A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa - Phần 7
A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
阿彌陀經疏鈔演義
Phần 7
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Huệ Trang và Đức Phong
Tập 13
Xin coi A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang thứ mười bốn:
(Sớ) Kim vân tự tánh, thả chỉ Phật tánh nhi ngôn dã. Tánh nhi viết Tự, pháp nhĩ như nhiên, phi tác đắc cố, thị ngã tự kỷ, phi thuộc Tha cố. Thử chi tự tánh, cái hữu đa danh, diệc danh Bổn Tâm, diệc danh Bổn Giác, diệc danh Chân Tri, diệc danh Chân Thức, diệc danh Chân Như, chủng chủng vô tận. Thống nhi ngôn chi, tức đương nhân linh tri linh giác bổn cụ chi nhất tâm dã. Kim minh bất khả tư nghị giả, duy thử tâm nhĩ, cánh vô dư vật hữu thử bất tư nghị thể dữ tâm đồng dã.
(Diễn) Thả chỉ Phật tánh nhi ngôn giả.
(疏) 今云自性,且指佛性而言也。性而曰自,法爾如然,非作得故;是我自己,非屬他故。此之自性,蓋有多名,亦名本心,亦名本覺,亦名真知,亦名真識,亦名真如,種種無盡,統而言之,即當人靈知靈覺本具之一心也。今明不可思議者,惟此心耳,更無餘物有此不思議體與心同也。
(演) 且指佛性而言者。
(Sớ: Nay nói tới tự tánh là nói về Phật tánh mà thôi! Tánh được gọi là Tự, do pháp vốn sẵn như vậy, chẳng phải do làm mà có, nó là chính mình, nên chẳng thuộc gì khác. Do vậy, tự tánh này có nhiều danh, còn gọi là Bổn Tâm, còn gọi là Bổn Giác, còn gọi là Chân Tri, còn gọi là Chân Thức, còn gọi là Chân Như, vô tận các thứ tên gọi. Nói tóm lại, nó chính là nhất tâm trọn đủ linh tri linh giác của con người. Nay giảng về ý nghĩa “chẳng thể nghĩ bàn” thì chỉ có cái tâm này, chứ không còn vật nào khác mà có cái Thể (bản thể) chẳng thể nghĩ bàn giống như tâm được!
Diễn: “Nói về Phật Tánh” là... )
Nghĩa lý của đoạn này quả thật chẳng cùng tận, những điều này đều do “bất khả tư nghị” trong phần trên mà có, nhất là đại sư đã bảo “bất khả tư nghị” là tên gọi tột bậc của lý tột cùng, đều là dựa trên bản kinh này và tựa đề kinh này để nói. Kinh này vốn có tên làXưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh.
(Diễn) Tự tánh thật thông nhị chủng.
(演) 自性實通二種。
(Diễn: Thật ra, Tự tánh gồm cả hai thứ).
Phật Tánh và Pháp Tánh đều là tự tánh.
(Diễn) Nhược nhân dục thức Chân Không lý, tâm nội Chân Như hoàn biến ngoại, tình dữ vô tình đồng nhất thể, xứ xứ giai đồng Chân pháp giới.
(演) 若人欲識真空理,心內真如還遍外,情與無情同一體,處處皆同真法界。
(Diễn: Nếu ai muốn biết lý Chân Không, Chân Như trong tâm trọn khắp bên ngoài, hữu tình và vô tình có cùng một Thể, chỗ nào cũng đều là Nhất Chân Pháp Giới).
Hãy nên học thuộc bốn câu này, toàn bộ Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh chỉ nói về chuyện này. Tâm Kinh cũng nói về chuyện này. Thông suốt chân nghĩa của bốn câu này thì cảnh giới của quý vị sẽ khác hẳn, sẽ chuyển được cảnh giới. Chuyển cảnh giới gọi là tiêu nghiệp chướng. Nếu từng tiếng Phật hiệu của chúng ta đều chuyển được cảnh giới, đấy là tiêu nghiệp chướng. Nếu Phật hiệu chẳng chuyển được cảnh giới, sẽ chẳng thể tiêu nghiệp chướng. Vì sao có người tiêu được, có người chẳng tiêu? Vấn đề là ở chỗ quý vị có hiểu hay là không, tức là có hiểu được diệu lý trong ấy hay không? Nếu quý vị hiểu được diệu lý trong ấy, mỗi câu đều có thể tiêu nghiệp chướng, chẳng giả tí nào. Đấy thật sự là công đức vô lượng!
(Diễn) Kim vân nhĩ giả, đản dĩ thử kinh trọng nhất tâm niệm Phật cầu nguyện vãng sanh.
(演) 今云爾者,但以此經重一心念佛求願往生。
(Diễn: Nay nói như thế, chỉ vì kinh này chú trọng nhất tâm niệm Phật, cầu nguyện vãng sanh).
Câu này hết sức quan trọng. Kinh Di Đà và pháp môn này đặc biệt chú trọng “nhất tâm niệm Phật”. Bốn chữ này quyết định chẳng để coi thường! Chúng ta bình thường ngày ngày niệm Phật, vì sao Phật hiệu chẳng thể chuyển cảnh giới, chẳng thể tiêu nghiệp chướng? Vì không dùng nhất tâm! Do vậy, Phật hiệu chẳng đắc lực! Nếu quý vị nhất tâm niệm, đương nhiên Phật hiệu sẽ đắc lực. Nói một cách đơn giản nhất, nói “nhất tâm” chính là trong một câu Phật hiệu không có phân biệt, không có chấp trước, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đó gọi là “nhất tâm niệm”. Một mặt niệm Phật, một mặt suy nghĩ loạn xạ, chẳng những không thể tiêu nghiệp chướng mà niệm niệm đều tạo nghiệp. Niệm Phật mà vẫn khởi vọng tưởng, vẫn suy nghĩ loạn xạ, tức là tạo nghiệp to lớn. Do vậy, phải biết: Nhất tâm niệm Phật. Niệm Phật để làm gì? “Cầu nguyện vãng sanh”, chẳng có ý niệm thứ hai, một lòng, một dạ mong cầu Tây Phương Cực Lạc thế giới. Do vậy, nhất định phải biết thế giới này khổ sở, thế giới này đáng sợ!
Tham luyến thế giới này là ngu si! Vì sao? Tận hư không, trọn pháp giới đều do chính mình tạo. Ví như quý vị xây một cao ốc, toàn bộ cao ốc đó là của quý vị, quý vị lại chỉ khư khư yêu mến một căn phòng nhỏ, cho căn phòng nhỏ đó là chính mình, còn những nơi khác đều chẳng cần đến. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Hãy nên quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo). Tây Phương Cực Lạc thế giới do cái tâm của chính mình biến hiện, thế giới Sa Bà cũng do tự tâm biến hiện, thế giới Hoa Tạng vẫn do tự tâm biến hiện. Tận hư không, trọn pháp giới chỉ là chính mình. Cái thân thể được biến hiện này có chỗ thanh tịnh, có chỗ ô uế. Chỗ thanh tịnh kẻ ấy không cần đến, lại rất yêu mến chỗ ô uế. Kẻ như vậy chẳng phải là ngu si ư? Chỉ cần có thiên lệch thì là bệnh rồi!
Thiên ái (yêu thích đặc biệt) là Biên Kiến trong Kiến Hoặc, chấp
trước một bên. Chuyện này chẳng phải là phiền phức ư? Quý vị chưa thể phá trừ thứ Biên Kiến này. Nói cách khác, thứ Kiến Hoặc thấp nhất mà chưa thể đoạn được, còn nói gì nữa đây? Đoạn xong Kiến Hoặc, nếu chẳng cầu sanh về Tây Phương Tịnh Độ, sẽ chẳng thể vượt thoát sanh tử luân hồi, vẫn phải luân hồi trong lục đạo. Luân hồi trong lục đạo thì khi quý vị sanh sang đời khác, công phu chưa phải là bất thoái chuyển, Bồ Tát còn mê khi cách ấm, huống chi quý vị mới có tí xíu công phu lông gà vỏ tỏi như vậy, thấm vào đâu? Hễ đầu thai, sẽ quên sạch sành sanh đời trước, còn có thể tiếp tục nỗ lực nữa hay không? Điều này tùy thuộc duyên phận của quý vị, không nhất định là có thể [tiếp tục tu tập]! Do vậy, phải hiểu thế giới Sa Bà là đường hiểm, tức là con đường hết sức nguy hiểm, ở trong đó, quý vị thật sự gặp được thiện hữu, thiện tri thức, có thể tự giác ngộ, dụng công tu hành trong ấy sẽ rất nhanh chóng, thành tựu cũng cao. Nếu quý vị không gặp được [thiện hữu, thiện tri thức], chẳng thể y giáo phụng hành, lại trở thành hằng ngày khởi vọng tưởng, càng mê càng sâu, càng đọa càng khổ! Nhất định phải giác ngộ điều này.
Hai câu gồm tám chữ sau đây là cốt lõi để tu học kinh Di Đà: “Nhất tâm niệm Phật, cầu nguyện vãng sanh”. Thích Ca Mâu Ni Phật nói kinh Di Đà là vì lẽ này, sáu phương chư Phật tán thán cũng nhằm tán thán điều này. Nếu chúng ta không hiểu hai câu “nhất tâm niệm Phật, cầu nguyện vãng sanh”, hàm hồ đọc lướt qua, mười phương chư Phật tán thán, Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết kinh cho chúng ta uổng công! Tuy có nói với quý vị, nhưng quý vị chẳng đạt được. Quý vị nắm được hai câu này là nắm được toàn bộ bản kinh.
(Diễn) Nãi tá bỉ Phật cảnh, hiển ngã tự tâm cố.
(演) 乃借彼佛境顯我自心故。
(Diễn: Bèn mượn cảnh Phật ấy để hiển lộ tự tâm của ta).
Vì sao nhất định phải niệm Phật? Nhờ vào cảnh giới của A Di Đà Phật để hiển lộ chân tâm của chính mình. Chân tâm của chúng ta hiện còn đang mê, A Di Đà Phật giống như chuông buổi sớm, từng tiếng chuông khua vỡ ải mê, đánh thức chân tâm của chúng ta. Chuyện là như vậy đó! Do vậy, sáu chữ hồng danh chẳng thể nghĩ bàn! Trong phần trước, Liên Trì đại sư đã giảng rồi. Nhất định phải hiểu rõ ý nghĩa của sáu chữ hồng danh là “quy y Vô Lượng Giác”. Khi quý vị niệm, cũng phải nhớ rõ. Mỗi tiếng đều nhắc nhở chính mình quy y Vô Lượng Giác, [hiện thời] sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần là mê chứ không giác. Tâm mê là nhiễm đắm. Tâm giác là thanh tịnh. Trong tâm mê có nhiều ý niệm, đấy là phiền não, phân biệt, chấp trước, vọng tưởng vô lượng, vô biên. Tâm ấy là tâm mê, trong tâm giác không có những thứ đó. Lục Tổ nói “vốn chẳng có một vật”.
Khi nào sẽ giác ngộ? Tâm thanh tịnh, chẳng có một vọng niệm nào. Cảnh giới bên ngoài thứ gì cũng hiểu rõ, chẳng những hiểu rõ cảnh giới ở ngay trước mắt, mà quá khứ cũng hiểu rõ, tương lai cũng hiểu rõ, đấy là thần thông hiện tiền. Không có gì chẳng hiểu rõ, vừa thấy liền hiểu rõ. Quá khứ, vị lai, hiện tại, ba đời, mười phương rõ rệt, rành rẽ, minh bạch, một niệm chẳng sanh, đấy là tướng giác ngộ. Chúng ta hãy tự mình phản tỉnh coi chúng ta có giác ngộ hay không? Vẫn còn có vọng niệm! Có vọng niệm là chẳng giác. Chẳng giác thì dùng phương pháp niệm Phật để đánh thức chính mình hãy giác ngộ. Do vậy, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, niệm Phật là bậc nhất, là phương pháp trực tiếp thỏa đáng nhất để đánh thức giác tâm của quý vị. Đây là giảng rõ vì sao phải dùng phương pháp này; do vậy, tự tánh được nói đến ở đây chính là....
(Diễn) Thả chỉ hữu tình Phật Tánh.
(演) 且指有情佛性。
(Diễn: Nhằm chỉ Phật Tánh của hữu tình).
Nhằm ý nghĩa này. Tiếp theo, sách Diễn Nghĩa giải thích câu “Tánh nhi viết Tự, pháp nhĩ như nhiên, phi tác đắc cố”.
(Diễn) Tánh nhi viết Tự, Tự hữu nhị nghĩa: Nhất, tự nhiên chi tự; nhị, tự kỷ chi tự.
(演) 性而曰自,自有二義:一、自然之自,二、自己之自。
(Diễn: “Tánh nói là Tự” thì chữ Tự có hai nghĩa: Một, tự là tự nhiên; hai, tự là tự kỷ (chính mình).
“Tự” được giảng theo cách nào? “Tự” có hai ý nghĩa: Một ý nghĩa là tự nhiên, tự nhiên là chẳng phải do tạo tác. Một ý nghĩa khác là “tự kỷ” (chính mình), [tức là] chẳng phải do ai khác. Tự tánh có cả hai ý nghĩa này, hai ý nghĩa này đều viên mãn.
(Diễn) Pháp nhĩ như nhiên phi tác đắc giả.
(演) 法爾如然非作得者。
(Diễn: “Pháp vốn là như vậy, chẳng phải do làm mà có” là...)
“Pháp nhĩ tự nhiên” có nghĩa là tự nhiên, “phi tác đắc giả” là chẳng do tạo tác.
(Diễn) Diệu tánh thiên nhiên, bất nhân tu đắc, mê thời vô thất, ngộ thời vô đắc, hữu vật hồn thành, bổn tự như như cố. Thử tự nhiên chi tự dã.
(演) 妙性天然,不因修得,迷時無失,悟時無得,有物渾成,本自如如故。此自然之自也。
(Diễn: Diệu tánh tự nhiên có sẵn, chẳng do tu mà đạt được. Lúc mê chẳng mất, khi ngộ chẳng được, tự nhiên sanh thành, vốn tự như như. Đấy chính là chữ Tự hiểu theo nghĩa tự nhiên).
Mấy câu này phải nói, vì nếu không nói, sợ [người nghe] sẽ không thấy được ý nghĩa. “Tánh” là thật, quyết định chẳng phải là hư vọng. Nó là chính mình, là bản thể của vạn hữu trong vũ trụ. Dùng danh từ nhà Phật để nói thì hết thảy các pháp, y báo, chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều do nó biến hiện. Núi sông và đại địa do thứ gì tạo ra? Là do nó tạo. Nó thật sự là Tạo Vật Chủ (Tạo Hóa, hóa công). Nói Thượng Đế là tạo vật chủ là giả, vì Thượng Đế cũng do nó tạo. Ai tạo nên Thượng Đế? Tự tánh tạo ra Thượng Đế. Do vậy, Thượng Đế trọn chẳng phải là Tạo Vật Chủ thật sự. Tạo Vật Chủ thật sự là “tự tánh”. Do vậy, nó được gọi là “diệu”. Diệu là vì nó có thể tạo, nó không có tướng, nhưng có thể hiện hết thảy tướng, đó là diệu! Trong kinh Đại Thừa nói “duy tâm sở hiện”. Tánh còn gọi là Tâm, còn gọi là Thức, đều là cùng một chuyện. Chúng ta thường nói tới bổn tánh, đó là nói đến tánh này theo mặt Thể; nếu nói Tâm hay Thức là nói theo mặt tác dụng. Thể và Dụng là một, chẳng phải hai. Tánh có thể hiện, Thức có thể biến. Duy tâm sở hiện, hiện tướng; trong Tướng có những sự biến hóa và Thức cũng biến ở nơi đó. Quý vị phải hiểu: Trong Tướng là một vị bình đẳng. Ngẫu Ích đại sư nói rất hay: “Cảnh vô hảo xú” (cảnh không tốt xấu), Cảnh là cảnh giới, là tướng bên ngoài. Ngũ Căn: Mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, Lục Trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đấy là Tướng, là Sắc Pháp. Trong Sắc Pháp chẳng có tốt hay xấu, hoàn toàn là bình đẳng, thật sự bình đẳng. Tốt - xấu không có tiêu chuẩn, mỗi người có tiêu chuẩn riêng. Tiêu chuẩn do đâu mà có? Tiêu chuẩn từ cái Thức của quý vị biến ra, từ trong Thức sanh ra. Tâm chẳng sanh, trong tâm chẳng có một pháp nào, chẳng lập một pháp! Trong Thức kiến lập các thứ tiêu chuẩn, mỗi người kiến lập tiêu chuẩn khác nhau. Nói cách khác, quan niệm thẩm mỹ và đối tượng ưa thích của mỗi người không giống nhau. Mỗi người là một tiêu chuẩn, hóa ra, chẳng có tiêu chuẩn gì hết!
Do vậy, đại sư nói: “Kẻ ngu trừ cảnh, chẳng trừ tâm. Người trí trừ tâm, chẳng trừ cảnh”. Người giác ngộ bỏ điều gì? Trừ khử thức tâm, cái thức tâm ấy có thể biến, người ấy bỏ đi cái tâm đó, chứ không trừ khử cảnh giới bên ngoài. Do vậy, người ấy đạt được gì? Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, thật sự tự tại. Kẻ ngu nhất định phải tìm hoàn cảnh tốt đẹp, hoàn cảnh lý tưởng, cầu pháp ngoài tâm; chẳng thay đổi tâm lý của mình thì dẫu tìm được Tây Phương Cực Lạc thế giới vẫn khổ não! Vì sao? Vẫn [cảm thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới] chẳng phải là nơi lý tưởng trọn vẹn! Tìm hoàn cảnh lý tưởng ở nơi đâu? Tìm ngay trong tâm địa, nếu tìm nơi cảnh giới bên ngoài sẽ chẳng tìm được! Tìm hoàn cảnh lý tưởng nơi cảnh giới bên ngoài là tìm sầu thảm. Từ vô lượng kiếp đến nay, quý vị luôn tìm kiếm, tìm cho đến bây giờ vẫn tìm không ra. Sau này lại tìm trong vô lượng kiếp, vẫn tìm chẳng được, vĩnh viễn chẳng thể tìm được! Phải hiểu điều này. Do vậy, người thông minh, tâm đã bình đẳng, cảnh sẽ bình đẳng. Tâm lành, cảnh giới đều lành. Tâm ác, nhìn thấy cảnh giới bên ngoài đều là ác. Tâm thiện, nhìn cảnh giới bên ngoài đều thiện. Do vậy, đức Phật thấy hết thảy chúng sanh đều là Phật, Bồ Tát thấy hết thảy chúng sanh đều là Bồ Tát, phàm phu thấy Phật, Bồ Tát cũng là phàm phu.
“Diệu tánh thiên nhiên, bất nhân tu đắc” (Diệu tánh thiên nhiên, chẳng do tu mà có): Tánh ấy là diệu hay chẳng diệu? Quá diệu! Nó có thể biến hiện hết thảy hiện tượng, nhưng sự biến hiện ấy là tự nhiên, chẳng do tu mà có được. “Thiên nhiên” là nói tới diệu tánh, tánh là sẵn có, danh từ Phật học gọi điều này là “pháp nhĩ như thị” (pháp vốn sẵn là như vậy). Ở đây nói là “pháp nhĩ như nhiên”. “Nhiên” có nghĩa là “thị” (đúng vậy). Pháp vốn sẵn là như vậy, pháp vốn sẵn đúng như vậy, từ ngữ này thường thấy trong kinh Phật.“Pháp nhĩ như nhiên”, đã vốn có nghĩa là tự nhiên, vì sao chẳng viết là tự nhiên? Nếu viết là thiên nhiên, chúng ta vừa đọc sẽ hiểu ngay ý nghĩa của chữ “pháp nhĩ” này; nếu không, chúng ta sẽ bị mê hoặc. Cổ đại đức dịch kinh chẳng dễ dàng, vì chúng ta quen thói nói “tự nhiên”. Đối lập với tự nhiên là nhân duyên; nói chung, [nói “tự nhiên”] sẽ rớt vào hai bên. Vì làm cho chúng ta khỏi rớt vào hai bên nên mới lập ra danh xưng “pháp nhĩ như nhiên”, mong chúng ta nghe rồi sẽ chẳng rớt vào hai bên, ở đây có ý nghĩa sâu xa như vậy.
Kinh Lăng Nghiêm nói rất hay: “Phi nhân duyên, phi tự nhiên, pháp nhĩ như thị” (Chẳng phải là nhân duyên, chẳng phải tự nhiên, pháp vốn sẵn như vậy). Chẳng rớt vào hai bên, bất đắc dĩ gọi là “diệu tánh”. Nó chẳng phải do tu mà có được, nó là sẵn có. Hiện thời quý vị có [diệu tánh ấy] hay không? Có chứ! Hoàn toàn hiển lộ ngay trước mặt. Tuy hiển lộ, chính quý vị chẳng nhận biết, vậy thì làm sao được nữa đây! Chư Phật, Bồ Tát thấy rất rõ ràng. Do vậy, Phật thấy quý vị là Phật, Phật và kẻ khác chẳng hai; Bồ Tát thấy quý vị là Bồ Tát, quý vị và các Ngài chẳng có chỗ nào khác biệt, nhưng do quý vị tự mình mê nên không có cách nào hết! Tự mình mê là như thế nào? Quý vị tự khởi tâm động niệm, chính quý vị suốt ngày từ sáng đến tối suy nghĩ loạn xạ, đó là tự mình mê. Vì sao Phật, Bồ Tát chẳng mê? Phật, Bồ Tát chẳng có ý niệm nào. Thích Ca Mâu Ni Phật hằng ngày thuyết pháp, nói suốt bốn mươi chín năm mà chẳng nói một chữ nào, quý vị có tin hay không? Chẳng tin! Vì sao không tin? Do quý vị đang mê, mê rồi nên chẳng tin. Nếu quý vị giác ngộ, quý vị sẽ tin tưởng: Quả thật trong suốt bốn mươi chín năm, đức Phật chẳng nói một chữ, thật đấy! Khi nào thấy được chân tướng sự thật ấy, quý vị sẽ giác ngộ.
“Mê thời vô thất, ngộ thời vô đắc” (lúc mê chẳng mất, khi ngộ chẳng được). Nay chúng ta đang mê, diệu tánh thiên nhiên có bị mất hay không? Chẳng hề mất đi, suốt ngày từ sáng đến tối khởi tác dụng, khởi tác dụng mê hoặc điên đảo. Hễ giác ngộ, sẽ khởi tác dụng Bồ Đề Niết Bàn. Khi mê, hằng ngày khởi tác dụng sanh tử phiền não. Thật ra, “sanh tử, phiền não” và “Bồ Đề, Niết Bàn” là một, chứ không phải hai, đều là cùng một chuyện, đều là diệu tánh khởi tác dụng. Hễ ngộ thì gọi tên nó là Bồ Đề Niết Bàn, còn mê thì gọi là sanh tử phiền não. Chỉ thay đổi tên gọi, chứ vẫn có tác dụng đó. Thế nhưng mê hay ngộ sẽ cảm nhận khác biệt rất lớn. Hễ ngộ sẽ cảm nhận tự tại khôn sánh. Mê thì cảm thấy vô biên thống khổ, biển khổ không bờ mà! Khác nhau! Đã là lúc mê chẳng mất, đương nhiên khi giác ngộ cũng không được gì. Tâm Kinh đến cuối cùng, dạy: “Vô trí, diệc vô đắc” (Không có trí, mà cũng chẳng có đắc). “Trí” là cái trí có khả năng chứng, “đắc” là cái quả đạt được. Không có trí, cũng không có đắc, vì sao vậy? Bổn tánh. Đã là thiên nhiên thì không có được hay mất. Trong ấy chỉ có mê hay ngộ, chứ không có được hay mất. Mê là nó, mà ngộ cũng là nó. Nếu quý vị tham thấu chỗ này, mới hiểu mê và ngộ không hai, quý vị thật sự nhập cảnh giới ấy. Nếu quý vị nhận định mê và ngộ là hai pháp, có mê, có ngộ, lại tạo thành Biên Kiến. Đấy là chỗ khó khăn trong Phật pháp, rất khó ngộ nhập chỗ này. Nói chung, quý vị chẳng đọa vào Có, sẽ đọa vào Không. Nói chung, quý vị đọa vào một bên. Khi nào có thể dứt sạch hai bên thì nhà Thiền gọi là “tọa đoạn lưỡng đầu”. Nhà Thiền nói đến chuyện tọa Thiền, công phu tọa Thiền đắc lực, đoạn được cả hai đầu (tức kiến giải nhị biên), sẽ nhập. Đoạn dứt cả hai bên, nhập pháp môn Bất Nhị thì mới có chỗ nhập (nhập xứ). Cái gọi là “nhập xứ” ấy chính là ngộ xứ, Thiền gia bảo là “đại triệt đại ngộ”, minh tâm kiến tánh. Nếu rớt vào hai bên thì chẳng được! Quý vị chẳng vào được cửa!
“Hữu vật hồn thành[1], bổn tự như như”: Đây là hai câu nói của cổ nhân. “Hữu vật” là có thứ gì đó. Thứ gì cũng chẳng thể nói ra được, là vì nó chẳng có tên, chẳng có hình, chẳng có tướng, làm sao quý vị nói ra được? Nó quả thật là có, nhưng vật ấy là thiên nhiên diệu tánh, “bổn tự như như”, nó vốn sẵn như thế, ý nghĩa của nó là tự nhiên, pháp vốn sẵn như vậy. Ý nghĩa thứ hai là....
(Diễn) Thị ngã tự kỷ, phi thuộc Tha giả.
(演) 是我自己非屬他者。
(Diễn: “Là chính ta chẳng thuộc ai khác” là...)
Điều này cũng hết sức trọng yếu. Tự tánh gồm đủ hai ý nghĩa này, chẳng phải là chỉ có một ý nghĩa. Đối với hai ý nghĩa, quý vị lại cho rằng nó có hai bên thì lại hỏng mất rồi! Hai ý nghĩa này đều là tự tánh. Bản thân tự tánh trọn đủ hai ý nghĩa này, một tức là hai, hai tức là một. Nói đến ý nghĩa này nhằm để đối phó với những người có khái niệm sai lầm mà nói vậy.
(Diễn) Dĩ ngoại đạo, hoặc kế tự nhiên, hoặc kế nhân duyên, hoặc kế hư không, hoặc kế thiên dữ, bất nhất nhi túc.
(演) 以外道,或計自然,或計因緣,或計虛空,或計天與,不一而足。
(Diễn: Do ngoại đạo hoặc phán định là tự nhiên, hoặc phán định là nhân duyên, hoặc phán định là hư không, hoặc phán định là trời ban, chẳng thể kể trọn từng điều được).
“Kế” (計) là “kế độ phân biệt” (tính toán, phân biệt). Kế độ phân biệt là thuật ngữ Phật học thường được sử dụng. “Kế” là kế giảo (tính toán, so sánh), nay chúng ta thường nói tới “kế toán”; [kế] là trong tâm tính toán, so sánh. “Độ” (度) là độ lượng (đo lường), phân biệt hết thảy pháp. [Như vậy, “kế độ” là] tính toán, so sánh trong ấy, đo lường trong ấy, suy nghĩ loạn xạ trong ấy: Hết thảy pháp có phải tự nhiên mà có hay chăng? Hay là do nhân duyên sanh ra ư? Phật pháp nói tới nhân duyên, vì sao đức Phật nói nhân duyên? Phải biết: Đức Phật nói nhân duyên là một phương tiện thiện xảo, nhằm đối trị quan niệm “tự nhiên” (phủ định nhân quả). Thuở ấy, tại Ấn Độ, quá nửa bọn ngoại đạo chủ trương [mọi sự] tự nhiên mà có, hết thảy vạn pháp đều tự nhiên sanh thành. Phật nói “nhân duyên sanh pháp” (các pháp do nhân duyên sanh), nói như vậy để phá chấp trước “tự nhiên” của bọn họ. Quý vị phải hiểu đạo lý này: Họ có một thứ chấp trước “tự nhiên” nên đức Phật dùng nhân duyên để phá chấp trước cho họ. Phá chấp trước xong, công cụ ấy cũng không cần thiết nữa. Nhân duyên sanh pháp là công cụ để phá [chấp trước] “tự nhiên”. Sau khi chấp trước tự nhiên đã phá sạch rồi, quý vị lại chấp vào nhân duyên sanh pháp, sẽ lại biến thành ngoại đạo, đó gọi là “môn lý ngoại”, tức là ngoại đạo ở ngay trong Phật môn. Chấp trước “vạn pháp tự nhiên mà có” thì là hàng ngoại đạo tại Ấn Độ. Chúng ta đã phá trừ nó, có người lại chấp vào “nhân duyên sanh pháp”, lại biến thành ngoại đạo trong Phật môn vì cầu pháp ở ngoài tâm. Trong Trung Quán Luận, Long Thọ Bồ Tát đã cực lực cứu vãn, nói “bát bất” (tám thứ không) với hy vọng uốn nắn cho đúng chánh kiến của chúng ta. Ngài đã giảng rõ đạo lý nhân duyên hết sức tường tận, thấu triệt: “Chư pháp bất tự sanh, diệc bất tùng tha sanh, bất cộng, bất vô nhân, thị cố thuyết vô sanh” (Các pháp chẳng tự sanh, cũng chẳng do những thứ khác mà sanh, chẳng chung, chẳng không có nhân, vì thế nói vô sanh). Bài kệ này đã nêu ra tướng chân thật của hết thảy các pháp, đấy cũng là “phi nhân duyên, phi tự nhiên” như kinh Lăng Nghiêm đã giảng.
Đức Phật nói hết thảy pháp, câu nào cũng đều chớ nên chấp trước. Do vậy, Mã Minh Bồ Tát dạy quý vị “lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, lìa tướng tâm duyên”, nghe như vậy mới có thụ dụng, mới có ngộ xứ. Nghe xong mới có thể giải ngộ. Nếu từ giải ngộ mà lập tức chuyển được cảnh giới, đấy là chứng ngộ. Nếu nói là trong các buổi giảng, chỉ nghe kinh, chứ không bảo quý vị tu hành, thì đấy là lầm lẫn quá đỗi! Quý vị đọc kinh Lăng Nghiêm, thấy cô Ma Đăng Già là phàm phu, cô ta nghe kinh được một nửa đã nghiễm nhiên chứng Tam Quả, chẳng tu hành mà có thể chứng quả ư? Nếu quý vị hiểu, vừa nghe liền thấu hiểu, thấu hiểu là giải ngộ; giải rồi, cảnh giới lập tức chuyển biến, chứng ngộ đấy! Chuyển biến cảnh giới gọi là tu hành. Nếu coi đó như là một thứ học thuật thế gian để nghiên cứu, chấp trước tướng ngôn thuyết, tướng danh tự, tướng tâm duyên, sẽ là “kể chuyện ăn, đếm của báu”, vô ích! Thật sự đạt đến “lìa hết thảy tướng, tức hết thảy pháp”, nghe kinh có thể khai ngộ, có thể chứng quả. Nghe kinh cũng có thể thành Vô Thượng Bồ Đề.
Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử tham học năm mươi ba lần, thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác như thế nào? Đến các nơi nghe những vị thiện hữu thuyết pháp, Ngài vừa nghe liền chuyển cảnh giới. Những pháp môn ấy là pháp môn tiệm tu (tu dần dần), từng tầng, từng tầng lần lượt nâng cao. Hiện thời, chúng tôi đã giảng đến quyển hai mươi hai của bộ kinh Hoa Nghiêm, [quyển ấy] nói về Lục Địa Bồ Tát. Thiện Tài hiện thời (ý nói Thiện Tài đang tham học ở chỗ vị thiện tri thức chứng đắc Lục Địa Bồ Tát) là Lục Địa Bồ Tát. Người nghe kinh chúng ta có theo kịp hay không? Ngài là Lục Địa, còn chúng ta đang ở địa vị nào? Phải theo kịp Ngài! Một bộ kinh Hoa Nghiêm đọc xong, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thành tựu thì bài thi mới được điểm trọn vẹn. Nghe xong bộ kinh Hoa Nghiêm, chính mình chứng được Sơ Trụ trong Viên Giáo thì mới được coi là thi đậu. Người niệm Phật nghe xong kinh Hoa Nghiêm, công phu niệm Phật đạt đến Lý nhất tâm bất loạn thì mới được coi là thi đậu. Làm thế nào để đạt đến mức cao hơn? Trong ấy thật sự có niềm vui, pháp vị và pháp hỷ ấy chẳng thể diễn tả được, không có cách nào hình dung được. Nếu trong Phật pháp không có những niềm vui như vậy, còn ai đến học nữa? Người học Phật là người thông minh bậc nhất trong thế gian, thật sự liễu giải Chân Đế trong vũ trụ, nhân sinh.
Có những kẻ chấp trước “hết thảy pháp là tự nhiên mà có”, có những kẻ chấp trước pháp “do nhân duyên mà có”, có kẻ chấp trước [hết thảy các pháp] là hư không. Chấp trước Không cũng là lầm lẫn. Những kẻ nào chấp trước Không? [Chư thiên trong] Tứ Không Thiên là kẻ chấp trước Không, chấp vào tướng Không. “Thiên dữ” (trời ban): Rất nhiều người chấp hết thảy đều do trời ban cho, do Thượng Đế ban tặng, do thần thánh ban tặng; đây là quan niệm sai lầm. “Bất nhất nhi túc” (Chẳng thể kể trọn từng điều): Tà tri, tà kiến quá ư là nhiều! Quý vị phải hiểu: Phật pháp dạy quý vị khôi phục những năng lực quý vị vốn sẵn có. Khi Lục Tổ thành tựu đã nói rất rõ ràng: “Nào ngờ tự tánh vốn sẵn đầy đủ”, vốn sẵn đầy đủ nên pháp nào cũng trọn đủ, chẳng có một pháp nào không trọn đủ, “nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp”, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới đều là những vật được biến hiện bởi tự tánh. Thượng Đế, quỷ thần đều là những vật do tự tánh của chúng ta biến hiện, chúng ta không thể sai khiến họ mà lại ngược ngạo nghe theo lệnh của họ. Đấy là mê hoặc, điên đảo, trong kinh Phật gọi là “kẻ đáng thương”, thật sự đáng thương! Trong Phật pháp, hết thảy các pháp đều quy về chính mình, chẳng dựa dẫm ngoại lực; tự ngộ, tự tu, tự chứng! Tuy Tịnh Độ gọi là pháp môn Nhị Lực, được Phật lực gia trì, nhưng Phật lực gia trì là kinh điển, kinh điển do đức Phật nói, Ngài dạy chúng ta lý luận, phương pháp, cảnh giới. Đó là Phật lực gia trì, trong ấy không có mê tín. Khi lâm chung, A Di Đà Phật đến tiếp dẫn là Phật lực gia trì, nhưng nếu chính bản thân chúng ta không nỗ lực, một mực ỷ vào sức Phật, đến cuối cùng nhất định sẽ chẳng được gì! Kẻ dựa dẫm quỷ, nhất định bị quỷ làm mê, kẻ dựa dẫm thần, nhất định bị thần lừa dối, làm nô dịch cho thần, đấy là điên đảo vậy!
(Diễn) Thử giai mê kỷ, vị vật sở chuyển.
(演) 此皆迷己為物所轉。
(Diễn: Đấy đều là mê mất chính mình, bị sự vật xoay chuyển).
Câu kết luận này nói rất hay. Nếu quý vị muốn thâm nhập, nghiên cứu, thảo luận thì đạo lý này ở trong kinh Lăng Nghiêm. Người giác ngộ quyết chẳng bị vật chuyển! Chữ Vật bao gồm hết thảy cảnh giới ở ngoài thân mình, chúng thường nói là “y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới”, dùng chữ Vật để làm đại diện, chẳng bị vật xoay chuyển. Chỉ có kẻ mê tự tánh bị cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, chúng ta nay đang là hạng người ấy. Mắt thấy sắc liền bị sắc chuyển, tai nghe tiếng liền bị tiếng chuyển, thật đáng thương! Mắt thấy sắc vừa ý mình bèn khởi tâm tham, chẳng vừa ý mình bèn khởi tâm nóng giận. Đấy là bị nó xoay chuyển. Tai nghe tiếng, nghe vui tai, khá quá! Nghe nhiều bèn bị nó chuyển! Chẳng ưa nghe, nghe đâm ra chán ngấy, bị nó chuyển rồi! Khi nào có thể ở trong hết thảy âm thanh mà như như bất động? Nghe rõ ràng, rành rẽ, như như bất động, sẽ chẳng bị chuyển!
Nếu trong hết thảy cảnh giới, quý vị khởi phân biệt, khởi chấp trước, khởi tham, sân, si, mạn là bị cảnh giới chuyển. Bị cảnh chuyển sẽ tạo nghiệp. Chẳng bị cảnh chuyển, không tạo nghiệp. Chẳng tạo nghiệp thì chúng ta đặt cho nó cái tên là “tịnh nghiệp”. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Nhược năng chuyển cảnh, tắc đồng Như Lai” (Nếu chuyển được cảnh sẽ giống như Như Lai), đấy chính là Phật, là Bồ Tát. Đại Bồ Tát kiến tánh, Ngài chuyển được cảnh, chẳng bị cảnh chuyển. Chúng ta nói tu hành, nói tới công phu, vậy công phu là gì? Chẳng bị cảnh chuyển, công phu thật sự đấy. Nơi nào cũng bị cảnh giới xoay chuyển, chỗ nào đáng kể là công phu? Nơi nào cũng bị cảnh giới xoay chuyển thì hãy nhớ: Không có cách nào vượt thoát luân hồi, quý vị dựa vào đâu để liễu sanh tử, thoát tam giới? Nơi nào cũng bị cảnh chuyển thì lại xin thưa với quý vị, chẳng dễ gì vãng sanh, đới nghiệp cũng không được. Đến lúc quý vị vãng sanh, lại bị cảnh giới lôi trở lại, quý vị vẫn chẳng đi được! A Di Đà Phật đến tiếp dẫn, quý vị nói: “Con còn chưa buông xuống được, còn có chuyện chưa giải quyết”, A Di Đà Phật chẳng thể đợi quý vị, quý vị không vãng sanh được! Do vậy, điều này hết sức quan trọng, phải hiểu công phu là như thế nào. Mỗi ngày niệm bao nhiêu câu Phật hiệu, lạy bao nhiêu lạy, lễ bao nhiêu bài sám, niệm bao nhiêu kinh, đấy chẳng gọi là công phu mà gọi là khóa tụng! Niệm nhiều khóa tụng, chứ không có công phu! Giống như gì? Học hành cho nhiều, học hằng ngày, đi thi liền lãnh zéro, chẳng đậu. Thi đậu mới là công phu. Quý vị đi thi, điểm số là công phu, đạt điểm số cao, đấy là công phu. Hằng ngày niệm mười vạn câu Phật hiệu, tâm vẫn bị cảnh chuyển thì cũng như không, hét toạc cuống họng cũng uổng công!
Mỗi ngày một tiếng Phật hiệu cũng chẳng niệm, nhưng đối với cảnh giới nào cũng bất động, thì thưa với quý vị, người ấy gọi là người niệm Phật. Vì sao gọi người ấy là người niệm Phật? Người ấy không niệm Phật mà! Người ấy niệm Phật để làm gì? Niệm Phật để khỏi bị cảnh chuyển, giác chứ không mê. Do người ấy là giác chứ không mê, nên người ấy không niệm vẫn là niệm. “Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”, cảnh giới như vậy đấy, phải hiểu lý! Thế nhưng trong cảnh giới ấy, người ấy có niệm Phật hay không? Người ấy nhất định niệm, vì sao người ấy niệm Phật? Nhằm dạy người khác niệm Phật. Đó là đại từ đại bi. Quả thật người ấy chẳng cần niệm, người ấy rất thanh tịnh, suốt ngày từ sáng đến tối là “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”. Thấy người ấy niệm Phật, kẻ khác cũng niệm Phật theo. Nhằm khuyên người khác niệm Phật, nêu gương cho người khác thấy, khiến cho người khác bắt chước theo, đó gọi là đại từ đại bi, là độ người khác, hóa tha. Nếu một vị lão hòa thượng tu học pháp môn Tịnh Độ mà suốt ngày từ sáng đến tối chẳng niệm một câu Phật hiệu nào, người khác sẽ nói với vị ấy: “Thầy bảo chúng con niệm Phật mà thầy chẳng niệm gì hết, con niệm để làm chi?” Ấn Quang đại sư là Đại Thế Chí Bồ Tát tái lai, tâm Ngài thanh tịnh lắm! Quý vị thấy lão nhân gia tay cầm xâu chuỗi, từ đầu năm đến cuối năm chưa hề buông ra, A Di Đà Phật luôn trên cửa miệng, chẳng ngưng nghỉ ngày nào, nêu gương cho người niệm Phật, nêu gương cho hàng sơ học. Tôi dạy quý vị niệm Phật thì tôi phải niệm hằng ngày, chứ không phải tôi chẳng niệm mà bảo quý vị niệm. Tôi niệm hằng ngày, tôi mới bảo quý vị niệm. Chúng ta là hàng sơ học thấy vậy tâm phục, khẩu phục, quả nhiên chẳng sai! Đấy là Phật, Bồ Tát thân giáo (dạy bằng hành vi, cử chỉ nơi thân), Phật, Bồ Tát hy sinh mình vì người khác!
Phàm là có những suy nghĩ loạn xạ như đã kể trên đây, cầu tâm ngoài pháp, đều là “mê mất chính mình, bị vật xoay chuyển”, rất đáng thương!
(Diễn) Bất tri thử tánh bổn phi thiên giáng, bất thuộc địa sanh, diệc phi nhân dữ.
(演) 不知此性本非天降,不屬地生,亦非人與。
(Diễn: Chẳng biết tánh này vốn chẳng do trời ban xuống, chẳng do đất sanh ra, cũng chẳng do ai tặng cho).
Diệu tánh thiên nhiên, chẳng phải do trời ban xuống, cũng chẳng phải do đất sanh ra. Nói thật ra, trời và đất đều là vật được biến hiện bởi diệu tánh của chính mình, chẳng có gì khác, đúng là chính mình. “Cũng chẳng do ai tặng”, chẳng liên can đến ai, chẳng liên can đến Phật, Bồ Tát, hay hết thảy quỷ thần.
(Diễn) Nãi đương nhân tự kỷ bất thuộc ư tha cố, thử tự kỷ chi tự dã.
(演) 乃當人自己不屬於他故,此自己之自也。
(Diễn: Mà chính là bản thân người ấy, chẳng thuộc vào ai khác, đấy chính là Tự hiểu theo ý nghĩa “chính mình” vậy).
Phải nhất định nhớ kỹ điều này. Nếu quý vị hiểu rõ, giác ngộ đạo lý này, sẽ gọi là chánh tri chánh kiến. Đó gọi là “nhận thức chính mình”. Nếu chẳng tham thấu triệt ý nghĩa này, quý vị hãy nghĩ mình nằm mộng: Trong mộng có đại địa, có trời, có hết thảy nhân vật, cũng có núi, sông, cây cối, hoa cỏ, chúng toàn là những vật do tự tâm của quý vị biến hiện ra. Hễ quý vị tỉnh giấc, hãy suy nghĩ xem có đúng hay không? Đúng! Toàn bộ cảnh trong mộng do tự tâm của ta biến hiện. Ở trong mộng, quý vị cũng mê hoặc, điên đảo y hệt, cũng đòi hỏi người khác, đấy là bị vật xoay chuyển. Mê chính mình, bị vật xoay chuyển, “chính mình” là gì? Toàn bộ cảnh giới là chính mình. Khi nào quý vị thật sự giác ngộ, khẳng định, thừa nhận: Tận hư không khắp pháp giới vốn là chính ta, thì thưa với quý vị, đó gọi là “chứng đắc Pháp Thân”, giống như trong mộng mà giác ngộ. Toàn bộ giấc mộng đều do tâm ta biến hiện, toàn bộ cảnh trong mộng là chính mình, Phật pháp gọi đó là “chứng đắc thanh tịnh Pháp Thân”. Tâm thanh tịnh, tất cả cảnh giới chẳng hề không thanh tịnh. Thanh tịnh Pháp Thân bày ra trước mặt, chính mình chẳng nhận biết, mê hoặc, điên đảo. Ngay cả Lão Tử cũng có sự giác ngộ này: “Thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã nhất thể” (Trời đất và ta cùng gốc, vạn vật có cùng một thể với ta). Nhìn thấu tin tức này, quan sát được. Phật pháp là thật sự đích thân chứng được cảnh giới này, quả thật là chính mình, chứ không phải ai khác.
Tiếp theo đó, sách giải thích vì sao nó có nhiều danh từ như thế, tuy có nhiều danh từ nhưng đều là nói về cùng một chuyện. Đây là lời giải thích câu “tự tánh, cái hữu đa danh, diệc danh Bổn Tâm” (tự tánh do vậy có nhiều tên, còn gọi là Bổn Tâm).
(Diễn) Đối vạn pháp viết Bổn Tâm.
(演) 對萬法曰本心。
(Diễn: Đối với muôn pháp bèn nói là Bổn Tâm).
“Bổn” là căn bản. Tâm là cái có thể hiện (năng hiện), vốn có thể hiện, vạn pháp là cái được hiện (sở hiện), vạn pháp là Tướng. Chúng ta lại lấy cảnh trong mộng để tỷ dụ. Vạn pháp giống như cảnh giới trong mộng, “bổn tâm’ là cái tâm có thể biến hiện giấc mộng, cái tâm ấy có thể hiện cảnh trong mộng. Do vậy, đối với cảnh mộng mà nói thì đây là “bổn tâm”, ý nghĩa này quý vị dễ hiểu; nhưng làm thế nào để có thể hiểu tận hư không trọn pháp giới là do bổn tâm của chính mình biến hiện? Mấu chốt là ở chỗ này, đột phá được mấu chốt này sẽ ngộ nhập, nghiệp chướng gì cũng đều tiêu trừ. Vì sao? Chuyển được cảnh giới, chuyển tám thức thành bốn trí. Hễ đột phá cảnh giới sẽ chuyển cảnh giới. Thật ra không có cách nào, hãy niệm bốn câu kệ của kinh Kim Cang nhiều lượt: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ, diệc như điển, ưng tác như thị quán” (Hết thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng, như sương, cũng như chớp, hãy nên quán như thế). Các văn sĩ thường nói “nhân sanh như mộng” (đời người như giấc mộng), câu nói ấy hết sức đúng với sự thật, sát sao! Đáng tiếc là họ nói được, nhưng chẳng nhập được cảnh giới ấy. Tuy họ nói câu ấy, họ vẫn đang mê, họ vẫn chẳng giác. Nếu đã giác ngộ, “toàn bộ đời người là giấc mộng”, trong mộng thì còn tranh giành cái gì? Trong mộng có gì là được - mất? Trong mộng còn có gì không buông xuống được? Trong mộng còn có gì chẳng nhìn thấy thấu suốt? Hết thảy đều buông xuống được, quý vị ngay lập tức thành Phật, thành Tổ. Trong kinh Phật thường dạy chúng ta hãy tưởng “như mộng, như huyễn”, thật đấy, chẳng giả đâu! Vì thế, cảnh trong mộng Lý Sự vô ngại, Sự Sự vô ngại, đấy là tứ vô ngại pháp giới của Hoa Nghiêm, là cảnh giới giải thoát chẳng thể nghĩ bàn. Hễ giác thì sẽ là như vậy đó.
(Diễn) Đối Thỉ Giác viết Bổn Giác.
(演) 對始覺曰本覺。
(Diễn: Do đối ứng với Thỉ Giác mà nói là Bổn Giác).
Chúng ta mê, nay bắt đầu giác ngộ. Bắt đầu giác ngộ là nói đến bổn tánh, bổn tánh là Bổn Giác. Thỉ - Bổn bất nhị. Trong phần trên đã nói: Tánh - Tướng giống hệt như một. Vạn pháp là Tướng, bổn tâm là Tánh, Tánh và Tướng giống hệt như một, Thỉ và Bổn bất nhị. Vì sao có Thỉ Giác? Là vì Bổn Giác vốn có, vốn có thì đương nhiên có thể hiện tiền, có thể khôi phục; do mới vừa khôi phục nên chúng ta gọi nó là Thỉ Giác. Do vậy, tự tánh là giác, chẳng mê. Nó là giác ngộ, tức vốn sẵn giác ngộ. Do vậy, mới nói: “Bổn Giác vốn có, bất giác vốn không”. Lúc nào chúng ta sẽ bắt đầu giác ngộ? Hiện giờ có thể coi là chúng ta bắt đầu giác ngộ hay chưa? Phá một phần vô minh, chứng một phần bổn tánh, thì gọi là Thỉ Giác. Do vậy, ai thuộc địa vị Thỉ Giác? Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo. Đừng lầm lẫn tưởng là hiện nay chúng ta bắt đầu giác ngộ. Phiền não cả một đống, giác ngộ nỗi gì! Nay chúng ta chỉ nghe nói tới chuyện ấy mà thôi! Kiến Tư phiền não đã đoạn, Trần Sa phiền não đã đoạn, phá một phẩm vô minh, Thỉ Giác hiện tiền. Tiêu chuẩn ấy được kiến lập trong Đại Thừa Khởi Tín Luận, Đại Thừa Khởi Tín Luận nói [Thỉ Giác] là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, kinh Kim Cang cũng dạy như thế. Lấy tiêu chuẩn trong kinh Kim Cang để nói thì: Không có Tứ Tướng và Tứ Kiến thì là địa vị Thỉ Giác. Trong kinh nói rất rõ ràng: “Nhược Bồ Tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, tức phi Bồ Tát” (Nếu Bồ Tát có tướng ta, tướng người, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì chẳng phải là Bồ Tát). Chẳng phải là hạng Bồ Tát nào vậy? Chẳng phải là Bồ Tát thuộc địa vị Thỉ Giác. Quý vị phải hiểu đạo lý này, trong Lục Tức, [những vị Bồ Tát còn có Tứ Tướng, Tứ Kiến sẽ] chẳng phải là Phần Chứng Phật. Nếu quý vị nói là thuộc địa vị Tương Tự, địa vị Quán Hạnh, hoặc địa vị Danh Tự thì được.
Hiện thời, chúng ta đã thọ Bồ Tát Giới, đều có thể gọi là Bồ Tát, nhưng là Bồ Tát thuộc địa vị nào vậy? Bồ Tát thuộc địa vị Danh Tự, hữu danh vô thực, mang cái danh là Bồ Tát, chứ không phải thật. Bồ Tát chân chánh thì phải thuộc địa vị Thỉ Giác mới là Bồ Tát thật sự, phá một phẩm vô minh, thấy một phần chân tánh, đó là chân [Bồ Tát]. Nói cách khác, trước khi đạt đến địa vị Thỉ Giác thì gọi là Quyền Giáo, từ Thỉ Giác trở đi mới gọi là Thật Giáo, là chân thật. Trước khi đạt đến địa vị Thỉ Giác là có, chẳng phải là không có[2]. Địa vị Thập Tín Bồ Tát trong Viên Giáo cũng khá khó có. Hàng Sơ Tín Bồ Tát trong Viên Giáo phá tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc, bằng với Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa, địa vị Thất Tín bằng với A La Hán, tám mươi mốt phẩm Tư Hoặc cũng đoạn sạch. Khi ấy, gọi là Tương Tự Tức Bồ Tát. Chỉ đoạn Kiến Hoặc, chưa đoạn Tư Hoặc, thì là Bồ Tát thuộc địa vị Quán Hạnh, Kiến Tư phiền não đều đoạn sạch hết, là Bồ Tát thuộc địa vị Tương Tự. Thấy một phần chân tánh là Bồ Tát thuộc địa vị Phần Chứng. Trong Viên Giáo, từ Sơ Trụ cho đến Đẳng Giác gồm bốn mươi mốt địa vị, đều gọi là Bồ Tát thuộc địa vị Phần Chứng, tức Chánh Đẳng Chánh Giác. Chánh Đẳng Chánh Giác nếu lại lên cao hơn nữa thì chính là Cứu Cánh Phật, gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Do vậy, phải hiểu tiêu chuẩn của Thỉ Giác, chúng ta phải nỗ lực, phải noi theo phương hướng ấy để tinh tấn, dùng phương pháp nào? Một câu Phật hiệu. Dùng cái tâm nào? Nhất tâm niệm Phật cầu nguyện vãng sanh. Dùng cái tâm ấy, phương pháp là một câu Phật hiệu. Quán Hạnh là sáu căn tiếp xúc cảnh giới sáu trần, từng tiếng [Phật hiệu] đều gọi mình từ trong cảnh giới hãy quay trở lại. Chúng ta mê nơi cảnh, bị cảnh giới xoay chuyển, kêu mình quay về, chính là Tam Quy Y. Trong hết cảnh giới, giác chứ chẳng mê, chánh chứ chẳng tà, tịnh chứ chẳng nhiễm, đó là Phật pháp. Trong hết thảy cảnh giới, nếu quý vị khởi tâm động niệm, mê hoặc, tà kiến, ô nhiễm, thì thưa quý vị, trong mỗi niệm quý vị đều tạo nghiệp chướng, tạo tội nghiệp cực lớn mà quý vị chẳng hay biết! Quý vị nói quý vị chẳng sợ địa ngục, chẳng ở trong đó, “ta đọa địa ngục cũng chẳng sao!” Đấy là cuồng vọng! Quý vị chưa nếm nỗi khổ ấy, đến khi đó chịu khổ, có hối cũng chẳng kịp nữa! Con người đúng là mê hoặc, điên đảo! Nếu kẻ nào còn nghĩ như vậy, kinh Phật gọi kẻ ấy là Nhất Xiển Đề, không có thiện căn, không cứu được. Đấy là hạng người đáng thương nhất!
(Diễn) Vô tri chi tri vị Chân Tri.
(演) 無知之知謂真知。
(Diễn: Cái Biết mà chẳng biết thì gọi là chân tri).
Tự tánh còn gọi là Chân Tri, Chân Tri là gì? Bát Nhã Ba La Mật. Bát Nhã vô tri, vì sao tuy vô tri mà có thể biết? Chúng tôi nêu một thí dụ: Tay tôi cầm cuốn sách này, quý vị thấy rất rõ ràng, đó là biết. Quý vị chẳng khởi phân biệt, chẳng nẩy sanh ý niệm nào. Nếu quý vị nói: “Tay pháp sư cầm một cuốn kinh sách”, tức là trong sự nhận biết [hoàn toàn không khởi tâm động niệm ấy] quý vị đã lập ra [ý niệm] có nhận biết, đó gọi là “cái gốc của vô minh”. Khi nào khởi lên vô minh? Khởi lên vô minh ngay khi ấy. Quý vị thấy rõ ràng, rành rẽ, đó là Chân Tri. Sáu căn vừa tiếp xúc [liền nhận biết, chẳng khởi tâm động niệm], ấy là Chân Tri. Đó chính là Bát Nhã Ba La Mật, là Phật tri, Phật kiến. Nếu quý vị khởi lên ý niệm “cái này gọi là một cuốn kinh sách”, hỏng rồi! Quý vị đã lập ra một tri kiến hư vọng trong ấy, vì sao? “Danh khả danh, phi thường danh; đạo khả đạo, phi thường đạo” (Có thể gọi tên được thì cái tên ấy chẳng phải là tên thường hằng, đạo mà có thể diễn tả được thì đạo ấy chẳng thường hằng). Vốn chẳng có tên gọi, vì sao quý vị lại đặt tên cho nó? Giữ lấy tên gọi là sai rồi! Nó không có tên gọi, quý vị gán cho nó một tên gọi, tức là trên sự tri kiến [vốn sẵn thanh tịnh] lại chồng thêm một cái tri kiến [phân biệt] nữa, đó gọi là vô minh. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tri kiến lập tri, thị vô minh bổn” (Từ trên sự nhận biết chân thật lập ra tri kiến, đấy là cái gốc của vô minh). Vô minh là như vậy đó. Nếu đối với sự thấy, nghe, hay, biết, quý vị giữ được Chân Tri; nói cách khác, quý vị vĩnh viễn chẳng khởi phân biệt, chấp trước thì chính là Phật tri, Phật kiến.
Tự thụ dụng là Căn Bản Trí, nó là vô tri. Chính mình quả thật vô tri, vô tri là sự hay biết không do phân biệt, là sự hay biết không chấp trước, chứ chẳng phải là đối với cảnh giới chẳng biết gì hết, mà là thứ gì cũng biết. Biết hiện tại, biết quá khứ, biết vị lai, tận hư không, trọn pháp giới, không pháp nào chẳng biết, vô tri là gì? Trong [sự nhận biết] ấy, không có danh tự, không có ngôn thuyết, không có tâm duyên. Nói cách khác, không có chấp trước, không có vọng tưởng, chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đó là Chân Tri, thứ gì cũng đều biết. Đó gọi là Bát Nhã Ba La Mật.
Tha thụ dụng là Hậu Đắc Trí, không gì chẳng biết. Không gì chẳng biết là đối với đại chúng mà nói. Quý vị gọi cái này là gì? Đây là một cuốn kinh sách, bởi quý vị gọi nó là kinh sách. Quý vị hỏi tôi: Đây là gì? [Tôi trả lời]: “Đây là một cuốn kinh sách”, chẳng phải là tôi chấp trước, mà là do quý vị chấp trước, chẳng liên can gì đến tôi. Tôi là như thế nào? Trong tâm không có gì hết. Do tôi không có gì hết, nên nói mà không nói. Đối với tôi thì bảo là “không nói”. Nói theo phía quý vị thì là “có nói”. Đối với quý vị là “có nói”, đối với tôi là “không nói”. “Có nói” và “không nói” đồng thời, tôi nói cho quý vị nghe, còn bản thân tôi một câu cũng chẳng nói. Thích Ca Mâu Ni Phật nói suốt bốn mươi chín năm, nhưng chẳng nói một câu nào! Tôi hằng ngày thuyết pháp cho quý vị, tôi cũng chẳng nói một câu nào. Thấu hiểu ý nghĩa này, quý vị sẽ hiểu Chân Tri là gì, Bát Nhã vô tri là gì, “không gì chẳng biết” là gì? Khi người khác đến hỏi, bèn tùy thuận sự chấp trước của chúng sanh mà chấp trước, tùy thuận sự phân biệt của chúng sanh mà phân biệt, chính mình hoàn toàn chẳng phân biệt, chấp trước. Đó gọi là “hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”, đó gọi là “Bát Nhã vô tri mà không gì chẳng biết”.
Trong các buổi giảng, tôi thường khích lệ các đồng tu: Tự thụ dụng phải thanh tịnh, để chính mình thụ dụng thì đừng phân biệt, còn để người khác thụ dụng thì phải phân biệt. Nếu thật sự có thể làm được như vậy, tự thụ dụng sẽ là Tứ Trí, tha thụ dụng là tám thức. Người khác đến nêu câu hỏi, sẽ từ trong bốn trí biến hiện tám thức cho người khác thụ dụng, chứ chính mình không thụ dụng. Người ta thụ dụng xong, ngay lập tức không có nữa, khôi phục bốn trí Bồ Đề. Trong ấy, Tự và Tha không hai, Thức và Trí chẳng khác. Nếu quý vị hiểu được điều này, lẽ nào chẳng chuyển được cảnh giới? Lẽ nào chẳng phá mê khai ngộ?
Vô tri mà vẫn hay biết chính là Chân Tri. “Vô tri” là không phân biệt, không chấp trước, không vọng tưởng, chứ không phải là chẳng biết gì. Chân Tri là sáu căn tiếp xúc sáu cảnh chẳng vướng mắc hư vọng, “kiến” là cái Thấy có thể thấy được tánh; “văn” là cái Nghe có thể nghe được tánh, đấy chính là như Giao Quang đại sư đã viết trong [sách chú giải] kinh Lăng Nghiêm: “Bỏ Thức dùng Căn”, dùng Căn là Chiếu Kiến, Tâm Kinh bảo: “Chiếu kiến Ngũ Uẩn giai không”, dùng tánh Thấy để thấy, đó chính là Chiếu Kiến. Dùng tánh Nghe để nghe, đó cũng là Chiếu Kiến. Chiếu Kiến là Chân Tri.
(Diễn) Vô thức chi thức vị Chân Thức.
(演) 無識之識謂真識。
(Diễn: Cái thức mà chẳng nhận biết được gọi là Chân Thức).
Tự tánh còn có tên là Chân Thức. “Thức” là tám thức, Thể của tám thức là Chân Như bổn tánh. Chân Như bổn tánh có thể biến hiện tám thức, Chân Như bổn tánh gọi là Chân Thức. Các nhà Duy Thức lập ra khái niệm “thức thứ chín”, Huyền Trang đại sư không đồng ý. Ngài nói không cần phải làm vậy, bảo thức thứ chín là “trên đầu chồng thêm đầu”, nói tám thức là đủ rồi, chẳng cần phải nói tới thức thứ chín. Có người gọi Chân Như bổn tánh là thức thứ chín, đặt tên là Vô Cấu Thức, những người nghiên cứu Duy Thức Học đều biết Vô Cấu Thức là Chân Thức.
Xét về tác dụng của tám thức thì A Lại Da Thức chứa đựng chủng tử của các pháp. Nếu nó chẳng chứa đựng các chủng tử thì sẽ được gọi là Đại Viên Kính Trí. Chúng tôi nói một cách dễ hiểu, nông cạn thì “hàm tàng chủng tử” (chứa đựng chủng tử) là “giữ lại ấn tượng”. Nay sáu căn của chúng ta tiếp xúc cảnh giới sáu trần, có thể không giữ lại ấn tượng, trong tâm chẳng giữ lại ấn tượng, dùng cái tâm giống như một tấm gương: Tướng đưa đến, gương bèn hiện bóng rõ ràng; tướng đi rồi, gương chẳng nhiễm mảy trần. Không những tướng đi rồi chẳng nhiễm mà ngay trong khi tướng đang hiện diện, gương cũng chẳng nhiễm, tức là lúc hiện tướng cũng chẳng nhiễm, chẳng giữ lại ấn tượng; sự thấy nghe nơi sáu căn của quý vị hoàn toàn biến thành trí huệ, vô lượng vô biên trí huệ, chẳng sanh phiền não. Quý vị thấy một chuyện bèn ghi giữ ấn tượng trong lòng, vẫn niệm niệm chẳng quên nghĩ tới nó, hỏng bét rồi! Nếu có thể chẳng giữ lại ấn tượng, “tức tướng ly tướng, ly tức đồng thời” (tướng chính là lìa tướng, “chính là” và “lìa” cùng một lúc). Đấy là Chân Thức. Thức thứ bảy không chấp trước, thức thứ sáu không phân biệt; thức thứ sáu không phân biệt thì gọi là Diệu Quán Sát, thức thứ bảy chẳng chấp trước thì gọi là Bình Đẳng Tánh. Tác dụng của năm thức trước là không có chuyện gì chẳng làm viên mãn, [nên gọi] là Thành Sở Tác, có nghĩa là thành tựu các sự nghiệp đã thực hiện. Sự nghiệp ấy chính là lợi ích hết thảy chúng sanh, đại từ đại bi, làm mà chẳng làm, không làm mà làm, lẽ nào người ấy chẳng tự tại?
(Diễn) Vô hữu hư vọng, vô hữu biến dị, danh viết Chân Như.
(演) 無有虛妄,無有變異,名曰真如。
(Diễn: Chẳng có hư vọng, chẳng có biến đổi thì gọi là Chân Như).
Tám chữ này không cần phải giải thích, vì Chân Như đã giảng rất nhiều rồi! Những danh từ khác so ra ít được nhắc tới hơn, nên ở đây tôi giải thích cặn kẽ cùng quý vị. Nếu quý vị thật sự thấu hiểu được một danh từ trong những danh từ này sẽ thấu hiểu toàn bộ. Nếu hoài nghi một danh từ nào, tức là quý vị chẳng hiểu toàn bộ. Hiểu một thứ sẽ hiểu hết, chẳng hiểu một thứ sẽ chẳng hiểu toàn bộ. Hôm nay hết giờ rồi!
Tập 14
Xin xem A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Hội Bản, trang thứ mười lăm:
(Sớ) Nhược tựu đương kinh, sơ cú tức Vô Lượng Quang, đỗng triệt vô ngại cố. Nhị cú tức Vô Lượng Thọ, thường hằng bất biến cố. Tam tứ cú tức linh tâm tuyệt đãi, quang thọ giao dung, nhất thiết công đức giai vô lượng cố. Ngũ cú tổng tán, tức kinh vân: “Như ngã xưng tán A Di Đà Phật bất khả tư nghị công đức”. Mạt cú kết quy, ngôn A Di Đà Phật toàn thể thị đương nhân tự tánh dã.
(疏) 若就當經,初句即無量光,洞徹無礙故。二句即無量壽,常恆不變故。三四句即靈心絕待,光壽交融,一切功德皆無量故。五句總讚,即經云:如我稱讚阿彌陀佛不可思議功德。末句結歸,言阿彌陀佛全體是當人自性也。
(Sớ: Nếu xét theo kinh này thì câu đầu tiên là Vô Lượng Quang vì thấu suốt rỗng rang không ngăn ngại. Câu thứ hai là Vô Lượng Thọ vì thường hằng chẳng biến đổi. Câu thứ ba và câu thứ tư là nói tới cái tâm ấy linh minh, dứt bặt đối đãi, vì Quang và Thọ hòa lẫn vào nhau, hết thảy công đức đều vô lượng. Câu thứ năm là khen ngợi chung, tức là như kinh đã chép: “Như ta nay khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật”. Câu cuối cùng là lời tổng kết, nói: Toàn thể của A Di Đà Phật chính là tự tánh của con người vậy).
Đoạn này giảng giải rõ ràng một dòng rưỡi thuộc phần Minh Tánh trong lời tựa, hết sức khó có. Những ý nghĩa được chứa đựng trong đoạn này cũng hết sức tinh tường, sâu xa, rộng lớn. Sách Diễn Nghĩa đã giảng rõ như sau:
(Diễn) Nhược tựu đương kinh hạ.
(演) 若就當經下。
(Diễn: Từ chữ “nếu xét theo kinh này” trở đi...)
“Hạ” là trở đi, từ câu này trở đi...
(Diễn) Thị giải thích tự văn dĩ cánh.
(演) 是解釋序文已竟。
(Diễn: Là giải thích phần lời tựa đã xong).
Từ đoạn này trở đi, “thị giải thích văn tự dĩ cánh” tức là đã giải thích xong phần lời tựa.
(Diễn) Hạ phục phối thuộc chư kinh.
(演) 下復配屬諸經。
(Diễn: Tiếp đó, lại đối chiếu [những ý nghĩa đã nêu trong lời tựa] với các kinh).
Tiếp đó, lại đem những ý nghĩa ấy so với các kinh để nói.
(Diễn) Kim tiên tựu đương kinh phối Thọ Quang dã.
(演) 今先就當經配光壽也。
(Diễn: Nay trước hết, phối hợp với ý nghĩa Quang và Thọ trong kinh này).
Đem đối chiếu với các kinh thì trước hết, lấy ngay kinh này để đối chiếu xem câu nào [trong lời tựa] sẽ tương ứng với ý nghĩa nào trong kinh văn, câu nào cũng được giảng giải rõ ràng. Trong đoạn này, “sơ cú” chính là câu thứ nhất trong lời tựa, tức câu “linh minh đỗng triệt”. Câu thứ hai là “trạm tịch thường hằng”. Linh minh đỗng triệt tương ứng với ý nghĩa Vô Lượng Quang, vì “thấu suốt rỗng rang không ngăn ngại”. Câu thứ hai là ý nghĩa Vô Lượng Thọ, “thường hằng bất biến”. Câu thứ ba và câu thứ tư trong lời tựa là“phi trược phi thanh, vô bối vô hướng”. Hai câu này được giảng là “linh tâm tuyệt đãi, quang thọ giao dung”, bao gồm những ý nghĩa ấy. “Nhất thiết công đức giai vô lượng cố” (vì hết thảy công đức đều vô lượng), nói chung về các thứ vô lượng. Câu thứ năm là lời khen ngợi chung: “Đại tai chân thể, bất khả đắc nhi tư nghị giả” (Lớn thay chân thể, chẳng thể nghĩ bàn được), thật sự chẳng thể nghĩ bàn, đặc biệt là đối với những ý nghĩa được bao hàm trong bốn chữ “bất khả tư nghị”, chúng ta phải chú tâm thấu hiểu. Trong kinh này, chính Thích Ca Mâu Ni đã nói: “Như ngã xưng tán A Di Đà Phật bất khả tư nghị công đức”, mười phương chư Phật cũng xưng tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Kinh. Do vậy, sự bất khả tư nghị này có căn cứ, chứ chẳng phải là nói tùy tiện. Câu cuối cùng nhằm quy vào tự tánh của chính mình, công đức chẳng thể nghĩ bàn ấy là của ai? Là của chính mình, thật sự chẳng thể nghĩ bàn. Do đây có thể biết: Tây Phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật là ai? Là chính chúng ta.
Trong A Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại sư đã nêu ra ba cương lãnh lớn: Tín, Nguyện, Hạnh. Thứ nhất là Tín, Ngài nêu ra sáu điều, điều thứ nhất là Tín Tự. Ở đây, Liên Trì đại sư dạy rõ: Đấy là tự tánh. Nếu chẳng tin vào tự tánh sẽ chẳng thể gọi là tin Phật được! Trong Phật pháp có nói “tín, giải, hạnh, chứng”, thứ nhất là phải tín Tự, rồi sau đấy mới tín Tha. Tha Phật có thể làm Tăng Thượng Duyên cho chúng ta, Tín Tự là Thân Nhân Duyên, Sở Duyên Duyên và Vô Gián Duyên. Tín Tha là Tăng Thượng Duyên. Tín tâm được kiến lập như vậy đó. Ở đây, lời chú giải cũng rất hay, đơn giản, trọng yếu. “Kim tiên tựu đương kinh phối Quang Thọ” (Nay trước hết phối hợp với ý nghĩa Quang và Thọ trong kinh này), tức là trong kinh văn của kinh này có nói Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ.
(Diễn) Tuyệt đãi giao dung giả.
(演) 絕待交融者。
(Diễn: “Tuyệt đãi giao dung” là.... )
Câu thứ ba và câu thứ tư [trong phần Sớ] là “linh tâm tuyệt đãi, quang thọ giao dung”, lời chú giải [trong sách Diễn Nghĩa] đã giảng rõ mấy câu này.
(Diễn) Quang dữ Thọ tự đối đãi pháp.
(演) 光與壽似對待法。
(Diễn: Thọ và Quang dường như là hai pháp tương đối).
“Đối đãi” nói theo cách hiện thời là “tương đối”. Chữ “tự” (似) có nghĩa là dường như chúng là hai pháp đối lập nhau.
(Diễn) Nhi kỳ thật, cử Quang tắc dung Thọ, cử Thọ tắc dung Quang, nguyên phi nhị vật, hữu hà đối đãi.
(演) 而其實舉光則融壽,舉壽則融光,原非二物,有何對待。
(Diễn: Thật ra, nêu lên Quang thì đã hàm chứa Thọ, nêu lên Thọ đã hàm chứa Quang, chúng vốn chẳng phải là hai vật, nào có đối đãi gì?)
Thoạt nhìn có vẻ như Thọ và Quang đối lập, thật ra, chúng chỉ là một chuyện, đều là tánh đức trong bổn tánh. Bổn tánh có Chiếu đức, đó là Quang, [tức là] bổn tánh có trí huệ. Bổn tánh có Tịch đức, Tịch là như như bất động, chân tâm quả thật là bất động. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã nêu một thí dụ, Ngài nêu lên tánh Thấy. Tánh Thấy là chân tâm, tánh Thấy trọn đủ ý nghĩa Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ. Tánh Thấy có thể chiếu, tức là thấy hết thảy sắc rõ ràng phân minh, đó là ý nghĩa Vô Lượng Quang. Tánh Thấy bất sanh bất diệt, chẳng đến, chẳng đi, bất động, bất hoại. Đó là ý nghĩa Vô Lượng Thọ. Mở banh mắt bèn thấy, mà nhắm mắt vẫn thấy, quý vị đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ biết, phần “thập phiên hiển kiến” (mười phen chỉ rõ cái Thấy) giảng rõ tánh Thấy là chân tâm. Tánh Thấy là Chân Như bổn tánh. Quý vị biết tánh Thấy là như vậy, mà căn tánh của sáu Căn không gì chẳng giống như vậy. Đó gọi là “nguyên y nhất tinh minh, phân thành lục hòa hợp” (do nương vào một cái tinh minh (chân tâm) mà chia thành sáu thứ hòa hợp). Do đây biết rằng: Ý nghĩa Quang và Thọ quả thật dung hội lẫn nhau, dứt bặt đối đãi. Dứt bặt đối đãi (tuyệt đãi) là chẳng đối lập; do vậy, dung hội, hòa lẫn vào nhau. “Nguyên phi nhất vật” (vốn chẳng phải là hai vật), một đằng là nói theo mặt Chiếu, một đằng là nói theo mặt Tịch. Tịch là tự tánh vốn Định, Định ấy chẳng phải do tu mà có, mà là bổn tánh vốn sẵn có, nó được gọi là Lăng Nghiêm Đại Định. Lăng Nghiêm Đại Định chẳng phải do tu mà thành, mà là Tánh Định (Định sẵn có trong tự tánh). Chiếu là Bát Nhã trí huệ trong tự tánh. Tự Tánh Huệ là Vô Lượng Quang. Tự Tánh Định là Vô Lượng Thọ. Định và Huệ đều là tánh đức (những phẩm đức của tánh); do vậy, chúng dứt bặt đối đãi, dung hội lẫn nhau.
(Diễn) Nhất thiết công đức, vị vô lậu tánh công đức. Vô lượng giả, cụ túc viên mãn bất khả tư nghị dã.
(演) 一切功德,謂無漏性功德。無量者, 具足圓滿不
可思議也。
(Diễn: “Hết thảy công đức” là các công đức vô lậu của tự tánh. “Vô lượng” là [các công đức ấy] đầy đủ viên mãn, chẳng thể nghĩ bàn).
“Tánh” là Chân Như bổn tánh, có Thể, có Tướng, có Dụng. Tựa đề kinh Hoa Nghiêm có chữ Đại Phương Quảng; Đại là tán thán Tánh Thể, Phương là tán thán Tánh Tướng, Quảng là tán thán sự khởi tác dụng của chân tánh (Tánh Dụng). Do vậy, ba chữ “Đại Phương Quảng” nhằm tán thán Thể, Tướng, Dụng của bổn tánh. “Công đức” là nói về Tướng và Dụng, công đức ấy là công đức của bổn tánh. Đã thuộc bổn tánh thì chúng tuyệt đối chẳng do tu mà có, vốn sẵn trọn đủ, có thể sanh ra muôn pháp, đó là “tánh công đức” (các công đức của tánh). Tánh công đức là vô lậu. “Lậu” là tên gọi khác của phiền não, “vô lậu” là quyết định chẳng sanh phiền não. Trong công đức xứng tánh chẳng có phiền não. Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não và Vô Minh phiền não đều đoạn sạch thì mới gọi là “vô lậu”. Đẳng Giác Bồ Tát còn có một phẩm sanh tướng vô minh[3], nên vẫn chưa hết Lậu, chưa hoàn toàn tách rời Lậu. Một phẩm sanh tướng vô minh ấy cũng chẳng còn thì mới thật sự là vô lậu. Ai có tánh công đức của chân vô lậu? Phật trong Viên Giáo mới trọn đủ, mới viên mãn. Những vị thánh nhân Tiểu Thừa cũng gọi là Vô Lậu, nhưng không có tánh công đức, vì vô lậu của người Tiểu Thừa chỉ là đoạn Kiến Tư phiền não, chứ chưa đoạn Trần Sa và Vô Minh. Do vậy, vô lậu trong Tiểu Thừa chẳng rốt ráo. “Vô lậu tánh công đức” mới thật sự là bổn lai diện mục của chính mình. Chúng ta hãy suy nghĩ: Hiện thời chúng ta trong hết thảy mọi lúc thường sanh phiền não, đó là hữu lậu. Hữu lậu là phàm phu, vô lậu là thánh nhân. Hữu lậu là mê hoặc, điên đảo, vô lậu mới là giác ngộ chẳng mê. Chúng ta hãy tự mình suy nghĩ, chúng ta có dấy lên phiền não hay không? Dấy phiền não là phàm phu, là đang ở trong tình trạng bệnh hoạn, chẳng khỏe mạnh, chính mình nhất định phải hiểu rõ!
Ở đây nói “hết thảy công đức” là nói đến công đức xứng tánh vô lậu, là những công đức vốn sẵn có trong bổn tánh. “Công” là công năng, “đức” là đức dụng. “Vô lượng” là trọn đủ viên mãn chẳng thể nghĩ bàn, đấy là ý nghĩa của chữ “vô lượng”. Công đức vô lậu trong tự tánh viên mãn, chẳng thiếu sót mảy may nào. Do vậy, đối với y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới thì trong mười pháp giới ấy, lục phàm pháp giới chẳng phải là hữu lậu hay sao? Quý vị hãy tự suy nghĩ: Lục phàm là hữu lậu hay vô lậu? Khi chưa giác ngộ, ở trong lục phàm là hữu lậu, sau khi đại triệt đại ngộ, trụ trong Nhất Chân pháp giới, Nhất Chân và mười pháp giới là một, chẳng phải hai. Trong Nhất Chân có mười pháp giới hay không? Có! Nhưng trong cái nhìn của Phật, của Đại Bồ Tát, hết thảy chúng sanh vốn đã thành Phật. Hình dạng của Phật là như thế nào? Có hình dạng ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, cũng có hình dạng Bồ Tát, cũng có hình dạng trời, người, cũng có hình dạng ngạ quỷ, địa ngục, rất nhiều hình dạng, nhưng đều là Phật. Mắt Phật nhìn thấy [mọi loài] đều là Phật, quyết chẳng phải là [chờ đến khi chúng sanh đã] thành Phật rồi, Phật mới thấy hết thảy chúng sanh đều biến thành ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, không có đạo lý ấy! Vì sao? Ngài chứng được vô lậu, thấy hết thảy Tướng Phần là do tánh biến hiện. Tánh vô lậu nên Tướng cũng vô lậu. Cái gọi là Lậu ấy do đâu mà có? Lậu là do chính quý vị đang mê, chẳng liên can gì đến Tướng! Tự mình mê nên tự sanh phiền não, chuyện là như vậy đó! Do vậy, quả thật là đầy đủ viên mãn chẳng thể nghĩ bàn!
(Diễn) Nhi dĩ thử cú, đương phi trược, phi thanh nhị cú giả.
(演) 而以此句,當非濁非清二句者。
(Diễn: Nhưng hãy nên đem câu này [tức câu “nhất thiết công đức, vị vô lậu tánh công đức. Vô lượng giả, cụ túc viên mãn bất khả tư nghị dã”] áp dụng cho hai câu “chẳng phải trược, chẳng phải thanh, [chẳng trái nghịch, chẳng hướng về]” [trong lời tựa]).
Trong chân tánh, chẳng thể nào nhắc tới “thanh, trược, hướng, bối” (trong, đục, hướng về, trái nghịch) được; còn trên mặt Sự thì có hay là không? Trên mặt Sự là có, trên mặt Lý thì không. Sự có, Lý không, Tướng có, Tánh không. Trong Tướng có “thanh, trược, hướng, bối”, trong Tánh chẳng có. Trong Sự có “thanh, trược, hướng, bối”, trong Lý chẳng có. Do đây có thể biết, nói tới “thanh, trược, hướng, bối” là đã mê rồi nên mới có những hiện tượng ấy. Sau khi đã ngộ, những hiện tượng ấy chẳng còn nữa.
(Diễn) Dĩ đản hữu thanh, trược, hướng, bối, tức hữu đối đãi bất dung thông, tiện bất thị tánh công đức, tiện phi vô lượng.
(演) 以但有清濁向背,即有對待不融通,便不是性功德,便非無量。
(Diễn: Do chỉ cần có thanh, trược, hướng về, trái nghịch, sẽ liền có đối đãi, chẳng dung thông, sẽ chẳng phải công đức trong tự tánh, chẳng phải là vô lượng).
Ấy là hữu lượng.
(Diễn) Kim vô thanh, trược, hướng, bối, thị nhất thiết công đức giai vô lượng dã.
(演) 今無清濁向背,是一切功德皆無量也。
(Diễn: Nay không có thanh, trược, hướng về, trái nghịch, thì hết thảy công đức đều là vô lượng).
“Thanh, trược, hướng, bối” trong phần trên đã giải thích rất cặn kẽ. Đây là câu thứ tư và câu thứ tư được nhìn theo ý nghĩa trong kinh này, đến đây chúng ta có thể rút ra kết luận.
Câu thứ năm là lời khen ngợi chung, “tức kinh vân, như ngã tán thán A Di Đà Phật bất khả tư nghị công đức” (chính là như trong kinh đã nói: “Như ta khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Đà Phật”); trong phần giải thích kinh văn sẽ thảo luận cặn kẽ câu này. “Mạt cú kết quy” (Câu cuối cùng là quy kết), hết sức trọng yếu, “ngôn A Di Đà Phật toàn thể thị đương nhân tự tánh dã” (nói toàn thể của A Di Đà Phật là tự tánh của chính mình). Chữ “toàn thể” bao gồm y báo lẫn chánh báo, “đương nhân” là chính mình, [“đương nhân tự tánh” là] tự tánh của chính mình. Y báo và chánh báo trang nghiêm trong Tây Phương Cực Lạc thế giới chính là tự tánh của chính mình. Câu này phải giải thích như thế nào? Ở đây, lời chú giải ghi:
(Diễn) Phạn ngữ A Di Đà Phật, thử vân Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang.
(演) 梵語阿彌陀佛,此云無量壽,無量光。
(Diễn: Tiếng Phạn A Di Đà Phật, cõi này dịch là Vô Lượng Thọ hoặc Vô Lượng Quang).
Đây là lời giải thích theo [những ý nghĩa] trong kinh này.
(Diễn) Nhi tự tánh Tịch, tức thị Vô Lượng Thọ. Tự tánh Chiếu, tức thị Vô Lượng Quang. Tịch Chiếu bất nhị, tức thị Quang Thọ giao dung, tắc A Di Đà Phật, khởi bất tức thị đương nhân tự tánh?
(演) 而自性寂,即是無量壽。自性照,即是無量光。寂照不二,即是光壽交融。則阿彌陀佛,豈不即是當人自性。
(Diễn: Nhưng tự tánh Tịch, chính là Vô Lượng Thọ; tự tánh Chiếu tức là Vô Lượng Quang. Tịch và Chiếu chẳng hai, chính là Quang và Thọ dung nhiếp lẫn nhau, vậy thì A Di Đà Phật há chẳng phải tự tánh của chính mình ư?)
Đây chính là nói “tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ”. Tịnh Độ và Di Đà đều do tự tánh biến hóa. Đã do tự tánh biến hóa ra, đương nhiên chẳng phải do ai khác, mà là chính mình. Kinh, luận (chú giải chính là luận) nói rõ ràng minh bạch như vậy, chúng ta nghe xong dường như cũng hiểu rõ, thật ra có hiểu rõ hay không? Không! Nghe chẳng hiểu rõ, vì sao nghe không hiểu? Nếu thật sự hiểu rõ, nghe thật sự hiểu, quý vị đã thành A Di Đà Phật, đã nhập cảnh giới, giống như nhà Thiền thường nói: “Ngôn hạ đại ngộ” (đại ngộ ngay khi [thầy hay thiện tri thức] vừa nói xong), quý vị nghe nói xong chẳng ngộ! Nói cách khác, chúng ta nghe rồi dường như hiểu, nhưng chẳng hiểu, chẳng phải thật sự hiểu, chẳng chuyển được cảnh giới. Thật sự hiểu sẽ lập tức chuyển được cảnh giới. Vì sao chúng ta không chuyển được? Nghiệp chướng quá nặng! Chướng ngại ngăn trở Chiếu và Tịch trong tự tánh của chính mình. Do vậy, Định vốn có trong tự tánh chẳng thể hiện tiền, Bát Nhã trong tự tánh cũng chẳng thể hiện tiền, bị nghiệp chướng của chính mình chướng ngại; nhưng quý vị phải hiểu rõ chuyện này: Trong tự tánh vốn có Bát Nhã và Định, nghiệp chướng, phiền não, và vô minh của quý vị trong hiện tại vốn là không. Vốn là không thì nó là giả, vốn là có thì nó là chân. Vốn là có sẽ nhất định chứng được, sẽ có thể khôi phục. Vốn là không thì nhất định sẽ đoạn được sạch sành sanh. Điều kiện thấp nhất là chúng ta phải tin tưởng điểm này, phải kiến lập tín tâm ở chỗ này thì quý vị sẽ có nhập xứ. Đoạn thứ hai tiếp theo đây là [đem những câu luận về Tánh trong lời tựa] phối hợp với Tam Đại (Thể Đại, Tướng Đại, Dụng Đại).
(Sớ) Hựu sơ cú minh vô bất chiếu, tức Dụng Đại.
(疏) 又初句明無不照,即用大。
(Sớ: Lại nữa, câu đầu tiên nói rõ [tự tánh] sáng suốt, không gì chẳng chiếu, đấy chính là Dụng Đại).
Câu đầu tiên là “linh minh đỗng triệt”, đấy là nói về Dụng Đại (tự tánh có tác dụng to lớn), không gì chẳng chiếu. Câu thứ hai là“trạm tịch thường hằng”.
(Sớ) Nhị cú tĩnh vô bất hàm, tức Tướng Đại.
(疏) 二句靜無不含,即相大。
(Sớ: Câu thứ hai là [tự tánh] tĩnh, nhưng không gì chẳng chứa, đấy chính là Tướng Đại).
Chân Như bổn tánh có hình dạng ra sao? Tướng thanh tịnh, tịch diệt, bất động. Kinh thường nói: “Na Già thường tại Định, vô hữu bất định thời” (Na Già[4] thường ở trong Định, chẳng lúc nào không Định). Tự tánh vốn Định, khi quý vị giác ngộ, tự tánh thuộc về Định; khi mê, tự tánh vẫn ở trong Định, chứ không phải là nói “quý vị đã mê, tự tánh sẽ loạn”. Nếu khi mê mà loạn thì chẳng gọi là bổn tánh, chẳng thể gọi là Bổn Giác, dẫu mê cũng chẳng loạn! Giống như ngày u ám không có ánh nắng mặt trời, mặt trời vẫn tỏa sáng giống hệt như vậy, nhưng bị mây che lấp mà thôi. Hiện thời, chúng ta biết điều này rất rõ ràng, ngồi phi cơ bay lên tầng mây sẽ thấy vẫn là ngày nắng rực rỡ, trọn chẳng phải là ngày hôm nay mặt trời không tỏa sáng, chẳng phải vậy. Điều này giống như tự tánh vốn Định, tự tánh có Bát Nhã, nó vừa Chiếu vừa Tịch, vĩnh viễn chẳng biến đổi, nhưng chúng ta tự mình sanh vô minh. Vô minh giống như một vầng mây dường như tạm thời che lấp [tia sáng mặt trời], chứ thật ra trọn chẳng chướng ngại. Giống như các tầng mây che lấp thái dương, chứ thật ra không ngăn lấp được. Mặt trời rất to, các tầng mây bé tí như thế làm sao có thể phủ lấp mặt trời? Tự tánh của chúng ta càng lớn hơn, kinh thường nói: “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”. Một tí vô minh phiền não làm sao có thể chướng ngại nó được? Chẳng thể có chuyện ấy! Do đây, có thể biết: “Linh minh đỗng triệt” là nói về tác dụng của tự tánh, “trạm tịch thường hằng” là hình tướng của tự tánh. Câu thứ ba và câu thứ tư nói về “vô hướng, vô bối”, chính là nói về bản thể. Đối với bản thể của tự tánh, “thanh, trược, hướng, bối” đều chẳng thể nào nói được!
(Diễn) Tam tứ cú huýnh tuyệt nhị biên, tức Thể Đại.
(疏) 三四句迥絕二邊,即體大。
(Diễn: Câu ba và câu bốn dứt bặt hai bên, tức là nói tới Thể Đại).
“Huýnh” (迥) là xa vời vợi. [“Huýnh tuyệt”] là đoạn tuyệt thật rốt ráo cả hai bên. Thanh và Trược là hai bên, Hướng và Bối là hai bên. Nói theo cách bây giờ, đó là “siêu việt tương đối”, ngay cả tuyệt đối cũng chẳng thể có. Tuyệt đối và tương đối vẫn là hai bên; đây chính là ý nghĩa “bất khả tư nghị” như trong phần trên đã giảng: Chẳng thể nghĩ, chẳng thể bàn. Đây chính là nói rõ về Thể.
(Sớ) Ngũ cú tổng tán, sở vị tức tam, tức nhất, song mẫn, song tồn, từ táng, lự vong, bất khả tư nghị.
(疏) 五句總讚,所謂即三即一,雙泯雙存,辭喪慮亡,不可思議。
(Sớ: Câu thứ năm là lời khen ngợi chung, có nghĩa là [Thể, Tướng, Dụng] vừa là ba, vừa là một, cùng diệt mất, cùng tồn tại, ngôn ngữ dứt tuyệt, mất sạch suy đoán, chẳng thể nghĩ bàn).
Gộp cả Thể, Tướng, Dụng lại để khen ngợi chung.
(Sớ) Mạt cú diệc kết quy tự tánh dã.
(疏) 末句亦結歸自性也。
(Sớ: Câu cuối cùng cũng là kết quy tự tánh).
Câu cuối cùng vẫn quy kết vào tự tánh: Thể, Tướng, Dụng là chính mình. Thể, Tướng, Dụng là những thứ ta sẵn có. Do đây có thể biết: Bộ kinh Di Đà này và sách Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa giảng điều gì? Giảng về chính mình, giảng về Thể - Tướng - Dụng Tam Đại, chứ chẳng giảng gì khác! Kinh Di Đà như vậy, mà kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Viên Giác, chẳng có một kinh nào không phải là như vậy. Toàn bộ Phật pháp là nói về chính mình. Do vậy, Phật pháp chẳng phải là tôn giáo, mà cũng chẳng phải là triết học. Vì sao? Tôn giáo[5] nói đến Tha (người khác, sự vật khác), chứ không đến chính mình. Triết học cũng nói đến Tha, vẫn chẳng phải là chính mình. Phật pháp suốt từ đầu đến tận cuối cùng là giảng về chính mình, chẳng nói tới ai khác. Duy Thức Học nói rất hay, trong Phật pháp phân biệt hết thảy các pháp tướng, phân biệt là chính mình, đúng là “ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm”.Chẳng hiểu rõ đạo lý này sẽ chẳng hiểu Phật pháp, kẻ ấy cũng chẳng có cách nào nhập Phật pháp, nhất định phải hiểu rõ!
(Diễn) Hựu sơ cú minh vô hạ, phối Tam Đại dã.
(演) 又初句明無下,配三大也。
(Diễn: Lại nữa, từ “câu đầu tiên nói rõ không gì chẳng chiếu” trở đi là đem [những lời luận định về tự tánh trong phần lời tựa] phối hợp với Tam Đại).
Tam Đại là Thể Đại, Tướng Đại và Dụng Đại.
(Diễn) Dụng Đại giả, vị chúng sanh tâm cụ hữu vô biên diệu dụng.
(演) 用大者,謂眾生心具有無邊妙用。
(Diễn: Dụng Đại là nói tâm của chúng sanh có đủ vô biên diệu dụng).
Đây là nói về tâm của chúng sanh, tâm của quý vị có đủ vô biên tác dụng mầu nhiệm.
(Diễn) Luận vân: “Tam giả Dụng Đại, năng sanh nhất thiết thế gian xuất thế gian thiện nhân quả cố”.
(演) 論云:三者用大,能生一切世間出世間善因果故。
(Diễn: Luận ghi: “Ba là Dụng Đại vì có thể sanh ra hết thảy các thứ nhân quả tốt lành thế gian và xuất thế gian”).
“Luận” là Đại Thừa Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát trình bày theo thứ tự thuận: Một là Thể Đại, hai là Tướng Đại, ba là Dụng Đại. Ở đây nói về Dụng Đại, cho nên dẫn điều thứ ba [trong luận Khởi Tín] nhằm thuyết minh tâm của chúng sanh có đủ vô biên diệu dụng, có thể sanh hết thảy nhân lành quả lành thế gian và xuất thế gian. Những thiện nhân thiện quả xuất thế gian của Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật là do đâu mà có? Từ trong tâm của chính quý vị sanh ra. Thiện nhân thiện quả của trời người trong thế gian cũng từ trong cái tâm của chính quý vị sanh ra. Quý vị phải biết: Đây là chân tâm, chân tâm quyết định sanh ra thiện nhân và thiện quả. Tam ác đạo và A Tu La đạo từ đâu mà có? Từ vọng tâm sanh ra. Chân tâm mang thêm một tầng vô minh sẽ sanh ra hết thảy ác nhân, ác quả, vẫn là do cái tâm ấy sanh ra. Trong tâm vướng mắc vô minh, vướng mắc phiền não nghiệp chướng, liền sanh ra ác nhân, ác quả. Trừ bỏ vô minh, trừ khử nghiệp chướng, tâm ấy sanh ra thiện nhân, thiện quả, há chẳng phải là như kinh Hoa Nghiêm đã nói: “Ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” (Hãy nên quán tánh pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo). Chữ “pháp giới” [trong hai câu kệ ấy] chỉ mười pháp giới, mà cũng chỉ Nhất Chân pháp giới. Nhất Chân pháp giới và mười pháp giới đều là “duy tâm sở tạo”, “tạo” có nghĩa là hiện, “duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Vì sao có thể hiện các thứ khác nhau? Thức khởi lên sự biến hóa ở trong ấy, duy thức sở biến. Tâm là chân tâm, duy Thức là chân tâm đèo thêm một tầng vô minh, chúng ta gọi nó là A Lại Da Thức hoặc “vọng tâm”. Nó có thể sanh, mà cũng là như Lục Tổ lúc khai ngộ đã nói: “Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp” (Nào ngờ tự tánh có thể sanh ra vạn pháp). “Hà kỳ” (何期) là không ngờ; không ngờ tự tánh có thể sanh ra hết thảy vạn pháp. Ngài khai ngộ liền thấy được chân tướng này, thốt lên một câu rất cảm khái như thế!
(Diễn) Kim thử linh minh vô sở bất chiếu.
(演) 今此靈明無所不照。
(Diễn: Nay [tự tánh] linh minh này không đâu chẳng chiếu).
Bát Nhã quang minh trong bổn tánh không đâu chẳng chiếu.
(Diễn) Tức thị năng sanh nhất thiết thế xuất thế thiện nhân quả dã.
(演) 即是能生一切世出世善因果也。
(Diễn: Chính là cái có thể sanh ra hết thảy nhân quả tốt lành thế gian hay xuất thế gian).
Từ câu này, chúng ta thấu hiểu hết sức rõ ràng, xác đáng: Hết thảy thiện nhân thiện quả đều sanh từ trí huệ. Linh minh giác chiếu là trí huệ trong bổn tánh, khó trách Phật pháp đề cao Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong bổn tánh có Thể, có Tướng, có Dụng; Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là nói về tác dụng, chứ không phải là nói về Thể. Chúng ta nói chữ Phật có ý nghĩa là Giác. Nói đến ý nghĩa của chữ Trí vẫn là nói đến tác dụng. Nếu nói đến Thể thì phải nói đến Tịch, nói “thanh tịnh tịch diệt” thì mới là đúng. Do vậy, nói Niết Bàn là dựa theo Thể để nói. Niết Bàn có nghĩa là “tịch tĩnh, tịch diệt”. Nói Phật là nói theo phương diện Dụng. Phật là trí huệ, có nghĩa là Giác. Niết Bàn và Phật có cùng một ý nghĩa, nhưng một đằng nói theo phương diện Thể, một đằng nói theo phương diện tác dụng. Dụng đương nhiên có Thể, Thể nhất định có Dụng. Đây là liễu giải: Thiện nhân thiện quả nhất định phải có trí huệ; chẳng có trí huệ sẽ không được.
(Diễn) Tướng Đại giả, vị chúng sanh tâm cụ hữu Như Lai trí huệ, đức tướng.
(演) 相大者,謂眾生心具有如來智慧德相。
(Diễn: Tướng Đại là nói tâm của chúng sanh có đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai).
Câu này chú trọng đức tướng. Khi Phật Thích Ca thành Phật, mới thấy tướng chân thật của hết thảy pháp, tức Thật Tướng của các pháp, lão nhân gia bèn nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ, đức tướng của Như Lai, đáng tiếc là các ngươi có phân biệt, chấp trước nên chẳng thể chứng đắc”. Lão nhân gia thốt ra lời rất cảm khái như vậy. Câu này cũng nói rất rõ ràng: Nếu trừ được phân biệt, chấp trước, thì trí huệ và đức tướng Như Lai của chúng ta sẽ hiện tiền, bèn chứng đắc; nhưng quý vị chẳng chịu bỏ phân biệt, chấp trước thì chẳng có cách nào hết! Ai chịu bỏ phân biệt, chấp trước, sẽ thành Phật ngay lập tức. Những thứ này khó bỏ, khó đoạn, chúng là tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay. Bỏ như thế nào? Phải Định, phải Tịnh. Kinh dạy: “Tịnh tĩnh quang thông đạt”. “Tịnh” là Định, Định đến tột cùng thì trí huệ và đức tướng Như Lai vốn có sẽ hiện tiền, sẽ thông đạt sự quang minh ấy. Do vậy, trí huệ nhất định phải từ Thiền Định sanh ra. “Nhất tâm bất loạn” trong kinh này chính là tự tánh vốn Định, là Thiền Định, là Lăng Nghiêm Đại Định như kinh Lăng Nghiêm đã nói. Trong câu kế tiếp, lại dẫn câu thứ hai trong Khởi Tín Luận để giảng.
(Diễn) Luận vân: “Nhị giả Tướng Đại, vị Như Lai Tạng cụ túc vô lượng tánh công đức cố”.
(演) 論云:二者相大,謂如來藏具足無量性功德故。
(Diễn: Luận chép: “Hai là Tướng Đại, vì Như Lai Tạng trọn đủ vô lượng các công đức thuộc về tánh).
Như Lai Tạng là gì? Chính là cái tâm của chúng sanh, tâm của chúng sanh là Như Lai Tạng. Trí huệ và đức tướng của Như Lai là vô lượng công đức trong tự tánh. Cách nói khác nhau, nhưng vẫn cùng là một chuyện. “Cụ túc vô lượng tánh công đức” là có trọn đủ trí huệ và đức tướng của Như Lai. Hai câu có thể dùng để giải thích lẫn nhau thì vừa đọc đã thấy ý nghĩa hết sức rõ rệt.
(Diễn) Kim thử trạm tịch vô sở bất hàm, tức thị cụ túc vô lượng tánh công đức dã.
(演) 今此湛寂無所不含,即是具足無量性功德也。
(Diễn: Nay sự trạm tịch (trong trẻo, vắng lặng) này không gì chẳng chứa đựng, chính là đầy đủ vô lượng công đức nơi tự tánh vậy).
“Trạm” là thanh tịnh, “tịch” là tịch diệt bất động. Tâm thanh tịnh, chẳng có một tí cặn bã nào, Lục Tổ nói “vốn chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần”. Một hạt vi trần cũng chẳng nhiễm, đó là “trạm tịch”, đấy là hình tướng của chân tâm. Thể quá khó giải thích, hãy từ Dụng và Tướng mà quan sát sẽ dễ hiểu được. Tướng và Dụng đều là bản thể. Tự tánh có đủ vô lượng công đức, khi nào quý vị mới có thể thấy được? Nhất định là phải đạt đến Lý nhất tâm bất loạn thì sẽ thấy được. Bởi lẽ, hình tướng của Lý nhất tâm là“trạm tịch thường hằng”. Dùng hai câu trong kinh Kim Cang để nói thì là “chẳng chấp vào tướng, như như bất động”. Đấy là Lý nhất tâm, là trạm tịch thường hằng, nên mới có thể nhận thấy những thứ vốn có sẵn đầy đủ trong ấy.
(Diễn) Thể Đại giả, vị chúng sanh tâm thị nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể.
(演) 體大者,謂眾生心是一法界大總相法門體。
(Diễn: Thể Đại là nói tâm của chúng sanh là Thể của pháp môn đại tổng tướng Nhất Chân pháp giới).
Điều này chẳng thể nghĩ bàn. Kinh Hoa Nghiêm gọi “nhất pháp giới” là Nhất Chân pháp giới. Trong Nhất Chân pháp giới, bản thể của pháp môn Đại Tổng Tướng trong Nhất Chân pháp giới. Nói cách khác, Nhất Chân pháp giới nương vào gì để biến hiện? Nương vào tâm của chúng sanh để biến hiện. Tâm chúng sanh hiện ra tướng Nhất Chân pháp giới. Trong Nhất Chân pháp giới có vô lượng vô biên biệt tướng. Biệt tướng là cái được hiện, tổng tướng là năng hiện (chủ thể biến hiện). Tổng tướng là tướng của tâm chúng sanh.
(Diễn) Luận vân: “Nhất giả, Thể đại, vị nhất thiết pháp Chân Như bình đẳng, vô tăng giảm cố”.
(演) 論云:一者體大,謂一切法真如平等不增減故。
(Diễn: Luận nói: “Một là Thể đại, nghĩa là hết thảy pháp Chân Như bình đẳng vì không tăng giảm”.
“Nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể” chẳng tăng, chẳng giảm, không thanh, không trược, không trái nghịch, không hướng về, trong ấy chẳng lập một pháp, chẳng bỏ một pháp nào, chẳng có lấy hay bỏ. Do vậy, pháp này là pháp bình đẳng, là pháp chân thật. “Nhất thiết pháp Chân Như”, Thể là chân, Tướng và Dụng cũng chẳng giả. Khi mê thì nói là hư vọng, lúc ngộ bèn nói là thuần chân. Khi mê thì dường như có tăng giảm, lúc ngộ chẳng có tăng hay giảm. Do vậy, nơi Phật chẳng tăng thêm, nơi chúng sanh chẳng giảm bớt. Hết thảy pháp đều chẳng tăng, chẳng giảm. Nếu chúng ta quan sát cặn kẽ, hiện thời các nhà khoa học cũng đã phát hiện [điều này], nhưng không nói thấu triệt như Phật pháp. Các nhà khoa học nói: “Vật chất bất diệt, tinh thần cũng bất diệt”. Đã bất diệt thì đương nhiên cũng chẳng sanh, “bất sanh, bất diệt”. Đây là điều chân thật, nhưng hết thảy tướng chỉ có duyên tụ hay duyên tán. Có rất nhiều người cảm thấy kỳ quái, trên thế giới hiện thời có nhiều người như thế, rốt cuộc họ từ đâu tới? Có phải là chân tánh có thể biến thành rất nhiều tánh hay không? Quý vị mà hiểu như vậy thì đã sai rồi. Nếu thần thức của chúng ta có thể biến thành thật nhiều thì trong tương lai khi chúng ta thành Phật cũng có thể biến thành rất nhiều Phật hay sao? Chẳng có lẽ ấy! Phải hiểu chân tướng là “chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng một, chẳng khác, một vị bình đẳng”.
(Diễn) Kim thử “linh tâm tuyệt đãi, huýnh tuyệt nhị biên”, tức thị bất tăng, bất giảm, nhất vị bình đẳng dã.
(演) 今此靈心絕待,迥絕二邊,即是不增不減一味平等也。
(Diễn: Nay “cái tâm thông linh, dứt bặt đối đãi, dứt trọn hai bên” này chính là chẳng tăng, chẳng giảm, một vị bình đẳng vậy).
Hai bên chẳng lập, Trung Đạo chẳng tồn tại. Thanh, trược, hướng về, trái nghịch, đều là nhị biên, trong chân tánh chẳng tìm được. Đây chính là như luận Khởi Tín đã nói: Chân Như bình đẳng, chẳng tăng, chẳng giảm, một vị bình đẳng. Câu này nhằm giảng rõ Thể Đại. Tiếp theo đây, sách Diễn Nghĩa gộp cả ba thứ Thể, Tướng, Dụng lại để khen ngợi chung.
(Diễn) “Tức tam, tức nhất, song mẫn, song tồn” giả, Thể phi Tướng, Dụng, nãi chí Dụng phi Thể, Tướng, tức tam dã. Nhi hựu ly Thể vô Tướng Dụng, ly Tướng vô Thể Dụng đẳng, tức nhất dã.
(演) 即三即一,雙泯雙存者,體非相用,乃至用非體相,即三也;而又離體無相用,離相無體用等,即一也。
(Diễn: “Chính là ba, chính là một, cả hai cùng mất, cả hai cùng tồn tại”: Thể chẳng phải là Tướng hay Dụng, cho đến Dụng chẳng phải là Thể hay Tướng nên chúng chính là ba. Lại nữa, lìa Thể sẽ không có Tướng và Dụng, lìa Tướng sẽ không có Thể và Dụng v.v... nên chúng chính là một).
Thể chẳng phải là Tướng, Tướng chẳng phải là Dụng. Thể, Tướng, Dụng là ba món, nên “tức tam” (chính là ba). Tuy vậy, chúng có cùng một bản thể, [nói Thể, Tướng, Dụng] là quan sát từ ba góc độ, nhưng ba món này lại là một. Lìa Thể sẽ chẳng có Tướng và Dụng, lìa Tướng cũng chẳng có Thể và Dụng. Do vậy, chúng lại là một. Một mà ba, ba là một! Nói ba thì chẳng có một, nói một thì chẳng có ba, [do vậy gọi là] “song mẫn” (cả hai cùng mất). Một chính là ba, ba chính là một, [nên gọi là] “song tồn” (cả hai cùng tồn tại). Nói một hay ba đều được. Nhất định phải hiểu rõ những ý nghĩa được chứa đựng trong mấy câu này. Hễ có một điểm nào lờ mờ thì chẳng những quý vị chẳng thể khai ngộ, mà tất nhiên quý vị sẽ tăng trưởng mê hoặc, tăng trưởng vô minh, tăng trưởng tà kiến. Vì sao là ba? Vì sao là một? Vì sao chẳng phải là ba mà cũng chẳng phải là một? Vì sao vừa là ba vừa là một? Phải hiểu rõ từng điều! Nói là ba hay một, là nói theo góc độ nào? Nói chẳng phải ba, chẳng phải một là nói từ chỗ nào? Vừa là ba vừa là một là nói từ chỗ nào? Đều phải hiểu rõ, quán sát từng khía cạnh thì mới có thể ngộ nhập Thật Tướng, mới thật sự hiểu rõ chân tướng sự thật này, đoạn nghi sanh tín. Nhất định phải hiểu rõ Tam Đại Thể - Tướng - Dụng. Chuyện này có quan hệ hết sức lớn, trong triết học, chúng thuộc [hai phạm trù[6]] là bản thể và hiện tượng. Thể Đại là bản thể, Tướng Đại là hiện tượng. Phạm vi bao quát của Dụng Đại quá rộng lớn, gần như tất cả học thuật thế gian lẫn xuất thế gian không gì chẳng thuộc trong Dụng Đại.
(Diễn) Nhất tức tam, tắc nhất mẫn, tam tức nhất, tắc tam mẫn, song mẫn dã. Nhi hựu nhất tức tam, tắc tam tồn, tam tức nhất, tắc nhất tồn, song tồn dã. Tồn thời tức mẫn, mẫn thời tức tồn, phi mẫn, phi tồn, bất khả tư nghị.
(演) 一即三則一泯,三即一則三泯,雙泯也。而又一即三則三存,三即一則一存,雙存也。存時即泯,泯時即存,非泯非存,不可思議。
(Diễn: Một chính là ba, tức là “nhất” đã mất. Ba chính là một, tức là “tam” đã mất. Đấy chính là “song mẫn” (cả hai cùng mất). Lại nữa, một tức là ba, tức là “tam” tồn tại. Ba chính là một, tức là “nhất” tồn tại. Đấy là “song tồn” (cả hai cùng tồn tại). Khi tồn tại chính là mất, khi mất chính là tồn tại, chẳng mất, chẳng tồn tại, chẳng thể nghĩ bàn).
Ngôn ngữ chỉ có thể diễn tả tới đây, công năng của ngôn ngữ phát huy đến đây là tột cùng, chẳng còn có cách nào khác nữa, nhưng ý nghĩa chẳng tận. Từ chỗ này, lại phải đẩy ý nghĩa lên một tầng cao hơn nữa, đó gọi là “ý nằm ngoài lời”. Không có cách nào diễn tả ý nằm ngoài lời, chỉ đành nói “bất khả tư nghị”. Nếu quý vị muốn giải thích sự bất khả tư nghị cho người ta, hãy đem đoạn này nói ra, nó chính là ý nghĩa của “bất khả tư nghị” đấy.
Liên Trì đại sư nói: “Từ táng, lự vong, bất khả tư nghị” (Từ ngữ dứt bặt, suy nghĩ dứt tuyệt, chẳng thể nghĩ bàn). “Từ” (辭) là ngôn thuyết, ngôn thuyết đến đây là cùng tận, nói hết rồi, không còn cách nào để nói nữa. “Lự” (慮) có nghĩa là suy nghĩ. “Từ táng”là không còn nói năng gì được nữa. “Lự vong” là tâm hành cũng ngưng dứt. Chẳng thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được, chẳng thể suy nghĩ, tưởng tượng được, đó là “bất khả tư nghị”. Thế nhưng có cảnh giới ấy hay không? Có chứ! Thật sự có cảnh giới ấy. Cảnh giới ấy là gì? Tự tánh đấy! Tức là Chân Như bổn tánh của chúng ta. Chân Như bổn tánh chính là giáo thể của kinh này. Kinh Di Đà từ trong bổn tánh, từ trong tự tánh lưu lộ. Bộ kinh này là tự tánh của chính mình. Do đây có thể biết, danh hiệu A Di Đà Phật là đức hiệu của chính tự tánh. Dùng từng tiếng danh hiệu này để đánh thức tự tánh của chính mình, khôi phục tự tánh của chúng ta. Do vậy, công đức của danh hiệu ấy chẳng thể nghĩ bàn. Đoạn văn tiếp theo là [đem những lời giải thích về tự tánh trong phần lời tựa sách Sớ Sao] phối hợp với ba đức để nói. Ba đức là Pháp Thân, Bát Nhã và Giải Thoát.
(Sớ) Hựu sơ cú ngôn Chiếu, tức Bát Nhã đức. Nhị cú ngôn Tịch, tức Giải Thoát đức. Tam tứ cú ngôn Tịch Chiếu bất nhị, tức Pháp Thân đức. Ngũ cú tổng tán, mạt cú kết quy, lệ thượng khả tri.
(Diễn) Hựu, “sơ cú ngôn Chiếu” hạ, phối Tam Đức. Trí huệ quang minh biến chiếu pháp giới danh vi Bát Nhã.
(疏) 又初句言照,即般若德。二句言寂,即解脫德。三四句言寂照不二,即法身德。五句總讚,末句結歸,例上可知。
(演) 又初句言照下配三德,智慧光明遍照法界名為般若。
(Sớ: Lại nữa, câu đầu tiên nói về Chiếu, tức là Bát Nhã đức. Câu thứ hai nói tới Tịch, tức là Giải Thoát đức. Câu thứ ba và câu thứ tư nói “Tịch Chiếu bất nhị”, tức là Pháp Thân đức. Câu thứ năm là khen ngợi chung, câu cuối cùng kết quy [tự tánh], cứ dựa theo phần trên sẽ biết được ý nghĩa.
Diễn: Lại nữa, từ “câu đầu tiên nói về Chiếu” trở đi là phối hợp với
Tam Đức. Trí huệ quang minh chiếu khắp pháp giới thì gọi là Bát Nhã).
“Pháp giới” có Nhất Chân pháp giới, có mười pháp giới. “Chiếu” là hết thảy đều thông đạt. Các tôn giáo tán thán Thần hay Thượng Đế của họ là toàn tri toàn năng. Thật ra, Thần và Thượng Đế chưa chắc đã toàn tri toàn năng, nhưng Bát Nhã trong tự tánh mới thật sự có tác dụng toàn tri toàn năng. Do vậy, toàn tri toàn năng là chính mình. Hiện thời, chúng ta thật đáng thương. Vốn là toàn tri toàn năng, quá khứ, hiện tại, vị lai không gì chẳng biết, nhưng con người hiện thời mê hoặc đến cùng cực, nghe nói kẻ nào đó có chút thần thông vặt vãnh bèn vội vàng đến lễ bái kẻ đó. Quý vị phải biết, đó là thần thông nhỏ nhoi! Có phải là bản thân kẻ ấy thật sự có thần thông hay chăng? Không phải! Quý vị đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ biết ngay: Những loài yêu ma quỷ quái dựa vào thân kẻ ấy. Những loài yêu ma quỷ quái quá nửa có năm thứ thần thông: Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ, Tha Tâm, Thần Túc, Túc Mạng, nhưng không có Lậu Tận Thông. Bọn chúng có Túc Mạng Thông, nhập vào thân quý vị nên quý vị có thể biết quá khứ, vị lai. Năng lực của chúng rất hữu hạn, chỉ biết những chuyện gần nhất, chẳng biết những chuyện xa xôi, chỉ biết chuyện nhỏ, chẳng biết chuyện lớn, quyết chớ để những loài yêu ma quỷ quái ấy lừa gạt!
Một cá nhân tin vào những loài yêu ma quỷ quái ấy, gia đình người đó chẳng bao lâu sẽ suy bại, một quốc gia mà tin vào những thứ đó, quốc gia ấy chẳng bao lâu nhất định diệt vong. Trong Tả Truyện có ghi: “Quốc chi tương vong, tất hữu yêu nghiệt” (Nước sắp mất, ắt có yêu nghiệt). Yêu nghiệt là gì? Chính là những loài yêu ma quỷ quái. Chúng ta thấy xã hội hiện thời không tốt đẹp, xã hội gặp phải hoạn nạn, chẳng hạnh phúc như vậy là điềm báo trước đại kiếp nạn sắp xảy tới. Chỗ nào cũng có những loài yêu ma quỷ quái mê hoặc lòng người, khiến cho chánh tri chánh kiến của con người bị mê hoặc. Như vậy thì tai nạn do đâu mà có? Tai nạn do chính con người tạo ra! Quý vị chẳng đoái hoài tới những loài yêu ma quỷ quái ấy, chẳng tin tưởng chúng, hai ngày sau chúng sẽ bỏ đi, vì không có cách gì phô trương bản lãnh được! Có nhiều người tin tưởng chúng, ủng hộ chúng, chúng càng ngày càng lợi hại. Ai cũng mắc cái bệnh này: Ưa chuộng kỳ quái! Nói chánh pháp thì họ chẳng tin tưởng, những chuyện bình thường nhạt nhẽo ấy có gì là kỳ quái đâu nhỉ? Kẻ kia có thần thông, nói vanh vách những chuyện trong lòng tôi, tuyệt diệu thay! Đây là nhược điểm trong tánh tình con người. Yêu ma quỷ quái bèn nắm lấy nhược điểm trong tánh tình con người để mê hoặc quý vị, khiến cho quý vị hoàn toàn chôn vùi lòng tin nơi chính mình. Chính quý vị có vạn đức vạn năng, chính quý vị có trí huệ quang minh vô hạn, nhưng quý vị tin tưởng những thứ yêu ma quỷ quái ấy, [những thứ đức năng, trí huệ v.v...] đều mất hết, khiến cho chính mình càng mê càng sâu, tạo tội nghiệp ngày càng nặng. Trung Quốc, ngoại quốc đều là như vậy, đó gọi là mê tín!
Lúc tôi mới học Phật, thỉnh giáo Chương Gia đại sư về chuyện cầu cơ. Chương Gia đại sư bảo tôi: Đấy là linh quỷ giả mạo danh nghĩa của Phật, Bồ Tát, mạo nhận là Phật, Bồ Tát, chúng cũng làm được một chút chuyện tốt, cũng muốn tu thiện, quá nửa là khuyên con người đoạn ác tu thiện. Dùng thân phận của chúng thì chẳng ai tin tưởng. Do vậy, chúng bèn giả mạo danh nghĩa của Phật, Bồ Tát thì mọi người tin tưởng, chứ không phải là Phật, Bồ Tát thật sự. Chuyện nhỏ thì linh nghiệm, chứ chuyện lớn sẽ một mực hồ đồ, nói nhăng nói cuội! Chương Gia đại sư bảo tôi: Nhà Mãn Thanh mất nước do mê cầu cơ. Do Từ Hy thái hậu tin tưởng nên hàng vương công đại thần trong chánh phủ Mãn Thanh đều tin tưởng. Quốc gia quyết định chánh sách chẳng dám tự mình làm chủ, mà nhờ vào cầu cơ để quyết định. Do cầu cơ nhà Mãn Thanh bị mất nước. Sách Tả Truyện chép: “Quốc tương hưng, thính ư dân (lão bách tánh), quốc tương vong, thính ư thần (quỷ thần)” (Nước sắp hưng thịnh, chánh quyền nghe theo ý dân. Nước sắp mất, chánh quyền nghe lời quỷ thần). Nếu quý vị hiểu rõ đạo lý này, muốn gia đình chúng ta hưng vượng, hãy nghe lời người nhà, nghe ý kiến của người nhà. Chuyện gì chúng ta cũng nên họp lại, bàn bạc quyết định. Nếu nghe theo lời giáng cơ, nhà đó nhất định diệt vong.
Phật pháp dạy quý vị khôi phục năng lực và thần thông chính mình vốn có. Quỷ thần có năm thứ tiểu thần thông, quý vị có đại thần thông, vì sao quý vị chẳng khôi phục? Trí huệ, đức năng là những thứ sẵn có đầy đủ trong bổn tánh, chẳng do bên ngoài mà có! Tu học Phật pháp khởi sự từ Giới, Định, Huệ, y giáo phụng hành, nhất định sẽ chứng đắc. Học Phật phải thành tâm thành ý mà học, chẳng thể chụp giựt, cầu may. Đây là khôi phục tánh đức của chính mình, làm sao có thể chụp giựt, cầu may cho được? Tâm có tí ti hư ngụy sẽ thành chướng ngại, [sự hư ngụy ấy] chính là kẻ giặc đối với tánh đức. Điều thứ nhất của Bồ Đề tâm là “chí thành tâm”, chẳng có mảy may hư ngụy nào, chân thành thì mới có thể khôi phục trí huệ quang minh chiếu trọn khắp pháp giới, đấy là Bát Nhã đức.
(Diễn) Ly nhất thiết nhiễm đắc đại tự tại, danh vi Giải Thoát.
(演) 離一切染得大自在名為解脫。
(Diễn: Lìa hết thảy nhiễm, được đại tự tại thì gọi là Giải Thoát).
Đây là câu thứ hai, chỉ có tự tánh vốn Định. Từ trong thanh tịnh tịch diệt thì hết thảy ô nhiễm đều chẳng có. Có tí ti ô nhiễm nào thì tâm quý vị sẽ chẳng thể Định. Chúng ta thường gọi ô nhiễm là “vướng mắc”. Có tí ti chuyện gì ghim giữ trong lòng, tâm sẽ chẳng thể an. Nhà Thiền thường nói “một sợi tơ chẳng vướng”, tâm địa thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần, tự tại rồi đấy! Hễ có vật gì bèn là vướng mắc, có vướng mắc sẽ chẳng tự tại. “Giải thoát” là tự tại. Chữ Giải ở đây nên coi như động từ, có nghĩa là tháo ra, “thoát” là thoát lìa. Giải là nói theo mặt nhân, Thoát là nói theo mặt quả. Chúng ta tháo gỡ mê hoặc điên đảo sẽ vượt thoát sanh tử luân hồi, thì mới có thể đắc “đại tự tại”. Điều này cần phải có Thiền Định rất sâu! A La Hán có Cửu Thứ Đệ Định, vượt thoát luân hồi trong sáu đường. Trên quả địa Như Lai, tự tánh vốn Định sẽ siêu việt hai thứ sanh tử là Phần Đoạn sanh tử và Biến Dịch sanh tử, siêu việt mười pháp giới, chứng đắc Nhất Chân pháp giới, đấy mới gọi là “đại tự tại”. Câu thứ ba và câu thứ tư nói về “Tịch - Chiếu bất nhị”, đấy là nói về Pháp Thân đức.
(Diễn) Tâm thể ly niệm pháp giới nhất tướng, danh vi Pháp Thân.
(演) 心體離念法界一相名為法身。
(Diễn: Tâm thể ly niệm pháp giới nhất tướng, gọi là Pháp Thân).
“Tâm thể” là chân tâm lý thể, tức là bản thể của chân tâm, quý vị phải ghi nhớ, nó không có niệm. Vô niệm mới là chánh niệm. Có niệm là vọng niệm. Thử hỏi: Chúng ta hết thảy ý niệm đều không có thì có phải là chánh niệm hay không? Vẫn là vọng niệm! Chúng ta hiện đang có niệm, đó là tà kiến, mà vô niệm thì là vô minh, tuyệt đối chẳng thể có chánh niệm hiện tiền vì rớt vào hai phương diện Có và Không. “Ly niệm” là rời hữu niệm mà vô niệm cũng rời luôn! Có và Không đều rời hết, đó mới gọi là “chánh niệm”. Nay chúng ta chỉ có thể rời một bên, hễ rời hữu niệm bèn còn có vô niệm, hễ rời vô niệm bèn còn có hữu niệm. Phải bỏ cả hai bên mới được! Rời một bên là không được, rời vô niệm là hữu niệm, hữu niệm là tà kiến, rời hữu niệm bèn là vô niệm, vô niệm là vô minh.
Có những người tu Vô Tưởng Định, tách rời hết thảy vọng tưởng, chuyên tu vô niệm, tu thành Vô Tưởng Định, sống trong Vô Tưởng Thiên thuộc Tứ Thiền Thiên. Đó là ngoại đạo thiên, một mực chết lặng, thứ gì cũng chẳng có. Định ấy mất đi, lại luân hồi đầu thai, cảnh giới như vậy đấy! Đó là Tử Định, chẳng phải là Pháp Thân. Tại Ấn Độ có những hàng ngoại đạo tu hành, lìa hết thảy vọng niệm, tu Không Định, tu thành công, sanh lên Tứ Không Thiên. Tứ Không Thiên thấy một khối hỗn độn. Hỗn độn là gì vậy? Là vô minh. Mở đầu sách Ấu Học Quỳnh Lâm là câu “hỗn độn sơ khai, càn khôn thỉ điện” (thuở bắt đầu hỗn độn, trời và đất bắt đầu định lập), kiến giải hoàn toàn tương đồng với ngoại đạo Ấn Độ. Ngoại đạo Ấn Độ lập ra hai mươi lăm Đế, điều thứ nhất là Minh Đế. Minh Đế (冥諦: Minh ở đây là tối tăm) chính là hỗn độn sơ khai. Vô Tưởng Định đến mức cùng cực có cảnh giới như thế, họ tưởng đó là Bồ Đề Niết Bàn, lầm lẫn quá đỗi! Phật pháp dạy chúng ta: Pháp Thân là quang minh, chẳng phải là hắc ám, quang minh chiếu trọn khắp pháp giới. “Hỗn độn” là hắc ám, chẳng phải là quang minh.
“Tâm thể ly niệm”: Hữu niệm và vô niệm đều lìa, rồi mới thấy pháp giới vốn là “nhất tướng”, nhất tướng không có hai tướng, đó gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân.
(Diễn) Thị tam chủng giai cụ Thường Lạc Ngã Tịnh tứ đức, cố giai vân đức.
(演) 是三種皆具常樂我淨四德,故皆云德。
(Diễn: Ba loại này đều có đủ bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, nên đều nói là “đức”).
Bát Nhã đức, Giải Thoát đức, Pháp Thân đức, “đức” là gì? Trong ấy gồm bốn điều. Trong Bát Nhã có Thường, có Lạc, có Ngã, có Tịnh. Thường là vĩnh hằng bất biến; Lạc là lìa hết thảy khổ, thật sự hưởng thụ tự tại, chân lạc; Ngã là chủ tể, chính mình thật sự làm chủ; Tịnh là thanh tịnh, quyết định chẳng nhiễm. Trong Bát Nhã có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh; trong Giải Thoát có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh; trong Pháp Thân có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, nên [Bát Nhã, Giải Thoát, Pháp Thân] gọi là Tam Đức. Chữ Đức chỉ bốn thứ Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, “cố giai vân Đức” (nên đều nói là Đức).
(Diễn) Nhiên hữu quả thượng tu thành tam đức, nhân trung tánh cụ tam đức, kim chỉ nhân trung tánh cụ nhi ngôn dã.
(演) 然有果上修成三德,因中性具三德, 今指因中性
具而言也。
(Diễn: Nhưng có [hai loại]: Tam đức do tu thành nơi quả và tánh trọn đủ tam đức trong khi tu nhân, nay [tam đức được nhắc đến ở đây] chính là nói về tánh trọn đủ tam đức trong khi tu nhân vậy).
Tu thành nơi quả là Phật và đại Bồ Tát. Pháp Thân đức, Giải Thoát đức, Bát Nhã đức của các Ngài đều hiện tiền, đắc đại tự tại! Phàm phu thì sao? Chúng ta chưa đắc quả, tuy trong bổn tánh đã có, nhưng hiện tại chẳng thể thụ dụng. Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đều không có. Có phải là thật sự không có hay chăng? Thật sự là có. Có đầy đủ trong bổn tánh của chúng ta, đầy đủ Pháp Thân, Bát Nhã, Giải Thoát, đầy đủ Thường, Lạc, Ngã ,Tịnh, hiện thời vì sao không có? Mê mất rồi! Phá mê khai ngộ, đều khôi phục hết. Đây chính là đem một đoạn trong lời tựa phối hợp với ba đức để giảng rõ, đủ thấy ý nghĩa trong mấy câu của lời tựa hết sức rộng lớn, tinh tường, sâu xa, gần như chẳng có pháp nào không bao hàm. Hôm nay đã hết thời gian rồi!
A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa
Phần 7 hết
[1] “Hồn thành” (渾成hoặc hỗn thành: 混成) là một danh từ trong Đạo Giáo, dựa theo ý câu nói của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh: “Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sanh” (Có một vật tự nhiên sanh thành, sanh trước trời đất). Các nhà chú giải cho rằng “hữu vật hỗn thành” là chỉ cho đại đạo, cho thái cực, cho vũ trụ sơ khai, mang ý nghĩa tự nhiên sanh thành. Do vậy, “hỗn thành” thường được dùng với ý nghĩa là tự nhiên sẵn có.
[2] Ý nói: Trước khi đạt đến địa vị Thỉ Giác thì vẫn có cái danh là Bồ Tát, nhưng vẫn còn vướng mắc trong Tứ Tướng và Tứ Kiến. Người ấy có giác ngộ chứ không phải chẳng có, nhưng sự giác ngộ ấy nhiều nhất chỉ là Chánh Giác (tương đương với Tiểu Thừa A La Hán), không thể nào là Chánh Đẳng Chánh Giác được!
[3] Sanh tướng vô minh (Mulavidya): Còn gọi là Vô Thỉ Vô Minh, Nguyên Phẩm Vô Minh, là căn bản của hết thảy phiền não, đồng thời là căn bản của Vô Minh phiền não. Nó chính là cái tâm bất giác, mê vọng. Gọi là “sanh tướng vô minh” vì vô minh đã có từ vô thỉ, là căn bản gây nên sanh tử lưu chuyển.
[4] Na Già (Nāga), theo Huyền Ứng Âm Nghĩa, quyển 23, có nghĩa gốc là “rồng, voi, vô tội”. Về sau, từ ngữ này thường được dùng để xưng tụng Phật hoặc La Hán, nhằm sánh ví những bậc có đại lực dụng. Đại Trí Độ Luận, quyển 3 viết: “Ma Ha là lớn, Na là Vô, Già là Tội. A La Hán đoạn các phiền não, cho nên gọi là Đại Vô Tội (Ma Ha Na Già)”. Thiền Định của Phật cũng được gọi là Na Già Đại Định như luận Câu Xá, quyển 13 chép: “Có các bộ (các bộ phái Tiểu Thừa) nói, chư Phật Thế Tôn thường ở trong Định, tâm chỉ là lành, không có tâm vô ký. Vì thế, Khế Kinh chép: ‘Na Già hành tại Định, Na Già trụ tại Định, Na Già tọa tại Định, Na Già ngọa tại Định” (Đức Thế Tôn đi, đứng, ngồi, nằm thường ở trong Định).
[5] Tôn giáo (Religion) hiểu theo quan điểm Tây Phương luôn liên quan đến một đấng Sáng Thế, quy kết vũ trụ do một đấng thiêng liêng tạo ra, nên nói tôn giáo là Tha, không nhấn mạnh đến tự tâm như Phật giáo.
[6] Phạm trù (范疇, category of being) là thuật ngữ trong Triết Học, chỉ một hệ thống phân loại những khái niệm triết học có chung một số đặc điểm chung, sẽ được xếp vào cùng một tiểu loại. Tiểu loại ấy sẽ gọi là Phạm Trù. Nói cách khác, có thể hiểu đơn giản, Phạm Trù là cách phân loại tổng quát các khái niệm thành những tiểu tập hợp riêng biệt nhằm dễ biện luận, suy tưởng. Các phạm trù quan trọng nhất trong Triết Học Cổ Hy Lạp theo Aristotle là Thực Thể (Ousia), Số Lượng (Poson), Phẩm Chất (Poion), Quan Hệ (Pros Ti), Nơi Chốn (Pou), Thời Gian (Pote), Tư Thế (Keisthai), Trạng Thái (Echein), Động Tác (Poiein) và Ảnh Hưởng (Paschein).
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top