a mạch tòng quân c1-c15
CUỐN THỨ NHẤT
Phong vân khởi dã mạch chợt phiêu hương
CHƯƠNG 1
A Mạch
A Mạch: Kêu oan, cũng cần phải có kỹ xảo……
A Mạch (1) sinh ra vào tháng năm, đúng thời điểm vụ lúa mạch năm ấy mất mùa. Mẹ A Mạch mới từ quỷ môn quan lắc lư trở về, suy yếu trợn mắt nằm ở trên giường, sắc mặt vẫn tái nhợt, hướng cha A Mạch ôn nhu nói: “Chàng mau đặt tên cho con đi!”
Cha A Mạch nhẹ nhàng ôm A Mạch trong tay, hết nhìn trái lại nhìn phải, thật là khó xử, đột nhiên trong đầu chợt lóe lên một tia sáng, kinh hỉ nói lớn: “Mạch Đâu (2)! Gọi là Mạch Đâu đi!”
“Mạch Đâu?” Mẹ A Mạch kinh ngạc nhìn chồng, nhất thời không thể phản ứng được gì.
Nét kinh hỉ trên mặt cha A Mạch vẫn không giảm, đem A Mạch nhẹ nhàng đặt lên giường, đứng dậy kích động khoa tay múa chân nói: “Nàng đã quên rồi sao? Chính là đại dịch cúm heo ở Hồng – Kông năm đó, ha ha, ta họ Mạch, năm nay lại là năm heo, không gọi là Mạch Đâu thì thật thất vọng nha! Ha ha –”
Còn cười chưa xong thì một vật thể bay không xác định đã nhằm thẳng mặt cha A Mạch mà bay tới, dính luôn ở trên mặt.
Mẹ A Mạch mắng to: “Chàng mới là đồ mất tích!”
Cha A Mạch ngượng ngùng kéo cái tã trên mặt xuống, vẻ mặt chột dạ nhìn mẹ A Mạch, nhỏ giọng hỏi:“Vậy nàng muốn gọi con là gì?”
Mẹ A Mạch ngẩn ra, gọi là gì bây giờ? Nàng biết thì còn hỏi chồng làm gì? Lúc mang thai thì cả hai vợ chồng đều âu yếm xoa bụng gọi là cục cưng, nhưng nay sinh con ra rồi, chẳng lẽ gọi là Mạch cục cưng?
Hai vợ chồng còn đang trầm mặc, thì chợt nghe tiếng Ngưu Nhị ở thôn trên gọi to ngoài sân: “Mạch chưởng quầy, lúa mạch nhà ông, ta đem hết vào trong viện a, năm nay thu hoạch hạt lúa chắc mẩy, mạch tuệ(3) đều rất lớn, rất lớn!”
Mạch tuệ? Hai vợ chồng như thể tâm linh tương thông, không hẹn mà cùng gật đầu lia lịa, vì thế, đại danh của A Mạch là Mạch Tuệ!
Về sau A Mạch nghĩ lại, nếu lúc ấy Ngưu Nhị không kêu là mạch tuệ mà là đông qua(4), phải chăng tên của nàng sẽ không phải là Mạch Tuệ nữa mà sẽ là Mạch Môn Qua(5)? Khi được năm tuổi, nàng đem này nghi vấn này ra hỏi mẹ nàng, lúc ấy đang đứng bán rượu, mẹ A Mạch xoa xoa tay lên tạp dề, sau đó cười ngượng ngùng, nói: “Cái con nhỏ này, làm sao mẹ lại có thể đặt tên con là Môn Qua được? Tên là Mạch Tuệ rất hay mà! Mỗi lần đọc lên lại thấy quê cha đất tổ cỡ nào giàu có! Cha mẹ phải suy nghĩ rất lâu mới nghĩ được một cái tên đầy ý nghĩa như thế đặt cho con đấy!”
A Mạch tất nhiên là không tin, nàng vô cùng hy vọng cha mẹ sẽ sinh thêm một tiểu muội muội hoặc tiểu đệ đệ, lúc đó nàng muốn xem cha mẹ mình có thể nghĩ ra được cái dạng tên gì.
Nương tử Trần gia bán đậu hũ ở nhà bên cạnh, từ bụng lớn hóa bụng nhỏ, rồi lại từ bụng nhỏ hóa bụng lớn, sau đó những đứa nhỏ Trần gia lần lượt được sinh ra rồi lớn lên, mà bụng của mẹ A Mạch vẫn không có biến chuyển gì. A Mạch thường xuyên xem xét bụng mẫu thân đến ngẩn người, mong ngóng cái bụng này cũng có thể lớn lên một chút. Đến một ngày nọ cũng bị mẫu thân phát hiện ra, liền hỏi:“A Mạch, con nhìn gì thế?”
A Mạch nói: “Mẹ à, sao trong bụng mẹ không có tiểu đệ đệ?”
Lần này, mẹ A Mạch không trả lời, chỉ mỉm cười xoa xoa đầu của nàng.
Đêm đó, trong lúc A Mạch đang mơ mơ màng màng, chợt nghe thấy tiếng thì thầm từ phòng của cha mẹ bên cạnh truyền đến.
Mẹ A Mạch nói: “Mình sinh thêm một đứa đi, A Mạch chỉ có một mình rất cô độc, ngay cả chị em bầu bạn cũng không có.”
Thanh âm cha A Mạch tuy nhỏ nhưng rất kiên định: “Không được, nơi này thiếu thầy thiếu thuốc, nếu lại sinh khó như lần trước thì phải làm sao bây giờ? Vạn nhất có điều gì không hay xảy ra cho nàng, nàng bảo ta phải làm sao mà sống được ở cái thế giới này?”
Sau một lúc lâu, mẹ A Mạch mới kín đáo thở dài, nói: “Vợ chồng mình còn có đôi có lứa mà nương tựa lẫn nhau. Nhưng còn A Mạch? Sau này chúng ta đều chết đi, thì A Mạch phải làm sao? Chẳng lẽ gả nó cho một nam nhân ở cái thế giới này sao?”
Cha A Mạch không nói gì, chỉ gắt gao ôm mẹ A Mạch, suy nghĩ nửa ngày mới an ủi nói: “Nếu không chúng ta nhận nuôi thêm một đứa bé trai nữa vậy, cùng A Mạch nuôi lớn, như vậy sau này cũng có thể chiếu cố cho A Mạch, nàng xem như vậy có được không?”
……
Đương nhiên, đây là chuyện của mười mấy năm về trước.
Hiện tại, A Mạch đang ngồi trong một quán trà bên đường ở sát chân núi, cố sức cắn một miếng lương khô, sau đó lại ngẩng đầu lên lớn tiếng gọi: “Tiểu nhị, thêm một bình trà!”
Bên cạnh truyền đến tiếng quan quân cưỡi ngựa phóng qua, bụi đất trên đường bị gió cuốn mù mịt.
“Ôi dào, gần đây thường thấy quan quân chạy qua, không phải là lại có chiến tranh ở phương Bắc đấy chứ?” Ông chủ quán trà thấp giọng thở dài.
A Mạch lấy tay che bát nước trà lại, híp mắt nhìn người cưỡi ngựa đã biến thành một điểm nho nhỏ màu đen biến mất ở xa xa. Phương Bắc có chiến tranh sao? Đánh thì cứ đánh đi, chẳng quan hệ gì tới nàng! Dù sao nàng cũng đi về hướng Nam.
Từ quán trà này đi về hướng Nam chính là một tòa thành nhỏ. Lúc A Mạch đến cửa (thành) Bắc, mặt trời vừa qua khỏi đỉnh đầu, nàng ngửa đầu nhìn nhìn tòa thành bị ánh mặt trời chiếu rọi, hiện rõ hai chữ: Hán Bảo, chỉ cảm thấy trong bụng vừa đói vừa khát, nhịn không được kêu ọc ạch, đành thắt chặt lại lưng quần.
Cái bánh kia đúng là không chống đỡ được với cơn đói, sớm biết thế này sẽ không uống nhiều nước trà như vậy!
A Mạch cúi thấp đầu đi vào trong thành, còn chưa vào được bên trong thì đã bị một tên lính gác thành lôi xuống, dò xét A Mạch, quát hỏi: “Từ đâu đến?”
“Từ phương Bắc.” A Mạch thành thật trả lời.
“Muốn đi đâu?”
“Đến phía Nam.”
Tên đầu mục tựa hồ cũng thấy A Mạch trả lời có chút không thích hợp, nhưng lại nhất thời không biết không đúng ở chỗ nào, một tên lính liền chạy lại, nhỏ giọng nói: “Đầu mục, vừa thấy tiểu tử này đã thấy không ổn rồi, vóc người cao như vậy, lại trắng nõn như đàn bà, có khi là thám tử phương Bắc!”
Tiểu đầu mục ánh mắt cao thấp đánh giá A Mạch, càng nhìn lại càng cảm thấy tiểu tử này kỳ quái, vóc dáng cao lớn, hơn nữa tóc lại ngắn như vậy, làm sao mà ra dáng nam nhân cho được, rõ ràng chính là người dị tộc!
Kỳ thật A Mạch không được tính là quá cao, chỉ bảy thước(6) là cùng, chiều cao này ở thời đại của cha mẹ nàng nhiều lắm thì tính là cao gầy, nhưng ở thời đại này, đừng nói các nữ nhân là hạc trong bầy gà, mà ngay cả với nam nhân cũng được xem như là hơi cao.
A Mạch nhìn chính mình cao hơn cả nửa số binh sĩ ở đây, trong lòng thầm cảm thán: mẹ nói thật đúng. Con người ở thời đại này chế độ dinh dưỡng rất không tốt a, ngay cả mục đầu này cũng chỉ tầm sáu thước, so với cha mình thì còn kém xa.
Tiểu đầu mục đi vòng qua A Mạch một vòng, đột nhiên lớn tiếng quát: “Đến đây! Đem thằng nhãi này trói lại cho ta!”
Mấy tên lính như hổ, như soi hướng về A Mạch vây tới, A Mạch chưa kịp phản ứng gì đã bị trói gô lại, nàng cúi đầu nhìn dây thừng trên người, dở khóc dở cười, vội vàng nói: “Các vị quân gia, hiểu lầm rồi, hiểu lầm rồi, ta là lương dân a, sao có khả năng thành thám tử được? Không tin ngài đem ta thả ra, ta lấy giấy thông hành cho quân gia xem!”
Nhưng những tên lính này đâu chịu nghe A Mạch giải thích, liền đẩy nàng hướng vào trong thành, đi đến nửa đường, vừa lúc gặp vài quân sĩ khác đang vây quanh một viên tướng trẻ tuổi tiến lại gần, binh sĩ áp giải A Mạch cuống quít đi lên, hướng viên tướng trẻ tuổi hành lễ nói: “Đại nhân, mới bắt được một thám tử phương Bắc!”
A Mạch vội la lớn:“Oan uổng quá, tiểu dân oan uổng, tiểu dân là thương nhân đi về phía Nam, trên người có giấy thông hành của phủ Định Châu a!”
Thanh âm nhất định phải lớn mà có chứa âm rung, khuôn mặt nhất định phải chân thành mà giàu biểu cảm, tốt nhất là phủ phục trên mặt đất thể hiện sự trung thành của mình, đây là chuyện mà mẹ A Mạch đã từng dạy nàng, khi kêu oan phải đặc biệt chú ý. A Mạch rất là chú ý những điểm này, nhưng lại thấy bộ dạng phủ phục xuống đất thật giống chó ăn phân, cho nên A Mạch lựa chọn đứng kêu oan.
Quả nhiên, tầm mắt của viên tướng trẻ tuổi kia đã bị A Mạch thu hút, A Mạch thấy viên tướng kia nhìn về phía chính mình, cuống quít nói liên thanh: “Tướng quân minh giám! Tiểu dân thật là oan uổng!”
Viên tướng trẻ tuổi kia bất quá chỉ là một giáo úy nho nhỏ, nghe A Mạch liên thanh gọi hắn là tướng quân, trên mặt đã có chút dịu đi, bất quá không để ý tới A Mạch, chỉ hỏi binh sĩ áp giải vài câu, liền phân phó đưa A Mạch đến đại lao trước rồi nói sau.
A Mạch thầm kêu không hay rồi, vừa mới tới đây đã bị tống ngay vào đại lao chịu tai ương, đâu biết rằng chính mình đang dạo chơi trước cửa Quỷ Môn Quan. Trong lúc bối cảnh giữa Nam Hạ cùng Bắc Mạc đang hết sức căng thẳng, chỉ cần bị nghi là thám tử thì ngay cả thẩm tra cũng không cần, đều là chém cho xong việc, nên nàng bị đưa vào đây xem như là mất mạng.
Vô luận là ở triều đại nào, thức ăn trong đại lao đều rất thiếu thốn.
A Mạch bắt đầu hoài niệm cái bánh khô không khốc ở ngoài thành Hán Bảo, vừa ăn vừa chiêu với nước trà mới có thể đưa xuống đến dạ dày, có thể nghe được trong bụng phát ra tiếng thở dài. Đương nhiên, hiện tại bụng của nàng cũng đang lên tiếng, âm thanh kêu réo từ trong bụng truyền ra có chút buồn bã, lỗ tai nghe được không thể nào thấy thoải mái, A Mạch chỉ đành nắm thật chặt lưng quần.
Đương nhiên bắt đầu từ bây giờ thức ăn sẽ cực kỳ khó nuốt, nhưng nàng mặc kệ, cứ phải ăn no đã, tốt xấu gì cũng duy trì được nhu cầu thấp nhất của bản thân. Cũng không biết vì sao, hai ngày trước đột nhiên không thấy phát đồ ăn nữa, chỉ có chút nước, mà phải cầu nửa ngày mới được một ít. A Mạch mơ hồ cảm thấy có điều gì đó không thích hợp, quả nhiên, đeo gông ngồi đại lao đến ngày thứ mười một, sai dịch dẫn một tên đầu lĩnh hung thần ác sát tiến vào, sau khi sai dịch mở cửa, tên đầu lĩnh không nói hai lời, trước hết chém bay đầu một phạm nhân, giơ cao thanh đao đẫm máu quát: “Bắc Mạc thát tử đến đây, kẻ nào không muốn chết liền theo ta ra ngoài thủ thành, phàm ra sức giết địch đều có thể tha tội! Ai đi?”
Đại lao yên lặng như tờ, một lát sau, A Mạch là người đầu tiên giơ tay kêu lớn: “Ta đi! Vì nước giết giặc!”
Thật nực cười! Trước đó, ai không đi sẽ bị bọn họ chém chết tại đại lao, nếu đi không chừng còn có đường sống! Khi A Mạch vung tay hô lớn: “Vì nước giết giặc”. Lập tức cân não của những phạm nhân nhân bắt đầu chuyển động, cũng cuống quít giơ tay hô lớn: “Vì nước giết giặc!” Trong lúc nhất thời, quần chúng trong đại lao tình cảm phấn chấn, nhiệt tình ái quốc tăng vọt chưa từng có, không giống như một đám trộm cướp tạp nham, cặn bã, giờ này rõ ràng là một đám nam nhi nhiệt huyết bừng bừng a!
Viên đầu lĩnh rất vừa lòng, cấp cho các phạm nhân mỗi người một cây gậy gỗ, rồi đưa bọn họ vượt qua tường thành.
_________________________________________________________________
…… Mạch soái du ngoạn quanh thành Hán Bảo, đúng lúc Thiệu Nghĩa đưa quân đi tuần qua, nghe thấy Mạch soái la hét: “Ta bị oan!”, Thiệu Nghĩa nhìn qua, thấy một thân hình cao lớn, tóc ngắn, khuôn mặt tuyệt mỹ giống như phụ nữ, nhưng lại không dám nhìn thẳng, trượng phu mà làm thế là gian tế!
tuyển tự [hồi ức tướng quân chinh Bắc]
**********************
(1) A Mạch: mạch nghĩa là lúa tẻ; cái tên này cũng giống như tên Lúa của Việt Nam.
(2) Mạch Đâu: Đâu nghĩa là biến mất; Mạch Đâu nghĩa là họ Mạch bị mất tích. Cha mẹ A Mạch xuyên không, có lẽ trong đại dịch cúm heo, A Mạch lại sinh vào năm Hợi (heo), cho nên cha A Mạch mới nghĩ ra cái tên này.
(3) Mạch Tuệ: tuệ nghĩa là bông lúa, mạch tuệ nghĩa là bông lúa tẻ.
(4) qua: đồ dùng gồm một miếng gỗ tra vào cán dài, để san hoặc cào dồn lại thành đống. Nó tương tự như cái trang dùng để san lúa khi phơi của Việt Nam
(5) Mạch Môn Qua: môn nghĩa là lúa mầm đỏ. Mạch Môn Qua nghĩa là trang lúa đỏ để phơi chăng? Cái này thì mẹ Cún chịu, chả biết.
(6) Bảy thước: một thước = 0,23m, 7 thước = 1,61m.
**************************
Truyện này quả thật không dễ edit chút nào. Mà mình thì lại muốn chuyển đến các bạn một bản edit dễ hiểu và trôi chảy. Chính vì vậy, mình không giữ được tốc độ mỗi ngày 1 chap như khi edit Long Vương.
Có thể sau một vài chap, quen với văn phong của Tiên Chanh rồi thì mình sẽ tăng tốc thuận lợi hơn.
Chương 2
THỦ THÀNH
Chiến tranh là bàn tay đùa giỡn của một đại nhân vật, vừa ra tay là đã xuất hiện sự chết chóc, hắn bàn tán chê cười chuyện nhân gian công thành chiếm đất. Chiến trường, là một tiểu nhân vật nhỏ bé trước mặt quỷ Tu La(1), khi quỷ Tu La giơ tay chém xuống, trong phút chốc, tất cả đều hôi phi yên diệt(2).
Nam nông lịch Thịnh Nguyên năm thứ hai, lịch Bắc Mạc là năm thứ bảy, Nam Hạ cùng Bắc Mạc cùng ngồi trên bàn đàm phán, trước là giương thương múa kiếm, khí thế ngất trời. Hán tử phương Bắc miệng lưỡi kém linh hoạt, nói qua nói lại một hồi, rốt cục thì cán cân thắng lợi liền nghiêng dần về phương Nam. Những kẻ trong đoàn đàm phán của Bắc Mạc dần dần trở nên trầm mặc. Nhưng đoàn đàm phán Nam Hạ còn chưa kịp chúc mừng thắng lợi đang nằm trong tầm tay thì đã nhận được một tin động trời, không khác gì bị sét đánh trúng khiến hồn bay phách lạc.
Đầu tháng tám, Bắc Mạc đột nhiên phát động hai mươi vạn binh mã, chia làm hai hướng tấn công vào biên giới phía Bắc của Nam Hạ, chỉ trong thoáng chốc mà phong vân(3) biến sắc.
Người dân Bắc Mạc vốn có tác phong nhanh nhẹn, dũng mãnh, so với tài hùng biện của người Nam Hạ mà nói, bọn họ càng thích động thủ, thuộc loại nhân vật thích hành động, tín điều mà họ hướng tới chính là: Nói không lại ngươi, ta liền đánh ngươi nha!
Có người từng lấy qua một ví dụ, nói là trên đường nếu có hai người đều bị nước hắt trúng, người nào mà cả canh giờ cũng không thấy động thủ thì đó chính là người Nam Hạ, còn người nào chưa nói xong hai câu liền ra tay thì chẳng cần hỏi cũng biết đó là người Bắc Mạc.
Đương nhiên, ví dụ này cũng có chút khoa trương.
Sứ thần Nam Hạ đột nhiên hiểu được, đầu tiên là choáng váng, sau đó là một nỗi ảo não đánh thẳng vào gáy, trời ạ, thế nào mà lại quên mất thói quen của thát tử Bắc Mạc? Khó trách đoàn sứ thần Bắc Mạc gần như không nói tiếng nào, nguyên lai bọn họ sớm đã có quyết định này rồi!
Danh tướng Bắc Mạc Chu Chí Nhẫn lĩnh mười vạn quân tiến theo hướng đông, thần không biết, quỷ không hay, vòng qua phía sau chân núi Yến Thứ khẩn cấp tấn công Lâm Đồng, vượt gấp sông Tử Nha, thừa dịp đêm xuống hạ trấn Tân Dã phía đông Nam Hạ, đến xế chiều, đoàn quân đã thẳng tiến đến thành Thái Hưng. Mười vạn đại quân đi theo tây lộ do tướng quân tuổi trẻ tài cao Thường Ngọc Thanh suất lĩnh, nhưng lại lặng lẽ men theo Tây hồ, qua thảo nguyên biên giới Đông quốc, Lương Châu, Mậu Thành, Tiểu Cát Thành hướng thẳng về phía đông, cơ hồ không gặp phải bất kì sự kháng cự nào, tiến thẳng về phía tây thành Thái Hưng.
Mà lúc này, ba mươi vạn biên quân(4) Nam Hạ còn ngồi xổm, tĩnh lặng canh giữ ở biên giới phía Bắc, phân chia gianh giới cùng đại quân Bắc Mạc canh giữ lẫn nhau, tướng sĩ Nam Hạ giữ biên cũng có chút hồ đồ, rõ ràng mấy chục vạn đại quân Bắc Mạc còn đang ngồi xổm đối diện cùng chính mình canh giữ lẫn nhau, thế nào mà lại có hai mươi vạn đại quân chạy đến tấn công mặt sau Nam Hạ? Chẳng lẽ hai mươi vạn đại quân Bắc Mạc sau lưng kia từ đất đá mà hóa thành sao?
Trong lúc nhất thời, phần lớn thành trấn Nam Hạ đều lần lượt báo nguy.
Theo hai đường tấn công của đại quân Bắc Mạc, người sáng suốt liếc mắt một cái liền nhìn ra cả hai lộ đại quân này đều hướng mũi xà mâu thẳng về một nơi, đó là thành Thái Hưng, vì thế trên bản đồ, điểm biểu thị thành Thái Hưng bị tướng lĩnh các quốc gia vẽ đi vẽ lại, từng chút, từng chút mà hoàn toàn thay đổi.
Thành Thái Hưng, là một thành quan trọng phía Bắc bộ của Đại Hạ quốc, dân cư hơn hai mươi vạn, mặt hướng về phía sông Bình Nguyên, sau lưng có sông Uyển, vì binh gia giao tranh từ trước, mà mất hết Giang Bắc.
Ngày hai mươi sáu tháng tám, đại quân đông lộ Bắc Mạc đã đến ngoại thành Thái Hưng, ngày hai mươi bảy vây thành, ngồi đợi Thường Ngọc Thanh suất lĩnh mười vạn đại quân theo tây lộ đến.
Lúc này, đại quân tây lộ Bắc Mạc vừa vặn đuổi tới phía trước thành Hán Bảo, cách thành Thái Hưng tám mươi dặm.
Hán Bảo là một thành nhỏ, không phải là điểm trọng yếu về mặt quân sự, cho nên cũng không quá coi trọng công tác bố trí, canh phòng, tường thành thấp, không có chiến hào cũng không có sông đào bảo vệ, nên cũng chẳng dùng cầu treo, liền cửa thành cũng chỉ có một cái vọng gác trụi lủi, ngay cả cái ủng thành (từ này mình chịu) cũng không có, ngoài thành mấy trượng thật ra cái chút cự mã (mình không hiểu là gì), nhìn thưa thớt, trơ chọi rất đáng thương, không cần đoán cũng biết là dựng lên trong lúc vội vã, cơ bản cũng chẳng ngăn được cái gì.
Một câu tổng kết lại là: tường thành này thật quá đơn sơ! So với tường viện của chủ nhà giàu ở Bắc bộ cũng chỉ cao hơn một chút, dày hơn một chút, dài hơn một chút, trên trạm gác có nhiều người hơn một chút.
Binh lính giữ thành khoảng một ngàn người, trong thành dân cư từ đứa trẻ oa oa mới cất tiếng khóc chào đời đến ông già tám mươi tuổi, tất tần tật nam phụ lão ấu cộng cả lại, bất quá cũng chỉ được chừng hai vạn người, chẳng đủ nhét kẽ răng cho đại quân Bắc Mạc, khó trách ngay cả phạm nhân trong đại lao cũng đều bị đưa ra giữ thành.
Khi A Mạch bị đưa vượt qua tường thành, thành Hán Bảo đã sớm là bị đại quân Bắc Mạc vây chặt như nêm cối, từ trên tường thành nhìn xuống chỉ thấy một mảnh đen nhánh. A Mạch sau khi thăm dò xong, lập tức đổ mồ hôi lạnh, chạy vội tới mái chắn sau tường, nằm thấp xuống, thành này còn có thể giữ được sao? Có thể bảo vệ được thì khác gì gặp quỷ giữa ban ngày!
Thiết kỵ Bắc Mạc tới trước thành Hán Bảo, vạn kỵ binh ở trước trận triển khai dàn hàng ngang, tuy rằng đối với việc công thành không có tác dụng gì, nhưng xem như biểu dương lực lượng, trước làm chấn động lá gan của quan binh Nam Hạ, sau thủ tiêu ý định bỏ thành mà chạy trong đầu bọn họ, cho nên, các huynh đệ, chúng ta vẫn là hạ quyết tâm giữ thành!
Có mấy kỵ mã Bắc Mạc phía sau trận tiền phi lên, giơ lá cờ phất qua phất lại mấy cái, đội kỵ binh liền giục ngựa lên trước trận tuyến, chia thành hai cánh thối lui, lộ ra đội quân cầm khiên trong tay, xe công thành, thang, khí giới chờ công thành chậm rãi đẩy về phía trước, tiếng kèn xông trận vang lên, tiếng lưỡi mác bốn phía vung lên, đại quân Bắc Mạc giống như thủy triều đen cuồn cuộn thẳng tiến, giống như một cơn sóng lớn, chỉ cần đổ ập xuống là có thể san bằng một thành Hán Bảo nho nhỏ.
“Bắn tên! Bắn tên! Bắn chết lũ thát tử!” Trên tường thành, tướng lãnh Nam Hạ vung roi trong tay, lớn tiếng quát.
Trên người A Mạch cũng đã trúng mấy roi, cuống quít trên mặt đất khẩn trương giương cung hướng dưới thành bắn vọt tới. Nàng làm sao biết bắn tên như thế nào đâu, bất quá học bộ dạng người bên cạnh cũng giương cung bắn ra, ngay cả ngắm đích cũng không có, chỉ nhắm mắt lại buông tay, nhưng khí lực thật ra không nhỏ, mũi tên lại hướng bên dưới bay xuống, chợt nghe phía dưới truyền đến một tiếng hét thảm, một gã Bắc Mạc công thành mới leo được một nửa đã gặp hạn mà trúng tên rơi xuống.
Tên lính Nam Hạ bên cạnh hướng A Mạch kêu một tiếng “rất tốt”, không biết sờ soạn ở đâu ra một cái mũ giáp ném cho A Mạch, vừa hướng xuống dưới thành bắn tên, vừa hô: “Huynh đệ, bắn hay lắm, đội cái này vào, cẩn thận tên của thát tử, dùng sức bắn lũ súc sinh.”
A Mạch nhìn mũ giáp trong tay còn mang theo vết máu thì giật mình, cắn răng một cái liền đội lên trên đầu, tên bay không có mắt, nàng cũng không muốn chết tại đây trên cái tường thành này, tuy rằng xem hoàn cảnh trước mắt thì cơ may có thể sống sót mà rời đi thật sự là quá nhỏ.
Hai tên lính Nam Hạ bên cạnh dùng sức đâm mũi giáo xuống dưới, liền thấy tên lính Bắc Mạc trên tường thành đã bị lộn một vòng rơi xuống, tiếng kêu thảm thiết sắc nhọn đâm vào tai A Mạch, khiến nàng nghe được mà hết hồn, người bên cạnh ngay vừa trầm trồ khen ngợi nàng sau đó lại hét “A” một tiếng thảm thiết, đã bị mũi tên của binh lính Bắc Mạc bắn trúng, đâm xuyên qua ngực, máu tươi từ trong miệng trào ra, phun tung toé lên tường thành, thành một mảng đỏ rực. A Mạch cả kinh đến nỗi cung tên trong tay đều rơi cả xuống đất, chỉ lo ôm đầu ngồi xuống, bên tai tiếng kêu thảm thiết vẫn không ngừng vang lên, A Mạch trên người lại trúng mấy roi, viên tiểu giáo vung roi nổi giận mắng:“Mẹ nó, còn không mau trốn đi, bọn thát tử mà lên đến đây thì ai cũng đừng hòng sống được!”
Ngoài cửa thành cách đó không xa, trên một sườn dốc nho nhỏ, Bắc Mạc tây lộ tướng quân Thường Ngọc Thanh ngồi trên chiến mã, khuôn mặt lạnh lùng, khóe miệng hơi mím lại, giống như ẩn chứa một tia cười lạnh, vẻ mặt chuyên chú nhìn cảnh công thành cách đó không xa. Mấy chục kỵ mã thân mặc giáp đen đứng phía sau hắn, chiến trường thì ồn ào, nhưng ở đây lại duy trì sự im lặng kinh người, ngay cả thủ hạ chiến mã đều giống nhau, lạnh lùng mà lạnh nhạt.
Thường Ngọc Thanh chợt nâng cánh tay dùng roi ngựa chỉ về một chỗ trên tường thành, cười nói với phó tướng Khương Thành Cánh bên cạnh: “Ha ha, Thành Cánh, ngươi xem cái tên Nam Hạ mọi rợ kia, ngay cả cung tên cũng cầm không xong, ha ha, người như vậy lại dám lên trên tường thành thủ thành, có thể thấy được Nam Hạ thật sự là không có người.”
Khương Thành Cánh theo hướng đó nhìn lại, một lát sau cũng không khỏi mỉm cười, nơi đó trên tường thành có một tên lính Nam Hạ bắn tên rất bừa bãi, sau khi bắn lung tung được một mũi lại vội vàng ngồi xổm xuống tránh sau tường, qua một hồi thăm dò lại bắn thêm một mũi, mười mũi tên thì có đến tám mũi hướng đến tường thành, hai mũi tên còn lại khó khăn lắm mới bắn ra được, cũng là không hề có mục tiêu.
Sau khi Khương Thành Cánh bật cười liền quay đầu lại nhìn Thường Ngọc Thanh khuyên nhủ: “Tướng quân, nơi này gần tường thành quá, tên lạc nhiều lắm, vì an toàn, thỉnh tướng quân đến sau trận quan sát cuộc chiến đi.”
Thường Ngọc Thanh chậm rãi lắc lắc đầu, khóe môi chỗ đột nhiên mỉm cười, nói: “Lấy cung tên đến đây.”
Thân vệ binh bên cạnh vội vàng đem trường cung sau lưng, hai tay dâng lên, Thường Ngọc Thanh tiếp lấy, cài tên lên dây cung, kéo căng hết cỡ, híp mắt lại, nhắm thẳng đầu người nọ, ngón tay buông lỏng, chỉ nghe “viu” một tiếng, mũi tên nhọn thoát khỏi dây cung, mang theo sức mạnh phá vỡ không gian, phát ra tiếng rít lợi hại, hướng về phía tên lính Nam Hạ nhát gan trên tường thành xé gió bay đi……
A Mạch nơi này cũng vừa vặn đứng dậy, dây cung chưa kịp buông ra, liền cảm thấy đỉnh đầu như bị búa tạ lôi mạnh một cái, quán tính mạnh mẽ mang theo nàng bay vèo ra sau, thân thể của nàng nặng nề rơi xuống, trong khoảng thời gian ngắn, A Mạch chỉ cảm thấy trước mắt cả một bầy ngôi sao bay loạn, trong tai ngoài âm thanh ù ù ra thì chẳng nghe được cái gì khác. Quá nửa ngày nàng mới chậm chạm tỉnh lại, bỏ mũ giáp trên đầu xuống, hoảng sợ phát hiện một mũi tên dài xuyên ngang đỉnh mũ giáp, đem toàn bộ đỉnh mũ giáp cùng tua rua trang trí tất cả đều chặt đứt tận gốc.
Tiểu binh trên tường thành kia, cho dù không té xỉu thì cũng phải sợ tới mức đái cả ra quần đi, Thường Ngọc Thanh vừa lòng nở nụ cười, đem trường cung tiện tay ném cho thân vệ binh bên cạnh, lúc này chàng như thế nào cũng sẽ không nghĩ đến, là vài năm sau, chàng sẽ hối hận vì mũi tên này đã bắn hơi cao một chút, nếu lúc ấy chỉ cần xuống thấp chừng hai tấc, thì sẽ tốt biết bao nhiêu.
Quân lính Bắc Mạc đã leo được lên tường thành, vung đại đao bổ về phía thủ binh Nam Hạ, lưỡi đao cắm phật vào trong cơ thể phát ra âm thanh nặng nề, người bị chém trợn trừng hai mắt, ngoại trừ nỗi hoảng sợ còn có một tia không cam lòng. Tên lính vừa vung đao chém còn chưa kịp hoan hô thì khoang bụng đã bị một ngọn thương dài không biết từ đâu lao đến đâm thủng, máu theo đầu thương chảy ra, hắn cúi đầu, mắt thấy máu đỏ theo đầu thương rút ra, nội tạng lòi cả ra ngoài.
Đầu thu trời quang mây tạnh, dưới thành Hán Bảo lại là một màn mưa máu mịt mùng, máu thịt vương đầy một mảnh……
“Cửa thành đã mở, đi thôi, cũng chiều rồi, cái gì cũng cản không nổi đâu!” Thường Ngọc Thanh cười nói, hai chân nhẹ nhàng kẹp bụng ngựa: “Tối nay trú đêm lại trong thành Hán Bảo, nói với các huynh đệ, tối nay không phải bàn luận quân kỷ.”
“Tướng quân!” Khương Thành Cánh vội vàng phóng ngựa theo ngăn trở nói: “Nguyên soái có lệnh, không thể đồ thành (không hiểu, có lẽ là đóng quân ở trong thành)!”
Thường Ngọc Thanh sớm đã có chút không kiên nhẫn với người phó tướng trẻ tuổi thành thạo bên người, nghe hắn lại đem mệnh lệnh của vị nguyên soái kia ra, trong lòng có chút tức giận, kéo dây cương dừng lại vài bước, liếc mắt một cái theo sát Khương Thành Cánh, cười mà như không cười hỏi:“Khương phó tướng, cái tai nào của ngươi nghe được bản tướng quân nói nhất định phải đồ thành ?”
Khương Thành Cánh nghẹn giọng, nói không ra lời, Thường Ngọc Thanh quả thật không nói rõ là đồ thành, nhưng câu nói vừa rồi của chàng thì cùng đồ thành có cái gì khác nhau? Trước khi xuất chinh, nguyên soái cố ý công đạo rằng chỉ cần bọn họ công thành thị uy, không được phép đồ thành.
“Tướng quân –” Khương Thành Cánh vươn cổ định khuyên nữa, lại bị Thường Ngọc Thanh hừ lạnh một tiếng trong cổ họng, Khương Thành Cánh đánh phải trầm mặc lui xuống, Thường Ngọc Thanh cười lạnh một tiếng nói:“Truyền lệnh xuống, tướng sĩ tham gia công thành thì được vào thành, không phải giữ quân kỷ, còn lại ở ngoài thành bày trận trú doanh.” Nói xong vung roi một cái, không đợi Khương Thành Cánh nói chuyện liền phóng ngựa mà đi, phía sau đội thân vệ binh cũng vội vàng đi theo.
Thường Ngọc Thanh phóng ngựa lao ra khỏi đại quân Bắc Mạc, tiến thẳng đến cửa thành, bên kia cửa thành vừa bị xe công thành của quân Bắc Mạc phá vỡ, binh lính song phương đang xoắn lại cùng một chỗ, Thường Ngọc Thanh giơ thương vọt lên, gặp binh lính Nam Hạ một tên giết một tên, chỉ một lát đã hạ mười người. Khương Thành Cánh nhìn hắn quật khởi, cũng không tiếp tục ngăn cản, lại sợ trong lúc hỗn chiến chủ tướng có điều sơ xuất, đành vung trường đao cùng thân vệ binh bảo hộ bên cạnh Thường Ngọc Thanh, một hàng mấy chục kỵ mã cứ thế xông vào, sát nhập với đại quân Bắc Mạc tiến vào trong thành Hán Bảo.
_________________________________________________________
Chú thích:
(1) Tu La: tên một con quỷ hiếu chiến theo quan điểm của Phật giáo
(2) Hôi phi yên diệt: hồi nghĩa là tro, phi: bay, yên: khói, diệt: dập tắt. Câu này nghĩa là tan thành tro bụi.
(3) Phong vân: gió mây.
(4) Biên quân: quân đội canh giữ vùng biên giới
Ngày 28 tháng 8 Nam nông lịch Thịnh Nguyên năm thứ hai, thành Hán Bảo bị phá, thủ thành Lưu Cạnh tự sát trên tường thành, vợ là Trần thị cùng hai con gái ở trong phủ treo cổ tự sát, con trai độc nhất mất tích.
Màn đêm buông xuống, nhưng bên trong thành Hán Bảo không hề yên tĩnh. Ánh lửa bập bùng khắp nơi, tiếng cười mắng của binh lính Bắc Mạc, tiếng dân chúng Nam Hạ la khóc, tiếng thét chói tai, các loại âm thanh cùng vang lên hỗn loạn, hoặc không cam lòng, hoặc hèn nhát, hoặc phóng túng, tất cả như có một bàn tay dày xéo vô hình, mỗi nơi mỗi chỗ đều tựa hồ có thể nghe thấy, treo trong trời đêm, ẩn ẩn run rẩy……
Trên trời, ánh trăng cũng không đành lòng nhìn xuống, đành gắt gao nhắm mắt lại.
Bóng đêm tối đen như mực.
So với sự huyên náo hỗn độn trong thành Hán Bảo, đại doanh Bắc Mạc đóng ở ngoài thành ngược lại có chút yên tĩnh. Trong đại nội quân trướng, ánh nến vẫn sáng, bên trong có khoảng năm sáu tướng lĩnh Bắc Mạc vây quanh trước cái bàn vuông, thấp giọng thảo luận vấn đề gì đó. Đứng đầu là một tướng quân thanh niên hờ hững không nói gì, chỉ cúi đầu xem bản đồ trên bàn, ánh nến nhảy múa, chiếu một bóng người thon dài sinh động ngả dài lên doanh trướng. Ngoài trướng đột nhiên truyền đến tiếng bước chân dồn dập, một viên tướng thân mặc áo giáp tiến vào, trầm giọng bẩm báo: “Tướng quân, tám vạn kỵ binh đã chuẩn bị xong, tức khắc có thể xuất phát, thỉnh tướng quân ra quân lệnh.”
Viên tướng trẻ tuổi ngẩng đầu lên, hơi hơi cắn khóe miệng, mặc dù có ý cười, lại vẫn không dấu được sát khí trên mặt, dĩ nhiên đó chính là Bắc Mạc chủ tướng Thường Ngọc Thanh.
Thường Ngọc Thanh mày kiếm khẽ nhếch lên, tầm mắt sắc bén đảo qua một lượt trên người các vị tướng xung quanh, lạnh giọng hỏi: “Vừa rồi nghe đều hiểu được chứ?”
Chư tướng cùng đồng thanh đồng ý, chỉ có phó tướng Khương Thành Cánh có chút chần chờ, hắn do dự một lát rồi vẫn nói: “Tướng quân, mạt tướng –”
Thường Ngọc Thanh không đợi Khương Thành Cánh nói hết, chỉ cười mà như không cười hỏi: “Làm sao vậy? Thành Cánh cho rằng ta an bài có gì không ổn chăng?”
“Mạt tướng không dám,” Khương Thành Cánh nói, nhìn nhìn sắc mặt của Thường Ngọc Thanh, vẫn là kính cẩn nói ra:“Mạt tướng chính là muốn đi theo ở bên cạnh tả hữu tướng quân, hơn nữa trước khi đi, nguyên soái cũng đã phân phó mạt tướng nhất thiết phải bảo đảm an toàn cho tướng quân.”
Thường Ngọc Thanh sớm biết nguyên soái cho Khương Thành Cánh làm phó tướng vì muốn quản thúc mình, dọc đường đi nghe hắn lải nhải ở bên tai, trong lòng sớm đã thấy phiền toái không chịu nổi, khó khăn chịu đựng được đến lần này, hắn làm sao còn có thể để cho Khương Thành Cánh tiếp tục ở lại bên mình được nữa, vì thế nhân cơ hội này đã sớm sửa lại kế hoạch, để cho Khương Thành Cánh độc lĩnh một cánh quân, cách Thường Ngọc Thanh hắn càng xa càng tốt. Hiện lại nghe thấy Khương Thành Cánh lại vẫn giữ luận điệu cũ, Thường Ngọc Thanh trong lòng thật ra rất tức giận, nhưng cũng không biểu lộ ra đến mặt, chỉ cười nói: “Thành Cánh yên tâm, lần này ta sẽ không tự mình ra trận chém giết, không cần ngươi phải ở bên người hộ vệ, huống chi ngươi là phó tướng của tây lộ quân, cũng không phải đội trưởng đội thân binh của ta, sao có thể đem tinh lực đều đặt hết ở việc này được? Việc ngày mai quan hệ trọng đại, càng cần người thận trọng như ngươi đặc biệt xử lý, nhất thiết không thể để xảy ra điều gì sơ xuất!”
Khương Thành Cánh còn muốn nói tiếp, đã thấy Thường Ngọc Thanh sắc mặt lạnh đi, buộc phải đem những lời vừa dâng lên đến miệng nuốt trở lại, đành nói: “Tuân lệnh!” Sau đó liền đi theo các viên tướng khác lĩnh mệnh lệnh ra khỏi doanh trướng, Thường Ngọc Thanh lúc này mới khẽ cười một tiếng, để cho thân binh khoác áo choàng, rồi ôm mũ trụ đi ra ngoài.
Ngoài trướng, thân binh đã sớm đem chiến mã và khiên của Thường Ngọc Thanh lại, Thường Ngọc Thanh tung người lên ngựa, ánh lửa chiếu lên khôi giáp của hắn bắn ra hào quang lưu ly lạnh như băng rồi hắt lên mặt, làm cho khuôn mặt tuấn lãnh của hắn tăng thêm ba phần hàn ý. “Thành Cánh tướng quân”. Thường Ngọc Thanh gọi, Khương Thành Cánh lập tức tiến đến, phủ phục dưới chân, bên tai nghe thấy giọng cười nhẹ: “Toàn bộ mười vạn binh mã bản tướng đều giao cả cho ngươi, nhớ rõ phải nhanh chóng thay mặt bản tướng đưa đại quân đến ngoài thành Thái Hưng nghe chưa!” Nói xong liền cười to hai tiếng, không đợi phản ứng của Khương Thành Cánh, liền dẫn đội cận vệ phóng ngựa chạy như bay mà đi.
Ban đêm, Bắc Mạc chủ tướng Thường Ngọc Thanh lĩnh tám vạn kỵ binh biến mất trong bóng đêm dày đặc, mà “Mười vạn đại quân” Bắc Mạc vẫn nghỉ đêm trong doanh trướng ngoài thành Hán Bảo, chờ sẽ đi tới thành Thái Hưng hợp quân cùng với đại quân đông lộ Bắc Mạc.
Trong thành Hán Bảo, một vạn tướng sĩ Bắc Mạc tham gia công thành ban ngày vẫn còn đang phóng túng ……
Nương tựa vào tường thành phía Tây là một gian nhà thấp bé, cùng với một cái sân nhỏ hẹp. Mấy ngõ nhỏ quanh co đều xuyên qua đây giống như là một mạng nhện bị tàn phá. Ngôi nhà nhỏ này lười biếng đứng trên mặt đất như chống đỡ không nổi cái khung xương của mình.
Mười mấy tên lính Bắc Mạc giơ đuốc hùng hùng hổ hổ theo ngõ nhỏ đi qua, bọn họ hiển nhiên đối với thu hoạch của mình thực không hài lòng.
“Lão đại, cửa ngôi nhà này bốn phía đều mở toang, xem ra người đã sớm chạy hết rồi, ta có đi vào nữa hay không?”
“Đi vào cái rắm!” Đầu lĩnh Bắc Mạc mắng: “Đi đã bao nhiêu nhà rồi? Mụ nội nó, chẳng có cái gì đáng giá cả, đừng nói đến nữ nhân, ngay cả cái lông cũng chẳng tìm thấy được, coi như chúng ta không may, như thế nào đã chạy vội tới chỗ này!”
Thành Hán Bảo này chia làm hai khu vực, đông thành là phủ nha cùng phú hộ ở, tây thành là nơi những hộ bình dân sinh sống, mà nơi giáp với tường thành phía tây này là nơi ở của tầng lớp dân chúng cùng khổ nhất. Ngày thường không lo nổi ba bữa cơm thì trong nhà lấy đâu ra vàng bạc châu báu mà tích trữ. Mấy tên lính Bắc Mạc hướng tới nơi này để cướp bóc, thật đúng là đến nhầm chỗ, khó trách liên tục hơn mười hộ cũng chưa cướp được cái gì, đến cuối cùng ngay cả nhấc chân phá cửa cũng không buồn làm.
Một tên lính Bắc Mạc giơ đuốc chỉ về phía đông thành bên kia hô: “Lão đại, ngươi xem bên kia rất náo nhiệt, hay là chúng ta cũng qua bên đó đi!”
Tên đầu mục kia rõ ràng cũng động tâm, ngẩng đầu nhìn về phía đông thành, không gian bên ấy có chút ánh đỏ sậm, lại nhìn lũ huynh đệ, vung tay lên nói: “Đi, các huynh đệ, muốn đi thì đi cho nhanh, bằng không chậm trễ thì ngay cả nước canh cũng chẳng đến lượt huynh đệ chúng ta!”
Mọi người đều lên tiếng đáp ứng, rồi hướng về phía đông thành chạy đi. Ánh lửa theo tiếng bước chân hỗn độn dần dần đi xa, tất cả lại chìm trong bóng tối. Ngay tại bên trong cánh cửa mở rộng, A Mạch phải mất nửa ngày tim mới đập chậm lại, dỏng tai nghe ngóng một hồi, rồi mới thật cẩn thận từ trong góc tường chất đầy những vật tạp nham bò ra, cố không lau những vết tro bụi trên mặt, chỉ ngồi phịch xuống rồi thở phào một hơi.
Binh pháp có câu: Hư tức là thực, thực tức là hư. Nếu không phải chính mình cố tình mở rộng cửa ngôi nhà, lại đem đồ vật bên trong xô loạn lên, khó bảo đảm được đám lính Bắc Mạc kia sẽ không tiến vào lục soát, lúc đó thì cái mạng nhỏ của mình còn có thể giữ được sao?
A Mạch không nghĩ tới chính mình có thể sống mà từ trên tường thành nhảy xuống dưới. Đầu tiên là đội lại cái mũ có dính mũi tên trên đỉnh mà trước đó đã dọa nàng sợ vỡ cả mật kia lên đầu, sau đó là giả chết, khổ sở chịu đựng được đến khi trời tối mới đi ra, lại thừa dịp bóng đêm trốn trong xóm nghèo này, tính ra lại vừa mới tránh được một kiếp, thời gian không đến một ngày ngắn ngủn, nàng đã đảo qua quỷ môn quan đến mấy lần.
Nằm ngửa mặt trên đất, A Mạch nhìn bầu trời đêm vẫn đầy những ngôi sao lấp lánh như trước, không khỏi cảm thán trong lòng, sinh lực của nàng đúng là không phải ương ngạch một cách bình thường a! Mẫu thân đã từng nói, nếu muốn có sinh lực cường đại, vậy thì phải chịu được những nỗi khổ mà người khác không thể chịu được, chuyện này cùng với những nỗi gian truân khác nàng đều có thể chịu đựng được, thì nàng còn sợ cái gì nữa? Có lẽ, nàng căn bản không cần lo lắng cho chính sinh mệnh của mình, nếu ông trời muốn thu nhận nàng, thì đã sớm nên thu nhận từ bốn năm trước. Nếu như bốn năm trước, ngay cả ông trời cũng không tiếp đãi nàng, thì sẽ không bao giờ có cái gì lấy được sinh mạng của nàng.
A Mạch khóe miệng khẽ nhếch lên, lộ ra một nụ cười bất đắc dĩ, ôi chao, cảm giác đói khát lại tới nữa rồi, còn tưởng rằng cơn đói đã qua đi thì sẽ không biết đói nữa chứ. A Mạch thở dài, đứng lên hướng vào trong phòng sờ soạn, không biết chủ nhân nơi này còn lưu lại chút đồ ăn nào không, cho dù không có chút thịt, thì chắc cũng phải còn chút xương chứ? A Mạch trong đầu nghĩ lung tung, rón ra rón rén sờ soạn trong phòng, người nghèo khổ chẳng phân biệt được cái gì là phòng bếp hay phòng ngủ, phần lớn là ngủ ở gian trong, gian ngoài nấu cơm, nếu có ăn cơm thì cũng là ăn ở nhà chính. Sờ soạng nửa ngày, A Mạch mới chạm đến được nửa cái bánh bột ngô ở trong nồi. A Mạch trong lòng vui vẻ, thầm nghĩ ông trời quả nhiên là không định bỏ ta chết đói, cũng không buồn xem cái bánh còn có thể ăn được nữa hay không, cứ thế đưa lên miệng cắn một miếng. Bánh bột ngô vừa đưa đến miệng, động tác của A Mạch lập tức cứng lại, thẳng tắp nhìn đống củi bên cạnh bếp.
Đống củi kia đang run run!
Một cái đầu người nho nhỏ nhô lên qua đống củi, lộ ra một khuôn mặt đen nhẻm, chẳng phân biệt được gì, chỉ có một đôi con ngươi sáng trong đang nhìn A Mạch chằm chằm không chớp.
Lưng A Mạch như có một cơn gió lạnh buốt luồn vào, tóc gáy lập tức đều dựng đứng cả lên. A Mạch rất muốn hô to một tiếng “Quỷ!” Sau đó sẽ chạy bán sống bán chết ra ngoài, nhưng nàng đã bị dọa cho sợ đến cực điểm, tứ chi không còn tuân theo sự khống chế của đầu óc, phản ứng kia ở trong đầu nàng loáng một cái liền biến mất, nàng thứ nhất là không thét chói tai, thứ hai là không chạy trốn, mà chỉ kinh ngạc đưa nửa cái bánh bột ngô ra, hỏi: “Ngươi — ăn không?”
Mọi người nói, người dọa người, hù chết người, kỳ thật, người dọa quỷ, cũng có thể hù chết quỷ.
Con “Quỷ” kia đột nhiên bị hành động ngoài dự đoán của A Mạch dọa, sau một hồi sửng sốt đột nhiên há to miệng, lộ ra một hàm răng trắng bóc đối lập với diện mạo đen đúa, hét lên: “A –”
Nói thì chậm mà xảy ra thì nhanh, ngay khi tiếng “A” vừa mới thành hình còn chưa kịp ra khỏi miệng, A Mạch đã đem cái bánh bột ngô nhét vào miệng “Quỷ”, vì thế tiếng “A” lập tức chuyển thành tiếng “Ô ô”. Thanh âm mềm mại như thế nhất định là “Nữ quỷ”!
A Mạch một tay bịt chặt miệng “Nữ quỷ”, một tay đè bả vai của nàng xuống, thấp giọng quát: “Kêu la cái gì? Định gọi lính Bắc Mạc tới mới cam tâm à?”
Lời này vừa nói ra, “Nữ quỷ” kia lập tức ngừng giãy dụa, trong mắt đầy lệ nhìn A Mạch một cách tội nghiệp.
A Mạch thấp giọng nói: “Ta cũng là người Nam Hạ, vì trốn thát tử Bắc Mạc nên mới đến nơi này ẩn nấp, bọn họ hiện tại đang ở bên ngoài cách đó không xa, nếu để bọn chúng phát hiện thì chúng ta ai cũng không sống được! Ngươi đừng lên tiếng, ta sẽ buông tay.”
“Nữ quỷ” kia gật gật đầu, A Mạch thử thăm dò buông lỏng tay ra một chút, quả nhiên “Nữ quỷ” kia không tiếp tục kêu nữa, lúc đó mới hoàn toàn buông tay ra, đặt mông ngồi xuống dưới đất, thở hắt ra. Nàng hiện tại không sợ người cũng không sợ quỷ, chỉ sợ gây ra động tĩnh gì sẽ khiến bọn lính Bắc Mạc quay trở lại.
A Mạch trì hoãn nửa ngày mới khiến cho tim đập bình thường, lập tức lại cảm thấy cơn đói khát ập tới, quay đầu nhìn “Nữ quỷ”, liếc mắt một cái, đem miếng bánh bột ngô ở trong miệng “Nữ quỷ” lôi ra, lấy tay vỗ vỗ lại thổi thổi hai cái, cũng không để ý tới ánh mắt kinh hãi của “Nữ quỷ” kia, ngoạm xuống hai, ba miếng liền đem hết nửa cái bánh bột ngô nhét vào trong miệng, dùng sức nuốt xuống.
Bánh bột ngô vốn rất khô, hơn nữa A Mạch suốt cả một ngày đến một giọt nước còn chưa được uống, nên một miếng vừa nuốt xuống liền nghẹn thắt ở cổ. Nàng vỗ thật mạnh lên ngực mình, nhưng không có hiệu quả gì, mắt thấy sẽ nghẹn đến ngạt thở, A Mạch trong lòng có chút bi ai, trải qua bao nhiêu cửa ải, không thể ngờ được cuối cùng sẽ chết vì một miếng bánh bột ngô. Nếu ở thế giới bên kia cha mẹ mà biết được, phải chăng bọn họ sẽ cười mình đến chết mất?
Chương 4
Thiệu Nghĩa
“Khụ — khụ –” A Mạch bên này hết vuốt cổ lại đấm ngực, “Nữ quỷ” bên kia hết trợn mắt lại há hốc mồm mà nhìn. Trong giây lát, cuống quít chui ra khỏi đống củi, luống cuống tay chân múc một bầu nước đem lại, rồi nâng A Mạch dậy, vội vã đổ nước vào miệng nàng, một tay vỗ thật mạnh vào lưng A Mạch.
Đến khi hết nửa bầu nước, miếng bánh trong họng A Mạch mới trôi xuống, nàng bị nghẹn đau tức hết cả ngực, trên mặt nước mắt ngắn, nước mắt dài đã sớm chảy xuống.
“Cám ơn ngươi.” A Mạch nói nghèn nghẹt trong cổ họng, giọng nàng vốn đã hơi trầm, vừa rồi lại bị miếng bánh bột ngô vốn bột chưa được xay kỹ làm tổn thương yết hầu, khiến cho thanh âm của nàng càng thêm khàn khàn.
“Nữ quỷ” kia vừa rồi nhất thời trong tình thế cấp bách, không nghĩ tới cái gì là nam nữ thụ thụ bất thân, nay nhìn đến A Mạch đã không việc gì, lúc này mới nhớ tới tư thế của bản thân cùng với nam tử trẻ tuổi trước mặt quá mức thân mật, lập tức xấu hổ đến đỏ bừng cả mặt, cuống quít buông A Mạch ra, lui về phía sau hai bước, cúi đầu không dám nhìn A Mạch.
A Mạch từ khi mười lăm tuổi đã bắt đầu mặc nam trang. Cho đến bây giờ thần kinh so với dây thừng, phẩm chất cũng đã sớm không còn sai biệt lắm, làm sao không đoán ra được tâm tư của tiểu cô nương này? Còn tưởng rằng nàng sợ mình, liền dùng ống tay áo lau lau mặt, hướng về phía tiểu cô nương hắc hắc cười hai tiếng.
Nàng không cười còn tốt, nàng cười xong, tiểu cô nương lại tiếp tục lui về phía sau hai bước.
Xem tiểu cô nương kia đã bị mình dọa thành như vậy, A Mạch chẳng biết nên làm thế nào, lại nhếch miệng cười cười. Hai người đều trở nên trầm mặc, tiểu cô nương kia thấy A Mạch cũng không có hành vi nào vô lễ, lá gan mới lớn thêm một chút, nghe thấy bụng A Mạch đã đói đến mức réo ầm ĩ, tiểu cô nương lẳng lặng đứng dậy quay trở lại góc bếp, sờ soạng một hồi, rồi đưa cho A Mạch một túi nhỏ nằng nặng.
A Mạch chần chờ nhận lấy, vừa mở ra, nhìn vào bên trong, không khỏi vừa mừng vừa sợ, bên trong là năm chiếc bánh bao thơm nức. Nàng có chút không dám tin, hỏi lại: “Cho ta?”
Tiểu cô nương gật gật đầu, sợ A Mạch lại nghẹn giống như vừa rồi, liền đi lấy một bầu nước đem lại đưa cho A Mạch. A Mạch ngượng ngùng cười cười, cúi đầu nhìn mấy chiếc bánh bao trắng như tuyết, có chút luyến tiếc, không biết đã bao lâu rồi nàng chưa được nếm qua một chiếc bánh bao trắng nõn như thế này. Hiện tại hương vị ngọt ngào ấy lại thổi đến, nước bọt trong miệng lập tức trào ra. Nàng ngẩng đầu liếc mắt nhìn tiểu cô nương một cái, không nói nhiều hơn một lời cảm tạ, liền cúi đầu xuống ăn ngấu nghiến như hổ như sói. Đến khi cái bánh bao thứ ba chui vào trong bụng, động tác của A Mạch mới chậm lại, cầm cái bánh thứ tư trong tay, đang định đưa lên miệng, đột nhiên nhớ ra người ta cho mình tất cả cũng chỉ có năm cái bánh bao, sao mình đều có thể ăn hết được, nghĩ vậy lại lưu luyến đem cái bánh thả lại trong bao quần áo gói kỹ lại, cúi đầu nói: “Cám ơn”.
Ngoài cửa có ánh sáng rọi vào, chiếu trên người có chút loang lổ, A Mạch lúc này mới cẩn thận đánh giá vị tiểu cô nương kia. Chỉ thấy nàng dáng người tinh tế, nhiều lắm cũng chỉ khoảng mười bốn, mười lăm tuổi, trên mặt dường như dính nhọ nồi, đen như mực nhìn không rõ lắm, chỉ thấy một đôi mắt hắc bạch phân minh, ánh mắt thật là linh động.
Tiểu cô nương mà A Mạch đang vụng trộm ước đoán này tên là Từ Tú Nhi. Trong nhà chỉ có hai phụ tử sống nương tựa lẫn nhau. Hai ngày trước, phụ thân nàng bị quan phủ buộc đi thủ thành, cho tới bây giờ vẫn chưa thấy trở về. Về sau khi lính Bắc Mạc công thành, hàng xóm bốn bề đều đã chạy tan tác. Từ Tú Nhi vốn cũng định đào tẩu theo, nhưng lại sợ phụ thân trở về tìm không thấy mình, nên cũng không dám bỏ nhà đi. Bên ngoài, quân lính Bắc Mạc ra sức đánh giết đốt phá, Từ Tú Nhi trốn ở trong bếp đã sớm bị dọa cho sợ đến mềm nhũn cả người. Khi A Mạch sờ soạn trong nhà bếp, nàng còn tưởng là ác nhân, sợ tới mức cả người phát run, suýt nữa thì phát khóc. Giờ thấy A Mạch một chút cũng không có ý xâm phạm mình, hơn nữa ngôn ngữ có chút ôn nhu giữ lễ, mặc dù cảm thấy cùng một nam tử xa lạ ở chung trong phòng tối thực không ổn, nhưng lại có chút vững tâm trở lại, chứ không giống như vừa rồi chỉ có một mình phấp phỏng, sợ hãi.
Bên ngoài truyền đến tiếng binh lính Bắc Mạc hò hét từ xa vọng lại, Từ Tú Nhi trong lòng sợ hãi, không tự chủ được nhích lại gần A Mạch. A Mạch thấy nàng nhu nhược đáng thương, liền nhẹ giọng an ủi: “Đừng sợ, nơi đó cách chỗ này còn xa, ở đây chỉ là một gian phòng rách nát, phỏng chừng bọn họ sẽ không đến đâu.”
Vừa dứt lời chợt nghe thấy bên ngoài có tiếng người kêu lớn: “Ở bên kia, mau đuổi theo!” Ngay sau đó là tiếng hò hét càng ngày càng đến gần, dường như hướng về căn nhà này.
A Mạch trong lòng cả kinh, kéo Từ Tú Nhi chạy vào trong viện, định nấp trở lại chỗ ẩn thân vừa rồi, thân ảnh vừa vặn mới ra đến cửa phòng liền ngây ngốc ở đó, ngoài ngõ nhỏ sớm đã là ánh lửa lập lòe, hơn mười tên lính Bắc Mạc đuổi theo một viên tướng Nam Hạ ôm theo một đứa trẻ mới sinh đã đến cửa ngôi nhà.
Đến nhanh vậy sao! Hiện tại muốn trốn đã không còn kịp nữa rồi.
Trong ánh lửa chiếu rọi, A Mạch cảm thấy nam nhân bị đuổi giết kia có chút quen mắt, nhìn kỹ lại, hóa ra chính là tên giáo úy mà mình đã gặp khi mới đến thành Hán Bảo.
Đường Thiệu Nghĩa một tay bế đứa trẻ, một tay múa kiếm, vừa đánh vừa lui, vì chỉ né tránh nên thập phần bất tiện, tình thế đã là cực kỳ nguy hiểm. Khóe mắt của hắn bắt gặp A Mạch đang ngây ngốc đứng ở cửa, liền dùng sức đánh văng một tên lính Bắc Mạc ra, xoay người tung cái bọc vào lòng A Mạch, lớn tiếng quát: “Vào nhà!”
Thân thể A Mạch rung lên, trong lòng đã xuất hiện một đứa trẻ khóc oa oa. Trong lúc bối rối không kịp nghĩ nhiều, liền túm lấy Từ Tú Nhi lui về phòng trong, gắt gao đóng cửa lại. Đường Thiệu Nghĩa trong tay không còn trẻ con làm vướng bận, kiếm khí lập tức chói lòa, trong nháy mắt đã chém chết hai, ba tên lính Bắc Mạc. Đám lính Bắc Mạc bức bách khiến cho kiếm phong của Đường Thiệu Nghĩa không thấu được đến trước cửa. Không biết ai đó hô một tiếng “Phóng hỏa!”, lập tức có mấy cây đuốc ném vào trong phòng, Đường Thiệu Nghĩa vung kiếm đánh rơi mấy cây, nhưng vẫn còn một cây đuốc rơi trúng vào cửa sổ.
Cửa sổ dán giấy liền nhanh chóng bắt lửa, ngọn lửa lập tức quấn lấy song cửa sổ, khói đặc tỏa vào trong phòng. A Mạch trong lòng không ngừng kêu khổ, xem tình hình hiện tại, lũ lính Bắc Mạc hiển nhiên không muốn bắt sống, giờ mà chạy ra nhất định sẽ bị loạn đao chém chết, nhưng nếu không chạy thì ngọn lửa cũng sẽ thiêu cháy căn phòng này, cho dù không thành “Vịt nướng” thì cũng bị khói hun chết. A Mạch cúi đầu, nhìn đứa nhỏ trong lòng đã khóc không thành tiếng, cắn răng một cái đưa đứa nhỏ cho Từ Tú Nhi, rồi xoay người nhảy vọt vào làn khói đặc cuồn cuộn trong buồng trong, một lát sau quay lại, trong tay đã cầm một chiếc chăn bông cũ nát. A Mạch không giải thích nhiều với Từ Tú Nhi, vọt tới vại nước rồi nhúng chiếc chăn bông vào đó cho đẫm nước, rồi quay đầu hướng về phía Từ Tú Nhi hô: “Lại đây! Nhanh lên!”
Từ Tú Nhi cuống quít ôm đứa nhỏ chạy lại, A Mạch đem cái chăn ướt đẫm trùm lên ba người, thầm nghĩ kéo dài được chừng nào tốt chứng ấy! Hy vọng nam nhân bên ngoài kia đủ lợi hại có thể xử lý hết sạch lũ lính Bắc Mạc, bằng không thì chính mình cũng thật sự biến thành vịt nướng. Lại thấy Từ Tú Nhi bên cạnh thân thể không ngừng run rẩy, A Mạch vội đón lấy đứa nhỏ, cười cười, nói: “Đừng sợ! Nhà này bốn vách tường đều trống không, cũng chưa chắc đã bén lửa được, một hồi sẽ tự tắt thôi!”
Chịu đựng được một lúc, hai người chỉ cảm thấy bốn phía nhiệt độ càng ngày càng cao, không khí cũng càng ngày càng ít đi, A Mạch thầm nghĩ lúc này thật đúng là xong rồi, nếu phải chết cháy ở trong này, không bằng ra bên ngoài chịu một đao còn thống khoái hơn, liền hướng về phía Từ Tú Nhi hô:“Đi, chúng ta lao ra đi!”
Từ Tú Nhi lắc lắc đầu, khóc nói: “Chân ta đã nhũn ra rồi, không động đậy nổi nữa.”
A Mạch miệng mắng hai câu, đội chăn lên đỉnh đầu, một tay bế đứa nhỏ, một tay kéo Từ Tú Nhi hướng ra cửa, mới vừa đi được hai bước, cánh cửa đã bị người bên ngoài phá bung ra, cái chăn trên đỉnh đầu chăn lập tức bị kéo xuống, Đường Thiệu Nghĩa toàn thân là máu đứng ở trước mắt, trong ánh lửa càng giống như quỷ Tu La dưới địa ngục. Hắn đoạt lấy đứa nhỏ trong lòng A Mạch, liếc mắt nhìn A Mạch cùng Từ Tú Nhi một cái, đem Từ Tú Nhi xốc lên vai, xoay người phóng đi. A Mạch thấy hắn không nhìn ngó gì đến mình, cũng không buồn mắng hắn vong ân phụ nghĩa, theo hắn chạy ra khỏi phòng.
Ba người vừa vọt ra tới sân, chỉ nghe thấy âm thanh rầm rầm phía sau, ngôi nhà đã bị lửa thiêu cháy, đổ sụp xuống.
A Mạch đặt mông ngồi phịch xuống đất, nhìn ánh lửa ngút trời đến ngẩn cả người, trong lòng sợ hãi, nếu chậm một chút nữa thôi thì chỉ sợ bản thân mình đã táng mệnh trong biển lửa. Từ Tú Nhi bị Đường Thiệu Nghĩa thả xuống, cũng hoảng sợ xụi lơ trên mặt đất, một lúc sau nàng mới nhìn rõ bốn phía đều là thi thể của binh lính Bắc Mạc nằm la liệt, sợ tới mức hét lên một tiếng, nhào vào trong lòng A Mạch. A Mạch vốn định đứng dậy, mông vừa rời đất không đến hai thước(1) đã bị Từ Tú Nhi nhào đến, mông lại rơi bịch xuống đau điếng khiến A Mạch nhe răng há miệng hít hà một hơi dài. Nhìn thấy Từ Tú Nhi còn ở trong lòng mình la thét chói tai, rơi vào đường cùng đành phải cứng rắn bịt kín miệng nàng lại, thấp giọng an ủi nửa ngày mới làm cho Từ Tú Nhi an tĩnh.
Đứa nhỏ trong lòng Đường Thiệu Nghĩa vẫn khóc lớn, không biết là bị sặc khói hay là chịu hoảng sợ quá lớn. Trong lòng Từ Tú Nhi bắt đầu trào dâng lên bản năng nguyên thủy của loài người – tình mẫu tử, nên không đành lòng để đứa nhỏ khóc lên khóc xuống, đi đến bên cạnh Đường Thiệu Nghĩa nhẹ giọng nói: “Quân gia, để ta bế đứa nhỏ đi, cứ khóc mãi như vậy không tốt.”
Đường Thiệu Nghĩa đang bị tiếng khóc của đứa nhỏ này làm cho choáng váng cả đầu óc, nghe vậy liền đưa cho Từ Tú Nhi. Nói đến cũng lạ, khi đứa nhỏ kia được Từ Tú Nhi ôm vào lòng quả nhiên liền nín khóc, chỉ tròn mắt nhìn Từ Tú Nhi, Từ Tú Nhi vừa mừng vừa sợ, nhịn không được quay đầu về phía A Mạch nói: “Ngươi xem, đứa nhỏ này rất đáng yêu nha!”
A Mạch cũng thấy kỳ quái, đứng dậy đến bên Từ Tú Nhi nhìn đứa nhỏ, thấy nó bất quá chỉ là một hài tử mũm mĩm chừng tám, chín tháng, trên người quần tã được làm từ chất liệu tinh tế, vừa thấy liền biết không phải con nhà bình thường. A Mạch quay đầu liếc mắt nhìn Đường Thiệu Nghĩa một cái, thấy hắn có chút đăm chiêu nhìn về phía bên này, giật mình, nương người đến gần đứa nhỏ, ghé vào bên người Từ Tú Nhi thấp giọng nói: “Đem đứa nhỏ trả lại cho hắn, chúng ta nhanh chóng rời khỏi nơi này thôi.”
Từ Tú Nhi sửng sốt, mê hoặc nhìn về phía A Mạch, mặc dù không biết A Mạch vì sao lại làm vậy, nhưng trải qua nửa đêm ở chung, trong lòng sớm đã cực kỳ tín nhiệm A Mạch, hiện tại nghe A Mạch nói như vậy, chính là thoáng ngẩn người, rồi cũng không hỏi nhiều, liền đưa đứa nhỏ trả về cho Đường Thiệu Nghĩa: “Quân gia, đứa nhỏ này trả lại cho ngài.”
Không ngờ Đường Thiệu Nghĩa không đón lấy mà mày kiếm cau lại, lạnh giọng nói: “Người Bắc Mạc rất nhanh sẽ tìm đến, nơi này không thể ở lâu được.” Nói xong đi đến cởi quân phục trên thi thể mấy tên lính Bắc Mạc, ném một bộ cho Từ Tú Nhi, ra lệnh: “Chạy ra đằng kia mặc vào, nhanh lên!”
A Mạch thấy quả nhiên không ngoài dự liệu của chính mình, người này thấy đứa nhỏ ở trong lòng Từ Tú Nhi thì nín khóc, liền muốn để Từ Tú Nhi ôm đứa nhỏ thay hắn, vừa rồi có nhiều lính Bắc Mạc đuổi giết hắn như vậy, chỉ sợ Từ Tú Nhi theo hắn ra ngoài thì có tới tám chín phần mười là không hay ho. Bình thường A Mạch sẽ không nhàn rỗi mà quản những việc như thế này. Nhưng hôm nay, Từ Tú Nhi từng cứu mình một mạng, nàng thật sự không thể trơ mắt nhìn nàng ấy theo nam nhân này ra ngoài mà chịu chết, chỉ phải cố lấy dũng khí gượng cười nói: “Vị tướng quân này, tiểu muội tử của ta không có công phu gì, theo tướng quân ra ngoài chỉ sợ sẽ liên lụy đến tướng quân. Ta thấy ngài vẫn là nên thừa dịp quân lính Bắc Mạc còn chưa đuổi tới đây mà nhanh ôm đứa nhỏ chạy đi thôi, chúng ta quyết sẽ không nói lộ ra ngài đi về hướng nào.”
Từ Tú Nhi cũng nói: “Đúng vậy, tướng quân, ta không thể đi theo ngài, ta còn phải ở chỗ này chờ cha ta trở về, cha ta cũng là quân nhân đi thủ thành.
Chương 5
Sợ chết
Đường Thiệu Nghĩa cũng đã nhận ra A Mạch, nhìn nàng một cái rồi cười lạnh nói: “Ngươi căn bản không phải là người ở địa phương này, làm sao lại có muội tử ở đây?” Rồi quay đầu hướng về phía Từ Tú Nhi nói: “Khi thát tử Bắc Mạc công thành, tướng sĩ Nam Hạ của ta chết vô số, sau khi phá thành, bọn chúng lại ra tay giết hại tướng sĩ bốn phía, ngay cả hàng binh cũng đều bị chúng giết sạch, cha nàng chỉ sợ đã sớm không còn ở trên đời này nữa, nàng có ở lại đây cũng không đợi được ông ấy đâu!”
Đường Thiệu Nghĩa vừa dứt lời, Từ Tú Nhi kêu lên một tiếng bi thảm, thân thể mềm nhũn ngất đi. A Mạch một tay đỡ nàng, một tay đỡ đứa trẻ trên tay, trong lòng sợ hãi than thầm nha đầu kia sao cảm tình lại yếu đuối đến vậy? Rồi quay đầu hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa cả giận nói:“Nàng chỉ là một nữ tử, không oán không cừu với ngươi, ngươi làm gì mà phải ăn nói tàn nhẫn như vậy? Không nên cắt đứt tia hy vọng cuối cùng của nàng như thế!”
Đường Thiệu Nghĩa đón lấy đứa nhỏ trong tay A Mạch, đứa trẻ vừa vào tay hắn lập tức lại lớn tiếng khóc. Trên mặt Đường Thiệu Nghĩa hiện lên một tia bi thống, nhưng ngay lập tức lại trở nên kiên nghị, rồi lạnh giọng nói: “Ta cũng không gạt các ngươi nữa, đứa nhỏ này là con trai độc nhất của thủ thành Lưu đại nhân. Lưu đại nhân một nhà đều đã tuẫn tiết vì nước, ta dù gì cũng phải thay ông ấy bảo vệ huyết mạch cuối cùng này, hôm nay nàng ấy phải giúp ta đem đứa nhỏ này mang ra khỏi thành, nếu không…” Đường Thiệu Nghĩa dừng lại uy hiếp nói: “Cũng đừng trách ta không khách khí.”
A Mạch thấy hắn nói như thế, biết hôm nay bản thân mình cùng Từ Tú Nhi không có khả năng đào thoát, cũng không nhiều lời vô nghĩa, cúi đầu lấy tay ấn vào huyện nhân trung của Từ Tú Nhi, một lúc sau Từ Tú Nhi mới từ từ tỉnh lại, mở to mắt liếc nhìn A Mạch một cái, lại bắt đầu òa lên khóc.
A Mạch bị tiếng khóc của nàng làm cho tâm phiền ý loạn, lập tức bắt đầu hoài niệm bộ dạng im lặng vừa rồi của nàng ấy ở trong lòng mình. Bất quá A Mạch trong lòng mặc dù nghĩ như vậy, nhưng ngoài miệng lại tự động ôn nhu khuyên nhủ: “Đừng khóc, khóc cũng vô dụng, phải cố gắng sống sót thì phụ thân nàng nếu có xuống hoàng tuyền mới cảm thấy được an ủi. Mà biết đâu lại không có chuyện gì xảy ra với cha nàng thì sao? Ta cũng ở trên bức tường đó tham gia thủ thành nhưng vẫn còn sống mà trở xuống đấy thôi. Chúng ta trước hãy rời khỏi nơi này, chờ sau khi chiến loạn qua đi rồi trở về tìm kiếm phụ thân của nàng sau.”
Từ Tú Nhi cũng là một nữ tử kiên cường, chỉ cúi đầu khóc nức nở một lát rồi chậm rãi ngừng lại. Bên kia, Đường Thiệu Nghĩa đã thay xong một thân quân phục của lính Bắc Mạc, ném hai bộ tới, nói: “Mặc vào, nhanh lên.”
A Mạch cầm bộ y giáp Bắc Mạc trên tay, quay đầu nhìn Từ Tú Nhi đang cố gắng vận bộ giáp lên người, nghĩ nghĩ một chút rồi lên tiếng ngăn nàng lại: “Nàng không cần mặc, nàng cứ giữ nguyên như thế này là tốt rồi, tựa như đàn bà xuất giá là được.” Thấy Từ Tú Nhi cùng Đường Thiệu Nghĩa đều nghi hoặc nhìn mình, A Mạch giải thích: “Tú Nhi dáng người nhỏ gầy, có mặc quân phục vào cũng không giống lính Bắc Mạc, ngược lại càng khiến người ta hoài nghi, không bằng đóng giả một người phụ nữ có gia đình bế con, hai chúng ta liền giả dạng làm hai tên lính Bắc Mạc đốt nhà, giết người, cưỡng đoạt phụ nữ, nếu gặp đại quân Bắc Mạc tự nhiên sẽ không quản chúng ta, nếu chỉ gặp vài tên thì cũng có thể che dấu mà qua.” Trong mắt Đường Thiệu Nghĩa rõ ràng hiện lên một tia không tình nguyện, hiển nhiên là đối với loại nhân vật mà A Mạch an bài cho hắn không được vừa lòng lắm. Từ Tú Nhi nghe A Mạch nói thế cũng đỏ bừng mặt. Bất quá trong tình thế hung hiểm như thế này cũng không suy nghĩ nhiều, Từ Tú Nhi y lời A Mạch đem quân phục vừa mặc được một nửa cởi ra, cuộn tóc lại búi thành một búi trên đầu như người phụ nữ đã kết hôn. Ba người sau khi cải trang xong cũng không dám ở lại nơi này lâu, Từ Tú Nhi thì bế đứa nhỏ, A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa thì một trái một phải đỡ nàng đi.
Đứa nhỏ khóc nửa ngày đã thấm mệt từ lâu, chưa đi được xa đã ngủ gục trong lòng Từ Tú Nhi. Thừa dịp bóng đêm, ba người men theo ngõ nhỏ u ám hẻo lánh mà đi. Trên đường vài lần gặp quân lính Bắc Mạc tụ tập, cũng may Từ Tú Nhi đã sống ở nơi này từ lâu, nghe thấy động tĩnh từ xa liền kéo mọi người đi sang con ngõ khác, nhiều lần thoát khỏi hiểm nguy.
Sắc trời dần sáng, ba người chui ra khỏi ngõ nhỏ, đi vào ngã tư rộng lớn hướng ra cửa thành. Chỗ này từng là nơi phồn hoa nhất của thành Hán Bảo, vốn trước hai bên đường không thiếu gì cửa hàng, cửa hiệu, nay chỉ còn lại có một đống đổ nát thê lương. Trên đường rải rác thi thể của binh lính Nam Hạ chết trận, những phiến đá dưới chân đã sớm sũng ướt máu tươi. Trên đường đi, A Mạch chỉ cảm thấy dưới chân dẫm lên trơn trượt.
Nhưng Từ Tú Nhi thì đã sớm mềm nhũn cả chân, toàn thân dựa vào A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa ở hai bên mà đi. Mắt thấy cửa thành càng ngày càng gần, A Mạch trong lòng cũng dần khẩn trương, chỉ cần ra đến cửa thành kia là sẽ thoát khỏi cái địa ngục trần gian này. Ba người đường đường chính chính đi tới, Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên dừng cước bộ, thấp giọng nói:“Ngoài thành có người đến !”
A Mạch trong lòng cả kinh, ngay sau đó cũng nghe đến tiếng vó ngựa dồn dập từ ngoài thành vọng đến, áp lực sợ hãi trong lòng nàng đã đến cực hạn, rốt cuộc không chịu nổi, theo bản năng đã muốn xoay người chạy trốn, lại bị Đường Thiệu Nghĩa giữ lại: “Bọn họ cưỡi ngựa, chạy không kịp đâu! Trốn trước rồi nói sau!” Nói xong liền dắt Từ Tú Nhi cùng A Mạch trốn ra phía sau bức tường đổ.
Thân mình bọn họ vừa ngồi xổm xuống, đám kỵ binh kia đã vào đến cửa thành, nghe tiếng vó ngựa thì nhân số dường như không dưới bốn, năm mươi người. Đám người kia sau khi vào thành cũng đi chậm lại, mặc dù nhân số không ít, nhưng không có một chút hỗn độn nào. A Mạch chỉ cảm thấy yết hầu nghẹn lại, trái tim cũng đập hối hả kinh hoàng, thân thể Từ Tú Nhi bên cạnh đã sớm run rẩy không ngừng, gắt gao nhắm mắt, cắn chặt môi dưới của mình, chỉ sợ khóc thành tiếng. A Mạch quay đầu nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa, thấy hắn híp mắt lại, tay đã đặt sẵn lên chuôi kiếm, chuẩn bị đến thời khắc sinh tử sẽ nhảy ra ngoài.
Ba người thống khổ chịu đựng, thình lình nghe thấy bên tai truyền đến một tiếng trẻ con khóc vang dội. A Mạch cúi đầu thì thấy đứa nhỏ kia không biết đã tỉnh dậy khi nào, bụng đói đã lâu nên òa khóc lớn. A Mạch trong lòng thầm rên một tiếng, tiểu tổ tông à, thế này không phải muốn lấy mạng mọi người sao! Tiếng vó ngựa trên đường quả nhiên dừng lại một chút, sau đó chợt nghe thấy chúng chạy về hướng này. A Mạch trong lòng quýnh lên, một phen kéo lấy Đường Thiệu Nghĩa bừng bừng sát khí đang muốn đứng dậy, lại đem đứa nhỏ cho Từ Tú Nhi ôm lấy, thấp giọng quát: “Nhanh lên, mau kêu khóc đi!”
Từ Tú Nhi sớm đã bị dọa cho choáng váng, may mắn nàng đã sớm hình thành phản xạ có điều kiện đối với mệnh lệnh của A Mạch, nghe A Mạch phân phó như thế, chẳng đợi cảm xúc nổi lên, há mồm “Oa” một tiếng khóc liền. A Mạch bất chấp Đường Thiệu Nghĩa đang kinh ngạc, ôm ghì lấy Từ Tú Nhi, cố ý xé rách một bên cổ áo của nàng, cười tà nói: “Tiểu mỹ nhân đừng khóc, để đại gia ta hảo hảo thương ngươi!”
Từ Tú Nhi lập tức bị cử chỉ khác thường của A Mạch dọa cho choáng váng, trợn trừng mắt nhìn A Mạch, ngay cả khóc cũng quên mất. Trên mặt A Mạch mặc dù cười tà nhưng trong lòng lại âm thầm kêu khổ, thầm nghĩ nha đầu kia sao mà đầu óc trì độn thế, một chút cũng không biết phối hợp, như thế nào thì cũng phải vừa khóc vừa giãy dụa mới giống chứ. Nàng ta ngay cả giãy cũng không buồn giãy, thì mình còn biết diễn tiếp như thế nào đây? Không thể thật sự đem của quần áo của nàng ta lột cả xuống được! Nói gì thì nói, nha đầu kia dù không biết phối hợp, nhưng còn Đường Thiệu Nghĩa, tốt xấu gì cũng biết nàng đang diễn trò, như thế nào cũng không buồn phản ứng lại? A Mạch quay đầu, hướng về phía tên ngốc Đường Thiệu Nghĩa cười mắng: “Mẹ nó, tiểu tử nhà ngươi cũng không biết lại đây hỗ trợ ta một tay, một lúc nữa người khác nghe thấy đều lại đây, lúc đó thì còn biết phân chia –”A Mạch còn chưa nói xong, đã cảm thấy bên hông căng thẳng, ngay sau đó liền thấy đất trời đảo lộn, thân thể bay lên không trung, đụng vào nửa bức tường đổ rồi ngã nhào xuống đất, đau đến nỗi thiếu chút nữa thì hôn mê bất tỉnh.Lập tức tên tướng quân Bắc Mạc kia chậm rãi thu roi, sắc mặt lạnh lẽo dọa người, đúng là phó tướng Bắc Mạc quân Khương Thành Cánh bị Thường Ngọc Thanh thu xếp ở lại chỗ này. Sau khi phá thành quân lính không cần tuân theo quân kỷ là mệnh lệnh của Thường Ngọc Thanh, làm phó tướng, Khương Thành Cánh không có quyền sửa lại mệnh lệnh của chủ tướng. Nhưng hắn thật sự không thể trơ mắt nhìn lũ binh lính này ở trong thành đốt nhà, giết người, cưỡng hiếp phụ nữ được. Đêm qua phải trú lại ở ngoài thành nên đành phải nhắm mắt làm ngơ, vốn định buổi sáng vào thành sẽ trực tiếp chỉnh đốn lại. Ai ngờ vừa vào đến cửa thành liền bắt gặp tình cảnh như thế này lọt vào tầm mắt khiến hắn không thể chịu được.A Mạch tay vịn thắt lưng chậm rãi ngẩng đầu, vừa lúc trông thấy bộ mặt xanh mét của Khương Thành Cánh, bị ánh mắt tràn ngập sát ý của Khương Thành Cánh làm cho hoảng sợ, nguyên lai nàng nghĩ rằng nhóm người này hẳn là không buồn nhìn đến hành vi của bọn họ mà tiếp tục phóng ngựa đi qua, dù sao loại chuyện như vậy ở trong thành Hán Bảo đâu đâu cũng có thể thấy được, nếu không phải cấp trên cố ý dung túng, thì đâu có chuyện cấp dưới lại sa đọa như thế. Nhưng hôm nay làm sao vậy? Như thế nào mà vẫn còn có một tên tướng quân Bắc Mạc gặp chuyện bất bình nhất định phải rút đao tương trợ vậy? Không cần tuân theo quân kỷ, chẳng phải mệnh lệnh này là do các ngươi ban ra sao? Có bao giờ kẻ trộm lại đi bắt kẻ trộm đâu?
Sau khi Khương Thành Cánh nhìn rõ khuôn mặt A Mạch cũng hơi kinh ngạc một chút, không nghĩ tới tướng mạo của tiểu binh này lại tuấn tú như thế. Tuy rằng quốc công Nam Hạ đã từng nói: “Phải đánh giá phẩm chất bên trong chứ không nên xem hình dáng bên ngoài”, khẩu hiệu này đã lưu truyền trong thiên hạ hơn hai mươi năm qua. Song đại đa số mọi người không tự giác được vẫn trông mặt mà bắt hình dong. Nếu hôm nay người quỳ rạp trên mặt đất là một khuôn mặt đồ tể đáng khinh, phỏng chừng Khương Thành Cánh không chút do dự mà lỗ mãng quất thêm roi thứ hai, nhưng hiện tại, Khương Thành Cánh cảm thấy chính mình không xuống tay được.
A Mạch cũng kinh ngạc ngửa đầu cùng Khương Thành Cánh nhìn nhau một lát, lập tức phản ứng lại, hiện tại không phải thời điểm cùng vị tướng quân mặc ngân giáp(1) dễ nhìn này luyện mắt, cuống quít bò lại túm Đường Thiệu Nghĩa quỳ rạp xuống đất, thất thanh kêu lên: “Tướng quân tha mạng! Tướng quân tha mạng!”
Khương Thành Cánh phục hồi lại tinh thần, trong lòng lại có chút tức giận không hiểu, lạnh lùng quét mắt nhìn A Mạch một cái, đề cương dục ngựa lên nhìn Từ Tú Nhi đến nay mặt vẫn còn dại ra, không khỏi dừng lại một chút, ôn nhu nói: “Vị nương tử này, ngươi mau ra khỏi thành nhanh một chút, không cần dừng lại ở trong này.”
Từ Tú Nhi nghe lời, run run đứng lên, bế đứa nhỏ lảo đảo hướng cửa thành chạy đi. A Mạch thấy nàng bị dọa thành như vậy, nhưng vẫn không quên đứa nhỏ, âm thầm nhẹ nhàng thở ra, chỉ cần nha đầu kia ôm đứa nhỏ ra khỏi thành, còn lại nàng cùng Đường Thiệu Nghĩa vẫn dễ hành động hơn.
Khương Thành Cánh đưa tầm mắt nhìn theo bóng dáng gầy yếu của Từ Tú Nhi, không khỏi lắc đầu, tình hình rối loạn như vậy, một nữ tử ôm theo một đứa trẻ thì làm sao có thể tồn tại được? Cho dù cứu được nàng lần này, nhưng còn có lần sau sao? Khương Thành Cánh lại lạnh lùng nhìn lướt qua A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa đang quỳ rạp trên mặt đất, lạnh giọng nói: “Lần này tạm thời tha cho các ngươi, quay về doanh trại lĩnh hai mươi côn.” Nói xong hừ lạnh một tiếng, dẫn mấy chục kỵ binh tiếp tục đi vào trong thành.
A Mạch hô to “Tuân lệnh”. Đến khi đám kỵ binh kia đi xa nàng mới vội vàng đứng lên, nói với Đường Thiệu Nghĩa: “Thừa dịp không có người, chúng ta mau chạy nhanh ra khỏi thành đi thôi!”
Đường Thiệu Nghĩa nét mặt bình tĩnh không nói lời nào, vung mạnh cánh tay hướng A Mạch đánh tới, một quyền chính giữa hai má, đem thân thể A Mạch lập tức đánh bay ra ngoài. A Mạch bị hắn đánh, không lau vết máu tươi đang chảy ra nơi khóe miệng, chỉ ngẩng đầu kinh ngạc nhìn Đường Thiệu Nghĩa.
ngân giáp: giáp bạc
Chương 6Đồng hành
“Đường đường là một đấng nam nhi thân cao bảy thước, lại vì sợ chết mà hóa ra cái bộ dạng như vậy!” Đường Thiệu Nghĩa mắng: “Ở trước mặt lũ thát tử làm nhục phụ nữ Nam Hạ, trước mặt kẻ địch làm trò hề như thế, ngươi vẫn còn là nam nhân sao?”
A Mạch lẳng lặng nhìn Đường Thiệu Nghĩa, chờ hắn mắng xong mới chống tay đứng dậy, dùng tay áo lau lau vết máu nơi khóe miệng, ngay cả liếc mắt cũng không thèm nhìn Đường Thiệu Nghĩa một cái, hướng về phía cửa thành đi thẳng. Khi đi qua Đường Thiệu Nghĩa thì bị hắn cầm cánh tay kéo lại.
“Buông ra!” A Mạch thản nhiên nói.
Đường Thiệu Nghĩa mày rậm dựng đứng, sắc mặt giận dữ nói: “Ngươi?”
A Mạch trên mặt lộ ra vẻ đùa cợt cười, nói: “Ngươi mắng đúng lắm, ta thực không phải là nam nhân, ta chỉ muốn sống. Ngươi là nam nhân, đầu đội trời, chân đạp đất nhưng ngươi vì cái gì mà vẫn sống đến tận bây giờ vậy?”
Đường Thiệu Nghĩa lập tức nghẹn họng, mặt đỏ bừng, trừng mắt nhìn A Mạch nói không ra lời. A Mạch cười nhạo một tiếng, hất tay Thiệu Nghĩa ra, ưỡn lưng đi thẳng ra cửa thành. Không sai, nàng sợ chết, nàng muốn sống, để sống sót, những trò hề khó chịu hơn thế này nàng đều đã từng làm, thì quỳ gối trước mặt người Bắc Mạc đã là gì đâu?
Ngày đó, mẫu thân nàng đã từng nói: A Mạch, nhanh chạy ra sau núi, con phải sống, nhất định phải sống! Kể từ ngày đó, nàng không còn là viên minh châu trong tay phụ thân, không còn là cô con gái bé bỏng, đáng yêu trong lòng mẫu thân, giờ nàng chỉ là một người con gái dùng vải bó ngực giả nam trang mà thôi. Không còn cái gì gọi là nguyên tắc hay hổ thẹn lương tâm nữa, mà chỉ có một thứ gọi là phải sống sót!
Không được khóc, phụ thân nàng đã từng nói, khóc là biểu hiện của kẻ yếu, cho nên, nàng không thể khóc.
Đường Thiệu Nghĩa chính là giận mình vô dụng nên mới đem cơn tức giận trút thành cái tát lên mặt A Mạch. Sau lại bị A Mạch nói vài câu, đầy bụng lửa giận lại tắt ngấm. Nhìn đến bộ dạng A Mạch như thế, trong lòng càng thêm hối hận vừa rồi mính đã xúc động quá mức, vài lần muốn đi lên nói vài câu, xong lại không biết phải nói gì, chỉ cúi đầu yên lặng theo sau A Mạch.
May là quân Bắc Mạc đánh vào trong thành chỉ lo cướp phá chứ cũng không tính chiếm giữ thành này lâu dài nên cửa thành chỗ nào cũng không có lính gác. Từ Tú Nhi ôm đứa nhỏ vừa khóc vừa chạy ra khỏi thành. Đang muốn thở phào nhẹ nhõm, khi ngẩng đầu lên đã thấy lạnh cả tâm can, bên ngoài cửa thành chừng ba, bốn dặm, chỉ liếc mắt đã thấy không chỗ nào là không có doanh trại của quân Bắc Mạc? Chạy ư? Còn có thể chạy đi đâu được đây?
A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa một trước, một sau ra khỏi cổng thành. A Mạch thấy Từ Tú Nhi ngồi ở ven đường than thở, do dự một chút, vẫn là quyết tâm đi qua nàng. Vừa đi chưa được hai bước đã bị Đường Thiệu Nghĩa từ phía sau kéo lại, cả giận nói: “Tâm lượng tiểu tử nhà ngươi sao lại có thể hẹp hòi đến thế? Cho dù là ta đã trách nhầm người, ngươi cũng không nên như thế — ai? Ngươi còn khóc sao?” Đường Thiệu Nghĩa không ngờ đôi mắt A Mạch lại đỏ, cảm thấy vừa tức giận lại vừa buồn cười: “Nói ngươi không phải nam nhân ngươi còn phát hỏa. Có đại nam nhân khóc nhè như ngươi sao? Ta trách nhầm ngươi thì cùng lắm cho ngươi đánh lại, sao phải khóc như nữ nhân thế này?”
A Mạch nhếch khóe miệng hung tợn nhìn Đường Thiệu Nghĩa không thèm nói. Từ Tú Nhi ở bên cạnh cũng chậm chạp nhìn bọn họ lôi lôi, kéo kéo, càng lúc càng hồ đồ, hoang mang hỏi: “Mạch đại ca, các ngươi làm sao vậy? A? Khóe miệng của ngươi sao lại chảy máu?”
A Mạch nghiêng đầu né bàn tay của Từ Tú Nhi, lạnh lùng liếc Đường Thiệu Nghĩa. Đường Thiệu Nghĩa trên mặt có chút không nhịn được, ngượng ngùng nói: “Ngươi đánh lại ta một quyền là tốt rồi, đừng như nữ nhân khóc sướt mướt như vậy.”
A Mạch nhìn Đường Thiệu Nghĩa một lát, đột nhiên trên môi tràn hé ra một nụ cười nhàn nhạt. Đường Thiệu Nghĩa thấy nàng trong mắt mang theo lệ ý (nước mắt), trên mặt lại tươi cười hồn nhiên sáng lạn, như tia nắng xuất hiện sau cơn mưa thật động lòng, trong lúc nhất thời nhìn có chút ngây người. A Mạch trên mặt cười thản nhiên, nhẹ tay lấy chiếc mũ giáp trên đầu Đường Thiệu Nghĩa ôm ở trước ngực, tay phải âm thầm nắm chặt thành quyền hung hăng hướng về phía mặt Đường Thiệu Nghĩa phóng tới……
Một quyền này khiến Từ Tú Nhi choáng váng, lại đánh tỉnh Đường Thiệu Nghĩa. Hắn vừa rồi bất quá chỉ là nói lời đại lượng thôi, thật không ngờ A Mạch không biết xấu hổ lại đánh hắn thật. Trong cơn tức giận, hắn vung nắm đấm lên định đánh trả A Mạch một quyền, đúng lúc thấy A Mạch khẽ nhếch cằm, vênh mặt hướng hắn thị uy, khóe miệng còn hơi nhếch lên, Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên cảm thấy nóng bừng cả mặt, trừng mắt nửa ngày cũng không xuống tay nổi. Chỉ hừ lạnh một tiếng, không được tự nhiên quay đầu đi, thấp giọng lẩm bẩm: “Thực không khác gì nữ nhân. Thật đúng là cái đồ không biết xấu hổ!”
Xem bộ dáng hai người như thế, Từ Tú Nhi vừa tức vừa vội, khóc nói: “Các ngươi rốt cuộc muốn làm gì? Nếu lát nữa lại gặp thát tử Bắc Mạc thì phải làm sao bây giờ? Phía trước đều là quân doanh của chúng, chúng ta phải chạy đi đâu đây?”
Nghe nàng nói như vậy, A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa hai người đều phục hồi lại tinh thần, nhìn về phía quân doanh Bắc Mạc, không hẹn mà cùng nhíu mày.
Đường Thiệu Nghĩa nói: “Nếu quân đội Bắc Mạc đóng quân tập trung một nơi thì đối với chúng ta cũng không đáng ngại lắm. Sợ nhất là gặp phải những nhóm lính Bắc Mạc đi riêng lẻ. Ở phía Đông thành có một khu rừng rậm nối liền với một nương ngô lớn, chúng ta trước tiên đi vào rừng, sau đó đi trước thát tử Bắc Mạc một bước đến thành Thái Hưng!”
A Mạch hừ lạnh một tiếng, thầm nghĩ người này thật đúng là không nghĩ bản thân hắn chỉ là ngoại nhân. Ba người kết nhóm chạy ra khỏi thành Hán Bảo đó là vì không có cách nào khác, chứ ai lại đáp ứng cùng hắn đi đến thành Thái Hưng! Hơn nữa, đi theo cái gã hỉ nộ vô thường này, bên người lại mang theo một đứa trẻ có thể khóc bất cứ lúc nào, bảo nàng chán sống cũng chẳng sai. Lập tức, A Mạch cũng không đáp lại Đường Thiệu Nghĩa, tự mình cởi bộ quân phục trên người xuống.
Đường Thiệu Nghĩa nhìn bộ dạng này của A Mạch thấy khó chịu, nhưng vẫn nhẫn nại hỏi: “Ngươi tính thế nào?”
“Tính?” A Mạch liếc mắt một cái, thản nhiên nói:“Không tính gì hết, chỉ biết là nếu chúng ta vẫn tiếp tục mặc bộ quân phục này đứng ở cửa thành thảo luận tính toán cái vấn đề gì đó, lại bị tên tướng quân đó nhìn thấy, cho dù ta có ôm chân hắn mà khóc thì cũng không phải chỉ chịu có hai mươi gậy thôi đâu.”
Đường Thiệu Nghĩa tức khí tràn đầy, nhưng không thể không thừa nhận lời A Mạch có chút đạo lý, vì vậy cũng nhanh chóng bỏ bộ quân phục Bắc Mạc bên ngoài, lộ ra chiến bào màu xanh dính đầy máu bên trong. A Mạch cười lạnh nói: “Không biết người Bắc Mạc đối với đào binh(1) của mình tốt hơn hay là đối với địch nhân tốt hơn.”
“Đều…” Đường Thiệu Nghĩa cũng phát hỏa, cả giận nói: “Ngươi tâm lượng sao lại hẹp hòi như vậy? Ngươi đã đánh trả ta, giờ còn muốn như thế nào nữa? Từ cô nương đi không nổi, ta phải cõng nàng, ngươi bế đứa nhỏ, chúng ta đi nhanh lên, đỡ phải một hồi lại gặp thát tử Bắc Mạc mà khởi mầm tai vạ!”
A Mạch cười lạnh: “Ngài chính là nam tử hán đầu đội trời, chân đạp đất, sao lại để cho một kẻ vô sỉ như ta thay ngài bế đứa nhỏ? Vẫn là ngài tự mình bế nó đi!” Nói xong xoay người xuống đại lộ hướng đông mà đi.
Đường Thiệu Nghĩa cả giận nói: “Từ cô nương phải làm sao bây giờ?”
A Mạch quay lại nhìn Đường Thiệu Nghĩa cười nói: “Đó cũng là bạn tốt của ngài mà, ngài cõng Từ cô nương, Từ cô nương bế đứa nhỏ không phải là được rồi sao? Ngài là đại trượng phu, còn không gánh vác nổi một chút phân lượng đó sao?” A Mạch cảm thấy trong lòng thật vui sướng, thỏa mãn cười to hai tiếng, xoay người mà đi. Vừa đi chưa được hai bước liền cảm thấy một trận gió lạnh kề sát bên tai, thân thể nàng lập tức cứng lại, sắc mặt trắng bệch―― trước mặt nàng xuất hiện một thanh kiếm cắm trên mặt đất không đầy năm thước(2), chuôi kiếm vẫn không ngừng lay động.
Đường Thiệu Nghĩa đem đứa nhỏ nhét vào trong tay A Mạch: “Bế lấy nó!” Nói xong bước lên hai bước, rút kiếm tra vào vỏ, trở lại nhấc Từ Tú Nhi vẫn còn choáng váng lên lưng, đi đến bên A Mạch, lạnh lùng nói: “Đi mau một chút!”
“Được” A Mạch thành thành thật thật lên tiếng, cất bước ở phía sau.
————————————-
Từ thị, thê tử của Mạch soái, cũng là người Hán Bảo. Mùa thu năm Đinh Ngọ, Bắc Mạc công thành Hán Bảo, Mạch soái cầm gậy gỗ lên tường thành, giết chết rất nhiều địch quân. Địch soái Thường Ngọc Thanh bắn tên trúng đỉnh mũ giáp của ngài. Thành bị phá, Mạch soái thân mang mười bảy vết thương, kiệt lực, ẩn thân trong nhà dân, vì thế mà hạnh ngộ Từ thị. Từ thị cứu Mạch soái thoát khỏi loạn quân. Mạch soái cảm cái ân nghĩa này, lấy thân báo đáp……
———–[ Hạ sử -- Mạch soái liệt truyện ] ——————
————————————————————————————————–
(1) đào binh: lính đảo ngũ
(2) năm thước: khoảng 1m
Chương 7
Ủy thác
Phía đông thành Hán Bảo là một ngọn núi nối liền với dãy núi Mạt Chi thuộc phía bắc Nam Hạ, cao nguyên Vân Hồ và sông Bình Nguyên. Đại khái hành trình theo hướng tây bắc – đông nam, bắt đầu từ phía bắc sườn núi Lĩnh Nam nối tiếp đến sông Uyển, kéo dài hơn bảy trăm dặm, thế núi phía nam của Bắc Triều có xu hướng thấp dần, đến ngoài thành Hán Bảo thì địa thế núi rừng đã bớt hiểm trở đi rất nhiều.
Đám người A Mạch sau khi đi vào trong rừng đều thở phào nhẹ nhõm, đó là loại cảm giác tìm được đường sống trong chỗ chết. Trong thời gian ngắn, chỉ cần quân lính Bắc Mạc không đi săn thú để tiêu khiển, thì coi như tính mạng của họ tạm thời được bảo vệ. Cũng may, hiện tại là thời tiết đầu thu, trong rừng có không ít quả dại đã chín, ba người hái ăn tạm cũng no bụng, Từ Tú Nhi thận trọng chọn chút quả dại ngọt, nhiều nước, nhai nát một chút rồi mớm vào miệng đứa trẻ.
“Trang bị của đại quân thát tử không thể xuyên qua rừng rậm, cho nên bọn họ chỉ có thể đi theo hướng nam rồi vòng qua dãy núi này, sau đó quay lại thành Thái Hưng. Như vậy, bọn thát tử phải mất ít nhất ba ngày mới tới được thành Thái Hưng. Chúng ta chỉ cần đi tắt qua khu rừng này là có thể đến thành Thái Hưng trước chúng.” Đường Thiệu Nghĩa vừa nói, vừa dùng nhánh cây khoa tay múa chân vẽ ngoạch ngoạc trên mặt đất. Điều kiện thông tin trong thời đại này bị giới hạn, cho nên một viên giáo úy đóng quân trong một thành nhỏ như Đường Thiệu Nghĩa căn bản không thể nhận thức đầy đủ về cuộc chiến giữa Bắc Mạc và Nam Hạ. Hắn chỉ căn cứ theo đường tấn công của đại quân Bắc Mạc do Thường Ngọc Thanh làm chủ tướng, suy đoán mục tiêu tiếp theo của quân Bắc Mạc hẳn là thành Thái Hưng. Nhưng Đường Thiệu Nghĩa không biết rằng từ trước khi thành Hán Bảo bị hạ, thì thành Thái Hưng đã bị một cánh quân Bắc Mạc khác vây khốn rồi.
A Mạch ngồi một bên yên lặng nghe, ngẫu nhiên ngẩng đầu liếc nhìn Đường Thiệu Nghĩa, sau đó tiếp tục cúi đầu cắn quả táo xanh trong tay, đối với cảm giác đói khát, nàng đã từng khắc sâu ấn tượng, cho nên mỗi khi có cơ hội, nàng luôn không tự chủ được muốn ăn càng no càng tốt.
Thái độ này của A Mạch hiển nhiên chọc giận Đường Thiệu Nghĩa, hắn cầm nhánh cây trong tay, hung hăng vứt trên mặt đất, hỏi:“A Mạch, ngươi nghĩ thế nào?”
“Hả?” A Mạch ngẩng đầu, lập tức tươi cười lấy lòng: “Đường đại gia, ngài đang hỏi ý kiến của tiểu nhân?”
Đường Thiệu Nghĩa xanh mặt gật đầu, A Mạch trên khóe miệng thấp thoáng ý cười mỉa mai, nhưng trên miệng trước sau như một vẫn nói lời cung kính: “Nhưng Đường đại gia, ý kiến của tiểu nhân hữu dụng sao?”
Dựa theo ý tứ của A Mạch, tất nhiên là cách chiến trường càng xa càng tốt, không nghĩ tới Đường Thiệu Nghĩa lại muốn cùng nàng thương lượng những vấn đề trên chiến trường. A Mạch trong lòng thật muốn chửi má nó, chỉ muốn dùng vũ lực với Đường Thiệu Nghĩa, nhưng cũng không dám biểu hiện ra ngoài, chỉ ở trong lòng cân nhắc tính toán cơ hội đào tẩu.
Đường Thiệu Nghĩa bị lời nói không âm không dương của A Mạch làm cho nghẹn họng, có chút xấu hổ. Kỳ thật vấn đề đi về nơi nào hắn cũng không cần phải hỏi ý kiến của A Mạch. Không biết có phải là trải qua một ngày đêm chém giết đã hao phí của hắn nhiều tinh lực hay không, mà giờ đây, tinh thần vốn cứng rắng của hắn lại có chút mỏi mệt, không tự giác được muốn ỷ lại vào sự duy trì của người khác. Hắn nhìn chăm chú A Mạch thật lâu, vẻ mặt tức giận rốt cục hóa thành thất vọng, hắn thở dài một tiếng, nói: “Mỗi người một chí hướng, ngươi nếu muốn chạy trốn thì cứ chạy đi, Từ cô nương nếu cũng muốn cùng đi với ngươi thì mong ngươi hãy chiếu cố cho nàng.”
Đường Thiệu Nghĩa nói xong liền đi đến bên người Từ Tú Nhi ôm lấy đứa nhỏ, thấy A Mạch giật mình nhìn mình, không khỏi cười khổ nói: “Ngươi thực ra không phải là quân nhân, ta sao có thể bắt ngươi cùng ta ra trận chém giết, là ta sai rồi, các ngươi nhanh trốn đi, từ đây xuyên qua dãy núi này đi về phía đông bắc là đến Dự Châu, các ngươi –”
Lời còn chưa dứt, cánh rừng bên cạnh đột nhiên truyền đến tiếng người nói ồn ào, ba người trong lòng đều cả kinh. Chẳng lẽ là truy binh của Bắc Mạc. Đường Thiệu Nghĩa liếc mắt nhìn, thấy ở xa xa mơ hồ có bóng người, lại nhét đứa nhỏ vào tay A Mạch, thấp giọng nói: “Ngươi mang đứa nhỏ này cùng Từ cô nương đi trước, ta đi đánh lạc hướng truy binh.”
A Mạch trong lòng hoảng loạn, không kịp nói gì, liền buộc đứa nhỏ lên lưng, kéo Từ Tú Nhi chạy đi, mới vừa đi không vài bước lại nghe thấy Đường Thiệu Nghĩa ở phía sau thấp giọng gọi nàng, A Mạch dừng lại, thấy Đường Thiệu Nghĩa đuổi theo đem bội kiếm nhét vào trong tay A Mạch: “Trong rừng có dã thú, kiếm này cho ngươi phòng thân.” Đường Thiệu Nghĩa nói xong, ánh mắt thâm sâu nhìn thoáng qua đứa trẻ trên lưng A Mạch nói: “Đứa trẻ này là Lưu Minh, là đứa con mồ côi của Lưu Cạnh đại nhân, Lưu đại nhân cả nhà trung liệt, mong rằng Mạch huynh có thể bảo toàn tính mạng của nó. Lúc này Thiệu Nghĩa thay Lưu đại nhân cảm tạ Mạch huynh!” Nói xong, Đường Thiệu Nghĩa quỳ hai chân trên mặt đất, hướng A Mạch khấu đầu một cái.
A Mạch nhất thời kinh ngốc, vội vàng đỡ Đường Thiệu Nghĩa dậy: “Đường tướng quân, mau đứng lên, ngươi yên tâm, A Mạch xin thề chỉ cần ta còn sống, sẽ không vứt bỏ đứa nhỏ này.”
Đường Thiệu Nghĩa vui mừng cười, hắn chính là sợ A Mạch đến thời điểm nguy nan, sẽ ngại đứa nhỏ này làm liên lụy mà đã bỏ rơi nó, nay có được lời thề này của A Mạch, trong lòng cuối cùng đã an tâm, hắn đẩy A Mạch một cái, nói: “Đi mau!”
A Mạch thấy Đường Thiệu Nghĩa đem bội kiếm giao lại cho mình, biết hắn đã hạ quyết tâm liều chết cũng phải dẫn dắt truy binh rời đi, trong lòng cũng bị hùng tâm bi tráng của Đường Thiệu Nghĩa cuốn hút, mắt thấy tiếng người ngoài rừng càng ngày càng gần, A Mạch cũng không dông dài, hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa gật đầu, cắn răng một cái kéo Từ Tú Nhi chạy sâu vào trong rừng.
Không lâu sau khi thân ảnh của A Mạch cùng Từ Tú Nhi biến mất ở trong rừng rậm, binh lính Bắc Mạc từ bên ngoài hướng vào trong rừng, có vẻ cũng không phát hiện ra đám người của A Mạch, tản ra ở bìa rừng, một bên chặt những cành cây vướng víu một bên hướng vào trong rừng tản đi. Đường Thiệu Nghĩa nấp sau một thân cây lớn thầm cân nhắc, chỉ chờ truy binh Bắc Mạc đến gần sẽ giết chết vài tên rồi sau đó dẫn bọn họ chạy ngược lại với hướng đi của A Mạch.
Binh lính Bắc Mạc không ngừng dũng mãnh tiến vào trong rừng. Đường Thiệu Nghĩa đã tính toán quá đơn giản. Có ít nhất có mấy trăm tên lính Bắc Mạc tiến vào rừng, hắn mặc dù vừa ở trên chiến trường chém giết, giờ phút này đã hạ quyết tâm liều chết, nhưng nhìn thấy có nhiều lính Bắc Mạc đuổi giết mình như vậy, cũng không khỏi có chút kinh hãi, lại thấy một tên giáo úy nho nhỏ như mình lại có thể khiến Bắc Mạc đưa nhiều truy binh như vậy để đuổi bắt thì cũng thật là oai phong. Trong lòng vừa dâng chút khiếp ý lập tức liền bị cảm xúc hào hùng vô hạn này ép xuống. Đường Thiệu Nghĩa dùng sức nắm chặt khúc gỗ trong tay, chỉ chờ lính Bắc Mạc đến gần sẽ nhảy xuống chém giết một phen.
Ai ngờ những tên lính Bắc Mạc này khi còn cách Đường Thiệu Nghĩa mấy chục trượng liền dừng lại. Đường Thiệu Nghĩa có chút buồn bực, nhìn xuyên qua kẽ lá thì thấy lũ lính Bắc Mạc bắt đầu chặt cây, chúng chỉ chặt toàn cây nhỏ rồi kéo ra bìa rừng. Đường Thiệu Nghĩa nhất thời cũng có chút hồ đồ ……
Lại nói, sau khi A Mạch kéo Từ Tú Nhi hướng vào trong rừng rậm chạy đi, coi như Lưu Minh cũng rất nể tình, dọc đường đi không hề khóc, cũng may Từ Tú Nhi sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, mặc dù lớn lên có chút nhu nhược, nhưng công phu chạy cũng không thể coi thường, ngay cả khi bị A Mạch kéo chạy như bay cũng không bị ngã xuống lần nào. Hai người gắng sức chạy non nửa canh giờ, đến lúc không còn khí lực tiến lên phía trước nữa, thì Từ Tú Nhi lập tức kêu lên một tiếng rồi ngã lăn xuống đất. A Mạch cũng cúi gập thắt lưng ôm lấy một thân cây, há to miệng thở dốc, chỉ duy nhất thằng bé Lưu Minh trên lưng A Mạch là i, i, ô, ô tựa hồ rất vui vẻ.
A Mạch quay đầu nhìn thằng bé một cái, thấy nó toét miệng cười, bất đắc dĩ lắc lắc đầu, tiếp tục dựa vào thân cây thở hổn hển. A Mạch cùng Từ Tú Nhi còn chưa thở xong thì chợt nghe thấy âm thanh sột soạt trong rừng truyền đến. A Mạch trong lòng hoảng sợ, không biết là dã thú hay truy binh Bắc Mạc đuổi theo, nàng không một tiếng động nhìn về phía Từ Tú Nhi, Từ Tú Nhi sắc mặt trắng bệch khẽ lắc lắc đầu, thật sự là chạy không nổi nữa rồi. A Mạch gắt gao mím môi, hai tay dùng sức nắm chặt thanh kiếm của Đường Thiệu Nghĩa, chậm rãi đứng trước người Từ Tú Nhi.
Khi nhánh cây bị đẩy mạnh ra, một thân ảnh cao lớn đột nhiên xuất hiện, trong nháy mắt, đầu A Mạch trở nên trống rỗng, thanh kiếm trong tay lập tức rơi xuống.
————————- phân cách tuyến ——————————–
Không thể nghĩ tới kẻ đuổi theo đằng sau chính là người mà A Mạch cùng Từ Tú Nhi đều cho rằng có lẽ đã chết, Đường Thiệu Nghĩa.Thần kinh A Mạch vốn căng thẳng cực điểm lập tức thả lỏng, vì quá căng thẳng mà chân chợt mềm nhũn, thân thể lảo đảo quỳ xuống trên mặt đất. Từ Tú Nhi nhìn thấy Đường Thiệu Nghĩa vẫn còn sống và đuổi theo thì vừa mừng vừa sợ, nhưng lại nhịn không được òa khóc nức nở. Hốc mắt A Mạch cũng có chút nóng lên, hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa khẽ nhếch miệng, lần đầu tiên mỉm cười một cách thật lòng. Đường Thiệu Nghĩa tiến lên nâng A Mạch dậy, trong lúc nhất thời hai người đều trầm mặc, chỉ có hai tay vẫn gắt gao nắm chặt, còn hơn thiên ngôn vạn ngữ. Một lát sau, Đường Thiệu Nghĩa mới buông lỏng tay ra, nhìn A Mạch cùng Từ Tú Nhi mặt xám mày tro, một thân chật vật, nhịn không được cũng khẽ mỉm cười.
Không đợi A Mạch hỏi, Đường Thiệu Nghĩa liền đem hành động kỳ quái của quân lính Bắc Mạc ra kể lại. A Mạch trong lòng cũng thấy kỳ quái, nếu quân Bắc Mạc chế tạo khí giới để công thành thì vì sao không chặt những cây to, ngược lại chỉ chặt những cành cây nhỏ làm chi? Hơn nữa, ngoài thành Thái Hưng cũng có một khu rừng lớn, sao không đợi đến khi tới thành Thái Hưng rồi mới chế tạo khí giới công thành? Ở nơi này chế tạo khí giới công thành Thái Hưng liệu có sớm quá không?
“Nơi này cách khu rừng bên cạnh không xa, chúng ta đi tiếp, đợi lên đến đỉnh núi thì sẽ quan sát hành động của thát tử Bắc Mạc.” Nghe A Mạch nói, Đường Thiệu Nghĩa gật gật đầu, đi đến trước mặt Từ Tú Nhi vẫn đang ngồi dưới đất nói: “Từ cô nương, để ta cõng ngươi đi.”
Từ Tú Nhi sắc mặt có chút đỏ bừng, vụng trộm liếc A Mạch một cái. Tiểu cô nương này vừa rồi khi A Mạch cầm kiếm che trước người mình, tâm tư liền bắt đầu có biến hóa. Nàng vội vàng đứng lên, nói: “Không cần Đường tướng quân phải nhọc sức, ta tự mình đi là được.” Nói xong kiên cường đi lên phía trước, nhưng mới vừa đi chưa được hai bước chân đã mềm nhũn ngã xuống.Từ Tú Nhi mắt lệ trong suốt nhìn về phía A Mạch, A Mạch làm sao có thể hiểu được tâm tư của tiểu cô nương này, chỉ nghĩ Từ Tú Nhi vì e ngại lễ pháp mới không chịu để cho Đường Thiệu Nghĩa cõng nàng, nhịn không được hơi hơi nhíu nhíu mày, nói: “Hiện tại là lúc phải chạy trối chết, sao còn chú ý nhiều như vậy, ta còn đang ước gì có người đến cõng ta đây này!”Đường Thiệu Nghĩa tiến đến trước mặt Từ Tú Nhi ngồi xổm xuống: “Mau lên đi.” Hắn nói.Từ Tú Nhi lần này nghe lời ghé lên lưng Đường Thiệu Nghĩa, A Mạch lại đem thằng bé Lưu Minh buộc ở sau lưng, vung kiếm chém những cành cây chắn đường. Bốn người vừa lớn vừa nhỏ đi lên đỉnh núi. Núi mặc dù không cao, nhưng rừng rậm khó đi, nên khi đoàn người lên đến đỉnh thì cũng mất một thời gian khá lâu. Dưới chân núi, quân lính Bắc Mạc ở bìa rừng cũng đã chặt cây xong và rời đi. Nhìn về phía xa hơn, quân Bắc Mạc cũng đã nhổ trại, đại quân người ngựa rời khỏi thành Hán Bảo đang chậm rãi đi về hướng nam. Dưới gót ngựa, tro bụi mù mịt cuốn lên trong không trung, khiến cho đội quân Bắc Mạc giống như một con Hoàng Long(1) khổng lồ, uốn lượn thành một đoàn dài.
Chú thích:
(1) Hoàng Long: rồng vàng. Có một số bạn thắc mắc về đoạn chữ in nghiêng ở cuối một số chương truyện. Mình xin giải thích như sau, trong phần giới thiệu đơn giản, tác giả có đề cập rằng “A Mạch tòng quân” là một cuốn sách ghi chép lại tất cả những câu chuyện liên quan đến một người con gái đóng giả nam trang tòng quân đánh giặc. Chính văn trong các chương là để kể lại câu chuyện này theo thứ tự thời gian từ quá khứ cho đến hiện tại của A Mạch. Còn phần in nghiêng có thể là hồi ức của A Mạch, hoặc của một nhân vật khác hoặc lời bình của chính tác giả liên quan đến nội dung trong chương đó.
Chương 8
LỐI RẼ
A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa đưa mắt nhìn nhau, cả hai đều thấy được tia hoảng sợ trong mắt người kia. Từ Tú Nhi thì kinh hãi há to miệng, hơn nửa ngày mới thì thào nói: “Trời ạ, thát tử Bắc Mạc rốt cuộc là có bao nhiêu người đây!”
Những lời này làm cho Đường Thiệu Nghĩa dần dần bình tĩnh lại, hắn lập tức cảm thấy xấu hổ vì đã biểu lộ nỗi khiếp đảm của mình, len lén nhìn A Mạch rồi hừ lạnh một tiếng nói: “Cho dù thát tử thực sự có tới mười vạn đại quân đi chăng nữa, thì muốn hạ thành Thái Hưng cũng chỉ là si tâm vọng tưởng mà thôi. Thành Thái Hưng thành cao hào sâu, để so sánh thì một thành Hán Bảo nho nhỏ còn xa mới có thể sánh bằng! Chỉ bằng mười vạn nhân mã đã nghĩ có thể vây khốn thành Thái Hưng của ta sao? Hừ! Quả thực chính là không biết trời cao đất rộng!”
Ha, ngữ khí rõ ràng là cao ngạo, nhưng khóe miệng cứng nhắc đã tiết lộ nội tâm đang khẩn trương lo lắng của hắn. A Mạch quét mắt nhìn hắn, trên mặt mặc dù không tỏ vẻ gì, nhưng trong lòng đã có chút cho là không đúng, thầm nghĩ “nếu thành Thái Hưng thật sự là không gì phá nổi, vậy thì cùng với việc ngươi chạy đi báo tin cũng chẳng có quan hệ gì! Ngươi sao mà phải vội?” Vừa nghĩ đến đây, trong đầu A Mạch chợt hiện lên một tia sáng, chạy nhanh lại nhìn kỹ con Hoàng Long uốn lượn dưới núi, nhìn đi nhìn lại, lông mày liền gắt gao nhíu lại.
Nam Hạ không có chiến mã, phần lớn đều phải mua từ thảo nguyên Tây Hồ, đến tổ kiến cũng biết kỵ binh của Nam Hạ đang đóng quân ở biên giới phía Bắc cùng Bắc Mạc giằng co. Chỉ có một ít kỵ binh được bố trí theo đại quân, trong đó phần lớn dùng làm quân trinh sát, theo như lời thám báo báo lại thì kỵ binh tham chiến lần này của Nam Hạ có quy mô rất nhỏ. A Mạch khi ở trên tường thành Hán Bảo, đã từng chứng kiến qua đội quân kỵ binh của Bắc Mạc khiến cho lòng người run sợ, lúc ấy chỉ lo sợ hãi, lại chưa từng cẩn thận nghĩ xem Bắc Mạc lần này xâm lược Nam Hạ vì sao lại phái nhiều kỵ binh như vậy? Phải biết rằng ưu điểm của kỵ binh là ở tính cơ động, khi dã chiến sẽ phát huy uy lực rất tốt. Nhưng làm gì có ai dùng kỵ binh để công thành đâu? Dù sao vó ngựa không gắn theo giác hút nên không thể trèo lên tường thành được! Nay nhìn đến bụi vàng bay lên trong không trung, đại quân kỵ binh của Bắc Mạc mơ hồ kéo thành một hàng dài, lại nhớ đến hành vi kỳ quái của quân lính Bắc Mạc ở trong rừng sáng nay, trong đầu A Mạch dần dần hiểu ra một chuyện: người Bắc Mạc đang dùng gian kế để che mắt thế gian! Việc làm này chứng tỏ mục tiêu tiếp theo của “Mười vạn đại quân” tuyệt đối sẽ không phải là Thái Hưng thành cao hào sâu. Bất quá đại quân chính thức đã sớm rời đi đâu thì không biết được!
Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch vừa rồi chỉ thản nhiên liếc mắt nhìn mình một cái, thế nhưng không hề phụ họa theo, trong lòng mơ hồ có chút bất mãn, nay nhìn thấy A Mạch cau mày, trong lòng không nén được tò mò, đành nhẫn nhịn hỏi: “Làm sao vậy?”
A Mạch nhíu mày, quay đầu nhìn về phía Đường Thiệu Nghĩa, trong đầu nhanh chóng xoay chuyển các loại ý niệm trong đầu, nhất thời không nói ra chủ ý mà mình vừa suy đoán ra. Đường Thiệu Nghĩa ở trong quân đã lâu, sớm luyện thành thói quen mọi việc phải biết cho đến nơi đến chốn, bình thường không gặp chính là bộ dạng muốn nói lại thôi. Hiện nay gặp phải lại chính là thái độ này của A Mạch, trong lòng không khỏi có chút chán ghét, càng tức giận hỏi: “Có chuyện gì thì mau nói ra, đừng có học cái bộ dạng của nữ nhân như thế!”
A Mạch vốn đang có chút mâu thuẫn, nghe Đường Thiệu Nghĩa nói như vậy, lập tức áp chế chút nhiệt huyết này ở trong lòng, trên mặt lộ ra biểu tình thập phần thành khẩn, ra vẻ lo lắng hỏi:“Đường tướng quân, thát tử tiến lên nhanh như vậy, chúng ta thật sự có thể đến thành Thái Hưng trước chúng được sao?”
Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch lo lắng vấn đề này, không khỏi cảm thấy có chút buồn cười, bất mãn trong lòng lập tức tan đi, vỗ vỗ lên vai A Mạch, cười nói: “Không thành vấn đề.” Rồi dừng một chút, chợt nhớ ra A Mạch vốn không muốn theo hắn đến Thái Hưng, có chút kinh ngạc hỏi: “A Mạch, ngươi muốn theo ta đến Thái Hưng sao?”
A Mạch vẻ mặt trung nghĩa, mở to hai mắt, nghiêm mặt nói: “Tất nhiên, A Mạch ta tuy là kẻ quê mùa thô kệch, không hiểu cái gì là đạo lý lớn lao, nhưng đối với đảm lượng của Đường tướng quân lại vô cùng bội phục. Đường tướng quân mang theo đứa con mồ côi của Lưu đại nhân lao vào vòng vây của định, vung trường kiếm giữa đám loạn quân mà đi, một thân can đảm, thật sự khiến cho A Mạch hổ thẹn. Nay quốc gia gặp nạn, ta đường đường là một thân nam nhi Nam Hạ, sao có thể chỉ lo cho an nguy của bản thân mà không lý gì đến sự tồn vong của quốc gia? Lần này đi thành Thái Hưng, A Mạch cho dù không thể ra trận giết địch, nhưng ít nhất cũng có thể vì giữ thành Thái Hưng mà cống hiến một phần sức lực!”
Một phen ngôn ngữ kêu choang choang này của A Mạch vừa nói xong, chẳng nói đến Từ Tú Nhi đã cảm động đến nước mắt rưng rưng, lần đầu tiên dùng ánh mắt ngưỡng mộ nhìn người anh hùng A Mạch, mà ngay cả Đường Thiệu Nghĩa cũng ra sức vỗ vai A Mạch, mím môi, gật gật đầu.
A Mạch đem thằng bé Lưu Minh buộc lại sau lưng, nói: “Đường tướng quân, chúng ta đi thôi, nhất định phải vượt trước bọn thát tử để tới thành Thái Hưng, khiến cho thành Thái Hưng có thể phòng bị trước! Chúng ta sẽ đứng ở trên tường thành chờ bọn thát tử, xem mười vạn đại quân của bọn chúng có thể làm gì được chúng ta!”
Nói vừa dứt lời, A Mạch cũng cảm thấy mình thật vô sỉ, nhất là khi nhìn đến ánh mắt ngượng ngùng hàm ẩn sự sùng bái của Từ Tú Nhi lại càng thấy hổ thẹn hơn. Nàng vốn suy đoán quân Bắc Mạc tấn công Thái Hưng chỉ là giả, như vậy vượt trước quân Bắc Mạc để tới thành Thái Hưng ngược lại chính là sự lựa chọn an toàn nhất. Thành Hán Bảo đã không thể trở về, không nói đến cả thành toàn người chết, riêng nạn trộm cướp sau khi thành bị phá đã là vấn đề rất lớn. Hiện tại xem ra cần nhanh chóng đi tới Thái Hưng, sau đó thừa lúc chiến loạn vượt qua sông Uyển trốn về hướng Nam mới là chính đạo. Sông Uyển vốn hiểm trở, cho dù người Bắc Mạc có chiếm hết toàn bộ Giang Bắc rồi đánh xuống dưới, thì trong thời gian ngắn cũng không thể vượt qua sông Uyển được, lựa chọn Giang Nam để tránh chiến loạn quả không sai.
Đường Thiệu Nghĩa cùng Từ Tú Nhi làm sao biết được tính toán này của A Mạch. Từ Tú Nhi giờ đã xem A Mạch như là một hình tượng nam nhân đầu đội trời, chân đạp đất đầy nhiệt huyết nam nhi. Cái nhìn của Đường Thiệu Nghĩa đối với A Mạch cũng thay đổi rất nhiều, cho rằng thái độ sợ chết của nàng trước đó chỉ là hành vi khiếp đảm nhất thời, hiện tại đã suy nghĩ cẩn thận lại, nhiệt huyết dâng lên, tự nhiên lại thành một người lính Nam Hạ vì nghĩa lớn!
Ba người không nói nhiều, dọc theo đường núi gập ghềnh đi về hướng đông nam, thầm nghĩ nhanh chóng tới thành Thái Hưng. Từ Tú Nhi không chịu để cho Đường Thiệu Nghĩa tiếp tục cõng trên lưng nữa, mà nhất quyết tự mình đi, Đường Thiệu Nghĩa thấy nàng đã hồi phục lại thể lực nên cũng không cõng nàng nữa. Dọc đường A Mạch vẫn địu Lưu Minh trên lưng, tuy nói rằng trẻ con không nặng là bao, nhưng đường xa thì bất kể là nặng hay nhẹ, sau lưng A Mạch quần áo đã sớm thấm ướt mồ hôi. Vì thế Đường Thiệu Nghĩa liền tiếp lấy đứa nhỏ trên lưng A Mạch rồi cõng lấy. Cứ như vậy, tốc độ của ba người nhanh lên không ít.
Đi đến giữa trưa, ba người đã vượt qua đỉnh núi. Đường Thiệu Nghĩa thấy A Mạch cùng Từ Tú Nhi đều mỏi mệt, Lưu Minh trên lưng mình cũng bắt đầu khóc nháo lên, liền tới gần một con suối ngồi nghỉ chân. Lúc này là thời tiết đầu thu, nước suối trong vắt, róc rách từ trên núi chảy xuống, núi đá tỏa ra chút hơi nước, làm cho người ta nhìn thấy liền thấy nhẹ nhàng khoan khoái.
Từ Tú Nhi ở bên suối rửa mặt sạch sẽ, sau đó bế đứa bé trên lưng Đường Thiệu Nghĩa xuống, cẩn thận chăm sóc. Đường Thiệu Nghĩa thì úp mặt xuống suối, kết hợp luôn cả uống nước và rửa mặt. A Mạch ở dưới suối rửa tay, vốn định vớt nước lên rửa mặt, khi cúi đầu nhìn thấy hình ảnh chính mình trong nước, nghĩ nghĩ một chút lại từ bỏ ý định, chỉ uống mấy ngụm nước suối ngọt lành. A Mạch vẫn còn mấy quả dại hái ở trong rừng, giờ lấy ra chia cho Đường Thiệu Nghĩa cùng Từ Tú Nhi cùng ăn, Từ Tú Nhi tất nhiên lại chọn lấy mấy quả ngon nhất mớm cho Lưu Minh. A Mạch cầm lấy phần của mình, một mình ngồi bên dòng suối mà ăn, ánh mắt thỉnh thoảng lại nhìn theo mấy con cá nhỏ đang nhẹ nhàng bơi qua bơi lại trong làn nước, chỉ muốn làm thế nào có thể đi bắt được một, hai con ăn cho đỡ thèm. Nàng đã là nhiều ngày rồi không được ăn mặn, sớm đã thèm đến nỗi hai mắt tỏa hào quang.
Đường Thiệu Nghĩa cúi đầu nhìn hai quả trám trên tay, trong đầu vẫn nghĩ đến hành động kỳ quái của quân Bắc Mạc ở trong rừng, chặt nhiều cành cây như vậy, không biết bọn thát tử định sử dụng vào việc gì, nghĩ tới nghĩ lui, Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên biến sắc mặt.
Trong đầu A Mạch vẫn còn thèm thuồng mấy con cá dưới khe suối, chợt nghe thấy Đường Thiệu Nghĩa “Ai nha!” một tiếng đầy hoảng sợ, gấp gáp nhìn về phía hắn, chỉ thấy Đường Thiệu Nghĩa nắm chặt quyền đứng lên, vòng vo tại chỗ hai vòng, sau hướng về phía A Mạch oán hận nói: “Trúng gian kế của thát tử rồi! Bọn thát tử chặt cành cây chính là buộc ở sau đuôi ngựa nhằm che mắt người khác. Tấn công thành Thái Hưng là giả, chỉ sợ bọn chúng lại có dụng tâm khác!”
Đường Thiệu Nghĩa nói xong, A Mạch thiếu chút cũng “Ai nha” theo. Một tiếng thốt ra, bất quá câu “ai nha” của nàng là vì Đường Thiệu Nghĩa như thế nào lại nghĩ ra nhanh như vậy? Nàng nên làm cái gì bây giờ? Vừa rồi mạnh miệng nói thế, lúc này biết làm thế nào để thu hồi lại đây? Trong lòng vốn nghĩ họ Đường chỉ là một tên thất phu lỗ mãng, giờ đối với hắn đã đánh giá cao hơn một chút.
A Mạch thấy bộ dạng của Đường Thiệu Nghĩa như vậy, cũng không chọc phá, thầm nghĩ không biết hắn rốt cuộc nghĩ thấu được bao nhiêu, vì thế liền làm bộ lẫn lộn, hỏi:“Đường tướng quân, ngài nói thế là có ý tứ gì? Thát tử có gian kế gì?”
Đường Thiệu Nghĩa cũng không nói nữa, chỉ nhíu chặt mày bước đi thong thả, trong đầu nghĩ nếu Bắc Mạc đánh Thái Hưng chỉ là nghi binh, như vậy bọn họ rốt cuộc muốn làm gì? Người Bắc Mạc hướng phía Tây Hồ, Đông Cảnh mà đến, hiện tại bọn chúng ở khu vực rừng núi phía đông thành Hán Bảo, đại đội kỵ binh không có khả năng trèo đèo lội suối, mà hướng nam là đường đi đến Thái Hưng, như vậy chẳng lẽ lại là đi về phía bắc? Nhưng ở phía bắc là thành nào? Không có cứ điểm quân sự gì trọng yếu ở đây cả? Vậy thì quân Bắc Mạc vì cái gì lại bỏ qua thành Thái Hưng mà đi về hướng bắc?
“Dự Châu! Chỉ có Dự Châu!” Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên trầm giọng nói: “Đi về phía đông bắc là thành Dự Châu. Đó là cửa ngõ để tiến vào Bình Nguyên, chỉ cần đoạt được Dự Châu, thiết kỵ thát tử liền chặn được cổ họng của Nam Hạ ta là Giang Bắc, rồi lúc đó mới tấn công Thái Hưng, lúc đó từ phía bắc lại có thể giương lên một mũi tên tấn công vào Nam Hạ, cùng thủy quân tạo thành nam bắc giáp công chi thế, hay cho lũ thát tử Bắc Mạc! Tâm địa thật là ác độc!” Đường Thiệu Nghĩa giương mắt nhìn về phía A Mạch, trong ánh mắt không che dấu được sự hưng phấn. Hắn đột nhiên nhìn ra mưu kế của Bắc Mạc, trong lòng vừa tức giận lại vừa kích động. Tức giận vì người Bắc Mạc giả dối, kích động vì mình đã khám phá ra gian kế của bọn họ. Nam tử khi ra trận, nhất là làm cái chức quan không lớn không nhỏ như hắn, đều hy vọng mình có thể một trận thành danh, đi vào sử sách, mà hiện tại, cơ hội tựa hồ đang hiện ra trước mắt, bảo sao hắn không kích động!
A Mạch nhìn Đường Thiệu Nghĩa không nói lời nào, nàng mặc dù đoán được Bắc Mạc tấn công Thái Hưng là giả, nhưng nàng đối với chiến sự không hiểu biết nhiều, cho nên cũng không miệt mài suy đoán xem mục tiêu của Bắc Mạc rốt cuộc là gì. Hiện tại nghe Đường Thiệu Nghĩa nói Bắc Mạc nhất định sẽ tấn công Dự Châu, như vậy thành Dự Châu chính là sống chết cũng không thể đi, bằng không chẳng phải lại đi ra chiến trường sao! Một cái thành Hán Bảo nho nhỏ mà còn thê thảm như vậy, Trong khi Dự Châu so với thành Hán Bảo lớn hơn rất nhiều, không biết còn phải chết bao nhiêu người đây!
Cho nên, trong lòng A Mạch hạ quyết tâm, Dự Châu dù chết cũng không thể đi, nàng có thể từ trên tường thành Hán Bảo còn sống mà đi xuống đã là quá may mắn rồi. Không thể lại may mắn lần thứ hai như thế ở trên tường thành Dự Châu. Mẫu thân đã từng nói, con người không thể đi khiêu chiến với ông trời, đó chính là điểm mấu chốt.
Bất quá nghe Đường Thiệu Nghĩa nói gian kế của quân Bắc Mạc, A Mạch trong lòng có chút cho là không đúng. Dự Châu bất quá chỉ là một tòa thành trì mà thôi, bỏ qua Thái Hưng mà tấn công Dự Châu, nàng không thấy tốt đến như vậy. Nếu là nàng, nàng ngược lại sẽ áp dụng chiến thuật vây thành đánh viện binh, tựa như lời phụ thân đã đề cập qua, vì chỉ có tiêu diệt sinh lực địch mới là điều trọng yếu nhất trong chiến tranh. Một thành trì dù có lợi hại đến đâu, thì về lâu dài cũng không có gì đáng sợ!
“A Mạch, chúng ta sẽ tới Dự Châu!” Đường Thiệu Nghĩa đem đứa nhỏ một lần nữa buộc lên lưng, nói xong nhấc người đi về phía trước.
Từ Tú Nhi nghe bọn họ nói mà cảm thấy hồ đồ, một chút chủ ý đều không có, cũng muốn đứng lên đi theo. A Mạch ngăn bọn họ lại nói:“Chờ một chút, Đường tướng quân, ngươi nói thát tử nhất định sẽ tấn công chiếm thành Dự Châu, nhưng từ thành Hán Bảo đi Dự Châu sẽ phải qua đường rừng núi. Không phải đã nói đại đội kỵ binh của thát tử không thể vượt rừng núi hay sao? Vậy thì bọn họ đi như thế nào?”
Đường Thiệu Nghĩa đã sớm nghĩ tới vấn đề này, nghe A Mạch hỏi, liền giải thích: “Cách hơn ba trăm dặm về phía bắc của khu rừng núi này, có một vùng địa thế rất bằng phẳng, nếu thát tử nhất định tấn công Dự Châu, tất nhiên sẽ đi qua nơi đó, tuy tốc độ của kỵ binh rất nhanh, nhưng dù sao cũng phải đi đường vòng, chúng ta mau đi thôi, như thế chẳng những có thể tới Dự Châu để cảnh báo, còn có thể bố trí mai phục trong sơn cốc, đến lúc đó sẽ giết sạch lũ thát tử, khiến chúng trở tay không kịp!”
A Mạch ngoài mặt thì lắng nghe Đường Thiệu Nghĩa phán đoán cục diện cuộc chiến, trong lòng thì âm thầm cân nhắc làm thế nào để tránh khỏi cục diện phải ra chiến trường. Đường Thiệu Nghĩa nói thì đơn giản, nhưng A Mạch biết lần này đi Dự Châu sẽ vô cùng nguy hiểm. Nhất là nàng, nhiều lắm thì cũng chỉ là một tên lính quèn, nên khi ra trận giết địch tất nhiên là bị xua lên phía trước. Khi đã thực sự ở trên chiến trường rồi thì cho dù có muốn giả chết cũng không dễ. Người Bắc Mạc lại đều là kỵ binh, không cẩn thận có khi lại bị vó ngựa dẵm nát như cái bánh thịt.
“Đường tướng quân, A Mạch có một biện pháp không biết có nên nói ra hay không.” A Mạch đột nhiên nói.
Đường Thiệu Nghĩa chính là sốt ruột nhanh muốn hướng đến Dự Châu, bởi vì bọn họ đã đi theo hướng đông nam hơn nửa ngày đường rồi, giờ đi Dự Châu sẽ phải quay lại quãng đường không phải là ngắn. Thời gian vốn đã khẩn cấp, không nghĩ tới A Mạch lại nêu lên một cái vấn đề. Đường Thiệu Nghĩa có chút vội vàng: “Có chuyện gì cứ nói ra! Không nên luôn giữ ý như vậy, người lính chân chính là người lúc nào cũng phải mạnh mẽ, quả quyết, những nghi thức xã giao kiểu này chỉ có bọn tú tài vô dụng mới chú trọng mà thôi! Nam nhân trong quân đội không phải tuân theo những thứ đó!”
A Mạch nói: “A Mạch không hiểu quân sự, những lời Đường tướng quân vừa nói mặc dù đều có đạo lý, nhưng A Mạch cảm thấy thành Thái Hưng cũng không thể không đi. Tuy nói rằng thát tử có chia quân đi Dự Châu, song chúng ta cũng nhìn thấy bọn chúng tiến đến Thái Hưng cũng không ít, kể cả nếu chúng bày kế nghi binh thì thành Thái Hưng cũng không thể không lo. Báo tin chỉ cần một người là được, Đường tướng quân chạy tới Dự Châu, mà ta sẽ đi Thái Hưng, như vậy bất luận thát tử có quỷ kế gì, chúng ta đều có sự chuẩn bị, như vậy chẳng phải là càng thêm ổn thỏa hay sao?”
Đường Thiệu Nghĩa làm sao dự đoán được A Mạch trong lòng tính toán nhỏ nhặt, nghe A Mạch nói quả thực có chút đạo lý, còn tưởng rằng nàng toàn tâm toàn ý, thoáng cân nhắc một chút, liền nói:“Như vậy cũng tốt, chúng ta chia nhau chạy tới Dự Châu cùng Thái Hưng, nhất định phải đưa tin tức về âm mưu của lũ thát tử.” Nói xong lại tháo dấu hiệu giáo úy bằng đồng trên người xuống đưa cho A Mạch: “Ngươi đi Thái Hưng, lấy cái này làm bằng chứng đi gặp thủ thành Vạn Lương đại nhân, như vậy có khả năng làm cho Vạn đại nhân ra khỏi thành công kích thát tử Bắc Mạc, sau đó cứu viện Dự Châu!” Đường Thiệu Nghĩa lại cảm thấy cấp bậc của mình cùng Vạn đại nhân cách nhau rất xa, dùng khẩu khí này nói chuyện cùng trưởng quan quả thật không ổn, lại sửa lại: “Quên đi, ngươi chỉ cần đem tình hình báo cáo rõ lên Vạn đại nhân, đại nhân hẳn sẽ an bài.”
A Mạch gật đầu, trịnh trọng đón lấy tấm phù hiệu cất ở trong người. Lúc này Từ Tú Nhi lại gần, thấy Đường Thiệu Nghĩa cùng A Mạch đều không nói mình sẽ đi nơi nào, mắt có chút hồng lên, chần chờ hỏi: “Vậy, ta nên làm gì bây giờ?”
Chương 9
NGHẸN LỜI
A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa lúc này mới nhớ đến bên cạnh còn có một tiểu cô nương, hai người quay đầu nhìn Từ Tú Nhi, không hẹn mà cùng nhíu mày.
Từ Tú Nhi từ lúc ở thành Hán Bảo đối với A Mạch đã có chút tâm tư, trong lòng tất nhiên là nguyện ý cùng A Mạch đi chung một đường. Những lời vừa rồi tuy là hỏi cả A Mạch và Đường Thiệu Nghĩa, nhưng nàng vẫn vụng trộm quan sát phản ứng của A Mạch, thấy A Mạch nhíu mày, Từ Tú Nhi chỉ cảm thấy trong lòng trầm xuống, tiếp đó là cảm giác chua xót, lạnh lẽo.
Cái nhíu mày của A Mạch lập tức kích thích tính quật cường trong lòng Từ Tú Nhi, nàng cắn chặt răng, không đợi A Mạch cùng Đường Thiệu Nghĩa nói gì, liền kiên quyết: “Ta cùng Đường tướng quân đi Dự Châu! Tướng quân yên tâm, Tú Nhi là nữ nhi con nhà nghèo khổ, cho dù có phải leo núi cũng không sao, nhất định sẽ không liên lụy đến tướng quân, dù gì thì tiểu công tử cũng cần phải có người chiếu cố, tướng quân là nam nhân, chỉ sợ sẽ không chăm sóc được cho một đứa trẻ, Tú Nhi vẫn là nên đi theo tướng quân!”
Từ Tú Nhi lời này tuy là nói với Đường Thiệu Nghĩa, nhưng tầm mắt lại vẫn không rời khỏi người A Mạch, cho nên cũng không biết là Đường Thiệu Nghĩa lại nhíu mày lần nữa. Kỳ thật tiểu cô nương này tuy nói lời dỗi hờn, nhưng đáy lòng vẫn có chút chờ đợi, hy vọng A Mạch có thể giữ nàng lại, không ngờ A Mạch lại cúi đầu, suy nghĩ một lát, rồi ngẩng đầu lên nói: “Như vậy cũng tốt! Ngươi theo Đường tướng quân đi Dự Châu đi!” Nàng tự bảo vệ mình còn phải gắng sức, mang theo Từ Tú Nhi quả thật không tiện, hơn nữa nàng đã quen một thân một mình rồi, tinh thần hiệp nghĩa cái gì nàng cũng không có, tuy rằng tiểu cô nương này đã từng cho nàng vài cái bánh bao, nhưng nàng cũng không muốn gánh trên lưng một cái gánh nặng lớn như vậy, tốt nhất là giao cho Đường Thiệu Nghĩa đi, hắn chẳng phải là nam nhân thực thụ sao? Vậy thì cứ gánh vác nhiều thêm một chút đi! A Mạch thầm nghĩ.
Đường Thiệu Nghĩa thấy thế cũng chỉ gật đầu, hắn cũng biết mang theo Từ Tú Nhi sẽ có nhiều bất tiện, nhưng hắn đã được dạy dỗ rằng không thể nói “Không” với một thiếu nữ. Chính vì thế liền nói: “Vậy thì Từ cô nương đi theo ta đi!”
Từ Tú Nhi lại cắn môi liếc trộm A Mạch, nhưng lại thấy A Mạch gật đầu, khiến tâm tư thiếu nữ hoàn toàn tê lạnh, chỉ có thể dùng ba chữ để hình dung — thực bi thương!
Ba người sửa sang đơn giản lại một chút liền chia tay. Trước khi đi, Đường Thiệu Nghĩa đột nhiên lại nhìn A Mạch, thấy A Mạch thân thể đơn bạc liền hỏi: “A Mạch, ngươi có biết võ công không?”
A Mạch lắc lắc đầu, công phu nàng không có, nhưng còn có một phen khí lực, chính là khả năng chạy trốn rất nhanh, về phương diện này thì nàng rất tin tưởng ở bản thân.
Đường Thiệu Nghĩa mím môi, đem bội kiếm tháo xuống đưa cho A Mạch nói: “Thanh kiếm này cho ngươi, trong rừng sợ có dã thú, ngươi mang theo mà phòng thân!”
A Mạch thật sự bị cảm động, nhìn Đường Thiệu Nghĩa không biết nên nói cái gì cho phải: “Không cần, không cần, Đường tướng quân, ngươi mang theo Tú Nhi cùng đứa nhỏ, càng cần cái này để phòng thân hơn ta.”
“Cầm lấy!” Đường Thiệu Nghĩa đem bội kiếm ấn vào tay A Mạch, rồi nắm lấy hai vai A Mạch, kinh ngạc nhìn nàng một lát, sau đó dụng sức nắm chặt vai nàng, trầm giọng nói: “A Mạch, bảo trọng!” Nói xong không đợi A Mạch phản ứng liền buông tay, xoay người theo hướng tây bắc mà đi. Đường Thiệu Nghĩa không dám quay đầu, hắn cảm thấy trong lòng có chút khác thường, một cảm giác chưa từng có, nói không nên, nhìn không rõ, dường như có chút luyến tiếc nụ cười như đóa sen trắng thuần khiết của thiếu niên kia
Từ Tú Nhi liếc nhìn A Mạch một cái, rồi chậm chạp đuổi theo Đường Thiệu Nghĩa.
————————–
Vị trí của thành Thái Hưng thập phần ưu việt, trước mặt hướng vào vùng đồng bằng do sông Uyển bồi đắp, giao thông đường thủy rất phát triển tạo nên một khu đô thị phồn hoa. Trong thành thương nhân đông đúc, cửa hàng dày đặc, luôn luôn náo nhiệt. Nhưng dù vậy thành Thái Hưng chưa khi nào lại náo nhiệt như bây giờ, tại khu rừng cách thành hai mươi dặm thật vô cùng tấp nập, những thân cây lớn bị binh lính chặt đổ, sau đó biến thành một chiếc xe bắn đá đẩy ra.
Thống soái đông lộ Bắc Mạc quân Chu Chí Nhẫn chậm rãi đi dọc theo bìa rừng, xem ra sắc mặt có chút không được tốt lắm. Ông ta là một hán tử năm mươi tuổi tráng kiện, vóc dáng mặc dù không cao lớn nhưng lại tạo cho người ta một loại áp lực khôn kể, mày rậm, mắt không quá to, râu quai nón, thuộc loại người có tướng mạo không giận mà tự uy.
“Đây là xe bắn đá của các ngươi sao?” Chu Chí Nhẫn hỏi, âm điệu đều đều, lại giống như gõ vào trong lòng người đứng bên cạnh.
“Khởi bẩm tướng quân, xung quanh thành Thái Hưng không có rừng già, nên thân cây này xem như đã là to lắm rồi.” Na Na, quan tổng quản quân giới cẩn thận đáp, thỉnh thoảng lại vụng trộm đánh giá sắc mặt của Chu Chí Nhẫn.
Chu Chí Nhẫn hiển nhiên không vừa lòng với câu trả lời này, nhưng cũng không nói thêm gì nữa. Không ngờ một thanh niên phía sau ông ta lại hét lên: “Muốn ta chế tạo cái gì mà xe bắn đá a, dù sao cũng chẳng có mấy tác dụng, chỉ uổng phí khí lực mà thôi, không bằng để cho tướng sĩ –”
“Câm miệng!” Chu Chí Nhẫn quát, quay đầu nhìn thoáng qua người thiếu niên kia, ánh mắt vô cùng sắc bén, lập tức khiến cho những lời chực thoát ra khỏi miệng của người thiếu niên này lập tức nuốt lại vào trong cổ họng.
Trên khuôn mặt của thiếu niên kia lộ chút khiếp sợ, né tránh tầm mắt sắc như dao của Chu Chí Nhẫn, cúi thấp đầu, nhỏ giọng gọi: “Cậu –”
Chu Chí Nhẫn hừ lạnh một tiếng, nói: “Đây là trong quân ngũ, ta không phải là cậu ngươi! Nếu còn có lần sau ta sẽ cho thi hành quân pháp!” Kỳ thật ông cũng biết lời thiếu niên này nói rất đúng, dùng xe bắn đá đối với thành Thái Hưng mà nói đúng là không có bao nhiêu tác dụng, để phá tường thành thì e là quá nhẹ, để bắn người thì lại thiếu chính xác, nhưng mặc dù biết rõ là không dùng được cũng phải tạo, bằng không vây thành mà không tấn công, thì làm sao khiến người Nam Hạ tin rằng ông ta đang công thành? Tốt xấu gì cũng phải làm ra vẻ cái bộ dạng công thành cho người ta xem, như vậy mọi người đều bận việc. Người Nam Hạ ở trong thành vội vàng leo lên tường thành, bọn họ ở ngoài thành vội vàng ở ngoài thành sát phạt cánh rừng, ai nấy đều an tâm!
Tầm mắt Chu Chí Nhẫn bắt đầu hướng về phía Bắc, Thường Ngọc Thanh phía sau hẳn là đã đến Tần Sơn rồi. Ông cúi đầu thở dài một tiếng. Tuổi trẻ a. Hoàng Thượng cũng chính là một người trẻ tuổi nên cũng dùng người trẻ tuổi. Chẳng lẽ mình thật sự đã già rồi sao? Mình bất quá mới năm mươi tuổi đầu, vẫn đang lúc tráng niên, như thế nào đã bị cho là già?
Thiếu niên kia nghe được tiếng thở dài của cậu thì không khỏi ngẩn người, còn tưởng rằng cậu vì chuyện công thành Thái Hưng mà phiền não. Tuy rằng vừa bị cậu răn dạy, tâm tính thiếu niên vẫn khiến cho hắn nhịn không được muốn xin đi giết giặc, liền nói: “Cậu, cậu cho cháu hai vạn tinh binh, cháu sẽ thay cậu hạ thành Thái Hưng, cũng chẳng phải dùng đến mấy cái xe bắn đá này, cho cháu mấy cái xe phá cổng thành là được rồi.”
Chu Chí Nhẫn quay đầu trừng mắt nhìn người thiếu niên kia, vốn định lại răn dạy đứa cháu không biết trời cao đất rộng này vài câu. Nhưng nhìn đến khuôn mặt trẻ con của đứa cháu, đột nhiên nghĩ đến Hoàng Thượng lần này dùng một người trẻ tuổi thống lĩnh một cánh quân, chẳng phải cũng là không biết trời cao đất rộng là gì sao? Bằng không sao lại có thể hoạch định ra một kế hoạch mạo hiểm đến thế? Nghĩ vậy, Chu Chí Nhẫn nuốt tiếng quát lớn trên miệng xuống, nhẹ nhàng răn dạy: “Diễn nhi, trong một trận chiến có thể dựa vào chữ ‘Dũng’ để thủ thắng, nhưng trong một chiến dịch thì không thể chỉ dựa vào một chữ ‘Dũng’, trong một cuộc chiến tranh thì càng phải nhìn xa hơn một chữ ‘Dũng’ này, cháu đã minh bạch chưa? Bắc Mạc không chỉ có riêng đông lộ quân, còn có tây lộ Thường tướng quân, trận này không phải chỉ có chúng ta tham gia! Làm việc nhất định phải chịu khó động não, đừng chỉ biết nhìn về một hướng, bằng không sự dũng mãnh của ngươi cùng lắm cũng chỉ có thể trở thành một viên mãnh tướng, nhưng không thể trở thành một danh tướng được! Hiểu không?”
Thiếu niên kia gãi gãi đầu nhìn Chu Chí Nhẫn cười hắc hắc. Chu Chí Nhẫn vừa thấy biểu tình này của đứa cháu thì biết mình có nói nữa cũng vô ích, nhịn không được đảo cặp mắt trắng dã, rốt cuộc không tiếp tục để ý tới thằng cháu ruột thẳng như cây thông này nữa, chỉ quay đầu tiếp tục ngây người nhìn về phương Bắc.
Thiếu niên kia thấy cậu mình luôn nhìn về phương Bắc, không khỏi cảm thấy có chút buồn bực, cũng theo ánh mắt của cậu nhìn về phương Bắc, nhìn đến nửa ngày cũng không nhìn được có cái gì đáng giá. Dãy núi Ô Lan trải dài hơn một trăm dặm, đến thành Thái Hưng mấy chục dặm về phía tây bắc thì rốt cuộc mất đi sự hùng vĩ của mình, chỉ còn lại một sườn dốc thoai thoải, ngay một đỉnh núi nho nhỏ cũng không thấy, núi rừng như vậy chỉ e ngay cả dã thú cũng không có, người thiếu niên thầm nghĩ.
————————————–
Nơi đám mây hạ xuống, ngay tại phía đông con dốc, từ phía bắc đường núi này đã phân chia thành một con đường nhỏ chạy về phía Đông. Một chiếc xe la từ hướng bắc chạy tới, đến lối rẽ thì chậm rãi dừng lại, hán tử đánh xe nhảy xuống, đi ra phía sau, lật màn xe lên, hướng vào bên trong hỏi: “Tiên sinh, phía trước có hai con đường, chúng ta nên đi lối nào?”
“Con đường lớn hơn đi đến đâu?”
Phu xe buông màn, đi lên phía trước quan sát phương hướng rồi quay lại nói: “Đi về phía Đông!”
Người trong xe không nói gì, một lúc lâu sau thấy rèm cửa lay động, một bàn tay trắng trẻo hiện lên trên màn xe, ngay sau đó là một đôi giày đen xuất hiện, một nam nhân gầy gò chừng bốn mươi tuổi từ trên xe chậm rãi bước xuống, vung vẩy chân cho đỡ tê, phủi bụi bám trên góc áo, rồi chắp tay sau lưng hướng tới bãi cỏ xa xa phía trước đi lên vài bước, nhìn con đường rộng mở phía trước, rung đùi đắc ý thì thầm: “Hướng bắc là Dự Châu, hướng đông là Thanh Châu. Dự Châu là thành lớn, chính là yết hầu của con sông, bắc có thể bảo hộ Tĩnh Dương, nam có thể che chắn cho Thái Hưng, lại là một vựa lúa lớn, trong thành lương thảo dư thừa, thật là nơi khiến binh gia giao tranh; Thanh Châu địa thế hiểm trở, bắc có rừng Tử Nha, đông dựa vào núi Thái Hành, dễ thủ khó công, tiến có thể viện trợ cho Dự Châu, lui có thể gây nguy hiểm cho địch……”
Xa phu nghe chỉ hiểu được hướng bắc là đi Dự Châu, hướng đông là đi Thanh Châu, những cái khác một chữ cũng chẳng hiểu, có chút không kiên nhẫn, liền cắt ngang lời, hỏi: “Tiên sinh, chúng ta rốt cuộc là đi đâu?”
Nam tử kia quay đầu nhìn xa phu liếc mắt một cái, xoa xoa mấy ngọn râu trên cằm, đảo cặp mắt trắng dã: “Ngu dân, ngu dân, ngu dân!”
“Tiên sinh, ta là phu xe, không phải là ngư dân,” Xa phu sửa lại lời nói, cuối cùng nói vọng lại một câu: “Tiên sinh, chúng ta nhanh lên đường thôi, thát tử ở ngay phía sau ta mấy chục dặm thôi, bọn chúng ăn thịt, uống máu người không tanh, chúng ta nhanh lên, ta sợ chậm –”
“Được rồi!” Nam tử gầy gò kia quát bảo ngưng lại, nói: “Yên tâm đi, thát tử sẽ không đuổi theo chúng ta đâu, ta phải tính kỹ xem chúng ta nên đi nơi nào rồi hãy nói!” Nói xong liền lấy ra trong tay nải một ống trúc nhỏ, xốc lên, đổ ra mấy đồng tiền, ngồi xổm xuống lẩm bẩm: “Ta phải tính xem chúng ta nên chọn con đường nào để đi.”
Ông ta vừa tung mấy đồng tiền ra, vừa nhìn lướt qua quẻ vừa gieo, chợt nghe thấy xa phu hô: “Tiên sinh, tiên sinh, ngươi nhìn xem, bên kia sườn núi có người đang đi xuống.”
Nam tử gầy gò đứng dậy híp mắt nhìn theo hướng xa phu chỉ, quả nhiên thấy trên sườn núi cách đó không xa có một người vóc dáng cao gầy, không búi tóc, sau đầu chỉ có một mái tóc ngắn ngủi, một thân quần áo màu xám ăn mặc gọn gàng, thắt lưng đeo bảo kiếm, nhìn từ xa vẫn có thể thấy trên quần áo dường như có vết máu.
“Hỏng rồi! Tiên sinh, là cướp đường đang đến, nhanh lên xe!” Hán tử phu xe vội vàng hô, xoay người nhảy lên xe la.
“Chậm đã!” Nam tử gầy gò chặn lại, nhìn kỹ người đang đi tới, bình tĩnh nói: “Không phải cướp đường.”
Người kia tốc độ rất nhanh, đi hai bước chạy hai bước, một lát đã tới trước mặt nam tử kia. Vốn nàng từ trên triền núi đã thấy chiếc xe la này, thầm nghĩ cuối cùng đã tìm được một cái xe đỡ cho đôi chân của nàng, vốn định kêu lên hai tiếng, lại sợ dọa cho người ta kinh hãi mà bỏ chạy, nên cũng không gọi, chỉ liều mạng hướng về phía xe la này chạy tới.
“Vị tiên sinh này,” Người vừa tới thở hổn hển, thi lễ với nam nhân gầy gò kia, thở hổn hển hơn nửa ngày mới nói ra câu tiếp theo: “Tại hạ họ Mạch, thường gọi là A Mạch, từ thành Hán Bảo mà đến, xin hỏi tiên sinh họ gì?”
Nam tử gầy gò nhướng mắt, có chút ngạo mạn nói: “Lão phu tên gọi là Từ Tĩnh.”
“A, Từ tiên sinh,” A Mạch lại thi lễ.
Từ Tĩnh thoáng chắp tay nhìn A Mạch thi lễ.
A Mạch thầm quan sát, chỉ nhìn cách ăn mặc của Từ Tĩnh liền hiểu được vài phần tính nết của hắn, lại thấy biểu tình khi nói chuyện của hắn, liền biết người này hiển nhiên thuộc loại người mà cháy nhà cũng phải mở miệng nói toàn lời chữ nghĩa, vì thế thập phần khách khí nói: “A Mạch nhận lời ủy thác của Đường Thiệu Nghĩa, giáo úy thành Hán Bảo, ngày đêm chạy tới Thái Hưng đưa tin, sự tình khẩn cấp, muốn mượn chiếc xe la của tiên sinh dùng một chút có được không?”
“Thái Hưng?” Từ Tĩnh chậm rãi hỏi.
“Đúng vậy, mong rằng Từ tiên sinh có thể lấy đại cục làm trọng, cho A Mạch mượn xe la dùng một chút, tiên sinh có thể cùng A Mạch chạy tới thành Thái Hưng, đến nơi rồi tất có hậu tạ.”
Từ Tĩnh cười lạnh một tiếng, nói: “Ngươi hiện tại không thể vào được thành Thái Hưng.”
A Mạch cả kinh, còn tưởng rằng đại quân của Thường Ngọc Thanh đã đến trước mình, vội hỏi: “Người Bắc Mạt đã đến rồi sao?”
Từ Tĩnh lạnh lùng, cao ngạo khẽ gật đầu, nói: “Thành Thái Hưng đã bị bao vây ba ngày rồi, ngươi hiện tại muốn vào được thành Thái Hưng, trừ phi mọc cánh.”
A Mạch có chút mông lung, nàng chạy một ngày một đêm mới đến được nơi này, vốn định vượt trước người Bắc Mạt tới thành Thái Hưng, không ngờ Thái Hưng đã bị người Bắc Mạt vây ba ngày, rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra? Rõ ràng người Bắc Mạt tấn công Thái Hưng là hư, chẳng lẽ nàng đã đoán sai, nhưng mặc dù đoán sai thì người Bắc Mạt cũng sẽ không thể đến sớm như vậy được. Ba ngày. Ba ngày trước người Bắc Mạt còn ở ngoài thành Hán Bảo mà.
Từ Tĩnh xem bộ dạng choáng váng của A Mạch thì cười lạnh một tiếng: “Bắc Mạc đại tướng quân Chu Chí Nhẫn lãnh mười vạn đại quân, sớm đã đem thành Thái Hưng vây chặt rồi, tiến vào thành Thái Hưng ư? Nằm mơ đi thôi.” Rồi xoay người lại phân phó xa phu nói: “Lão Trương, đánh xe, chúng ta đi hướng phía bắc tới Dự Châu!”
A Mạch sửng sờ có chút ngây ngốc, đến khi xe la đi qua bên cạnh, nàng mới giật mình tỉnh lại, nàng chạy nhanh hai bước, lập tức nhảy lên xe la, vén màn xe lên, Từ Tĩnh kinh sợ nhìn nàng, cả giận nói: “Ngươi –”
“Hướng đông! Đi Thanh Châu!” A Mạch lạnh giọng nói.
Từ Tĩnh thở phì phì đến bay cả râu, trừng mắt nói: “Thanh Châu? Không đi! Ta vừa gieo quẻ, ta phải đi Dự Châu mơi phát đạt! Làm chi phải đi Thanh Châu? Người này rất không biết phân rõ phải trái, đây là xe la do ta mướn, ngươi dựa vào cái gì mà nhảy lên, đi xuống! Đi xuống!”
A Mạch rút bảo kiếm đeo bên hông ra, hướng thẳng vào người Từ Tĩnh, lạnh lùng nói: “Đi Thanh Châu!”
Từ Tĩnh lập tức cứng đờ, một lúc lâu sau mới nhận rõ tình huống, vô lực nói với xa phu: “Lão Trương, quay lại hướng đông, đi Thanh Châu.”
————————————-
Từ Tĩnh là người Kinh Châu, tinh thông thơ văn cùng binh pháp, tính tình cao ngạo, ẩn cư nơi hoang dã. Mùa thu năm Thịnh nguyên thứ hai, Bắc Mạc xâm phạm biên giới, giết chóc khắp nơi, Tĩnh vì phẫn uất mà tòng quân, trên đường đi gặp Mạch soái, soái lấy tình hình chiến sự mà hỏi, Tĩnh ngay tức khắc trả lời, đối đáp rành mạch, Mạch soái nghĩ đã gặp được kỳ tài, rất yêu mến, cùng nhau đến Dự Châu……
[ hạ thư - Từ Tĩnh truyền ]
Chương 10
TÂM TƯ
Lão Trương thật ra là một xa phu rất biết nghe lời, ngay cả vì sao phải đi hướng Đông cũng không hỏi, chỉ quay xe lại rẽ theo con đường đi về phía Thanh Châu.
Từ Tĩnh ở trong xe, khuôn mặt âm trầm quét qua quét lại trên mặt A Mạch, những câu mằng chửi vẫn nghẹn ở trong bụng, vì mũi kiếm của A Mạch nhẹ để ở trước ngực mà không dám nói thành lời. A Mạch thấy sắc mặt ông ta biến ảo, thì thản nhiên nói: “Tiên sinh đừng vội trách cứ A Mạch vô lễ, có lẽ về sau này tiên sinh sẽ phải cảm tạ A Mạch vì đã cứu ông một tính mạng .”
Từ Tĩnh nghe vậy thì trên mặt lộ vẻ rất ngạc nhiên, ông ta vốn là người có tâm trí rất cao, nghe A Mạch đột nhiên nói ra những lời ấy, vất vả nghĩ ngợi một chút liền đoán ra. Nàng nhận lời ủy thác của một giáo úy thủ thành Hán Bảo mà đến đây, tất sẽ biết một chút việc quân cơ yếu, theo bản năng liền hỏi: “Chẳng lẽ là Dự Châu có biến?”
A Mạch cả kinh nhìn về phía Từ Tĩnh, trong mắt còn ánh lên nỗi kinh ngạc. Từ Tĩnh thấy vậy không khỏi cười lạnh, thầm nghĩ tiểu tử này dù sao vẫn còn ít tuổi, dấu không được chuyện gì, mọi tâm tư trong lòng đều hiện hết lên trên mặt, để cho người như vậy đưa thư cơ yếu, có thể thấy thành Hán Bảo thật sự đã hết người.
“Tiểu tử nhà ngươi không cần nhìn ta như thế”. Từ Tĩnh khinh thường bĩu môi, lạnh giọng nói: “Ngươi một thân vấy máu, chính là vừa trải qua một kiếp sinh tử. Thành Hán Bảo vốn rất nhỏ, căn bản là không ngăn được đại quân Bắc Mạc, tất sẽ bị phá. Đại quân Bắc Mạc đi từ phía tây đến, tất sẽ không vì một cái thành Hán Bảo nho nhỏ mà dừng lại, nên sau khi hạ thành Hán Bảo xong, hoặc là sẽ đưa quân đến thẳng thành Thái Hưng, hoặc là lên phía Bắc vây khốn Dự Châu. Kết hợp với Đông lộ Bắc Mạc đại quân tạo thành thế gọng kìm đánh Nam Hạ. Thành Thái Hưng gặp nguy, điều này cũng là lẽ thường. Nhưng người Bắc Mạt cũng có khả năng làm một chuyện khác với lẽ thường là đi lên phía Bắc vây hãm, tấn công Dự Châu, khống chế yết hầu Giang Bắc, làm cho ba mươi vạn đại quân ở biên giới phía Bắc của ta hai mặt thụ địch mà không thể chi viện Thái Hưng. Ngươi nhận lời ủy thác từ thành Hán Bảo, khả năng đã biết tây lộ Bắc Mạc đại quân đi về phía nào. Ngươi đến thành Thái Hưng vốn không ngoài hai mục đích. Thứ nhất là cảnh báo, cầu cứu. Bất quá sau khi ngươi biết được Thái Hưng bị vây liền đi Thanh Châu, xem ra hẳn là mục đích thứ hai. Hiện tại Thái Hưng cùng Dự Châu đã ở vào thế chết, chỉ có Thanh Châu có thể dẫn binh tới cứu, lão phu nói như vậy có đúng không?”
A Mạch nghe Từ Tĩnh phân tích, trên người toát ra một tầng mồ hôi lạnh, thiếu chút nữa giơ ngón tay cái ra thể hiện sự bội phục đối với hán tử gầy gò này. Không gì ông ta nói mà không đúng, chỉ trừ một điểm, đó là nàng đi Thanh Châu không chỉ vì viện binh, mà là muốn mượn Thanh Châu, xuyên qua Thái Hành, rời bến, theo đường biển đi Giang Nam.
Từ Tĩnh nhìn bộ dáng A Mạch vừa kinh sợ, vừa ngây ngốc, trên mặt lộ ra sự đắc ý tươi cười, không tự chủ được khẽ cử động bộ ngực gầy yếu. Không cẩn thận chạm phải mũi kiếm trước ngực, ông ta biến sắc, cả giận nói A Mạch: “Tiểu tử, ngươi còn không nhanh thu kiếm của ngươi về, cẩn thận ngộ thương lão phu rồi, thì ngươi có hối hận cũng không kịp!”
A Mạch bị ông ta làm cho cả kinh, vội vàng thu kiếm, cúi đầu chậm rãi tra kiếm vào vỏ, các loại ý niệm trong đầu nhanh chóng vòng vo lướt qua một lượt, đến khi ngẩng đầu lên thì biểu hiện trên mặt đã sớm thay đổi, chỉnh trang lại vạt áo, hướng về phía Từ Tĩnh vái một vái, cực kỳ khẩn thiết nói: “A Mạch vô lễ, mong tiên sinh tha thứ. Còn thỉnh tiên sinh cứu ta.”
Vẻ mặt Từ Tĩnh từ sợ hãi chuyển thành kiêu căng, thẳng lưng nhận của A Mạch một lễ, miệng hừ lạnh.
A Mạch không để ý đến phản ứng của ông ta, chỉ cúi đầu nói tiếp: “A Mạch tuy là người làm ăn buôn bán, song vẫn nhìn ra tiên sinh là người có tài kinh thiên vĩ(1), ngày sau tất nổi danh khắp bốn nước.”
Chỉ bằng mấy câu nói vuốt đuôi ngựa này mà đã chụp được cả tứ chi của nhà thông thái Từ Tĩnh, khiến cho ông ta cảm thấy thực là thoải mái, tay không tự chủ được đưa lên vuốt ve mấy cọng râu dê, thầm nghĩ tiểu tử này tuy rằng hơi lỗ mãng, nhưng ánh mắt thật ra còn có chút sáng suốt. Nghĩ như thế, nỗi tức giận trong lòng đối với A Mạch đã giảm đi ba phần.
“Chỉ bằng gặp một người là A Mạch, mà tiên sinh có thể đem thế cục thiên hạ nói được thấu triệt như vậy, tiên sinh quả thật là người thần, A Mạch không ngừng bội phục.”
Từ Tĩnh ánh mắt lại càng lim dim, nỗi bất mãn với A Mạch lại giảm thêm ba phần nữa.
A Mạch trộm quan sát phản ứng của Từ Tĩnh, tự cảm thấy nếu nói bản thân đã nắm được thóp của ông ta thì cũng không có gì sai biệt lắm, lúc này mới nói tiếp: “Tiên sinh vội đi Dự Châu, tất là muốn cứu dân chúng khỏi cảnh nước sôi lửa bỏng. A Mạch không biết, đã làm hỏng kế hoạch của tiên sinh, thật sự là có tội. Thành Hán Bảo đã bị phá, quân sĩ thủ thành của ta đều chết trận ở trên tường thành, thủ thành Lưu đại nhân lại lấy thân tuẫn quốc(2), A Mạch chịu sự ủy thác của Đường giáo úy, hận không thể lập tức bay đi Thanh Châu dẫn cứu binh tới cứu. Mong rằng tiên sinh nghĩ đến tâm tư chân thành của A Mạch cũng chỉ vì một lòng vì nước mà tha thứ cho sự vô lễ của A Mạch lúc ban đầu.” A Mạch nói xong, trong thanh âm lại mang theo tiếng nức nở, đầu đã cúi xuống rất thấp.
Từ Tĩnh thấy A Mạch nói như thế, chút bất mãn trong lòng đã hoàn toàn biến mất. Nhìn thấy hình dáng của A Mạch lúc này, thậm chí tâm tư lay động mà nói: “A Mạch cũng là một mảnh chân tình vì nước vì dân, lão phu thông cảm được mà.”
A Mạch thiếu chút nữa cảm động đến rơi nước mắt, lại thi lễ. Lúc này Từ Tĩnh dùng tay nâng A Mạch dậy, nói: “Tráng sĩ, xin đứng lên, Từ Tĩnh chịu không nổi đại lễ như vậy.”
A Mạch vừa nghe ông ta thay đổi cách xưng hô từ tiểu tử một đường lên đến tráng sĩ, trong lòng liền có chút đắc ý, tìm nơi sạch sẽ trên ống tay áo lau lau khóe mắt, nói: “Ta cùng Đường giáo úy đã giao ước, hắn tiến đến Dự Châu cảnh báo, còn ta chạy tới Thái Hưng cầu cứu. Nhưng nay cả thành Thái Hưng cũng đã bị vây, ta chỉ còn cách chạy tới Thanh Châu cầu cứu, còn thỉnh tiên sinh trợ giúp ta.”
“Thỉnh tráng sĩ cứ nói.”
A Mạch lấy tấm huy hiệu thiếu úy bằng đồng mà Đường Thiệu Nghĩa giao cho nàng, dùng hai tay đưa cho Từ Tĩnh, nói: “Đây là tín vật của Đường giáo úy, dùng vật này đi Thanh Châu cầu kiến thủ thành, A Mạch muốn mời tiên sinh thay A Mạch đi Thanh Châu.”
“Nhưng –”
“Tiên sinh, xin nghe A Mạch nói hết, A Mạch sẽ hộ tống tiên sinh tới Thanh Châu, sau đó lập tức chạy tới Dự Châu,” A Mạch dùng tay lau lệ, thần sắc bi tráng nói: “Đường giáo úy đối A Mạch có ơn cứu mạng, A Mạch tất phải liều chết đi theo Đường giáo úy. A Mạch vốn mồm miệng vụng về, nói không rõ tình hình chiến sự, sợ không thuyết phục được thủ thành Thanh Châu dẫn binh tới cứu, cho nên phải cầu tiên sinh giúp ta.”
Từ Tĩnh hình như có do dự, cúi đầu nhìn huy hiệu bằng đồng dính máu trong tay, lại ngẩng đầu khó xử nhìn A Mạch, rốt cuộc hiên ngang lẫm liệt gật đầu nói: “Tráng sĩ yên tâm, Từ Tĩnh nhất định xin dùng ba tấc lưỡi thuyết phục Thanh Châu phát binh đi cứu Dự Châu thoát khỏi nguy cấp.”
Hai người lại hướng về nhau thi lễ, sau đó mới đứng thẳng dậy, đều là vẻ mặt bi tráng, thật chân thành cầm lấy tay nhau, bốn mắt đều đẫm lệ. Đến giữa trưa, xe la dừng lại ở nhà trọ, A Mạch cùng Từ Tĩnh nắm tay nhau cùng bước xuống, khiến lão Trương sợ ngây người, miệng há rộng đến nỗi có thể nhét vừa được một con ngỗng. Ông ta thừa dịp A Mạch không ở trước mặt, dùng ám hiệu cứa ngang cổ, vụng trộm hỏi Từ Tĩnh: “Tiên sinh, thế nào mà ngài lại cùng sơn tặc bắt tay nhau rồi?”
Từ Tĩnh liếc mắt nhìn A Mạch ở phía xa xa, trên mặt lộ ra vẻ tươi cười thâm sâu khó lường, muốn nói cái gì đó, nhưng đột nhiên ý thức được lão Trương bên người bất quá chỉ là một tên ngu dân trong núi, nếu muốn nói cho ông ta hiểu khác gì đem đàn gảy tai trâu, vì thế chỉ nhàn nhã liếc mắt nhìn ông ta một cái, khinh thường nói: “Đánh xe của người đi, quản nhiều chuyện như vậy làm gì? Lão phu tất có đạo lý của mình!”
Từ Tĩnh cùng A Mạch cùng nhau đồng hành trên một con đường, mặc dù mỗi người một tâm tư, nhưng vẫn ở chung hòa hợp. Đi đến buổi chiều ngày thứ ba, ngoài xe có tiếng vó ngựa dần đến gần. Bên trong xe, cả hai người đều nhíu mày, bởi vì từ khi chiến loạn bắt đầu, trên đường rất ít gặp được người đi đường, lại hiếm khi thấy người cưỡi ngựa là khách thương(3). Từ Tĩnh khẽ hé mở màn xe nhìn ra bên ngoài, rồi quay lại, trên mặt liền ngưng trọng.
“Là thám báo.” Từ Tĩnh nói.
A Mạch sắc mặt có chút không tốt, đã có thám báo xuất hiện ở vùng phụ cận, như vậy nhất định là có quân đội ở gần đây, chỉ có điều không biết là quân Bắc Mạc hay là quân Nam Hạ. Chẳng lẽ người Bắc Mạc lại đến nhiều như vậy, định xâm chiếm toàn bộ Giang Bắc hay sao?
Từ Tĩnh cũng đã là nhận ra đây là thám báo của Nam Hạ, nhưng ông ta cũng không hề cảm thấy hưng phấn. Nếu nói mặt sau cũng là quân đội Thanh Châu, như vậy ông ta đi Thanh Châu cũng hoàn toàn là vô nghĩa sao?
Hai người đều lo lắng không thôi, một lát sau, tên thám báo lúc nãy lại quay trở về. Chưa đến nửa canh giờ, phía trước có hơn mười kỵ mã hướng về phía xe la bọn họ phi tới như bay.
“A Mạch, những người này đúng là binh mã của Thanh Châu” Từ Tĩnh thấp giọng nói, dừng một chút lại nói tiếp,“Ngươi cần phải nói chuyện thật cẩn thận, trăm ngàn lần không thể để cho bọn họ tưởng lầm chúng ta là mật thám của Bắc Mạc, nếu ngươi không làm được, chi bằng giả bộ như là con cháu của ta, chờ sau khi chúng ta có cơ hội gặp lại Đường giáo úy rồi sẽ giải thích –”
“A Mạch hiểu!” A Mạch nói, nàng trong lòng mơ hồ đoán được Từ Tĩnh muốn lợi dụng nàng và tin tức từ Hán Bảo để đi qua nơi này, nhưng cũng không nói toạc ra, chỉ tỏ vẻ phó thác hết thảy cho Từ Tĩnh lo liệu.
Quả nhiên, hơn mười kỵ binh kia đều tiến tới bao vây lấy xe la của bọn họ, một tên lính dùng mũi thương gẩy màn xe ra, quát: “Xuống xe!”
Từ Tĩnh cùng A Mạch vội vàng xuống xe, Từ Tĩnh lấy tấm huy hiệu bằng đồng của Đường Thiệu Nghĩa trong tay nải ra, giơ lên cao quá đỉnh đầu, lớn tiếng nói: “Chúng ta chịu sự ủy thác của giáo úy thành Hán Bảo Đường Thiệu Nghĩa, có việc quân tình khẩn cấp cầu kiến thủ thành Thanh Châu, mong quân gia dẫn kiến(4).”
Thám báo tiếp nhận tấm huy hiệu bằng đồng, nhận ra đó là của quân Nam Hạ, vừa cẩn thận đánh giá Từ Tĩnh cùng A Mạch một chút, rồi quay sang phân phó những người khác: “Trước cứ trói chúng lại, đợi ta đi bẩm báo tướng quân.” Nói xong liền quay ngựa phi đi.
Đi được hơn hai mươi dặm, liền gặp được quân đội của Nam Hạ đang trên đường từ Thanh Châu tới Thái Hưng chi viện. Lĩnh quân là một viên tướng quân trẻ chỉ chừng hơn hai mươi tuổi, một thân ngân giáp(5), thoạt nhìn thật là tuấn mỹ. Đúng là thủ thành Thanh Châu, vị “Bại hoại tướng quân”, Thương Dịch Chi.
Hắn vốn ở trong kinh thành nổi tiếng ăn chơi trác táng. Vốn xuất thân trong một gia đình hiển hách, lẽ ra hắn không phải lưu lạc đến Thanh Châu. Nhưng vì phạm phải việc nam nữ, chọc cho phụ thân hắn vốn xuất thân binh nghiệp náo loạn cả lên, vì thế liền bị sung quân đến Thanh Châu.
Một kẻ ăn chơi trác táng thì biết gì về quân đội đây? Tên Thương Dịch Chi này đến Thanh Châu được đặt biệt danh là “Tứ không”: không quân trang, không ở trong quân doanh, không thao luyện, không nghiên cứu trận pháp. Mỗi ngày mặc một thân cẩm y trắng gọn gàng, hết ngâm thơ lại nói chuyện trăng gió. Dân chúng ở Thanh Châu vừa tiễn bước “Bao cỏ tướng quân” sau lại nghênh đón “Bại hoại tướng quân” là hắn. Đừng nói dân chúng Thanh Châu độc mồm độc miệng, ngươi đã gặp qua kẻ nào ngay cả cận vệ cũng nhất định phải chọn những chàng trai có bộ dáng xinh đẹp, thân thể trẻ trung chưa?
——————
Chú thích:
(1) tài kinh thiên vĩ: tài cao sánh ngang với trời
(2) tuẫn quốc: chết vì nước
(3) khách thương: người buôn bán
(4) dẫn kiến: dẫn đi gặp mặt
(5) ngân giáp: áo giáp bạ
Chương 11
THƯƠNG DỊCH CHI
A Mạch, Từ Tĩnh và lão Trương bị mấy quân sĩ đưa đến trước ngựa của Thương Dịch Chi. Lão Trương đã sớm bị đao kiếm chói lọi dọa cho sợ tới mức thần hồn bay tứ tán, quân sĩ vừa buông lỏng tay, ông ta liền quỳ rạp xuống trước xe ngựa, một bên dập đầu, một bên kêu to: “Xin quân gia tha mạng, xin quân gia tha mạng.”
Thương Dịch Chi mày kiếm nhíu lại, có chút không kiên nhẫn quét mắt nhìn lão Trương một cái, sau đó lại nhìn về phía A Mạch cùng Từ Tĩnh.
A Mạch đầu gối mềm nhũn đã muốn quỳ xuống, nhưng khóe mắt chạm đến hình ảnh Từ Tĩnh vẫn đứng thẳng tắp, liền cố gắng nhẫn nhịn, cũng ưỡn lưng đứng hiên ngang.
Thương Dịch Chi có chút ngoài ý muốn, hai mắt không khỏi nhìn A Mạch cùng Từ Tĩnh. Vì thế A Mạch liền lập tức hối hận, thầm nghĩ mình học ai không học, lại đi học cái sĩ diện của Từ lão đầu này làm chi cho khổ! Phải biết rằng trong cái thế giới này, dân quỳ lạy quan, hạ cấp quỳ lạy thượng cấp, đó đều là những chuyện thường tình, nàng cũng đã sớm luyện tập mà thành thói quen, thế nào mà hôm nay đi theo Từ lão đầu lại thành phát bệnh như vậy?
Thương Dịch Chi lật lật tấm huy hiệu giáo úy bằng đồng của Đường Thiệu Nghĩa trong tay, thản nhiên hỏi: “Ai là tín sứ(1) của Đường Thiệu Nghĩa?”
A Mạch vụng trộm liếc Từ Tĩnh một cái, thấy ông ta vẫn giữ vẻ mặt cao ngạo đứng đó, quyết định vẫn là chính mình phải xuất đầu lộ diện, vì thế tiến lên phía trước từng bước, rồi thi lễ nói: “Là tiểu nhân, bốn ngày trước thành Hán Bảo bị phá, Đường giáo úy dẫn theo tiểu nhân từ trong thành chạy ra ngoài. Ngài ấy đem theo đứa con côi của thủ thành Lưu đại nhân chạy tới Dự Châu, lệnh cho tiểu nhân tới Thái Hưng đưa tin cầu viện binh.”
“Vậy sao?” Thương Dịch Chi nhíu đôi mày kiếm, không âm không dương hỏi: “Nếu hắn lệnh cho ngươi tới Thái Hưng, tại sao ngươi lại chạy về Thanh Châu?”
“Tiểu nhân đến ngoài thành Thái Hưng thì mới biết được Thái Hưng đã bị vây nhiều ngày, Từ tiên sinh nói Bắc Mạc giương đông kích tây, để giải cứu Dự Châu thoát khỏi hiểm nguy chỉ có thể dựa vào Thanh Châu mà thôi.”
“Từ tiên sinh?” Thương Dịch Chi hỏi.
A Mạch thầm nghĩ ngươi cuối cùng cũng đã biết phối hợp, lão tử chính là chờ ngươi hỏi câu này đây. Vì thế liền hướng đến người bên cạnh vốn đang đợi để được lên sân khấu, Từ Tĩnh. “Đây là Từ tiên sinh mà tiểu nhân gặp trên đường đi, ngài ấy chỉ gặp tiểu nhân mang theo một trang phục vấy máu đi từ hướng thành Hán Bảo lại, không cần hỏi tiểu nhân một câu, liền đem ý đồ của tiểu nhân đoán ra triệt để, còn nói cho tiểu nhân biết Dự Châu nay đã ở vào tình trạng cực kỳ hung hiểm, nói là Dự Châu của ta là nơi yết hầu gì đó, thát tử cái gì mà đói bụng liền chế trụ cái gì đó.”
Khuôn mặt A Mạch lộ vẻ buồn rầu sâu sắc, rõ ràng không thể nhớ hết những lời Từ Tĩnh đã từng nói qua.
Từ Tĩnh ở phía sau, nhịn không được tiếp lời nói chen vào: “Là nói chặn nơi yết hầu, thát tử bóp chẹn một thành mà khống chế toàn cảnh Giang Bắc của ta.”
“Đúng!” A Mạch kêu lên, thầm nghĩ cho dù là phải tâng bốc một chậu phân đi chăng nữa, thì ta trước cứ để cho ngươi lên sân khấu đã rồi nói sau.
Từ Tĩnh ngẩn ra, trong lòng ngay lập tức mắng thầm, hay cho cái thằng nhãi giả dạng thỏ non, dọc đường đi ta chưa từng thấy ngươi miệng lưỡi vụng về như vậy, thế nào mà lúc này ở trước mặt tướng quân đây ngươi liền bị choáng váng đến vậy? Nguyên lai là tiểu tử nhà ngươi chờ ta a.
Quả nhiên, Thương Dịch Chi lại nhìn về hướng Từ Tĩnh, ánh mắt đã không giống trước. Hắn khẽ phất phất tay, kêu phó tướng phía sau tiến lên, khẽ nghiêng đầu phân phó hắn đi an bài đại quân dựng trại tạm nghỉ, nói hôm nay dừng ở nơi này. Viên phó tướng lĩnh mệnh thối lui, Thương Dịch Chi lại quay đầu nhìn mấy người bọn họ, tầm mắt chuyển tới A Mạch, mơ hồ khẽ nhíu nhíu đầu mày, liền phân phó vệ binh đưa A Mạch xuống thay quần áo cho sạch sẽ.
Thanh Châu vốn có hơn hai vạn quân, Thương Dịch Chi nhận được lệnh của triều đình Nam Hạ yêu cầu xuất binh cứu viện Thái Hưng, chỉ để lại năm ngàn quân lại Thanh Châu để phòng ngừa có biến, còn lại tất cả đều dẫn tới Thái Hưng. Một vạn quân vốn cũng không tính là nhiều, nhưng đối với vùng hoang dã này thì cũng đã là cực hạn rồi.
Tên vệ binh có diện mạo thanh tú kia dẫn A Mạch đi ra phía sau thay quần áo, hắn âm thầm được Thương Dịch Chi bày mưu đặt kế, đem quần áo ném cho A Mạch nhưng vẫn chưa tránh đi, vẫn đứng ở một bên canh chừng A Mạch. A Mạch thấy thế, biết lúc này nếu mình chỉ hơi do dự sẽ khiến hắn hoài nghi, nên ngoài mặt vẫn bình tĩnh cởi thắt lưng, trong đầu nhanh chóng xoay chuyển. Bọn họ có lẽ là hoài nghi trên người mình có dấu cái gì đây.
Nếu đổi thành một nữ tử khác, chỉ sợ không thể ở trước mặt nam nhân xa lạ mặc nhiên cởi áo, tháo thắt lưng. Đương nhiên, đó là nói những nữ tử bình thường. Đáng tiếc, A Mạch thật sự không phải là nữ tử bình thường trên đời này. Nàng âm thầm cắn chặt răng, trước cởi giầy, hất ra một góc xa xa, sau đó ở trước mặt tên cận về cởi quần dài xuống.
Hình dáng đôi chân của nàng rất đẹp và rắn chắc, thẳng tắp thon dài, tuy rằng nàng hơi gầy nhưng vẫn có thể mơ hồ nhìn ra hình dáng cơ thể, hơn nữa màu da của nàng cũng không trắng trẻo, trơn nhẵn bình thường như các nữ tử khác, mà là có chút gân guốc nhợt nhạt. Với màu da này, thì đến một nửa đội cận vệ của Thương Dịch Chi so với nàng còn trắng hơn! Đôi chân không được coi là nhỏ nhắn của nàng đã lừa được tên cận vệ kia khiến hắn không chút hoài nghi định tiến lên.
A Mạch hai tay nắm lấy lưng quần cộc, cười gượng hỏi tên cận vệ: “Quân gia? Có thể có nội y cho ta thay không? Trên người ta có rận, tốt nhất nên để cho ta ra ngoài thay đồ.”
Tên cận vệ vừa nghe thấy trên người nàng có rận, vội vàng né vài bước ra sau, trên mặt biểu lộ sự khinh ghét nói: “Ngươi thực ra rất đẹp! Cho ngươi ra bên ngoài sẽ là sai lầm rồi!”
A Mạch cúi đầu khom lưng đồng ý, vội vàng lấy bộ đồ mới ra thay, lại thừa dịp xoay người làm động tác mặc quần áo, đem áo khoác trên người thay ra.
Tên cận vệ kia chỉ lo tránh quần áo bẩn của A Mạch, sợ rận nhảy sang người mình, căn bản không chú ý A Mạch chỉ cởi áo khoác mà không thay quần áo bên trong.
Thay quần áo xong rồi, tên cận vệ lại dẫn A Mạch đi rửa sạch mặt mũi. Chờ sau khi hắn thấy A Mạch ngũ quan tuấn tú, thái độ đối A với Mạch đột nhiên tốt hơn rất nhiều. Cho nên khi A Mạch nói đã đói bụng, muốn ăn chút gì lót dạ, hắn cũng không trách cứ gì nàng mà còn hảo tâm lấy cho A Mạch hai cái bánh ngô.
A Mạch vừa cắn bánh ngô, vừa nhịn không được lấy tay sờ sờ mặt mình, thầm nghĩ mẫu thân nói thật đúng, mặc kệ là nam hay nữ, người nào nếu lớn lên được mang một khuôn mặt đẹp, chính là có được sức mạnh.
Tên cận vệ kia cũng nghĩ như vậy, hắn nhìn đến bộ dạng xinh đẹp tuyệt trần của A Mạch, thân hình mảnh mai, cân đối, dựa vào sở thích của tướng quân, A Mạch rất có khả năng sẽ trở thành đồng sự của hắn trong đội cận vệ. Về sau ngẩng đầu không thấy, cúi đầu lại gặp, cũng không nên đắc tội.
Sau khi đã ăn uống no đủ rồi, tên cận vệ liền dẫn A Mạch đi gặp chủ tướng Thương Dịch Chi. Trong doanh trướng của chủ tướng có lệnh truyền vào, A Mạch bước tới, thấy Từ Tĩnh đã ở bên trong, đang cùng Thương Dịch Chi ngồi quanh một cái bàn không biết bàn bạc cái gì. A Mạch không khỏi bội phục ông ta tự đáy lòng, chỉ trong vòng công phu nàng ăn một bữa cơm, ông ta đã trà trộn được vào hàng ngũ tham mưu cho quân đội Thanh Châu rồi sao?
Người này có thể leo cao a! Hơn nữa xem vị trí của ông ta hiện giờ cũng không tệ lắm.
Thương Dịch Chi thấy A Mạch bước vào trong trướng, tùy ý nâng mắt nhìn qua, biểu tình trên mặt hơi có chút ngẩn ra, sau đó lại cúi đầu tiếp tục xem bày đồ hành quân bày trên mặt bàn. Nhưng Từ Tĩnh lại mở miệng gọi rất tự nhiên: “A Mạch, lại đây.”
A Mạch thầm nghĩ, hắc, người này so với ta còn thành thục hơn a. A Mạch đi lên phía trước, khi cách cái bàn vài bước liền cúi đầu đứng lại.
Thương Dịch Chi lần nữa ngẩng đầu lên, lạnh lùng nhìn về phía A Mạch nói: “Ngươi đem tình hình từ khi quân Bắc Mạc vây thành Hán Bảo tất cả đều kể lại hết cho ta.”
A Mạch liên mồm đáp ứng, rồi đem hành trình từ khi nàng tiến vào thành Hán Bảo, lúc bắt đầu lên tường thành kháng địch, từ vòng vây trốn ra ngoài đến trên đường đi gặp Từ Tĩnh, liên tiếp những sự kiện đã trải qua như thế nào, hư hư thực thực kể lại một lần. Nàng dấu nhẹm chuyện từng bị tống vào đại lao cùng chuyện giả chết bò khỏi tường thành trốn vào trong nhà Từ Tú Nhi.
Nàng mồm miệng lanh lợi, một chuỗi sự kiện này nói thật rõ ràng, chỉ thấy Thương Dịch Chi càng nghe, mặt mày lại càng nhăn lại.
“Ngươi nói quân Bắc Mạc phần lớn là kỵ binh?” Thương Dịch Chi lạnh giọng hỏi.
A Mạch nghĩ nghĩ, gật đầu.
“Ngươi cùng Đường Thiệu Nghĩa cũng không thể khẳng định kỵ binh Bắc Mạc chắc chắn đi về phía bắc, có phải hay không?” Thương Dịch Chi lại hỏi: “Ngươi vì thấy người Bắc Mạt chặt cây mà đoán vậy?”
A Mạch giật mình, vội vàng chối trách nhiệm: “Tiểu nhân không hiểu quân sự, là Đường giáo úy nói như vậy.”
Thương Dịch Chi sắc mặt càng thêm âm trầm, chính là lạnh mặt nhìn A Mạch không nói lời nào.
A Mạch trong lòng không ngừng than thở, thầm nghĩ năm nay thật sự là sao Thái Tuế chiếu mạng mà, Giang Nam có nhiều nơi để đi như vậy, mà nàng đi đâu không đi, lại đi đến thành Hán Bảo. Cho dù thật vất vả mới ra khỏi thành Hán Bảo, thế nào lại nhất thời ấm đầu nhằm hướng Thanh Châu mà chạy đến đây? Sông Uyển dài đến mấy ngàn dặm, chẳng lẽ còn lo không qua sông được sao, gì chứ như vậy đâu phải mất hết hy vọng? Chẳng lẽ là trong lòng mình không muốn phụ lại sự nhờ vả của Đường Thiệu Nghĩa, cho nên mới hướng đi Thanh Châu?
Từ Tĩnh đưa mắt xuống dưới, quét mắt nhìn A Mạch rồi lại nhìn về phía Thương Dịch Chi, đột nhiên nói: “Thương tướng quân có thể nguyện ý nghe một lời của Từ Tĩnh không?”
Thương Dịch Chi dường như đối với Từ Tĩnh rất coi trọng, nghe hắn nói như thế, ôn hòa cười, nói: “Mời Từ tiên sinh cứ nói.”
Từ Tĩnh theo thói quen đưa tay lên cằm vuốt vuốt mấy sợi râu, trầm giọng nói: “Tướng quân có từng nghĩ xem Bắc Mạc vì cái gì mà nhất định phải vây thành Thái Hưng của ta chưa?”
Vấn đề này Từ Tĩnh thật đúng là hỏi nhầm người. Thương Dịch Chi là ai? Đó là nhân tài kiệt xuất ăn chơi trác táng trong kinh thành, là “bại hoại tướng quân” trong miệng dân chúng Thanh Châu, ngươi còn hỏi hắn Bắc Mạc vì cái gì nhất định phải vây thành Thái Hưng?
Thương Dịch Chi chính là nhận được quân lệnh nói lập tức phải xuất binh cứu viện Thái Hưng, trong quân lệnh cũng không nói rõ Bắc Mạc vì sao nhất định phải vây khốn thành này. Bất quá nhắc tới Thương Dịch Chi cũng coi như nói đến một nhân vật láu cá, ánh mắt hắn vừa chuyển liền nhận ra Từ Tĩnh thực ra không muốn mình trả lời vấn đề này, vì thế khiêm tốn hỏi: “Tiên sinh có cao kiến gì không?”
Từ Tĩnh chỉ chờ những lời này của hắn liền nói tiếp: “Bắc Mạc có hai mươi vạn đại quân, nhưng ngoài thành Thái Hưng không phải là thảo nguyên Tây Hồ, đại đội kỵ binh ngoại trừ truy đuổi quân địch thì không có tác dụng gì, hơn nữa thế tiến quân của Bắc Mạc rất nhanh chóng, cũng không mang theo thiết bị công thành, vậy bọn họ dùng cái gì để công thành? Là dùng mấy cái xe bắn đá mà Chu Chí Nhẫn chế tạo bằng vài cây gỗ nhỏ ngoài thành Thái Hưng sao? Nếu đúng như thế, vậy thì dựa vào tường thành của thành Thái Hưng, thì thành này có thể thủ đến một năm rưỡi cũng không thành vấn đề.”
Vấn đề này A Mạch đã sớm nghĩ tới, nàng cũng hiểu được người Bắc Mạt tạo thanh thế lớn như vậy tấn công thành Thái Hưng thực ra là không khôn ngoan, chỉ có khả năng chính là muốn vây thành đánh viện binh. Quả nhiên nghe thấy Từ Tĩnh tiếp theo chậm rãi nói: “Trừ phi là bọn họ muốn vây thành đánh viện binh.”
Thương Dịch Chi mặt khẽ biến sắc, cho dù hắn chỉ là một tên bại hoại, nhưng tốt xấu gì cũng xuất thân tướng môn, nên những từ “Vây thành đánh viện binh” vẫn có thể nghe mà hiểu được. Hắn ngẩng đầu lên nhìn về phía Từ Tĩnh, trong mắt tinh quang chợt lóe lên.
Từ Tĩnh nhẹ nhàng cười, lại còn nói thêm: “Điểm này lão phu còn có thể nghĩ đến, người khác tự nhiên cũng có thể nghĩ đến.”
A Mạch cúi đầu lẳng lặng ở một bên, nghe Từ Tĩnh nhất thời đắc ý lại bắt đầu tự xưng là lão phu, không khỏi khẽ nhếch khóe miệng.
Thương Dịch Chi lại không để ý này nọ, chính là bình tĩnh hỏi: “Tiên sinh còn nhìn ra người Bắc Mạt có ý đồ gì khác sao?”
“Không sai!” Từ Tĩnh nói, trên mặt lộ ra một tia tươi cười thần bí, nói tiếp:“Tướng quân có từng nghĩ tới lần này đi cứu viện Thái Hưng sẽ mang đến kết quả gì chưa?”
Thương Dịch Chi mặc dù có chút bại hoại, nhưng không phải cái bao cỏ, thoáng suy tư một chút liền nói: “Nếu Bắc Mạc tấn công Thái Hưng, như vậy phần đông quân Thanh Châu của bản tướng sẽ phải chi viện cho Thái Hưng. Nếu người Bắc Mạt muốn vây thành đánh viện binh, như vậy quân Thanh Châu chính là trúng kế mà bị đánh cho không hay ho gì.”
Từ Tĩnh cười gật gật đầu khen: “Tướng quân anh minh, lần này đi Thái Hưng, đối với quân Thanh Châu không hẳn là tốt. Nhưng tướng quân chớ quên, người Bắc Mạt vây khốn Thái Hưng chỉ là một khả năng, bọn họ còn có một khả năng khác.” Ông ta dừng lại chốc lát, một đôi mắt nhỏ nhìn không chớp hướng về phía Thương Dịch Chi.
Thương Dịch Chi mày kiếm dựng lên, có chút kích động nói tiếp: “Còn có một khả năng chính là như lời Đường Thiệu Nghĩa nói, người Bắc Mạt đánh Thái Hưng là giả mà đánh Dự Châu mới là thật!”
Thành tổ có Ngôn phi, sủng hạnh dị thường, mới vào cung được hai tháng mà đã được phong làm phi. Phi có một tỷ tỷ, gả cho võ tướng từng là cận vệ. Ngày nọ, Ngôn thị phu nhân bắt gặp một bức hoạ cuộn tròn bên trong thư phòng vẽ một thiếu niên thân mặc nhung trang, mặt như quan ngọc, môi hồng răng trắng, tướng mạo bảy phần giống Ngôn phi. Ngôn thị thấy thật kỳ lạ, liền lấy bức họa hỏi phu quân xem nữ tử nhà ai lại giả trang thành thế này. Phu quân của bà liền vô cùng kinh sợ, răn dạy: “Đây là chiến thần Đại Hạ, chớ có đem dung mạo của ngươi là làm chuyện đùa.” Sau đó, Ngôn thị tiến cung gặp Ngôn phi, kể lại việc này, rồi cười nói rằng: “Vẻ đẹp của Quý nhân, nếu cải thành nam trang sẽ đẹp vô cùng” Mọi người đều nói phải, Ngôn phi ý cũng quyết. Một ngày nọ, Thành Tổ mệt mỏi ngồi uống rượu một mình, trừ tên thái giám giữ cửa, mọi người không được vào. Ngôn phi cải nam trang giả làm bồi bàn đi vào. Thành tổ nhìn thoáng qua, sắc mặt đại biến, nói rằng: “A mạch, khanh tới gặp trẫm.” Toại phụ thì thào kể cho Ngôn phi về nỗi khổ tương tư của Thành Tổ. Ngôn phi hoảng hốt, thân thể lập tức rét run. Thành tổ đang lúc uống rượu, ngỡ là nhìn thấy A Mạch, nhưng hóa ra lại là Ngôn phi, giận dữ phẩy tay áo bỏ đi. Ngôn phi vì thế mà bị giáng xuống làm tần, không được xuất cung. Ba tháng sau, lệnh cấm này được xóa bỏ, Ngôn phi liền hỏi Ngôn thị rằng: “Người trong bức họa là chiến thần thực sao?” “Phải” “Nhưng sao lại gọi là A Mạch?” Phu nhân kinh sợ hỏi lại: “Sao Ngôn tần biết nhũ danh của chiến thần?” Về sau, Ngôn tần đau lòng nói lại rằng: “Thành Tổ nhầm ta là A Mạch!”
——- đoạn tích tự [ hạ cung bí sử ] ——-
Chương 12
THÂN VỆ
“Không sai! Nếu nói vậy, tướng quân chỉ có thể đưa quân Thanh Châu đi cứu Dự Châu mà thôi.” Từ Tĩnh nói.
Thương Dịch Chi nhíu mày, lại hỏi: “Nhưng người Bắc Mạt thật sự sẽ đánh lén Dự Châu sao?”
Từ Tĩnh cười cười, lấy tay chỉ lên bản đồ trên mặt bàn theo hướng từ dưới lên, khoa tay múa chân nói: “Nếu là đi xuống phía dưới này, tất sẽ không tấn công Thái Hưng, mà sẽ dẫn binh theo sườn phía Tây dãy núi Ô Lan yên lặng mà lên, vượt qua con dốc thoai thoải này xuyên qua hệ thống núi Ô Lan sau đó chuyển sang hướng nam, bất ngờ tập kích Dự Châu, chia cắt phía nam và bắc của Giang Bắc ta, khiến cho biên quân của ta ở Tĩnh Dương không thể quay trở lại. Dự Châu lại là vựa lúa của Giang Bắc, hiện giờ lại đúng vào thời điểm thu hoạch vụ thu, người Bắc Mạc quân trang nhẹ nhàng mà đến, trong quân lương thảo tất nhiên không đủ dùng, vì vậy tấn công Dự Châu sẽ tiện thể lấy luôn lương thảo của ta.”
“Không sai!” Thương Dịch Chi đấm mạnh một quyền lên bàn, khiến mọi người trong trướng đều hoảng sợ. Thương Dịch Chi thấy biểu tình kinh ngạc của mọi người, liền cố nén kích động trong lòng, sắc mặt bình tĩnh nói: “Tiên sinh nói có lý, viện binh Thanh Châu của ta sẽ tới Dự Châu, nghênh đón thiết kỵ của thát tử ngoài núi Ô Lan.”
Phó tướng là một hán tử thô lỗ hơn ba mươi tuổi tên là Hà Anh Dũng. Nghe Thương Dịch Chi nói vậy, trên mặt có chút do dự, nói: “Tướng quân, nhưng chúng ta nhận được quân lệnh của triều đình là phải khẩn cấp chi viện cho Thái Hưng, nếu bây giờ chúng ta thay đổi đi Thanh Châu, triều đình trách tội xuống thì phải làm sao?”
Từ Tĩnh cũng lẳng lặng nhìn Thương Dịch Chi, cười mà như không cười hỏi: “Tướng quân có dám phiêu lưu mạo hiểm không?”
Thương Dịch Chi nhìn phó tướng Hà Anh Dũng, lại nhìn Từ Tĩnh, nhướn mi cười nói: “Ngươi nói thiếu gia ta sợ hay không sợ đây?”
Từ Tĩnh cùng Thương Dịch Chi nhìn nhau cười to, không buồn để ý tới Hà phó tướng, khiến hắn ta chỉ có thể trợn trừng đôi mắt trâu mê hoặc nhìn hai người. Thương Dịch Chi ngừng cười, đột nhiên phát hiện A Mạch vẫn cúi đầu đứng ở trong trướng, không khỏi nhíu mày, lạnh giọng hỏi: “Sao ngươi vẫn còn ở đây?”
A Mạch sửng sốt, thầm nghĩ ngươi không bảo ta đi. Ngươi không phân phó, ta dám đi sao? A Mạch đang nghĩ xem nên làm thế nào để nói lời cáo từ với viên tướng quân này thì nghe thấy Thương Dịch Chi phân phó người thân vệ bên cạnh: “Dẫn hắn đi” Dừng lại một chút liếc mắt đánh giá A Mạch một cái, lại nói thêm: “Đưa về dưới trướng là tốt rồi.”
A Mạch không rõ viên tướng này nói đưa nàng về dưới trướng là có ý gì, mãi đến kia tên thân vệ dẫn đi, nàng mới biết ý của Thương Dịch Chi là cho nàng làm thân binh đi theo hắn.
Hơn hai mươi năm trước, quân đội Nam Hạ từng trải qua một sự cải cách lớn, lúc ấy Tĩnh quốc công từng đem Bộ Binh đổi thành Bộ Quốc Phòng, bên dưới biên chế thành quân khu, quân, sư. Khi ấy, cải cách này gặp phải sự phản đối mãnh liệt của các lão thần trong triều. Về sau Tĩnh quốc công lui về quy ẩn, trải qua hơn hai mươi năm, biên chế trong quân đội của Nam Hạ đã có nhiều thay đổi, đến mấy năm trước mới dần dần ổn định. Bộ Quốc Phòng lại bị đổi trở lại thành Bộ Binh, phía dưới biên chế chia làm quân, doanh, đội, ngũ. Mười người là một ngũ, trăm người là một đội, ngàn người là một doanh, quân thì có lớn có nhỏ, lớn thì mấy vạn người, nhỏ thì mấy ngàn người. Quân hàm lại chia ra thành Soái, Tướng, Giáo, Úy, Ngũ trưởng, Binh. Theo đó, từ cấp “Úy” trở lên là có thân binh tùy tùng.
Đường Thiệu Nghĩa mặc dù được xưng là giáo úy, nhưng thật ra quân hàm “Úy” này chẳng qua chỉ là một chức đội trưởng mà thôi. Quân hàm của Thương Dịch Chi tất nhiên cao hơn hắn nhiều, xem như là chủ tướng của một thành, thủ hạ có hơn hai vạn binh lính. Dựa theo tiêu chuẩn có thể dùng đến cả ngàn thân binh, bất quá ngàn thân binh này cũng không phải đều theo bên người hắn hầu hạ, mà còn đảm nhiệm cả nhiệm vụ làm cảnh vệ, thông tin, cần vụ cho chiến địa.
Vừa rồi Thương Dịch Chi nói “dưới trướng” tức là chỉ mấy chục người theo hầu bên cạnh hắn. Tên thân vệ dẫn A Mạch đi thay quần áo lúc nãy đã quay lại, bản thân hắn bất giác có chút đắc ý, cảm thấy mình quả thực đoán không sai, tên A Mạch này đúng là một tiểu tử tuấn tú, thật sự có khả năng trở thành huynh đệ của mình.
Tên thân vệ kia tự giới thiệu: “Ta gọi là Trương Sinh, ta xem ngươi so với ta nhỏ tuổi hơn, về sau gọi ta là Trương đại ca là được rồi.”
A Mạch khóe miệng khẽ mím lại, vì đột nhiên nhớ tới rất lâu trước kia mẫu thân từng kể cho nàng nghe một câu chuyện xưa, có một người cũng được gọi là Trương Sinh, hiện tại nghĩ đến đã không còn nhớ rõ chuyện xưa nói cái gì, chỉ mơ hồ nhớ bên trong còn có người gọi là Hồng Nương, nha hoàn cùng Thôi Oanh Oanh tiểu thư(1).
“Trương đại ca, ngài gọi ta là A Mạch là được rồi.” A Mạch nói.
“A Mạch? Họ gì?” Trương sinh hỏi.
“Họ Mạch.”
“Họ Mạch? Kêu A Mạch?” Trương Sinh có chút khó hiểu: “Mạch A Mạch?”
A Mạch khóe miệng lại co rúm lại, nhưng không nói gì, chỉ gật gật đầu. Mạch Tuệ, cái tên kia do cha mẹ tùy tiện đặt cho, giống như đã chẳng còn liên quan đến mình nữa, thôi thì cứ gọi là Mạch A Mạch đi.
Từ đêm đó, A Mạch trở thành cận vệ tạm thời sống yên ổn trong doanh trướng của Thương Dịch Chi. Trong doanh trướng này có hai mươi thân vệ binh, ngoại trừ mười tên trực đêm trong đại nội quân trướng, bên trong còn lại mười người ngủ chung. Cùng một đám đàn ông ngủ chung một chỗ, A Mạch có cảm giác rất quái dị. Nhưng cũng may là trên đường hành quân cắm trại, những người này chẳng những phải đảm bảo an toàn cho chủ tướng, mà còn phải nghe hắn sai sử, cho nên nào dám ngủ mê mệt, nên về cơ bản đều là gối đầu lên binh khí mà ngủ.
A Mạch cuối cùng đã có thể thở dài một hơi nhẹ nhõm.
Có lẽ là đối với A Mạch còn có chút đề phòng cho nên Trương Sinh an bài A Mạch ngủ ở trong cùng, cũng may hắn còn nhớ chuyện trên người A Mạch có rận, nên trên mặt tuy không tỏ vẻ gì, nhưng theo bản năng lại nằm dịch ra bên ngoài, cách A Mạch càng xa càng tốt.
A Mạch có chút kinh ngạc khi phát hiện ra phần lớn vệ binh của chủ tướng đều là những thiếu niên có khuôn mặt thanh tú. Nàng không thể không nghĩ ngợi một chút, cho rằng cái tên “bại hoại tướng quân” này có lẽ có chút sở thích đặc biệt. A Mạch không biết rằng nàng nghĩ như thế thật quá oan uổng cho “bại hoại tướng quân”, cho đến sau này, khi nàng trở thành một tên tiểu binh, chính thức đứng trong hàng ngũ quân doanh, đến khi nàng dùng kiếm cắt đứt yết hầu của một người, A Mạch mới hiểu được Thương Dịch Chi dùng những thiếu niên có diện mạo đẹp đẽ này trong doanh trướng của mình thật là là có ý tốt.
Doanh trướng của đội cận vệ ngay sát doanh trướng của chủ tướng, bên trong doanh trướng của chủ tướng ánh nến vẫn sáng. Thương Dịch Chi cùng các tướng lĩnh thủ hạ không biết đang thương nghị cái gì. Mà Từ Tĩnh cũng vẫn lưu lại trong trướng, A Mạch nghĩ ông ta có khả năng đã lấy được sự tín nhiệm của Thương Dịch Chi, tuy rằng mới chỉ ngắn ngủi có nửa ngày.
Ngày thứ hai, quân Thanh Châu nhổ trại. Trương Sinh đưa cho A Mạch một con ngựa lông đỏ sẫm, hỏi A Mạch có biết cưỡi ngựa hay không. A Mạch vốn định nói là không biết, song nhìn lướt qua thấy hầu hết binh lính đều đi bộ liền nhanh chóng gật đầu. Nhưng khi quay đầu lại nàng đã thấy hối hận, bởi vì Từ Tĩnh lại được ngồi trên xe.
Từ khi A Mạch bán con ngựa duy nhất của mình đến giờ thì đã gần nửa năm nàng chưa cưỡi ngựa. Nửa năm qua tuy rằng nàng vẫn bôn ba khắp nơi, nhưng làn da trên đùi non của nàng cũng đã nhẵn nhụi đi nhiều. Nay lại cưỡi ngựa, không tránh khỏi việc thở ngắn than dài. Nhưng lại an ủi chính mình, dù sao nếu phải chạy trốn thì bốn chân nhất định phải nhanh hơn hai chân. Nghĩ như vậy, nhưng nàng lại không có can đảm bỏ trốn. Trong quân, việc đối đãi với binh lính đảo ngũ chỉ có một loại đãi ngộ gọi là “đao tước diện”(2), cái này thì nàng đã từng nghe nói đến.
A Mạch vài lần cưỡi ngựa đi ngang qua xe ngựa của Từ Tĩnh, nhìn ông ta ám chỉ vài thứ, ý tứ nói là mục đích của ông ta đã đạt được rồi, thì hãy nghĩ đến chút tình nghĩa mà nói giúp với Thương Dịch Chi thả nàng đi.
Song lần nào Từ Tĩnh cũng chỉ nở nụ cười bí hiểm mà không hề tiếp lời.
Đại quân tiến lên với tốc độ rất chậm, tuy rằng Thương Dịch Chi hạ lệnh phải đẩy nhanh tốc độ hành quân, nhưng vẫn phải đi mất tới mười ngày đường mới đến nơi. Khi quân Thanh Châu tới được ngoài thành Dự Châu thì đã là giữa chín tháng.
Trên đường đi, Thương Dịch Chi đã phái quân sĩ cưỡi ngựa chạy tới Dự Châu báo tin trước, sau vài ngày tên lính đó trở về, nói bốn cửa thành Dự Châu đều đóng chặt, giống như gặp phải đại địch. Khi quân Thanh Châu đi tới dưới thành, thấy quả thực như thế, càng bực hơn nữa chính là quân coi giữ thành Dự Châu lại nhất quyết không chịu mở cửa thành, nói là sợ trong quân có trá, sợ thát tử Bắc Mạc giả trang.
Thương Dịch Chi nghe xong thì vô cùng giận dữ, phi ngựa tiến lên phía trước mà lớn tiếng quát mắng, nói con mẹ các ngươi, ngay cả người một nhà mà cũng không nhận được sao? Bổn đại gia đi từ xa đến giúp các ngươi, các ngươi liền dùng cái đức hạnh này để đón tiếp? Mau gọi chủ tướng thủ thành Dự Châu ra đây, nhìn xem đại gia có phải là thát tử Bắc Mạc hay không?
Đương nhiên, nguyên văn lời nói của Thương Dịch Chi không phải là mắng chửi như vậy, hắn dù sao cũng là kẻ được học qua đèn sách, ở kinh thành là một nhân tài kiệt xuất về ăn chơi trác táng, tuy rằng bại hoại, nhưng văn nho(3) vẫn là có một chút.
Trên tường thành, quân coi giữ nghe thấy vị tướng quân dưới thành nói như vậy,thì vội vàng chạy đi mời chủ tướng. Viên chủ tướng kia họ Thạch tên Đạt Xuân, làm chủ tướng thành Dự Châu đã được bảy năm, trong suốt thời gian đó mới chỉ đến kinh thành hai lần, nhưng đều không gặp qua Thương Dịch Chi. Thương Dịch Chi lại mới tiếp nhận chức tướng quân thủ thành Thanh Châu, còn chưa kịp đến tới những thành thị lân cận la cà, cho nên hai người này chẳng ai nhận ra ai.
Thương Dịch Chi ở dưới thành hô to: bản tướng là chủ tướng thủ thành Thanh Châu Thương Dịch Chi, trên thành Thạch Đạt Xuân nào dám tùy tiện tin tưởng. Vì thế ông ta căn cứ vào nguyên tắc an toàn thứ nhất tắc hỏi lại: “Có bằng chứng gì không?”
Thương Dịch Chi giận đến nỗi thiếu chút nữa thì cẵn phải đầu lưỡi, thầm nghĩ ta chính là người sống đến đây, ngươi còn quản ta chứng minh thân phận sao? Muốn đòi loại bằng chứng nào đây? Chẳng lẽ còn phải đem ấn của ta đem cho ngươi nghiệm chứng sao? Đang nghĩ tới đây, không ngờ trên tường thành quả thực nói vọng xuống: “Nếu thật sự là Thương tướng quân, thỉnh đem ấn ra đây xem một chút.”
“Hắc! Giỏi! Giỏi lắm!” Thương Dịch Chi tức giận cười lớn. Ngay cả con ngựa đang cưỡi bên dưới tựa hồ cũng nóng rực lên, phát ra tiếng thở phì phì trong mũi, ở tại chỗ quay đi quay lại vài vòng. Thương Dịch Chi trong lúc xoay người tầm mắt vô tình nhìn thấy A Mạch đang đứng ở cách đó không xa, lập tức trở nên âm lãnh hai phần, hung hăng nhìn nàng một cái.
A Mạch trong lòng cả kinh, thầm nghĩ người này sẽ không vì giận chó đánh mèo đấy chứ? Nàng lập tức co rút người lại, muốn tránh khỏi ánh mắt hung ác của Thương Dịch Chi. Không ngờ lại nghe thấy âm thanh lạnh lùng của hắn: “A Mạch!” Hắn nghiến răng gọi.
“Đây!” A Mạch theo bản năng đáp lại, phía sau đó mơ hồ nghe thấy Trương Sinh nhỏ giọng mắng: “Phải nói “Có mặt”, không được nói “Đây”! Ngu ngốc! Nói bao nhiêu lần rồi!”
A Mạch hiện tại làm sao có sức cùng hắn so đo này đó, hai chân nhẹ thúc vào bụng ngựa, kinh hồn táng đảm tiến đến gần Thương Dịch Chi. Thương Dịch Chi đi đến sát tường thành, ngửa mặt nhìn về phía chủ tướng thành Dự Châu, hô to: “Xin hỏi tướng quân, giáo úy Đường Thiệu Nghĩa coi giữ thành Hán Bảo có ở trong thành không?”
————————
Chú thích:
(1) Trương Sinh, Hồng Nương, nha hoàn, Thôi Oanh Oanh: những nhân vật trong Tây Sương Ký.
(2) đao tước diện: khắc dao lên mặt
(3) văn nho: sự nho nhã của thư sinh
Chương 13
BIẾN CỐ KINH HOÀNG
Trên thành im lặng một lát, một lát sau, thân ảnh Đường Thiệu Nghĩa xuất hiện phía trên tường thành. A Mạch liếc mắt một cái liền nhận ra anh ta, trong lòng vui sướng, nhịn không được kích động kêu lớn: “Đường đại ca! Là ta, A Mạch!”
A Mạch sợ mình đã thay đổi trang phục thì Đường Thiệu Nghĩa sẽ không nhận ra, liền bỏ mũ giáp trên đầu xuống, hua hua tay về phía Đường Thiệu Nghĩa.
“A Mạch?” Đường Thiệu Nghĩa cả kinh, thân hình cao lớn vội vã nhìn xuống phía dưới tìm kiếm. Chỉ thấy phía trước cửa thành cách đó không xa, một thiếu niên cao gầy mặc chiến bào màu đen, khoác nhuyễn giáp đang ngồi trên ngựa, ngửa mặt nhìn về phía mình cười vui vẻ. Mi thanh mục tú, không phải A Mạch thì là ai!
Đường Thiệu Nghĩa hướng về phía Thạch Đạt Xuân bẩm: “Phía dưới quả thật không phải bọn thát tử, A Mạch chính là người cùng thuộc hạ chạy ra khỏi thành Hán Bảo, thuộc hạ đến Dự Châu, còn A Mạch chạy tới Thái Hưng báo tin.”
Thạch Đạt Xuân gật gật đầu, nhưng là vẫn cẩn thận hỏi lại: “Nhưng sao phía dưới lại là quân Thanh Châu?”
Đường Thiệu Nghĩa cũng không biết A Mạch vì sao lại dẫn quân Thanh Châu tới, đành hướng về phía A Mạch hỏi, A Mạch vội vàng hô lớn: “Thành Thái Hưng bị vây rồi, A Mạch đành phải chạy tới Thanh Châu, giữa đường gặp được Thương tướng quân đi cứu viện Thái Hưng, tướng quân nghe nói Dự Châu gặp nạn, liền vội chạy tới nơi này.”
Phía sau, Thương Dịch Chi đã không còn kiên nhẫn được nữa, thật không thể hiểu được vì sao Thạch Đạt Xuân là một võ tướng mà lại lề mề không dứt khoát như vậy, anh ta phóng ngựa tiến lên, giơ roi ngựa đang muốn chửi ầm lên, đúng lúc đó thấy cửa thành chậm rãi mở ra, Đường Thiệu Nghĩa cùng tướng lĩnh thành Dự Châu đi ra đón.
Thạch Đạt Xuân tuy rằng ít khi hồi kinh, nhưng cũng nghe nói qua về Thương Dịch Chi, biết thiếu gia này chẳng khác gì một tên Hỗn Thế Ma Vương, ngay cả hoàng cung cũng dám xông vào. Vừa rồi bởi vì phải đặt nguyên tắc an toàn lên hàng đầu, nên mới đưa ra những câu hỏi nghi vấn anh ta đến nửa ngày như vậy. Thạch Đạt Xuân chỉ sợ anh ta đã sớm không còn kiên nhẫn, vừa thấy anh ta liền vội vàng chưng ra một khuôn mặt tươi cười, tiến lên, gắng sức giải thích rằng mình thực ra là sợ người Bắc Mạt gian trá, cho nên mới vô lễ với anh ta, thỉnh anh ta trăm ngàn không nên lấy thế làm phiền lòng.
Thương Dịch Chi cười mà như không cười, nhìn Thạch Đạt Xuân, ôm quyền chắp tay, không âm không dương nói: “Thạch tướng quân quả thật là người cẩn thận, Dịch Chi bội phục, bội phục. Dịch Chi vừa rồi ở dưới tường thành đã nghĩ, nếu tướng quân không tin tưởng thân phận của Dịch Chi, Dịch Chi có lẽ sẽ đề nghị tướng quân cho người ném dây thừng xuống để Dịch Chi trèo lên, thuận tiện cho việc kiểm nghiệm của tướng quân, đồng thời chứng minh thân phận của mình.”
Lời này vừa nói ra, Thạch Đạt Xuân chỉ cảm thấy trong lòng lạnh toát, thầm nghĩ lúc nãy mình đắc tội hắn, chỉ sợ đường quan lộ của mình e rằng đã đến đường cùng.
A Mạch đứng phía sau, thấy Thương Dịch Chi kiêu ngạo như vậy thì có chút khó hiểu, thừa dịp không có người chú ý liền vụng trộm hỏi Từ Tĩnh.
Từ Tĩnh trộm nhìn về phía Thương Dịch Chi, nhỏ giọng hỏi A Mạch:“Ngươi không biết cha mẹ của Thương tướng quân là ai sao?”
A Mạch rất phối hợp lắc lắc đầu.
Từ Tĩnh vuốt râu cười bí hiểm, cũng lắc lắc đầu.
A Mạch lại càng thấy mờ mịt, bỗng trên bả vai bị một người dùng đại lực vỗ một cái từ phía sau, nàng quay đầu lại, thì ra là Đường Thiệu Nghĩa.
“Không thể tưởng tượng được là chúng ta còn có cơ hội tái kiến.” Đường Thiệu Nghĩa vẻ mặt cảm khái nói, lại cao thấp đánh giá trang phuc của A Mạch một chút, có chút vui mừng cười cười, nói: “Làm cận vệ của Thương tướng quân cũng không sai, huynh đệ, loạn rồi, loạn rồi!.”
A Mạch thầm nghĩ ta cũng không muốn ở trong này làm loạn, cố không muốn ôn chuyện cùng Đường Thiệu Nghĩa, vội vàng nắm lấy cánh tay anh ta, nói: “Đường tướng quân –”
“Ta không phải tướng quân,” Đường Thiệu Nghĩa vội vàng sửa lại nói: “Ngươi cứ gọi ta là Đường đại ca đi, vừa rồi ở dưới thành không phải ngươi đã kêu ta là đại ca sao? Ha ha ha, ta cảm thấy rất tốt, chúng ta đồng sinh cộng tử, tình nghĩa huynh đệ đã sớm sâu đậm, nếu ngươi nguyện ý, hãy kêu ta một tiếng đại ca đi.”
“Đường đại ca, ngươi –”
“Ngươi có muốn gặp Từ cô nương hay không?” Đường Thiệu Nghĩa lại cắt ngang lời A Mạch: “Nàng đang ở trong thành Dự Châu, ngay bên trong phủ trông nom cho tiểu công tử.”
A Mạch sửng sốt, nhớ tới tiểu cô nương nhu nhược kia, lại không khỏi nhớ tới một đêm bị khủng bố ở thành Hán Bảo, ba người nương tựa vào nhau cùng ra khỏi thành. Từ Tú Nhi đi theo Đường Thiệu Nghĩa, thì tất nhiên cũng đang ở trong thành Dự Châu, nhưng mình có muốn gặp nàng ta hay không? A Mạch thấy trong lòng mâu thuẫn, đột nhiên nhớ ra nàng cùng Đường Thiệu Nghĩa đang nói chuyện, vội vàng thoát khỏi trạng thái suy tư, hướng về phía Đường Thiệu Nghĩa nói: “Đường đại ca, ngươi có thể nói với bọn họ một chút, nói ta –”
“Đường giáo úy!” Thạch Đạt Xuân đột nhiên gọi Đường Thiệu Nghĩa, Đường Thiệu Nghĩa vội vàng lên tiếng, không thể nghe tiếp A Mạch định nói gì, liền đi về phía trước. Khi ống tay áo của anh ta lướt qua A Mạch, nàng có chút choáng váng. Một lát sau, nàng liền thấy tức giận, nàng không phải là muốn cầu Đường Thiệu Nghĩa khiến cho những người đó thả nàng đi sao? Một câu như vậy cũng không chịu để cho nàng nói, mụ nội nó chứ, ông trời ơi, rốt cuộc ông muốn ta phải làm sao đây!
Bên trong phủ của thủ thành, tướng lĩnh cao cấp của Dự Châu cùng tướng lĩnh Thanh Châu do Thương Dịch Chi đưa tới đang ngồi lại với nhau, biểu tình đều có chút nghiêm túc. Đường Thiệu Nghĩa đến đây sớm hơn so với quân Thanh Châu mười ngày, đã đem tất cả những gì anh ta nhìn thấy ở thành Hán Bảo cùng với những gì mình phỏng đoán nói hết với tướng thủ thành Dự Châu Thạch Đạt Xuân. Thạch Đạt Xuân vốn nhận được quân lệnh của Bộ Binh yêu cầu ông ta phải mang binh đi cứu viện Thái Hưng, nghe Đường Thiệu Nghĩa nói, thì điều mà ông ta sợ nhất cũng giống như điều mà Đường Thiệu Nghĩa phỏng đoán, đó là người Bắc Mạt thừa dịp tấn công Dự Châu, thứ hai nữa là cũng đoán được người Bắc Mạt vây Thái Hưng là kế hoạch vây thành đánh viện binh. Cho nên muốn quan sát cho ổn thỏa, liền án binh bất động trong thành chờ xem xét kỹ tình hình rồi hẵng nói. Không ngờ là chờ đến nửa tháng mà quân Bắc Mạc vẫn không thấy đâu, lại thấy quân Thanh Châu của Thương Dịch Chi.
Thương Dịch Chi nghe Thạch Đạt Xuân nói lại về quân tình, sắc mặt trở nên lạnh băng, nheo mắt hỏi: “Vì sao không chặn đường thát tử Bắc Mạt ở bên kia sườn núi Ô Lan?”
Thạch Đạt Xuân sắc mặt có chút quẫn bách, đề nghị này Đường Thiệu Nghĩa đã sớm đề suất qua, nhưng ông ta cảm thấy kế hoạch đó thật quá mức mạo hiểm, nếu người Bắc Mạt không đi theo hướng bắc đến đây như phỏng đoán, ông ta không phái binh đi cứu viện Thái Hưng, trái lại lại đi giữ một cái cốc khẩu không quan trọng chút nào, chẳng phải là sẽ khiến cho mọi người chê cười sao.
Từ Tĩnh nhìn Thương Dịch Chi một cái rồi nói: “Cho dù không đi cốc khẩu mai phục, thì cũng có thể phái thám báo đi tới đó, chẳng lẽ Thạch tướng quân bỏ mặc cốc khẩu kia mà không để ý gì sao?”
Thạch Đạt Xuân sắc mặt có chút thả lỏng, vội vàng nói: “Mấy ngày trước đây đã phái thám báo đi rồi, phỏng chừng tin tức cũng sắp có.”
Thương Dịch Chi ánh mắt sắc bén mà lạnh như băng, lạnh giọng hỏi: “Mấy ngày trước đây?”
Đường Thiệu Nghĩa từ hơn nửa tháng trước đã đưa tin tức đến, mặc dù Thạch Đạt Xuân không dám phái binh đi cốc khẩu mai phục, ít nhất cũng phải phái thám báo đi tới đó giám thị chặt chẽ, ai ngờ ông ta mấy ngày trước mới nhớ tới việc phái thám báo. Một đạo lý đơn giản như vậy, ngay cả người được gọi là “Bại hoại tướng quân” như Thương Dịch Chi cũng hiểu được, nhưng ông ta là một tướng quân trong quân đội đã mấy chục năm, vậy mà lại không thể nghĩ đến.
Thương Dịch Chi cười gằn, giận dữ nói: “Thạch tướng quân quả thực là lão tướng cẩn thận a!”
Đây rõ ràng là nói mát, Thạch Đạt Xuân nghe được sắc mặt khẽ biến. Xét về cấp bậc, bọn họ cùng là tướng quân, xét về tuổi tác, ông ta so với Thương Dịch Chi nhiều hơn đến cả ngoài hai mươi tuổi. Trước mặt tướng lãnh hai thành, Thương Dịch Chi nói chuyện không chút kiêng nể, khiến cho ông ta không biết dấu nét mặt già nua đi đâu, vì thế cũng dùng giọng nói lạnh lùng không kiêu ngạo, không siểm nịnh nói: “Thương tướng quân có điều không biết, trên cốc khẩu Tần Sơn vốn có trạm gác của ta, nếu thát tử Bắc Mạc qua nơi đó tất sẽ có quân tình truyền tin đến.”
“Ồ!” Thương Dịch Chi nhướn mi, cười lạnh nói: “Vậy hy vọng đúng như lời Thạch tướng quân nói, bọn thát tử cũng không theo hướng bắc mà đến, Dịch Chi ở trong này quấy rầy hai ngày, rồi sẽ dẫn quân đi theo phía Nam đến thành Thái Hưng.”
Vừa dứt lời, chợt nghe thấy một tên lính liên lạc từ bên ngoài viện chạy vào: “Báo –, thám báo phái đi cốc khẩu đã trở lại!” Ngay sau đó, một binh sĩ thám báo cả người đầy máu tiến vào. Khi thám báo vừa tiến đến, người bên cạnh liền buông tay ra, anh ta lập tức té xuống đất, nhưng cố gắng chống đỡ thân mình đứng lên, hướng về phía Thạch Đạt Xuân vừa khóc vừa nói: “Tướng quân, người Bắc Mạt đánh lén trạm gác, toàn doanh tướng sĩ không một ai may mắn sống sót.”
Thạch Đạt Xuân sắc mặt trắng bệch, tiến lên nắm vạt áo của tên thám báo, run giọng hỏi: “Đại quân Bắc Mạc kia đâu rồi?”
“Bắc Mạc đại quân đã sớm qua Tần Sơn đi theo hướng bắc, bọn chúng còn để lại mai phục tại Tần Sơn giết thám báo của chúng ta, mười người đi chỉ có duy nhất tiểu nhân chạy thoát trở về.”
Thân hình cao lớn của Thạch Đạt Xuân phút chốc chao đảo, hai tay vô lực buông vạt áo của thám báo ra.
Mọi người trong sảnh đều bị tin tức này làm cho chấn động, trong lúc nhất thời cả đại sảnh trở nên tĩnh lặng. Khó trách đại quân Bắc Mạc đi qua Tần Sơn mà không người nào biết, nguyên lai bọn chúng đã sớm chuẩn bị hết thảy, đầu tiên là đánh lén trạm gác ở Tần Sơn, sau lại phái kỵ binh lưu lại phục kích thám báo của Dự Châu, xem ra bọn họ quyết tâm nhất định phải âm thầm không một tiếng động đi lên phía Bắc.
“Hướng Bắc? Như vậy không phải Dự Châu mà là Tĩnh Dương?” Từ Tĩnh tự nói một mình, người Bắc Mạt định chơi canh bạc nào đây. Ở Tĩnh Dương có ba mươi vạn biên quân Nam Hạ, thế nhưng bọn chúng lại muốn đi tấn công quan khẩu Tĩnh Dương? Cho dù người Bắc Mạt có thể nam bắc giáp công quan khẩu Tĩnh Dương, nhưng phía Bắc Tĩnh Dương không chỉ có địa hình hiểm yếu, mà thành Tĩnh Dương cũng là thành cổ trăm năm, thành cao hào sâu, kỵ binh làm thế nào để đánh hạ Tĩnh Dương!
Trên mặt Thương Dịch Chi giống như có một tầng hàn băng, lãnh lẽo không có chút hơi ấm nào. Chỉ yên lặng nhìn tên thám báo đang quỳ rạp trên mặt đất đến ngây người, đột nhiên hai tròng mắt căng thẳng, thất thanh hô: “Viện quân!”
Từ Tĩnh thoáng ngẩn ra rồi chợt hiểu ý tứ của Thương Dịch Chi, sắc mặt cũng không thay đổi, có chút chần chờ hỏi: “Không thể nào, biên quân Tĩnh Dương chính là thủ quốc quân của nước ta, triều đình sẽ không thể phái biên quân Tĩnh Dương quay lại cứu Thái Hưng được?” (Thủ quốc quân: quân giữ nước)
Thương Dịch Chi hung hăng đạp một cước lên cột nhà, oán hận nói: “Ai biết cái bao cỏ đó có làm như vậy hay không!” Rồi quay lại lạnh giọng phân phó: “Nhanh phái người thông tri cho Tĩnh Dương, có chết cũng phải đem tin tức tới đó trước người Bắc Mạt.”
Đáng tiếc, đã chậm mất rồi.
Ngày 29/8, biên quân Tĩnh Dương nhận được lệnh của Bộ Binh đưa quân cứu viện Thái Hưng. Chủ soái biên quân Tĩnh Dương La Nghĩa Thành cự tuyệt xuất binh, triều đình liên tục ban ra chín đạo thánh chỉ thúc giục La Nghĩa Thành xuất binh. Dưới áp lực quá lớn, phó tướng Trương Hùng đành phải lĩnh một nửa biên quân quay lại cứu Thái Hưng .
Ngày 10/9, Trương Hùng lĩnh mười lăm vạn biên quân Tĩnh Dương ra khỏi thành Tĩnh Dương, đi theo hướng nam chi viện cho Thái Hưng.
Đêm 16/9, viện quân Tĩnh Dương đi theo hướng nam bất ngờ bị kỵ binh Bắc Mạc tập kích đánh lén. Trong đêm đen, kỵ binh Bắc Mạc như từ trên trời rơi xuống, xâm nhập vào đại doanh của quân Tĩnh Dương, trong lúc nhất thời không kịpchuẩn bị, quân doanh Nam Hạ biến thành địa ngục lầy máu, hơn chín vạn người chết, gần sáu vạn người hàng địch đều bị chôn sống. Chủ tướng Bắc Mạc kỵ binh Thường Ngọc Thanh một trận thành danh, dùng mười lăm vạn chiếc đầu của binh lính Nam Hạ lót đường đưa anh ta trở thành danh tướng, thế nhân gọi là “Sát tướng”.
Đêm 19/9, chủ soái Tĩnh Dương La Nghĩa Thành bị ám sát, thành Tĩnh Dương như rắn mất đầu.
Ngày 21/9, Thường Ngọc Thanh cho quân giả trang thành quân của Trương Hùng, lừa Tĩnh Dương mở cửa thành phía nam, quân Bắc Mạc lọt được vào trong thành Tĩnh Dương, đánh từ trong đánh ra, mở hết các cửa thành nghênh đón đại quân Bắc Mạc bên ngoài vào thành.
Ngày 23/9, Tĩnh Dương hoàn toàn thất thủ.
Sau ba mươi năm, người Bắc Mạt cuối cùng đã lại một lần nữa tấn công Nam Hạ theo hướng bắc. Đồng thời, chủ soái Bắc Mạc vẫn giấu mặt phía sau rốt cục đã lộ diện. Trần Khởi, cái tên này trong thời gian ngắn nhất đã truyền khắp tứ quốc, trở thành một danh tướng vô tiền khoáng hậu.
Khi tin tức được truyền đến, là lúc A Mạch đang quỳ trước văn án của tướng quân thủ thành Thanh Châu Thương Dịch Chi xin được rời đi.
Thương Dịch Chi ngồi ở sau án, không ngẩng đầu lên, chỉ thản nhiên nói: “Ngươi coi quân doanh là nơi nào? Muốn đến thì đến, muốn đi thì đi?”
A Mạch cúi đầu cắn chặt răng, trầm giọng nói: “A Mạch vốn là không phải quân nhân, do chịu sự ủy thác của Đường giáo úy mới chạy tới Thanh Châu đưa tin, hiện tại A Mạch đã hoàn thành phó thác, muốn tìm muội muội thất lạc ở Dự Châu, tiểu muội tử một thân một mình không ai bên cạnh, cho nên tiểu nhân mạo muội đến để từ giã tướng quân.”
Thương Dịch Chi không tiếp lời, chỉ cúi đầu chuyên chú tập viết. Từ Tĩnh có chút bất mãn nhìn A Mạch một cái, vừa há mồm định nói chuyện, thì bên ngoài đã có tên lính thông tin lật đật chạy vào, đem quân báo trình tới Thương Dịch Chi.
A Mạch đợi lâu không thấy Thương Dịch Chi trả lời, nhịn không được vụng trộm ngẩng đầu lên nhìn, thấy anh ta hai tay mở quân báo, sắc mặt dần dần trắng bệch sau đó lại chuyển thành màu xanh, hai tay cầm tờ quân báo run rẩy đứng lên rồi đột nhiên xé rách quân báo trên tay, quát to một tiếng, nhấc chân đạp mạnh cái bàn trước mắt.
A Mạch trong lòng cả kinh, theo bản năng lắc mình tránh bút và nghiên mực đang bay tới.
“Ba mươi vạn! Ba mươi vạn đại quân a!” Thương Dịch Chi phẫn nộ kêu lên, rút soạt bội kiếm bên hông, hai tay nắm chuôi kiếm hướng về những thứ bài trí trong phòng liều mạng chém bừa bãi.
A Mạch bị dọa đến choáng váng, sợ anh ta không cẩn thận sẽ chém vào người mình, vội vàng cuống quít chạy sang bên cạnh trốn. Ai ngờ nàng vừa động lại nhắc nhở Thương Dịch Chi nhớ ra, chỉ thấy ánh mắt anh ta vằn đỏ, rút kiếm bước một bước hướng A Mạch đi tới. Từ Tĩnh thấy thế, cuống quít tiến lên trước người A Mạch, cố sống cố chết ôm lấy cánh tay Thương Dịch Chi, gấp giọng hô: “Tướng quân! Tướng quân! Xin người bình tĩnh lại một chút!”
Chương 14
CHUYỆN CŨ
Thương Dịch Chi dùng sức hất Từ Tĩnh ra, vẫn từng bước, từng bước hướng về phía A Mạch. A Mạch lúc này đã ngã ngồi dưới đất, thân mình cứ lùi dần, lùi dần, chợt cảm thấy sau lưng bị một vật cứng chặn lại, hóa ra nàng đã lùi đến cột nhà. Phía sau đã không còn đường lui, A Mạch cắn răng một cái rồi vội vàng đứng lên, lưng dựa vẫn dựa vào cây cột, lạnh lùng nhìn Thương Dịch Chi, cố gắng khống chế âm điệu sao cho giọng nói trở nên đều đều: “Tướng quân, chẳng lẽ ngài nhất định vì giận chó đánh mèo mà giết A Mạch sao?”
Ánh mắt Thương Dịch Chi vằn đỏ, trừng trừng phẫn nộ nhìn A Mạch, hô hấp dồn dập khiến ngực anh ta không ngừng phập phồng lên xuống, dáng vẻ không khác gì loài dã thú bị cung tên của thợ săn làm cho nổi giận.
A Mạch ngay cả thở cũng không dám, song vẫn bắt buộc bản thân giữ nguyên thái độ lạnh lùng cùng anh ta đối diện, thanh kiếm sắc nhọn kia vẫn chĩa vào người nàng, kiếm quang lóe sáng. Nàng biết, chỉ cần cổ tay nam nhân trước mặt này hơi động một chút, thanh kiếm lợi hại kia sẽ hướng người nàng bổ tới. Nàng rất sợ, nhưng hiện giờ ngoại trừ đứng ở trước mặt anh ta ra thì nàng cũng không làm được gì khác.
Hàn quang chợt lóe, thanh kiếm kia vẫn bổ tới. Đồng tử A Mạch co lại, phản chiếu trong đó là khuôn mặt xanh mét của nam tử trước mặt và thanh kiếm trong tay anh ta đang chém tới.
Mũi kiếm lướt qua trước mặt nàng, tuy rằng không đụng tới thân thể, nhưng kiếm khí bá đạo vẫn lướt qua làn da trên hai gò má. Không một chút đau đớn, nhưng trên má trái của nàng đột nhiên hiện lên một tia đỏ cơ hồ nhìn không rõ, sau đó một giọt máu rất nhỏ chậm rãi chảy ra.
“Cút! Cút! Tất cả đều cút hết cho ta!” Thương Dịch Chi lớn tiếng quát, nói xong liền thu kiếm xoay người, đến bên bản đồ quân sự treo trên tường, trượt mũi kiếm đến vị trí đô thành của Bắc Mạc, lạnh giọng nói: “Trần Khởi, ta không giết được ngươi, thề sẽ không làm người!”
A Mạch vốn đã đi tới cửa, sau khi nghe được lời nói của Thương Dịch Chi, cả người liền lập tức cứng đờ, giống như đột nhiên bị rơi mất hồn phách, ánh mắt như tan rã, khuôn mặt trở nên trắng bệch.
Thủ phủ thành Dự châu rất rối ren, các tướng lĩnh sắc mặt khẩn trương ra ra vào vào trong viện. A Mạch lẳng lặng đứng ở cửa viện, thừa lúc Từ Tĩnh đi qua bên cạnh, nàng liền kéo ông ta lại, hỏi: “Trần Khởi là ai?”
Từ Tĩnh hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn trả lời nàng: “Trần Khởi là đại nguyên soái của đại quân Bắc Mạc, lần này trận chiến tại Tĩnh Dương chính là do hắn thao túng, không, phải nói là toàn bộ hành động quân sự của quân Bắc Mạc lần này đều là kiệt tác của hắn mới đúng.”
“Hắn ta rất lợi hại sao?”
“Ba mươi vạn biên quân Tĩnh Dương, cả một tòa thành trì đã có thâm niên mấy chục năm chỉ trong chốc lát đã bị hủy hoại, từ nay về sau, vó ngựa của lũ thát tử sẽ tiến công vùng Giang Bắc ta như vào chỗ không người, ngươi nói xem hắn có lợi hại hay không? Cùng là ba mươi vạn binh lực, chia làm ba nơi, hai lộ đại quân mạo hiểm xâm nhập sâu vào vùng Giang Bắc của ta, đánh nghi binh Thái Hưng, dẫn dụ biên quân của ta hồi cứu, sau đó lại ngàn dặm bôn tập viện quân Tĩnh Dương.” Từ Tĩnh nhẹ nhàng vuốt râu, cảm thán nói: “Chiến thuật mạo hiểm này nhất định là đã sớm diễn tập từ rất lâu rồi, Tây lộ Bắc Mạc đại quân chỉ cần có một điểm không theo dự tính liền đem toàn bộ kế hoạch ban đầu hủy bỏ. Mà càng khiến cho người ta phải sợ hơn nữa, đó là căn cứ vào hồi báo của mật thám của chúng ta ở Bắc Mạc, tên Trần Khởi này lại chưa đến ba mươi tuổi, thiên tài như vậy, chỉ sợ có thể sánh vai cùng Tĩnh quốc công của Đại Hạ chúng ta hơn hai mươi năm về trước.”
A Mạch nghe mà thân thể bất giác không thể khống chế được, phát run lên, sợ tới mức nàng vội vàng dùng sức nắm chặt tay lại, toàn thân căng thẳng, song vẫn cố gắng tỏ vẻ vô sự đứng nghe.
Từ Tĩnh sau khi nói được vài câu liền ngừng lại, híp đôi mắt nhỏ tinh tường đánh giá A Mạch một chút, hỏi: “Ngươi đáng lẽ phải đi rồi, còn ở đây hỏi thăm này nọ làm gì?”
A Mạch khẽ nhếch khóe miệng cười cười, rồi lại lắc lắc đầu, không để ý tới sự kinh ngạc của Từ Tĩnh, xoay người rời đi. Trên người nàng còn mặc trang phục cận vệ của Thương Dịch Chi, cho nên đi lại trong thành cũng không bị ai ngăn cản. Nàng cứ ngây ngốc như vậy đi tới đường cái trong thành Dự Châu, trên đường có rất nhiều người vội vàng qua lại. Dân chúng trong thành Dự Châu chỉ biết chiến sự đang đến gần, song không biết ba mươi vạn tướng sĩ canh giữ biên giới của họ đã chết dưới vó ngựa của quân Bắc Mạc. Cho nên mặc dù cư dân trong thành đối với tin tức về chiến tranh có chút khủng hoảng, nhưng vẫn tiếp tục cuộc sống bình thường.
Những gì Từ Tĩnh nói như vẫn còn vang vọng ở bên tai, nguyên soái Bắc Mạc ấy còn chưa đến ba mươi tuổi, mưu sâu kế hiểm kia chỉ có thể là của một thiên tài quân sự, hẳn là anh ta rồi, Trần Khởi, cái tên này nàng đã cố quên đi, mà sao nó vẫn cứ xuất hiện ở trước mắt nàng.
Mật thám Nam Hạ quả thật quá vô dụng, A Mạch cười nhạo, ngay cả anh ta chính xác bao nhiêu tuổi cũng không tra ra được, nàng thì nhớ rất rõ, anh ta hơn nàng bảy tuổi, năm nay đã hai mươi sáu tuổi rồi.
A Mạch đến bây giờ còn nhớ rất rõ lần đầu tiên nhìn thấy Trần Khởi. Nàng có trí nhớ rất tốt, kể cả chuyện xảy ra từ lúc còn rất nhỏ nàng đều có thể nhớ được, nhưng không có sự kiện nào mà nàng lại nhớ rõ như chuyện này, giống như chỉ vừa xảy ra từ vài ngày trước, mỗi khi nhớ lại, cơ hồ ngay cả mỗi biểu hiện của anh ta nàng vẫn có thể hình dung ra được.
Nàng khi đó vừa tròn sáu tuổi, đúng là một đứa trẻ khiến cho người người tránh xa, đến chó cũng phải kinh sợ, không chuyện gì mà nàng không dám làm. Có một lần nàng đã khiến mẫu thân tức đến nghẹn thở, mẫu thân cầm roi trúc đánh vào mông nàng, sau đó oán hận uy hiếp: “Mạch Tuệ! Con nhớ kỹ cho ta, con là nữ hài tử! Lần sau nếu còn dám đi theo tiểu tử Ngưu gia, mẹ sẽ đánh gãy chân con!”
Nàng cười hắc hắc, hướng về phía mẫu thân làm cái mặt quỷ, sau đó nhanh chân chạy ra ngoài, nàng biết, mẫu thân không đuổi kịp mình, hơn nữa chỉ cần mẫu thân ra khỏi cửa sẽ chuyển sang một dáng vẻ vô cùng dịu dàng, hiền thục, sẽ không bao giờ cầm gậy trúc đuổi theo nàng. Ai ngờ vừa chạy đến cổng, nàng liền đụng vào phụ thân vừa đi tới, phụ thân nhấc bổng nàng lên, giơ lên giữa không trung cười nói: “A Mạch, tiểu nha đầu, hôn ba ba một cái, có nhớ ba ba không?”
Nàng vui mừng ôm lấy cổ phụ thân, lớn tiếng kêu: “Nhớ!”
Phụ thân cười buông xuống nàng, lại bước qua ôm thê tử, sau đó trở lại cổng kéo một thiếu niên vẫn lẳng lặng đứng ở đó cười nói: “Đây là Trần Khởi, về sau chính là một thành viên trong nhà chúng ta.”
Nàng tò mò nhìn cậu ta, đôi mắt tròn vo xoay chuyển.
Phụ thân hỏi nàng: “Sau này đại ca ca sẽ chơi cùng con, được không?”
Nàng không trả lời phụ thân, chỉ nhìn cậu ta hỏi: “Ngươi có biết trèo cây không?”
Thiếu niên chậm rãi gật gật đầu.
Nàng lại hỏi: “Vậy ngươi có thể lội sông bắt cá không?”
Thiếu niên vẫn gật đầu.
Vì thế nàng bước đi đến trước mặt anh ta, ngửa đầu nói: “Vậy được rồi, sau này ta sẽ cho ngươi đi chơi cùng ta.”
Nàng nói bằng giọng rất nghiêm trang, như của một người lớn, khiến phụ thân cùng mẫu thân đều bật cười. Phụ thân kéo tay nàng thả vào trong tay của người thiếu niên nọ, ôn tồn nói: “Trần Khởi, từ giờ về sau, ta giao A Mạch cho con.”
Sắc mặt của cậu thiếu niên đó có chút đỏ ửng, khóe môi khẽ mím lại, trịnh trọng gật đầu.
Khi đó A Mạch không hiểu được ý tứ của phụ thân, cho nên khi nghe lén mẫu thân và phụ thân nói Trần Khởi so với A Mạch hình như hơi lớn tuổi một chút, nàng lập tức nhảy bổ lên giường la lên: “Không lớn, không lớn, Trần Khởi làm ca ca rất hợp!”
Đúng vậy, cậu ta rất thích hợp, cậu ta vừa là người bạn, vừa là người bảo vệ tốt nhất của nàng.
Bọn họ cùng sớm chiều bên nhau trong suốt tám năm, nàng từ một đứa trẻ thành một cô gái dậy thì, mà cậu ta từ một thiếu niên ngây ngô biến thành một thanh niên cao lớn anh tuấn. Đến khi đó, nàng mới dần dần hiểu được dụng ý ban đầu của cha mẹ. Khi nàng được mười ba tuổi, cậu ta đã trưởng thành, sau khi làm lễ trưởng thành xong, nàng kéo tay áo của cậu ta hỏi: “Ca, ngươi có thể cưới ta không?”
Nàng không có lấy một chút e thẹn nào của người thiếu nữ, ngược lại, mặt cậu ta lại đỏ bừng, vội tránh tay nàng ra, vừa đi vừa thấp giọng than thở: “Đồ ngốc!”
Khi nàng mười bốn tuổi, nàng liền kéo cậu ta ngồi dưới bóng cây hòe sau vườn, dùng bả vai huých vào cậu ta, hỏi: “Ca, sau này ngươi muốn một cuộc sống như thế nào?”
Ánh mắt cậu ta ôn nhu nhìn nàng, sau đó đưa mắt nhìn về phía chân trời xa xa, nhẹ giọng nói: “Một cây cầu nho nhỏ, một dòng nước êm đềm, và một người đứng đợi ta”.
Nàng cười ha hả, không đợi cậu ta nói xong đã dùng ngón tay chỉ vào chóp mũi cậu ta kêu lên: “Ngươi không phải lại đến thư phòng của ba đọc trộm sách đó chứ?”
Cậu ta cười khẽ, kéo tay nàng xuống, nhưng không buông ra.
Nàng ghé sát vào mặt cậu ta, nghiêm trang hỏi: “Ca, rốt cuộc thì khi nào ngươi mới cưới ta?”
Cậu ta không nói gì, chỉ lẳng lặng nhìn nàng, khuôn mặt chậm rãi hạ thấp xuống. Nàng đột nhiên nhớ ra phụ thân thường xuyên cùng mẫu thân làm việc này, lập tức trở nên khẩn trương, hai mắt mở to, đột nhiên hỏi: “Ca, không phải ngươi định hôn ta đấy chứ?”
Trên mặt cậu ta chợt hiện lên sắc đỏ rất khả nghi, ngồi thẳng dậy, để tay lên trán nàng khẽ đẩy ra, bất đắc dĩ thấp giọng nói: “Thật ngốc mà!” Sau đó lại xoay người nhìn nàng, cắn cắn môi dưới, nhẹ giọng nói: “A Mạch, về sau không cho ngươi gọi ta là ca.”
Nàng không rõ, nàng vẫn gọi cậu ta là ca tám năm nay, vì sao sau này sẽ không được gọi nữa?
Nhìn vẻ mặt hoang mang của nàng, cậu ta thật bất đắc dĩ, quay đầu không nhìn nàng nữa, chỉ nhỏ giọng nói: “Bảo ngươi đừng gọi thì đừng gọi, đồ ngốc!”
Về sau, cậu ta đột nhiên rời đi, bảo chờ đến khi nàng mười lăm tuổi sẽ trở về cưới nàng. Nàng liền chờ, bọn họ chưa từng phải xa nhau lâu như vậy, nàng cả ngày theo sau mông mẫu thân, hỏi khi nào thì anh ta trở về, hỏi tại sao sinh nhật của nàng mãi không đến, Trần Khởi ca ca đã nói chờ nàng mười lăm tuổi sẽ trở lại cưới nàng mà.
Mẫu thân bị nàng suốt ngày quấn lấy, cả giận nói: “Mạch Tuệ! Khi nào con được hai mươi tuổi thì mẹ mới gả con đi! Mới mười lăm tuổi mà con đã nghĩ mẹ sẽ cho con lập gia đình sao? Khi mẹ bằng tuổi con mà dám nói những lời này, sẽ bị bà ngoại đánh đến nhừ xương!”
Bà ngoại? Nàng chưa từng gặp bà ngoại bao giờ, cho nên lời đe dọa này của mẫu thân chẳng có gì đáng sợ.
Phụ thân nghe xong thì luôn mỉm cười, sau đó dùng khóe mắt liếc nhìn mẫu thân, thì thầm nói: “Gái lớn không thể giữ trong nhà a –.”
Sinh nhật mười lăm tuổi của nàng rốt cục cũng đến, anh ta không thất hứa, anh ta đã trở lại, đồng thời cũng mang đến một đám sát thủ.
Cảnh tượng ngày đó nàng vĩnh viễn sẽ không bao giờ quên, thậm chí trong suốt hai năm đầu, chỉ cần nàng nhắm mắt lại là có thể nhìn thấy, đao quang kiếm ảnh, ánh lửa thấu trời, tiếng mẫu thân thê lương vang lên ngay bên tai: “A Mạch, chạy mau, chạy ra sau núi, con phải sống, nhất định phải sống!”……
A Mạch nắm chặt tay, dùng sức cắn chặt răng, sợ rằng có lẽ mình sẽ phát điên lên mất, ngay trên con đường này. Đã bốn năm qua đi, nhưng vì sao cảnh tượng đó vẫn còn hiển hiện rõ như vậy trong mắt nàng? Ngọn lửa rừng rực cháy, tiếng la hét của những láng giềng, thậm chí ngay cả mùi tanh của máu tươi trong không khí cũng vẫn còn cảm nhận được, nàng biết, đó là máu chảy ra từ người của phụ thân.
Nàng muốn quên, vì sao lại không thể quên? Mẫu thân nói không cần nàng báo thù, mẫu thân chỉ muốn nàng sống sót, không oán hận mà sống, vui vẻ mà sống. Mẫu thân nói hạnh phúc của nàng mới là quan trọng nhất, nhưng nàng còn có thể hạnh phúc sao?
Hạ thân chợt có một dòng nước âm ấp chảy xuống, có chút nhớp nháp. Có kẽ là kỳ kinh nguyệt đã đến. Khi mười lăm tuổi nàng mới có kinh lần đầu, đó là trước sinh nhật hai ngày, mẫu thân lúc ấy còn cười, nói như thế nghĩa là nàng đã thực sự trưởng thành rồi. Nhưng từ sau biến cố ấy, kinh nguyệt của nàng rất thất thường, phải một năm rưỡi mới xuất hiện một lần, hơn nữa lượng cũng rất ít, cơ bản chỉ một ngày là hết. Nàng không biết sao lại như vậy, song cảm thấy thế cũng tốt, nàng thường giả nam trang, không có kinh nguyệt lại càng thêm thuận tiện.
A Mạch dùng sức bấm mạnh vào lòng bàn tay, khiến cho ý thức thanh tỉnh lại một chút, sờ trên người còn sót lại một ít tiền, liền vào tiệm vải mua ít vải bông trắng, lại mua thêm bộ quần áo, rồi đi đến khách sạn. Trong thời buổi chiến loạn này, khách điếm rất ít khách, nàng lại thân mặc nhung trang, cho nên thái độ của chưởng quầy đối với nàng vô cùng niềm nở, rất nhanh đem những thứ linh tinh nàng yêu cầu đến.
A Mạch đóng cửa, rửa sạch hạ thân, sau đó bắt đầu dùng vải trắng đệm sát người.
Ngày hôm sau, chờ kinh nguyệt hết, nàng lại gọi tiểu nhị đem nước ấm tới, còn có cơ hội tắm táp thì nàng còn cố hết sức giữ cho thân thể được sạch sẽ, ai biết bao lâu sau mới có được cơ hội nữa. Sau khi tắm xong, A Mạch thay áo lót cùng nội y rồi lại cẩn thận khoác quân trang lên, mở cửa bước ra ngoài.
————–
Chương 15
TÒNG QUÂN
Bên trong thủ phủ thành Dự Châu thật hỗn loạn, nguyên lai là tướng Thạch Đạt Xuân, thủ thành Dự Châu tự sát.
Thạch Đạt Xuân cảm thấy vì mình phán đoán sai lầm nên mới dẫn đến thất bại của biên quân Tĩnh Dương, khiến cho ba mươi vạn nam nhi Đại Hạ tử trận. Ông ta ở trong thư phòng mở mắt trừng trừng, ngồi hết cả một đêm, đến hừng đông liền dùng kiếm cứa đứt ngón tay để lại một phong huyết thư, sau đó xõa tóc xuống che kín mặt, tỏ vẻ sau khi xuống cõi âm cũng không còn mặt mũi nào gặp tổ tiên, rồi chĩa bội kiếm vào mình, tính lấy cái chết để tạ tội.
Cũng là mệnh của Thạch Đạt Xuân chưa đến lúc tuyệt. Cân vệ canh giữ ngoài thư phòng đợi mãi không thấy Thạch Đạt Xuân kêu người vào hầu, trong lòng có chút kỳ quái, nhịn không được liếc mắt theo cửa sổ nhìn vào. Chỉ một cái liếc mắt này thôi nhưng đã khiến cho tên cận vệ kia sợ tới mức hồn vía bay mất, quýnh lên, cũng không nghĩ tới cái gì là mạo phạm hay không mạo phạm, một cước đá văng cửa thư phòng, xông đến bên người Thạch Đạt Xuân, cướp lấy thanh kiếm.
Thanh kiếm trên tay Thạch Đạt Xuân đã muốn đâm xuống, bị tên cận vệ giữ lại, khiến ông ta đỏ mắt cả giận quát: “Buông tay!”
Tên cận vệ kia nào dám buông tay, một bên liều chết đoạt kiếm, một bên vừa khóc vừa kêu lên: “Tướng quân! Tướng quân! Ngài không thể a!”
Tên cận vệ tay không đoạt kiếm, lưỡi kiếm sắc bén lập tức cắt vào tay hắn, dòng máu đỏ tươi theo thân kiếm chảy xuống, cùng máu trên bụng Thạch Đạt Xuân túa ra, hòa trộn với nhau, nhất thời diễm lệ vô cùng.
Khi Thương Dịch Chi đến, tướng lãnh Dự Châu đã quỳ đầy bên trong thủ phủ. Thạch Đạt Xuân bị mấy tên thủ hạ gắt gao ôm lấy, bội kiếm trong tay cũng bị đoạt mất, đang lườm ánh mắt đỏ bừng, giận dữ hét: “Buông tay, các ngươi buông tay cho ta.”
Những tướng lãnh này nào dám buông tay, mà càng ôm chặt ông ta hơn, vừa khóc vừa kêu lên: “Tướng quân, thắng bại là chuyện thường tình của nhà binh, ngài nghĩ rộng một chút a!” Những tướng lãnh quỳ trên mặt đất cũng đều khóc ầm lên, liên tục dập đầu.
Thương Dịch Chi lạnh lùng tiến vào, dùng chân đá văng một tên giáo úy đang quỳ gối ở cửa, lớn tiếng mắng: “Khóc cái con mẹ nó à mà khóc!”
Trong phòng tiếng khóc chợt ngưng lại, chúng tướng lãnh nghe vậy đều quay đầu nhìn Thương Dịch Chi, ngay cả Thạch Đạt Xuân vẫn giãy dụa không ngừng cũng ngừng lại, lẳng lặng nhìn về phía Thương Dịch Chi.
Thương Dịch Chi nhìn Thạch Đạt Xuân đầu tóc rũ rượi như kẻ điên, tầm mắt chậm rãi đảo một vòng quanh phòng, lạnh giọng nói: “Đều ra ngoài hết cho ta.”
Mọi người trong phòng đều trở nên cứng đờ, có mấy kẻ tính tình có chút yếu đuối hoảng hốt muốn đứng dậy lui ra ngoài, nhưng đại bộ phận tướng lãnh đều là những kẻ tính tình cương trực, một đám cứng đầu cứng cổ ngồi im không nhúc nhích, có kẻ còn đưa mắt khiêu khích nhìn Thương Dịch Chi, thầm nghĩ đây là địa bàn của Dự Châu bọn ta, ngươi chẳng qua cũng chỉ là một tướng quân thủ thành Thanh Châu, dựa vào cái gì mà tới nơi này ra lệnh, cho dù mẹ ngươi là công chúa thì thế nào? Lúc gia gia này bắt đầu cưỡi ngựa, cầm giáo, chỉ sợ ngươi vẫn là một tiểu hài tử còn quấn tã? Tướng quân chúng ta không muốn cùng tiểu bạch kiểm nhà ngươi chấp nhặt, ngươi lại còn được đằng chân lân đằng đầu mà lên mặt, thật quá khi dễ quân Dự Châu chúng ta rồi.
Thương Dịch Chi cùng đại hán mặt đen kia đấu nhãn đến nửa ngày, tức giận cười lạnh. Thương Dịch Chi này là ai? Những người khác ở kinh thành sinh trước anh ta, nhiều nhất thì là cái gì? Chẳng phải là làm quan sao. Làm quan tối thiểu nhất phải biết là cái gì? Chẳng phải là mắt đi mày lại sao! Chỉ có thể nhìn thấu được từ trong lời nói của những người đó ba phần, còn lại chẳng phải là dựa vào những lời dèm pha sao. Lời dèm pha là cái gì? Nó không phải là một ánh mắt hay một ý tứ gì, chẳng phải chính lời dèm pha chính là một động tác dường như vô ý nhưng lại là cố ý hay sao?
Từ khi lên ba tuổi, anh ta đã biết làm gì cũng phải nhìn sắc mặt phụ thân, nói gì cũng phải xem ánh mắt mẫu thân. Ánh mắt của hán tử mặt đen này còn kém cái tử bài viết trên mặt Thương Dịch Chi: ngươi chỉ là một cái khố! Thương Dịch Chi này nhìn mà không biết sao? Nực cười.
Thương Dịch Chi tức giận cười lạnh hai tiếng, đại hán mặt đen kia nhìn thấy ánh mắt của anh ta mà bất giác ớn lạnh.
Thạch Đạt Xuân tuy rằng không muốn sống, nhưng lại không muốn thuộc hạ của mình chết theo. Hán tử mặt đen không biết sự lợi hại của vị thiếu gia Thương Dịch Chi này, nhưng không có nghĩa là Thạch Đạt Xuân cũng không biết. Thạch Đạt Xuân ổn định cảm xúc một chút, trầm giọng nói với thuộc hạ đang quỳ ở trong phòng: “Các ngươi đi ra ngoài hết đi.”
“Nhưng…”
“Đi ra ngoài!” Thạch Đạt Xuân ngữ khí vô cùng nghiêm khắc, các tướng lãnh Dự Châu không dám cãi lời ông ta, đành phải nhất nhất đứng lên, đi ra khỏi thư phòng, trước khi đi có người còn lo lắng, lén lút cầm bội kiếm của Thạch Đạt Xuân đem đi.
Thạch Đạt Xuân khóe miệng nhịn không được cười khổ.
Sự tức giận trên mặt Thương Dịch Chi lại ngoài ý muốn mà tiêu tán hết, chỉ thản nhiên nhìn, chờ trong phòng rốt cục không còn ai, anh ta chợt khẽ nhếch miệng cười, đưa tay mân mê khóe môi, đứng trước án thư đọc huyết thư của Thạch Đạt Xuân. Sau đó cầm bức huyết thư trên tay hướng về phía Thạch Đạt Xuân, cười mà như không cười hỏi: “Một tờ giấy này đã đủ để tạ lỗi với tính mạng của ba mươi vạn tướng sĩ Đại Hạ ta?”
Thạch Đạt Xuân sắc mặt trở nên bi thương, môi run rẩy, vẫn là không thể nói nên lời.
Thương Dịch Chi cười lạnh một tiếng, lạnh giọng nói: “Việc đã đến nước này, ta cũng không cùng ngươi nhiều lời, ta chỉ có ba câu, thứ nhất, ba mươi vạn biên quân Tĩnh Dương bị giết không phải trách nhiệm của một mình Thạch Đạt Xuân ngươi, đầu của ngươi không lớn như vậy, cho nên cũng không đội được cái mũ lớn như vậy đâu. Thứ hai, là một quân nhân, thì chỉ có thể chết ở một nơi, đó là trên sa trường, chứ không phải ở trong thư phòng chó má! Thứ ba, nếu ngươi còn muốn chết, ta sẽ không ngăn cản ngươi, nhưng ngươi phải đem đám người thân tín với ngươi giết sạch, sau đó đem quân Dự Châu an an ổn ổn giao cho ta!”
Nói xong, Thương Dịch Chi phất tay áo rời khỏi thư phòng, chỉ còn lại Thạch Đạt Xuân một mình đứng đó.
Khi A Mạch trở về thủ phủ cũng là lúc Thương Dịch Chi từ trong thư phòng của Thạch Đạt Xuân đi ra. Nàng từ xa đã nhận ra sắc mặt của Thương Dịch Chi rất không tốt, theo bản năng liền vòng vào con đường nhỏ bên cạnh tránh đi, không ngờ đi được hai bước thì lại gặp Từ Tĩnh.
Từ Tĩnh kinh ngạc hỏi: “A Mạch, sao ngươi lại quay lại?”
A Mạch trong lòng kêu khổ, hướng về phía Từ Tĩnh đánh mắt một cái, ý bảo ông ta lờ nàng đi, nhưng đã chậm mất rồi, vì Thương Dịch Chi đã nhận ra nàng, cũng dừng cước bộ, mắt sáng như ngọn đuốc nhìn lại.
“Tướng quân.” Từ Tĩnh kêu lên.
A Mạch cũng đành bất đắc dĩ quay người lại, cúi đầu, cụp mắt cực kỳ cung kính kêu một tiếng: “Tướng quân”.
Ánh mắt Thương Dịch Chi phát lạnh, lạnh giọng hỏi: “Ngươi không phải đã đi rồi sao? Như thế nào lại quay trở lại?”
A Mạch cuống quít hai đầu gối vội quỳ rạp xuống đất, cúi đầu nói: “Hôm qua A Mạch hồ đồ, thỉnh tướng quân thứ tội, thát tử xâm phạm đất nước ta, A Mạch thân là nam nhi Đại Hạ, có lẽ nào vì an nguy của bản thân mà chưa lâm trận đã lui bước, A Mạch suy nghĩ cẩn thận rồi, từ nay về sau dù sống hay chết cũng đi theo tướng quân, một ngày chưa diệt được thát tử, A Mạch một ngày không rời quân doanh!”
Một đoạn này không chỉ có Thương Dịch Chi ngẩn người, mà ngay cả Từ Tĩnh cũng giật mình. Sau một lúc lâu, Thương Dịch Chi đột nhiên cười ha hả bước đến trước mặt A Mạch, lạnh giọng hỏi: “Ngươi thực sự đã quyết định đi theo ta?”
“Phải! A Mạch thề dù sống hay chết cũng đi theo tướng quân!” A Mạch lớn tiếng nói.
Thương Dịch Chi đột nhiên nhấc chân đạp lên vai A một cước, gạt nàng ngã lăn trên mặt đất, hắn nhìn A Mạch, lạnh giọng hỏi:“Ngươi cho quân Thanh Châu ta là cái gì? Ngươi muốn tới thì tới, muốn đi thì đi sao?”
A Mạch quật cường cùng hắn đối diện, cắn răng nói:“Không có, A Mạch hôm qua là nhất thời hồ đồ.”
Thương Dịch Chi nhìn nàng chằm chằm, đột nhiên nở nụ cười, lui ra sau hai bước, khẽ phẩy bụi bẩn bám trên góc áo, khẽ cười nói: “Vậy hiện tại ngươi thật sự muốn tòng quân?”
A Mạch dùng sức gật đầu.
“Được” Thương Dịch Chi nói, rồi phân phó cận vệ bên người: “Trương Sinh, ngươi dưa A Mạch xuống giao cho Lý phó tướng sắp xếp hắn vào bộ binh doanh.”
Từ Tĩnh sửng sốt, định mở miệng thay A Mạch nói vài lời, nhưng vừa nhìn thấy sắc mặt Thương Dịch Chi liền n lập tức đem lời nói đã lên đến đầu lưỡi ép xuống, hiển nhiên là tâm tình Thương Dịch Chi hiện tại đang rất khó chịu.
A Mạch vốn đã ở trong đội cận vệ của Thương Dịch Chi không ít ngày, hiện tại đột nhiên bị sắp xếp vào bộ binh doanh, hơn nữa chỉ là một tên tiểu binh bình thường đến mức không thể bình thường hơn, rõ ràng là bị giáng chức, hơn nữa bộ binh vốn là một binh chủng cực kỳ vất cả, chiến tranh đã liền kề ngay trước mắt, Thương Dịch Chi đem A Mạch sắp xếp vào bộ binh doanh, hiển nhiên là muốn cho nàng đi chịu chết.
Dọc theo đường đi, ngay cả Trương Sinh cũng có chút đồng tình với A Mạch, ngược lại vẻ mặt A Mạch vẫn bình tĩnh, chỉ cúi đầu đi theo sau Trương Sinh.
Bắt đầu từ vài ngày trước, Thương Dịch Chi đã đi ban quân lệnh chiêu mộ tân binh ở các thôn trấn quanh thành Dự Châu, nhiều ngày nay đã chiêu mộ được không ít thanh tráng niên. Bình thường, nếu chiêu mộ tân binh, sẽ phải thu xếp tân binh trong một doanh độc lập để huấn luyện, nhưng nay chiến sự khẩn cấp, cũng không thể đem tân binh đi huấn luyện được, mà chỉ có thể sáp nhập cùng những binh lính cũ đã trải qua luyện tập.
Lý phó tướng thấy tướng quân phái cận vệ đưa A Mạch sắp xếp ở bộ binh doanh, cũng không nghĩ nhiều, liền đem A Mạch giao cho quan quân là thuộc hạ của mình, quan quân lại đem A Mạch giao cho thuộc hạ của hắn. Kết quả là, A Mạch cứ như vậy bị phân xuống, rốt cục dừng lại ở Thanh Châu quân bộ binh doanh thứ bảy, doanh thứ tư, đội thứ tám, hộ thứ năm.
A Mạch nhìn mấy con số trên thẻ quân tịch của mình, cúi đầu niệm một tràng: “Một bảy bốn tám, một bảy bốn tám, mời ngươi đi tìm cái chết a”(1) A Mạch nhịn không được hắc hắc cười hai tiếng, con sổ này, con mẹ nó, thật đúng là may mắn a!
—————–
Chú thích:
(1) Nguyên văn: “Thanh nhất thất tứ bát” (Một bảy bốn tám) và “Thỉnh nhĩ khứ tử ba” (mời ngươi đi tìm cái chết) phát âm gần giống nhau.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top