A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa - Phần 8

A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

阿彌陀經疏鈔演義

Phần 8

Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không

Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

Giảo chánh: Huệ Trang và Đức Phong

Tập 15

       Xin coi A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang thứ mười sáu:

      (Sớ) Hựu dĩ Tứ Pháp Giới hội chi, tắc “thanh, trược, hướng, bối” thị Sự pháp giới. Linh minh trạm tịch thị Lý pháp giới. Linh minh trạm tịch nhi bất biến tùy duyên, thanh, trược, hướng, bối nhi tùy duyên bất biến, thị Lý Sự vô ngại pháp giới. Bất khả tư nghị thị Sự Sự vô ngại pháp giới. Dĩ thử kinh phần nhiếp ư Viên, diệc đắc thiểu phần Sự Sự vô ngại cố. Mạt ngôn tự tánh, diệc thị kết thuộc Tứ Pháp Giới quy nhất tâm dã.

      (疏) 又以四法界會之,則清濁向背,是事法界。靈明湛寂,是理法界。靈明湛寂而不變隨緣,清濁向背而隨緣不變,是理事無礙法界。不可思議,是事事無礙法界。以此經分攝於圓,亦得少分事事無礙故。末言自性,亦是結屬四法界歸一心也。

      (Sớ: Lại nữa, đem phối hợp với Tứ Pháp Giới thì “thanh, trược, hướng về, trái nghịch” là Sự pháp giới. “Linh minh trạm tịch” là Lý pháp giới. Linh minh trạm tịch nhưng bất biến, tùy duyên, “thanh, trược, hướng về, trái nghịch” tùy duyên nhưng bất biến là Lý Sự vô ngại pháp giới. “Chẳng thể nghĩ bàn” là Sự Sự vô ngại pháp giới. Do kinh này có vài phần thuộc về Viên Giáo nên cũng có được chút phần Sự Sự vô ngại; cuối cùng nói tới tự tánh thì cũng là gom bốn pháp giới về nhất tâm).

      Đoạn kinh này có ý nghĩa khá sâu. Nếu từ chỗ này mà có thể thật sự hiểu được mấy phần, chúng ta sẽ chẳng mê mất phương hướng trong khi tu học Phật pháp. Người học Phật thì nhiều, người thành tựu hết sức ít ỏi. Vì sao chẳng thành tựu? Do mê mất phương hướng. Những điều được giảng mấy lượt ở đây đều nhằm giảng về đoạn văn thứ nhất “nêu ra tông chỉ (khai tông), minh thị ý nghĩa” trong lời tựa của tổ Liên Trì; [những điều này] đúng là cột mốc chỉ đường chánh xác nhất cho sự tu học Đại Thừa Phật pháp của chúng ta, hoặc như chúng ta nói là Phật pháp [để tu học nhằm] “thành tựu trong một đời”, quyết chẳng thể coi thường. Đoạn lời tựa này chỉ gồm sáu câu, nhưng bao gồm ý nghĩa nhiều ngần ấy. Như trong phần trên chúng ta đã thấy, dùng giáo nghĩa của kinh này để nói thì [những ý nghĩa trong sáu câu ấy] có thể phối hợp với Tam Đại, Tam Đức, nay lại dựa theo Tứ Pháp Giới để giảng. Tứ Pháp Giới chính là giáo nghĩa trọng yếu trong kinh Hoa Nghiêm. Do vậy, nhất định phải hiểu rõ ràng định nghĩa của Tứ Pháp Giới.

      (Diễn) Hựu dĩ Tứ Pháp Giới hạ, phối Tứ Pháp Giới.

      () 又以四法界下,配四法界。

      (Diễn: Từ câu “Lại nữa, đem Tứ Pháp Giới” trở đi là phối hợp [đoạn văn Minh Tánh trong lời tựa] với Tứ Pháp Giới).

      Sáu câu trong lời tựa, nếu dựa theo giáo nghĩa Hoa Nghiêm [để luận định] thì có thông suốt hay không? Cũng thông suốt, thật sự vô ngại! Trước hết, giảng rõ “háp giới”là gì?

      (Diễn) Pháp giả, quỹ tắc dã.

      (演) 法者,軌則也。

      (Diễn: Pháp là quỹ tắc).

      “Quỹ” (軌) là quỹ đạo (orbit); nói theo cách bây giờ là trình tự phát triển của vũ trụ và nhân sinh, nó có quy tắc, chẳng lộn xộn tí nào. Theo Duy Thức Luận thì: “Vô minh bất giác sanh tam tế, cảnh giới vi duyên trưởng lục thô” (Vô minh bất giác sanh ra ba thứ tướng tế, cảnh giới làm duyên tăng trưởng sáu tướng thô). Đủ thấy nó có lớp lang không rối loạn, giống như quỹ đạo vậy. “Tắc” (則) là nguyên lý, nguyên tắc. Đấy là Pháp. Hết thảy toàn bộ vũ trụ và nhân sinh đều bao gồm trong ấy, “đại nhi thế giới, tiểu nhi vi trần”: Lớn như vô lượng vô biên đại thiên thế giới, nhỏ như một vi trần, đều gọi là Pháp. Chữ này là danh xưng chung cho hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian.

      (Diễn) Giới hữu tánh, phân nhị nghĩa.

      (演) 界有性分二義。

      (Diễn: “Giới” có hai nghĩa là Tánh và Phân).

      Chữ Giới (界) có hai ý nghĩa, một là Tánh, hai là Phân (phân biệt, phần hạn). Ý nghĩa này quả thật tuyệt diệu đến cùng cực! “Giới”là giới hạn. Do vậy, nó có ý nghĩa phân biệt. Ví như kinh Phật thường nói “thập bát giới”[1]. Trong mỗi một pháp sẽ có một giới hạn, nhưng giới hạn ấy chính là “tánh, phân” của nó, [tức là] mỗi pháp trong hết thảy pháp đều có tánh chất, giới hạn riêng biệt. Đấy là ý nghĩa của chữ Giới.

      Ghép hai chữ này lại, gộp hai ý nghĩa ấy lại, trong Phật pháp gọi là “pháp giới”. Khi mê bèn có mười pháp giới, “mười” ở đây chẳng phải là một con số nhất định, chẳng phải là bảy, tám, chín, mười, mà chữ “mười” này nhằm biểu thị ý nghĩa “vô lượng, vô biên”. Nói cách khác, khi mê sẽ là vô lượng vô biên pháp giới; lúc ngộ, chỉ là một pháp giới, gọi là Nhất Chân pháp giới.

      Mục tiêu học Phật là Nhất Chân pháp giới, quý vị ngàn vạn phần phải nhớ kỹ. Cũng có vị nói: “Tôi học Phật muốn minh tâm kiến tánh”. Minh tâm kiến tánh là Nhất Chân pháp giới, “tôi học Phật muốn Thượng Phẩm Thượng Sanh, muốn đắc Lý nhất tâm bất loạn”. Thượng Phẩm Thượng Sanh và Lý nhất tâm bất loạn cũng là Nhất Chân pháp giới, danh tự khác nhau nhưng là cùng một chuyện. Chúng ta nhất định phải hiểu rõ điều này: Chúng ta cầu Nhất Chân. Như thế nào mới hòng chứng được Nhất Chân? Chính là đắc nhất tâm. Quý vị phải hiểu: Cảnh giới bên ngoài là cảnh chuyển theo tâm, chứ không phải là tâm chuyển theo cảnh. Tâm chuyển theo cảnh thì đáng thương lắm! Đó là phàm phu, khổ chẳng kham nói nổi! Phật pháp giảng sự việc chân thật, tức là “cảnh chuyển theo tâm”: Tâm đã nhất thì pháp giới cũng nhất, là Nhất Chân; nếu tâm là hai thì pháp giới sẽ thiên sai vạn biệt. Đây là câu nói thông thường[2] trong nhà Phật. Quý vị phải nhớ kỹ: Càng là câu nói tầm thường thì đó là chân lý, là pháp tối diệu. Thế nhưng người ta nghe nhàm tai, ngỡ nó chẳng đáng coi là kỳ diệu, bèn xem thường, lại coi những thứ chuyện kỳ quặc là tuyệt vời, thật chẳng biết chúng ta đã lầm lẫn ở chỗ này!

      Do vậy, nếu quý vị học Phật mà thật sự muốn thành tựu trong một đời này thì quý vị phải nắm vững nguyên tắc “nhất tâm” này. Bất luận tu học pháp môn nào, tâm tuyệt đối chẳng dao động, quyết định chẳng hai. Ví như ta tu Tịnh Độ, ngẫu nhiên gặp bậc đại đức Thiền Tông đến đây giảng diễn Thiền, [bèn nghĩ]: “Pháp này cũng khá lắm, tôi cũng nên học theo ông ta”. Nếu vị đại đức nhà Thiền ấy thật sự là bậc cao nhân, quý vị theo ông ta học Thiền, ông ta nhất định hỏi quý vị: “Trước đây ông đã học môn gì?” “Tôi học Tịnh, nay muốn học Thiền”. Vị ấy liền đập quý vị ba mươi gậy, rồi bảo quý vị hãy đi đi, vì sao? Thấy lạ, nghĩ khác! Tâm quý vị chẳng chuyên nhất, chẳng thể nhập môn! Hôm nay quý vị nghe giảng Thiền bèn động tâm, hai hôm sau, bậc đại đức trong Mật Tông đến nói một chập, Mật cũng khá lắm, quý vị lại động tâm! Nói cách khác, quý vị vĩnh viễn chẳng thể thành tựu! Người thật sự thành tựu giữ vững một môn, những môn khác có thể nghe hay không? Có thể nghe, nhưng nghe xong thì “chẳng chấp lấy tướng, như như bất động” như kinh Kim Cang đã nói. Sau đấy quý vị mới hiểu: Tịnh cũng hay, Thiền cũng hay, Mật cũng hay, vốn là một thứ. Quý vị động tâm là xong rồi, đấy là tướng trạng “ít thiện căn, ít phước đức, ít nhân duyên”, kém thiện căn, kém phước đức đấy! Tâm chẳng thể chế ngự cảnh giới, vừa gặp cảnh giới tâm liền dao động ngay!

      Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử cao minh, Ngài chẳng động tâm, đến tham học với năm mươi ba vị thiện tri thức chẳng bị dao động, vẫn là thật thà niệm Phật. Cớ sao biết Thiện Tài đồng tử thật thà niệm Phật? Vị thầy thứ nhất của Thiện Tài đồng tử là tỳ-kheo Đức Vân, dạy Ngài pháp môn Niệm Phật. Vị thầy thứ nhất quyết định chọn lựa pháp môn tu học suốt đời cho học trò, Ngài tu pháp môn Niệm Phật. Sau đấy, bất luận đến nơi nào tham phỏng, cũng quyết định chẳng bỏ pháp môn Niệm Phật. Giống như tôi vừa mới nói đó, nghe nói tới Thiền chẳng niệm Phật, muốn tham Thiền, rồi lại thấy Mật, cũng chẳng tham Thiền nữa mà trì chú, xong luôn! Người ấy còn có thể thành đạo Vô Thượng hay chăng? Thiện Tài đồng tử niệm vị Phật nào vậy? Niệm A Di Đà Phật, Ngài tu pháp môn Tịnh Độ, đến cuối cùng tham phỏng Phổ Hiền Bồ Tát, “mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc”, Ngài viên mãn Bồ Đề. Đấy là sự thật mà kinh Hoa Nghiêm đã phơi bày trước mắt chúng ta. Nếu đọc kinh Hoa Nghiêm mà không thấy được điều này thì đã uổng công đọc kinh Hoa Nghiêm mất rồi!

      Ai có đủ tư cách tham học? Quyết định chẳng động tâm! Thứ gì cũng có thể nghe, thứ gì cũng có thể thấy, quyết định chẳng động tâm, nhất quyết chẳng lay động căn bản thì mới có thể thành tựu. Hôm nay tôi gặp vị pháp sư này khá lắm, tôi học với ông ta một chút; ngày mai nghe nói có vị pháp sư nọ cao minh hơn vị pháp sư này nhiều, tôi nhanh nhảu đến thân cận ông ta. Tâm quý vị giống như cỏ mọc đầu tường, một trận gió bên ngoài khẽ thổi qua, liền lay động. Lại một hôm nữa, hóa thân của Thích Ca Mâu Ni Phật hiện đến, hóa thân của A Di Đà Phật cũng hiện đến, tâm hoa của quý vị bị nhiễu loạn, chẳng biết như thế nào mới là tốt! Thưa quý vị, những vị cao nhân ấy, những vị Phật, Bồ Tát ấy toàn là yêu ma quỷ quái, tôi nói thật đấy! Yêu ma quỷ quái là gì? Những người khiến cho căn bản của quý vị bị lay động thì là yêu ma quỷ quái. Ngẫu Ích đại sư nói rất hay: “Cảnh giới không Phật cũng không ma, ma và Phật đều ở trong tâm của chính ông”. Trong tâm quý vị đã nắm chắc, có chủ tể thì đối với bất cứ cảnh giới nào cũng chẳng chấp lấy tướng, chẳng động tâm, cảnh giới bên ngoài đều là Phật, Bồ Tát. Nếu quý vị thấy cảnh giới bên ngoài tâm liền động thì cảnh giới bên ngoài đều là ma, chẳng phải là Phật!

      Do vậy, quý vị niệm Phật mà cầu nhất tâm, chắc chắn A Di Đà Phật chẳng thể hiện đến, vì sao? Do cái tâm của quý vị đã dao động, nếu A Di Đà Phật hiện đến, quý vị bèn vui thích, nhất tâm bất loạn đã sớm mất tiêu rồi! Chẳng phải là giống như Ngài đã hại chết quý vị hay sao? Vì thế, Phật chẳng đến. Phật chẳng đến là vì đại từ đại bi, nhằm thành tựu nhất tâm bất loạn cho quý vị. Khi nào quý vị niệm đạt đến mức công phu như như bất động, Phật có đến cũng như người bình thường đến, tâm chẳng hoan hỷ chút nào, Phật liền hiện ra trước mặt để khảo nghiệm xem quý vị có thành công hay chưa? Ma hiện trước mặt, cũng chẳng có tâm sợ hãi, quý vị mới có thể thành tựu nhất tâm bất loạn. Đến khi ấy, quý vị mới hoảng nhiên đại ngộ, cảnh giới vốn chẳng có Phật mà cũng không có ma, cảnh giới ấy là Nhất Chân, chẳng hư vọng. Đấy là nguyên tắc chỉ đạo tối cao trong tu học Phật pháp Đại Thừa, nhưng phàm phu phạm phải căn bệnh này chẳng nhẹ, chướng ngại sự thành tựu của chúng ta. Chẳng những là chướng ngại Hành môn, mà còn chướng ngại Giải môn.

      Một pháp giới là chân thật, mười pháp giới là hư vọng. Chân tâm là nhất tâm, trông thấy cảnh giới bên ngoài là Nhất Chân pháp giới. Mê mất chân tâm, chân tâm biến thành tâm ý thức, nên [cảnh giới] bên ngoài mới được gọi là “mười pháp giới”. Do vậy, mười pháp giới là cái được thấy bởi vọng tâm, Nhất Chân pháp giới là cái được thấy bởi chân tâm. Thật ra, pháp giới bên ngoài đâu có một hay mười! Chỉ là do tâm của chính quý vị biến hiện! Phật pháp nói “duy tâm sở hiện”, cái được hiện là Nhất Chân, “duy thức sở biến”, Thức là vọng tâm, vọng tâm dấy khởi sự biến hóa. Hy vọng mọi người sẽ thấu hiểu sâu xa ý nghĩa này.

      (Diễn) Sự pháp giới, giới tự thị phân nghĩa.

      (演) 事法界界字是分義。

      (Diễn: Trong từ ngữ “Sự pháp giới”, chữ Giới có nghĩa là Phân).

      Chữ Giới trong “Sự pháp giới” có nghĩa là Phân, tức phân biệt.

      (Diễn) Dĩ chúng sanh sắc, tâm đẳng pháp, nhất nhất sai biệt, các hữu phân tễ cố.

      (演) 以眾生色心等法,一一差別各有分劑故

      (Diễn: Do các pháp như sắc, tâm v.v... của chúng sanh, mỗi một pháp sai khác, phân chia rạch ròi).

      “Chúng sanh” gồm hữu tình chúng sanh và vô tình chúng sanh. Chúng ta nói hữu tình chúng sanh có Phật Tánh, vô tình chúng sanh có Pháp Tánh. Phật Tánh và Pháp Tánh là một tánh, là một chứ không phải hai tánh; nhưng trong Sự pháp giới, Sự là hoàn toàn nói theo mặt hình tướng, cho nên có phân biệt, có sai biệt. Ví như trong sắc pháp có Tứ Đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, tâm pháp có Thọ, Tưởng, Hành, Thức v.v... Nếu dùng Bách Pháp [Minh Môn Luận] để giảng thì có tám thức, năm mươi mốt Tâm Sở, hai mươi bốn pháp Bất Tương Ứng, đều thuộc về tâm pháp. Do vậy, mỗi một pháp đều sai biệt, “nhất nhất sai biệt các hữu phân tễ” (mỗi một pháp sai biệt, phân chia rạch ròi). Nói theo cách bây giờ, “phân tễ” là có giới hạn tột cùng, có hạn định tột cùng. Đấy là ý nghĩa của chữ Sự pháp giới. Sự pháp giới là nói theo mặt sự tướng.

      Nếu nói tới Lý pháp giới thì đã có Sự ắt sẽ có Lý. Chữ Giới trong “Lý pháp giới” có ý nghĩa khác với chữ Giới trong “Sự pháp giới”.

      (Diễn) Lý pháp giới, Giới tự thị Tánh nghĩa.

      () 理法界界字是性義。

      (Diễn: Chữ Giới trong “Lý pháp giới” có nghĩa là Tánh).

      Sự” là Tướng, là tác dụng; ở đây, chủ yếu nói tới hiện tượng. Lý là nói về bản tánh. Lý là một, nơi hữu tình gọi là Phật Tánh, nơi vô tình gọi là Pháp Tánh. Phật Tánh và Pháp Tánh là một tánh. Do vậy. Chữ Giới này có nghĩa là Tánh. Nói cách khác, hết thảy các pháp do Lý này sanh ra.

      (Diễn) Dĩ chúng sanh sắc, tâm đẳng pháp, tuy hữu sai biệt, đồng nhất thể tánh cố.

      (演) 以眾生色心等法,雖有差別同一體性故。

      (Diễn: Do các pháp như sắc, tâm v.v... của chúng sanh tuy có sai biệt, nhưng có cùng một thể tánh).

      Từ Bách Pháp, chúng ta thấy tâm pháp và tâm sở pháp mỗi thứ gồm bốn phần (Tướng Phần, Kiến Phần, Tự Chứng Phần, Chứng Tự Chứng Phần). Những pháp ấy do Hộ Pháp Bồ Tát[3] đặt ra, vị này cũng là tổ sư của pháp sư Huyền Trang. Thầy của pháp sư Huyền Trang là ngài Giới Hiền (Silabhadra). Sư phụ của luận sư Giới Hiền là Hộ Pháp Bồ Tát. Ngài dạy chúng ta Duy Thức; Tâm, TâmSở Pháp, mỗi pháp có bốn phần, nói hết sức viên mãn. Tánh là Tự Chứng Phần, Chứng Tự Chứng Phần là tự giác của Tự Chứng Phần. Chúng ta thường nói tới chữ Phật có nghĩa là Tự Giác, Giác Tha, Giác Hạnh Viên Mãn. Chứng Tự Chứng Phần là Tự Giác, Kiến Phần là Giác Tha, Tha là Tướng Phần. Do vậy, Kiến Phần duyên Tướng Phần, mà cũng duyên Tự Chứng Phần. Chứng Tự Chứng Phần chỉ duyên Tự Chứng Phần, chẳng duyên Kiến Phần, mà cũng chẳng duyên Tướng Phần. Điều này chỉ rõ Tự Chứng Phần là bản thể, Kiến Phần là cái được sanh bởi nó (Tự Chứng Phần), Tướng Phần cũng do nó sanh ra. Do vậy, Kiến và Tướng có cùng một nguồn.

      Tướng là hết thảy dấu vết, hình tướng, hết thảy sự, hết thảy hiện tượng. Trong phần trên đã nói tới Sự pháp giới thì Sự pháp giới là sự tướng từ trong bản tánh biến hiện ra. Sự tướng tuy thiên sai vạn biệt (ngàn muôn phần sai khác), nhưng có cùng một bản thể. Ở đây, [sách Diễn Nghĩa] nói là “đồng nhất tánh thể cố” (do có cùng một tánh thể). Do vậy, chữ Giới ở đây mang ý nghĩa “thể tánh”, còn chữ Giới trong phần trước (tức chữ Giới trong Sự pháp giới) mang ý nghĩa các thứ sai biệt. “Sai biệt” là mỗi pháp có giới hạn tột cùng, phân chia rạch ròi; tánh thể không có giới hạn tột cùng, thật sự vô lượng vô biên.

      “Sự pháp giới”: Sự là nói về hiện tượng, “Lý pháp giới”: Lý là nói về bản thể. Sự nói về Pháp Tướng, Lý là nói về Pháp Tánh. Lại xem tiếp hai thứ pháp giới, tức “Lý Sự vô ngại” và “Sự Sự vô ngại” trong phần sau.

      (Diễn) Sự Lý vô ngại pháp giới giả, Lý do Sự hiển, Sự đắc Lý thành, Lý Sự hỗ dung, tánh phân giao triệt cố.

      (演) 事理無礙法界者,理由事顯,事得理成,理事互融,性分交徹故。

      (Diễn: Sự Lý vô ngại pháp giới là Lý do Sự hiển, Sự do Lý mà được thành. Lý và Sự dung nhập lẫn nhau, “tánh” và “phân” hòa nhập lẫn nhau).

      Lý không có hình tướng, cũng chẳng có dấu vết, làm sao quý vị hiểu được? Dựa trên Sự sẽ biết. Đã có Sự ắt sẽ có Lý, không có Lý, Sự sẽ chẳng thành. Nói chung, Sự phải có đạo lý, nói chung là phải có Lý. Do vậy, Lý do Sự mà được phô bày. Nói cách khác, làm thế nào để hiểu rằng có Chân Như bổn tánh? Chân Như bổn tánh được hiển lộ bởi Tướng, từ Pháp Tướng hiển thị Pháp Tánh. Do đây có thể biết: Tánh và Tướng hiển lộ lẫn nhau. Chính vì có Pháp Tánh nên mới có Pháp Tướng. Chúng ta hãy dùng tỷ dụ để suy nghĩ hòng hiểu được chuyện này. Ví như chúng ta nằm mộng, cái tâm tạo ra giấc mộng là Lý, cảnh giới trong mộng là Sự. Cảnh giới trong mộng do đâu mà có? Đương nhiên là do Lý biến hiện ra, do cái tâm nằm mộng của quý vị mà có. Quán sát cảnh giới trong mộng thì cái tâm của quý vị ở chỗ nào? Mộng chính là tâm. Tâm của quý vị như thế nào, tức là khi quý vị nằm mộng thấy như thế nào, tâm quý vị là như thế đó. Do vậy, cái tâm tạo ra giấc mộng là thật, vĩnh viễn chẳng biến đổi, bất sanh, bất diệt, đó là Lý; còn Sự thì sao? Sự là pháp sanh diệt. Quý vị mỗi đêm nằm mộng, từ trước đến giờ chưa hề nằm mộng giống nhau. Cái tâm nằm mộng hoàn toàn giống hệt, nhưng mỗi giấc mộng trước nay chẳng hề giống nhau. Điều này cho thấy quả thật mỗi pháp mỗi sai biệt, mỗi pháp phân chia rạch ròi, [về mặt Sự thì có] nhưng về Lý thì không có. “Lý do Sự hiển, Sự đắc Lý thành” (Lý do Sự mà hiển lộ, Sự do Lý mà được thành). Do vậy, Lý và Sự dung thông lẫn nhau, giống như cảnh giới trong mộng là tâm, tâm là mộng cảnh, chẳng khác nhau!

      “Giới” có hai ý nghĩa: Một là Tánh, hai là Phân (phân biệt). “Tánh - Phân giao triệt” (Tánh và Phân thông thấu lẫn nhau): Vốn là cùng một chuyện, chẳng phải hai! Do vậy, Lý và Sự vô ngại. Lý Sự vô ngại là Tánh và Tướng giống hệt như một, Tánh và Tướng chẳng hai. Người giác ngộ thấy Tướng sẽ thấy Tánh, vì Tánh và Tướng không hai. Nếu từ Tướng mà thấy được Tánh thì quý vị hãy nghĩ xem, có lẽ nào chẳng bình đẳng? Đều bình đẳng hết! Thế nhưng chúng ta phải làm sao mới thấy được? Nhất định phải là nhất tâm bất loạn. Do vậy người tu hành nói tới công phu, công phu là gì vậy? Chuyện gì quý vị cũng biết, lấy từ Đại Tạng Kinh ra bất cứ pháp nào cũng giảng được, giảng đến mức hoa trời rơi tán loạn, có được coi là công phu hay không? Chẳng kể là công phu! Công phu là gì? Trong hết thảy cảnh giới, như như bất động, đó là công phu. Sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần mà có thể chẳng phân biệt, chẳng chấp trước, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, lại còn có thể biết rành mạch, phân minh, đó là công phu!

      Do vậy, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần là Định Huệ Song Tu. Trong Đàn Kinh, Lục Tổ đại sư đã nói: “Định Huệ đẳng trì” (Giữ cho Định và Huệ cân bằng). Ắt phải là người có công phu thì mới có tư cách tham học, vì sao? Người ấy chẳng bị dao động. Ngay cả những điều dị đoan đưa đến trước mặt người ấy thì sẽ như các vị đại đức bên Thiền Tông đã ví von: “Hồng lô điểm tuyết, lập tức tiêu dung” (mảnh tuyết chạm vào lò lửa lớn liền lập tức tan mất), người ấy có bản lãnh đó. Công phu của người ấy đã chín muồi, giống như lò lửa cháy đỏ rực, có sức nóng cao dường ấy, hoa tuyết bị thổi rớt vào đó sẽ chẳng còn dấu vết gì, có bản lãnh ấy! Đến khi đó, chẳng những Lý Sự vô ngại mà còn Sự Sự vô ngại. Bất luận tiếp xúc cảnh giới nào, thuận cảnh cũng thế, mà nghịch cảnh cũng thế, hễ người ấy tiếp xúc liền biến thành Định - Huệ. Người ấy chẳng sanh phiền não, chẳng động tâm. Chẳng động tâm là thành tựu Định, rành rẽ phân minh là thành tựu Huệ; đối với người ấy mà nói, chẳng có chướng ngại! Bất luận pháp môn nào, pháp thế gian hay xuất thế gian, người ấy đều “chẳng chấp lấy tướng, như như bất động”, người ấy tu điều này. Niệm Phật là một câu Phật hiệu niệm đến tột cùng, câu Phật hiệu là Vô Lượng Giác. Giác tâm như như, bất động, giác tướng là thanh tịnh vô nhiễm. Khởi tâm động niệm, chấp trước, mê mờ đều chẳng phải là chân tâm, mà là mê tâm, vọng tâm. Đối với chân tâm, Lục Tổ đã nói rất hay: “Vốn chẳng có một vật, nào sợ nhuốm bụi trần”. Đấy là chân tâm. Trong tâm hễ có một chuyện gì thì đều là vọng tâm.

      Đối với người niệm Phật chúng ta, mỗi câu Phật hiệu đều đánh thức giác tâm của chúng ta, vô lượng giác mà! Nam-mô A Di Đà Phật là “quy y Vô Lượng Giác”. Do vậy, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn, pháp môn này quả thật là bậc nhất: Từng tiếng đánh thức quý vị hãy giác chứ không mê. Đã là giác nhất định sẽ chánh, chánh chứ không tà, nhất định sẽ tịnh, tịnh chứ không nhiễm. Quý vị không thành Phật thì còn ai thành Phật nữa đây? Pháp môn này đơn giản, dễ dàng, lại ổn thỏa, thích đáng, thành tựu trong đời này. Trong hết thảy pháp môn, quý vị đến đâu để kén chọn nữa? Đến đâu để tìm nữa? Nhìn từ mặt tác dụng, ở đây là nhìn vào mặt Lý Sự vô ngại. Càng chẳng thể nghĩ bàn hơn nữa là Sự Sự vô ngại sẽ được giảng trong phần tiếp theo:

      (Diễn) Sự Sự vô ngại pháp giới giả, nhất thiết phân tễ sự pháp xứng tánh dung thông, nhất đa tương tức, đại tiểu hỗ dung, trùng trùng vô tận cố.

      (演) 事事無礙法界者,一切分齊事法稱性融通,一多相即,大小互融,重重無盡故。

     (Diễn: Sự Sự vô ngại pháp giới là hết thảy phân chia rõ ràng, sự và pháp xứng tánh dung thông, một chính là nhiều, nhiều chính là một, lớn và nhỏ dung nhập lẫn nhau, tầng tầng vô tận).

      Đoạn này giảng Sự Sự vô ngại pháp giới là gì, “nhất thiết phân tễ sự pháp” (hết thảy sự và pháp phân chia rõ ràng). Câu này baoquát hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Đã là bao quát hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian thì quý vị phải nhớ: Vô lượng pháp môn trong các tông phái Đại, Tiểu, Quyền, Thật của Phật pháp đương nhiên cũng được gộp vào trong ấy, chẳng có pháp nào ở ngoài. Không có pháp nào chẳng xứng tánh, không có pháp nào chẳng viên dung. Do vậy, mới nói: “Pháp môn bình đẳng, không có cao thấp!” Nếu quý vị còn thấy pháp môn này cao, pháp môn kia thấp, tức là tâm không nhất, chẳng phải là nhất tâm. Cao cũng thế, mà thấp cũng thế; nói cách khác, cao thì quý vị chẳng bước vào được, thấp thì quý vị cũng chẳng có phần. Tất cả đều chẳng có phần, Phật pháp khó là khó ở chỗ này. Cổ đức nói: “Một kinh thông, hết thảy kinh thông”, thông gì vậy? Thông suốt đạo lý này. Làm sao để có thể thông? Hễ nhất tâm bèn thông. Tâm bình đẳng bèn thông. Tâm thanh tịnh bèn thông. Khi ấy, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều thông, vì sao đều thông? Vì xứng tánh viên dung, chẳng có pháp nào chẳng xứng tánh, viên dung.

      “Nhất đa tương tức”: Một chính là nhiều, nhiều chính là một. Do vậy, vô lượng kiếp có thể rút gọn thành một sát-na, một sát-na có thể mở rộng thành vô lượng kiếp. Vô lượng vô biên Hằng hà sa cõi nước có thể đặt trong một vi trần, trong một vi trần lại có thể hiện vô lượng vô biên hằng sa cõi Phật. Đấy chính là “nhất đa tương tức, đại tiểu hỗ dung”. Chuyện này là thật. Nếu là dài thì như chúng tôi giảng đoạn này, không có bao nhiêu trang mà phải giảng mười mấy lần. Nếu nói cặn kẽ sẽ có thể giảng đến ba năm, ba mươi năm mà vẫn giảng chưa xong hai hàng ngắn ngủi như thế này. Há chẳng phải là “một chính là nhiều, nhiều chính là một, lớn và nhỏ dung nhiếp lẫn nhau” ư? Trong quá khứ, tôi đã từng giảng bộ Kim Cang Kinh Giảng Nghĩa của cư sĩ Giang Vị Nông, giảng sáu năm mới được nửa bộ. Tôi ở Đài Trung giảng kinh Kim Cang cho các đồng học, trong sáu giờ đã giảng xong toàn bộ bản kinh. Cùng một bộ kinh, có thể giảng xong trong sáu tiếng đồng hồ, hoặc sáu năm cũng chỉ mới giảng được một nửa, nếu chẳng phải là hết thảy pháp “xứng tánh dung thông” sẽ không thể nào xảy ra được! Do vậy, kinh điển có thể giảng dài, có thể giảng ngắn, có thể giảng nông cạn, có thể giảng sâu xa, không gì chẳng tự tại! Đấy chính là Sự Sự vô ngại pháp giới, hy vọng quý vị sẽ từ chỗ này mà thấu hiểu.

      (Diễn) Bất khả tư nghị, phối Sự Sự vô ngại giả.

  (演) 不可思議,配事事無礙者。

      (Diễn: Đem bất khả tư nghị phối hợp với Sự Sự vô ngại thì...)

       Vì sao dùng câu “bất khả tư nghị” để nói nó là Sự Sự vô ngại pháp

giới?

     (Diễn) Dĩ tiền tam pháp giới, đồng giáo Nhất Thừa, do khả tư nghị.

     (演) 以前三法界,同教一乘,猶可思議。

      (Diễn: Do ba pháp giới trước (tức Lý pháp giới, Sự pháp giới, Lý Sự vô ngại pháp giới) là pháp phổ cập trong Nhất Thừa, vẫn còn có thể nghĩ bàn được).

      “Đồng giáo” là so với Biệt giáo trong phần sau mà nói. Ở đây, Biệt Giáo chẳng phải là Biệt Giáo trong Tạng, Thông, Biệt, Viên, mà có nghĩa là đặc biệt. “Đồng” là phổ cập, trong hết thảy các pháp Đại Thừa đều có ý nghĩa này, “dĩ tiền tam pháp giới” chính là Lý pháp giới, Sự pháp giới, Lý Sự vô ngại pháp giới, “đồng giáo Nhất Thừa, do khả tư nghị” (những pháp phổ cập trong Nhất Thừa vẫn còn có thể nghĩ bàn), vẫn chẳng phải là khó hiểu cho lắm, vẫn là có thể nghĩ bàn, so ra, chúng dễ hiểu hơn Sự Sự vô ngại rất nhiều. Sự Sự vô ngại thật sự khó hiểu, nhất là đối với người mới học, cảnh giới này có thể nói thẳng thừng, đơn giản là “không có cách gì tin tưởng được!”

      (Diễn) Hậu nhất duy Hoa Nghiêm Biệt giáo Nhất Thừa, bất khả tư nghị dã.

      (演) 後一唯華嚴別教一乘,不可思議也。

      (Diễn: Chỉ có pháp giới sau cùng (Sự Sự vô ngại pháp giới) là Biệt giáo Nhất Thừa của Hoa Nghiêm là chẳng thể nghĩ bàn).

      Chính là Sự Sự vô ngại pháp giới. Thật ra, bốn pháp giới này hoàn toàn ở trong cuộc sống thường ngày của chúng ta nhưng chúng ta mê, còn Sự Sự pháp giới là ngộ, được gọi là Nhất Chân pháp giới. Sự là Tướng, Lý là Thể; Lý Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại là Dụng. Thể - Tướng - Dụng là một mà ba, tuy ba nhưng một, không một ai trong chúng ta chẳng như vậy! Chắc cũng có vị hỏi: Đã là bốn pháp giới đều ở trước mắt chúng ta, vậy thì có thể nêu lên một thí dụ để diễn tả Sự Sự vô ngại pháp giới hay không? Có thể chứ! Cảnh giới bên ngoài rất lớn, tròng mắt chúng ta rất nhỏ, nhưng tròng mắt của chúng ta có thể thấy cảnh giới bên ngoài rõ ràng, rành mạch, phân minh. Đó chính là “giới tử nạp Tu Di” (núi Tu Di bỏ vào trong hạt cải). Tròng mắt giống như hạt cải, cảnh giới bên ngoài giống như núi Tu Di, chứa vào trong ấy (tròng mắt): Cảnh giới bên ngoài chẳng rút nhỏ, tròng mắt của chúng ta chẳng phình to. Tròng mắt giống như cái máy chụp hình chụp hết thảy tướng cảnh giới, tạo thành Tướng Phần trong Nhãn Thức. Tướng Phần của Nhãn Thức và Tướng Phần của cảnh giới bên ngoài to như nhau. Trong cảm giác của quý vị, chúng hoàn toàn giống hệt nhau. Thức thứ sáu, tức Ý Thức, là phân biệt, thức thứ bảy là chấp trước, duyên gì? Chẳng duyên vào tướng cảnh giới bên ngoài mà hoàn toàn duyên theo Tướng Phần của Nhãn Thức. Từ Tướng Phần của Nhãn Thức truyền đạt, biến thành Tướng Phần của thức thứ sáu, tức Ý Thức, và chuyển biến thành Tướng Phần của thức thứ bảy là Mạt Na. Thức thứ sáu và thức thứ bảy cảm nhận [ngoại cảnh] vẫn to lớn giống hệt như cảnh giới bên ngoài. Điều này được bày rõ trước mắt chúng ta, được sử dụng suốt ngày từ sáng đến tối, Sự Sự vô ngại, đáng tiếc là chúng ta không hiểu! Lý Sự vô ngại, Lý vô ngại, Sự vô ngại, càng chẳng cần phải nói tới nữa!

      Ngộ thì gọi là Nhất Chân, ngộ thì là Phật, Bồ Tát, mê là phàm phu. Mê thì chỗ nào cũng là chướng ngại, bất luận trong bất cứ một pháp nào, quý vị luôn khởi phân biệt, chấp trước, vọng tưởng. Giác ngộ rồi thì những thứ ấy đều không còn nữa, nhà Thiền bảo là “mảnh tuyết rớt vào lò lửa lớn, lập tức tan mất”; vừa tiếp xúc liền biến thành trí huệ, biến thành Đại Định. Lũ phàm phu chúng ta đáng thương! Phàm phu vừa tiếp xúc liền biến thành phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, quý vị thấy phiền phức rất lớn! Bồ Tát vừa tiếp xúc, sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, liền biến thành trí huệ, biến thành Thiền Định. Phàm phu vừa tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, chúng liền biến thành phân biệt, chấp trước, vọng tưởng, chúng ta cần phải cảnh giác điều này.

      Chúng ta nói tới Quy Y thì Quy (皈) là quay đầu, từ chỗ nào mà quay đầu lại? Từ phân biệt, chấp trước, vọng tưởng mà quay đầu lại. Y (依: nương theo) gì vậy? Nương theo Định - Huệ, Định - Huệ là giác, đó gọi là “chân tu hành” (tu hành thật sự), thật sự dụng công! Nếu chẳng biết phương pháp này, thưa quý vị, bất luận quý vị dùng phương thức như thế nào để tu học, rốt cuộc vẫn là tu mù, luyện đui! Vì sao nói quý vị “tu mù, luyện đui”? Dùng kinh Kim Cang để nói thì quý vị chẳng thể “hàng phục kỳ tâm”. Phương pháp tu học ấy gọi là “tu mù, luyện đui”. Hàng phục cái tâm chính là hàng phục phân biệt, chấp trước, vọng tưởng của quý vị! Quý vị dùng công phu ấy, tham Thiền cũng được, tham thoại đầu cũng được, quán tâm cũng được, trì chú cũng được, niệm Phật cũng được. Bất luận dùng phương pháp nào, nếu quý vị chẳng thể nhiếp tâm, chẳng thể hàng phục phân biệt, chấp trước, vọng tưởng thì đều gọi là “tu mù, luyện đui”. Công phu không đắc lực, tu lâu vẫn chẳng thành, căn bệnh ở chỗ này!

      Công phu, bất luận dùng phương thức nào, dùng hạnh môn nào, nói chung, phải cầu tâm bất động, quyết chẳng bị ngoại cảnh xoay chuyển! Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng Như Lai” (Nếu chuyển được cảnh, sẽ giống Như Lai). Quý vị chẳng bị cảnh giới chuyển, mà chuyển được cảnh giới, chuyển cảnh giới thành gì vậy? Chuyển thành Định - Huệ. Bất cứ cảnh giới nào đến trước mặt quý vị đều biến thành Định - Huệ. Đó là Như Lai, là Phật, là Bồ Tát. Hết thảy cảnh giới đến trước mặt quý vị, ngay lập tức biến thành phiền não, biến thành tri kiến, sẽ là chuyện phiền phức lớn lắm. Biến thành tri kiến chính là vô minh, “tri kiến lập tri, thị vô minh bổn” (từ trên tri kiến lại lập thêm một tri kiến, chính là cái gốc của vô minh). Đấy chính là như ngài Thanh Lương đã nói:“Tăng trưởng vô minh, tăng trưởng tà kiến”. Còn có thể thành tựu hay chăng? Phật pháp là phải phá tà kiến, phá vô minh, làm sao có thể tăng trưởng tà kiến, tăng trưởng vô minh cho được? Phá vô minh, Định thành tựu; phá tà kiến, Huệ thành tựu.

      (Diễn) Phần nhiếp ư Viên giả, hoặc viết: “Sự Sự vô ngại, duy thuộc Hoa Nghiêm, kim kinh hà đắc hữu thử?”

      (演) 分攝於圓者,或曰:事事無礙,唯屬華嚴,今經何得有此。

      (Diễn: “Một phần thuộc về Viên giáo”: Nếu nói: Sự Sự vô ngại chỉ kinh Hoa Nghiêm mới có, kinh này làm sao có được điều ấy?)

      Nếu quý vị hiểu rõ những điều chúng tôi vừa mới nói thì quý vị nghe kẻ nào nêu lên câu hỏi này, sẽ biết trình độ của kẻ ấy là như thế nào? Người nghe kinh, nghe đến những lời đã nói trong phần trên, chẳng thể chuyển cảnh giới mà bị cảnh giới chuyển. Đây là nêu lên một thí dụ cho quý vị thấy người ấy bị cảnh giới chuyển. [Người ấy nghe xong, thắc mắc] Sự Sự vô ngại là điều kinh Hoa Nghiêm nói tới, kinh Di Đà làm sao có thể nói là Sự Sự vô ngại cho được? Vừa nghe liền khởi lên phân biệt, chấp trước, chẳng thể lập tức tiêu dung.

      (Diễn) Cố viết: Nhất đại thời giáo.

      () 故曰:一代時教。

      (Diễn: Cho nên nói: Giáo pháp do đức Phật đã nói trong cả một đời Ngài).

      “Nhất đại thời giáo”: Sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện thành đạo, giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp bốn mươi chín năm, chúng ta gọi [những kinh pháp ấy] là “nhất đại thời giáo”.

      (Diễn) Duy Hoa Nghiêm vi Viên.

      () 唯華嚴為圓。

      (Diễn: Chỉ riêng kinh Hoa Nghiêm là Viên).

      Hoa Nghiêm là căn bản pháp luân, kinh Hoa Nghiêm giảng viên mãn nhất. Những kinh khác đều nhằm nêu rõ một phần giáo nghĩa nào đó [của kinh Hoa Nghiêm]. Hoa Nghiêm giảng toàn thể, hết thảy những kinh điển khác đều là giảng cục bộ.

      (Diễn) Viên vi năng nhiếp nhất thiết, cố chư kinh vô bất nhiếp quy Hoa Nghiêm.

      (演) 圓為能攝一切,故諸經無不攝歸華嚴。

      (Diễn: Viên là có thể gồm thâu hết thảy, vì thế, các kinh khác, không kinh nào chẳng được thâu nhiếp về kinh Hoa Nghiêm).

      Kinh Hoa Nghiêm là toàn thể, những kinh khác là một bộ phận. Chúng ta dùng tỷ dụ để nói thì kinh Hoa Nghiêm giống như cả tỉnh Đài Loan, hết thảy những kinh khác là các huyện thị của Đài Loan. Chúng ta hãy suy nghĩ: Có huyện thị nào chẳng nằm trong tỉnh này hay chăng? Không có huyện thị nào tồn tại độc lập ngoài phạm vi của tỉnh này! Do đây biết rằng: Quan hệ giữa bộ phận và toàn thể hết sức mật thiết, chẳng thể chia cắt được. Kinh Hoa Nghiêm đã là viên thì có bộ kinh nào chẳng viên? Do vậy cổ đức mới nói: “Viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên” (người viên mãn thuyết pháp, không pháp nào chẳng viên). Kinh Hoa Nghiêm giảng về bản thể của toàn thể nhân sinh vũ trụ. Không chỉ hết thảy kinh do đức Phật đã nói chẳng rời ngoài cảnh giới Hoa Nghiêm, nếu chúng ta hỏi: Kinh điển của Cơ Đốc Giáo, kinh điển của Thiên Chúa Giáo, cho đến tà ma ngoại đạo thuyết pháp, có thứ gì tách rời phạm vi của Hoa Nghiêm hay chăng? Cũng chẳng có! “Ngoài pháp không tâm, ngoài tâm không pháp”. Do vậy, đối với người thật sự khai ngộ, người thật sự đắc nhất tâm bất loạn, những pháp của tà ma ngoại đạo đưa đến chỗ người ấy đều là kinh Hoa Nghiêm Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, hết sức mầu nhiệm, thật sự mầu nhiệm chẳng thể diễn tả được! Đó mới gọi là “viên nhân thuyết pháp, vô pháp bất viên”, đúng là vô chướng ngại! Trong thời Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết pháp, ngoại đạo đến nghe, người đến hỏi rất nhiều, Thích Ca Mâu Ni Phật có phản đối những kẻ ngoại đạo ấy, bảo họ hãy bỏ pháp ngoại đạo quy y Phật pháp hay không? Không có! Chỉ cần nhẹ nhàng chỉ điểm cho họ, họ giác ngộ rồi thì đạo ấy sẽ là chánh đạo. Còn mê thì hằng ngày niệm A Di Đà Phật, vẫn gọi là ngoại đạo, hằng ngày giảng kinh Hoa Nghiêm vẫn là tà thuyết. Tà hay chánh được phân biệt bởi tâm, chứ không do nơi pháp, chẳng do bên ngoài.

      Phàm là những phương pháp nào có thể khiến cho lòng người giác ngộ thì gọi là Phật pháp. Phàm là những phương pháp nào khiến cho lòng người mê hoặc thì gọi là tà pháp. Nói như vậy gọi là nói phương tiện, chứ không phải là nói chân thật. Nói chân thật thì trong các pháp ấy, không có tà hay chánh. Nói thật ra, hết thảy pháp đưa đến trước mặt quý vị đều biến thành Định - Huệ, chẳng có tà hay chánh. Từ vô thỉ kiếp đến nay, quý vị đã mê muội quá lâu, quá sâu, đập một gậy chưa tỉnh được, bèn nói pháp phương tiện với quý vị. Nếu đập một gậy mà quý vị tỉnh ngay thì chẳng nói pháp phương tiện, mà nói pháp chân thật. Những kẻ như bọn chúng ta, đừng nói là một gậy, mười gậy, một trăm gậy cũng không tỉnh ngộ, chỉ đành nói pháp phương tiện. Thế nhưng chúng ta phải ghi nhớ: Ngoài pháp phương tiện còn có pháp chân thật, trong pháp chân thật là Sự Sự vô ngại pháp giới. Hết thảy các kinh tuy chẳng phải là thuần viên, nhưng nó cũng có một phần giáo nghĩa viên mãn. Một phần giáo nghĩa viên mãn ấy nếu gặp kẻ căn tánh viên mãn thì một phần viên ấy sẽ biến thành thuần viên; gặp kẻ mê thì đừng nói là một phần, [ngay cả] kinh Hoa Nghiêm thuần viên cũng biến thành chẳng viên. Chuyện là như vậy đó! Ở đây, đại sư kết luận:

      (Diễn) Kim thử kinh hữu thiểu phần Sự Sự vô ngại, cố đắc phần nhiếp ư viên dã.

      (演) 今此經有少分事事無礙,故得分攝於圓也。

      (Diễn: Nay kinh này có chút phần Sự Sự vô ngại, vì thế, được xếp vào loại viên mãn một phần).

      Nêu lý do vì sao nói kinh này cũng chứa đựng giáo nghĩa viên mãn, từ đoạn này, gộp cả bốn pháp giới để chỉ rõ cho chúng ta. Đến chỗ này, quý vị hãy coi kỹ đoạn văn chúng ta vừa đọc sẽ thấy ý nghĩa rất rõ ràng. “Thanh, trược, hướng, bối” đều là nói về Sự, trong Sự mới có thanh, trược, hướng, bối, chứ trong Lý không có. Những điều này đều nhằm nói tới Sự pháp giới. “Linh minh trạm tịch”: Linh minh là Huệ, trạm tịch là Định, Định - Huệ là Lý pháp giới. “Linh minh trạm tịch nhi bất biến tùy duyên”: Linh minh trạm tịch là Chân Như bổn tánh, bổn tánh bất biến, bất biến nhưng có thể tùy duyên. Đây là nói Tánh Thể bất biến nhưng tùy duyên. Nói theo phương diện hiện tướng (biến hiện hình tướng), “thanh trược hướng bối nhi tùy duyên bất biến” (trong, đục, hướng về, trái nghịch tùy duyên nhưng bất biến): Tuy trên mặt sự tướng là tùy duyên, nhưng Thể Tánh của nó bất biến. Hai câu này chúng ta thường nghe nói.“Bất biến tùy duyên” là nói theo mặt Tánh. “Tùy duyên bất biến” là nói theo mặt Tướng. Hai câu này hoàn toàn chẳng phải là trùng lặp, đấy là Lý Sự vô ngại pháp giới. “Bất khả tư nghị, thị Sự Sự vô ngại pháp giới” (“Chẳng thể nghĩ bàn” là Sự Sự vô ngại pháp giới): Ý nghĩa hết sức rõ ràng. Đến cuối cùng là lời quy kết bản kinh này “phần nhiếp ư Viên, diệc đắc thiểu phần Sự Sự vô ngại cố” (thuộc về Viên một phần, vì kinh này cũng có chút phần Sự Sự vô ngại vậy). Đến cuối cùng quy về tự tánh, ở đây đã giảng tự tánh quá rõ ràng, nó chính là nhất tâm. “kết thuộc Tứ Pháp Giới quy nhất tâm dã” (quy kết bốn pháp giới về nhất tâm).      

      (Diễn) Nhiên Thông Tự Đại Ý tiên minh tánh giả, nhất thiết pháp môn toàn quy tự tánh.

      (演) 然通序大意先明性者,一切法門全歸自性。

      (Diễn: Nhưng phần Thông Tự Đại Ý trước hết giảng rõ về Tánh là vì hết thảy pháp môn hoàn toàn quy vào tự tánh).

      Trong đoạn tổng kết này, kết luận rất hay. Nói thật ra, đoạn lời Tựa này của bộ Sớ Sao là tổng cương lãnh tu học Đại Thừa Phật pháp. Bất luận tu học một tông nào hay một phái nào, nếu quý vị hiểu rõ tổng cương lãnh này, nắm chắc tổng cương lãnh này, sẽ đều có thành tựu. Nếu quý vị mê mất tổng cương lãnh này, phiền phức rất nhiều, chắc chắn mê mất phương hướng. Đoạn văn này rất trọng yếu. Đoạn thứ nhất trong lời tựa giảng giải về tánh là vì đạo lý này.

      “Nhất thiết pháp môn toàn quy tự tánh”: Nói theo nghĩa hẹp, hết thảy các pháp môn do Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng hoàn toàn từ Chân Như tự tánh lưu lộ. Do vậy, vẫn quy về tự tánh. Lại mở rộng phạm vi thì hết thảy các pháp môn do mười phương ba đời hết thảy chư Phật đã nói cũng đều hoàn toàn quy về tự tánh. Nếu mở rộng hơn nữa, có pháp nào trong y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới chẳng do tự tánh biến hiện?

      (Diễn) Thiên kinh sở diễn vô hữu dư nhân.

      (演) 千經所演無有餘因。

      (Diễn: Ngàn kinh được diễn giảng chẳng do nhân nào khác).

Từ ngữ “thiên kinh” chỉ hết thảy kinh, ngàn kinh, vạn luận. Chữ “thiên” này không phải là một con số nhất định, mà là tỷ dụ, nhằm chỉ hết thảy kinh luận. “Diễn” có hai ý nghĩa: Một là diễn nói, hai là biểu diễn. Giống như Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần là biểu diễn. “Vô hữu dư nhân”: Không có nhân duyên nào khác! Nhân duyên gì vậy? Không gì chẳng nhằm hiển thị tự tánh mà thôi. Không gì chẳng nhằm dạy chúng ta giác ngộ chân tánh, đấy là Phật pháp! Do vậy, Phật pháp chẳng phải là học thuật, đạo lý là ở chỗ này. Đại sư Âu Dương Cánh Vô[4] nói rất hay: “Phật pháp chẳng phải là tôn giáo”. Tôn giáo là mê tín. Tôn giáo là phải ngưỡng mộ, dựa dẫm người khác giúp đỡ mình, phải cậy vào người khác. Phật pháp cậy vào chính mình, chứ không cậy người khác. “Phật pháp chẳng phải là triết học”, vì sao? Triết học chẳng tách rời Năng và Sở. Nói cách khác, có Năng và Sở là cầu pháp ngoài tâm. Phật pháp tuy có phân tích, nhưng nó chẳng phải là phân tích pháp nào khác mà là tự phân tích chính mình. Do vậy, nó được gọi là Nội Học là vì ý nghĩa này. Đối với Phật pháp, chúng ta phải nhận biết rõ ràng điều này: Nó chẳng phải là tôn giáo, chẳng thể mê tín, chẳng phải là học thuật. Chẳng phải là học thuật thì không thể dùng cái tâm ý thức. Học thuật thế gian sanh từ tâm ý thức, hết thảy ngôn thuyết và hết thảy văn tự của Phật đều sanh từ Chân Như bổn tánh, đấy chính là chỗ bất đồng lớn nhất. Đoạn này nhằm nói lên ý nghĩa: Trong hết thảy kinh luận nhà Phật, đức Phật nói điều gì, làm điều gì, sau khi chúng ta đã hiểu rõ, lại đọc tác phẩm này.

      (Diễn) Kim thử niệm Phật vãng sanh, tất tiên minh tự tánh Di Đà vi bổn, nhiên hậu nhất tâm xưng danh, cầu nguyện vãng sanh, tất ư bảo sát tốc chứng Vô Sanh, trực nhập thánh giai, độ sanh diệc quảng. Sở vị: “Tiên ngộ Tỳ Lô pháp giới, hậu tu Phổ Hiền hạnh môn” dã.

      (演) 今此念佛往生,必先明自性彌陀為本,然後一心稱名求願往生,必於寶剎速證無生,直入聖階度生亦廣。所謂先悟毘盧法界,後修普賢行門也。

      (Diễn: Nay pháp Niệm Phật vãng sanh này, ắt trước hết phải chỉ rõ “lấy tự tánh Di Đà làm gốc” rồi mới nhất tâm xưng danh, cầu nguyện vãng sanh, ắt sẽ ở trong cõi báu mau chứng Vô Sanh, lên thẳng bực thánh, hóa độ chúng sanh cũng rộng. Đấy gọi là: “Trước hết ngộ pháp giới Tỳ Lô, sau đó tu hạnh môn Phổ Hiền”).

      Câu này nói rất rõ ràng, thật sự khó có! Bởi vậy, pháp môn Niệm Phật chẳng dễ dàng! Tuy là “vạn người tu, vạn người đến”, nhưng nếu quý vị không hiểu rõ nguyên tắc, nguyên lý này, một câu Phật hiệu sẽ niệm chẳng tương ứng, niệm chẳng đắc lực, đạo lý ở chỗ này! Phật Thất như chúng ta thường nói chính là pháp hội Phật Thất, đúng như thầy Lý đã bảo là “pháp hội náo nhiệt mà thôi!” Như thế nào mới có thể gọi là đả Phật thất? Do quý vị chẳng biết cách niệm một câu thánh hiệu A Di Đà Phật ra sao thì quý vị đả Phật Thất bằng cách nào? Nói nghiêm ngặt, muốn nghiêm túc đả Phật Thất thì phải thảo luận cặn kẽ các sách A Di Đà Kinh Sớ Sao và A Di Đà Kinh Yếu Giải xong rồi mới đả Phật Thất, rất giống như chuyện sau đây: Giống như học hành, đả Phật Thất là muốn đi thi, không học gì thì đi thi cái gì? Không cách chi đậu được! Học cho giỏi rồi mới đi thi. Giáo nghĩa chẳng hiểu rõ, Phật hiệu chẳng tương ứng, tu mù, luyện đui thì đả Phật Thất cái gì đây? Thốt ra lời ấy, người ta đều nói chúng ta quá ngông cuồng, quá ngạo mạn, coi thường người khác. Nay đối trước bộ A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa này, quý vị hãy suy nghĩ xem có đúng như vậy hay không?

      Chúng tôi muốn giảng bộ kinh này ba năm. Tốn ba năm để thông suốt đạo lý Tịnh Độ, quả thật là thuận tiện, quá sức thuận tiện! Vô lượng kiếp, trăm ngàn vạn kiếp không hiểu rõ, không gặp được, nay đã gặp được, tốn ba năm công phu để hiểu cho rõ ràng, quả thật là may mắn to lớn! Sau khi đã hiểu rõ, mới biết cách niệm một câu Phật hiệu như thế nào, mới biết làm như thế nào để mỗi tiếng niệm Phật đều đầy đủ Tam Học, Tam Huệ, Tam Tư Lương. Trọn đủ Định Học thì Phật hiệu có thể đoạn Kiến Tư phiền não. Đầy đủ Huệ Học thì Phật hiệu có thể phá căn bản vô minh. Đầy đủ Tam Tư Lương sẽ quyết định Thượng Phẩm Thượng Sanh, thành tựu trong một đời. Nói đến niệm Phật vãng sanh thì trước hết nhất định phải hiểu rõ “tự tánh Di Đà”, đây là căn bản lý luận của pháp môn Niệm Phật. Muốn hiểu rõ chuyện này, phải nghiên cứu, thâm nhập cặn kẽ bộ Di Đà Kinh Sớ Sao thì mới được.

      “Nhiên hậu nhất tâm xưng danh cầu nguyện vãng sanh” (sau đấy, nhất tâm xưng danh, cầu nguyện vãng sanh): Bắt đầu tu hành. Trước hết đã hiểu rõ rồi, thưa với quý vị, trong Tam Tư Lương, Tín và Nguyện đã kiến lập. Quý vị có chân tín, nguyện thiết, rồi mới tu hành. Tu hành: Quý vị đọc rõ ràng mấy chữ sau đây “nhất tâm xưng danh”. Quý vị tu hạnh gì vậy? Tu nhất tâm! Dùng nhất tâm để xưng danh, dùng xưng danh đạt đến nhất tâm, có ý nghĩa như vậy đó! Câu này hết sức quan trọng! Chúng ta hãy nghĩ xem: Trong cảnh giới, chúng ta bị ngoại cảnh lay động, đánh mất nhất tâm. Do vậy, từ đầu đến cuối phải gìn giữ nhất tâm. Thấy sắc, nghe tiếng, bất cứ thứ dị đoan nào cũng trọn chẳng thể phá hoại ta nhất tâm xưng danh. Nó chẳng thể phá hoại quý vị nhất tâm xưng danh mà còn giúp quý vị đạt nhất tâm xưng danh. Đây là đạo lý nhất định: Nó chẳng thể phá hoại thì sẽ giúp quý vị thành tựu; nếu nó chẳng thể thành tựu quý vị thì sẽ phá hoại quý vị. Dị đoan, tà thuyết đưa đến trước quý vị, quý vị tiếp xúc nó nhưng vẫn nhất tâm, vẫn là A Di Đà Phật, trọn chẳng bị nó lay động. Điều này tùy thuộc vào công phu của quý vị, công phu đã đạt đến mức “tám gió thổi chẳng động” thì sẽ là cảnh giới tốt đẹp. Vừa mới thấy hay nghe liền khởi tâm phân biệt, chấp trước thì là dao động; tuy hằng ngày niệm Phật mà công phu chẳng đắc lực, vì sao? Gió cảnh giới nhỏ nhoi vừa thổi, nhất tâm liền mất tiêu!

      Do vậy, phải trải qua sự việc để luyện tâm ngay trong cảnh giới, luyện cái tâm gì vậy? Luyện nhất tâm xưng danh, tu nhất tâm, phương pháp là xưng danh. Dùng phương pháp này, quyết định chẳng thay đổi. Giống như trong kinh Lăng Nghiêm, Đại Thế Chí Bồ Tát đã nói: “Bất giả phương tiện, tự đắc tâm khai” (Chẳng nhờ đến phương tiện mà tâm tự khai ngộ). “Tâm khai” là khai ngộ, đại triệt đại ngộ. Chẳng cần nhờ vào bất cứ phương thức nào để trợ giúp, chẳng cần phải tham cứu, cũng chẳng cần phải trì chú, chẳng cần thêm bất cứ pháp nào khác, cứ một câu danh hiệu niệm đến tột cùng. Nhất tâm xưng niệm, niệm đến nhất tâm, công phu thành tựu. Còn có một câu hết sức yếu khẩn nữa, niệm niệm phải cầu sanh về Tây Phương, “cầu nguyện vãng sanh”, vì sao? Vì mục đích của chúng ta là Vô Thượng Đạo. Đọc kinh Hoa Nghiêm, quý vị thấy: Tu bất cứ pháp môn nào cũng có thể đạt đến Chánh Đẳng Chánh Giác, nhưng để thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nhất định phải ở trong Tây Phương Cực Lạc thế giới. Điều này chỉ rõ: Cầu nguyện vãng sanh nhằm thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ngàn vạn phần chớ nên coi thường! Quý vị đem kinh này và Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh hợp lại để xem thì quý vị mới thật sự hiểu rõ, thật sự giác ngộ, phát hiện bí quyết trong Phật môn, mà cũng có thể nói: Đây chính là bí mật trong Phật môn.

      “Tất ư bảo sát” (ắt ở trong cõi báu): “Bảo sát” là Tây Phương Cực Lạc thế giới, “tốc chứng Vô Sanh” (mau chứng Vô Sanh): Vô Sanh là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Mau chứng Vô Sanh là Lý nhất tâm bất loạn, sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm. “Trực nhập thánh giai” (vào thẳng địa vị thánh): “Thánh giai” là Thập Địa Bồ Tát. Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới bèn là bậc Địa Thượng Bồ Tát trong Viên Giáo. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng gọi là Tam Hiền, “thánh giai” là Thập Địa. “Độ sanh diệc quảng”: Thành tựu của chính mình đã cao, mà hóa độ chúng sanh cũng hết sức rộng lớn. “Sở vị tiên ngộ Tỳ Lô pháp giới” (Đó gọi là ngộ pháp giới Tỳ Lô trước): Tỳ Lô là Tỳ Lô Giá Na Phật. Pháp giới của Tỳ Lô Giá Na Phật (Tỳ Lô pháp giới) chính là bốn thứ vô ngại pháp giới như trong phần trên đã nói, kinh Hoa Nghiêm gọi [Tỳ Lô pháp giới] là Nhất Chân pháp giới hoặc “bất tư nghị giải thoát cảnh giới”. “Hậu tu Phổ Hiền Hạnh môn” (sau đấy tu Phổ Hiền Hạnh môn): Điều chủ yếu nhất trong Phổ Hiền Hạnh môn là Niệm Phật.

     (Diễn) Thiết sử bất minh tánh thể, võng ý tạo tu, túng đắc vãng sanh, chỉ thành mạt phẩm, tiên minh tự tánh ý tại tư hồ.

  (演) 設使不明性體,罔意造脩,縱得往生,祇成末品。先明自性意在斯乎。

      (Diễn: Nếu chẳng hiểu tánh thể, cứ tu bừa đi, dẫu có được vãng sanh thì chỉ đạt được phẩm cuối cùng, [sách Sớ Sao] trước hết giảng rõ tự tánh là do ý này).

      Nếu chẳng hiểu rõ căn cứ lý luận tu học, “võng ý tạo tu” là tu mù, luyện đui, đối với đạo lý chẳng biết gì hết. Nay đã hết giờ rồi!

Tập 16

      Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, trang mười bảy, đoạn “nhị, tán kinh. Sơ, tổng tán, nhị, biệt tán”.

       Sơ tổng tán.

      (Tự) Trừng trược nhi thanh, phản bối nhi hướng, việt tam kỳ ư nhất niệm, tề chư thánh ư phiến ngôn, chí tai diệu dụng, diệc bất khả đắc nhi tư nghị giả. Kỳ duy Phật Thuyết A Di Đà Kinh dư?

       初總讚.

  (序) 澄濁而清,返背而向,越三祇於一念, 齊諸聖於片言,至哉妙用,亦不可得而思議者,其惟佛說阿彌陀經歟。

       (Thứ nhất, tán thán chung.

Lời tựa: Lắng đục thành trong, bỏ trái nghịch để hướng về, vượt ba A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm, ngang với chư thánh bởi một lời, diệu dụng đến tột bậc cũng chẳng thể nghĩ bàn được, chỉ có mình Phật Thuyết A Di Đà Kinh đó chăng?)

Đoạn này nhằm tán thán kinh A Di Đà, cũng có thể nói là tán thán cả bộ kinh này đến mức tột cùng. Kể từ phần Tựa trở đi, chúng ta đã tốn không ít thời gian để giới thiệu đoạn Minh Tánh (nêu rõ Tánh). Đoạn trước hoàn toàn nói về giáo lý, từ đây trở đi là nói về giáo nghĩa. Lý chẳng những xuyên suốt hết thảy kinh giáo mà còn xuyên suốt vô lượng pháp môn. Thật ra, hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chẳng lìa Lý Thể của tự tánh. Học Phật, nhất là nghiên cứu kinh điển hoặc nghe kinh, nếu có thể hiểu được Lý Thể thì sẽ là cao minh nhất. Nghe kinh mà nghe hiểu được giáo lý thì sẽ là cao minh nhất, vì nếu hiểu rõ giáo lý thì “một ngộ, hết thảy ngộ”, tức là“một kinh thông, hết thảy kinh thông”. Đây là điều trọng yếu nhất. Giáo Hạ gọi điều này là “đại khai viên giải”, còn Thiền Tông bảo là “đại triệt đại ngộ”. Đấy là biết nghe, nhưng điều này thật chẳng dễ dàng, phải nhất tâm lắng nghe. Chẳng đạt được nhất tâm, sẽ không có cách nào ngộ nhập giáo lý, bất đắc dĩ, phải cầu điều kém hơn là giáo nghĩa. Nếu thông hiểu giáo nghĩa, sẽ có thể thông đạt một phần đạo lý. Tuy chẳng thể thông đạt toàn thể, nhưng có thể thông đạt một phần thì cũng coi như là khá lắm. Nói cách khác, đối với những kinh đồng loại[5] với kinh này đều có thể hễ tiếp xúc bèn thông hiểu, cũng được coi là khá cao minh. Đáng sợ nhất là nhớ nguyên văn từng câu nói, tôi ở đây giảng như thế nào, quý vị nhớ y hệt như thế ấy, giống hệt như máy thâu âm! Tuy có thể nhớ toàn bộ, nhưng quý vị chỉ hiểu được một bộ kinh, thay bằng bộ kinh khác sẽ không hiểu nữa! Như vậy là sai lầm nhất, được coi là [căn tánh] hạng ba. Những điều nghe được đều có thể ghi nhớ, đều có thể nói lại, thì đã được coi là rất khá, nhưng thật ra, chỉ là hạng ba.

(Diễn) Trừng trược nhị cú, tiên tự công phu.

(演) 澄濁二句,先敘功夫。

(Diễn: Hai câu “lắng đục”... trước hết giảng về công phu).

“Trừng trược nhị cú” tức là [hai câu] “trừng trược nhi thanh, phản bối nhi hướng” (lắng đục thành trong, bỏ trái nghịch để hướng về); hai câu này “tiên tự công phu” (trước hết nói về công phu), tức là nói về sự tu hành, nhìn thấy công phu ở chỗ nào? Trước hết, chúng tôi giải thích ý nghĩa của những chữ này. “Trược” là chẳng thanh tịnh, tâm chúng ta hiện thời chẳng thanh tịnh. Nếu dùng Phật hiệu để biến tâm niệm chẳng thanh tịnh thành thanh tịnh, đấy là “bước vào công phu”, là “trừng trược nhi thanh” (lắng đục thành trong). “Phản bối nhi hướng”, “bối” là gì? Bối giác hợp trần (trái ngược với giác, xuôi theo trần lao). Chúng ta trái nghịch tự tánh giác, nay đang phơi bày ra những thứ mê hoặc, điên đảo. Nếu chúng ta có thể từ nơi trái nghịch giác tánh mà quay trở lại, hướng về giác tánh, khôi phục Bổn Giác thì đấy là công phu. Do vậy, người niệm Phật phải thường xuyên kiểm nghiệm xem chính mình có công phu hay là không, niệm Phật đạt hiệu quả như thế nào? Thành tích như thế nào?

(Diễn) Tam kỳ nhị cú, thứ tán siêu thắng.

(演) 三祇二句,次讚超勝。

      (Diễn: Hai câu “tam kỳ” là ý tiếp theo, ca ngợi sự siêu việt thù thắng [của kinh A Di Đà]).

“Việt tam kỳ ư nhất niệm, tề chư thánh ư phiến ngôn” (Vượt ba A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm, bằng với chư thánh trong một lời):Tán thán sự siêu thắng (Thắng là thù thắng). Tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất luận một tông phái nào cũng đều chẳng thể sánh bằng pháp môn này. Nó siêu việt tất cả các pháp môn, thù thắng nhất trong hết thảy pháp môn. Đây là tán thán kinh A Di Đà, tán thán hạnh trì danh niệm Phật.

(Diễn) “Trừng trược nhi thanh” giả, dĩ Phật danh hiệu đầu ư loạn tâm, loạn tâm bất đắc bất tịnh, như thủy thanh châu đầu vu trược thủy, trược thủy bất đắc bất thanh dã.

(演) 澄濁而清者,以佛名號投于亂心,亂心不得不淨,如水清珠投于濁水,濁水不得不清也。

(Diễn: “Lắng đục thành trong”: Dùng danh hiệu Phật gieo vào loạn tâm, loạn tâm chẳng thể không tịnh, như thủy thanh châu gieo vào nước đục, nước đục chẳng thể không trong).

Hai câu tỷ dụ ở phía sau khá dễ hiểu, chứ hai câu trong phần trước sợ

chẳng dễ hiểu cho lắm. Vì sao vậy? Cũng có vị niệm Phật chẳng ít năm, trong tâm vẫn loạn lung tung, Phật hiệu chẳng đạt được hiệu quả, quý vị bèn hoài nghi: Câu Phật hiệu này có thể khiến cho tâm niệm thanh tịnh, mà ta niệm đã nhiều năm như vậy, tâm vẫn chẳng thanh tịnh, là do duyên cớ nào? Quý vị niệm không đúng pháp! Nếu niệm đúng pháp, chắc chắn có hiệu quả, công dụng. Nếu mỗi câu Phật hiệu đầy đủ Tam Học, Tam Huệ, Tam Tư Lương, tâm dẫu loạn cũng có thể đạt đến thanh tịnh, trong một đời quả thật có thể đạt được công phu thành phiến, Sự nhất tâm bất loạn, Lý nhất tâm bất loạn, chẳng còn ngờ vực mảy may chi nữa!

Phật pháp theo đường lối thông thường, tức là theo phương cách phổ biến, ắt phải dựa theo thứ tự thuận là “tín, giải, hành, chứng” để tu học. Giải (hiểu) rồi mới tu hành, giống như đi đường, ắt trước hết phải biết rõ lộ trình rồi mới có thể ra đi. Pháp môn Tịnh Độ Niệm Phật là pháp môn đặc biệt, vừa đi vừa nhận biết đường, tiến hành đồng thời. “Người niệm Phật chẳng cần nghiên cứu kinh giáo, cứ thật thà niệm Phật là được rồi, cầu Giải để làm gì? Cớ gì phải phí sức vào chuyện này!” Cách suy nghĩ này sai lầm to lớn. Quý vị thấy trong Tịnh Độ Tông, có vị tổ sư đại đức nào chẳng thông đạt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian. Trong bộ Sớ Sao, Liên Trì đại sư trích dẫn kinh luận của thế gian và xuất thế gian, học vấn của Ngài rất uyên bác, chứ chẳng phải là không thông hiểu! Thời cận đại, quý vị đọc bộ Văn Sao sẽ thấy Ấn Quang đại sư đọc bao nhiêu là sách, thứ gì cũng đều biết. Do đây biết rằng: Niệm một câu A Di Đà Phật vẫn phải nghiên cứu kinh giáo, Hành và Giải đều quan trọng, Hành và Giải đồng thời.

Thật thà niệm Phật, hai chữ “thật thà” hết sức chẳng đơn giản. Người thật thà, chân tánh hiện tiền. Dùng pháp môn Tịnh Độ Niệm Phật để định nghĩa hai chữ “thật thà” thì “niệm đến Lý nhất tâm bất loạn, minh tâm kiến tánh” mới là thật thà. Trước khi minh tâm kiến tánh, chắc chắn chưa thật thà, vì sao? Kẻ ấy dùng tâm ý thức; tâm ý thức thì làm sao thật thà cho được? Thật thà niệm Phật, quyết định thành Phật. Thế nhưng, trước hết chúng ta phải hiểu rõ chính mình hiện thời chắc chắn là chưa thật thà, cho nên quý vị vẫn phải y giáo tu hành, chiếu theo những lý luận, phương pháp và cảnh giới được giảng trong kinh điển để niệm Phật hiệu. Lại còn phải nên hiểu rõ những ý nghĩa được bao hàm trong câu Phật hiệu. Dịch nghĩa hoàn toàn sang tiếng Hán, câu Phật hiệu này có nghĩa là “quy y Vô Lượng Giác”. Nói cách khác, mức độ thấp nhất là từng tiếng đánh thức giác tánh của chính mình. Sáu căn của chúng ta tiếp xúc sáu trần, hễ mê thì một câu Phật hiệu này sẽ gọi chúng ta từ mê mà giác ngộ trở lại, chẳng còn mê nữa, giác chứ không mê. Nếu quý vị chẳng niệm thì không niệm sẽ mê. Tập khí mê muội quá nặng, niệm niệm gọi mình quay lại, như vậy thì mới có thể khôi phục cái tâm thanh tịnh. Đấy là ý nghĩa của câu thứ nhất, “trừng trược nhi thanh” (lắng đục thành trong).

(Diễn) “Phản bối nhi hướng” giả, nhất hướng lưu lạc tha hương, bất tư cố quốc, kim tắc hồi thần bảo sát, tương cận Từ Tôn dã.

(演) 返背而向者,一向流落他鄉,不思故國,今則迴神寶剎將覲慈尊也。

(Diễn: “Phải bối nhi hướng”: Một mực lưu lạc quê người, chẳng nghĩ tới nước cũ. Nay hướng lòng về cõi báu, gần gũi đấng Từ Tôn).

      Tỷ dụ này cũng hết sức hay. Giống như kẻ lang thang lưu lạc đất khách, quên mất quê cũ của chính mình. “Kim tắc hồi thần bảo sát, tương cận Từ Tôn” (Nay hướng lòng về cõi báu, gần gũi đấng Từ Tôn): Nay bảo quý vị hãy quay đầu lại, hãy từ đời ô trược lục đạo luân hồi này quay đầu lại, tới Tây Phương Cực Lạc thế giới để gặp A Di Đà Phật. Nói cách khác, quê cũ của chúng ta ở nơi đâu? Quê cũ ở Tây Phương Cực Lạc thế giới. Chính mình phải kiên định tín tâm. Nếu quý vị nói: “Thế giới này mới là quê cũ của tôi, chứ Tây Phương Cực Lạc thế giới không phải!” sẽ rất khó vãng sanh Tây Phương. Đấy là hoàn toàn mê mất tự tánh, nhất định phải giác ngộ điều này. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy trong hội Hoa Nghiêm đến cuối cùng đều thành Đẳng Giác Bồ Tát mà vẫn phải vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới để thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Do đây biết rằng: Thế giới Cực Lạc là quê nhà thật sự, chẳng sai tí nào!

      Nay chúng ta sống trong thế giới Sa Bà đã ba bốn đời, quên tuốt quê cũ. Các đồng bào trong tỉnh [Đài Loan] này, quê quý vị ở đâu? Hễ truy ngược lại, quê nhà của các vị đều ở Trung Nguyên. Trong lịch sử dân tộc Trung Hoa có ba lần thiên di lớn: Thời Nam Bắc Triều Ngũ Hồ Loạn Hoa[6], thời Nam Tống và thời Mãn Thanh vào trong quan ải. Từ Trung Nguyên thiên di đến Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây), rồi lại dời sang Đài Loan. Tổ tiên đều là người thuộc lưu vực Hoàng Hà ở Trung Nguyên, quý vị đã quên mất rồi. Do chúng ta quên mất tự tánh, luân hồi sanh tử trong thế giới Sa Bà chẳng biết là bao nhiêu kiếp. Nay bảo quý vị thế giới Cực Lạc là quê nhà, quý vị chẳng tin. Ở đây, Liên Trì đại sư bảo chúng ta: Quê hương của chúng ta là Tây Phương Cực Lạc thế giới.

      “Việt tam kỳ ư nhất niệm”: Việt (越) là vượt thoát, vượt thoát ba A-tăng-kỳ chỉ trong một niệm. Thời gian ba A-tăng-kỳ kiếp dài lâu, mê hoặc lâu dài bao kiếp, trong một niệm liền vượt thoát, thật nhanh! Một niệm là gì? Một niệm là nhất tâm bất loạn đấy!

      (Diễn) Nhất niệm thị Trí.

      () 一念是智。

      (Diễn: Một niệm là Trí).

      “Một niệm là Trí”, hai niệm là mê. Làm như thế nào để trong mười hai thời luôn giữ được nhất niệm? Điều này rất khẩn yếu. Do vậy, trong cảnh giới khởi tâm động niệm là mê hoặc, nhất định phải giữ gìn sự tỉnh táo, tức là nhất niệm.

      (Diễn) Phiến ngôn thị cảnh.

  (演) 片言是境。

      (Diễn: Một lời là cảnh).

      “Phiến ngôn” là cảnh giới, “phiến ngôn” chính là một câu Nam-mô A Di Đà Phật. Câu này chính là “phiến ngôn”. Do đây có thể biết một câu Phật hiệu thật sự trở thành công phu thượng thừa, câu nói ấy biến tâm niệm của quý vị thành nhất niệm, nhất niệm vô nhị niệm. Có đồng tu hỏi: Lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, lìa bằng cách nào? Tôi thưa cùng quý vị: Điều này thật sự rất quan trọng! Vì sao chúng ta chẳng thể biến câu danh hiệu này thành nhất tâm, chẳng thể biến thành nhất niệm? Chính là vì đối với sáu chữ này (sáu chữ hay bốn chữ cũng giống như nhau), quý vị chấp vào tướng ngôn thuyết, chấp vào tướng danh tự, chấp vào tướng tâm duyên. Do vậy, quý vị không có cách nào biến nó thành nhất niệm. Nói thật ra, Phật truyền thụ pháp môn này nhằm dạy chúng ta dùng một câu Phật hiệu để đạt đến nhất niệm, đấy mới gọi là “công phu thành tựu”.

      Câu Nam-mô A Di Đà Phật là một câu nói, là tướng ngôn thuyết; chúng ta suốt ngày từ sáng đến tối tiếng niệm A Di Đà Phật mười vạn tiếng, chấp vào tướng ngôn thuyết. Nam-mô có nghĩa là quy y, A Di Đà nghĩa là vô lượng, Phật có nghĩa là giác. Đấy là tướng danh tự, chấp vào tướng danh tự. Tâm phan duyên (nắm níu) tướng danh tự, phan duyên tướng ngôn thuyết. Đấy là tướng tâm duyên. Trong một câu Phật hiệu của quý vị, chẳng phải chỉ là hai niệm, ba niệm, mà trong một câu Nam-mô A Di Đà Phật khởi lên rất nhiều niệm, quý vị không có cách gì đạt được nhất niệm, nên câu Phật hiệu này không có cách nào thành tựu công phu. Làm thế nào mới có thể thành tựu công phu? Khi niệm sáu chữ “Nam-mô A Di Đà Phật”, hãy lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên, niệm mà vô niệm, không niệm mà niệm. Trong miệng, sáu chữ hồng danh mỗi tiếng liên tục chẳng gián đoạn, tâm địa thanh tịnh chẳng nhiễm mảy trần, đó gọi là “tam luân thể không”, chẳng những cái Ngã đang niệm Phật là không thể được mà Phật hiệu được niệm và cảnh giới cũng đều chẳng thể được. Khi ấy là gì vậy? Chỉ là nhất tâm, cảnh giới của nhất tâm mới có thể hiện tiền. Do vậy, pháp này quả thật là mầu nhiệm đến tột bậc!

      Ở đây, [sách Diễn Nghĩa] chỉ cho chúng ta biết câu Phật hiệu này là cảnh giới, “nhất niệm là Trí”. Dùng trí để trừ khử duyên cảnh, Cảnh và Trí không hai. Trí là năng chứng, cảnh là sở chứng. Năng và Sở chẳng hai. Tâm Kinh nói: “Vô trí, diệc vô đắc” (không trí mà cũng không đắc). Nhất niệm là Trí, “phiến ngôn” (một câu nói) là Đắc, Vô Lượng Giác là cảnh giới, thứ gì cũng đều phải giác chứ không mê, vì sao lại nói là “vô trí, diệc vô đắc”? Trong tâm quý vị có [ý niệm] “ta đang có nhất tâm”, tức là trên nhất tâm lại chồng thêm một cái nhất tâm nữa, nhị tâm mất rồi! Kinh Lăng Nghiêm bảo đó là “tri kiến lập tri” (trên tri kiến lại lập thêm một tri kiến nữa). Vốn là Phật tri, Phật kiến, nay lại kiến lập thêm “ta nhất tâm bất loạn”, tâm quý vị đã sớm loạn mất rồi! Do trong nhất tâm bất loạn không có một cái nhất tâm bất loạn, chỉ cần quý vị có [ý nghĩ ta đang] nhất tâm bất loạn là trật rồi! Do vậy, quý vị có Trí là trật, có Đắc cũng trật luôn, có Nam-mô cũng trật, có A Di Đà Phật cũng sai bét! Lại nhắc nhở quý vị, không có Nam-mô cũng trật, không có A Di Đà Phật cũng sai tuốt. Khi ấy, khó thể biện định, “có” cũng trật, mà “không có” cũng sai, rốt cuộc như thế nào mới không sai? Nhà Thiền bảo: “Ông cứ tham cứu đi!” Câu này đã nói thấu suốt, Phật hiệu quyết định chẳng thể gián đoạn giữa chừng! Phật hiệu chẳng thể gián đoạn giữa chừng thì chẳng rớt vào Không! Tuy Phật hiệu chẳng gián đoạn giữa chừng, nhưng tâm địa niệm niệm thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, năng niệm và sở niệm đều chẳng thể được, chẳng rớt vào Có! Chẳng rớt vào hai bên Có và Không, khi ấy thật sự là nhất niệm. Rớt vào Không hay rớt vào Có đều là sai lầm. Rớt vào Có là tà kiến, rớt vào Không là vô minh. Hai bên Có và Không đều chẳng rớt vào, đấy mới là nhất tâm, đấy mới là Trí và Cảnh giống hệt như một.

      (Diễn) “Việt tăng-kỳ” vị Trí siêu thắng.

      () 越僧祇謂智超勝。

      (Diễn: “Vượt A-tăng-kỳ kiếp” ý nói Trí siêu việt thù thắng).

      Kinh thường nói thành Phật chẳng dễ dàng! Tính từ địa vị Sơ Trụ, tu một A-tăng-kỳ kiếp mới có thể tu xong ba mươi địa vị gồm Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, trong A-tăng-kỳ kiếp thứ hai tu bảy địa vị từ Sơ Địa đến Thất Địa. Trong A-tăng-kỳ kiếp thứ ba tu ba địa vị Bát Địa, Cửu Địa và Thập Địa. Thời gian ba đại A-tăng-kỳ kiếp dài quá! Một câu A Di Đà Phật vượt thoát ba đại A-tăng-kỳ kiếp, thật là khó có!

      (Diễn) “Tề chư thánh” thị cảnh diệu viên.

  () 齊諸聖是境妙圓。

      (Diễn: “Bằng với chư thánh” là cảnh mầu nhiệm, viên mãn).

      “Thánh” là Thập Địa Bồ Tát. Công phu niệm Phật thật sự tốt đẹp, dùng pháp môn này thì quý vị có thể chứng được địa vị Thập Địa Bồ Tát ngay trong một đời, há có phải chỉ thành tựu Phật pháp trong đời này! Sở dĩ chúng ta không thể thành tựu là vì chẳng thấu triệt lý luận, chẳng hiểu rõ phương pháp, tự mình khiến chính mình lầm lẫn. Nếu thật sự hiểu được lý luận và phương pháp thì trong một đời này sẽ có thể đạt đến thành tựu như vậy. Trong bản chú giải kinh Di Đà, đại sư Khuy Cơ đã phán định kinh này thuộc Đốn Giáo vì có ý nghĩa đốn siêu (nhanh chóng vượt thoát). Do vậy, kinh này là kinh bậc nhất trong hết thảy các kinh, không còn kinh nào siêu việt thù thắng hơn. Học Phật thì không đọc, không nghe tất cả các kinh khác cũng chẳng sao, quý vị chỉ cần thấu hiểu, thông suốt mấy tác phẩm như Di Đà Kinh Sớ Sao, Diễn Nghĩa, Yếu Giải, nhất định sẽ vãng sanh ngay trong một đời, giải quyết vấn đề. Sách Tây Phương Công Cứ đơn giản, trọng yếu nhất, hãy bắt đầu dốc sức từ sách này, hãy lấy nó làm sách giáo khoa, mỗi ngày đọc mấy trang, đừng gián đoạn giữa chừng.

      (Diễn) Tăng-kỳ giả, vô số kiếp dã.

      (演) 僧祇者,無數劫也。

      (Diễn: Tăng-kỳ là vô số kiếp).

      Điều này chúng ta tạm thời không quan tâm đến. Con số này có đến mấy cách tính, cách tính tinh tường, xác đáng nhất là [cách được nêu ra trong phẩm A Tăng Kỳ] trong kinh [Bát Thập] Hoa Nghiêm. Tiếp theo đây là những câu hỏi đáp do đại sư tự đặt ra.

      (Diễn) Vấn: Tam kỳ hành mãn, tức tọa đạo tràng thành Chánh Giác.

      (演) 問:三祇行滿,即坐道場成正覺。

      (Diễn: Hỏi: Tu hành trọn ba A-tăng-kỳ kiếp liền ngồi nơi đạo tràng, thành Chánh Giác).

      Tu hành ba đại A-tăng-kỳ kiếp viên mãn sẽ thành Phật.

      (Diễn) Kim niệm Phật giả, túng đắc vãng sanh, thượng vị đắc Phật, hà nãi tiện việt tam kỳ da?

      (演) 今念佛者,縱得往生尚未得佛,何乃便越三祇耶。

      (Diễn: Nay người niệm Phật dù đã được vãng sanh, vẫn chưa thành Phật, sao lại có thể vượt trỗi ba A-tăng-kỳ kiếp được?)

      Nghe những câu nói trong phần trên, chắc cũng thắc mắc: Quý vị vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, vẫn chưa thành Phật. Trong Tây Phương Cực Lạc thế giới tuy không có ba ác đạo, nhưng có hai đường trời và người, vẫn là phàm phu! Vì sao nói “vượt trỗi ba A-tăng-kỳ kiếp”? Câu này có nói quá lố hay chăng? Dưới đây là lời giải đáp.

      (Diễn) Đáp: Kim tam kỳ thị ước Tín Giải, dĩ tam-muội công thành chi nhân, tuy công hạnh vị mãn, nhi Pháp Thân dĩ minh, tam kỳ cực quả dĩ giải liễu cố, diệc khả ngôn siêu dã. Thử ước Giải ngôn, bất luận công hạnh.

      (演) 答:今三祇是約信解。以三昧功成之人,雖功行未滿,而法身已明,三祇極果已解了故,亦可言超也。此約解言,不論功行。

      (Diễn: Đáp: Ba A-tăng-kỳ ở đây là nói theo phương diện Tín và Giải. Bởi lẽ, người đã thành tựu tam-muội, tuy công hạnh chưa viên mãn, nhưng đã hiểu rõ Pháp Thân, đã hiểu rõ cực quả sau ba A-tăng-kỳ kiếp, nên cũng có thể nói là “vượt thoát”. Đây là dựa trên phương diện Giải để nói, chứ không bàn về mặt công hạnh).

      Ba đại A-tăng-kỳ kiếp được nói tới trong phần trước là [nói về] sự tu hành viên mãn, nói tới công phu, đã thành Phật rồi. Ở đây nói “vượt ba A-tăng-kỳ trong một niệm” chính là nói theo phương diện Tín Giải, chứ không phải luận theo phương diện Hành Chứng. Quý vị phải hiểu: Tín Giải hết sức khó, người bình thường chẳng thể tiếp nhận được. “Tam-muội công thành”: Chữ “tam-muội” là nói Niệm Phật tam-muội, tam-muội chính là nhất tâm bất loạn. Chúng ta niệm Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn. Nhất tâm được nói đến ở đây chính là Lý nhất tâm bất loạn, vì trong câu tiếp theo có nói “Pháp Thân dĩ minh” (đã hiểu rõ Pháp Thân). Lý nhất tâm bất loạn, công hạnh chưa viên mãn, đấy là sự thật; vì Lý nhất tâm bất loạn chính là nói về bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, bốn mươi mốt phẩm vô minh mới phá được một phẩm, hãy còn bốn mươi phẩm chưa phá, đương nhiên chưa viên mãn. Công hạnh chưa viên mãn, nhưng đã thấy Pháp Thân. Phá một phẩm vô minh liền chứng một phần Pháp Thân. Đấy là hàng Sơ Trụ vừa chứng được Lý nhất tâm. Ba đại A-tăng-kỳ kiếp thành tựu Phật quả trong Viên Giáo, người ấy quả thật đã “giải liễu”, tức hiểu rõ, quyết định chẳng có nghi vấn gì, cao minh hơn các địa vị Phật trong Thông Giáo, Tạng Giáo và Biệt Giáo. Do vậy, có thể nói là “siêu”. Dụng ý của những câu trong lời Tự là nói về mặt Tín Giải, chứ không phải là nói về Hành Chứng. Đây là ý nghĩa thứ nhất, tức là luận định theo đường lối [tu tập] thông thường; còn có một ý nghĩa thứ hai, nghĩa này là nói tới sự thật, chẳng phải giả.

      (Diễn) Hựu, việt Tăng kỳ thị thật ngữ.

(演) 又越僧祇是實語。

      (Diễn: Lại nữa, vượt thoát A-tăng-kỳ kiếp là nói sự thật).

      Lời nói chân thật, ý nghĩa này càng tinh tường, nghiêm mật hơn ý nghĩa trên đây.

      (Diễn) Bất tất đản viết giải thuyết.

      () 不必但曰解說。

      (Diễn: Không cần phải nói là [“vượt ba A-tăng-kỳ kiếp”] chỉ được hiểu theo phương diện Giải).

      Chẳng cần phải nói chỉ là hiểu theo phương diện Tín - Giải, nói theo phương diện Hành - Chứng vẫn xuông.

      (Diễn) Dĩ tam kỳ hạnh mãn, phương đắc thành Phật, thử thị Tạng Giáo Quả Đầu Phật

      (演) 以三祇行滿,方得成佛,此是藏教果頭佛。

      (Diễn: Bởi lẽ, tu hành trọn đủ ba A-tăng-kỳ kiếp mới được thành Phật là quả vị Phật trong Tạng Giáo).

      Tu hành viên mãn ba đại A-tăng-kỳ kiếp sẽ thành Phật, thành vị Phật nào vậy? “Tạng Giáo Quả Đầu Phật”. Theo cách phán giáo của tông Thiên Thai, [có bốn giáo là] Tạng, Thông, Biệt, Viên. Địa vị tối cao trong Tạng Giáo gọi là Quả Đầu, tức Tạng Giáo Phật. Tạng Giáo Phật vẫn chưa kiến tánh. Tạng Giáo Phật tương đương với địa vị Thất Tín Bồ Tát trong Viên Giáo. So với Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo là bậc đã đắc Lý nhất tâm bất loạn thì [Tạng Giáo Phật] vẫn còn thua một bậc!

      (Diễn) Kim kinh thị Viên Đốn giáo.

      () 今經是圓頓教。

      (Diễn: Kinh này thuộc Viên Đốn giáo).

      Viên Đốn giáo là thượng thượng thừa, là bậc nhất. Người học pháp môn này là hàng Bồ Tát căn tánh viên đốn. Điều này cũng khiến cho chúng ta hoài nghi: Chính mình chẳng phải là căn tánh viên đốn, suốt ngày từ sáng đến tối lắm phiền não, mê hoặc, điên đảo như thế, mà tôi cũng có thể học pháp môn này ư? Có thể! Chỉ cần quý vị tin vào chính mình, tin tưởng y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do chân tâm của chính mình hiển hiện, duy thức sở biến. Trong pháp môn Niệm Phật, nhất định là trước hết phải hiểu rõ tự tánh Di Đà chính là căn bản tu học của chúng ta, rồi mới nhất tâm xưng danh, cầu nguyện vãng sanh. Xem ra, mấy câu này quan trọng hơn bất cứ gì khác. Quý vị tin tưởng hai câu này thì quý vị thuộc căn tánh viên đốn, tâm nhẫn nại bỏ ra ba bốn năm công phu, thảo luận cặn kẽ kinh này một lượt, ngõ hầu nghi hoặc, chướng ngại đều chẳng còn nữa. Sau đấy, mỗi tiếng Phật hiệu đều tương ứng với tự tánh Di Đà của chính mình, không ai chẳng vãng sanh!

      (Diễn) Đản đắc thượng sanh tức đăng Sơ Địa.

      (演) 但得上生即登初地。

      (Diễn: Chỉ cần được thượng phẩm vãng sanh liền chứng Sơ Địa).

      “Sơ Địa” là Sơ Địa Bồ Tát trong Biệt Giáo. “Thượng sanh” là thượng phẩm vãng sanh, địa vị này ngang với Sơ Địa Bồ Tát của Biệt Giáo.

      (Diễn) Nhi Quả Đầu Phật thượng dữ Viên Giáo Thất Tín tề.

      (演) 而果頭佛上與圓教七信齊。

      (Diễn: Nhưng địa vị Phật trong Tạng Giáo bằng với địa vị Thất Tín trong Viên Giáo).

      Tạng Giáo Phật chỉ bằng với địa vị Thất Tín Bồ Tát trong Viên Giáo, họ quyết định chẳng đạt đến địa vị Sơ Địa trong Biệt Giáo.

      (Diễn) Khởi bất thị việt tăng-kỳ ư nhất niệm?

      () 豈不是越僧祇於一念。

      (Diễn: Há chẳng phải là vượt trỗi ba A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm?)

      Câu này chẳng nói quá lố. Lấy Tạng Giáo Phật để nói thì do quả vị Phật tu thành sau ba đại A-tăng-kỳ kiếp là Tạng Giáo Phật. Kinh Hoa Nghiêm giảng về Viên Giáo Phật rất rõ ràng: Phải do vô lượng kiếp tu thành, chứ ba đại A-tăng-kỳ kiếp chưa thể tu thành. Do vậy, nếu nói ba đại A-tăng-kỳ kiếp thành Phật thì đích xác là một câu A Di Đà Phật niệm đến mức Lý nhất tâm bất loạn sẽ vượt trỗi hơn. Ở đây, chúng ta kết luận đơn giản: Lý nhất tâm quả thật đã vượt trỗi sự tu hành trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp của Tạng Giáo, họ tốn một thời gian dài như thế, còn chúng ta trong mấy năm đã vượt trội họ. Nói như vậy thì bộ kinh này và Sớ Sao quả thật là bảo điển viên đốn vô thượng trong Đại Thừa, chúng ta cũng chẳng còn hoài nghi thì mới hiểu được giá trị của bộ kinh điển này.

      Có nhiều người phát tâm in kinh. In kinh là chuyện tốt đẹp, in kinh là tu đại phước báo. Trong hết thảy các kinh, kinh có giá trị nhất không gì hơn A Di Đà Kinh. Chúng tôi muốn in A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa, Tây Phương Công Cứ, lưu thông hai loại này, hy vọng mỗi người có được một cuốn, ai nấy vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Ai yêu thích nghiên cứu Đại Tạng Kinh thì cứ nghiên cứu, chúng ta do hai bộ sách này chắc chắn sẽ Thượng Phẩm Thượng Sanh. Đấy là hoằng dương đại pháp viên đốn, hoằng dương pháp môn bậc nhất, chúng ta thật sự nhận biết giá trị, đề xướng pháp bảo chân thật nhất, pháp môn thù thắng nhất. Chúng ta đã hiểu rõ rồi, hãy nên nỗ lực thực hiện.

      Câu “chí tai diệu dụng” là nói tác dụng của bản kinh này mầu nhiệm đến tột cùng. “Chí” (至) là đạt đến chỗ tột cùng.

      (Diễn) Diệu dụng hữu nhị.

      () 妙用有二。

      (Diễn: Diệu dụng gồm hai thứ)

      Có hai thứ.

      (Diễn) Tại Như Lai thuyết kinh, thị lợi sanh chi diệu dụng.

(演) 在如來說經,是利生之妙用。

      (Diễn: Như Lai nói kinh là diệu dụng lợi lạc chúng sanh).

      Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh suốt cả đời, ta thường nói Ngài giảng kinh hơn ba trăm hội, thuyết pháp suốt bốn mươi chín năm, đều là diệu dụng lợi ích chúng sanh. Thích Ca Mâu Ni Phật từ trước đến nay chưa hề nghĩ đến mình, khởi tâm động niệm đều nghĩ tới hết thảy chúng sanh. Hy vọng các đồng tu chúng ta từ nay trở đi khởi tâm động niệm đều giống như Phật, hy vọng chúng sanh ai nấy sẽ đều Thượng Phẩm Thượng Sanh ngay trong một đời này, ai nấy sẽ đều thành Phật trong đời này. Dùng cách nào? Trừ pháp môn Niệm Phật ra, không có cách thứ hai nào hết! Chúng ta nỗ lực phát triển theo phương hướng này. Muốn làm cho hết thảy chúng sanh thành tựu ngay trong đời này thì trước hết chúng ta phải thành tựu chính mình, chính mình chưa thể thành tựu sẽ không có cách nào giúp người khác thành tựu được! Nếu chính mình thành tựu thì niệm niệm sẽ vì hết thảy chúng sanh. Do vậy, phổ biến, hoằng dương bộ kinh này là chuyện hết sức cần thiết, còn trọng yếu hơn kinh Hoa Nghiêm nữa. Nói thật thà thì Hoa Nghiêm, Pháp Hoa chẳng thể thành Phật ngay trong một đời, tuy những kinh ấy là Viên Giáo Nhất Thừa, nhưng quý vị đọc rồi sẽ thấy, tuy xét về lý luận thì không sai, nhưng phương pháp quá khó tu, quả thật chẳng dễ thành tựu ngay trong một đời. Còn kinh này thì chỉ sợ quý vị không chịu tu, chứ nếu quý vị chịu tu thì như cổ đức đã nói “vạn người đi, vạn người đến”, chẳng sót một ai. Diệu dụng của Phật đã đạt đến mức cùng cực.

(Diễn) Dĩ tứ tự biến dẫn chúng sanh xuất ư khổ hải, khởi phi chí diệu?

(演) 以四字遍引眾生出於苦海,豈非至妙。

      (Diễn: Dùng bốn chữ dẫn khắp chúng sanh thoát khỏi biển khổ, há chẳng phải là mầu nhiệm đến tột bực ư?)

      Đức Phật dùng bốn chữ “A Di Đà Phật” giúp hết thảy chúng sanh ai nấy vượt thoát luân hồi lục đạo, ai nấy đều vượt thoát biển khổ sanh tử, vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, viên mãn Bồ Đề trong một đời, hết sức mầu nhiệm! Tra khắp Đại Tạng Kinh, không có pháp môn nào khác giống như thế. Pháp môn Niệm Phật quá kỳ diệu, quá lạ lùng, đặc biệt. Do vậy, nó là pháp khó tin. Đây là nói về sự mầu nhiệm do thuyết kinh của đức Phật.

      (Diễn) Tại chúng sanh trì danh, thị tự lợi chi diệu dụng, dĩ tứ tự trực sử sơ tâm đăng hồ Trí Địa, hựu khởi phi chí diệu?

      (演) 在眾生持名,是自利之妙用。以四字直使初心登乎智地,又豈非至妙。

      (Diễn: Chúng sanh trì danh là diệu dụng tự lợi, do bốn chữ mà trực tiếp khiến cho hàng sơ tâm vượt lên Trí Địa, há lại chẳng phải là mầu nhiệm đến tột cùng ư?)

      Trí Địa tức là Sơ Địa Bồ Tát. Đức Phật là vị thầy truyền dạy cho chúng ta pháp môn này, tức là bốn chữ. Chúng ta là học trò, tiếp nhận bốn chữ này, trong một đời từ hàng Sơ Phát Tâm bèn chứng đắc Sơ Địa, vượt khỏi ba đại A-tăng-kỳ kiếp, thành tựu ngay trong một đời. Nếu quý vị hỏi: “Tôi nay mới phát tâm, khi nào tôi sẽ niệm đến mức Lý nhất tâm bất loạn? Ước chừng bao lâu tôi mới có thể đạt đến địa vị này?” Chớ nên hỏi tôi câu này! Hỏi tôi cũng vô ích, phải hỏi chính mình! Nếu quý vị thật sự chịu tu, cổ nhân đã nêu gương rồi đó, bảy ngày có thể đạt được, kinh dạy “nhược nhất nhật đáo nhược thất nhật” (từ một ngày cho đến bảy ngày). Nói cách khác, có thể đạt được trong một ngày!

      Kinh Địa Tạng có nói: Khi Địa Tạng Bồ Tát tu nhân, làm một cô gái dòng Bà-la-môn, tức là cô Quang Mục, đã cứu mẹ bằng phương pháp nào? Niệm Phật! Nếu quý vị đọc kỹ kinh văn, [sẽ thấy] cô ta niệm đến mức nhất tâm bất loạn, đắc Niệm Phật tam-muội thì mới có tư cách vào địa ngục để thăm dò, xem xét, mới có năng lực ấy. Nếu cô ta chưa thành tựu Niệm Phật tam-muội, sẽ chẳng thể đến được. Kinh nói rất rõ ràng, đến địa ngục chỉ có hai hạng người: Một là Bồ Tát, hai là người có tội nghiệp phải vào đó chịu tội! Nếu chẳng phải là hai hạng người ấy, sẽ không có tư cách vào địa ngục được! Do vậy, cô ta dùng pháp môn Niệm Phật, niệm bao lâu? Một ngày một đêm. Há chẳng phải là như kinh này đã nói “nhược nhất nhật” (trong một ngày) ư? Quý vị có chịu “tử tận thâu tâm” (chết sạch cái lòng mong ngóng so đo, chụp giựt cầu may), “thâu tâm” là vọng niệm. Có thể đoạn sạch hết thảy vọng niệm hay không? Nhất tâm là một câu Phật hiệu, trừ câu Phật hiệu ra, chẳng có vọng niệm nào. Nếu trong một ngày một đêm hai mươi bốn tiếng đồng hồ, từng tiếng Phật hiệu chẳng ngớt, chẳng có vọng niệm nào trong ấy thì sẽ thành công, mà cũng phải chết sạch lòng mong ngóng thì mới làm được!

      Do vậy, mẹ cô Bà-la-môn Quang Mục được cứu là vì mẹ cô ta có công đức và có phước: Con gái bà ta có thành tựu là do bà mẹ thúc ép, do mẹ mà cô ta đến địa ngục, cô ta nhất tâm nhất ý muốn cứu mẹ, chẳng có vọng niệm thứ hai nào. Nếu bà mẹ chẳng đọa địa ngục, cô ta cũng chẳng thể thành Địa Tạng Bồ Tát. Vì sao? Cô ta chẳng thể nào chuyên tâm như thế! Ngày nay chúng ta niệm Phật chẳng thể chuyên tâm, tức là có cái tâm mong ngóng, chụp giựt cơ hội, so đo, dựa dẫm, cứ ngỡ khởi vọng niệm chẳng sao cả! Nghe nói niệm Phật trong thời gian tàn một cây hương mà khởi lên năm sáu vọng tưởng thì nói chung phải có công phu [huân tập] trong năm năm, mười năm. Vậy thì trong một tiếng đồng hồ tôi khởi lên hai ba chục vọng tưởng chẳng phải là rất bình thường ư? Không đúng! Chúng ta niệm Phật với cái tâm không chân thật, thiết tha, chẳng có ai ép chúng ta. Nếu cha mẹ của chính mình đọa trong địa ngục A Tỳ thì khi quý vị vừa biết, muốn cứu họ, ý niệm gì cũng không có, nhất tâm nhất ý niệm Phật, vẫn phải là đứa con thật sự có hiếu thì mới được!

      Do vậy, từ một ngày cho đến bảy ngày có thể thành công thì còn có pháp môn nào khác nhanh chóng hơn pháp này hay chăng? Thiền chẳng thể thành tựu trong bảy ngày! Mật cũng chẳng thể thành tựu trong bảy ngày. Khuy Cơ đại sư tán thán pháp môn này là đại pháp viên đốn. Ngài là tổ sư khai sơn của tông Duy Thức mà tán thán kinh Di Dà như vậy, còn gì để nói nữa đây! Ở đây, chúng ta đang nói tới công phu thượng thừa; công phu bậc trung thì là Sự nhất tâm bất loạn, công phu bậc hạ là công phu thành phiến đới nghiệp vãng sanh. Người tu học pháp môn Niệm Phật phát tâm phải thù thắng, to lớn, cổ nhân thường nói “thủ pháp hồ thượng, cẩn đắc hồ trung” (chọn lấy pháp bậc thượng, chỉ đạt được bậc trung). Chúng ta phát tâm một lòng một dạ muốn thành tựu Lý nhất tâm bất loạn, chưa đạt được Lý nhất tâm bất loạn mà có thể đắc Sự nhất tâm bất loạn thì vẫn coi như là khá lắm. Nếu quý vị phát tâm rất nhỏ, chí hướng quá kém hèn, “tôi hạ phẩm hạ sanh là được rồi”, hạ mục tiêu xuống còn hạ phẩm hạ sanh, có thể sẽ chẳng được vãng sanh! Hạ phẩm hạ sanh mà chẳng đạt tiêu chuẩn thì sẽ bị đào thải. Do vậy, nhất định phải phát tâm cầu thượng phẩm, nhất định phải nghiên cứu đạo lý trong kinh, phải hiểu bộ kinh này quả thật là trăm ngàn vạn kiếp khó gặp gỡ. Trong một đời này, chúng ta có cơ duyên gặp được, đây là chuyện thành Phật trong một đời, một đời vượt thoát luân hồi, liễu sanh tử, xuất tam giới, trong thế gian còn có chuyện nào quan trọng hơn chuyện này? Chúng ta phải nhận thức, hiểu rõ điều này!

      (Sớ) Thượng ngôn linh minh trạm tịch chi Thể, bổn vô thanh, trược, hướng, bối, tất cánh bình đẳng, duy thị nhất tâm.

      (疏) 上言靈明湛寂之體,本無清濁向背,畢竟平等,唯是一心。

      (Sớ: Trong phần trước đã nói tới cái Thể linh minh trạm tịch, vốn chẳng có trong, đục, hướng về, trái nghịch, rốt ráo bình đẳng, chỉ là nhất tâm).

      “Thượng” là trong đoạn văn ở phần trên đã nói tới “linh minh trạm tịch”, đấy là bản thể của tự tánh chúng ta. Trong bản thể, không có “thanh, trược, hướng, bối”. Nói cách khác, trong bản thể chẳng lập một pháp. Lục Tổ nói: “Vốn chẳng có một vật”, đâu còn có “thanh, trược, hướng, bối?” Ở đây, bốn chữ này tượng trưng cho các pháp đối đãi, tương đối. Trong Chân Như bổn tánh không có tương đối. Đã không có tương đối mà cũng chẳng có tuyệt đối, vì tuyệt đối và tương đối lại biến thành tương đối! Do vậy, ngôn ngữ dứt bặt, tâm hạnh xứ diệt. Cảnh giới ấy rốt ráo bình đẳng!

      Câu quan trọng nhất ở đây là “rốt ráo bình đẳng”. Chúng ta là người tu pháp môn Niệm Phật, nếu dùng tâm bình đẳng niệm Phật, nếu dùng tâm bình đẳng để đãi người, tiếp vật thì sẽ tương ứng với nhất tâm bất loạn. Đây là nguyên tắc, nguyên lý hết sức quan trọng! Chúng ta niệm Phật, chưa đạt đến nhất tâm bất loạn, ngay cả công phu thành phiến cũng chưa thành tựu là do nguyên nhân nào? Từ trước đến nay, chúng ta chẳng chịu sử dụng nhất tâm, chẳng chịu dùng tâm bình đẳng, đối với bất luận cảnh giới nào đều luôn dùng cái tâm phân biệt, tâm chấp trước, còn có cách gì nữa đây? Phân biệt, vọng tưởng, chấp trước là không được rồi! Đấy chính là ma chướng đối với nhất tâm bất loạn. Ma chướng chẳng phải do ngoại cảnh, mà là trong sự phân biệt, chấp trước, vọng tưởng của chính chúng ta. Khi nào trong hết thảy cảnh giới, chúng ta sử dụng chân tâm, một mực bình đẳng, nhất tâm bất loạn sẽ thành tựu dễ dàng, rất nhanh chóng thành tựu. Giác tâm là bình đẳng tâm, chẳng bình đẳng là mê hoặc. Mê rồi sẽ chẳng bình đẳng. Giác ngộ sẽ bình đẳng. Công án “hồng lô điểm tuyết” (lò rực lửa dính tuyết) của Thiền Tông đã hiển thị sự bình đẳng, một vị bình đẳng.

      Nhìn vào gương tu hành thì trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tu pháp môn Tịnh Độ, niệm A Di Đà Phật. Ngài dùng pháp môn Niệm Phật niệm đến Lý nhất tâm bất loạn rồi mới đi tham học. Năm mươi ba lần tham học thấy các nhân vật đủ mọi hạng người, nghe các thứ pháp môn khác nhau, trong cảnh giới ấy, Ngài dùng công phu nào, chúng ta nhất định phải hiểu rõ. Ngài “nghe mà không nghe, thấy mà không thấy”. Thấy hết thảy nhân vật, nghe hết thảy pháp môn, tăng trưởng trí huệ, trong hết thảy cảnh giới Ngài như như bất động, vẫn là thật thà niệm A Di Đà Phật, hoàn toàn chẳng thay đổi. Đấy là tăng trưởng nhất tâm, tăng trưởng Thiền Định, học Định và Huệ quân bình, chẳng tiếp xúc dị đoan, chẳng thấy chính mình có công phu. Khi tiếp xúc dị đoan, công phu của chính mình bèn hiện tiền, chẳng động tâm bởi học thuyết dị đoan, nhất tâm bất loạn thành tựu. Lại còn có thể liễu giải hết thảy dị đoan, trí huệ thành tựu, biết chúng sanh phiền não như thế nào, tà kiến như thế nào, thảy đều hiểu rõ thì giáo hóa chúng sanh mới khế cơ! Như như bất động là Khế Lý, hiểu rõ hết thảy là Khế Cơ. Năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng tử hiển thị công phu như vậy, đấy là công phu niệm Phật, thành tựu trong đời này, chúng ta phải nên học theo. Nhất là trong xã hội mở rộng hiện thời, tư tưởng, ngôn luận tự do, không có cách nào ngăn cấm. Nếu quý vị chẳng học theo Thiện Tài đồng tử, chẳng học một chiêu ấy, sẽ chẳng có cách nào thành tựu! Nếu quý vị hiểu những đạo lý, bí quyết trong pháp môn Niệm Phật, biết được phương thức cao minh của Thiện Tài đồng tử, chắc chắn sẽ thành tựu Lý nhất tâm bất loạn trong một đời. Dẫu chưa đắc Lý nhất tâm bất loạn, cũng sẽ có thể ổn thỏa thích đáng thành tựu Sự nhất tâm bất loạn. Chúng ta phải học những điều này từ kinh điển.

      (Diễn) Tất cánh bình đẳng giả.

      () 畢竟平等者。

      (Diễn: Rốt ráo bình đẳng là...)   

      “Tất cánh bình đẳng, duy thị nhất tâm” (Rốt ráo bình đẳng, chỉ là nhất tâm): Chẳng tách rời hai câu này trong bất cứ thời khắc nào! Cổ nhân nói: “Đạo dã giả, bất khả tu du ly dã” (Đạo là chẳng thể rời trong khoảnh khắc). Niệm niệm đều chẳng lìa, đây chính là điều tôn giả Tu Bồ Đề muốn hỏi Phật trong kinh Kim Cang. Hai câu hỏi lớn của Ngài là: “Ưng vân hà trụ? Vân hà hàng phục kỳ tâm?” (Nên trụ như thế nào? Nên hàng phục cái tâm như thế nào?) Chúng ta phải trụ cái tâm ra sao? Trụ ở nơi đâu? Câu trả lời cho hai câu này là “rốt ráo bình đẳng, chỉ là nhất tâm”. Cái tâm này của chúng ta phải an trụ tại nơi đó. Dùng ngay hai câu này để chú giải kinh Kim Cang sẽ hiểu rõ rất dễ dàng! Hàng phục cái tâm như thế nào? Cuối kinh Kim Cang có hai câu hết sức quan trọng: “Bất thủ ư tướng, như như bất động” (Chẳng chấp lấy tướng, như như bất động) thì mới có thể hàng phục cái tâm. Câu nói “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (đừng trụ vào đâu để sanh tâm) khiến Lục Tổ đại sư khai ngộ, cũng có ý nghĩa giống với hai câu trên đây. Bình đẳng là vô sở trụ, có chỗ trụ sẽ chẳng bình đẳng. Có chỗ trụ là nhị tâm, tức là “tam tâm, nhị ý”.

      (Diễn) Luận vân: “Nhất thiết chư pháp, tùng bổn dĩ lai, ly chư danh tướng, tất cánh bình đẳng, duy thị nhất tâm”.

      (演) 論云:一切諸法,從本以來離諸名相,畢竟平等,唯是一心。

      (Diễn: Luận chép: “Hết thảy các pháp, xét từ gốc thì chúng lìa khỏi các danh tướng, rốt ráo bình đẳng, chỉ là nhất tâm”).

      Chữ “luận” chỉ Đại Thừa Khởi Tín Luận. [Trong luận ấy], Mã Minh Bồ Tát đã bảo: “Hết thảy các pháp”, bao gồm Sắc pháp và Tâm pháp, “tùng bổn dĩ lai” là nói theo phương diện bản thể, quán sát theo phương diện thể tánh thì thể tánh chẳng có tướng danh tự. Do vậy, hết thảy các pháp bình đẳng. Cũng có các vị nêu nghi vấn: “Chân đèn và tượng Phật khác nhau, làm sao bình đẳng được? Chúng ta hoạt động và bàn, ghế dựa, ghế dài [bất động], làm sao bình đẳng được?” Đúng vậy! Không bình đẳng. Nhìn từ đâu mà thấy không bình đẳng? Quý vị khởi tâm động niệm nơi tướng, cho nên không bình đẳng. Bình đẳng ở đây là nói tới cái tâm quý vị bình đẳng, chứ không phải nói tới sự bình đẳng nơi hình tướng bên ngoài. Nếu quý vị hiểu ý nghĩa này, tâm quý vị sẽ rốt ráo bình đẳng nơi cảnh giới, không phải là nói sự bình đẳng nơi tướng. Về tướng, thì năm đầu ngón tay duỗi ra dài ngắn không đều, làm sao bình đẳng được? Nếu trong cảnh giới, tâm quý vị chẳng nhiễm đắm hết thảy, tâm bình đẳng, sẽ thấy tướng bên ngoài cũng thanh tịnh. Vì sao thanh tịnh? Tướng chẳng nhiễm ô tâm, bình đẳng là nói theo cách này.

      Hết thảy các tướng đều là giả danh lập ra, chẳng chân thật. Hết thảy sắc tướng là Y Tha Khởi Tánh, tướng danh tự là Biến Kế Sở Chấp Tánh[7], đều chẳng có tự tánh, chẳng có tự thể! Do vậy, hết thảy tướng quả thật là

bình đẳng. Hết thảy tướng ấy, nhìn từ Thể thì chẳng những Tánh Thể là bình đẳng, mà thể chất cũng bình đẳng. Sâm la vạn tượng theo sự quan sát của các nhà khoa học đều do các lạp tử cơ bản (elementary particles)[8] hợp thành. Con mắt của các nhà khoa học thấy sâm la vạn tượng đều là các lạp tử cơ bản, [như vậy, nhìn từ quan điểm vật chất đều do các lạp tử cơ bản kết hợp thành thì] tướng cũng bình đẳng, nhưng [tướng bình đẳng ấy] vẫn chưa phải là rốt ráo bình đẳng đang được nói tới ở đây. Rốt ráo bình đẳng phải quan sát từ thể tánh, nó là gì vậy? “Duy thị nhất tâm” (chỉ là nhất tâm). Tận hư không, trọn pháp giới chỉ là nhất tâm. Do vậy, nếu tâm của quý vị đã nhất, nếu tâm quý vị đã bình đẳng thì sẽ nhập Nhất Chân pháp giới, chứ không phải mười pháp giới. “Nhất Chân pháp giới” là tên gọi bất đắc dĩ, bậc Địa Thượng Bồ Tát đăng địa trụ trong Nhất Chân pháp giới. Do vậy, nói theo phương diện Tánh Thể hay nói theo phương diện thể chất thì tuyệt đối bình đẳng, nhưng luận theo phương diện huyễn tướng, chúng chẳng bình đẳng. Huyễn tướng là huyễn, chẳng thật, giả đấy! Đừng bị giả tướng mê hoặc, người học Phật phải nghiêm túc đừng nhận lầm cái giả thì mới được!

      Vì sao nói hết thảy các pháp chỉ là nhất tâm? Kinh Hoa Nghiêm nói rất hay: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Nên quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo). Tánh là bản thể; quán sát theo phương diện Lý Thể có khả năng hiện ra hết thảy pháp, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới thì nó là nhất tâm. Nhất tâm là Chân Như bổn tánh. Tâm có thể hiện tướng, Thức có thể biến hóa. “Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Tâm là chân tâm, thức là vọng tâm. Chân tâm có thể hiện, vọng tâm có thể biến. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới do vọng tâm biến ra. Hai câu này đã nói lên toàn bộ Phật pháp của hết thảy chư Phật. Tam Tạng kinh điển là chú giải của hai câu này. Nếu chúng ta thật sự thấu hiểu, thông đạt hai câu này, tâm đương nhiên thanh tịnh, trong hết thảy pháp sẽ chẳng còn khởi tâm động niệm nữa, vì sao? Hết thảy đều do tâm của chính mình hiện ra, đều là do cái tâm của chính mình biến hóa!

      (Diễn) Kim Tịch Chiếu chi Thể, vô hữu thanh, trược, hướng, bối, chánh thị đẳng đồng nhất vị, duy nhất Chân Như, cố vân “tất cánh bình đẳng, duy thị nhất tâm” dã.

      (演) 今寂照之體,無有清濁向背,正是等同一味,唯一真如,故云畢竟平等,唯是一心也。

      (Diễn: Nay cái Thể vừa Tịch vừa Chiếu, chẳng có trong, đục, hướng về, trái nghịch, đúng là bình đẳng, có cùng một vị, là Chân Như duy nhất, nên nói: “Rốt ráo bình đẳng, chỉ là nhất tâm”).

      “Tịch Chiếu chi Thể” chính là bổn tánh của chúng ta. Nói theo kinh này, nó chính là nhất tâm của chúng ta, nhất tâm là chân tâm. Nay chúng ta nói “tu tập nhất tâm bất loạn”, tức là khôi phục chân tâm của chính mình. Trong chân tâm không có thanh, không có trược, không có hướng, không có bối. Do vậy chân tâm là nhất vị, nhất như. Trong hai chữ Chân Như thì Chân là nói theo thể tánh, nói theo Thể; Như là nói theo Tướng. Hoặc Chân là nói theo Lý, Như là nói theo Sự. Tánh giống như Tướng, Tướng giống như Tánh. Lý giống như Sự, Sự giống như Lý, Tánh - Tướng không hai, Lý - Sự như một, thì gọi là Chân Như. Do vậy, Tánh và Tướng bình đẳng, Tánh hiện, Thức biến, do vậy, nó “chỉ là nhất tâm”. Lý này khá sâu, chúng ta phải chú tâm thấu hiểu. Nay đã hết giờ rồi!

      A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa

Phần 8 hết

[1] Thập bát giới: Phối hợp lục căn, lục trần, lục thức thành thập bát giới. Nói cách khác, thập bát giới lấy sự nhận thức của con người làm trung tâm. Sáu căn có công năng nhận thức sự vật, sáu trần tượng trưng cho đối tượng được nhận thức, lục thức là sự cảm thọ và hình thành quan niệm nhận thức đối với sáu trần. Phạm vi hoạt động của sáu căn, sáu thức và sáu trần được gọi chung là mười tám giới. Do vậy, ta có nhãn giới, nhĩ giới cho đến ý giới, sắc giới, thanh giới cho đến pháp giới và nhãn thức giới cho đến ý thức giới.

[2] Nguyên văn “lão sanh thường đàm”. Hiểu theo nghĩa đen, “lão sanh thường đàm” là những câu nói tầm thường của hạng thư sinh già cả, không đỗ đạt gì. Thành ngữ này được dùng với ý nghĩa châm biếm: Những ý kiến ngôn luận, tầm thường của hạng học hành suốt đời mà vẫn lẹt đẹt thì chẳng phải là ý tứ cao xa gì! Thành ngữ này bắt nguồn từ thiên Quản Lộ Truyện trong Ngụy Chí của bộ sách Tam Quốc Chí: Vào thời Tam Quốc, ở nước Ngụy có một người tên Quản Lộ rất thích Thiên Văn, đặc biệt thông hiểu sâu xa kinh Dịch, thường hay đoán quẻ cho người khác, rất linh nghiệm, đến nỗi có lần Lại Bộ Thượng Thư Hà Yến đích thân mời Quản Lộ vào dinh xem bói. Hà Yến hỏi: “Phiền Ngài bói xem sau này tôi có làm đến chức Tam Công hay không? Hơn nữa, tôi liên tục nằm mộng thấy mười mấy con nhặng xanh bám vào chót mũi, đuổi không đi, chẳng biết là điềm gì?” Quản Lộ nói: “Xin cho phép tôi nói thẳng. Xưa kia, Châu Công phù tá Thành Vương, thường dậy sớm ngồi chờ rạng sáng để vào chầu, tận tụy với chức vụ khiến cho quốc vận hưng thịnh, chư hầu các nước đều ủng hộ. Đấy hoàn toàn là kết quả đúng theo lẽ trời, chứ không phải bói toán có thể đoán được. Hiện thời, Ngài quyền cao, oai thế lẫm liệt, nhưng ít ai mến mộ đức hạnh của Ngài, người khiếp sợ oai thế của Ngài thì đông! Đấy chẳng phải là điều tốt lành! Sách tướng nói mũi nằm ở vị trí trung thiên, nhặng xanh bám lên là điềm nguy ngập. Tôi mong Ngài hãy trên là noi theo Văn Vương, dưới bắt chước Khổng Tử thì sẽ có hy vọng làm đến Tam Công, đuổi được lũ nhặng xanh”. Thượng Thư Đặng Dương ngồi cạnh, nghe lời ấy, bĩu môi: “Thử lão sanh chi thường đàm!” (Lời ấy nghe nhàm cả tai, có gì lạ đâu?)

[3] Hộ Pháp Bồ Tát (Dharmapāla, 530-561), còn gọi là Hộ Pháp Luận Sư là một vị luận sư chủ chốt của Du Già Hạnh Duy Thức Tông (Yogacara) tại Trung Ấn Độ vào thế kỷ thứ sáu, sống cùng thời với luận sư Thanh Biện (Bhavyaviveka) là một luận sư lỗi lạc về Trung Quán. Ngài Hộ Pháp là học trò của ngài Trần Na (Dignāga), một vị đại sư về Nhân Minh Học. Ngài Hộ Pháp sanh tại Kiện Chí Phụ La (Kanchipura, nay thuộc vùng Tamil Nadu), là con của một vị đại thần, được vua gả công chúa cho, nhưng Ngài đã bỏ trốn trong đêm trước ngày cử hành hôn lễ, xuất gia. Ngài nghiên cứu các học phái Tiểu Thừa và Đại Thừa, theo học tại học viện Nalanda, trở thành một bậc luận sư lỗi lạc. Về sau, Ngài kế tục ngài Trần Na, trở thành viện trưởng học viện Nalanda và nhập tịch dưới cội Bồ Đề. Ngài có những bộ luận nổi tiếng như Quảng Bách Luận Thích, Thành Duy Thức Bảo Sanh Luận, Quán Sở Duyên Duyên Thích v.v... Giống như Tăng Triệu của Phật Giáo Trung Quốc, ngài Hộ Pháp tài hoa lỗi lạc nhưng mất rất sớm, khi chưa đầy ba mươi hai tuổi.

[4] Âu Dương Cánh Vô (1871-1943) tên thật là Âu Dương Tiệm, tự là Cánh Vô, còn có tên tự là Kính Hồ, là người huyện Nghi Hoàng, tỉnh Giang Tây. Ông là học trò của tiên sinh Dương Nhân Sơn. Do nghe thầy giảng Hoa Nghiêm Pháp Tướng bèn quy hướng Phật giáo. Năm 36 tuổi khi mẹ mất, ông đoạn tuyệt sắc dục, ăn chay trường, tuy không xuất gia, nhưng sống hạnh xuất gia. Ông được coi là bậc thầy về Quốc Học, và là một chuyên gia về Duy Thức đầu thời Dân Quốc, sáng lập Chi Na Nội Học Viện, Pháp Tướng Đại Học, nhưng do chiến cuộc, các học viện này không thể duy trì lâu dài. Sau khi Trung Hoa kháng Nhật thành công, ông tái lập Chi Na Nội Học Viện tại Giang Tân, tỉnh Tứ Xuyên, rồi mất vì bệnh phổi tại đó vào năm 1943. Môn nhân biên tập các di cảo thành bộ Cánh Vô Nội Ngoại Học. Tác phẩm này bị thất lạc do tình thế rối ren tại Hoa Lục sau khi Mao Trạch Đông nắm quyền, chỉ còn một phần được nhà xuất bản Văn Phong tại Đài Loan ấn hành với tựa đề Âu Dương Đại Sư Di Tập, trong đó bao gồm những bài luận định nổi tiếng của ông như Duy Thức Quyết Trạch Đàm, Đối Không Hữu Chư Tông Điển Tịch Chi Tự Luận, Du Già Sư Địa Luận Tự, Chi Na Nội Học Viện Huấn Thích v.v...

[5] “Đồng loại” là những kinh giảng về cùng một pháp môn.

[6] Ngũ Hồ Loạn Hoa là thời kỳ loạn lạc liên miên từ năm 296 đến 419. Thời kỳ này bắt đầu từ khi tám vị vương gia nhà Đông Tấn nổi loạn tranh chấp quyền lực với Tấn Huệ Đế (295-306) khiến thủ lãnh các dân tộc ở ngoài biên ải thừa cơ xâm nhập Trung Nguyên, chiếm cứ từng vùng, tự xưng vương, lập ra các vương quốc. Sử Trung Hoa thường gọi giai đoạn này là Ngũ Hồ Thập Lục Quốc. Ngũ Hồ là năm dân tộc du mục sống ngoài quan ải, tức là Hung Nô, Tiên Ty, Yết, Khương, Đê. Tuy nói là Ngũ Hồ, nhưng còn có sắc dân khác như Cao Câu Ly, Đinh Linh v.v... cũng lập vương quốc, nhưng Sử chỉ nói đến Ngũ Hồ vì đa số các vương triều trong thời kỳ này do các sắc dân kể trên thành lập. Thập Lục Quốc chỉ là mười sáu nước chính, ngoài ra còn có nhiều vương triều nhỏ hơn. Thập Lục Quốc là: Hán (do Lưu Uyên, dân tộc Hung Nô, thành lập), Thành Hán (do Lý Hùng, dân tộc Hung Nô, sáng lập), Tiền Lương (do Trương Thật, người Hán, sáng lập), Hậu Triệu (do Thạch Lặc, dân tộc Yết, sáng lập), Tiền Yên (do Mộ Dung Hoảng, dân tộc Tiên Ty, sáng lập), Tiền Tần (do Phù Kiên, dân tộc Đê, sáng lập), Hậu Yên (do Mộ Dung Thùy, dân tộc Tiên Ty, sáng lập), Hậu Tần (do Diêu Trành, dân tộc Khương, sáng lập), Tây Tần (do Khất Phục Quốc Nhân, dân tộc Tiên Ty, sáng lập), Hậu Lương (do Lữ Quang, dân tộc Đê, sáng lập), Nam Lương (do Thốc Phát Ô Cô, dân tộc Tiên Ty, sáng lập), Nam Yên (do Mộ Dung Đức, dân tộc Tiên Ty, sáng lập), Tây Lương (do Lý Cảo, dân tộc Hán, sáng lập), Bắc Lương (do Đoàn Nghiệp, dân tộc Hung Nô, sáng lập), Hồ Hạ (do Hách Liên Bột Bột, dân tộc Hung Nô, sáng lập), Bắc Yên (do Mộ Dung Vân, người Cao Câu Ly, sáng lập). Ngoài ra, trong thời này còn có những vương triều nhỏ hơn, không tạo ảnh hưởng mạnh mẽ cho lịch sử Trung Hoa bằng những nước vừa kể trên như: Cừu Trì, Đãng Xương, Đặng Chí, Nhiễm Ngụy, Tiếu Thục (Tây Thục), Hoàn Sở, Địch Ngụy (do Địch Liêu, sắc dân Đinh Linh thành lập), Đại, Tây Yên, Vũ Văn Bộ, Đoàn Bộ, Thổ Cốc Hồn, Cao Cú Ly (do Cố Quốc Nguyên Vương, người Cao Cú Ly, sáng lập) v.v...

[7] Đây là hai trong ba tánh của Duy Thức (Biến Kế Sở Chấp Tánh, Y Tha Khởi Tánh và Viên Thành Thật Tánh).

Y Tha Khởi Tánh: Tánh của các pháp do nương vào các nhân duyên đối đãi mà sanh khởi, như hư, như huyễn, chẳng cố định, chẳng vĩnh viễn tồn tại. Nói cách khác, các pháp đều nương vào những yếu tố khác (thường gọi là nhân duyên) mà tồn tại, chứ không có thực thể. Chẳng hạn, sợi dây thừng là do các sợi gai kết thành, mỗi sợi gai lại do các phân tử gai cấu tạo thành v.v...

Biến Kế Sở Chấp Tánh: Đối với những sự vật không có thực chất, lại khởi phân biệt, chấp trước, gán cho chúng những danh tự, so đo, tính toán, yêu ghét. Chẳng hạn, cùng do các sợi dây gai bện thành, nhưng cái thì gán cho tên gọi là dây thừng, cái thì gán cho tên gọi là bao bố v.v... Hoặc trong bóng tối ngỡ sợi dây thừng là con rắn rồi kinh hoảng, sợ sệt.

[8] Theo quan điểm vật lý hiện thời, những hạt cơ bản trong những thế kỷ trước như chất tử (proton), trung tử (neutron), điện tử (electron), quang tử (photon) và giới tử (meson) đều có thể chia thành những hạt nhỏ hơn như khinh tử (lepton), đào tử (tau lepton), khoa khắc (quark), giao tử (gluon), ba sắc tử (boson), phản lạp tử (antiparticles) v.v...

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top