AA-Lenghiabk05
Tản mạn ngày Đại lễ (re-post)
Posted on 18/12/2011 | 102 phản hồi
Sắp đến Đại lễ 1k. Tự nhiên ký ức về cái tết quân đội 22/12 đầu tiên của đời lính năm ấy lại trở về…
Đó là năm 86, một trong những năm đói nhất của thời đói kém. Đã trải qua mấy năm học đại học nên tôi cũng quen nhanh với cái đói của lính, nhất là cái đói của đám tân binh. Nhập ngũ đầu tháng 9 và hơn 3 tháng sau, khi mùa huấn luyện sắp kết thúc thì ngày lễ 22/12, ngày đình đám nhất của quân đội ta cũng đã đến trong sự háo hức của đám lính trẻ.
Đêm 21/12, sự mong đợi và không khí hối hả dồn nén từ mấy hôm trước đã lên đến đỉnh điểm. Đám lính trẻ tụ tập thì thầm bàn tán về khẩu phần thịt được chia, vài thằng mơ màng đến cái lúc hai hàm răng được cắm ngập vào miếng thịt dày, lại có vài đứa trốn trại ra ngoài đổi rượu (đổi bằng cái gì thì tôi không nhớ)… Xung quanh, trong bóng đêm đen đặc là tiếng lợn kêu eng éc, rồi tiếng chân gồng gánh thậm thịch đây đó sau những quả đồi dọc đường từ sân trung đoàn tỏa về nơi các đơn vị đóng quân, …
Sáng 22/12, tất cả vẫn ra thao trường sau bữa sáng được ăn cơm với nước gạo rang pha muối như lệ thường. Bữa trưa cũng vậy, một đĩa canh toàn quốc (toàn nước) như mọi ngày, khác chăng là được ăn kèm với mùi xào rán thơm điếc mũi từ nhà bếp đưa lên. Một vài thằng láu cá còn thừa dịp lúc xuống bếp lấy cơm đã tranh thủ liếc vào chỗ để cỗ bàn, nơi có những đĩa nem, đĩa thịt vàng ngậy xếp cao như núi để vừa ăn cơm vừa tưởng tượng lại cho ngon cơm hơn.
Chiều tối 22/12. Niềm mong ước bấy lâu cuối cùng đã vỡ òa trong niềm hân hoan sung sướng khi bữa cơm tối hôm đó phải có đến ba, bốn thằng mới mang được lỉnh kỉnh nào xoong, nào đĩa đấy ú ụ thịt thà về chỗ ăn, thay vì chỉ cần 1 thằng đi lấy cơm cho cả bọn như mọi khi. Nghe nói tiêu chuẩn thịt của ngày 22/12 là gần 2 ký cho một thằng, dồn cả vào một bữa (tháng đó lính ăn theo tiêu chuẩn mùa đông là 24 ký gạo/tháng, tức là mỗi bữa chính được ăn 3 lạng rưỡi gạo) Những con mắt thèm thuồng hau háu nhìn những đĩa thịt, đĩa nem chả ê hề bày trên sân, những cái cần cổ vươn dài như tắc nghẹn vì hồi hộp. Cũng cần nói thêm là lính tráng bọn tôi thường ngồi ăn ngoài sân, cứ 7,8 thằng quây quanh một xoong cơm, cả trăm thằng ngồi la liệt như họp chợ. Hôm nào trời mưa thì mang vào nhà, cuốn chiếu lên rồi bày xoong, ngồi chồm hỗm lên sạp (lính tráng chúng tôi không có giường riêng mà dùng cây và ván hoặc liếp tre làm một cái sạp dài để cả trung đội nằm).
Khó mà diễn tả được niềm vui của bữa liên hoan đó. Trong ánh lửa bập bùng từ những ngọn đuốc làm bằng giẻ lau súng tẩm dầu cắm rải rác đây đó khắp sân đại đội, tiếng nói chuyện ồn ào náo nhiệt như xua tan hơi lạnh của buổi tối mùa đông nơi núi rừng biên giới. Rồi dần dà tiếng hát bắt đầu vang lên. Những mâm nào ăn xong thì dẹp xoong nồi qua một bên nhường chỗ cho những chiếc ghi ta bốn dây, có khi chỉ còn ba dây đưa đẩy cho những bài ca của lính. Tiếng đàn ghi ta bập bùng. Tiếng gõ thìa bát lách cách. Tiếng gõ xoong đĩa xoang xoảng. Chỗ này thì “tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới …”, chỗ kia thì “nếu em lên biên giới, em sẽ gặp bạt ngàn hoa sim …”, tiện bài gì hát bài đó, nhiều khi trong một mâm mà mỗi thằng hát một bài, kệ cho nhạc công muốn đệm đàn ra sao cũng được, thằng nào hát to thì thắng.
9 giờ 30. Kẻng ngủ vang lên, đám lính tráng ồn ào thu dọn rất nhanh. Chỉ một loáng, sân đại đội đã trở lại im lìm, tối đen như mọi ngày.
Một lúc lâu sau đó …
Có lẽ lúc đó khoảng chừng nửa đêm. Bụng no căng, cái no thịt khác với cái no cơm mọi ngày khiến tôi chỉ chập chờn ngủ được từng giấc ngắn. Rồi cơn đau bụng nổi lên, và dù rất tiếc giấc ngủ nhưng tôi vẫn phải dậy chạy ra khu vệ sinh. Đêm đó tôi phải dậy mấy lần. Mà chẳng riêng gì tôi, trong đơn vị cũng có đến vài chục thằng xấu bụng như tôi, cũng phải xách quần chạy suốt đêm, nhiều thằng dậm chân chờ tới lượt không nổi phải lần ra những bụi cây bên bờ suối để “giải quyết gấp”. Trong đêm tối, nhìn những bóng người lom khom chạy rối rít giữa các lùm cây mà vừa buồn cười, vừa thương hại.
Bữa tiệc Đại lễ 1k cũng sắp dọn ra sau những ngày dài đợi chờ trong khói bụi, đào đường, kẹt xe, … Dân mình, nhất là dân Hà nội, sắp có một bữa tiệc lớn, bữa tiệc ngàn năm dồn lại trong chục ngày. Chẳng biết có ai bị bội thực không nhỉ? Chẳng biết có cái gì đọng lại sau bữa tiệc đó không, ngoài những gì người taeưv^%v48rn… ăn theo đại lễ?
Kỷ niệm về chiến trường “đói”
Nhớ lần đếm… cơm
Cựu chiến binh Đào Bá Vy, nguyên bác sĩ Đội điều trị 84 thuộc Cục Hậu cần, Quân khu Trị Thiên vẫn còn giữ được những dòng nhật ký ông ghi trong cơn đói: “Ngày 24-7-1969… Họp Đảng ủy, phổ biến chỉ thị với nội dung: Khó khăn về lương thực, tìm biện pháp chống đói. Tháng 8, tiếp tục cấp mỗi người 4,5kg gạo/tháng”. Bác sĩ Đào Bá Vy kể: Tháng 8-1969, mỗi chiến sĩ chúng tôi chỉ ăn 0,05 kg gạo mỗi ngày. Từ tháng 9-1969 kéo dài nhiều tháng sau đó, toàn đơn vị không còn một hạt gạo nào. Chúng tôi ăn ngô, sắn tăng gia, khi hết thì ăn rau rừng. Còn chút gạo nào thì ưu tiên thương binh. Đói như thế nhưng chúng tôi không được rời tay súng.
Trong ký ức của Đại tá, cựu chiến binh Trần Ngọc Phan, nguyên bác sĩ Đội điều trị 82, kỷ niệm về cái đói vẫn còn nguyên vẹn. Ông kể: “Ngày đó, chúng tôi chống đói bằng rau rừng và… ý chí”. Có lần, trong bữa cơm, một chiến sĩ bổng nảy ra ý định đếm xem suất cơm của mình có bao nhiêu hạt rồi công bố: “Suất của tớ có 138 hạt”. Mọi người cho là… "bốc phét". Một cuộc “thanh tra” được tiến hành ngày bằng suất cơm của đồng chí khác. Mọi người cho nước vào suất cơm, khuấy nhẹ để từng hạt cơm tách ra rồi đếm. Kết quả là suất đó có 150 hạt cơm. Mọi người “kích” chủ suất cơm: “Cố ý chọn suất nhiều” rồi phá lên cười.
Có lần, một thương binh nói với bác sĩ Trần Ngọc Phan: “Anh ơi, thà rằng đánh nhau, chết chúng em không sợ. Đằng này, thỉnh thoảng mới được tắc bọp. Cái đói kinh khủng quá. Ngày nào em cũng chỉ thèm ăn. Chúng em chỉ ao ước có đủ 1G (gạo) + 3M (mỡ, muối, mì chính)”.
Cái đói đã đi vào thơ ca của cán bộ, chiến sĩ trên Mặt trận Trị Thiên. Nhiều người cho đến nay vẫn không quên, truyền nhau đọc lại bài thơ của bác sĩ Đào Bá Vy có tiêu đề “Đói” được làm từ tháng 10-1968 trong mùa mưa chiến trường: “Anh em ơi!/Thú thật lúc này tôi đói quá/Chả còn gì mà nhá bây giờ/Đói mà tôi vẫn làm thơ/Vẫn say văn nghệ, vẫn cờ tướng đây/Đói mà còn vui thế này/No thì phải biết, tôi bay tưng bừng/Đói mà gian khổ quá chừng/Môn thục rau rừng lót dạ thay cơm/Mai ngày thống nhất giang sơn/Lại về với mẹ gạo thơm quê nhà”.
Câu chuyện của một người “đói”
Nhắc đến cái đói, nhiều cựu chiến binh lại nhắc đến tấm gương Thiếu tướng Dương Bá Nuôi, Tham mưu trưởng Quân khu Trị Thiên trong những năm chống Mỹ. Những ngày tháng gian khổ ở chiến trường, ông cùng chịu đói với bộ đội. Sau khi giải phóng miền Nam, đất nước hòa bình, độc lập, thống nhất, một số người trong đơn vị bắt đầu đam mê vật chất, “vơ vào mình”. Riêng ông vẫn sống bình dị, vẫn nguyên tắc và tiết kiệm như hồi chiến tranh. Năm 1985, kinh tế đất nước khủng hoảng nghiêm trọng, mọi nhu yếu phẩm đều phân phối hạn định trong tem phiếu. Anh em trong cơ quan hậu cần mua được mấy quả trứng vịt lộn giá ngoài để mời ông bồi dưỡng vì lúc này ông thương tật đầy mình, lại bị bệnh thấp khớp hành hạ. Vậy mà, ông gói lại, đợi cô y tá cơ quan đến, gửi về cho đứa con nhỏ của cô vì biết cháu bị suy dinh dưỡng. Gặp ai, ông cũng bảo, đất nước đang khó khăn, phải đơn giản hóa mọi nhu cầu cá nhân, lúc ở chiến trường, khổ thế ta vẫn trụ được, nay khó khăn một chút không sao. Suy nghĩ, người cán bộ phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” chi phối ông trong suốt cuộc đời, kể cả sau này, khi đất nước đổi mới, đời sống nhân dân khấm khá, ông vẫn “bảo tồn” lối sống tối đa giản dị của mình; từ ngôi nhà xây trước năm 1975 đến cái ti vi đen trắng vẫn được ông sử dụng mà không hề thấy “cũ”.
Cựu chiến binh Nguyễn Thanh Nguyên kể: Ông Nuôi chẳng bao giờ để ý đến cuộc sống vật chất của cá nhân mình nhưng lại dành hết thời gian tuổi già để tích cóp tư liệu trong cuộc đời chiến đấu. Là một vị tướng chiến trường, tài liệu của ông có đủ loại giấy, chất mực khác nhau, ông giữ gìn như của quý. Bàn tay ông bị thoái hóa khớp nhưng ông nghiến răng chịu đau, âm thầm ngồi viết, biên tập lại lịch sử Quân khu Trị Thiên anh hùng. Ông còn làm một việc ít ai nghĩ đến, vắt sức lực và trí tuệ viết lại những bài học kinh nghiệm xây dựng lực lượng chiến tranh nhân dân ở vùng chiến lược Trị Thiên-cầu nối hai miền Nam Bắc. Ông nói, Quân khu Trị Thiên giải thể do đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, nhưng bài học thì còn mãi cho lớp con cháu tiếp tục hành trình cách mạng. Điều ông lo nhất là con cháu ngày nay đã bắt đầu được hưởng ấm no, thậm chí là giàu sang nhưng lại đói “truyền thống”, sống trên mảnh đất lịch sử mà không hiểu hoặc lãng quên lịch sử.
Đúng là trong ông, nỗi lo về “cái đói” lúc nào cũng hiện hữu!
Hồi ức về những ngày xa xưa
(Nhật ký của tôi)
Mẹ kể rằng: Ba mất vào ngày mùng bảy tháng Bảy khi mình chưa tròn hai tuổi, em mình mới hơn một tháng. Năm đó mưa nhiều lắm, mưa sụt sùi tiển ba về nơi yên nghỉ, mưa làm mắt mẹ đỏ hoe. Mẹ nói mùng bảy tháng Bảy là ngày Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau, còn mẹ và chị em mình phải mất ba mãi mãi.
Mẹ lo tang ba xong liền đem hai chị em mình đi biệt, không phải chạy trốn, nhưng sự ra đi ấy chấm dứt duyên nợ ngắn ngủi được xác lập ra từ đám cưới của mẹ. Bởi vì ngày mẹ và ba đến với nhau, không được ông bà nội đồng ý, sợi dây tình thân duy nhất gắn kết giữa mẹ và gia đình nội là ba…
Mẹ đưa chị em mình lên nông trường, trong tay chỉ vẻn vẹn chưa đầy ba mươi ngàn đồng, không nhà cửa. Mẹ hay đùa: Gia tài mà ba để lại lớn nhất là hai chị em con. Mẹ kể, ngày đó khó khăn lắm, hai chị em mình đứa còn nằm, đứa mới chập chững biết đi, mẹ thì hai bàn tay trắng không biết làm gì, ăn buổi trưa cơm không đủ no lại mong sao cho đến buổi tối, rồi buổi tối lại chờ đến sáng mai, cứ như thế, ngày nào cũng dài lê thê… với cái đói, không khi nào cơm đủ no.
Để nuôi chúng mình, mẹ làm quần quật suốt ngày. Thậm chí những lúc căn bệnh viêm tai giữa của mẹ tái phát, mẹ vẫn phải chịu đựng. Mẹ đi cấy thuê, đến mức nôn giữa ruộng, trưa về gạt than nằm không ăn nổi hạt cơm, buổi chiều lại tiếp tục đi cấy... Buổi sáng mẹ dậy thật sớm, chuẩn bị thức ăn cho hai chị em mình rồi đi làm đến tối mịt mới về. Thức ăn trưa của mẹ lúc nào cũng là khoai, sắn hôm nào mệt quá mẹ mới cho phép mình ăn thêm cơm. Có nhiều khi đang làm, trời mưa ướt hết, mẹ đem ra tiếc rồi lại ăn, không thì tối nay nhịn đói…
Căn nhà tập thể thanh lý lại đã xuống cấp, mùa mưa là không có chổ nào khô ráo. Mẹ có lần nhờ mấy người hàng xóm qua sửa lại nhưng họ nói ngói đã mục hết rồi, giờ mà trèo lên thì sập hết. Chỉ có nước là thay ngói mới. Vì vậy nên mẹ và hai chị em mình phải chống chọi giữa mùa đông với những cơn mưa dài tưởng chừng như không ngớt. Mẹ nói rằng mẹ sợ nhất là mùa đông, vì chăn không bao giờ đủ ấm, đêm nào mẹ cũng xoay giường một vài lần vì mưa theo chiều gió khi tạt ướt chổ này, khi tạt chổ kia. Sau này mẹ hay đùa rằng nhờ “chiếc giường di động” nên hai chị em mình mới học giỏi và ngoan ngoãn. Chiếc giường là nơi ngủ, nơi học bài, cũng nơi mẹ ngồi may vá những mùa đông. Mùa đông nhiều khi lạnh quá không ngủ được mình thường đem sách ra đọc…
Còn nhớ ngày đó, khi mình học lớp ba, có mấy người đàn ông trong xóm đến chơi, mình sợ mẹ lấy chồng chỉ biết ngồi ôm chặt lấy mẹ mà khóc, còn bé em đứng ở góc nhà không nói gì. Chờ đến khi khách về bé em mình mớithủ thỉ: Mẹ ơi! Con sợ mẹ lấy chồng. Lúc đó mẹ ngở ngàng, mẹ ôm chị em mình vào lòng: Hai con ngủ đi, mẹ không lấy chồng đâu!
Hết mùa Đông này đến mùa Đông khác trôi qua. Chiếc áo ấm đầu tiên màu xanh mẹ đã mua khi mình đậu học sinh giỏi tỉnh, đến bây giờ vẫn còn mặc...
Mình còn nhớ hôm nghe tin mình đậu đại học, chiếc gánh trên vai mẹ rơi xuống, nước mắt mẹ cứ rơi không ngừng... gánh nặng lại đè lên đôi vai gầy của mẹ. Ngày mình lên đường nhập học, sau khi đã chuẩn bị đủ số tiền cho mình ăn trong tháng, khi mình lên xe, mẹ dúi vào tay mình hai nghìn đồng mà dặn: Con lên xe nếu đói thì mua gì mà ăn. Lúc đó dù biết hai nghìn chẳng mua được gì ăn, nước ừng ậc đầy mắt mình mà sợ mẹ buồn mình chỉ biết quay lưng đi. Vào trường, mình đi dạy thêm, cũng không đến nỗ khó khăn nhiều, nhưng cũng có khi chưa kịp nhận tiền dạy thêm mà không dám xin tiền của mẹ mình phải nhịn đói hay ăn mì gói cả tuần liền, đến khi nhận được tiền, muốn mua gì đó ăn mà cũng không ăn được vì nhịn đói đã quá lâu nên ăn vào rất đau bụng.
Rồi em mình cũng vào đại học, đôi vai mẹ vốn gầy lại càng còm cỏi vì lo toan. Cứ mỗi lần về nhà lại thấy mẹ càng già đi, mái tóc ngày xưa bây giờ đã điểm bạc... mình lại thấy thương mẹ biết bao nhiêu.
Kí ức về bố (MTO 5 - 3/5/2011)
Tuổi thơ con lớn lên trong sự vất vả khó nhọc của bố mẹ. Nhưng có đáng là bao khi tuổi thơ bố vất vả gấp trăm lần...
Ngày ấy gia đình nhà Nội đông lắm! Nội sinh tất thảy là 9 người con, bố là người con thứ 6. Cái đói nghèo luôn đeo đẳng gia đình nhà Nội. Như một quy luật của cuộc sống, tất cả mọi người trong gia đình phải cùng nhau cố gắng, bươn chải ra cuộc đời để kiếm sống
Bố cũng vậy, mới học lớp hai thôi bố phải ra đồng mót những mẩu khoai, củ lạc để tối về góp vào khẩu phần gia đình cho cái bụng khỏi đói. Nghĩ đến đây con giật mình thảng thốt, con chợt hiểu ra nguyên nhân cái ngày bố đã mắng con vì tội ăn cơm hay để thừa. Cái ngày đó sao mà con dại khờ thế, con lại giận dỗi bố vì lúc đó gia đình mình đâu có thiếu ăn nữa. Bố dạy cho con bài học biết tiết kiệm, hãy trân trọng những gì con người ta làm ra. Hạt cơm thừa đó chứa đựng bao giọt mồ hôi vất vả khó nhọc mới làm nên.
Giờ đây khi con đã đủ đầy, không thiếu ăn nữa nhưng ở ngoài kia vẫn con bao đứa trẻ lang thang, đói rét. Con đã hiểu vì sao bố thương những đứa trẻ đi mót khoai đến vậy, bố sẵn sàng cho bọn trẻ hẳn một rá khoai to đùng trong sự ngỡ ngàng của con. Rồi chuyện thằng Minh nhà cô Hoa vào nhà mình vặt trộm ổi nữa chứ, lúc bố bắt gặp nó, con tưởng bố sẽ cho nó một trận đòn hay chí ít bố cũng mắng mỏ nó nhưng không bố thật nhẹ nhàng bảo nó : “ lần sau nếu thích ăn thì qua xin bác, chứ vặt trộm như thế này không nên”.Bố ơi, tấm lòng bố nhân hậu, bao dung lắm!
Bố lập gia đình rất sớm, 20 tuổi bố đã cưới mẹ rồi. Nhiều lúc trong buổi ăn cơm anh em con chất vấn bố tại sao bố lại cưới mẹ sớm như vậy?. Bố cười: “ Không cưới mẹ các con sớm như vậy thì lấy đâu ra các con nay khôn lớn thế này, nếu cưới muộn chắc các con bây giờ chỉ là những nhóc tiểu học thôi…! Nói vậy thôi chứ cũng vì do hoàn cảnh, mà bố lập gia đình sớm như vậy. Nhà Nội cố gắng cho bố học hết lớp 7, ước mơ ngày xưa bố khép lại bỏ ngõ…Khi đến tuổi trưởng thành Nội muốn bố cũng như các bác phải lập gia đình sớm, đâu ở vậy trong một gia đình đông anh em như thế được.
Mẹ kể ngày bố mẹ ra ở riêng, ngoài một ít tiền và vài yến lúa bố mẹ không có cái gì khác. Vì gia đình nội, ngoại nghèo như nhau. Nhà cũng không có mà ở. Lúc đó, nhờ sự giúp đỡ sức của mấy bác bố mẹ cất tạm một mái nhà tranh ven con đê. Nói là nhà cho oai vậy chứ, thực ra đó là một túp lều. Nguyên liệu chính để tạo nên nhà của bố mẹ là những phên tranh được kết từ rơm rạ làm mái lợp, còn tường làm bằng tre nứa trộn với bùn. Cuộc sống khổ trăm bề. Những hôm mưa bão mái nhà tốc hết, bố phải lặn lội đưa những tấm phên khác lên thay, rồi lấy cả các bao ni lông nhét vào chỗ hở kẻo mưa lọt xuống. Mẹ đã rất lo sợ, tưởng chừng không thể vượt qua bao vất vả trong đời. Nhưng có bố trấn an tinh thần cho mẹ bằng niềm lạc quan cộng với sức trẻ đôi mươi: “ Chẳng có gì là không thể vượt qua được, khi con người thật sự cố gắng và tin vào một ngày mai…”
Và bố đã chứng minh được bằng niềm tin vào ngày mai đó là cái ngày bố mẹ tự cất công xây dựng được một căn nhà ngói. Bố tự lên núi lấy những tảng đá to rồi cũng tự một mình vận chuyển đá về nhà. Xây nhà cho gia đình xong bố còn giúp cho nhà Ngoại nữa, vì mẹ là chị cả nên mấy cậu và dì còn nhỏ, ông Ngoại lại mất sớm nên bố vừa làm tròn nhiệm vụ của một người anh rể vừa là một người anh. Mấy cậu và dì quý bố lắm!
Và từ đó bố làm tất cả các nghề, không nề hà gì để có tiền cho anh em con ăn học. Mùa đông, sau khi vụ mùa đã vãn bố lại theo mấy người thợ xây trong làng đi phụ hồ. Lạnh giá lắm nhưng bố đã dậy từ lúc 3 giờ, ăn tạm bát cơm nguội để còn kịp giờ làm. Những hôm tay chân bố bị vôi vữa ăn nhìn những vết nứt ứa máu mà lòng con quặn đau. Mùa hè, bố dạo xe đi bán kem, biết con thích ăn kem bố luôn để dành cho con những que kem mát lạnh. Rồi những tháng ngày vào Tây Nguyên làm thuê cho các rẫy cà phê, rồi những rừng cao su bạt ngàn…Sức trẻ đôi mươi của bố đã vơi đi phần nào, nhưng lòng nhiệt huyết, lạc quan của tuổi trẻ vẫn còn vẹn nguyên trong bố. Lúc về bố bàn với mẹ là sẽ bán nhà vào Tây Nguyên lập nghiệp, nhưng bố đã suy nghĩ lại trước hết đó là việc học của mấy anh em con, nếu vào trong đấy việc học của anh em con sẽ bị gián đoạn, hơn nữa vào trong đó công việc nhiều cuốn đi khoảng thời gian học tập của anh em con, anh em con sẽ không có được điều kiện như ngoài này. Con cảm ơn bố rất nhiều! Bố đã quyết định đúng đắn. Bằng chứng là anh em con đã vào Đại học, Cao đẳng trong niềm tự hào của bố mẹ…Ánh mắt bố rạng ngời. Bố căn dặn chúng con: “ đó mới chỉ là những viên gạch nền tảng đầu tiên bố xây, các con hãy xây nốt những viên gạch còn lại…”.
Suốt những năm tháng tiểu học con luôn tiến bộ nhờ sự dạy dỗ của bố. Nhìn những tập vở ngày xưa bố bọc cho con cẩn thận bằng tấm bìa bao xi măng và cái nhãn vở với những dòng chữ bố viết lòng làm con nhớ về tuổi ấu thơ. Những bài toán tính tuổi cha, tuổi con sao mà rắc rối đến thế, mặc dù bố luôn vận dụng vào thực tế đó là tính tuổi của con và bố. Ngày trước con cẩu thả lắm, trang giấy này viết chưa hết con lại chuyển sang trang khác. Có lần bảo con không nghe bố liền vờ thu sách vở, và bảo con nay ở nhà đi chăn bò, không học hành gì nữa. Con đã khóc khi không được đi học. Bố bắt con phải hứa với bố là sẽ cẩn thận, không được cẩu thả nữa thì mới cho con đến lớp. Con đã làm được bố ạ! Bằng chứng mấy năm liền con đều đạt danh hiệu vở sạch chữ đẹp. Lên bậc Cao đẳng con vẫn còn giữ được đức tính cẩn thận đó. Nó giúp con không những trong những năm tháng học sinh mà còn cho cuộc sống sau này nữa. Con biết ơn bố nhiều lắm!
Nhớ lại cái ngày con học lớp ba, bố chở con đi thi học sinh giỏi Huyện bằng chiếc xe đạp, con hơi ái ngại và muốn được ngồi xe máy nhà bạn Ngọc. Con thấy ánh mắt của bố đượm buồn, bố bảo : “ vậy cũng được, bố sẽ đi sau bằng xe đạp” . Năm ấy con không đạt giải gì cho dù là giải khuyến khích. Năm ấy, phần thưởng cho những học sinh giỏi Huyện lại lớn nữa chứ: đó là một chuyến du lịch ra thăm Lăng Bác dành cho học sinh và phụ huynh. Con thấy thật xấu hổ khi bố, mẹ của các bạn được ra thủ đô còn con thì…Con làm bố thất vọng nhiều lắm! Đã bao nhiêu lần con hứa với bố là sẽ dành được học sinh giỏi nhưng con không làm được. Nhưng bố vẫn không trách con, bố còn động viên con : “ quan trọng là con đã có gắng hết sức mình…” Và con đã làm bố hài lòng không bởi vì thành tích này nọ, mà con đã cố gắng, nỗ lực.
Giờ anh con là một nhân viên trong ngân hàng của tỉnh, chị con cũng đã tốt nghiệp xong Đại Học đang làm cho một công ty tư nhân, con đang học trên giảng đường của một trường Cao đẳng. Bố càng tự hào hơn khi gặp những người xưa kia mà bảo bố rằng : “ cho con cái học hành nhiều làm gì, trong khi đó cái no vẫn chưa đủ”, “ cho con gái học cao làm gì, vì trước sau nó cũng lấy chồng…”, Bố trả lời với họ rằng : “ hạnh phúc của con cái chính là hạnh phúc của bố mẹ, của những đấng sinh thành”.
Lần về quê gần đây con đã thấy tóc bố lốm đốm những sợi bạc. Con ngỡ ngàng vì tóc bố xanh lắm mà. Mái tóc mà con tưởng chừng như không bao giờ bạc được…Vậy mà…Bố đón con ở sân nhà, không kìm nén được cảm xúc con ôm chầm lấy bố, bố cũng ôm lấy con. Hai bố con mừng mừng tủi tủi. Đôi tay gầy gầy xương xương bố ghì chặt lấy lưng con. Đôi tay ấy làm lụng từ những công việc nhỏ bé nhất, đến những công việc nặng nhọc của đàn ông. Đôi bàn tay thô ráp,đầy những vết chai sần nhào nặn những gì tốt đẹp nhất để dành cho chúng con. Hạnh phúc nhường nào khi được áp đôi tay khô cứng, thô ráp hằn những năm tháng nhọc nhằn lên khuôn mặt, mà hít hà, mân mê từng vết chai sần…Con mơ hồ khi nhận ra bố đã trên 50 tuổi, và con đã bước sang tuổi 23. Thời gian đã cuốn đi tuổi thanh xuân của bố để rồi bố nhường lại sức trẻ cho chúng con.
Bố ơi, con thương bố nhiều lắm! Bài hát về bố ngày nào tuổi ấu thơ con vẫn thường hát. Cứ vọng về trong con “ Bố ơi, bố ơi bố là tất cả…”. Bố là niềm tin của con để cho con vững bước vào đời!
CON CHÓ VỆN VÀ NGƯỜI TÙ CẢI TẠO
Nguyễn Vĩnh Long
Trên bước đường lưu đày của những người tù chính trị Miền Nam đầy máu và mồ hôi trên chính quê hương của mình, đã có bao nhiêu người “sinh Nam tử Bắc” và trong số nầy có anh Lê Xuân Đèo là cánh chim lìa đàn rất sớm.
Giữa tháng 10 năm 1976. Một nhóm tù chính trị Miền Nam khoảng 100 người, từ nhà tù Sơn La lâu đời, nằm trên vùng núi cao đèo heo hút gió của tỉnh Sơn La, phía bắc giáp Yên Bái - Lào Cai, phía tây giáp Lai Châu, phía đông giáp Phú Thọ - Hòa Bình, phía Nam giáp Lào, chúng tôi được di chuyển về Hoàng Liên Sơn (Nghĩa Lộ) và tôi gặp anh bạn tù Lê Xuân Đèo tại Trại 6, Liên trại 2, một vùng núi non hiểm trở có cái tên thật mộng mơ: “Khe Thắm” thuộc huyện Văn Chấn.
Khe Thắm là một thung lũng nhỏ hẹp, nằm giữa hai dãy núi trùng điệp. Trại 6 gồm có bốn lán, dựa lưng vào dãy núi bên nầy, bên kia thung lũng là một bản Thái Trắng gồm mươi căn nhà sàn, dưới gầm nhà sàn là chuồng nhốt trâu bò. Chỉ có một con đường độc đạo vào Trại 6. Về sau, khi chúng tôi chuyển sang trại khác, trại nầy được sát nhập vào nông trường Bản Hẻo. Dạo chúng tôi vừa chuyển đến, dân làng đã cấy xong vụ lúa Đông - Xuân. Trong thung lũng Khe Thắm, mạ non lên xanh phơi phới. Ngay khi vừa mới đến trại, chúng tôi được phát ngay mỗi người hai bộ đồ rằn ri của binh chủng Biệt Động Quân, thế nầy là hết hy vọng trốn trại! Riêng tôi vớ phải cái quần rộng thùng thình. Công tác đầu tiên là đào thủy lợi để dẫn nước từ một con suối gần đó vào ruộng lúa. Tôi và Lê Xuân Đèo ở chung lán 3, còn Trương Đăng Sĩ ở lán 4. Mùa đông năm 1976 là một mùa đông với cái lạnh khắc nghiệt, lạnh thê thảm chưa từng xảy ra ở miền Bắc Việt Nam. Có nhiều đêm, hàn thử biểu rơi xuống chỉ còn một độ bách phân, mặt nước ao hồ đóng váng, cá chết hằng loạt vì lạnh. Tuy củi rừng nhiều vô số kể, nhưng bọn cán bộ cấm tù cải tạo đốt lò sưởi vì sợ cháy lán trại? Nửa đêm về sáng, chúng tôi phải thức dậy ngồi đâu lưng hoặc nằm sát vào nhau cho ấm. Bản Thái bên kia thung lũng, dân làng phải đốt rơm hoặc củi để sưởi ấm gia súc. Làm thân trâu bò còn sướng hơn tù cải tạo là cái chắc! Có bao nhiêu quần áo, chúng tôi cũng lôi hết ra mặc, nhưng không sao đủ ấm vì cái lạnh cắt ruột từ trong xương lạnh ra.
Đi tắm vào mùa đông đối với tù cải tạo là một hình thức tra tấn. Mỗi tuần, tôi chỉ ra bờ suối tắm giặt một lần vào xế trưa chúa nhật, sau khi ngồi trước sân phơi nắng hàng giờ cho ấm. Ngồi bên cạnh tôi là Nguyễn Minh Thanh vừa phơi nắng vừa ngâm thơ “Tao Đàn” đói thấy mẹ mà hắn còn làm thơ được thế mới tài. Nếu như chiều chúa nhật nào rơi vào ngày mưa là xin hẹn lại tuần sau...mới đi tắm. Như vậy là đạt tiêu chuẩn nếp sống “văn minh, văn hóa mới” lắm rồi!
Hầu như lề lối sinh hoạt của tất cả trại tù cải tạo thuộc đoàn 776 do bộ đội csbv quản lý đều giống như nhau. Sau một ngày ăn đói, thực phẩm chính là khoai, sắn, bo bo, bắp hột mà mỗi khẩu phần của người tù đếm được khoảng 700 hột và lao động khổ sai 10 tiếng một ngày kể cả lúc trời mưa bão. Và mỗi tuần chỉ được nghỉ nửa ngày chúa nhật để tắm giặt. Tối đến là giờ sinh hoạt chính trị, “ngồi đồng” hằng giờ ngay trên chỗ ngủ để nghe đọc báo “Nhân Dân” hoặc “Quân Đội Nhân Dân”, những loại tin tức dùng để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa.
Sau khi nghe đọc báo là phần bắt thăm nhận công tác lên rừng đốn đủ loại gỗ: gỗ làm cột nhà, gỗ làm đòn tay, gỗ làm kèo nhà...và một toán chặt nứa dùng để lợp mái nhà. Gỗ và nứa từ trên rừng kéo về tập trung trên một bãi đất trống bên cạnh con suối dưới chân núi, cán bộ quản giáo của đội đến kiểm nhận vào mỗi buổi chiều. Sáng hôm sau, toán thợ mộc vác về xưởng mộc cưa, đục, đẽo... để dựng nhà. Lê Xuân Đèo thường đổi công tác với những anh em khác để cùng đi rừng với tôi, vì cải thiện linh tinh để mưu sinh là nghề của chàng. Hắn rất chịu những phi vụ táo bạo của tôi. Hắn là dân Nha Trang, lúc bình thường thì giọng nói dễ nghe, nhưng lúc khẩn trương, nghe lời hắn là một tai họa khó lường...
Bên kia thung lũng, đối diện với trại 6 là dãy nhà sàn của dân tộc thiểu số Thái Trắng. Tụi cán bộ quản giáo hoặc quản chế thường hù dọa là đồng chí “Bí thư xã” có vũ trang súng trường AK47. Phía sau dãy nhà là ruộng mía và hằng ngày nó trở thành mục tiêu đầy sức hấp dẫn và cám dỗ nhưng cũng rất nguy hiểm. Những lần chúng tôi qua dãy núi bên kia đốn nứa, chỉ tiêu một ngày là 100 cây với tiêu chuẩn: phải là nứa già, thẳng đốt, chiều dài từ 3 thước trở lên, sau khi vạt bỏ ngọn. Thường thì buổi sáng đốn xong, bó lại từng bó 20 cây, giấu đâu đó ở trên rừng. Giờ lao động buổi chiều, chỉ lo việc chuyển về trại.. Những cây nứa được mấy anh bạn tù cao niên, chặt khúc và đập giập ra để lợp mái nhà.
Một ngày trên đường vác mấy bó nứa chuyển về trại.. Chúng tôi ngồi nghỉ mệt bên dòng suối vắng. Đèo nhìn qua đám ruộng mía, sau dãy nhà sàn bên kia dòng suối, hắn thèm đến nhỏ dãi, trông thật tội nghiệp. Hắn nói:
- “Ê, mầy! Không biết lúc nầy, bỗng dưng tao thèm ngọt quá trời! Từ ngày di chuyển ra miền Bắc đến giờ, gần cả năm trời tao chưa hề thấy cục đường tán nó tròn, nó méo ra làm sao! Tao chịu hết nổi rồi nghe mậy,” Đèo tiếp. “Thôi, mầy ngồi ở đây chờ tao!” Tôi hỏi:
- “Vậy chớ, mầy định đi đâu?” Hắn vừa trả lời, vừa nuốt nước bọt ừng ực:
- “Qua bên kia ruộng mía, chặt vài cây, chia nhau ăn đở thèm! Mầy còn phải hỏi lôi thôi!” Nghe hắn nói, tôi cười ngất, nói:
- “Thôi đi cha nội ơi! Coi bộ tướng của mầy kìa! Ốm nhom, ốm nhách như con còng gió, rủi ro bị họ bắt gặp, mầy làm sao chạy cho thoát? Nếu họ có súng hoặc nỏ là mầy chết chắc!” Đèo quả quyết nói:
- “Tao đã nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình rồi! Trong nhà không có đàn ông mà chỉ có một người đàn bà. Tao còn biết chắc, giờ nầy bà ta trên đường đến trường, đón con đi học về nhà.” Tôi nghi ngờ, hỏi:
- “Sao mầy biết chắc chắn như vậy chớ?” - “Mầy nhớ không? Xế trưa hôm qua, lúc tụi mình trở qua đây, vác mấy bó nứa về trại.. Tao thấy bà ta dẫn con đi học vừa về tới nhà!”
- “Phi vụ nầy mầy lo hay để tao?” tôi hỏi. Đèo nói, giọng quả quyết:
- “Mầy nhát bỏ mẹ! Phi vụ nầy mầy để tao lo! Mầy ngồi đó chờ tao!” Tôi cười, nói:
- “Thôi được rồi, cha nội! Vụ chôm chỉa nầy mầy để tao lo! Cứ ngồi đó canh chừng. Hễ nghe động tỉnh gì thì la báo động cho tao biết để tao chuồn!”
Nói xong, tôi đứng lên, đi một mạch ra bờ suối, xăn ống quần lên khỏi gối, tay cầm con dao dùng để chặt nứa, lội băng qua dòng suối. Tôi hành quân theo đúng bài bản, lính bộ binh mà. Trước hết, tôi bám lấy bờ suối, ngẩng đầu lên quan sát trận địa, thấy bên trong ruộng mía hoàn toàn yên tỉnh, tôi trườn sâu vào trong, giữa hai giồng mía. Tôi chọn một thật thẳng, tròn mập, vỏ màu vàng hực thật hấp dẫn, lia một nhát, cây mía đổ xuống. Tôi đứng lom khom, vừa vạt ngọn mía xong. Bỗng tôi nghe hắn la bài hãi bên kia dòng suối:
- “Chờ tớ! Chờ tớ! Chờ tớ...”
Tưởng hắn đòi lội qua suối, tôi bèn đứng thẳng người lên, lấy cây mía vẹt lá rồi nhìn qua bên kia bờ suối. Tôi thấy hắn nhảy dựng lên như khỉ mắc phong, tay chỉ chỏ về phía tôi thật khẩn trương. Hắn tiếp tục gào lên:
- “Chờ tớ! Chờ tớ...”
Tôi thiệt bực mình, cầm cây mía đưa lên khỏi đầu, nói lớn:
- “Xong rồi! Qua làm gì chớ! Thôi, ngồi đó chờ tao!”Nhưng, hắn vẫn tiếp tục gào to hơn nữa. Và lần nầy, tôi nghe cái giọng Nha Trang của nó thật rõ ràng:
- “Chó tới! Chó tới....”
Thôi bỏ mẹ rồi! Bây giờ tôi mới hiểu ra là“Chó tới!” chớ không phải “Chờ tớ!” thì đã muộn.. Một con chó vện to lớn dùng để đi săn, xồng xộc lao tới và chỉ còn cách tôi vài mươi thước. Tôi thật sự hồn vía lên mây, quăng dao, quăng luôn cây mía, bỏ của chạy lấy thân, phóng như bay về phía bờ suối...Nhưng, con chó vện nhanh hơn tôi một bước, nó nhảy chồm lên, phập trúng cái đáy quần, ghì lại làm tôi té nằm xấp xuống đất. Hai cái răng nanh bén nhọn của nó đã xuyên thủng đáy quần. Con vện gầm gừ, mõm của nó ghì chặt lại, giằng xé như muốn lôi tuột cái quần của tôi ra thế mới khiếp! Cũng may, nhờ trời thương mấy thằng tù cải tạo ốm đói. Chúng tôi phải chôm chỉa để mưu sinh. Nếu hai cái răng nanh của con vện nhích lên vài phân định mệnh nữa thì bây giờ tôi đã trở thành quan “thái giám” là cái chắc!!!! Tôi thét lên, cầu cứu:
- “Tao bị con chó vện táp trúng rồi Đèo ơi! Cứu tao với...”
Đến giờ phút nầy mà hắn còn hỏi đùa được:
- “Trúng chỗ nào vậy cha?”
Tôi bực quá thét:
- “Nó táp lủng đáy quần rồi, tao bị nó ghì lại, không chạy được!”
- “Chỉ táp trúng đáy quần thôi hả?” hắn mách nước.
- “Tụt quần ra, vọt cho lẹ, thằng mắc dịch!”
Thôi thì cùng tất biến, biến tất thông! Tôi lòn tay xuống hàng nút quần, cởi thật nhanh hàng nút. Nhờ cái quần rộng thung thình, con vện tụt cái quần thật dễ dàng, một chân nó chận cái ống quần, đầu giằng mấy cái thật mạnh để cái quần vuột ra khỏi cái răng nanh. Tôi chỉ chờ có thế, vừa rút chân ra khỏi cái quần rằn ri là tôi phóng như bay về phía hàng cây bên bờ suối, chỉ cách đó mươi thước. Tôi trèo lên cây nhanh như con sóc, chưa bao giờ tôi leo trèo nhanh như vậy.. Thế là thoát nạn! Con vện phóng mình lên cây mấy lần, nhưng lần nào nó cũng bị té đau. Vì thế nó tức tối, ngồi bệt xuống đất, nghểnh mõm nhìn lên một cách hậm hực; thỉnh thoảng, nó le cái lưỡi dài thượt liếm mép. Tôi phải lấy vạt áo che lại phần khẩu súng nước phía dưới , sợ nó nhìn thấy “thịt tươi” thèm nhỏ dãi tội nghiệp !!
Đứng trên cây nhìn xuống mới thấy rõ hình thù con vện, màu lông hơi vàng và có vằn như da cọp, trên lưng có xoáy như giống chó hoang dã ở Phú Quốc. Hèn chi nó dữ dằn quá là phải! Thú thật, trong suốt 13 năm quân ngũ, vui buồn đời lính bộ binh, đôi giày saut của tôi đã từng chà nát lên các mật khu lừng danh của Việt Cộng ở Miền Tây từ Thất Sơn, Mỹ An, Sầm Giang, Năm Căn, Cái Nước...nhưng chưa có lần nào tôi phải bỏ chạy “té khói” như lần nầy. Kể ra thì cũng nhục thật đó! Tôi đứng trên cây, trợn mắt nhìn nó, rủa thầm trong bụng: “May cho mầy, nghe đồ chó vện! Nếu mầy gặp tao ba năm về trước là tao vặn họng mầy, làm thịt chó bảy món nhậu chơi!” Thế mới biết, chỉ sau một thời gian ngắn, cái gọi là “lao động cải tạo”, con chó vện đối với tôi bây giờ nó đã trở thành “con cọp”. Nhưng mà thôi, tránh cọp chẳng xấu mặt nào!
Nhìn thấy con chó vện đang nhe nanh vuốt, hầm hừ dưới gốc cây, Đèo đứng bên kia bờ suối, nói lớn:
- “Mầy cứ đứng ở trên cây chờ tao qua! Đừng có tuột xuống!”
Vừa nói, hắn vừa xăn quần lên khỏi gối. Thấy hai ống quyển khẳng khiu của hắn, tôi nản lòng hết sức. Hắn có vẽ muốn lội qua suối cứu bồ thật, tôi lật đật can:
- “Thôi đi cha nội! Cứ ở yên bên đó đi! Tao nhảy xuống suối, lội qua bển được rồi mà!”
Hắn đáp có vẻ rất tự tin:
- “Mầy yên trí đi! Tao có cách trị con vện nầy cho mầy coi!”
Tôi miễn cưỡng nói:
- “Thôi được, mầy có tài gì thi thố cho tao coi!”
Con vện thấy hắn đang lội bì bõm, băng ngang qua dòng suối. Nó rời gốc cây, đứng chực trên bờ suối, sẵn sàng vồ hắn. Đèo đứng dưới suối, hai tay chống nạnh, vẻ mặt tỉnh bơ. Còn con vện nhìn hắn lườm lườm, chân sau quào dưới đất cát rào rào trong tư thế chuẩn bị vồ mồi. Tôi thấy còn phát ớn xương sống. Nhưng, Đèo chẳng nao núng chút nào cả thế mới là lạ. Bất ngờ, hắn huýt sáo miệng bản nhạc “bác cùng chúng cháu hành quân” một cách ung dung. Con chó vện vừa nghe âm điệu phần mở đầu của bài hát: Đêm nay trên đường hành quân ra mặt trận... nó lầm tưởng hắn là phe ta nên bỏ hẳn thái độ thù nghịch, ngoe nguẩy cái đuôi, chờ welcome “đồng chí Đèo”!!!! Mẹ kiếp! Sống ở miền Bắc XHCN nầy, đến con chó còn bị tuyên truyền mê hoặc đừng nói chi là con người. Đèo leo lên bờ, hắn vỗ đầu con vện, vuốt đầu nó mấy cái. Đồng chí vện chồm lên, vật ngã hắn xuống rồi liếm cùng mặt. Thế rồi, người tù cải tạo và “đồng chí vện” ù kết thành đôi bạn sống chết có nhau từ dạo đó! Hắn ôm chặt con vện cho tôi leo xuống. Tôi vội vã lủi vô ruộng mía, lấy quần mặc vào rồi đi kiếm con dao và cây mía. Hai đứa tôi lội trở qua bên kia bờ suối, con chó vện cũng lội suối qua theo. Ngồi dưới bóng cây chia nhau từng lóng mía. Tôi chỉ ăn 2 lóng, phần còn lại của hắn vì Đèo thèm ngọt. Còn tôi, tôi thèm thứ khác hấp dẫn hơn nhiều: “Thịt! Thịt! Thịt!”... Tôi nhìn con vện, tưởng tượng đến dĩa “rựa mận” đang bốc khói, làm tôi thèm đến nhểu nước miếng. Bất chợt, con vện ngước lên nhìn tôi. Bốn mắt lườm nhìn nhau....tóe khói; hình như, cái giác quan thứ sáu của nó, nhìn thấy ý đồ bất chánh của tôi và báo cho nó biết rằng: “Coi chừng thằng cha tù ốm đói nầy, hắn sẽ thịt mình đấy!” Vì vậy, con chó vện chỉ quấn quít bên cạnh anh Đèo và lúc nào cũng đề cao cảnh giác với tôi. Cứ mỗi lần tôi xáp lại gần, định làm quen là nó đứng dậy đi chỗ khác chơi và nhìn tôi với tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Cách đây ba hoặc bốn tháng gì đó. Tên thiếu tá Khoát – trại trưởng – có tuyên bố một câu làm cả trại hồ hởi, phấn khởi: “Trại ta có kế hoạch nuôi lợn, cung cấp thịt tươi, cải tổ bữa ăn để các anh có đủ sức thâm canh, tăng năng suất, chuẩn bị trồng sắn đại trà.” Thế là cả trại thi đua vào rừng đốn gỗ dựng trại chăn nuôi. Và chỉ trong vòng hai tuần lễ, ba cái chuồng nuôi lợn được cất xong bên cạnh bờ suối, đối diện với nhà bếp của ban chỉ huy trại. Nhưng, tên Quang chỉ mang về một cặp heo mọi, bụng ỏng, đít teo, mỗi con cân nặng khoảng 5 kí là cùng. Thế là, một anh bạn tù cao niên ở lán 2 được giao cho nhiệm vụ “chăn lợn”.. Mỗi ngày, anh có nhiệm vụ mang một cái sô vào nhà bếp cán bộ trại, gặp tên trung sĩ Kây để nhận cơm thừa, canh cặn mang về chuồng nuôi lợn. Không biết nuôi heo bằng cách nào mà cặp heo mọi càng ngày càng gầy nhom. Ngược lại, trông anh càng ngày tròn trịa ra !! Đêm hôm kia, chuồng nuôi lợn xảy ra chuyện rùng rợn, khó tin nhưng có thật là hai con heo mọi bị bầy chuột rừng moi ruột cho đến chết. Nhờ vậy, trưa hôm sau, cả trại được ăn cơm trắng với thịt heo kho với nước muối. Gần 2 tháng nay, chúng tôi mới được ăn một chén cơm trắng và một miếng thịt heo to bằng hai lóng tay út, cho đến bây giờ miệng tôi vẫn còn thòm thèm thịt tươi. Và tôi đang nghĩ kế hoạch thịt con vện...
Chúng tôi lần lượt chuyển hết mớ nứa về trại, con vện đưa hai đứa tôi đến tận cổng trại. Và từ đó, nó trở nên người bạn trung thành với anh Đèo. Sáng nào nó cũng nằm chờ trong buị cây gần cổng, rồi lẽo đẽo theo chúng tôi vào tận rừng sâu đốn gỗ. Có mấy lần tôi định thịt nó, nhưng Đèo cương quyết ngăn cản. Hắn nói:
- “Mầy muốn thịt con vện nầy thì phải bước qua xác chết của tao!”
Nửa năm sau đó, những dãy nhà khang trang bằng gỗ được dựng lên chung quanh ban chỉ huy trại 6 đều do công sức của những người tù cải tạo. Nhưng, gỗ và nứa càng ngày càng khan hiếm, chúng tôi càng phải đi xa hơn, có khi phải đi băng qua thung lũng phía sau trại, lội vào khu rừng già dưới chân núi bên kia, gần nông trường Bản Hẻo để kiếm gỗ.
Thế rồi một hôm. Lần đầu tiên chúng tôi đi theo con đường mòn băng qua thung lũng vào lúc hừng đông sáng để kiếm gỗ làm đòn tay. Khi những tia nắng ban mai mỏng manh, màu vàng nhạt, như cố xuyên thủng làn sương mai trắng đục bao phủ cả khu rừng, nắng tạo thành những chùm ánh sáng lung linh, huyền ảo. Hai đứa tôi lặng lẽ tiến khá sâu trong khu rừng rậm rạp, cây cối hoang vu, còn con vện biến đi đàng nào không biết. Tiếng suối chảy róc rách khi len lỏi qua những gềnh đá rong rêu, hòa cùng muôn ngàn tiếng hót líu lo của bầy chim rừng, trổi lên bản hợp tấu đầy sức quyến rũ của núi rừng Tây Bắc, thoang thoảng đâu đây mùi hương nhẹ nhàng tỏa ra từ những đóa phong lan, nép kín sau những thân cây cổ thụ, pha lẫn mùi hăng hắc của lá rừng ẩm mốc. Tiếng gió lướt trên những tán cây rừng xào xạc, mang theo cái lạnh tái tê từ dãy núi đá chập chùng của rặng Hoàng Liên Sơn thổi về. Gió lay những giọt sương mai đọng trên lá cây rừng, sương rơi nhẹ nhàng trên mái tóc, trên vai áo làm tôi thấm lạnh. Đang mơ màng trong cái không gian liêu trai và cái tĩnh lặng mong lung ấy....Bỗng một tiếng thét chói tai của Đèo đang đi phía trước, làm bầy chim rừng cũng phải giựt mình, bay tán loạn: “Con mẹ nó! Coi chừng vắt nái! Chạy khỏi khu rừng nầy ngay!”
Vắt nái là một loại vắt màu xanh lá cây, nhỏ hơn đầu đũa một chút và chiều dài chỉ hơn một phân rưởi, khiếp nhất là khi nó có chửa nên đặt cho nó cái tên là “vắt nái”. Khi đánh được hơi người là nó giương lên như cây “anten”, rồi bún mình lên như cái lò xo, bám vào đầu vào cổ người, thú vật hút máu một cách êm thắm, chén no rồi tự động rớt ra, máu từ vết cắn đó chảy ra không ngừng, chỉ có nhai cỏ mực đấp vào vết cắn là tạm cầm máu được. Có nhiều anh bạn bị nhiểm trùng, vết cắn bị ngứa ngái, lở lói tròn bằng đồng tiền, nhức nhối tàn bạo.. Hai đứa tôi vội vàng lội băng qua con suối cạn, tìm khoảng đất trống trải để kiểm soát lại đầu cổ, lôi ra cũng được bốn, năm con vắt xanh.. Bỗng có tiếng khèn réo rắt, trầm bổng, văng vẳng từ đâu đưa tới, âm thanh ai oán, não nùng như khóc như than. Tiếng khèn trôi bồng bềnh trong làn sương mai trắng đục. Tôi tò mò rũ Đèo đi ngược lên thượng nguồn con suối để tìm người thổi khèn. Đó là cụ già thuộc bộ tộc Thái đen với mái tóc trắng phau, chòm râu bạc thả lỏng phất phơ trong gió. Ông vận bộ quần áo cộc màu chàm đang ngồi dưới một gốc đại thụ, chừng đã mọc rễ cả trăm năm, cành lá sum sê, vỏ cây sần sùi phủ rêu xanh, những rễ phụ và dây leo bện nhau bám chằng chịt vào thân cây. Cách đó mươi thước là hai thanh niên để lưng trần đang cuốc một hố đất.. Thấy có người đến, ông lão ngưng thổi khèn, ngước mắt nhìn chúng tôi, hỏi:
- “Mấy ông đi đốn gỗ cho trại cải tạo đấy à?” ông cảnh báo. “Khu rừng nầy có rất nhiều rắn độc, mấy ông phải cẩn thận! Cách đây mấy hôm, một người trong bản bị một con cạp nia mổ chết rồi đấy!”Tôi nói:
- “Cám ơn cụ đã chỉ bảo! Chúng tôi sẽ hết sức đề phòng!” Đèo phì cười khi nghe cụ gọi mình bằng ông, hắn nói:
- “Tôi là Lê Xuân Đèo, gọi tôi là Đèo được rồi! Thế còn cụ?”
- “Tôi tên Phạm công Trừng,” ông lão buồn rầu, than thở. “Nhà tôi bị ốm nặng sắp chết đến nơi rồi, các anh ạ!” ông chỉ hai thanh niên, tiếp. “Chúng nó đang đào huyệt, chuẩn bị chôn mẹ chúng đấy!”
- “Thưa cụ, bà cụ bị mắc chứng bệnh gì vậy?” Đèo hỏi.Ông cụ thở dài, nói:
- “Nhà tôi bị bệnh kiết lỵ đã hơn hai tuần nay! Uống đủ loại cây cỏ, nhưng không thuyên giảm, đang nằm thoi thóp trên giường chờ chết đấy, các anh ạ!” Đèo nghe ông cụ nói xong. Hắn suy nghĩ trong giây lát rồi nắm tay tôi, kéo ra bờ suối, hỏi:
- “Tao muốn cứu bà cụ! Mầy nghĩ sao?” Tôi trợn mắt nhìn hắn, hỏi:
- “Mấy lấy cái gì cứu bà cụ chớ?”
- “Nói cho mầy biết, tao còn cất giấu được 10 viên “Reostop”, chôn dưới sạp nứa chỗ tao ngủ,” Đèo lấy ý kiến tôi lần chót. “Mầy thấy tao có nên giúp họ không?”
- “Việc nầy có liên quan đến sinh mạng của mầy! Tự quyết định đi, đừng hỏi tao lôi thôi!” Tôi nói. - “Tao quyết định cứu họ!” Đèo trả lời một cách dứt khoát. “Thấy người sắp chết mà không cứu là đắc tội với Trời Phật rồi! Hơn nữa, tao muốn làm sáng tỏ cái bản chất và truyền thống tốt đẹp của người lính Việt Nam Cộng Hòa cho đồng bào miền Bắc thấy rõ điều nầy!”
Nghĩ sao làm vậy, Đèo trở lại chỗ ông cụ, nói:
- “Ngày mai cũng vào giờ nầy, cụ đón chúng tôi tại đây để nhận 10 viên thuốc “con nhộng” chuyên trị kiết lỵ, đem về cho bà cụ uống!”
Ông cụ nghe đến thuốc “con nhộng”, mắt cụ ngời sáng tia hy vọng và cảm động đến rớt nước mắt. Cụ bảo hai người con trai vào rừng đốn gỗ đòn tay cho chúng tôi, rồi mời chúng tôi về bản làng gần đó uống nước trà xanh. Căn nhà sàn của gia đình cụ gồm ba gian, nằm trong bản Thái, cách cây bờ suối đó khoảng 200 thước. Căn nhà sàn khá cao để tránh thú dữ nhất là đàn chó sói thường hay kéo vào bản, bắt gia súc. Đặc điểm những căn nhà sàn của dân tộc thiểu số như Thái, Mường, Mông...cùng có một lối kiến trúc như nhau là không dùng đinh, tất cả đều được liên kết với nhau bằng những con sò gỗ và lạt buộc, sàn nhà được nối kết với nhau bằng những cây nứa già được đập giập ra để lót sàn. Leo lên mấy bậc thang gỗ ọp ẹp, thấy ngay bà cụ đang nằm trên cái chõng tre đặt ở một gốc nhà, trùm chăn đến cổ. Bà cụ gầy lắm, tôi chỉ thấy cái mềm bông màu đỏ phập phồng theo nhịp thở thoi thóp, mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông. Sau khi uống xong chung trà xanh, thì hai người con cũng về tới nơi. Thấy mặt trời lên thấp thoáng ngọn cây, chúng tôi xin từ giả ra về.. Cụ đi trước dẫn đường, dùng dao vạt vào thân cây rừng để đánh dấu, cho chúng tôi biết đường trở lại. Tới bìa rừng, họ chuyển 6 cây gỗ làm kèo lên vai hai đứa tôi và chúng tôi từ giã nhau ở đấy. Con vện đi sục sạo ở đâu đó trong khu rừng cũng vừa chạy trờ tới, mõm ngoạm một con chuột lông màu xam xám khá to, làm quà tặng anh bạn Đèo. Trước khi trở về trại, Đèo ra bờ suối làm thịt chuột một cách thành thạo, rồi dùng lá chuối rừng gói lại cẩn thận, bỏ vào trong túi quần mang về trại. Buổi trưa, Đèo lén ra khu nhà bếp nướng một cách vội vã, khi nào có chiến lợi phẩm, hắn cũng chia phần cho tôi một nửa.
Đêm hôm đó, đợi mọi người ngủ say sau một ngày lao động cật lực. Đèo đào một lớp đất mỏng dưới ngay chỗ nằm lấy, ra một chai thuốc “Reostop” còn đủ 10 viên rồi giấu dưới gối. Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại vùng nầy, tiếp tục đốn gỗ làm kèo nhà. Lần theo vết dao đánh dấu trên thân cây, hai đứa tôi trở lại chỗ cũ rất dễ dàng. Đến chỗ hẹn, chúng tôi thấy cụ đang ngồi dưới bóng cây đại thụ, chờ chúng tôi tự bao giờ. Đèo thân mật đặt cái lọ thuốc “Reostop” vào tay ông cu, rồi chỉ cách dùng. Ông cụ vừa mừng, vừa cảm động đến độ nói không nên lời. Trước khi chia tay nhau, ông cụ dặn dò:
- “Tụi bộ đội của đoàn 776, thằng nào cũng ác ôn hết! Các anh phải cảnh giác chúng nó đấy!”
Khoảng một tuần sau đó. Chúng tôi trở lại vùng nầy kiếm gỗ, nhìn thấy cái huyệt đã được lấp đất lại bằng phẳng, cỏ dại đã bắt đầu bén rễ và chúng tôi biết chắc là bà cụ đã được cứu thoát khỏi bệnh kiết lỵ. Người tù cải tạo Lê Xuân Đèo đã hoàn thành công tác “dân vận” một cách xuất sắc bằng chính mạng sống của chính mình. Vì ba tháng sau đó, anh từ giã cuộc đời vì bịnh kiết lỵ vì không thuốc chữa cho chính bản thân mình.
Bịnh kiết lỵ, tiêu chảy và sốt rét rừng là ba căn bệnh rất phổ biến trong các trại tù cải tạo ở Miền Bắc XHCN. Một người bạn cùng đơn vị là cựu thiếu tá Trần Sĩ cũng gởi nắm xương tàn tại một trại tù khác vào năm 1978 vì bệnh kiết lỵ và rồi còn biết bao nhiêu người khác nữa? Trước khi chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, chúng tôi dự trữ khá nhiều thuốc chuyên trị về các chứng bệnh nguy hiểm nầy và nhất là trụ sinh để phòng thân. Nhưng, sau khi chuyển đến trại 6 Khe Thắm, một người tù cải tạo tên Phạm Thành K. đã đâm sau lưng chiến hữu, anh ta bàn kế hoạch “chuyển trại giả” với tên thiếu tá Khoát để lấy điểm. Vào một buổi sáng tinh sương. Trong lúc mọi người chuẩn bị xuất trại lên rừng đốn gỗ, bỗng có tiếng kẻng dồn dập khác thường, đích thân cán bộ quản giáo đến từng lán, đôn đốc mọi người khẩn trương đến tập trung trước sân cờ ban chỉ huy trại để nghe thiếu tá Khoát - trưởng trại - ban hành lệnh hành quân (chuyển trại) và mọi người được thông báo, chỉ còn có một tiếng đồng để chuẩn bị hành lý cần thiết mang theo người. Vì quá vội vã, nên Đèo không kịp đào lấy 10 viên thuốc “reostop” chôn dưới sạp nứa, ngay chỗ anh nằm.
Tại sân đá bóng của xã, trong khi ngồi chờ đợi xe vận tải đến chở đi một trại tù cải tạo khác, bọn cán bộ quản giáo và quản chế yêu cầu tất cả tù cải tạo “bày hành lý bán chợ trời” - tiếng lóng - một hình thức kiểm soát hành trang của tù cải tạo để hôi của. Sau đó, chúng phân tán chúng tôi đứng riêng rẽ từng nhóm nhỏ vài ba người, tù cải tạo còn phải trải qua một màn “thoát y vũ” bất đắc dĩ để chúng lục soát quần áo tù. Thế là, sau khi tịch thu toàn bộ số dược phẩm của anh em mang từ trong Nam ra, chỉ còn sót lại 10 viên “Reostop” của Lê xuân Đèo. Sau đó, bọn tù cải tạo chúng tôi mặt mày tiu nghỉu trở về lán trại, tiếp tục lên rừng đốn gỗ. Tên thiếu tá Khoát và tên tù phản bội P. T. K. mặt mày hớn hở vì chuyến nầy thắng lớn... Bọn cán bộ trại đem số thuốc tây nầy ra Hà Nội và tỉnh Hoàng Liên Sơn bán lại cho các con buôn, rồi thay vào đấy một loại thuốc dõm trị bá chứng tên “Xuyên Tâm Liên” để trị bịnh cho bọn tù. Đến năm 1982, nhà nước cộng sản khám phá loại thuốc nầy có độc tố phá vở các tế bào não, tim và thận và ngưng sản xuất thì đã muộn. Không biết có bao nhiêu tù cải tạo sống dở, chết dở vì uống phải loại thuốc nầy?
Vào mùa thu năm 1977. Bạn Lê Xuân Đèo không may vướng phải căn bệnh kiết lỵ hiểm nghèo. Sang đến tuần lễ thứ hai, người anh cứ khô héo dần như cây khô thiếu nước, gầy đến nổi chỉ còn da bọc xương, rồi nằm liệt giường, tiểu và đại tiện một chỗ.. Mỗi ngày tên y công tên Lương phát cho vài viên “Xuyên Tâm Liên” và một bát cháo loãng như nước cơm chắt, tiêu chuẩn trừng phạt những người tù cải tạo bị ghép vào tội “chây lười lao động”. Qua đến đầu tuần lễ thứ ba, người anh tóp xọp như bộ xương cách trí, được bọc lại bằng một lớp da nhăn nheo màu xám xịt, đôi chân gầy guộc như hai thanh nứa, sờ vào lạnh ngắt như đồng. Anh chỉ còn thở thoi thóp, máu hình như bắt đầu đông lại trong các động mạch, đôi mắt thất thần, mở trao tráo trong hai cái hốc mắt lõm sâu. Đến buổi chiều, anh lên cơn mê sảng gọi tên vợ, tên con, rồi khóc rưng rức bằng những hạt lệ khô.Tối hôm đó, tôi ngồi bên cạnh anh cho tới giờ kẻng đổ, tôi bỏ mùng xuống cho anh, trước khi trở lại chỗ nằm.
Kỳ lạ quá! Nửa đêm về sáng, tiếng cú rúc liên hồi trong một lùm cây nào đó, ngay phía sau lán 3 như tiếng gọi của thần chết lởn vởn đâu đây, làm tôi rùng mình. Gió từ dãy Hoàng Liên Sơn thổi về ào ào làm rung chuyển cây rừng, làm tốc mái tranh nứa, gió thổi bật cánh mấy cái phên cửa... Trong cái không gian lạnh lẽo ấy, vang lên những tiếng ngáy khò khò khi trầm, khi bổng, có tiếng ngáy cao vút như giọng nam “tenor”, những tiếng nghiến răng trèo trẹo, tiếng trở mình của bạn nào đó trên cái sạp tre ọp ẹp vang lên kẽo kẹt, tiếng mớ ngủ lẫn tiếng thở dài não nuột. Đôi khi, có anh đang nằm mơ thấy mình đang đánh nhau với Việt cộng, tiếng hét của anh đánh thức cả lán dậy: “Diều hâu! Diều hâu! Đại Bàng ghe rõ không trả lời! Việt cộng tràn ngập căn cứ hỏa lực rồi! Rót pháo xã láng! Nổ chụp trên đầu chúng tôi! Lẹ lên đi mấy cha...” và tất cả âm thanh đó quyện vào nhau hợp thành một “bi trường khúc” đầy ấn tượng sâu sắc trong lòng người tù cải tạo.
Bỗng tôi nghe tiếng con vện tru từng chập bên bờ suối, tiếng tru buồn thê thảm, kéo dài lê thê trong đêm trường tĩnh mịch.. Tôi mệt mõi, ngủ thiếp đi từ lúc nào cũng không hay, cho tới khi tiếng kẻng báo thức vang lên, đánh thức mọi người dậy để chuẩn bị một ngày lao động khổ sai.. Tôi nghe cả lán hoảng hốt, thét lên: “Đèo chết rồi! Đèo chết rồi!...”.. Tôi ngồi bật dậy như cái lò xo, nhìn sang chỗ Đèo nằm, hai cái chân như hai thanh nứa già cỗi, khô khốc, buông thòng xuống đất, bị gió thổi luồn dưới sạp nứa đánh đong đưa, còn thân người của anh nằm vất vưởng trong mùng. Tôi vội vàng chạy đến, vén cái mùng lên. Tôi thấy đôi mắt đôi mắt của anh mở trợn trừng, hai giọt lệ khổ đau chắt chiu từ một kiếp người bị đày đọa trong tận cùng đáy địa ngục, ứa ra từ trong hai hốc mắt sâu hoắm, còn đọng lại chưa khô; hình như, anh mới từ giã cuộc đời cách đây không lâu. Tôi lấy tay vuốt mắt người bạn tù...
Một cái chòi lá đơn sơ được vội vã dựng lên, chỉ có mỗi mái nứa gần khu rừng sắn, bên cạnh con suối cạn, phía sau ban chỉ huy trại. Bốn cái cộc gỗ đóng xuống đất chính giữa căn chòi, hai khúc gỗ gác song song với nhau bên trên, vừa đủ kê một tấm ván mỏng. Thi hài của Đèo trong bộ quân phục Biệt Động Quân đã bạc màu, rách tơi tả, loang lỗ những vết máu khô vì tai nạn lao động. Tôi phủ kín hình hài của anh bằng cái mềm màu đỏ. Toán mộc lo đóng quan tài, tôi trong bộ phận đào huyệt còn có Trương Đăng Sĩ và Nguyễn Minh Thanh... Chỗ anh nằm an nghỉ dưới bóng cây cổ thụ dưới chân đồi bên cạnh dòng suối, cách trại khoảng 2 cây số.... Đến xế chiều, mọi việc đã hoàn tất. Sau khi tẩn liệm cho bạn Đèo xong, chúng tôi trở về trại, không ai được ở lại qua đêm để canh giữ xác của anh.
Đêm đó, có lẽ là đêm dài nhất trong 8 năm tù cải tạo của tôi. Vừa chợp mắt là tôi thấy đôi mắt của anh còn mở trợn trừng...Quá nửa đêm về sáng. Bỗng nghe có tiếng chó sủa, tiếng gầm gừ cấu xé lẫn nhau thật dữ dội, tiếng tru tréo từ phía bìa rừng văng vẳng đưa về; hình như, chúng đang tranh ăn thì phải. Điều nầy đã khiến tôi phập phòng lo sợ, không biết chuyện gì bất hạnh sẽ xảy ra cho anh Đèo. Tôi thầm cầu nguyện với ơn trên, đừng để bầy chó rừng tha xác của anh đi! Trời vừa tờ mờ sáng. Sau tiếng kẻng báo thức vào lúc 6:45, tôi đã thức dậy, cuốn mùng mền, rồi vội vã đi về phía cổng trại. Tên lính canh cho phép tôi xuất trại, ra bìa rừng thăm xác bạn. Tôi lật đật bước vào cái chòi lá, cái quan tài của Đèo được ghép vội vã bằng sáu tấm ván mỏng manh bị đẩy xô lệch trên hai cái thanh ngang, suýt chút nữa thì đổ xuống đất, cái nấp áo quan sẽ bung ra ngay. Sau khi đẩy cái áo quan lại cho ngay ngắn, tôi bước ra bên ngoài quan sát hiện trường. Cả một vùng cỏ dại chung quanh cái chòi bị ngã rạp xuống, loang lổ vết máu và lông thú. Tôi đoán không sai, tại ngay chỗ nầy, đêm qua đã xảy ra trận ác đấu thật quyết liệt giữa bầy chó rừng, tranh xác anh Đèo để tha vào rừng.
Có lẽ đánh được hơi người quen thuộc, con chó vện đang nằm bất động gần đó, nó ngước đầu lên nhìn tôi, cố gắng chống hai cái chân trước xuống đất, gượng lết về phía tôi, nhưng được vài bước rồi ngã quỵ xuống, mồm rên ư ...ử vì đau đớn. Tôi vội vàng chạy đến ôm chấm lấy nó vào lòng. Con vệt liếm vào mặt tôi một cách trìu mến, rồi mệt lả, nghẻo đầu lên vai tôi. Đặt nó nằm xuống đất để quan sát: con mắt bên phải bị lột một mảnh da, còn bê bết máu, cái chân trước bị táp gẫy xương và cái đùi sau bị ngoạm mất một mãng thịt to, vết thương còn rỉ máu âm ỉ. Tôi vô cùng xúc động nhìn nó một cách cảm phục và thương mến. Thật vậy, không một ai có thể ngờ rằng, con chó vện đã liều mạng sống của nó, tả xung, hữu đột, quyết đấu một mất một còn với cả một bầy chó rừng hoang dại để bảo vệ cái xác thân của Lê Xuân Đèo, người bạn của nó, đang nằm trơ trọi giữa bầy dã thú. Đối với tôi, con chó vện là hiện thân của một dũng sĩ, tuy mang hình hài của loài thú bốn chân, nhưng có một trái tim rất “người” dám vì nghĩa quên mình, chiến đấu đơn độc, không lùi bước trước kẻ thù. Tinh thần quyết đấu của con chó vện, như một lời nhắn nhủ đầy khí phách với đồng loại của nó: “Tụi bây muốn làm thịt Lê Xuân Đèo, phải bước qua xác chết của tao!”.
Tôi bế con vện ra bờ suối, khuất sau đám sắn non, rửa vết thương còn đẫm máu của nó mà ứa nước mắt. Con vện liếm bàn tay tôi một cách thân ái. Tôi thì thầm bên tai nó: “Nằm đây chờ tao; lát nữa, tao trở lại tìm cách đưa mầy về nhà chủ của mầy!” Tôi đứng dậy lui gót, nhìn trong ánh mắt lưu luyến của nó và khi nó đưa cái chân trước quào quào một cách yếu ớt trong không khí như những cái vẫy tay chào vĩnh biệt, khiến tôi có cảm tưởng; hình như, nó muốn trối trăn điều gì đó với tôi chăng? Tôi từ giã nó, trở vào trại để cùng với anh em lo việc mai táng Lê Xuân Đèo. Toán chung sự có bốn người: Minh Thanh, tôi và hai bạn tù nữa. Đúng 8 giờ sáng, chúng tôi đẩy cái xe cải tiến cũ kỹ đi ngang qua ban chỉ huy trại, gặp tên trung úy Quang lùn tịt, ngoắc chúng tôi dừng lại, nói: “Này, nhớ đấy nhé! Giữ cái áo quan lại, dành cho những người kế tiếp! Các anh phải biết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa đấy!! Sẽ không có cái áo quan thứ hai đâu” !!!!
Sau khi đặt quan tài của Lê Xuân Đèo lên xe cải tiến. Hai anh cầm càng, tôi và Minh Thanh phụ đẩy. Chiếc xe từ từ lăn bánh trên con đường đất gồ ghề còn đẵm hơi sương. Hai cái bánh xe khô nhớt, một cái nghiêng bên nầy, một cái ngã bên kia, phát ra những tiếng kót két rên rỉ một cách mệt nhọc, đau khổ. Hai anh bạn phía trước gồng mình, ấn cái càng xe xuống, còn tôi và Minh Thanh vừa đẩy, vừa nâng phần sau xe lên, vì sợ hai cái bánh xe bung vành, văng ra khỏi ra cái xe cải tiến bất cứ lúc nào. Chúng tôi phải đẩy cái xe tang lăn qua ba cái dốc cao mới đến bờ suối. Sau vài phút nghỉ giải lao, chúng tôi cùng nhau kê vai, khiêng quan tài lên lưng chừng đồi, chỗ an giấc ngàn thu của anh, rồi chia nhau vô rừng kiếm dây rừng bện lại như hai sợi dây thừng. Đặt quan tài lên trên hai sợi dây đó, rồi mỗi người nắm một đầu dây, thả từ từ xuống đáy huyệt. Xong rồi, chúng tôi lấp đất lại, vun thành một nấm mộ đơn sơ. Bốn anh em đứng trước mộ, cúi đầu mặc niệm mà trong thổn thức, bồi hồi. Tôi hái một ít hoa rừng đặt lên nấm mồ của bạn.
Bạn Nguyễn Minh Thanh cảm khái làm một bài thơ với tựa đề “NẤM MỒ HOANG” để tưởng nhớ bạn Lê Xuân Đèo, người bỏ cuộc giữa đường.
Một nấm mồ hoang cảnh lạnh lùng
Lơ thơ cỏ úa lá chiều rung
Quạnh hiu vằng vặt vây quanh mộ
Rên rỉ bầy ve tiếng não nùngGởi xác ốm nhom tận chốn nầy
Bao la rừng núi, suối trời mây
Người đi vĩnh viễn đã yên phận
Ngàn dặm người thương đâu có hay!
Sương khói hoàng hôn dọc mỗi đời
Công danh phú quí lá vàng rơi
Than ôi! Thành bại đều chung cuộc
Tuần tự rồi ai cũng thế thôi!
Trên đường trở về trại, khi đi đến gần ban chỉ huy, tôi tách rời anh em, lẻn vào khu rừng sắn, ra bờ suối kiếm con vện. Tôi vô cùng sững sờ nhìn thấy con vện bị ai đó treo ngược đầu xuống đất, bốn chân bị căng ra, buộc chặt vào hai cái cộc gỗ, cổ bị cắt tiết, máu đỏ nhỏ từng giọt xuống cái cái chậu bằng thau đặt dưới đất. Tôi quỳ xuống nâng đầu của nó lên, cả thân mình con vện khẻ run lên lần cuối cùng, rồi duỗi thẳng ra bất động. Cái chết đau đớn của nó làm tôi rớt nước mắt. Tên trung sĩ Kây đứng sau lưng tôi từ lúc nào cũng không hay. Hắn lên tiếng làm tôi giật mình:
- “Trong giờ lao động, anh ra đứng đây làm gì thế?”
Tôi nhanh trí, đáp:
- “Vừa mới mai táng anh Lê Xuân Đèo xong, ra suối rửa tay chân.”
Hắn nói:
- “Tôi nhờ anh giúp hộ một tay.”
- “Được, việc gì thế?” tôi hỏi.Hắn nói như ra lệnh:
- “Anh tháo dây, mang con cầy vào nhà bếp cho tôi!”
Nói xong, hắn mang cái thau tiết đi trước. Tôi tháo sợi dây rừng, ôm con vện vào lòng như ôm thi thể một chiến hữu vừa nằm xuống sau một trận đấu...tôi thất thểu ôm xác con vện vào khu nhà bếp mà lòng quặn đau. Hôm sau, được phân công làm vệ sinh khu nhà bếp, tôi nhặt những mảnh xương vụn của con vện, đặt lên vào những tấm lá chuối, gói lại cẩn thận. Nhân lúc đi rừng đốn gỗ, tôi ghé thăm mộ bạn Đèo, rồi dùng dao đào một cái hố nhỏ, chôn bộ hài cốt của con chó vện, nằm bên cạnh bạn Lê Xuân Đèo cho có bạn.
Bắt đầu từ cuối tháng chạp kéo dài đến tháng giêng năm sau. Núi rừng Hoàng Liên Sơn, bầu trời ảm đạm và rét mướt, mưa bụi giăng giăng khắp nơi gần như bất tận.. Mỗi buổi chiều, người tù trùm chăn kín mít, ngồi co ro trong lán, nhìn những cơn mưa bụi bay bay trong hoàng hôn, ai nấy đều chạnh lòng nhớ quê hương, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ con, nhớ vợ da diết. Gọi là mưa bụi vì lượng nước mưa quá yếu không thể rơi thẳng xuống mặt đất, bị gió thổi bay đi, tỏa ra thành những cơn mưa bụi.
Bước sang tháng giêng. Hạt nước mưa kết tinh lớn hơn một chút có thể rơi thẳng xuống mặt đất, nhưng bị gió tạt nghiêng nghiêng, tạo thành những cơn mưa phùn báo hiệu đất trời sắp giao mùa. Sợi mưa phùn mong manh như sợi tóc rối, đan nhau thành những màn nước trắng đục, giăng kín núi rừng, đồng ruộng, thung lũng, sông hồ ... Trời đất nhạt nhòa trong những cơn mua phùn dai dẳng, kéo dài lê thê trên vùng đất khó. Trong bầu khí hậu ẩm thấp ấy, cây cỏ đang âm thầm nẩy lộc, đâm chồi, chờ trỗi dậy tưng bừng khi mùa xuân đến. Chỉ tội cho bọn tù cải tạo phải lao động khổ sai trong rừng sâu, tay chân tê cóng vì đói và lạnh đến rét run. Thượng tuần tháng 2 năm 1978. Trại chuẩn bị ăn mừng Tết Nguyên Đán Mậu Ngọ vài ngày sau đó. Tôi được phân công vào đội cắt lá dong dùng để gói bánh chưng. Lá dong thường mọc hoang ở những vùng đất ẩm ướt. Tôi đi vào rừng, lang thang trong thung lũng một mình để tìm lá dong. Tôi nhớ quá anh bạn Đèo và con chó vện thân thương.
Mới hừng đông sáng mà tôi đã nghe tiếng chiêng, tiếng trống vang lên rộn rã từ bản làng của dân tộc Thái Đen. Động tính hiếu kỳ, tôi lần theo con đường mòn dọc theo con suối chảy róc rách để đi vào bản Thái. Ô hay! Trước mắt tôi là cả một rừng hoa màu trắng tinh khiết như hoa bưởi mà tôi chưa từng thấy bao giờ. Từ những thân cây khẳng khiu, uốn khúc dù bám vào vách núi đá cheo leo vẫn trổ những chùm hoa trắng muốt, hoa nở rộ khắp núi rừng, dọc theo suối, hoa có năm cánh, nhụy màu hồng, gân màu tim tím. Mỗi cơn gió nhẹ nhàng lướt thoảng qua khu rừng là những cánh hoa rung lên như hàng vạn cánh bướm đang vỗ cánh chấp chới trong không khí. Tôi đi lần theo con đường mòn tìm gia đình cụ Trừng không mấy khó khăn. Tôi đoán, hôm nay là ngày hội làng thì phải. Trước sân nhà của cụ các bếp đỏ lửa, rực than hồng, họ có mươi người, chia ra làm hai phái: phái nữ đang lo nấu thức ăn, còn phía nam đang chơi nhạc cụ dân tộc như thổi khèn, khua chiêng, trống...rất vui nhộn. Thấy tôi đường đột bước vào sân, tất cả đều dừng tay, nhìn tôi trân trối. Chỉ cần nhìn thấy bộ đồ rằn ri của tôi đang mặc, họ đã biết tôi là ai rồi. Một thiếu phụ vội vã chạy đến cầu thang, lên tiếng gọi:
- “Bố ơi! Có thằng lính ngụy nó xông vào nhà mình nầy! Con tống cổ nó đi nhá!” Có tiếng quát vọng xuống:
- “Khách quý nhà mình đấy! Đừng hỗn láo, con ạ!” Đứng trên cầu thang, nhìn thấy tôi, cụ Trừng có vẻ mừng lắm. Cụ quay vào trong căn nhà sàn, gọi bà cụ ơi ới:
- “Bà nầy, theo tôi xuống đây nhanh lên!” Cụ vội vã chạy xuống cầu thang trước, cụ bà nối gót theo sau. Cụ ôm chầm lấy tôi, trước con mắt ngơ ngác của mọi người. Cụ Trừng nói với vợ:
- “Bà còn sống đến ngày hôm nay là nhờ người tù cải tạo nầy đấy!” Tôi vội vàng đính chính ngay:
- “Không phải tôi cứu bà cụ đâu! Anh Lê Xuân Đèo đấy cụ à!” Cụ Trừng vỗ trán một cái thật mạnh, nói:
- “À, tôi nhớ ra rồi! Anh Lê Xuân Đèo đâu?” Tôi buông thỏng một câu:
- “Đèo chết rồi!” Cụ Trừng bàng hoàng trong giây lát, rồi hỏi gằn:
- “Bọn quản giáo đánh chết anh Đèo,, phải thế không?”
- “Không phải vậy, anh Đèo chết vì bệnh kiết lỵ!”
Bà cụ nói:
- “Tôi thoát khỏi bệnh kiết lỵ là nhờ 10 viên thuốc “con nhộng” của anh ấy biếu! Sao anh Đèo không dùng thuốc ấy để chửa bệnh cho mình nhỉ?”
Tôi buộc lòng phải thú thật, nói:
- “Đó là 10 viên thuốc cuối cùng mà anh Đèo đã biếu cho cụ!”
Bà cụ nghe tôi nói, vô cùng xúc động, giọng run run:
- “Anh Đèo đã hy sinh cái mạng của mình để cho tôi được sống! Thế mới rõ trắng đen, đồng bào dân tộc chúng tôi ở ngoài nầy đều bị lũ chúng nó bưng bít, tuyên truyền lừa bịp cả! Chúng nó còn bảo “lính ngụy” các anh tàn ác lắm! Mổ bụng, moi gan người ăn sống, uống cả máu tươi! Bọn chúng nó ngậm máu phun người, giỏi thật đấy!”
Đám thanh niên nghe bà cụ nói, xem chừng đã hiểu biết mọi chuyện, họ bỏ hẳn thái độ thù nghịch khi vừa mới gặp tôi. Một anh bạn trẻ đến nắm tay tôi mời mọc rất chân tình:
- “Anh ở lại dùng cỗ với chúng em nhá! Hôm nay, mới bắt đầu mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” của dân tộc Thái chúng em!”
Tôi hỏi:
- “Mùa lễ hội “Kin Chiêng Bók May” là lễ hội gì vậy?”
Cụ Trừng giải thích:
- “Đó là ngày “Hội Hoa Ban” trên vùng cao Hoàng Liên Sơn để đón mùa xuân đến. Hoa ban chỉ nở rộ vào tiết lập xuân, phủ trắng cả núi rừng trên các bản Thái. Đặc điểm của loài hoa nầy là màu trắng, tượng trưng cho sự trong trắng, tinh khiết của tình yêu và hạnh phúc lứa đôi! Một chút nữa đây, sau khi ăn uống no say, bọn họ sẽ chạy vào hái những hoa ban thật đẹp tặng cho nhau làm quà. Mấy cô gái sẽ thay đổi xiêm y, đầu chít khăn “piêu”, có đôi hàng cúc hình bướm trên chiếc áo cóm, thêu tua ở vai, cái quần “sin” (giống như xà-rông) vải xanh thắt ngang lưng để múa xòe,” cụ Trừng cố mời. “Anh ở nán lại đây chơi với chúng tôi.”
Mặt trời đã lên khá cao. Rất tiếc là tôi phải từ giã họ để còn kịp đi cắt lá dong. Bỗng có ai khều nhẹ vào vai, tôi quay đầu lại nhìn, đó là một cô bé Thái còn rất trẻ, độ chừng đôi tám, mắt có mí lót, mũi hơi cao, nước da bánh mật, trong giống người Ấn hơn là người Kinh. Cô ta trao cho bó hoa ban nới nở, vừa mới hái vội ở trong rừng về tặng tôi, làm món quà trong ngày “Hội Hoa Ban”. Bây giờ tôi mới biết loại hoa màu trắng nõn nà đó chính là hoa ban. Cô bé thỏ thẻ, nói đùa:
- “Bao giờ anh về Sài Gòn, cho em đi theo với nhá!”
Tôi vô cùng ngạc nhiên khi một cô bé Thái miền sơn cước, còn biết chối bỏ cái tên Thành phố Hồ Chí Minh do tập đoàn lãnh đạo cộng sản áp đặt sau khi cưỡng chiếm Miền Nam, mà vẫn gọi cái tên cũ “Sài Gòn”, thủ đô thân yêu của người Miền Nam . Sau khi cắt xong một mớ lá dong, trên đường đi về trại, tôi ghé viếng thăm mộ bạn Lê Xuân Đèo. Tôi đặt bó hoa ban trên nấm mồ, rồi thì thầm báo cáo với hắn: “Vinh quang nầy thuộc về mầy! Chớ không phải của tao!” Nghĩ cho cùng, cái chết tức tưởi của bạn Lê Xuân Đèo không đến nỗi vô ích. Tôi phải gọi đó là một sự hy sinh. Những người lính QLVNCH thuộc mọi Quân, Binh chủng đã anh dũng hy sinh ngoài mặt trận trong thời chiến. Và những người lính âm thầm nằm xuống trong lao tù cộng sản, đều có giá trị cao quý như nhau! Thật vậy, anh nằm xuống để thắp lên một ánh đuốc lẻ loi, soi thủng màn đêm tăm tối đầy hận thù bên kia “bức màn sắt”, do bọn CSBV dựng lên tại miền Bắc XHCN, bằng những thủ đoạn tuyên truyền cực kỳ dối trá và bẩn thỉu. Cái chết của Lê Xuân Đèo đã làm sáng tỏ chân giá trị đích thực của người lính thuộc QLVNCH. Họ cầm súng để nối nghiệp tiền nhân, tận tụy ngày đêm đi gìn giữ quê hương, đem xương trắng máu đào để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Sau Tết Mậu Ngọ 1978. Tất cả anh em chúng tôi khăn gói lên đường, di chuyển đến một trại tù cải tạo khác, lần nầy thì di chuyển thật. Và chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ khai quang, dựng nhà, trồng hoa màu ở những vùng rừng núi hiểm trở khác để đồng bào miền xuôi về đó, xây dựng nông trường. Lúc vượt qua đỉnh đèo Lủng Lô, Trương Đăng Sĩ, Nguyễn Minh Thanh và tôi dừng lại giây phút ngắn ngủi, chúng tôi cùng hướng về rặng núi Phu Luông còn phảng phất sương mù, vẫy tay chào vĩnh biệt người bạn tù thân mến, anh Lê Xuân Đèo: NGƯỜI Ở LẠI HOÀNG LIÊN SƠN!
ở chiến trường TN ,cái đói ở TN nó dai dẳng ,giằn vặt người lính suốt cả ngày , đi ngủ cũng chỉ mơ thấy được bữa cơm no ! ở TN ngoài do địa hình xa sôi cách trở ,việc cung cấp lương thực thực phảm khó khăn ,còn một nhẽ các cụ chỉ huy ở tn chỉ xin hậu phương tiếp tế súng đạn thôi còn lương thực ,thực phẩm thì xin tự túc .Rừng Tn nhiều thú , đất TN màu mỡ ,nhưng không phải lúc cần là có nên cái đói cứ quấn lấy người lính TN .Nhưng cũng chính vì thế mà các anh lính TN có rất nhiều tài :săn bắn giỏi ,phát nương làm rẫy giỏi , đánh cá giỏi,ca cóng giỏi và đánh nhau cũng rất giỏi !
Bác Bob ca cóng nhiều đã bao giờ ăn phải cá say chưa ?còn nhớ cái say như thế nào không ?
Cũng vào tầm mùa này ,cuối mùa mưa , đầu mùa khô ,khi những con suối đã hiền hòa dần ,là lúc có điều kiện bắt cá dễ nhất .Bắt cá có thể đánh lưới ,có thể bắn , đâm ,mìn ,nhưng muốn bắt được nhiều và dài ngày thì phải làm sa cá .việc làm sa phải chọn được vị trí thích hợp ,thời điểm thích hợp .vị trí làm sa phải chọn chỗ suối bắt đầu thu hẹp ,sâu chừng một mét nước ,trước đó phải có một vụng sâu ,có khả năng cá về đấy tạm trú nhiều …và kết hợp con mắt phán đoán tinh tường của người đi săn có thể vận dụng mà chọn vị trí cho tốt nhất !
Việc làm sa trước tiên là đắp đập dâng nước lên cao chừng một mét , để chừa một khoảng chừng 2,5 đến 3m , đập đắp thấp hơn cho nước tràn qua chừng 10 đến 15 cm nước ,dưới hạ lưu dùng tre cỡ gần bằng cổ tay ken sát nhau thành một cái sàn ,vững chắc ,người có thể đứng lên trên mà bắt cá được ,sàn hình phễu , đầu to ôm lấy phần thác nước đã chừa ra cho nước chẩy vào ,phần dưới nhỏ hơn chừng 1m ,xung quang sàn được vây thành cao chừng 70cm cho cá không quăng qua được ,trên phía thượng lưu dùng tre nhỏ hay cót ghép nghiêng thoải cho cá dễ vượt lên chỗ nước chẩy ,thế là được một cái sa cá .
Khi sa bắt đầu tháo nước ,cá nhỏ có thể qua ngay ,nhưng cá to phải chờ lúc yên tĩnh ,nhất là về đêm .Ngồi chờ cá lên sa rất là hồi hộp !cá nhỏ thì chỉ việc nhặt trên sàn là được ,nhưng khi vớ cá to 2,3 cân là cũng trật vật lắm ,vồ một cái chưa chắc được ngay ,cá trơn ,sàn trơn cứ như đánh vật ,còn khi cá say lên sa thì đúng là vật thật ,cá say lên là lên đàn 5,6 con ,cá say rất khỏe không thể dùng tay không mà bắt được ,lúc đó phải có 2 người trên sàn ,mỗi người cầm một đoạn tre bằng cổ tay làm gậy đập ,mỗi con phải đập 2,3 cái mới lằm yên cho mình bắt .Cá say trông giống con cá trắm đen ,thường cỡ 4,5 kg ,thịt rất thơm và ngon ,ngậy ,nếu con nào có trứng thì hai buồng trứng dài chừng 20cm như trứng cá thủ, khi đã kho lên thì mùi thơm quyến rũ của nó đánh đổ tất tật cánh lính đang đói khát ,thiếu chất ở TN ,mặc dù có nghe tiếng đồn là ăn vào sẽ say nhưng không thằng lào là tránh được ,có thằng phản ứng nhanh mới ăn 2,3 miếng là cổ đã thấy lờm lợm ,bụng nhâm nhẩm ,chút sau là lôn thốc lôn tháo ,song rồi vẫn thấy vô lý ,nó sống được sao mình không ? thế là lại tìm cách chế biến ,nghe nói cho thêm vào mấy ngọn lá săng lẻ ,hay cho cái đinh vào lấu với cá sẽ khử được chất say !nhưng rồi những cải tiến đó chỉ kéo dài thời gian trước khi bị say thôi !cuối cùng vẫn bị nó vật . không biết tên cá say có từ bao giờ ?chắc là chỉ do cánh lính TN đặt cho thôi ,nghe đâu chúng ăn nhiều quả Mã tiền trên thượng nguồn lên chúng mới có chất say vậy !cuối cùng tiếc quá thì cho vào máy cái hũ làm mắm chôn xuống đất,không biết sau này có ai biết mà đào lên ăn không ?mấy hôm nữa đi TN lại tìm được mấy hũ ấy thì tuyệt nhỉ !
Không biết ngoài TN ra còn ở đâu có loại cá say ấy nữa không ?và chắc bây giờ ,rừng bị phá nhiều ,suối làm thủy điện nhiều sẽ không còn giống cá ấy nữa ?kể bác nghe như là một kỷ niệm về núi rừng TN
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top