A Mạch tòng quân - Cuốn thứ nhất
CUỐN THỨ NHẤT
Phong vân khởi dã mạch sạ phiêu hương (Gió thổi mây bay khiến hương lúa mạch nơi đồng nội bắt đầu bay đi)
CHƯƠNG 1
A Mạch
Kêu oan, cũng cần phải có kỹ xảo……
A Mạch (1) sinh ra vào tháng năm, đúng thời điểm vụ lúa mạch năm ấy mất mùa. Mẹ A Mạch mới từ quỷ môn quan lắc lư trở về, suy yếu nằm ở trên giường, sắc mặt vẫn tái nhợt, hướng về phía cha A Mạch ôn nhu nói: “Mình mau đặt tên cho con đi!”
Cha A Mạch nhẹ nhàng ôm A Mạch trong tay, hết nhìn trái lại nhìn phải, thật là khó xử, đột nhiên trong đầu chợt lóe lên một tia sáng, kinh hỉ nói lớn: “Mạch Đâu (2)! Gọi là Mạch Đâu đi!”
“Mạch Đâu?” Mẹ A Mạch kinh ngạc nhìn chồng, nhất thời không thể phản ứng được gì.
Nét kinh hỉ trên mặt cha A Mạch vẫn không giảm, đem A Mạch nhẹ nhàng đặt lên giường, đứng dậy kích động khoa tay múa chân nói: “Mình đã quên rồi sao? Chính là con lợn trong bộ phim hoạt hình của Hồng – Kông, con mắt đen đó, ha ha, ta họ Mạch, năm nay lại là năm heo, không gọi là Mạch Đâu thì thật đáng tiếc nha! Ha ha –”
Còn cười chưa xong thì một vật thể bay không xác định đã nhằm thẳng mặt cha A Mạch mà bay tới, dính luôn ở trên mặt.
Mẹ A Mạch mắng to: “Anh mới là đồ Mc Dull!”
Cha A Mạch ngượng ngùng kéo cái tã trên mặt xuống, vẻ mặt chột dạ nhìn mẹ A Mạch, nhỏ giọng hỏi: “Vậy mình muốn đặt tên con là gì?”
Mẹ A Mạch ngẩn ra, gọi là gì bây giờ? Nàng biết thì còn hỏi chồng làm gì? Lúc mang thai thì cả hai vợ chồng đều âu yếm xoa bụng gọi là cục cưng, nhưng nay sinh con ra rồi, chẳng lẽ gọi là Mạch Cục Cưng?
Hai vợ chồng còn đang trầm mặc, thì chợt nghe tiếng Ngưu Nhị ở thôn trên gọi to ngoài sân: “Ông chủ Mạch quầy, lúa mạch nhà ông, ta đem hết vào trong sân nhé, năm nay được mùa, hạt lúa chắc mẩy, mạch tuệ(3) đều rất lớn, rất lớn!”
Mạch tuệ? Hai vợ chồng như thể tâm linh tương thông, không hẹn mà cùng gật đầu lia lịa, vì thế, đại danh của A Mạch là Mạch Tuệ!
Về sau A Mạch nghĩ lại, nếu lúc ấy Ngưu Nhị không kêu là mạch tuệ mà kêu là đông qua(4), phải chăng tên của nàng sẽ không phải là Mạch Tuệ nữa mà sẽ là Mạch Đông Qua(5)? Khi được năm tuổi, nàng đem này nghi vấn này ra hỏi mẹ nàng, lúc ấy đang đứng bán rượu, mẹ A Mạch xoa xoa tay lên tạp dề, sau đó cười ngượng ngùng, nói: “Cái con nhỏ này, làm sao mẹ lại có thể đặt tên con là Đông Qua được? Tên là Mạch Tuệ rất hay mà! Mỗi lần đọc lên lại thấy quê cha đất tổ giàu có đến cỡ nào! Cha mẹ phải suy nghĩ rất lâu mới nghĩ được một cái tên đầy ý nghĩa như thế để đặt cho con đấy!”
A Mạch tất nhiên là không tin, nàng vô cùng hy vọng cha mẹ sẽ sinh thêm một tiểu muội muội hoặc tiểu đệ đệ, lúc đó nàng muốn xem cha mẹ mình còn có thể nghĩ ra được cái tên gì khác.
Nương tử Trần gia bán đậu hũ ở nhà bên cạnh, từ bụng lớn hóa bụng nhỏ, rồi lại từ bụng nhỏ hóa bụng lớn, sau đó những đứa nhỏ Trần gia lần lượt được sinh ra rồi lớn lên, mà bụng của mẹ A Mạch vẫn không có biến chuyển gì. A Mạch thường xuyên nhìn ngắm bụng mẫu thân đến ngẩn cả người, mong ngóng cái bụng này cũng có thể lớn lên một chút. Đến một ngày nọ cũng bị mẫu thân phát hiện ra, liền hỏi:“A Mạch, con nhìn gì thế?”
A Mạch nói: “Mẹ à, sao trong bụng mẹ không có tiểu đệ đệ?”
Lần này, mẹ A Mạch không trả lời, chỉ mỉm cười xoa xoa đầu của nàng.
Đêm đó, trong lúc A Mạch đang mơ mơ màng màng, chợt nghe thấy tiếng thì thầm từ phòng của cha mẹ bên cạnh truyền đến.
Mẹ A Mạch nói: “Mình sinh thêm một đứa đi, A Mạch chỉ có một mình rất cô độc, ngay cả chị em bầu bạn cũng không có.”
Thanh âm cha A Mạch tuy nhỏ nhưng rất kiên định: “Không được, nơi này thiếu thầy thiếu thuốc, nếu lại sinh khó như lần trước thì phải làm sao bây giờ? Vạn nhất có điều gì không hay xảy ra cho mình, mình bảo ta phải làm sao mà sống được ở cái thế giới này?”
Sau một lúc lâu, mẹ A Mạch mới kín đáo thở dài, nói: “Vợ chồng mình còn có đôi có lứa mà nương tựa lẫn nhau. Nhưng còn A Mạch? Sau này chúng ta đều chết đi, thì A Mạch phải làm sao? Chẳng lẽ gả nó cho một người đàn ông ở cái thế giới này sao?”
Cha A Mạch không nói gì, chỉ gắt gao ôm mẹ A Mạch, suy nghĩ nửa ngày mới an ủi nói: “Nếu không chúng ta nhận nuôi thêm một đứa bé trai nữa vậy, nuôi lớn cùng A Mạch , như vậy sau này cũng có thể chăm sóc cho A Mạch, mình xem như vậy có được không?”
……
Đương nhiên, đây là chuyện của mười mấy năm về trước.
Hiện tại, A Mạch đang ngồi trong một quán trà bên đường ở sát chân núi, cố sức cắn một miếng lương khô, sau đó lại ngẩng đầu lên lớn tiếng gọi: “Tiểu nhị, thêm một bình trà!”
Bên cạnh truyền đến tiếng quan quân cưỡi ngựa phóng qua, bụi đất trên đường bị gió cuốn mù mịt.
“Ôi dào, gần đây thường thấy quan quân chạy qua, không phải là lại có chiến tranh ở phương Bắc đấy chứ?” Ông chủ quán trà thấp giọng thở dài.
A Mạch lấy tay che bát nước trà lại, híp mắt nhìn người cưỡi ngựa đã biến thành một điểm nho nhỏ màu đen biến mất ở xa xa. Phương Bắc có chiến tranh sao? Đánh thì cứ đánh đi, chẳng quan hệ gì tới nàng! Dù sao nàng cũng đi về hướng Nam.
Từ quán trà này đi về hướng Nam chính là một tòa thành nhỏ. Lúc A Mạch đến cửa (thành) Bắc, mặt trời vừa qua khỏi đỉnh đầu, nàng ngửa đầu nhìn nhìn tòa thành bị ánh mặt trời chiếu rọi, hiện rõ hai chữ: Hán Bảo, chỉ cảm thấy trong bụng vừa đói vừa khát, đang không ngừng kêu réo ọc ạch, đành đưa tay thắt chặt lại lưng quần.
Cái bánh kia đúng là không chống đỡ được với cơn đói, sớm biết thế này sẽ không uống nhiều nước trà như vậy!
A Mạch cúi thấp đầu đi vào trong thành, còn chưa vào được bên trong thì đã bị một tên lính gác lôi xuống, dò xét A Mạch, quát hỏi: “Từ đâu đến?”
“Từ phương Bắc.” A Mạch thành thật trả lời.
“Muốn đi đâu?”
“Đến phía Nam.”
Tên đầu mục tựa hồ cũng thấy A Mạch trả lời có chút không thích hợp, nhưng lại nhất thời không biết không đúng ở chỗ nào, một tên lính liền chạy lại, nhỏ giọng nói: “Đầu mục, vừa thấy tiểu tử này đã thấy không ổn rồi, vóc người cao như vậy, lại trắng nõn như đàn bà, có khi là thám tử phương Bắc!”
Tiểu đầu mục đưa ánh mắt cao thấp đánh giá A Mạch, càng nhìn lại càng cảm thấy tiểu tử này kỳ quái, vóc dáng cao gầy, hơn nữa búi tóc lại ngắn như vậy, làm sao mà ra dáng nam nhân cho được, rõ ràng chính là người dị tộc!
Kỳ thật A Mạch không được tính là quá cao, chỉ bảy thước(6) là cùng, chiều cao này ở thời đại của cha mẹ nàng nhiều lắm thì tính là cao gầy, nhưng ở thời đại này, đừng nói so với các nữ nhân đã là hạc trong bầy gà, mà ngay cả so với nam nhân cũng được xem như là hơi cao.
A Mạch thấy mình cao hơn cả nửa số binh sĩ ở đây, trong lòng thầm cảm thán: mẹ nói thật đúng. Con người ở thời đại này chế độ dinh dưỡng thật kém, ngay cả mục đầu này cũng chỉ tầm sáu thước, so với cha mình thì vẫn còn kém xa.
Tiểu đầu mục đi vòng qua A Mạch một vòng, đột nhiên lớn tiếng quát: “Đến đây! Đem thằng nhãi này trói lại cho ta!”
Mấy tên lính như hổ, như sói lập tức vậy quanh A Mạch, A Mạch chưa kịp phản ứng gì đã bị trói gô lại, nàng cúi đầu nhìn dây thừng trên người, dở khóc dở cười, vội vàng nói: “Các vị quân gia, hiểu lầm rồi, hiểu lầm rồi, ta là lương dân a, sao có khả năng thành thám tử được? Không tin ngài đem ta thả ra, ta lấy giấy thông hành cho quân gia xem!”
Nhưng những tên lính này đâu chịu nghe A Mạch giải thích, liền đẩy nàng hướng vào trong thành, đi đến nửa đường, vừa lúc gặp vài quân sĩ khác đang vây quanh một viên tướng trẻ tuổi tiến lại gần, binh sĩ áp giải A Mạch cuống quít đi lên, hướng viên tướng trẻ tuổi hành lễ nói: “Đại nhân, mới bắt được một thám tử phương Bắc!”
A Mạch vội la lớn:“Oan uổng quá, tiểu dân oan uổng, tiểu dân là thương nhân đi về phía Nam, trên người có giấy thông hành của phủ Định Châu a!”
Thanh âm nhất định phải lớn mà có chứa âm rung, khuôn mặt nhất định phải chân thành mà giàu biểu cảm, tốt nhất là phủ phục trên mặt đất thể hiện sự trung thành của mình, đây là chuyện mà mẹ A Mạch đã từng dạy nàng, khi kêu oan phải đặc biệt chú ý. A Mạch rất là chú ý những điểm này, nhưng lại thấy bộ dạng phủ phục xuống đất thật giống chó ăn phân, cho nên A Mạch lựa chọn tư thế đứng để kêu oan.
Quả nhiên, tầm mắt của viên tướng trẻ tuổi kia đã bị A Mạch thu hút, A Mạch thấy viên tướng kia nhìn về phía mình, vội cuống quít nói liên thanh: “Tướng quân minh xét! Tiểu dân thật là oan uổng!”
Viên tướng trẻ tuổi kia bất quá chỉ là một giáo úy nho nhỏ, nghe A Mạch liên thanh gọi hắn là tướng quân, trên mặt đã có chút dịu đi, bất quá không để ý tới A Mạch, chỉ hỏi binh sĩ áp giải vài câu, liền phân phó đưa A Mạch đến đại lao trước rồi nói sau.
A Mạch thầm kêu không hay rồi, vừa mới tới đây đã bị tống ngay vào đại lao chịu tai ương, đâu biết rằng chính mình đang dạo chơi trước cửa Quỷ Môn Quan. Trong lúc bối cảnh giữa Nam Hạ cùng Bắc Mạc đang hết sức căng thẳng, chỉ cần bị nghi là thám tử thì ngay cả thẩm tra cũng không cần, đều là chém cho xong việc, nên nàng bị đưa vào đây xem như là mất mạng.
Vô luận là ở triều đại nào, thức ăn trong đại lao đều rất thiếu thốn.
A Mạch bắt đầu hoài niệm cái bánh khô khốc ở ngoài thành Hán Bảo, vừa ăn vừa chiêu với nước trà mới có thể đưa xuống đến dạ dày, có thể nghe được trong bụng phát ra tiếng than dài. Đương nhiên, hiện tại bụng của nàng cũng đang lên tiếng, âm thanh kêu réo từ trong bụng truyền ra có chút buồn bã, khi lọt vào lỗ tai, nghe mà không thể nào thấy thoải mái nổi, A Mạch chỉ đành nắm thật chặt lưng quần.
Đương nhiên bắt đầu từ bây giờ thức ăn sẽ cực kỳ khó nuốt, nhưng nàng mặc kệ, cứ phải ăn no đã, tốt xấu gì cũng duy trì được nhu cầu tổi thiểu nhất của bản thân. Cũng không biết vì sao, từ hai ngày trước đột nhiên không thấy phát đồ ăn nữa, chỉ có chút nước, mà phải cầu nửa ngày mới được một ít. A Mạch mơ hồ cảm thấy có điều gì đó không thích hợp, quả nhiên, đeo gông ngồi đại lao đến ngày thứ mười một, sai dịch dẫn một tên đầu lĩnh hung thần ác sát tiến vào, sau khi sai dịch mở cửa, tên đầu lĩnh không nói hai lời, trước hết chém bay đầu một phạm nhân, giơ cao thanh đao đẫm máu quát: “Thát tử Bắc Mạc đã đến, kẻ nào không muốn chết liền theo ta ra ngoài thủ thành, phàm ra sức giết địch đều có thể tha tội! Ai đi?”
Đại lao yên lặng như tờ, một lát sau, A Mạch là người đầu tiên giơ tay kêu lớn: “Ta đi! Vì nước giết giặc!”
Thật nực cười! Trước đó, ai không đi sẽ bị bọn họ chém chết tại đại lao, nếu đi không chừng còn có đường sống! Khi A Mạch vung tay hô lớn: “Vì nước giết giặc”. Lập tức cân não của những phạm nhân nhân bắt đầu chuyển động, cũng cuống quít giơ tay hô lớn: “Vì nước giết giặc!” Trong lúc nhất thời, tình cảm của quần chúng trong đại lao trở nên phấn chấn, nhiệt tình ái quốc tăng vọt chưa từng có, không giống như một đám trộm cướp tạp nham, cặn bã, giờ này rõ ràng đã trở thành một đám nam nhi nhiệt huyết bừng bừng!
Viên đầu lĩnh rất vừa lòng, cấp cho các phạm nhân mỗi người một cây gậy gỗ, rồi đưa bọn họ vượt qua tường thành.
_________________________________________________________________
…… Mạch soái thuở hàn vi, khi ngao du ngang qua thành Hán Bảo, bị vu là gian tế Bắc Mạc, đúng lúc Thiệu Nghĩa mang quân đi tuần ngang qua, nghe thấy Mạch soái la hét: “Oan uổng quá!”, Thiệu Nghĩa đưa mắt nhìn lại, thấy một thân hình cao gầy, búi tóc ngắn, khuôn mặt rất đẹp, như thể của phụ nữ, nhưng lại không dám nhìn thẳng, đàn ông như thế thường là gian tế!
tuyển tự [hồi ức tướng quân chinh Bắc]
**********************
(1) A Mạch: mạch nghĩa là lúa mạch; cái tên này cũng giống như tên Lúa của Việt Nam.
(2) Mạch Đâu: là phiên âm của Mc Dull, tên một chú lợn trong một sản phẩm phim hoạt hình nổi tiếng của Hồng Kông. Cha mẹ A Mạch xuyên không, có lẽ có liên quan đến đại dịch cúm heo nổi tiếng cũng ở Hồng Kông, A Mạch lại sinh vào năm Hợi (heo), cho nên cha A Mạch mới nghĩ ra cái tên này.
Chú ấy đây
(3) Mạch Tuệ: tuệ nghĩa là bông lúa, mạch tuệ nghĩa là bông lúa mạch.
(4) Qua: dưa, chỉ các loại quả có thân dây leo nói chung như bầu, bí, mướp, dưa chuột, su su…
(5) Đông Qua: bí đao
(6) Bảy thước: một thước = 0,23m, 7 thước = 1,61m.
**************************
Truyện này quả thật không dễ edit chút nào. Mà mình thì lại muốn chuyển đến các bạn một bản edit dễ hiểu và trôi chảy. Chính vì vậy, mình không giữ được tốc độ mỗi ngày 1 chap như khi edit Long Vương.
Có thể sau một vài chap, quen với văn phong của Tiên Chanh rồi thì mình sẽ tăng tốc thuận lợi hơn.
Chương 2
THỦ THÀNH
Chiến tranh là bàn tay đùa giỡn của một đại nhân vật, vừa ra tay là đã xuất hiện sự chết chóc, hắn bàn tán chê cười chuyện nhân gian công thành chiếm đất. Chiến trường, là một tiểu nhân vật nhỏ bé trước mặt quỷ Tu La(1), khi quỷ Tu La giơ tay chém xuống, trong phút chốc, tất cả đều hôi phi yên diệt(2).
Nam nông lịch Thịnh Nguyên năm thứ hai, lịch Bắc Mạc là năm thứ bảy, Nam Hạ cùng Bắc Mạc cùng ngồi trên bàn đàm phán, trước là giương thương múa kiếm, khí thế ngất trời. Hán tử phương Bắc miệng lưỡi kém linh hoạt, nói qua nói lại một hồi, rốt cục thì cán cân thắng lợi liền nghiêng dần về phương Nam. Những kẻ trong đoàn đàm phán của Bắc Mạc dần dần trở nên trầm mặc. Nhưng đoàn đàm phán Nam Hạ còn chưa kịp chúc mừng thắng lợi đang nằm trong tầm tay thì đã nhận được một tin động trời, không khác gì bị sét đánh trúng khiến hồn bay phách lạc.
Đầu tháng tám, Bắc Mạc đột nhiên phát động hai mươi vạn binh mã, chia làm hai hướng tấn công vào biên giới phía Bắc của Nam Hạ, chỉ trong thoáng chốc mà phong vân(3) biến sắc.
Người dân Bắc Mạc vốn có tác phong nhanh nhẹn, dũng mãnh, so với tài hùng biện của người Nam Hạ mà nói, bọn họ càng thích động thủ, thuộc loại nhân vật thích hành động, tín điều mà họ hướng tới chính là: Nói không lại ngươi, ta liền đánh ngươi nha!
Có người từng lấy qua một ví dụ, nói là trên đường nếu có hai người đều bị nước hắt trúng, người nào mà cả canh giờ cũng không thấy động thủ thì đó chính là người Nam Hạ, còn người nào chưa nói xong hai câu liền ra tay thì chẳng cần hỏi cũng biết đó là người Bắc Mạc.
Đương nhiên, ví dụ này cũng có chút khoa trương.
Sứ thần Nam Hạ đột nhiên hiểu được, đầu tiên là choáng váng, sau đó là một nỗi ảo não đánh thẳng vào gáy, trời ạ, thế nào mà lại quên mất thói quen của thát tử Bắc Mạc? Khó trách đoàn sứ thần Bắc Mạc gần như không nói tiếng nào, nguyên lai bọn họ sớm đã có quyết định này rồi!
Danh tướng Bắc Mạc Chu Chí Nhẫn lĩnh mười vạn quân tiến theo hướng đông, thần không biết, quỷ không hay, vòng qua phía sau chân núi Yến Thứ khẩn cấp tấn công Lâm Đồng, vượt gấp sông Tử Nha, thừa dịp đêm xuống hạ trấn Tân Dã phía đông Nam Hạ, đến xế chiều, đoàn quân đã thẳng tiến đến thành Thái Hưng. Mười vạn đại quân đi theo tây lộ do tướng quân tuổi trẻ tài cao Thường Ngọc Thanh suất lĩnh, nhưng lại lặng lẽ men theo Tây hồ, qua thảo nguyên biên giới Đông quốc, Lương Châu, Mậu Thành, Tiểu Cát Thành hướng thẳng về phía đông, cơ hồ không gặp phải bất kì sự kháng cự nào, tiến thẳng về phía tây thành Thái Hưng.
Mà lúc này, ba mươi vạn biên quân(4) Nam Hạ còn ngồi xổm, tĩnh lặng canh giữ ở biên giới phía Bắc, phân chia gianh giới cùng đại quân Bắc Mạc canh giữ lẫn nhau, tướng sĩ Nam Hạ giữ biên cũng có chút hồ đồ, rõ ràng mấy chục vạn đại quân Bắc Mạc còn đang ngồi xổm đối diện cùng chính mình canh giữ lẫn nhau, thế nào mà lại có hai mươi vạn đại quân chạy đến tấn công mặt sau Nam Hạ? Chẳng lẽ hai mươi vạn đại quân Bắc Mạc sau lưng kia từ đất đá mà hóa thành sao?
Trong lúc nhất thời, phần lớn thành trấn Nam Hạ đều lần lượt báo nguy.
Theo hai đường tấn công của đại quân Bắc Mạc, người sáng suốt liếc mắt một cái liền nhìn ra cả hai lộ đại quân này đều hướng mũi xà mâu thẳng về một nơi, đó là thành Thái Hưng, vì thế trên bản đồ, điểm biểu thị thành Thái Hưng bị tướng lĩnh các quốc gia vẽ đi vẽ lại, từng chút, từng chút mà hoàn toàn thay đổi.
Thành Thái Hưng, là một thành quan trọng phía Bắc bộ của Đại Hạ quốc, dân cư hơn hai mươi vạn, mặt hướng về phía sông Bình Nguyên, sau lưng có sông Uyển, vì binh gia giao tranh từ trước, mà mất hết Giang Bắc.
Ngày hai mươi sáu tháng tám, đại quân đông lộ Bắc Mạc đã đến ngoại thành Thái Hưng, ngày hai mươi bảy vây thành, ngồi đợi Thường Ngọc Thanh suất lĩnh mười vạn đại quân theo tây lộ đến.
Lúc này, đại quân tây lộ Bắc Mạc vừa vặn đuổi tới phía trước thành Hán Bảo, cách thành Thái Hưng tám mươi dặm.
Hán Bảo là một thành nhỏ, không phải là điểm trọng yếu về mặt quân sự, cho nên cũng không quá coi trọng công tác bố trí, canh phòng, tường thành thấp, không có chiến hào cũng không có sông đào bảo vệ, nên cũng chẳng dùng cầu treo, liền cửa thành cũng chỉ có một cái vọng gác trụi lủi, ngoài thành mấy trượng thật ra có mấy công sự, nhìn thưa thớt, trơ chọi rất đáng thương, không cần đoán cũng biết là dựng lên trong lúc vội vã, cơ bản cũng chẳng ngăn được cái gì.
Một câu tổng kết lại là: tường thành này thật quá đơn sơ! So với tường viện của chủ nhà giàu ở Bắc bộ cũng chỉ cao hơn một chút, dày hơn một chút, dài hơn một chút, trên trạm gác có nhiều người hơn một chút.
Binh lính giữ thành khoảng một ngàn người, trong thành dân cư từ đứa trẻ oa oa mới cất tiếng khóc chào đời đến ông già tám mươi tuổi, tất tần tật nam phụ lão ấu cộng cả lại, bất quá cũng chỉ được chừng hai vạn người, chẳng đủ nhét kẽ răng cho đại quân Bắc Mạc, khó trách ngay cả phạm nhân trong đại lao cũng đều bị đưa ra giữ thành.
Khi A Mạch bị đưa vượt qua tường thành, thành Hán Bảo đã sớm là bị đại quân Bắc Mạc vây chặt như nêm cối, từ trên tường thành nhìn xuống chỉ thấy một mảnh đen nhánh. A Mạch sau khi thăm dò xong, lập tức đổ mồ hôi lạnh, chạy vội tới mái chắn sau tường, nằm thấp xuống, thành này còn có thể giữ được sao? Có thể bảo vệ được thì khác gì gặp quỷ giữa ban ngày!
Thiết kỵ Bắc Mạc tới trước thành Hán Bảo, vạn kỵ binh ở trước trận triển khai dàn hàng ngang, tuy rằng đối với việc công thành không có tác dụng gì, nhưng xem như biểu dương lực lượng, trước làm chấn động lá gan của quan binh Nam Hạ, sau thủ tiêu ý định bỏ thành mà chạy trong đầu bọn họ, cho nên, các huynh đệ, chúng ta vẫn là hạ quyết tâm giữ thành!
Có mấy kỵ mã Bắc Mạc phía sau trận tiền phi lên, giơ lá cờ phất qua phất lại mấy cái, đội kỵ binh liền giục ngựa lên trước trận tuyến, chia thành hai cánh thối lui, lộ ra đội quân cầm khiên trong tay, xe công thành, thang, khí giới chờ công thành chậm rãi đẩy về phía trước, tiếng kèn xông trận vang lên, tiếng lưỡi mác bốn phía vung lên, đại quân Bắc Mạc giống như thủy triều đen cuồn cuộn thẳng tiến, giống như một cơn sóng lớn, chỉ cần đổ ập xuống là có thể san bằng một thành Hán Bảo nho nhỏ.
“Bắn tên! Bắn tên! Bắn chết lũ thát tử!” Trên tường thành, tướng lãnh Nam Hạ vung roi trong tay, lớn tiếng quát.
Trên người A Mạch cũng đã trúng mấy roi, cuống quít trên mặt đất khẩn trương giương cung hướng dưới thành bắn vọt tới. Nàng làm sao biết bắn tên như thế nào đâu, bất quá học bộ dạng người bên cạnh cũng giương cung bắn ra, ngay cả ngắm đích cũng không có, chỉ nhắm mắt lại buông tay, nhưng khí lực thật ra không nhỏ, mũi tên lại hướng bên dưới bay xuống, chợt nghe phía dưới truyền đến một tiếng hét thảm, một gã Bắc Mạc công thành mới leo được một nửa đã gặp hạn mà trúng tên rơi xuống.
Tên lính Nam Hạ bên cạnh hướng A Mạch kêu một tiếng “rất tốt”, không biết sờ soạn ở đâu ra một cái mũ giáp ném cho A Mạch, vừa hướng xuống dưới thành bắn tên, vừa hô: “Huynh đệ, bắn hay lắm, đội cái này vào, cẩn thận tên của thát tử, dùng sức bắn lũ súc sinh.”
A Mạch nhìn mũ giáp trong tay còn mang theo vết máu thì giật mình, cắn răng một cái liền đội lên trên đầu, tên bay không có mắt, nàng cũng không muốn chết tại đây trên cái tường thành này, tuy rằng xem hoàn cảnh trước mắt thì cơ may có thể sống sót mà rời đi thật sự là quá nhỏ.
Hai tên lính Nam Hạ bên cạnh dùng sức đâm mũi giáo xuống dưới, liền thấy tên lính Bắc Mạc trên tường thành đã bị lộn một vòng rơi xuống, tiếng kêu thảm thiết sắc nhọn đâm vào tai A Mạch, khiến nàng nghe được mà hết hồn, người bên cạnh ngay vừa trầm trồ khen ngợi nàng sau đó lại hét “A” một tiếng thảm thiết, đã bị mũi tên của binh lính Bắc Mạc bắn trúng, đâm xuyên qua ngực, máu tươi từ trong miệng trào ra, phun tung toé lên tường thành, thành một mảng đỏ rực. A Mạch cả kinh đến nỗi cung tên trong tay đều rơi cả xuống đất, chỉ lo ôm đầu ngồi xuống, bên tai tiếng kêu thảm thiết vẫn không ngừng vang lên, A Mạch trên người lại trúng mấy roi, viên tiểu giáo vung roi nổi giận mắng: “Mẹ nó, còn không mau trốn đi, bọn thát tử mà lên đến đây thì ai cũng đừng hòng sống được!”
Ngoài cửa thành cách đó không xa, trên một sườn dốc nho nhỏ, Bắc Mạc tây lộ tướng quân Thường Ngọc Thanh ngồi trên chiến mã, khuôn mặt lạnh lùng, khóe miệng hơi mím lại, giống như ẩn chứa một tia cười lạnh, vẻ mặt chuyên chú nhìn cảnh công thành cách đó không xa. Mấy chục kỵ mã thân mặc giáp đen đứng phía sau hắn, chiến trường thì ồn ào, nhưng ở đây lại duy trì sự im lặng kinh người, ngay cả thủ hạ chiến mã đều giống nhau, lạnh lùng mà lạnh nhạt.
Thường Ngọc Thanh chợt nâng cánh tay dùng roi ngựa chỉ về một chỗ trên tường thành, cười nói với phó tướng Khương Thành Dực đứng bên cạnh: “Ha ha, Thành Dực, ngươi xem cái tên Nam Hạ mọi rợ kia, ngay cả cung tên cũng cầm không xong, ha ha, người như vậy lại dám lên trên tường thành thủ thành, có thể thấy được Nam Hạ thật sự là không có người.”
Khương Thành Dực theo hướng đó nhìn lại, một lát sau cũng không khỏi mỉm cười, nơi đó trên tường thành có một tên lính Nam Hạ bắn tên rất bừa bãi, sau khi bắn lung tung được một mũi lại vội vàng ngồi xổm xuống tránh sau tường, qua một hồi thăm dò lại bắn thêm một mũi, mười mũi tên thì có đến tám mũi hướng đến tường thành, hai mũi tên còn lại khó khăn lắm mới bắn ra được, cũng là không hề có mục tiêu.
Sau khi Khương Thành Dực bật cười liền quay đầu lại nhìn Thường Ngọc Thanh khuyên nhủ: “Tướng quân, nơi này gần tường thành quá, tên lạc nhiều lắm, vì an toàn, thỉnh tướng quân đến sau trận quan sát cuộc chiến đi.”
Thường Ngọc Thanh chậm rãi lắc lắc đầu, khóe môi chỗ đột nhiên mỉm cười, nói: “Lấy cung tên đến đây.”
Thân vệ binh bên cạnh vội vàng đem trường cung sau lưng, hai tay dâng lên, Thường Ngọc Thanh tiếp lấy, cài tên lên dây cung, kéo căng hết cỡ, híp mắt lại, nhắm thẳng đầu người nọ, ngón tay buông lỏng, chỉ nghe “viu” một tiếng, mũi tên nhọn thoát khỏi dây cung, mang theo sức mạnh phá vỡ không gian, phát ra tiếng rít lợi hại, hướng về phía tên lính Nam Hạ nhát gan trên tường thành xé gió bay đi……
A Mạch nơi này cũng vừa vặn đứng dậy, dây cung chưa kịp buông ra, liền cảm thấy đỉnh đầu như bị búa tạ lôi mạnh một cái, quán tính mạnh mẽ mang theo nàng bay vèo ra sau, thân thể của nàng nặng nề rơi xuống, trong khoảng thời gian ngắn, A Mạch chỉ cảm thấy trước mắt cả một bầy ngôi sao bay loạn, trong tai ngoài âm thanh ù ù ra thì chẳng nghe được cái gì khác. Quá nửa ngày nàng mới chậm chạm tỉnh lại, bỏ mũ giáp trên đầu xuống, hoảng sợ phát hiện một mũi tên dài xuyên ngang đỉnh mũ giáp, đem toàn bộ đỉnh mũ giáp cùng tua rua trang trí tất cả đều chặt đứt tận gốc.
Tiểu binh trên tường thành kia, cho dù không té xỉu thì cũng phải sợ tới mức đái cả ra quần đi, Thường Ngọc Thanh vừa lòng nở nụ cười, đem trường cung tiện tay ném cho thân vệ binh bên cạnh, lúc này chàng như thế nào cũng sẽ không nghĩ đến, là vài năm sau, chàng sẽ hối hận vì mũi tên này đã bắn hơi cao một chút, nếu lúc ấy chỉ cần xuống thấp chừng hai tấc, thì sẽ tốt biết bao nhiêu.
Quân lính Bắc Mạc đã leo được lên tường thành, vung đại đao bổ về phía thủ binh Nam Hạ, lưỡi đao cắm phật vào trong cơ thể phát ra âm thanh nặng nề, người bị chém trợn trừng hai mắt, ngoại trừ nỗi hoảng sợ còn có một tia không cam lòng. Tên lính vừa vung đao chém còn chưa kịp hoan hô thì khoang bụng đã bị một ngọn thương dài không biết từ đâu lao đến đâm thủng, máu theo đầu thương chảy ra, hắn cúi đầu, mắt thấy máu đỏ theo đầu thương rút ra, nội tạng lòi cả ra ngoài.
Đầu thu trời quang mây tạnh, dưới thành Hán Bảo lại là một màn mưa máu mịt mùng, máu thịt vương đầy một mảnh……
“Cửa thành đã mở, đi thôi, cũng chiều rồi, cái gì cũng cản không nổi đâu!” Thường Ngọc Thanh cười nói, hai chân nhẹ nhàng kẹp bụng ngựa: “Tối nay trú đêm lại trong thành Hán Bảo, nói với các huynh đệ, tối nay không phải bàn luận quân kỷ.”
“Tướng quân!” Khương Thành Dực vội vàng phóng ngựa theo ngăn trở nói: “Nguyên soái có lệnh, không thể đồ thành (5)!”
Thường Ngọc Thanh sớm đã có chút không kiên nhẫn với người phó tướng trẻ tuổi thành thạo bên người, nghe hắn lại đem mệnh lệnh của vị nguyên soái kia ra, trong lòng có chút tức giận, kéo dây cương dừng lại vài bước, liếc mắt một cái theo sát Khương Thành Dực, cười mà như không cười hỏi:“Khương phó tướng, cái tai nào của ngươi nghe được bản tướng quân nói là đồ thành ?”
Khương Thành Dực nghẹn giọng, nói không ra lời, Thường Ngọc Thanh quả thật không nói rõ là đồ thành, nhưng câu nói vừa rồi của anh ta thì cùng đồ thành có cái gì khác nhau? Trước khi xuất chinh, nguyên soái cố ý công đạo rằng chỉ cần bọn họ công thành thị uy, không được phép đồ thành.
“Tướng quân –” Khương Thành Dực vươn cổ định khuyên nữa, lại bị Thường Ngọc Thanh hừ lạnh một tiếng trong cổ họng, Khương Thành Dực đánh phải trầm mặc lui xuống, Thường Ngọc Thanh cười lạnh một tiếng nói:“Truyền lệnh xuống, tướng sĩ tham gia công thành thì được vào thành, không phải giữ quân kỷ, còn lại ở ngoài thành bày trận trú doanh.” Nói xong vung roi một cái, không đợi Khương Thành Dực nói chuyện liền phóng ngựa mà đi, phía sau đội thân vệ binh cũng vội vàng đi theo.
Thường Ngọc Thanh phóng ngựa lao ra khỏi đại quân Bắc Mạc, tiến thẳng đến cửa thành, bên kia cửa thành vừa bị xe công thành của quân Bắc Mạc phá vỡ, binh lính song phương đang xoắn lại cùng một chỗ, Thường Ngọc Thanh giơ thương vọt lên, gặp binh lính Nam Hạ một tên giết một tên, chỉ một lát đã hạ mười người. Khương Thành Dực nhìn anh ta quật khởi, cũng không tiếp tục ngăn cản, lại sợ trong lúc hỗn chiến chủ tướng có điều sơ xuất, đành vung trường đao cùng thân vệ binh bảo hộ bên cạnh Thường Ngọc Thanh, một hàng mấy chục kỵ mã cứ thế xông vào, sát nhập với đại quân Bắc Mạc tiến vào trong thành Hán Bảo.
_________________________________________________________
Chú thích:
(1) Tu La: tên một con quỷ hiếu chiến theo quan điểm của Phật giáo
(2) Hôi phi yên diệt: hồi nghĩa là tro, phi: bay, yên: khói, diệt: dập tắt. Câu này nghĩa là tan thành tro bụi.
(3) Phong vân: gió mây.
(4) Biên quân: quân đội canh giữ vùng biên giới
(5) Đồ thành: chỉ hành động chém giết cướp phá của quân lính sau khi chiếm được thành
A Mạch tòng quân (Tiên Chanh) – Chương 3: Phá thành
Ngày 28 tháng 8 Nam nông lịch Thịnh Nguyên năm thứ hai, thành Hán Bảo bị phá, thủ thành Lưu Cạnh tự sát trên tường thành, vợ là Trần thị cùng hai con gái ở trong phủ treo cổ tự sát, con trai độc nhất mất tích.
Màn đêm buông xuống, nhưng bên trong thành Hán Bảo không hề yên tĩnh. Ánh lửa bập bùng khắp nơi, tiếng cười mắng của binh lính Bắc Mạc, tiếng dân chúng Nam Hạ la khóc, tiếng thét chói tai, các loại âm thanh cùng vang lên hỗn loạn, hoặc không cam lòng, hoặc hèn nhát, hoặc phóng túng, tất cả như có một bàn tay dày xéo vô hình, mỗi nơi mỗi chỗ đều tựa hồ có thể nghe thấy, treo trong trời đêm, ẩn ẩn run rẩy……
Trên trời, ánh trăng cũng không đành lòng nhìn xuống, đành gắt gao nhắm mắt lại.
Bóng đêm tối đen như mực.
So với sự huyên náo hỗn độn trong thành Hán Bảo, đại doanh Bắc Mạc đóng ở ngoài thành ngược lại có chút yên tĩnh. Trong đại nội quân trướng, ánh nến vẫn sáng, bên trong có khoảng năm sáu tướng lĩnh Bắc Mạc vây quanh trước cái bàn vuông, thấp giọng thảo luận vấn đề gì đó. Đứng đầu là một tướng quân thanh niên hờ hững không nói gì, chỉ cúi đầu xem bản đồ trên bàn, ánh nến nhảy múa, chiếu một bóng người thon dài sinh động ngả dài lên doanh trướng. Ngoài trướng đột nhiên truyền đến tiếng bước chân dồn dập, một viên tướng thân mặc áo giáp tiến vào, trầm giọng bẩm báo: “Tướng quân, tám vạn kỵ binh đã chuẩn bị xong, tức khắc có thể xuất phát, thỉnh tướng quân ra quân lệnh.”
Viên tướng trẻ tuổi ngẩng đầu lên, hơi hơi cắn khóe miệng, mặc dù có ý cười, lại vẫn không dấu được sát khí trên mặt, dĩ nhiên đó chính là Bắc Mạc chủ tướng Thường Ngọc Thanh.
Thường Ngọc Thanh mày kiếm khẽ nhếch lên, tầm mắt sắc bén đảo qua một lượt trên người các vị tướng xung quanh, lạnh giọng hỏi: “Vừa rồi nghe đều hiểu được chứ?”
Chư tướng cùng đồng thanh đồng ý, chỉ có phó tướng Khương Thành Dực có chút chần chờ, hắn do dự một lát rồi vẫn nói: “Tướng quân, mạt tướng –”
Thường Ngọc Thanh không đợi Khương Thành Dực nói hết, chỉ cười mà như không cười hỏi: “Làm sao vậy? Thành Dực cho rằng ta an bài có gì không ổn chăng?”
“Mạt tướng không dám,” Khương Thành Dực nói, nhìn nhìn sắc mặt của Thường Ngọc Thanh, vẫn là kính cẩn nói ra:“Mạt tướng chính là muốn đi theo ở bên cạnh tả hữu tướng quân, hơn nữa trước khi đi, nguyên soái cũng đã phân phó mạt tướng nhất thiết phải bảo đảm an toàn cho tướng quân.”
Thường Ngọc Thanh sớm biết nguyên soái cho Khương Thành Dực làm phó tướng vì muốn quản thúc mình, dọc đường đi nghe hắn lải nhải ở bên tai, trong lòng sớm đã thấy phiền toái không chịu nổi, khó khăn chịu đựng được đến lần này, hắn làm sao còn có thể để cho Khương Thành Dực tiếp tục ở lại bên mình được nữa, vì thế nhân cơ hội này đã sớm sửa lại kế hoạch, để cho Khương Thành Dực độc lĩnh một cánh quân, cách Thường Ngọc Thanh hắn càng xa càng tốt. Hiện lại nghe thấy Khương Thành Dực lại vẫn giữ luận điệu cũ, Thường Ngọc Thanh trong lòng thật ra rất tức giận, nhưng cũng không biểu lộ ra đến mặt, chỉ cười nói: “Thành Dực yên tâm, lần này ta sẽ không tự mình ra trận chém giết, không cần ngươi phải ở bên người hộ vệ, huống chi ngươi là phó tướng của tây lộ quân, cũng không phải đội trưởng đội thân binh của ta, sao có thể đem tinh lực đều đặt hết ở việc này được? Việc ngày mai quan hệ trọng đại, càng cần người thận trọng như ngươi đặc biệt xử lý, nhất thiết không thể để xảy ra điều gì sơ xuất!”
Khương Thành Dực còn muốn nói tiếp, đã thấy Thường Ngọc Thanh sắc mặt lạnh đi, buộc phải đem những lời vừa dâng lên đến miệng nuốt trở lại, đành nói: “Tuân lệnh!” Sau đó liền đi theo các viên tướng khác lĩnh mệnh lệnh ra khỏi doanh trướng, Thường Ngọc Thanh lúc này mới khẽ cười một tiếng, để cho thân binh khoác áo choàng, rồi ôm mũ trụ đi ra ngoài.
Ngoài trướng, thân binh đã sớm đem chiến mã và khiên của Thường Ngọc Thanh lại, Thường Ngọc Thanh tung người lên ngựa, ánh lửa chiếu lên khôi giáp của hắn bắn ra hào quang lưu ly lạnh như băng rồi hắt lên mặt, làm cho khuôn mặt tuấn lãnh của hắn tăng thêm ba phần hàn ý. “Thành Dực tướng quân”. Thường Ngọc Thanh gọi, Khương Thành Dực lập tức tiến đến, phủ phục dưới chân, bên tai nghe thấy giọng cười nhẹ: “Toàn bộ mười vạn binh mã bản tướng đều giao cả cho ngươi, nhớ rõ phải nhanh chóng thay mặt bản tướng đưa đại quân đến ngoài thành Thái Hưng nghe chưa!” Nói xong liền cười to hai tiếng, không đợi phản ứng của Khương Thành Dực, liền dẫn đội cận vệ phóng ngựa chạy như bay mà đi.
Ban đêm, Bắc Mạc chủ tướng Thường Ngọc Thanh lĩnh tám vạn kỵ binh biến mất trong bóng đêm dày đặc, mà “Mười vạn đại quân” Bắc Mạc vẫn nghỉ đêm trong doanh trướng ngoài thành Hán Bảo, chờ sẽ đi tới thành Thái Hưng hợp quân cùng với đại quân đông lộ Bắc Mạc.
Trong thành Hán Bảo, một vạn tướng sĩ Bắc Mạc tham gia công thành ban ngày vẫn còn đang phóng túng ……
Nương tựa vào tường thành phía Tây là một gian nhà thấp bé, cùng với một cái sân nhỏ hẹp. Mấy ngõ nhỏ quanh co đều xuyên qua đây giống như là một mạng nhện bị tàn phá. Ngôi nhà nhỏ này lười biếng đứng trên mặt đất như chống đỡ không nổi cái khung xương của mình.
Mười mấy tên lính Bắc Mạc giơ đuốc hùng hùng hổ hổ theo ngõ nhỏ đi qua, bọn họ hiển nhiên đối với thu hoạch của mình thực không hài lòng.
“Lão đại, cửa ngôi nhà này bốn phía đều mở toang, xem ra người đã sớm chạy hết rồi, ta có đi vào nữa hay không?”
“Đi vào cái rắm!” Đầu lĩnh Bắc Mạc mắng: “Đi đã bao nhiêu nhà rồi? Mụ nội nó, chẳng có cái gì đáng giá cả, đừng nói đến nữ nhân, ngay cả cái lông cũng chẳng tìm thấy được, coi như chúng ta không may, như thế nào đã chạy vội tới chỗ này!”
Thành Hán Bảo này chia làm hai khu vực, đông thành là phủ nha cùng phú hộ ở, tây thành là nơi những hộ bình dân sinh sống, mà nơi giáp với tường thành phía tây này là nơi ở của tầng lớp dân chúng cùng khổ nhất. Ngày thường không lo nổi ba bữa cơm thì trong nhà lấy đâu ra vàng bạc châu báu mà tích trữ. Mấy tên lính Bắc Mạc hướng tới nơi này để cướp bóc, thật đúng là đến nhầm chỗ, khó trách liên tục hơn mười hộ cũng chưa cướp được cái gì, đến cuối cùng ngay cả nhấc chân phá cửa cũng không buồn làm.
Một tên lính Bắc Mạc giơ đuốc chỉ về phía đông thành bên kia hô: “Lão đại, ngươi xem bên kia rất náo nhiệt, hay là chúng ta cũng qua bên đó đi!”
Tên đầu mục kia rõ ràng cũng động tâm, ngẩng đầu nhìn về phía đông thành, không gian bên ấy có chút ánh đỏ sậm, lại nhìn lũ huynh đệ, vung tay lên nói: “Đi, các huynh đệ, muốn đi thì đi cho nhanh, bằng không chậm trễ thì ngay cả nước canh cũng chẳng đến lượt huynh đệ chúng ta!”
Mọi người đều lên tiếng đáp ứng, rồi hướng về phía đông thành chạy đi. Ánh lửa theo tiếng bước chân hỗn độn dần dần đi xa, tất cả lại chìm trong bóng tối. Ngay tại bên trong cánh cửa mở rộng, A Mạch phải mất nửa ngày tim mới đập chậm lại, dỏng tai nghe ngóng một hồi, rồi mới thật cẩn thận từ trong góc tường chất đầy những vật tạp nham bò ra, cố không lau những vết tro bụi trên mặt, chỉ ngồi phịch xuống rồi thở phào một hơi.
Binh pháp có câu: Hư tức là thực, thực tức là hư. Nếu không phải chính mình cố tình mở rộng cửa ngôi nhà, lại đem đồ vật bên trong xô loạn lên, khó bảo đảm được đám lính Bắc Mạc kia sẽ không tiến vào lục soát, lúc đó thì cái mạng nhỏ của mình còn có thể giữ được sao?
A Mạch không nghĩ tới chính mình có thể sống mà từ trên tường thành nhảy xuống dưới. Đầu tiên là đội lại cái mũ có dính mũi tên trên đỉnh mà trước đó đã dọa nàng sợ vỡ cả mật kia lên đầu, sau đó là giả chết, khổ sở chịu đựng được đến khi trời tối mới đi ra, lại thừa dịp bóng đêm trốn trong xóm nghèo này, tính ra lại vừa mới tránh được một kiếp, thời gian không đến một ngày ngắn ngủn, nàng đã đảo qua quỷ môn quan đến mấy lần.
Nằm ngửa mặt trên đất, A Mạch nhìn bầu trời đêm vẫn đầy những ngôi sao lấp lánh như trước, không khỏi cảm thán trong lòng, sinh lực của nàng đúng là không phải ương ngạch một cách bình thường a! Mẫu thân đã từng nói, nếu muốn có sinh lực cường đại, vậy thì phải chịu được những nỗi khổ mà người khác không thể chịu được, chuyện này cùng với những nỗi gian truân khác nàng đều có thể chịu đựng được, thì nàng còn sợ cái gì nữa? Có lẽ, nàng căn bản không cần lo lắng cho chính sinh mệnh của mình, nếu ông trời muốn thu nhận nàng, thì đã sớm nên thu nhận từ bốn năm trước. Nếu như bốn năm trước, ngay cả ông trời cũng không tiếp đãi nàng, thì sẽ không bao giờ có cái gì lấy được sinh mạng của nàng.
A Mạch khóe miệng khẽ nhếch lên, lộ ra một nụ cười bất đắc dĩ, ôi chao, cảm giác đói khát lại tới nữa rồi, còn tưởng rằng cơn đói đã qua đi thì sẽ không biết đói nữa chứ. A Mạch thở dài, đứng lên hướng vào trong phòng sờ soạn, không biết chủ nhân nơi này còn lưu lại chút đồ ăn nào không, cho dù không có chút thịt, thì chắc cũng phải còn chút xương chứ? A Mạch trong đầu nghĩ lung tung, rón ra rón rén sờ soạn trong phòng, người nghèo khổ chẳng phân biệt được cái gì là phòng bếp hay phòng ngủ, phần lớn là ngủ ở gian trong, gian ngoài nấu cơm, nếu có ăn cơm thì cũng là ăn ở nhà chính. Sờ soạng nửa ngày, A Mạch mới chạm đến được nửa cái bánh bột ngô ở trong nồi. A Mạch trong lòng vui vẻ, thầm nghĩ ông trời quả nhiên là không định bỏ ta chết đói, cũng không buồn xem cái bánh còn có thể ăn được nữa hay không, cứ thế đưa lên miệng cắn một miếng. Bánh bột ngô vừa đưa đến miệng, động tác của A Mạch lập tức cứng lại, thẳng tắp nhìn đống củi bên cạnh bếp.
Đống củi kia đang run run!
Một cái đầu người nho nhỏ nhô lên qua đống củi, lộ ra một khuôn mặt đen nhẻm, chẳng phân biệt được gì, chỉ có một đôi con ngươi sáng trong đang nhìn A Mạch chằm chằm không chớp.
Lưng A Mạch như có một cơn gió lạnh buốt luồn vào, tóc gáy lập tức đều dựng đứng cả lên. A Mạch rất muốn hô to một tiếng “Quỷ!” Sau đó sẽ chạy bán sống bán chết ra ngoài, nhưng nàng đã bị dọa cho sợ đến cực điểm, tứ chi không còn tuân theo sự khống chế của đầu óc, phản ứng kia ở trong đầu nàng loáng một cái liền biến mất, nàng thứ nhất là không thét chói tai, thứ hai là không chạy trốn, mà chỉ kinh ngạc đưa nửa cái bánh bột ngô ra, hỏi: “Ngươi — ăn không?”
Mọi người nói, người dọa người, hù chết người, kỳ thật, người dọa quỷ, cũng có thể hù chết quỷ.
Con “Quỷ” kia đột nhiên bị hành động ngoài dự đoán của A Mạch dọa, sau một hồi sửng sốt đột nhiên há to miệng, lộ ra một hàm răng trắng bóc đối lập với diện mạo đen đúa, hét lên: “A –”
Nói thì chậm mà xảy ra thì nhanh, ngay khi tiếng “A” vừa mới thành hình còn chưa kịp ra khỏi miệng, A Mạch đã đem cái bánh bột ngô nhét vào miệng “Quỷ”, vì thế tiếng “A” lập tức chuyển thành tiếng “Ô ô”. Thanh âm mềm mại như thế nhất định là “Nữ quỷ”!
A Mạch một tay bịt chặt miệng “Nữ quỷ”, một tay đè bả vai của nàng xuống, thấp giọng quát: “Kêu la cái gì? Định gọi lính Bắc Mạc tới mới cam tâm à?”
Lời này vừa nói ra, “Nữ quỷ” kia lập tức ngừng giãy dụa, trong mắt đầy lệ nhìn A Mạch một cách tội nghiệp.
A Mạch thấp giọng nói: “Ta cũng là người Nam Hạ, vì trốn thát tử Bắc Mạc nên mới đến nơi này ẩn nấp, bọn họ hiện tại đang ở bên ngoài cách đó không xa, nếu để bọn chúng phát hiện thì chúng ta ai cũng không sống được! Ngươi đừng lên tiếng, ta sẽ buông tay.”
“Nữ quỷ” kia gật gật đầu, A Mạch thử thăm dò buông lỏng tay ra một chút, quả nhiên “Nữ quỷ” kia không tiếp tục kêu nữa, lúc đó mới hoàn toàn buông tay ra, đặt mông ngồi xuống dưới đất, thở hắt ra. Nàng hiện tại không sợ người cũng không sợ quỷ, chỉ sợ gây ra động tĩnh gì sẽ khiến bọn lính Bắc Mạc quay trở lại.
A Mạch trì hoãn nửa ngày mới khiến cho tim đập bình thường, lập tức lại cảm thấy cơn đói khát ập tới, quay đầu nhìn “Nữ quỷ”, liếc mắt một cái, đem miếng bánh bột ngô ở trong miệng “Nữ quỷ” lôi ra, lấy tay vỗ vỗ lại thổi thổi hai cái, cũng không để ý tới ánh mắt kinh hãi của “Nữ quỷ” kia, ngoạm xuống hai, ba miếng liền đem hết nửa cái bánh bột ngô nhét vào trong miệng, dùng sức nuốt xuống.
Bánh bột ngô vốn rất khô, hơn nữa A Mạch suốt cả một ngày đến một giọt nước còn chưa được uống, nên một miếng vừa nuốt xuống liền nghẹn thắt ở cổ. Nàng vỗ thật mạnh lên ngực mình, nhưng không có hiệu quả gì, mắt thấy sẽ nghẹn đến ngạt thở, A Mạch trong lòng có chút bi ai, trải qua bao nhiêu cửa ải, không thể ngờ được cuối cùng sẽ chết vì một miếng bánh bột ngô. Nếu ở thế giới bên kia cha mẹ mà biết được, phải chăng bọn họ sẽ cười mình đến chết mất?
Chương 4
Thiệu Nghĩa
“Khụ — khụ –” A Mạch bên này hết vuốt cổ lại đấm ngực, “Nữ quỷ” bên kia hết trợn mắt lại há hốc mồm mà nhìn. Trong giây lát, cuống quít chui ra khỏi đống củi, luống cuống tay chân múc một bầu nước đem lại, rồi nâng A Mạch dậy, vội vã đổ nước vào miệng nàng, một tay vỗ thật mạnh vào lưng A Mạch.
Đến khi hết nửa bầu nước, miếng bánh trong họng A Mạch mới trôi xuống, nàng bị nghẹn đau tức hết cả ngực, trên mặt nước mắt ngắn, nước mắt dài đã sớm chảy xuống.
“Cám ơn ngươi.” A Mạch nói nghèn nghẹt trong cổ họng, giọng nàng vốn đã hơi trầm, vừa rồi lại bị miếng bánh bột ngô vốn bột chưa được xay kỹ làm tổn thương yết hầu, khiến cho thanh âm của nàng càng thêm khàn khàn.
“Nữ quỷ” kia vừa rồi nhất thời trong tình thế cấp bách, không nghĩ tới cái gì là nam nữ thụ thụ bất thân, nay nhìn đến A Mạch đã không việc gì, lúc này mới nhớ tới tư thế của bản thân cùng với nam tử trẻ tuổi trước mặt quá mức thân mật, lập tức xấu hổ đến đỏ bừng cả mặt, cuống quít buông A Mạch ra, lui về phía sau hai bước, cúi đầu không dám nhìn A Mạch.
A Mạch từ khi mười lăm tuổi đã bắt đầu mặc nam trang. Cho đến bây giờ thần kinh so với dây thừng, phẩm chất cũng đã sớm không còn sai biệt lắm, làm sao không đoán ra được tâm tư của tiểu cô nương này? Còn tưởng rằng nàng sợ mình, liền dùng ống tay áo lau lau mặt, hướng về phía tiểu cô nương hắc hắc cười hai tiếng.
Nàng không cười còn tốt, nàng cười xong, tiểu cô nương lại tiếp tục lui về phía sau hai bước.
Xem tiểu cô nương kia đã bị mình dọa thành như vậy, A Mạch chẳng biết nên làm thế nào, lại nhếch miệng cười cười. Hai người đều trở nên trầm mặc, tiểu cô nương kia thấy A Mạch cũng không có hành vi nào vô lễ, lá gan mới lớn thêm một chút, nghe thấy bụng A Mạch đã đói đến mức réo ầm ĩ, tiểu cô nương lẳng lặng đứng dậy quay trở lại góc bếp, sờ soạng một hồi, rồi đưa cho A Mạch một túi nhỏ nằng nặng.
A Mạch chần chờ nhận lấy, vừa mở ra, nhìn vào bên trong, không khỏi vừa mừng vừa sợ, bên trong là năm chiếc bánh bao thơm nức. Nàng có chút không dám tin, hỏi lại: “Cho ta?”
Tiểu cô nương gật gật đầu, sợ A Mạch lại nghẹn giống như vừa rồi, liền đi lấy một bầu nước đem lại đưa cho A Mạch. A Mạch ngượng ngùng cười cười, cúi đầu nhìn mấy chiếc bánh bao trắng như tuyết, có chút luyến tiếc, không biết đã bao lâu rồi nàng chưa được nếm qua một chiếc bánh bao trắng nõn như thế này. Hiện tại hương vị ngọt ngào ấy lại thổi đến, nước bọt trong miệng lập tức trào ra. Nàng ngẩng đầu liếc mắt nhìn tiểu cô nương một cái, không nói nhiều hơn một lời cảm tạ, liền cúi đầu xuống ăn ngấu nghiến như hổ như sói. Đến khi cái bánh bao thứ ba chui vào trong bụng, động tác của A Mạch mới chậm lại, cầm cái bánh thứ tư trong tay, đang định đưa lên miệng, đột nhiên nhớ ra người ta cho mình tất cả cũng chỉ có năm cái bánh bao, sao mình đều có thể ăn hết được, nghĩ vậy lại lưu luyến đem cái bánh thả lại trong bao quần áo gói kỹ lại, cúi đầu nói: “Cám ơn”.
Ngoài cửa có ánh sáng rọi vào, chiếu trên người có chút loang lổ, A Mạch lúc này mới cẩn thận đánh giá vị tiểu cô nương kia. Chỉ thấy nàng dáng người tinh tế, nhiều lắm cũng chỉ khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, trên mặt dường như dính nhọ nồi, đen như mực nhìn không rõ lắm, chỉ thấy một đôi mắt hắc bạch phân minh, ánh mắt thật là linh động.
Tiểu cô nương mà A Mạch đang vụng trộm ước đoán này tên là Từ Tú Nhi. Trong nhà chỉ có hai phụ tử sống nương tựa lẫn nhau. Hai ngày trước, phụ thân nàng bị quan phủ buộc đi thủ thành, cho tới bây giờ vẫn chưa thấy trở về. Về sau khi lính Bắc Mạc công thành, hàng xóm bốn bề đều đã chạy tan tác. Từ Tú Nhi vốn cũng định đào tẩu theo, nhưng lại sợ phụ thân trở về tìm không thấy mình, nên cũng không dám bỏ nhà đi. Bên ngoài, quân lính Bắc Mạc ra sức đánh giết đốt phá, Từ Tú Nhi trốn ở trong bếp đã sớm bị dọa cho sợ đến mềm nhũn cả người. Khi A Mạch sờ soạn trong nhà bếp, nàng còn tưởng là ác nhân, sợ tới mức cả người phát run, suýt nữa thì phát khóc. Giờ thấy A Mạch một chút cũng không có ý xâm phạm mình, hơn nữa ngôn ngữ có chút ôn nhu giữ lễ, mặc dù cảm thấy cùng một nam tử xa lạ ở chung trong phòng tối thực không ổn, nhưng lại có chút vững tâm trở lại, chứ không giống như vừa rồi chỉ có một mình phấp phỏng, sợ hãi.
Bên ngoài truyền đến tiếng binh lính Bắc Mạc hò hét từ xa vọng lại, Từ Tú Nhi trong lòng sợ hãi, không tự chủ được nhích lại gần A Mạch. A Mạch thấy nàng nhu nhược đáng thương, liền nhẹ giọng an ủi: “Đừng sợ, nơi đó cách chỗ này còn xa, ở đây chỉ là một gian phòng rách nát, phỏng chừng bọn họ sẽ không đến đâu.”
Vừa dứt lời chợt nghe thấy bên ngoài có tiếng người kêu lớn: “Ở bên kia, mau đuổi theo!” Ngay sau đó là tiếng hò hét càng ngày càng đến gần, dường như hướng về căn nhà này.
A Mạch trong lòng cả kinh, kéo Từ Tú Nhi chạy vào trong viện, định nấp trở lại chỗ ẩn thân vừa rồi, thân ảnh vừa vặn mới ra đến cửa phòng liền ngây ngốc ở đó, ngoài ngõ nhỏ sớm đã là ánh lửa lập lòe, hơn mười tên lính Bắc Mạc đuổi theo một viên tướng Nam Hạ ôm theo một đứa trẻ mới sinh đã đến cửa ngôi nhà.
Đến nhanh vậy sao! Hiện tại muốn trốn đã không còn kịp nữa rồi.
Trong ánh lửa chiếu rọi, A Mạch cảm thấy nam nhân bị đuổi giết kia có chút quen mắt, nhìn kỹ lại, hóa ra chính là tên giáo úy mà mình đã gặp khi mới đến thành Hán Bảo.
Đường Thiệu Nghĩa một tay bế đứa trẻ, một tay múa kiếm, vừa đánh vừa lui, vì chỉ né tránh nên thập phần bất tiện, tình thế đã là cực kỳ nguy hiểm. Khóe mắt của hắn bắt gặp A Mạch đang ngây ngốc đứng ở cửa, liền dùng sức đánh văng một tên lính Bắc Mạc ra, xoay người tung cái bọc vào lòng A Mạch, lớn tiếng quát: “Vào nhà!”
Thân thể A Mạch rung lên, trong lòng đã xuất hiện một đứa trẻ khóc oa oa. Trong lúc bối rối không kịp nghĩ nhiều, liền túm lấy Từ Tú Nhi lui về phòng trong, gắt gao đóng cửa lại. Đường Thiệu Nghĩa trong tay không còn trẻ con làm vướng bận, kiếm khí lập tức chói lòa, trong nháy mắt đã chém chết hai, ba tên lính Bắc Mạc. Đám lính Bắc Mạc bức bách khiến cho kiếm phong của Đường Thiệu Nghĩa không thấu được đến trước cửa. Không biết ai đó hô một tiếng “Phóng hỏa!”, lập tức có mấy cây đuốc ném vào trong phòng, Đường Thiệu Nghĩa vung kiếm đánh rơi mấy cây, nhưng vẫn còn một cây đuốc rơi trúng vào cửa sổ.
Cửa sổ dán giấy liền nhanh chóng bắt lửa, ngọn lửa lập tức quấn lấy song cửa sổ, khói đặc tỏa vào trong phòng. A Mạch trong lòng không ngừng kêu khổ, xem tình hình hiện tại, lũ lính Bắc Mạc hiển nhiên không muốn bắt sống, giờ mà chạy ra nhất định sẽ bị loạn đao chém chết, nhưng nếu không chạy thì ngọn lửa cũng sẽ thiêu cháy căn phòng này, cho dù không thành “Vịt nướng” thì cũng bị khói hun chết. A Mạch cúi đầu, nhìn đứa nhỏ trong lòng đã khóc không thành tiếng, cắn răng một cái đưa đứa nhỏ cho Từ Tú Nhi, rồi xoay người nhảy vọt vào làn khói đặc cuồn cuộn trong buồng trong, một lát sau quay lại, trong tay đã cầm một chiếc chăn bông cũ nát. A Mạch không giải thích nhiều với Từ Tú Nhi, vọt tới vại nước rồi nhúng chiếc chăn bông vào đó cho đẫm nước, rồi quay đầu hướng về phía Từ Tú Nhi hô: “Lại đây! Nhanh lên!”
Từ Tú Nhi cuống quít ôm đứa nhỏ chạy lại, A Mạch đem cái chăn ướt đẫm trùm lên ba người, thầm nghĩ kéo dài được chừng nào tốt chứng ấy! Hy vọng nam nhân bên ngoài kia đủ lợi hại có thể xử lý hết sạch lũ lính Bắc Mạc, bằng không thì chính mình cũng thật sự biến thành vịt nướng. Lại thấy Từ Tú Nhi bên cạnh thân thể không ngừng run rẩy, A Mạch vội đón lấy đứa nhỏ, cười cười, nói: “Đừng sợ! Nhà này bốn vách tường đều trống không, cũng chưa chắc đã bén lửa được, một hồi sẽ tự tắt thôi!”
Chịu đựng được một lúc, hai người chỉ cảm thấy bốn phía nhiệt độ càng ngày càng cao, không khí cũng càng ngày càng ít đi, A Mạch thầm nghĩ lúc này thật đúng là xong rồi, nếu phải chết cháy ở trong này, không bằng ra bên ngoài chịu một đao còn thống khoái hơn, liền hướng về phía Từ Tú Nhi hô:“Đi, chúng ta lao ra đi!”
Từ Tú Nhi lắc lắc đầu, khóc nói: “Chân ta đã nhũn ra rồi, không động đậy nổi nữa.”
A Mạch miệng mắng hai câu, đội chăn lên đỉnh đầu, một tay bế đứa nhỏ, một tay kéo Từ Tú Nhi hướng ra cửa, mới vừa đi được hai bước, cánh cửa đã bị người bên ngoài phá bung ra, cái chăn trên đỉnh đầu chăn lập tức bị kéo xuống, Đường Thiệu Nghĩa toàn thân là máu đứng ở trước mắt, trong ánh lửa càng giống như quỷ Tu La dưới địa ngục. Hắn đoạt lấy đứa nhỏ trong lòng A Mạch, liếc mắt nhìn A Mạch cùng Từ Tú Nhi một cái, đem Từ Tú Nhi xốc lên vai, xoay người phóng đi. A Mạch thấy hắn không nhìn ngó gì đến mình, cũng không buồn mắng hắn vong ân phụ nghĩa, theo hắn chạy ra khỏi phòng.
Ba người vừa vọt ra tới sân, chỉ nghe thấy âm thanh rầm rầm phía sau, ngôi nhà đã bị lửa thiêu cháy, đổ sụp xuống.
A Mạch đặt mông ngồi phịch xuống đất, nhìn ánh lửa ngút trời đến ngẩn cả người, trong lòng sợ hãi, nếu chậm một chút nữa thôi thì chỉ sợ bản thân mình đã táng mệnh trong biển lửa. Từ Tú Nhi bị Đường Thiệu Nghĩa thả xuống, cũng hoảng sợ xụi lơ trên mặt đất, một lúc sau nàng mới nhìn rõ bốn phía đều là thi thể của binh lính Bắc Mạc nằm la liệt, sợ tới mức hét lên một tiếng, nhào vào trong lòng A Mạch. A Mạch vốn định đứng dậy, mông vừa rời đất không đến hai thước(1) đã bị Từ Tú Nhi nhào đến, mông lại rơi bịch xuống đau điếng khiến A Mạch nhe răng há miệng hít hà một hơi dài. Nhìn thấy Từ Tú Nhi còn ở trong lòng mình la thét chói tai, rơi vào đường cùng đành phải cứng rắn bịt kín miệng nàng lại, thấp giọng an ủi nửa ngày mới làm cho Từ Tú Nhi an tĩnh.
Đứa nhỏ trong lòng Đường Thiệu Nghĩa vẫn khóc lớn, không biết là bị sặc khói hay là chịu hoảng sợ quá lớn. Trong lòng Từ Tú Nhi bắt đầu trào dâng lên bản năng nguyên thủy của loài người – tình mẫu tử, nên không đành lòng để đứa nhỏ khóc lên khóc xuống, đi đến bên cạnh Đường Thiệu Nghĩa nhẹ giọng nói: “Quân gia, để ta bế đứa nhỏ đi, cứ khóc mãi như vậy không tốt.”
Đường Thiệu Nghĩa đang bị tiếng khóc của đứa nhỏ này làm cho choáng váng cả đầu óc, nghe vậy liền đưa cho Từ Tú Nhi. Nói đến cũng lạ, khi đứa nhỏ kia được Từ Tú Nhi ôm vào lòng quả nhiên liền nín khóc, chỉ tròn mắt nhìn Từ Tú Nhi, Từ Tú Nhi vừa mừng vừa sợ, nhịn không được quay đầu về phía A Mạch nói: “Ngươi xem, đứa nhỏ này rất đáng yêu nha!”
A Mạch cũng thấy kỳ quái, đứng dậy đến bên Từ Tú Nhi nhìn đứa nhỏ, thấy nó bất quá chỉ là một hài tử mũm mĩm chừng tám, chín tháng, trên người quần tã được làm từ chất liệu tinh tế, vừa thấy liền biết không phải con nhà bình thường. A Mạch quay đầu liếc mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa một cái, thấy hắn có chút đăm chiêu nhìn về phía bên này, giật mình, nương người đến gần đứa nhỏ, ghé vào bên người Từ Tú Nhi thấp giọng nói: “Đem đứa nhỏ trả lại cho hắn, chúng ta nhanh chóng rời khỏi nơi này thôi.”
Từ Tú Nhi sửng sốt, mê hoặc nhìn về phía A Mạch, mặc dù không biết A Mạch vì sao lại làm vậy, nhưng trải qua nửa đêm ở chung, trong lòng sớm đã cực kỳ tín nhiệm A Mạch, hiện tại nghe A Mạch nói như vậy, chính là thoáng ngẩn người, rồi cũng không hỏi nhiều, liền đưa đứa nhỏ trả về cho Đường Thiệu Nghĩa: “Quân gia, đứa nhỏ này trả lại cho ngài.”
Không ngờ Đường Thiệu Nghĩa không đón lấy mà mày kiếm cau lại, lạnh giọng nói: “Người Bắc Mạc rất nhanh sẽ tìm đến, nơi này không thể ở lâu được.” Nói xong đi đến cởi quân phục trên thi thể mấy tên lính Bắc Mạc, ném một bộ cho Từ Tú Nhi, ra lệnh: “Chạy ra đằng kia mặc vào, nhanh lên!”
A Mạch thấy quả nhiên không ngoài dự liệu của chính mình, người này thấy đứa nhỏ ở trong lòng Từ Tú Nhi thì nín khóc, liền muốn để Từ Tú Nhi ôm đứa nhỏ thay hắn, vừa rồi có nhiều lính Bắc Mạc đuổi giết hắn như vậy, chỉ sợ Từ Tú Nhi theo hắn ra ngoài thì có tới tám chín phần mười là không hay ho. Bình thường A Mạch sẽ không nhàn rỗi mà quản những việc như thế này. Nhưng hôm nay, Từ Tú Nhi từng cứu mình một mạng, nàng thật sự không thể trơ mắt nhìn nàng ấy theo nam nhân này ra ngoài mà chịu chết, chỉ phải cố lấy dũng khí gượng cười nói: “Vị tướng quân này, tiểu muội tử của ta không có công phu gì, theo tướng quân ra ngoài chỉ sợ sẽ liên lụy đến tướng quân. Ta thấy ngài vẫn là nên thừa dịp quân lính Bắc Mạc còn chưa đuổi tới đây mà nhanh ôm đứa nhỏ chạy đi thôi, chúng ta quyết sẽ không nói lộ ra ngài đi về hướng nào.”
Từ Tú Nhi cũng nói: “Đúng vậy, tướng quân, ta không thể đi theo ngài, ta còn phải ở chỗ này chờ cha ta trở về, cha ta cũng là quân nhân đi thủ thành.”
_______________________________________________________________
(1) hai thước: 1 thước chừng 20cm, 2 thước khoảng 40cm
Chương 5
Sợ chết
Đường Thiệu Nghĩa cũng đã nhận ra A Mạch, nhìn nàng một cái rồi cười lạnh nói: “Ngươi căn bản không phải là người ở địa phương này, làm sao lại có muội tử ở đây?” Rồi quay đầu hướng về phía Từ Tú Nhi nói: “Khi thát tử Bắc Mạc công thành, tướng sĩ Nam Hạ của ta chết vô số, sau khi phá thành, bọn chúng lại ra tay giết hại tướng sĩ bốn phía, ngay cả hàng binh cũng đều bị chúng giết sạch, cha nàng chỉ sợ đã sớm không còn ở trên đời này nữa, nàng có ở lại đây cũng không đợi được ông ấy đâu!”
Đường Thiệu Nghĩa vừa dứt lời, Từ Tú Nhi kêu lên một tiếng bi thảm, thân thể mềm nhũn ngất đi. A Mạch một tay đỡ nàng, một tay đỡ đứa trẻ trên tay, trong lòng sợ hãi than thầm nha đầu kia sao cảm tình lại yếu đuối đến vậy? Rồi quay đầu hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa cả giận nói:“Nàng chỉ là một nữ tử, không oán không cừu với ngươi, ngươi làm gì mà phải ăn nói tàn nhẫn như vậy? Không nên cắt đứt tia hy vọng cuối cùng của nàng như thế!”
Đường Thiệu Nghĩa đón lấy đứa nhỏ trong tay A Mạch, đứa trẻ vừa vào tay hắn lập tức lại lớn tiếng khóc. Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa hiện lên một tia bi thống, nhưng ngay lập tức lại trở nên kiên nghị, rồi lạnh giọng nói: “Ta cũng không gạt các ngươi nữa, đứa nhỏ này là con trai độc nhất của thủ thành Lưu đại nhân. Lưu đại nhân một nhà đều đã tuẫn tiết vì nước, ta dù gì cũng phải thay ông ấy bảo vệ huyết mạch cuối cùng này, hôm nay nàng ấy phải giúp ta đem đứa nhỏ này mang ra khỏi thành, nếu không…” Đường Thiệu Nghĩa dừng lại uy hiếp nói: “Cũng đừng trách ta không khách khí.”
A Mạch thấy hắn nói như thế, biết hôm nay bản thân mình cùng Từ Tú Nhi không có khả năng đào thoát, cũng không nhiều lời vô nghĩa, cúi đầu lấy tay ấn vào huyện nhân trung của Từ Tú Nhi, một lúc sau Từ Tú Nhi mới từ từ tỉnh lại, mở to mắt liếc nhìn A Mạch một cái, lại bắt đầu òa lên khóc.
A Mạch bị tiếng khóc của nàng làm cho tâm phiền ý loạn, lập tức bắt đầu hoài niệm bộ dạng im lặng vừa rồi của nàng ấy ở trong lòng mình. Bất quá A Mạch trong lòng mặc dù nghĩ như vậy, nhưng ngoài miệng lại tự động ôn nhu khuyên nhủ: “Đừng khóc, khóc cũng vô dụng, phải cố gắng sống sót thì phụ thân nàng nếu có xuống hoàng tuyền mới cảm thấy được an ủi. Mà biết đâu lại không có chuyện gì xảy ra với cha nàng thì sao? Ta cũng ở trên bức tường đó tham gia thủ thành nhưng vẫn còn sống mà trở xuống đấy thôi. Chúng ta trước hãy rời khỏi nơi này, chờ sau khi chiến loạn qua đi rồi trở về tìm kiếm phụ thân của nàng sau.”
Từ Tú Nhi cũng là một nữ tử kiên cường, chỉ cúi đầu khóc nức nở một lát rồi chậm rãi ngừng lại. Bên kia, Đường Thiệu Nghĩa đã thay xong một thân quân phục của lính Bắc Mạc, ném hai bộ tới, nói: “Mặc vào, nhanh lên.”
A Mạch cầm bộ y giáp Bắc Mạc trên tay, quay đầu nhìn Từ Tú Nhi đang cố gắng vận bộ giáp lên người, nghĩ nghĩ một chút rồi lên tiếng ngăn nàng lại: “Nàng không cần mặc, nàng cứ giữ nguyên như thế này là tốt rồi, tựa như đàn bà xuất giá là được.” Thấy Từ Tú Nhi cùng Đường Thiệu Nghĩa đều nghi hoặc nhìn mình, A Mạch giải thích: “Tú Nhi dáng người nhỏ gầy, có mặc quân phục vào cũng không giống lính Bắc Mạc, ngược lại càng khiến người ta hoài nghi, không bằng đóng giả một người phụ nữ có gia đình bế con, hai chúng ta liền giả dạng làm hai tên lính Bắc Mạc đốt nhà, giết người, cưỡng đoạt phụ nữ, nếu gặp đại quân Bắc Mạc tự nhiên sẽ không quản chúng ta, nếu chỉ gặp vài tên thì cũng có thể che dấu mà qua.” Trong mắt Đường Thiệu Nghĩa rõ ràng hiện lên một tia không tình nguyện, hiển nhiên là đối với loại nhân vật mà A Mạch an bài cho hắn không được vừa lòng lắm. Từ Tú Nhi nghe A Mạch nói thế cũng đỏ bừng mặt. Bất quá trong tình thế hung hiểm như thế này cũng không suy nghĩ nhiều, Từ Tú Nhi y lời A Mạch đem quân phục vừa mặc được một nửa cởi ra, cuộn tóc lại búi thành một búi trên đầu như người phụ nữ đã kết hôn. Ba người sau khi cải trang xong cũng không dám ở lại nơi này lâu, Từ Tú Nhi thì bế đứa nhỏ, A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa thì một trái một phải đỡ nàng đi.
Đứa nhỏ khóc nửa ngày đã thấm mệt từ lâu, chưa đi được xa đã ngủ gục trong lòng Từ Tú Nhi. Thừa dịp bóng đêm, ba người men theo ngõ nhỏ u ám hẻo lánh mà đi. Trên đường vài lần gặp quân lính Bắc Mạc tụ tập, cũng may Từ Tú Nhi đã sống ở nơi này từ lâu, nghe thấy động tĩnh từ xa liền kéo mọi người đi sang con ngõ khác, nhiều lần thoát khỏi hiểm nguy.
Sắc trời dần sáng, ba người chui ra khỏi ngõ nhỏ, đi vào ngã tư rộng lớn hướng ra cửa thành. Chỗ này từng là nơi phồn hoa nhất của thành Hán Bảo, vốn trước hai bên đường không thiếu gì cửa hàng, cửa hiệu, nay chỉ còn lại có một đống đổ nát thê lương. Trên đường rải rác thi thể của binh lính Nam Hạ chết trận, những phiến đá dưới chân đã sớm sũng ướt máu tươi. Trên đường đi, A Mạch chỉ cảm thấy dưới chân dẫm lên trơn trượt.
Nhưng Từ Tú Nhi thì đã sớm mềm nhũn cả chân, toàn thân dựa vào A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa ở hai bên mà đi. Mắt thấy cửa thành càng ngày càng gần, A Mạch trong lòng cũng dần khẩn trương, chỉ cần ra đến cửa thành kia là sẽ thoát khỏi cái địa ngục trần gian này. Ba người đường đường chính chính đi tới, Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên dừng cước bộ, thấp giọng nói:“Ngoài thành có người đến !”
A Mạch trong lòng cả kinh, ngay sau đó cũng nghe đến tiếng vó ngựa dồn dập từ ngoài thành vọng đến, áp lực sợ hãi trong lòng nàng đã đến cực hạn, rốt cuộc không chịu nổi, theo bản năng đã muốn xoay người chạy trốn, lại bị Đường Thiệu Nghĩa giữ lại: “Bọn họ cưỡi ngựa, chạy không kịp đâu! Trốn trước rồi nói sau!” Nói xong liền dắt Từ Tú Nhi cùng A Mạch trốn ra phía sau bức tường đổ.
Thân mình bọn họ vừa ngồi xổm xuống, đám kỵ binh kia đã vào đến cửa thành, nghe tiếng vó ngựa thì nhân số dường như không dưới bốn, năm mươi người. Đám người kia sau khi vào thành cũng đi chậm lại, mặc dù nhân số không ít, nhưng không có một chút hỗn độn nào. A Mạch chỉ cảm thấy yết hầu nghẹn lại, trái tim cũng đập hối hả kinh hoàng, thân thể Từ Tú Nhi bên cạnh đã sớm run rẩy không ngừng, gắt gao nhắm mắt, cắn chặt môi dưới của mình, chỉ sợ khóc thành tiếng. A Mạch quay đầu nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa, thấy hắn híp mắt lại, tay đã đặt sẵn lên chuôi kiếm, chuẩn bị đến thời khắc sinh tử sẽ nhảy ra ngoài.
Ba người thống khổ chịu đựng, thình lình nghe thấy bên tai truyền đến một tiếng trẻ con khóc vang dội. A Mạch cúi đầu thì thấy đứa nhỏ kia không biết đã tỉnh dậy khi nào, bụng đói đã lâu nên òa khóc lớn. A Mạch trong lòng thầm rên một tiếng, tiểu tổ tông à, thế này không phải muốn lấy mạng mọi người sao! Tiếng vó ngựa trên đường quả nhiên dừng lại một chút, sau đó chợt nghe thấy chúng chạy về hướng này. A Mạch trong lòng quýnh lên, một phen kéo lấy Đường Thiệu Nghĩa bừng bừng sát khí đang muốn đứng dậy, lại đem đứa nhỏ cho Từ Tú Nhi ôm lấy, thấp giọng quát: “Nhanh lên, mau kêu khóc đi!”
Từ Tú Nhi sớm đã bị dọa cho choáng váng, may mắn nàng đã sớm hình thành phản xạ có điều kiện đối với mệnh lệnh của A Mạch, nghe A Mạch phân phó như thế, chẳng đợi cảm xúc nổi lên, há mồm “Oa” một tiếng khóc liền. A Mạch bất chấp Đường Thiệu Nghĩa đang kinh ngạc, ôm ghì lấy Từ Tú Nhi, cố ý xé rách một bên cổ áo của nàng, cười tà nói: “Tiểu mỹ nhân đừng khóc, để đại gia ta hảo hảo thương ngươi!”
Từ Tú Nhi lập tức bị cử chỉ khác thường của A Mạch dọa cho choáng váng, trợn trừng mắt nhìn A Mạch, ngay cả khóc cũng quên mất. Trên mặt A Mạch mặc dù cười tà nhưng trong lòng lại âm thầm kêu khổ, thầm nghĩ nha đầu kia sao mà đầu óc trì độn thế, một chút cũng không biết phối hợp, như thế nào thì cũng phải vừa khóc vừa giãy dụa mới giống chứ. Nàng ta ngay cả giãy cũng không buồn giãy, thì mình còn biết diễn tiếp như thế nào đây? Không thể thật sự đem của quần áo của nàng ta lột cả xuống được! Nói gì thì nói, nha đầu kia dù không biết phối hợp, nhưng còn Đường Thiệu Nghĩa, tốt xấu gì cũng biết nàng đang diễn trò, như thế nào cũng không buồn phản ứng lại? A Mạch quay đầu, hướng về phía tên ngốc Đường Thiệu Nghĩa cười mắng: “Mẹ nó, tiểu tử nhà ngươi cũng không biết lại đây hỗ trợ ta một tay, một lúc nữa người khác nghe thấy đều lại đây, lúc đó thì còn biết phân chia –”
A Mạch còn chưa nói xong, đã cảm thấy bên hông căng thẳng, ngay sau đó liền thấy đất trời đảo lộn, thân thể bay lên không trung, đụng vào nửa bức tường đổ rồi ngã nhào xuống đất, đau đến nỗi thiếu chút nữa thì hôn mê bất tỉnh.
Lập tức tên tướng quân Bắc Mạc kia chậm rãi thu roi, sắc mặt lạnh lẽo dọa người, đúng là phó tướng Bắc Mạc quân Khương Thành Cánh bị Thường Ngọc Thanh thu xếp ở lại chỗ này. Sau khi phá thành quân lính không cần tuân theo quân kỷ là mệnh lệnh của Thường Ngọc Thanh, làm phó tướng, Khương Thành Cánh không có quyền sửa lại mệnh lệnh của chủ tướng. Nhưng hắn thật sự không thể trơ mắt nhìn lũ binh lính này ở trong thành đốt nhà, giết người, cưỡng hiếp phụ nữ được. Đêm qua phải trú lại ở ngoài thành nên đành phải nhắm mắt làm ngơ, vốn định buổi sáng vào thành sẽ trực tiếp chỉnh đốn lại. Ai ngờ vừa vào đến cửa thành liền bắt gặp tình cảnh như thế này lọt vào tầm mắt khiến hắn không thể chịu được.
A Mạch tay vịn thắt lưng chậm rãi ngẩng đầu, vừa lúc trông thấy bộ mặt xanh mét của Khương Thành Cánh, bị ánh mắt tràn ngập sát ý của Khương Thành Cánh làm cho hoảng sợ, nguyên lai nàng nghĩ rằng nhóm người này hẳn là không buồn nhìn đến hành vi của bọn họ mà tiếp tục phóng ngựa đi qua, dù sao loại chuyện như vậy ở trong thành Hán Bảo đâu đâu cũng có thể thấy được, nếu không phải cấp trên cố ý dung túng, thì đâu có chuyện cấp dưới lại sa đọa như thế. Nhưng hôm nay làm sao vậy? Như thế nào mà vẫn còn có một tên tướng quân Bắc Mạc gặp chuyện bất bình nhất định phải rút đao tương trợ vậy? Không cần tuân theo quân kỷ, chẳng phải mệnh lệnh này là do các ngươi ban ra sao? Có bao giờ kẻ trộm lại đi bắt kẻ trộm đâu?
Sau khi Khương Thành Cánh nhìn rõ khuôn mặt A Mạch cũng hơi kinh ngạc một chút, không nghĩ tới tướng mạo của tiểu binh này lại tuấn tú như thế. Tuy rằng quốc công Nam Hạ đã từng nói: “Phải đánh giá phẩm chất bên trong chứ không nên xem hình dáng bên ngoài”, khẩu hiệu này đã lưu truyền trong thiên hạ hơn hai mươi năm qua. Song đại đa số mọi người không tự giác được vẫn trông mặt mà bắt hình dong. Nếu hôm nay người quỳ rạp trên mặt đất là một khuôn mặt đồ tể đáng khinh, phỏng chừng Khương Thành Cánh không chút do dự mà lỗ mãng quất thêm roi thứ hai, nhưng hiện tại, Khương Thành Cánh cảm thấy chính mình không xuống tay được.
A Mạch cũng kinh ngạc ngửa đầu cùng Khương Thành Cánh nhìn nhau một lát, lập tức phản ứng lại, hiện tại không phải thời điểm cùng vị tướng quân mặc ngân giáp(1) dễ nhìn này luyện mắt, cuống quít bò lại túm Đường Thiệu Nghĩa quỳ rạp xuống đất, thất thanh kêu lên: “Tướng quân tha mạng! Tướng quân tha mạng!”
Khương Thành Cánh phục hồi lại tinh thần, trong lòng lại có chút tức giận không hiểu, lạnh lùng quét mắt nhìn A Mạch một cái, đề cương dục ngựa lên nhìn Từ Tú Nhi đến nay mặt vẫn còn dại ra, không khỏi dừng lại một chút, ôn nhu nói: “Vị nương tử này, ngươi mau ra khỏi thành nhanh một chút, không cần dừng lại ở trong này.”
Từ Tú Nhi nghe lời, run run đứng lên, bế đứa nhỏ lảo đảo hướng cửa thành chạy đi. A Mạch thấy nàng bị dọa thành như vậy, nhưng vẫn không quên đứa nhỏ, âm thầm nhẹ nhàng thở ra, chỉ cần nha đầu kia ôm đứa nhỏ ra khỏi thành, còn lại nàng cùng Đường Thiệu Nghĩa vẫn dễ hành động hơn.
Khương Thành Cánh đưa tầm mắt nhìn theo bóng dáng gầy yếu của Từ Tú Nhi, không khỏi lắc đầu, tình hình rối loạn như vậy, một nữ tử ôm theo một đứa trẻ thì làm sao có thể tồn tại được? Cho dù cứu được nàng lần này, nhưng còn có lần sau sao? Khương Thành Cánh lại lạnh lùng nhìn lướt qua A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa đang quỳ rạp trên mặt đất, lạnh giọng nói: “Lần này tạm thời tha cho các ngươi, quay về doanh trại lĩnh hai mươi côn.” Nói xong hừ lạnh một tiếng, dẫn mấy chục kỵ binh tiếp tục đi vào trong thành.
A Mạch hô to “Tuân lệnh”. Đến khi đám kỵ binh kia đi xa nàng mới vội vàng đứng lên, nói với Đường Thiệu Nghĩa: “Thừa dịp không có người, chúng ta mau chạy nhanh ra khỏi thành đi thôi!”
Đường Thiệu Nghĩa nét mặt bình tĩnh không nói lời nào, vung mạnh cánh tay hướng A Mạch đánh tới, một quyền chính giữa hai má, đem thân thể A Mạch lập tức đánh bay ra ngoài. A Mạch bị hắn đánh, không lau vết máu tươi đang chảy ra nơi khóe miệng, chỉ ngẩng đầu kinh ngạc nhìn Đường Thiệu Nghĩa.
________________________________________________________________
Chú thích:
(1) ngân giáp: giáp bạc
Chương 6
Đồng hành
“Đường đường là một đấng nam nhi thân cao bảy thước, lại vì sợ chết mà hóa ra cái bộ dạng như vậy!” Đường Thiệu Nghĩa mắng: “Ở trước mặt lũ thát tử làm nhục phụ nữ Nam Hạ, trước mặt kẻ địch làm trò hề như thế, ngươi vẫn còn là nam nhân sao?”
A Mạch lẳng lặng nhìn Đường Thiệu Nghĩa, chờ hắn mắng xong mới chống tay đứng dậy, dùng tay áo lau lau vết máu nơi khóe miệng, ngay cả liếc mắt cũng không thèm nhìn Đường Thiệu Nghĩa một cái, hướng về phía cửa thành đi thẳng. Khi đi qua Đường Thiệu Nghĩa thì bị hắn cầm cánh tay kéo lại.
“Buông ra!” A Mạch thản nhiên nói.
Đường Thiệu Nghĩa mày rậm dựng đứng, sắc mặt giận dữ nói: “Ngươi?”
A Mạch trên mặt lộ ra vẻ đùa cợt cười, nói: “Ngươi mắng đúng lắm, ta thực không phải là nam nhân, ta chỉ muốn sống. Ngươi là nam nhân, đầu đội trời, chân đạp đất nhưng ngươi vì cái gì mà vẫn sống đến tận bây giờ vậy?”
Đường Thiệu Nghĩa lập tức nghẹn họng, mặt đỏ bừng, trừng mắt nhìn A Mạch nói không ra lời. A Mạch cười nhạo một tiếng, hất tay Thiệu Nghĩa ra, ưỡn lưng đi thẳng ra cửa thành. Không sai, nàng sợ chết, nàng muốn sống, để sống sót, những trò hề khó chịu hơn thế này nàng đều đã từng làm, thì quỳ gối trước mặt người Bắc Mạc đã là gì đâu?
Ngày đó, mẫu thân nàng đã từng nói: A Mạch, nhanh chạy ra sau núi, con phải sống, nhất định phải sống! Kể từ ngày đó, nàng không còn là viên minh châu trong tay phụ thân, không còn là cô con gái bé bỏng, đáng yêu trong lòng mẫu thân, giờ nàng chỉ là một người con gái dùng vải bó ngực giả nam trang mà thôi. Không còn cái gì gọi là nguyên tắc hay hổ thẹn lương tâm nữa, mà chỉ có một thứ gọi là phải sống sót!
Không được khóc, phụ thân nàng đã từng nói, khóc là biểu hiện của kẻ yếu, cho nên, nàng không thể khóc.
Đường Thiệu Nghĩa chính là giận mình vô dụng nên mới đem cơn tức giận trút thành cái tát lên mặt A Mạch. Sau lại bị A Mạch nói vài câu, đầy bụng lửa giận lại tắt ngấm. Nhìn đến bộ dạng A Mạch như thế, trong lòng càng thêm hối hận vừa rồi mính đã xúc động quá mức, vài lần muốn đi lên nói vài câu, xong lại không biết phải nói gì, chỉ cúi đầu yên lặng theo sau A Mạch.
May là quân Bắc Mạc đánh vào trong thành chỉ lo cướp phá chứ cũng không tính chiếm giữ thành này lâu dài nên cửa thành chỗ nào cũng không có lính gác. Từ Tú Nhi ôm đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy ra khỏi thành. Đang muốn thở phào nhẹ nhõm, khi ngẩng đầu lên đã thấy lạnh cả tâm can, bên ngoài cửa thành chừng ba, bốn dặm, chỉ liếc mắt đã thấy không chỗ nào là không có doanh trại của quân Bắc Mạc? Chạy ư? Còn có thể chạy đi đâu được đây?
A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa một trước, một sau ra khỏi cổng thành. A Mạch thấy Từ Tú Nhi ngồi ở ven đường than thở, do dự một chút, vẫn là quyết tâm đi qua nàng. Vừa đi chưa được hai bước đã bị Đường Thiệu Nghĩa từ phía sau kéo lại, cả giận nói: “Tâm lượng tiểu tử nhà ngươi sao lại có thể hẹp hòi đến thế? Cho dù là ta đã trách nhầm người, ngươi cũng không nên như thế — ai? Ngươi còn khóc sao?” Đường Thiệu Nghĩa không ngờ đôi mắt A Mạch lại đỏ, cảm thấy vừa tức giận lại vừa buồn cười: “Nói ngươi không phải nam nhân ngươi còn phát hỏa. Có đại nam nhân khóc nhè như ngươi sao? Ta trách nhầm ngươi thì cùng lắm cho ngươi đánh lại, sao phải khóc như nữ nhân thế này?”
A Mạch nhếch khóe miệng hung tợn nhìn Đường Thiệu Nghĩa không thèm nói. Từ Tú Nhi ở bên cạnh cũng chậm chạp nhìn bọn họ lôi lôi, kéo kéo, càng lúc càng hồ đồ, hoang mang hỏi: “Mạch đại ca, các ngươi làm sao vậy? A? Khóe miệng của ngươi sao lại chảy máu?”
A Mạch nghiêng đầu né bàn tay của Từ Tú Nhi, lạnh lùng liếc Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa trên mặt có chút không nhịn được, ngượng ngùng nói: “Ngươi đánh lại ta một quyền là tốt rồi, đừng như nữ nhân khóc sướt mướt như vậy.”
A Mạch nhìn Đường Thiệu Nghĩa một lát, đột nhiên trên môi tràn hé ra một nụ cười nhàn nhạt. Đường Thiệu Nghĩa thấy nàng trong mắt mang theo lệ ý (nước mắt), trên mặt lại tươi cười hồn nhiên sáng lạn, như tia nắng xuất hiện sau cơn mưa thật động lòng, trong lúc nhất thời nhìn có chút ngây người. A Mạch trên mặt cười thản nhiên, nhẹ tay lấy chiếc mũ giáp trên đầu Đường Thiệu Nghĩa ôm ở trước ngực, tay phải âm thầm nắm chặt thành quyền hung hăng hướng về phía mặt Đường Thiệu Nghĩa phóng tới……
Một quyền này khiến Từ Tú Nhi choáng váng, lại đánh tỉnh Đường Thiệu Nghĩa. Hắn vừa rồi bất quá chỉ là nói lời đại lượng thôi, thật không ngờ A Mạch không biết xấu hổ lại đánh hắn thật. Trong cơn tức giận, hắn vung nắm đấm lên định đánh trả A Mạch một quyền, đúng lúc thấy A Mạch khẽ nhếch cằm, vênh mặt hướng hắn thị uy, khóe miệng còn hơi nhếch lên, Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên cảm thấy nóng bừng cả mặt, trừng mắt nửa ngày cũng không xuống tay nổi. Chỉ hừ lạnh một tiếng, không được tự nhiên quay đầu đi, thấp giọng lẩm bẩm: “Thực không khác gì nữ nhân. Thật đúng là cái đồ không biết xấu hổ!”
Xem bộ dáng hai người như thế, Từ Tú Nhi vừa tức vừa vội, khóc nói: “Các ngươi rốt cuộc muốn làm gì? Nếu lát nữa lại gặp thát tử Bắc Mạc thì phải làm sao bây giờ? Phía trước đều là quân doanh của chúng, chúng ta phải chạy đi đâu đây?”
Nghe nàng nói như vậy, A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa hai người đều phục hồi lại tinh thần, nhìn về phía quân doanh Bắc Mạc, không hẹn mà cùng nhíu mày.
Đường Thiệu Nghĩa nói: “Nếu quân đội Bắc Mạc đóng quân tập trung một nơi thì đối với chúng ta cũng không đáng ngại lắm. Sợ nhất là gặp phải những nhóm lính Bắc Mạc đi riêng lẻ. Ở phía Đông thành có một khu rừng rậm nối liền với một nương ngô lớn, chúng ta trước tiên đi vào rừng, sau đó đi trước thát tử Bắc Mạc một bước đến thành Thái Hưng!”
A Mạch hừ lạnh một tiếng, thầm nghĩ người này thật đúng là không nghĩ bản thân hắn chỉ là ngoại nhân. Ba người kết nhóm chạy ra khỏi thành Hán Bảo đó là vì không có cách nào khác, chứ ai lại đáp ứng cùng hắn đi đến thành Thái Hưng! Hơn nữa, đi theo cái gã hỉ nộ vô thường này, bên người lại mang theo một đứa trẻ có thể khóc bất cứ lúc nào, bảo nàng chán sống cũng chẳng sai. Lập tức, A Mạch cũng không đáp lại Đường Thiệu Nghĩa, tự mình cởi bộ quân phục trên người xuống.
Đường Thiệu Nghĩa nhìn bộ dạng này của A Mạch thấy khó chịu, nhưng vẫn nhẫn nại hỏi: “Ngươi tính thế nào?”
“Tính?” A Mạch liếc mắt một cái, thản nhiên nói:“Không tính gì hết, chỉ biết là nếu chúng ta vẫn tiếp tục mặc bộ quân phục này đứng ở cửa thành thảo luận tính toán cái vấn đề gì đó, lại bị tên tướng quân đó nhìn thấy, cho dù ta có ôm chân hắn mà khóc thì cũng không phải chỉ chịu có hai mươi gậy thôi đâu.”
Đường Thiệu Nghĩa tức khí tràn đầy, nhưng không thể không thừa nhận lời A Mạch có chút đạo lý, vì vậy cũng nhanh chóng bỏ bộ quân phục Bắc Mạc bên ngoài, lộ ra chiến bào màu xanh dính đầy máu bên trong. A Mạch cười lạnh nói: “Không biết người Bắc Mạc đối với đào binh(1) của mình tốt hơn hay là đối với địch nhân tốt hơn.”
“Đều…” Đường Thiệu Nghĩa cũng phát hỏa, cả giận nói: “Ngươi tâm lượng sao lại hẹp hòi như vậy? Ngươi đã đánh trả ta, giờ còn muốn như thế nào nữa? Từ cô nương đi không nổi, ta phải cõng nàng, ngươi bế đứa nhỏ, chúng ta đi nhanh lên, đỡ phải một hồi lại gặp thát tử Bắc Mạc mà khởi mầm tai vạ!”
A Mạch cười lạnh: “Ngài chính là nam tử hán đầu đội trời, chân đạp đất, sao lại để cho một kẻ vô sỉ như ta thay ngài bế đứa nhỏ? Vẫn là ngài tự mình bế nó đi!” Nói xong xoay người xuống đại lộ hướng đông mà đi.
Đường Thiệu Nghĩa cả giận nói: “Từ cô nương phải làm sao bây giờ?”
A Mạch quay lại nhìn Đường Thiệu Nghĩa cười nói: “Đó cũng là bạn tốt của ngài mà, ngài cõng Từ cô nương, Từ cô nương bế đứa nhỏ không phải là được rồi sao? Ngài là đại trượng phu, còn không gánh vác nổi một chút phân lượng đó sao?” A Mạch cảm thấy trong lòng thật vui sướng, thỏa mãn cười to hai tiếng, xoay người mà đi. Vừa đi chưa được hai bước liền cảm thấy một trận gió lạnh kề sát bên tai, thân thể nàng lập tức cứng lại, sắc mặt trắng bệch―― trước mặt nàng xuất hiện một thanh kiếm cắm trên mặt đất không đầy năm thước(2), chuôi kiếm vẫn không ngừng lay động.
Đường Thiệu Nghĩa đem đứa nhỏ nhét vào trong tay A Mạch: “Bế lấy nó!” Nói xong bước lên hai bước, rút kiếm tra vào vỏ, trở lại nhấc Từ Tú Nhi vẫn còn choáng váng lên lưng, đi đến bên A Mạch, lạnh lùng nói: “Đi mau một chút!”
“Được” A Mạch thành thành thật thật lên tiếng, cất bước ở phía sau.
————————————-
Từ thị, thê tử của Mạch soái, cũng là người Hán Bảo. Mùa thu năm Đinh Ngọ, Bắc Mạc công thành Hán Bảo, Mạch soái cầm gậy gỗ lên tường thành, giết chết rất nhiều địch quân. Địch soái Thường Ngọc Thanh bắn tên trúng đỉnh mũ giáp của ngài. Thành bị phá, Mạch soái thân mang mười bảy vết thương, kiệt lực, ẩn thân trong nhà dân, vì thế mà hạnh ngộ Từ thị. Từ thị cứu Mạch soái thoát khỏi loạn quân. Mạch soái cảm cái ân nghĩa này, lấy thân báo đáp……
———–[ Hạ sử -- Mạch soái liệt truyện ] ——————
————————————————————————————————–
(1) đào binh: lính đảo ngũ
(2) năm thước: khoảng 1m
Chương 7
Ủy thác
Phía đông thành Hán Bảo là một ngọn núi nối liền với dãy núi Mạt Chi thuộc phía bắc Nam Hạ, cao nguyên Vân Hồ và sông Bình Nguyên. Đại khái hành trình theo hướng tây bắc – đông nam, bắt đầu từ phía bắc sườn núi Lĩnh Nam nối tiếp đến sông Uyển, kéo dài hơn bảy trăm dặm, thế núi phía nam của Bắc Triều có xu hướng thấp dần, đến ngoài thành Hán Bảo thì địa thế núi rừng đã bớt hiểm trở đi rất nhiều.
Đám người A Mạch sau khi đi vào trong rừng đều thở phào nhẹ nhõm, đó là loại cảm giác tìm được đường sống trong chỗ chết. Trong thời gian ngắn, chỉ cần quân lính Bắc Mạc không đi săn thú để tiêu khiển, thì coi như tính mạng của họ tạm thời được bảo vệ. Cũng may, hiện tại là thời tiết đầu thu, trong rừng có không ít quả dại đã chín, ba người hái ăn tạm cũng no bụng, Từ Tú Nhi thận trọng chọn chút quả dại ngọt, nhiều nước, nhai nát một chút rồi mớm vào miệng đứa trẻ.
“Trang bị của đại quân thát tử không thể xuyên qua rừng rậm, cho nên bọn họ chỉ có thể đi theo hướng nam rồi vòng qua dãy núi này, sau đó quay lại thành Thái Hưng. Như vậy, bọn thát tử phải mất ít nhất ba ngày mới tới được thành Thái Hưng. Chúng ta chỉ cần đi tắt qua khu rừng này là có thể đến thành Thái Hưng trước chúng.” Đường Thiệu Nghĩa vừa nói, vừa dùng nhánh cây khoa tay múa chân vẽ ngoạch ngoạc trên mặt đất. Điều kiện thông tin trong thời đại này bị giới hạn, cho nên một viên giáo úy đóng quân trong một thành nhỏ như Đường Thiệu Nghĩa căn bản không thể nhận thức đầy đủ về cuộc chiến giữa Bắc Mạc và Nam Hạ. Hắn chỉ căn cứ theo đường tấn công của đại quân Bắc Mạc do Thường Ngọc Thanh làm chủ tướng, suy đoán mục tiêu tiếp theo của quân Bắc Mạc hẳn là thành Thái Hưng. Nhưng Đường Thiệu Nghĩa không biết rằng từ trước khi thành Hán Bảo bị hạ, thì thành Thái Hưng đã bị một cánh quân Bắc Mạc khác vây khốn rồi.
A Mạch ngồi một bên yên lặng nghe, ngẫu nhiên ngẩng đầu liếc nhìn Đường Thiệu Nghĩa, sau đó tiếp tục cúi đầu cắn quả táo xanh trong tay, đối với cảm giác đói khát, nàng đã từng khắc sâu ấn tượng, cho nên mỗi khi có cơ hội, nàng luôn không tự chủ được muốn ăn càng no càng tốt.
Thái độ này của A Mạch hiển nhiên chọc giận Đường Thiệu Nghĩa, hắn cầm nhánh cây trong tay, hung hăng vứt trên mặt đất, hỏi:“A Mạch, ngươi nghĩ thế nào?”
“Hả?” A Mạch ngẩng đầu, lập tức tươi cười lấy lòng: “Đường đại gia, ngài đang hỏi ý kiến của tiểu nhân?”
Đường Thiệu Nghĩa xanh mặt gật đầu, A Mạch trên khóe miệng thấp thoáng ý cười mỉa mai, nhưng trên miệng trước sau như một vẫn nói lời cung kính: “Nhưng Đường đại gia, ý kiến của tiểu nhân hữu dụng sao?”
Dựa theo ý tứ của A Mạch, tất nhiên là cách chiến trường càng xa càng tốt, không nghĩ tới Đường Thiệu Nghĩa lại muốn cùng nàng thương lượng những vấn đề trên chiến trường. A Mạch trong lòng thật muốn chửi má nó, chỉ muốn dùng vũ lực với Đường Thiệu Nghĩa, nhưng cũng không dám biểu hiện ra ngoài, chỉ ở trong lòng cân nhắc tính toán cơ hội đào tẩu.
Đường Thiệu Nghĩa bị lời nói không âm không dương của A Mạch làm cho nghẹn họng, có chút xấu hổ. Kỳ thật vấn đề đi về nơi nào hắn cũng không cần phải hỏi ý kiến của A Mạch. Không biết có phải là trải qua một ngày đêm chém giết đã hao phí của hắn nhiều tinh lực hay không, mà giờ đây, tinh thần vốn cứng rắng của hắn lại có chút mỏi mệt, không tự giác được muốn ỷ lại vào sự duy trì của người khác. Hắn nhìn chăm chú A Mạch thật lâu, vẻ mặt tức giận rốt cục hóa thành thất vọng, hắn thở dài một tiếng, nói: “Mỗi người một chí hướng, ngươi nếu muốn chạy trốn thì cứ chạy đi, Từ cô nương nếu cũng muốn cùng đi với ngươi thì mong ngươi hãy chiếu cố cho nàng.”
Đường Thiệu Nghĩa nói xong liền đi đến bên người Từ Tú Nhi ôm lấy đứa nhỏ, thấy A Mạch giật mình nhìn mình, không khỏi cười khổ nói: “Ngươi thực ra không phải là quân nhân, ta sao có thể bắt ngươi cùng ta ra trận chém giết, là ta sai rồi, các ngươi nhanh trốn đi, từ đây xuyên qua dãy núi này đi về phía đông bắc là đến Dự Châu, các ngươi –”
Lời còn chưa dứt, cánh rừng bên cạnh đột nhiên truyền đến tiếng người nói ồn ào, ba người trong lòng đều cả kinh. Chẳng lẽ là truy binh của Bắc Mạc. Đường Thiệu Nghĩa liếc mắt nhìn, thấy ở xa xa mơ hồ có bóng người, lại nhét đứa nhỏ vào tay A Mạch, thấp giọng nói: “Ngươi mang đứa nhỏ này cùng Từ cô nương đi trước, ta đi đánh lạc hướng truy binh.”
A Mạch trong lòng hoảng loạn, không kịp nói gì, liền buộc đứa nhỏ lên lưng, kéo Từ Tú Nhi chạy đi, mới vừa đi không vài bước lại nghe thấy Đường Thiệu Nghĩa ở phía sau thấp giọng gọi nàng, A Mạch dừng lại, thấy Đường Thiệu Nghĩa đuổi theo đem bội kiếm nhét vào trong tay A Mạch: “Trong rừng có dã thú, kiếm này cho ngươi phòng thân.” Đường Thiệu Nghĩa nói xong, ánh mắt thâm sâu nhìn thoáng qua đứa trẻ trên lưng A Mạch nói: “Đứa trẻ này là Lưu Minh, là đứa con mồ côi của Lưu Cạnh đại nhân, Lưu đại nhân cả nhà trung liệt, mong rằng Mạch huynh có thể bảo toàn tính mạng của nó. Lúc này Thiệu Nghĩa thay Lưu đại nhân cảm tạ Mạch huynh!” Nói xong, Đường Thiệu Nghĩa quỳ hai chân trên mặt đất, hướng A Mạch khấu đầu một cái.
A Mạch nhất thời kinh ngốc, vội vàng đỡ Đường Thiệu Nghĩa dậy: “Đường tướng quân, mau đứng lên, ngươi yên tâm, A Mạch xin thề chỉ cần ta còn sống, sẽ không vứt bỏ đứa nhỏ này.”
Đường Thiệu Nghĩa vui mừng cười, hắn chính là sợ A Mạch đến thời điểm nguy nan, sẽ ngại đứa nhỏ này làm liên lụy mà đã bỏ rơi nó, nay có được lời thề này của A Mạch, trong lòng cuối cùng đã an tâm, hắn đẩy A Mạch một cái, nói: “Đi mau!”
A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa đem bội kiếm giao lại cho mình, biết hắn đã hạ quyết tâm liều chết cũng phải dẫn dắt truy binh rời đi, trong lòng cũng bị hùng tâm bi tráng của Đường Thiệu Nghĩa cuốn hút, mắt thấy tiếng người ngoài rừng càng ngày càng gần, A Mạch cũng không dông dài, hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa gật đầu, cắn răng một cái kéo Từ Tú Nhi chạy sâu vào trong rừng.
Không lâu sau khi thân ảnh của A Mạch cùng Từ Tú Nhi biến mất ở trong rừng rậm, binh lính Bắc Mạc từ bên ngoài hướng vào trong rừng, có vẻ cũng không phát hiện ra đám người của A Mạch, tản ra ở bìa rừng, một bên chặt những cành cây vướng víu một bên hướng vào trong rừng tản đi. Đường Thiệu Nghĩa nấp sau một thân cây lớn thầm cân nhắc, chỉ chờ truy binh Bắc Mạc đến gần sẽ giết chết vài tên rồi sau đó dẫn bọn họ chạy ngược lại với hướng đi của A Mạch.
Binh lính Bắc Mạc không ngừng dũng mãnh tiến vào trong rừng. Đường Thiệu Nghĩa đã tính toán quá đơn giản. Có ít nhất có mấy trăm tên lính Bắc Mạc tiến vào rừng, hắn mặc dù vừa ở trên chiến trường chém giết, giờ phút này đã hạ quyết tâm liều chết, nhưng nhìn thấy có nhiều lính Bắc Mạc đuổi giết mình như vậy, cũng không khỏi có chút kinh hãi, lại thấy một tên giáo úy nho nhỏ như mình lại có thể khiến Bắc Mạc đưa nhiều truy binh như vậy để đuổi bắt thì cũng thật là oai phong. Trong lòng vừa dâng chút khiếp ý lập tức liền bị cảm xúc hào hùng vô hạn này ép xuống. Đường Thiệu Nghĩa dùng sức nắm chặt khúc gỗ trong tay, chỉ chờ lính Bắc Mạc đến gần sẽ nhảy xuống chém giết một phen.
Ai ngờ những tên lính Bắc Mạc này khi còn cách Đường Thiệu Nghĩa mấy chục trượng liền dừng lại. Đường Thiệu Nghĩa có chút buồn bực, nhìn xuyên qua kẽ lá thì thấy lũ lính Bắc Mạc bắt đầu chặt cây, chúng chỉ chặt toàn cây nhỏ rồi kéo ra bìa rừng. Đường Thiệu Nghĩa nhất thời cũng có chút hồ đồ ……
Lại nói, sau khi A Mạch kéo Từ Tú Nhi hướng vào trong rừng rậm chạy đi, coi như Lưu Minh cũng rất nể tình, dọc đường đi không hề khóc, cũng may Từ Tú Nhi sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, mặc dù lớn lên có chút nhu nhược, nhưng công phu chạy cũng không thể coi thường, ngay cả khi bị A Mạch kéo chạy như bay cũng không bị ngã xuống lần nào. Hai người gắng sức chạy non nửa canh giờ, đến lúc không còn khí lực tiến lên phía trước nữa, thì Từ Tú Nhi lập tức kêu lên một tiếng rồi ngã lăn xuống đất. A Mạch cũng cúi gập thắt lưng ôm lấy một thân cây, há to miệng thở dốc, chỉ duy nhất thằng bé Lưu Minh trên lưng A Mạch là i, i, ô, ô tựa hồ rất vui vẻ.
A Mạch quay đầu nhìn thằng bé một cái, thấy nó toét miệng cười, bất đắc dĩ lắc lắc đầu, tiếp tục dựa vào thân cây thở hổn hển. A Mạch cùng Từ Tú Nhi còn chưa thở xong thì chợt nghe thấy âm thanh sột soạt trong rừng truyền đến. A Mạch trong lòng hoảng sợ, không biết là dã thú hay truy binh Bắc Mạc đuổi theo, nàng không một tiếng động nhìn về phía Từ Tú Nhi, Từ Tú Nhi sắc mặt trắng bệch khẽ lắc lắc đầu, thật sự là chạy không nổi nữa rồi. A Mạch gắt gao mím môi, hai tay dùng sức nắm chặt thanh kiếm của Đường Thiệu Nghĩa, chậm rãi đứng trước người Từ Tú Nhi.
Khi nhánh cây bị đẩy mạnh ra, một thân ảnh cao lớn đột nhiên xuất hiện, trong nháy mắt, đầu A Mạch trở nên trống rỗng, thanh kiếm trong tay lập tức rơi xuống.
————————- phân cách tuyến ——————————–
Không thể nghĩ tới kẻ đuổi theo đằng sau chính là người mà A Mạch cùng Từ Tú Nhi đều cho rằng có lẽ đã chết, Đường Thiệu Nghĩa.
Thần kinh A Mạch vốn căng thẳng cực điểm lập tức thả lỏng, vì quá căng thẳng mà chân chợt mềm nhũn, thân thể lảo đảo quỳ xuống trên mặt đất. Từ Tú Nhi nhìn thấy Đường Thiệu Nghĩa vẫn còn sống và đuổi theo thì vừa mừng vừa sợ, nhưng lại nhịn không được òa khóc nức nở. Hốc mắt A Mạch cũng có chút nóng lên, hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa khẽ nhếch miệng, lần đầu tiên mỉm cười một cách thật lòng.
Đường Thiệu Nghĩa tiến lên nâng A Mạch dậy, trong lúc nhất thời hai người đều trầm mặc, chỉ có hai tay vẫn gắt gao nắm chặt, còn hơn thiên ngôn vạn ngữ. Một lát sau, Đường Thiệu Nghĩa mới buông lỏng tay ra, nhìn A Mạch cùng Từ Tú Nhi mặt xám mày tro, một thân chật vật, nhịn không được cũng khẽ mỉm cười.
Không đợi A Mạch hỏi, Đường Thiệu Nghĩa liền đem hành động kỳ quái của quân lính Bắc Mạc ra kể lại. A Mạch trong lòng cũng thấy kỳ quái, nếu quân Bắc Mạc chế tạo khí giới để công thành thì vì sao không chặt những cây to, ngược lại chỉ chặt những cành cây nhỏ làm chi? Hơn nữa, ngoài thành Thái Hưng cũng có một khu rừng lớn, sao không đợi đến khi tới thành Thái Hưng rồi mới chế tạo khí giới công thành? Ở nơi này chế tạo khí giới công thành Thái Hưng liệu có sớm quá không?
“Nơi này cách khu rừng bên cạnh không xa, chúng ta đi tiếp, đợi lên đến đỉnh núi thì sẽ quan sát hành động của thát tử Bắc Mạc.” Nghe A Mạch nói, Đường Thiệu Nghĩa gật gật đầu, đi đến trước mặt Từ Tú Nhi vẫn đang ngồi dưới đất nói: “Từ cô nương, để ta cõng ngươi đi.”
Từ Tú Nhi sắc mặt có chút đỏ bừng, vụng trộm liếc A Mạch một cái. Tiểu cô nương này vừa rồi khi A Mạch cầm kiếm che trước người mình, tâm tư liền bắt đầu có biến hóa. Nàng vội vàng đứng lên, nói: “Không cần Đường tướng quân phải nhọc sức, ta tự mình đi là được.” Nói xong kiên cường đi lên phía trước, nhưng mới vừa đi chưa được hai bước chân đã mềm nhũn ngã xuống.
Từ Tú Nhi mắt lệ trong suốt nhìn về phía A Mạch, A Mạch làm sao có thể hiểu được tâm tư của tiểu cô nương này, chỉ nghĩ Từ Tú Nhi vì e ngại lễ pháp mới không chịu để cho Đường Thiệu Nghĩa cõng nàng, nhịn không được hơi hơi nhíu nhíu mày, nói: “Hiện tại là lúc phải chạy trối chết, sao còn chú ý nhiều như vậy, ta còn đang ước gì có người đến cõng ta đây này!”
Đường Thiệu Nghĩa tiến đến trước mặt Từ Tú Nhi ngồi xổm xuống: “Mau lên đi.” Hắn nói.
Từ Tú Nhi lần này nghe lời ghé lên lưng Đường Thiệu Nghĩa, A Mạch lại đem thằng bé Lưu Minh buộc ở sau lưng, vung kiếm chém những cành cây chắn đường. Bốn người vừa lớn vừa nhỏ đi lên đỉnh núi. Núi mặc dù không cao, nhưng rừng rậm khó đi, nên khi đoàn người lên đến đỉnh thì cũng mất một thời gian khá lâu. Dưới chân núi, quân lính Bắc Mạc ở bìa rừng cũng đã chặt cây xong và rời đi. Nhìn về phía xa hơn, quân Bắc Mạc cũng đã nhổ trại, đại quân người ngựa rời khỏi thành Hán Bảo đang chậm rãi đi về hướng nam. Dưới gót ngựa, tro bụi mù mịt cuốn lên trong không trung, khiến cho đội quân Bắc Mạc giống như một con Hoàng Long(1) khổng lồ, uốn lượn thành một đoàn dài.
—————————————
Chú thích:
(1) Hoàng Long: rồng vàng.
Có một số bạn thắc mắc về đoạn chữ in nghiêng ở cuối một số chương truyện. Mình xin giải thích như sau, trong phần giới thiệu đơn giản, tác giả có đề cập rằng “A Mạch tòng quân” là một cuốn sách ghi chép lại tất cả những câu chuyện liên quan đến một người con gái đóng giả nam trang tòng quân đánh giặc. Chính văn trong các chương là để kể lại câu chuyện này theo thứ tự thời gian từ quá khứ cho đến hiện tại của A Mạch. Còn phần in nghiêng có thể là hồi ức của A Mạch, hoặc của một nhân vật khác hoặc lời bình của chính tác giả liên quan đến nội dung trong chương đó.
Chương 8
LỐI RẼ
A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa đưa mắt nhìn nhau, cả hai đều thấy được tia hoảng sợ trong mắt người kia. Từ Tú Nhi thì kinh hãi há to miệng, hơn nửa ngày mới thì thào nói: “Trời ạ, thát tử Bắc Mạc rốt cuộc là có bao nhiêu người đây!”
Những lời này làm cho Đường Thiệu Nghĩa dần dần bình tĩnh lại, hắn lập tức cảm thấy xấu hổ vì đã biểu lộ nỗi khiếp đảm của mình, len lén nhìn A Mạch rồi hừ lạnh một tiếng nói: “Cho dù thát tử thực sự có tới mười vạn đại quân đi chăng nữa, thì muốn hạ thành Thái Hưng cũng chỉ là si tâm vọng tưởng mà thôi. Thành Thái Hưng thành cao hào sâu, để so sánh thì một thành Hán Bảo nho nhỏ còn xa mới có thể sánh bằng! Chỉ bằng mười vạn nhân mã đã nghĩ có thể vây khốn thành Thái Hưng của ta sao? Hừ! Quả thực chính là không biết trời cao đất rộng!”
Ha, ngữ khí rõ ràng là cao ngạo, nhưng khóe miệng cứng nhắc đã tiết lộ nội tâm đang khẩn trương lo lắng của hắn. A Mạch quét mắt nhìn hắn, trên mặt mặc dù không tỏ vẻ gì, nhưng trong lòng đã có chút cho là không đúng, thầm nghĩ “nếu thành Thái Hưng thật sự là không gì phá nổi, vậy thì cùng với việc ngươi chạy đi báo tin cũng chẳng có quan hệ gì! Ngươi sao mà phải vội?” Vừa nghĩ đến đây, trong đầu A Mạch chợt hiện lên một tia sáng, chạy nhanh lại nhìn kỹ con Hoàng Long uốn lượn dưới núi, nhìn đi nhìn lại, lông mày liền gắt gao nhíu lại.
Nam Hạ không có chiến mã, phần lớn đều phải mua từ thảo nguyên Tây Hồ, đến tổ kiến cũng biết kỵ binh của Nam Hạ đang đóng quân ở biên giới phía Bắc cùng Bắc Mạc giằng co. Chỉ có một ít kỵ binh được bố trí theo đại quân, trong đó phần lớn dùng làm quân trinh sát, theo như lời thám báo báo lại thì kỵ binh tham chiến lần này của Nam Hạ có quy mô rất nhỏ. A Mạch khi ở trên tường thành Hán Bảo, đã từng chứng kiến qua đội quân kỵ binh của Bắc Mạc khiến cho lòng người run sợ, lúc ấy chỉ lo sợ hãi, lại chưa từng cẩn thận nghĩ xem Bắc Mạc lần này xâm lược Nam Hạ vì sao lại phái nhiều kỵ binh như vậy? Phải biết rằng ưu điểm của kỵ binh là ở tính cơ động, khi dã chiến sẽ phát huy uy lực rất tốt. Nhưng làm gì có ai dùng kỵ binh để công thành đâu? Dù sao vó ngựa không gắn theo giác hút nên không thể trèo lên tường thành được! Nay nhìn đến bụi vàng bay lên trong không trung, đại quân kỵ binh của Bắc Mạc mơ hồ kéo thành một hàng dài, lại nhớ đến hành vi kỳ quái của quân lính Bắc Mạc ở trong rừng sáng nay, trong đầu A Mạch dần dần hiểu ra một chuyện: người Bắc Mạc đang dùng gian kế để che mắt thế gian! Việc làm này chứng tỏ mục tiêu tiếp theo của “Mười vạn đại quân” tuyệt đối sẽ không phải là Thái Hưng thành cao hào sâu. Bất quá đại quân chính thức đã sớm rời đi đâu thì không biết được!
Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch vừa rồi chỉ thản nhiên liếc mắt nhìn mình một cái, thế nhưng không hề phụ họa theo, trong lòng mơ hồ có chút bất mãn, nay nhìn thấy A Mạch cau mày, trong lòng không nén được tò mò, đành nhẫn nhịn hỏi: “Làm sao vậy?”
A Mạch nhíu mày, quay đầu nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa, trong đầu nhanh chóng xoay chuyển các loại ý niệm trong đầu, nhất thời không nói ra chủ ý mà mình vừa suy đoán ra. Đường Thiệu Nghĩa ở trong quân đã lâu, sớm luyện thành thói quen mọi việc phải biết cho đến nơi đến chốn, bình thường không gặp chính là bộ dạng muốn nói lại thôi. Hiện nay gặp phải lại chính là thái độ này của A Mạch, trong lòng không khỏi có chút chán ghét, càng tức giận hỏi: “Có chuyện gì thì mau nói ra, đừng có học cái bộ dạng của nữ nhân như thế!”
A Mạch vốn đang có chút mâu thuẫn, nghe Đường Thiệu Nghĩa nói như vậy, lập tức áp chế chút nhiệt huyết này ở trong lòng, trên mặt lộ ra biểu tình thập phần thành khẩn, ra vẻ lo lắng hỏi:“Đường tướng quân, thát tử tiến lên nhanh như vậy, chúng ta thật sự có thể đến thành Thái Hưng trước chúng được sao?”
Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch lo lắng vấn đề này, không khỏi cảm thấy có chút buồn cười, bất mãn trong lòng lập tức tan đi, vỗ vỗ lên vai A Mạch, cười nói: “Không thành vấn đề.” Rồi dừng một chút, chợt nhớ ra A Mạch vốn không muốn theo hắn đến Thái Hưng, có chút kinh ngạc hỏi: “A Mạch, ngươi muốn theo ta đến Thái Hưng sao?”
A Mạch vẻ mặt trung nghĩa, mở to hai mắt, nghiêm mặt nói: “Tất nhiên, A Mạch ta tuy là kẻ quê mùa thô kệch, không hiểu cái gì là đạo lý lớn lao, nhưng đối với đảm lượng của Đường tướng quân lại vô cùng bội phục. Đường tướng quân mang theo đứa con mồ côi của Lưu đại nhân lao vào vòng vây của định, vung trường kiếm giữa đám loạn quân mà đi, một thân can đảm, thật sự khiến cho A Mạch hổ thẹn. Nay quốc gia gặp nạn, ta đường đường là một thân nam nhi Nam Hạ, sao có thể chỉ lo cho an nguy của bản thân mà không lý gì đến sự tồn vong của quốc gia? Lần này đi thành Thái Hưng, A Mạch cho dù không thể ra trận giết địch, nhưng ít nhất cũng có thể vì giữ thành Thái Hưng mà cống hiến một phần sức lực!”
Một phen ngôn ngữ kêu choang choang này của A Mạch vừa nói xong, chẳng nói đến Từ Tú Nhi đã cảm động đến nước mắt rưng rưng, lần đầu tiên dùng ánh mắt ngưỡng mộ nhìn người anh hùng A Mạch, mà ngay cả Đường Thiệu Nghĩa cũng ra sức vỗ vai A Mạch, mím môi, gật gật đầu.
A Mạch đem thằng bé Lưu Minh buộc lại sau lưng, nói: “Đường tướng quân, chúng ta đi thôi, nhất định phải vượt trước bọn thát tử để tới thành Thái Hưng, khiến cho thành Thái Hưng có thể phòng bị trước! Chúng ta sẽ đứng ở trên tường thành chờ bọn thát tử, xem mười vạn đại quân của bọn chúng có thể làm gì được chúng ta!”
Nói vừa dứt lời, A Mạch cũng cảm thấy mình thật vô sỉ, nhất là khi nhìn đến ánh mắt ngượng ngùng hàm ẩn sự sùng bái của Từ Tú Nhi lại càng thấy hổ thẹn hơn. Nàng vốn suy đoán quân Bắc Mạc tấn công Thái Hưng chỉ là giả, như vậy vượt trước quân Bắc Mạc để tới thành Thái Hưng ngược lại chính là sự lựa chọn an toàn nhất. Thành Hán Bảo đã không thể trở về, không nói đến cả thành toàn người chết, riêng nạn trộm cướp sau khi thành bị phá đã là vấn đề rất lớn. Hiện tại xem ra cần nhanh chóng đi tới Thái Hưng, sau đó thừa lúc chiến loạn vượt qua sông Uyển trốn về hướng Nam mới là chính đạo. Sông Uyển vốn hiểm trở, cho dù người Bắc Mạc có chiếm hết toàn bộ Giang Bắc rồi đánh xuống dưới, thì trong thời gian ngắn cũng không thể vượt qua sông Uyển được, lựa chọn Giang Nam để tránh chiến loạn quả không sai.
Đường Thiệu Nghĩa cùng Từ Tú Nhi làm sao biết được tính toán này của A Mạch. Từ Tú Nhi giờ đã xem A Mạch như là một hình tượng nam nhân đầu đội trời, chân đạp đất đầy nhiệt huyết nam nhi. Cái nhìn của Đường Thiệu Nghĩa đối với A Mạch cũng thay đổi rất nhiều, cho rằng thái độ sợ chết của nàng trước đó chỉ là hành vi khiếp đảm nhất thời, hiện tại đã suy nghĩ cẩn thận lại, nhiệt huyết dâng lên, tự nhiên lại thành một người lính Nam Hạ vì nghĩa lớn!
Ba người không nói nhiều, dọc theo đường núi gập ghềnh đi về hướng đông nam, thầm nghĩ nhanh chóng tới thành Thái Hưng. Từ Tú Nhi không chịu để cho Đường Thiệu Nghĩa tiếp tục cõng trên lưng nữa, mà nhất quyết tự mình đi, Đường Thiệu Nghĩa thấy nàng đã hồi phục lại thể lực nên cũng không cõng nàng nữa. Dọc đường A Mạch vẫn địu Lưu Minh trên lưng, tuy nói rằng trẻ con không nặng là bao, nhưng đường xa thì bất kể là nặng hay nhẹ, sau lưng A Mạch quần áo đã sớm thấm ướt mồ hôi. Vì thế Đường Thiệu Nghĩa liền tiếp lấy đứa nhỏ trên lưng A Mạch rồi cõng lấy. Cứ như vậy, tốc độ của ba người nhanh lên không ít.
Đi đến giữa trưa, ba người đã vượt qua đỉnh núi. Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch cùng Từ Tú Nhi đều mỏi mệt, Lưu Minh trên lưng mình cũng bắt đầu khóc nháo lên, liền tới gần một con suối ngồi nghỉ chân. Lúc này là thời tiết đầu thu, nước suối trong vắt, róc rách từ trên núi chảy xuống, núi đá tỏa ra chút hơi nước, làm cho người ta nhìn thấy liền thấy nhẹ nhàng khoan khoái.
Từ Tú Nhi ở bên suối rửa mặt sạch sẽ, sau đó bế đứa bé trên lưng Đường Thiệu Nghĩa xuống, cẩn thận chăm sóc. Đường Thiệu Nghĩa thì úp mặt xuống suối, kết hợp luôn cả uống nước và rửa mặt. A Mạch ở dưới suối rửa tay, vốn định vớt nước lên rửa mặt, khi cúi đầu nhìn thấy hình ảnh chính mình trong nước, nghĩ nghĩ một chút lại từ bỏ ý định, chỉ uống mấy ngụm nước suối ngọt lành. A Mạch vẫn còn mấy quả dại hái ở trong rừng, giờ lấy ra chia cho Đường Thiệu Nghĩa cùng Từ Tú Nhi cùng ăn, Từ Tú Nhi tất nhiên lại chọn lấy mấy quả ngon nhất mớm cho Lưu Minh. A Mạch cầm lấy phần của mình, một mình ngồi bên dòng suối mà ăn, ánh mắt thỉnh thoảng lại nhìn theo mấy con cá nhỏ đang nhẹ nhàng bơi qua bơi lại trong làn nước, chỉ muốn làm thế nào có thể đi bắt được một, hai con ăn cho đỡ thèm. Nàng đã là nhiều ngày rồi không được ăn mặn, sớm đã thèm đến nỗi hai mắt tỏa hào quang.
Đường Thiệu Nghĩa cúi đầu nhìn hai quả trám trên tay, trong đầu vẫn nghĩ đến hành động kỳ quái của quân Bắc Mạc ở trong rừng, chặt nhiều cành cây như vậy, không biết bọn thát tử định sử dụng vào việc gì, nghĩ tới nghĩ lui, Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên biến sắc mặt.
Trong đầu A Mạch vẫn còn thèm thuồng mấy con cá dưới khe suối, chợt nghe thấy Đường Thiệu Nghĩa “Ai nha!” một tiếng đầy hoảng sợ, gấp gáp nhìn về phía hắn, chỉ thấy Đường Thiệu Nghĩa nắm chặt quyền đứng lên, vòng vo tại chỗ hai vòng, sau hướng về phía A Mạch oán hận nói: “Trúng gian kế của thát tử rồi! Bọn thát tử chặt cành cây chính là buộc ở sau đuôi ngựa nhằm che mắt người khác. Tấn công thành Thái Hưng là giả, chỉ sợ bọn chúng lại có dụng tâm khác!”
Đường Thiệu Nghĩa nói xong, A Mạch thiếu chút cũng “Ai nha” theo. Một tiếng thốt ra, bất quá câu “ai nha” của nàng là vì Đường Thiệu Nghĩa như thế nào lại nghĩ ra nhanh như vậy? Nàng nên làm cái gì bây giờ? Vừa rồi mạnh miệng nói thế, lúc này biết làm thế nào để thu hồi lại đây? Trong lòng vốn nghĩ họ Đường chỉ là một tên thất phu lỗ mãng, giờ đối với hắn đã đánh giá cao hơn một chút.
A Mạch thấy bộ dạng của Đường Thiệu Nghĩa như vậy, cũng không chọc phá, thầm nghĩ không biết hắn rốt cuộc nghĩ thấu được bao nhiêu, vì thế liền làm bộ lẫn lộn, hỏi:“Đường tướng quân, ngài nói thế là có ý tứ gì? Thát tử có gian kế gì?”
Đường Thiệu Nghĩa cũng không nói nữa, chỉ nhíu chặt mày bước đi thong thả, trong đầu nghĩ nếu Bắc Mạc đánh Thái Hưng chỉ là nghi binh, như vậy bọn họ rốt cuộc muốn làm gì? Người Bắc Mạc hướng phía Tây Hồ, Đông Cảnh mà đến, hiện tại bọn chúng ở khu vực rừng núi phía đông thành Hán Bảo, đại đội kỵ binh không có khả năng trèo đèo lội suối, mà hướng nam là đường đi đến Thái Hưng, như vậy chẳng lẽ lại là đi về phía bắc? Nhưng ở phía bắc là thành nào? Không có cứ điểm quân sự gì trọng yếu ở đây cả? Vậy thì quân Bắc Mạc vì cái gì lại bỏ qua thành Thái Hưng mà đi về hướng bắc?
“Dự Châu! Chỉ có Dự Châu!” Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên trầm giọng nói: “Đi về phía đông bắc là thành Dự Châu. Đó là cửa ngõ để tiến vào Bình Nguyên, chỉ cần đoạt được Dự Châu, thiết kỵ thát tử liền chặn được cổ họng của Nam Hạ ta là Giang Bắc, rồi lúc đó mới tấn công Thái Hưng, lúc đó từ phía bắc lại có thể giương lên một mũi tên tấn công vào Nam Hạ, cùng thủy quân tạo thành nam bắc giáp công chi thế, hay cho lũ thát tử Bắc Mạc! Tâm địa thật là ác độc!” Đường Thiệu Nghĩa giương mắt nhìn về phía A Mạch, trong ánh mắt không che dấu được sự hưng phấn. Hắn đột nhiên nhìn ra mưu kế của Bắc Mạc, trong lòng vừa tức giận lại vừa kích động. Tức giận vì người Bắc Mạc giả dối, kích động vì mình đã khám phá ra gian kế của bọn họ. Nam tử khi ra trận, nhất là làm cái chức quan không lớn không nhỏ như hắn, đều hy vọng mình có thể một trận thành danh, đi vào sử sách, mà hiện tại, cơ hội tựa hồ đang hiện ra trước mắt, bảo sao hắn không kích động!
A Mạch nhìn Đường Thiệu Nghĩa không nói lời nào, nàng mặc dù đoán được Bắc Mạc tấn công Thái Hưng là giả, nhưng nàng đối với chiến sự không hiểu biết nhiều, cho nên cũng không miệt mài suy đoán xem mục tiêu của Bắc Mạc rốt cuộc là gì. Hiện tại nghe Đường Thiệu Nghĩa nói Bắc Mạc nhất định sẽ tấn công Dự Châu, như vậy thành Dự Châu chính là sống chết cũng không thể đi, bằng không chẳng phải lại đi ra chiến trường sao! Một cái thành Hán Bảo nho nhỏ mà còn thê thảm như vậy, Trong khi Dự Châu so với thành Hán Bảo lớn hơn rất nhiều, không biết còn phải chết bao nhiêu người đây!
Cho nên, trong lòng A Mạch hạ quyết tâm, Dự Châu dù chết cũng không thể đi, nàng có thể từ trên tường thành Hán Bảo còn sống mà đi xuống đã là quá may mắn rồi. Không thể lại may mắn lần thứ hai như thế ở trên tường thành Dự Châu. Mẫu thân đã từng nói, con người không thể đi khiêu chiến với ông trời, đó chính là điểm mấu chốt.
Bất quá nghe Đường Thiệu Nghĩa nói gian kế của quân Bắc Mạc, A Mạch trong lòng có chút cho là không đúng. Dự Châu bất quá chỉ là một tòa thành trì mà thôi, bỏ qua Thái Hưng mà tấn công Dự Châu, nàng không thấy tốt đến như vậy. Nếu là nàng, nàng ngược lại sẽ áp dụng chiến thuật vây thành đánh viện binh, tựa như lời phụ thân đã đề cập qua, vì chỉ có tiêu diệt sinh lực địch mới là điều trọng yếu nhất trong chiến tranh. Một thành trì dù có lợi hại đến đâu, thì về lâu dài cũng không có gì đáng sợ!
“A Mạch, chúng ta sẽ tới Dự Châu!” Đường Thiệu Nghĩa đem đứa nhỏ một lần nữa buộc lên lưng, nói xong nhấc người đi về phía trước.
Từ Tú Nhi nghe bọn họ nói mà cảm thấy hồ đồ, một chút chủ ý đều không có, cũng muốn đứng lên đi theo. A Mạch ngăn bọn họ lại nói:“Chờ một chút, Đường tướng quân, ngươi nói thát tử nhất định sẽ tấn công chiếm thành Dự Châu, nhưng từ thành Hán Bảo đi Dự Châu sẽ phải qua đường rừng núi. Không phải đã nói đại đội kỵ binh của thát tử không thể vượt rừng núi hay sao? Vậy thì bọn họ đi như thế nào?”
Đường Thiệu Nghĩa đã sớm nghĩ tới vấn đề này, nghe A Mạch hỏi, liền giải thích: “Cách hơn ba trăm dặm về phía bắc của khu rừng núi này, có một vùng địa thế rất bằng phẳng, nếu thát tử nhất định tấn công Dự Châu, tất nhiên sẽ đi qua nơi đó, tuy tốc độ của kỵ binh rất nhanh, nhưng dù sao cũng phải đi đường vòng, chúng ta mau đi thôi, như thế chẳng những có thể tới Dự Châu để cảnh báo, còn có thể bố trí mai phục trong sơn cốc, đến lúc đó sẽ giết sạch lũ thát tử, khiến chúng trở tay không kịp!”
A Mạch ngoài mặt thì lắng nghe Đường Thiệu Nghĩa phán đoán cục diện cuộc chiến, trong lòng thì âm thầm cân nhắc làm thế nào để tránh khỏi cục diện phải ra chiến trường. Đường Thiệu Nghĩa nói thì đơn giản, nhưng A Mạch biết lần này đi Dự Châu sẽ vô cùng nguy hiểm. Nhất là nàng, nhiều lắm thì cũng chỉ là một tên lính quèn, nên khi ra trận giết địch tất nhiên là bị xua lên phía trước. Khi đã thực sự ở trên chiến trường rồi thì cho dù có muốn giả chết cũng không dễ. Người Bắc Mạc lại đều là kỵ binh, không cẩn thận có khi lại bị vó ngựa dẵm nát như cái bánh thịt.
“Đường tướng quân, A Mạch có một biện pháp không biết có nên nói ra hay không.” A Mạch đột nhiên nói.
Đường Thiệu Nghĩa chính là sốt ruột nhanh muốn hướng đến Dự Châu, bởi vì bọn họ đã đi theo hướng đông nam hơn nửa ngày đường rồi, giờ đi Dự Châu sẽ phải quay lại quãng đường không phải là ngắn. Thời gian vốn đã khẩn cấp, không nghĩ tới A Mạch lại nêu lên một cái vấn đề. Đường Thiệu Nghĩa có chút vội vàng: “Có chuyện gì cứ nói ra! Không nên luôn giữ ý như vậy, người lính chân chính là người lúc nào cũng phải mạnh mẽ, quả quyết, những nghi thức xã giao kiểu này chỉ có bọn tú tài vô dụng mới chú trọng mà thôi! Nam nhân trong quân đội không phải tuân theo những thứ đó!”
A Mạch nói: “A Mạch không hiểu quân sự, những lời Đường tướng quân vừa nói mặc dù đều có đạo lý, nhưng A Mạch cảm thấy thành Thái Hưng cũng không thể không đi. Tuy nói rằng thát tử có chia quân đi Dự Châu, song chúng ta cũng nhìn thấy bọn chúng tiến đến Thái Hưng cũng không ít, kể cả nếu chúng bày kế nghi binh thì thành Thái Hưng cũng không thể không lo. Báo tin chỉ cần một người là được, Đường tướng quân chạy tới Dự Châu, mà ta sẽ đi Thái Hưng, như vậy bất luận thát tử có quỷ kế gì, chúng ta đều có sự chuẩn bị, như vậy chẳng phải là càng thêm ổn thỏa hay sao?”
Đường Thiệu Nghĩa làm sao dự đoán được A Mạch trong lòng tính toán nhỏ nhặt, nghe A Mạch nói quả thực có chút đạo lý, còn tưởng rằng nàng toàn tâm toàn ý, thoáng cân nhắc một chút, liền nói:“Như vậy cũng tốt, chúng ta chia nhau chạy tới Dự Châu cùng Thái Hưng, nhất định phải đưa tin tức về âm mưu của lũ thát tử.” Nói xong lại tháo dấu hiệu giáo úy bằng đồng trên người xuống đưa cho A Mạch: “Ngươi đi Thái Hưng, lấy cái này làm bằng chứng đi gặp thủ thành Vạn Lương đại nhân, như vậy có khả năng làm cho Vạn đại nhân ra khỏi thành công kích thát tử Bắc Mạc, sau đó cứu viện Dự Châu!” Đường Thiệu Nghĩa lại cảm thấy cấp bậc của mình cùng Vạn đại nhân cách nhau rất xa, dùng khẩu khí này nói chuyện cùng trưởng quan quả thật không ổn, lại sửa lại: “Quên đi, ngươi chỉ cần đem tình hình báo cáo rõ lên Vạn đại nhân, đại nhân hẳn sẽ an bài.”
A Mạch gật đầu, trịnh trọng đón lấy tấm phù hiệu cất ở trong người. Lúc này Từ Tú Nhi lại gần, thấy Đường Thiệu Nghĩa cùng A Mạch đều không nói mình sẽ đi nơi nào, mắt có chút hồng lên, chần chờ hỏi: “Vậy, ta nên làm gì bây giờ?”
Chương 9
NGHẸN LỜI
A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa lúc này mới nhớ đến bên cạnh còn có một tiểu cô nương, hai người quay đầu nhìn Từ Tú Nhi, không hẹn mà cùng nhíu mày.
Từ Tú Nhi từ lúc ở thành Hán Bảo đối với A Mạch đã có chút tâm tư, trong lòng tất nhiên là nguyện ý cùng A Mạch đi chung một đường. Những lời vừa rồi tuy là hỏi cả A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa, nhưng nàng vẫn vụng trộm quan sát phản ứng của A Mạch, thấy A Mạch nhíu mày, Từ Tú Nhi chỉ cảm thấy trong lòng trầm xuống, tiếp đó là cảm giác chua xót, lạnh lẽo.
Cái nhíu mày của A Mạch lập tức kích thích tính quật cường trong lòng Từ Tú Nhi, nàng cắn chặt răng, không đợi A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa nói gì, liền kiên quyết: “Ta cùng Đường tướng quân đi Dự Châu! Tướng quân yên tâm, Tú Nhi là nữ nhi con nhà nghèo khổ, cho dù có phải leo núi cũng không sao, nhất định sẽ không liên lụy đến tướng quân, dù gì thì tiểu công tử cũng cần phải có người chiếu cố, tướng quân là nam nhân, chỉ sợ sẽ không chăm sóc được cho một đứa trẻ, Tú Nhi vẫn là nên đi theo tướng quân!”
Từ Tú Nhi lời này tuy là nói với Đường Thiệu Nghĩa, nhưng tầm mắt lại vẫn không rời khỏi người A Mạch, cho nên cũng không biết là Đường Thiệu Nghĩa lại nhíu mày lần nữa. Kỳ thật tiểu cô nương này tuy nói lời dỗi hờn, nhưng đáy lòng vẫn có chút chờ đợi, hy vọng A Mạch có thể giữ nàng lại, không ngờ A Mạch lại cúi đầu, suy nghĩ một lát, rồi ngẩng đầu lên nói: “Như vậy cũng tốt! Ngươi theo Đường tướng quân đi Dự Châu đi!” Nàng tự bảo vệ mình còn phải gắng sức, mang theo Từ Tú Nhi quả thật không tiện, hơn nữa nàng đã quen một thân một mình rồi, tinh thần hiệp nghĩa cái gì nàng cũng không có, tuy rằng tiểu cô nương này đã từng cho nàng vài cái bánh bao, nhưng nàng cũng không muốn gánh trên lưng một cái gánh nặng lớn như vậy, tốt nhất là giao cho Đường Thiệu Nghĩa đi, hắn chẳng phải là nam nhân thực thụ sao? Vậy thì cứ gánh vác nhiều thêm một chút đi! A Mạch thầm nghĩ.
Đường Thiệu Nghĩa thấy thế cũng chỉ gật đầu, hắn cũng biết mang theo Từ Tú Nhi sẽ có nhiều bất tiện, nhưng hắn đã được dạy dỗ rằng không thể nói “Không” với một thiếu nữ. Chính vì thế liền nói: “Vậy thì Từ cô nương đi theo ta đi!”
Từ Tú Nhi lại cắn môi liếc trộm A Mạch, nhưng lại thấy A Mạch gật đầu, khiến tâm tư thiếu nữ hoàn toàn tê lạnh, chỉ có thể dùng ba chữ để hình dung — thực bi thương!
Ba người sửa sang đơn giản lại một chút liền chia tay. Trước khi đi, Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên lại nhìn A Mạch, thấy A Mạch thân thể đơn bạc liền hỏi: “A Mạch, ngươi có biết võ công không?”
A Mạch lắc lắc đầu, công phu nàng không có, nhưng còn có một phen khí lực, chính là khả năng chạy trốn rất nhanh, về phương diện này thì nàng rất tin tưởng ở bản thân.
Đường Thiệu Nghĩa mím môi, đem bội kiếm tháo xuống đưa cho A Mạch nói: “Thanh kiếm này cho ngươi, trong rừng sợ có dã thú, ngươi mang theo mà phòng thân!”
A Mạch thật sự bị cảm động, nhìn Đường Thiệu Nghĩa không biết nên nói cái gì cho phải: “Không cần, không cần, Đường tướng quân, ngươi mang theo Tú Nhi cùng đứa nhỏ, càng cần cái này để phòng thân hơn ta.”
“Cầm lấy!” Đường Thiệu Nghĩa đem bội kiếm ấn vào tay A Mạch, rồi nắm lấy hai vai A Mạch, kinh ngạc nhìn nàng một lát, sau đó dụng sức nắm chặt vai nàng, trầm giọng nói: “A Mạch, bảo trọng!” Nói xong không đợi A Mạch phản ứng liền buông tay, xoay người theo hướng tây bắc mà đi. Đường Thiệu Nghĩa không dám quay đầu, hắn cảm thấy trong lòng có chút khác thường, một cảm giác chưa từng có, nói không nên, nhìn không rõ, dường như có chút luyến tiếc nụ cười như đóa sen trắng thuần khiết của thiếu niên kia
Từ Tú Nhi liếc nhìn A Mạch một cái, rồi chậm chạp đuổi theo Đường Thiệu Nghĩa.
————————–
Vị trí của thành Thái Hưng thập phần ưu việt, trước mặt hướng vào vùng đồng bằng do sông Uyển bồi đắp, giao thông đường thủy rất phát triển tạo nên một khu đô thị phồn hoa. Trong thành thương nhân đông đúc, cửa hàng dày đặc, luôn luôn náo nhiệt. Nhưng dù vậy thành Thái Hưng chưa khi nào lại náo nhiệt như bây giờ, tại khu rừng cách thành hai mươi dặm thật vô cùng tấp nập, những thân cây lớn bị binh lính chặt đổ, sau đó biến thành một chiếc xe bắn đá đẩy ra.
Thống soái đông lộ Bắc Mạc quân Chu Chí Nhẫn chậm rãi đi dọc theo bìa rừng, xem ra sắc mặt có chút không được tốt lắm. Ông ta là một hán tử năm mươi tuổi tráng kiện, vóc dáng mặc dù không cao lớn nhưng lại tạo cho người ta một loại áp lực khôn kể, mày rậm, mắt không quá to, râu quai nón, thuộc loại người có tướng mạo không giận mà tự uy.
“Đây là xe bắn đá của các ngươi sao?” Chu Chí Nhẫn hỏi, âm điệu đều đều, lại giống như gõ vào trong lòng người đứng bên cạnh.
“Khởi bẩm tướng quân, xung quanh thành Thái Hưng không có rừng già, nên thân cây này xem như đã là to lắm rồi.” Na Na, quan tổng quản quân giới cẩn thận đáp, thỉnh thoảng lại vụng trộm đánh giá sắc mặt của Chu Chí Nhẫn.
Chu Chí Nhẫn hiển nhiên không vừa lòng với câu trả lời này, nhưng cũng không nói thêm gì nữa. Không ngờ một thanh niên phía sau ông ta lại hét lên: “Muốn ta chế tạo cái gì mà xe bắn đá a, dù sao cũng chẳng có mấy tác dụng, chỉ uổng phí khí lực mà thôi, không bằng để cho tướng sĩ –”
“Câm miệng!” Chu Chí Nhẫn quát, quay đầu nhìn thoáng qua người thiếu niên kia, ánh mắt vô cùng sắc bén, lập tức khiến cho những lời chực thoát ra khỏi miệng của người thiếu niên này lập tức nuốt lại vào trong cổ họng.
Trên khuôn mặt của thiếu niên kia lộ chút khiếp sợ, né tránh tầm mắt sắc như dao của Chu Chí Nhẫn, cúi thấp đầu, nhỏ giọng gọi: “Cậu –”
Chu Chí Nhẫn hừ lạnh một tiếng, nói: “Đây là trong quân ngũ, ta không phải là cậu ngươi! Nếu còn có lần sau ta sẽ cho thi hành quân pháp!” Kỳ thật ông cũng biết lời thiếu niên này nói rất đúng, dùng xe bắn đá đối với thành Thái Hưng mà nói đúng là không có bao nhiêu tác dụng, để phá tường thành thì e là quá nhẹ, để bắn người thì lại thiếu chính xác, nhưng mặc dù biết rõ là không dùng được cũng phải tạo, bằng không vây thành mà không tấn công, thì làm sao khiến người Nam Hạ tin rằng ông ta đang công thành? Tốt xấu gì cũng phải làm ra vẻ cái bộ dạng công thành cho người ta xem, như vậy mọi người đều bận việc. Người Nam Hạ ở trong thành vội vàng leo lên tường thành, bọn họ ở ngoài thành vội vàng ở ngoài thành sát phạt cánh rừng, ai nấy đều an tâm!
Tầm mắt Chu Chí Nhẫn bắt đầu hướng về phía Bắc, Thường Ngọc Thanh phía sau hẳn là đã đến Tần Sơn rồi. Ông cúi đầu thở dài một tiếng. Tuổi trẻ a. Hoàng Thượng cũng chính là một người trẻ tuổi nên cũng dùng người trẻ tuổi. Chẳng lẽ mình thật sự đã già rồi sao? Mình bất quá mới năm mươi tuổi đầu, vẫn đang lúc tráng niên, như thế nào đã bị cho là già?
Thiếu niên kia nghe được tiếng thở dài của cậu thì không khỏi ngẩn người, còn tưởng rằng cậu vì chuyện công thành Thái Hưng mà phiền não. Tuy rằng vừa bị cậu răn dạy, tâm tính thiếu niên vẫn khiến cho hắn nhịn không được muốn xin đi giết giặc, liền nói: “Cậu, cậu cho cháu hai vạn tinh binh, cháu sẽ thay cậu hạ thành Thái Hưng, cũng chẳng phải dùng đến mấy cái xe bắn đá này, cho cháu mấy cái xe phá cổng thành là được rồi.”
Chu Chí Nhẫn quay đầu trừng mắt nhìn người thiếu niên kia, vốn định lại răn dạy đứa cháu không biết trời cao đất rộng này vài câu. Nhưng nhìn đến khuôn mặt trẻ con của đứa cháu, đột nhiên nghĩ đến Hoàng Thượng lần này dùng một người trẻ tuổi thống lĩnh một cánh quân, chẳng phải cũng là không biết trời cao đất rộng là gì sao? Bằng không sao lại có thể hoạch định ra một kế hoạch mạo hiểm đến thế? Nghĩ vậy, Chu Chí Nhẫn nuốt tiếng quát lớn trên miệng xuống, nhẹ nhàng răn dạy: “Diễn nhi, trong một trận chiến có thể dựa vào chữ ‘Dũng’ để thủ thắng, nhưng trong một chiến dịch thì không thể chỉ dựa vào một chữ ‘Dũng’, trong một cuộc chiến tranh thì càng phải nhìn xa hơn một chữ ‘Dũng’ này, cháu đã minh bạch chưa? Bắc Mạc không chỉ có riêng đông lộ quân, còn có tây lộ Thường tướng quân, trận này không phải chỉ có chúng ta tham gia! Làm việc nhất định phải chịu khó động não, đừng chỉ biết nhìn về một hướng, bằng không sự dũng mãnh của ngươi cùng lắm cũng chỉ có thể trở thành một viên mãnh tướng, nhưng không thể trở thành một danh tướng được! Hiểu không?”
Thiếu niên kia gãi gãi đầu nhìn Chu Chí Nhẫn cười hắc hắc. Chu Chí Nhẫn vừa thấy biểu tình này của đứa cháu thì biết mình có nói nữa cũng vô ích, nhịn không được đảo cặp mắt trắng dã, rốt cuộc không tiếp tục để ý tới thằng cháu ruột thẳng như cây thông này nữa, chỉ quay đầu tiếp tục ngây người nhìn về phương Bắc.
Thiếu niên kia thấy cậu mình luôn nhìn về phương Bắc, không khỏi cảm thấy có chút buồn bực, cũng theo ánh mắt của cậu nhìn về phương Bắc, nhìn đến nửa ngày cũng không nhìn được có cái gì đáng giá. Dãy núi Ô Lan trải dài hơn một trăm dặm, đến thành Thái Hưng mấy chục dặm về phía tây bắc thì rốt cuộc mất đi sự hùng vĩ của mình, chỉ còn lại một sườn dốc thoai thoải, ngay một đỉnh núi nho nhỏ cũng không thấy, núi rừng như vậy chỉ e ngay cả dã thú cũng không có, người thiếu niên thầm nghĩ.
————————————–
Nơi đám mây hạ xuống, ngay tại phía đông con dốc, từ phía bắc đường núi này đã phân chia thành một con đường nhỏ chạy về phía Đông. Một chiếc xe la từ hướng bắc chạy tới, đến lối rẽ thì chậm rãi dừng lại, hán tử đánh xe nhảy xuống, đi ra phía sau, lật màn xe lên, hướng vào bên trong hỏi: “Tiên sinh, phía trước có hai con đường, chúng ta nên đi lối nào?”
“Con đường lớn hơn đi đến đâu?”
Phu xe buông màn, đi lên phía trước quan sát phương hướng rồi quay lại nói: “Đi về phía Đông!”
Người trong xe không nói gì, một lúc lâu sau thấy rèm cửa lay động, một bàn tay trắng trẻo hiện lên trên màn xe, ngay sau đó là một đôi giày đen xuất hiện, một nam nhân gầy gò chừng bốn mươi tuổi từ trên xe chậm rãi bước xuống, vung vẩy chân cho đỡ tê, phủi bụi bám trên góc áo, rồi chắp tay sau lưng hướng tới bãi cỏ xa xa phía trước đi lên vài bước, nhìn con đường rộng mở phía trước, rung đùi đắc ý thì thầm: “Hướng bắc là Dự Châu, hướng đông là Thanh Châu. Dự Châu là thành lớn, chính là yết hầu của con sông, bắc có thể bảo hộ Tĩnh Dương, nam có thể che chắn cho Thái Hưng, lại là một vựa lúa lớn, trong thành lương thảo dư thừa, thật là nơi khiến binh gia giao tranh; Thanh Châu địa thế hiểm trở, bắc có rừng Tử Nha, đông dựa vào núi Thái Hành, dễ thủ khó công, tiến có thể viện trợ cho Dự Châu, lui có thể gây nguy hiểm cho địch……”
Xa phu nghe chỉ hiểu được hướng bắc là đi Dự Châu, hướng đông là đi Thanh Châu, những cái khác một chữ cũng chẳng hiểu, có chút không kiên nhẫn, liền cắt ngang lời, hỏi: “Tiên sinh, chúng ta rốt cuộc là đi đâu?”
Nam tử kia quay đầu nhìn xa phu liếc mắt một cái, xoa xoa mấy ngọn râu trên cằm, đảo cặp mắt trắng dã: “Ngu dân, ngu dân, ngu dân!”
“Tiên sinh, ta là phu xe, không phải là ngư dân,” Xa phu sửa lại lời nói, cuối cùng nói vọng lại một câu: “Tiên sinh, chúng ta nhanh lên đường thôi, thát tử ở ngay phía sau ta mấy chục dặm thôi, bọn chúng ăn thịt, uống máu người không tanh, chúng ta nhanh lên, ta sợ chậm –”
“Được rồi!” Nam tử gầy gò kia quát bảo ngưng lại, nói: “Yên tâm đi, thát tử sẽ không đuổi theo chúng ta đâu, ta phải tính kỹ xem chúng ta nên đi nơi nào rồi hãy nói!” Nói xong liền lấy ra trong tay nải một ống trúc nhỏ, xốc lên, đổ ra mấy đồng tiền, ngồi xổm xuống lẩm bẩm: “Ta phải tính xem chúng ta nên chọn con đường nào để đi.”
Ông ta vừa tung mấy đồng tiền ra, vừa nhìn lướt qua quẻ vừa gieo, chợt nghe thấy xa phu hô: “Tiên sinh, tiên sinh, ngươi nhìn xem, bên kia sườn núi có người đang đi xuống.”
Nam tử gầy gò đứng dậy híp mắt nhìn theo hướng xa phu chỉ, quả nhiên thấy trên sườn núi cách đó không xa có một người vóc dáng cao gầy, không búi tóc, sau đầu chỉ có một mái tóc ngắn ngủi, một thân quần áo màu xám ăn mặc gọn gàng, thắt lưng đeo bảo kiếm, nhìn từ xa vẫn có thể thấy trên quần áo dường như có vết máu.
“Hỏng rồi! Tiên sinh, là cướp đường đang đến, nhanh lên xe!” Hán tử phu xe vội vàng hô, xoay người nhảy lên xe la.
“Chậm đã!” Nam tử gầy gò chặn lại, nhìn kỹ người đang đi tới, bình tĩnh nói: “Không phải cướp đường.”
Người kia tốc độ rất nhanh, đi hai bước chạy hai bước, một lát đã tới trước mặt nam tử kia. Vốn nàng từ trên triền núi đã thấy chiếc xe la này, thầm nghĩ cuối cùng đã tìm được một cái xe đỡ cho đôi chân của nàng, vốn định kêu lên hai tiếng, lại sợ dọa cho người ta kinh hãi mà bỏ chạy, nên cũng không gọi, chỉ liều mạng hướng về phía xe la này chạy tới.
“Vị tiên sinh này,” Người vừa tới thở hổn hển, thi lễ với nam nhân gầy gò kia, thở hổn hển hơn nửa ngày mới nói ra câu tiếp theo: “Tại hạ họ Mạch, thường gọi là A Mạch, từ thành Hán Bảo mà đến, xin hỏi tiên sinh họ gì?”
Nam tử gầy gò nhướng mắt, có chút ngạo mạn nói: “Lão phu tên gọi là Từ Tĩnh.”
“A, Từ tiên sinh,” A Mạch lại thi lễ.
Từ Tĩnh thoáng chắp tay nhìn A Mạch thi lễ.
A Mạch thầm quan sát, chỉ nhìn cách ăn mặc của Từ Tĩnh liền hiểu được vài phần tính nết của hắn, lại thấy biểu tình khi nói chuyện của hắn, liền biết người này hiển nhiên thuộc loại người mà cháy nhà cũng phải mở miệng nói toàn lời chữ nghĩa, vì thế thập phần khách khí nói: “A Mạch nhận lời ủy thác của Đường Thiệu Nghĩa, giáo úy thành Hán Bảo, ngày đêm chạy tới Thái Hưng đưa tin, sự tình khẩn cấp, muốn mượn chiếc xe la của tiên sinh dùng một chút có được không?”
“Thái Hưng?” Từ Tĩnh chậm rãi hỏi.
“Đúng vậy, mong rằng Từ tiên sinh có thể lấy đại cục làm trọng, cho A Mạch mượn xe la dùng một chút, tiên sinh có thể cùng A Mạch chạy tới thành Thái Hưng, đến nơi rồi tất có hậu tạ.”
Từ Tĩnh cười lạnh một tiếng, nói: “Ngươi hiện tại không thể vào được thành Thái Hưng.”
A Mạch cả kinh, còn tưởng rằng đại quân của Thường Ngọc Thanh đã đến trước mình, vội hỏi: “Người Bắc Mạt đã đến rồi sao?”
Từ Tĩnh lạnh lùng, cao ngạo khẽ gật đầu, nói: “Thành Thái Hưng đã bị bao vây ba ngày rồi, ngươi hiện tại muốn vào được thành Thái Hưng, trừ phi mọc cánh.”
A Mạch có chút mông lung, nàng chạy một ngày một đêm mới đến được nơi này, vốn định vượt trước người Bắc Mạt tới thành Thái Hưng, không ngờ Thái Hưng đã bị người Bắc Mạt vây ba ngày, rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra? Rõ ràng người Bắc Mạt tấn công Thái Hưng là hư, chẳng lẽ nàng đã đoán sai, nhưng mặc dù đoán sai thì người Bắc Mạt cũng sẽ không thể đến sớm như vậy được. Ba ngày. Ba ngày trước người Bắc Mạt còn ở ngoài thành Hán Bảo mà.
Từ Tĩnh xem bộ dạng choáng váng của A Mạch thì cười lạnh một tiếng: “Bắc Mạc đại tướng quân Chu Chí Nhẫn lãnh mười vạn đại quân, sớm đã đem thành Thái Hưng vây chặt rồi, tiến vào thành Thái Hưng ư? Nằm mơ đi thôi.” Rồi xoay người lại phân phó xa phu nói: “Lão Trương, đánh xe, chúng ta đi hướng phía bắc tới Dự Châu!”
A Mạch sửng sờ có chút ngây ngốc, đến khi xe la đi qua bên cạnh, nàng mới giật mình tỉnh lại, nàng chạy nhanh hai bước, lập tức nhảy lên xe la, vén màn xe lên, Từ Tĩnh kinh sợ nhìn nàng, cả giận nói: “Ngươi –”
“Hướng đông! Đi Thanh Châu!” A Mạch lạnh giọng nói.
Từ Tĩnh thở phì phì đến bay cả râu, trừng mắt nói: “Thanh Châu? Không đi! Ta vừa gieo quẻ, ta phải đi Dự Châu mơi phát đạt! Làm chi phải đi Thanh Châu? Người này rất không biết phân rõ phải trái, đây là xe la do ta mướn, ngươi dựa vào cái gì mà nhảy lên, đi xuống! Đi xuống!”
A Mạch rút bảo kiếm đeo bên hông ra, hướng thẳng vào người Từ Tĩnh, lạnh lùng nói: “Đi Thanh Châu!”
Từ Tĩnh lập tức cứng đờ, một lúc lâu sau mới nhận rõ tình huống, vô lực nói với xa phu: “Lão Trương, quay lại hướng đông, đi Thanh Châu.”
————————————-
Từ Tĩnh là người Kinh Châu, tinh thông thơ văn cùng binh pháp, tính tình cao ngạo, ẩn cư nơi hoang dã. Mùa thu năm Thịnh nguyên thứ hai, Bắc Mạc xâm phạm biên giới, giết chóc khắp nơi, Tĩnh vì phẫn uất mà tòng quân, trên đường đi gặp Mạch soái, soái lấy tình hình chiến sự mà hỏi, Tĩnh ngay tức khắc trả lời, đối đáp rành mạch, Mạch soái nghĩ đã gặp được kỳ tài, rất yêu mến, cùng nhau đến Dự Châu……
[ hạ thư - Từ Tĩnh truyền ]
Chương 10
TÂM TƯ
Lão Trương thật ra là một xa phu rất biết nghe lời, ngay cả vì sao phải đi hướng Đông cũng không hỏi, chỉ quay xe lại rẽ theo con đường đi về phía Thanh Châu.
Từ Tĩnh ở trong xe, khuôn mặt âm trầm quét qua quét lại trên mặt A Mạch, những câu mằng chửi vẫn nghẹn ở trong bụng, vì mũi kiếm của A Mạch nhẹ để ở trước ngực mà không dám nói thành lời. A Mạch thấy sắc mặt ông ta biến ảo, thì thản nhiên nói: “Tiên sinh đừng vội trách cứ A Mạch vô lễ, có lẽ về sau này tiên sinh sẽ phải cảm tạ A Mạch vì đã cứu ông một tính mạng .”
Từ Tĩnh nghe vậy thì trên mặt lộ vẻ rất ngạc nhiên, ông ta vốn là người có tâm trí rất cao, nghe A Mạch đột nhiên nói ra những lời ấy, vất vả nghĩ ngợi một chút liền đoán ra. Nàng nhận lời ủy thác của một giáo úy thủ thành Hán Bảo mà đến đây, tất sẽ biết một chút việc quân cơ yếu, theo bản năng liền hỏi: “Chẳng lẽ là Dự Châu có biến?”
A Mạch cả kinh nhìn về phía Từ Tĩnh, trong mắt còn ánh lên nỗi kinh ngạc. Từ Tĩnh thấy vậy không khỏi cười lạnh, thầm nghĩ tiểu tử này dù sao vẫn còn ít tuổi, dấu không được chuyện gì, mọi tâm tư trong lòng đều hiện hết lên trên mặt, để cho người như vậy đưa thư cơ yếu, có thể thấy thành Hán Bảo thật sự đã hết người.
“Tiểu tử nhà ngươi không cần nhìn ta như thế”. Từ Tĩnh khinh thường bĩu môi, lạnh giọng nói: “Ngươi một thân vấy máu, chính là vừa trải qua một kiếp sinh tử. Thành Hán Bảo vốn rất nhỏ, căn bản là không ngăn được đại quân Bắc Mạc, tất sẽ bị phá. Đại quân Bắc Mạc đi từ phía tây đến, tất sẽ không vì một cái thành Hán Bảo nho nhỏ mà dừng lại, nên sau khi hạ thành Hán Bảo xong, hoặc là sẽ đưa quân đến thẳng thành Thái Hưng, hoặc là lên phía Bắc vây khốn Dự Châu. Kết hợp với Đông lộ Bắc Mạc đại quân tạo thành thế gọng kìm đánh Nam Hạ. Thành Thái Hưng gặp nguy, điều này cũng là lẽ thường. Nhưng người Bắc Mạt cũng có khả năng làm một chuyện khác với lẽ thường là đi lên phía Bắc vây hãm, tấn công Dự Châu, khống chế yết hầu Giang Bắc, làm cho ba mươi vạn đại quân ở biên giới phía Bắc của ta hai mặt thụ địch mà không thể chi viện Thái Hưng. Ngươi nhận lời ủy thác từ thành Hán Bảo, khả năng đã biết tây lộ Bắc Mạc đại quân đi về phía nào. Ngươi đến thành Thái Hưng vốn không ngoài hai mục đích. Thứ nhất là cảnh báo, cầu cứu. Bất quá sau khi ngươi biết được Thái Hưng bị vây liền đi Thanh Châu, xem ra hẳn là mục đích thứ hai. Hiện tại Thái Hưng cùng Dự Châu đã ở vào thế chết, chỉ có Thanh Châu có thể dẫn binh tới cứu, lão phu nói như vậy có đúng không?”
A Mạch nghe Từ Tĩnh phân tích, trên người toát ra một tầng mồ hôi lạnh, thiếu chút nữa giơ ngón tay cái ra thể hiện sự bội phục đối với hán tử gầy gò này. Không gì ông ta nói mà không đúng, chỉ trừ một điểm, đó là nàng đi Thanh Châu không chỉ vì viện binh, mà là muốn mượn Thanh Châu, xuyên qua Thái Hành, rời bến, theo đường biển đi Giang Nam.
Từ Tĩnh nhìn bộ dáng A Mạch vừa kinh sợ, vừa ngây ngốc, trên mặt lộ ra sự đắc ý tươi cười, không tự chủ được khẽ cử động bộ ngực gầy yếu. Không cẩn thận chạm phải mũi kiếm trước ngực, ông ta biến sắc, cả giận nói A Mạch: “Tiểu tử, ngươi còn không nhanh thu kiếm của ngươi về, cẩn thận ngộ thương lão phu rồi, thì ngươi có hối hận cũng không kịp!”
A Mạch bị ông ta làm cho cả kinh, vội vàng thu kiếm, cúi đầu chậm rãi tra kiếm vào vỏ, các loại ý niệm trong đầu nhanh chóng vòng vo lướt qua một lượt, đến khi ngẩng đầu lên thì biểu hiện trên mặt đã sớm thay đổi, chỉnh trang lại vạt áo, hướng về phía Từ Tĩnh vái một vái, cực kỳ khẩn thiết nói: “A Mạch vô lễ, mong tiên sinh tha thứ. Còn thỉnh tiên sinh cứu ta.”
Vẻ mặt Từ Tĩnh từ sợ hãi chuyển thành kiêu căng, thẳng lưng nhận của A Mạch một lễ, miệng hừ lạnh.
A Mạch không để ý đến phản ứng của ông ta, chỉ cúi đầu nói tiếp: “A Mạch tuy là người làm ăn buôn bán, song vẫn nhìn ra tiên sinh là người có tài kinh thiên vĩ(1), ngày sau tất nổi danh khắp bốn nước.”
Chỉ bằng mấy câu nói vuốt đuôi ngựa này mà đã chụp được cả tứ chi của nhà thông thái Từ Tĩnh, khiến cho ông ta cảm thấy thực là thoải mái, tay không tự chủ được đưa lên vuốt ve mấy cọng râu dê, thầm nghĩ tiểu tử này tuy rằng hơi lỗ mãng, nhưng ánh mắt thật ra còn có chút sáng suốt. Nghĩ như thế, nỗi tức giận trong lòng đối với A Mạch đã giảm đi ba phần.
“Chỉ bằng gặp một người là A Mạch, mà tiên sinh có thể đem thế cục thiên hạ nói được thấu triệt như vậy, tiên sinh quả thật là người thần, A Mạch không ngừng bội phục.”
Từ Tĩnh ánh mắt lại càng lim dim, nỗi bất mãn với A Mạch lại giảm thêm ba phần nữa.
A Mạch trộm quan sát phản ứng của Từ Tĩnh, tự cảm thấy nếu nói bản thân đã nắm được thóp của ông ta thì cũng không có gì sai biệt lắm, lúc này mới nói tiếp: “Tiên sinh vội đi Dự Châu, tất là muốn cứu dân chúng khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. A Mạch không biết, đã làm hỏng kế hoạch của tiên sinh, thật sự là có tội. Thành Hán Bảo đã bị phá, quân sĩ thủ thành của ta đều chết trận ở trên tường thành, thủ thành Lưu đại nhân lại lấy thân tuẫn quốc(2), A Mạch chịu sự ủy thác của Đường giáo úy, hận không thể lập tức bay đi Thanh Châu dẫn cứu binh tới cứu. Mong rằng tiên sinh nghĩ đến tâm tư chân thành của A Mạch cũng chỉ vì một lòng vì nước mà tha thứ cho sự vô lễ của A Mạch lúc ban đầu.” A Mạch nói xong, trong thanh âm lại mang theo tiếng nức nở, đầu đã cúi xuống rất thấp.
Từ Tĩnh thấy A Mạch nói như thế, chút bất mãn trong lòng đã hoàn toàn biến mất. Nhìn thấy hình dáng của A Mạch lúc này, thậm chí tâm tư lay động mà nói: “A Mạch cũng là một mảnh chân tình vì nước vì dân, lão phu thông cảm được mà.”
A Mạch thiếu chút nữa cảm động đến rơi nước mắt, lại thi lễ. Lúc này Từ Tĩnh dùng tay nâng A Mạch dậy, nói: “Tráng sĩ, xin đứng lên, Từ Tĩnh chịu không nổi đại lễ như vậy.”
A Mạch vừa nghe ông ta thay đổi cách xưng hô từ tiểu tử một đường lên đến tráng sĩ, trong lòng liền có chút đắc ý, tìm nơi sạch sẽ trên ống tay áo lau lau khóe mắt, nói: “Ta cùng Đường giáo úy đã giao ước, hắn tiến đến Dự Châu cảnh báo, còn ta chạy tới Thái Hưng cầu cứu. Nhưng nay cả thành Thái Hưng cũng đã bị vây, ta chỉ còn cách chạy tới Thanh Châu cầu cứu, còn thỉnh tiên sinh trợ giúp ta.”
“Thỉnh tráng sĩ cứ nói.”
A Mạch lấy tấm huy hiệu thiếu úy bằng đồng mà Đường Thiệu Nghĩa giao cho nàng, dùng hai tay đưa cho Từ Tĩnh, nói: “Đây là tín vật của Đường giáo úy, dùng vật này đi Thanh Châu cầu kiến thủ thành, A Mạch muốn mời tiên sinh thay A Mạch đi Thanh Châu.”
“Nhưng –”
“Tiên sinh, xin nghe A Mạch nói hết, A Mạch sẽ hộ tống tiên sinh tới Thanh Châu, sau đó lập tức chạy tới Dự Châu,” A Mạch dùng tay lau lệ, thần sắc bi tráng nói: “Đường giáo úy đối A Mạch có ơn cứu mạng, A Mạch tất phải liều chết đi theo Đường giáo úy. A Mạch vốn mồm miệng vụng về, nói không rõ tình hình chiến sự, sợ không thuyết phục được thủ thành Thanh Châu dẫn binh tới cứu, cho nên phải cầu tiên sinh giúp ta.”
Từ Tĩnh hình như có do dự, cúi đầu nhìn huy hiệu bằng đồng dính máu trong tay, lại ngẩng đầu khó xử nhìn A Mạch, rốt cuộc hiên ngang lẫm liệt gật đầu nói: “Tráng sĩ yên tâm, Từ Tĩnh nhất định xin dùng ba tấc lưỡi thuyết phục Thanh Châu phát binh đi cứu Dự Châu thoát khỏi nguy cấp.”
Hai người lại hướng về nhau thi lễ, sau đó mới đứng thẳng dậy, đều là vẻ mặt bi tráng, thật chân thành cầm lấy tay nhau, bốn mắt đều đẫm lệ. Đến giữa trưa, xe la dừng lại ở nhà trọ, A Mạch cùng Từ Tĩnh nắm tay nhau cùng bước xuống, khiến lão Trương sợ ngây người, miệng há rộng đến nỗi có thể nhét vừa được một con ngỗng. Ông ta thừa dịp A Mạch không ở trước mặt, dùng ám hiệu cứa ngang cổ, vụng trộm hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh, thế nào mà ngài lại cùng sơn tặc bắt tay nhau rồi?”
Từ Tĩnh liếc mắt nhìn A Mạch ở phía xa xa, trên mặt lộ ra vẻ tươi cười thâm sâu khó lường, muốn nói cái gì đó, nhưng đột nhiên ý thức được lão Trương bên người bất quá chỉ là một tên ngu dân trong núi, nếu muốn nói cho ông ta hiểu khác gì đem đàn gảy tai trâu, vì thế chỉ nhàn nhã liếc mắt nhìn ông ta một cái, khinh thường nói: “Đánh xe của người đi, quản nhiều chuyện như vậy làm gì? Lão phu tất có đạo lý của mình!”
Từ Tĩnh cùng A Mạch cùng nhau đồng hành trên một con đường, mặc dù mỗi người một tâm tư, nhưng vẫn ở chung hòa hợp. Đi đến buổi chiều ngày thứ ba, ngoài xe có tiếng vó ngựa dần đến gần. Bên trong xe, cả hai người đều nhíu mày, bởi vì từ khi chiến loạn bắt đầu, trên đường rất ít gặp được người đi đường, lại hiếm khi thấy người cưỡi ngựa là khách thương(3). Từ Tĩnh khẽ hé mở màn xe nhìn ra bên ngoài, rồi quay lại, trên mặt liền ngưng trọng.
“Là thám báo.” Từ Tĩnh nói.
A Mạch sắc mặt có chút không tốt, đã có thám báo xuất hiện ở vùng phụ cận, như vậy nhất định là có quân đội ở gần đây, chỉ có điều không biết là quân Bắc Mạc hay là quân Nam Hạ. Chẳng lẽ người Bắc Mạc lại đến nhiều như vậy, định xâm chiếm toàn bộ Giang Bắc hay sao?
Từ Tĩnh cũng đã là nhận ra đây là thám báo của Nam Hạ, nhưng ông ta cũng không hề cảm thấy hưng phấn. Nếu nói mặt sau cũng là quân đội Thanh Châu, như vậy ông ta đi Thanh Châu cũng hoàn toàn là vô nghĩa sao?
Hai người đều lo lắng không thôi, một lát sau, tên thám báo lúc nãy lại quay trở về. Chưa đến nửa canh giờ, phía trước có hơn mười kỵ mã hướng về phía xe la bọn họ phi tới như bay.
“A Mạch, những người này đúng là binh mã của Thanh Châu” Từ Tĩnh thấp giọng nói, dừng một chút lại nói tiếp,“Ngươi cần phải nói chuyện thật cẩn thận, trăm ngàn lần không thể để cho bọn họ tưởng lầm chúng ta là mật thám của Bắc Mạc, nếu ngươi không làm được, chi bằng giả bộ như là con cháu của ta, chờ sau khi chúng ta có cơ hội gặp lại Đường giáo úy rồi sẽ giải thích –”
“A Mạch hiểu!” A Mạch nói, nàng trong lòng mơ hồ đoán được Từ Tĩnh muốn lợi dụng nàng và tin tức từ Hán Bảo để đi qua nơi này, nhưng cũng không nói toạc ra, chỉ tỏ vẻ phó thác hết thảy cho Từ Tĩnh lo liệu.
Quả nhiên, hơn mười kỵ binh kia đều tiến tới bao vây lấy xe la của bọn họ, một tên lính dùng mũi thương gẩy màn xe ra, quát: “Xuống xe!”
Từ Tĩnh cùng A Mạch vội vàng xuống xe, Từ Tĩnh lấy tấm huy hiệu bằng đồng của Đường Thiệu Nghĩa trong tay nải ra, giơ lên cao quá đỉnh đầu, lớn tiếng nói: “Chúng ta chịu sự ủy thác của giáo úy thành Hán Bảo Đường Thiệu Nghĩa, có việc quân tình khẩn cấp cầu kiến thủ thành Thanh Châu, mong quân gia dẫn kiến(4).”
Thám báo tiếp nhận tấm huy hiệu bằng đồng, nhận ra đó là của quân Nam Hạ, vừa cẩn thận đánh giá Từ Tĩnh cùng A Mạch một chút, rồi quay sang phân phó những người khác: “Trước cứ trói chúng lại, đợi ta đi bẩm báo tướng quân.” Nói xong liền quay ngựa phi đi.
Đi được hơn hai mươi dặm, liền gặp được quân đội của Nam Hạ đang trên đường từ Thanh Châu tới Thái Hưng chi viện. Lĩnh quân là một viên tướng quân trẻ chỉ chừng hơn hai mươi tuổi, một thân ngân giáp(5), thoạt nhìn thật là tuấn mỹ. Đúng là thủ thành Thanh Châu, vị “Bại hoại tướng quân”, Thương Dịch Chi.
Hắn vốn ở trong kinh thành nổi tiếng ăn chơi trác táng. Vốn xuất thân trong một gia đình hiển hách, lẽ ra hắn không phải lưu lạc đến Thanh Châu. Nhưng vì phạm phải việc nam nữ, chọc cho phụ thân hắn vốn xuất thân binh nghiệp náo loạn cả lên, vì thế liền bị sung quân đến Thanh Châu.
Một kẻ ăn chơi trác táng thì biết gì về quân đội đây? Tên Thương Dịch Chi này đến Thanh Châu được đặt biệt danh là “Tứ không”: không quân trang, không ở trong quân doanh, không thao luyện, không nghiên cứu trận pháp. Mỗi ngày mặc một thân cẩm y trắng gọn gàng, hết ngâm thơ lại nói chuyện trăng gió. Dân chúng ở Thanh Châu vừa tiễn bước “Bao cỏ tướng quân” sau lại nghênh đón “Bại hoại tướng quân” là hắn. Đừng nói dân chúng Thanh Châu độc mồm độc miệng, ngươi đã gặp qua kẻ nào ngay cả cận vệ cũng nhất định phải chọn những chàng trai có bộ dáng xinh đẹp, thân thể trẻ trung chưa?
——————
Chú thích:
(1) tài kinh thiên vĩ: tài cao sánh ngang với trời
(2) tuẫn quốc: chết vì nước
(3) khách thương: người buôn bán
(4) dẫn kiến: dẫn đi gặp mặt
(5) ngân giáp: áo giáp bạc
Chương 11
THƯƠNG DỊCH CHI
A Mạch, Từ Tĩnh và lão Trương bị mấy quân sĩ đưa đến trước ngựa của Thương Dịch Chi. Lão Trương đã sớm bị đao kiếm chói lọi dọa cho sợ tới mức thần hồn bay tứ tán, quân sĩ vừa buông lỏng tay, ông ta liền quỳ rạp xuống trước xe ngựa, một bên dập đầu, một bên kêu to: “Xin quân gia tha mạng, xin quân gia tha mạng.”
Thương Dịch Chi mày kiếm nhíu lại, có chút không kiên nhẫn quét mắt nhìn lão Trương một cái, sau đó lại nhìn về phía A Mạch cùng Từ Tĩnh.
A Mạch đầu gối mềm nhũn đã muốn quỳ xuống, nhưng khóe mắt chạm đến hình ảnh Từ Tĩnh vẫn đứng thẳng tắp, liền cố gắng nhẫn nhịn, cũng ưỡn lưng đứng hiên ngang.
Thương Dịch Chi có chút ngoài ý muốn, hai mắt không khỏi nhìn A Mạch cùng Từ Tĩnh. Vì thế A Mạch liền lập tức hối hận, thầm nghĩ mình học ai không học, lại đi học cái sĩ diện của Từ lão đầu này làm chi cho khổ! Phải biết rằng trong cái thế giới này, dân quỳ lạy quan, hạ cấp quỳ lạy thượng cấp, đó đều là những chuyện thường tình, nàng cũng đã sớm luyện tập mà thành thói quen, thế nào mà hôm nay đi theo Từ lão đầu lại thành phát bệnh như vậy?
Thương Dịch Chi lật lật tấm huy hiệu giáo úy bằng đồng của Đường Thiệu Nghĩa trong tay, thản nhiên hỏi: “Ai là tín sứ(1) của Đường Thiệu Nghĩa?”
A Mạch vụng trộm liếc Từ Tĩnh một cái, thấy ông ta vẫn giữ vẻ mặt cao ngạo đứng đó, quyết định vẫn là chính mình phải xuất đầu lộ diện, vì thế tiến lên phía trước từng bước, rồi thi lễ nói: “Là tiểu nhân, bốn ngày trước thành Hán Bảo bị phá, Đường giáo úy dẫn theo tiểu nhân từ trong thành chạy ra ngoài. Ngài ấy đem theo đứa con côi của thủ thành Lưu đại nhân chạy tới Dự Châu, lệnh cho tiểu nhân tới Thái Hưng đưa tin cầu viện binh.”
“Vậy sao?” Thương Dịch Chi nhíu đôi mày kiếm, không âm không dương hỏi: “Nếu hắn lệnh cho ngươi tới Thái Hưng, tại sao ngươi lại chạy về Thanh Châu?”
“Tiểu nhân đến ngoài thành Thái Hưng thì mới biết được Thái Hưng đã bị vây nhiều ngày, Từ tiên sinh nói Bắc Mạc giương đông kích tây, để giải cứu Dự Châu thoát khỏi hiểm nguy chỉ có thể dựa vào Thanh Châu mà thôi.”
“Từ tiên sinh?” Thương Dịch Chi hỏi.
A Mạch thầm nghĩ ngươi cuối cùng cũng đã biết phối hợp, lão tử chính là chờ ngươi hỏi câu này đây. Vì thế liền hướng đến người bên cạnh vốn đang đợi để được lên sân khấu, Từ Tĩnh. “Đây là Từ tiên sinh mà tiểu nhân gặp trên đường đi, ngài ấy chỉ gặp tiểu nhân mang theo một trang phục vấy máu đi từ hướng thành Hán Bảo lại, không cần hỏi tiểu nhân một câu, liền đem ý đồ của tiểu nhân đoán ra triệt để, còn nói cho tiểu nhân biết Dự Châu nay đã ở vào tình trạng cực kỳ hung hiểm, nói là Dự Châu của ta là nơi yết hầu gì đó, thát tử cái gì mà đói bụng liền chế trụ cái gì đó.”
Khuôn mặt A Mạch lộ vẻ buồn rầu sâu sắc, rõ ràng không thể nhớ hết những lời Từ Tĩnh đã từng nói qua.
Từ Tĩnh ở phía sau, nhịn không được tiếp lời nói chen vào: “Là nói chặn nơi yết hầu, thát tử bóp chẹn một thành mà khống chế toàn cảnh Giang Bắc của ta.”
“Đúng!” A Mạch kêu lên, thầm nghĩ cho dù là phải tâng bốc một chậu phân đi chăng nữa, thì ta trước cứ để cho ngươi lên sân khấu đã rồi nói sau.
Từ Tĩnh ngẩn ra, trong lòng ngay lập tức mắng thầm, hay cho cái thằng nhãi giả dạng thỏ non, dọc đường đi ta chưa từng thấy ngươi miệng lưỡi vụng về như vậy, thế nào mà lúc này ở trước mặt tướng quân đây ngươi liền bị choáng váng đến vậy? Nguyên lai là tiểu tử nhà ngươi chờ ta a.
Quả nhiên, Thương Dịch Chi lại nhìn về hướng Từ Tĩnh, ánh mắt đã không giống trước. Hắn khẽ phất phất tay, kêu phó tướng phía sau tiến lên, khẽ nghiêng đầu phân phó hắn đi an bài đại quân dựng trại tạm nghỉ, nói hôm nay dừng ở nơi này. Viên phó tướng lĩnh mệnh thối lui, Thương Dịch Chi lại quay đầu nhìn mấy người bọn họ, tầm mắt chuyển tới A Mạch, mơ hồ khẽ nhíu nhíu đầu mày, liền phân phó vệ binh đưa A Mạch xuống thay quần áo cho sạch sẽ.
Thanh Châu vốn có hơn hai vạn quân, Thương Dịch Chi nhận được lệnh của triều đình Nam Hạ yêu cầu xuất binh cứu viện Thái Hưng, chỉ để lại năm ngàn quân lại Thanh Châu để phòng ngừa có biến, còn lại tất cả đều dẫn tới Thái Hưng. Một vạn quân vốn cũng không tính là nhiều, nhưng đối với vùng hoang dã này thì cũng đã là cực hạn rồi.
Tên vệ binh có diện mạo thanh tú kia dẫn A Mạch đi ra phía sau thay quần áo, hắn âm thầm được Thương Dịch Chi bày mưu đặt kế, đem quần áo ném cho A Mạch nhưng vẫn chưa tránh đi, vẫn đứng ở một bên canh chừng A Mạch. A Mạch thấy thế, biết lúc này nếu mình chỉ hơi do dự sẽ khiến hắn hoài nghi, nên ngoài mặt vẫn bình tĩnh cởi thắt lưng, trong đầu nhanh chóng xoay chuyển. Bọn họ có lẽ là hoài nghi trên người mình có dấu cái gì đây.
Nếu đổi thành một nữ tử khác, chỉ sợ không thể ở trước mặt nam nhân xa lạ mặc nhiên cởi áo, tháo thắt lưng. Đương nhiên, đó là nói những nữ tử bình thường. Đáng tiếc, A Mạch thật sự không phải là nữ tử bình thường trên đời này. Nàng âm thầm cắn chặt răng, trước cởi giầy, hất ra một góc xa xa, sau đó ở trước mặt tên cận về cởi quần dài xuống.
Hình dáng đôi chân của nàng rất đẹp và rắn chắc, thẳng tắp thon dài, tuy rằng nàng hơi gầy nhưng vẫn có thể mơ hồ nhìn ra hình dáng cơ thể, hơn nữa màu da của nàng cũng không trắng trẻo, trơn nhẵn bình thường như các nữ tử khác, mà là có chút gân guốc nhợt nhạt. Với màu da này, thì đến một nửa đội cận vệ của Thương Dịch Chi so với nàng còn trắng hơn! Đôi chân không được coi là nhỏ nhắn của nàng đã lừa được tên cận vệ kia khiến hắn không chút hoài nghi định tiến lên.
A Mạch hai tay nắm lấy lưng quần cộc, cười gượng hỏi tên cận vệ: “Quân gia? Có thể có nội y cho ta thay không? Trên người ta có rận, tốt nhất nên để cho ta ra ngoài thay đồ.”
Tên cận vệ vừa nghe thấy trên người nàng có rận, vội vàng né vài bước ra sau, trên mặt biểu lộ sự khinh ghét nói: “Ngươi thực ra rất đẹp! Cho ngươi ra bên ngoài sẽ là sai lầm rồi!”
A Mạch cúi đầu khom lưng đồng ý, vội vàng lấy bộ đồ mới ra thay, lại thừa dịp xoay người làm động tác mặc quần áo, đem áo khoác trên người thay ra.
Tên cận vệ kia chỉ lo tránh quần áo bẩn của A Mạch, sợ rận nhảy sang người mình, căn bản không chú ý A Mạch chỉ cởi áo khoác mà không thay quần áo bên trong.
Thay quần áo xong rồi, tên cận vệ lại dẫn A Mạch đi rửa sạch mặt mũi. Chờ sau khi hắn thấy A Mạch ngũ quan tuấn tú, thái độ đối A với Mạch đột nhiên tốt hơn rất nhiều. Cho nên khi A Mạch nói đã đói bụng, muốn ăn chút gì lót dạ, hắn cũng không trách cứ gì nàng mà còn hảo tâm lấy cho A Mạch hai cái bánh ngô.
A Mạch vừa cắn bánh ngô, vừa nhịn không được lấy tay sờ sờ mặt mình, thầm nghĩ mẫu thân nói thật đúng, mặc kệ là nam hay nữ, người nào nếu lớn lên được mang một khuôn mặt đẹp, chính là có được sức mạnh.
Tên cận vệ kia cũng nghĩ như vậy, hắn nhìn đến bộ dạng xinh đẹp tuyệt trần của A Mạch, thân hình mảnh mai, cân đối, dựa vào sở thích của tướng quân, A Mạch rất có khả năng sẽ trở thành đồng sự của hắn trong đội cận vệ. Về sau ngẩng đầu không thấy, cúi đầu lại gặp, cũng không nên đắc tội.
Sau khi đã ăn uống no đủ rồi, tên cận vệ liền dẫn A Mạch đi gặp chủ tướng Thương Dịch Chi. Trong doanh trướng của chủ tướng có lệnh truyền vào, A Mạch bước tới, thấy Từ Tĩnh đã ở bên trong, đang cùng Thương Dịch Chi ngồi quanh một cái bàn không biết bàn bạc cái gì. A Mạch không khỏi bội phục ông ta tự đáy lòng, chỉ trong vòng công phu nàng ăn một bữa cơm, ông ta đã trà trộn được vào hàng ngũ tham mưu cho quân đội Thanh Châu rồi sao?
Người này có thể leo cao a! Hơn nữa xem vị trí của ông ta hiện giờ cũng không tệ lắm.
Thương Dịch Chi thấy A Mạch bước vào trong trướng, tùy ý nâng mắt nhìn qua, biểu tình trên mặt hơi có chút ngẩn ra, sau đó lại cúi đầu tiếp tục xem bày đồ hành quân bày trên mặt bàn. Nhưng Từ Tĩnh lại mở miệng gọi rất tự nhiên: “A Mạch, lại đây.”
A Mạch thầm nghĩ, hắc, người này so với ta còn thành thục hơn a. A Mạch đi lên phía trước, khi cách cái bàn vài bước liền cúi đầu đứng lại.
Thương Dịch Chi lần nữa ngẩng đầu lên, lạnh lùng nhìn về phía A Mạch nói: “Ngươi đem tình hình từ khi quân Bắc Mạc vây thành Hán Bảo tất cả đều kể lại hết cho ta.”
A Mạch liên mồm đáp ứng, rồi đem hành trình từ khi nàng tiến vào thành Hán Bảo, lúc bắt đầu lên tường thành kháng địch, từ vòng vây trốn ra ngoài đến trên đường đi gặp Từ Tĩnh, liên tiếp những sự kiện đã trải qua như thế nào, hư hư thực thực kể lại một lần. Nàng dấu nhẹm chuyện từng bị tống vào đại lao cùng chuyện giả chết bò khỏi tường thành trốn vào trong nhà Từ Tú Nhi.
Nàng mồm miệng lanh lợi, một chuỗi sự kiện này nói thật rõ ràng, chỉ thấy Thương Dịch Chi càng nghe, mặt mày lại càng nhăn lại.
“Ngươi nói quân Bắc Mạc phần lớn là kỵ binh?” Thương Dịch Chi lạnh giọng hỏi.
A Mạch nghĩ nghĩ, gật đầu.
“Ngươi cùng Đường Thiệu Nghĩa cũng không thể khẳng định kỵ binh Bắc Mạc chắc chắn đi về phía bắc, có phải hay không?” Thương Dịch Chi lại hỏi: “Ngươi vì thấy người Bắc Mạt chặt cây mà đoán vậy?”
A Mạch giật mình, vội vàng chối trách nhiệm: “Tiểu nhân không hiểu quân sự, là Đường giáo úy nói như vậy.”
Thương Dịch Chi sắc mặt càng thêm âm trầm, chính là lạnh mặt nhìn A Mạch không nói lời nào.
A Mạch trong lòng không ngừng than thở, thầm nghĩ năm nay thật sự là sao Thái Tuế chiếu mạng mà, Giang Nam có nhiều nơi để đi như vậy, mà nàng đi đâu không đi, lại đi đến thành Hán Bảo. Cho dù thật vất vả mới ra khỏi thành Hán Bảo, thế nào lại nhất thời ấm đầu nhằm hướng Thanh Châu mà chạy đến đây? Sông Uyển dài đến mấy ngàn dặm, chẳng lẽ còn lo không qua sông được sao, gì chứ như vậy đâu phải mất hết hy vọng? Chẳng lẽ là trong lòng mình không muốn phụ lại sự nhờ vả của Đường Thiệu Nghĩa, cho nên mới hướng đi Thanh Châu?
Từ Tĩnh đưa mắt xuống dưới, quét mắt nhìn A Mạch rồi lại nhìn về phía Thương Dịch Chi, đột nhiên nói: “Thương tướng quân có thể nguyện ý nghe một lời của Từ Tĩnh không?”
Thương Dịch Chi dường như đối với Từ Tĩnh rất coi trọng, nghe hắn nói như thế, ôn hòa cười, nói: “Mời Từ tiên sinh cứ nói.”
Từ Tĩnh theo thói quen đưa tay lên cằm vuốt vuốt mấy sợi râu, trầm giọng nói: “Tướng quân có từng nghĩ xem Bắc Mạc vì cái gì mà nhất định phải vây thành Thái Hưng của ta chưa?”
Vấn đề này Từ Tĩnh thật đúng là hỏi nhầm người. Thương Dịch Chi là ai? Đó là nhân tài kiệt xuất ăn chơi trác táng trong kinh thành, là “bại hoại tướng quân” trong miệng dân chúng Thanh Châu, ngươi còn hỏi hắn Bắc Mạc vì cái gì nhất định phải vây thành Thái Hưng?
Thương Dịch Chi chính là nhận được quân lệnh nói lập tức phải xuất binh cứu viện Thái Hưng, trong quân lệnh cũng không nói rõ Bắc Mạc vì sao nhất định phải vây khốn thành này. Bất quá nhắc tới Thương Dịch Chi cũng coi như nói đến một nhân vật láu cá, ánh mắt hắn vừa chuyển liền nhận ra Từ Tĩnh thực ra không muốn mình trả lời vấn đề này, vì thế khiêm tốn hỏi: “Tiên sinh có cao kiến gì không?”
Từ Tĩnh chỉ chờ những lời này của hắn liền nói tiếp: “Bắc Mạc có hai mươi vạn đại quân, nhưng ngoài thành Thái Hưng không phải là thảo nguyên Tây Hồ, đại đội kỵ binh ngoại trừ truy đuổi quân địch thì không có tác dụng gì, hơn nữa thế tiến quân của Bắc Mạc rất nhanh chóng, cũng không mang theo thiết bị công thành, vậy bọn họ dùng cái gì để công thành? Là dùng mấy cái xe bắn đá mà Chu Chí Nhẫn chế tạo bằng vài cây gỗ nhỏ ngoài thành Thái Hưng sao? Nếu đúng như thế, vậy thì dựa vào tường thành của thành Thái Hưng, thì thành này có thể thủ đến một năm rưỡi cũng không thành vấn đề.”
Vấn đề này A Mạch đã sớm nghĩ tới, nàng cũng hiểu được người Bắc Mạt tạo thanh thế lớn như vậy tấn công thành Thái Hưng thực ra là không khôn ngoan, chỉ có khả năng chính là muốn vây thành đánh viện binh. Quả nhiên nghe thấy Từ Tĩnh tiếp theo chậm rãi nói: “Trừ phi là bọn họ muốn vây thành đánh viện binh.”
Thương Dịch Chi mặt khẽ biến sắc, cho dù hắn chỉ là một tên bại hoại, nhưng tốt xấu gì cũng xuất thân tướng môn, nên những từ “Vây thành đánh viện binh” vẫn có thể nghe mà hiểu được. Hắn ngẩng đầu lên nhìn về phía Từ Tĩnh, trong mắt tinh quang chợt lóe lên.
Từ Tĩnh nhẹ nhàng cười, lại còn nói thêm: “Điểm này lão phu còn có thể nghĩ đến, người khác tự nhiên cũng có thể nghĩ đến.”
A Mạch cúi đầu lẳng lặng ở một bên, nghe Từ Tĩnh nhất thời đắc ý lại bắt đầu tự xưng là lão phu, không khỏi khẽ nhếch khóe miệng.
Thương Dịch Chi lại không để ý này nọ, chính là bình tĩnh hỏi: “Tiên sinh còn nhìn ra người Bắc Mạt có ý đồ gì khác sao?”
“Không sai!” Từ Tĩnh nói, trên mặt lộ ra một tia tươi cười thần bí, nói tiếp:“Tướng quân có từng nghĩ tới lần này đi cứu viện Thái Hưng sẽ mang đến kết quả gì chưa?”
Thương Dịch Chi mặc dù có chút bại hoại, nhưng không phải cái bao cỏ, thoáng suy tư một chút liền nói: “Nếu Bắc Mạc tấn công Thái Hưng, như vậy phần đông quân Thanh Châu của bản tướng sẽ phải chi viện cho Thái Hưng. Nếu người Bắc Mạt muốn vây thành đánh viện binh, như vậy quân Thanh Châu chính là trúng kế mà bị đánh cho không hay ho gì.”
Từ Tĩnh cười gật gật đầu khen: “Tướng quân anh minh, lần này đi Thái Hưng, đối với quân Thanh Châu không hẳn là tốt. Nhưng tướng quân chớ quên, người Bắc Mạt vây khốn Thái Hưng chỉ là một khả năng, bọn họ còn có một khả năng khác.” Ông ta dừng lại chốc lát, một đôi mắt nhỏ nhìn không chớp hướng về phía Thương Dịch Chi.
Thương Dịch Chi mày kiếm dựng lên, có chút kích động nói tiếp: “Còn có một khả năng chính là như lời Đường Thiệu Nghĩa nói, người Bắc Mạt đánh Thái Hưng là giả mà đánh Dự Châu mới là thật!”
――――――――――――――――――――――――――――――――――
Thành tổ có Ngôn phi, sủng hạnh dị thường, mới vào cung được hai tháng mà đã được phong làm phi. Phi có một tỷ tỷ, gả cho võ tướng từng là cận vệ. Ngày nọ, Ngôn thị phu nhân bắt gặp một bức hoạ cuộn tròn bên trong thư phòng vẽ một thiếu niên thân mặc nhung trang, mặt như quan ngọc, môi hồng răng trắng, tướng mạo bảy phần giống Ngôn phi. Ngôn thị thấy thật kỳ lạ, liền lấy bức họa hỏi phu quân xem nữ tử nhà ai lại giả trang thành thế này. Phu quân của bà liền vô cùng kinh sợ, răn dạy: “Đây là chiến thần Đại Hạ, chớ có đem dung mạo của ngươi là làm chuyện đùa.” Sau đó, Ngôn thị tiến cung gặp Ngôn phi, kể lại việc này, rồi cười nói rằng: “Vẻ đẹp của Quý nhân, nếu cải thành nam trang sẽ đẹp vô cùng” Mọi người đều nói phải, Ngôn phi ý cũng quyết. Một ngày nọ, Thành Tổ mệt mỏi ngồi uống rượu một mình, trừ tên thái giám giữ cửa, mọi người không được vào. Ngôn phi cải nam trang giả làm bồi bàn đi vào. Thành tổ nhìn thoáng qua, sắc mặt đại biến, nói rằng: “A mạch, khanh tới gặp trẫm.” Toại phụ thì thào kể cho Ngôn phi về nỗi khổ tương tư của Thành Tổ. Ngôn phi hoảng hốt, thân thể lập tức rét run. Thành tổ đang lúc uống rượu, ngỡ là nhìn thấy A Mạch, nhưng hóa ra lại là Ngôn phi, giận dữ phẩy tay áo bỏ đi. Ngôn phi vì thế mà bị giáng xuống làm tần, không được xuất cung. Ba tháng sau, lệnh cấm này được xóa bỏ, Ngôn phi liền hỏi Ngôn thị rằng: “Người trong bức họa là chiến thần thực sao?” “Phải” “Nhưng sao lại gọi là A Mạch?” Phu nhân kinh sợ hỏi lại: “Sao Ngôn tần biết nhũ danh của chiến thần?” Về sau, Ngôn tần đau lòng nói lại rằng: “Thành Tổ nhầm ta là A Mạch!”
——- đoạn tích tự [ hạ cung bí sử ] ——-
Chương 12
THÂN VỆ
“Không sai! Nếu nói vậy, tướng quân chỉ có thể đưa quân Thanh Châu đi cứu Dự Châu mà thôi.” Từ Tĩnh nói.
Thương Dịch Chi nhíu mày, lại hỏi: “Nhưng người Bắc Mạt thật sự sẽ đánh lén Dự Châu sao?”
Từ Tĩnh cười cười, lấy tay chỉ lên bản đồ trên mặt bàn theo hướng từ dưới lên, khoa tay múa chân nói: “Nếu là đi xuống phía dưới này, tất sẽ không tấn công Thái Hưng, mà sẽ dẫn binh theo sườn phía Tây dãy núi Ô Lan yên lặng mà lên, vượt qua con dốc thoai thoải này xuyên qua hệ thống núi Ô Lan sau đó chuyển sang hướng nam, bất ngờ tập kích Dự Châu, chia cắt phía nam và bắc của Giang Bắc ta, khiến cho biên quân của ta ở Tĩnh Dương không thể quay trở lại. Dự Châu lại là vựa lúa của Giang Bắc, hiện giờ lại đúng vào thời điểm thu hoạch vụ thu, người Bắc Mạc quân trang nhẹ nhàng mà đến, trong quân lương thảo tất nhiên không đủ dùng, vì vậy tấn công Dự Châu sẽ tiện thể lấy luôn lương thảo của ta.”
“Không sai!” Thương Dịch Chi đấm mạnh một quyền lên bàn, khiến mọi người trong trướng đều hoảng sợ. Thương Dịch Chi thấy biểu tình kinh ngạc của mọi người, liền cố nén kích động trong lòng, sắc mặt bình tĩnh nói: “Tiên sinh nói có lý, viện binh Thanh Châu của ta sẽ tới Dự Châu, nghênh đón thiết kỵ của thát tử ngoài núi Ô Lan.”
Phó tướng là một hán tử thô lỗ hơn ba mươi tuổi tên là Hà Anh Dũng. Nghe Thương Dịch Chi nói vậy, trên mặt có chút do dự, nói: “Tướng quân, nhưng chúng ta nhận được quân lệnh của triều đình là phải khẩn cấp chi viện cho Thái Hưng, nếu bây giờ chúng ta thay đổi đi Thanh Châu, triều đình trách tội xuống thì phải làm sao?”
Từ Tĩnh cũng lẳng lặng nhìn Thương Dịch Chi, cười mà như không cười hỏi: “Tướng quân có dám phiêu lưu mạo hiểm không?”
Thương Dịch Chi nhìn phó tướng Hà Anh Dũng, lại nhìn Từ Tĩnh, nhướn mi cười nói: “Ngươi nói thiếu gia ta sợ hay không sợ đây?”
Từ Tĩnh cùng Thương Dịch Chi nhìn nhau cười to, không buồn để ý tới Hà phó tướng, khiến hắn ta chỉ có thể trợn trừng đôi mắt trâu mê hoặc nhìn hai người. Thương Dịch Chi ngừng cười, đột nhiên phát hiện A Mạch vẫn cúi đầu đứng ở trong trướng, không khỏi nhíu mày, lạnh giọng hỏi: “Sao ngươi vẫn còn ở đây?”
A Mạch sửng sốt, thầm nghĩ ngươi không bảo ta đi. Ngươi không phân phó, ta dám đi sao? A Mạch đang nghĩ xem nên làm thế nào để nói lời cáo từ với viên tướng quân này thì nghe thấy Thương Dịch Chi phân phó người thân vệ bên cạnh: “Dẫn hắn đi” Dừng lại một chút liếc mắt đánh giá A Mạch một cái, lại nói thêm: “Đưa về dưới trướng là tốt rồi.”
A Mạch không rõ viên tướng này nói đưa nàng về dưới trướng là có ý gì, mãi đến kia tên thân vệ dẫn đi, nàng mới biết ý của Thương Dịch Chi là cho nàng làm thân binh đi theo hắn.
Hơn hai mươi năm trước, quân đội Nam Hạ từng trải qua một sự cải cách lớn, lúc ấy Tĩnh quốc công từng đem Bộ Binh đổi thành Bộ Quốc Phòng, bên dưới biên chế thành quân khu, quân, sư. Khi ấy, cải cách này gặp phải sự phản đối mãnh liệt của các lão thần trong triều. Về sau Tĩnh quốc công lui về quy ẩn, trải qua hơn hai mươi năm, biên chế trong quân đội của Nam Hạ đã có nhiều thay đổi, đến mấy năm trước mới dần dần ổn định. Bộ Quốc Phòng lại bị đổi trở lại thành Bộ Binh, phía dưới biên chế chia làm quân, doanh, đội, ngũ. Mười người là một ngũ, trăm người là một đội, ngàn người là một doanh, quân thì có lớn có nhỏ, lớn thì mấy vạn người, nhỏ thì mấy ngàn người. Quân hàm lại chia ra thành Soái, Tướng, Giáo, Úy, Ngũ trưởng, Binh. Theo đó, từ cấp “Úy” trở lên là có thân binh tùy tùng.
Đường Thiệu Nghĩa mặc dù được xưng là giáo úy, nhưng thật ra quân hàm “Úy” này chẳng qua chỉ là một chức đội trưởng mà thôi. Quân hàm của Thương Dịch Chi tất nhiên cao hơn hắn nhiều, xem như là chủ tướng của một thành, thủ hạ có hơn hai vạn binh lính. Dựa theo tiêu chuẩn có thể dùng đến cả ngàn thân binh, bất quá ngàn thân binh này cũng không phải đều theo bên người hắn hầu hạ, mà còn đảm nhiệm cả nhiệm vụ làm cảnh vệ, thông tin, cần vụ cho chiến địa.
Vừa rồi Thương Dịch Chi nói “dưới trướng” tức là chỉ mấy chục người theo hầu bên cạnh hắn. Tên thân vệ dẫn A Mạch đi thay quần áo lúc nãy đã quay lại, bản thân hắn bất giác có chút đắc ý, cảm thấy mình quả thực đoán không sai, tên A Mạch này đúng là một tiểu tử tuấn tú, thật sự có khả năng trở thành huynh đệ của mình.
Tên thân vệ kia tự giới thiệu: “Ta gọi là Trương Sinh, ta xem ngươi so với ta nhỏ tuổi hơn, về sau gọi ta là Trương đại ca là được rồi.”
A Mạch khóe miệng khẽ mím lại, vì đột nhiên nhớ tới rất lâu trước kia mẫu thân từng kể cho nàng nghe một câu chuyện xưa, có một người cũng được gọi là Trương Sinh, hiện tại nghĩ đến đã không còn nhớ rõ chuyện xưa nói cái gì, chỉ mơ hồ nhớ bên trong còn có người gọi là Hồng Nương, nha hoàn cùng Thôi Oanh Oanh tiểu thư(1).
“Trương đại ca, ngài gọi ta là A Mạch là được rồi.” A Mạch nói.
“A Mạch? Họ gì?” Trương sinh hỏi.
“Họ Mạch.”
“Họ Mạch? Kêu A Mạch?” Trương Sinh có chút khó hiểu: “Mạch A Mạch?”
A Mạch khóe miệng lại co rúm lại, nhưng không nói gì, chỉ gật gật đầu. Mạch Tuệ, cái tên kia do cha mẹ tùy tiện đặt cho, giống như đã chẳng còn liên quan đến mình nữa, thôi thì cứ gọi là Mạch A Mạch đi.
Từ đêm đó, A Mạch trở thành cận vệ tạm thời sống yên ổn trong doanh trướng của Thương Dịch Chi. Trong doanh trướng này có hai mươi thân vệ binh, ngoại trừ mười tên trực đêm trong đại nội quân trướng, bên trong còn lại mười người ngủ chung. Cùng một đám đàn ông ngủ chung một chỗ, A Mạch có cảm giác rất quái dị. Nhưng cũng may là trên đường hành quân cắm trại, những người này chẳng những phải đảm bảo an toàn cho chủ tướng, mà còn phải nghe hắn sai sử, cho nên nào dám ngủ mê mệt, nên về cơ bản đều là gối đầu lên binh khí mà ngủ.
A Mạch cuối cùng đã có thể thở dài một hơi nhẹ nhõm.
Có lẽ là đối với A Mạch còn có chút đề phòng cho nên Trương Sinh an bài A Mạch ngủ ở trong cùng, cũng may hắn còn nhớ chuyện trên người A Mạch có rận, nên trên mặt tuy không tỏ vẻ gì, nhưng theo bản năng lại nằm dịch ra bên ngoài, cách A Mạch càng xa càng tốt.
A Mạch có chút kinh ngạc khi phát hiện ra phần lớn vệ binh của chủ tướng đều là những thiếu niên có khuôn mặt thanh tú. Nàng không thể không nghĩ ngợi một chút, cho rằng cái tên “bại hoại tướng quân” này có lẽ có chút sở thích đặc biệt. A Mạch không biết rằng nàng nghĩ như thế thật quá oan uổng cho “bại hoại tướng quân”, cho đến sau này, khi nàng trở thành một tên tiểu binh, chính thức đứng trong hàng ngũ quân doanh, đến khi nàng dùng kiếm cắt đứt yết hầu của một người, A Mạch mới hiểu được Thương Dịch Chi dùng những thiếu niên có diện mạo đẹp đẽ này trong doanh trướng của mình thật là là có ý tốt.
Doanh trướng của đội cận vệ ngay sát doanh trướng của chủ tướng, bên trong doanh trướng của chủ tướng ánh nến vẫn sáng. Thương Dịch Chi cùng các tướng lĩnh thủ hạ không biết đang thương nghị cái gì. Mà Từ Tĩnh cũng vẫn lưu lại trong trướng, A Mạch nghĩ ông ta có khả năng đã lấy được sự tín nhiệm của Thương Dịch Chi, tuy rằng mới chỉ ngắn ngủi có nửa ngày.
Ngày thứ hai, quân Thanh Châu nhổ trại. Trương Sinh đưa cho A Mạch một con ngựa lông đỏ sẫm, hỏi A Mạch có biết cưỡi ngựa hay không. A Mạch vốn định nói là không biết, song nhìn lướt qua thấy hầu hết binh lính đều đi bộ liền nhanh chóng gật đầu. Nhưng khi quay đầu lại nàng đã thấy hối hận, bởi vì Từ Tĩnh lại được ngồi trên xe.
Từ khi A Mạch bán con ngựa duy nhất của mình đến giờ thì đã gần nửa năm nàng chưa cưỡi ngựa. Nửa năm qua tuy rằng nàng vẫn bôn ba khắp nơi, nhưng làn da trên đùi non của nàng cũng đã nhẵn nhụi đi nhiều. Nay lại cưỡi ngựa, không tránh khỏi việc thở ngắn than dài. Nhưng lại an ủi chính mình, dù sao nếu phải chạy trốn thì bốn chân nhất định phải nhanh hơn hai chân. Nghĩ như vậy, nhưng nàng lại không có can đảm bỏ trốn. Trong quân, việc đối đãi với binh lính đảo ngũ chỉ có một loại đãi ngộ gọi là “đao tước diện”(2), cái này thì nàng đã từng nghe nói đến.
A Mạch vài lần cưỡi ngựa đi ngang qua xe ngựa của Từ Tĩnh, nhìn ông ta ám chỉ vài thứ, ý tứ nói là mục đích của ông ta đã đạt được rồi, thì hãy nghĩ đến chút tình nghĩa mà nói giúp với Thương Dịch Chi thả nàng đi.
Song lần nào Từ Tĩnh cũng chỉ nở nụ cười bí hiểm mà không hề tiếp lời.
Đại quân tiến lên với tốc độ rất chậm, tuy rằng Thương Dịch Chi hạ lệnh phải đẩy nhanh tốc độ hành quân, nhưng vẫn phải đi mất tới mười ngày đường mới đến nơi. Khi quân Thanh Châu tới được ngoài thành Dự Châu thì đã là giữa chín tháng.
Trên đường đi, Thương Dịch Chi đã phái quân sĩ cưỡi ngựa chạy tới Dự Châu báo tin trước, sau vài ngày tên lính đó trở về, nói bốn cửa thành Dự Châu đều đóng chặt, giống như gặp phải đại địch. Khi quân Thanh Châu đi tới dưới thành, thấy quả thực như thế, càng bực hơn nữa chính là quân coi giữ thành Dự Châu lại nhất quyết không chịu mở cửa thành, nói là sợ trong quân có trá, sợ thát tử Bắc Mạc giả trang.
Thương Dịch Chi nghe xong thì vô cùng giận dữ, phi ngựa tiến lên phía trước mà lớn tiếng quát mắng, nói con mẹ các ngươi, ngay cả người một nhà mà cũng không nhận được sao? Bổn đại gia đi từ xa đến giúp các ngươi, các ngươi liền dùng cái đức hạnh này để đón tiếp? Mau gọi chủ tướng thủ thành Dự Châu ra đây, nhìn xem đại gia có phải là thát tử Bắc Mạc hay không?
Đương nhiên, nguyên văn lời nói của Thương Dịch Chi không phải là mắng chửi như vậy, hắn dù sao cũng là kẻ được học qua đèn sách, ở kinh thành là một nhân tài kiệt xuất về ăn chơi trác táng, tuy rằng bại hoại, nhưng văn nho(3) vẫn là có một chút.
Trên tường thành, quân coi giữ nghe thấy vị tướng quân dưới thành nói như vậy,thì vội vàng chạy đi mời chủ tướng. Viên chủ tướng kia họ Thạch tên Đạt Xuân, làm chủ tướng thành Dự Châu đã được bảy năm, trong suốt thời gian đó mới chỉ đến kinh thành hai lần, nhưng đều không gặp qua Thương Dịch Chi. Thương Dịch Chi lại mới tiếp nhận chức tướng quân thủ thành Thanh Châu, còn chưa kịp đến tới những thành thị lân cận la cà, cho nên hai người này chẳng ai nhận ra ai.
Thương Dịch Chi ở dưới thành hô to: bản tướng là chủ tướng thủ thành Thanh Châu Thương Dịch Chi, trên thành Thạch Đạt Xuân nào dám tùy tiện tin tưởng. Vì thế ông ta căn cứ vào nguyên tắc an toàn thứ nhất tắc hỏi lại: “Có bằng chứng gì không?”
Thương Dịch Chi giận đến nỗi thiếu chút nữa thì cẵn phải đầu lưỡi, thầm nghĩ ta chính là người sống đến đây, ngươi còn quản ta chứng minh thân phận sao? Muốn đòi loại bằng chứng nào đây? Chẳng lẽ còn phải đem ấn của ta đem cho ngươi nghiệm chứng sao? Đang nghĩ tới đây, không ngờ trên tường thành quả thực nói vọng xuống: “Nếu thật sự là Thương tướng quân, thỉnh đem ấn ra đây xem một chút.”
“Hắc! Giỏi! Giỏi lắm!” Thương Dịch Chi tức giận cười lớn. Ngay cả con ngựa đang cưỡi bên dưới tựa hồ cũng nóng rực lên, phát ra tiếng thở phì phì trong mũi, ở tại chỗ quay đi quay lại vài vòng. Thương Dịch Chi trong lúc xoay người tầm mắt vô tình nhìn thấy A Mạch đang đứng ở cách đó không xa, lập tức trở nên âm lãnh hai phần, hung hăng nhìn nàng một cái.
A Mạch trong lòng cả kinh, thầm nghĩ người này sẽ không vì giận chó đánh mèo đấy chứ? Nàng lập tức co rút người lại, muốn tránh khỏi ánh mắt hung ác của Thương Dịch Chi. Không ngờ lại nghe thấy âm thanh lạnh lùng của hắn: “A Mạch!” Hắn nghiến răng gọi.
“Đây!” A Mạch theo bản năng đáp lại, phía sau đó mơ hồ nghe thấy Trương Sinh nhỏ giọng mắng: “Phải nói “Có mặt”, không được nói “Đây”! Ngu ngốc! Nói bao nhiêu lần rồi!”
A Mạch hiện tại làm sao có sức cùng hắn so đo này đó, hai chân nhẹ thúc vào bụng ngựa, kinh hồn táng đảm tiến đến gần Thương Dịch Chi. Thương Dịch Chi đi đến sát tường thành, ngửa mặt nhìn về phía chủ tướng thành Dự Châu, hô to: “Xin hỏi tướng quân, giáo úy Đường Thiệu Nghĩa coi giữ thành Hán Bảo có ở trong thành không?”
————————
Chú thích:
(1) Trương Sinh, Hồng Nương, nha hoàn, Thôi Oanh Oanh: những nhân vật trong Tây Sương Ký.
(2) đao tước diện: khắc dao lên mặt
(3) văn nho: sự nho nhã của thư sinh
Chương 13
BIẾN CỐ KINH HOÀNG
Trên thành im lặng một lát, một lát sau, thân ảnh Đường Thiệu Nghĩa xuất hiện phía trên tường thành. A Mạch liếc mắt một cái liền nhận ra anh ta, trong lòng vui sướng, nhịn không được kích động kêu lớn: “Đường đại ca! Là ta, A Mạch!”
A Mạch sợ mình đã thay đổi trang phục thì Đường Thiệu Nghĩa sẽ không nhận ra, liền bỏ mũ giáp trên đầu xuống, hua hua tay về phía Đường Thiệu Nghĩa.
“A Mạch?” Đường Thiệu Nghĩa cả kinh, thân hình cao lớn vội vã nhìn xuống phía dưới tìm kiếm. Chỉ thấy phía trước cửa thành cách đó không xa, một thiếu niên cao gầy mặc chiến bào màu đen, khoác nhuyễn giáp đang ngồi trên ngựa, ngửa mặt nhìn về phía mình cười vui vẻ. Mi thanh mục tú, không phải A Mạch thì là ai!
Đường Thiệu Nghĩa hướng về phía Thạch Đạt Xuân bẩm: “Phía dưới quả thật không phải bọn thát tử, A Mạch chính là người cùng thuộc hạ chạy ra khỏi thành Hán Bảo, thuộc hạ đến Dự Châu, còn A Mạch chạy tới Thái Hưng báo tin.”
Thạch Đạt Xuân gật gật đầu, nhưng là vẫn cẩn thận hỏi lại: “Nhưng sao phía dưới lại là quân Thanh Châu?”
Đường Thiệu Nghĩa cũng không biết A Mạch vì sao lại dẫn quân Thanh Châu tới, đành hướng về phía A Mạch hỏi, A Mạch vội vàng hô lớn: “Thành Thái Hưng bị vây rồi, A Mạch đành phải chạy tới Thanh Châu, giữa đường gặp được Thương tướng quân đi cứu viện Thái Hưng, tướng quân nghe nói Dự Châu gặp nạn, liền vội chạy tới nơi này.”
Phía sau, Thương Dịch Chi đã không còn kiên nhẫn được nữa, thật không thể hiểu được vì sao Thạch Đạt Xuân là một võ tướng mà lại lề mề không dứt khoát như vậy, anh ta phóng ngựa tiến lên, giơ roi ngựa đang muốn chửi ầm lên, đúng lúc đó thấy cửa thành chậm rãi mở ra, Đường Thiệu Nghĩa cùng tướng lĩnh thành Dự Châu đi ra đón.
Thạch Đạt Xuân tuy rằng ít khi hồi kinh, nhưng cũng nghe nói qua về Thương Dịch Chi, biết thiếu gia này chẳng khác gì một tên Hỗn Thế Ma Vương, ngay cả hoàng cung cũng dám xông vào. Vừa rồi bởi vì phải đặt nguyên tắc an toàn lên hàng đầu, nên mới đưa ra những câu hỏi nghi vấn anh ta đến nửa ngày như vậy. Thạch Đạt Xuân chỉ sợ anh ta đã sớm không còn kiên nhẫn, vừa thấy anh ta liền vội vàng chưng ra một khuôn mặt tươi cười, tiến lên, gắng sức giải thích rằng mình thực ra là sợ người Bắc Mạt gian trá, cho nên mới vô lễ với anh ta, thỉnh anh ta trăm ngàn không nên lấy thế làm phiền lòng.
Thương Dịch Chi cười mà như không cười, nhìn Thạch Đạt Xuân, ôm quyền chắp tay, không âm không dương nói: “Thạch tướng quân quả thật là người cẩn thận, Dịch Chi bội phục, bội phục. Dịch Chi vừa rồi ở dưới tường thành đã nghĩ, nếu tướng quân không tin tưởng thân phận của Dịch Chi, Dịch Chi có lẽ sẽ đề nghị tướng quân cho người ném dây thừng xuống để Dịch Chi trèo lên, thuận tiện cho việc kiểm nghiệm của tướng quân, đồng thời chứng minh thân phận của mình.”
Lời này vừa nói ra, Thạch Đạt Xuân chỉ cảm thấy trong lòng lạnh toát, thầm nghĩ lúc nãy mình đắc tội hắn, chỉ sợ đường quan lộ của mình e rằng đã đến đường cùng.
A Mạch đứng phía sau, thấy Thương Dịch Chi kiêu ngạo như vậy thì có chút khó hiểu, thừa dịp không có người chú ý liền vụng trộm hỏi Từ Tĩnh.
Từ Tĩnh trộm nhìn về phía Thương Dịch Chi, nhỏ giọng hỏi A Mạch:“Ngươi không biết cha mẹ của Thương tướng quân là ai sao?”
A Mạch rất phối hợp lắc lắc đầu.
Từ Tĩnh vuốt râu cười bí hiểm, cũng lắc lắc đầu.
A Mạch lại càng thấy mờ mịt, bỗng trên bả vai bị một người dùng đại lực vỗ một cái từ phía sau, nàng quay đầu lại, thì ra là Đường Thiệu Nghĩa.
“Không thể tưởng tượng được là chúng ta còn có cơ hội tái kiến.” Đường Thiệu Nghĩa vẻ mặt cảm khái nói, lại cao thấp đánh giá trang phuc của A Mạch một chút, có chút vui mừng cười cười, nói: “Làm cận vệ của Thương tướng quân cũng không sai, huynh đệ, loạn rồi, loạn rồi!.”
A Mạch thầm nghĩ ta cũng không muốn ở trong này làm loạn, cố không muốn ôn chuyện cùng Đường Thiệu Nghĩa, vội vàng nắm lấy cánh tay anh ta, nói: “Đường tướng quân –”
“Ta không phải tướng quân,” Đường Thiệu Nghĩa vội vàng sửa lại nói: “Ngươi cứ gọi ta là Đường đại ca đi, vừa rồi ở dưới thành không phải ngươi đã kêu ta là đại ca sao? Ha ha ha, ta cảm thấy rất tốt, chúng ta đồng sinh cộng tử, tình nghĩa huynh đệ đã sớm sâu đậm, nếu ngươi nguyện ý, hãy kêu ta một tiếng đại ca đi.”
“Đường đại ca, ngươi –”
“Ngươi có muốn gặp Từ cô nương hay không?” Đường Thiệu Nghĩa lại cắt ngang lời A Mạch: “Nàng đang ở trong thành Dự Châu, ngay bên trong phủ trông nom cho tiểu công tử.”
A Mạch sửng sốt, nhớ tới tiểu cô nương nhu nhược kia, lại không khỏi nhớ tới một đêm bị khủng bố ở thành Hán Bảo, ba người nương tựa vào nhau cùng ra khỏi thành. Từ Tú Nhi đi theo Đường Thiệu Nghĩa, thì tất nhiên cũng đang ở trong thành Dự Châu, nhưng mình có muốn gặp nàng ta hay không? A Mạch thấy trong lòng mâu thuẫn, đột nhiên nhớ ra nàng cùng Đường Thiệu Nghĩa đang nói chuyện, vội vàng thoát khỏi trạng thái suy tư, hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đường đại ca, ngươi có thể nói với bọn họ một chút, nói ta –”
“Đường giáo úy!” Thạch Đạt Xuân đột nhiên gọi Đường Thiệu Nghĩa, Đường Thiệu Nghĩa vội vàng lên tiếng, không thể nghe tiếp A Mạch định nói gì, liền đi về phía trước. Khi ống tay áo của anh ta lướt qua A Mạch, nàng có chút choáng váng. Một lát sau, nàng liền thấy tức giận, nàng không phải là muốn cầu Đường Thiệu Nghĩa khiến cho những người đó thả nàng đi sao? Một câu như vậy cũng không chịu để cho nàng nói, mụ nội nó chứ, ông trời ơi, rốt cuộc ông muốn ta phải làm sao đây!
Bên trong phủ của thủ thành, tướng lĩnh cao cấp của Dự Châu cùng tướng lĩnh Thanh Châu do Thương Dịch Chi đưa tới đang ngồi lại với nhau, biểu tình đều có chút nghiêm túc. Đường Thiệu Nghĩa đến đây sớm hơn so với quân Thanh Châu mười ngày, đã đem tất cả những gì anh ta nhìn thấy ở thành Hán Bảo cùng với những gì mình phỏng đoán nói hết với tướng thủ thành Dự Châu Thạch Đạt Xuân. Thạch Đạt Xuân vốn nhận được quân lệnh của Bộ Binh yêu cầu ông ta phải mang binh đi cứu viện Thái Hưng, nghe Đường Thiệu Nghĩa nói, thì điều mà ông ta sợ nhất cũng giống như điều mà Đường Thiệu Nghĩa phỏng đoán, đó là người Bắc Mạt thừa dịp tấn công Dự Châu, thứ hai nữa là cũng đoán được người Bắc Mạt vây Thái Hưng là kế hoạch vây thành đánh viện binh. Cho nên muốn quan sát cho ổn thỏa, liền án binh bất động trong thành chờ xem xét kỹ tình hình rồi hẵng nói. Không ngờ là chờ đến nửa tháng mà quân Bắc Mạc vẫn không thấy đâu, lại thấy quân Thanh Châu của Thương Dịch Chi.
Thương Dịch Chi nghe Thạch Đạt Xuân nói lại về quân tình, sắc mặt trở nên lạnh băng, nheo mắt hỏi: “Vì sao không chặn đường thát tử Bắc Mạt ở bên kia sườn núi Ô Lan?”
Thạch Đạt Xuân sắc mặt có chút quẫn bách, đề nghị này Đường Thiệu Nghĩa đã sớm đề suất qua, nhưng ông ta cảm thấy kế hoạch đó thật quá mức mạo hiểm, nếu người Bắc Mạt không đi theo hướng bắc đến đây như phỏng đoán, ông ta không phái binh đi cứu viện Thái Hưng, trái lại lại đi giữ một cái cốc khẩu không quan trọng chút nào, chẳng phải là sẽ khiến cho mọi người chê cười sao.
Từ Tĩnh nhìn Thương Dịch Chi một cái rồi nói: “Cho dù không đi cốc khẩu mai phục, thì cũng có thể phái thám báo đi tới đó, chẳng lẽ Thạch tướng quân bỏ mặc cốc khẩu kia mà không để ý gì sao?”
Thạch Đạt Xuân sắc mặt có chút thả lỏng, vội vàng nói: “Mấy ngày trước đây đã phái thám báo đi rồi, phỏng chừng tin tức cũng sắp có.”
Thương Dịch Chi ánh mắt sắc bén mà lạnh như băng, lạnh giọng hỏi: “Mấy ngày trước đây?”
Đường Thiệu Nghĩa từ hơn nửa tháng trước đã đưa tin tức đến, mặc dù Thạch Đạt Xuân không dám phái binh đi cốc khẩu mai phục, ít nhất cũng phải phái thám báo đi tới đó giám thị chặt chẽ, ai ngờ ông ta mấy ngày trước mới nhớ tới việc phái thám báo. Một đạo lý đơn giản như vậy, ngay cả người được gọi là “Bại hoại tướng quân” như Thương Dịch Chi cũng hiểu được, nhưng ông ta là một tướng quân trong quân đội đã mấy chục năm, vậy mà lại không thể nghĩ đến.
Thương Dịch Chi cười gằn, giận dữ nói: “Thạch tướng quân quả thực là lão tướng cẩn thận a!”
Đây rõ ràng là nói mát, Thạch Đạt Xuân nghe được sắc mặt khẽ biến. Xét về cấp bậc, bọn họ cùng là tướng quân, xét về tuổi tác, ông ta so với Thương Dịch Chi nhiều hơn đến cả ngoài hai mươi tuổi. Trước mặt tướng lãnh hai thành, Thương Dịch Chi nói chuyện không chút kiêng nể, khiến cho ông ta không biết dấu nét mặt già nua đi đâu, vì thế cũng dùng giọng nói lạnh lùng không kiêu ngạo, không siểm nịnh nói: “Thương tướng quân có điều không biết, trên cốc khẩu Tần Sơn vốn có trạm gác của ta, nếu thát tử Bắc Mạc qua nơi đó tất sẽ có quân tình truyền tin đến.”
“Ồ!” Thương Dịch Chi nhướn mi, cười lạnh nói: “Vậy hy vọng đúng như lời Thạch tướng quân nói, bọn thát tử cũng không theo hướng bắc mà đến, Dịch Chi ở trong này quấy rầy hai ngày, rồi sẽ dẫn quân đi theo phía Nam đến thành Thái Hưng.”
Vừa dứt lời, chợt nghe thấy một tên lính liên lạc từ bên ngoài viện chạy vào: “Báo –, thám báo phái đi cốc khẩu đã trở lại!” Ngay sau đó, một binh sĩ thám báo cả người đầy máu tiến vào. Khi thám báo vừa tiến đến, người bên cạnh liền buông tay ra, anh ta lập tức té xuống đất, nhưng cố gắng chống đỡ thân mình đứng lên, hướng về phía Thạch Đạt Xuân vừa khóc vừa nói: “Tướng quân, người Bắc Mạt đánh lén trạm gác, toàn doanh tướng sĩ không một ai may mắn sống sót.”
Thạch Đạt Xuân sắc mặt trắng bệch, tiến lên nắm vạt áo của tên thám báo, run giọng hỏi: “Đại quân Bắc Mạc kia đâu rồi?”
“Bắc Mạc đại quân đã sớm qua Tần Sơn đi theo hướng bắc, bọn chúng còn để lại mai phục tại Tần Sơn giết thám báo của chúng ta, mười người đi chỉ có duy nhất tiểu nhân chạy thoát trở về.”
Thân hình cao lớn của Thạch Đạt Xuân phút chốc chao đảo, hai tay vô lực buông vạt áo của thám báo ra.
Mọi người trong sảnh đều bị tin tức này làm cho chấn động, trong lúc nhất thời cả đại sảnh trở nên tĩnh lặng. Khó trách đại quân Bắc Mạc đi qua Tần Sơn mà không người nào biết, nguyên lai bọn chúng đã sớm chuẩn bị hết thảy, đầu tiên là đánh lén trạm gác ở Tần Sơn, sau lại phái kỵ binh lưu lại phục kích thám báo của Dự Châu, xem ra bọn họ quyết tâm nhất định phải âm thầm không một tiếng động đi lên phía Bắc.
“Hướng Bắc? Như vậy không phải Dự Châu mà là Tĩnh Dương?” Từ Tĩnh tự nói một mình, người Bắc Mạt định chơi canh bạc nào đây. Ở Tĩnh Dương có ba mươi vạn biên quân Nam Hạ, thế nhưng bọn chúng lại muốn đi tấn công quan khẩu Tĩnh Dương? Cho dù người Bắc Mạt có thể nam bắc giáp công quan khẩu Tĩnh Dương, nhưng phía Bắc Tĩnh Dương không chỉ có địa hình hiểm yếu, mà thành Tĩnh Dương cũng là thành cổ trăm năm, thành cao hào sâu, kỵ binh làm thế nào để đánh hạ Tĩnh Dương!
Trên mặt Thương Dịch Chi giống như có một tầng hàn băng, lãnh lẽo không có chút hơi ấm nào. Chỉ yên lặng nhìn tên thám báo đang quỳ rạp trên mặt đất đến ngây người, đột nhiên hai tròng mắt căng thẳng, thất thanh hô: “Viện quân!”
Từ Tĩnh thoáng ngẩn ra rồi chợt hiểu ý tứ của Thương Dịch Chi, sắc mặt cũng không thay đổi, có chút chần chờ hỏi: “Không thể nào, biên quân Tĩnh Dương chính là thủ quốc quân của nước ta, triều đình sẽ không thể phái biên quân Tĩnh Dương quay lại cứu Thái Hưng được?” (Thủ quốc quân: quân giữ nước)
Thương Dịch Chi hung hăng đạp một cước lên cột nhà, oán hận nói: “Ai biết cái bao cỏ đó có làm như vậy hay không!” Rồi quay lại lạnh giọng phân phó: “Nhanh phái người thông tri cho Tĩnh Dương, có chết cũng phải đem tin tức tới đó trước người Bắc Mạt.”
Đáng tiếc, đã chậm mất rồi.
Ngày 29/8, biên quân Tĩnh Dương nhận được lệnh của Bộ Binh đưa quân cứu viện Thái Hưng. Chủ soái biên quân Tĩnh Dương La Nghĩa Thành cự tuyệt xuất binh, triều đình liên tục ban ra chín đạo thánh chỉ thúc giục La Nghĩa Thành xuất binh. Dưới áp lực quá lớn, phó tướng Trương Hùng đành phải lĩnh một nửa biên quân quay lại cứu Thái Hưng .
Ngày 10/9, Trương Hùng lĩnh mười lăm vạn biên quân Tĩnh Dương ra khỏi thành Tĩnh Dương, đi theo hướng nam chi viện cho Thái Hưng.
Đêm 16/9, viện quân Tĩnh Dương đi theo hướng nam bất ngờ bị kỵ binh Bắc Mạc tập kích đánh lén. Trong đêm đen, kỵ binh Bắc Mạc như từ trên trời rơi xuống, xâm nhập vào đại doanh của quân Tĩnh Dương, trong lúc nhất thời không kịpchuẩn bị, quân doanh Nam Hạ biến thành địa ngục lầy máu, hơn chín vạn người chết, gần sáu vạn người hàng địch đều bị chôn sống. Chủ tướng Bắc Mạc kỵ binh Thường Ngọc Thanh một trận thành danh, dùng mười lăm vạn chiếc đầu của binh lính Nam Hạ lót đường đưa anh ta trở thành danh tướng, thế nhân gọi là “Sát tướng”.
Đêm 19/9, chủ soái Tĩnh Dương La Nghĩa Thành bị ám sát, thành Tĩnh Dương như rắn mất đầu.
Ngày 21/9, Thường Ngọc Thanh cho quân giả trang thành quân của Trương Hùng, lừa Tĩnh Dương mở cửa thành phía nam, quân Bắc Mạc lọt được vào trong thành Tĩnh Dương, đánh từ trong đánh ra, mở hết các cửa thành nghênh đón đại quân Bắc Mạc bên ngoài vào thành.
Ngày 23/9, Tĩnh Dương hoàn toàn thất thủ.
Sau ba mươi năm, người Bắc Mạt cuối cùng đã lại một lần nữa tấn công Nam Hạ theo hướng bắc. Đồng thời, chủ soái Bắc Mạc vẫn giấu mặt phía sau rốt cục đã lộ diện. Trần Khởi, cái tên này trong thời gian ngắn nhất đã truyền khắp tứ quốc, trở thành một danh tướng vô tiền khoáng hậu.
Khi tin tức được truyền đến, là lúc A Mạch đang quỳ trước văn án của tướng quân thủ thành Thanh Châu Thương Dịch Chi xin được rời đi.
Thương Dịch Chi ngồi ở sau án, không ngẩng đầu lên, chỉ thản nhiên nói: “Ngươi coi quân doanh là nơi nào? Muốn đến thì đến, muốn đi thì đi?”
A Mạch cúi đầu cắn chặt răng, trầm giọng nói: “A Mạch vốn là không phải quân nhân, do chịu sự ủy thác của Đường giáo úy mới chạy tới Thanh Châu đưa tin, hiện tại A Mạch đã hoàn thành phó thác, muốn tìm muội muội thất lạc ở Dự Châu, tiểu muội tử một thân một mình không ai bên cạnh, cho nên tiểu nhân mạo muội đến để từ giã tướng quân.”
Thương Dịch Chi không tiếp lời, chỉ cúi đầu chuyên chú tập viết. Từ Tĩnh có chút bất mãn nhìn A Mạch một cái, vừa há mồm định nói chuyện, thì bên ngoài đã có tên lính thông tin lật đật chạy vào, đem quân báo trình tới Thương Dịch Chi.
A Mạch đợi lâu không thấy Thương Dịch Chi trả lời, nhịn không được vụng trộm ngẩng đầu lên nhìn, thấy anh ta hai tay mở quân báo, sắc mặt dần dần trắng bệch sau đó lại chuyển thành màu xanh, hai tay cầm tờ quân báo run rẩy đứng lên rồi đột nhiên xé rách quân báo trên tay, quát to một tiếng, nhấc chân đạp mạnh cái bàn trước mắt.
A Mạch trong lòng cả kinh, theo bản năng lắc mình tránh bút và nghiên mực đang bay tới.
“Ba mươi vạn! Ba mươi vạn đại quân a!” Thương Dịch Chi phẫn nộ kêu lên, rút soạt bội kiếm bên hông, hai tay nắm chuôi kiếm hướng về những thứ bài trí trong phòng liều mạng chém bừa bãi.
A Mạch bị dọa đến choáng váng, sợ anh ta không cẩn thận sẽ chém vào người mình, vội vàng cuống quít chạy sang bên cạnh trốn. Ai ngờ nàng vừa động lại nhắc nhở Thương Dịch Chi nhớ ra, chỉ thấy ánh mắt anh ta vằn đỏ, rút kiếm bước một bước hướng A Mạch đi tới. Từ Tĩnh thấy thế, cuống quít tiến lên trước người A Mạch, cố sống cố chết ôm lấy cánh tay Thương Dịch Chi, gấp giọng hô: “Tướng quân! Tướng quân! Xin người bình tĩnh lại một chút!”
Chương 14
CHUYỆN CŨ
Thương Dịch Chi dùng sức hất Từ Tĩnh ra, vẫn từng bước, từng bước hướng về phía A Mạch. A Mạch lúc này đã ngã ngồi dưới đất, thân mình cứ lùi dần, lùi dần, chợt cảm thấy sau lưng bị một vật cứng chặn lại, hóa ra nàng đã lùi đến cột nhà. Phía sau đã không còn đường lui, A Mạch cắn răng một cái rồi vội vàng đứng lên, lưng dựa vẫn dựa vào cây cột, lạnh lùng nhìn Thương Dịch Chi, cố gắng khống chế âm điệu sao cho giọng nói trở nên đều đều: “Tướng quân, chẳng lẽ ngài nhất định vì giận chó đánh mèo mà giết A Mạch sao?”
Ánh mắt Thương Dịch Chi vằn đỏ, trừng trừng phẫn nộ nhìn A Mạch, hô hấp dồn dập khiến ngực anh ta không ngừng phập phồng lên xuống, dáng vẻ không khác gì loài dã thú bị cung tên của thợ săn làm cho nổi giận.
A Mạch ngay cả thở cũng không dám, song vẫn bắt buộc bản thân giữ nguyên thái độ lạnh lùng cùng anh ta đối diện, thanh kiếm sắc nhọn kia vẫn chĩa vào người nàng, kiếm quang lóe sáng. Nàng biết, chỉ cần cổ tay nam nhân trước mặt này hơi động một chút, thanh kiếm lợi hại kia sẽ hướng người nàng bổ tới. Nàng rất sợ, nhưng hiện giờ ngoại trừ đứng ở trước mặt anh ta ra thì nàng cũng không làm được gì khác.
Hàn quang chợt lóe, thanh kiếm kia vẫn bổ tới. Đồng tử A Mạch co lại, phản chiếu trong đó là khuôn mặt xanh mét của nam tử trước mặt và thanh kiếm trong tay anh ta đang chém tới.
Mũi kiếm lướt qua trước mặt nàng, tuy rằng không đụng tới thân thể, nhưng kiếm khí bá đạo vẫn lướt qua làn da trên hai gò má. Không một chút đau đớn, nhưng trên má trái của nàng đột nhiên hiện lên một tia đỏ cơ hồ nhìn không rõ, sau đó một giọt máu rất nhỏ chậm rãi chảy ra.
“Cút! Cút! Tất cả đều cút hết cho ta!” Thương Dịch Chi lớn tiếng quát, nói xong liền thu kiếm xoay người, đến bên bản đồ quân sự treo trên tường, trượt mũi kiếm đến vị trí đô thành của Bắc Mạc, lạnh giọng nói: “Trần Khởi, ta không giết được ngươi, thề sẽ không làm người!”
A Mạch vốn đã đi tới cửa, sau khi nghe được lời nói của Thương Dịch Chi, cả người liền lập tức cứng đờ, giống như đột nhiên bị rơi mất hồn phách, ánh mắt như tan rã, khuôn mặt trở nên trắng bệch.
Thủ phủ thành Dự châu rất rối ren, các tướng lĩnh sắc mặt khẩn trương ra ra vào vào trong viện. A Mạch lẳng lặng đứng ở cửa viện, thừa lúc Từ Tĩnh đi qua bên cạnh, nàng liền kéo ông ta lại, hỏi: “Trần Khởi là ai?”
Từ Tĩnh hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn trả lời nàng: “Trần Khởi là đại nguyên soái của đại quân Bắc Mạc, lần này trận chiến tại Tĩnh Dương chính là do hắn thao túng, không, phải nói là toàn bộ hành động quân sự của quân Bắc Mạc lần này đều là kiệt tác của hắn mới đúng.”
“Hắn ta rất lợi hại sao?”
“Ba mươi vạn biên quân Tĩnh Dương, cả một tòa thành trì đã có thâm niên mấy chục năm chỉ trong chốc lát đã bị hủy hoại, từ nay về sau, vó ngựa của lũ thát tử sẽ tiến công vùng Giang Bắc ta như vào chỗ không người, ngươi nói xem hắn có lợi hại hay không? Cùng là ba mươi vạn binh lực, chia làm ba nơi, hai lộ đại quân mạo hiểm xâm nhập sâu vào vùng Giang Bắc của ta, đánh nghi binh Thái Hưng, dẫn dụ biên quân của ta hồi cứu, sau đó lại ngàn dặm bôn tập viện quân Tĩnh Dương.” Từ Tĩnh nhẹ nhàng vuốt râu, cảm thán nói: “Chiến thuật mạo hiểm này nhất định là đã sớm diễn tập từ rất lâu rồi, Tây lộ Bắc Mạc đại quân chỉ cần có một điểm không theo dự tính liền đem toàn bộ kế hoạch ban đầu hủy bỏ. Mà càng khiến cho người ta phải sợ hơn nữa, đó là căn cứ vào hồi báo của mật thám của chúng ta ở Bắc Mạc, tên Trần Khởi này lại chưa đến ba mươi tuổi, thiên tài như vậy, chỉ sợ có thể sánh vai cùng Tĩnh quốc công của Đại Hạ chúng ta hơn hai mươi năm về trước.”
A Mạch nghe mà thân thể bất giác không thể khống chế được, phát run lên, sợ tới mức nàng vội vàng dùng sức nắm chặt tay lại, toàn thân căng thẳng, song vẫn cố gắng tỏ vẻ vô sự đứng nghe.
Từ Tĩnh sau khi nói được vài câu liền ngừng lại, híp đôi mắt nhỏ tinh tường đánh giá A Mạch một chút, hỏi: “Ngươi đáng lẽ phải đi rồi, còn ở đây hỏi thăm này nọ làm gì?”
A Mạch khẽ nhếch khóe miệng cười cười, rồi lại lắc lắc đầu, không để ý tới sự kinh ngạc của Từ Tĩnh, xoay người rời đi. Trên người nàng còn mặc trang phục cận vệ của Thương Dịch Chi, cho nên đi lại trong thành cũng không bị ai ngăn cản. Nàng cứ ngây ngốc như vậy đi tới đường cái trong thành Dự Châu, trên đường có rất nhiều người vội vàng qua lại. Dân chúng trong thành Dự Châu chỉ biết chiến sự đang đến gần, song không biết ba mươi vạn tướng sĩ canh giữ biên giới của họ đã chết dưới vó ngựa của quân Bắc Mạc. Cho nên mặc dù cư dân trong thành đối với tin tức về chiến tranh có chút khủng hoảng, nhưng vẫn tiếp tục cuộc sống bình thường.
Những gì Từ Tĩnh nói như vẫn còn vang vọng ở bên tai, nguyên soái Bắc Mạc ấy còn chưa đến ba mươi tuổi, mưu sâu kế hiểm kia chỉ có thể là của một thiên tài quân sự, hẳn là anh ta rồi, Trần Khởi, cái tên này nàng đã cố quên đi, mà sao nó vẫn cứ xuất hiện ở trước mắt nàng.
Mật thám Nam Hạ quả thật quá vô dụng, A Mạch cười nhạo, ngay cả anh ta chính xác bao nhiêu tuổi cũng không tra ra được, nàng thì nhớ rất rõ, anh ta hơn nàng bảy tuổi, năm nay đã hai mươi sáu tuổi rồi.
A Mạch đến bây giờ còn nhớ rất rõ lần đầu tiên nhìn thấy Trần Khởi. Nàng có trí nhớ rất tốt, kể cả chuyện xảy ra từ lúc còn rất nhỏ nàng đều có thể nhớ được, nhưng không có sự kiện nào mà nàng lại nhớ rõ như chuyện này, giống như chỉ vừa xảy ra từ vài ngày trước, mỗi khi nhớ lại, cơ hồ ngay cả mỗi biểu hiện của anh ta nàng vẫn có thể hình dung ra được.
Nàng khi đó vừa tròn sáu tuổi, đúng là một đứa trẻ khiến cho người người tránh xa, đến chó cũng phải kinh sợ, không chuyện gì mà nàng không dám làm. Có một lần nàng đã khiến mẫu thân tức đến nghẹn thở, mẫu thân cầm roi trúc đánh vào mông nàng, sau đó oán hận uy hiếp: “Mạch Tuệ! Con nhớ kỹ cho ta, con là nữ hài tử! Lần sau nếu còn dám đi theo tiểu tử Ngưu gia, mẹ sẽ đánh gãy chân con!”
Nàng cười hắc hắc, hướng về phía mẫu thân làm cái mặt quỷ, sau đó nhanh chân chạy ra ngoài, nàng biết, mẫu thân không đuổi kịp mình, hơn nữa chỉ cần mẫu thân ra khỏi cửa sẽ chuyển sang một dáng vẻ vô cùng dịu dàng, hiền thục, sẽ không bao giờ cầm gậy trúc đuổi theo nàng. Ai ngờ vừa chạy đến cổng, nàng liền đụng vào phụ thân vừa đi tới, phụ thân nhấc bổng nàng lên, giơ lên giữa không trung cười nói: “A Mạch, tiểu nha đầu, hôn ba ba một cái, có nhớ ba ba không?”
Nàng vui mừng ôm lấy cổ phụ thân, lớn tiếng kêu: “Nhớ!”
Phụ thân cười buông xuống nàng, lại bước qua ôm thê tử, sau đó trở lại cổng kéo một thiếu niên vẫn lẳng lặng đứng ở đó cười nói: “Đây là Trần Khởi, về sau chính là một thành viên trong nhà chúng ta.”
Nàng tò mò nhìn cậu ta, đôi mắt tròn vo xoay chuyển.
Phụ thân hỏi nàng: “Sau này đại ca ca sẽ chơi cùng con, được không?”
Nàng không trả lời phụ thân, chỉ nhìn cậu ta hỏi: “Ngươi có biết trèo cây không?”
Thiếu niên chậm rãi gật gật đầu.
Nàng lại hỏi: “Vậy ngươi có thể lội sông bắt cá không?”
Thiếu niên vẫn gật đầu.
Vì thế nàng bước đi đến trước mặt anh ta, ngửa đầu nói: “Vậy được rồi, sau này ta sẽ cho ngươi đi chơi cùng ta.”
Nàng nói bằng giọng rất nghiêm trang, như của một người lớn, khiến phụ thân cùng mẫu thân đều bật cười. Phụ thân kéo tay nàng thả vào trong tay của người thiếu niên nọ, ôn tồn nói: “Trần Khởi, từ giờ về sau, ta giao A Mạch cho con.”
Sắc mặt của cậu thiếu niên đó có chút đỏ ửng, khóe môi khẽ mím lại, trịnh trọng gật đầu.
Khi đó A Mạch không hiểu được ý tứ của phụ thân, cho nên khi nghe lén mẫu thân và phụ thân nói Trần Khởi so với A Mạch hình như hơi lớn tuổi một chút, nàng lập tức nhảy bổ lên giường la lên: “Không lớn, không lớn, Trần Khởi làm ca ca rất hợp!”
Đúng vậy, cậu ta rất thích hợp, cậu ta vừa là người bạn, vừa là người bảo vệ tốt nhất của nàng.
Bọn họ cùng sớm chiều bên nhau trong suốt tám năm, nàng từ một đứa trẻ thành một cô gái dậy thì, mà cậu ta từ một thiếu niên ngây ngô biến thành một thanh niên cao lớn anh tuấn. Đến khi đó, nàng mới dần dần hiểu được dụng ý ban đầu của cha mẹ. Khi nàng được mười ba tuổi, cậu ta đã trưởng thành, sau khi làm lễ trưởng thành xong, nàng kéo tay áo của cậu ta hỏi: “Ca, ngươi có thể cưới ta không?”
Nàng không có lấy một chút e thẹn nào của người thiếu nữ, ngược lại, mặt cậu ta lại đỏ bừng, vội tránh tay nàng ra, vừa đi vừa thấp giọng than thở: “Đồ ngốc!”
Khi nàng mười bốn tuổi, nàng liền kéo cậu ta ngồi dưới bóng cây hòe sau vườn, dùng bả vai huých vào cậu ta, hỏi: “Ca, sau này ngươi muốn một cuộc sống như thế nào?”
Ánh mắt cậu ta ôn nhu nhìn nàng, sau đó đưa mắt nhìn về phía chân trời xa xa, nhẹ giọng nói: “Một cây cầu nho nhỏ, một dòng nước êm đềm, và một người đứng đợi ta”.
Nàng cười ha hả, không đợi cậu ta nói xong đã dùng ngón tay chỉ vào chóp mũi cậu ta kêu lên: “Ngươi không phải lại đến thư phòng của ba đọc trộm sách đó chứ?”
Cậu ta cười khẽ, kéo tay nàng xuống, nhưng không buông ra.
Nàng ghé sát vào mặt cậu ta, nghiêm trang hỏi: “Ca, rốt cuộc thì khi nào ngươi mới cưới ta?”
Cậu ta không nói gì, chỉ lẳng lặng nhìn nàng, khuôn mặt chậm rãi hạ thấp xuống. Nàng đột nhiên nhớ ra phụ thân thường xuyên cùng mẫu thân làm việc này, lập tức trở nên khẩn trương, hai mắt mở to, đột nhiên hỏi: “Ca, không phải ngươi định hôn ta đấy chứ?”
Trên mặt cậu ta chợt hiện lên sắc đỏ rất khả nghi, ngồi thẳng dậy, để tay lên trán nàng khẽ đẩy ra, bất đắc dĩ thấp giọng nói: “Thật ngốc mà!” Sau đó lại xoay người nhìn nàng, cắn cắn môi dưới, nhẹ giọng nói: “A Mạch, về sau không cho ngươi gọi ta là ca.”
Nàng không rõ, nàng vẫn gọi cậu ta là ca tám năm nay, vì sao sau này sẽ không được gọi nữa?
Nhìn vẻ mặt hoang mang của nàng, cậu ta thật bất đắc dĩ, quay đầu không nhìn nàng nữa, chỉ nhỏ giọng nói: “Bảo ngươi đừng gọi thì đừng gọi, đồ ngốc!”
Về sau, cậu ta đột nhiên rời đi, bảo chờ đến khi nàng mười lăm tuổi sẽ trở về cưới nàng. Nàng liền chờ, bọn họ chưa từng phải xa nhau lâu như vậy, nàng cả ngày theo sau mông mẫu thân, hỏi khi nào thì anh ta trở về, hỏi tại sao sinh nhật của nàng mãi không đến, Trần Khởi ca ca đã nói chờ nàng mười lăm tuổi sẽ trở lại cưới nàng mà.
Mẫu thân bị nàng suốt ngày quấn lấy, cả giận nói: “Mạch Tuệ! Khi nào con được hai mươi tuổi thì mẹ mới gả con đi! Mới mười lăm tuổi mà con đã nghĩ mẹ sẽ cho con lập gia đình sao? Khi mẹ bằng tuổi con mà dám nói những lời này, sẽ bị bà ngoại đánh đến nhừ xương!”
Bà ngoại? Nàng chưa từng gặp bà ngoại bao giờ, cho nên lời đe dọa này của mẫu thân chẳng có gì đáng sợ.
Phụ thân nghe xong thì luôn mỉm cười, sau đó dùng khóe mắt liếc nhìn mẫu thân, thì thầm nói: “Gái lớn không thể giữ trong nhà a –.”
Sinh nhật mười lăm tuổi của nàng rốt cục cũng đến, anh ta không thất hứa, anh ta đã trở lại, đồng thời cũng mang đến một đám sát thủ.
Cảnh tượng ngày đó nàng vĩnh viễn sẽ không bao giờ quên, thậm chí trong suốt hai năm đầu, chỉ cần nàng nhắm mắt lại là có thể nhìn thấy, đao quang kiếm ảnh, ánh lửa thấu trời, tiếng mẫu thân thê lương vang lên ngay bên tai: “A Mạch, chạy mau, chạy ra sau núi, con phải sống, nhất định phải sống!”……
A Mạch nắm chặt tay, dùng sức cắn chặt răng, sợ rằng có lẽ mình sẽ phát điên lên mất, ngay trên con đường này. Đã bốn năm qua đi, nhưng vì sao cảnh tượng đó vẫn còn hiển hiện rõ như vậy trong mắt nàng? Ngọn lửa rừng rực cháy, tiếng la hét của những láng giềng, thậm chí ngay cả mùi tanh của máu tươi trong không khí cũng vẫn còn cảm nhận được, nàng biết, đó là máu chảy ra từ người của phụ thân.
Nàng muốn quên, vì sao lại không thể quên? Mẫu thân nói không cần nàng báo thù, mẫu thân chỉ muốn nàng sống sót, không oán hận mà sống, vui vẻ mà sống. Mẫu thân nói hạnh phúc của nàng mới là quan trọng nhất, nhưng nàng còn có thể hạnh phúc sao?
Hạ thân chợt có một dòng nước âm ấp chảy xuống, có chút nhớp nháp. Có kẽ là kỳ kinh nguyệt đã đến. Khi mười lăm tuổi nàng mới có kinh lần đầu, đó là trước sinh nhật hai ngày, mẫu thân lúc ấy còn cười, nói như thế nghĩa là nàng đã thực sự trưởng thành rồi. Nhưng từ sau biến cố ấy, kinh nguyệt của nàng rất thất thường, phải một năm rưỡi mới xuất hiện một lần, hơn nữa lượng cũng rất ít, cơ bản chỉ một ngày là hết. Nàng không biết sao lại như vậy, song cảm thấy thế cũng tốt, nàng thường giả nam trang, không có kinh nguyệt lại càng thêm thuận tiện.
A Mạch dùng sức bấm mạnh vào lòng bàn tay, khiến cho ý thức thanh tỉnh lại một chút, sờ trên người còn sót lại một ít tiền, liền vào tiệm vải mua ít vải bông trắng, lại mua thêm bộ quần áo, rồi đi đến khách sạn. Trong thời buổi chiến loạn này, khách điếm rất ít khách, nàng lại thân mặc nhung trang, cho nên thái độ của chưởng quầy đối với nàng vô cùng niềm nở, rất nhanh đem những thứ linh tinh nàng yêu cầu đến.
A Mạch đóng cửa, rửa sạch hạ thân, sau đó bắt đầu dùng vải trắng đệm sát người.
Ngày hôm sau, chờ kinh nguyệt hết, nàng lại gọi tiểu nhị đem nước ấm tới, còn có cơ hội tắm táp thì nàng còn cố hết sức giữ cho thân thể được sạch sẽ, ai biết bao lâu sau mới có được cơ hội nữa. Sau khi tắm xong, A Mạch thay áo lót cùng nội y rồi lại cẩn thận khoác quân trang lên, mở cửa bước ra ngoài.
————–
Chương 15
TÒNG QUÂN
Bên trong thủ phủ thành Dự Châu thật hỗn loạn, nguyên lai là tướng Thạch Đạt Xuân, thủ thành Dự Châu tự sát.
Thạch Đạt Xuân cảm thấy vì mình phán đoán sai lầm nên mới dẫn đến thất bại của biên quân Tĩnh Dương, khiến cho ba mươi vạn nam nhi Đại Hạ tử trận. Ông ta ở trong thư phòng mở mắt trừng trừng, ngồi hết cả một đêm, đến hừng đông liền dùng kiếm cứa đứt ngón tay để lại một phong huyết thư, sau đó xõa tóc xuống che kín mặt, tỏ vẻ sau khi xuống cõi âm cũng không còn mặt mũi nào gặp tổ tiên, rồi chĩa bội kiếm vào mình, tính lấy cái chết để tạ tội.
Cũng là mệnh của Thạch Đạt Xuân chưa đến lúc tuyệt. Cân vệ canh giữ ngoài thư phòng đợi mãi không thấy Thạch Đạt Xuân kêu người vào hầu, trong lòng có chút kỳ quái, nhịn không được liếc mắt theo cửa sổ nhìn vào. Chỉ một cái liếc mắt này thôi nhưng đã khiến cho tên cận vệ kia sợ tới mức hồn vía bay mất, quýnh lên, cũng không nghĩ tới cái gì là mạo phạm hay không mạo phạm, một cước đá văng cửa thư phòng, xông đến bên người Thạch Đạt Xuân, cướp lấy thanh kiếm.
Thanh kiếm trên tay Thạch Đạt Xuân đã muốn đâm xuống, bị tên cận vệ giữ lại, khiến ông ta đỏ mắt cả giận quát: “Buông tay!”
Tên cận vệ kia nào dám buông tay, một bên liều chết đoạt kiếm, một bên vừa khóc vừa kêu lên: “Tướng quân! Tướng quân! Ngài không thể a!”
Tên cận vệ tay không đoạt kiếm, lưỡi kiếm sắc bén lập tức cắt vào tay hắn, dòng máu đỏ tươi theo thân kiếm chảy xuống, cùng máu trên bụng Thạch Đạt Xuân túa ra, hòa trộn với nhau, nhất thời diễm lệ vô cùng.
Khi Thương Dịch Chi đến, tướng lãnh Dự Châu đã quỳ đầy bên trong thủ phủ. Thạch Đạt Xuân bị mấy tên thủ hạ gắt gao ôm lấy, bội kiếm trong tay cũng bị đoạt mất, đang lườm ánh mắt đỏ bừng, giận dữ hét: “Buông tay, các ngươi buông tay cho ta.”
Những tướng lãnh này nào dám buông tay, mà càng ôm chặt ông ta hơn, vừa khóc vừa kêu lên: “Tướng quân, thắng bại là chuyện thường tình của nhà binh, ngài nghĩ rộng một chút a!” Những tướng lãnh quỳ trên mặt đất cũng đều khóc ầm lên, liên tục dập đầu.
Thương Dịch Chi lạnh lùng tiến vào, dùng chân đá văng một tên giáo úy đang quỳ gối ở cửa, lớn tiếng mắng: “Khóc cái con mẹ nó à mà khóc!”
Trong phòng tiếng khóc chợt ngưng lại, chúng tướng lãnh nghe vậy đều quay đầu nhìn Thương Dịch Chi, ngay cả Thạch Đạt Xuân vẫn giãy dụa không ngừng cũng ngừng lại, lẳng lặng nhìn về phía Thương Dịch Chi.
Thương Dịch Chi nhìn Thạch Đạt Xuân đầu tóc rũ rượi như kẻ điên, tầm mắt chậm rãi đảo một vòng quanh phòng, lạnh giọng nói: “Đều ra ngoài hết cho ta.”
Mọi người trong phòng đều trở nên cứng đờ, có mấy kẻ tính tình có chút yếu đuối hoảng hốt muốn đứng dậy lui ra ngoài, nhưng đại bộ phận tướng lãnh đều là những kẻ tính tình cương trực, một đám cứng đầu cứng cổ ngồi im không nhúc nhích, có kẻ còn đưa mắt khiêu khích nhìn Thương Dịch Chi, thầm nghĩ đây là địa bàn của Dự Châu bọn ta, ngươi chẳng qua cũng chỉ là một tướng quân thủ thành Thanh Châu, dựa vào cái gì mà tới nơi này ra lệnh, cho dù mẹ ngươi là công chúa thì thế nào? Lúc gia gia này bắt đầu cưỡi ngựa, cầm giáo, chỉ sợ ngươi vẫn là một tiểu hài tử còn quấn tã? Tướng quân chúng ta không muốn cùng tiểu bạch kiểm nhà ngươi chấp nhặt, ngươi lại còn được đằng chân lân đằng đầu mà lên mặt, thật quá khi dễ quân Dự Châu chúng ta rồi.
Thương Dịch Chi cùng đại hán mặt đen kia đấu nhãn đến nửa ngày, tức giận cười lạnh. Thương Dịch Chi này là ai? Những người khác ở kinh thành sinh trước anh ta, nhiều nhất thì là cái gì? Chẳng phải là làm quan sao. Làm quan tối thiểu nhất phải biết là cái gì? Chẳng phải là mắt đi mày lại sao! Chỉ có thể nhìn thấu được từ trong lời nói của những người đó ba phần, còn lại chẳng phải là dựa vào những lời dèm pha sao. Lời dèm pha là cái gì? Nó không phải là một ánh mắt hay một ý tứ gì, chẳng phải chính lời dèm pha chính là một động tác dường như vô ý nhưng lại là cố ý hay sao?
Từ khi lên ba tuổi, anh ta đã biết làm gì cũng phải nhìn sắc mặt phụ thân, nói gì cũng phải xem ánh mắt mẫu thân. Ánh mắt của hán tử mặt đen này còn kém cái tử bài viết trên mặt Thương Dịch Chi: ngươi chỉ là một cái khố! Thương Dịch Chi này nhìn mà không biết sao? Nực cười.
Thương Dịch Chi tức giận cười lạnh hai tiếng, đại hán mặt đen kia nhìn thấy ánh mắt của anh ta mà bất giác ớn lạnh.
Thạch Đạt Xuân tuy rằng không muốn sống, nhưng lại không muốn thuộc hạ của mình chết theo. Hán tử mặt đen không biết sự lợi hại của vị thiếu gia Thương Dịch Chi này, nhưng không có nghĩa là Thạch Đạt Xuân cũng không biết. Thạch Đạt Xuân ổn định cảm xúc một chút, trầm giọng nói với thuộc hạ đang quỳ ở trong phòng: “Các ngươi đi ra ngoài hết đi.”
“Nhưng…”
“Đi ra ngoài!” Thạch Đạt Xuân ngữ khí vô cùng nghiêm khắc, các tướng lãnh Dự Châu không dám cãi lời ông ta, đành phải nhất nhất đứng lên, đi ra khỏi thư phòng, trước khi đi có người còn lo lắng, lén lút cầm bội kiếm của Thạch Đạt Xuân đem đi.
Thạch Đạt Xuân khóe miệng nhịn không được cười khổ.
Sự tức giận trên mặt Thương Dịch Chi lại ngoài ý muốn mà tiêu tán hết, chỉ thản nhiên nhìn, chờ trong phòng rốt cục không còn ai, anh ta chợt khẽ nhếch miệng cười, đưa tay mân mê khóe môi, đứng trước án thư đọc huyết thư của Thạch Đạt Xuân. Sau đó cầm bức huyết thư trên tay hướng về phía Thạch Đạt Xuân, cười mà như không cười hỏi: “Một tờ giấy này đã đủ để tạ lỗi với tính mạng của ba mươi vạn tướng sĩ Đại Hạ ta?”
Thạch Đạt Xuân sắc mặt trở nên bi thương, môi run rẩy, vẫn là không thể nói nên lời.
Thương Dịch Chi cười lạnh một tiếng, lạnh giọng nói: “Việc đã đến nước này, ta cũng không cùng ngươi nhiều lời, ta chỉ có ba câu, thứ nhất, ba mươi vạn biên quân Tĩnh Dương bị giết không phải trách nhiệm của một mình Thạch Đạt Xuân ngươi, đầu của ngươi không lớn như vậy, cho nên cũng không đội được cái mũ lớn như vậy đâu. Thứ hai, là một quân nhân, thì chỉ có thể chết ở một nơi, đó là trên sa trường, chứ không phải ở trong thư phòng chó má! Thứ ba, nếu ngươi còn muốn chết, ta sẽ không ngăn cản ngươi, nhưng ngươi phải đem đám người thân tín với ngươi giết sạch, sau đó đem quân Dự Châu an an ổn ổn giao cho ta!”
Nói xong, Thương Dịch Chi phất tay áo rời khỏi thư phòng, chỉ còn lại Thạch Đạt Xuân một mình đứng đó.
Khi A Mạch trở về thủ phủ cũng là lúc Thương Dịch Chi từ trong thư phòng của Thạch Đạt Xuân đi ra. Nàng từ xa đã nhận ra sắc mặt của Thương Dịch Chi rất không tốt, theo bản năng liền vòng vào con đường nhỏ bên cạnh tránh đi, không ngờ đi được hai bước thì lại gặp Từ Tĩnh.
Từ Tĩnh kinh ngạc hỏi: “A Mạch, sao ngươi lại quay lại?”
A Mạch trong lòng kêu khổ, hướng về phía Từ Tĩnh đánh mắt một cái, ý bảo ông ta lờ nàng đi, nhưng đã chậm mất rồi, vì Thương Dịch Chi đã nhận ra nàng, cũng dừng cước bộ, mắt sáng như ngọn đuốc nhìn lại.
“Tướng quân.” Từ Tĩnh kêu lên.
A Mạch cũng đành bất đắc dĩ quay người lại, cúi đầu, cụp mắt cực kỳ cung kính kêu một tiếng: “Tướng quân”.
Ánh mắt Thương Dịch Chi phát lạnh, lạnh giọng hỏi: “Ngươi không phải đã đi rồi sao? Như thế nào lại quay trở lại?”
A Mạch cuống quít hai đầu gối vội quỳ rạp xuống đất, cúi đầu nói: “Hôm qua A Mạch hồ đồ, thỉnh tướng quân thứ tội, thát tử xâm phạm đất nước ta, A Mạch thân là nam nhi Đại Hạ, có lẽ nào vì an nguy của bản thân mà chưa lâm trận đã lui bước, A Mạch suy nghĩ cẩn thận rồi, từ nay về sau dù sống hay chết cũng đi theo tướng quân, một ngày chưa diệt được thát tử, A Mạch một ngày không rời quân doanh!”
Một đoạn này không chỉ có Thương Dịch Chi ngẩn người, mà ngay cả Từ Tĩnh cũng giật mình. Sau một lúc lâu, Thương Dịch Chi đột nhiên cười ha hả bước đến trước mặt A Mạch, lạnh giọng hỏi: “Ngươi thực sự đã quyết định đi theo ta?”
“Phải! A Mạch thề dù sống hay chết cũng đi theo tướng quân!” A Mạch lớn tiếng nói.
Thương Dịch Chi đột nhiên nhấc chân đạp lên vai A một cước, gạt nàng ngã lăn trên mặt đất, hắn nhìn A Mạch, lạnh giọng hỏi:“Ngươi cho quân Thanh Châu ta là cái gì? Ngươi muốn tới thì tới, muốn đi thì đi sao?”
A Mạch quật cường cùng hắn đối diện, cắn răng nói:“Không có, A Mạch hôm qua là nhất thời hồ đồ.”
Thương Dịch Chi nhìn nàng chằm chằm, đột nhiên nở nụ cười, lui ra sau hai bước, khẽ phẩy bụi bẩn bám trên góc áo, khẽ cười nói: “Vậy hiện tại ngươi thật sự muốn tòng quân?”
A Mạch dùng sức gật đầu.
“Được” Thương Dịch Chi nói, rồi phân phó cận vệ bên người: “Trương Sinh, ngươi dưa A Mạch xuống giao cho Lý phó tướng sắp xếp hắn vào bộ binh doanh.”
Từ Tĩnh sửng sốt, định mở miệng thay A Mạch nói vài lời, nhưng vừa nhìn thấy sắc mặt Thương Dịch Chi liền n lập tức đem lời nói đã lên đến đầu lưỡi ép xuống, hiển nhiên là tâm tình Thương Dịch Chi hiện tại đang rất khó chịu.
A Mạch vốn đã ở trong đội cận vệ của Thương Dịch Chi không ít ngày, hiện tại đột nhiên bị sắp xếp vào bộ binh doanh, hơn nữa chỉ là một tên tiểu binh bình thường đến mức không thể bình thường hơn, rõ ràng là bị giáng chức, hơn nữa bộ binh vốn là một binh chủng cực kỳ vất cả, chiến tranh đã liền kề ngay trước mắt, Thương Dịch Chi đem A Mạch sắp xếp vào bộ binh doanh, hiển nhiên là muốn cho nàng đi chịu chết.
Dọc theo đường đi, ngay cả Trương Sinh cũng có chút đồng tình với A Mạch, ngược lại vẻ mặt A Mạch vẫn bình tĩnh, chỉ cúi đầu đi theo sau Trương Sinh.
Bắt đầu từ vài ngày trước, Thương Dịch Chi đã đi ban quân lệnh chiêu mộ tân binh ở các thôn trấn quanh thành Dự Châu, nhiều ngày nay đã chiêu mộ được không ít thanh tráng niên. Bình thường, nếu chiêu mộ tân binh, sẽ phải thu xếp tân binh trong một doanh độc lập để huấn luyện, nhưng nay chiến sự khẩn cấp, cũng không thể đem tân binh đi huấn luyện được, mà chỉ có thể sáp nhập cùng những binh lính cũ đã trải qua luyện tập.
Lý phó tướng thấy tướng quân phái cận vệ đưa A Mạch sắp xếp ở bộ binh doanh, cũng không nghĩ nhiều, liền đem A Mạch giao cho quan quân là thuộc hạ của mình, quan quân lại đem A Mạch giao cho thuộc hạ của hắn. Kết quả là, A Mạch cứ như vậy bị phân xuống, rốt cục dừng lại ở Thanh Châu quân bộ binh doanh thứ bảy, doanh thứ tư, đội thứ tám, hộ thứ năm.
A Mạch nhìn mấy con số trên thẻ quân tịch của mình, cúi đầu niệm một tràng: “Một bảy bốn tám, một bảy bốn tám, mời ngươi đi tìm cái chết a”(1) A Mạch nhịn không được hắc hắc cười hai tiếng, con sổ này, con mẹ nó, thật đúng là may mắn a!
—————–
Chú thích:
(1) Nguyên văn: “Thanh nhất thất tứ bát” (Một bảy bốn tám) và “Thỉnh nhĩ khứ tử ba” (mời ngươi đi tìm cái chết) phát âm gần giống nhau.
Chương 16
QUÂN DOANH
Cùng được xắp sếp vào ngũ(1) thứ tám với A Mạch còn có một gã tân binh tên là Trương Nhị Đản, vóc dáng so với A Mạch ước chừng thấp hơn một cái đầu, cánh tay nhỏ, cẳng chân nhỏ, eo lưng cũng nhỏ, có hắn ở bên cạnh làm nền, A Mạch không những không có vẻ đơn bạc, ngược lại còn có điểm cao lớn khôi ngô.
Ngũ trưởng của A Mạch là một tráng hán(2) khoảng chừng ba mươi tuổi, thân hình không cao, nhưng rất tráng kiện. A Mạch cùng Trương Nhị Đản đều không bằng một nửa thân hình của người ta. Hắn đưa ánh mắt liếc hai tân binh trước mặt, hung hăng phun nước bọt, mắng: “Mụ nội nó chứ, khí hậu Dự Châu sao lại có thể sản sinh ra cái loại người này? Như thế nào lại giống nhau đến thế!”
Hắn vừa dứt lời, mấy lão binh(3) bên cạnh liền cười ầm lên, giống như muốn chế diễu A Mạch và Trương Nhị Đản.
Vẻ mặt A Mạch thản nhiên, cúi đầu thờ ơ đứng đó. Trái lại, sắc mặt của Trương Nhị Đản lại đỏ bừng, muốn nói gì đó nhưng lại không dám dây vào Ngũ trưởng, chỉ có thể âm thầm nắm chặt nắm đấm.
Ngũ trưởng chắp tay sau lưng đi một vòng quanh Trương Nhị Đản, khi đến phía sau liền giơ chân đá mạnh một cái, Trương Nhị Đản loạng choạng, thân thể gầy yếu chao đảo nhưng không ngã.
Ngũ trưởng khẽ nhếch miệng, hướng về phía gã dùng hết sức đạp xuống. Lúc này, Trương Nhị Đản không có thể chống đỡ được, lập tức quỳ rạp trên mặt đất.
“Tuổi?” Ngũ trưởng hỏi.
Trương Nhị Đản gắt gao cắn răng, nói: “Mười sáu.”
Ngũ trưởng gật gật đầu, lại chuyển sang A Mạch. Hắn vừa nhắc chân lên, còn chưa kịp đạp thì A Mạch đã khụy gối quỳ thẳng xuống. Ngũ trưởng chân vẫn giơ cao, sửng sốt, quay đầu lại, hắc hắc nở nụ cười, nói: “Ngươi, tiểu tử này thật ra rất thức thời, tuổi?”
“Mười chín.” A Mạch bình tĩnh trả lời.
“Lão Đại, tiểu tử này, mẹ nó chứ, bộ dạng cũng thật là đẹp!” Trong đám lão binh có người đột nhiên kêu lên.
Tầm mắt mọi người lập tức đều gom lại trên người A Mạch, ngay cả Trương Nhị Đản quỳ bên cạnh cũng quay đầu lại nhìn lén A Mạch. A Mạch sắc mặt có chút tái nhợt, nhịn không được mà căng thẳng khóe miệng.
Ngũ trưởng cũng cẩn thận đánh giá A Mạch, xem tiểu tử này da mặt non mịn, lông mày thanh tú, nhưng không cong cong như của nữ tử, mà dài và thẳng như mày kiếm, ánh mắt rất sáng, hắc bạch phân minh, so với ánh mắt thiếu nữ có phần còn trong trẻo hơn, đáng tiếc là mũi quá cao, không đủ thanh tú, nhưng hình dáng đôi môi phía dưới, con mẹ nó, quả thật là xinh đẹp, hơi cong lên, làm cho người ta chỉ nhìn thôi cũng cảm thấy trong lòng chộn rộn.
Nếu bình thường, diện mạo A Mạch tuy rằng xinh đẹp tuyệt trần, nhưng thân thể của nàng lại cao, người khác nhìn cũng chỉ cho rằng chẳng qua là nàng có vẻ ngoài tuấn mỹ. Sau lại đi theo đội cận vệ của Thương Dịch Chi, nơi đó đều là những thiếu niên có diện mạo tuấn tú, thậm chí ngũ quan so với nàng còn tinh xảo hơn, cho nên có xen lẫn vào bên trong cũng không có người nào sinh lòng nghi ngờ về giới tính của nàng. Nhưng hôm nay, nàng đang ở trong một quân doanh thực sự, giữa một đám hán tử thô bỉ, chỉ cần trên người thiếu đi một chút đặc thù của giống đực, sẽ bị người khác xem thường, như vậy nàng có thể tiếp tục che dấu thân phận được hay sao?
Trong đám lão binh có người cũng hùa theo: “Hắc, đúng thế! Da mặt cùng dáng vẻ như đàn bà.”
A Mạch quay đầu lại nhìn, liền đứng lên, đi đến trước mặt người nọ, lạnh giọng nói: “Ngươi có gan thì lặp lại lần nữa!”
Người nọ sửng sốt, tiếp theo liền ha ha cười hai tiếng, chỉ vào A Mạch, nói với người bên cạnh: “Xem xem, còn nóng tính nữa chứ, chỉ là bộ dáng này khiến cho người ta nhìn mà đau lòng.”
A Mạch vung tay đấm thẳng vào mặt người nọ, người nọ bị A Mạch đánh thì sửng sốt, lui về sau vài bước, trừng ánh mắt không dám tin nhìn A Mạch, không thể tưởng tượng được A Mạch chỉ là một tiểu binh mới nhập doanh mà lại dám đánh lão binh.
“Ta nói, tiểu tử ngươi còn dám đánh –”
Lời còn chưa dứt, A Mạch đã hung hăng cho hắn thêm một quyền vào bụng, khiến thân thể người nọ loạng choạng, A Mạch ngay sau đó dùng hai tay nắm lấy bả vai người nọ, thúc mạnh một gối vào bụng, ngoan độc nói: “Ta đánh ngươi, miệng ngươi còn dám phun cứt, lão tử sẽ giết chết ngươi!”
Người nọ bị A Mạch đánh bất ngờ, ngay cả đánh trả cũng không kịp, bụng trúng một gối của A Mạch, một ngụm máu tươi liền phun ra. Bốn phía đều bị dọa đến sửng sốt, không thể tưởng tượng được bộ dạng cao gầy của A Mạch, khi xuống tay lại độc địa như vậy, không nói hai câu đã ra tay, mọi người nhất thời ngay cả can ngăn cũng quên mất, tất cả đều ngây ngốc, ngơ ngác nhìn huynh đệ của mình bị A Mạch đánh cho một trận.
Kỳ thật A Mạch cũng không có công phu gì cao thâm, nàng bất quá là từ nhỏ có theo phụ thân luyện chút chiêu thức quyền cước, mấy năm vừa rồi lại luôn bôn ba ở bên ngoài, trên người khí lực cũng không ít, hơn nữa, mấy động tác này nàng đã rèn luyện từ lâu, đã sử dụng không biết bao nhiêu lần, cho nên tương đối thuận tay. Song nàng cũng biết mình không thể thật sự đánh thắng người này, chẳng qua là xuất kỳ bất ý, đổi lại nếu gặp phải người có khả năng phản ứng tốt thì nàng cũng không thể lừa được hắn.
Bên cạnh đã có người phản ứng lại, vội vàng tiến lên kéo A Mạch ra. Không thể lường được một tiểu binh vừa tới đã dám đánh lão binh, còn gì là thiên lý nữa? Có người kiềm chế cánh tay A Mạch. A Mạch mặc dù có khí lực, nhưng so với lão Đại vẫn còn kém không ít, tránh không khỏi bị bẻ quặt cánh tay ra sau lưng. Có người hướng về phía bụng A Mạch cho nàng mấy quyền, dùng sức rất nặng. Dù rất đau, nhưng A Mạch chỉ cắn chặt răng, không rên một tiếng nào.
Người trước mặt cũng có chút bội phục: “Hảo tiểu tử. Cũng kiên cường đấy chứ!”
Người bị đánh vừa rồi cũng đã tỉnh lại, đẩy đám người vọt lên, vươn tay cho A Mạch hai cái tát, mắng: “Cho ngươi! Dám đánh lão tử! Cho ngươi! Dám đánh lão tử!”
A Mạch nương người về phía sau, đá mạnh về phía người nọ, mắng: “Cút! Có bản lĩnh thì cùng lão tử một đấu một, một đám người khi dễ lão tử thì không tính là hảo hán!”
“Ha Ha! Ngươi còn dám không phục?” Người nọ lại tiến lên tát cho A Mạch hai cái tát nữa.
“Phì!” A Mạch nhổ nước miếng lẫn máu về phía người nọ, độc địa nhìn hắn. Người nọ vốn định tát tiếp, nhưng chạm phải ánh mắt hung ác này của A Mạch, nhất thời không dám xuống tay.
Mọi người thấy A Mạch kiên cường như vậy, cũng có chút bội phục, nói đi cũng phải nói lại, vốn là người nọ nói A Mạch giống đàn bà trước mới thành ra như vậy, hắn mặc dù đã trúng vài đòn của A Mạch, nhưng cũng vừa tát lại A Mạch mấy tát, xem như cũng bằng nhau. Vì vậy, một người liền tiến lên bắt được tay người nọ hoà giải, cười nói: “Được rồi, Vương Thất, đánh cũng đã đánh rồi, đừng chấp nhặt nữa. Ngài nói đi? Lão Đại?”
Ngũ trưởng luôn đứng bên cạnh thờ ơ lạnh nhạt nhìn nhìn A Mạch, giờ quay đầu lại hướng về phía Vương Thất nói: “Đủ rồi! Ta thấy các ngươi đều chán sống cả rồi, con mẹ nó, chờ thát tử đến đây ta xem các ngươi đã không còn tính mệnh mà đánh! Trong quân đánh lộn, con mẹ nó, đều nhịn đói hết cho ta rồi nói sau!”
Người phía sau kiềm chế A Mạch thả tay ra, A Mạch trong lòng âm thầm thở phào nhẹ nhõm, thầm nghĩ cửa thứ nhất này cuối cùng đã qua được, tuy rằng trúng mấy cái tát, nhưng từ nay về sau đám người này sẽ không hoài nghi giới tính của nàng nữa. Nàng đưa tay sờ sờ hai má đã muốn tê cứng, không khỏi muốn cười khổ, nhưng khóe miệng vừa nhếch lên một chút, mặt lập tức cảm thấy rất đau, đành phải thu khóe miệng lại.
Đến bữa chiều, A Mạch cùng Vương Thất quả nhiên bị bỏ đói, người khác đều đi ăn cơm, trong doanh trướng chỉ còn lại hai người bọn họ, Vương Thất vuốt bụng hướng về phía A Mạch mắng: “Mẹ kiếp, đều là tiểu tử ngươi hại ta chịu đói.”
A Mạch lạnh lùng liếc Vương Thất một cái, Vương Thất ngượng ngùng ngậm miệng.
Một lát sau, những người khác đi ăn cơm đều đã trở lại, Trương Nhị Đản vụng trộm kéo kéo A Mạch, ý bảo A Mạch cùng hắn đi ra ngoài. A Mạch mơ hồ nhíu nhíu chân mày, rồi cũng đi theo hắn. Đi đến nơi vắng người, Trương Nhị Đản lấy trong người ra một cái bánh bao đưa cho A Mạch, nhỏ giọng nói: “Cho ngươi, nhanh ăn đi.”
A Mạch hỏi: “Ở đâu vậy?”
Trương Nhị Đản ngượng ngùng cười cười, nói: “Ta vụng trộm lưu lại, mỗi người được hai cái, ta ăn không hết.”
A Mạch nói cảm tạ rồi nhận lấy cái bánh, nhưng không ăn ngay, nghĩ nghĩ một chút lại hướng về phía Trương Nhị Đản nói: “Ngươi gọi Vương Thất ra đây.”
Trương Nhị Đản khó hiểu nhìn A Mạch, A Mạch muốn cười, nhưng vừa nhếch miệng lại thấy đau, lấy tay ôm mặt, thấp giọng nói: “Ngươi gọi hắn lại đây đi, sau đó ngươi sẽ hiểu.”
Trương Nhị Đản nghe lời đi gọi Vương Thất, Vương Thất trong lòng nghi hoặc theo hắn đi ra, gặp A Mạch chờ ở nơi này, còn tưởng rằng A Mạch muốn báo thù, không khỏi lui từng bước đề phòng nhìn A Mạch, hỏi: “Tiểu tử, không phải ngươi lại muốn đánh nhau nữa đấy chứ?”
A Mạch không nói gì, chỉ đem bánh bao bẻ thành hai nửa, đưa cho Vương Thất một nửa, nói: “Đây là của Nhị Đản để dành.”
Vương Thất kinh ngạc nhận lấy nửa chiếc bánh bao, lại không dám ăn, chần chờ nhìn A Mạch. A Mạch cười nhạo, cũng không nói gì, cúi đầu cắn một miếng, rất nhanh ăn hết nửa cái bánh, rồi ngẩng đầu lên nói với Trương Nhị Đản: “Chúng ta mau trở về đi, không lát nữa Ngũ trưởng điểm danh lại không thấy chúng ta.”
Trương Nhị Đản gật gật đầu, theo A Mạch trở về, phía sau chỉ còn lại Vương Thất nhìn theo bóng dáng A Mạch, lại cúi đầu nhìn nhìn nửa cái bánh trong tay, chần chờ cắn một miếng, than thở nói: “Tiểu tử này con mắt nhìn thật không sai.”
Nhắc tới Vương Thất, xem ra cũng không phải người xấu, sau lần được chia nửa cái bánh bao thì không hề tìm A Mạch gây phiền toái nữa. Ngược lại so với người khác càng chiếu cố A Mạch hơn một chút. Giờ giải lao trên thao trường, đám lính đều ngồi xuống đất nghỉ ngơi, Vương Thất ngồi xuống bên cạnh A Mạch, dùng bả vai huých A Mạch một cái, hỏi: “Này, tiểu tử nhà ngươi tại sao lại xuống tay ngoan độc như vậy?”
A Mạch liếc mắt nhìn hắn, thản nhiên nói: “Nếu ngươi còn dám nói ta giống đàn bà, ta sẽ tiếp tục đánh ngươi.”
Vương Thất cười, nói: “Khen ngươi có khuôn mặt đẹp cũng không được à?”
A Mạch lạnh lùng nhìn hắn, báo hại hắn vội vàng khoát tay, nói: “Ta không nói là được chứ gì? Xem ngươi kìa, tên tiểu tử này thật là keo kiệt! Ta còn ước gì người ta nói ta có khuôn mặt đẹp, như vậy mới nhanh mang con dâu về cho cha mẹ ta a.”
A Mạch cười lạnh nói: “Để ta đây đến khen ngươi. Vương Thất, ngươi đúng là một quốc sắc thiên hương, bế nguyệt tu hoa(4), vô cùng xinh đẹp, thật đúng là một tiểu nương tử yêu kiều mềm mại a!”
Vương Thất trừng mắt nhìn A Mạch dở khóc dở cười, qua nửa ngày mới giơ tay gõ nhẹ vào đầu A Mạch, cười nói: “Ta thua, tiểu tử ngươi cũng thật là thù dai!”
Huấn luyện viên thổi kèn hiệu lệnh, mọi người lại vội vàng đứng dậy xếp thành hàng, huấn luyện viên cầm gậy đi xuyên qua trong đám người, nhìn ai không thuận mắt liền cho mấy gậy, miệng hùng hùng hổ hổ: “Còn không chuyên tâm luyện tập, con mẹ nó, đến khi ra chiến trường chờ địch nhân tới chém sao!”
A Mạch vốn thông minh, lại rất dụng tâm tập luyện, học cũng cực nhanh, sau vài ngày công phu đã có sự tiến bộ lớn, múa đại đao đã có đường nét, bắn tên cũng chính xác hơn rất nhiều. Mấy ngày nay, bộ binh doanh luôn được tăng cường huấn luyện cung tên cùng đao pháp, nhưng không tiến hành thao luyện biến hóa trận pháp. A Mạch trong lòng có chút buồn bực, xem ra cấp trên muốn tử thủ thành Dự Châu rồi, nếu là dã chiến, sẽ không thể không để ý đến việc biến hóa hàng ngũ.
Giờ nghỉ trưa, Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên tìm đến, nhìn thấy A Mạch thì có chút kinh ngạc, hỏi: “Mặt của ngươi làm sao vậy?”
Mặt A Mạch vẫn chưa hết sưng, hiện tại vẫn còn chút xanh tím, nay nghe Đường Thiệu Nghĩa hỏi, ngay cả Ngũ trưởng bên cạnh cũng không nhịn được nhìn sang.
A Mạch nhếch miệng cười mờ ám, đứng cách xa tầm mắt Đường Thiệu Nghĩa, thản nhiên nói: “Tự đánh phải mình.”
Lời này vừa nói ra, không riêng gì Vương Thất, ngay cả Ngũ trưởng đều nhịn không được nhẹ nhàng thở ra.
Đường Thiệu Nghĩa cũng từ một tiểu binh đi lên, tự nhiên biết A Mạch không nói thật, bất quá thấy A Mạch không muốn nói, hắn cũng không hỏi lại, chỉ hỏi: “Sao không làm cận vệ có phải tốt hơn không?”
A Mạch không biết nên trả lời như thế nào, không thể nói Thương tướng quân không cần nàng, cố ý đưa nàng đến bộ binh doanh chịu tội? Nàng thản nhiên nói: “Ta không cần làm thị vệ, ta muốn lập công, ta muốn làm tướng quân.”
———————-
Chú thích:
(1)ngũ: đon vị nhỏ nhất trong bộ máy quân đội, gồm năm lính.
(2)tráng hán: người đàn ông trung niên cường tráng
(3)lão binh: binh lính cũ
(4)bế nguyệt tu hoa: Khiến mặt trăng phải dấu mình, hoa phải xấu hổ.
Chương 17
BỘI KIẾM
Đường Thiệu Nghĩa khẽ giật mình biến sắc, nhướn mày nhìn A Mạch, sau đó lại liếc mắt nhìn đám người đang đứng cách đấy không xa, khẽ nói với A Mạch: “Về sau những lời này không nên nói trước mặt người khác.”
A Mạch hiểu được ý tứ của Đường Thiệu Nghĩa, biết mình vừa rồi nói năng quá mức bừa bãi, có chút ngượng ngùng cười cười, nói: “Ta biết rồi.”
Đường Thiệu Nghĩa vỗ vai A Mạch, gật gật đầu, nói: “Làm việc nên cẩn thận vẫn hơn.”
A Mạch có chút kỳ quái nhìn Đường Thiệu Nghĩa, cảm thấy anh ta nói như vậy không giống với phong cách mọi ngày.
Đường Thiệu Nghĩa bắt gặp ánh mắt của A Mạch thì có chút bất đắc dĩ cười cười, nhưng không giải thích. Từ khi thành Hán Bảo bị phá, quân lính giữ thành đều bị tiêu diệt, anh ta đã gia nhập vào quân đội Thanh Châu của Thương Dịch Chi. Mặc dù được Thương Dịch Chi coi trọng, nhưng lại khiến cho không ít lão tướng trong quân đội Thanh Châu ghen tị, hằng ngày cũng không được thoải mái lắm, song cũng không phải là hoàn toàn không tốt, ít nhất đã khiến anh ta sửa được cái tình thẳng thắn, xốc nổi trước kia của mình, trở nên điềm đạm, trầm tĩnh không ít.
Đường Thiệu Nghĩa nhìn lướt qua giáo trường phía sau A Mạch rồi lại nhìn bộ dạng lấm lem bụi đất của nàng, nhịn không được cười, hỏi: “Có chịu được cực khổ không?”
“Không có gì, so với khi chúng ta chạy nạn ở thành Hán Bảo còn thoải mái hơn rất nhiều.” A Mạch nói.
Kỳ thật phải chịu đựng khổ cực một chút cũng không sao, khó nhất là làm thế nào để che dấu được giới tính của nàng. Buổi tối khi đi ngủ không nói làm gì, bởi muốn giữ ấm nên nhiều người vẫn mặc nguyên quần áo mà ngủ nên không thể phát hiện ra sự khác biệt của nàng. Khó nhất là chuyện đi nhà xí, mỗi lần nàng đều phải chờ đến lúc thật khuya mới dám đi, hơn nữa lần nào cũng phải lo lắng đề phòng, ban ngày thì ngay cả chút nước cũng không dám uống, khiến cho môi khô đến nứt nẻ.
Mặc dù A Mạch nói vậy, song Đường Thiệu Nghĩa biết nàng không dễ dàng gì. Trong quân, phần lớn hán tử đều là ỷ mạnh hiếp yếu, mà nàng lại có dáng vẻ của một thư sinh tuấn tú, cho nên không ít người trong thâm tâm nhất định là coi thường nàng. Đường Thiệu Nghĩa có tâm giúp nàng, chỉ có điều chính mình ở trong quân đội Thanh Châu cũng bị coi như kẻ ngoại lai, tâm thì có dư mà lực thì lại không đủ.
Giáo trường vang lên hiệu lệnh tập hợp, A Mạch quay đầu thoáng nhìn lại, nói: “Đường đại ca, ta phải đi trước.” Nói xong liền vội vã chạy đi, vừa được nửa bước chân đã bị Đường Thiệu Nghĩa kéo lại. A Mạch khó hiểu quay đầu nhìn Đường Thiệu Nghĩa, thấy anh ta cúi đầu, sau đó tháo bội kiếm đeo bên hông xuống đưa cho mình, nói: “Thanh kiếm này ngươi cầm lấy đi.”
Đây chính là thanh kiếm mà Đường Thiệu Nghĩa ở ngoài thành Hán Bảo từng giao cho A Mạch phòng thân. Sau khi vào Dự Châu, A Mạch đã trả lại cho Đường Thiệu Nghĩa, không ngờ rằng hôm nay anh ta lại giao lại cho nàng. A Mạch vội vàng từ chối, nói: “Không cần, ta được phát binh khí rồi.”
Thần thái Đường Thiệu Nghĩa có chút mất tự nhiên, trên mặt lại làm ra một bộ dạng không kiên nhẫn, nói: “Cho ngươi mượn, thanh kiếm này vốn là tặng cho ngươi, đừng tỏ vẻ đàn bà như vậy!” Nói xong liền khoác thanh kiếm lên lưng A Mạch, nói: “Chạy nhanh lên, chậm là lại bị phạt đấy.”
Trong quân đội Nam Hạ đều thống nhất một quy định, đó là bội kiếm chỉ từ cấp giáo úy trở lên mới được đeo. A Mạch có thanh kiếm này, chẳng những ở trong doanh sẽ không bị binh lính khi dễ, mà sợ rằng ngay cả trưởng quan của nàng cũng phải nể mặt Đường Thiệu Nghĩa mà để mắt đến nàng. A Mạch hiểu được thâm ý của Đường Thiệu Nghĩa khi đưa bội kiếm cho mình, trong lòng không khỏi có chút cảm động, lần đầu tiên thực lòng kêu một tiếng: “Đại ca”.
Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên lại có chút ngượng ngùng, cũng không nói gì, chỉ hướng về phía A Mạch phất phất tay, rồi xoay người rời đi.
Trở lại hàng ngũ, A Mạch đã đến chậm hơn mọi người, viên quan quản thao luyện cầm roi hùng hùng hổ hổ chạy lại, vung roi định quất về phía A Mạch, đúng lúc đó ánh mắt chạm vào thanh bội kiếm bên hông nàng, vì thế chiếc roi vung lên nửa đường lại hạ xuống, viên quan quân cẩn thận nhìn thoáng qua A Mạch, lại mắng nàng mấy câu, nhưng không dùng roi đánh nàng nữa.
Phía sau, các huynh đệ trong doanh thấy bội kiếm bên hông A Mạch, trên mặt đều vừa sợ lại vừa ham thích. Vương Thất, Trương Nhị Đản cùng đám người vốn thân cận với A Mạch đều tiến lại gần. Vương Thất dùng bả vai huých huých A Mạch, hâm mộ hỏi: “A Mạch, vị giáo úy đại nhân kia là gì của ngươi?”
A Mạch nghĩ nghĩ một chút rồi nói: “Là đại ca kết nghĩa.”
Mọi người nghe thấy đều kinh ngạc. Vương Thất nói:“A Mạch, hóa ra ngươi có nghĩa huynh là giáo úy, vậy thì ngươi còn ở bộ binh doanh của chúng ta làm chi, sao không trực tiếp làm cận vệ cho anh ta hoặc là làm kỵ binh cũng được, sao lại làm một tiểu bộ binh? Cái này rất không có tiền đồ a!”
A Mạch thản nhiên cười cười, không trả lời. Đám người Vương Thất thấy nàng không nói gì, cũng không dám hỏi lại. Nếu là ngày thường, bọn họ tất sẽ tiếp tục truy vấn, nhưng hiện tại biết A Mạch là tiểu đệ kết nghĩa của giáo úy, hơn nữa giáo úy đó còn đem bội kiếm đưa cho nàng, có thể thấy được quan hệ của bọn họ rất sâu đậm, khiến trong lòng các binh lính hạ cấp này đối với A Mạch đã có chút nể sợ, không dám tùy ý với nàng giống như ngày thường.
A Mạch nhìn ra tâm tư bọn họ, nhưng lại cũng không lộ vẻ gì. Đối với nàng mà nói như vậy cũng tốt, ít nhất có thể làm cho những người này cách xa nàng, khiến cho ngày tháng về sau của nàng cũng sẽ quá thoải mái hơn một chút. Bất quá nghĩ đến vừa rồi Vương Thất nói bộ binh là không có tiền đồ nhất, trong lòng nàng lại xuất hiện một chút sầu lo. Nàng tòng quân tuyệt đối không phải vì một chút quân lương, bổng lộc mà chủ yếu là vì thanh danh, địa vị, quân quyền, nàng nhất định phải phải đứng ngang tầm với Trần Khởi.
Chỉ nhìn cách Thương Dịch Chi huấn luyện bộ binh là có thể đoán được anh ta quyết tử thủ Dự Châu. Như vậy thì điều gì chờ đợi nàng ở phía trước? Lại một lần thủ thành chi chiến? Không, nàng không cần cái đó. Nàng cần kỳ công. Một kỳ công có thể khiến nàng rất nhanh được thăng chức!
Đêm xuống, A Mạch lại một lần nữa mất ngủ, đầy ắp trong đầu là những suy nghĩ làm thế nào mới có thể lập được kì công. Nếu nàng bây giờ còn ở bên người Thương Dịch Chi, có lẽ còn có một chút cơ hội, nhưng hiện tại nàng đang ở bộ binh doanh, nàng phải làm như thế nào mới có thể từ vị trí hiện tại leo lên một cách nhanh nhất đây? Nàng có chút hâm mộ Từ Tĩnh, nhưng nếu để cho nàng vào vị trí của ông ta, nàng lại không muốn, nàng không muốn làm một mưu sĩ đứng sau màn trướng, nàng nhất định phải ở trên chiến trường chém giết nhưng không phải vì muốn trở thành danh tướng vang danh một thời, mà nàng muốn ở trên chiến trường chất vấn Trần Khởi, vì cái gì…
Trong doanh trướng mọi người đều đã ngủ say, chỉ có nàng vẫn còn thanh tỉnh. Nàng nghĩ, rốt cục trong cơ thể nàng thì máu thịt của phụ thân truyền lại chiếm thế thượng phong.
Trong bóng tối, A Mạch từ trên giường nhẹ nhàng đứng dậy, mỗi ngày cũng chỉ đến giờ này nàng mới có thể đi nhà vệ sinh. Ban ngày, để tránh phải đi vệ sinh cùng mọi người, nàng không dám uống chút nước nào, chỉ đến tối mới dám uống một chút, sau đó khi mọi người đều ngủ say thì vụng trộm đi.
Hôm nay, nàng không mang đao của mình mà là cầm bội kiếm của Đường Thiệu Nghĩa rồi nhẹ nhàng đi ra ngoài doanh trướng. Nhà vệ sinh quân doanh đều là dựng tạm ở phía sau doanh trướng, chỉ dùng cành cây cao ngang người cắm xung quanh một hố bùn, không có cửa che, mùi hôi nồng nặc.
A Mạch nín thở đi vào, vừa dỏng tai nghe động tĩnh bên ngoài, vừa nhanh chóng giải quyết vấn đề của mình. Đến khi nàng nhắc quần đứng lên, trong lòng nhịn không được thở ra nhẹ nhõm, thật may mắn là vào lúc nửa đêm nên người đi vệ sinh cũng không nhiều. Nàng sửa sang lại quần áo rồi đi ra. Có lẽ là vì vừa giải quyết nhu cầu của bản thân xong nên có chút lơi lỏng, hay cũng có thể là vì đầu óc nàng vẫn còn mải cân nhắc chuyện vừa rồi, cho nên nàng không chú ý tới một người ở phía trước, đến khi đụng vào người đó rồi nàng mới bừng tỉnh lại.
“Mẹ kiếp! Không có mắt à!” Người nọ mắng, giơ chân mạnh vào người A Mạch.
A Mạch theo bản năng né qua, nương theo ánh trăng giương mắt nhìn nam nhân cao lớn thô kệch kia, nhận ra đây chính là một gã đội trưởng. Nàng vội vàng cúi người tránh ở một bên, dùng thanh âm kinh sợ nói: “Thực xin lỗi, thực xin lỗi.”
Nam nhân kia đá không trúng, lửa giận trong lòng lại càng lớn hơn, liền nhắc chân đạp tiếp.
Lần này A Mạch không tránh, cắn răng chịu một cước. Người nọ là đội trưởng, lại cùng doanh nên nàng không muốn đắc tội với hắn, thà rằng chịu của hắn một cước còn hơn cùng hắn tranh cãi.
Nhưng cú đá này khí lực quá mạnh, lại đá vào bụng A Mạch, lập tức liền gạt nàng gạt ngã xuống đất, A Mạch nhịn không được, cổ họng bật rên lên một tiếng, lấy tay ôm bụng.
Nam nhân kia vốn định đánh tiếp, nhưng vừa nghe thấy thanh âm này thì đột nhiên dừng lại.
A Mạch có chút kinh hãi, sợ rằng âm thanh rên rỉ vừa rồi đã khiến anh ta phát hiện ra sơ hở. Tuy rằng từ ba năm trước đây nàng đã uống thảo dược khiến cho tiếng nói so với nữ tử bình thường có thô hơn một chút, nhưng dù sao cũng không phải là giọng nam tử chân chính. Bình thường nếu nàng chú ý một chút thì cũng có thể che dấu được, nhưng vừa rồi lại vô thức phát ra tiếng rên rỉ, sợ rằng đối phương đã dễ dàng phát hiện ra.
Nam nhân kia quả nhiên là vì thanh âm phát ra từ cổ họng A Mạch mà ngừng lại, một tiếng kêu này khiến dục vọng trong lòng hắn nổi lên. Hắn ta đánh giá A Mạch, phát hiện người này rõ ràng vẫn là một thiếu niên, thân hình cao gầy mà ốm yếu, té ngã trên mặt đất như vậy khiến cho hắn ta không khỏi liên tưởng đến nữ nhân.
Chỉ một suy nghĩ như vậy đã khiến hắn ta cảm thấy dưới bụng đột nhiên nóng lên, hắn đã quên mất mình đã bao nhiêu lâu chưa tiếp xúc với nữ nhân. Một năm, hay là hai năm?
A Mạch cũng nhận ra người này có chút không bình thường, một bên hạ giọng nói cáo biệt, một bên cuống quít đứng lên, xoay người muốn chạy nhanh trở lại doanh trướng. Nhưng vừa xoay người thì nam nhân kia đột nhiên từ phía sau nắm lấy vả vai của nàng……
Lục Cương là giáo úy bộ binh thất doanh của quân Thanh Châu. Khi anh ta bị cận vệ đánh thức dậy, nói có một tiểu binh vừa giết chết một đội trưởng đội hai, anh ta đầu tiên là ngẩn người, sau đó lập tức liền từ trên giường nhảy xuống, phẫn nộ hét lên: “Mẹ nó! Là ai làm? Đem hắn vào đây cho ta. Mẹ nó! Ngay cả đội trưởng mà cũng dám giết. Phản rồi!”
Đội trưởng đội hai của thất doanh được người khiêng vào, hắn ta sớm đã chết, yết hầu bị cắt đứt, ngay cả cổ họng cũng chưa kịp kêu lên một tiếng đã chết. Nếu không phải lính tuần vừa đúng lúc đi ngang qua nghe thấy động tĩnh phía trước, chỉ sợ kẻ giết hắn ta đã sớm chạy rồi.
Lục Cương tức giận đến xanh cả mặt. Gã đội trưởng này là một thủ hạ hung mãnh nhất của anh ta, từng một mình giết chết năm sơn tặc, không ngờ lại chết một cách bất đắc kỳ tử trên tay một tiểu binh như vậy.
Anh ta nhướn mày lên nhìn gã tiểu binh vừa bị binh lính áp giải vào trong doanh trướng, cảm thấy có chút quen mặt, đột nhiên nhớ tới chính là gã tiểu binh hôm nay đã trúng nửa roi của mình, người này tên là A Mạch, bộ dạng rất đẹp, anh ta chỉ nhìn lướt qua một lần là nhớ rõ.
Lục Cương liếc mắt nhìn thanh bội kiếm dính máu, anh ta biết đây là của Đường giáo úy vừa tới gặp và tặng bội kiếm này cho A Mạch ngày hôm nay. Chính vì nể mặt Đường giáo úy mà anh ta đã bỏ qua cho A Mạch mấy roi.
“Vì sao lại giết trưởng quan?” Lục Cương hỏi.
A Mạch bị trói gô lại, quỳ trên mặt đất, trên người đầy vết máu, trên mặt bầm tím nhiều chỗ còn rớm máu. Có thể thấy được vừa rồi đã bị binh lính tuần tra đánh cho không ít. Nàng ngẩng đầu nhìn, cảm giác kinh hoàng vừa rồi khi giết người đã bình phục lại, chỉ bình tĩnh nói: “Ta không muốn giết hắn, nhưng vì hắn ta muốn ức hiếp vũ nhục ta, ta mới phản kháng, không cẩn thận dụng kiếm đả thương hắn.”
Lục Cương lạnh lùng nhìn A Mạch, trên mặt tuy rằng bầm tím, nhưng vẫn có thể nhìn ra ngũ quan tuấn tú, thậm chí có thể nói là xinh đẹp. Anh ta lại liếc mắt nhìn thân hình A Mạch, biết nàng không nói dối, nàng giống như một thiếu niên, ở trong quân rất dễ bị xâm phạm. Nhưng mặc dù như vậy, chẳng lẽ nàng liền dám giết một đội trưởng sao?
Lục Cương cười lạnh, đá thanh kiếm của Đường Thiệu Nghĩa đến bên người A Mạch, lạnh giọng hỏi: “Không phải ngươi cho rằng được Đường giáo úy cho ngươi thanh bội kiếm, là ngươi có thể tùy ý sát hại trưởng quan sao?”
A Mạch nhìn thẳng vào thanh kiếm trên mặt đất, cũng không trả lời, bởi vì nàng biết, bất luận nàng giải thích như thế nào, thì nàng cũng đã giết chết tên trưởng quan kia, ở trong quân đó là tội lớn. Mặc kệ lý do của nàng là gì cũng không thể bảo đảm được tính mạng của nàng.
Nàng vẫn chưa muốn chết, cho nên, nàng hiện tại phải nghĩ ra một biện pháp, một biện pháp có thể giữ lại được tính mạng của nàng.
Chương 18
TẠM THÍCH ỨNG
Lục Cương thấy A Mạch trầm mặc không nói, lửa giận trong lòng càng tăng lên, soạt một tiếng, bội kiếm đã rút ra đặt lên yết hầu A Mạch, cả giận quát: “Nói mau! Là kẻ nào tiếp tay khiến ngươi ngay cả trưởng quan cũng dám giết?”
Mũi kiếm lạnh lẽo chạm vào cổ họng, trong mắt A Mạch hiện lên một tia ngoan cường, cắn chặt hàm răng, trầm giọng nói: “Không sai, đại nhân, ta giết hắn còn có một nguyên nhân khác, bất quá việc này sự tình trọng đại, còn thỉnh đại nhân…” Nàng nói đến đây thì ngừng lại, ánh mắt đảo qua những người khác đứng trong doanh trướng.
Lục Cương ngẩn ra, không thể tưởng tượng được A Mạch lại nói như vậy.
“Đại nhân, không nên nghe hắn…” Quan quân thủ hạ vội vàng kêu lên.
Lục Cương đưa tay ra hiệu cho bọn họ yên lặng, chăm chú nhìn A Mạch.
A Mạch biết hiện tại là thời khắc mấu chốt, chuyện sinh tử của nàng tất cả đều nằm ngay trong một tia ý niệm của Lục Cương. Vì thế liền khẽ mỉm cười, khiêu khích nhìn Lục Cương nói: “Đại nhân, tiểu nhân quả thật có chuyện quan trọng cần bẩm báo. Thỉnh đại nhân cho những người này lui ra ngoài, đại nhân nếu vẫn không yên tâm, vậy mời ngài trói tiểu nhân lại.”
Lục Cương quả nhiên bị nàng khích tướng, cười lạnh hai tiếng nói: “Chẳng lẽ ta còn sợ ngươi sao?” Nói xong liền phẩy tay đuổi hết mọi người ra ngoài, sau đó lại quay lại nhìn A Mạch, âm trầm hỏi: “Nói, là ai sai ngươi giết anh ta? Đường Thiệu Nghĩa hôm nay tìm ngươi làm gì?”
A Mạch thoáng sửng sốt, lập tức hiểu được hàm ý của Lục Cương, anh ta hiển nhiên là muốn dẫn dắt để khiến mình cắn lại Đường Thiệu Nghĩa. A Mạch trong lòng hừ lạnh, song trên mặt vẫn giữ nụ cười thong dong như trước, nói: “Đại nhân, tiểu nhân hiểu được giết người phải có lý do, bất quá việc này liên lụy rất lớn, nên phải thỉnh đại nhân đi mời quân sư Từ Tĩnh, ông ấy nhìn thấy tiểu nhân tự nhiên sẽ hiểu được căn nguyên trong đó.”
Lục Cương nghe A Mạch đột nhiên đòi gặp Từ Tĩnh, bỗng thấy chột dạ, nhưng vẫn cười lạnh nói: “Từ tiên sinh là người như thế nào? Chỉ bằng một tên tiểu binh nhỏ bé như ngươi mà muốn gặp là gặp được sao? Ngươi thành thật khai ra, ai là người sai ngươi giết trưởng quan, nếu không đừng trách ta hạ thủ vô tình.”
A Mạch bình tĩnh nhìn Lục Cương, thản nhiên nói:“Đại nhân, có một số việc không biết chưa chắc đã là chuyện xấu, ngài nói có đúng không? Đại nhân mời Từ tiên sinh đến, thì sẽ hiểu được một số việc.”
Lục Cương lạnh lùng nhìn A Mạch, đột nhiên cười nhạo nói: “A Mạch, ngươi đừng tưởng rằng làm ra vẻ huyền bí như vậy là có thể lừa gạt được ta. Nói ra, còn có đường sống, không nói, ta sẽ lập tức kêu người lôi ngươi ra ngoài chém. Đừng tưởng rằng ngươi quen biết Đường Thiệu Nghĩa là có thể tránh được quân pháp.”
A Mạch hỏi: “Đại nhân thật muốn biết?”
Lục Cương lấy tay nhẹ nhàng mà vuốt ve lưỡi kiếm, gật đầu nói: “Ít nói nhảm thôi, mau khai ra!”
A Mạch cúi đầu trầm mặc một lát, trước khi Lục Cương trở nên tức giận liền đột nhiên hỏi hắn: “Đại nhân cũng biết tiểu nhân trước kia là thân vệ binh bên cạnh Thương tướng quân?”
Lời này không nằm trong dự kiến của Lục Cương khiến anh ta hơi kinh sợ, ánh mắt thâm trầm nhìn A Mạch.
A Mạch thản nhiên cười cười, nói: “Có lẽ đại nhân ít hội kiến Thương tướng quân, nếu không hẳn là đã gặp qua A Mạch. Nếu đại nhân không tin thì có thể hỏi Lý phó tướng. A Mạch gia nhập bộ binh doanh cũng không phải tự mình đến, mà là do Thương tướng quân phái người đưa A Mạch tới, rồi giao cho Lý phó tướng an bài.” A Mạch nhìn Lục Cương, cười mà như không cười hỏi: “A Mạch mặc dù đi theo Thương tướng quân không lâu, nhưng lại được Thương tướng quân ưu ái, đại nhân có biết tướng quân vì sao đột nhiên muốn đưa A Mạch tới đây không?”
Lục Cương không nói, chỉ trầm mặc nhìn A Mạch, suy nghĩ xoay loạn ở trong đầu.
A Mạch vừa cười vừa nói: “Là vì A Mạch tùy hứng chọc giận tướng quân, cho nên tướng quân mới đem A Mạch đưa đến quân doanh để tu tâm dưỡng tính. Không dám dối gạt đại nhân, A Mạch tự biết mình diện mạo âm nhu, quá mức nữ khí, nếu không phải vì vậy, tướng quân sẽ không đối với A Mạch có vài phần yêu mến, tối hôm nay người nọ cũng sẽ không đột nhiên nổi lên tâm địa xấu xa muốn làm nhục A Mạch.”
Nếu không phải chuyện sinh tử liền kề trước mắt, A Mạch sẽ không biên soạn ra những lời này, nàng biết rất rõ, nếu để cho Thương Dịch Chi biết nàng ở đây giả mạo làm nam sủng của anh ta, chỉ sợ nàng sẽ chết càng khó coi hơn. Nhưng chuyện đã tới nước này, nàng cũng không quản được nhiều như vậy.
Lục Cương không thể tin được nhìn A Mạch: “Ý của ngươi nói là…”
“Đại nhân!” A Mạch cắt ngang lời, nhẹ giọng nói: “Có một số việc đại nhân hiểu được thì tốt rồi, không nên nói toạc ra.” Nàng liếc mắt một cái nhìn vẻ mặt kinh ngạc của Lục Cương, còn nói thêm: “A Mạch giết người, tự biết tội khó thoát, nhưng đại nhân có nghĩ tới nếu dùng quân pháp xử trí A Mạch như vậy, tướng quân sẽ thế nào hay không? Ngài ấy đưa ta tới nơi này chính là muốn ta tu tâm dưỡng tính, nhưng đại nhân lại để cho ta ở trong này bị người khác bắt nạt, sau đó lại dùng quân pháp chém đầu, tướng quân sẽ nghĩ như thế nào đây?”
Lục Cương nghe vậy mặt đột nhiên biến sắc. Thương Dịch Chi chỉ thu nhận những thiếu niên tuấn tú làm cận vệ, đây là chuyện mà trong quân ai ai cũng biết. Nếu đúng như lời A Mạch nói, việc này thật đúng là phiền toái. Đội trưởng bị giết là chuyện mà mọi người ở đây ai cũng thấy, nếu không giết nàng, mọi người sẽ bất bình, nếu giết nàng, Thương Dịch Chi sẽ nổi giận, vậy thì mình phải làm sao bây giờ?
A Mạch thấy sắc mặt Lục Cương biến hóa, biết trong lòng anh ta đang bối rối, khốn quẫn, liền bồi thêm: “Vừa rồi A Mạch cậy nhờ đại nhân đi mời Từ tiên sinh, đó là không muốn làm cho đại nhân lâm vào thế khó cả đôi đường. Việc này đại nhân biết chưa hẳn đã là chuyện tốt.”
Lục Cương sắc mặt càng thêm âm u, tay nắm chặt bội kiếm, trong lòng thấy thật khó xử. Anh ta nheo mắt nhìn A Mạch, càng nhìn càng thấy tiểu tử này có bộ dạng thật tuấn mỹ, tuy rằng trên mặt đã bị đánh đến bầm tím, song vẫn không dấu được vẻ thanh tú, một thiếu niên như vậy cũng có chút hương vị của một nữ tử nhu nhược, thật khiến cho không ít nam nhân nhìn mà nảy sinh tà ý.
Giết cũng không giết được, thả cũng không thể thả được, thật đúng là cầm phải một củ khoai nướng bỏng rẫy trên tay! Lục Cương trong lòng thật phiền não, nhất thời nhìn A Mạch mà không thể có nổi một chủ ý nào. Sau một lúc lâu, Lục Cương đột nhiên cao giọng gọi: “Người đâu!”
Ngoài trướng, thân vệ lên tiếng trả lời rồi tiến vào, Lục Cương liếc mắt nhìn A Mạch một cái, phân phó: “Trước cứ áp giải tên này, chờ hừng đông tái thẩm.”
Hai thân vệ lôi A Mạch đi ra ngoài, A Mạch không rõ suy nghĩ của Lục Cương là gì, sợ anh ta lại trực tiếp đi tìm Thương Dịch Chi, vội vàng hướng về phía anh ta nói: “Đại nhân, việc này nhất định phải thỉnh giáo Từ tiên sinh, ông ấy chắc chắn sẽ có biện pháp thỏa đáng.”
Lục Cương thầm nghĩ ta không đi cầu kiến Từ tiên sinh tôn kính, chẳng lẽ còn có thể đi tìm tướng quân, nói rằng cục cưng của ngài là phạm nhân trong tay ta, ngài xem nên làm thế nào sao? Anh ta hướng về phía thân vệ phất phất tay ý bảo đem A Mạch dẫn đi, lại dặn: “Không được đánh hắn, trông coi cho cẩn thận.”
A Mạch nghe thấy câu này, trong lòng thở ra nhẹ nhõm, biết Lục Cương đã tin lời nàng nói, có lẽ khi trời rạng sáng là anh ta sẽ đi tìm Từ Tĩnh, hiện tại nàng chỉ hy vọng Từ Tĩnh niệm tình cũ mà cứu nàng một mạng.
Sắc trời vừa sáng, Lục Cương không kịp ăn điểm tâm đã vội đi tìm Từ Tĩnh.
Từ Tĩnh cả đêm qua luôn ở trong quân trướng bàn luận chuyện quân sự, đến khi trời gần sáng mới đi nằm, đang mơ mơ màng màng, chợt nghe nói có người đến tìm. Vừa đứng dậy đã thấy đó là một giáo úy trong quân đội Thanh Châu, mấy ngày trước có gặp qua một lần, nhưng cũng không thường qua lại. Không hiểu vừa mới sáng sớm anh ta tới đây làm gì? Từ Tĩnh trong thâm tâm vô cùng kinh ngạc, nhưng trên mặt cũng không mảy may thể hiện điều chi, chỉ hỏi: “Không biết Lục giáo úy tìm lão phu có chuyện gì?”
Lục Cương có chút khó xử, không biết nên nói với ông ta như thế nào, tất nhiên không thể trực tiếp hỏi rằng A Mạch có phải là nam sủng của Thương Dịch Chi hay không được rồi. Anh ta cân nhắc đi, cân nhắc lại, mới thận trọng hỏi: “Không biết tiên sinh có biết A Mạch không?”
Nghe anh ta hỏi như vậy, Từ Tĩnh mới nhớ đến A Mạch đã bị đưa đến bộ binh doanh, như vậy thì xem ra chính là thủ hạ của người này rồi. Từ Tĩnh vuốt râu gật gật đầu, nói: “Biết. A Mạch là thủ hạ của giáo úy sao? Không biết hắn ta làm việc có tốt không?”
Làm việc có tốt không? Cũng không phải là không tốt! Lục Cương thầm nghĩ, hắn ta ngay cả đội trưởng còn dám giết, còn có thể nói làm không tốt sao?
Lục Cương khẽ chép miệng, nói: “A Mạch vừa mới giết chết một đội trưởng của ti chức.”
Từ Tĩnh cả kinh, bàn tay giật mạnh xuống mang theo mấy sợi râu, không khỏi nhìn anh ta nói không ra lời.
Hai người giương mắt nhìn nhau, nhất thời đều trầm mặc.
Lục Cương nhìn Từ Tĩnh, dùng ánh mắt hỏi: Làm sao bây giờ? Hắn ta có thật là tiểu cục cưng của tướng quân không? Ta muốn dùng quân pháp để xử trí hắn, tướng quân có đau lòng hay không? Nếu lòng đau có giận chó đánh mèo mà trút hết lên đầu ta hay không? Nếu không giết hắn, bao nhiêu con mắt nhìn vào, sau này làm sao dùng được quân pháp đây?
Từ Tĩnh nhìn Lục Cương cũng âu sầu thầm nghĩ: Nếu ngươi đã đến tìm ta, xem ra tên tiểu tử A Mạch kia cũng đã nói với ngươi rằng chúng ta có quan hệ sâu xa rồi. Chúng ta tốt xấu gì cũng chung một đường đến đây, trong mắt người khác đã sớm cho rằng chúng ta cùng một phe cánh, ta không cứu hắn, về sau người khác sẽ nghĩ ta thế nào? Ai da, A Mạch ơi A Mạch, ngươi giết cả đội trưởng thì quả thật là rất giỏi rồi! Giết một tên tiểu binh hay giết một tên đội trưởng thì cũng bị xử như nhau cả thôi!
Trong lòng hai người tâm tư không ngừng biến đổi.
Một lát sau, Từ Tĩnh hồi phục lại tinh thần, thấp giọng hỏi Lục Cương: “Ngươi có cách nào xử trí A Mạch chưa?”
Lục Cương hồi đáp: “Vẫn chưa, cho nên mới đặc biệt đến thỉnh giáo tiên sinh xem nên làm sao bây giờ?”
Từ Tĩnh vuốt vuốt râu, nói: “Người này không thể giết.”
Lục Cương nhìn Từ Tĩnh, thầm nghĩ, ta đương nhiên biết là hắn ta không thể giết rồi.
Từ Tĩnh lại nhìn lướt ra bên ngoài, thấp giọng nói: “Giáo úy có điều còn chưa biết, A Mạch từng là cận vệ bên người tướng quân, tướng quân đối với hắn ta tình cảm vô cùng sâu đậm. Chỉ vì không cẩn thận chọc giận tướng quân, cho nên hắn mới bị đưa đến quân doanh. Nếu ngươi giết hắn, tướng quân cho dù không nói gì, nhưng chỉ sợ trong lòng đối sẽ có khúc mắc với giáo úy.”
Lục Cương thầm nghĩ, ta sao lại không biết kia chứ, tên tiểu tử kia cũng nói cả với ta rồi. Lục Cương hỏi: “Vậy ta liền đưa A Mạch đến đây cho tướng quân xử trí được không?”
Từ Tĩnh nói: “Giáo úy hồ đồ rồi.”
Lục Cương trừng mắt, nghi hoặc nhìn Từ Tĩnh, không rõ mình hồ đồ ở chỗ nào.
Từ Tĩnh giả dối cười cười, thấp giọng nói: “Đây là ẩn tình của tướng quân, há có thể để cho người khác biết sao? Sau khi ngươi đưa A Mạch cho tướng quân, ngài ấy có thể xử lý như thế nào? Để chấp hành quân pháp ngài ấy chỉ có thể A Mạch ra chém, nhưng trong lòng ngài ấy sẽ cảm thấy như thế nào về nào giáo úy? Sau này, giáo úy còn có thể là thủ hạ làm việc dưới trướng của tướng quân được nữa hay không?”
Trên trán Lục Cương vã ra một tầng mồ hôi lạnh, anh ta vội vàng hướng về phía Từ Tĩnh vái dài một cái, gấp giọng hỏi: “Vậy phải làm thế nào bây giờ? Thỉnh tiên sinh dạy ta.”
Từ Tĩnh vuốt râu, thong thả đi vài bước trong phòng, đột nhiên xoay người nói: “Chuyện này ngươi không cần phải bẩm báo tướng quân, chỉ là một tên đội trưởng mà thôi, không cần phiền tướng quân xử lý. Ngươi trở về đem A Mạch đưa đến nơi xử quân pháp, nói hắn ta cùng với tên đội trưởng kia cùng nhau trêu đùa, không ngờ lỡ trớn ngộ thương đội trưởng.”
“Nhưng ngay cả như vậy, thì chiếu theo quân pháp, A Mạch cũng vẫn bị xử tử!” Lục Cương nói.
Từ Tĩnh bí hiểm nở nụ cười, nói: “Cái này không cần giáo úy quan tâm, lão phu sẽ có biện pháp.”
Lục Cương xoa xoa mồ hôi trên trán, lĩnh mệnh vội vã đi ra.
Từ Tĩnh nhìn bóng dáng hấp tấp của Lục Cương, tự nhủ nói: “A Mạch ơi A Mạch, sống hay chết còn phải dựa vào chính bản thân ngươi a.”
A Mạch bị Lục Cương đưa đến nơi xử quân pháp, vừa đến nơi còn chưa kịp thẩm tra thì lại bị Từ Tĩnh phái người đưa đến quỳ ở bên ngoài phòng nghị sự. Nàng hé mở tờ giấy trong tay mà Từ Tĩnh viết cho nàng, trên đó chỉ có một chữ: “Bắc”.
Chương 19
MŨI GIÁO NHỌN(1)
Trong phòng, tướng lĩnh cao cấp hai châu Dự, Thanh đang mở hội nghị quân sự. Theo thám tử hồi báo, người Bắc Mạt sau khi nghỉ ngơi, hồi phục ở Tĩnh Dương, đại quân lại hướng thẳng đến Dự Châu.
Từ khi người Bắc Mạt bất ngờ tập kích Tĩnh Dương, Thạch Đạt Xuân tự sát không thành, ông ta liền dần dần chuyển giao binh quyền trong tay cho Thương Dịch Chi. Vì vậy, mỗi lần mở hội nghị đều là Thương Dịch Chi chủ trì. Giữ thành hay lui quân, hai loại ý kiến này đã tranh luận đến mấy ngày. Có người kiên quyết dù chết cũng phải giữ thành Dự Châu, nhưng lại có một số tướng lãnh nói hiện nay thế quân Bắc Mạc rất lớn, Dự Châu chỉ là một tòa thành cô độc, bốn vạn quân của hai châu Dự, Thanh ở trong thành khác gì chờ chết, chi bằng rời khỏi Dự Châu, dùng mưu lôi kéo địch.
Trong lúc nhất thời, hai loại ý kiến tranh chấp không phân thắng bại.
Thương Dịch Chi bị những tướng lãnh này làm cho đau đầu, không khỏi nhíu mi, lấy tay xoa xoa huyệt Thái Dương, sau đó nhìn về phía Từ Tĩnh.
Từ Tĩnh vẫn trầm mặc như trước, từ khi hai phe tranh luận tới giờ, ông ta vẫn trầm mặc, chỉ thản nhiên cười xem hai phe cãi tới cãi lui, cũng không phát biểu điều gì.
Thương Dịch Chi thu hồi ánh mắt trên người Từ Tĩnh, lại lạnh lùng nhìn các tướng lãnh, hỏi: “Chẳng lẽ chỉ có hai con đường này hay sao? Chư vị không có ý tưởng gì khác sao?”
Đường Thiệu Nghĩa đứng ở phía sau, có chút do dự, rồi vẫn cất cao giọng nói: “Ty chức có một ý tưởng khác.”
Xét về cấp bậc, Đường Thiệu Nghĩa chỉ là một giáo úy, không có tư cách tham gia loại hội nghị này, nhưng anh ta được Thương Dịch Chi chú trọng, nên đặc biệt cho phép tham gia. Cũng chính vì vậy, anh ta mới chọc cho người khác sinh khí.
Thương Dịch Chi nhìn nhìn Đường Thiệu Nghĩa, nói: “Đường giáo úy cứ nói.”
Tuy sắc mặt Đường Thiệu Nghĩa có chút hồng lên, nhưng trong ánh mắt lộ ra sự tự tin, cao giọng nói: “Nay Thái Hưng bị vây, mười vạn đại quân của Chu Chí Nhẫn còn đang bao vây bốn phía thành Thái Hưng, bọn họ đều là khinh binh(2) mà đến, lương thảo sẽ không sung túc, có thể vây khốn Thái Hưng lâu như thế, nhất định là có nơi cất giấu và tiếp tế lương thảo. Chúng ta chỉ cần tìm được nơi cất giấu lương thảo của hắn, phái người đốt đi, thì mười vạn đại quân của Chu Chí Nhẫn không đánh cũng tự tan.”
Những lời này vừa nói ra, làm cho các chư tướng một phen chấn động, mấy ngày gần đây, mọi người vẫn thương thảo làm thế nào để nghênh chiến quân Bắc Mạc, nhưng không có ai nghĩ đến nhất định phải chủ động tấn công.
Trong mắt Thương Dịch Chi chợt lóe tinh quang, trầm mặc nhìn Đường Thiệu Nghĩa không nói, hiển nhiên đang cân nhắc lời đề nghị của anh ta.
Vẻ mặt của Từ Tĩnh cũng trầm mặc, ánh mắt hướng ra cửa, đến lúc rồi đấy, A Mạch, nếu ngươi vẫn còn muốn giữ mạng sống của mình, vậy thì hãy đem trí tuệ của ngươi hiện ra trước mắt mọi người đi.
Đúng lúc Thương Dịch Chi đang do dự, chợt nghe thấy tiếng đẩy cửa, A Mạch đứng ngoài cửa đột nhiên hô lớn: “Tướng quân, A Mạch còn có một kế.”
Trên mặt Từ Tĩnh rốt cục đã có thể mỉm cười, vuốt râu chậm rãi gật đầu.
A Mạch vừa rồi quỳ gối ngoài cửa nghe mọi sự rất rõ ràng, hiểu được tình thế trước mắt, đó là muốn cứu chính mình chỉ có dựa vào bản thân, phải làm cho Thương Dịch Chi nhìn thấy tác dụng của nàng, chỉ như vậy mới có khả năng giữ lại được tính mạng.
Thương Dịch Chi nhìn A Mạch, nhíu mày, mấy ngày không gặp, hắn ta sao lại biến thành cái bộ dạng này? Mặt mũi bầm dập, toàn thân vấy máu.
Có vài người đã nhận ra thiếu niên này từng là cận vệ bên người Thương Dịch Chi, đều có chút kinh ngạc nhìn A Mạch, không rõ nàng sao lại bị thành như thế. Chỉ có Đường Thiệu Nghĩa là biết A Mạch đã nhập quân số vào bộ binh doanh, lúc này thấy A Mạch một thân vấy máu xuất hiện ở đây, so với lúc gặp mặt hôm qua khuôn mặt lại bầm tím nghiêm trọng, trong lòng cũng vô cùng nghi hoặc, muốn hỏi nhưng lại cố nhịn xuống.
A Mạch không để ý tới ánh mắt mọi người, chỉ trấn định bước chân đi vào bên trong, đến trước mặt Thương Dịch Chi liền chỉ vào bản đồ phía sau anh ta nói: “Tướng quân, người Bắc Mạt khai thông phía sau biên giới Tĩnh Dương của ta, lần này tái công kích sẽ rất thận trọng. Nếu là như thế, đại quân Bắc Mạc lần này từ Tĩnh Dương tất sẽ mang theo lượng đồ quân nhu lớn, như vậy tốc độ hành quân sẽ rất chậm. Bỏ qua thời gian bọn họ ở Tĩnh Dương nghĩ ngơi hồi phục sức lực, hiện tại tính ra cũng chỉ vừa ra khỏi Tĩnh Dương mà thôi, nhiều khả năng còn chưa tới được nơi này.” Nàng chỉ vào một vị trí dưới thành Tĩnh Dương một chút, sau đó ngón tay di chuyển dọc theo lộ tuyến từ Tĩnh Dương xuống Dự Châu, dừng lại ở một điểm rồi lại nói tiếp: “Nếu chúng ta mai phục ở đây, cũng tương tự như cách Thường Ngọc Thanh đánh lén viện quân Tĩnh Dương của ta, có khả năng sẽ thu được kết quả bất ngờ ngoài ý muốn.”
Đây là kế sách nàng đã mất cả buổi tối để suy nghĩ. Lúc trước, khi nghe được mọi người tranh luận bên trong, vừa cẩn thận cân nhắc chữ “Bắc” mà Từ Tĩnh viết cho nàng, nàng lập tức liền hiểu được ám chỉ của Từ Tĩnh. Rất hiển nhiên là suy nghĩ của Từ Tĩnh cùng gần với suy nghĩ của nàng, cho nên chữ “Bắc” này đối với nàng mà nói, chính là vì muốn cứu nàng một mạng nên ông ta mới đem này kế sách này tặng cho nàng. Đồng thời, ông ta muốn thử nàng, nếu nàng nghĩ không ra, thì kế sách này vẫn là của ông ta, mà cái chờ đợi nàng phía trước vẫn là bị chém đầu.
Trong lúc nhất thời, cả phòng tĩnh lặng như tờ.
“Không được! Như vậy rất mạo hiểm! Hai quân chúng ta hợp lại một chỗ cũng chỉ có bốn vạn binh lực, làm sao có thể đi phục kích đại quân Bắc Mạc được!” Một gã tướng quân trung niên đột nhiên nói.
A Mạch liếc mắt nhìn người nọ một cái, cười lạnh nói: “Sợ là người Bắc Mạt cũng sẽ nghĩ như vậy, bọn họ tất nhiên đã cho rằng Đại Hạ ta bị bọn họ giết ba mươi vạn biên quân, đã sớm bị dọa đến vỡ mật, chỉ biết thủ thành mà sẽ không dám tiến công, bọn họ có chết cũng không nghĩ đến chúng ta lại có can đảm này, dám phục kích đại quân Bắc Mạc.”
Thương Dịch Chi nhìn A Mạch trầm mặc không nói. Nếu nói chủ ý vừa rồi của Đường Thiệu Nghĩa là mạo hiểm, thì kế sách của A Mạch chính là điên rồ. Dùng chưa đầy bốn vạn binh lực hiện tại trong thành Dự Châu đi phục kích đại quân Bắc Mạc, quả thực là lấy trứng chọi đá. Nhưng một kế sách điên rồ như vậy lại khiến cho anh ta kích động nhảy dựng lên.
A Mạch âm thầm quan sát sắc mặt Thương Dịch Chi một chút, lại tiếp tục dẫn dắt: “Tướng quân, người Bắc Mạt sau khi đại thắng tất sinh kiêu ngạo, huống chi Bắc Mạc có mười vạn binh lực ở Thái Hưng, trong tay Trần Khởi cũng chỉ có không đầy hai mươi vạn nhân mã. Thường Ngọc Thanh đánh lén viện quân Tĩnh Dương, Trần Khởi công chiếm Tĩnh Dương, binh lực tất có tổn thất, hiện tại binh lực trong tay nhiều nhất cũng không quá mười lăm vạn, hắn lại phải lưu một phần binh lực ở Tĩnh Dương, cho nên cái gọi là đại quân Bắc Mạc có thể được bao nhiêu? Nhiều nhất là mười vạn!”
Phân tích kinh động của nàng khiến một nửa chư tướng trong phòng động tâm, đều hiểu được kế sách này tuy rằng rất mạo hiểm, nhưng hiện giờ đã ở vào thế không thế không tấn công, quan trọng hơn nữa là có thể bất ngờ tập kích quân Bắc Mạc, rửa nỗi sỉ nhục ở Tĩnh Dương.
“Làm càn!” Thương Dịch Chi bỗng biến sắc mặt, ánh mắt nghiêm khắc nhìn chằm chằm A Mạch khiển trách: “Đây là nơi nào mà ngươi dám ở trong này hồ ngôn loạn ngữ, người đâu, lôi hắn ra đánh hai mươi trượng cho ta!”
A Mạch trong lòng kinh hãi, hoảng sợ nhìn về phía Từ Tĩnh, chỉ thấy trong mắt ông ta hàm chứa chút ý cười, chỉ vuốt râu nhìn mình. Binh sĩ ngoài cửa tiến vào kéo A Mạch ra. A Mạch bối rối đến nỗi ngay cả cầu xin tha thứ cũng quên mất, chỉ ngây ngốc nhìn Thương Dịch Chi, để mặc cho binh sĩ kéo nàng ra bên ngoài.
Xong rồi, cho dù hai mươi quân côn không đánh chết nàng, thì thân thế của nàng cũng không giấu diếm được nữa. A Mạch chỉ cảm thấy trong đầu trống rỗng, cái gì cũng nghĩ không ra. Thương Dịch Chi còn ở phía sau hô, A Mạch đã không còn nghe rõ là cái gì, hình như là kêu thị vệ Trương Sinh giám sát, để ngừa những thân binh khác vì quen biết nàng mà nhẹ tay.
Binh sĩ đem A Mạch kéo tới phòng sau, đặt nàng nằm trên một chiếc ghế băng dài, sau đó có người đi lên định cởi quần của nàng, A Mạch sợ tới mức vội vàng liều chết giãy dụa, song tay chân đều bị người giữ chặt cứng, không thể động đậy. Tay người nọ đã đưa lên đai lưng của nàng. A Mạch chết lặng cả người. Chính vào lúc hỗn loạn đó, chợt nghe tiếng Trương Sinh nói: “Bỏ đi, tốt xấu gì trước kia cũng là huynh đệ của chúng ta, cứ trực tiếp đánh đi, đừng cởi quần.”
Những lời này lọt vào tai A Mạch còn hơn cả ơn cứu mạng. A Mạch cảm thấy mình chưa từng cảm kích một người nào như vậy, hai hốc mắt nàng nóng lên, nước mắt đã muốn trào ra, nhưng vẫn cắn răng cố gắng mở to hai mắt không để cho rơi lệ. Trong lòng thầm mắng Thương Dịch Chi cùng Từ Tĩnh, từ bát đại tổ tông đến tam đại tử tôn đều ân cần thăm hỏi một lượt. Lục Cương không đánh nàng, nhưng khi nàng đến nơi này lại không khác gì đưa đầu vào chỗ chết.
Trương Sinh tự mình chấp trượng, xoay tròn cánh tay hướng về phía mông A Mạch giáng xuống. A Mạch vốn đề sẵn tâm lý chịu đau, lại đột nhiên phát hiện quân trượng đánh vào mông cũng không đau như mình tưởng tượng. Nàng không khỏi ngoái lại nhìn Trương Sinh. Trương Sinh cũng trừng mắt nhìn nàng, A Mạch đột nhiên hiểu được vấn đề, liền nhanh chóng kêu lên một tiếng thảm thiết. Khóe miệng Trương Sinh hơi giật giật một chút, sau đó tiếp tục ra sức đánh.
Tiếng kêu thảm thiết của A Mạch truyền vào trong phòng quân nghị, khiến Đường Thiệu Nghĩa đứng ngồi không yên, hai tay không khỏi nắm chặt thành quyền, Thương Dịch Chi mày đẹp nhăn lại.
Hội nghị vẫn tiến hành đến quá trưa mới xong. Đường Thiệu Nghĩa trước khi đi có chút lo lắng liếc mắt nhìn về phía sau viện, đáng tiếc cái gì cũng không nhìn thấy.
Sau khi bị đánh xong, A Mạch lại bị Trương Sinh đưa trở lại chỗ của Thương Dịch Chi. Thân binh mang cơm canh của Thương Dịch Chi tới, Thương Dịch Chi trước hết mời Từ Tĩnh ngồi xuống bàn ăn, sau mới tự mình ngồi xuống, một chút cũng không để ý đến A Mạch đứng ở bên cạch.
A Mạch đã mấy bữa chưa có gì vào bụng, ngửi được mùi thức ăn, dạ dày không khống chế được réo lên ầm ĩ, nàng vội vàng dùng sức bóp chặt bụng, không cho phát ra âm thanh nữa.
Thương Dịch Chi liếc mắt nhìn A Mạch một cái, cầm chiếc bánh bao trong tay, thản nhiên hỏi: “Ngươi lại ở trong quân gây ra chuyện gì?”
A Mạch cầu cứu nhìn về phía Từ Tĩnh, thấy ông ta không tỏ vẻ gì, đành khiếp đảm trả lời: “Ta lỡ tay giết người.”
“Giết người nào?” Thương Dịch Chi lại hỏi.
A Mạch dừng một chút rồi mới nói: “Là một tên đội trưởng.”
Sắc mặt Thương Dịch Chi đột nhiên biến lạnh, nỗi tức giận tăng vọt trong mắt, cười lạnh nói: “A Mạch, lá gan của ngươi thật ra rất lớn, ngay cả đội trưởng mà ngươi cũng dám giết.”
A Mạch ngoan cố nói: “Là hắn ta muốn ức hiếp, làm nhục ta, ta mới lỡ tay giết chết. Tướng quân, rốt cuộc là ta sai ở đâu, chẳng lẽ bởi vì ta có khuôn mặt đẹp nên đáng phải chịu sự vũ nhục của người khác hay sao? A Mạch tòng quân là vì muốn giết giặc cứu quốc, không phải để làm đồ chơi cho những người này!”
Thương Dịch Chi khẽ giật mình, quay đầu nhìn A Mạch, thấy nàng mặt mày bầm tím, khóe miệng vẫn còn vương chút máu, vẻ mặt quật cường nhìn mình.
“Thỉnh tướng quân nói cho A Mạch, có phải nam nhân có vẻ ngoài đẹp đẽ thì đều đáng phải chịu sự vũ nhục của người khác không? Theo lẽ thường thì phải để cho người khác khinh thường có phải không?”
Thương Dịch Chi không nói, bản thân anh ta vốn có một bộ dạng tuấn mỹ, tuy rằng được nữ tử ưu ái, nhưng bởi vậy lại bị không ít lão tướng coi thường. Anh ta cũng hiểu rõ rằng những thiếu niên có diện mạo tuấn tú ở trong quân sẽ bị ức hiếp, cho nên mới đem những thanh niên tuấn tú đến làm cận vệ bên cạnh mình, chẳng qua để tránh cho họ khỏi bị khi dễ. Sau này, lúc anh ta đem A Mạch nhập quân số vào bộ binh doanh, không thể không nói là lúc ấy trong đầu có ý muốn để cho nàng phải nếm chút khổ cực. Nhưng hiện tại nhìn nàng một thân chật vật đứng ở trước mặt, anh ta lại có chút không đành lòng. Huống chi anh ta vốn yêu thích tài năng của A Mạch, không nói đến vừa rồi nàng đã thực sự bộc lộ tài năng, mà bắt đầu từ lúc khởi hành trên đường từ Thanh Châu đến đây, tuy rằng nàng dùng mọi cách để che dấu, nhưng anh ta vẫn nhìn ra nàng là người cơ trí linh hoạt, cho nên mới giữ nàng ở bên người.
Thương Dịch Chi lạnh giọng nói: “Nhưng như thế cũng không có nghĩa là được giết người.”
A Mạch đôi mắt ửng đỏ, nói: “Ta cũng không muốn giết hắn, nhưng lúc ấy thật sự là không có biện pháp khác.”
Thấy nàng một bộ bộ dạng như vậy, Thương Dịch Chi có chút giáo huấn không nổi nữa, ngữ khí mặc dù lạnh, nhưng khẩu khí không tự chủ được cũng từ từ hạ xuống, anh ta nói: “Mặc kệ là vì lý do gì, vẫn là ngươi đã giết quan quân, dựa theo quân pháp thì phải chém đầu thị chúng.”
A Mạch trong lòng cả kinh, hoảng sợ nhìn Thương Dịch Chi.
—————–
Chú thích:
(1) Mũi giáo nhọn: ý nói tình cảnh của A Mạch trong chương này như kề sát mũi giáo. Đồng thời, từ chương này, tài năng của A Mạch bắt đầu được bộc lộ, khiến nàng trở thành một thứ vũ khí sắc nhọn của quân Nam Hạ.
(2) khinh binh: khinh nghĩa là nhẹ; khinh binh nghĩa là binh lính được trang bị gọn nhẹ. Trong truyện này, khi hành quân đến thành Thái Hưng, đại quân Bắc Mạc lấy yếu tố nhanh, bất ngờ làm tiên cơ nên phải trang bị gọn nhẹ để đảm bảo những yếu tố trên.
Chương 20
TÀNG PHONG(1)
Thương Dịch Chi nhìn bộ dạng này của A Mạch, có chút không nhịn được, khóe miệng run run muốn cười, vội ngoảnh mặt đi, nói: “Song niệm tình vừa rồi ngươi cũng đã chịu hai mươi quân trượng, nên trước hết lưu lại nửa cái mạng của ngươi, về sau lập công chuộc tội.”
Trái tim A Mạch cuối cùng cũng đã có thể quay trở về chỗ cũ, suy nghĩ tiếp theo trong đầu chính là muốn mắng Thương Dịch Chi: “Ta thèm vào”, nhưng một tiếng “Ta” chưa ra khỏi miệng đã bị nàng vội vàng nuốt xuống, chỉ cúi đầu cụp mắt đứng im một chỗ, trong bụng thầm mắng Thương Dịch Chi: “Có cách nói chuyện như vậy sao?”
Thương Dịch Chi kêu Trương Sinh từ bên ngoài tiến vào, phân phó: “Ngươi đưa A Mạch đi xuống đi,” Anh ta lại quét mắt khắp người A Mạch, rồi nhíu mày, hơi có chút chán ghét nói: “Nhớ phải thay bỏ những thứ quần áo bẩn thỉu này đi.”
A Mạch theo chân Trương Sinh đi ra ngoài, mới vừa đi không hai bước chợt nghe tiếng Thương Dịch Chi lạnh lùng truyền tới: “Ta thấy hai mươi quân côn vẫn là chưa đủ, có lẽ phải cho ngươi thêm hai mươi quân côn nữa thì may ra ngươi mới có thể nhanh nhẹn lên được.”
A Mạch cả kinh nhảy dựng lên, vội vàng quýnh quáng chạy ra ngoài.
Phía sau vang lên tiếng cười của Từ Tĩnh, Thương Dịch Chi xoay người lại nhìn ông ta, hỏi: “Tiên sinh có chuyện gì vui thế?”
Từ Tĩnh lắc đầu: “Không có.”
Thương Dịch Chi lại hỏi: “Vậy tiên sinh đang cười cái gì?”
Từ Tĩnh cười cười, nói: “Cười A Mạch đúng là da dày thịt béo, bị đánh hai mươi quân côn mà vẫn còn có thể chạy nhanh như vậy.”
Thương Dịch Chi cũng nhẹ nhàng cười theo, gật đầu nói: “Phải, xem ra quân côn cũng phải kiêng kị tiểu tử này, cũng khỏe mạnh thật, xem ra sẽ là một cây lúa mạch tốt.”
Từ Tĩnh buông đũa, sắc mặt chuyển thành nghiêm túc, nhìn chằm chằm Thương Dịch Chi hỏi: “Tướng quân cảm thấy kế sách của A Mạch thế nào?”
Thương Dịch Chi thản nhiên nói: “Có thể dùng.”
“Có thể dùng?”
Thương Dịch Chi xoa cằm: “Đúng vậy, có thể dùng.”
“Vậy thì vì sao tướng quân còn dùng trượng trách phạt A Mạch?” Từ Tĩnh lại hỏi, không tự chủ được khẽ nheo nheo mắt.
Thương Dịch Chi nở nụ cười, cũng không trực tiếp trả lời vấn đề của Từ Tĩnh, chỉ thay Từ Tĩnh gắp chút đồ ăn, rồi tùy ý nói: “Trước đây ta từng ở một thôn trang ngoài kinh đô vài năm. Có một năm, thôn trang tiến hành trồng lúa mạch, ta cảm thấy rất mới lạ, cũng theo bọn người hầu trồng một cây lúa mạch. Vì muốn cây lúa của mình tốt hơn so với người khác, ta rất chăm chỉ tưới nước bón phân cho nó, kết quả là cây lúa đó quả nhiên vượt xa những cây còn lại, đến mùa hè, dù ở xa vẫn có thể nhìn thấy nó cao hơn hẳn những cây lúa khác. Ta rất đắc ý, còn cố ý nói chuyện này với mẫu thân, nhưng mẫu thân lại không khích lệ ta, chỉ vỗ vỗ đầu ta rồi thở dài.”
Từ Tĩnh yên lặng nghe, đến đây đã đoán được ý tứ của Thương Dịch Chi, bất quá thấy anh ta dừng lại, vẫn rất phối hợp hỏi: “Sau đó thì sao?”
Thương Dịch Chi tự cười chế giễu, nói: “Sau đó có một trận gió lớn từ trong rừng thổi đến quật đổ cây lúa kia.”
“Một cái cây quá cao tất sẽ bị gió to quật gãy?” Từ Tĩnh hỏi.
Thương Dịch Chi không trả lời, cầm đũa chỉ vào thức ăn trên bàn, cười nói: “Mời tiên sinh nếm thử mấy món này, nghe nói là do đầu bếp từ kinh đô chế biến.”
Từ Tĩnh âm thầm xem thường, thầm nghĩ trình độ nói lảng sang chuyện khác của ngươi quá kém. Tiểu tử ngươi sợ A Mạch vì quá sắc nhọn mà bị bẻ gãy, sao ngươi không sợ ta bị người khác ghen ghét? Từ Tĩnh liếc mắt nhìn Thương Dịch Chi, đồng thời trong lòng cũng có chút buồn bực, thấy hiển nhiên là Thương Dịch Chi rất thưởng thức A Mạch, nhưng hiện tại vì sao lại cố tình chèn ép nàng? Từ Tĩnh có chút không rõ, theo lý mà nói thì hiện tại đúng là lúc rất cần dùng người, sao ông ta lại có cảm giác như Thương Dịch Chi có ý muốn dấu bảo kiếm trong vỏ? Vì cái gì? Chẳng lẽ là vì muốn tích tụ nhân tài sao?
“Tiên sinh cảm thấy kế sách của A Mạch thế nào?” Thương Dịch Chi đột nhiên hỏi.
“Rất tốt!” Từ Tĩnh hồi đáp.
Thương Dịch Chi nở nụ cười, hỏi: “Rất tốt?”
Từ Tĩnh gật đầu, nhìn vào mắt Thương Dịch Chi, rồi đẩy đồ ăn trên bàn ra, sau đó lấy bản đồ trong người trải lên trên bàn, nói: “Đây là bản đồ địa hình của Dã Lang Câu, mời tướng quân xem.”
……
A Mạch lại mặc vào một thân hắc y nhuyễn giáp của thân binh, trong lòng cảm khái vạn phần, vốn định cười, nhưng vừa nhếch miệng lên trong lòng lại cảm thấy bi ai, đôi mắt chẳng hiểu vì sao lại đỏ mọng, cúi đầu xuống, tay nọ vòng sang ôm chặt lấy khuỷu tay kia, thì thào nói nhỏ: “A Mạch giỏi lắm, A Mạch thực kiên cường, thực kiên cường, thực kiên cường…..”.
Tại thời điểm suýt nữa bị làm nhục, nàng không khóc. Khi bị lính tuần đánh, nàng cũng không khóc. Nhưng bây giờ, khi mọi nguy hiểm đã qua đi, nàng lại muốn khóc.
Trương Sinh đến trại quân y xin thuốc mỡ trị thương trở về, đẩy cửa ra thì bắt gặp A Mạch đang nằm úp sấp ở trên giường, cười nói: “Tiểu tử nhà ngươi vẫn còn nằm úp sấp sao? Thật là quá yếu ớt.” Nói xong đi đến trước giường, dùng sức vỗ vào mông A Mạch một cái.
A Mạch kêu lên một tiếng sợ hãi, thiếu chút nữa nhảy xuống khỏi giường, quay đầu lại, đưa đôi mắt đỏ hồng mắt căm tức nhìn Trương Sinh.
Trương Sinh nhìn ánh mắt đỏ bừng của A Mạch thì có chút kỳ quái, ngạc nhiên nói: “Tiểu tử ngươi còn khóc nữa cơ à? Ôi! Ngươi cũng thật là, người khác không biết, chính tay ta đánh chẳng lẽ còn không biết hay sao? Mới có vậy mà ngươi đã khóc nhè rồi, nếu đánh thực sự thì với hai mươi quân côn ấy không biết tiểu tử ngươi còn ai oán đến đâu?”
A Mạch không nói, sắc mặt có chút ửng đỏ, ngoảnh mặt đi, không buồn để ý tới Trương Sinh. Dù Trương Sinh nương tay, nhưng dù sao cũng là hai mươi quân côn, tuy rằng không đánh nàng đến trầy da tróc thịt, nhưng cũng khiến mông nàng sưng đỏ lên. Một cái vỗ mông vừa rồi của Trương Sinh sao có thể không đau cho được? Hơn nữa vừa rồi nàng kêu lên sợ hãi không phải chỉ vì đau, mà là vì Trương Sinh đột nhiên đánh vào mông của nàng.
Thấy A Mạch không được tự nhiên, Trương Sinh ngược lại nở nụ cười, lấy thuốc mỡ trong người ra, quơ quơ trước mặt A Mạch, cười nói: “Xem này, ta thật vất vả mới xin được từ chỗ quân y, nhanh cởi quần ra, ta giúp ngươi bôi thuốc, trên mặt thì ngươi tự làm, tướng quân còn đang chờ ta đến hầu.”
A Mạch hoảng hốt, sắc mặt lúc đỏ lúc trắng, hoảng hốt nhìn Trương Sinh, há hốc miệng nói không ra lời.
Trương Sinh thấy bộ dáng của nàng, còn tưởng rằng nàng vẫn còn đang cân nhắc xem nên bôi mông hay bôi mặt, liền trừng mắt nhìn hỏi: “Thế nào? Còn kén chọn sao? Nếu không trước hết lấy mà bôi mặt rồi sau hay bôi mông.”
A Mạch vẫn giữ chặt đai lưng không nói, mặt đỏ bừng.
Trương Sinh có chút phiền, nói: “Không phải ta trách ngươi đâu nha A Mạch! Ngươi sao lại nhiễu sự như vậy? Nếu không phải tướng quân sai ta đi lấy thuốc mỡ cho ngươi, ngươi tưởng rằng đã bị phạt đánh đòn lại còn có thuốc để bôi sao? Ngươi còn kén chọn cái gì!”
Thấy Trương Sinh phát hỏa, A Mạch miễn cưỡng cười nói: “Đa tạ Trương đại ca, ngươi đưa thuốc cho ta, ta tự mình bôi là được, không dám làm phiền đại ca.”
Trương Sinh thấy thế bĩu môi, cười nhạo một tiếng, đem một cái bình sứ men xanh nhỏ để trước mặt A Mạch, nói: “Vậy đi, ta cũng chẳng muốn hầu hạ ngươi đâu, ngươi tự mình bôi đi, xong rồi xuống bếp kiếm chút gì mà ăn, vẫn còn để lại ít bánh bao cho ngươi đấy. Mà thôi quên đi, nhìn ngươi đức hạnh thế này, thôi để ta bưng luôn cho ngươi vậy.”
A Mạch cảm ơn luôn mồm, Trương Sinh phất phất tay, ghé sát vào nhìn kỹ khuôn mặt bầm tím của A Mạch, không khỏi rùng mình, theo bản năng đưa tay lên sờ sờ mặt mình, nói: “Tiểu tử ngươi đúng là có khả năng gây chuyện, nhìn mặt ngươi xưng phù thế này trông rất tội, vốn là một khuôn mặt đẹp, giờ thì tốt rồi, giờ không khác gì một cái mặt heo.”
A Mạch cười khổ, chờ Trương Sinh đi ra, mới mở bình sứ, quệt một chút thuốc mỡ bôi loạn lên mặt, vừa bôi được hai cái liền ngừng lại, nghĩ nghĩ một chút liền lau sạch thuốc mỡ trên mặt đi, rồi dùng tất cả thuốc mỡ trong bình bôi lên cái mông bầm tím. Cả một lọ thuốc mỡ đều bị nàng bôi lên mông thành một tầng rất dày, tỏa ra mùi thuốc nồng đượm, khiến cho vết roi dịu hẳn đi, không còn cảm giác nóng rát như vừa rồi.
Trương Sinh đem bánh bao từ phòng bếp quay trở lại, thấy bình thuốc đã hết nhưng trên mặt A Mạch lại không có chút thuốc mỡ nào liền ngạc nhiên hỏi: “Thuốc mỡ đâu rồi?”
“Bôi hết rồi.” A Mạch cắn một miếng bánh bao, trả lời.
Trương Sinh kinh ngạc, hỏi: “Bôi hết lên mông sao?”
A Mạch có chút đỏ mặt, gật gật đầu, sau đó lại cúi đầu chuyên tâm ăn bánh bao.
Trương Sinh có chút dở khóc dở cười, cuối cùng giơ ngón tay cái hướng về phía A Mạch, nhếch khóe miệng khen: “Cao minh, thật sự là cao minh. Cuối cùng xem như ta đã hiểu được cái gọi là mông quý hơn mặt.”
A Mạch nghẹn miếng bánh bao trong họng, ho hơn nửa ngày mới bình phục, quay đầu liếc mắt nhìn Trương Sinh một cái, không nói gì.
Trương Sinh đem chuyện đáng chê cười này kể cho Thương Dịch Chi nghe, Thương Dịch Chi đầu tiên là cười, sau đó sắc mặt lại trở nên buồn bã, ảm đạm. Mông so với mặt còn quý giá hơn, ở trên miệng người khác có lẽ là chuyện cười, nhưng rơi xuống người A Mạch lại thành bi ai. Thương Dịch Chi biết A Mạch vì sao không xử lý vết bầm tím trên mặt. Họa từ khuôn mặt mà ra, nếu có thể, anh ta muốn A Mạch không có một khuôn mặt đẹp như vậy. Trong lòng Thương Dịch Chi đột nhiên dâng lên loại cảm giác đồng bệnh tương liên. Diện mạo của anh ta cũng thuộc loại quá mức tuấn mỹ, tướng mạo như vậy ở kinh thành cùng thân phận quyền quý, có lẽ nên đắc ý mới phải, nhưng cuối cùng lại thành liên lụy cho bản thân mình. Diện mạo của anh ta so với mẫu thân cùng phụ thân không giống nhau nhiều lắm. Đôi khi anh ta nghĩ nếu có thể giống phụ thân nhiều hơn một chút, có lẽ sẽ không bị những lão tướng chê cười. Thương Dịch Chi đột nhiên cười khổ lắc lắc đầu, nếu thật sự lớn lên giống phụ thân, anh ta làm sao có thể sống đến bây giờ!
Đường Thiệu Nghĩa nghe được tin A Mạch lại trở về thủ phủ(2) trong thành, tìm cơ hội đến gặp nàng, thấy trên mặt nàng tuy rằng bầm tím nhưng cử động lại không hề gặp trở ngại, không khỏi có chút kỳ quái, hỏi A Mạch hiện tại thân thể cảm thấy như thế nào. A Mạch không thể nói tình hình thực tế cho anh ta, nhưng lại không muốn nói dối, đành phải nói Trương Sinh cho nàng thuốc tốt, bôi vào vết thương rất hữu dụng, hiện tại đã không đáng ngại nữa, chỉ có lúc ngủ vẫn phải nằm sấp thôi.
Mặc dù vậy, Đường Thiệu Nghĩa vẫn rất kinh ngạc, bị đánh hai mươi quân côn nếu không bị thương tổn đến gân cốt đã là rất may rồi, chứ đừng nói đến chuyện hiện tại nhìn nàng so với người khác đã chẳng có mấy khác biệt. Đường Thiệu Nghĩa tuy rằng tính tình ngay thẳng, nhưng cũng không phải loại ngu dốt, thấy vẻ mặt A Mạch có chút trốn tránh, liền biết là được quân sĩ thi hành hình phạt nương tay. Anh ta cũng không biết là do Thương Dịch Chi âm thầm an bài, còn tưởng rằng Trương Sinh cùng A Mạch giao tình thâm hậu, cho nên mới hạ thủ lưu tình. Anh ta cân nhắc một chút, vẫn nói: “A Mạch, mặc kệ loại thuốc đó tốt thế nào, bị đánh hai mươi quân côn cũng không hay đâu, ngươi vẫn nên chú ý hơn đến thân thể của mình, đừng để sau này lưu lại di chứng. Trương thị vệ là người tốt, sau này ngươi trăm ngàn lần cũng đừng chọc giận anh ta.”
Những lời Đường Thiệu Nghĩa vừa nói, A Mạch đều hiểu được, liền chắp tay lễ anh ta một lễ rồi nói: “Đa tạ đại ca chỉ điểm, A Mạch hiểu rồi.”
—————
Chú thích:
(1) Tàng phong: tàng nghĩa là ẩn dấu. Trong chuyện này có thể hiểu tàng phong là ẩn dấu tài năng, không để lộ ra ngoài, gây sự chú ý không cần thiết của người khác.
(2) Thủ phủ: tức là nơi trung tâm của một đô thị. Thủ phủ của thành Dự Châu chính là trung tâm của tòa thành này.
Chương 21
HÀNH TRÌNH
Đường Thiệu Nghĩa thản nhiên cười mà không nói gì.
A Mạch sau khi do dự một chút liền hỏi: “Đại ca, hai ngày nay mọi người bận rộn chuyện gì vậy? Ta thấy Thương tướng quân, Thạch tướng quân và Từ quân sư cùng nhau bàn bạc, thảo luận đã lâu, cũng không biết mọi người định làm như thế nào? Là phòng thủ Dự Châu hay đi cứu viện Thái Hưng?”
Đường Thiệu Nghĩa không ngờ A Mạch đột nhiên lại hỏi vấn đề này, có chút khó xử, suy nghĩ một chút, rồi nghiêm sắc mặt nói: “A Mạch, đây là việc quân cơ mật, ta không thể nói cho ngươi được.”
A Mạch thấy thế liền nói: “Không sao, đại ca, ta chỉ tùy tiện hỏi vậy thôi,chỉ tại hai ngày nay thấy Thương tướng quân thường triệu tập các vị tướng lĩnh, cho nên có chút tò mò.”
Đường Thiệu Nghĩa mi mắt khẽ chớp, nói: “Ừ, vậy là tốt. Nhưng ngươi cũng nên mau chóng chăm sóc thân thể mình hồi phục cho tốt, chuẩn bị cho lúc xuất chinh đánh giặc, nếu không e rằng đến lúc đó ngay cả cưỡi ngựa ngươi cũng không làm nổi.”
A Mạch nghe vậy cũng không cảm thấy lạ, nàng thấy Thương Dịch Chi triệu tập quan quân phụ trách quân nhu của thành Dự Châu, trong lòng đã đoán được Thương Dịch Chi chắc chắn sẽ phát động binh mã, chỉ là không biết anh ta cuối cùng là muốn hành quân theo hướng bắc hay hướng nam. Nếu chọn dùng kế sách theo hướng bắc của nàng, đáng lẽ phải gọi nàng đến để hỏi han thật cẩn thận mới đúng, nhưng Thương Dịch Chi lại không hề cho gọi nàng, chỉ vài lần cho gọi Đường Thiệu Nghĩa đến tham dự hội nghị quân sự của hai châu Thanh, Dự mà thôi. Nếu như vậy, xem ra Thương Dịch Chi muốn tập kích lương thảo của Chu Chí Nhẫn rồi. Nghĩ vậy, trong lòng A Mạch không khỏi có chút thất vọng, cảm thấy Thương Dịch Chi vẫn chưa đủ quyết đoán.
Khi Đường Thiệu Nghĩa đi khỏi, A Mạch vừa trở lại trong sân doanh trại của thị vệ, bắt gặp một vóc dáng nam nhân thấp đậm đang đứng bên ngoài nhìn vào doanh trại. A Mạch rút bội đao bên hông ra, cẩn thận, nhẹ nhàng đi về phía đó. Khi còn cách chừng năm sáu bước chân, người nọ đột nhiên quay đầu lại. Không ngờ đó lại là người trong bộ binh doanh thứ bảy của Thanh Châu, giáo úy Lục Cương.
A Mạch ngạc nhiên hỏi: “Lục đại nhân? Ngài làm gì ở đây?”
Lục Cương đột nhiên nhìn thấy A Mạch, chân tay có chút luống cuống, xoay người lại, xấu hổ nói: “Không có việc gì, không có việc gì.”
A Mạch tra bội đao vào vỏ, nói: “Hôm nay không phải phiên ta trực, nếu ngài muốn tìm tướng quân, phải gặp Trương Sinh.”
Lục Cương khoát tay, khuôn mặt ngăm đen đỏ bừng, có chút mất tự nhiên, cười nói: “Không phải, ta không tìm tướng quân, ta là tới tìm ngươi.”
“Tìm ta?” A Mạch kinh ngạc, hỏi: “Không biết đại nhân tìm ta có chuyện gì.”
Lục Cương đem bội kiếm của Đường Thiệu Nghĩa từ sau lưng ra đưa cho A Mạch, ngượng ngùng nói:“Đây là bội kiếm của Đường giáo úy, ta trả lại cho ngươi.”
A Mạch nhận lại kiếm, nhất thời không thể nói gì.
Đây chính là thanh kiếm nàng đã dùng để giết tên đội trưởng kia, về sau đã bị tuần binh thu giữ. Khi Lục Cương đưa nàng đến đây, lại quên đem theo thanh kiếm này, nên vẫn lưu giữ tại quân doanh của Lục Cương. Lục Cương thấy A Mạch không việc gì, thầm nghĩ hóa ra nàng đúng là cục cưng của Thương Dịch Chi thật, anh ta sợ A Mạch trả thù, nên vội mang thanh kiếm này tới giao lại cho nàng.
Lục Cương thấy A Mạch trầm mặc không nói gì, vội vàng giải thích: “Mạch thị vệ, ngày ấy ta cũng không có cách nào khác, ngươi cũng đừng ghi tạc ở trong lòng.”
A Mạch nghe vậy cười cười, chạy nhanh lại, khom người nói: “Lục đại nhân, sao ngài lại nói vậy. Ngày đó vốn là A Mạch vi phạm quân pháp, đại nhân chỉ là làm việc theo quân pháp mà thôi, A Mạch sao dám để bụng. Tướng quân đã dùng trượng để trách phạt A Mạch rồi, còn lưu lại cho A Mạch nửa cái mạng đến lập công chuộc tội. Hôm nay A Mạch có thể giữ lại nửa cái mạng này, thứ nhất phải cảm tạ ân tình của tướng quân đã không giết A Mạch, thứ hai còn phải cảm tạ đại nhân nữa. Đa tạ đại nhân đã hạ thủ lưu tình, lưu lại cho A Mạch một con đường sống.”
A Mạch nói xong, liền trịnh trọng hạ đại lễ, khiến Lục Cương sợ hãi vội vàng đỡ nàng dậy, nói: “Sao lại nói như vậy, đây vốn không phải là lỗi của Mạch thị vệ, là kẻ kia tự mình muốn chết, đâu thể nào oán trách Mạch thị vệ được. May mắn tướng quân là người anh minh nên đã đảm bảo lẽ công bằng cho Mạch thị vệ.”
A Mạch cười cười, lại khen Lục Cương vài câu, Lục Cương thấy A Mạch cũng không để bụng, trong lòng cũng nhẹ nhõm không ít, cùng A Mạch chuyện phiếm dăm ba câu rồi cáo từ. A Mạch cười, tiễn anh ta ra khỏi doanh trại, đến khi thấy anh ta đã đi xa rồi, nụ cười trên mặt mới dần phai nhạt đi, trong mắt ánh lên một tia tàn nhẫn.
Thương Dịch Chi tuyên bố xuất binh cứu viện Thái Hưng, lựa chọn trong đội ngũ quân Dự Châu những binh lính tinh tráng nhập vào quân Thanh Châu, chỉ để mấy ngàn lão quân cho Thạch Đạt Xuân giữ thành. Thạch Đạt Xuân cũng không dị nghị điều gì, rất phối hợp đem quân lính tinh nhuệ trong tay giao hết cho Thương Dịch Chi. Ngày xuất binh, Thạch Đạt Xuân tiễn Thương Dịch Chi ra khỏi thành, dọc đường đi sắc mặt có chút đăm chiêu, thừa dịp chung quanh không có người liền lên tiếng nói với Thương Dịch Chi: “Dịch Chi, nên để ta lãnh binh đi thôi. Thương lão tướng quân cả đời vì nước, nay dưới gối chỉ có mình ngươi là con nối dõi, sao có thể để ngươi đi mạo hiểm được, ngươi còn nghĩ đến lão tướng quân nữa hay không?”
Thấy Thương Dịch Chi trầm mặc không nói gì, Thạch Đạt Xuân tiếp tục nói thêm: “Nghe nói trưởng công chúa điện hạ thân thể thường xuyên đau ốm, nếu người nghe được tin tức này, chỉ sợ…”
“Thạch tướng quân!” Thương Dịch Chi cắt ngang lời Thạch Đạt Xuân, cười cười, nói: “Trước trận sao có thể đổi tướng, hơn nữa tướng quân đã ở Dự Châu nhiều năm, tất sẽ quen thuộc tình hình Dự Châu hơn ta, chỉ chừa lại ít binh như vậy, lại đều là già yếu, cũng chỉ có tướng quân mới đủ khả năng bảo vệ cho Dự Châu mà thôi!”
Thạch Đạt Xuân nghe vậy cũng chỉ có thể thở dài. Thương Dịch Chi cất tiếng cười sang sảng, rồi phóng ngựa đi lên phía trước, phía sau, đội cận vệ vội vàng đuổi theo, chỉ ngoảnh mặt đi một cái, liếc mắt lại đã không còn thấy bóng dáng người nào.
Một vạn năm ngàn quân Thanh Châu cùng hai vạn năm ngàn tráng binh điều động từ thành Dự Châu, Thương Dịch Chi lĩnh tất cả bốn vạn quân Nam Hạ, vào ngày 26 tháng 10 ra khỏi Dự Châu hướng về phía nam cứu viện Thái Hưng.
Ban đêm, Thương Dịch Chi chia binh làm hai đường, lấy ra một ngàn kỵ binh giao cho phó tướng Hà Dũng đi tập kích nơi cất dấu lương thảo của Đông lộ quân Bắc Mạc. Còn lại, đại quân đi từ hướng nam tới phía tây dãy núi Ô Lan, men theo đường núi hướng về phía Bắc.
Nhìn theo Hà Dũng lĩnh kỵ binh đi về phía Bắc trong đêm tối, Thương Dịch Chi cười lạnh, nói: “Trần Khởi, ta dùng chính cách của ngươi để trả lại cho người.” Thương Dịch Chi lên ngựa, trước khi đi, nhìn thấy A Mạch đứng trong đội cận vệ, liền gọi nàng đến, lạnh giọng hỏi: “A Mạch, hiện tại nếu ngươi hối hận vẫn còn kịp, nếu như muốn bảo toàn tính mạng của mình, bản tướng quân sẽ thả ngươi tự rời đi.”
A Mạch ngồi trên lưng ngựa, vẻ mặt ngưng trọng nói: “A Mạch nguyện một lòng đi theo tướng quân!”
Thương Dịch Chi ngồi yên trên ngựa, lạnh giọng hỏi lại: “Thật sao?”
A Mạch kiên định lớn tiếng nói: “A Mạch thề, cho dù sống hay chết, cũng một lòng đi theo tướng quân, dù muôn ngàn hiểm nguy cũng không sợ, dù phải chết cũng không chối từ!”
Thương Dịch Chi nhíu nhíu khóe miệng, không nói gì nữa, xoay người phóng ngựa phi lên phía trước. Phía sau, A Mạch cùng đội cận vệ đội gấp rút đuổi theo. Từ Tĩnh vẫn ngồi trên xe la của ông ta như trước, bất quá lần này người đánh xe không phải là lão Trương, mà đổi thành một binh sĩ Thanh Châu.
Mông A Mạch vẫn bầm tím, tuy rằng đã đỡ hơn phân nửa, nhưng cưỡi ngựa vẫn không tiện, mới được nửa ngày đã đau đến chết lặng cả người, song như vậy thật ra đã rất tốt rồi, vì ít nhất không đến mức phải đi bộ. A Mạch vài lần đi ngang qua xe la của Từ Tĩnh, lần nào Từ Tĩnh cũng vén mành che lên, cười như không cười hỏi: “A Mạch, có cưỡi ngựa được không? Nếu không lên đây ngồi xe với lão phu, êm lắm!”
A Mạch nghe thấy cũng không hề bực bội, chỉ cực kỳ lễ phép trả lời: “Đa tạ tiên sinh, A Mạch không sao.”
Từ Tĩnh vốn định trêu ghẹo A Mạch, thấy vẻ mặt nàng bình tĩnh như vậy liền mất hết cả hứng thú, nên cũng không trêu chọc nàng nữa.
Một lần, khi A Mạch trở về sau khi truyền tin cho đội ngũ ở phía sau, lúc đi ngang qua bộ binh doanh, đột nhiên nghe thấy có người gọi tên của nàng, ghìm cương ngựa nhìn lại, thì ra là Vương Thất ở bộ binh doanh. Anh ta thấy A Mạch một thân hắc y nhuyễn giáp ngồi trên lưng ngựa, trong mắt ánh lên tia nhìn hâm mộ, không để ý Trương Nhị Đản ở bên cạnh, liền vụng trộm tiến lại gần, nói: “A Mạch, là ngươi thật sao? Vừa rồi thấy ngươi đi qua, Nhị Đản nói là ngươi ta còn không tin.”
A Mạch nhảy xuống, dắt ngựa đi bên cạnh bọn họ, cười nói: “Là ta.” Nói xong lại tiến hai bước tới trước mặt Ngũ trưởng cung kính chào: “Ngũ trưởng.”
Thấy A Mạch hướng mình hành lễ, Ngũ trưởng hoảng sợ, vội vàng nói: “A Mạch, ta không dám nhận lễ của ngươi, trước kia có chút đắc tội, cũng là xin ngài đừng để ý.”
A Mạch vội vàng nói “không có gì”, lại cùng Ngũ trưởng cúi chào, rồi lui trở lại bên cạnh bọn Vương Thất, dắt ngựa đi song song cùng bọn họ.
Vương Thất nhìn nhìn A Mạch, lại thừa dịp trưởng quan không chú ý, cực kỳ hâm mộ sờ soạng ngựa của A Mạch, nói: “Tiểu tử ngươi thật là may mắn, ta đã nói ngươi có nghĩa huynh là một giáo úy đại nhân, thì căn bản không cần đến bộ binh doanh chúng ta chịu khổ, lúc này thì tốt rồi, có cả ngựa để cưỡi, ngươi thăng tiến thì cũng không nên quên các huynh đệ a.”
A Mạch cười cười đang định nói, chợt thấy Đường Thiệu Nghĩa từ phía sau cưỡi ngựa lại gần, liếc mắt đánh giá nàng một cái, lạnh giọng nói: “Lên ngựa.” A Mạch thấy dáng vẻ Đường Thiệu Nghĩa rất nghiêm túc, vội vàng hướng về phía bọn Vương Thất ngượng ngùng cười cười, rồi nhanh chóng xoay người lên ngựa, đuổi theo Đường Thiệu Nghĩa. Chỉ lát sau đã đuổi kịp, A Mạch ghìm cương cùng chạy song song với ngựa của anh ta, gọi: “Đại ca”.
Từ sau khi đến Dự Châu, A Mạch vẫn gọi Đường Thiệu Nghĩa là đại ca, hai người bọn họ tuy rằng không chính thức kết nghĩa giống như lời A Mạch nói, nhưng Đường Thiệu Nghĩa thật ra luôn chiếu cố đến A Mạch, trong lòng A Mạch cũng rất cảm kích anh ta, thực lòng gọi anh ta là đại ca.
Đường Thiệu Nghĩa quay đầu liếc mắt nhìn A Mạch một cái, vẻ mặt nghiêm túc nói: “A Mạch, giờ là lúc nào? Sau khi truyền tin xong thì nên nhanh chóng trở về phục mệnh, sao ngươi lại có thể đứng lại cùng người khác ôn chuyện? Huống chi hiện nay liên quân Thanh, Dự liên hợp lại, nếu để người khác thấy được, họ sẽ không nói ngươi cuồng vọng, mà chỉ nói tướng quân quản lý thuộc hạ không nghiêm mà thôi.”
A Mạch cũng nhận thức được vừa rồi mình quá mức tùy ý, chột dạ nói: “Đại ca, A Mạch sai rồi, về sau ta sẽ không dám nữa.”
Đường Thiệu Nghĩa thấy bộ dạng cúi đầu của A Mạch, cũng không trách cứ thêm nữa, chỉ quay đầu nhìn dãy núi Ô Lan mà trầm mặc không nói.
A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa không hề giáo huấn nàng, liền thuận miệng hướng anh ta nói: “Đại ca, lần này hành quân đúng là nhanh hơn trước rất nhiều! Lần trước ta theo tướng quân đến Dự Châu, chỉ vài trăm dặm đường, vậy mà đại quân phải phải mất nửa tháng sau mới đến Dự Châu.”
Đường Thiệu Nghĩa nhíu mày, quay đầu kinh ngạc nhìn A Mạch chằm chằm, đến khi A Mạch cảm thấy mất tự nhiên mới nói: “A Mạch, hôm đó nghe thấy ngươi ở trước mặt bao chư tướng bày ra mưu kế, đại ca thập phần bội phục, thấy ngươi chính là kỳ tài quân sự, không nghĩ hôm nay ngươi lại hỏi một câu như của một người bình thường như vậy.”
Sắc mặt A Mạch trở nên quẫn bách nhưng ngay lập tức lại khôi phục lại vẻ thản nhiên, hào phóng nói: “Đại ca, A Mạch chỉ biết chút lý luận suông mà thôi, việc quân lớn nhỏ đều là không hiểu, không biết, mưu kế hôm đó cũng là do Từ tiên sinh vì muốn cứu mạng A Mạch nên đã âm thầm đưa tới trước, chứ cũng không phải do A Mạch nghĩ ra.”
Đường Thiệu Nghĩa nghe nàng nói như vậy, nghi ngờ trong lòng mới có chút tiêu tan, liền đưa nàng rời xa khỏi hàng ngũ một chút rồi mới thấp giọng nói: “Ngươi cũng biết lần xuất binh này, quân sĩ của chúng ta chỉ mang theo lương thực cho mười ngày phải không?”
A Mạch gật đầu, đồ ăn của nàng đang cõng trên lưng, nghe nói là do Tĩnh quốc công phát minh, khi nấu chín vừa có thể ăn vừa có thể uống. A Mạch hỏi: “Đại ca, chẳng lẽ mang theo lương thảo cùng những đồ doanh trướng linh tinh thì tốc độ hành quân lại có thể giảm đi nhiều như vậy sao?”
Đường Thiệu Nghĩa gật gật đầu.
A Mạch trong lòng có chút nghi hoặc, nhịn không được lại hỏi: “Tướng quân nói Thạch tướng quân phía sau phải lập tức phái người vận lương cho chúng ta, nhưng tốc độ hành quân của chúng ta nhanh như vậy, đội quân vận tải lương thực có thể đuổi kịp chúng ta sao?”
Đường Thiệu Nghĩa nhìn A Mạch không nói. Trong lòng A Mạch vừa động, đột nhiên hiểu ra, nhịn không được hoảng sợ hỏi: “Chẳng lẽ nói vậy nhưng thực ra là không có quân vận chuyển lương thực cho đại quân? Với chút lượng thực mà chúng ta mang theo, khi trở về phải làm sao bây giờ?”
Trong mắt Đường Thiệu Nghĩa hiện lên một tia kiên nghị cùng ngoan cường, nhẹ giọng nói: “Trong thành Dự Châu chỉ có mấy ngàn người già yếu, Thạch tướng quân lấy ai vận chuyển lương thảo cho chúng ta? Nếu chúng ta thắng, tự khắc sẽ có lương thảo, nếu thua, đã không thể trở về được thì lương thảo có hay không cũng đâu có ích lợi gì?”
A Mạch nhất thời kinh hãi nói không ra lời, nàng nhìn Thương Dịch Chi ở cách đó không xa, mới hiểu được anh ta đúng là thật nhẫn tâm, dùng không đến bốn vạn bộ binh đi phục kích đại quân Bắc Mạc, ngay cả lương thảo để quay về cũng không chuẩn bị. Nhìn không ra anh ta lại có thể là một công tử phong lưu, đúng là trong suy nghĩ đã quyết “không thành công cũng thành nhân”.
Chương 22
ĐẪM MÁU
Mùa thu năm Thịnh Nguyên thứ hai, Thành tổ đem bốn vạn quân đi đánh Bắc Mạc, cách thành Dự Châu hơn sáu trăm dặm về phía Bắc, cùng Trần Khởi tiếp chiến, tiêu diệt hơn hai vạn binh lực địch, Trần Khởi đại bại, bỏ chạy khỏi Tĩnh Dương.
– xuất từ [ hạ sử - thành bản gốc kỉ ] –
Dã Lang Câu chính là thượng nguồn của sông Bình Nguyên, mặc dù gọi là câu(1), thực ra chỉ là một cái khe nhỏ hẹp. Phía tây uốn lượn quanh đỉnh núi cao nhất trong dãy Ô Lan, đến phía đông thì bắt đầu dội xuống thành thác nước Khâu Lăng. Đêm đó, kỵ binh Bắc Mạc của Thường Ngọc Thanh chính là từ trên triền núi phía tây lao xuống, sát nhập vào quân doanh của viện quân Tĩnh Dương vốn đang ngủ say, giết sạch mười lăm vạn đại quân, sau đó ở sườn dốc phía đông đào mấy cái hố rất lớn chôn vùi tất cả. Có lẽ là chôn lấp sơ sài, nên từ đó về sau, mỗi khi đến nửa đêm, trên sườn dốc này liền xuất hiện những đốm lửa xanh lập lòe, như là một đám hồn phách của những người chết oan. Gần đó, vốn cũng có mấy hộ nông gia sinh sống, nhưng từ đó về sau, tất cả cũng đều bỏ đi hết, khiến Dã Lang Câu lại càng thêm hoang vắng.
Liên quân Thanh, Dự đến Dã Lang Câu vào ngày mùng 3 tháng 11, quả nhiên đã đến trước đại quân Bắc Mạc. Thám tử hồi báo, đại tướng quân Bắc Mạc Trần Khởi dẫn hai vạn kỵ binh và năm vạn bộ binh, đi từ Tĩnh Dương, Nam Hạ, đã đến một trấn nhỏ cách Dã Lang Câu năm mươi dặm về phía bắc, hiện đang đóng quân ở đó.
Thương Dịch Chi cùng Từ Tĩnh nhìn nhau, trong mắt đều ánh lên một tia kích động cùng hưng phấn, còn có chút khẩn trương không dễ phát hiện. Từ Tĩnh nói: “Trời cũng giúp ta, chúng ta vẫn còn thời gian một đêm để cho đại quân nghĩ ngơi hồi phục. Trần Khởi đã ở tiểu trạm, sáng mai nhổ trại tất nhiên là kỵ binh đi trước, đồ quân nhu áp tải phía sau. Khi đã lọt vào Dã Lang Câu, kỵ binh của Trần Khởi liền khó có thể dụng võ. Chỉ cần đánh úp kỵ binh, thì bộ binh phía sau không chừng cũng sẽ loạn. Chúng ta thiếu kỵ binh, cũng không thể chỉ trông vào lợi thế địa hình, cho nên chỉ có thể dùng bộ binh đến đánh!”
Thương Dịch Chi khẽ gật đầu đồng ý, không nói nhiều lời, liền dựa theo kế hoạch mà bố trí binh lực. Hơn hai vạn quân Nam Hạ mai phục tại Dã Lang Câu thành một trận địa kiên cường, đồng thời bố trí năm ngàn cung thủ ở hai cánh. Hai cánh này nghiêng về phía trước, kéo dài đến hai sườn núi, nếu kỵ binh Bắc Mạc lọt vào vị trí trung tâm, chẳng những không thể bỏ chạy, mà còn bị cung thủ hai mặt vây chặt, phơi mình dưới mưa tên. Để bảo vệ cung thủ, Thương Dịch Chi lại rút ra hai ngàn trong tổng số ba ngàn kỵ binh dàn hàng ở phía sau, mỗi bên một ngàn kỵ binh. Bên ngoài cánh phải, nghe theo kế của Đường Thiệu Nghĩa, lại bố trí thêm một ngàn kỵ binh làm lực lượng đột kích cùng truy kích, hạ lệnh cho bọn họ chỉ cần bộ binh Bắc Mạc bắt đầu có động tĩnh liền lập tức vọt tới phía sau bọn họ giáp công(2).
Các tướng đều lĩnh mệnh mà đi. Quân Nam Hạ sau một đêm nghỉ ngơi hồi phục liền bố trí những quân chủng khác nhau vào từng trận địa phù hợp. Chính giữa là trận địa của chủ lực bộ binh do quân Thanh Châu của Thương Dịch Chi tạo thành, mỗi binh sĩ đều cầm trường mâu trong tay, hàng ngũ nghiêm chỉnh canh giữ ở nơi đó.
“Dùng trận địa trường mâu đối phó với kỵ binh?” A Mạch nhìn trận địa bộ binh phía dưới, hỏi Đường Thiệu Nghĩa.
Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa cũng không biểu lộ điều gì, lại khiến cho A Mạch cảm thấy một không khí xa lạ, xơ xác, tiêu điều tràn ra, rồi anh ta bình tĩnh trả lời: “Người đời nói thiết kỵ của thát tử Bắc Mạc là thiên hạ vô địch, lại không biết rằng Tĩnh quốc công của ta từ hai mươi năm trước đã từng nói, chỉ cần dùng chiến lược, chiến thuật hay thủ đoạn nào đó khiến cho kỵ binh khi tấn công chính diện vào bộ binh của ta sẽ vấp phải một trận địa được bố trí ngay ngắn, kín kẽ thì bộ binh có thể có được ưu thế phòng ngự rất lớn.”
A Mạch không nói gì, vốn chỉ nghĩ là quân Nam Hạ sẽ ở trong này phục kích đại quân Bắc Mạc, rồi sau đó mặt đối mặt đánh một trận, thì ra hiện giờ quân Nam Hạ lại sử dụng phương pháp khiến cho kỵ binh Bắc Mạc chủ động tấn công mình rồi bộ binh bày trận gây trở ngại cho kỵ binh Bắc Mạc. Nàng không khỏi nghĩ đến phụ thân trong lúc vô tình từng nói rằng bộ binh và kỵ binh đều có ưu khuyết điểm riêng, thật ra so với những lời Đường Thiệu Nghĩa vừa nói cũng có chút đạo lý tương tự.
Đường Thiệu Nghĩa theo thói quen định đưa tay vuốt bội kiếm bên người, đột nhiên hỏi A Mạch: “Vì sao không đeo thanh kiếm ta đưa, ta chính là thiệt tình muốn tặng cho ngươi, tuy nói rằng kiếm là vũ khí được quân đội trang bị, nhưng cũng là vật phẩm của quan quân, có thể tặng cho người khác được.”
A Mạch cười rạng rỡ, vỗ vỗ loan đao bên sườn nói: “Đại ca, ta mới học được chút đao pháp, tuy rằng chỉ là múa đao đùa giỡn thôi nhưng thật ra cũng thấy thuận tay. Ta biết đại ca là thành tâm tặng cho ta bội kiếm, nhưng ta mang theo chỉ sợ sẽ làm hỏng mất một thanh kiếm tốt. Nếu ở trong tay đại ca, có khi nó còn được tắm chút máu của thát tử.”
Đường Thiệu Nghĩa không phải một bà mẹ già, nghe A Mạch nói như vậy, liền thân thiết hỏi: “Đao pháp của ngươi đã thuần thục chưa?”
A Mạch cười nói: “Cũng khá, Trương Sinh là một thầy giáo giỏi, anh ta dạy rất cẩn thận, hơn nữa ta lại thông minh, đương nhiên học rất nhanh.”
Thấy A Mạch khoe khoang, trên mặt Đường Thiệu Nghĩa cũng lộ ra ý cười, ánh mắt đảo qua A Mạch hiện lên một chút ôn nhu, lại quay đầu lẳng lặng nhìn dưới núi, đột nhiên nhẹ giọng hỏi: “A Mạch, ngươi có sợ không?”
“Sợ?” A Mạch sửng sốt, lập tức vừa cười, vừa lắc lắc đầu, nói: “Không, ta không sợ.”
Đường Thiệu Nghĩa quay người nhìn A Mạch, môi khẽ cười, kiên nghị nói: “A Mạch, ta phải đi rồi, đại khái đợi không đến giữa trưa thát tử sẽ đến đây, ngươi mau quay trở lại bên cạnh tướng quân đi.”
A Mạch gật đầu không nói gì.
Đường Thiệu Nghĩa cụp mắt, lại thấp giọng nói: “Ngươi bảo trọng.” Nói xong liền lên ngựa phi xuống dưới núi.
Trong lòng A Mạch có chút rầu rĩ, tựa hồ mỗi một lần cùng anh ta tách ra, anh ta đều xoay người rời đi, sau đó cũng sẽ không quay đầu lại. A Mạch đột nhiên cười khổ, dùng sức lắc lắc đầu, đem chút thương cảm không nên có bức ra ngoài.
Sáng sớm ngày mùng 4 tháng 11, đại quân Bắc Mạc nhổ trại. Quả nhiên là kỵ binh đi trước, bộ binh đi sau, cuối cùng là đội quân vận tải lương thảo và đồ quân nhu. Khi còn cách quân Nam Hạ khoảng hai mươi dặm, thám báo Bắc Mạc phát hiện phía trước Dã Lang Câu xuất hiện kỵ binh Nam Hạ, liền hồi báo tướng tiên phong là Phó Hướng. Phó Hướng xuất thân con nhà tướng tại Bắc Mạc, cùng Thường Ngọc Thanh xưng là tướng môn song tú(3). Phó Hướng tính tình cao ngạo, nhất là từ sau khi Thường Ngọc Thanh nhờ ngàn dặm bôn tập(4) viện quân Nam Hạ mà thành danh, trong lòng rất bất bình, nay nghe thám báo phát hiện kỵ binh Nam Hạ, không những không kinh sợ mà còn lấy làm mừng, lệnh cho kỵ binh tiếp tục tiến lên, cũng không đem tin tức này hồi báo cho nguyên soái Trần Khởi.
Đến giữa trưa, kỵ binh Bắc Mạc đã tiến vào phía trong Dã Lang Câu, quả nhiên gặp bộ binh Nam Hạ bày trận chờ ở bên trong khe. Phó Hướng muốn chấm dứt trận chiến trước khi quân của Trần Khởi ở phía sau đến nơi, vì thế liền hạ lệnh cho kỵ binh phóng lên. Kỵ binh Bắc Mạc cũng không chú ý đến hai cánh cung thủ của quân Nam Hạ, trực tiếp đột kích vào giữa trận. Ngàn vạn kỵ binh chen chúc xông tới, khiến ngọn núi cao nhất của dãy Ô Lan cũng phải rùng mình run rẩy, bụi vàng cuốn theo trăm ngàn vó ngựa, che khuất cả ánh mặt trời.
Kỵ binh Bắc Mạc tốc độ càng lúc càng nhanh, khoảng cách càng ngày càng gần, những kỵ binh phía trước đã muốn vung đao, nhưng đúng vào lúc mắt thấy sẽ nhảy vào giữa trận của đối phương, thì bộ binh trước mắt đột nhiên ngồi xuống, sau đó chính là trường mâu sắc nhọn nghênh đón.
Kỵ binh đang dùng tốc độ nhanh nhất lao tới nên không có khả năng dừng lại. Chính vì vậy mà kỵ binh Bắc Mạc chỉ có thể trơ mắt nhìn chính mình cưỡi ngựa nhảy vào trong một rừng trường mâu. Có người bị trường mâu trực tiếp chĩa lên trời, có người tránh được, nhưng ngựa lại bị trường mâu đâm tới, vì thế mà ngã xuống, cuối cùng cũng vẫn bị hất ngã, hoặc chết hoặc bị thương, rồi rất nhanh sẽ có người vung đạo hạ xuống.
Kỵ binh ở hai bên cũng không thể chạy thoát, rất nhiều người đã bị trúng tên của cung thủ Nam Hạ bố trí hai bên sườn núi bắn xuống.
Trong lúc nhất thời, trường mâu dựng đứng như tường thành, tên từ trên trời bay xuống như mưa. Đó chính là cách mà quân Nam Hạ khiến kỵ binh Bắc Mạc phải xuống ngựa, hàng ngàn con ngựa không có người cầm cương chạy như bay khắp nơi, khiến hàng ngũ bọn họ càng thêm hỗn loạn…
Hiệu quả, đúng là tốt hơn cả mong đợi.
Rất nhiều năm sau, trong sách giáo khoa của học viện quân sự Nam Hạ đều nhắc tới trận chiến tại Dã Lang Câu, thậm chí còn nhấn mạnh đến tính mạo hiểm và yếu tố trùng hợp của trận đánh. Hai vạn bộ binh Nam Hạ chặn đánh hai vạn kỵ binh Bắc Mạc: vị trí hiểm yếu; tướng chỉ huy kỵ binh Bắc Mạc lại là tên Phó Hướng tự cuồng tự đại. Cả hai yếu tố này kết hợp lại, làm nên chiến thắng tại Dã Lang Câu, thiếu một trong hai thứ cũng không được.
Trận chiến này vẫn tiếp tục đến sau giờ ngọ, quân Nam Hạ bắt đầu tấn công, bắn bị thương tướng tiên phong Phó Hướng của Bắc Mạc, kỵ binh Bắc Mạc mất đi sức chống cự, lập tức rút về phía sau. Khi bộ binh Bắc Mạc tới Dã Lang Câu, cũng vừa lúc gặp kỵ binh của mình đang bỏ chạy tán loạn. Bộ binh không kịp mở rộng khoảng cách hàng ngũ để cho kỵ binh đi qua, khiến hai bên lao vào nhau, trong lúc nhất thời, người ngã ngựa đổ, người Bắc Mạt bị chính kỵ binh của mình dẫm chết vô số. Theo sát ở phía sau kỵ binh Bắc Mạc, quân Nam Hạ lại đang đánh tới.
Trên sườn núi, A Mạch đứng phía sau Thương Dịch Chi quan sát tình hình chiến đấu, thấy từ phía xa xa, bộ binh Bắc Mạc sau một lát hỗn loạn đã dần ổn định trở lại, mở rộng khoảng cách đội ngũ cho kỵ binh của mình đi qua, liền biết được trong quân Bắc Mạc đã có người ổn định trận tuyến.
Thương Dịch Chi bỗng chau mày, sau khi dùng ánh mắt hỏi Từ Tĩnh một chút, liền trầm giọng nói: “Đi báo với Đường Thiệu Nghĩa, bắt đầu hành động, đánh sâu vào phía sau bộ binh Bắc Mạc.”
A Mạch nhận lệnh, liền ra roi thúc ngựa phi về hướng Đường Thiệu Nghĩa mai phục kỵ binh. Vừa đuổi tới cửa khẩu của Dã Lang Câu, chợt thấy phía sau quân Bắc Mạc đột nhiên loạn cả lên, Đường Thiệu Nghĩa đã dẫn một ngàn kỵ binh ở phía sau trận địa đánh vào. A Mạch cười, biết mình không cần phải đi nữa, liền quay ngựa trở về bên cạnh Thương Dịch Chi để phục mệnh, nhưng chính trong lúc xoay người, nàng bỗng thấy quân Bắc Mạc đột nhiên dựng lên một lá cờ lớn, phía trên viết một chữ “Trần”.
Trần Khởi! A Mạch trong lòng cứng lại, liền hiểu được thủ lĩnh quân Bắc Mạc lần này đúng là Trần Khởi! Nàng mặc dù vẫn đi theo bên cạnh Thương Dịch Chi, nhưng mỗi khi Thương Dịch Chi họp quân sự đều không cho phép cận vệ ở bên cạnh. Hơn nữa, lần này hành động thập phần cơ mật, cho nên các tướng lãnh đều rất kín miệng, cho nên A Mạch không hề biết Trần Khởi chính là tướng cầm quân lần này.
A Mạch gắt gao nghiến chặt khớp hàm, trên mặt không còn chút huyết sắc, hai tay cầm cương ngựa đã nổi gân xanh, trong mắt lóe ra hai ngọn lửa. Đột nhiên, A Mạch dùng sức thúc mạnh hai chân vào bụng ngựa, giật dây cương, lao vọt vào trong hàng ngũ quân Bắc Mạc.
Nàng muốn đi tìm anh ta, nàng muốn hỏi anh ta là vì cái gì!
Binh lính Nam Hạ cùng Bắc Mạc đang ra sức chém giết lẫn nhau, chiến trường vô cùng hỗn loạn. A Mạch phi ngựa từ trên sườn núi lao xuống, lọt vào giữa nơi hỗn chiến của quân đội hai nước, nhắm thẳng về phía quân Bắc Mạc mà phóng tới. Nàng múa tít thanh đao trong tay, thỉnh thoảng lại từ trên lưng ngựa cúi xuống chém ngã lính Bắc Mạc bên cạnh, máu không chỉ vấy đỏ phía trên thân thể của nàng, mà hạ thể cùng bộ lông trắng xám của con ngựa nàng đang cưỡi cũng đều bị nhuộm đỏ…… Nàng chưa bao giờ giết nhiều người như vậy, cũng chưa bao giờ phát giác mình lại cưỡi ngựa giỏi như vậy. Vào giờ phút này, A Mạch đã không phải là A Mạch nữa, mà chỉ còn lại một lưỡi đao giết người.
A Mạch vung đao bổ về phía một tên lính Bắc Mạc, lực đánh của nàng mạnh đến nỗi khiến thanh đao cắm thật sâu vào trong cơ thể người nọ, nàng không còn nghe được tiếng kêu la thống khổ của người đó, hết thảy trước mắt nàng đã không còn đường nét hay âm thanh nữa, chỉ còn duy nhất một động tác vung lên, hạ xuống, lặp đi lặp lại. Mỗi một lần vung đao lại một lần xuất hiện thêm một gương mặt thống khổ. Trong lúc nàng đang cố sức rút đao ra khỏi cơ thể của người nọ, còn chưa kịp chém vào tên lính khác, đột nhiên cảm thấy dưới thân hẫng một cái, chiến mã của nàng đã bị đâm trúng cổ, thân hình to lớn của nó ầm ầm đổ xuống. Cơ thể A Mạch phản ứng trước khi kịp suy nghĩ, theo bản năng toàn thân hướng sang bên cạnh lăn đi, cùng lúc tránh được lưỡi đao của địch nhân chỉ cách đó nửa bàn chân……
Lúc này, A Mạch vốn không còn là A Mạch. Trong đầu nàng chỉ là một mảnh trống rỗng, thân thể theo bản năng né qua bên cạnh tránh được lưỡi đao vừa chém tới, sau đó vung đao trong tay, từng bước một lao sâu vào trong hàng ngũ quân Bắc Mạc.
Lá cờ viết chữ “Trần” kia càng lúc càng tới gần, người trước mặt đã bị nàng dùng đao chặt đứt yết hầu, máu từ miệng vết thương phun ra như nước, rơi lên tóc của nàng, sau đó chảy xuống trán, phủ mờ ánh mắt của nàng, nàng tựa hồ lại ngửi thấy được mùi máu, giống như máu của phụ thân đêm đó, ánh lửa chói mắt, lại là một màu đỏ khác.
Khí lực, cuối cùng cũng đã cạn, nhưng trước mặt cũng không có người nào dám đến gần để ngăn trở nàng. A Mạch, một thân đầy máu, tỏa ra sát khí lạnh thấu xương, cứ như vậy đi từng bước kiên định về phía lá cờ.
Dưới cờ, một thanh niên dáng người cao lớn đang đứng, một thân chiến bào đen truyền thống của Bắc Mạc, tay vịn bảo kiếm bên hông, thần sắc hờ hững nhìn một kỵ binh Nam Hạ từ sau trận lao tới.
——————-
Chú thích:
1- Câu: lạch nước
2- Giáp công: tấn công giáp lá cà
3- Tướng môn song tú: hai đại biểu tinh tú xuất thân từ gia đình tướng gia.
4- Bôn tập: cuộc tập kích lớn
Chương 23
ÁC MỘNG
Trần Khởi vì muốn lôi cuốn quân Bắc Mạc, nhưng phía sau đột nhiên lại thấy xuất hiện kỵ binh Nam Hạ, nên mới cố ý dựng soái kỳ lên, quả nhiên kỵ binh liền xông về phía soái kỳ. Anh ta thản nhiên nở nụ cười, nhưng ý cười này chưa tới đáy mắt đã thu trở lại, anh ta đứng quan sát bốn phía đang chém giết, lẳng lặng nhìn kỵ binh quân địch ở phía xa xa, rõ ràng là có ý đồ phá tan kỵ binh bên này.
Thấy kỵ binh Nam Hạ đang dần dần tới gần, cận vệ đứng sau lưng Trần Khởi không khỏi có chút khẩn trương, vội dắt ngựa của Trần Khởi tiến lên khuyên: “Nguyên soái, nên lên ngựa đi.”
Trần Khởi ôn hòa cười, không cự tuyệt hảo ý của cấp dưới. Cận vệ của anh ta chỉ sợ chủ soái xảy ra điều gì sơ xuất, lặng lẽ đem Trần Khởi bảo vệ ở giữa.
Bên sườn chiến trường phía tây đột nhiên truyền đến một trận xôn xao, khiến Trần Khởi quay đầu nhìn về hướng đó, liền thấy một tên lính Nam Hạ đã tiến sâu vào trong trận địa của quân mình, như hung thần mới từ trong địa ngục xông ra, đi đến đâu, quân Bắc Mạc đều hoảng sợ tránh ra đến đó, nhưng hắn lại vẫn liều chết xông tới. Trần Khởi nhíu mày, một viên tướng bên cạnh thấy vậy, vội vàng nói: “Để ta đi loại bỏ tiểu tử kia!” Nói xong, không đợi Trần Khởi phân phó, liền thúc ngựa tiến lên.
Bên này, A Mạch phải dùng toàn lực mới tránh được mũi thương lao đến, chưa kịp chém lại địch nhân một đao, người nọ liền lùi ra sau, sau đó dùng thương đâm về phía nàng. Nhiều người quá! Giết không hết! Chém ngã một người lại xuất hiện thêm một người. Luôn có những tên lính Bắc Mạc gan dạ từ trong đám người phía sau lao đến, làm cho nàng không giết cũng không được.
Nhưng thật sự nàng đã không còn khí lực.
A Mạch cắn chặt răng, giơ cao thanh đao trong tay, đi về phía trước từng bước, lại khiến cho tên lính Bắc Mạc đi theo nàng lui từng bước. Nhìn mũi thương run run trước mặt, khóe miệng A Mạch lộ ra một tia cười lạnh. Bọn họ sợ nàng. Tuy rằng hiện tại nàng đã không còn khí lực để chém giết ai, nhưng bọn họ lại sợ bị nàng giết. Nàng cười lạnh, lại bước về phía trước, đột nhiên phía trên đùi phải mềm nhũn, thân thể liền không thể khống chế được chúi về phía trước.
Bây giờ nếu ngã xuống, sẽ là loạn đao phân thây, chết không có chỗ chôn!
A Mạch rùng mình, chân trái theo bản năng nhảy nhanh về phía trước, vội vàng dùng đao chống đỡ, miễn cưỡng không ngã xuống, nhưng người cũng đã quỳ rạp trên mặt đất.
Không biết một mũi tên từ nơi nào bắn tới, vừa lúc bắn trúng đùi A Mạch, mũi tên cắm vào thịt rất sâu, đuôi mũi tên vẫn còn hơi rung lên.
Trong khoảng thời gian ngắn, quân lính Bắc Mạc ở bốn phía cũng có chút phản ứng mà tiến lại gần, mặc dù thấy A Mạch đột nhiên quỳ xuống, nhưng vừa rồi cảnh tượng nàng chém giết và số người chết trong tay nàng vẫn khiến bọn họ kinh hãi, không dám vọng động, chỉ vây xung quanh, không dám tiến lên.
A Mạch muốn chống đao đứng dậy, nhưng mấy lần nhích người lên, vết thương trên đùi lại đau đến thấu xương mà nặng nề quỳ gối xuống.
Rốt cục, bên cạnh có một địch nhân thử đi đến gần nàng, từng bước, từng bước một, chậm rãi giơ trường đao trong tay……
Chẳng lẽ sẽ chết như vậy sao? A Mạch rốt cục không suy nghĩ gì nữa, cứ như vậy quỳ trên mặt đất, nhìn xuyên thấu qua màn máu đỏ tươi trước mắt về phía xa xa, nơi đó, lá cờ nguyên soái vẫn phần phật bay trong gió. Máu khiến tầm mắt nàng trở nên mơ hồ, khiến cho nàng nhìn không rõ lắm người ở phía dưới lá cờ. Khi lưỡi đao đang xé gió lao đến, muốn chém vào khuôn mặt của nàng, nàng lại lập tức cảm thấy vô cùng thư thái, không còn sợ hãi, không còn oán hận……
Vậy thì cứ chết đi. Chết là hết, tất cả sẽ được giải thoát. Không cần phải chạy trối chết, không cần tiếp tục lưu lạc, không cần đóng giả nam trang, cũng không cần phải hỏi xem là vì cái gì. Có thể gặp được phụ thân và mẫu thân…… Phụ thân sẽ nhấc bổng nàng giơ lên cao, cười thật tươi, dùng râu cọ vào hai má của nàng. Còn mẫu thân? Sẽ cầm gậy trúc đuổi theo đánh vào mông của nàng? Cứ đuổi đi, cũng không sao cả, nàng biết mẫu thân chỉ là hù dọa nàng chứ đâu nỡ đánh nàng.
Nhưng…… Nơi đó sẽ có Trần Khởi ca ca phải không?
Có… có… có cậu thiếu niên cùng nàng chơi đùa, cùng nàng lớn lên, có người thanh niên từng đỏ mặt chụp gáy nàng…… A Mạch nở nụ cười, ở giây phút cái chết đang tiến lại gần, nàng đột nhiên nở nụ cười thật nhẹ nhàng, lộ ra một hàm răng trắng bóng, không tương xứng cùng sắc mặt.
Nét tươi cười này…… Chưa bao giờ sáng lạn như thế.
Nét tươi cười ấy, xuyên thấu qua làn mưa máu trong không trung, xuyên qua vô số tiếng chém giết, giống như một mũi tên vô cùng sắc bén, lập tức xuyên thủng trái tim Trần Khởi. A Mạch! Đây là A Mạch! Tuy rằng nàng mặc nam trang, tuy rằng nàng cao lên rất nhiều, tuy rằng khuôn mặt nàng đầy máu, nhưng nụ cười tươi này chính là của nàng, tựa hồ như rất nhiều năm trước đây, lần đầu tiên nhìn thấy nàng tươi cười, nụ cười vô cùng sáng lạn lập tức xuyên qua không gian, đánh thẳng vào trong cơ thể của anh ta. Anh ta chỉ cảm thấy trong lòng cứng lại, lồng ngực như bị ai đó bắn trúng, rốt cuộc không hút nổi một chút không khí nào. Anh ta muốn ngăn lưỡi đao đang chém xuống đầu nàng. Nhưng ngay cả miệng cũng cứng đờ không thể phát ra âm thanh. Cả người đều cứng lại, chỉ có thể ngồi đó trơ mắt nhìn lưỡi đao kia từng chút một tới gần đỉnh đầu của nàng.
A Mạch nhắm mắt lại, mặc dù ý niệm phải chết hiện lên trong đầu, nhưng cánh tay lại vẫn theo bản năng nâng lên, nghênh đón lưỡi đao kia đang hạ xuống. Nhưng đợi một lúc mà thanh đao kia vẫn chưa hạ xuống, A Mạch khó hiểu trợn mắt, thì thấy trước ngực địch nhân kia đã trúng một thanh kiếm, hét lớn một tiếng rồi ngã về phía sau.
Thanh kiếm này, nàng nhận ra nó, là bội kiếm của Đường Thiệu Nghĩa, là thanh kiếm mà nàng đã trả lại cho Đường Thiệu Nghĩa!
Đường Thiệu Nghĩa từ xa phóng ngựa lại, mắt thấy A Mạch sẽ rơi đầu, trong lúc cấp bách không kịp dùng cung tên, liền trực tiếp lấy thanh bội kiếm đang cầm trong tay như một thanh chủy thủ(1) phi đến, vừa lúc cứu A Mạch một mạng.
A Mạch chưa kịp phản ứng thì Đường Thiệu Nghĩa đã phi tới, cúi người đưa tay chụp lấy nàng nhấc lên lưng ngựa, hét lớn: “Chúng ta đi!”
Một viên tướng Bắc Mạc thúc ngựa chạy đến, trường đao vung lên chém thẳng vào A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa. Trong tay Đường Thiệu Nghĩa không có binh khí, không dám đón đỡ trực diện, liền nắm lấy bàn tay cầm đao của A Mạch hướng về phía thanh đao kia đang lao tới. Hai con chiến mã lướt qua nhau, đao phong sắc bén cũng dán sát vào chóp mũi của A Mạch, A Mạch vội vàng giơ đao lên đỡ, hai thanh đao chạm vào nhau, tia lửa văng ra khắp nơi.
A Mạch trong cổ họng bật rên lên một tiếng, Đường Thiệu Nghĩa phụ giúp nàng ngồi dậy, không có thời gian hỏi nàng thấy như thế nào, chỉ giục ngựa hướng ra phía ngoài phóng đi. Một đám quân lính Bắc Mạc xông lại, A Mạch xoay đao đưa về phía sau cho Đường Thiệu Nghĩa, rồi vội vàng cúi người xuống, gắt gao ôm lấy cổ ngựa. Đường Thiệu Nghĩa cầm đao trong tay, như hổ thêm cánh, mấy bộ binh Bắc Mạc này sao có thể ngăn được anh ta. Qua mấy lần chém xuống, bọn họ cũng đã vọt tới bên cạnh chiến trường, phía trên triền núi phía tây.
Đường Thiệu Nghĩa lúc này mới dám nhìn A Mạch, thấy trên đùi phải của nàng trúng một mũi tên, máu đã ướt đẫm cả ống quần, anh ta không dám tùy tiện nhổ, chỉ cắn răng nói: “Gắng chịu!” Nói xong không đợi A Mạch phản ứng liền vung đao chém đứt thân mũi tên, chỉ chừa phần đầu mũi tên ở trên đùi A Mạch.
A Mạch kêu thảm thiết một tiếng, thân thể cứng đờ liền trượt khỏi lưng ngựa rơi xuống. Đường Thiệu Nghĩa vội vàng đỡ lấy nàng, thấy trên mặt nàng mồ hôi lạnh đầm đìa, trộn lẫn với máu đang chầm chậm chảy xuống.
Phía sau, trong quân Bắc Mạc có chút biến động khác thường, Đường Thiệu Nghĩa thấy trận tuyến Bắc Mạc vốn lúc trước đã có chút ổn định, thế nhưng giờ lại loạn cả lên, trong lòng không khỏi có chút kỳ quái. Bất quá giờ phút này cũng không rảnh để xem xét, chỉ thầm nghĩ chạy thật nhanh đưa A Mạch trở về nơi Thương Dịch Chi đang quan sát trận địa, chỉ có ở đó mới có quân y.
“A Mạch, ngươi cố gắng nhẫn nhịn, ta lập tức đưa ngươi trở về bên cạnh Thương tướng quân.” Đường Thiệu Nghĩa nói.
A Mạch đã muốn cắn nát môi dưới, chỉ vì muốn duy trì một chút tỉnh táo, không cho phép mình ngất đi. Nàng bị thương, nếu tìm quân y băng bó, thì có khả năng sẽ bị tiết lộ thân phận, cho nên nàng phải tỉnh táo.
Thương Dịch Chi vẫn chuyên chú nhìn vào chiến trường dưới núi, thế trận của Bắc Mạc hiển nhiên đã tan tác, Trần Khởi dường như đột nhiên mất đi khả năng khống chế đối với quân đội. Thắng lợi ở ngay trước mắt, tay Thương Dịch Chi có chút run run, sợ bị người khác nhìn thấy, đành phải gắt gao nắm chặt thành quyền.
Khi Đường Thiệu Nghĩa mang A Mạch đến, hai người lập tức theo nhau ngã nhào xuống dưới, cận vệ mang hai người đến trước mặt Thương Dịch Chi. Thương Dịch Chi nhìn A Mạch, trong mắt hiện lên tia mừng rỡ, nhưng lập tức lại trở nên lạnh lùng, vẻ mặt bình tĩnh, nheo mắt đánh giá A Mạch, lạnh giọng nói: “Cho ngươi đi truyền tin, chứ ai cho ngươi đi đóng vai anh hùng?”
A Mạch cũng không nói gì, chỉ lê chân quỳ rạp trên mặt đất, trước mắt, cảnh vật đã có chút nhòa đi. Giọng nói của Thương Dịch Chi cũng như ở một nơi rất xa truyền tới, nghe có chút mơ hồ.
Từ Tĩnh có chút không đành lòng, hàng lông mày giật giật, vội vàng khuyên Thương Dịch Chi: “Tướng quân, A Mạch mất máu nhiều lắm, trước cứ để cho quân y băng bó vết thương cho hắn đã rồi hỏi sau đi.”
Thương Dịch Chi nhìn A Mạch hừ lạnh một tiếng, không thèm nhắc lại. Trương Sinh thấy thế liền mang Đường Thiệu Nghĩa cùng A Mạch đi tìm quân y. Quân y thấy A Mạch cả người đầy máu, nhất thời cũng không biết nàng bị thương ra sao, liền bảo Đường Thiệu Nghĩa cởi áo khoác của nàng ra. A Mạch tuy có chút mơ hồ, nhưng với chút ý trí còn sót lại nghe vẫn còn hiểu được, liền đưa tay ngăn cản Đường Thiệu Nghĩa, kiên cường chống đỡ nói: “Nơi khác không có, chỉ có trên đùi.”
Nói xong liền tự mình đi tìm vết thương trên đùi, nhưng trên tay một chút khí lực đều không có, ngay cả xé rách ống quần ra cũng không làm được. Đường Thiệu Nghĩa nhấc tay A Mạch ra, hai tay cầm ống quần của nàng, dùng sức xé một cái, ống quần từ trên đùi rách toạt xuống dưới.
Chân A Mạch thon dài mà rắn chắc, không thể nhìn thấy chút lông chân nào, làn da nhẵn nhụi bóng loáng, không giống như chân nam nhân. Đường Thiệu Nghĩa không biết vì sao mặt chợt đỏ lên, không dám nhìn lại vào đùi A Mạch, chỉ để tầm mắt của mình đọng lại trên miệng vết thương của nàng.
Đầu tên cắm rất sâu, khi ở trên lưng ngựa va chạm cùng kỵ binh Bắc Mạc lại bị đụng phải, khiến miệng vết thương bị rách lớn hơn nữa, thành một mảnh nham nhở. Quân y dùng dao nhỏ khoét rộng miệng vết thương, lấy mũi tên ra, bôi kim sang dược, rồi băng bó lại.
Đau quá! Đau đến tê tâm liệt phế, muốn lớn tiếng kêu khóc, muốn hét lên thật to. A Mạch vài lần há to miệng, nhưng chung quy lại vẫn là không thể thốt nên chút âm thanh nào, đến cuối cùng vẫn là gắt gao nghiến chặt hàm răng lại.
Trương Sinh lầy chút nước cho A Mạch rửa qua những vết máu trên mặt. A Mạch vươn tay vớt nước rửa mặt, sau đó mới ngẩng đầu lên, nhìn Đường Thiệu Nghĩa, thay đổi âm điệu cổ họng nói: “Ta mệt chết đi được, muốn ngủ một hồi, đại ca đi hỏi Từ tiên sinh giúp ta xem có thể mượn xe la của ông ấy dùng một chút được không?”
Đường Thiệu Nghĩa lo lắng liếc nàng một cái, rồi cho người đến hỏi Từ Tĩnh, sau đó định bế A Mạch đi, ai ngờ A Mạch lại cự tuyệt, miễn cưỡng cười cười, dùng một chân đứng lên, vịn lên cánh tay của anh ta rồi nói: “Không cần, đại ca dìu ta đi là được.”
Đến khi đã nằm trong xe la rồi, A Mạch mới thở một hơi dài nhẹ nhõm, để mặc ý thức của mình chìm vào bóng tối, trong khoảnh khắc đó, nàng lại cảm thấy hóa ra có thể ngất xỉu đi như vậy thật là hạnh phúc.
Khi tỉnh lại, sắc trời đã tối đen, bên ngoài chợt có ánh đuốc hắt tới, rèm xe đã bị vén lên từ bao giờ, ý thức A Mạch vẫn chưa tỉnh táo lại, chỉ theo bản năng dướn người nhìn ra bên ngoài, thấy một bóng người đang đứng trước xe, trầm mặc nhìn mình.
Là Thương Dịch Chi, sau lưng anh ta có ánh lửa, khiến thân ảnh của anh ta đổ dài xuống, nhưng lại che khuất ngũ quan của anh ta, khiến người khác nhìn không rõ lắm, chỉ cảm thấy anh ta dường như đã đứng nhìn A Mạch từ rất lâu rồi.
———————
Chú thích:
1- chủy thủ: dao găm
Chương 24
CÔNG PHÒNG (1)
Cánh tay A Mạch mềm nhũn vô lực, chống đỡ được một lát lại ngã xuống, cái gáy nện “Phịch” một tiếng lên sàn thùng xe, đau điếng, nhờ đó lại khiến cho thần trí của nàng đột nhiên tỉnh táo lại. Thương Dịch Chi, Thương Dịch Chi đang nhìn nàng! Anh ta đang nhìn cái gì? A Mạch trong lòng căng thẳng, theo bản năng vụt đưa tay lên sờ ngực áo của mình, vẫn nguyên vẹn, không tổn hao gì, nàng nhắm mắt lại, hít một hơi thật sâu, rồi mới vịn thùng xe ngồi dậy, cẩn thận nhìn Thương Dịch Chi, nói: “Tướng quân, trên đùi A Mạch có thương tích, không cách nào hành lễ với ngài được.”
Thương Dịch Chi vẫn nghiêm mặt, lạnh lùng đánh giá A Mạch, A Mạch lo lắng đề phòng, đợi hơn nửa ngày mới nghe được anh ta hừ lạnh một tiếng nói: “Tóc tai bù xù, không còn ra cái bộ dạng gì nữa!” Nói xong liền thả màn xe xuống, xoay người mà đi.
A Mạch ngây người, vươn tay sờ sờ tóc, hóa ra búi tóc trên đỉnh đầu đã sớm tuột ra từ lúc nào, trên tóc còn dính vết máu, từng sợi, từng sợi xõa tung, phân tán xuống dưới, tràn xuống quá vai. Nàng trong lòng hoảng hốt. Bởi vì sợ bị người khác nhìn ra sơ hở, nàng vẫn không dám để tóc dài, vài năm trước thậm chí còn có lần cạo đầu bóng lưỡng. Sau khi xảy ra chiến loạn tại thành Hán Bảo, nàng mặc dù không tiếp tục cắt tóc, nhưng cũng chưa từng buông xõa xuống trước mặt người khác. Cũng không biết búi tóc bị tuột xuống khi nào, chỉ nhớ là trước khi lên xe, rõ ràng vẫn còn được búi trên đỉnh đầu. A Mạch sờ soạn lung tung trong xe, quả nhiên tìm thấy sợi dây buộc, cuống quít túm tóc, buộc chặt lại lần nữa.
Màn xe đột nhiên lại bị vén lên, lộ ra khuôn mặt gầy gò của Từ Tĩnh, ông ta nheo cặp mắt nhỏ đánh giá A Mạch, sau đó cười hắc hắc, nói: “A Mạch ơi A Mạch, ta đã sớm nói với ngươi là cùng ngồi chung xe la với ta, ngươi còn cố tình không chịu, lúc này thì thế nào? Vẫn là phải ngồi trên xe la của ta mà đi sao?”
Dứt lời liền vén màn bước lên xe, miệng kêu lên: “Tránh ra một chút, thu chân của ngươi lại để lão phu còn vào.”
A Mạch nghe vậy liền dùng tay di chuyển cái chân bị thương sang một bên, nhường một khoảng trống lớn cho Từ Tĩnh bước vào, rồi ngồi dựa vào thành xe.
Không ngờ Từ Tĩnh lại đột nhiên dừng lại, nhăn mũi ngửi ngửi, sắc mặt biến hóa vô cùng cổ quái, sau đó liền quyệt mông lui ra ngoài, bịp mũi kêu lên: “A Mạch, ngươi thật đúng là muốn làm lão phu chết ngạt, mau lên, nhanh gội sạch đầu của ngươi, quần áo trên người cũng đều ném hết cho ta!”
A Mạch sửng sốt, nâng nâng cánh tay lên mũi ngửi, sau đó lại nghe thấy Từ Tĩnh ở ngoài xe gọi thân binh: “Nhanh lên, cho hắn một thùng nước đến đây để gội đầu, còn nữa, đệm giường trên xe cũng bỏ đi, đem một cái khác đến đây!”
Thân binh tuân lệnh đáp ứng, một lát sau liền bưng một chậu nước đi đến trước xe, nói với Từ Tĩnh: “Tiên sinh, người giữ quân nhu nói trong lần hành quân này không mang theo đệm giường, Thương tướng quân biết chuyện, đã vội cởi áo choàng của mình đưa cho ta, nói trước cứ đưa cho tiên sinh dùng làm đệm giường, chờ gặp thôn xóm nào trên đường đi thì sẽ tìm mua cho tiên sinh sau.”
“Ừ!” Từ Tĩnh cũng không khách khí, tiếp nhận áo choàng, rũ rũ mấy cái, xem chừng cũng rất dày, liền gật gật đầu, hướng vào trong xe nói: “A Mạch, mau ra gội đầu cho sạch sẽ đi.”
Vừa dứt lời, A Mạch đã từ trong xe nhô đầu ra, dùng hai tay bàn nhấc cái chân bị thương ra ngoài. Thân binh kia thấy thế liên bưng nước tiến đến, nói: “Mạch đại ca, ngươi đừng xuống nữa, để ta bưng nước cho ngươi, ngươi cứ cúi đầu xuống mà gội.”
A Mạch nhìn anh ta cười cười, quay đầu lại, thấy Từ Tĩnh đang nhìn mình chằm chằm, cũng không nói gì, chỉ cởi nhuyễn giáp đầy máu trên người ra, ném xuống đất, lại duỗi tay cởi quần áo bên ngoài, thấy áo kép bên trong cũng lấm tấm vết máu, A Mạch cau mày, hơi do dự một chút liền đưa tay cởi áo. Thân binh kia thấy vậy, có chút khó xử nói: “Mọi ngươi không ai mang quần áo theo, hay là Mạch đại ca đừng thay áo kép nữa, chịu khó một chút vậy.”
A Mạch ngừng tay, ngẩng đầu hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh, như vậy có được không? Nếu không ngài đưa áo choàng của tướng quân cho ta mượn dùng tạm, ta tốt xấu gì cũng không thể ở trước mặt tiên sinh mà hở mông ra được.”
Thân binh kia nghe vậy liền cười xì một tiếng, thấy A Mạch cùng Từ Tĩnh không ai cười, không hiểu là có chuyện gì, vội vàng ngừng lại, cúi đầu không dám lên tiếng.
Tầm mắt Từ Tĩnh dạo qua một vòng trên mặt A Mạch, có chút không kiên nhẫn nói: “Quên đi, quên đi, đem quần áo bẩn bên ngoài ném đi là được.”
A Mạch cúi đầu, khóe miệng mơ hồ khẽ giật giật, không chút hoang mang, cài cổ áo kép lại, rồi nhúng đầu vào chậu nước mà thân binh kia vừa mang lại, lúc này mới cởi dây buộc tóc ra. Hiện đã bắt đầu vào đông, tiết trời đã lạnh, da đầu A Mạch vừa chạm vào nước, nàng liền rùng mình một cái. Thân binh trước mặt vội vàng nói: “Thật sự là xin lỗi, quả thực ta không tìm được nước ấm.”
“Không sao.” A Mạch cúi đầu nói, lấy tay chả xát trên đầu, rửa sạch vết máu trên mặt, rồi nhanh chóng ngẩng đầu lên, vuốt tóc cho nước chảy hết, rồi ngay khi tóc vẫn còn đang rối đã dùng dây buộc lại trên đầu, sau đó quay người nhìn về phía Từ Tĩnh đang đứng bên cạnh.
Từ Tĩnh nheo mắt, khoát tay áo nói: “Được rồi, mau vào thôi, nhìn ngươi không khác gì một con gà rơi xuống nước lạnh vậy.” Nói xong, lại không biết lấy từ đâu ra một chiếc khăn mặt ném cho A Mạch: “Lau khô tóc của ngươi đi, để cho họ thay đệm giường trước đã rồi nói sau.”
A Mạch nhận lấy chiếc khăn, trùm lên đỉnh đầu, che khuất cả mặt, chậm rãi lau, một hồi lâu sau mới kéo khăn xuống, hướng về phía Từ Tĩnh cười nói: “Tiên sinh, ngài hảo tâm tìm giúp ta một cái quần đi, ta chỉ có một chân là được mặc quần, bằng không ta ở trước mặt ngài cũng thật là thất lễ .”
Chòm râu của Từ Tĩnh run lên bần bật, tức giận nói: “Tối lửa tắt đèn thế này, lão phu biết đi đâu tìm quần cho ngươi? Ngươi tự xem lại bản thân mình đi.” Nói xong liền lên xe ngồi cạnh A Mạch, lại thúc giục A Mạch: “Mau lên, phải đi rồi, ngươi mau vào xe đi.”
A Mạch sửng sốt, song vẫn nghe lời đi vào trong xe. Trong xe có một ngọn đèn nhỏ, Từ Tĩnh đã đem chiếc áo choàng của Thương Dịch Chi trải thành đệm giường ở trong xe, đang ngồi ở phía trên dựa vào thành xe, nhắm mắt dưỡng thần. A Mạch lại gắng chịu đau, đặt cái chân bị thương xuống, lộ ra một bắp chân sạch sẽ, giữ ý ngồi ở một góc, hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh, hiện chúng ta đang đi đâu? Chiến trường đã dọn dẹp xong rồi sao?”
Từ Tĩnh liếc nhìn A Mạch một cái rồi nhắm mắt lại, không âm không dương nói: “Đi đâu? Chúng ta tất nhiên là phải về Dự Châu chứ còn đi đâu, Trần Khởi dẫn bại binh lui về Tĩnh Dương. Thế nào? Ngươi còn dám đuổi theo hắn tới tận Tĩnh Dương sao? Ngươi đã mê man một ngày một đêm, chiến trường đã sớm thu dọn xong rồi.”
A Mạch nghe ông ta nói như vậy thì có chút trầm mặc, cúi đầu không biết suy nghĩ cái gì. Hóa ra khi nàng ngã xuống đã mê man một ngày một đêm, lúc này tỉnh lại đã là buổi tối ngày hôm sau, Thương Dịch Chi chẳng những đã dọn dẹp xong chiến trường, mà còn dựng cả bia mộ cho các tướng sĩ Nam Hạ tử trận trên sườn núi Ô Lan.
Từ Tĩnh thấy A Mạch trầm mặc, nhịn không được lại mở mắt ra có chút tò mò hỏi: “A Mạch, ngày hôm qua vì sao ngươi cứ nhất định phải liều chết xông về phía chủ soái Bắc Mạc? Ngươi muốn làm gì?”
A Mạch nghe vậy thì hơi giật mình, lập tức liền cười nói: “Câu hỏi này của tiên sinh thật kỳ quái, tất nhiên là A Mạch muốn giết chết chủ soái Trần Khởi của lũ thát tử rồi.”
Từ Tĩnh vuốt râu không nói, trong đôi mắt nhỏ xuất hiện nhiều ánh tinh quang, khiến A Mạch khi chạm phải ánh mắt đó trong lòng có chút run sợ, đến lúc đó ông ta mới thu hồi ánh mắt lại, thản nhiên “A?” một tiếng.
A Mạch thấy ông ta như vậy, gãi gãi đầu, ngượng ngùng cười nói: “Ta biết không thể lừa được tiên sinh, ta xin nói thật, tiên sinh chẳng lẽ còn không biết lá gan của ta, lúc nào ta chẳng muốn tránh đao thương, tướng quân sai ta đi truyền tin, ta đi đến nửa đường thấy Đường giáo úy đã hành động rồi, liền muốn nhanh chóng quay trở lại, ai ngờ vừa kéo cương ngựa, thì không biết mỗi mũi tên từ đâu bắn đến khiến ngựa của ta hoảng sợ lồng lên, mang theo ta hướng về phía soái kỳ của thát tử lao tới, ta cũng không có cách nào khác, lại không dám nhảy xuống, lúc ấy sợ tới mức thiếu chút nữa vãi tiểu ra quần, sau lại có thát tử ngăn đón ta, khiến ta nóng mắt mà quên cả sợ hãi .”
Từ Tĩnh cũng không nói gì, A Mạch cũng không biết ông ta có tin vào lý do bào chữa này hay không, nhưng hiện tại đã đâm lao thì phải theo lao, đành cười gượng hai tiếng, có chút ngượng ngùng nói: “Tiên sinh, việc này ngài đừng nói cho người khác được không, nếu để người khác biết được ta vì lý do này, nhất định sẽ cười chê ta đến chết mất. Mặc kệ thế nào, tốt xấu gì ta cũng giết được vài tên thát tử, cũng đã bị thương, không có công lao thì cũng có khổ lao, phải không?”
Từ Tĩnh hắc hắc cười lạnh hai tiếng, không bày tỏ ý kiến gì, lại dựa vào thùng xe nhắm mắt dưỡng thần.
Đi đường vào ban đêm cũng không thuận tiện, may là quân đội Nam Hạ cũng chỉ muốn rời khỏi Dã Lang Câu, tìm nơi cắm trại tránh gió, cho nên đi về hướng nam một quãng không quá xa liền dừng lại, tìm nơi mà kỵ binh khó lòng đánh lén để cắm trại nghỉ ngơi. Đây cũng là chủ ý của Từ Tĩnh, bị kỵ binh Bắc Mạc tập kích đại doanh trong đêm một lần đã là quá đủ rồi, tuy rằng Trần Khởi đã bại trận lui binh, nhưng cũng tuyệt đối không thể khinh thường.
Dọc theo đường đi, Từ Tĩnh đều không nói chuyện gì, A Mạch cũng không dám lên tiếng, chỉ nhắm mắt ngủ gà ngủ gật. Tháng mười một, nhiệt độ ban đêm ngoài trời xuống rất thấp, trên người nàng lại chỉ mặc một chiếc áo kép, ống quần lại chỉ còn có một bên, tuy trong xe tránh được gió, nhưng cả người A Mạch đã muốn đông thành đá, nhất là cái chân bị thương kia, tựa hồ như đã tê liệt đến mất cả cảm giác. Khi xe dừng lại, Từ Tĩnh theo lệ thường, xuống xe làm một vài động tác, chỉ còn lại một mình A Mạch trên xe, nàng vội vàng lấy áo choàng của Thương Dịch Chi trùm lên người.
Một lát sau, thùng xe trầm xuống, có người vén màn xe lên, A Mạch tưởng là Từ Tĩnh đã trở lại, sợ tới mức vội vàng đem áo choàng trải phẳng lại, ai ngờ vừa ngẩng đầu lên thì thấy đó là Đường Thiệu Nghĩa.
“Có tốt hơn chút nào không?” Đường Thiệu Nghĩa hỏi.
A Mạch gật gật đầu, đột nhiên kéo cái chân bị thương kia lên, loạng choạng quỳ xuống trong xe, cúi đầu tạ lễ với Đường Thiệu Nghĩa: “A Mạch cảm tạ ơn cứu mạng của đại ca.”
Đường Thiệu Nghĩa sợ tới mức sửng sốt, vội đỡ A Mạch lên, cả giận nói: “A Mạch, chúng ta là huynh đệ sinh tử có nhau, mà ngươi lại nói ra những câu như thế này sao?”
A Mạch cười cười, lại ngồi xuống trong xe, không cẩn thận đụng phải bên chân bị thương, may là đã sớm bị lạnh đến tê đi rồi, nếu không đã rất đau. Đường Thiệu Nghĩa lại phát hiện thấy có điểm không thích hợp, đưa ngọn đèn đến soi rõ A Mạch, gắt gao nhíu mày lại, nói: “Tại sao lại ăn mặc đạm bạc như vậy? Quân phục của ngươi đâu?”
A Mạch thấp cúi đầu, nhẹ giọng nói: “Đều bị máu làm vấy bẩn, ném đi rồi.”
“Vớ vẩn!” Đường Thiệu Nghĩa mắng, vội vàng cởi áo choàng ra khoác lên người A Mạch, nói: “Đánh giặc có thể không dính máu sao? Nếu tất cả đều như ngươi, thì mọi người đều để mông trần mà trở về chắc!”
A Mạch bật cười, đem áo choàng trả lại cho Đường Thiệu Nghĩa, nói: “Đại ca, ta ở trong xe không lạnh lắm, ngươi vẫn nên mặc vào, ban đêm bên ngoài lạnh lắm.”
Vết thương trên chân của nàng lại lộ ra, Đường Thiệu Nghĩa vội đưa mắt tránh đi, nói: “Vết thương của ngươi cần giữ ấm, ta không sao.”
A Mạch thấy gương mặt của Đường Thiệu Nghĩa có chút ửng đỏ, trầm mặc một chút rồi đột nhiên hỏi: “Đại ca, bộ dạng của ta có phải rất giống đàn bà không?”
Đường Thiệu Nghĩa bị nàng hỏi như vậy liền cả kinh, như là đột nhiên bị người ta nói trúng tâm sự, mặt mũi đỏ tía tai nhìn nàng.
————————–
Chú thích:
1- Công phòng: tấn công và phòng thủ. Trong chương này, những người xung quanh dù vô tình hay cố ý đều tấn công vào phòng tuyến giả nam trang của A Mạch. Còn A Mạch thì luôn tìm cách để tự bảo vệ phòng tuyến này của mình.
Chương 25
THƯ HÙNG(1)
A Mạch cắn cắn môi dưới, nói tiếp: “Chính vì vậy mà khi ở doanh (2) ta phải chịu sự khi dễ của bọn họ, bọn họ đều nói ta như đàn bà. Dáng người gầy yếu thì thôi không nói làm gì, nhưng ông trời lại cho ta một khuôn mặt như vậy, ngay cả lông tơ cũng ngắn. Có người còn bức ta cởi ra cho bọn họ xem, ý muốn coi ta rốt cuộc có phải là nam nhân hay không……”
Nói xong, âm thanh A Mạch có chút run run, như thể chuyện này thật sự đã xảy ra và đã phát sinh trên thân thể của nàng. Nàng không sợ phải diễn kịch, bởi vì từ vài năm trước, nàng đã diễn kịch không biết bao nhiêu lần vì sự sinh tồn của bản thân, cho nên những lời này nói ra vô cùng trôi chảy, trong lời nói tựa hồ còn mang theo nỗi uất nghẹn cùng huyết lệ.
Sắc mặt Đường Thiệu Nghĩa từ hồng chuyển thành trắng, rồi từ tái chuyển thành xanh mét: “Đừng nói nữa! A Mạch.” Anh ta đỡ lấy bả vai đang run nhè nhẹ của A Mạch, nửa ngày nói không ra lời, chỉ mím chặt môi, đưa sắc mặt tái xanh nhìn A Mạch.
“Đại ca!” A Mạch đưa đôi mắt đỏ hồng nhìn Đường Thiệu Nghĩa, sau đó di chuyển ánh mắt, dùng sức nuốt nước miếng, âm thanh nghèn nghẹn trong cổ họng, nói: “Ta thực hận chính mình, vì sao lớn lên lại có hình dáng như thế này, khiến người khác luôn muốn khi nhục ta. Nói ta sau này làm sao cưới vợ a, cô nương ấy sẽ rất ghét ta vì ta mang một bộ dạng nữ tính, không có đủ nam tính. Còn nữa, đại ca…” A Mạch lại đột nhiên ngẩng đầu lên nhìn Đường Thiệu Nghĩa, vẻ mặt khẩn trương hỏi: “Ta đã mười chín tuổi, đến một sợi râu cũng không có, nếu ta mãi mà vẫn không mọc râu thì phải làm sao bây giờ, chẳng phải sẽ giống như thái giám trong cung sao?”
Nghe nàng nói như vậy, Đường Thiệu Nghĩa sắc mặt dịu xuống, dùng quyền đấm nhẹ lên bả vai nàng, cười nói: “Tiểu tử ngốc, không có việc gì làm nên ngồi suy nghĩ lung tung phải không, sợ không có cô dâu sao? Ngươi vốn có tài! Chờ thêm vài tuổi nữa, thân thể sẽ trở nên cường tráng, lúc đó xem ai còn dám nói ngươi giống nữ nhân? Tướng mạo của ngươi như vậy, hơn nữa vóc dáng cũng không thấp, về sau thêm chút cơ bắp, kỳ thực lại vô cùng anh tuấn uy vũ, khiến các bà mối kéo đến phá vỡ cả cửa nhà ấy chứ. Yên tâm đi, tiểu tử ngốc, ngươi nhất định sẽ có cô dâu của mình!”
A Mạch ngượng ngùng cười cười, hỏi: “Thật không?”
Đường Thiệu Nghĩa cũng cười, bất quá lại không trả lời, anh ta dùng sức nắm lấy bả vai A Mạch: “Được rồi, dưỡng thương cho tốt nhé, ta phải đi rồi.” Đường Thiệu Nghĩa cầm áo choàng của anh ta ném lên người A Mạch, rồi nhảy xuống xe, đi được hai bước lại quay lại đến trước màn xe nói: “Ngươi chờ một chút, ta sẽ nghĩ cách kiếm một chiếc quần cho ngươi, chớ để chân trần trước mặt Từ tiên sinh.”
A Mạch gật đầu cười khẽ, Đường Thiệu Nghĩa cũng không tự chủ được mà nhíu nhíu khóe miệng, nhìn A Mạch tươi cười có chút xuất thần, sau đó cố gắng phục hồi tinh thần nhảy xuống xe, quay đầu đi vội vã, mãi cho đến khi đã cách xe la rất xa rồi mới dừng lại, đứng ở nơi đó giật mình, đột nhiên liền cho mình một bạt tai, thanh âm đanh gọn, trong bóng đêm truyền đi rất xa, Đường Thiệu Nghĩa sợ tới mức cả kinh, nhìn ra xung quanh một chút, cũng không thấy có người chú ý, lúc này mới cúi đầu tự mắng mình hai câu, rồi đi nhanh về phía doanh trại.
Trong màn đêm, có một vị tướng quân dẫn lính đi tuần tra doanh trại, trong lúc giơ đuốc, bóng in trên doanh trướng nhìn như thể du long(3). Đêm khuya tĩnh lặng không một tiếng động, thỉnh thoảng ngẫu nhiên phát ra một hai âm thanh ma sát của khôi giáp.
Bình thường, mỗi khi Từ Tĩnh xuống xe để hoạt động tay chân, phần lớn đều là đi xung quanh xe la vung vẩy cho đỡ mỏi. Nhưng hôm nay phạm vi hoạt động của ông ta lại rộng hơn một chút, đầu tiên là đi đến doanh trướng của Thương Dịch Chi, thấy Thương Dịch Chi không có ở đó, ông ta chỉ hỏi thị vệ giữ cửa một câu là Trương Sinh chạy đi đâu, liền có người nói rằng Trương Sinh cùng tướng quân đi tuần doanh. Từ Tĩnh gật gật đầu, lại chắp tay sau lưng đi bộ trở về. Thị vệ kia thấy ông ta ngay cả đuốc cũng không mang theo, liền rất ân cần muốn đi lấy cho ông ta một cây. Từ Tĩnh lắc lắc đầu cự tuyệt, bí hiểm giơ một ngón tay chỉ chỉ lên trời. Thị vệ kia có chút hồ đồ, theo hướng ông ta vừa chỉ nhìn lên bầu trời đêm, sau đó dùng vẻ mặt không hiểu nhìn Từ Tĩnh.
Từ Tĩnh nhếch khóe miệng cười cười, vuốt râu, lắc lắc đầu, cũng không quan tâm đến thị vệ kia nữa, xoay người bỏ đi. Song ông ta không quay trở về xe la, mà đi về phía ngọn núi phía trước một đoạn, quả nhiên gặp Thương Dịch Chi cùng Trương Sinh từ phía trước đi lại.
“Tiên sinh? Sao ngài lại tới đây?” Thương Dịch Chi có chút kỳ quái. Anh ta đi từ đại doanh đến trạm gác trước núi, không ngờ đi tới ở chỗ này lại gặp Từ Tĩnh, không hiểu Từ Tĩnh sao không ở trên xe la nghỉ ngơi, quá nửa đêm rồi còn đến đây làm gì.
Từ Tĩnh liếc mắt nhìn Trương Sinh đang cầm đuốc đứng bên cạnh Thương Dịch Chi, khẽ nhấp miệng, cười nói: “Ban đêm không ngủ được, đi ra ngoài ngắm trăng, không biết tướng quân có nhã hứng ngắm trăng cùng ta không?”
Hôm nay chính là ngày mùng năm, trăng trên trời thì có hình dạng gì. Hơn nữa, nơi này là vùng hoang vu, lại là đầu mùa đông, vạn vật đều tiêu điều xơ xác, cho dù có là đêm trăng tròn đi chăng nữa thì cũng chẳng có gì đáng để thưởng ngoạn, huống chi đêm nay chỉ có một vầng trăng non vừa mới nhú?
Bất quá, đã ngắm trăng thì cần gì phải tròn hay khuyết.
Ánh mắt Thương Dịch Chi chợt lóe lên, cười cười, phất tay cho Trương Sinh lui, rồi nói với Từ Tĩnh: “Nếu tiên sinh đã mời, thì Dịch Chi cũng chỉ có thể đón nhận. Không biết tiên sinh muốn đi đâu để ngắm trăng đây.”
Từ Tĩnh nhìn chung quanh, rồi chỉ vào triền núi phía sau quân doanh: “Nơi đó được không?”
Thương Dịch Chi gật đầu, hai người tìm nơi bằng phẳng trên triền núi rồi chậm rãi đi. Đêm nay mặc dù không có một vầng trăng sáng, nhưng bầu trời đầy sao cũng rất sáng lạn. Tinh quang lấp lánh, khiến không gian bao bọc lấy triền núi không còn là một màu đen dày đặc nữa mà sẫm một màu xanh lam, giống như một chiếc màn nhung phủ xuống triền núi. Tính tú chiếu những tia sáng nhàn nhạt, lan tỏa xuống dưới, ban phát cho không gian mênh mông của dãy núi hoang dã một một tấm lụa mỏng mịn màng, khiến mọi thứ đều trở nên mờ mờ, mông lung trong đêm.
Trương Sinh cầm cây đuốc xa xa ở phía sau, Thương Dịch Chi hướng gò đất phía trước chậm rãi đi tới, thần thái nhàn nhã mà thản nhiên, căn bản không hỏi Từ Tĩnh vì sao lại mời anh ta đi ngắm trăng. Đường núi mặc dù không gập ghềnh nhưng ban đêm cũng không dễ đi, Từ Tĩnh lại không thể so với Thương Dịch Chi, mới chỉ đến giữa sườn núi đã thở hổn hển. Thương Dịch Chi ngừng lại, nhìn Từ Tĩnh cười ha hả. Từ Tĩnh lấy tay chống đầu gối, lắc lắc đầu, thở dài: “Không đi được nữa, già rồi, già rồi.”
Thương Dịch Chi không an ủi ông ta, chỉ tìm một chỗ bằng phẳng, nhổ một ít cỏ khô xung quanh trải trên mặt đất, rồi ngồi xuống, khi đó mới ngẩng đầu nhìn Từ Tĩnh cười nói: “Tiên sinh đến đây ngồi đi, ngắm trăng không nhất thiết cứ phải lên đến đỉnh núi, ta thấy ở triền núi này cũng được.”
Từ Tĩnh cười cười, đi đến bên cạnh anh ta ngồi xuống. Hai người nhìn bầu trời đêm nhất thời không nói gì, một hồi lâu sau, Từ Tĩnh mới đột nhiên cười nói: “Ta biết tướng quân đang suy nghĩ điều gì.”
Quay đầu lại, chỉ thấy Thương Dịch Chi có chút kinh ngạc nhìn mình, Từ Tĩnh vuốt râu, nheo mắt, nghiêm trang nói: “Tướng quân đang nghĩ, cảnh đêm đẹp mê người như vậy, nếu có thêm giai nhân bên cạnh nữa thì sẽ tốt biết bao nhiêu, thế mới đúng là hiệp cốt nhu tình(4)! Vì sao kẻ ngồi cùng mình lại là một lão già? Đáng tiếc, đáng tiếc a!”
Thương Dịch Chi giật mình, sửng sốt nhìn Từ Tĩnh một lát, đột nhiên bật cười thành tiếng, sau đó, tiếng cười càng lúc càng lớn, cuối cùng không chống đỡ được mà cười té lăn ra trên mặt đất. Anh ta ngửa mặt, nằm trên triền núi, cười to nói: “Người hiểu ta cũng chỉ có tiên sinh mà thôi.”
Từ Tĩnh không cười, chỉ lẳng lặng nhìn Thương Dịch Chi.
Tiếng cười của Thương Dịch Chi cũng dần dần ngừng lại, đưa mắt nhìn bầu trời đêm, đột nhiên hỏi: “Tiên sinh thấy thế nào?”
“Thấy cái gì?” Từ Tĩnh cố ý hỏi lại.
Thương Dịch Chi khẽ nhếch khóe miệng cười cười, nhẹ giọng hỏi: “Vì sao tiên sinh lại đi tìm ta?”
“Trong lòng tướng quân có nghi vấn, trong lòng Từ Tĩnh cũng có nghi vấn.” Từ Tĩnh đáp.
Thương Dịch Chi hỏi: “Trong lòng ta có nghi vấn gì?”
Từ Tĩnh đáp: “Song thố bàng địa tẩu, an năng biện thư hùng.” (Hai con thỏ cùng chạy trên mặt đất, khó có thể biết được con nào là đực, con nào là cái)(5)
Thương Dịch Chi không trả lời Từ Tĩnh, mà lại hỏi tiếp: “Vậy trong lòng tiên sinh có nghi vấn gì?”
“Không biết tướng quân đối với nghi vấn của chính mình sẽ như thế nào!”
Thương Dịch Chi trầm mặc một lát, thản nhiên nói:“Là thư hay là hùng thì với ta có quan hệ gì đâu?”
Từ Tĩnh cười nói:“Tướng quân có thể nghĩ như vậy, thì ta an tâm rồi.”
Thương Dịch Chi quay đầu nhìn Từ Tĩnh, thoải mái cười nói: “Mặc dù nói như vậy, song trong lòng vẫn có chút tò mò, dù sao dáng vẻ của hùng tương tự như thư thì có chút quái dị, tiên sinh thấy thế nào?”
Từ Tĩnh nheo nheo mắt, nói: “Có năng lực đi từ trong hang sói đi ra thì mặc kệ khi trưởng thành nó có bộ dáng gì đi nữa, đều chỉ có thể là hùng, nếu là thư, làm sao còn sống đến bây giờ.”
Thương Dịch Chi không nói gì, chỉ nhẹ nhàng xoa cằm.
Từ Tĩnh cười nói: “Tướng quân chỉ cần thuần dưỡng con thỏ này tốt một chút, ta thấy một ngày kia nó chắc chắn sẽ lớn mạnh và trở thành một mãnh hổ.”
Thương Dịch Chi cùng Từ Tĩnh hai người nhìn nhau cùng cười to. Tiếng cười sang sảng làm kinh động mấy con vật đi kiếm ăn đêm cách đó không xa, chúng giơ móng vuốt dò xét, đồng loạt nhìn về phía bên này. Cùng lúc đó, Trương Sinh đang cầm đuốc đứng cách đó một quãng, nghe thấy tiếng cười cũng có chút nghi hoặc, không biết tướng quân nhà mình cùng Từ tiên sinh đang bàn luận chuyện gì mà lại có thể cười thoải mái đến như vậy.
Sáng sớm ngày thứ hai, trước khi nhổ trại, Đường Thiệu Nghĩa sai người đưa cho A Mạch một cái giáp khố. A Mạch kinh hỉ vạn phần, lật lật nó trong tay, nhìn có vẻ không mới nhưng vẫn còn rất tốt, so vào người thì hơi dài nhưng cũng không thành vấn đề, chỉ cần xắn lên một chút là tốt rồi.
Từ Tĩnh đi rửa mặt từ bên ngoài trở về, liếc mắt nhìn giáp khố trong tay A Mạch, hỏi: “Ai cấp?”
A Mạch cao hứng nói: “Là Đường đại ca cho người đưa tới đây, thật tố quá, cuối cùng cũng không cần phải mặc cái quần chỉ có một ống nữa rồi.”
“Đường Thiệu Nghĩa?” Từ Tĩnh nhướn mày hỏi.
A Mạch gật gật đầu, đặt cái quần ở một bên, định đợi sau khi quân y đến thay thuốc cho vết thương của nàng rồi mới mặc cái quần này vào. Từ Tĩnh nhếch miệng cười cười, châm chọc nói: “Quan hệ của các ngươi tốt thật, đã thành mật thiết giao tình rồi cơ đấy.”
A Mạch ngẩn ra, khó hiểu nhìn Từ Tĩnh. Từ Tĩnh chớp chớp đôi mắt nhỏ giải thích: “Vật tư trong quân vốn rất thiếu thốn, quân trang của binh lính bình thường chỉ được cấp giáp khố, từ chức quan giáo úy trở lên thì ngoài giáp khố còn có thêm một chiếc đan khố, loại thứ nhất để giữ ấm, loại thứ hai để đẹp mắt. Lần này xuất chinh, binh lính trong quân không được mang dư thừa một vật gì cả, cho nên mỗi binh lính cũng chỉ có một bộ quân trang. Trong vòng mấy chục dặm xung quanh đây không có một thôn trang nào, hơn nữa kiểu dáng này lại là của quân đội, ngươi nói giáp khố này ở đâu ra, có đến tám chín phần mười là Đường Thiệu Nghĩa cởi giáp khố trên người ra cho ngươi, nếu ngươi không tin, có thể đi mà tìm hiểu, nhất định là hắn chỉ còn lại một cái đan khố.”
Hiện tại đã là đầu mùa đông, hành quân dã ngoại, lại ngồi trên lưng ngựa, chỉ mặc một cái đan khố, huống chi ngay cả áo choàng Đường Thiệu Nghĩa cũng đều để lại cho nàng, gió lạnh thổi đến, cảm giác nhất định sẽ là vô cùng khổ sở. A Mạch nhất thời trầm mặc, cân nhắc một chút liền gọi người đem áo choàng của Đường Thiệu Nghĩa về, nói rằng trong xe không cần phải mặc áo choàng, nên đưa cho anh ta dùng.
Quân y đến đổi thuốc cho A Mạch, khi cởi bỏ lớp vải băng bó, thì thấy miệng vết thương của nàng đã khép lại rất nhanh. Bị ngoại thương như vậy mà không phát sốt đã là rất may mắn rồi, không thể tưởng tượng được là chỉ trong thời gian có hai ngày ngắn ngủi thế mà đã kết vảy. Ánh mắt quân y nhìn A Mạch tràn đầy ngạc nhiên cùng quái dị, nếu cứ theo tốc độ này, chỉ vài ngày nữa thì A Mạch có thể hoạt động mà không gặp mấy khó khăn.
A Mạch vừa mừng vừa sợ, Từ Tĩnh lại rất bình thản, ánh mắt mải miết nhìn A Mạch mang theo chút thâm ý.
Tốc độ trở về của đại quân gần đây thỉnh thoảng có chậm lại, may là trước đó có thu được lương thảo của quân Bắc Mạc, cho nên mặc dù không được tiếp tế lương thực, nhưng chuyện ăn uống của đại quân cũng không thành vấn đề. A Mạch ở trong xe của Từ Tĩnh nghỉ ngơi vài ngày, cái chân bị thương đã bình phục được hơn phân nửa, ngồi xe đi trên đường cũng không đến nỗi buồn tẻ lắm, Từ Tĩnh tuy rằng khó hầu hạ, nhưng đối đãi với nàng cũng không tồi, những vấn đề quân sự mà nàng hỏi, ông ta đều nhất nhất giải đáp.
Nhưng về sau Từ Tĩnh có chút không kiên nhẫn, A Mạch cảm thấy ông ta như đang đợi một cái gì đó sắp xảy ra, tâm trạng có chút nôn nóng.
(Mấy hôm nay mẹ Cún hơi mệt nên tốc độ hơi chậm, mong các nàng thông cảm nha)
————————
Chú thích:
1- Thư hùng: thư là con cái, giống cái, phụ nữ; Hùng là con đực, giống đực, đàn ông.
2- Doanh: một doanh có 500 quân.
3- Du long: con rồng dạo chơi
4- Hiệp cốt nhu tình: hiệp cốt: cốt cách của hiệp sĩ; nhu tình: tình cảm mềm mại, dịu dàng (của người thiếu nữ)
5- “Song thố bàng địa tẩu, an năng biện thư hùng”: xuất phát từ điển tích sau:
Nhạc Phủ (quan đời Hán chuyên sưu tập thơ ca dân gian và âm nhạc, đời sau gọi những thể thơ và tác phẩm làm theo loại này cũng là nhạc phủ) thi tập: Mộc Lan thi: “Hùng thố cước phác sóc, thư thố nhãn mê ly/ Song thố bàng địa tẩu, an năng biện ngã thị hùng thư”. Nguyên ý chỉ nhận không ra trống mái. Hậu nhân dùng để hình dung sự tình rắc rối phức tạp, không thể phân biệt.
(nghe đồn) căn cứ vào thơ có thể phân biệt thỏ đực và cái.
Thỏ đực luôn thích đập chân phình phịch, thỏ cái luôn lim dim mắt, để cho bọn chúng chạy trên mặt đất với nhau, làm sao phân biệt được bạn nào trai bạn nào gái?
Phương pháp: Nhấc tai thỏ lên, nếu là bạn là trai, chân sẽ đập phịch phịch, nếu bạn là gái thì ngoan ngoãn hơn nhiều, nhưng mắt sẽ chớp liên tục.
Chương 26
LÊN CHỨC
Hai ngày sau, vết thương trên chân A Mạch đã tốt lên rất nhiều, nên không muốn tiếp tục ngồi trên xe với Từ Tĩnh nữa. Chiến mã của nàng đã sớm chết ở Dã Lang Câu, trong quân lại không thừa con chiến mã nào để cấp cho nàng, nếu xuống xe cũng chỉ có thể đi bộ cùng binh lính. Hai ngày nay, tâm tình Từ Tĩnh rõ ràng là không tốt, nghe A Mạch nói muốn xuống xe, liền đảo cặp mắt trắng dã, không âm không dương nói: “A Mạch, ngươi đáng lẽ phải hiểu rõ rồi mới đúng chứ, ngồi xe la tốt như thế lại không chịu ngồi, khi không lại đi luyện chân? Cẩn thận miệng vết thương của ngươi mà vỡ toác ra, lúc đó thì hay cho ngươi rồi.”
Đã lâu rồi ông ta không sử dụng động tác trợn mắt như thế này với nàng, nay lại làm như vậy khiến A Mạch không khỏi cảm thấy có chút thân thiết, giống như khi hai người cùng đi đến Thanh Châu, khi ấy, Từ Tĩnh luôn trợn mắt lên, rồi dùng ngữ điệu không âm không dương nói chuyện với nàng.
A Mạch cười cười, đột nhiên đưa tay vỗ vỗ vào vai Từ Tĩnh, sau đó không để ý đến sự kinh ngạc của ông ta liền nhảy xuống xe. Nàng quyết định đi trước khi Thương Dịch Chi cho người tới đưa tin, dù sao nàng cũng là thân vệ của anh ta, hiện tại thương thế đã bình phục tương đối tốt rồi, tất nhiên là phải đến chỗ chủ soái nói một tiếng. Giờ đã quá trưa, đại quân đã dừng lại, các binh lính ở các doanh đang nấu cơm, trên đường đi, A Mạch đi đến đâu cũng thấy có binh lính đứng dậy cung kính hướng về phía nàng hành lễ. A Mạch trong lòng kinh ngạc, song cũng không hỏi mọi người vì sao lại hành lễ với nàng, chỉ áp chế nghi vấn trong lòng, giữ sắc mặt bình tĩnh, nhất nhất gật đầu đáp lễ.
Trương Sinh đang cùng hai thân vệ nhóm lửa nấu cơm, thấy A Mạch đến thì rất cao hứng, đưa củi lửa cho thân vệ đứng bên cạnh, tiến lên chào hỏi, nhưng ngoài há miệng thở dốc ra thì không biết nên xưng hô với A Mạch như thế nào. Nếu vẫn gọi là A Mạch thì dĩ nhiên là không thích hợp, nhưng nếu không gọi là A Mạch thì biết gọi là gì bây giờ? A Mạch hiện tại chưa được thăng quan, không thể xưng hô là “Đại nhân” được. Hay gọi là Mạch đại ca? Cũng không được, người này rõ ràng ít tuổi hơn mình. Miệng Trương Sinh hết đóng lại mở, có chút mất tự nhiên cười nói: “A Mạch, sao ngươi lại đến đây, cái chân bị thương đã khỏi chưa?”
“Không còn đáng ngại nữa.” A Mạch nói, quay đầu nhìn lướt qua bốn phía.
Trương Sinh nhìn thần sắc A Mạch, biết nàng tìm Thương Dịch Chi, liền cười nói: “Ngươi tìm tướng quân? Ngài nói đi phía trước xem xét một chút, một lúc nữa sẽ trở lại, ngươi chờ một lát đi.”
A Mạch ngượng ngùng cười cười, rồi khẽ gật đầu, thấy Trương Sinh lại bước qua nấu cơm, liền đi theo ngồi xổm xuống bên cạnh bếp, tùy ý nói: “Trương đại ca, ta giúp ngươi nhóm lửa.” Không ngờ Trương Sinh lại vội vàng xua tay nói: “Cũng không dám xưng là đại ca, nếu ngươi không ngại, gọi ta là lão Trương là tốt rồi.”
A Mạch liên tưởng đến tình cảnh dọc theo đường đi, liền dừng động tác lại, ngẩng đầu vô tội nhìn Trương Sinh, hỏi: “Sao Trương đại ca lại nói chuyện như vậy? Trong lòng A Mạch thực không rõ.”
Trương Sinh nghe A Mạch nói như vậy, không tiếp lời nàng, chỉ liếc liếc mắt nhìn bốn phía, rồi nhỏ giọng hỏi: “A Mạch, ngày ấy tại Dã Lang Câu ngươi thực sự chém được nhiều thát tử như vậy à?”
“Bao nhiêu?” A Mạch khó hiểu.
“Trong quân đồn rằng ngày đó ngươi chém tổng cộng được hai mươi ba tên thát tử, đều truyền đi khắp nơi rồi, hiện tại ngươi chính là anh hùng hảo hán trong quân đội của chúng ta, cho dù là ai đi chăng nữa, khi nghe xong chuyện này đều phải giơ ngón tay cái lên bái phục. Ngay cả biệt danh cho ngươi cũng có, là “Ngọc diện Diêm La”, nghe nói là gặp người giết người, gặp phật giết phật.”
A Mạch nghe mà choáng váng, nhất thời không thể nói gì, chỉ ngơ ngác cầm khúc củi trong tay mà quên cả việc cần phải cho thêm vào bếp. Nàng chẳng qua chỉ là ở trên xe của Từ Tĩnh nghỉ ngơi vài ngày, không ngờ chính mình đã trở thành một nhân vật anh hùng trong quân đội Nam Hạ. Chém hai mươi ba tên giặc? Tuy rằng nàng cũng không nhớ rõ mình rốt cuộc giết bao nhiêu lính Bắc Mạc, nhưng tuyệt đối không thể đến con số hai mươi ba. Hai mươi ba ư? Vậy mà họ cũng dám dựng thành truyện, lại còn sửa sang đánh bóng lại nữa chứ. Bọn họ nghĩ người Bắc Mạt là cái gì? Rau cải trắng sao? Dễ chém như vậy sao? Còn nữa, sao nhất định phải gọi là “Ngọc diện Diêm La”? Diêm La thì Diêm La, sao còn thêm hai chữ “ngọc diện” vào làm chi nữa? Nghe thế nào cũng giống một nhân vật càn quấy trong chuyện xưa mà mẫu thân kể cho nàng lúc bé vậy?
“Này?” Trương Sinh thấy A Mạch ngồi im nửa ngày không nhúc nhích, nhịn không được liền gọi nàng một tiếng. A Mạch lúc này mới bừng tỉnh, hướng về phía Trương Sinh miễn cưỡng cười cười: “Trương đại ca, không dám gạt ngươi, ta có chém chết vài tên thát tử nhưng tính kiểu gì cũng không được hai mươi ba tên đâu.”
“Hử!!!” Trương Sinh thấy A Mạch thế nhưng lại đem tình hình thực tế nói cho anh ta biết, chứng tỏ thật sự coi anh ta là huynh đệ tốt, trong lòng thấy thật cảm động, lập tức thực lòng vì A Mạch mà tính toán, chạy nhanh tới ngăn A Mạch lại, hạ giọng nói:“A Mạch, ngươi cũng thật là, những lời như vậy đâu thể tùy tiện mà nói ra như vậy được, đây chính là cơ hội để cho ngươi nổi danh, chỉ có kẻ ngốc mới tự mình đi nói toạc ra như thế.”
Thần sắc A Mạch có chút do dự, xem ra là vẫn còn muốn cùng Trương Sinh tranh cãi vài câu, vừa mới vươn cổ lên định nói, lại thấy Trương Sinh nói tiếp: “Cho dù sau này có người hỏi, ngươi chỉ cần cười mà không nói gì là được, không thừa nhận cũng không phủ nhận, đến lúc đó cho dù thế nào cũng không can hệ gì đến ngươi.”
Thấy Trương Sinh một mực có ý tốt, A Mạch cũng chỉ có thể gật đầu đáp ứng. Thầm nghĩ, ta đối với con số hai mươi ba này cũng không có ý kiến gì, ta chỉ có ý kiến đối với cái danh hiệu “Ngọc diện la sát” mà thôi. Đúng lúc nàng đang cúi đầu cân nhắc, đột nhiên nghe thấy tiếng của Thương Dịch Chi ở sau lưng: “Trương Sinh, cơm chín chưa? Mau đem lên đi.”
Trương Sinh lên tiếng, vội vàng đem đồ ăn trong nồi ra. Thương Dịch Chi ăn uống rất đơn giản, cũng chỉ là bánh bao như những binh lính khác, duy nhất là có thêm một đĩa dưa muối nhỏ. A Mạch theo Trương Sinh đứng lên, quay người hướng về phía Thương Dịch Chi hành lễ nói: “Tướng quân.”
“A Mạch?” Thương Dịch Chi dùng thần sắc bình thản nhìn lướt qua nàng một cái, lấy nước do thị vệ mang lại rửa tay, rất tùy ý hỏi: “Vết thương thế nào rồi?”
“Đã tốt lắm rồi.” A Mạch khom lưng nói.
Thương Dịch Chi lại hỏi: “Nghe nói ngươi chém chết hai mươi ba tên thát tử?”
A Mạch nhất thời không biết nên trả lời như thế nào, đến lúc đang định nói thật với anh ta thì chợt nghe thấy Thương Dịch Chi nói tiếp: “Trong quân pháp của Đại Hạ có quy định: Phàm là binh sĩ, giết được năm kẻ địch, thăng lên chức ngũ trưởng; nếu giết được hai mươi kẻ địch thăng làm đội trưởng, ban thưởng bốn tước một cấp. Ngươi lại là thân binh của ta, theo lý mà nói thì nên lên tới chức đội trưởng ban thưởng một cấp.” Thương Dịch Chi dừng lại một chút, lại nói tiếp: “Song ngươi cũng không tuân theo quân lệnh trên chiến trường, theo luật nên chém, nhưng lần này quân ta chiến thắng, thưởng phạt cần phân minh, thấy ngươi lập công lớn nên có thể không giết, nhưng không thể không phạt, cho nên trước hết không ban thưởng thêm một cấp, chỉ phong làm Ngũ trưởng, thế nào? Có oán hận gì không?”
A Mạch sợ tới mức toàn thân toát mồ hôi lạnh, nghe Thương Dịch Chi hỏi, vội vàng cẩn thận trả lời: “A Mạch không hề có nửa câu oán hận. Đa tạ tướng quân không giết.”
Thương Dịch Chi thấy A Mạch khẩn trương, khóe miệng run run, nói: “Vậy là tốt rồi, Lục Cương hiện đang thiếu một vị trí Ngũ trưởng, ngươi đi tìm hắn để bổ sung vào chỗ thiếu đi. Làm việc cho tốt.”
A Mạch luôn mồm đồng ý, thấy Thương Dịch Chi bắt đầu cúi đầu ăn cơm, không để ý đên nàng nữa, vội cáo từ lui xuống, định rằng về nói với Từ Tĩnh một tiếng, sau đó đi gặp Lục Cương báo danh. Nàng đoán không ra tâm tư của Thương Dịch Chi, không biết anh ta vì sao phải làm ra cái chuyện nửa minh bạch, nửa mờ ám này với nàng. Việc đã tới nước này thì cũng chỉ có thể đi từng bước xem từng bước vậy, chỉ là vừa mới nghĩ đến việc trở về bộ binh doanh, A Mạch liền có chút co đầu rụt cổ, may là lần này không phải lại làm một tên tiểu binh ở tầng lớp dưới cùng nữa, Ngũ trưởng tuy là chức quan thấp nhất trong quân, nhưng tốt xấu gì cũng là một chữ “Quan”, vì thế nhất định không thể làm hỏng chuyện như lần trước được.
Còn chưa đi đến cỗ xe của Từ Tĩnh, A Mạch chợt nghe thấy âm thanh xôn xao phía trước, chỉ thấy một gã kỵ binh từ xa đang cưỡi ngựa phi đến, không để ý đang ở trong đại doanh, vẫn thẳng tay ra roi giục ngựa, phi thẳng đến doanh trướng của Thương Dịch Chi. A Mạch chau mày lại, cưỡi ngựa trong doanh trại là phạm vào quân pháp, không biết đã xảy ra chuyện gì khiến cho tên kia kỵ binh kia nóng vội như thế.
Từ Tĩnh đang ăn cơm ở bên ngoài xe cũng nhìn thấy tên kỵ binh kia phóng ngựa chạy qua, ông ta đứng dậy ngẩn người, thần sắc trên mặt thay đổi liên tục, đột nhiên đánh rơi chiếc bánh bao trong tay xuống đất, bước nhanh về hướng doanh trại của Thương Dịch Chi.
Đúng lúc A Mạch trở về, vừa vặn đụng phải Từ Tĩnh. “Tiên sinh!” A Mạch kêu lên.
Từ Tĩnh làm sao còn có tâm tư mà quan tâm đến nàng, tùy tiện xua tay một cái rồi quay đầu rời đi. A Mạch ngẩn người nhìn về hướng Từ Tĩnh đang bước vội tới, tựa hồ cảm thấy có chỗ nào đó không thích hợp. Tuy rằng vừa rồi Từ Tĩnh đi rất vội vàng, nhưng nàng lại không thấy trên mặt ông ta lộ ra một tia kinh hoàng nào, ngược lại là trong ánh mắt lóe tinh quang, như là chuyện mà mình đã đợi từ rất lâu rồi, cuối cùng cũng đã xảy ra.
A Mạch tự cười giễu cợt, nàng hiện tại chỉ là một gã quan có địa vị thấp nhất, đại sự trong quân làm sao đến lượt nàng tham gia nghị luận? Hay là cái gì cần làm thì cứ đi làm đi thôi. Nàng cười lắc lắc đầu, nói với thị vệ bên người Từ Tĩnh vài câu để nhắn lại cho Từ Tĩnh rồi đến bộ binh doanh báo danh.
Lục Cương thấy A Mạch lại quay trở lại, thần sắc trên mặt phức tạp đến cực điểm, anh ta thật sự không thể hiểu được, tiểu tử này vì sao lại đến ngụ tại bộ binh doanh của mình? Hắn không phải là cục cưng của tướng quân sao? Hắn không phải vừa mới lập công lớn sao? Hắn không phải được gọi là “Ngọc diện la sát” sao? Từ những điều đó mà nói, hắn đáng lẽ không nên đến chỗ của Lục Cương mới đúng, mà lại chỉ là một tên Ngũ trưởng nho nhỏ, thế này thì anh ta biết đối đãi như thế nào đây? Như với một Ngũ trưởng bình thường ư, nhưng hắn tuyệt đối không bình thường. Như với một thiếu gia ư? Nhưng hắn cũng không phải xuất thân từ nhà quyền quý.
A Mạch cười như không cười nhìn Lục Cương, thấy mọi cảm xúc mê hoặc cùng khó xử đều hiện lên trên mặt anh ta, liền cung kính cười nói: “Lục đại nhân, A Mạch đến gặp ngài để báo danh.”
Chương 27
HUYNH ĐỆ
Lục Cương có chút ngớ người gật đầu: “Ờ, qua đây.” Ngẩn ngơ một lúc rồi anh ta mới có phản ứng tiếp, khó xử nhìn A Mạch, dò hỏi: “Tâm tình tướng quân lại không tốt à?”
Lục Cương thêm một chữ “lại”, bởi lần trước vì tâm tình Thương Dịch Chi không tốt nên đã đem A Mạch nhét vào trong doanh của anh ta, vì thế khiến tiểu binh A Mạch gây họa làm mất của anh ta một gã đội trưởng thiện chiến, dũng mãnh. Nay Thương Dịch Chi lại thăng A Mạch làm ngũ trưởng rồi đưa đến nơi này, không biết người này sẽ lại gây họa gì đây? Trong lòng Lục Cương thấy thật là hồ đồ, người này đánh giặc dũng mãnh, làm việc cẩn thận, rốt cuộc vì sao mà đắc tội với tướng quân? Ngũ trưởng chỉ là một chức quan tép riu, không nói đến tất cả quân đội Đại Hạ, mà chỉ riêng quân Thanh Châu của bọn họ thôi, cũng đã có tới hàng ngàn ngũ trưởng rồi, chẳng lẽ chủ tướng Thương Dịch Chi lại thật sự nhàn rỗi đến thế sao?
Tổng hợp tất cả các yếu tố lại, kiểu gì Lục Cương cũng không tin là A Mạch thật sự muốn dừng chân trong doanh của anh ta, cuối cùng chỉ có thể quy kết là tên tiểu tử này lại chọc cho tướng quân mất hứng, cho nên lại bị lưu đày. Cũng không biết lần này sẽ lưu đày trong thời gian bao lâu. Lục Cương thật sự không muốn để A Mạch vào trong doanh của mình, vạn nhất nếu lại gây chuyện, thì giết cũng không được mà phạt cũng không xong, đến lúc ấy chả lẽ lại phải mời đến cha của hắn sao? Lục Cương nghĩ hay là để A Mạch ở bên cạnh mình. Nhưng A Mạch lại là vệ binh bên cạnh tướng quân, hiện tại nếu cũng để cho A Mạch làm thân binh của mình, vậy thì trong lòng tướng quân sẽ nghĩ như thế nào? Có nghĩ khác đi về anh ta không?
Lục Cương nhìn A Mạch, tâm tư xoay chuyển đến cả trăm ngàn lần, mà mọi cách đều khiến anh ta khó xử. Vốn anh ta cũng là một viên mãnh tướng trên chốn sa trường, khi đối mặt với hàng ngàn, hàng vạn thát tử cũng chưa hề sợ hãi, nhưng nhìn thấy người thiếu niên có vóc dáng gầy yếu, khuôn mặt tuấn mỹ trước mặt lại thực sự làm khó anh ta.
A Mạch thấy tâm tư Lục Cương lay động, lại thấy hai hàng lông mi thô dày trên mặt anh ta nhíu chặt lại, thoáng cân nhắc một chút rồi nói: “Chuyện của tướng quân, A Mạch không dám vọng ngôn. Lần này tướng quân để A Mạch đến quân doanh của đại nhân, có lẽ là muốn để cho A Mạch có cơ hội được tôi luyện một chút. Thỉnh đại nhân không cần khó xử, cái gì nên làm ngay bây giờ thì cứ lập tức làm đi thôi.”
Lục Cương chép miệng, suy nghĩ vòng vo một chút, rốt cục hạ quyết tâm, quay lại nói với A Mạch: “Ta giữ ngươi ở lại bên người không tiện, hay là như vậy đi, A Mạch, ngươi vẫn nên xuống ở trong doanh trại vậy, vẫn là đội bốn trước đây nhé, dù sao đội trưởng ở đó ngươi cũng biết rồi, vào ngũ thứ tám, ngũ trưởng này vốn chết trận tại Dã Lang Câu, ngươi sẽ thay thế anh ta.”
A Mạch nghe thấy hán tử tráng kiện kia đã chết ở Dã Lang Câu thì mặt có chút ửng đỏ, trong lòng không khỏi rầu rĩ, mím môi gật đầu nói: “Hết thảy đều nghe theo sự phân phó của đại nhân.”
Lục Cương thấy A Mạch cũng không phản đối, liền gọi người dẫn A Mạch đi xuống doanh trại. Đưa A Mạch đi là một thiếu niên chừng mười lăm tuổi, nghe nói nàng chính là Ngọc diện la sát, dọc đường đi vừa sùng bái, lại vừa sợ hãi trộm ngắm A Mạch. A Mạch bị cậu ta dùng ánh mắt như vậy nhìn mình thì có chút không được tự nhiên, khó khăn mới đến được chỗ của đội trưởng đội bốn, không khỏi nhẹ nhàng thở ra.
Đội trưởng này họ Lý, không biết nhiều chuyện như Lục Cương, nhưng con người lại có chút tâm kế, biết A Mạch đã từng cùng đội trưởng đội hai xảy ra tranh chấp, thậm chí còn giết người, kết quả cũng chỉ bị đánh hai mươi quân côn, có thể thấy được tiểu tử này nhất định có một chút lai lịch, cho nên bây giờ thấy A Mạch đột nhiên đến làm ngũ trưởng dưới quyền của mình, anh ta cũng không hỏi nhiều, chỉ dẫn A Mạch đi đến ngũ thứ tám.
Trong chiến dịch tại Dã Lang Câu, mặc dù tiêu diệt được hơn hai vạn tên lính Bắc Mạc, nhưng bọn họ cũng phải trả giá gần một vạn quân nhân, trong đó bộ binh tổn thất nghiêm trọng nhất, đại đa số bộ binh doanh đều đã trở nên xơ xác, doanh thứ bảy của Lục Cương được coi như là còn khá nguyên vẹn, mặc dù vậy, trong ngũ thứ tám của A Mạch cũng đã có ba người để lại tính mạng tại Dã Lang Câu, nên hiện tại chỉ còn lại có bảy người.
Đám người Vương Thất thấy đội trưởng đưa Ngũ trưởng mới là A Mạch đến, thì vừa mừng vừa sợ nhìn nàng. Đội trưởng chỉ đơn giản nói vài câu rồi rời đi, bọn Vương Thất lập tức vây quanh xung quanh nàng, Vương Thất kinh ngạc hét lên: “A Mạch, sao ngươi lại quay về bộ binh doanh? Làm cận vệ của tướng quân rất uy phong mà, nếu là ta, kể cả là đội trưởng cũng không thèm đổi a!”
Có người vụng trộm kéo tay áo Vương Thất, ý muốn bảo anh ta nói chuyện phải chú ý một chút, nói gì thì nói, A Mạch hiện tại cũng đã là Ngũ trưởng, chính là cấp trên của bọn họ rồi. Vương Thất hất tay người nọ ra, tức giận kêu lên: “Kéo cái gì mà kéo? A Mạch cũng không phải là người ngoài. Đây là huynh đệ của ta.”
A Mạch thấy thế chỉ cười cười, nói với người vừa kéo áo của Vương Thất: “Lưu đại ca, không sao, chúng ta đều là huynh đệ một nhà, về sau không cần phải khách khí như vậy.”
Người bị A Mạch gọi là Lưu đại ca có chút ngượng ngùng gật gật đầu. Vương Thất đắc ý cười, lại cùng A Mạch nói: “Chúng ta đều đã nghe về sự tích của ngươi, huynh đệ chúng ta đều cao hứng thay cho ngươi, đi ra ngoài đều nói ngươi trước kia ở trong ngũ đã cùng ngủ bên cạnh ta. A Mạch, ngươi đúng thực là một con trâu, không nhận ra ngươi, tiểu tử này lại có thể ngoan cường như vậy, chém hai mươi ba tên thát tử, ta nhớ lại, liền cảm thấy trước kia bị ngươi đánh cũng đáng.”
A Mạch nhớ rõ lời Trương Sinh dặn, chỉ cười mà không nói, lẳng lặng nghe Vương Thất và vài người nữa cùng cao hứng thảo luận vô cùng phấn chấn, vài người khi nói đến trận chiến tại Dã Lang Câu, hai vạn bộ binh bày trận ứng chiến với hai vạn kỵ binh Bắc Mạc nổi tiếng thiên hạ vô song, giờ nhớ lại mà chân vẫn còn run.
A Mạch nghe vậy thì chợt nhớ tới vị Ngũ trưởng tiền nhiệm, liền thấp giọng hỏi: “Ngũ trưởng, hắn…… như thế nào mà……”
Nhắc tới Ngũ trưởng, trên mặt mọi người đều hiện lên nét bi thương, trầm mặc. Trương Nhị Đản vừa rồi vốn không nói gì, giờ đôi mắt đã đỏ hồng, nghẹn giọng nói: “Ngũ trưởng…… là vì cứu ta nên mới……” Nói đến đây, cổ họng liền nghẹn lại không thể nói được nữa, chỉ cúi đầu lau lau hốc mắt.
“Nhị Đản! Con mẹ nó, khóc có ích gì!” Vương Thất tát cho Trương Nhị Đản một tát, thở phì phì mắng: “Ngươi biết Ngũ trưởng đã vì ai mà chết, vậy mà cũng không chịu phấn đấu một chút, con mẹ nó, về sau chém chết một vài tên thát tử, thay Ngũ trưởng báo thù, con mẹ nó, thế mà chỉ biết khóc. Ta thấy tốt nhất đừng gọi ngươi là Nhị Đản mà gọi là Nhuyễn Đản đi!” (Nhuyễn: ẻo lả)
Có người ở bên cạnh giải thích với A Mạch, nói Ngũ trưởng vốn không việc gì, về sau khi truy kích thát tử Bắc Mạc, bởi vì Nhị Đản là tân binh, nhìn thấy cảnh đầu rơi máu chảy trên chiến trường sợ tới mức choáng váng, trong lúc kích động vấp thì phải một thi thể, lúc ấy chân đã mềm nhũn đến mức không thể đứng dậy được. Ngũ trưởng không muốn bỏ lại quân lính của mình, liền chạy lại kéo hắn đi, vừa chém một thát tử trước mặt, lại trúng một đao của thát tử sau lưng…… Lúc ấy Trương Nhị Đản vẫn ngồi phịch ở trên mặt đất, nếu hắn ta có thể đứng lên, nếu hắn ta có thể bảo vệ phía sau lưng cho Ngũ trưởng, Ngũ trưởng đã không chết.
Người nọ liếc mắt Trương Nhị Đản, trong mắt tràn đầy khinh bỉ, nhẹ giọng nói: “Ngũ trưởng trước khi nhắm mắt đã nói, không cần làm khó Trương Nhị Đản, hắn ta vẫn còn ít tuổi, chưa thấy cảnh giết người bao giờ, chờ sau này sẽ khác.”
Trương Nhị Đản cũng không cãi lại, gắt gao cắn môi, quật cường ngẩng đầu lên, mặc cho Vương Thất đánh chửi, chỉ dùng tay áo hung hăng lau nước mắt.
A Mạch không thể ngờ được rằng người ngũ trưởng đã từng dùng roi ra oai phủ đầu bọn họ lại là một hán tử như vậy, trong lòng cũng không khỏi dâng lên một cỗ kính nể, nàng tiến lên vài bước, gạt Vương Thất ra, dùng hai tay nắm lấy bả vai Trương Nhị Đản, kiên định nói: “Mạng của ngươi là do Ngũ trưởng dùng mạng mình đổi lại, sống sót là tốt rồi, Ngũ trưởng trên trời có linh thiêng, sẽ giúp chúng ta báo thù cho ông ấy!” Nàng nhìn mọi người chung quanh một chút, lớn tiếng nói: “Chúng ta đều được sống sót, nên phải giết thật nhiều thát tử để báo thù cho những huynh đệ đã chết của chúng ta, báo thù cho dân chúng Đại Hạ của chúng ta!”
Mấy câu nói này khiên mọi người đều dâng trào cảm xúc, vẻ mặt kích động nhìn A Mạch.
A Mạch giơ cao cánh tay lên, gằn từng tiếng nói: “Ta, A Mạch, nguyện từ nay về sau cùng các vị huynh đệ đồng sinh cộng tử, vinh nhục có nhau, nếu các vị huynh đệ tin tưởng A Mạch ta, xin mời đưa tay ra đây. Từ hôm nay trở đi, chúng ta chính là huynh đệ khác họ. Ta, A Mạch, nguyện dùng tánh mạng của mình đổi lấy tính mạng của huynh đệ, trên sa trường đao kiếm không có mắt, mặc kệ ai là người đi trước một bước, thì người nhà của người đó chính là người nhà của các huynh đệ chúng ta, cha mẹ người đó chính là cha mẹ của huynh đệ chúng ta!”
Nói xong, nàng đưa ánh mắt kiên nghị nhìn mọi người, có người hoài nghi, nhưng phần lớn là dâng trào nhiệt huyết hào hùng của nam nhi! Vương Thất là người đầu tiên vươn tay nắm lấy cánh tay của A Mạch, sau đó liền có cánh tay thứ hai, cánh tay thứ ba……
Cuối cùng chỉ còn lại Trương Nhị Đản, tất cả mọi người nhìn về phía cậu ta, Vương Thất trợn trừng mắt, A Mạch liền nhìn về phía cậu ta cổ vũ, cậu ta cắn cắn môi dưới, kìm nén giọt lệ trong mắt, vươn tay lên, há mồm nói: “Ta, ta –” rồi lại nói không nổi nữa, nước mắt vẫn chảy xuống dưới.
A Mạch đẩy vào gáy cậu ta, cười nói: “Thật đúng là một tiểu hài tử!”
Mọi người cười ầm lên, khiến Trương Nhị Đản không còn xấu hổ nữa cũng cười, cười đến nỗi mặt cũng hồng lên, nhưng nước mắt lại cố tình không biết nghe lời, từng giọt lăn xuống.
A Mạch lại hỏi về gia cảnh của Ngũ trưởng, biết được Ngũ trưởng là người Thanh Châu, hơn ba mươi tuổi, vẫn còn chưa đón dâu, trong nhà chỉ có mẹ già, chỉ trông vào chút quân lương của Ngũ trưởng mà sống qua ngày. A Mạch cũng không khỏi cảm thấy đau xót, cùng mọi người thương lượng, sau này, mẫu thân của Ngũ trưởng sẽ do mọi người cùng phụng dưỡng, về sau tất cả sẽ đều là như thế, vạn nhất nếu ai bất hạnh mà hy sinh, thì người nhà của anh ta cũng đều do tất cả mọi người phụng dưỡng.
Mọi người bàn bạc đến nửa ngày, đã sớm qua thời gian nghỉ ngơi, nhưng vẫn không thấy trong quân đánh trống tập hợp, không khỏi cảm thấy có chút kỳ quái, A Mạch trong lòng lại mơ hồ đoán được chút gì đó, nhưng không biết là cái gì, liền cho mọi người nghỉ ngơi tại chỗ, chờ mệnh lệnh.
Quả nhiên không ngoài dự đoán của A Mạch, trong quân đúng là có đại sự xảy ra.
Đầu tháng mười một, trong khi Thương Dịch Chi đưa binh hành quân theo hướng bắc thì đồng thời, danh tướng Bắc Mạc Chu Chí Nhẫn đang vây thành Thái hưng cũng có hành động, ông ta bỏ Thái Hưng mà chuyển sang vây Dự Châu. Kỵ binh Bắc Mạc dùng tốc độ chớp nhoáng đã nhanh chóng khống chế được giao thông bốn phía của thành Dự Châu, người đưa tin ở Dự Châu đã phá vây nhiều lần rồi, không biết đã chết bao nhiêu người mới lọt qua được vòng vây của kỵ binh Bắc Mạc, rồi cấp tốc truyền tin cho Thương Dịch Chi.
Thành Dự Châu đã sớm nguy cấp, nếu Dự Châu mất, như vậy thì hơn ba vạn quân trong tay Thương Dịch Chi không còn nơi mà trở về. Hóa ra người Bắc Mạc đã sớm nghĩ đến thành Dự Châu, hiện tại Thương Dịch Chi lại dẫn quân ra bên ngoài, người Bắc Mạt thừa dịp mà vào. Giờ nghĩ lại, ý đồ chân chính của Trần Khởi rốt cuộc vẫn là một cái mồi nhử, Thương Dịch Chi có chút nói không nên lời.
Sắc mặt Thương Dịch Chi thay đổi, gắt gao nhìn chằm chằm tên lính truyền tin, quên cả việc cho người dẫn anh ta đi nghỉ ngơi.
———————————-
Cuối năm Thịnh Nguyên thứ hai, trong chiến dịch Dã Lang Câu, Mạch soái mới vung một đường kiếm lên, đã chém chết hai mươi ba tên giặc, được thăng làm Ngũ trưởng, nhập vào bộ binh thứ bảy, ngũ thứ tám của quân Thanh Châu. Trải qua trận chiến tại Dã Lang Câu, bảy tráng sĩ trong ngũ thứ tám đều vô cùng nể phục Mạch soái. Sau trận chiến, Mạch soái đã cùng bảy tráng sĩ anh dũng giết địch kết nghĩa huynh đệ, tình nghĩa thâm hậu vô cùng. Về sau, khi Thành tổ bình định được thiên hạ, bảy tráng sĩ chỉ còn lại hai người. Người đời kính trọng, tôn là “Thất lực sĩ”.
—-[ Truyện về thất lực sĩ thời Thịnh Nguyên ] ——–
Chương 28
TẦM NHÌN
Thương Dịch Chi chưa bao giờ từng cảm thấy cảm giác thất bại vây quanh mình gắt gao đến như vậy. Ở thời điểm Trần Khởi chiếm được thành Tĩnh Dương, giết chết ba mươi vạn biên quân, anh ta chỉ thấy phẫn nộ, thấy thương tiếc, nhưng chưa từng cảm nhận đến cảm giác thất bại như thế này. Bởi vì anh ta cảm thấy trận đánh thất bại kia không phải do mình cầm quân, nên anh ta cảm thấy mình có thể cùng Trần Khởi ganh đua cao thấp, anh ta nghĩ Trần Khởi chẳng qua cũng chỉ thắng một ván bài mà không có sự tham gia của chính mình mà thôi.
Nhưng hiện tại, anh ta ngàn dặm phục kích Trần Khởi, mặc dù làm cho Trần Khởi lui trở về Tĩnh Dương, nhưng ai có thể nói trận chiến này là anh ta thắng? Chu Chí Nhẫn bao vây, tấn công Dự Châu, cắt đứt đường lui của quân Nam Hạ. Bất luận là quay trở lại Thanh Châu, Thái Hưng hay Dự Châu, tất cả đều là tuyệt lộ.
Thương Dịch Chi vô lực phất tay, để thị vệ đưa người lính truyền tin lui xuống nghỉ ngơi. Nhưng khi hai tên thị vệ tiến đến dìu người lính đưa tin thì phát hiện ra anh ta đã tắt thở, trước ngực còn lưu lại nửa mũi tên, hóa ra khi phá vòng vây của quân Bắc Mạc, anh ta đã trúng một mũi tên, chỉ chặt đứt phần ngọn, rồi ráng hết sức phi ngựa suốt một ngày một đêm mới đuổi tới quân doanh của Thương Dịch Chi. Dọc đường đi, khí huyết sớm đã hao hết, hoàn toàn chỉ dựa vào ý chí để chống đỡ, vừa rồi khi nói xong câu cuối cùng, liền gục xuống chết.
Dù đã quen nhìn thấy sinh tử trước mắt, nhưng Thương Dịch Chi cũng không khỏi cảm thấy chấn động, yên lặng nhìn thị vệ nâng thi thể của người lính truyền tin đưa đi.
“Tướng quân?” Từ Tĩnh khẽ gọi.
Thương Dịch Chi lấy lại tinh thần, cười khổ với Từ Tĩnh một chút, liền hỏi: “Tiên sinh cũng đã biết nội dung quân báo rồi phải không?”
Từ Tĩnh trầm tĩnh nhìn Thương Dịch Chi, yên lặng gật đầu.
Thương Dịch Chi ngửa mặt thở dài một tiếng, nói: “Không dối gạt tiên sinh, ta từ nhỏ vẫn thuận buồm xuôi gió, chưa từng gặp phải thất bại lớn lao nào, kỳ thật vẫn là do vận khí của ta tốt, ta lại không biết trời cao đất rộng, tưởng mình có bản lĩnh, hiện tại nghĩ đến, thật sự là thấy rất buồn cười. Chu Chí Nhẫn có thể tấn công vây khốn Dự Châu thành công, điều đó chứng tỏ lương thảo của hắn đã không hề hấn gì, Hà Dũng đi tập kích lương thảo lại vẫn chưa có tin tức, có thể thấy được là lành ít dữ nhiều.”
Từ Tĩnh không để ý tới lời nói của Thương Dịch Chi, chỉ trầm giọng hỏi: “Tướng quân cảm thấy chán ngán thất vọng ?”
Thương Dịch Chi quay đầu nhìn Từ Tĩnh, đột nhiên nở nụ cười, tự giễu nói: “Bằng không phải làm sao bây giờ? Nếu chúng ta vẫn còn ở trong thành Dự Châu, dựa vào ị lương thảo trang bị ở đó thì cố thủ thêm một, hai năm cũng không thành vấn đề, nhưng mà hiện tại chúng ta đã ra ngoài, trong thành Dự Châu cũng chỉ còn lại có Thạch Đạt Xuân cùng mấy ngàn binh lính già yếu, chỉ sợ có sức để giương nổi cung tên cũng chưa đến vài người, ông ta biết lấy ai để giữ thành? Dự Châu một khi bị chiếm đóng, chúng ta phải đi đâu? Chỉ sợ Trần Khởi đã tính toán tốt hết thảy. Ha ha! Trần Khởi a Trần Khởi! Bội phục! Bội phục! Nếu không phải hắn ta, chúng ta ở Dã Lang Câu đã có thể tiêu diệt toàn bộ quân Bắc Mạc, bởi vì hắn ta, nên quân Bắc Mạc mới có thể lại lui trở lại Tĩnh Dương, bởi vì hắn ta, Chu Chí Nhẫn mới thừa dịp thành Dự Châu không có quân đội mà vây khốn Dự Châu.”
Ánh mắt Từ Tĩnh chuyển động, lóe tinh quang, hỏi: “Tướng quân sợ Trần Khởi sao?”
Thương Dịch Chi cười nhạo, không trả lời.
Từ Tĩnh lại lạnh giọng hỏi: “Như vậy Từ Tĩnh xin hỏi tướng quân, cho dù tướng quân lưu binh lại phòng thủ ở thành Dự Châu, thế thì mọi chuyện sẽ thế nào?”
Thương Dịch Chi bị ông ta hỏi thì sửng sốt, đưa ánh mắt thâm trầm nhìn ông ta.
Từ Tĩnh cười lạnh một tiếng, lại hỏi tiếp: “Từ Tĩnh xin hỏi tiếp, hiện tại ở Giang Bắc, quân đội Nam Hạ chúng ta có bao nhiêu binh mã?”
Thương Dịch Chi lông mày nhíu lại, nói: “Chúng ta ở đây có ba vạn, trong thành Thái Hưng có khoảng ba vạn quân coi giữ, những thành trấn khác quân coi giữ rất ít, xem như không tính.”
“Nói cách khác, ở Giang Bắc này, tính toán kiểu gì thì cũng không quá sáu vạn quân Nam Hạ, có phải không?” Từ Tĩnh hỏi.
Thương Dịch Chi gật đầu.
Từ Tĩnh khinh miệt cười cười, lại hỏi: “Vậy quân Bắc Mạc hiện đang xâm lược quốc gia của ta hiện còn lại khoảng bao nhiêu?”
Thương Dịch Chi trở nên trầm tư, giương mắt nói: “Hẳn là còn hơn hai mươi vạn.”
Từ Tĩnh nói:“Tướng quân xuất thân tướng môn, hẳn là so với Từ Tĩnh chắc chắn biết rõ tình thế của nước ta hiện tại như thế nào, cũng biết nước ta còn có thể phái bao nhiêu binh đi về phía Bắc cứu viện Uyển Giang, thu hồi đất đai đã mất?”
Thương Dịch Chi nhíu nhíu mày, trầm giọng nói: “Sợ là không thể, phần lớn quân đội Giang Nam của nước ta đang ở phía Tây Nam bình định Vân Tây, hai mươi vạn đại quân đang vướng chân trong đó không thể rút ra, căn bản không có binh lực để quay về phía Bắc.”
“Tướng quân cho rằng triều đình có khả năng sẽ rút binh lực ra để cứu Giang Bắc không?” Từ Tĩnh hỏi một cách sắc nhọn.
Thương Dịch Chi cười lạnh một tiếng, trong ánh mắt hiện lên một chút khinh thường: “Vân Tây giáp với biên giới Tây Nam của nước ta, lại là nơi vô cùng hiểm yếu, chỉ cần vài ngày là đánh tới kinh thành. Trong triều tất nhiên là sẽ bỏ qua Giang Bắc, dựa vào Uyển Giang hiểm trở để chống lại Bắc Mạc, còn thì vẫn tập trung binh lực Giang Nam để bình định biên giới Tây Nam.”
Từ Tĩnh nở nụ cười, nói: “Tướng quân nếu đã có thể suy nghĩ cẩn thận như vậy, còn định đi Dự Châu làm gì? Giang Bắc chỉ có sáu vạn tướng sĩ, mà Bắc Mạc lại có đến hai mươi vạn binh mã, huống chi bên trong nội cảnh(1) Bắc Mạc cũng không có chiến sự, người Bắc Mạt có thể chuyên tâm đối phó chúng ta, phía sau có lẽ vẫn còn có mười vạn, hai mươi vạn, thậm chí một đại quân lớn hơn thế rất nhiều đang chờ chúng ta. Chu Chí Nhẫn vì sao lại bỏ thành Thái Hưng mà vây Dự Châu? Ta nghĩ cũng không phải do Trần Khởi tính đến trong thành Dự Châu không có quân đội, mà chỉ sợ đây chính là kế hoạch từ trước của người Bắc Mạt, đánh nghi binh thành Thái Hưng nhằm dẫn quân Giang Bắc chạy về phía nam cứu viện, mở ra biên quan Tĩnh Dương của ta, sau đó đẩy mạnh từng bước một, tiêu diệt từng bộ phận. Chúng ta quay lại Dự Châu làm gì? Làm vật trong chum cho người Bắc Mạt thò tay vào bắt hay sao?”
Từ Tĩnh nói một phen, khiến đầu óc Thương Dịch Chi như thể được thông suốt, thoáng chốc bừng tỉnh, ánh mắt anh ta nhất thời sáng lên.
“Tướng quân,” Từ Tĩnh còn nói thêm, “Tĩnh thấy tướng quân không phải là vật trong ao, cho nên hôm nay có mấy lời vô lễ muốn nói với tướng quân.”
Thương Dịch Chi vội vàng nói: “Mời tiên sinh nói.”
Từ Tĩnh khẽ vuốt râu, nói: “Chúng ta nếu đã ra khỏi thành Dự Châu, tầm nhìn nên mở rộng ra một chút mới đúng, tướng quân càng không thể đem ánh mắt đặt trên một tòa thành trì nhất định, người Bắc Mạt muốn của chúng ta không phải một hoặc hai tòa thành trì, mà là toàn bộ Giang Bắc, rồi từ đó tiến thêm một bước là lấy toàn bộ vùng Giang Nam, mà tướng quân cũng vậy.”
Thương Dịch Chi ánh mắt lóe lên, nhìn Từ Tĩnh từ trên xuống dưới, đột nhiên khom người hướng Từ Tĩnh vái chào một cái, cung kính nói: “Dịch Chi vô cùng tạ ơn tiên sinh đã chỉ giáo.”
Từ Tĩnh chờ Thương Dịch Chi cúi lưng xuống mới vội tiến lên một bước, đưa tay nâng anh ta dậy: “Tướng quân sao có thể dùng đại lễ như thế này, Từ Tĩnh không dám nhận.”
Thương Dịch Chi cười cười, nói: “Tiên sinh trong lòng tất đã có đối sách, tướng quân ta nên đi con đường nào, còn phải thỉnh tiên sinh dạy ta.”
Từ Tĩnh đưa tay vuốt râu, quay người nhìn về phía xa xa. Đây là thói quen của ông ta những lúc gặp phải tình thế khẩn trương, hoặc là khi đắc ý cũng sẽ làm như vậy.
Đương thiên, quân đội cũng không thể đi tiếp, cấp trên hạ lệnh xuống nói là đã nhiều ngày hành quân vất vả, cho phép các doanh cắm trại tại chỗ, hôm nay không cần đi tiếp. Trong doanh, mọi người nhận được tin này tất nhiên là cao hứng, vui mừng đi dựng doanh trướng. A Mạch trong lòng nghi hoặc, song không may là trong bộ binh doanh căn bản không biết được tin tức gì, đành phải đi tìm Đường Thiệu Nghĩa thám thính, nhưng vừa nghe Đường Thiệu Nghĩa nói xong, thì A Mạch đã sợ đến ngây người.
“Thật sao?” A Mạch thất thanh hỏi.
Đường Thiệu Nghĩa gật gật đầu, rầu rĩ nói: “Người truyền tin cũng đã chết rồi, trên thân thể nhiều chỗ còn bị trọng thương, dọc đường đi đều nhờ vào ý chí kiên cường mới có thể chống đỡ được đến lúc gặp mặt tướng quân.”
A Mạch cúi đầu trầm mặc không nói gì, cố gắng tiêu hóa tin tức kinh người này, thành Dự Châu bị vây, ba vạn người ở đây biết đi đâu?
Đường Thiệu Nghĩa biết A Mạch không phải người hay đưa chuyện, nhưng vẫn nhịn không được dặn dò: “Việc này quá mức trọng đại, khi ngươi trở về trăm ngàn lần không được để lộ tin tức, việc này một khi truyền ra ngoài, chỉ sợ sẽ phát sinh chuyện không hay.”
A Mạch gật đầu, nàng hiểu được tin tức này hiện nay đối với liên quân Thanh, Dự mà nói chấn động đến thế nào. Quân Thanh Châu có lẽ còn khả dĩ một chút, nhưng còn quân Dự Châu, đại bộ phận thân thuộc của tướng sĩ đều ở lại trong thành, nếu biết được Dự Châu đã sớm lâm nguy, chỉ sợ tình thế lúc ấy thì ngay cả Thương Dịch Chi cũng không khống chế được.
Đường Thiệu Nghĩa cũng nhíu mày, thấp giọng thở dài: “Trần Khởi đúng là người thần rồi, hết thảy đều đã được hắn ta tính toán rõ ràng.”
Trần Khởi, hai chữ này rơi vào trong tai A Mạch, khiến thân thể nàng cứng đờ, nàng ngẩng đầu nhìn về dãy Ô Lan xa xa, chậm rãi nói: “Cái này chỉ sợ là vừa vặn mà trùng hợp, không phải do Trần Khởi tính toán, nếu đúng là ý định của anh ta, chỉ sợ anh ta lại càng muốn vây chúng ta ở Dự Châu.”
“Tại sao?” Đường Thiệu Nghĩa khó hiểu nhìn A Mạch. Khóe miệng A Mạch khẽ nhếch một nụ cười khó coi, cúi đầu dùng sức dẵm dẵm cỏ dại dưới chân, nhỏ giọng nói: “Không có gì, ta chỉ là cảm thấy chúng ta lần này không ở lại Dự Châu không hẳn là việc xấu. Chỉ cần tướng quân đem tin tức này xử lý tốt, sẽ không sẽ có vấn đề gì lớn, vấn đề còn lại chính là chúng ta làm sao để có thể vượt qua mùa đông này.”
Đúng vậy, nếu không vào Dự Châu, mỗi tướng sĩ bọn họ chỉ có một manh áo kép, làm sao có thể vượt qua được sự giá rét của mùa đông ở vùng Giang Bắc này, còn cả lương thảo nữa, mặc dù có thu được một chút, nhưng sẽ chống đỡ được bao lâu?
Đường Thiệu Nghĩa chau mày, vẫn có chút không hiểu. A Mạch cười, nói: “Quên đi, không uổng phí tâm tư nữa, dù sao ta cũng chỉ là một Ngũ trưởng nhỏ nhoi. Đại ca, ta về trước, đa tạ chiếc quần của ngươi.”
Đường Thiệu Nghĩa cười cười, nhìn theo A Mạch rời đi. Sau một lúc lâu, anh ta mới đưa ánh mắt chuyển về hướng A Mạch vừa nhìn khi nãy, nơi đó có những ngọn núi trùng điệp nối tiếp nhau, là một đoạn của dãy núi Ô Lan, vượt qua đó, sẽ nhìn thấy Tây Hồ và thảo nguyên mênh mông.
Thương Dịch Chi đầu tiên là triệu tập các tướng lãnh trọng yếu trong quân, sau đó lại đến các giáo úy tại các doanh. Các giáo úy sau khi trở về lại triệu tập đội trưởng trong doanh của mình, hội nghị cứ thế phân theo cấp bậc mà triển khai xuống dưới. Tin tức Bắc Mạc vây hãm, tấn công thành Dự Châu rốt cục cũng đến tai binh lính.
———————
Chú thích:
1- Nội cảnh: nội: bên trong; cảnh: biên giới. Nội cảnh: khu vực bên trong của một quốc gia.
TUYÊN THỆ TRƯỚC KHI XUẤT QUÂN
Chuyện mà A Mạch lo lắng rốt cục đã xảy ra. Nàng thuộc biên chế quân Thanh Châu, đại bộ phận binh lính trong doanh đều đến từ Thanh Châu, người Dự Châu rất ít, chỉ có một vài tân binh mới nhập ngũ giống như Trương Nhị Đản là người Dự Châu mà thôi. Trong trận chiến tại Dã Lang Câu, số lượng tân binh bị thương vong lớn hơn binh lính cũ rất nhiều, cho nên hiện tại, số tân binh còn lại cũng không được bao nhiêu. Ít người thì tất nhiên không thể gây sóng gió, nên trong doanh còn có thể trấn định được. Nhưng bên quân Dự Châu thì lại khác, có đến tám chín phần mười đều là người Dự Châu, kể cả là gia đình không phải ở trong thành Dự Châu, thì cũng là ở những khu vực quanh đấy, vừa nghe nói Bắc Mạc bao vây tấn công Dự Châu, lập tức liền xôn xao hết cả lên.
Bên doanh trại của quân Thanh Châu thì nghiêm khắc tuân theo mệnh lệnh của thượng cấp, cả đơn vị ngồi tại chỗ chờ mệnh lệnh, nhưng xa xa trong doanh trại của quân Dự Châu thì lại không yên tĩnh như vậy. A Mạch ngồi ở trong doanh trại, nghe động tĩnh bên doanh trại của quân Dự Châu mơ hồ truyền tới, trong lòng không khỏi có chút lo lắng. Lần này trong bốn vạn quân xuất chinh, quân Thanh Châu chỉ có một vạn năm ngàn người, còn quân Dự Châu có những hai vạn năm ngàn người. Tại Dã Lang Câu, khi bày trận chặn đánh kỵ binh Bắc Mạc, Thương Dịch Chi vì muốn tránh sự nghi kị, hiềm khích nên đã để quân Thanh Châu ở phía trước trận tuyến. Bởi vậy, quân Thanh Châu mặc dù ít hơn so với quân Dự Châu, nhưng lượng thương vong lại không hề nhỏ hơn. Từ đó mà tính thì hiện giờ, trong ba vạn quân còn lại, quân Dự Châu đúng là chiếm nhiều hơn hai phần ba, vạn nhất bất ngờ có làm phản, thì Thương Dịch Chi cũng thúc thủ vô sách.
A Mạch làm Ngũ trưởng, ngồi ở bên ngoài đội ngũ. Nàng cúi đầu ngồi như lão tăng nhập định, trong lòng âm thầm suy nghĩ về trận chiến này. Bên cạnh, Vương Thất lại đột nhiên lấy tay lén lút chọc chọc vào người nàng. A Mạch nghi hoặc nhìn về phía anh ta, lại thấy anh ta hướng về phía mình bĩu môi, sau đó đưa ánh mắt nhìn miết sang đội bên cạnh. A Mạch theo tầm mắt của anh ta nhìn qua, đúng lúc chạm vào mấy ánh mắt hung ác đang đưa tới. Mấy người kia cũng đều ngồi ở bên ngoài đội ngũ, hẳn cũng đều là Ngũ trưởng, thấy A Mạch nhìn bọn họ, thần sắc trên mặt càng hung ác hơn, xem ánh mắt kia dường như muốn đem A Mạch mà lột sống.
A Mạch nhíu mày, thu ánh mắt lại, một lần nữa tiến vào trạng thái lão tăng nhập định. Vương Thất thấy nàng thờ ơ, lại dùng cánh tay huých nàng. A Mạch quát khẽ: “Ngồi im! Đừng gây chuyện!” Thanh âm mặc dù không lớn, song lại để lộ sự uy nghiêm chưa từng có, Vương Thất bị nàng chấn áp thì vô cùng sửng sốt, liền ngượng ngùng thu tay về. Cảm thấy A Mạch hiện tại cùng A Mạch trước đây, người đã từng đánh nhau với anh ta đã hoàn toàn khác nhau. Tuy rằng bình thường khi nói chuyện ngữ điệu không thay đổi, đối nhân xử thế vẫn rất ôn hòa, chỉ khi nào lạnh mặt lại thì cũng không phải là vẻ mặt của một thiếu niên ngoan cố, quật cường trước kia nữa mà là một loại khí thế làm cho anh ta không tự chủ được mà cảm thấy sợ hãi.
A Mạch cúi đầu thu ánh mắt lại, chỉ liếc mắt một cái, nàng cũng biết những người đó vì sao lại dùng ánh mắt này nhìn nàng, bọn họ là thủ hạ của tên đội trưởng đã bị nàng giết chết, cũng là mấy tên Ngũ trưởng của đội hai, mấy tên Ngũ trưởng còn sống.
Nhưng là hiện tại nàng không có tâm tư để ý tới bọn họ, mà cũng hiểu được là không cần phải để ý tới bọn họ. Bọn họ tuyệt đối không dám quang minh chính đại gây phiền toái cho nàng, cái cần phải đề phòng là một mũi dao nhỏ đâm lén sau lưng trên chiến trường mà thôi. Mà nàng, hiện tại cái gì cũng không còn sợ nữa.
Trời rất nhanh chuyển về lúc chạng vạng, trong quân doanh bên kia rốt cục cũng có động tĩnh, đúng là đã có mệnh lệnh ban xuống cho bộ đội tập hợp. A Mạch biết làm quan cấp thấp trong quân đội chỉ có thể phục tùng mệnh lệnh ban ra, cho nên không chút do dự mang ngũ của mình nhập vào hàng ngũ bộ đội tiến lên. Doanh trướng nơi Thương Dịch Chi đóng quân đã sớm dỡ xuống, thay vào đó là một đài cao giản dị được dựng lên. Bốn phía đã tụ tập hơn một vạn quân Dự Châu, tuy rằng xếp theo hàng ngũ nhưng lại có chút ồn ào cùng nỗi hoang mang, khủng hoảng khó nén. Nhìn tình thế này, đến quân Thanh Châu phía sau cũng có chút rối loạn. Lục Cương tiến đến vung roi chửi bậy vài câu, lúc này đội ngũ mới chỉnh tề xếp hàng ở sườn đông của đài cao.
Đội ngũ phía sau lục tục tiến đến, vây quanh đài chật như nêm cối. A Mạch thờ ơ lạnh nhạt, nhìn bộ binh cùng đội cung thủ xếp thành hàng, sau đó mới thấy Đường Thiệu Nghĩa mang theo kỵ binh từ phía sau tiến lại, bất động thanh sắc đưa bọn họ vào vị trí trung tâm.
A Mạch đang nghi hoặc không hiểu Thương Dịch Chi định làm cái gì, liền thấy dòng người trước mặt lay động như sóng triều, bọn thị vệ trấn giữ ở bốn phía trên đài tránh sang một bên tạo thành một lối đi, Thương Dịch Chi mặc trọng giáp bước từng bước kiên định đi lên, sắc đỏ tươi của áo bào tung bay theo từng bước chân của anh ta, phần phật trong gió, Thương Dịch Chi hiện ra với khí thế phi phàm.
A Mạch đi theo bên cạnh Thương Dịch Chi đã nhiều ngày, rất ít khi thấy anh ta ăn mặc quá trịnh trọng như vậy. Thương Dịch Chi vốn là người tinh tế, mặc trọng giáp như vậy mặc dù rất có khí thế, nhưng cũng rất nặng, nên anh ta vốn không thích. Hôm nay mặc đến, lại tỏa ra một sự uy vũ khiến cho những người vốn xem nhẹ diện mạo tuấn mỹ của anh ta, giờ chỉ cảm thấy người trước mặt như thiên thần giáng xuống, làm cho toàn bộ đội ngũ đều trở nên im lặng.
Giọng Thương Dịch Chi vang lên trầm tĩnh. Ban đầu, A Mạch chỉ lẳng lặng nghe, đơn giản là một vài lời nói cổ vũ nhân tâm, nhưng càng nghe, thần sắc của nàng càng trở nên ngưng trọng. Nàng thế nào cũng tưởng tượng được là, Thương Dịch Chi chẳng những không bình ổn lòng quân đang hoang mang, mà ngược lại còn châm thêm lửa, làm cho quân Dự Châu vốn dĩ đã mụ mẫm, hiện giờ chỉ sợ hận không rút đao quay trở về Dự Châu giết giặc ngay lập tức.
Tình thế lúc này và phán đoán của A Mạch không giống nhau chút nào, nàng vốn cho rằng Thương Dịch Chi sẽ lựa chọn tránh đại quân của Chu Chí Nhẫn rồi tính kế bắt đầu lại, ai ngờ anh ta lại cổ động mọi người trở lại giải cứu Dự Châu đang gặp nạn, đối đầu trực diện với Chu Chí Nhẫn.
Cảnh tượng này, thật giống như một đại hội tuyên thệ trước khi xuất quân vậy!
A Mạch cảm thấy hồ đồ, Thương Dịch Chi rốt cuộc là muốn làm gì? Hoặc là nói, Từ Tĩnh rốt cuộc muốn làm gì? Ba vạn quân mỏi mệt đối đầu với mười vạn đại quân Bắc Mạc ôm cây đợi thỏ, thắng bại cơ hồ đã rõ, chẳng lẽ đầu óc Thương Dịch Chi và Từ Tĩnh đều là đá cả sao?
Đêm ngày mười hai tháng mười một, Thương Dịch Chi dẫn liên quân Thanh Dự nhổ trại, hành quân suốt đêm chạy tới thành Dự Châu. Lần này, quân Dự Châu đi đầu, cho nên bọn A Mạch đều ở phía sau. Vết thương trên đùi nàng cũng chưa khỏi hoàn toàn, tốc độ hành quân gấp rút khiến miệng vết thương đã lên vảy có chút đau. Song thể lực thật ra lại rất dư thừa, so với nam tử bình thường không khác là mấy. Điểm này chính A Mạch cũng thấy kỳ quái. Những năm gần đây, nàng lang bạc kỳ hồ khắp nơi, thật có thể nói là là ăn không ngon ngủ không yên, không ngờ thân thể của nàng năm sau lại càng cường tráng hơn so với năm trước.
Vài lần, Đường Thiệu Nghĩa cưỡi ngựa ngang qua, hơi có chút lo lắng nhìn về phía nàng, A Mạch chỉ nhẹ nhàng lắc đầu, ý bảo mình không việc gì. Hành quân như vậy, trên đường đi sẽ không dựng bếp nấu cơm, đến bữa cũng chỉ cho quân lính dừng lại tại chỗ nghỉ ngơi, ăn lương khô mang theo người, nếu ngộ nhỡ trong thời gian dài không gặp nguồn nước, nước cũng sẽ rất thiếu.
Trong ngũ của A Mạch có mấy tên lính sớm đã uống hết sạch nước, lương khô lại rất cứng, quả thực là rất khó nuốt trôi xuống cổ, nhưng mặc dù như vậy cũng vẫn phải ăn, không ăn sẽ không có sức để đi, sẽ bị quan quân quất roi. A Mạch uống nước rất ít, túi nước vẫn còn lại hơn phân nửa, thấy bọn Vương Thất nuốt thật khó khăn, liền ném túi nước cho bọn họ. Mấy người đó nhận được túi nước liền hướng về phía A Mạch cười hắc hắc, sau đó vội vàng mỗi người một ngụm để nuốt trôi lương khô trong miệng. Ai cũng uống vài ngụm, cho nên mỗi miếng nước dù uống rất ít, nhưng khi đi hết một vòng trở về trong tay A Mạch, túi nước đã chỉ còn một nửa. A Mạch trong miệng ăn lương khô cũng nuốt không trôi, vốn định uống miếng nước, nhưng vừa nhìn thấy miệng túi nước dính cặn lương khô liền không thể uống nổi. Nàng cười cười, đem túi nước lại ném lần nữa cho bọn Vương Thất, nói: “Các ngươi uống đi, ta không khát.”
Bọn Vương Thất nhìn môi A Mạch có chút khô khốc, biết nàng đang nói dối, nhưng lại không biết A Mạch không uống là vì ngại bẩn, còn tưởng rằng A Mạch quên mình vì người khác, trong lòng đều thấy thật cảm động.
Không có nước, A Mạch không dám cắn lương khô thành miếng to, đành phải ăn từng chút một, dùng nước bọt làm ướt rồi nuốt xuống, song vì cơ thể thiếu nước nên nước bọt cũng thiếu, thế nên đến cuối cùng cũng chỉ có thể dướn cổ mà cố nuốt. Đúng lúc đó, chợt nghe đội trưởng gọi nàng, nói là Lục đại nhân muốn tìm nàng. A Mạch đem lương khô gói lại cất đi, đứng dậy hướng về phía Lục Cương mà chạy tới.
Đến nơi, Lục Cương cũng đang ăn lương khô với nước lạnh, thấy A Mạch đến, đầu cũng không ngẩng lên, mà chỉ chỉ tay về phía rừng cây xa xa. A Mạch khó hiểu nhìn Lục Cương, Lục Cương cố sức dùng nước nuốt trôi miếng lương khô xuống, lúc này mới thông cổ họng nói: “Đường giáo úy ở bên kia chờ ngươi, nói là có việc, ngươi đi nhanh về nhanh, một lúc sau đại quân sẽ đi tiếp.”
A Mạch vâng một tiếng, rồi hướng về phía Lục Cương chỉ mà chạy tới. Lục Cương lúc này mới ngẩng đầu tức giận liếc mắt nhìn theo bóng dáng A Mạch, thấp giọng nói thầm: “Cha nó chứ, đánh rắm còn muốn người ta mở miệng, vừa thấy đã biết là không tốt rồi. Lão tử thế nào cũng có lúc lột da ngươi. Ẻo lả như thế thì làm thế nào mà giết được nhiều thát tử chứ…”
Thân binh bên cạnh nghe không rõ anh ta nói cái gì, còn tưởng rằng anh ta có việc gì phân phó, vội vàng hỏi một câu: “Đại nhân, ngài muốn cái gì?”
Lục Cương tức giận, trừng mắt nhìn anh ta một cái, thở phì phì mắng: “Muốn cái rắm con mẹ ngươi ấy! Đây mà là lương khô à? Lão tử cắn gãy cả răng mà cũng không cắn được!”
Tiểu thân binh thực ủy khuất, lại không dám biện bạch cãi lại, chỉ cúi đầu oán thầm, thầm nghĩ ngài tưởng của ta thì mềm lắm sao, ngài cứ nếm thử mà xem, xem ngài có lưu lại hai dấu răng không!
A Mạch chạy đến rừng cây, thấy Đường Thiệu Nghĩa dắt ngựa đợi ở đó, không biết anh ta tìm mình có chuyện gì, liền thở hồng hộc hỏi: “Đại ca, tìm ta có chuyện gì?”
Đường Thiệu Nghĩa lập tức cởi túi nước xuống, đưa cho A Mạch nói: “Uống nước đi, phía trước còn hơn ba mươi dặm nữa mới có nguồn nước, lát nữa hành quân sẽ bị đổ mồ hôi, ngươi chịu không nổi đâu.”
A Mạch tiếp nhận túi nước có chút chần chờ, hỏi: “Đại ca thì sao?”
Đường Thiệu Nghĩa cười cười, nói: “Chúng ta cưỡi ngựa rất tốt, túi nước cũng lớn, đi cũng nhanh, không khát.”
A Mạch nghe vậy cũng không khách khí, mở túi da uống cho sảng khoái một chút, nàng thật sự là khát khô cả họng rồi. Uống xong, thấy Đường Thiệu Nghĩa vẫn nhìn mình, A Mạch ngượng ngùng cười cười, đem túi nước trả lại cho Đường Thiệu Nghĩa, chần chờ một chút rồi hỏi: “Đại ca, chúng ta thật sự đi cứu Dự Châu sao?”
CHƯƠNG 30
ĐẠI NGHĨA
Đường Thiệu Nghĩa không trả lời, đem túi nước buộc lên bên yên ngựa, rồi xoay người lại lẳng lặng nhìn A Mạch lúc, hỏi: “Ngươi muốn đi cứu Dự Châu sao?”
A Mạch cúi đầu cân nhắc một lát, rồi nhìn thẳng Đường Thiệu Nghĩa, ánh mắt thản nhiên đáp: “Về cả công lẫn tư, ta đều không muốn đi Dự Châu.”
Thần sắc Đường Thiệu Nghĩa có chút biến đổi, trong mắt không dấu được sự thất vọng, yên lặng giữ nguyên tầm mắt, lại nghe A Mạch thấp giọng nói: “Nhưng Từ cô nương cùng tiểu Lưu Minh còn ở lại trong thành phủ.”
Sau khi Từ Tú Nhi và Đường Thiệu Nghĩa cùng nhau chạy trốn tới Dự Châu, liền được an bài ở lại bên trong thành thủ để chiếu cố tiểu Lưu Minh. Khi A Mạch đến Dự Châu, khi đi theo Đường Thiệu Nghĩa có gặp qua nàng ấy một lần, ba người gặp lại nhau đều thổn thức không thôi. Về sau, A Mạch tuy rằng theo Thương Dịch Chi lưu tại thành phủ, nhưng thật ra không thế nào nhìn thấy Từ Tú Nhi. Nhất là từ khi Từ Tú Nhi theo phu nhân của Thạch Đạt Xuân vào bên trong viện, trong ngoài có khác biệt, A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa không thể tùy tiện đi vào. Hơn nữa, A Mạch vốn không nguyện ý muốn gặp Từ Tú Nhi, nguyên nhân là do Từ Tú Nhi mỗi lần thấy nàng đều thập phần mất tự nhiên, như là thầm yêu mà vụng trộm ngắm nàng, mỗi khi nàng đưa tầm mắt nhìn qua, Từ Tú Nhi dường như lại chột dạ vội tránh đi.
A Mạch cười khổ một tiếng, nói tiếp: “Nàng gọi ta một tiếng nhị ca, chúng ta ba người cùng nhau trốn khỏi thành Hán Bảo, đâu thể nào bỏ mặc, cho nên vẫn là nên đi, cho dù cứu không được nàng ấy, ít nhất cũng coi như đã tận lực, hết thảy mặc cho số phận vậy!”
Xa xa, quân đội đã nghỉ ngơi xong, quan quân bắt đầu hò hét lính tráng xếp thành hàng. A Mạch liếc mắt nhìn đội ngũ, nói: “Đại ca, ta phải về trước.”
Đường Thiệu Nghĩa lại trầm mặc không nói gì khiến A Mạch không hiểu lắm, thấy ở đằng xa, đội ngũ của mình đã xếp thành hàng xong xuôi, liền có chút sốt ruột, lại nói một tiếng: “Đại ca? Nếu không có gì phân phó, ta đi trước nhé.”
A Mạch nói xong liền chạy đi, Đường Thiệu Nghĩa lúc này mới bừng tỉnh, gọi A Mạch lại, lúc này mới nói:“A Mạch, ta còn có nhiệm vụ khác, sau này sẽ không tiện gặp, ngươi chiếu cố bản thân cho tốt nhé.”
A Mạch mặc dù cảm thấy nghi hoặc, không biết nhiệm vụ mà Đường Thiệu Nghĩa nói là nhiệm vụ gì, nhưng cũng không có thời gian để hỏi lại, chỉ đành gật gật đầu, liếc mắt thấy đội ngũ đằng xa đã bắt đầu chậm rãi chuyển động.
Đường Thiệu Nghĩa giống như vẫn còn có chuyện chưa nói xong, lại dặn tiếp: “Nếu muốn bọn chúng nể phục, chỉ thân thiện thôi chưa đủ, ân uy đều phải xem trọng, phải có nguyên tắc của mình thì mới quản tốt được đám lính dày dạn đó được.”
A Mạch trong lòng nghi hoặc càng sâu, Đường Thiệu Nghĩa khi làm việc đều lưu loát, rõ ràng, rất ít khi thấy anh ta lại giống bà mẹ già như vậy.
Thần sắc Đường Thiệu Nghĩa có chút phức tạp, nhìn A Mạch, vẫn còn muốn nói tiếp, nhưng thấy A Mạch bồn chồn đứng không yên, rốt cục mỉm cười lắc lắc đầu, phất tay nói: “Được rồi, mau về đi!”
A Mạch cuối cùng cũng đợi được anh ta nói những này, không kịp trả lời, vội vàng hướng về phía đội ngũ chạy tới. Về đến nơi đã bị chậm một chút, Lục Cương lập tức hung hăng trừng mắt nhìn nàng một cái, không thèm nói câu nào. A Mạch nhân cơ hội chạy về ngũ của mình, Vương Thất trả lại binh khí cho nàng, thấy nàng thở hồng hộc chạy về, có chút lòng tốt hỏi: “Ngũ trưởng, chuyện gì vậy?”
A Mạch cầm trường thương trong tay anh ta, thản nhiên nhìn anh ta một cái, không nói gì.
Ngày 16 tháng 11, Thương Dịch Chi suất lĩnh liên quân Thanh Dự tới phía bắc thành Dự Châu, không hẹn mà gặp sự ngăn trở của kỵ binh Bắc Mạc. Kỵ binh Bắc Mạc một kích phóng tới, quân Nam Hạ hướng về phía thành mà phá vây, trước mắt đã thấy sắp phá được điểm xung yếu trong phòng tuyến của đại quân Bắc Mạc thì trong thành Dự Châu đột nhiên có đám cháy, khói đặc bốc cao đến tận trời. Đồng thời, trong thành thả lên mấy con diều, trên có viết mấy chữ rất lớn: Thạch đi theo địch, trong thành có trá!
Thấy vậy, trận địa quân Nam Hạ đại loạn, không nghĩ tới chính chủ tướng Thương Dịch Chi mới hai mươi ba tuổi lại gặp nguy không loạn, bình tĩnh biến hóa trận hình, đổi tiên phong biến thành hậu vệ, đại quân quyết đoán đi theo phía tây. Lúc này, vòng vây của người Bắc Mạt chưa kịp khép lại, chỉ đành trơ mắt nhìn quân Nam Hạ theo lỗ hổng mà đi.
Chu Chí Nhẫn không cam tâm, phái kỵ binh truy kích, lại lọt vào phục kích của kỵ binh Nam Hạ, không ai ngờ được rằng Thương Dịch Chi lại có thể đem kỵ binh mai phục ở vị trí này, Kỵ binh Bắc Mạc thương vong thảm trọng, đành để cho Thương Dịch Chi mang theo đại quân thong dong lui vào dãy núi Ô Lan. Vừa vào núi, ưu thế của kỵ binh Bắc Mạc không thể phát huy liền lập tức chậm lại, hơn nữa thế núi hiểm yếu, địa hình phức tạp, rơi vào đường cùng, Chu Chí Nhẫn đành phải tạm thời buông tay, tập trung toàn lực tiếp quản thành Dự Châu.
Lui vào trong dãy núi Ô Lan, quân Nam Hạ mới biết được, từ lúc người Bắc Mạt vây thành đến ngày thứ bảy, thủ thành Dự Châu, tướng Thạch Đạt Xuân thấy tình thế không thể chống đỡ được liền phản quốc đi theo địch, nghênh đón đại quân Bắc Mạc vào thành. Về sau lại giả để Bắc Mạc vây thành nhằm dẫn dụ Thương Dịch Chi đến, một khi Thương Dịch Chi lĩnh quân đến dưới thành, sẽ bị đại quân Bắc Mạc trong, ngoài giáp công, khi đó anh ta cho dù có là thần tiên hạ phàm cũng không thể có biện pháp xoay chuyển. May mắn là quan thư ký thành Dự Châu là một trung liệt chi sĩ, đối với hành vi theo địch bán nước của Thạch Đạt Xuân thập phần khinh thường, đáng tiếc trong tay không có binh quyền, không thể ngăn trở. Về sau lại thấy Thương Dịch Chi lĩnh liên quân hai châu sắp trúng kế, trong lúc vội vàng liền nghĩ ra một diệu kế, phóng hỏa đốt cháy thủ phủ trong thành, rồi thả vài con diều cảnh báo Thương Dịch Chi.
Trong trận đánh này, quân Dự Châu xung phong đi đầu nên thương vong nghiêm trọng, ước chừng tổn hại khoảng bảy, tám ngàn người, nhưng bên quân Thanh Câu của A Mạch hầu như không có thương vong gì. Sau khi rút lui an toàn, không nói đến những binh lính Dự Châu bình thường, mà ngay cả các tướng lĩnh Dự Châu nghị sự bên trong quân trướng của Thương Dịch Chi cảm xúc đều cực kỳ tồi tệ. Bọn họ như thế nào cũng không thể tin được, trưởng quan của mình thế mà lại theo địch phản quốc, sau khi mở cửa thành mời địch nhân vào, lại phối hợp với địch nhân thiết kế phương pháp hại chính quân sĩ của mình. Bọn họ không để ý đến sinh tử mà quay về hồi cứu Dự Châu, ai có thể ngờ được chủ tướng thành Dự Châu đã bán đứng tất cả bọn họ, như thế này thì bảo bọn họ làm sao mà chịu nổi.
Khuôn mặt Thương Dịch Chi rất bình tĩnh, vẻ mặt bình thản nhìn các tướng lãnh trong trướng. Các tướng lĩnh Thanh Châu có chút tức giận, mặc dù ngại Thương Dịch Chi áp chế không nói gì thêm, nhưng vẻ mặt kia rõ ràng là muốn mắng người Dự Châu không biết phân biệt đông tây(1)! Mấy tướng lãnh Dự Châu sắc mặt xanh, trắng hỗn loạn, đều lộ ra vẻ ủy khuất và xấu hổ, chính là do bọn họ la hét ầm ĩ phải về cứu Dự Châu, ai ngờ thiếu chút nữa khiến cho toàn quân bị diệt vong.
Phó tướng cầm đầu quân Dự Châu cắn chặt hàm răng, xốc chiến bào quỳ gối xuống. Thương Dịch Chi vội vàng tiến đến, vội la lên: “Trương phó tướng, sao lại làm thế? Mau đứng lên đi.”
Trương phó tướng quỳ trên mặt đất không chịu đứng dậy, những tướng lãnh Dự Châu cũng quỳ xuống theo anh ta. Thương Dịch Chi đỡ được người này thì người kia lại quỳ xuống, trong khoảng thời gian ngắn thật là chật vật, vội vàng giục mấy người bên cạnh: “Còn thất thần ra đấy làm gì! Không mau đỡ các vị đại nhân dậy!”
Mấy người đang quỳ cũng không chịu đứng dậy, Trương phó tướng nói: “Tướng quân, ta đi theo Thạch Đạt Xuân đã nhiều năm, có chết cũng không thể ngờ được ông ta lại là một gian tặc theo địch bán nước, nếu như không phải tận mắt nhìn thấy, đánh chết chúng ta cũng sẽ không tin. Là tại chúng ta la hét ầm ĩ muốn đi cứu Dự Châu, thiếu chút nữa hại mọi người mất mạng. Chuyện tới nước này chúng ta cũng không có gì để nói, thỉnh tướng quân miễn quân chức của chúng ta. Chúng ta muốn quay trở lại thành Dự Châu, nhất định phải giáp mặt hỏi Thạch Đạt Xuân cho rõ ràng, sau đó trước thì giết lão tặc kia, sau lấy cái chết để tạ tội.”
Thương Dịch Chi trầm mặc một lát, hỏi: “Trương phó tướng, ngươi là quân nhân của Đại Hạ, hay là quân nhân của Thạch Đạt Xuân?”
Mấy người kia trăm miệng một lời nói: “Tất nhiên là quân nhân của Đại Hạ!”
Thương Dịch Chi mày kiếm khẽ nhếch lên, ánh mắt sáng quắc, nói: “Nếu là quân nhân của Đại Hạ ta thì cùng với Thạch Đạt Xuân đâu có quan hệ gì? Ông ta phản quốc cũng không có nghĩa là đại diện cho quân Dự Châu phản quốc, như vậy thì cùng với các ngươi và toàn bộ quân Dự Châu đâu có liên quan gì đến nhau? Chúng ta ngàn dặm bôn tập, đồng sinh cộng tử, không nói đến tình riêng giữa Dịch Chi cùng các vị, chúng ta chỉ nói đến đại nghĩa, tuy rằng tướng sĩ Thanh Châu, Dự Châu là hai quân hệ(2), thì với thân phận của chúng ta, đầu tiên phải là binh sĩ Đại Hạ, quân nhân Đại Hạ. Chúng ta giữ, không phải chỉ một thành trì, bảo vệ cũng không phải là dân chúng của một thành trì, cái chúng ta giữ chính là giang sơn xã tắc Đại Hạ, cái chúng ta bảo vệ chính là ngàn vạn con dân Đại Hạ! Chẳng lẽ đơn giản chỉ là một Thạch Đạt Xuân, sẽ khiến liên quân Thanh Dự phải phân chia hay sao? Ai chẳng biết là cho dù ở bất cứ đâu, các tướng sĩ chết trận ở ngoài thành đều là những chàng trai ưu tú, là những người con trung nghĩa của Đại Hạ!”
Nói xong một phen, chư tướng trong trướng đều đã lệ nóng dâng đầy trong mắt. Trương phó tướng run run miệng, cúi người bái một lễ, nói không nên lời: “Có những lời này của tướng quân, các huynh đệ đã hy sinh trong trận đánh này cũng không uổng phí.”
Thương Dịch Chi vội vàng nâng Trương phó tướng dậy, rồi đưa mắt sang nhìn người bên cạnh một cái, mọi người vội vàng đỡ những tướng lĩnh đang quỳ trên mặt đất đứng lên. Thương Dịch Chi nói: “Trương phó tướng, nếu như tín nhiệm Dịch Chi, vậy thì không nên phân chia liên quân Thanh Dự nữa, mặc kệ là quân Thanh Châu hay quân Dự Châu, chúng ta đều là tướng sĩ Đại Hạ, không có gì phân biệt.”
Trương phó tướng ra sức gật đầu. Vẫn đứng ở một bên không nói gì, Từ Tĩnh đột nhiên cười nói: “Nếu hai quân kết hợp làm một không chia tách, như vậy thì cũng không nên gọi cái gì là quân Thanh Châu hay quân Dự Châu nữa.”
Bên cạnh, một gã tướng lĩnh Thanh Châu hỏi: “Không gọi là quân Thanh Châu và quân Dự Châu thì nên gọi là gì?”
Từ Tĩnh vuốt râu nhìn về phía Thương Dịch Chi, cười nói:“Cái này cứ nghe theo chủ kiến của tướng quân là được.”
“Điều này……” Thương Dịch Chi vẫn là có chút do dự.
Mấy tướng lĩnh quân Dự Châu thấy thế, nhất tề ôm quyền nói: “Ta về sau sẽ chỉ nghe theo tướng quân, thỉnh tướng quân vì hai quân mà thay tên!”
Thương Dịch Chi thoáng cân nhắc một lát, rồi nói một cách rành mạch: “Được, nếu mọi người đã xem trọng Dịch Chi, vậy thì gọi là quân Giang Bắc đi! Từ nay về sau sẽ không còn quân Thanh Châu và quân Dự Châu nữa, chỉ có quân Giang Bắc.”
Chúng tướng cùng đồng thanh nhất trí.
Thương Dịch Chi sắc mặt nghiêm túc, hướng mọi người ôm quyền thi lễ, nghiêm mặt nói: “Thu phục lại đất đai Đại Hạ đã mất hoàn toàn dựa vào các chư quân !”
Ban đêm, bên trong thành phủ Dự Châu, phu nhân của Thạch Đạt Xuân bưng bát cháo nhỏ đi vào thư phòng của trượng phu, thấy trượng phu vẫn còn ngồi ngẩn người ở trước bàn, liền đặt bát cháo xuống, ôn nhu nói: “Lão gia, ăn một chút đi, mặc kệ như thế nào cũng phải ăn một chút gì đi.”
Thạch Đạt Xuân chậm rãi lắc lắc đầu, hai mắt Thạch phu nhân đỏ hoe, cố gắng kìm giữ giọt lệ trong hốc mắt, thấp giọng năn nỉ: “Lão gia, thân thể ngài sắp không chịu được nữa rồi, ngài ăn một chút đi, cho dù là vì…… Ngài cũng phải ăn một chút đi, ngài……”
Thạch Đạt Xuân chậm chạp hé môi, liếc mắt đề phòng nhìn ra ngoài cửa, rồi hỏi: “Người phóng hỏa kia thế nào rồi?”
“Khâu đại nhân…… tự sát rồi, phòng hồ sơ đều bị cháy hết, lửa còn lan đến khố phòng(3), khiến quần áo mùa đông đều bị đốt thành tro.”
“Chết là đáng lắm!” Thanh âm của Thạch Đạt Xuân lạnh lùng, cứng rắn, trên mặt cũng là một vẻ bi phẫn, thân hình run rẩy, nói: “Ông ta chỉ dùng một cây đuốc mà đã đem tất cả văn kiện quan trọng của thành Dự Châu ta đốt sạch sẽ, chết đi thật ra lại quá tiện nghi cho ông ta.”
Thạch phu nhân cuống quít nắm lấy bả vai run rẩy của trượng phu, ghé vào tai ông ta thấp giọng nói: “Lão gia, ta đều biết, đều biết cả mà, ngài đã phải chịu ủy khuất, phải chịu khổ rồi.”
Thạch Đạt Xuân ảm đạm lắc lắc đầu, không nói gì, ông ta không khổ, so với việc hy sinh vì nghĩa của quan thư ký mà nói, ít nhất ông ta vẫn còn sống, tuy rằng phải mang cái mũ Hán gian(4) trên đầu, tuy rằng bị dân chúng trong thành mắng là lão tặc, nhưng ông ta không khổ, bởi tất cả đều là vì Đại Hạ. Ông ta hiện lo lắng chính là, không biết những thứ vật tư kia có an toàn đưa lên núi hay không, không biết Thương Dịch Chi có thể thu phục được tướng lĩnh Dự Châu của mình hay không.
Ẩn quân vào núi, đây là chuyện ông ta chưa từng nghĩ tới. Đưa quân lên núi chẳng phải là thành thổ phỉ hay sao? Bọn họ có thể thật sự trở thành quân trộm cướp hay sao? Bọn họ thật sự có thể thu phục lại Dự Châu, thậm chí là toàn bộ vùng Giang Bắc sao? Thạch Đạt Xuân không phải là không hoài nghi, nhưng ông ta không có sự lựa chọn nào khác.
—————————————–
Mùa đông năm Thịnh Nguyên thứ hai, Thành Tổ đưa quân lui vào trong dãy núi Ô Lan, tự xưng là quân Giang Bắc. Ban đầu, trong triều không hiểu, răn dạy rằng: Dẫn binh vào núi, chiếm núi xưng vương, binh tướng thành phỉ. Khiến người người dị nghị. Thành Tổ chỉ cười: Đúng là kẻ nông cạn, thiển cận, gian thần!–
[ hạ thư - thành bản gốc kỉ ]
[ thứ nhất cuốn hoàn ]
—————————
Chú thích:
1- Không phân biệt đông tây: ý nói làm việc không phân rõ nặng nhẹ, chỉ theo cảm tính.
2- Quân hệ: chỉ quân Thanh Châu và quân Dự Châu là hai đội quân độc lập thuộc hai đơn vị khác nhau.
3- Khố phòng: nhà kho
4- Hán gian: nghĩa cũng tương tự như Việt gian của ta trong thời chiến vậy, dùng để chỉ những kẻ theo giặc bán nước.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top