Kim nháy mắt cho Cẩm Hường nhận lời. Khi họ ra về. Cẩm Hường bằng lòng ở lại, ngay tối hôm đó. Và trong mỗi buổi đàn ca giúp vui tại sân nhà máy Thuận Phát. Cẩm Hường đã chọn ngay bài vọng cổ trong vở “Lời hẹn ngày xưa”, bài hát của Cúc Hương và Mộng Hyền đã hát. Điều này phải chăng là ngẫu nhiên? 

Thật ra Cẩm Hường rất thích bài này, chứ cô không nghĩ gì khác khi chọn nó để giúp vui đêm nay. Khán giả là dân trong xóm và công nhân nhà máy xay xát, họ ủng hộ nhiệt tình, vỗ tay rào rào khi Cẩm Hường vừa mới xuất hiện, chưa cất tiếng ca. Đến lúc lời ca bắt đầu cất lên từ đôi môi duyên dáng của cô đào trẻ thì không khí im phăng phắc, say mê theo dõi... 

Đến đoạn... “Mãi mãi đợi anh ngày trở lại với con tim nồng cháy tình yêu...” thì không khác gì hai lần trước, Cẩm Hường cũng ngã lăn ra và trào máu, nằm bất động! 

Trong lúc bầu Huỳnh Bá và đạo diễn Lê Kim hồn vía chẳng còn, lòng dạ rối như tơ vò trước những chuyện động trời cứ liên tiếp xảy ra, thì vào buổi sáng hôm sau có một cụ già trông rất lạ mặt đã ghé vào quán cà phê trước chỗ đoàn hát tạm thời trú ngụ, bước tới bàn của ông bầu và Lê Kim ngồi, ông ta nói thẳng: 

- Sao các ông biết mà vẫn để cho người ta chết oan như vậy? 

Lê Kim ngơ ngác: 

- Ông nói gì vậy? 

Ông già lạ gằn giọng: 

- Ba mạng người đã chết còn quá ít với các ông sao? 

- Ông nói... các cô đào hát? 

- Chớ còn ai nữa hãy bỏ ngay vở tuồng đó đi, chính nó là thủ phạm giết người đó! 

Ông ta nói xong bỏ đi thẳng. Sau mấy mươi giây ngẩn ngơ Lê Kim mới nói: 

- Ông ta biết rõ điều gì mà nói như vậy? Tại sao lại là vở tuồng “Lỗi hẹn ngày xưa”? 

Suy nghĩ một lúc nữa, chợt bầu Huỳnh Bá hốt hoảng kêu lên: 

- Đúng rồi! 

- Ông nói đúng cái gì? 

- Vở tuồng... Bài ca vọng cổ... Này, ông có nhớ lời ca của câu một không? 

Lê Kim gật đầu: 

- Đoạn cuối của câu một. 

Ông bầu vẻ lo lắng: 

- Cả ba cô đào đều chết khi ca đến đúng đoạn đó. Ông không thấy có gì lạ sao? 

- Ờ… ờ… 

Lê Kim đáp và bắt đầu nổi gai khắp người. Điều rõ ràng như vậy mà ông không nghĩ ra! Ông Huỳnh Bá hỏi: 

- Vở tuồng này anh mua của ai vậy, mà nay vẫn chưa thấy soạn giả tới gặp chúng ta? 

Lê Kim lẩm bẩm: 

- Đúng là của anh ta... 

- Của ai vậy? 

- Một soạn giả rất nổi tiếng nhưng lâu nay buồn chuyện nhân tình thế thái nên mai danh ẩn tích không xuất hiện. Vở “Lời hẹn ngày xưa” là ông ta viết riêng cho mình, chứ chưa từng diễn ở đâu cả. 

Còn đang chưa biết phải làm gì thì từ dưới bờ sông có một cậu bé tuổi khoảng mười lăm, mười sáu bước tới lễ phép hỏi: 

- Các ông cần đi Long Hựu? 

Ông bầu gánh chau mày hỏi lại: 

- Đi Long Hựu làm gì? Mà sao em hỏi vậy? 

Chỉ tay về phía sông, cậu bé đáp: 

- Dạ, ông lão kia bảo rằng cần chở các ông tới Long Hựu để gặp một ai đó tên là Trần Hạo. 

Vừa nghe tới tên Trần Hạo, Lê Kim đã giật mình: 

- Ông ta ở đâu? 

- Ai? Ông lão hả? 

- Không phải, Trần Hạo? 

Thằng bé lắc đầu: 

- Cháu cũng không rõ, ông lão đưa địa chỉ này ở Long Hựu và nhờ cháu đưa các ông đi. 

Mở tờ giấy ghi địa chỉ ra, Lê Kim đọc được dòng chữ viết rất nắn nót: “Hãy bắt ông ta đền mạng!” Không suy nghĩ gì thêm, cả hai theo thằng nhỏ xuống chiếc xuồng nhỏ đậu ở bến. Hỏi ông lão đâu, nó bảo dặn bảo xong thì ông ta đi đâu chẳng rõ. 

Thằng bé tỏ ra thành thạo sông nước, chỉ chưa đầy hai giờ sau nó đã đưa khách tới xã Long Hựu. Chuyện tìm ra địa chỉ của Trần Hạo cũng không khó, bởi ở xứ này hầu như ai cũng biết nhà soạn tuồng cải lương từng nổi tiếng một thời. 

Tiếp họ trong căn nhà lá chật hẹp Trần Hạo không tỏ vẻ gì phấn khởi, mà chỉ nói trống không: 

- Mất thì giờ quá đi! 

Ông bầu Huỳnh Bá lên tiếng ngay: 

- Tôi là bầu gánh, tôi đang diễn vở tuồng của anh. 

Lê Kim chen vô: 

- Tôi được bầu gánh Trăng Thanh chuyển cho vở tuồng, nói là anh chỉ muốn được diễn ở gánh chúng tôi, nên dù chưa được gặp anh chúng tôí cũng phấn khởi cho tập và diễn ngay. Nhưng... 

Trần Hạo giờ mới tỏ vẻ quan tâm tới câu chuyện: 

- Bộ vở tuồng không ăn khách hay sao? 

- Dạ không. Trái lại là đàng khác. Chỉ có điều... 

Trần Hạo nhìn lên và hỏi Lê Kim: 

- Anh là đạo diễn phải không? Vậy Cúc Hương diễn thế nào? Cúc Hương... 

Bầu Huỳnh Bá chen vô: 

- Ông soạn giả không hay chuyện gì xảy ra sao? 

Trần Hạo vẻ bất cần đời: 

- Tôi chán mọi thứ nên lui về đây và thề là không đọc báo, không bàn chuyện cải lương. Vả lại ở xứ này không một ai nói chuyện với tôi nên dù trời có sập ở đâu đó thì tôi cũng không biết! 

- Thảo nào… Vậy ông cũng không nghe tin Cúc Hương... 

Trần Hạo giật mình: 

- Cúc Hương sao rồi? 

- Đúng là ông ta không hề biết. 

Lê Kim đem chuyện thuật lại khá chi tiết, Nghe xong Trần Hạo thảng thốt kêu lên: 

- Tôi đã giết con bé rồi! 

Ông ta suy sụp hoàn toàn lúc đó. Lê Kim nói cách gì Trần Hạo cũng chỉ ôm đầu đau khổ. Thỉnh thoảng đôi vai ông ta run lên nhè nhẹ... 

Bầu Huỳnh Bá nói thêm: 

- Chẳng riêng gì Cúc Hương, mà cả hai cô đào trẻ sau khi ca câu vọng cổ số một cũng đều chết như vậy. Có người nói câu vọng cổ đó phạm phải lời nguyền, đúng không? 

Trần Hạo ngẩng lên sau câu hỏi đó và thật bất ngờ, ông ta bật dậy như bị điện giật chạy thẳng đến kệ sách và rút ra một tập giấy. 

- Trời ơi! 

Ông ta vừa cầm một tờ giấy đã ngả màu thời gian, đọc lại và buông thõng hai tay: 

- Oan nghiệt chi lắm hả trời! 

Và một lần nữa ông ta đổ sụp hoàn toàn. Lê Kim nhặt tờ giấy ố vàng lên, ông ta ngạc nhiên đưa cho Huỳnh Bá xem: Bài vọng cổ “Bến chia ly”! 

Dòng chữ “mãi mãi đợi anh ngày trở lại...” đập ngay vào mắt họ, bởi bên dưới dòng chữ đó có gạch bút màu rất đậm. 

Không tiện hỏi thêm nên Huỳnh Bá và Lê Kim nhẫn nại ngồi đợi. Một lúc khá lâu, Trần Hạo ngẩng lên với nước mắt ràn rụa trong mắt. 

- Tôi đâu có nhớ đó là một lời nguyền. Đúng là cô ấy đã hận tôi, đã nguyền. 

Lê Kim hỏi lại: 

- Ông nói ai nguyền? Một lời nguyền độc địa chăng? 

Con người ta trong cơn đau khổ tột cùng thường không dấu giếm. 

Trần Hạo sau một tiếng thở dài đã thổ lộ: 

- Chuyện cũ, có đến 30 năm rồi... Bài vọng cổ này do chính cô ấy viết. Sau này khi soạn tuồng. Hẹn ước ngày xưa, tôi đã đem lồng vào mà không ngờ... 

Ông ta dừng kể, mặt càng nhòe lệ, giọng nghẹn lại: 

- Đó là Lệ Hằng người đã yêu tôi ngày xưa. Cô ấy là một đào hát thanh sắc vẹn toàn, tiếng tăm lừng lẫy đương thời. Có biết bao vương tôn công tử theo đuổi, cung phụng tiền tài, vậy mà cô ấy đều từ chối, chỉ vì cô ấy trót yêu một soạn giả nghèo như tôi. Người thời đó ca tụng mối tình của chúng tôi là chuyện tình đẹp nhất giới sân khấu. Nàng hãnh diện về điều đó, vậy mà... 

Trần Hạo ngừng kể để lau vội nước mắt và phải chờ cho cơn xúc động mạnh lắng bớt ông mới tiếp: 

- Một ngày kia, khi đoàn hát đi lưu diễn ở một tỉnh xa, trong một buổi tiệc sau đêm hát tôi đã uống quá chén cùng bè bạn, tôi đã vào lộn phòng của một cô đào hát khác tên là Yến Phi trong lúc cô này đang ngủ say. Tôi tưởng Yến Phi là nàng của mình nên ngồi lên giường vừa đưa tay vuốt nhẹ tóc cô ta, vừa ngân nga câu vọng cổ mà mới buổi chiều hôm đó chính Lệ Hằng đã viết và tập cho tôi hát. Bài “Bến chia ly” là tác phẩm đầu tay cũng là duy nhất mà Lệ Hằng đã viết dành tặng tôi với ý nguyện là tiếp sau đó sẽ tiếp tay tôi trong sự nghiệp sáng tác bởi cô ấy cũng không muốn làm đào hát chỉ nổi tiếng rồi nhanh chóng lụi tàn như hoa phù dung... Khi tôi đang hát đến đoạn “... mãi mãi đợi anh ngày trở lại với con tim nồng cháy tình yêu...” thì bất chợt ngoài cửa phòng có tiếng người la lớn: “Cô Lệ Hằng, cô sao vậy... khi tôi chạy ra thì thấy Lệ Hằng ngất xỉu đang được cấp cứu. Biết mình bị nhầm tai hại, tôi bế Hằng về phòng riêng thì cũng vừa lúc cô ấy tỉnh lại. Tôi nhớ mãi ánh mắt căm hờn mà cô ấy nhìn tôi và chẳng nói một lời, cô ấy vụt chạy ra ngoài. Rồi... 

Trần Hạo ngừng kể, ông nấc lên như chưa bao giờ được khóc. Khi dịu lại ông tiếp giọng buồn vô cùng: 

- Cô ấy phóng chạy ra ngoài như điên loạn rồi đâm thẳng vào một chiếc xe đang chạy tới và... khi tôi ra tới thì Hằng đang nằm trên vũng máu, mắt mở ra nhìn vào tôi mà cho đến giờ tôi không làm sao quên được, ánh mắt căm hờn, trách móc... Tôi cúi xuống đỡ cô ấy lên thì nghe được giọng thều thào của Lệ Hằng: “Tôi hận các người, lời các người vừa hát coi như một lời nguyền, để tôi coi các người sẽ phải trả giá! Tôi đời đời không quên...” 

Trần Hạo ngừng lại lần nữa nén xúc cảm rồi mới lại tiếp: 

- Sau đó hỏi ra thì tôi mới hay lúc tôi say xỉn ngồi hát ra cho Yến Phi ngủ, cũng là lúc Lệ Hằng xuất hiện tình cờ, cô nhìn thấy lại cho rằng tôi và Yến Phi có tình ý nên máu ghen nổi lên và... sự thể bi thảm đã xảy ra! Tôi đã sơ xuất chết người, bởi Lệ Hằng là người có máu ghen. 

Ngừng kể rất lâu... trước khi cất tờ giấy chép bài vọng cổ “Bến chia ly” vào kệ sách, Trần Hạo mới tiếp lời: 

- Một sự tình cờ tôi phát hiện trên sân khấu của các anh có cô đào Cúc Hương, vừa thoạt nhìn tôi đã suýt kêu lên vì lầm tưởng đó là Lệ Hằng! Cúc Hương giống Lệ Hằng đến tôi cũng phải lầm... Do vậy tôi nảy ra ý tưởng viết vở tuồng “Hẹn ước ngày xưa” và chỉ gửi riêng cho gánh các anh để chỉ Cúc Hương hát. Tôi muốn đời vẫn còn được nghe lời ca do chính Lệ Hằng viết, ý nguyện của tôi là vậy, nào ngờ... 

Lê Kim chép miệng: 

- Oan nghiệt! 

Ông bầu Huỳnh Bá than thở: 

- Sự thể bây giờ khiến đoàn hát chúng tôi phải điêu đứng chắc là phải cho rả gánh... 

Trần Hạo thở dài: 

- Tôi nghiệm ra rồi lời cuối cùng Lệ Hằng nói với tôi chính là một lời nguyền của cô ấy trong cơn ghen. Không ngờ lại ứng nghiệm tai hại như thế này. Tôi không tin đồn, nhưng chuyện như thế này thì có lẽ... 

Ông đứng lên, tới kệ sách lấy ra một tập giấy khá dày, đưa cho bầu gánh Huỳnh Bá: 

- Tôi đưa vở tuồng khác để đổi lại vở “Hẹn ước ngày xưa”. Ông cứ dùng vở này mà không phải trả bất cứ khoản tiền nào. Còn vở kia tôi thu hồi và vĩnh viễn tiêu hủy nó. Ông cũng nhớ dặn các cô đào khác từ nay về sau đừng bao giờ hát lại bài vọng cổ “Bến chia ly”. 

Ông lặng lẽ đốt nén nhang, đứng giữa sân khấu vái một hồi... Lê Kim nghe được trong lời khấn có tên Lệ Hằng...

XÀ TINH 

Thời ấy khi Tây mới xâm chiếm nước ta, trên con đường đi từ Rạch Giá đến Hà Tiên rất ít cư dân sinh sống. Hầu hết những người ngụ cư đều là những kẻ tha phương cầu thực những người xâu lậu thuế tìm đến để ẩn náu. 

Tuy nhiên vào một năm người ta thấy có một ngôi nhà mái ngói rất bề thế mọc lên ở khoảng giữa lộ vắng, hai bên cách chục cây số mới có nhà láng giềng. Nghe đâu chủ nhân ngôi nhà một đại điền chủ có máu mặt ở ngoài tỉnh thành. Ông ta xây nhà lớn với mục đích sẽ khai khẩn vùng đồng cỏ, rừng tràm quanh đó thành một đồn điền tầm cỡ. 

Nhà xây xong làm lễ tân gia rất lớn, có đàn ca xướng hát linh đình suốt mấy ngày liền. Cuộc phô trương thanh thế khá ấn tượng, khiến mọi người tấm tắc khen chủ nhân là người biết thời thế, nhạy bén kinh doanh. Bởi vùng đất Tám Ngân - Cà Bây Ngộp đó sẽ là một mỏ vàng vô tận... 

Nhưng chuyện đời không đơn giản như sự toan tính của con người. Sau lễ tân gia chưa đầy hai tháng, bỗng có đám gia nhân được gia chủ thuê ở giữ nhà đã đồng loạt nghỉ việc mà chẳng ai biết nguyên nhân. 

- Việc gì đã xảy ra? 

Ông Phủ hàm Phan Hớn là chủ nhân ngôi nhà đã hoảng hốt tìm hiểu nguyên do. Và bốn trong số hơn hai mươi nhân công đã kể lại cho ông nghe các chi tiết mà họ cho là có cho đống vàng thì họ cũng không dám trở lại sống trong ngôi nhà ấy! 

- Họ tiết lộ điều gì? 

Hãy nghe Sáu Nhơn kể lại: 

- Tôi được giao ngủ giữ ngôi nhà lớn nên đêm nào sau khi chốt chặt cửa vô, tôi đi ngủ sớm. Đêm đầu tiên tôi chỉ ngủ được có nửa giấc thì phải giật mình dậy, bởi có những tiếng động gì đó rất lạ ở dưới nền nhà... Ban đầu sau khi lắng nghe tôi cho rằng đó là tiếng côn trùng kêu, nhưng nghe kỹ thì hoàn toàn không phải. Các tiếng động phát ra như tiếng thở phì phò của cả chục người. Tưởng đám gia nhân khác ngủ gần đó ngáy nên ngồi dậy đốt đèn đi tìm. Chẳng có một ai ngủ gần tôi, bởi theo phân công thì trong gian lớn chỉ một mình tôi có mặt. Lúc tôi dậy soi đèn thì tiếng phì phò giảm bớt. Tuy nhiên khi tôi tắt đèn nằm ngủ lại thì âm thanh ấy lại có trở lại. Chưa hiểu nguyên nhân nhưng vì buồn ngủ nên tôi có dở giấc ngủ lại. Vừa chợp mắt bỗng tôi có cảm giác như cạnh tôi có ai đó chen vào nằm chung. 

- Ai vậy? 

Tôi hỏi nhỏ vừa đưa tay sang sờ thì... đụng một thân thể thịt da mát lạnh. Mắt nhắm mắt mở nhưng tôi cũng bật dậy được để đốt cây đèn dầu lên xem cho rõ. Chẳng có ai cả, ngoài một vật gì đó to hơn bắp tay đang bò nhanh vào xó nhà. Một con rắn màu đỏ rất lạ thường! 

Tay chân tôi rụng rời, thần tứ hoang mang, tôi kêu báo động với mọi người. Tuy vậy khi mọi người nghe tôi kể chuyện đều cười ồ, cho là tôi nhát gan, giàu tưởng tượng. 

Khi mọi người tản ra rồi tôi không tài nào ngủ lại được bởi hễ tắt đèn là y như rằng những âm thanh quái dị kia lại trỗi lên... 

Người thứ hai kể lại là Tư Thơm, một nông dân được tiếng là gan dạ: 

- Tôi thay Sáu Nhơn lên nhà lớn ngủ, bởi Nhơn sợ quá đã xin ra nhà kho quét dọn và ngủ ở đó. Tôi tự nhủ có ma quỷ gì thì đêm nay cứ ta ngủ chung cho vui. Và đêm đầu tiên tôi đã nếm đủ mùi kinh dị. Ban đầu tôi chỉ nghe những tiếng động lạ, từ nhỏ rồi lớn dần và sau cùng thì nền nhà dưới lưng tôi như đang rung chuyển. Tôi vừa định mở mắt ra thì hai mí mắt đang bị ai đó bít kín lại không tài nào mở ra được. Tôi quờ quạng tay chân thì va vào một thân thể ai đó mát lạnh đến rợn người. Mà chẳng phải một, có đến hai nằm hai bên tôi. Tôi vốn có thói trăng hoa, thích gần phụ nữ, nhưng lúc ấy thú thật là thần tứ tôi đang hoảng loạn thật sự, không nghĩ gì khác ngoài tìm cách bật dậy. 

Tư Thơm ngừng lại lấy hơi, cũng là để trấn tỉnh trước khi kể tiếp: 

- Cuối cùng thì tôi vùng dậy được và trong cơn vùng vẫy tôi đã làm sập chiếc mùng. Đốt đèn sáng lên, tôi nhìn quanh không hề thấy gì khác thường... Sau khi trấn tỉnh lại tôi kéo mùng định ngủ tiếp thì chợt kêu thét lên, bởi nằm trong mùng tôi lúc ấy là hai con rắn cực to, da vẩy của nó phát ra những ánh ngũ sắc lạ thường! Trong đời tôi chưa từng nhìn thấy con rắn nào to và kỳ dị như vậy. Hai con rắn nhìn thấy tôi chúng không hề tỏ ra sợ sệt hay có phản ứng hung dữ gì, mà chỉ từ từ bò ra khỏi chiếu, sóng đôi nhau tiến về phía vách tường và biến mất! 

Một người nãy giờ ngồi nghe kể đã thốt lên: 

- Những con xà tinh thường là như vậy. Chúng không cắn người mà chỉ nuốt người vào bụng thôi. 

Ông Phủ Nhơn nạt ngang: 

- Để nghe nó kể tiếp, nói tào lao hoài! 

Tư Thơm vẫn còn sợ hãi: 

- Tôi không bỏ chạy như Sáu Nhơn, nên đêm sau nữa tôi trải chiếu trên giường để ngủ.Thay vì tắt đèn khi đi ngủ, tôi lại treo một cây đèn bão sáng cả gian nhà để có thể yên tâm hơn.Tôi ngủ được một giấc khá ngon và thức dậy vào nửa đêm. Đưa mắt nhìn lên trần nhà tôi không còn tin vào mắt mình nữa, bởi trên trần lúc ấy đang có hai... mỹ nữ mặc áo hồng, áo tía đang đu trên cây xà ngang. Một trong hai cô nàng còn nhoẻn miệng cười khi bắt gặp ánh mắt của tôi. 

Câu chuyện hấp dẫn làm ông Phủ Hơn cũng chen vô: 

- Mày là thằng háo sắc có tiếng mà, lúc ấy có cười cợt lại với các nàng không? 

Tư Thơm đưa tay ôm lấy ngực: 

- Tim muốn rụng ra ngoài, còn tâm trí đâu mà háo với sắc! Lúc đó tôi dụi mắt vì không tin vào mình, có thể là do ảo giác hoặc là mộng mị... Nhưng vừa lúc ấy thì chiếc đèn treo vụt tắt. Cả căn phòng tối thui. Hoảng quá tôi tìm ống quẹt đốt lên. Phải mất cả phút sau thì đèn mới sáng trở lại, và... thay vào chỗ hai cô gái lúc nãy, giờ chỉ còn là hai con rắn to đang treo đung đưa trên xà ngang. Rồi trong phút chốc hai con rắn biến mất thật kỳ lạ. 

Tư Thơm ngừng kể rồi mà Phủ Hơn vẫn còn chưa hết hồi hộp. Ông lắc đầu ngao ngán: 

- Tao vốn sợ rắn, gặp trường hợp đó chắc là tao đứng tim mà chết mất. 

Tư Thơm nói dứt khoát: 

- Con xin ông cho nghỉ việc, con không thể nào... 

Chín Hải ngồi cạnh nãy giờ, đã lên tiếng: 

- Hai anh Sáu Nhơn, Tư Thơm chỉ gặp có một hai con yêu tinh, còn tôi mới tợn người hơn. Tôi gặp cả một bầy! 

Anh ta đã cố ngăn xúc cảm khi kể lại: 

- Sau khi hai người kia không ai còn dám ngủ trên nhà lớn thì cả bọn chúng tôi đều cương quyết không lên ngủ ở đó nữa. Tôi giữ lẩm lúa nên đêm nào nếu không mưa đều trải chiếu ở bộ ván kê gần cửa kho để ngủ cho mát. Ngủ cả tháng rồi đâu có gì xảy ra... Vậy mà hai đêm sau khi Tư Thơm thấy mấy con rắn tinh thì đến lượt tôi. Đêm ấy khi đang ngủ say, chợt trong mơ màng tôi thấy có nhiều bóng người lướt qua bên ngoài mùng. Nghĩ là bọn trộm lúa nên tôi bật dậy, tay chụp cây xà gài cửa định đối phó. Nhưng như có một sức mạnh vô hình nào đó đẩy tôi nằm trở lại. Mắt tôi hướng ra ngoài nên nhìn rất rõ, có đến cả chục bóng người đang đi lại. Họ không hấp tấp không ra dáng kẻ trộm đạo, mà biết đi nhẹ nhàng, uyển chuyển, dường như là lướt trên mặt đất! 

Nhìn kỹ hơn tôi vô cùng kinh ngạc, bởi những người kia là các cô gái. Quần áo họ mặc toàn bằng tơ lụa, đủ sắc, nên lấp lánh dưới ánh trăng đêm. Tôi định kêu lên nhưng không tài nào mở miệng ra được. 

Ngoài kia sau một hồi lui tới nhởn nhơ, những bóng con gái ngồi xếp vòng tròn rất trật tự. Chợt từ đâu có một cô gái khác mặc toàn trắng dáng đi thướt tha bước ra. 

Dường như đó là đầu lĩnh của các cô gái nên vừa trông thấy tất cả đã đồng loạt cúi mọp đầu xuống vô cùng cung kính. Người áo trắng bước vào ngồi ngay giữa vòng tròn và đảo mắt một vòng như để điểm danh. Sau đó tất cả họ lại im lặng... Tôi cố vểnh tai nghe ngóng thì phát hiện ra họ đang đọc điều gì đó trong miệng, những tiếng thì thầm nhưng do có nhiều người nên âm thanh phát ra thành tiếng phì phì quái dị! Họ cầu nguyện chăng? Hay là một cách luyện phép? Chẳng thể nào hiểu được. Phải mất hơn mười lăm phút sau thì cái vòng tròn ấy mới tản ra. Các bóng áo hồng áo tím đi về phía tôi. Người mặc áo trắng đi trước như dẫn đường. Tôi cố thét thật lớn, bởi biết các bạn tôi đang ngủ gần đó. Nhưng tiếng thét của tôi chẳng thể nào phát ra được. Tôi lại vùng vẫy... 

Trong khi đó các mỹ nhân kia đang tiến rất gần, tôi đành bất lực chờ điều bất hạnh gì đó xảy ra. 

- Chín Hải! 

Đó là tiếng gọi của một người bạn ngủ gần đó. Và đó chính là cứu tinh của tôi. Sau tiếng gọi, tôi như được giải thoát. Tay chân tôi như được cởi trói và miệng có thể phát ra tiếng kêu. 

Lúc đó khi mọi người bu lại hỏi thì tôi chỉ còn đủ sức thuật lại sơ lược câu chuyện đã chứng kiến. Sau đó tôi gần như ngất đi. 

Trời sáng, lúc đó tôi và mọi người mới nhìn thấy khắp trong sân có nhiều dấu vết của vật gì đó. Một người sành về rắn đã quả quyết: 

- Dấu vết này chính là do nhiều con rắn bò qua bò lại. Cả vài chục con chứ không ít! 

- Tới lúc đó tôi vẫn còn cảm giác lạnh xương sống. Tôi rùng mình và bỏ đi. Thề sẽ không bao giờ trở lại ngôi nhà kinh hoàng ấy. 

Ông Phủ Hơn lại thở dài... 

Người thứ tư, chính là cháu rể của ông, được cử tới để làm tài phú. Anh chàng còn độc thân nên quyết vào ngủ ở nhà lớn, mặc cho lời cảnh báo của nhiều người. 

Hai Hữu tên của anh chàng, đã cương quyết: 

- Tôi chẳng tin chuyện hoang đường. Mấy anh không dám ngủ trong đó, thì tôi sẽ ngủ. Phòng tôi ở chứa nhiều sổ sách nên cấm không ai được tự tiện vô đó cả ngày lẫn đêm. 

Nhiều người ngao ngán lắc đầu. Bởi họ biết nếu có nói cũng vô ích đối với anh chàng ngạo mạn này. 

Hai Hữu kể lại đầu đuôi cho Phủ Hơn nghe: 

- Con vào phòng riêng ngủ, đóng cửa phòng lúc ngủ nên tin chắc là sẽ không thể có chuyện gì xảy ra. Con cũng mang theo con chó vện vốn rất dữ và giỏi phát hiện kẻ xấu, kẻ lạ. Chỉ ngay đêm đầu tiên là con gặp ngay thử thách, khi vào nửa đêm từ trên trần nhà có vật gì đó ngọ nguậy, uốn éo sà xuống thấp ngay nóc mùng của con. Do chuẩn bị từ trước nên con thủ sẵn cây đèn pin lớn, lúc đó con chụp lấy đèn chĩa lên nóc mùng và... có mấy vệt màu tím vụt biến đi rất nhanh, làm cho con không nhận ra đó là gì? Nhưng có một mùi tanh khó chịu còn vương vất đâu đó, con phải mở cửa phòng để xua hôi tanh đi và... chẳng hiểu sao con lại bất tỉnh ngay lúc đó. 

Ngừng lại nhìn sang mấy người có mặt ở đó vào đêm xảy ra chuyện. Hai Hữu bảo: 

- Anh Năm Tròn kể lại chuyện tiếp theo đi. 

Năm Tròn vốn thật thà, ít nói, nhưng khi được khuyến khích, anh sôi nổi hẳn lên: 

- Khi sáng lại, thấy mặt trời lên cao mà cậu Hai Hữu chưa dậy, con mới vào để gọi cậu. Thấy cửa phòng mở, còn cậu Hai thì đang nằm im dưới nền nhà. Con hoảng quá vội tri hô lên, khi mọi người chạy vô thì mới phát hiện trên giường của cậu Hai ngủ có 2 bộ da rắn lột, nằm xếp thẳng hàng như nằm ngủ. 

Kể tới đây Năm Tròn hơi ngập ngừng, nhìn sang Hữu. Anh chàng này cũng khó nói ra điều gì đó. Phải đợi ông Phủ Hơn lên tiếng: 

- Chuyện gì thì cứ nói ra tao nghe, ngại gì? 

Lúc này Năm Tròn mới tiếp lời: 

- Con nhìn vào quần của cậu Hai thì thấy ở phía giữa của cậu Hai ướt cả... 

Phủ Hơn hỏi lại: 

- Phần giữa là phần nào? 

Năm Tròn lúng túng đưa tay chỉ vào chỗ của mình: 

- Dạ, chỗ này nè... 

- Bộ nó sợ quá đái trong quần hả? 

Năm Tròn cãi: 

- Không phải. Chú Hai bị... bị xuất... cái đó. 

Ông Phủ Hơn càng ngạc nhiên hơn: 

- Sao lại xuất thứ đó, nó còn độc thân mà? 

Lúc này Hai Hữu mới thú nhận: 

- Con nhớ lại rồi, lúc con bị té ngất đi thì trong mơ màng con thấy có hai cô gái cúi xuống chỗ con. Con không kháng cự được, nên... 

Hiểu ra. Phủ Hơn than trời: 

- Trời ơi, mày điên rồi Hữu ơi! Quan hệ với ma quỷ, yêu tinh này mày biết hậu quả sẽ ra sao không? 

Hai Hữu lặng thinh để thấm thía nỗi đau. Bởi sau phút đó anh đã phải nằm bệnh viện tỉnh đến gần một tháng trời để chữa chứng mất sinh lực do bị rút sinh khí quá nặng. 

Như thế thì đã quá rõ, tất cả bốn người kể trên, từng trường hợp họ đã gặp phải chuyện lạ thường. Nghe họ kể có người bài bác, cho đó là sự hoang đường, tưởng tượng hay mộng mị, ảo giác mà ra... 

Người có niềm tin thì lại nghĩ khác. Họ quyết: 

- Những chuyện như vậy vẫn xảy ra đây đó hằng ngày, có điều người ta không kể lại hoặc không ai ghi chép mà thôi. 

Với ông Phủ Hơn thì sự việc nghiêm trọng hơn. Nếu không phá vỡ sự kỳ bí này thì coi như cơ ngơi, sản nghiệp của ông sẽ tiêu tan hết bởi hiện nay chẳng còn một gia nhân nào chịu ở lại ngôi nhà mà họ gọi là nhà ma! Cả làng ở đó cũng đồn nhau và không một ai dám bén mảng tới gần. Trong một thời gian dài ngôi nhà ngói bề thế đó bị bỏ hoang.

Cho đến một hôm, lúc đang ngồi xe ngựa từ nhà ở thị xã ra chợ Huyện chợt có một cụ già râu tóc bạc phơ chặn đường Phủ Hơn và nhẹ nhàng bảo:

- Ông đang bị ma ám phải không?

Quá đỗi ngạc nhiên trước một người lạ mà lại biết rõ chuyện của mình. Phủ Hơn vội xuống xe rồi lễ phép thưa:

- Thưa bác, quả có chuyện ấy. Chẳng hay bác có cao kiến gì?

Cụ già cười hiền hòa:

- Tôi không trị được tà ma, cũng không tin là có ma quỷ trên đời này. Nhưng lúc nãy nhìn thấy ánh mắt lo lắng của ông, cũng như khuôn mặt xạm đi, đoán là ông gặp nạn. Tôi là một nhà bói toán, đồng thời là… thầy thuốc rắn.

Quả là buồn ngủ gặp chiếu manh, Phủ Hơn reo lên:

- Vinh hạnh cho tôi quá. Tôi đang ra chợ Huyện để tìm ông thầy rắn Tám Thông, may mà gặp ông.

Cụ già gật đầu:

- Tôi là Tám Thông đây, ông khỏi phải đi tìm.

Mừng quá, Phủ Hơn ôm chầm lấy cụ:

- May cho tôi quá, vậy mời thầy về nhà, tôi trình bày mọi chuyện để thầy giúp cho.

Nhường cho khách lên xe trước, nhưng cụ Tám Thông lại xua tay từ chối:

- Tôi sẽ nói ngay đây, bởi tôi đã nghe và biết hết chuyện ở ngôi nhà ma ở Cà Bây Ngộp của ông.

- Vậy cụ có cách nào?

Cụ Tám Thông nói ngay:

- Tôi sẽ giúp ông. Ngày mai tôi sẽ có mặt ở đó.

Nói xong cụ quay bước đi ngay. Phủ Hơn nói với theo:

- Để tôi đưa thầy đi. Và còn tiền công nữa…

Cụ Tám nói mà không nhìn lại:

- Xưa nay tôi hành nghề không lấy tiền công và cũng không lệ thuộc ai. Khi nào xong việc tôi sẽ nói chuyện với ông. 

Ông già đi nhanh và biến mất sau lũy tre, bí hiểm y như lúc tới... 

Việc đầu tiên của cụ Tám Thông là đi quan sát khắp ngôi nhà, ông xem từ ngoài vườn, từ gốc chuối, bụi tre, bờ cỏ xem kỹ những dấu vết xung quanh. Cuối cùng là bên trong ngôi nhà. Ông đưa tay gõ gõ nhiều lần xuống nền nhà lót gạch tàu, ở một góc trong cùng, ông gỡ lên một viên gạch và thốt lên: 

- Mọi thứ là ở đây! 

Cùng có mặt lúc ấy. Phủ Hơn lên tiếng: 

- Nhà tôi mới xây, vậy tại sao lại có một viên gạch tróc lên như vậy? 

Thầy Tám cúi sát mặt xuống chỗ viên gạch vừa được bóc ra, ông ngẩng lên bảo: 

- Đây là miệng hang và bọn chúng ở bên dưới. 

- Bọn nào? 

Cụ Tám đáp không cần suy nghĩ: 

- Lũ rắn. 

Phủ Hơn quay sang hỏi mấy người ở giữ nhà: 

- Mấy đứa có phát hiện cái hang này không? Thường thì rắn lấy hang chuột làm hang của chúng, nhưng nhà này là nhà mới, đâu có chuột làm hang? 

Anh gia nhân không trả lời được, Thầy Tám Thông chợt bảo: 

- Không phải hang chuột, mà là hang do người tạo nên! 

Phủ Nhơn kinh ngạc: 

- Ai đã đào cái hang này? 

Quay sang các gia nhân: 

- Có đứa nào làm chuyện này không? 

Tất cả đều chối hết. Cụ Tám bảo: 

- Không phải họ đâu. 

Rồi ông quay sang hỏi Phủ Nhơn: 

- Lúc xây ngôi nhà này ông có gây thù chuốc oán gì với đám thợ xây hoặc có ai muốn ám hại ông không? Ông Phủ Hơn bóp trán suy nghĩ, chợt ông kêu lên: 

- Có! Có một thằng. 

Rồi ông kể: 

- Thằng thầu xây nhà này thiếu nợ tôi một số tiền lớn, trước khi khởi công tôi đã nói là xây xong sẽ trừ hết nợ trong tiền công. Nó phản đối, nhưng cuối cùng nó cũng phải chấp nhận bởi số tiền nó nợ tôi quá lớn và tôi còn dọa nếu không chịu theo điều kiện ấy thì tôi sẽ gọi người khác đến xây. Vì vậy suốt trong thời gian xây nhà thằng đó cứ mặt lớn mặt nhỏ với tôi... 

Thầy Tám gật đầu: 

- Lần này ông Phủ có nghe người ta nói chuyện các nhà thầu, thợ xây ếm chủ nhà bằng cách này hay cách khác chưa? 

- Có có nghe nhiều… 

Thầy Tám bảo: 

- Tôi không tin lắm chuyện thư ếm. Nhưng chắc chắn ở đây ông đã bị họ phá bằng cách đào sẵn một cái hố lớn phía dưới nền nhà, sau đó họ tạo điều kiện cho rắn vào sinh nở và phát triển. Trước đây cái hang này bị bịt kín khiến cho lũ rắn nhiều ngày không ra ngoài được, chúng đói và hễ có dịp thoát ra là chúng quậy phá. 

- Nhưng chuyện chúng thành tinh, thành ma? 

Thầy Tám có vẻ trầm ngâm: 

- Tôi không tin chuyện ma quỷ. Trong trường hợp này có thể do ảo giác, nhưng biết đâu cũng là chuyện thật... Thôi, bây giờ tôi không nói đến chuyện đó nữa, quan trọng hơn là tìm cách diệt lũ rắn này... 

Ông Phủ Hơn mừng quá đỗi: 

- Ông làm ơn giúp ngay giùm. Tôi cảm ơn lắm lắm... 

Thầy Tám Thông bảo mọi người: 

- Xin ra ngoài hết, chỉ một mình ông Phủ ở lại đây với tôi thôi. 

Chờ khi mọi người ra ngoài hết, Thầy Tám lấy ra bốn, năm chiếc bao tải lớn và dặn ông Phủ: 

- Tôi sẽ bắt rắn cho vào bao, khi bao đầy ông cột chặt lại giùm. 

Phủ Hơn rùng mình: 

- Tôi ớn mấy con rắn lắm. 

Thầy Tám trấn: 

- Không sao, khi tôi bắt nó ra thì nó như tê liệt thần kinh, không thể làm hại ai cả. 

Hơi yên tâm, Phủ Hơn cầm bao đứng đợi. Thầy Tám nhắm mắt lại trong giây lát, miệng đọc thầm điều gì đó sau cùng ông lấy một loại nước gì đó màu vàng thoa đều lên hai tay. 

Dùng bàn tay trái vỗ vỗ ba cái lên miệng hang, rồi lại dùng tay phải vỗ bảy lần nữa. Bất chợt nghe từ phía dưới có tiếng chuyển động dữ dội như một cuộc rượt đuổi, đánh với nhau. Và sau đó thì là sự im lặng đến ngạc nhiên... Trong lúc Thầy Tám bình thản chờ đợi thì ông Phủ Hơn lại vô cùng căng thẳng, hồi hộp... 

Thế rồi, như một phép lạ, con rắn đầu tiên màu xám như ánh bạc từ từ bò ra. Nó bò chậm như mất hết sinh khí. Và Thầy Tám chỉ việc đưa tay tóm ngang cổ nó kéo lên cho vào bao. 

Con tiếp theo màu đen tuyền, trên cổ có mấy vằn quấn ngang. Rồi con thứ ba mình vàng có khoan đen, chúng đi thành một cặp, con kia mình đỏ vằn đen. Tất cả chúng đều ngoan ngoãn đến lạ thường, chui vào tay Thầy Tám và vô bao. Ông Phủ Hơn chỉ đứng vịn bao thôi mà mồ hôi đã vã ra từng hồi. Ông nghe lạnh cả sống lưng... 

Đến lượt những con rắn đủ màu sắc khác bò ra, theo thứ tự trước sau, thứ bậc, con nhỏ trước con lớn sau. Đếm hơn hai trăm con rồi mà Thầy Tám vẫn còn chờ. Đã có hai bao tải được cột chặt, nhưng lạ một điều là chúng không hề ngọ nguậy, mà nằm im trong đó như đã chết. 

Đến con thứ ba trăm. Thầy Tám đếm lớn lên: 

- Con cuối cùng, con thứ ba trăm. Đây là lũ rắn hội đủ cả trăm loài có mặt ở xứ này! 

Thầy vừa định xoa tay đứng lên, chợt há hốc mồm kinh ngạc khi từ trong hang lại một con rắn nữa chui ra. 

Con này màu trắng như tuyết, lớn nhưng gầy đến trơ xương. Thầy Tám lại đưa tay chụp ngang cổ nó, vuốt nhẹ theo sống lưng như thường lệ để kéo nó ra. 

Bỗng Thầy bật ngã ra sau, mặt tái đi, mồm há hốc như vừa gặp điều kinh hoàng nhất! Ông Phủ Hơn nhìn rõ, con rắn màu trắng đó vẫn nằm im, nhưng có một vật gì đó rất nhỏ bám trên lưng nó thì cử động. Nhìn kỹ mới thấy đó là một con rắn rất nhỏ, màu trắng có điểm những chấm đỏ lạ mắt... 

- Một con rắn cõng con rắn! 

Ông Phủ Hơn kêu lên vừa lùi lại theo phản ứng tự nhiên. Lúc này Thầy Tám mới ngồi dậy. Không nói không rằng ông vỗ vỗ mấy cái cho con rắn trắng bò trở vào. Rồi liền theo đó ông đích thân mở từng bao tải, thả hết lũ rắn trong đó lại. Lúc này lũ rắn dường như bừng tỉnh chúng bò rất nhanh, phát ra tiếng kêu phì phì nghe đến rợn người! 

Đến gần nửa giờ sau con rắn cuối cùng mới thoát khỏi bao. Thầy Tám lấy viên gạch đặt lại chỗ cũ và thẩn thờ rời khỏi chỗ ngồi. 

Ông Phủ Hơn gọi giật lại: 

- Thầy Tám! Không lẽ Thầy không bắt chúng? 

Tám Thông vẫn chưa hoàn hồn, giọng ông run run: 

- Mạng tôi còn lớn nên mới không chết bởi con rắn chúa đeo trên lưng con bạch xà. 

- Rắn chúa? 

Thầy Tám nghiêm giọng: 

- Nó tuy nhỏ nhưng là chúa của bầy rắn. Nó có thể thành tinh như truyền thuyết, ở đây nó đeo trên lưng con rắn lớn trơ xương kia để rút tinh lực từ con rắn màu trắng để sống. Nó độc đến nỗi chỉ cần một nhát cắn nhẹ có thể giết chết một con voi. Nếu mang tội đoản thì lúc nãy khi vuốt lưng con bạch xà, con rắn chúa đã cắn tôi. Đó là cái bẫy mà nhiều thầy rắn đã mất mạng! 

Nói xong ông quỳ xuống chấp tay lạy ba lạy về phía hang rắn. Sau đó ông bỏ đi thẳng và mất dạng...

Ông Phủ Hơn ngơ ngác đứng nhìn... Mãi một lúc sau ông mới chợt nhớ ra và vụt chạy ra khỏi nhà như bị ma đuổi! 

Ngôi nhà từ đó bị bỏ hoang luôn. 

Chuyện một đồn mười, mười đồn trăm. Đến nỗi cả những cư dân ở các làng lân cận cũng phải dời nhà đi thật xa. Nghe nói ngôi nhà đó vào lúc chiến tranh đã bị máy bay Pháp dội bom sập hoàn toàn... 

  

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top