990 - MTrung
1. Cầu Sài Gòn – Sông Sài Gòn – Tân Cảng, Xa lộ Biên Hòa (Xa lộ Hà Nội), Cầu Rạch Chiếc – Sân Gôn Thủ Đức, nhà máy xi măng Hà Tiên, nhà máy điện Thủ Đức.
Cầu Sài Gòn nối liền 2 quận Bình Thạnh và quận 2, là cửa ngõ đặc biệt quan trọng ở phía Bắc TP.HCM, nối liền quốc lộ 52, tuyến đường huyết mạch trong việc giao thương với các tỉnh miền Đông Nam bộ và phía Bắc. Cầu được xây dựng năm 1959 – 1961, dài 988m, rộng gần 20m gồm nhịp do công ty CEC thiết kế và hai công ty khác của Mỹ thi công và xây dựng. Tổng diện tích mặt cầu là 5000m2. Cầu Sài Gòn bắc ngang sông Sài Gòn. Sông này bắt nguồn từ vùng Hớn Quảng chảy xuyên qua địa phận Tây Ninh, Sông Bé rồi vào Tp-HCM lại tiếp nhận thêm nguồn nước của sông Đồng Nai, sau đó mới đổ ra biển qua cửa Cần Giờ, vịnh Gành Rái. Đoạn chảy qua Tp-HCM dài hơn 100km, chiều dài của sông ra đến của biển là 256km. Đây là con sông có giá trị lớn về giao thông. Năm1998 cầu Sài Gòn được nâng cấp với tổng kinh phí là 54 triệu France và 7tỷ VND.
Tân Cảng trực thuộc Bộ Quốc Phòng nằm cuối đường Điện Biên Phủ, phường 22, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Kho bãi có tổng diện tích: 1,500,000m2.
Kho: 90,000 m2; trong đó CFS 28,200 m2. Kho ngoại quan 12,000 m2
Bãi chứa: 471,000 m2 xếp container cao 5 tầng.
Sức chứa tổng cộng: 33,600 TEUs tương đương 505,000 T
Các dịch vụ như: Xếp dỡ hàng hoá, dịch vụ cảng biển, kho bãi. Dịch vụ cảng trung chuyển quốc tế. Dịch vụ ICD và kho ngoại quan. Vận chuyển hàng đường bộ, đường sông , lai dắt tàu biển. Dịch vụ cứu hộ trên biển, trên sông. Dịch vụ giao nhận hàng hoá cung ứng tàu biển. Tìm kiếm cứu hộ. Xây lắp và sữa chữa 74 công trình thuỷ, công trình công nghiệp, dân dụng. Xây dựng và kinh doanh cao ốc văn phòng, Dịch vụ xúc tiến thương mại hàng hải.
Xa lộ Biên Hòa (xa lộ Hà Nội) Trước năm 1975 con đường này có tên là xa lộ Biên Hòa, được xây đựng cùng thời với cầu Sài Gòn – cầu Đồng Nai. Ngày 10/10/1984 để kỷ niệm ngày giải phóng thủ độ Hà Nội, UBND Thành phố quyết định đổi tên thành xa lộ Hà Nội. Sau nhiều lần sữa chữa và nâng cấp mở rộng mặt đường. Chính phủ đã xây dựng các trạm thu phí giao thông trên tuyến xa lộ Hà Nội với mức phí thu là 25.000đồng /xe tải.
Cầu Rạch Chiếc cách ngả ba cát lái khoảng 100m, đây là chiếc cầu có tuổi thọ bằng với cầu Sài Gòn và Cầu Đồng Nai. Tại đây chiếc Cầu này đã chứng kiến suốt 3 ngày máu lửa từ ngày 27 – 30/04/1975, trên đường tiến vào giải phóng Sài Gòn sau khi cách cửa tháp Xuân lộc bị đánh bật, những người lính của quân đội nhân dân Việt Nam được nhận lệnh phải chiếm giử Cầu (Vì đây là điểm yếu nhất trên xa lộ Biên Hòa). 5 trận đánh oanh liệt đã diển ra tại đây. Cuối cùng quân giải phóng đã chiếm giử được Cầu, nhưng 59 chiến sĩ cách mạng đã anh dũng ngã xuống để dành đường lưu thông an toàn cho quân giải phóng vào giải phóng Sài Gòn theo đúng kế hoạch. Với chiều dài 148m và rộng 8,5m, chiếc cầu tuy nhỏ nhưng nó cho chúng ta một hình ảnh đẹp với những chiến công oanh liệt của những chiến sĩ trong thời chiến, họ đã ngã xuống để gìn giữ những gì tốt đẹp nhất cho đời sau.
Sân Gôn Thủ Đức được khai trương năm1994 do công ty lien doanh Việt Hoa đâu tư, nơi đây là sân tập cho những người mới biết chơi golf.
Công ty Xi măng Hà Tiên là đơn vị chủ lực của Tổng Công Ty Xi Măng Việt Nam tại Miền Nam. Hơn 45 năm qua, Công ty đã cung cấp cho thị trường trên 3.000.000 tấn xi măng các loại với chất lượng cao, ổn định, phục vụ các công trình trọng điểm cấp quốc gia, các công trình xây dựng công nghiệp và dân dụng. Công ty hoạt động trong môi trường sạch và xanh với công suất thiết kế 2.500.000 tấn xi măng/năm. Công tác tiêu thụ sản phẩm được tổ chức lại từ cuối năm 2001 theo phương châm tạo thuận lợi nhất, cùng với các dịch vụ tốt nhất.
1960: Khởi công xây dựng nhà máy
1964: Khánh thành nhà máy, công suất 300.000T/năm
1986: Tăng thêm dây chuyền nghiền 700.000T/năm.
1994: Đổi tên thành “Công ty Xi Măng Hà Tiên 1”
1999: Cải tổ công tác tiêu thụ, lập hệ thống Nhà Phân Phối Chính.
23/10/2000 :Được chứng nhận ISO 9002
2001: Tăng thêm dây chuyền 500.000T/năm
03/11/2003: Được chứng nhận ISO 9001:2000
Nhà máy nhiệt điện Thủ Đức nằm ở phía Đông bắc Thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố 12 km, có tổng diện tích 15,5ha. Tính từ khi tổ máy TBK số 1 đầu tiên phát điện đến nay, nhà máy Nhiệt điện Thủ đức đã trải qua nhiều thời kỳ , từ năm 1966 xây dựng tổ máy hơi nước số 1 đến năm 1975, các tổ máy còn mới, thời gian vận hành chưa nhiều hiệu suất các tổ máy còn cao. Thời kỳ tiếp theo sau giải phóng : Nguồn nhân lực có nhiều thay đổi, tình hình sản xuất điện của nhà máy gặp nhiều khó khăn, những người còn lại kiên quyết bám lò, bám máy cùng với những đồng chí về tiếp quản nhà máy tiếp tục giữ cho dòng điện liên tục và an toàn.
Từ những năm 1978 đến 1983 là một thời kỳ cực kỳ khó khăn của Nhà máy, các tổ máy hơi nước đã bắt đầu hư hỏng nhiều do thiếu vật tư, thiết bị, phụ tùng thay thế. Nhà nước Liên Xô và sau đó là Chính phủ Thụy Điển đã giúp đỡ Nhà máy để phục hồi công suất ban đầu của các tổ máy hơi nước. Chương trình phục hồi Thụy Điển kết thúc tốt đẹp năm 1987 đã đưa công suất các tổ máy hơi nước lên gần bằng thiết kế và cũng tạo được những ấn tượng rất tốt đẹp cho các chuyên gia cũng như Chính phủ Thụy Điển về trình độ kỹ thuật, cung cách quản lý có hiệu quả của đội ngũ công nhân và cán bộ kỹ thuật nhà máy. Trình độ Đại học và trên đại học:17%. Trung học CN:13%. Công nhân bậc cao:27%.
2. Cầu Đồng Nai – Cù Lao Phố, giao lộ QLI và QL51, khu công nghiệp Biên Hòa, khái quát tình Đồng Nai – Hố Nai.
Cầu Đồng Nai là chiếc cầu cuối cùng đưa đoàn chúng ta đến với ngả ba Vũng Tàu (đã mở rộng thành ngả năm). Cầu được xây dựng năm1964, dài 454m gồm 8 nhịp được thiết kế 4 làn ô tô với chiều rộng 16m. Cầu có trọng tải khai thác 25 tấn. Tuy nhiên thực tế, các xe thường không tuân theo cự ly này do nạn ùn tắc thường xuyên xảy ra. Đây là địa điểm giáp ranh giữa TP.HCM, tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai nên có vai trò cửa ngõ quan trọng cho các địa phương này. Và cũng vì nằm ở vị trí đặc biệt như vậy khiến nơi đây lâm vào cảnh “cha chung không ai khóc”!
Cù Lao Phố như là một chiếc nôi xanh neo giữa dòng sông Đồng Nai, từ nơi đây cách nay hơn 300 năm Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã vào thành lập một trong hai dinh, trong đó có dinh Trấn Biên bên bờ sông Đồng Nai, tức Biên Hòa ngày nay. Biên Hòa còn có những công trình văn hóa lịch sử tiêu biểu như Nhà hội Bình Trước, Trường trang trí mỹ thuật Biên Hòa, Đài kỷ niệm, đền thờ ông Đoàn Văn Cự, đình Tân Lân, đền thờ Nguyễn Tri Phương...
Từ thác Trị An chảy ra biển đông, dòng chảy sông Đồng Nai để lại nhiều cù lao lớn nhỏ trong đó ở địa phận Biên Hòa dòng chảy bỗng chia ra làm hai nhánh ôm trọn một dải đất. Đó chính là Cù Lao Phố hay còn gọi là Nông nại Đại Phố- nay là xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa với diện tích khoảng 7km2. Năm 1679, Tổng binh Trần Thượng Xuyên dẫn theo một đoàn người xin cư trú tại việt Nam và được Chúa Nguyễn chấp thuận cho vào đất Đông Phố (nay là Cù Lao Phố) khẩn hoang. Khi đến Cù Lao Phố, Ông đã cùng người dân địa phương xây dựng nơi đây thành thương cảng lớn. Đường xá được mở rộng, phố xá được xây dựng, chợ búa được thành lập, hàng hóa dồi dào, thường xuyên có nhiều tàu ngoại quốc lui tới buôn bán.Trong lịch sử phát triển của mình cù Lao Phố phát triển nhiều ngành nghề như : dệt chiếu, trồng dâu nuôi tằm, nghề gốm, đúc đồng, làm mộc, làm pháo, nấu mía lấy đường. Thế nhưng cuộc chiến năm 1776 giữa Tây Sơn và Nguyễn ánh đã tàn phá đi kiến trúc phong quang của Cù Lao phố, nay không còn dấu vết. Thời kỳ hoàng kim của Cù Lao Phố đi vào dĩ vãng, hoàn thành sứ mạng của đô thị cổ, một thương cảng sầm uất nhất phương Nam. Từ sau ngày giải phóng, người dân Cù Lao Phố đã biến cải vùng đất này thành vựa lúa lớn của Biên Hòa. Cù Lao Phố hiện nay còn 5 ngôi chùa, 3 tịnh xá, 11 ngôi đình, 3 ngôi miếu. Có thể nói Cù Lao Phố còn tồn tại nhiều dạng hình thức tín ngưỡng, tạo thành một cơ cấu đan xen hòa trộn lẫn nhau.
Quốc lộ 51 nằm ở huyện Long Thành phía nam Biên Hòa, là tuyến giao thông huyết mạch nồi liền TP.HCM, TP.Biên Hòa với TP Vũng Tàu. Dọc theo quốc lộ 51 có diện tích 911km2. huyện Long Thành có 150km2 rừng ngập mặn với nhiều động vật, tôm cá ở các dòng sông Ông Ké. Lộc An có đất đỏ bazan 151km2 từ năm 1971 Pháp đã mở đồn điền cao su ở đây.
Khu công nghiệp Biên Hòa 1 ở phường An Bình TP-Biên Hòa, nằm cách trung tâm TP-HCM khoảng 30km. Diện tích là 335ha, được hình thành từ năm 1963, do công ty Phát triển Khu công nghiệp Biên Hòa (SONADEZI) xây dựng. Nơi đây tập trung nhiều xí nghiệp thuộc các ngành cơ khí, luyện kim, hóa chất, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, nông công nghiệp, xuất khẩu, xử lý chất thải lỏng và các dịch vụ công cộng đang được đầu tư hoàn thiện. Hiện đang có 90 dự án đầu tư với số vốn đăng ký hơn 326 triệu USD.
Khu công nghiệp Biên Hòa 2 hình thành năm1990 với diện tích 396ha, nằm đối diện với khu công nghiệp Biên Hòa 1. trước năm1975 đây là căn cứ quân sự của Mỹ gọi là Tổng kho Long Bình. Đến năm 1998 siêu thị Cora do tập đoàn thương mại dịch vụ quốc tế Bombon đầu tư, bao gồm một trung tâm thương mại dịch vụ khu nhà xưởng chế biến, khu vui chơi giải trí, bải đậu xe. Tồng vốn đầu tư là 54triệu dôla trên diện tích 8ha. Tập đoàn Bombon là tập đoàn thương mại của Pháp hiện có 75 siêu thị trên thế giới.
Đồng Nai là tỉnh thuộc Miền Đông Nam Bộ có diện tích 5.900 km2. Dân số toàn tỉnh theo số liệu thống kê năm 2004 là 2.300.000 người, mật độ dân số: 375 người/km2. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của toàn tỉnh năm 2004 là 1,22%. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm: Thành phố Biên Hòa là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa của tỉnh, thị xã Long Khánh và 9 huyện Long Thành, Nhơn Trạch, Trảng Bom, Thống Nhất, Cẩm Mỹ, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Ðịnh Quán, Tân Phú.
Tỉnh Đồng Nai nằm trên lưu vực sông Đồng Nai và một nhánh là sông La Ngà. Địa hình Đồng Nai gồm một số thung lũng, đồng bằng, gò, đồi thấp, tuy nhiên phần đất tiếp giáp với cao nguyên Lâm Viên và Di Linh thì tương đối cao. Phần lớn Đồng Nai là đất Bazan, đất xám và đất phù sa cũ rất tốt cho việc trồng trọt. Bởi vậy Đồng Nai trồng nhiều cây công nghiệp cây cao su, cà phê..., cây ăn trái và cây công nghiệp ngắn ngày. Đồng Nai một tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam Đồng Nai tiếp giáp với các vùng sau: Phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận, Phía Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, Phía Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Bình Phước, Phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Phía Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh. Đồng Nai có hệ thống giao thông thuỷ bộ, đường sắt nối liền với các địa phương khác trong cả nước, có vị trí quan trọng trong sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, gắn kết vùng Đông Nam Bộ với Tây Nguyên.
Tài nguyên du lịch Đồng Nai có nhiều di tích lịch sử, văn hoá và các điểm du lịch có tiềm năng: Khu Văn miếu Trấn Biên, đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, khu du lịch Bửu Long, khu du lịch ven sông Đồng Nai , Vườn quốc gia Nam Cát Tiên, làng bưởi Tân Triều, Thác Mai - hồ nước nóng , Đảo Ó. Đến Đồng Nai du khách sẽ có dịp tham gia những chuyến du lịch sinh thái trong các khu rừng hoặc vườn cây ăn quả, câu cá, du thuyền trên sông Đồng Nai, dã ngoại tại các thắng cảnh: hồ Long ẩn, khu văn hoá Suối Tre, thác Trị An, rừng Mã Đà. Hay tham quan các di tích lịch sử, văn hóa: chiến khu Đ, Văn miếu Trấn Biên, nghiên cứu các di chỉ khảo cổ: mộ cổ Hàng Gòn, đàn đá Bình Đa.
3. Ngã ba Dầu Giây – cây cao su, ngã ba Tân Phong – QL56 – Mộ cổ Hàng Gòn.
Ngã ba Dầu Giây giao cắt QL1 và QL20 của tỉnh Đồng Nai do Công ty tư vấn xây dựng công trình 625 lập dự án. Từ khi vòng xoay này hoàn thành tại đây đã giảm bớt tại nạn giao thông.
Cây cao su đến Việt Nam năm 1897 do người Pháp đưa hạt giống từ Silanca về 2000 cây, được đem đến vườn ươm thực vật, đầu tiên là sở thú và chia cho bác sĩ Yersin 200cây để trồng ở Suối Dầu – Nha Trang. Sau đó Ông thấy thích hợp với vùng đất đỏ Bazan nên Ông đã đề nghị chính phủ Pháp phát triển cây cao su ở vùng Đông Nam Bộ này. Nhưng khi cây cao su đến Việt Nam thì xảy ra nhiều chuyện đáng buồn cho người phu cao su:
“ Cao su đi dể khó về
khi đi trai tráng khi về bủng beo”
Chế độ quản lý của đồn điền cao su rất độc quyền và hà khắc. Họ ra sức bóc lột công sức công nhân, thậm chí còn đánh đập tàn nhẫn. Từ đó những nỗi khổ này người công nhân đã đứng lên đấu tranh chống việc đối xử vô nhân đạo, đòi giảm giờ lao động và nâng cao đời sống công nhân.
Công ty Cao su được thành lập năm 1978, xây dựng lại các đồn điền cao su trong tỉnh. Năm 1993 được Bộ Nông Nghiệp và phát triển nông thôn cho phép thành lập lại doanh nghiệp Nhà Nước. Công ty có nhiệm vụ trồng khai thác chế biến mủ xông khói, RSS, mủ Créps tiêu thụ trong nước và xuất sang các nước.
Ngày 29-5, Ban quản lý dự án giao thông - vận tải GTVT Đồng Nai đã phối hợp với nhà thầu liên doanh giữa Công ty Đồng Tân Bộ Quốc phòng và Công ty vật tư thiết bị và xây dựng công trình 624 Tổng công ty công trình giao thông 6, tổ chức lễ khởi công dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng QL56. Dự án đầu tư nâng cấp, mở rộng QL56 do Sở GTVT làm chủ đầu tư có tổng chiều dài 18,17km, bắt đầu từ ngã 3 Tân Phong giao với QL1A tại km1815+800 và kết thúc tại tim giao với QL55 (đường Cách mạng tháng Tám, thị xã Bà Rịa-Vũng Tàu), đi qua 7 xã: Hàng Gòn, Xuân Bảo (thị xã Long Khánh), Xuân Mỹ, Long Giao, Nhân Nghĩa, Xuân Thanh (huyện Cẩm Mỹ) và xã Xà Bang (huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Sau khi nâng cấp, mở rộng, QL 56 sẽ được nâng cấp từ đường cấp 4 đồng bằng lên đường cấp 3, cấp kỹ thuật 80, gồm 2 đoạn như sau: đoạn km0 đến km1, chiều rộng nền đường là 22m, chiều rộng mặt đường 12m, vỉa hè mỗi bên 5m, có bố trí hệ thống cây xanh, chiếu sáng; đoạn còn lại, từ km1 đến km18+174, chiều rộng nền đường 16m, chiều rộng mặt đường 12m. Kết cấu móng cấp phối đá dăm, mặt đường thảm bê tông nhựa nóng. Ngoài ra còn bố trí 1 nút giao bằng, có đảo dẫn hướng tại vi trí nút giao cắt với QL1. Tổng kinh phí dự toán đầu tư cho công trình này lên đến hơn 60 tỷ 800 triệu đồng, trong đó giá trị xây lắp chiếm hơn 41 tỷ 500 triệu đồng (nguồn vốn của Bộ GTVT và của tỉnh). Thời gian hoàn thành sau 1 năm 3 tháng thi công.
Công trình nâng cấp mở rộng QL56 hoàn thành đưa vào sử dụng vừa tăng thêm tính hiện đại và mỹ quan của huyện Cẩm Mỹ, vừa tạo tiền đề thúc đẩy phát triển các khu công nghiệp quanh khu cảng nước sâu Cái Mép, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Từ huyện Long Khánh đi dọc Quốc lộ 1 chừng vài km tới ngã ba Tân Phong , xã Xuân Tân (Long Khánh), tiếp tục đi theo Quốc lộ 56 về hướng Bà Rịa vũng Tàu, chỉ khoảng 3 km, du khách sẽ đến Mộ cổ Hàng Gòn. Năm 1910, người Pháp lập đồn điền cao su, phá rừng và phát hiện ra Mộ cổ Hàng Gòn.
Kích thước ngôi mộ dài 4,20m; ngang 2,70m; cao 1,60m; ghép bằng sáu phiến đá hoa cương lớn, nặng không dưới 50 tấn. Các phiến đá ghép với nhau theo hệ thống rãnh đục làm nắp và phiến đá làm đáy. Hai bên ngôi mộ có hai trụ đá hoa cương cao 7,5m với tiết diện 0,4m x1,10m và mười trụ đá cát có tiết diện hình chóp cao từ 3m đến 4,10m. Mộ cổ Hàng Gòn có kích thước to lớn khác thường nên còn gọi là mộ cự thạch (cự: to lớn; thạch: đá).
Theo các nhà khảo cổ, ngôi mộ có cách đây khoảng 2.000 năm và loại đá làm mộ chỉ có ở Đà Lạt hoặc Phan Rang. Những phiến đá nặng hàng tấn đã được vận chuyển bằng cách nào qua quảng đường hai đến ba trăm km trong điều kiện chưa có đường xá, xe cộ và phương tiện gì ?
Năm 1992, Nhà bảo tàng Đồng Nai trùng tu ngôi mộ cự thạch Hàng Gòn để bảo tồn di sản văn hóa, cũng trong năm này Bộ Văn Hóa Thông Tin công nhận và xếp hạng đây là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
Người dưới ngôi mộ cổ là tổ tiên trực tiếp của người Mạ, người Chơro, hoặc người Xtiêng ở miền Đông Nam Bộ. Hiện nay Mộ cổ Hàng Gòn vẫn chứa nhiều bí mật mà các nhà khảo cổ còn chưa trả lời đầy đủ.
4. Núi Chứa Chan, chùa Gia Lào, khu căn cứ, ngã ba Bình Tuy (Hàm Tân) – Dinh Thầy Thím.
Từ TP.Biên Hòa theo quốc lộ 1 ra Hà Nội gần 80km, du khách sẽ đến với núi Chứa Chan ở Thị Trấn Gia Ray – Huyện XuânLộc. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí viết : “…Núi Chứa Chan có thế núi chót vót, trông xuống khe Da Lao, chỗ giáp giới của hai huyện Long Khánh và Phước Binh có nhiều mây song gỗ lạt, lưng núi có động đá và giếng đá…”.
Núi Chứa Chan cao 837m với Chùa Bửu Quang (thường gọi là chùa Gia Lào) trên gần đỉnh núi là điểm du lịch thu hút nhiều du khách. Vào các dịp lễ, tết số người hành hương về đây lên đến hàng ngàn, tạo bầu không khí náo nhiệt của ngày lễ hội.
Chùa Bửu Quang được xây dựng từ đầu thế kỳ XX, với chánh điện mái vòm, toạ lạc trên một hang đá có dáng Hàm Rồng. Toàn bộ quần thể kiến trúc chùa đều dựa theo những hang động thiên nhiên, tạo nên nét độc đáo giữa chốn thâm nghiêm kỳ vĩ của núi rừng.
Suối Tiên trong vắt, nước chảy róc rách quanh năm và cây đa ba gốc thần bí ở lưng chừng núi như minh chứng thêm cho các huyền tích được truyền từ bao đời của vùng sơn cước này. Từ độ cao hơn 600 mét, phóng tầm nhìn ra xa du khách có thể chiêm ngưỡng cảnh quan thiên nhiên hữu tình, và lòng người sẽ cảm thấy thư thái sau chặng đường dốc lắm gian nan vất vả.
Núi Chứa Chan ngày nay còn lưu lại nhiều dấu tích hoạt động cách mạng qua hai cuộc kháng chiến của người Đồng Nai, vì đây là căn cứ kháng chiến của Huyện Xuân Lộc và chùa Bửu Hưng từng là căn cứ hậu cần, nơi trú đóng của nhiều cán bộ chiến sĩ cách mạng trong hai cuộc chiến tranh giải phóng.
Hàng năm cứ vào các ngày 15 và 16 tháng 9 âm lịch, thị xã Hàm Tân (Bình Thuận) bỗng trở nên tấp nập lạ thường, vì dân chúng mọi nơi kéo nhau tới hành hương tại Dinh Thầy. Dinh Thầy là một ngôi dền nằm giữa một khu rừng cách Bình Tuy vào khoảng 12 cây số về hướng tây bắc. Đền gồm ba toà nhà kiến trúc theo lối xưa với một vẻ cổ kính, trang nghiêm ẩn nấp dưới những tán cây cổ thụ. Phong cảnh tĩnh mịch, ai bước tới đây cũng như cảm thất sự thiêng liêng của nơi thờ tự, lòng sùng bái càng tăng với sự tin tưởng ở sức huyền bí vô hình của Thầy.
Thầy là vị được thờ phụng tại dinh. Tiểu sử Thầy tới nay chưa ai biết cặn kẽ, tuy nhiên rất nhiều giai thoại về Thầy đã được lưu truyền. Hội Tam Quy, phụ trách việc phụng tự Thầy đã thu thập những câu chuyện truyền khẩu, ấn hành và phát cho khách trẩy hội.
Theo tài liệu này, Thầy sinh về thời chúa Nguyễn Phúc Ánh (vua Gia Long sau này) tại làng La Qua, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Thầy có Thím sánh đôi, Thím sinh tại làng Yến Nê cùng tỉnh. Lúc thiếu thời, Thầy đã từng bút nghiên đèn sách, nhưng số Thầy lận đận về khoa cử, mấy khoa chẳng đậu, tuy học hành rất khá. Buồn vì cử nghiệp lảo đảo lợi danh, Thầy từ bỏ sách đèn, theo học đạo để giúp đời. Suốt trong mấy năm sống ở đất Quảng, Thầy đem sự hiểu biết của mình ra cứu dân độ thế bằng cách chữa bệnh và dạy người theo lễ nghĩa.
Rồi một biến cố xảy đến. Vua Tự Đức đã đích thân về làng La Qua xử án và kết tội Thầy phải chịu Tam ban triều điển. Trước dân làng và văn võ bá quan. Thầy và Thím đã dùng lụa điều biến thành rồng đỏ bay về phương Nam lánh nạn. Rồng bay về đến Tam Tân (huyện lỵ Hàm Tân ngày nay, ngó xuống thấy phong cảnh đẹp. Thầy cho rồng hạ xuống và sống ở nơi đây với dân làng cho đến khi qua đời.
Cũng như khi sống ở Quảng Nam, tại đây Thầy lại tiếp tục việc cứu giúp người đời và dốc lòng học đạo. Ngày nay, tại Hàm Tân dân chúng thường nhắc đến công ơn của Thầy: cứu người trong cơn hoạn nạn, cho thuốc men, giúp gạo trong năm rất mùa và nhất là khuyến thiện dạy dân theo lành lánh ác.
Với công ơn ấy, dân chúng Tam Tân rất kính mến. Thầy và Thím, xưng hô gọi tôn là Thầy. Danh tiếng Thầy ngày càng vang, người người khắp nơi đều biết tìm đến để theo Thầy học đạo.
Để tránh vương vấn với đời, Thầy và Thím vào rừng sống ẩn dật trong một túp lều tranh do tự thầy cất lên, tháng ngày làm bạn với điểu thú. Thầy đã cảm hoá được cả thú dữ lẫn chim rừng. Cầm thú mọi loài hàng ngày tới chầu bái Thầy. Tuy sống ẩn dật, nhưng khi dân chúng gặp tai ương, hoạn nạn, đã thấy Thầy xuất hiện giúp đỡ.
Thầy và Thím chết trong túp lều tranh ở khu rừng. Khi nghe tin Thầy và Thím chết, dân chúng kéo nhau vào lo chôn cất. Lạ thay vào tới nơi, mọi người thấy voi đang chầu chực bên Thầy và Thím, chung quanh đủ các cầm thú chim muông, thảy đều u sầu buồn thảm. Lạ lùng và kinh ngạc nhất, là không hiểu ai đã mang tới hai cỗ áo quan và đã tẩm liệm cả cho Thầy và Thím. Dân chúng đem chôn hai cỗ áo quan nơi Bàn Thông, và từ đó cứ mỗi năm hai lần, mọi người kéo nhau tới, lần thứ nhất vào ngày mồng năm tháng Giêng âm lịch để tảo mộ và lần thứ hai vào ngày 15 tháng 9 để làm giỗ. Xưa kia, theo lời thuật trong tài liệu, khi dân chúng vào viếng mộ và làm giỗ, chim muông và cầm thú đã dọn dẹp quét tước sạch sẽ cả mộ lẫn Dinh Thầy. Thầy và Thím chết đi, dân chúng thương tiếc, nhưng có người cho rằng cả hai người vẫn còn sống và đã dời đi nơi khác, vì đây danh Thầy đã nổi, sợ đến tai nhà vua sẽ bị truy tầm. Thương Thầy và Thím, dân làng Tam Tân họp nhau lập Dinh thờ cho đến ngày nay. Lúc đầu Dinh cất sơ sài bằng lá, nhưng dần được sửa sang trở nên đẹp đẽ nguy nga với nhiều đồ trang hoàng quý giá do khách thập phương cúng tiến.
Vua Tự Đức, qua đồn đại của dân chúng, phái người từ kinh đô về tận Tam Tam để dò xét tình hình. Sau khi thăm dò dư luận và tìm hiểu sự thật, sứ thần về tâu cùng nhà vua mọi sự việc liên quan tới vợ chồng Thầy, nhà vua cảm động, nghĩ tiếc một người có tài có đức, xoá bỏ án cũ lại sắc phong cho Thầy làm Chí đức tiên sinh, và Thím làm Chí đức nương nương.
Từ khi chết, Thầy thường thường về phù hộ cho dân Tam Tân được an cư lạc nghiệp. Nhớ ơn Thầy, hàng năm nhân dân đã làm giỗ Thầy rất lớn, và ngày giỗ đã trở thành ngày hội Dinh Thầy.
Ngày giỗ Thầy được gọi là ngày hội Dinh Thầy hàng năm, chính thức cử hành vào hai ngày 15 và 16 tháng 9 âm lịch. Đây là một ngày lễ lớn tại Bình Thuận, và đã ăn sâu vào tập tục của người dân địa phương. Tới ngày hội, họ kéo nhau đi dự giỗ Thầy.
Tuy ngày lễ chính thức vào hai ngày nói trên, song khách thập phương từ các nơi đã chuẩn bị tới dự lễ từ hơn nửa tháng trước và sau ngày lễ, đến một tuần lễ sau còn đông khách tới hành hương. Trong hai ngày lễ, Hàm Tân trở nên náo nhiệt và nhộn nhịp, dân chúng từ khắp các tỉnh miền Trung cũng như miền Nam về dự ngày giỗ Thầy, xa từ Quảng Trị, Thừa Thiên hoặc lục tỉnh, gần từ Ninh Thuận, Phan Thiết, Long Khánh... Tới dự giỗ Thầy, người người đều cầu nguyện và xin xâm.
Dọc đường tỉnh lộ Bình Tuy đi Hàm Tân dài 12 cây số, đường đá sỏi, gồ ghề lại xuyên qua một đoạn đường rừng nguy hiểm, xe cộ tấp nập suốt ngày, người kéo đi như nước, từng đoàn từng tốp. Dự giỗ Thầy xin xâm cầu nguyện khách hành h ương lại cùng nhau tới viếng mộ Thầy.
Khách hành hương tới cúng Thầy mang theo đồ lễ đủ các loại: tiền bạc, vàng hương, heo, gà, vịt và các thứ hoa quả bánh trái. Trong hai ngày giỗ Thầy, ngày đầu 15 tháng 9 là ngày cáo giỗ tức là ngày tiên thường, dân chúng nơi đây làm lễ cúng chay.
Ngày hôm sau là ngày cúng mặn. Dân làng sở tại tự mang đồ lễ tới cúng và khách hành hương từ các nơi tới cũng đặt đồ lễ cúng. Hầu hết khách trầy hội, cúng lễ xong đều xin xâm, nhất là phụ nữ.
Xin xâm ở ngay chính diện đền Dinh, người xin xâm chen chúc quỳ lạy từ cửa vào. Tiếng xóc ống xâm vang đều đều. Xin được lá xâm, ra bên ngoài, đã có hàng chục người đoán quẻ bàn giải.
Hội Dinh Thầy nhộn nhịp tưng bừng ở giữa một nơi hoang vắng, mà thường ngày rất ít người lai vãng tới, chứng tỏ lòng tin tưởng vô bờ của dân chúng đối với Thầy.
Hội Dinh Thầy không có cổ tục, trò vui gì, nhưng khách trẩy hội đã vui với lòng thành của mình và đến được Dinh Thầy ai nấy đều tỏ sự hân hoan.
5. Núi Tà Cú – Linh Sơn Trường Thọ, khái quát tình Bình Thuận – TP.Phan Thiết.
Một ngọn núi trập trùng cây cỏ, ngập tràn truyền thuyết và mênh mông thắng cảnh hữu tình; ai đã một lần ghé thăm Tà Cú cũng khó có thể rời buớc.
Núi Tà Cú cao 649m, nằm ven Quốc lộ 1A, thuộc thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, cách Phan Thiết 28 km về phía Nam, là một thắng cảnh kỳ thú và là một điểm leo núi hấp dẫn của tỉnh Bình Thuận.
Quanh năm không khí ở Tà Cú trong lành, mát mẻ. Nhiệt độ trung bình từ 18 đến 22oC. Xưa kia đây là một ngọn núi lửa thuộc đệ nhất nguyên đại.
Để lên tới đỉnh ngọn núi nằm trong khu rừng cấm, du khách có thể cần 2 giờ để vượt qua 2.290m đường dốc cheo leo, khúc khuỷu với những bậc đá có từ vài chục năm trước.
Dọc ngang lối đi vô số những thân, rễ cây bò xuôi ngược. Bằng Lăng là đoạn dốc cao nhất, nghiêng 45o. Du khách sẽ rất vất vả để leo qua đoạn đường này, nhưng bù lại có thể ngắm nhìn những thân bằng lăng cổ thụ rải đầy hoa tím lẫn với một loài hoa cánh trắng mảnh mai, trôi dạt trên dòng nước chảy men theo sườn núi.
Cách đỉnh 1.250m, đường đi đã dễ dàng hơn. Lúc này du khách có thể chiêm ngưỡng trời xanh thoắt ẩn thoắt hiện qua tán rừng và thung lũng mờ ảo qua màn sương bên dưới. Khi lên tới đỉnh, thiên nhiên trên núi Tà Cú đã không phụ lòng người, đẹp như cõi bồng lai.
Tà Cú có phong cảnh hữu tình với những phiến đã muôn hình vạn trạng, những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi cùng khí hậu trong lành, thanh tịnh như chốn thần tiên.
Những ai không thích cuốc bộ thì đã có hệ thống cáp treo phục vụ. Hệ thống cáp treo ở đây cao hơn 500m, có độ dài 1600m vừa được đưa vào sử dụng cuối năm 2002.
Ngồi lơ lửng trong cabin cáp treo, du khách cò thể chiêm ngưỡng toàn cảnh tỉnh Bình Thuận với những vùng thanh long đỏ rực chen giữa những đồi núi ngổn ngang, những dòng sông uốn lượn sẽ lọt vào tầm mắt bạn như một bức tranh sơn thuỷ hữu tình.
Khi đã đứng trên đỉnh núi, du khách có thể thả hồn thưởng ngoạn cảnh sắc thiên nhiên xung quanh đẹp như một bức tranh thủy mặc. Phía xa là bờ biển Hàm Tân trải dài như vô tận với màu xanh biêng biếc, những cây cổ thụ đứng trầm lặng dưới những áng mây. Ở trên cao, hướng tấm mắt về phía Quốc lộ 1A, nhà cửa, ruộng vườn đan xen nhau vuông vức. Từ 5 giờ chiều sương mù đã bắt đầu bảng lảng khắp thung lũng. Đêm xuống, những tảng sương dày đặc, bao phủ khắp núi rừng.
Hai ngôi chùa trên đỉnh Tà Cú là điểm dừng chân trong hành trình của bạn. Đó là chùa Linh Sơn Trường Thọ và Long Đòan ẩn mình trong núi đầy bí ẩn. Chùa là một di tích lịch sử - văn hóa quốc gia của Việt Nam.
Ở đây có bức tượng “Thích ca nhập Niết Bàn” (Phật Thích Ca nằm ) làm bằng bê tông. Đây là bức tượng lớn nhất Đông Nam Á, dài 45m cao 7m đặt nằm giữa rừng cây tùng điệp.
Truyền thuyết về chùa Núi Tà Cú cũng là một câu chuyện thú vị. Vào giữa thế kỷ 19 nhà sư Trần Hữu Đức (1812-1887) pháp danh Thông Ân, pháp hiệu Hữu Đức từ Phú Yên vào Bình Thuận dựng một thảo am ở làng Kim Thạnh (Bàu Trâm) vừa tu hành vừa bốc thuốc. Lúc đương thời nhà sư Hữu Đức là một thầy thuốc giỏi. Năm Tự Đức thứ 33 (1880) hoàng thái hậu bệnh nặng, chư thần tâu xin rước sư về giúp trị bệnh nhưng nhà sư từ chối, chỉ gởi người về triều. Bệnh hoàng thái hậu hết, vua Tự Đức mới ban cho tên chùa là Linh Sơn Trường Thọ và nhà sư là "Đại lão hòa thượng". Đến khi nhà sư Hữu Đức viên tịch (nhằm ngày 5 tháng 10 năm 1887 âm lịch) thì sư Tâm Hiền lập ngôi chùa mới ở phía dưới, sau này gọi là chùa Dưới hay chùa Long Đoàn (chùa Linh Sơn Trường Thọ là chùa Trên).
Núi Tà Cú đã và đang là một trong những khu du lịch sinh thái hấp dẫn bậc nhất ở miền Trung. Nét hoang sơ của núi rừng hòa quyện trong những truyền thuyết đã tạo cho núi Tà Cú một đặc điểm riêng biệt đầy sức cuốn hút.
Bình Thuận là tỉnh duyên hải cực Nam Trung Bộ, thuộc vùng kinh tế Đông Nam Bộ và nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam. Phía Bắc của tỉnh giáp tỉnh Lâm Đồng và Ninh Thuận, phía Tây giáp tỉnh Đồng Nai, phía Nam giáp Bà Rịa - Vũng Tàu, phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông với đường bờ biển dài 192 km. Ngoài khơi có đảo Phú Quy cách thành phố Phan Thiết 120 km. Trung tâm tỉnh cách thành phố Hồ Chí Minh 200 km, cách thành phố Nha Trang 250 km, có quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam chạy qua nối Bình Thuận với các tỉnh phía Bắc và phía Nam của cả nước, quốc lộ 28 nối liền thành phố Phan Thiết với các tỉnh Nam Tây Nguyên, quốc lộ 55 nối với trung tâm dịch vụ dầu khí và du lịch Vũng Tàu.
Với vị trí trên, bên cạnh mối quan hệ kinh tế truyền thống với địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam, Bình Thuận sẽ có điều kiện mở rộng mối quan hệ giao lưu phát triển kinh tế với các tỉnh Tây Nguyên và cả nước. Sức hút của các thành phố và trung tâm phát triển như thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Nha Trang đã tạo điều kiện cho tỉnh đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, tiếp thu nhanh khoa học và kỹ thuật.
Đại bộ phận lãnh thổ là đồi núi thấp, đồng bằng ven biển nhỏ hẹp, địa hình hẹp ngang kéo theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, phân hoá thành 4 dạng địa hình: đất cát và cồn cát ven biển chiếm 18,22% diện tích đất tự nhiên, đồng bằng phù sa chiếm 9,43% diện tích đất tự nhiên, vùng đồi gò chiếm 31,65% diện tích đất tự nhiên, vùng núi thấp chiếm 40,7% diện tích đất tự nhiên. Với địa hình này đã tạo điều kiện cho tỉnh phát triển kinh tế đa dạng.
Khí hậu Bình Thuận nằm trong khu vực có vùng khô nhất cả nước, nhiều gió, nhiều nắng, không có mùa đông, nhiệt độ trung bình là 26,50C – 27,50C; lượng mưa trung bình là 800 - 1600 mm/năm, thấp hơn trung bình cả nước (1.900 mm/năm).
Với diện tích 785.462 ha, Bình Thuận có 10 loại đất với 20 tổ đất khác nhau: đất cát, cồn cát ven biển và đất mặn phân bố dọc theo bờ biển từ Nam Tuy Phong đến Hàm Tân, diện tích là 146,5 nghìn ha (18,3% diện tích đất toàn tỉnh), với loại đất này có thể phát triển mô hình trồng cây ăn quả và các loại hoa mùa như dưa, hạt đậu các loại…; trên đất lợ có thể làm muối hoặc nuôi tôm nước lợ; đất phù sa với diện tích 75.400 ha (9,43% đất toàn tỉnh) phân bố ở vùng đồng bằng ven biển và vùng thung lũng sông La Ngà, diện tích đất này trồng được lúa nước, hoa màu và cây ăn quả…; đất xám có diện tích là 151.000 ha (19,22% diện tích đất toàn tỉnh), phân bố hầu hết trên địa bàn các huyện, thuận lợi cho việc phát triển cây điều, cao su, cây ăn quả và các loại cây có giá trị kinh tế cao. Diện tích còn lại chủ yếu là đồi núi, đất đỏ vàng, đất nâu vùng bán khô hạn… Những loại đất này sử dụng vào mục đích nông - lâm nghiệp.
Theo kết quả kiểm kê hiện trạng rừng năm 1999, diện tích đất rừng của tỉnh là 368.319 ha; diện tích rừng tự nhiên là 344.385 ha với tổng trữ lượng gỗ trên 19 triệu m3 và trên 95 triệu cây tre, nứa. Kiểu rừng gỗ lá rộng, kiểu rừng rụng lá, kiểu rừng hỗn giao lá kim chiếm ưu thế; kiểu rừng hỗn giao và tre nứa thuần loại. Điều đáng lưu ý là hiện nay đang diễn ra tình trạng giảm diện tích rừng giàu, rừng trung bình và tăng diện tích rừng hỗn giao tre, nứa và rừng trồng nguyên liệu.
Bình Thuận có nhiều tích tụ khoáng sản đa dạng về chủng loại: vàng, wolfram, chì, kẽm, nước khoáng và các phi khoáng khác. Trong đó, nước khoáng, sét, đá xây dựng có giá trị thương mại và công nghiệp.
Trữ lượng sa khoáng ilmenít là 1,08 triệu tấn, zicon 193.000 tấn, đi cùng với zicon còn có nhiều monazít và đất hiếm. Nguồn khoáng sản rất lớn của Bình Thuận là thuỷ tinh với tổng trữ lượng 496 triệu m3 cấp P2, hàm lượng SiO2. Nó có thể đáp ứng được yêu cầu sản xuất thuỷ tinh cao cấp và kính dân dụng hoặc sản xuất nguyên liệu. Khoáng vật liệu xây dựng có các kết vôi 3,9 triệu m3 cấp P2 phân bố ở Vĩnh Hảo và Phước Thế, đá vôi san hô (Tuy Phong), sét gạch ngói phân bố ở nhiều nơi; đá xây dựng và trang trí ở Tà Kóu trữ lượng 45 triệu m3, núi nhọn (Hàm Tân) trữ lượng cấp P là 30 triệu m3.
Bên cạnh đó, tỉnh còn có nhiều mỏ nước khoáng có trữ lượng lớn và chất lượng tốt, có khả năng khai thác thương mại sản xuất nước giải khát, sản xuất tảo; phục vụ dịch vụ tắm chữa bệnh và nghỉ dưỡng. Riêng 3 điểm nước suối Vĩnh Hảo, Văn Lâm, Hàm Cường và Đa Kai là các mỏ nước khoáng loại cácbonát - natri được dùng sản xuất nước giải khát với khả năng khai thác hàng năm khoảng 300 triệu lít.
Bình Thuận là một tỉnh có nhiều tiềm năng, tài nguyên lợi thế cho phát triển du lịch: tiềm năng về nhân văn, tín ngưỡng, di tích lịch sử phục vụ cho phát triển loại hình du lịch tham quan nghiên cứu như: lịch sử văn hoá về dân tộc Chăm, chùa Hang, dinh Thầy Thím, lầu ông Hoàng gắn với nhà thơ Hàn Mặc Tử, di tích và lễ hội Nghinh Ông… Có bờ biển dài gần 200 km với nhiều bãi biển sạch đẹp, đồi cát, rừng cây ven biển, có suối nước nóng, nước khoáng… phát triển nhiều loại hình du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí và chữa bệnh. Có nhiều hồ, thác nước và rừng thích hợp cho các loại hình du lịch sinh thái.
Với vị trí nằm giữa tam giác du lịch thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu – Đà Lạt – Nha Trang, với khoảng cách di chuyển không dài (2 – 4 tiếng đồng hồ), với hệ thống giao thông, đường bộ vừa được nâng cấp rất thuận lợi cho việc di chuyển và cùng với tiềm năng, tài nguyên du lịch như trên, trong những năm gần đây tỉnh đã tập trung quy hoạch, nâng cấp tôn tạo kết cấu hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ trong các khu du lịch, thực hiện nhiều giải pháp, chính sách tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư... Những việc làm này đã và đang tạo cho tỉnh một lợi thế so sánh rất lớn về du lịch, có sức hấp dẫn, thu hút nhiều nhà đầu tư.
Du lịch tỉnh đã và đang đạt mức độ phát triển nhanh cả về đầu tư cơ sở vật chất và lượng khách đến ngày càng được nâng lên. Hiện nay, toàn tỉnh đã thu hút được trên 250 dự án đầu tư phát triển du lịch, tập trung tại các khu du lịch Phan Thiết – Mũi Né, Tiến Thành – Hàm Thuận Nam. Trong đó, khoảng 60 dự án đã đi vào hoạt động. Nhiều dự án có quy mô lớn từ 50 – 200 ha. Lượng khách đến tham quan, nghỉ dưỡng tăng bình quân hàng năm 25 – 30%, trong đó khách du lịch quốc tế chiếm 7 – 8%; công suất huy động buồng, phòng bình quân đạt trên 60%.
Thành phố Phan Thiết là thủ phủ, trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội - khoa học kỹ thuật của tỉnh Bình Thuận. Phan Thiết nằm trên quốc lộ 1A (chiều dài quốc lộ 1A đi qua là 7 km), cách Thành phố Hồ Chí Minh 198 km về hướng đông, và nằm ở phía nam của vịnh Cam Ranh. Phan Thiết là đô thị của miền Trung, thuộc miền Nam Trung Bộ. Diện tích tự nhiên là 206,45 km², bờ biển trải dài 57,40 km.
Thành phố Phan Thiết hình cánh cung trải dài từ: 10°42'10" đến 11° vĩ độ bắc. Phía đông giáp biển Đông. Phía tây giáp huyện Hàm Thuận Nam - tỉnh Bình Thuận. Phía nam giáp biển Đông và huyện Hàm Thuận Nam - tỉnh Bình Thuận. Phía bắc giáp huyện Hàm Thuận Bắc và huyện Bắc Bình - tỉnh Bình Thuận.
Giữa trung tâm thành phố có con sông Cà Ty chảy ngang chia Phan Thiết thành 2 ngạn: Phía nam sông: khu thương mại. Phía bắc sông: gồm các cơ quan hành chính và quân sự.
Nguồn gốc địa danh: Khi chưa có người Việt định cư, tên vùng đất này có nguồn gốc từ tiếng Chăm gọi là Hamu Lithít - Hamu là xóm ruộng bằng, Lithít là ở gần biển. Khi bắt đầu có người Việt định cư, vẫn chưa ai có ý định đặt ngay cho vùng đất này một tên gọi mới bằng tiếng Việt. Vậy mà không biết tự bao giờ, âm cuối "Lithit" lại được gắn liền với âm "Phan" tách từ phiên âm của tên hai vùng Phan Rang, Phan Rí mà thành ra Phan Thiết.
6. Bảo tàng Hồ Chí Minh (Phan Thiết) – Trường Dục Thanh.
Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Bình Thuận TP. Phan Thiết đã chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động chào mừng kỷ niệm 115 năm ngày sinh Bác Hồ kính yêu (19/5/1890 - 19/5/2005).
Tháng 3/2005, đơn vị đã hoàn tất việc lập đề án khoa học nâng cấp phòng trưng bày Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Bình Thuận và thông qua Hội đồng thẩm định dự kiến thực hiện vào năm 2007. Nhân dịp triển lãm Hội chợ thương mại thành tựu 30 năm tỉnh Bình Thuận, đơn vị đã đề nghị các sở, ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh hỗ trợ hình ảnh, sản phẩm bổ sung và thay mới phần trưng bày “Bình Thuận thực hiện Di chúc Bác” phục vụ khách tham quan vào dịp 19/5. Đơn vị đã tiếp nhận được 151 hình ảnh, 72 sản phẩm trưng bày qua đó đã tiết kiệm được kinh phí khá lớn cho đơn vị chỉnh lý hình ảnh đai trưng bày phần “Tiểu sử, sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh” và “Đất nước con người Việt Nam”.
Bảo tàng Hồ Chí Minh là nơi đón tiếp rất nhiều khách trong và ngoài nước đến tham quan, học tập, 5 tháng đầu năm đơn vị đã đón 604 đoàn với 44.508 lượt khách, 551 khách nước ngoài, phục vụ 52 lễ viếng, 12 lễ kết nạp Đoàn, 2 lễ kết nạp Đảng. Trong số đó, có 19.200 học sinh trong tỉnh. Đây là đối tượng mà đơn vị rất quan tâm, chính vì vậy không những chỉ đón tiếp và phục vụ các em tại Bảo tàng, mà cán bộ Bảo tàng còn chủ động xuống tận cơ sở để tuyên truyền cho các em. Ngoài ra, đơn vị đã phối hợp với Đài phát thanh truyền hình, Báo Bình Thuận thực hiện nhiều phóng sự, bài viết tuyên truyền về khu di tích Dục Thanh, gặp gỡ với những người được gặp Bác Hồ, tổ chức họp mặt truyền thống tưởng niệm của các cụ Hội người cao tuổi Phan Thiết, Hội cựu chiến binh khu 6, khu 10 tại Bảo tàng.
Trong đợt kỷ niệm ngày sinh nhật Bác liên tục diễn ra các hoạt động như: Lễ tưởng niệm, báo công, kết nạp Đảng, Đại hội chi bộ của các cơ quan trong và ngoài tỉnh, hội thảo khoa học “Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam” của Trường Chính trị Bình Thuận… Ngoài ra đơn vị sẽ phối hợp với Trung tâm phát hành phim và chiếu bóng Bình Thuận, Đoàn ca múa nhạc Bình Thuận tổ chức chiếu phim và biểu diễn văn nghệ vào tối 17/5; phối hợp với Trung tâm văn hóa thành phố Phan Thiết và Trường Cao đẳng Sư phạm Bình Thuận tổ chức đêm thơ-nhạc về Bác vào tối 18/5; phối hợp với Trung tâm văn hóa tỉnh và Đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh tổ chức đêm giao lưu “Đuốc sáng Việt Nam - hành trình theo chân Bác” vào tối 28/5. Tất cả các hoạt động sẽ diễn ra dưới chân Tượng đài Bác.
Khu di tích trường Dục Thanh , nơi Bác Hồ đã sống và dạy học năm 1910 và nhà trưng bày, nằm trong tổng thể bảo tàng Hồ Chí Minh, chi nhánh tại tỉnh Bình Thuận. Đây là một trong mười mấy khu tưởng niệm Bác trong cả nước.
Nhà thơ, nhà yêu nước Nguyễn Thông đã xây trên một khu đất của xóm chài nghèo một ngôi nhà gọi là Ngọa Du Sào để đọc sách, ngâm thơ và gặp gỡ, đàm đạo với bạn thơ, bạn cùng chí hướng yêu nước. Khi cụ Nguyễn Thông qua đời nhiều chí sĩ nổi tiếng vào lui tới Ngọa Du Sào trong đó có các cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp... Được cụ Phan Chu Trinh gợi ý, con trai của nhà yêu nước Nguyễn Thông là Nguyễn Quý Anh đã xây dựng tại đây ngôi trường tiểu học, đặt tên là Dục Thanh với chí hướng giáo dục thanh niên, nâng cao dân trí cho con em trong vùng và truyền bá tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ.
Năm 1910 Nguyễn Tất Thành trở thành thầy giáo trẻ nhất. Năm đó người tròn 20 tuổi. Tại đây Nguyễn Tất Thành đã nhận dạy Quốc Văn, Hán Văn và kiêm nhiệm môn thể dục. Ngoài ra thầy còn nhận dạy tiếng Pháp khi giáo viên Pháp văn vắng mặt.
Nhiều học trò cũ sau này nhớ lại người thầy giáo trẻ tuổi, giọng nói xứ Nghệ trầm và ấm: Dạy quốc văn, thầy Thành thường đưa học sinh đi tham quan di tích thắng cảnh trongvùng và nhắc nhở học trò về sự đẹp giàu của xứ sở, quê hương. Khi dạy tiếng Pháp, thầy thường đặt những câu thơ theo thể lục bát, dễ nhớ và đầy ngụ ý, kín đáo. Cụ Nguyễn Quý Phầu (cháu nội cụ Nguyễn Thông), bác sĩ Nguyễn Kinh Chi, nguyên thứ trưởng bộ Y tế VNDCCH và những học trò khác khi ôn lại một thời học với thầy Thành còn nhớ lại nhiều câu thơ trong giờ học Pháp văn:
L'eau là nước, Maison là nhà
Nước nhà là nước nhà ta...
Ngày nay trong khu trường Dục Thanh còn giữ lại được gần như nguyên vẹn những kỷ vật như cách đây gần ngót thế kỷ, trong đó có, nhà Ngự, nơi các thầy giáo và học trò ăn ở nội trú trong đó có thầy Nguyễn Tất Thành, Ngọa Du Sào, nơi Bác Hồ từng đọc nhiều sách quý, báo chí tiến bộ, cây khế sau vườn, nơi thầy Thành hay tưới nước cho vườn cây vào những buổi chiều.
Ngày 19 tháng 5 năm 1983, kỷ niệm 93 năm ngày sinh của Bác, tỉnh Thuận Hải (tên tỉnh cũ) khởi công xây dựng nhà Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Phan Thiết. Đúng ngày 19 tháng 5 năm 1986 nhà Bảo tàng khánh thành tổng thể công trình bao gồm nhà Bảo tàng , di tích trường Dục Thanh tạo thành một quần thể rộng 7.000m2 . Tại đây hiện có trên 890 tài liệu, hiện vật hình ảnh có giá trị. Năm 2005 kỷ niệm nhiều ngày lịch sử trọng đại trong đó có ngày sinh lần thứ 115 của Bác (19/5/1890 - 19/5/2005), khu bảo tàng chắc chắn sẽ được đón tiếp nhiều đoàn, nhiều cá nhân trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu cuộc đời hoạt động thời trẻ tuổi của Bác và tưởng niệm một con người đã trở thành danh nhân văn hóa thế giới, vô cùng gần gũi thân yêu đối với mỗi người Việt Nam.
7. Tháp Pôshanư, phế tích Lầu Ông Hoàng.
Nhóm đền tháp Chăm Pôshanư tọa lạc trên đồi Bà Nài thuộc xã Phú Hải về phía Đông - Bắc cách thành phố Phan Thiết chứng 7km được người Chăm xây dựng từ những cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ IX thuộc phong cách kiến trúc nghệ thuật Hoà Lai - một trong những phong cách nghệ thuật cổ của Vương quốc Chămpa, mà hiện nay những ngôi tháp này còn lại rất ít như một số phế tích ở khu thánh điạ Mỹ Sơn, còn lại nhóm Hoà lai (Phan Rang) nhóm Pôdam (Tuy Phong – Bình Thuận) và tương đối nguyên vẹn là nhóm đền tháp Pôshanư.
Nhóm tháp gồm có 3 tháp : Tháp chính A hơi nhếch về phía Nam, hai tháp phụ là B hơi nhếch về phiá Bắc và C nhếch về hướng Đông cạnh tháp A. Nội dung của việc xây dựng nhóm tháp trong giai đoạn lịch sử này để thờ thần Shiva ( một trong những vị thần Ấn độ giáo được người Chăm sùng bái, tôn kính) biểu hiện bằng bệ thờ Linga-Yôni bằng đá hiện còn lưu giữ tại tháp chính. Đến thế kỷ XV người Chăm tiếp tục xây dựng một số đền thờ dạng kiến trúc đơn giản để thờ công chúa Pôshanư, tương truyền là con vua ParaChanh được nhân dân yếu quý về tài đức và phép ứng xử của Bà đối với người Chăm đương thời. Những cuộc khai quật khảo cổ học từ 1992-1995 đã phát hiện nhiền nền móng của những ngôi đền bị sụp đổ và bị vùi lấp hàng trăm năm nay, cùng với gạch ngói và một số hiện vật trong lòng các đền tháp có niên đại từ thế kỷ XV. Từ đây tháp có tên gọi là Pôshanư.
Pôshanư là nhòm đền tháp Chăm có vai trò quan trọng trong số các di tích kiến trúc Chăm ở Bình Thuận, từ hình dạng kiến trúc đến kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật trên thân tháp, các vòm cuốn, các cửa chính, cửa giả, trong lòng và lên đến đỉnh tháp. Riêng kỹ thuật xây dựng và trang trí nghệ thuật còn lại ở thân Tháp đủ gợi lên yếu tố thẩm mỹ khá riêng biệt của phong cách Hoà Lai.
Tháp chính A từ trong lòng tháp lên đến Đỉnh 15 m, cạnh đáy mỗi bề gần 20m, một cửa chính dài, hướng về phía đông mà theo truyền thuyết Chăm hướng Đông là nơi cư ngụ của thàn linh. Có 3 cửa giá ở những hướng Bắc, Tây, Nam. Trên vòm cuốn ở hướng Tây hiện còn những dãy chạm khắc dày đặc với những bông hoa và hình tượng kỳ lạ. Tháp có 4 tầng càng lên cao càng thu nhỏ lại và bớt đi những yếu tố kiến trúc của tầng dưới. Trên đỉnh tháp có 4 cửa sổ hình tam giác hướng về 4 phía, bên ngoài xây bít kín, dưới mỗi cửa sổ gạch có 4 lỗ lớn để thông gió ra ngoài.
Tháp B nằm riêng nhích về hướng Bắc cao khoảng 12m, về cơ bản hình dáng kiến trúc giống tháp A nhưng đơn giản hơn. Trước đây trong tháp có thờ con bò thần Namdin nhưng sau đó không thấy nữa . Năm 1995 lúc khai quật dưới lòng đất đã tìm thấy 1 bàn chân và 1 tai bò thần bằng đá. Tháp C hiện chỉ còn lại với 1 chiều cao hơn 4m, duy nhất 1 cửa trổ về hướng Đông những kiến trúc và trang trí nghệ thuật bên ngoài đã bị thời gian bào mòn chỉ còn lại một số đường nét gốc.
So với những tháp Chăm khác, đến nay di tích này hàng năm vẫn có đông đảo người Chăm từ các vùng lân cận đến làm lễ cầu mưa và những nghi lễ khác liên quan đến phong tục tập quán của họ,. Một điều khá lý thú nữa là đối với ngư dân những vùng lân cận trước khi đi biển cũng đến đây cầu xin cho những chuyến đi biển được bình yên.
Nhóm đền tháp Chăm Pôshanư đã được tu bổ, tôn tạo từ 1990-2000 và hiện nay đã hoàn chỉnh việc tu bổ di tích. Di tích này đã được Nhà nước xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia năm 1991.
Lầu ông Hoàng đó, thuở xưa chân Hàn Mặc Tử đã qua...” - đó là câu hát nhiều người thuộc. Đó cũng chính là sự phổ biến đơn giản mà hiệu quả để ai cũng biết rằng: Hàn Mặc Tử từng đến Phan Thiết... Ngày nay Lầu ông Hoàng là một địa danh du lịch có tiếng ở Bình Thuận. Một khu đồi lộng gió biển, trên đồi ngoài dấu tích của căn lầu ngày ấy còn có nhóm Tháp Chăm Pô Shanư rất đẹp.
Gần đó là một ngôi chùa có thể nhìn xuống là thấy ngay bến thuyền sầm uất... Công tước De Montpensier từ Pháp sang du lịch trên cửa sông Phú Hải - Phan Thiết, săn bắn và mê phong cảnh “sơn thủy hữu tình” của vùng này. Đầu năm 1911, ông đã cho xây dựng một biệt thự 13 phòng, hơn 500m2 và một hệ thống hầm ngầm chứa nước mưa (vì vùng này thời đó khan hiếm nước ngọt). Biệt thự được xây dựng xong, đêm đêm rực ánh đèn (từ máy phát điện riêng). Dân chài từ biển nhìn vào, từ các làng nhìn lên thấy khu đồi rực ánh sáng ấy quá đẹp, họ gọi nôm na là “Lầu ông Hoàng”, cái tên ấy còn tận đến bây giờ. Đến tháng 7-1917 công tước De Montpensier bán lại cho một nhà giàu cũng người Pháp là Prasetts. Sau đó một khách sạn được xây dựng ở quả đồi bên cạnh, biến khu vực này thành một thắng cảnh mà hễ ai đến Phan Thiết cũng muốn ghé thăm.
Khoảng năm 1934 Hàn Mặc Tử từ Quy Nhơn vào Sài Gòn làm báo. Khi ấy cô nữ sinh Huỳnh Thị Nghệ 16 tuổi đang học tại École des pleins D’exercies Phan Thiết và thường gởi thơ vào Sài Gòn đăng báo với bút danh Mộng Cầm. Hàn Mặc Tử phát hiện thơ Mộng Cầm hay nên viết thư làm quen. Từ đó họ quen nhau, yêu nhau. Cứ chiều thứ 7 Hàn Mặc Tử đi xe lửa ra Phan Thiết gặp Mộng Cầm. Họ từng đưa nhau đến ngoạn cảnh ở Lầu ông Hoàng. Sau này khi Hàn Mặc Tử phát bệnh phong mối tình họ tan vỡ. Hàn để lại bài thơ “ Phan Thiết, Phan Thiết”, trong đó có những câu nhắc lại kỷ niệm với Mộng Cầm ở Lầu ông Hoàng: “... Ta lang thang tìm nơi chốn lầu trang; lầu ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang; Nơi đã khóc đã yêu thương da diết; Ối trời ơi là Phan Thiết Phan Thiết; mà tan thương còn lại mảnh trăng rơi...” (theo “Năm cô gái với cuộc đời thơ Hàn Mặc Tử - Chí Linh - NXB văn nghệ TPHCM 2004). Trải qua các biến cố, chiến tranh đến nay Lầu ông Hoàng chỉ còn lại là một phần công trình, trông xa như một lô cốt phủ rêu phong giữa khu đồi um tùm cỏ dại. Hệ thống hầm ngầm còn khá nguyên vẹn cùng với dấu tích của những bao lơn hóng gió, nhưng tất cả đã hoang phế. Dù vậy khi leo đến đỉnh đồi, du khách vẫn choáng ngợp, mê mẩn trước cảnh quan quá đẹp, không khí trong lành lồng lộng gió biển. Những người yêu văn chương thì có thêm những giây phút hoài niệm, nhớ về tình yêu, sự nghiệp của Hàn Mặc Tử - thi sĩ tài hoa bạc mệnh. Nếu được xây dựng, phục hồi, Lầu ông Hoàng chắc chắn sẽ là một địa danh du lịch thu hút nhiều hơn nữa du khách đến với Phan Thiết, Bình Thuận.
8. Chùa Hang – Cổ Thạch, nước suối Vĩnh Hảo – Cà Ná.
Chùa Hang tên chữ là Cổ Thạch tự xây dựng từ nửa đầu thế kỷ XIX , tạo lạc trong hang động trên đồi núi Cổ Thạch ở độ cao trên 64 m thuộc địa bàn xã Bình Thạnh huyện Tuy Phong tỉnh Bình Thuận.
Cổ Thạch là một vùng núi đá rộng, gồm hàng ngàn hàng vạn tảng đá lớn nhỏ, có tảng đá còn nguyên khối to như những ngôi nhà, có tảng giống như bàn Thạch, có những tảng đá chồng lên nhau úp vào nhau như có bàn tay người sắp đặt, bố trí, có những tảng đá có hình thù kỳ lạ đầy tính cách huyền bí và chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ độc đáo với nhiều hang động nguyên sinh luồn sâu vào trong núi.
Trên là đá núi, cây rừng chen chúc nhau, dưới chân Cổ Thạch là biển trong xanh rầm rì sóng vỗ quanh năm, bãi tắm tự nhiên hình thành, cách đó không xa là bãi cá nhiều màu đã có từ hàng ngàn năm trước tạo cho Cổ Thạch đầy đủ những yếu tố sơn thủy hữu tình.
Phong cảnh thiên nhiên yên tĩnh có nhiều hang động, cây rậm là điều kiện cho muông thú sinh sống từ bao đời , cũng là nơi phù hợp với việc lập chùa và tu hành của những thế hệ tu sĩ từ những thế kỷ trước. Việc chọn điểm, lập am, dựng chùa của các nhà sư xưa kia thật tuyệt diệu . Hàng chục công trình kiến trúc nối tiếp nhau trải rộng trên khu đồi núi đá rộng chừng 4 ha với cổng tam quan là điểm đặt chân đến đầu tiên ở Cổ Thạch Tự. Khu chính điệm xen kẽ với những hiến đá dựng lớn cao vút của thiên nhiên. Tiếp đến là các nhà tổ, gác chuông, lầu trống, nhà thiền, Từ đường... cùng hàng chục hang cốc ăn sâu vào núi, cuốn hút du khách trên một hành trình không biết mệt mỏi vì những điều kỳ diệu của thiên nhiên. Mỗi hang động có một vị trí, chức năng riêng do những thế hệ nhà sư trước dây quy định. Hang thờ Tổ khai lập Cổ Thạch Tự là nhà sư Bảo Tạng , có tượng nhà sư và nhiều bài vị của các nhà sư khác có công lao xây dựng chùa đã viên tịch. Hang thờ Phật Chuẩn Đề là một hang động bên trong tượng Phật có 8 tay và nhiều tượng cổ. Hang Tam Bảo thờ 23 pho tượng Phật cổ với nhiều kích thước và niên đại khác nhau, các hang động khác cũng được kiến tạo phù hợp với điều kiện thờ phụng. Bước vào những hang động chính trong khu vực để chiêm bái, lễ Phật để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, du khách có cảm giác như đang lạc vào những hang Phật, cửa tiên. Cổ Thạch Tự ngoài vẻ đẹp tự nhiên của hnag động kết hợp với sự sáng tạo của con người, ở đây còn lưu giữ nhiều di sản văn hoá lịch sử quý hiếm : Nhiều di sản văn hoá Hán Nôm, liên, đối, hòanh phi và những tài liệu có từ ngày tạo lập chùa. một số cổ vật có giá trị lịch sử văn hoá khác như Đại Hồng chung, trống sấm đều có niên đại từ nửa đầu thế kỷ XIX. Cổ Thạch Tự hàng chục năm nay do Hoà Thượng Thích Minh Đức trụ trì là điểm du lịch chính của Bình Thuận, hàng chục vạn du khách từ mọi miền đất nước đến đây hàng năm để chiêm bài, lễ Phật và tham quan danh lam thắng cảnh độc đáo hiếm có ở đây. Những giá trị về thắng cảnh thiên nhiên và về lịch sử văn hoá, Cổ Thạch Tự đã được Nhà Nước xếp hạng di tích thắng cảnh cấp Quốc gia năm 1993.Thạnh – Tuy Phong – Bình Thuận Chùa Hang (Bình Thuận) – chưa đựng vẻ đẹp nguyên sơ và độc đáoChùa Hang tên chữ là Cổ Thạch tự xây dựng từ nửa đầu thế kỷ XIX , tạo lạc trong hang động trên đồi núi Cổ Thạch ở độ cao trên 64 m thuộc địa bàn xã Bình Thạnh huyện Tuy Phong tỉnh Bình Thuận. Cổ Thạch là một vùng núi đá rộng, gồm hàng ngàn hàng vạn tảng đá lớn nhỏ, có tảng đá còn nguyên khối to như những ngôi nhà, có tảng giống như bàn Thạch, có những tảng đá chồng lên nhau úp vào nhau như có bàn tay người sắp đặt, bố trí, có những tảng đá có hình thù kỳ lạ đầy tính cách huyền bí và chứa đựng vẻ đẹp nguyên sơ độc đáo với nhiều hang động nguyên sinh luồn sâu vào trong núi. Trên là đá núi, cây rừng chen chúc nhau, dưới chân Cổ Thạch là biển trong xanh rầm rì sóng vỗ quanh năm, bãi tắm tự nhiên hình thành, cách đó không xa là bãi cá nhiều màu đã có từ hàng ngàn năm trước tạo cho Cổ Thạch đầy đủ những yếu tố sơn thủy hữu tình.
Phong cảnh thiên nhiên yên tĩnh có nhiều hang động, cây rậm là điều kiện cho muông thú sinh sống từ bao đời , cũng là nơi phù hợp với việc lập chùa và tu hành của những thế hệ tu sĩ từ những thế kỷ trước. Việc chọn điểm, lập am, dựng chùa của các nhà sư xưa kia thật tuyệt diệu . Hàng chục công trình kiến trúc nối tiếp nhau trải rộng trên khu đồi núi đá rộng chừng 4 ha với cổng tam quan là điểm đặt chân đến đầu tiên ở Cổ Thạch Tự. Khu chính điệm xen kẽ với những hiến đá dựng lớn cao vút của thiên nhiên. Tiếp đến là các nhà tổ, gác chuông, lầu trống, nhà thiền, Từ đường...cùng hàng chục hang cốc ăn sâu vào núi, cuốn hút du khách trên một hành trình không biết mệt mỏi vì những điều kỳ diệu của thiên nhiên.
Mỗi hang động có một vị trí, chức năng riêng do những thế hệ nhà sư trước dây quy định. Hang thờ Tổ khai lập Cổ Thạch Tự là nhà sư Bảo Tạng , có tượng nhà sư và nhiều bài vị của các nhà sư khác có công lao xây dựng chùa đã viên tịch. Hang thờ Phật Chuẩn Đề là một hang động bên trong tượng Phật có 8 tay và nhiều tượng cổ. Hang Tam Bảo thờ 23 pho tượng Phật cổ với nhiều kích thước và niên đại khác nhau, các hang động khác cũng được kiến tạo phù hợp với điều kiện thờ phụng. Bước vào những hang động chính trong khu vực để chiêm bái , lễ Phật để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, du khách có cảm giác như đang lạc vào những hang Phật, cửa tiên.
Cổ Thạch Tự ngoài vẻ đẹp tự nhiên của hang động kết hợp với sự sáng tạo của con người, ở đây còn lưu giữ nhiều di sản văn hoá lịch sử quý hiếm : Nhiều di sản văn hoá Hán Nôm, liên, đối, hòanh phi và những tài liệu có từ ngày tạo lập chùa. một số cổ vật có giá trị lịch sử văn hoá khác như Đại Hồng chung, trống sấm đều có niên đại từ nửa đầu thế kỷ XIX.
Cổ Thạch Tự hàng chục năm nay do Hoà Thượng Thích Minh Đức trụ trì là điểm du lịch chính của Bình Thuận, hàng chục vạn du khách từ mọi miền đất nước đến đây hàng năm để chiêm bài, lễ Phật và tham quan danh lam thắng cảnh độc đáo hiếm có ở đây. Những giá trị về thắng cảnh thiên nhiên và về lịch sử văn hoá, Cổ Thạch Tự đã được Nhà Nước xếp hạng di tích thắng cảnh cấp Quốc gia năm 1993.
Nước suối Vĩnh Hảo là nước khoáng của truyền thuyết từ ngàn xưa, nuớc suối nóng Eamu được xem như Nước Thánh và chỉ được dùng trong những cuộc tế lễ thần linh và trị bệnh.
Đến đầu thế kỷ XIV, tương truyền, HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA, được vua cha TRẦN NHÂN TÔN gả cho vua CHIÊM THÀNH là CHẾ MÂN, trong một chuyến đi ngao du sơn thủy vùng đồi núi, tình cờ dừng chân bên dòng suối nóng đang phun trào, trong vắt và yên ả, và chính nàng đã tên cho dòng suối là VĨNH HẢO với mong muốn mối bang giao giữa hai nước VIỆT - CHIÊM đời đời vững bền và tốt đẹp.
Năm 1928, người Pháp phát hiện chất lượng tuyệt hảo của nguồn suối khoáng VĨNH HẢO. Từ đó, Vichy Việt Nam ra đời.
Ngày nay, sản phẩm Vĩnh Hảo có mặt khắp nơi, mang lại sức khỏe và làn da tươi trẻ cho mọi người.
Tháng 8 năm 1909, một thương gia tên Bùi Huy Tín, tình cờ phát hiện lại ngồn suối khoáng nóng này.
Đến năm 1928, do đánh giá chất lượng nguồn nước khóang Vĩnh Hảo tốt ngang với nước khoáng Vichy nổi tiếng thế giới của Pháp,công ty Socíeté Civile D'Etudes Des Eaux Minérals De Vinh Hao bắt đầu khai thác và thương mại hóa.
Tháng 10 năm 1930, nước suối Vĩnh Hảo chính thức được tung ra thị trường với công suất 3.000 lít/giờ, và đã từng được xuất khẩu sang Pháp, Lào, Cambodge, Miến Điện, Thái....Từ những năm đầu thế kỷ 20, thương hiệu nước suối Vĩnh Hảo đã nổi tiếng trên thế giới.
Bãi biển Cà Ná nằm trên quốc lộ 1A cách trung tâm thị xã Phan Rang 30Km về phía Nam, về phía Tây quốc lộ là dãy Trường Sơn hùng vĩ nhô ra gần sát bờ biển ôm gọn tuyến đường sắt Bắc Nam... giao thông thuận lợi.
Bãi tắm Cà Ná được mệnh danh là "nàng công chúa ngủ quên" bởi bãi biển này còn nguyên dấu tích hoang sơ, khí hậu nắng ấm quanh năm. Đến đây du khách sẽ được đắm mình trong dòng nước xanh mát có độ mặn cao hơn các vùng khác từ 3 - 4 độ. Những mỏm đá đủ hình thù nằm sát mép bờ đã thu hút du khách dừng chân để chụp ảnh lưu niệm hoặc tổ chức leo núi, sau đó thưởng thức các món ăn đặc sản vùng biển, nghỉ ngơi tại bờ biển, trong khách sạn Cà Ná, Hải Sơn và thăm các danh thắng, các công trình văn hóa đặc sắc, các làng nghề truyền thống dân tộc Chăm thuộc huyện Ninh Phước
9. Vịnh Cam Ranh – Du lịch Hòa Lao, Mộ Bác sĩ Yersin.
Vịnh Cam Ranh là một trong ba vùng biển thiên nhiên tốt nhất thế giới. Vũng Cam Ranh rộng chừng 100km2, bề ngang tới 5-6km, cửa vịnh sâu từ 15-20m, bề dài gần 15km, vừa rộng, vừa sâu lại vừa kín vì bốn bề đều có núi đá vây quanh, suốt năm nước lặng như tờ, là hải cảng tốt nhất nước ta, có thể đón tầu biển trọng tải lớn: chừng 10 vạn tấn vào trong tận cảng, tàu 20 vạn tấn đậu ở ngoài cửa vũng.
Vịnh Cam Ranh từ lâu nổi tiếng là đẹp và kín gió. ở đây, núi và biển kết hợp với nhau tạo thành bức tranh thiên nhiên tuyệt tác. Dường như quanh năm suốt tháng ở Cam Ranh chỉ thấy có hai màu tương phản: màu trắng của cát và màu xanh của biển, của trời, của núi và của cỏ cây.
Cam Ranh thuở xưa thật là ồn ào, náo nhiệt nhưng nay thì êm ả, bình lặng, phố xá về đêm thật yên tĩnh. Những làng chài nằm dọc theo bờ vịnh, ẩn mình trong đám dừa rợp bóng hoặc chìm khuất trong cánh rừng phi lao rút bóng thướt tha. Khách du lịch đến Cam Ranh được thưởng thức cảnh trí hiếm có: núi và biển kết hợp với nhau thành một bức tranh tuyệt diệu. Ven bờ lại có dải đồng bằng xinh xắn, mọc lên những khu phố Ba Ngòi, Đá Bạc, vùng Bảo Giếng và phần bán đảo nằm bên kia vịnh, bao gồm vùng Mỹ Ca, Bình Ba, Vũng Nồm và đặc biệt là đầm Thuỷ Triều, nước rất cạn, là nơi sinh sản của loại sò huyết. Sò huyết Thủy Triều ngon nổi tiếng chẳng thua gì sò huyết ở đầm Ô Loan (Phú Yên), với câu ca truyền tụng:
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
Cá tràu Võ Cạnh
Sò huyết Thủy Triều
Nếu có dịp đến thăm Cam Ranh, các bạn có thể đi thuyền máy độ 40 phút từ cảng Đá Bạc (Ba Ngòi) đến lên Bình Ba. Bình Ba quanh năm lộng gió, sóng nước mênh mang, phong cảnh hữu tình có Vũng Nồm, một làng chài sầm uất, quanh năm sống bình thản, tràn ngập bóng dừa xanh và những rừng nhãn ngọt ngào. Thức ăn ở đây thật phong phú, nổi tiếng nhất là tôm hùm Bình Ba, to như bắp chân người, râu dài cả thước, có con nặng đến bảy, tám ký. Ngoài ra, Cam Ranh còn có ốc, cua, ghẹ, rau câu, mực, cá đủ các loại, tha hồ thưởng thức, vừa rẻ lại vừa ngon. Nếu đến Cam Ranh vào mùa xoài cũng là dịp để các bạn thưởng thức loại xoài cát nhỏ trái, vỏ mỏng lại thơm ngọt vô cùng. Xoài Cam Ranh nổi tiếng là nhiều và ngon rẻ.
Cam Ranh có nhiều tiềm năng về kinh tế và du lịch. Những thắng cảnh danh lam chung quanh bờ vịnh, nhất là những động cát, làng chài, những đồi núi của vùng cực nam bán đảo quanh năm mai vàng nở đón khách tham quan. Cam Ranh còn là một cửa ngõ lớn của nước ta, nơi xuất khẩu những sản phẩm phong phú của Tây Nguyên và miền Trung như lâm sản, cao su, chè, cà phê, thuốc lá, đường, hoa quả. Cam Ranh sẽ trở thành trung tâm công nghiệp lớn. Cát Ba Ngòi trắng và chứa nhiều silic sẽ là nguyên liệu quý cho công nghiệp hoá chất, thuỷ tinh pha lê. Cơ sở đóng tầu biển dựa vào gỗ rừng Tây Nguyên. Ngư trường cá và chế biến hải sản cung cấp cho các khách sạn và xuất khẩu.
Alexandre Yersin sinh ngày 22.9.1863 tại một vùng quê miền núi ở Lavaux (Bang Vaud, Thụy Sĩ). Nhà khoa học người Pháp, gốc Thụy Sĩ đã từng coi Việt Nam là quê hương thứ hai của mình đã ra đi hơn nửa thế kỷ, nhưng những công trình nghiên cứu khoa học, những đóng góp cho lĩnh vực y học, lĩnh vực nông nghiệp, địa chất của ông đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng vẫn mãi mãi trường tồn với thời gian.
Năm 1890, lần đầu tiên đặt chân lên xứ sở Đông Dương, chàng trai Yersin vừa tròn 27 tuổi. Thời gian trước đó, Yersin đã tốt nghiệp trường Y. Ông đã từng làm việc trong phòng thí nghiệm của Louis Pasteur, tại Trường Đại học Sư phạm Paris. Tại đây, ông đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Y khoa với đề tài "Étude sur le Développement du Tubercule Expérimental".
Ngay từ những ngày ấy, ông đã trở nên nổi tiếng với các công trình khoa học về nghiên cứu phát triển huyết thanh ngừa bệnh dại, về trực khuẩn bạch cầu và độc tố. Năm 1889, Yersin đã giành Huy chương Đồng của Khoa Y học Paris. Một tương lai rạng rỡ đang mở ra trước mắt chàng trai trẻ tuổi này. Ngoài đam mê cháy bỏng khám phá trong Y học, Yersin còn có ham muốn khám phá thiên nhiên. Lòng say mê ấy đã thôi thúc thoát khỏi sự bó buộc của phòng thí nghiệm. Thế rồi, với cương vị là một bác sĩ trên con tàu vận tải, ông đã thực hiện chuyến hành trình dài ngày thẳng hướng Viễn Đông. Năm 1892, ông đã đến Nha Trang, Việt Nam - vùng đất khí hậu nhiệt đới đầy bí ẩn và hấp dẫn mà trước đó ông chỉ được biết qua sách vở, bản đồ. Cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng đầy quyến rũ, cùng với tấm lòng chân thành, gần gũi của người dân đã khiến người bác sĩ trẻ tuổi Yersin có một tình cảm đặc biệt, một tình yêu mãnh liệt đối với xứ biển này. Để rồi phần lớn gần 50 năm sau đó, ông đã sống, làm việc và gắn bó với con người và mảnh đất nơi đây.
Giờ đây không chỉ người dân Việt Nam mà rất nhiều khách du lịch quốc tế đã quen thuộc với một địa danh nổi tiếng, đó là cao nguyên Lang Biang và thành phố Đà Lạt. Tuy vậy, hầu như mọi người không mấy ai biết rằng các địa danh trên đã gắn liền với tên tuổi của nhà thám hiểm, bác sĩ Yersin. Thực ra trước ông, đã có nhà thám hiểm Nguyễn Thông (1827 - 1884), hai nhà thám hiểm người Pháp là Paul Néis và Albert Saptens đã từng có mặt ở đây. Tuy nhiên, sự hiện diện của họ đã không để lại một dấu ấn gì. Trong chuyến thám hiểm đầy khó khăn, gian khổ kéo dài 7 tháng, Yersin đã vượt qua các chặng đường từ Sài Gòn đi Phan Thiết, băng qua vùng núi đầy hiểm trở Tánh Linh, Phan Rí, Phan Rang... để rồi dừng chân ở mảnh đất đầy thơ mộng Đà Lạt. Đến năm 1897, chính ông lại là người đề xuất với Toàn quyền Đông Dương, Paul Dumer, chọn nơi này làm điểm xây dựng trạm điều dưỡng. Sau đó, bằng chuyến đi lên cao nguyên với vị Toàn quyền Đông Dương, ông đã tham gia quyết định việc thành lập trạm điều dưỡng trên cao nguyên Lang Biang - tiền thân của thành phố Đà Lạt sau này.
Dù ở nơi đâu hay bất cứ ở cương vị nào, Yersin luôn miệt mài, nghiên cứu với tinh thần say mê tìm hiểu, khao khát khám phá tìm đến chân trời khoa học. Năm 1894, theo yêu cầu của Chính phủ Pháp và Viện Pasteur, Yersin tới Hồng Kông để nghiên cứu bệnh dịch hạch. Với kiến thức được trang bị và tích lũy trong thời gian làm việc ở Viện Pasteur, Yersin đã nhanh chóng phân lập thành công trực khuẩn gây bệnh. Ông là người đầu tiên chứng minh được sự tương đồng giữa bệnh ở người và bệnh ở chuột, cũng như việc tìm ra tác nhân gây bệnh, cách giải thích phương thức truyền bệnh. Vi trùng dịch hạch, huyết thanh trị bệnh dịch này đã được Yersin phát hiện ra, góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn dịch hạch đang lan rộng ở Hồng Kông. Lại một sự thành công nữa khiến Yersin trở thành người có tên tuổi trong làng y học thế giới. Cùng năm đó, Yersin đã gửi những ống nghiệm đựng trực trùng mang tên Yersin (Yersinis Pestis) đến Viện Pasteur Paris, đồng thời bản báo cáo nghiên cứu về dịch hạch ở Hồng Kông của Yersin cũng đã được gửi đến Viện Hàn lâm Khoa học Pháp và được đánh giá cao. Sau đó, Yersin được cử đến một đảo nhỏ Nossi - Bé, gần Mađagatxa để tập trung nghiên cứu kỹ những người mắc chứng sốt vàng da đái ra máu.
Không hiểu có phải vì duyên phận với mảnh đất hình chữ S đầy quyến rũ, với những tấm lòng nhân hậu, nồng ấm của người Việt Nam mà Yersin đã sớm rời khỏi Mađagatxa để trở lại Nha Trang. Tại đây, Yersin đã cho lập một phòng thí nghiệm nhỏ để điều chế huyết thanh chữa bệnh dịch hạch. Ông trở thành người sáng lập và là Viện trưởng đầu tiên của Viện Pasteur Đông Dương (tên gọi đầu tiên của Viện Pasteur Nha Trang). Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, ông đã cho xây dựng tại đây một trại chăn nuôi gia súc. Những năm tháng miệt mài nghiên cứu tại Viện Pasteur Paris đã củng cố và trang bị cho Yersin những kiến thức chuyên môn vững vàng, sự tìm tòi, sáng tạo trong nghiên cứu.
Đến năm 1902 - 1904, theo yêu cầu của Toàn quyền Đông Dương Paul Dumer, Yersin ra Hà Nội để thành lập và điều hành Trường Y - Dược Đông Dương tại Hà Nội - một cơ sở đào tạo Y khoa đầu tiên của bán đảo Đông Dương xây dựng theo mô hình của phương Tây. Trong những năm tháng đầu đầy gian khó đó, Yersin đã hoạt động tích cực để thành lập Đại học Y - Dược và trở thành hiệu trưởng đầu tiên của Trường (một thành viên của Đại học Đông Dương năm 1906, sau này trở thành trường Đại học Y Hà Nội).
Với những đóng góp và cống hiến của ông cho lĩnh vực y học, năm 1904, Yersin được cử làm đại diện của Viện Pasteur Paris tại Đông Dương và Giám đốc Viện Pasteur Sài Gòn và Nha Trang. Ông còn đảm nhận rất nhiều chức vụ quan trọng trong lĩnh vực Y tế như Chánh thanh tra danh dự các Viện Pasteur ở Đông Dương, thành viên Hội Bệnh học, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học, chuyên ngành Y - Giải phẫu, thành viên chính thức của Hội đồng Khoa học của Viện Pasteur, Viện trưởng danh dự của Viện Pasteur. Ông được nhận giải thưởng Lecomte của Viện Hàn lâm khoa học (năm 1927).
Những tháng ngày tiếp đó, Yersin vẫn không ngừng say sưa với sự nghiệp nghiên cứu khoa học của mình trên mảnh đất Nha Trang. Người ta không chỉ biết đến Yersin với tư cách là một bác sĩ đầu tiên tìm ra vi khuẩn dịch hạch, người thám hiểm ra cao nguyên Lang Biang, khai sinh ra Đà Lạt, Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Đại học Y - Dược Đông Dương mà còn biết đến ông bởi những đóng góp to lớn trong lĩnh vực nông nghiệp.
Giờ đây chúng ta đi dọc theo dải đất miền Trung từ Phan Rang, Phan Thiết, Bình Thuận, Ninh Thuận... sẽ thấy ngút ngàn, xanh ngắt những cánh rừng cao su trải dài tới tận chân trời. Có được những cánh rừng đó, có được một Việt Nam đứng thứ tư trên thế giới về sản lượng cao su tự nhiên như ngày hôm nay, đó là nhờ công lao của người đã nhập cây cao su từ Brazil vào trồng ở Việt Nam - Yersin! Không chỉ nhập cây về, ông còn đặc biệt quan tâm đến phương pháp trồng, khai thác và chế biến cao su sao cho có hiệu quả cao nhất. Ông đã thiết lập một phòng thí nghiệm nông hóa. Tại đây, những biện pháp chọn giống, những thao tác cạo mủ và làm đông cao su đã được nghiên cứu một cách có hệ thống. Nhờ đó, người trồng cao su ở Đông Dương không còn phải vất vả như trước nữa.
Năm 1940, do tình hình sức khỏe giảm sút, Yersin trở về Pháp - quê hương của mình lần cuối. Sau đó, ông lại trở về ngôi nhà thân thương ở Nha Trang. Tại đây, ông đã sống những ngày cuối đời và trút hơi thở cuối cùng vào đầu năm 1943. Theo ước nguyện của ông, khi khâm liệm, người ta đặt ông nằm sấp, đầu quay ra biển để ông mãi mãi ôm lấy mảnh đất quê hương thứ hai của mình.
Là một nhà khoa học lớn nhưng với đức tính khiêm nhường, gần gũi với mọi người xung quanh, Yersin là một tấm gương sáng về lòng say mê khoa học, say mê tìm tòi nghiên cứu, khám phá những mảnh đất mới lạ. Nhân dân thế giới, Việt Nam biết ơn ông, ngưỡng mộ trước những cống hiến to lớn mà ông dành trọn đời phấn đấu. Vẫn còn đó con đường Yersin ở thành phố Nha Trang! Vẫn còn đó con đường Y-éc-xanh ở thành phố Hà Nội.
10. Thành cổ Diên Khách – Ngã ba Thành, khái quát tỉnh Khách Hòa – TP. Nha Trang.
Nằm cách thành phố biển Nha Trang hơn 10km về hướng Tây Nam, thành cổ Diên Khánh đã và đang là một trong những điểm đến hấp dẫn của du khách thập phương. Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia này còn là niềm tự hào của mỗi người dân địa phương, do Chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Ánh) xây đắp năm Quý Sửu (1793) nhằm phòng thủ, án ngữ, bảo vệ vùng đất Nam Trung Bộ. Thủa ban sơ, 6 cửa ra vào thành đều được xây bằng đất. Đến năm Thiệu Trị thứ bảy (1847), người ta lấp bớt 2 cửa và xây gạch kiên cố 4 cửa còn lại (cửa Đông, cửa Tây, cửa Tiền, cửa Hậu), cao 8,5m, trên có vọng lâu, tứ diện thông phong, kiến trúc theo kiểu thành trì quân sự VauBan (Pháp). Ngoài thành có hào sâu 8m, rộng 4 trượng và luôn đầy nước do nước từ sông Cái đổ vào, chung quanh hào lại có lũy bao bọc và có trại canh gác. Đến thời Pháp thuộc lại lấp tiếp 2 cửa Tiền và Hậu. Mới đây, thành cổ Diên Khánh đã được trùng tu phục chế cả 4 cửa Tiền, Hậu, Đông và Tây.
Theo sử sách, từ đời Gia Long đến cuối thời Pháp thuộc, thành Diên Khánh là trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa của triều Nguyễn. Trong thành có Hành Cung của nhà vua, có dinh thự của các quan thủ hiến, có những Ty, Tào, đồn, trại và toà ngang, dãy dọc, kèo chạm cột sơn… quang cảnh thật trang nghiêm khang phú. Phong quang rực rỡ nhất là vào thời Thiệu Trị (1840-1847), Tự Đức (1847-1883). Đến cuối triều Hàm Nghi, năm Ất Dậu (1885), nghĩa binh Cần Vương đã chọn thành làm cơ sở kháng chiến. Trong nhiều trận chiến, quân Pháp đã nã đạn vào thành, tàn phá hầu hết dinh thự. Sau khi chiếm trọn được lãnh thổ Việt Nam, ngoài việc triệt hạ cửa Tiền và cửa Hậu, thực dân Pháp còn phá hủy vòng lũy và lấp cạn vòng hào xung quanh thành - thủ phủ Khánh Hòa.
Dấu xưa thành cổ Diên Khánh qua bao lần chịu sự hủy diệt của chiến tranh, nay vẫn hiện hữu như một minh chứng lịch sử oai hùng của xứ Trầm Hương. Nhiều huyền thoại ra đời từ thành cổ Diên Khánh được lưu truyền qua sử sách. Thành không chỉ là cung đình uy nghiêm đương đại, mà còn được coi là nơi trú ngụ linh thiêng huyền bí của vô số oan hồn quân và dân trong các trận chiến với những giai thoại thần kỳ.
Khánh Hòa có diện tích hơn 5.000 km². Tỉnh lỵ: Thành phố Nha Trang có các huyện, thị: -Thị xã: Cam Ranh - Huyện:Vạn Ninh, Ninh Hoà, Diên Khánh, Khánh Vĩnh, Khánh Sơn, Trường Sa. Dân tộc: Việt (Kinh), Ra Glai, Hoa, Cơ Ho,…là một tỉnh ven biển Nam Trung bộ, có quần đảo Trường Sa nằm ở điểm cực đông Việt Nam, nơi nhận được ánh nắng ban mai sớm nhất nước, phía bắc giáp tỉnh Phú Yên, phía tây giáp tỉnh Đắk Lắk và Lâm Đồng, phía nam giáp tỉnh Ninh Thuận.
Địa hình Khánh Hoà thấp dần từ tây sang đông với những dạng núi, đồi, đồng bằng, ven biển và hải đảo. Hai sông lớn nhất chảy qua tỉnh là sông Cái (đổ ra biển tại Nha Trang) và sông Dinh. Trong đó huyện đảo Trường Sa quy tụ trên 100 đảo.
Nha Trang là một thành phố biển nằm trên đường quốc lộ số 1A. Bờ biển Khánh Hòa dài 200km, với trên 200 đảo lớn nhỏ, bãi cát trắng và nước biển trong xanh đã thu hút hàng ngàn khách du lịch trong và ngoài nước. Bãi biển này nắng quanh năm và bầu trời luôn trong xanh, mầu xanh Ðịa Trung Hải.
Ðại Lãnh - Văn Phong - Nha Trang là một bờ biển dài với nhiều bãi biển đẹp kéo dài từ Ðại Lãnh qua Nha Trang, Ninh Trữ tới Cà Ná (Ninh Thuận). Những bãi biển này chắc chắn sẽ tạo ra những ấn tượng sâu sắc cho khách du lịch. Sản xuất nông-công nghiệp phát triển tương đối toàn diện, phong trào nuôi tôm phát triển mạnh cùng với đánh bắt cá xa bờ. Khánh Hòa có nhiều tài nguyên, trong đó nổi tiếng là lâm sản (gỗ, kỳ nam, trầm hương), hải sản (cá, tôm...) và đặc biệt là yến sào. Khánh Hòa có 5 suối nước nóng có tác dụng chữa bệnh và khai thác nước uống.
Nha Trang cách Phan Rang 105km, cách Buôn Ma Thuột 190km, cách Đà Lạt 215km, cách Qui Nhơn 238km, cách thành phố Hồ Chí Minh 445km và Hà Nội 1.450km. Khánh Hòa có nhiều cảng biển trong đó cảng Cam Ranh thuộc vào loại cảng biển tốt nhất thế giới, có sân bay Nha Trang, sân bay Cam Ranh tiện lợi cho du khách đến Khánh Hòa. Nằm trên trục giao thông quan trọng quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt nối Khánh Hòa với các tỉnh miền Nam và miền Bắc; quốc lộ 26 nối Khánh Hòa với Đắk Lắk và các tỉnh Tây Nguyên.
Đầu thế kỷ XX, Nha Trang mới chỉ là những làng chài heo hút dọc theo cửa sông Cái. Năm 1924, vua Khải Định ban hành đạo dụ thành lập thị trấn Nha Trang (được Toàn quyền Đông Dương chuẩn y) chỉ gồm 4 làng Xương Huân, Phương Sài, Phương Câu, Vạn Thạnh. Hai mươi năm sau (1944) vua Bảo Đại ban hành Đạo dụ số 9 nâng cấp lên thành thị xã Nha Trang.
Trước năm 1975, Nha Trang là một thị xã hoàn toàn sống nhờ vào viện trợ của Mỹ với chừng 35% dân số hoạt động dịch vụ, thương mại. Đất nước thống nhất. Chính phủ có quyết định thành lập thành phố Nha Trang. Khi đó Nha Trang là tỉnh lỵ của tỉnh Phú Khánh với dân số chừng 20 vạn người.
Lịch sử để lại cho Nha Trang nhiều những hệ lụy: Những con đường nhỏ chạy trong thành phố không có hệ thống cống ngầm. Trong nhiều năm, rất nhiều những trường phái kiến trúc cùng xuất hiện và để lại những dấu ấn ở mảnh đất này. Tuy nhiên, những tuyến đường nhỏ với hệ thống cây trồng lâu đời ven đường đã khiến Nha Trang trở nên thơ mộng. Những tuyến đường chạy song song cùng hướng ra phía biển tạo cho thành phố một nét quy hoạch sơ khai riêng đẹp hiếm có.
Một trong những biện pháp "mạnh tay" để mở rộng thành phố là chặt sạch những cây cổ thụ ven các tuyến đường cần mở rộng. "Cuộc tàn sát" không ngừng lại mặc dù những người cao tuổi ở Nha Trang đồng loạt gửi đơn thư lên phản đối.
Nha Trang hôm nay đã định rõ hình hài của một thành phố biển luôn lộng gió. Nha Trang đang tiến từng bước về phía biển để làm giàu. Một bước tiến thêm về phía núi hướng Tây sắp khởi động trong thời gian tới sẽ tạo nên hậu phương vững chắc đón đầu sự phát triển cư dân của thành phố trẻ trong vài chục năm nữa.
Năm 2004, thành phố Nha Trang đón 65 vạn lượt khách du lịch, trong đó có trên 17 vạn lượt khách quốc tế. Ngành dịch vụ-du lịch chiếm tỷ trọng 46,75%, lớn nhất trong cơ cấu kinh tế thành phố. Những thống kê cho thấy Nha Trang đang tận dụng có kết quả những lợi thế của mình. Khánh Hòa đang nỗ lực đưa Nha Trang lên đô thị loại 1. Nhưng những hệ lụy cũng đã bắt đầu hiện hình cho thấy một sự chủ động phát triển hướng về phía biển chưa được đặt ra rõ ràng, chắc chắn mang tính quy chuẩn theo một quy hoạch tổng thể với những quy tắc nghiêm khắc cần tuân thủ.
11. Viện Hải Dương Học, tuyến đảo Nha Trang.
Viện Hải dương học Nha Trang là một trong những cơ sở nghiên cứu khoa học về biển ra đời sớm nhất ở Việt Nam và được coi là cơ sở lưu trữ hiện vật và nghiên cứu về biển lớn nhất Đông Nam Á. Nơi đây có trên 20.000 mẫu vật của hơn 10.000 loài sinh vật biển và nước ngọt đã được gìn giữ sưu tầm từ nhiều năm, bên cạnh những mẫu vật sống được nuôi thả trong bể kính. Mới đây, Viện được bình chọn là một trong 10 điểm du lịch lịch sử văn hóa hấp dẫn đạt danh hiệu “Điểm du lịch được hài lòng năm 2005”.
Nói đến Viện Hải dương học, người ta không thể không nhắc đến một bộ phận hữu cơ của nó là Bảo tàng Hải dương học - vốn rất nổi tiếng từ những năm 30 của thế kỷ trước với cái tên dân dã là “Hồ cá Hải học viện Nha Trang”. Hiện nay, Bảo tàng Hải dương học được tập trung đầu tư nâng cấp, mở rộng và phát triển thành một quần thể liên hoàn bao gồm các bể nuôi sinh vật biển phục vụ nghiên cứu, tham quan cũng như giáo dục cộng đồng, và một hệ thống nhà lưu trữ mẫu sinh vật biển lớn nhất nước. Có rất nhiều mẫu vật đã được gửi đến nhiều phòng thí nghiệm khác nhau ở nước ngoài, nhiều Bảo tàng trên thế giới.
Đến tham quan Bảo tàng, ngoài việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của hàng trăm loài sinh vật biển nhiệt đới, khách tham quan còn có thể xem xét tìm hiểu hơn 10.000 loài sinh vật ở biển Đông đang được lưu trữ. Bộ mẫu sinh vật biển bao gồm các loài hiện hữu ở biển Việt Nam, Campuchia và các vùng nước lân cận, trong đó có các loài thú biển quý hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng như Bò biển (Dugong). Đặc biệt, Bảo tàng đang lưu giữ, bảo quản trưng bày bộ xương cá voi khổng lồ dài gần 26m, cao 3m đã bị chôn vùi trong lòng đất ở đồng bằng sông Hồng ít nhất hơn 200 năm. Đây thực sự là một di vật lịch sử tự nhiên vô cùng quý giá. Bảo tàng còn giới thiệu với du khách các đặc điểm tự nhiên của vùng biển Đông, giới thiệu những khoáng sản, tài nguyên quý giá, những cảnh quan môi trường vùng biển ven bờ, các hệ sinh thái giàu có như rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển - để lưu ý nhắc nhở mọi người hãy nâng cao ý thức bảo vệ cảnh quan môi trường, nguồn lợi vì lợi ích của con cháu mai sau. Bảo tàng Hải dương học đang trở thành trung tâm trưng bày giới thiệu và giáo dục truyền thống chinh phục khai thác và bảo vệ biển Đông của người Việt. Đây thực sự là một trung tâm di sản văn hóa biển rất đáng quý, cần phải bảo quản và phát triển. Ở tầm cỡ thế giới, Tiến sĩ R. Serene nhận xét: “Đối với các nhà sinh vật học trên thế giới, Viện Hải dương học Nha Trang hiện nay là một trung tâm sưu tập có giá trị”. Chính vì thế, Viện Hải dương học đã đáp ứng được nhu cầu vừa tham quan vừa học hỏi của du khách. Với đội ngũ thuyết minh của Viện có trình độ, luôn được cập nhật thông tin, với cách truyền bá sinh động phù hợp cho từng đối tượng luôn làm hài lòng du khách. Để luôn tạo hứng thú cho du khách và không gây nhàm chán, Viện luôn tăng cường hàm lượng tri thức công nghệ, thay đổi và bổ sung cái mới. Sắp đến, Viện sẽ khai trương khu công nghệ cao thuần hóa sinh vật biển, nhằm phục vụ cho chính sách phát triển kinh tế biển Việt Nam. Hy vọng rằng du khách sau khi tham quan khu vực này sẽ nảy sinh nhiều ý tưởng mới cho việc kinh doanh, tạo ra những sản phẩm mới cho du lịch.
Vịnh Nha Trang có diện tích khoảng 507 km2 bao gồm 19 hòn đảo, trong đó Hòn Tre là đảo lớn nhất, diện tích 3.250 ha; đảo nhỏ nhất là Hòn Nọc, chỉ có 4 ha. Vịnh Nha Trang có khí hậu hai mùa rõ rệt: mùa khô kéo dài từ tháng giêng đến tháng tám, mùa mưa từ tháng chín đến tháng mười hai; nhiệt độ bình quân hàng năm là 26 độ C; nóng nhất 39 độ C, lạnh nhất 14,4 độ C.
Về mặt sinh thái, vịnh Nha Trang là một trong những hình mẫu tự nhiên hiếm có của hệ thống vũng, vịnh trên thế giới bởi nó có hầu hết các hệ sinh thái điển hình, quý hiếm của vùng biển nhiệt đới và có tầm quan trọng quốc tế. Đó là hệ sinh thái đất ngập nước, rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, hệ sinh thái cửa sông, hệ sinh thái đảo biển, hệ sinh thái bãi cát ven bờ..., với nhiều chức năng sinh thái quý giá như bảo vệ môi trường; là nơi cư trú, sinh sản, vỗ béo và ương nuôi... các thủy sinh vật; là giá đỡ và kè biển tự nhiên phòng chống bão lũ, xói lở, bồi tụ đường bờ... Vịnh Nha Trang có hơn 350 loài cá cảnh biển, khoảng 350 loài san hô.
Vịnh Nha Trang không chỉ giàu tài nguyên, đẹp cảnh quan mà còn gắn liền với những nét đẹp của văn hóa biển và những địa chỉ văn hóa - du lịch như Tháp bà Ponagar, Viện Pasteur Nha Trang, Bảo tàng A.Yersin, Viện Hải dương học, Bảo tàng biển lớn nhất Đông Dương... Với những ưu thế tuyệt vời kể trên, vịnh Nha Trang đã được công nhận là thành viên thứ 29 Câu lạc bộ các vịnh đẹp nhất thế giới. Chính phủ đã cho phép thiết lập khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang, khu bảo tồn biển đầu tiên ở nước ta. Bộ Văn hóa - Thông tin cũng đã cấp bằng công nhận vịnh Nha Trang là danh thắng cấp quốc gia.
12. Chùa Long Sơn.
Chùa Long Sơn trước có tên là Đăng Long Tự, tọa lạc ở số 22 đường 23 tháng 10, phường Phương Sơn, dưới chân núi Trại Thủy (Nha Trang). Là một ngôi chùa trăm tuổi, trải qua bao nhiêu lần trùng tu, sửa chữa, chùa vẫn có nét rất riêng của mình.
Năm 1986, chùa được xây dựng lại, lúc đó còn đơn giản và nhỏ. Sau đó chùa được mở rộng cảnh quan, thêm những tượng phật, chuông và không gian hao viên tạo cho chùa nét đẹp riêng. Ngay con đường vào chùa cũng trở thành nơi huyên náo của các hàng buôn bán thức ăn. Điều ngạc nhiên, dù chùa là nơi chay tịnh, nhưng các hàng ăn vẫn bán đồ ăn mặn cho khách trong vùng.
Chùa không cấm đốt nhang hoặc giới hạn đốt nhang. Cũng vì thế mà ngay trước chính điện có một chiếc lư bằng xi măng đúc khá bề thế để cho khách cắm nhang. Ngay cửa ra vào chính điện, nhiều phụ nữ và trẻ em làm dịch vụ giữ dép, giày cho khách với giá 500 đồng/lần. Đặc biệt hơn là ngay bên hông chùa, nơi yên tĩnh với cây cỏ và ghế đá, vẫn có bà bán đậu hủ hoặc bán chè chen vào bán buôn kiếm sống. Còn các nhà sư đi qua lại, xem những ồn ã thế gian ấy cũng rất bình thường. Sự tôn nghiêm của chùa vẫn hiển hiện giữa đời thường đến lạ. Vào ngày rằm, mùng một hay các ngày lễ Phật, chùa càng rộn ràng hơn bởi những bữa cơm chay miễn phí. Người mang thức ăn đến, kẻ bỏ công nấu cơm cũng đều là phật tử.
Trong cõi đời thường ấy, chùa Long Sơn còn là một ngôi chùa có nhiều “báu vật” do trong quá trình phát triển, những vị sư ở chùa cùng tín đồ góp công tạo dựng. Tượng Phật chính điện trong chùa được đúc bằng đồng, nặng 700 ký. Sau khi thắp nhang, lễ chùa, đi theo con đường bậc cấp với 150 bậc, sẽ gặp từng cảnh quan lạ. Ngay sau chuà là tượng Phật Thích Ca nhập niết bàn, chỉ vừa mới được xây dựng vào năm 2003, nhưng là nơi được du khách ưa thích. Tượng với cảnh Phật Thích Ca nằm bằng đá trắng dài 20 mét, cao 6 mét. Bao quanh tượng là 36 vị La Hán. Phía sau chùa là đồi Trại Thuỷ. Một con đường bậc đá lại tiếp tục dẫn đến lưng chừng đồi. Nơi đây có một Đại Hồng Chung nặng 1.500 kg. Thường vào những ngày lễ, có một vị sư túc trực đánh chuông, cứ vài phút tiếng chuông vang ra cả một vùng. Khách thập phương có thể ngồi vào trong lòng chuông, để vị sư đánh chuông cho lòng thanh thản. Nhưng hấp dẫn nhất chính là khi bạn bước đến bậc cấp cuối cùng. Nhìn thấy nổi trên trời cao một tượng Phật màu trắng đang xếp bằng. Đó là Kim Thân Phật Tổ. Kim Thân Phật Tổ được xây dựng từ năm 1963 do sự góp công, góp sức của tín đồ cả một vùng. Tượng cao 18,5 mét, riêng toà sen cao 7 mét. Những phù điêu bao quanh Kim Thân Phật Tổ là những vị thánh tử đạo trong việc bảo vệ Phật Giáo dưới thời chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong lòng tượng còn có một chỗ thờ Phật để cho mọi người vào đốt nhang khấn nguyện.
Chùa Long Sơn là một điểm tham quan trong các tour du lịch cuả du khách. Vì vậy mà ngay tại địa phương là phường Phương Sơn, đã thành lập một đội hướng dẫn viên giúp đỡ du khách đến thăm chuà gọi là đội Cờ Đỏ, hoàn toàn không thu phí. Chuà không bao giờ đóng cửa
13. Tháp Ponagar.
Tháp Bà Ponagar là một trong những di tích lịch sử văn hóa đã được Bộ Văn hóa và Thông tin ra quyết định công nhận xếp hạng vào ngày 29/04/1979; số 54/VHTT/QĐ. Tháp Bà Ponagar cũng là một công trình có giá trị đặc sắc về kiến trúc nghệ thuật điêu khắc sắc sảo, tinh tế và đẹp nhất so với các tháp của người Chăm ở các khu vực khác và còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Chính tháp ấy đã tạo nên một di tích văn hóa cổ xưa quý giá vô vàn mà khách du lịch trong và ngoài nước thường đến đây tham quan, chiêm ngưỡng.
Tháp Bà Ponagar tọa lạc trên đồi cao khoảng 20m, một địa hình đẹp, thuật lợi rất thoáng mát, sát cửa sông Cái, gần cầu xóm Bông thuộc khu vực phường Vĩnh Phước, nằm ở phía bắc thành phố Nha Trang. Cổng và mặt tiền tháp đều quay về hướng đông. Tháp chỉ có một lối đi vào duy nhất, ba mặt khác đều trang trí bằng cửa giả giống kiểu cửa thật để làm đăng đối mà đăng đối là đặc điểm quán triệt trong nền nghệ thuật Chămpa. Xung quanh diện tích mặt bằng của tháp rất rộng, và có nhiều cây cổ thụ to lâu năm, nhánh lá xum xuê, tạo nhiều bóng mát và tô điểm thêm màu xanh cho nét đẹp hồn nhiên của tháp.
Về niên đại xây dựng đầu tiên khu di tích tháp này thì chưa ai xác định rõ thời gian. Nhưng theo nhà khảo cổ học Heri Parmantier nghiên cứu sưu tầm cho biết, vào năm 774 quân Mã Lai kéo sang cướp phá và đánh đổ sập đi hết hai tháp nhỏ Tây Nam. Nay chỉ còn lại 4 tháp: Tháp Nam, tháp Đông Bắc và hai tháp nhỏ mà dân gian ngày nay gọi là miếu Đông Nam và miền Tây Bắc và những tháp này được người Chăm tôn tạo xây dựng lại vào năm 784 và năm 817. Khi xây dựng khu di tích này người Chăm bố trí theo hình thước thợ, bởi người Chăm xưa kia ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ. Nhưng mỗi nước có một lối kiến trúc khác nhau nên tháp này được xây dựng bằng gạch, việc dùng đá rất hạn hữu, chỉ dùng ở nhưng nơi chịu lực lớn như mí cửa.
Một điều đặc biệt nữa là những tháp xây sau vào thời đại từ thế kỷ IX-XIII có thêm các đường gò, đường nét chạm trổ rất tinh vi, điêu luyện ốp cột tạo cho tháp một sắc nét thanh thoát nhẹ nhàng nhưng không kém phần uy nghi.
Tháp Đông Bắc (tháp chính) nằm trên trục chính và cao hơn các tháp khác. Trong tháp này có đặt tượng thờ nữ thần Thiên Ya Na Thánh Mẫu được tạc lại vào năm 965 dưới thời triều vua Jaya Indra Varman I, vì trước đây bức tượng thờ nữ thần bằng vàng đã bị quân Cao Mên đánh cắp vào năm 945.
Tên Ponagar cũng chính là tên của nữ thần Thiên Ya Na Thánh Mâu. Bà còn rất nhiều tên khác nhưng tên Ponagar thật ý nghĩa để suy tôn là Thánh mẫu - danh hiệu thiêng liêng, Mẹ thị tộc hoặc Mẹ xứ sở bởi bà là người có công tạo lập xứ sở, duy trì nòi giống, tìm ra cây lúa và dạy dân trồng trọt nên dân gian lấy tên Ponagar gọi hình tượng để thờ kính cho đến ngày nay và lấy tên tháp là Tháp Bà Ponagar (tháp Thiên y Thánh Mẫu) bởi vài tháp xung quanh còn thờ các vị thần thiêng liêng khác.
Phát tích của nữ thần Thiên Ya Na Thánh Mẫu từ núi Đại An, còn gọi là núi Qua Sơn, núi Dừa, núi Chúa (huyện Diên Khánh-Khánh Hòa) nơi cư trú của thị tộc Cau, dân tộc Chăm ở xứ Kauthara xa xưa là nơi tôn thờ Ponagar đầu tiên, lúc đó vào giữa thế kỷ VIII. Sau đó được dời xuống núi Cù Lao (bây giờ là Tháp Bà Ponagar) bên bờ sông Yjan Tran (tức sông Cái-Nha Trang).
Theo truyền thuyết Thánh Mẫu là một tiên nữ giáng trần-một giai nhân tuyệt sắc, được hai vợ chồng ông tiểu phu đem về nuôi và thương yêu như con ruột. Thời gian sống, giai nhân cảm thấy buồn bã, tức tối nhớ đến cảnh bồng lai nên nàng đã hóa thân vào khúc gỗ kỳ nam trôi ra biển cả và dạt tấp vào đất liền Trung Hoa. Mùi hương ngào ngạt lúc nào cũng lan tỏa từ khúc gỗ kỳ nam ấy. Nhưng oái thay, không ai vớt và nhấc khúc gỗ ấy nổi, chỉ có "Thái tử Bắc Hải vớt được đem về. Rồi ngày nào đó giai nhân hiện nguyên hình, tự xưng là Thiên Ya Na. Hai người gây được tình cảm, cùng tâm đầu ý hợp và cử lễ thành hôn rồi sinh được hai con, đặt tên là Trí (trai) và Quý (gái) rồi bỗng dưng vào một ngày lành tháng tốt. Bà cùng hai con lên lưng hạc bay về tiên cảnh. Ngày đó chính là ngày 23/3 âm lịch (ngày Bà thăng thiên).
Từ đó, nhân dân địa phương cứ hằng năm lấy ngày đó làm ngày tổ chức lễ Bà. Lễ Bà được tổ chức rất long trọng, nghiêm trang. Số lượng người đến dự hằng năm càng ngày càng đông hơn trước, đây là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng dân gian mang đậm bản sắc dân tộc.
Ngày nay, khu di tích lịch sử văn hóa Tháp Bà Ponagar vẫn hào hùng, oai nghiêm vẫn còn lưu lại nét đẹp đậm đà theo kiến trúc nghệ thuật cổ xưa mà không phôi phai theo thời gian. Khách trong và ngoài nước khi đến Nha Trang không thể nào không tới viếng thăm di tích này. Bởi nó như là một "cổ vật" đồ sộ, quý giá và vô giá. Đó cũng chính là niềm tự hào và là mốc son của thành phố biển du lịch Nha Trang.
14. Hòn Chồng.
Cách Tháp Bà chừng dăm trăm mét là Hòn Chồng, gồm 2 khóm đá lớn hình thù kỳ dị , Hòn Chồng là khóm nằm trên bờ, Hòn Vợ là khóm dưới biển. Truyền thuyết kể rằng xưa có vị khổng lồ qua đây ngoạn cảnh, gặp lúc các nàng tiên đang tắm. Mải ngắm, vô tình trượt chân ngã, ông vội bám tay vào núi làm cả mảng núi sụp đổ thành Hòn Chồng ngày nay. Trên một khối đá lớn ở đây còn in dấu một bàn tay khổng lồ, đủ cả năm ngón.
Khác với Ponagar, một công trình do con người tạo dựng, Hòn Chồng là một thắng cảnh của thiên nhiên. Đó là hai khóm đá lớn - một nằm trên bờ, một dưới biển, gọi là Hòn Chồng, Hòn Vợ, thuộc phường Vĩnh Phước, Nha Trang. Khu vực Hòn Chồng là một quần thể những khối đá lớn, nhỏ nhiều tầng, nhiều lớp với những hình thù kỳ dị xếp chồng lên nhau chạy từ bờ cao xuống biển như có một bàn tay khổng lồ nào sắp đặt, tạo dựng trong một trò chơi xếp hình tinh nghịch. Có những khối đá rất lớn trên những khối đá nhỏ hơn, trông rất chênh vênh, hờ hững. Lạ nhất là trên một khối đá lớn như một ngôi nhà tầng nằm trên mỏm cao nhất, mặt tương đối bằng phẳng hướng ra biển có in dấu một bàn tay khổng lồ hằn sâu trong đá, như thuở mới tạo sơn, đã có một bàn tay khổng lồ nào bấu vịn vào để lại dấu vết đến ngày nay.
15. Suối Ba Hồ, Đảo Khỉ, Ngã ba Ninh Hòa – QL26, Đại Lãnh – Vịnh Vân Phong.
Suối Ba Hồ, thử thách cho người thích du lịch mạo hiểm Du lịch, ngắm cảnh, thư giãn! Tuy nhiên, với những người trẻ, thích chinh phục, du lịch mạo hiểm mới thú. Suối Ba Hồ là địa điểm có thể giúp bạn thử thách chính mình. Xung quanh chỉ có cây rừng. Dưới chân lạo xạo đá sỏi, cành lá khô. Ngẩng cao đầu, chỉ thấy biêng biếc màu trời, nắng vàng rực rỡ. Chặng đường chinh phục suối Ba Hồ không dễ dàng, nhưng mang đến cho bạn cảm giác thênh thang, nhẹ lòng khi tâm hồn được rộng mở.
Thông thường, khách du lịch và người dân địa phương chỉ dừng lại ở hồ 1, không dám đi tiếp. Có hai lý do: Một là vì đường lên hồ 2 và 3 hiểm trở, chỉ dành cho những người khoẻ mạnh, không ngại leo trèo, băng rừng, vượt suối và chấp nhận bị ngã không dưới một lần. Hai là vì theo lời truyền miệng, người ta tin nơi này rất thiêng, gắn liền với nhiều câu chuyện khá ly kỳ. Ngoài ra, bất chợt trên đường đi, bạn còn có thể nhìn thấy bóng dáng của chúa sơn lâm thơ thẩn hóng mát, dạo chơi.
Hòn Lao hay còn gọi là đảo khỉ, là một tuyến du lịch đảo hấp dẫn thuộc cụm đảo phía Bắc Nha Trang. Nơi đây, ngoài việc thu hút khách bởi đàn khỉ vài trăm con sống trong thiên nhiên, vui đùa, chạy nhảy rất bắt mắt còn có chương trình xiếc khỉ và xiếc chó khá công phu. Khi mua vé 45.000 đồng/người cho một chuyến ra đảo, bạn đã trả luôn tiền xem xiếc.
Xiếc ở Hòn Lao cũng do chính những tay xiếc chuyên nghiệp, có kinh nghiệm huấn luyện thú phụ trách. Mỗi năm, chương trình đều được tăng cường hoặc làm mới tiết mục để tránh cho khách tham quan sự nhàm chán. Hiện nay, tại Hòn Lao có hai thời điểm biểu diễn xiếc, lúc 10 giờ tại sân khấu nhỏ, lúc 11 giờ tại sân khấu lớn. Khách đi ra đảo muộn vẫn có đủ điều kiện để xem những con thú bày trò.
Như tên gọi, Hòn Lao là đảo khỉ, cho nên ngoài việc ra đảo là gặp khỉ, việc biểu diễn xiếc khỉ là một phần không thể thiếu ở hòn đảo có rất nhiều khỉ này. Nhưng nếu bạn tưởng những con khỉ biểu diễn là những chú khỉ mà bạn vẫn gặp và đùa giỡn với chúng ở trong khu vực tham quan thì bạn sẽ lầm. Những chú khỉ tinh khôn kia là những chú khỉ “nòi”, được mua và huấn luyện từ đoàn xiếc Trung ương. Khỉ đủ màu trắng, đen. Khỉ cũng đủ kích cỡ lớn nhỏ khác nhau để biểu diễn những màn xiếc khác nhau. Dẫu đã từng xem xiếc khỉ ở đâu đó nhưng trò xiếc ở đây vẫn gây nên những tiếng cười sảng khoái cho du khách vì tính lém lỉnh của những chú khỉ. Khỉ đu quay, khỉ lộn vòng, khỉ đi dây thăng bằng, khỉ tung hứng và hấp dẫn nhất vẫn là màn biểu diễn đi xe.
Hiện nay, khu du lịch Hòn Lao đã đưa thêm xiếc gấu vào chương trình biểu diễn. Những chú gấu vốn là loài thú hoang dã nhưng được huấn luyện để chúng điều khiển thuần thục các môn tung hứng, uốn dẻo. Đưa xiếc vào trong chương trình du lịch tham quan, tạo cho chuyến tham quan của du khách thêm hấp dẫn là điều mà Khu du lịch Hòn Lao đã thật sự thành công.
Địa danh Đại Lãnh nằm kề ranh giới giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang khoảng 80 km và cách thị xã Tuy Hòa khoảng 30 km. Từ thị xã Tuy Hòa đi vào, vượt qua đèo Cả, một con đèo lớn là địa giới của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên với 12 km đường đèo quanh co, du khách sẽ thấy hiện ra ngay dưới chân mình một bãi biển khá rộng, dài với nước biển xanh biếc, lấp lánh ánh mặt trời, thuyền bè tấp nập qua lại. Bãi tắm Đại Lãnh được cấu tạo thuần khiết bởi một thứ cát trắng mịn, nước biển trong xanh nhìn rõ tận đáy, lại có độ thoải lớn, có thể bơi lội xa bờ. Kế đó lại có ngay một nguồn nước ngọt chảy ra, hòa vào biển cả, quanh năm không cạn. Từ Đại Lãnh, du khách có thể đi thuyền máy thăm làng chài ở Khải Lương, Đầm Môn là dải đất liền phía cực đông của Việt Nam, hay cảng Vũng Rô kề ngay phía bắc, một địa danh nổi tiếng đã từng là bến cảng bí mật của những “con tàu không số” chở vũ khí, đạn dược từ miền Bắc vào miền Nam, tiếp viện cho chiến trường khu 5 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Phong cảnh Đại Lãnh từ xưa đã được liệt vào hàng những danh thắng của đất nước. Năm 1836, vua Minh Mạng cho thợ chạm hình phong cảnh Đại Lãnh vào một trong chín chiếc đỉnh đồng (Cửu Đỉnh) lớn trang trí trước sân Thế Miếu - Huế. Năm 1853, dưới triều vua Tự Đức, Đại Lãnh có tên trong từ điển quốc gia do triều đình biên soạn. Dù bạn vào Nam hay ra Bắc, bạn đều có thể đi qua ngọn đèo Cả hùng vĩ, nơi có địa danh Đại Lãnh nổi tiếng với những dải cát trắng mịn, những cơn sóng vỗ rì rào của biển cả, những làng chài tấp nập và những phong cảnh sơn thủy hữu tình.
Vịnh Vân Phong nằm ở huyện Vạn Ninh và huyện Ninh Hoà, cách thành phố Nha Trang chừng 80 km về hướng Bắc. Nếu đi theo đường biển vượt qua vịnh Nha Phu để đi vào Vịnh Vân Phong thì khoảng cách chỉ bằng một nửa và còn được chiêm ngưỡng biết bao phong cảnh thuỷ tú sơn kỳ. Vịnh Vân Phong có tổng diện tích khai thác là 15.000 ha, gồm 8.000 ha mặt nước và 7.000 ha mặt đất. Bán đảo Hòn Gốm dài gần 30 km chạy từ đèo Cổ Mã (nam đèo Cả) ở Đại Lãnh, kéo dài theo hướng Đông Nam, trông như cánh tay bao bọc lấy vịnh nước sâu.
Bên trong vịnh còn có hàng chục đảo nhỏ có tên hoặc chưa đặt tên, có Hòn Lớn nằm ở cửa ra vào trông như đảo tiền tiêu, vừa canh gác, vừa là tấm bình phong chắn sóng to, gió lớn trong mùa mưa bão.
Vịnh Vân Phong có hai cửa biển là cửa Vạn và cửa Giã. Cửa Vạn được người Pháp gọi là Port Dayot ở tại Đầm Môn, trên bán đảo Hòn Gốm. Cửa Giã thì nằm tại Vạn Giã, là nơi ghe thuyền neo đậu, tới lui buôn bán sầm uất. Thị trấn Vạn Giã là tên ghép của hai cửa Vạn và cửa Giã.
Vịnh Vân Phong được xem là vịnh nước sâu tự nhiên rất lớn, trung bình từ 20-27m, có nơi sâu trên 40m. Đây là một eo biển kín gió, đường cho tầu thuyền ra vào sâu đến 32m. Mới đây Hiệp hội Du lịch thế giới đã đánh giá Vịnh Vân Phong là một trong những thắng cảnh đẹp nhất ở châu á và Viễn Đông. Vân Phong đang quy hoạch thành khu du lịch quốc gia, trong đó có Đầm Môn là điểm dừng chân trong quần thể du lịch sinh thái biển. Công ty Du lịch Vietravel là người đầu tiên mở tour du lịch đến Đầm Môn, đánh thức tiềm năng du lịch ở đây. Hiện nay có các tuyến du lịch từ Đầm Môn đi Hòn Ông và Dốc Lết.
Vịnh Vân Phong có những bãi tắm tuyệt đẹp, hoang sơ như Bãi Tây, Bãi Me, Bãi Búa, Bãi Lách, Bãi Xuân Đừng... Cách Đầm Môn không xa là làng chài Khải Lương, điểm cực đông của Việt Nam, là nơi đầu tiên trong cả nước nhìn thấy mặt trời mọc mỗi ngày. Nếu đáp du thuyền tham quan trong Vịnh, lữ khách sẽ tiếp tục khám phá những điều bất ngờ hiện ra trước mắt với biết bao cảnh trí thơ mộng thần tiên, với một bên là núi đồi, bờ bãi, những dòng suối róc rách gõ nhịp, len lỏi qua các ghềnh đá, một bên là nước biển trong xanh. Tại Đầm Môn, còn có những đồi cát quyến rũ, chẳng khác nào những đồi cát nổi tiếng ở Mũi Né - Phan Thiết. Nếu đi ra xa bờ một chút, ta gặp những rạn san hô ngầm muôn màu muôn vẻ nằm chỉ cách mặt nước từ 3-5 m, tạo nên những hang động kỳ ảo ở thuỷ cung, là lợi thế cho ngành du lịch lặn biển. Nói đến sinh vật biển, Vịnh Vân phong có đến 350 loài san hô quý hiếm và hơn 270 loài tôm cá, là ngư trường hấp dẫn thu hút các nhà khoa học đến đây tham quan, nghiên cứu.
Tiềm năng kinh tế ở Vịnh Vân Phong có thể nói là to lớn. Năm 1977, Bộ Giao thông Vận tải đã quyết định nghiên cứu xây dựng tại đây cảng nước sâu lớn nhất Việt Nam. Đến năm 1997, Nhà máy đóng tàu Hyundai Vinashin đã khởi công, và con đường nối liền Quốc lộ 1A với vùng đất nghèo nàn Ninh Diêm, Ninh Phước hoàn thành. Những chuyến tầu cập bến đã làm thay đổi bộ mặt Vân Phong. Hiện nay, khu công nghiệp Ninh Thuỷ rộng 400 ha đã hoàn thành và đang hoạt động. Vân Phong hiện có 3 cảng cá và 2 cảng vận chuyển hàng hoá. Cảng Hòn Khói chuyên vận chuyển muối và xi măng Hòn Khói. Cảng Đầm Môn vận chuyển cát nguyên liệu.
Tiềm năng kinh tế đã biến Vân Phong thành đặc khu kinh tế đa dạng, từ du lịch sinh thái đến công nghiệp tầu biển, sản xuất nguyên vật liệu. Nhờ có vị trí đặc biệt trên bản đồ thương mại - hàng hải quốc tế, Vân Phong đang hướng về tương lai với nhiều triển vọng tốt đẹp.
16. Đèo Cả - Vũng Rô, Núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn) – Núi vọng Phu.
Vũng Rô là một trong những vịnh đẹp nổi tiếng không chỉ của Phú Yên mà là của cả khu vực ven biển miền Trung. Vũng Rô tiếp giáp với vịnh Văn Phong – Đại Lãnh của tỉnh Khánh Hoà đang được Nhà nước đầu tư xây dựng thành Khu Du lịch Tổng hợp của quốc gia. Vũng Rô rộng 1.640 ha mặt nước, được các dãy núi cao: Đèo Cả, Đá Bia, Hòn Bà che chắn cả 3 hướng: Bắc, Đông, Tây. Phía Nam là cửa biển có đảo Hòn Nưa cao 105 m như một pháo đài canh gác cho tàu bè ra vào.
Ven bờ Vũng Rô có nhiều bãi cát vừa và nhỏ, một số bãi có thể hình thành những khu nghỉ ngơi, tắm biển tuyệt đẹp như Bãi Chùa, Bãi Bàng, Bãi Lau... Trong lòng biển của Vũng Rô có nhiều loài hải sản trú ngụ, dưới đáy biển là những rạn san hô màu… rất hấp dẫn cho các loại hình du lịch câu cá, bơi, lặn.
Núi Đá Bia hay còn gọi là Thạch Bi Sơn, cao 706 m, thuộc xã Hoà Xuân Nam, huyện Đông Hoà. Theo tương truyền, năm 1471, vua Lê Thánh Tông trong khi hành quân vào Nam đã cho khắc bia trên tảng đá lớn nhất ở đỉnh núi này.
Đá Bia – Vũng Rô – Đèo Cả là một địa chỉ đỏ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân Phú Yên. Từ năm 1964 đến đầu năm 1965, Vũng Rô đã tiếp nhận 04 chuyến tàu Không Số chở vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng từ miền Bắc vào cho chiến trường Phú Yên, Tây Nguyên và Nam Trung Bộ.Với những thành tích trong chiến tranh, Vũng Rô được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Núi Vọng Phu ở trên núi Mô-o, gần bãi Khách Thử, thuộc huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
17. Đà Rằng – Tháp Nhạn, khái quát tỉnh Phú Yên – Thị xã Tuy Hòa.
Tháp Nhạn được xây dựng uy nghi trên một khu đất tương đối bằng phẳng gần đỉnh núi Nhạn, bên bờ bắc sông Đà Rằng, thị xã Tuy Hoà. Là nơi thờ phụng thần linh của người Chăm cổ từ thế kỷ thứ 2 trở về trước.
Là một trong những ngọn tháp lớn thờ nữ thần Poh Nagar. Sự tích tháp Nhạn gắn liền với truyền thuyết Poh Nagar giết quỷ dữ, khai thông cửa sông Đà Rằng để dân chúng có thể ra biển, vào sông thuận tiện.
Tháp có hình tứ giác với 4 tầng, càng lên cao càng thu nhỏ lại so với tầng dưới. Tháp cao gần 20m, chân tháp dài 10m. Vòm cửa giữa hình cung nhọn có hình đầu quái vật trên đỉnh. Đây là một chóp tháp được kết hợp hài hòa giữa hai hình tượng chóp nón cùng với hình tượng Linga, một vật mà người Chăm thường thờ ở các tháp, nên chóp tháp ở đây tạc theo hình tượng Linga nhưng chưa hoàn chỉnh như những Linga ở Ponagar.
Hiện nay trong tháp Nhạn không có bộ thờ và các tượng thờ. Phía sau tháp có một phiến đá lớn cao khoảng 1,5m, mỗi cạnh rộng gần 1m, dưới chân có chạm hình cánh sen. Dưới chân núi Nhạn về phía tây nam, ven bờ sông có một tảng đá khá bằng phẳng trên khắc 3 chữ cổ (dạng chữ Phạn) ta thường gặp ở các tấm bia trụ cột trong các tháp Chàm như ở Ponagar. Tảng đá cao 5m, rộng 5 m. Chữ khắc ở khoảng 1/3 tảng đá. Có lẽ đây là thư tịch duy nhất ở khu vực tháp còn lưu lại. Tháp Nhạn tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc của người Chăm ở vùng đất Phú Yên xa.
Phú Yên là một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp tỉnh Khánh Hoà, phía Tây giáp hai tỉnh Gia Lai và Đắc Lắc, phía Đông giáp biển Đông. Phú Yên có diện tích tự nhiên hơn 5.000km2, chia làm 8 đơn vị hành chính: 3 huyện miền núi là Sơn Hoà, Sông Hinh, Đồng Xuân; 4 huyện đồng bằng ven biển là Tuy Hoà, Phú Hoà, Tuy An, Sông Cầu. Thị xã Tuy Hòa (nay là thành phố cấp 1) là Trung tâm tỉnh lỵ, cách Thủ đô Hà Nội 1160 km, cách TP. Hồ Chí Minh 560 km, Đà Nẵng 400 km và Nha Trang 120 km theo tuyến Quốc lộ 1A.
Địa hình Phú Yên có thể chia thành 2 vùng lớn: phía Tây là vùng núi và bán sơn địa, phía Đông là đồng bằng và ven biển. Khí hậu chịu ảnh hưởng của nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, với 2 mùa rõ rệt : mùa mưa và mùa khô, nhiệt độ trung bình khoảng 27oC, rừng chiếm 2/3 diện tích toàn Tỉnh.
Bờ biển của Phú Yên dài 189 km, nhiều dãy núi nhô ra sát biển tạo nên nhiều đầm, vịnh với cảnh sắc nên thơ như: đầm Cù mông, đầm Ô Loan, vịnh Xuân Đài, có nhiều đảo nhỏ gần bờ như: Nhất Tự Sơn, Hòn Chùa, Hòn Lao Mái Nhà, Hòn Dứa, Hòn Nưa… đặc biệt có Mũi Điện (Mũi Đại Lãnh) với ngọn Hải Đăng sừng sững, là điểm cực Đông của dãi đất liền Việt Nam. Dọc theo bờ biển có nhiều bãi tắm sạch đẹp như : Bãi Tiên, Bãi Môn, Bãi Xép, Bãi Nồm, Bãi Bàng, Bãi Từ Nham, Long Thuỷ; nhiều gành đá nổi tiếng như : Gành Đá Đĩa, Gành Đỏ, Gành Dưa, Gành Yến.
Với lợi thế về tài nguyên rừng và biển đã tạo cho Phú Yên nguồn ẩm thực khá phong phú, các món đặc sản như : Cá ngừ đại dương (món ăn ưa chuộng của nhiều nước Châu Á), tôm hấp nước dừa, sò huyết Ô Loan, ốc nhảy Sông Cầu, cua huỳnh đế, ghẹ đầm Cù Mông, gà nướng Sông Cầu, Khô bò Sơn Hoà, cá bống kho tộ, gỏi cá mai, gỏi cá mương Tuy An; chả Dông, mắm cá thu Tuy Hoà.
Phú Yên nằm trên tuyến Quốc lộ 1A và đường sắt Bắc- Nam, có Quốc lộ 25, liên tỉnh lộ ĐT 645 nối Phú Yên với các tỉnh Tây Nguyên, Quốc lộ 1D nối liền thành phố Qui Nhơn với huyện Sông Cầu, có sân bay Tuy Hoà và cảng biển Vũng Rô nằm liền kề với Khu Du lịch Tổng hợp Văn Phong – Đại lãnh. Đó là những điều kiện thuận lợi để đầu tư phát triển du lịch của Phú Yên nằm trong tuyến du lịch miền Trung và khu vực Nam Trung Bộ gắn với Tây Nguyên.
18. Khái quát tỉnh Bình Định – TP. Qui Nhơn.
Bình Định có diện tích hơn 6.000 km². Tỉnh lỵ: Thành phố Quy Nhơn. Các huyện:An Lão, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, Vân Canh, An Nhơn, Tuy Phước. Dân tộc:Việt (Kinh), Chăm, Ba Na, Hrê.
Điều kiện tự nhiên
Là một tỉnh duyên hải miền Trung, phía bắc giáp Quảng Ngãi, phía tây giáp Gia Lai, phía nam giáp Phú Yên, phía đông giáp biển Đông. Địa hình Bình Định đa dạng có vùng núi, vùng giáp núi, vùng đồng bằng và vùng bãi bồi ven biển. Bờ biển Bình Định dài hơn 100km với nhiều đảo lớn, nhỏ ngoài khơi. Nhiệt độ trung bình cả năm là 26ºC - 28ºC. Lượng mưa trung bình năm là 1.700 – 1.800mm. Mùa mưa từ tháng 8 đến tháng 12, tập trung 70 - 80% lượng mưa cả năm.
Bình Định có nhiều đặc sản nổi tiếng gần xa như: tơ lụa, yến sào, tôm, cá, gỗ quí, trầm hương, dầu thực vật, gạo, đá ốp lát và hàng thủ công mỹ nghệ. Bình Ðịnh có nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân văn rất phong phú để phát triển du lịch. Có bờ biển dài với nhiều vũng, vịnh, bãi tắm đẹp và danh lam thắng cảnh như: Ghềnh Ráng, Bán đảo Phương Mai, bãi tắm Hoàng Hậu, Tam Quan, Ðảo Yến, Quy Hòa, Bãi Dài…. Có suối nước nóng Hội Vân thuộc huyện Phù Cát.
Bình Định là tỉnh có nền văn hóa lâu đời, nơi đây còn lữu giữ nhiều di tích kiến trúc văn hóa của người Chăm, đặc biệt là thành cổ Trà Bàn, nơi đã từng là cố đô của vương triều Chămpa. Các cụm thác Chàm có kiến trúc độc đáo như : tháp Dương Long, Bánh Ít, Cánh Tiên, tháp Đôi. Bình Định là quê hương của người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ đã từng vào Nam đánh tan quân xâm lược Xiêm ở Xoài Mút, ra Bắc phá tan 29 vạn quân Thanh thống nhất đất nước. Bình Định còn là một cái nôi của nghệ thuật tuồng, dân ca bài chòi, của điệu múa trống trận Quang Trung độc đáo và môn phái võ Tây Sơn, thể hiện tính cách và sức sống mãnh liệt của người dân vùng đất này.
Cách thủ đô Hà Nội 1.065km, cách Tp. Hồ Chí Minh 680km, Bình Định có đường giao thông thuận tiện, quốc lộ 1A chạy qua tỉnh, quốc lộ 19 nối Quy Nhơn với các tỉnh Tây Nguyên: Gia Lai và Kon Tum. Tàu Thống Nhất dừng tại ga Diêu Trì cách Quy Nhơn 11km. Sân bay Phù Cát cách Quy Nhơn 36km về phía bắc. Hiện nay ngày nào cũng có chuyến bay Quy Nhơn – Tp. Hồ Chí Minh và ngược lại. Cảng biển Quy Nhơn là một cảng lớn của khu vực Nam Trung bộ.
Thành phố Qui Nhơn nằm ở phía đông nam cuả tỉnh Bình Ðịnh, phía đông là biển Ðông, phiá tây giáp huyện Tuy Phước, phiá bắc giáp Tuy Phước và Phù Cát, phiá nam giáp huyện Sông Cầu Tỉnh Phú Yên, Thành phố có 16 phường và 4 xã, tổng diện tích tự nhiên 2 15km2, dân số năm 1999 là : 240.000 người. Thành phố chính thức thành lập cách đây trên lOO năm nhưng mảnh đất này đã có lịch sử hình thành phát triển cùng với nền văn hoá Chămpa thế kỷ l l, triều đại Tây Sơn và cảng Thị Nại từ đầu thế kỷ 18. Ngày nay Qui Nhơn được công nhận là đô thị loại II, với ưu thế về vị trí địa lý, có cảng biển và cơ sở hạ tầng đô thị phát triển, Thành phố được Thủ tướng Chính phủ xác định là một trong ba trung tâm thương mại và du lịch của vùng duyên hải Nam Trung bộ ( cùng với Ðà Nẵng và Nha Trang ).
Qui Nhơn có nhiều thế đất khác nhau, đa dạng về cảnh quan địa lý như núi rừng, gò đồi, đồng ruộng, ruộng muối, bãi, đầm, hồ, sông ngòi, biển, bán đảo và đảo Bờ biển Qui Nhơn dài 42km, diện tích đầm, hồ nước lợ lớn, tài nguyên sinh vật biển phong phú, có nhiều loại đặc sản quí, có giá trị kinh tế cao... Các ngành kinh tế chính cuả thành phố gồm công nghiệp, thương mại, xuất nhập khẩu, dịch vụ cảng biển, nuôi và khai thác thuỷ hải sản, du lịch.
Hiện nay cơ cấu các ngành kinh tế của Qui Nhơn có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp dịch vụ, giảm tỷ lệ ngành nông lâm ngư nghiệp trong GDP. Năm 1998 tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng là 28,4%, dịch vụ 55,58%, nông - lâm - ngư nghiệp 16,02%. Mục tiêu phát triển đến năm 2010 của thành phố là phấn đấu xây dựng Qui Nhơn thành một Thành phố cảng trên hành lang Bắc - Nam và Ðông - Tây; một trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, giao dịch quốc tế có vai trò tích cực thúc đẩỳ phát triển kinh tế - xã hội khu vực.
Phát triển dịch vụ xuất nhập khẩu; hình thành trung tâm thương mại-siêu thị và thông tin thương mại tại trung tâm phía đông thành phố hình thành các khu du lịch cảnh quan: Ghềnh ráng, Phú Hoà, Phương Mai, đầm Thị Nại, Bãi Dài... tôn tạo các di tích văn hoá Chămpa, văn hoá cư dân ven biển, di tích trong hai cuộc kháng chiến, xây dựng một số khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế.
19. Khu du lịch Ghềnh Ráng – Mộ Hàn Mặc Tử, Trại Phong Quy Hòa.
Ghềnh Ráng là nơi có thắng cảnh đẹp với các bãi tấm kéo dài từ đường An Dương Vương vào bãi tắm Hoàng Hậu. Từ trên sườn núi Ghềng Ráng có thể ngắm nhìn bao quát toàn bộ phía Ðông cuả thành phố Qui Nhơn và xa hơn là bán đảo Phương Mai với đầm Thị Nại. Trên sườn núi gần với mép biển phía Ðông là nơi an nghỉ cuả nhà thơ Hàn Mặc Tử, một tên tuổi nổi tiếng trong làng thi ca Việt Nam.
Ghềng Ráng đồng thời là cảnh quan quần thể núi kéo dài đến bãi biển Qui Hoà, được đánh giá là bãi biển vào loại đẹp nhất ở Bình Ðịnh, nơi đã nổi tiếng như một khu an dưỡng, chữa bệnh lý tường. Có thể nói quần thể Ghềnh Ráng - Qui Hoà là một trong những điểm du lịch biển hấp dẫn khách du lịch, gấn nối tuyến đường Qui Nhơn - Sông Cầu.
Do cảnh quan ngoạn mục và điều kiện nghỉ dưỡng lý tưởng mà Ghềnh Ráng đã được Bộ Văn Hóa xếp hạng danh thắng Quốc gia. Với những lợi thế đó tỉnh đang từng bước đầu tư nhằm nâng cấp, cải tạo các công trình hiện có và xây dựng một số công trình mới nhằm đưa Ghềnh Ráng trở thành một điểm du lịch hấp dẫn cuả thành phố Qui Nhơn.
khu du lịch Ghềnh Ráng sẽ được xây dựng thành chuỗi liên hoàn các cụm công trình phục vụ mục đích nghỉ đưỡng tắm biển, thăm quan, vui chơi giải trí, bao gồm:
Vùng bằng phẳng ven biển: Khu này tiếp giáp ngã ba Ghềnh Ráng, thuận lợi về địa hình gắn với bãi tắm và giao thông chính cuả thành phố sẽ được xây dựng các hạng mục: : bãi tắm, câu lạc bộ du thuyền, quầy giải khát, đường dạo, bãi giữ xe.
Khu đồi Gềnh Ráng: Xây dựng 3 cụm công trình chính
Công viên văn hoá: Diện tích khoảng 1 ha tại khu vực mộ Hàn Mặc Tử ( sườn phía tây ), bố trí một công viên sinh hoạt văn hoá, trồng cây xanh tạo cảnh quan xung quanh khu đồi, tôn tạo nâng cấp nhà lưu niệm trưng bày truyền thống thơ ca của các nhà văn thơ lớn của Bình Ðịnh: Hàn Mặc Tử , Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan.... Về phía nam bố trí khu bảo tồn sinh vật biển.
Cụm các công trình vui chơi giải trí: Khu vực bãi tắm Hoàng Hậu, khu leo núi kết hợp với tắm biển. Ðầu tư nâng cấp các công trình hiện có và bổ sung thêm các dịch vụ vui chơi giải trí vườn chim, cáy cảnh tự nhiên.
Xây dựng hệ thống xử lý nước thải và chất thải rắn ốn đầu tư khu du lịch Ghênh ráng khoảng 60 tỷ đồng, đầu tư bằng hình thức liên doanh liên kết, ưu tiên đầu tư theo hình thức BOT, BTO hoặc BT, nhà đầu tư có thể đầu tư toàn bộ hoặc chọn một trong các hạng mục công trình để đầu tư.
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 tại Lệ Mỹ, Đồng Hới. Thuở nhỏ ông học trung học ở Huế (1928-1930), làm viên chức sở đạc điền ở Quy Nhơn (1932-1933), vào Sài Gòn làm báo rồi lại trở về Quy Nhơn (1934-1935).
Ông mắc bệnh phong từ năm 1937, phải vào nhà thương Quy Hòa tháng 9 năm 1940, và rồi mất ở đấy ngày 11 tháng 11 năm 1940.
Hàn Mặc Tử bắt đầu làm thơ rất sớm với thể thơ Đường luật và bút danh Minh Duệ thị, Phong Trần; nổi tiếng vì được cụ Phan Bội Châu họa thơ và đề cao. Từ năm 1935 ông đổi bút hiệu thành Lệ Thanh, rồi Hàn Mạc Tử, và cuối cùng Hàn Mặc Tử.
Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Gái Quê (1936, tập thơ duy nhất được xuất bản trong sinh thời tác giả), Thơ Điên (hay Đau Thương), Thượng Thanh Khí, Cẩm Châu Duyên, Chơi Giữa Mùa Trăng... Hàn Mặc Tử đem đến cho Thơ Mới một phong cách độc đáo và sáng tạo: bên cạnh những tác phẩm bình dị, trong trẻo, chan chứa tình quê là các tác phẩm đầy những cảm hứng lạ lùng, huyền bí, thậm chí đến điên loạn, phản ảnh trực tiếp các cơn bệnh đau đớn dày vò.
20. Đầm Ô Loan – Ghềnh đá dĩa.
Nằm cạnh chân đèo Quán Cau, tiếp giáp các xã An Cư, An Hoà, An Hải, An Hiệp và An Ninh Đông của huyện Tuy An, cách thành phố Tuy Hoà khoảng 25 km về phía Bắc theo đường Quốc lộ 1A. Đây là đầm nước lợ, có diện tích tự nhiên khoảng 1.570 ha, được bao bọc bởi núi Đồng Cháy, núi Cẩm và cồn An Hải với một lạch nước thông ra biển về phía Bắc giữ cho mặt nước trong đầm quanh năm xanh biếc và phẳng lặng.Với thắng cảnh thiên nhiên riêng có của Phú Yên, đầm Ô Loan đã được Bộ Văn hoá Thông tin công nhận Di tích thắng cảnh cấp Quốc gia.
Đầm Ô Loan có nhiều đặc sản ngon nổi tiếng như: Sò huyết và các loại tôm, cua ... Qua nhiều thế hệ con người sinh sống nơi đây đã góp phần tô điểm thêm vẻ đẹp của Đầm bằng những giá trị văn hoá truyền thống sinh động. Hàng năm cứ vào ngày mùng bảy tháng giêng Âm Lịch, dòng người từ khắp nơi lại đổ về đầm Ô Loan để tham dự lễ hội đua thuyền truyền thống- thể hiện một nét đẹp trong đời sống văn hoá của cư dân ven biển Phú Yên.
Từ thị trấn Chí Thạnh đi về phía biển, tại xã An Ninh Đông, Tuy An, tỉnh Phú Yên có một ghềnh đá có cấu tạo kỳ lạ vừa được Bộ Văn hóa - thông tin xếp hạng là thắng cảnh quốc gia. Đây là một thắng cảnh kỳ thú hiếm thấy của thiên nhiên. Nhìn từ xa, khu ghềnh Đá Đĩa rộng hơn 1km2 như một tổ ong khổng lồ. Đá ở đây đều tăm tắp được dựng thành từng cột liền khít nhau. Gồm nhiều tảng đá lớn có màu đen huyền hoặc màu vàng, nửa chìm nửa nổi lên trên biển, xếp đều đặn theo hình ngũ giác. Các cột đá có tiết diện hình lục giác hoặc hình vuông, hoặc có hình tròn như chiếc đĩa. Từ xa đứng nhìn, đá giáp liền liền với nhau, hòn nọ gắn với hòn kia đều đặn như một tổ ong. Lại gần, những đá có hình viên trụ chồng lên nhau như nhượng chồng chén, đĩa trong các lò sành sứ. Người ta gọi nơi đây là ghềnh Đá Đĩa.
Thoạt nhìn, cứ tưởng như có sự sắp xếp của bàn tay con người. Nhưng đó phải là người khổng lồ, bởi lẽ để có được những tảng đá dựng đứng nặng hàng tạ, đều đặn như hình ngũ giác, lớp nọ xếp liền theo lớp kia trên một vùng rộng lớn không thể con người một sớm một chiều làm được.
Du khách đến đây có cảm giác như được chiêm ngưỡng một tác phẩm "trò chơi Lego". Những viên đá hình tròn và đa giác xếp chồng, khít vào nhau trông thật lạ. Mỗi viên đá có độ cao chừng 60 - 80 cm. Có những chỗ đá xếp cao và thẳng. Có những chỗ đá lại xếp trải dài hoặc nghiêng nghiêng, trông như những chiếc đĩa đặt chồng lên nhau một cách cẩu thả.
Đá có màu đen tuyền. Nơi đây quanh năm sóng vỗ nên đôi chỗ có lốm đốm tổ ong. Ghềnh đá nửa chìm, nửa nổi trên bờ biển. Ở chỗ nước ngập, con tàu biển bám vào đá dày đặc. Rong mức (một loài rong biển) dạt vào ghềnh, phơi khô trên đá thành từng mảng. Gỡ một nhúm rong mứt, cắn vào, thấy mằn mặn, dai dai, rất thích.
Ở giữa ghềnh có một lõm trũng. Nước mưa và nước biển đọng vào tạo thành một vũng, lâu ngày các loài cá nhỏ đủ màu xanh, đỏ, tím, vàng bơi lội tung tăng. Xung quanh lõm, đá dựng tầng tầng. Người tham quan sau một chặng đường mệt mỏi cứ việc dựa lưng vào đó mà ngơi nghỉ thảnh thơi.
Sóng đập vào ghềnh thường xuyên và bất ngờ nên khách mới đến lơ mơ dễ bị ướt cả áo quần. Những ngọn sóng đập và ghềnh tạo nên những chùm tia nước trắng xóa, rất đẹp, nhưng người chụp ảnh nếu không đề phòng có thể ướt cả ống kính.
21. Bảo tàng Tây Sơn.
Đến thăm quan Bảo tàng Tây Sơn, quí du khách được xem biểu diễn chương trình “Trống trận Quang Trung và nhạc võ Tây Sơn”.
Tượng vua Quang Trung được đúc bằng đồng, cao 10,4 m (kể cả bệ) và nặng 18 tấn. Tác giả bức tượng là nhà điêu khắc Lê Đình Bảo, Công ty Mỹ thuật - Bộ Văn hóa Thông tin. Tượng mô phỏng vua Quang Trung uy nghi trong bộ trang phục võ tướng, nét mặt chữ điền toát lên vẻ oai vệ, tay trái để vào chuôi gươm, được đeo ở hông trái, thể hiện sự yên bình, thịnh trị; tay phải ngửa lên, hướng ra phía trước thể hiện ý nguyện an dân....Tượng vua Quang Trung được đúc tại tỉnh Nam Định và đưa vào dựng tại bảo tàng vua Quang Trung.
Nhân dịp này, lãnh đạo tỉnh Bình Định, huyện Tây Sơn và lãnh đạo thị xã An Khê thuộc tỉnh Gia Lai cùng hơn 2.000 du khách đã long trọng làm lễ dâng hương tưởng nhớ vua Quang Trung.
Ban giám đốc Bảo Tàng Quang Trung cho biết: trong năm 2005, tỉnh Bình Định đã đầu tư trên 3 tỷ đồng để xây dựng một nhà tiếp khách, một nhà làm việc và toàn bộ tường rào bảo vệ khuôn viên của bảo tàng. Trong năm, bảo tàng đã đón tiếp trên 75.000 lượt khách đến tham quan, trong đó có 4.500 khách quốc tế. Kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm nay, tại bảo tàng Quang Trung tổ chức nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ, hội chợ, trò chơi dân gian, thi võ thuật Tây Sơn-Bình Định; biểu diễn trống trận Quang Trung và tuồng Đào Tấn - Bình Định... để phục vụ nhu cầu của du khách trong và ngoài nước đến tham quan trong dịp này.
22. Tháp Bánh Ít – Tháp Cánh Tiên.
Tháp Bánh Ít nằm ở Xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước. Khu tháp này chỉ còn 4 tháp, mang phong cách nghệ thuật Bình Định.
Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, khu tháp này có nhiều tên gọi như Thổ Sơn Cổ Tháp hoặc tháp Thị Thiện (vì tương truyền có bà Thiện từng bán quán ở gần khu tháp nên có tên gọi ấy). Còn trong dân gian từ xưa đến nay vẫn gọi khu tháp này bằng một cái tên rất hình ảnh: Tháp Bánh Ít (nhìn từ xa) những ngôi tháp có hình dạng tựa như bánh ít). Người Pháp lại gọi khu tháp này là tháp Bạc. Tháp còn lưu lại những điêu khắc về các vũ điệu Chăm trên những bức phù điêu.
Tháp Cánh Tiên nằm ở Xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn. Tháp cao 20m, xa trông giống như đôi cánh của nàng tiên đang bay lên trời.
Tháp Cánh Tiên được xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn (nay thuộc xã Nhơn Hậu, huyện An Sơn, tỉnh Bình Định). Có thể nói đây là một trong những kiến trúc còn khá nguyên vẹn. Theo tài liệu của Pháp, tháp Cánh Tiên còn được gọi là "tháp Đồng", nhưng vì sao có tên gọi này thì vẫn chưa ai xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20m, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Chǎm khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc. Tháp Bánh Ít có đến bốn toà tháp lớn nhỏ khác nhau nằm trên một đỉnh đồi thuộc xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách thành phố Qui Nhơn khoảng 20km. Đứng xa cụm tháp này trông như những chiếc bánh ít lá gai thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là tháp Bạc. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh.
23. Sa Huỳnh – Khái quát tỉnh Quảng Ngãi.
Sa Huỳnh nằm ở cực nam tỉnh Quảng Ngãi, thuộc huyện Đức Phổ, cách thị xã tỉnh lỵ 60 km, Sa Huỳnh là bãi biển đẹp, cát vàng óng, nổi tiếng là vựa muối quan trọng ở miền Trung. Bãi biển Sa Huỳnh nằm sát QL1A, ở km 985, có ga xe lửa Sa Huỳnh nên du khách trên đường Bắc - Nam đều có thể dừng chân ghé lại đây.
Bãi biển Sa Huỳnh dài 5 - 6km, cong cong hình lưỡi liềm. Đáy biển thoai thoải, không có bãi đá ngầm, có thể là những bãi tắm lý tưởng đối với du khách.
Ngoài ra, Sa Huỳnh còn có thắng cảnh ghềnh đá Châu Me, Đảo Khỉ… thu hút du khách vào các ngày nghỉ cuối tuần và các ngày lễ tết. Ngành du lịch Quảng Ngãi đã xây dựng tại đây khách sạn Motel Sa Huỳnh để đón khách đến nghỉ ngơi, an dưỡng.
Từ lâu, Sa Huỳnh còn được biết đến như là di chỉ khảo cổ học với “Văn hóa Sa Huỳnh “. Đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ học người Pháp như Vinet, Labare, Colani đã phát hiện ở đây hàng loạt mộ chum và nhiều hiện vật tiêu biểu cho nền văn hóa cổ xưa bị chìm khuất dưới lòng đất. Các kết quả khai quật được nghiên cứu và kết luận, dải đất từ Đèo Ngang cho đến Đồng Nai (Nam Bộ) lên cả Tây Nguyên, từ sơ kỳ đồng thau cho đến sơ kỳ sắt đá là nơi hiện diện một nền văn hóa độc đáo của nhân loại và được định danh bằng khái niệm “Văn hóa Sa Huỳnh”'. Những gò Ma Vương, gò Điều Gà … đều có nhiều dấu tích của nền văn hóa Chăm, từ lâu đã thu hút du khách đến tham quan và nghiên cứu.
Hơn 500 năm trước, đoàn quân Nam chính của vua Lê Thánh Tông đã dừng chân tại Sa Huỳnh để nghỉ ngơi và luyện tập, biên chế thành đội ngũ trước khi tiến đánh cửa Thị Nại và kinh thành Đồ Bàn. Sa Huỳnh trở thành hải tấn quan trọng thời nhà Nguyễn để canh phòng mặt biển. Đến khi người Pháo xâm lược nước ta đã cho xây dựng nhà ga xe lửa Sa Huỳnh đến vận chuyển muối từ đây đi các nơi khác.
Quảng Ngãi là tỉnh duyên hải miền Trung, nằm ở 14 độ 32'- 15 độ 25' vĩ Bắc, 108 độ 06'- 109 độ 04' kinh Đông, lưng tựa dãy Trường Sơn, mặt hướng ra biển Đông; phía Bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía Nam giáp tỉnh Bình Định, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum, phía Đông giáp biển Đông với đường bờ biển của đất liền dài 130Km với 5 cửa biển chính, nhiều bãi tắm sạch và phong cảnh đẹp.
Quảng Ngãi có tuyến đường sắt Bắc- Nam và Quốc lộ 1A chạy xuyên suốt theo chiều dài của tỉnh; cách Hà Nội 883km về phía Bắc, cách Thành Phố Hồ Chí Minh 838km về phía Nam; có Quốc lộ 24 nối Quảng Ngãi với Tây Nguyên, Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan.
Tỉnh Quảng Ngãi có diện tích tự nhiên hơn 5.000km2, bao gồm: Thị xã Quảng Ngãi, 6 huyện đồng bằng: Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ. 6 huyện miền núi: Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Hà, Sơn Tây, Minh Long, Ba Tơ và 1 huyện đảo Lý Sơn.
Quảng Ngãi là một trong các tỉnh duyên hải Miền Trung có địa hình khá phức tạp; phía Đông với dải đồng bằng nhỏ hẹp ven biển tiếp cận với biển Đông và vùng đồi núi thấp, phía Tây và Tây Nam là một phần Đông Nam dãy Trường Sơn giáp với cao nguyên Trung Bộ, với nhiều nhánh núi ngang đâm ra đồng bằng, tạo những thung lũng chạy theo hướng Tây- Đông (thung lũng Trà Bồng), hoặc Tây Nam- Đông Bắc (thung lũng sông Trà Khúc, sông Vệ).
Nhìn chung địa hình các huyện miền núi của tỉnh Quảng Ngãi có độ cao tương đối lớn đều nằm ở phía Tây của tỉnh và nối liền với các dãy núi phía Đông tỉnh Kon Tum và Gia Lai. Địa hình thấp dần từ Tây sang Đông với phần lớn diện tích đất đai phía Tây của tỉnh là rừng núi, những ngọn núi cao ở phía Tây Bắc tỉnh như Ta Cum (1442m) thuộc xã Trà Phong, huyện Tây Trà, ngọn Cà Đam (1415m) thuộc xã Trà Bùi, huyện Trà Bồng. Huyện Sơn Tây ở phía Tây tỉnh có ngọn Và Rẫy (1479m) thuộc xã Sơn Mùa, ngọn Na Zin (1408) thuộc xã Sơn Tịnh. Huyện Minh Long có ngọn Mum (1085m) thuộc xã Long Môn. Huyện Sơn Hà có ngọn Đá Vách (1136m) thuộc xã Sơn Nham. Phía Nam tỉnh là huyện Ba Tơ có ngọn Ta Noát (1137m) thuộc xã Ba Ngạc.
Vùng đồi núi thấp 200- 300m chiếm diện tích không đáng kể nằm xen kẽ với đồng bằng và tập trung chủ yếu ở phía Đông tỉnh.
Một số núi ở Quảng Ngãi được xếp vào danh thắng được các danh nhân xưa đặt cho những cái tên giàu hình tượng như : "Thiên Ấn niêm hà", "Thiên Bút phê vân", "La Hà thạch trận", "Thạch Bích tà dương","Vân Phong túc vũ". Vùng núi rừng Quảng Ngãi là một địa bàn chiến lược quan trọng về quân sự, là căn cứ địa Cách mạng gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm của nhân dân Quảng Ngãi.
Vùng đồng bằng nhỏ hẹp nằm ở phía Đông đáng kể là hạ lưu sông Trà Khúc và Sông Vệ thuộc các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa. Tiếp giáp biển là cồn cát cao đến 10m và rộng đến vài ki-lô-mét tạo thành những đê chắn, kết hợp với với những gò đồi thấp tạo nên những đầm như đầm Lâm Bình, An Khê, đầm Nước Mặn ở Đức Phổ.
Các sông lớnnhư Sông Trà Bồng, Sông Trà, Sông Vệ, Sông Trà Câu
Đảo Lý Sơn cách đất liền 15 hải lý về phía Đông. Đảo Lớn có diện tích 9,97Km2 và đảo Bé với diện tích 0,7Km2, dân số: 20.000 người. Lý Sơn là một trong những danh lam thắng cảnh đẹp của tỉnh Quảng Ngãi, trong đó có Chùa Hang nằm ở phía Đông Bắc đảo. Đây là một hang động nằm ở chân núi Thới Lới, ngọn núi cao nhất của huyện đảo (181m) có nhiều hang động, trong đó Chùa Hang là hang động lớn nhất và rất đẹp. Hang đá sâu 24m, rộng 20m, cao 32m. Trong hang có nhiều trụ đá tự nhiên, kỳ thú. Đường đến hang, phong cảnh ngoạn mục. Đây là nơi được xếp hạng di tích văn hoá quốc gia.
24. Núi Thiên Bút, Núi Ấn – sông Trà.
Người dân Quảng Ngãi thường gọi Núi ấn là Thiên ấn (ấn của trời). Câu Thiên ấn niêm hà (ấn trời đóng xuống sông) chính là hàm ý nói đến phong cảnh hữu tình của Núi ấn sông Trà. Cùng với Thiên ấn, cách vài cây số còn có Núi Bút, ngọn núi cao vút như ngọn bút lông vẽ lên bầu trời. Thiên Bút (bút trời) và câu Thiên Bút phê vân làm cho khách du lịch tưởng tượng bút trời viết vào mây trắng cũng như ấn trời đóng xuống dòng sông, khiến họ như đang bước vào chốn linh thiêng
Sông Trà Khúc dài 135Km, là sông lớn có lượng nước dồi dào nhất so với các sông khác trong tỉnh. Sông bắt nguồn từ núi Giá Vực (Tây - Nam Quảng Ngãi), chảy theo hướng Nam- Bắc đến Tayon thì chuyển hướng Tây Bắc- Đông Nam đến Hưng Nhượng huyện Sơn Tịnh. Từ Hưng Nhượng ra cửa Đại sông chảy theo hướng Tây- Đông. Khoảng 2/3 chiều dài sông chảy qua vùng núi và rừng rậm có độ cao 200-1000m, phần còn lại chảy qua vùng đồng bằng.
Sông Trà Khúc có tiềm năng thuỷ điện rất lớn, đã được quy hoạch các công trình thuỷ điện: Đakdrinh 1, Đakdrinh 2, Đakre, Đaksôrack, Đaklô, Nước Trong và Đaksêlô với tổng công suất 185MW và tổng điện lượng 855,1 triệu KWh. Hiện nay các công trình thuỷ điện Đakdrinh 1, Đakre và Nước Trong đang được đầu tư xây dựng.
25. Căn cứ Chu Lai – Kinh tế mở Dung Quất.
Từ một căn cứ quân sự liên hợp lớn nhất khu vực của địch trong chiến tranh, ChuLai trở thành một khu kinh tế mở có diện tích 32.400 ha với đầy đủ các yếu tố thuận lợi. Chỉ hai năm sau ngày thành lập, với khát vọng cháy bỏng của mình, có thể nói, người Quảng Nam đã làm nên một kỳ tích...
Sáng 18/6, UBND tỉnh Quảng Ngãi và Ban quản lý khu kinh tế (KKT) Dung Quất đã long trọng tổ chức lễ công bố Quyết định 50/QĐ-TTg (11/3/2005) của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập và ban hành quy chế hoạt động của KKT Dung Quất. Đến dự có Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế TƯ Trương Tấn Sang, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Hoàng Trung Hải cùng đại diện lãnh đạo các bộ, ngành TƯ và các địa phương bạn.
KKT Dung Quất được thành lập trên cơ sở KCN Dung Quất, có diện tích 10.300ha trên địa bàn huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi). Đây là KKT tổng hợp, vận hành theo mô hình “khu trong khu”, bao gồm các KCN, khu chế xuất, khu bảo thuế, khu cảng chuyên dùng, khu du lịch, dịch vụ, khu dân cư, hành chính, đô thị mới Vạn Tường... cùng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ như đường sắt, đường bộ, sân bay.
Với phương thức quản lý tập trung và thẩm quyền trực tiếp cho phép KKT Dung Quất có thể thực thi tốt hơn cơ chế “một cửa” trong giải quyết các thủ tục đầu tư. Tại đây sẽ tập trung phát triển các ngành công nghiệp nặng như lọc hoá dầu, luyện cán thép, đóng và sửa chữa tàu biển, sản xuất và lắp ráp ô tô.
Đã có 75 dự án được cấp phép và chấp thuận đầu tư vào KKT Dung Quất với tổng vốn đăng ký trên 2 tỉ USD (chưa kể vốn đầu tư Nhà máy lọc dầu Dung Quất trên 2,5 tỉ USD đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép điều chỉnh). Tại Dung Quất đã và đang triển khai xây dựng các công trình có quy mô lớn như nhà máy liên hợp công nghiệp tàu thuỷ, luyện cán thép, các dự án hoá dầu – hoá chất, cảng biển, các dự án du lịch - dịch vụ sinh thái biển.
Hiện tình hình Dung Quất đang chuyển biến theo hướng rất khả quan. Các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt là các doanh nghiệp phía Nam và doanh nghiệp từ Đài Loan, Hàn Quốc,Trung Quốc... liên tục đến khảo sát đầu tư thuộc các lĩnh vực như hoá dầu Cacbon Black, luyện phôi thép, chế tạo thiết bị, sản xuất - lắp ráp ô tô, chế biến đồ gỗ, dệt may, giày da, sợi thổng hợp, đầu tư phát triển đô thị và các khu dịch vụ - du lịch... Trong đó có nhiều dự án có mức vốn đăng ký hàng trăm triệu USD, có dự án 100% vốn FDI đang trình Thủ tướng Chính phủ đăng ký đầu tư nhà máy luyện phôi thép lò cao với số vốn trên 1 tỉ USD.
26. Khái quát tỉnh Quảng Nam – Thị xã Tam Kỳ.
Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế trọng điểm của miền Trung, phía Bắc giáp thành phố Đà Nẵng, phía Đông giáp biển Đông với trên 125 km bờ biển, phía Tây giáp tỉnh Kon Tum và nước cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi. Quảng Nam có 12 huyện và 2 thị xã, trong đó có 6 huyện miền núi là Hiên, Nam Giang, Phước Sơn, Trà My, Hiệp Đức và Tiên Phước; 8 huyện, thị đồng bằng: thị xã Hội An, thị xã Tam Kỳ (thị xã tỉnh lỵ), huyện Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Thăng Bình, Quế Sơn, Núi Thành. Ngày 20/6/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 72/2003/NĐ – CP về việc chia tách huyện Hiên thành các huyện Đông Giang và Tây Giang, huyện Trà My thành các huyện Bắc Trà My và Nam Trà My. Như vậy, hiện nay tỉnh Quảng Nam có 16 huyện, thị xã. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 10.406 km2, dự kiến dân số năm 2005 là 1,45 triệu người.
Vị trí địa lý kinh tế thuận lợi, nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm miền Trung tạo cho Quảng Nam có nhiều lợi thế trong giao lưu kinh tế và thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Chính điều kiện tự nhiên và tài nguyên đa dạng thuận lợi cho khai thác ngay trong thời kỳ quy hoạch và là điều kiện để Quảng Nam hình thành một cơ cấu kinh tế lãnh thổ đa dạng.
Địa hình tỉnh Quảng Nam tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông, hình thành ba vùng sinh thái: vùng núi cao, vùng trung du, vùng đồng bằng và ven biển; bị chia cắt theo các lưu vực sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ có mối quan hệ bền chặt về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái đa dạng với các hệ sinh thái đồi núi, đồng bằng, ven biển.
Với diện tích 1.040,6 nghìn ha, tỉnh Quảng Nam có 9 loại đất khác nhau, quan trọng nhất là nhóm đất phù sa thuộc hạ lưu các sông, thích hợp với trồng mía, cây công nghiệp ngắn ngày, rau đậu; nhóm đất đỏ vàng ở khu vực trung du, miền núi thích hợp với cây rừng, cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, cây dược liệu,…Diện tích đất Quảng Nam đã sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội là 651,5 nghìn ha, trong đó đất sử dụng vào nông nghiệp là 106,8 nghìn ha (10,3% diện tích đất tự nhiên của tỉnh); đất sử dụng vào mục đích lâm nghiệp là 512,8 nghìn ha (49,4% diện tích tự nhiên toàn tỉnh); đất sử dụng vào các mục đích công nghiệp, xây dựng, kho tàng cơ sở khác là 25,6 nghìn ha (2,5% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh).
Thực trạng cơ cấu sử dụng đất cho thấy, việc sử dụng đất hiện nay ở Quảng Nam chủ yếu vào nông nghiệp, lâm nghiệp. Trong thời gian tới, với sự tác động của công nghiệp hoá sẽ có những thay đổi cơ cấu sử dụng đất. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để giữ được quỹ đất nông nghiệp có năng suất cao, giữ được đất rừng có vai trò phòng hộ và có thể sử dụng theo hướng bền vững những diện tích đất bằng và đồi núi chưa sử dụng.
Theo số liệu của Viện Điều tra quy hoạch rừng, diện tích rừng tự nhiên tại tỉnh Quảng Nam còn khoảng 477 nghìn ha với trữ lượng gỗ khoảng 30 triệu m3 và 50 triệu cây tre nứa, trong đó rừng giàu có khoảng 10 nghìn ha, phân bố chủ yếu ở các đỉnh núi cao, giao thông đi lại khó khăn; diện tích rừng còn lại chủ yếu là rừng nghèo, rừng trung bình và rừng tái sinh trữ lượng gỗ trung bình khoảng 69 m3/ha, đường kính nhỏ chưa thể khai thác. Ngoài gỗ (sản lượng khai thác có thể đạt trên dưới 80.000 m3/năm), còn có các loại lâm sản quý hiếm như trầm, quế trẩu, song mây…Diện tích đất trống đồi trọc còn khoảng 391 nghìn ha, trong đó có 332,3 nghìn ha đất đồi núi có khả năng phát triển trồng rừng, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả và cây dược liệu.
Tiềm năng du lịch với các di sản văn hoá gắn kết với tài nguyên du lịch biển trong tổng thể Trung tâm du lịch miền Trung: Huế - Đà Nẵng – Hội An đã tạo cho Quảng Nam khả năng phát triển mạnh du lịch và dịch vụ. Hai di sản văn hoá thế giới là phố cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn và nhiều địa điểm di tích lịch sử và văn hoá (theo thống kê Quảng Nam có khoảng 61 điểm du lịch) cùng với nhiều loại hình văn hoá (như hát tuồng, hát đối) cùng với các quần thể kiến trúc khác như chứng tích Núi Thành,…tạo nên những điểm du lịch thu hút khách đến tham quan, tìm hiểu. Những làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống độc đáo (làng đúc Phước Kiều, làng ươm tơ dệt lụa Mã Châu, làng mộc Kim Bồng.) và những vùng ruộng, đồn, sông nước giữ nguyên nét điển hình của làng quê Việt Nam, hội đủ các yếu tố phát triển du lịch đồng quê, du lịch vườn, tạo thêm sức hấp dẫn đối với khách du lịch.
Thị xã Tam Kỳ là trung tâm hành chính-chính trị của tỉnh Quảng Nam. Hiện nay thị xã Tam Kỳ là đô thị loại 3 có nhiều tiềm năng phát triển. Tam Kỳ đang phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc tỉnh vào cuối năm 2006 và sẽ là đô thị loại 2 vào năm 2010.
27. Phố cổ Hội An – Cù Lao Chàm
Hội An nằm cách thành phố Đà Nẵng 30km về phía Đông Nam, cách thị xã Tam Kỳ 60km về phía Đông Bắc. Từ thế kỷ 16 đến 19, Hội An từng là trung tâm mậu dịch quốc tế trên hành trình thương mại Đông - Tây, một thương cảng phồn thịnh nhất của xứ Đàng Trong - Việt Nam trong triều đại các chúa Nguyễn bởi thương thuyền từ Nhật Bản, Trung Hoa, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan ... thường đến đây để trao đổi, mua bán hàng hoá. Trong lịch sử hình thành và phát triển, Hội An đã được thế giới biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau. Phổ biến nhất là: Faifo, Haisfo, Hoài phố, Ketchem, Cotam.
Đến nay, khu phố cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng một quần thể di tích kiến trúc cổ gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu mạo, giếng cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ ...và những con đường hẹp chạy ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn cờ. Sự tồn tại một đô thị như Hội An là trường hợp duy nhất ở Việt Nam và cũng hiếm thấy trên thế giới. Đây được xem như một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị.
Ngoài những giá trị văn hoá qua kiến trúc đa dạng, Hội An còn lưu giữ một nền tảng văn hoá phi vật thể khá đồ sộ. Cuộc sống thường nhật của cư dân với những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian, lễ hội văn hoá đang được bảo tồn và phát huy cùng với cảnh quan thiên nhiên thơ mộng, các làng nghề truyền thống, các món ăn đặc sản ... làm cho Hội An ngày càng trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách thập phương.
Tháng 12 năm 1999, UNESCO đã công nhận khu phố cổ Hội An là di sản văn hoá thế giới.
Theo tài liệu thống kê, đến nay Hội An có 1.360 di tích, danh thắng. Riêng các di tích được phân thành 11 loại gồm: 1.068 nhà cổ, 19 chùa, 43 miếu thờ thần linh, 23 đình, 38 nhà thờ tộc, 5 hội quán, 11 giếng nước cổ, 1 cầu, 44 ngôi mộ cổ. Trong khu vực đô thị cổ có hơn 1.100 di tích.
Một số di tích tiêu biểu của đô thị cổ Hội An
Chùa Cầu - Biểu tượng của Hội An
Nằm tiếp giáp đường Nguyễn Thị Minh Khai và đường Trần Phú - Hội An, Chùa Cầu (hay còn gọi chùa Nhật Bản) là công trình kiến do các thương gia Nhật Bản đến buôn bán tại Hội An xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 16. Do ảnh hưởng của thiên tại, Chùa Cầu đã qua nhiều lần trùng tu và dần mất đi các yếu tố kiến trúc Nhật Bản, thay vào đó là kiến trúc mang đậm phong cách Việt, Trung.
Chùa Cầu có dáng hình chữ Công, mặt cầu bằng ván gỗ cong ở giữa, bắt qua con lạch thông ra sông Hoài. Cầu có mái che uốn cong và được chạm nhiều hoạ tiết tinh xảo. Trên cửa chính của Chùa Cầu có chạm nổi 3 chữ Hán là Lai Viễn Kiều (có nghĩa là cầu của những người bạn từ xa đến) - tên do chúa Nguyễn Phúc Chu đặt trong một lần viếng thăm Hội An vào năm 1719. Trên sườn cầu có một ngôi miếu nhỏ thờ thần Bắc Đế Trấn Vũ - thần chuyên trấn trị phong ba, lũ lụt theo tín ngưỡng của người Trung Hoa. Ở hai đầu cầu có đặt hai nhóm tượng khỉ và chó bằng gỗ ngồi chầu. Lai lịch của Chùa Cầu gắn liền với truyền thuyết về con Cù - một loại thuỷ quái có đầu nằm ở Ấn Độ, mình ở Việt Nam và phần đuôi ở tận Nhật Bản và mỗi lần Cù cựa quậy là gây ra lũ lụt, động đất ở những nơi này. Vì vậy, ngoài việc xây cầu để phục vụ giao thông, người xưa còn có hàm ý trấn yểm loài thuỷ quái, giữ cho cuộc sống yên bình. Chùa Cầu là tài sản vô giá và đã chính thức được chọn là biểu tượng của Hội An.
Nhà cổ Quân Thắng (Số 77. Trần Phú - thị xã Hội An)
Đây là một trong những nhà cổ được đánh giá là đẹp nhất Hội An hiện nay. Ngôi nhà có niên đại hơn 150 năm, mang phong cách kiến trúc vùng Hoa Hạ Trung Hoa. Qua năm tháng, ngôi nhà vẫn được bảo tồn khá nguyên trạng về kiểu dáng kiến trúc và các bài trí nội thất, giúp ta hình dung được phần nào lối sống của các thế hệ chủ nhân, những người thuộc tầng lớp thương gia ở thương cảng Hội An trước đây. Được biết, toàn bộ phần kiến trúc và điêu khắc gỗ rất sinh động, tinh tế của ngôi nhà này đều do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện.
Đây là một điểm tham quan chính trong hành trình khám phá di sản văn hoá thế giới Hội An của du khách.
Nhà cổ Tấn Ký (Số 10. Nguyễn Thái Học - thị xã Hội An)
Được xây dựng cách đây gần 200 năm, nhà Tấn Ký có kiểu kiến trúc hình ống - đặc trưng của loại nhà phố Hội An, với nội thất chia làm nhiều gian, mỗi gian có chức năng riêng. Mặt tiền nhà là nơi để mở cửa hiệu buôn bán, mặt sau thông với bến sông để làm nơi xuất, nhập hàng hoá. Vật liệu trang trí nội thất ngôi nhà chủ yếu là các loại gỗ quý và được trạm trỗ, điêu khắc rất tinh xảo các hình về giao long, hoa quả, bát bửu, dải lụa ... thể hiện sự sung túc của các thế hệ chủ nhân.
Ngày 17 tháng 2 năm 1990, nhà Tấn Ký đã được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia.
Nhà cổ Phùng Hưng (Số 4. Nguyễn Thị Minh Khai - thị xã Hội An)
Với tuổi thọ hơn 100 năm, nhà Phùng Hưng có kết cấu độc đáo với phần gác cao bằng gỗ và các hành lang rộng bao quanh, thể hiện sự phát triển về kiến trúc và sự giao lưu giữa các phong cách kiến trúc Á Đông tại Hội An trong các thế kỷ trước đây. Ngôi nhà chứa đựng nhiều thông tin về lối sống của tầng lớp các thương nhân ở thương cảng Hội An xưa. Mặc dù cũng được thực hiện bằng chất liệu quý nhưng nhà Phùng Hưng không trạm trỗ, điêu khắc cầu kỳ mà được giữ thô một cách cố ý.
Nhà Phùng Hưng được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia vào ngày tháng 6 năm 1993
Hội quán Phúc Kiến (Số 46. Trần Phú - thị xã Hội An)
Tương truyền, tiền thân của Hội quán là một gian miếu nhỏ thờ pho tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu (bà chúa phù hộ cho thương nhân vượt sóng gió đại dương) vớt được tại bờ biển Hội An vào năm 1697. Qua nhiều lần trùng tu, với sự đóng góp chủ yếu của Hoa Kiều bang Phúc Kiến, hội quán càng trở nên rực rỡ, khang trang góp phần tô điểm diện mạo kiến trúc đô thị cổ Hội An. Thông qua cách bài trí thờ phụng các hình nhân: 6 vị tiền hiền (lục tánh), bà mụ, thần tài ... hội quán thể hiện sâu sắc triết lý Á Đông về hạnh phúc con người.
Hàng năm, vào các ngày Nguyên Tiêu (15 tháng Giêng âm lịch), Vía Lục Tánh (16 tháng 2 Âm lịch), vía Thiên Hậu (23tháng 3 âm lịch) ... tại hội quán Phúc Kiến diễn ra nhiều hoạt động lễ hội thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham gia.
Hội quán Phúc Kiến đã được cấp bằng di tích lịch sử - văn hoá quốc gia ngày 17 tháng 2 năm 1990.
Hội quán Triều Châu (Số 157. Nguyễn Duy Hiệu - thị xã Hội An)
Hội quán được Hoa Kiều bang Triều Châu xây dựng vào năm 1845 để thờ Phục Ba tướng quân Mã Viện - vị thần giỏi chế ngự sóng gió giúp cho việc đi lại buôn bán trên biển được thuận buồm xuôi gió, đắc lợi. Hội quán có giá trị đặc biệt về kết cấu kiến trúc với bộ khung gỗ trạm gỗ chạm trổ tinh xảo, cùng những hoạ tiết, hương án trang trí bằng gỗ và những tác phẩm đắp nổi bằng sành sứ tuyệt đẹp.
Hội quán Quảng Đông (Số 17. Trần Phú - thị xã Hội An)
Hội quán được Hoa Kiều bang Quảng Đông xây dựng vào năm 1885, thoạt đầu để thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và Đức Khổng Tử, sau năm 1911 chuyển sang thờ Quan Công và Tiền Hiền của bang.
Hội quán Ngũ Bang (Số 64. Trần Phú - thị xã Hội An)
Hội quán Ngũ Bang còn có tên là hội quán Dương Thương hay Trung Hoa hội quán, do các thương khách người Hoa gốc Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam, Gia ứng xây dựng vào năm 1741 để làm nơi thờ tự Thiên Hậu Ngũ Bang mang đậm phong cách kiến trúc Trung Hoa.
Chùa Ông (Số 24. Trần Phú - thị xã Hội An)
Chùa Ông được xây dựng năm 1653 đã qua 6 lần trùng tu. Chùa Ông có kiến trúc uy nghi, hoành tráng, tại đây thờ tượng Quan Vân Trường (một biểu tượng về trung - tín - tiết - nghĩa) nên còn có tên gọi là Quan công Miếu. Chùa Ông đã từng là trung tâm tín ngưỡng của Quảng Nam xưa, đồng thời cũng là nơi các thương nhân thường lưu đến để cam kết trong việc vay nợ, buôn bán, làm ăn và xin xăm cầu may.
Quan âm Phật tự Minh Hương (Số 7. Nguyễn Huệ - thị xã Hội An)
Đây là ngôi chùa thờ Phật duy nhất còn lại giữa khu phố cổ, có kiến trúc và cảnh quan xinh đẹp đồng thời còn lưu giữ gần như nguyên vẹn các tác phẩm điêu khắc gỗ đặc sản do các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng thực hiện. Chùa thờ Phật Quan Thế Âm Bồ Tát và một số chư vị Phật, Bồ Tát khác, vì vậy trong những ngày lễ, ngày rằm thường có rất nhiều người đến khẩn cầu.
Nhà thờ tộc Trần (Số 21. Lê Lợi - thị xã Hội An)
Do một vị quan họ Trần (một dòng họ lớn từ Trung Hoa di cư đến Hội An vào những năm 1700) xây dựng năm 1802 theo những nguyên tắc phong thuỷ truyền thống của người Trung Hoa và người Việt. Nhà thờ tộc Trần là một trong những điểm tham quan điểm tham quan được nhiều du khách quan tâm.
Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa
Được thành lập vào năm 1989, bảo tàng trưng bày 212 hiện vật gốc và tư liệu có giá trị bằng gốm, sứ, đồng sắt, giấy, gỗ...phản ánh các giai đoạn phát triển của đô thị- thương cảng Hội An từ thời kỳ văn hoá Sa Huỳnh. Đến thăm Bảo tàng Lịch sử - Văn hoá Hội An, du khách sẽ có được cái nhìn tổng quát về tiến trình lịch sử cũng như bề dày văn hoá của đô thị cổ.
Bảo tàng gốm sứ Mậu Dịch (Số 80. Trần Phú - thị xã Hội An)
Được xây dựng vào năm 1995, bảo tàng lưu giữ trên 430 hiện vật gốm sứ có niên đại từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 18. Hầu hết các hiện vật là gốm sứ mậu dịch có nguồn gốc từ Trung Cận Đông, Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam.
Bảo tàng văn hóa Sa Huỳnh (Số 149. Trần Phú - thị xã Hội An)
Bảo tàng là nơi cung cấp những thông tin phong phú về cư dân cổ thuộc hệ văn hoá Sa Huỳnh - chủ nhân cảng thị Hội An sơ khai từng có quan hệ giao lưu Trung Hoa, Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á. Tại đây trưng bày 216 hiện vật văn hoá Sa Huỳnh có niên đại trên dưới 2000 năm được phát hiện qua các đợt khai quật. Các hiện vật tại bảo tàng được đánh giá là bộ sưu tập độc đáo nhất của Việt Nam hiện nay về văn hoá Sa Huỳnh.
Cù lao Chàm cách bờ biển Cửa Đại (Hội An, Quảng Nam) 15 km, Cù lao Chàm là một cụm đảo bao gồm 8 đảo được đặt tên hết sức dân dã: Hòn Lao, Hòn Dài, Hòn Mồ, Hòn Khô mẹ, Hòn Khô con, Hòn Lá, Hòn Tai, Hòn Ông với khoảng 3.000 người đang sinh sống.
Cù lao Chàm có khí hậu quanh năm mát mẻ, hệ động thực vật phong phú, đặc biệt là nguồn hải sản và nguồn tài nguyên yến sào. San hô ở khu vực biển cù lao Chàm được các nhà khoa học đánh giá cao và đưa vào danh sách bảo vệ. Tại cù lao Chàm còn có rất nhiều di tích lịch sử văn hóa như chùa Hải Tạng, giếng làng, lăng Ông, miếu Bà, miếu tổ nghề yến cũng như một loạt thắng cảnh thiên nhiên kỳ thú như hang Bà, hang tò vò, hòn bao gạo, suối tình, suối mơ.
Nhờ những điều kiện thuận lợi mà thiên nhiên đã ban tặng nên hệ động thực vật trên đảo khá phong phú, đa dạng. Rừng cù lao Chàm có nhiều loại lâm sản quý như gõ, kiền kiền, dẻ, chua, mây, song, dâu, sim; các loại dược liệu quý hiếm như mã tiền. Bao quanh các cụm đảo từ độ sâu 1 - 20m, nước xanh biếc, có nhiều loại hải sản như tôm hùm, ốc hương, hải sâm, ngọc trai, đồi mồi, cua đá... Đặc biệt, trên cù lao Chàm có nhiều bãi tắm tự nhiên rất đẹp, hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Nhiều người đến đây đã hết sức ngạc nhiên khi cù lao Chàm vẫn còn nguyên những nét hoang sơ của một vùng biển đảo. Trong tương lai không xa, cù lao Chàm sẽ được đầu tư xây dựng thành khu du lịch sinh thái tầm cỡ, thu hút du khách đến nghỉ ngơi, thư giãn.
28. Trà Kiệu, Thánh địa Mỹ Sơn.
Kinh đô cổ của vương quốc Champa - Trà Kiệu hiện ở Xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên. Ra đời dưới triều vua Bhađvarman trị vì Chămpa vào khoảng cuối thế kỷ thứ IV.
Khu di tích tháp Chàm Mỹ Sơn nằm trong một thung lũng hẹp có đường kính khoảng 2km, thuộc làng Mỹ Sơn, xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách Đà Nẵng 70km về hướng Tây - Tây Nam, cách Trà Kiệu- kinh thành cũ của vương quốc Chăm pa xưa 20km về phía Tây. Suốt 4 thế kỷ bị lãng quên, đến năng 1885, Mỹ Sơn mới được phát hiện. Mười năm sau, các nhà nghiên cứu bắt đầu thực hiện các cuộc phát quang, nghiên cứu khu di tích này.
Có thể chia việc nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp về Mỹ Sơn thành hai giai đoạn khác nhau:
Năm 1898 - 1899, Louis de Fino và Launet de Lajonquere nghiên cứu các văn bia. Năm 1901 - 1902, Hen ri Pamlentier nghiên cứu về nghệ thuật và năm 1904 ông cùng Olrpeaus tổ chức khai quật khảo cổ học tại đây. Đến năm 1904, những tài liệu cơ bản nhất về Mỹ Sơn đã được L.Finot và H.Pamlentier công bố. Từ công trình nghiên cứu của H. Parlnentler, chúng ta biết cách đây hơn 100 năm, Mỹ Sơn đã có 68 công trình kiến trúc và ông đã chia chúng thành các nhóm từ A, A’ đến N.
Nhà nghiên cứu nghệ thuật F.S. Tern chia di tích Chăm Việt Nam ra làm 7 phong cách nghệ thuật theo quá trình tiến triển của nó. Mỹ Sơn có đủ đại biểu các phong cách, trong đó có đến hai phong cách xuất phát từ Mỹ Sơn. Đặc biệt phong cách Mỹ Sơn A.1 với xuất phát là đền A1 thường được gọi là kiệt tác kiến trúc của di tích Chăm.
Văn bia tại Mỹ sơn cho thấy lịch sử của Mỹ Sơn được bắt đầu bằng những ngôi đền gỗ vào thế kỷ thứ IV. Sau đó nó bị cháy đi nhưng chúng ta không biết được lý do. Đến thế kỷ thứ VII, một ông vua khác dâng cúng và xây một ngôi đền gạch. Từ đó về sau, các vương triều Chăm pa liên tục dâng cúng những ngôi đền, những kiến trúc tại Mỹ Sơn kéo dài từ những đền tháp đầu tiên vào thế kỷ thứ VII đến những đền tháp cuối cùng vào thế kỷ XIII. Trong vòng 7 thế kỷ như vậy, đền tháp tại Mỹ Sơn được xây mới và tu bổ liên tục nên những phong cách nghệ thuật và kiến trúc của nó cũng thể hiện sự chuyển hoá của quá trình phát triển của nghệ thuật và kiến trúc Chăm pa. Chúng ta cũng còn thấy được rằng các vương triều Chăm pa xưa ngoài việc xây dựng các ngôi đền mới, họ còn có nhiệm vụ tu sửa lại các ngôi đền cũ và họ chỉ tu sửa mặt tường ngoài chứ không tu sửa mặt trong. Nếu chỉ căn cứ vào cách trang trí mặt ngoài mà xác định niên đại của đền tháp thì có thể sẽ không đúng vì rất có thể khi trùng tu, người đời sau sẽ áp đặt phong cách mỹ thuật của thời họ vào trên tường tháp.
Là một quốc gia chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ, Shiva là vị thần được tôn thờ tại vương quốc Chăm pa. Đền thờ tại Mỹ Sơn được các vương triều Chăm pa xây dựng để thờ chính vị thần vua của mình. Sự kết hợp giữa vương và thần được thể hiện qua ngẩu tượng Linga. Từ những buổi ban đầu sơ khai, gần như người nghệ sĩ Chăm học cách trang trí mỹ thuật và thực hiện nó theo người Ấn Độ (Mỹ Sơn E1). Nhưng rồi dần về sau, tính bản địa đã được thể hiện. Nhưng theo thời gian, qua giao tiếp với các nền văn minh khác và sự tiếp nhận chọn lọc của người nghệ sĩ Chăm pa; đền tháp tại Mỹ Sơn mang những đường nét kiến trúc theo các thời kỳ khác nhau thể hiện các luồng văn hoá mà họ nhận được. Là khu đền thờ chính của vương quốc trong suốt chín thể kỷ, nên các đền tháp của Mỹ Sơn cũng thể hiện tính thăng trầm của các thời kỳ, những thay đổi trong lịch sử của các vương triều, những chuyển biến trong đời sống văn hoá.
Tuy chỉ xây dựng những công trình có kích thước vừa và nhỏ, những kiến trúc của Mỹ Sơn đã chắt lọc được những tinh hoa của người nghệ sĩ, sự kết hợp giữa kỹ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí người Chăm pa xưa đã tạo cho các đền tháp một vẻ uy nghiêm và kỳ bí.
Khi nói về di tích Chàm, chúng ta hay nói về các đền tháp bằng gạch. Nhưng ở Mỹ Sơn lại có một đền bằng đá và là đền duy nhất bằng đá của di tích Chăm. Văn bia tại Mỹ Sơn cho biết, đền này được trùng tu lần cuối cùng bằng đá vào năm 1234. Ngày nay tiếc rằng ngôi đền này đã bị sập nhưng hệ móng của nó cho thấy nó cao trên 30m và đây là ngôi đền cao nhất Mỹ Sơn. Các tài liệu thu thập được xung quanh khu đền này cho thấy nhiều khả năng đây và vị trí của ngôi đền đầu tiên vào thế kỷ thứ IV.
Năm 1937, các nhà khoa học Pháp bắt đầu có những công cuộc trùng tu tại Mỹ Sơn. Năm 1937-1938, ngôi đền A1 và các ngôi đền nhỏ xung quanh nó được trùng tu. Các năm sau, từ 1939 đến 1943, các tháp B5, B4, C2, C3, D1, D2 được trùng tu và gia cố lại. Năm 1939, nhằm để nghiên cứu các di tích của nhóm A, B, C, D khỏi sự phá huỷ của dòng nước (đã phá sập tháp A9), người Pháp đã cho xây một con đập và đào một dòng chảy xuyên núi để đổi hướng dòng chảy. Nhưng năm 1946, sau một trận lũ lớn, con đập này đã bị vỡ, nước chảy trở lai theo dòng cũ như ngày hôm nay chúng ta thấy.
Mỹ Sơn có một giai đoạn yên lắng từ năm 1954 đến 1964. Khi đó, cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chưa đến giai đoạn khốc liệt. Nhưng từ năm 1965 đến 1972, khi khu vực Duy Xuyên và Quảng Nam trở thành một chiến trường. Đền tháp Mỹ Sơn cũng bị thiệt hại cùng với xóm làng mà nó đã mang tên. Nặng nề nhất là trận bom năm 1969 đã làm biến dạng hình hài của khu di tích. Hầu hết các đền tháp đã bị sụp đổ hoặc hư hại nặng nề. Sau chiến tranh, để phục vụ cho công cuộc nghiên cứu, phục hồi di tích, chúng ta đã tiến hành rà phá bom mìn còn lại ở khu vực này. Mỹ Sơn sau chiến tranh là sự ngổn ngang gạch đổ, cần sự trợ giúp của nhiều người.
Năm 1980, trong chương trình hợp tác văn hoá Việt Nam- Ba Lan, tiểu ban phục hồi di tích Chăm pa được thành lập do cố kiến trúc sư KAZIMIERS KWIATKOWSKI (1944-1997) phụ trách. Từ 1981 đến 1985, các đền tháp nhóm B, C, D được dọn dẹp và gia cố, hàng ngàn mét khối gạch vỡ, đất đá được đưa ra khỏi khu vực và sắp xếp lại. Nhờ vậy mà khu vực đền tháp này có được dáng vẻ như ngày hôm nay. Sau đó, một phần nhóm A được dọn dẹp và gia cố. Mỹ Sơn hiện nay vẫn còn rất nhiều việc để làm nhưng được như hôm nay là công sức của những con người của những năm 1980 đầy khó khăn. Cố kiến trúc sư người Ba Lan mà mọi người hay gọi bằng một tên thân mật KAZIK đã để lại một tình cảm sâu đậm trong di tích và con người tại Mỹ Sơn. Ông mất năm 1997 tại Huế.
Để tiếp tục công việc bảo tồn di năm 1995, Ban quản lý Di tích Mỹ Sơn đã được thành lập. Để có cơ sở thực hiện công tác bảo tồn và phát huy giá trị của di tích, Ban đã phối hợp với Trung tâm thiết kế và tu bổ di tích Trung ương thiết lập các dự án tu bổ cấp thiết từng cụm di tích trên cơ sở quy hoạch toàn vùng. Nổi bật nhất trong những năm 1998-1999, Ban đã hoàn thành được hồ sơ để trình UNESCO công nhận Mỹ Sơn là Di sản Thế giới. Tháng 12 năm 1999, Mỹ Sơn đã chính thức là Di sản Văn hoá Thế giới với hai tiêu chuẩn:
Là điển hình nổi bật về sự giao lưu văn hoá với sự hội nhập vào văn hoá bản địa. Những ảnh hưởng văn hoá bên ngoài, đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ giáo từ tiểu lục địa Ấn Độ.
Phản ảnh sinh động tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá Chăm pa trong lịch sử văn hoá Đông Nam á.
Trong năm 1999, theo thoả thuận của ba bên Việt Nam - UNESCO - Italia, Ban quản lý Di tích Mỹ Sơn hợp tác với đoàn chuyên gia Italia nghiên cứu toàn diện về Mỹ Sơn. Từ đó, chúng ta có được bản đồ thực trạng khu vực di tích năm 2000. Các chuyên gia cho rằng việc đối xử với di tích phải hết sức dè dặt, phải nghiên cứu kỹ về vật liệu xây dựng vì người xưa không chỉ để lại những giá trị mỹ thuật và lịch sử mà còn có cả kỹ thuật vật liệu. Chơ đến ngày hôm nay, chúng ta vẫn chưa có được một kết luận khoa học mang tính đúng đắn và có khả năng ứng dụng. Viên gạch cổ nhẹ hơn gạch hiện tại cùng kích thước 1,3 lần. Gạch được nung non hơn nhưng, tính chất về sức bền vật liệu lại cao hơn. Đặc biệt nếu nhìn mặt ngoài của bức tường đền tháp, chúng ta có cảm nhận là tường xây không cần vữa, nhưng gạch bị tách ra cho chúng ta thấy là có một lớp vữa mỏng. Các nhà phân tích Châu Âu kết luận rằng thành phần của lớp vữa này là thành phần vô cơ không tạo kết dính. Chúng ta lại cần phải nghiên cứu tiếp. Đền tháp Chăm ở Mỹ Sơn không chỉ chứa chất những giá trị văn hoá làm say đắm chúng ta mà còn chứa cả những giá trị kỹ thuật mà công nghệ thời chúng ta chưa giải quyết được. Đến Mỹ Sơn, nhìn một mảng tường để biết rằng chúng ta còn phải học nhiều.
Để bảo tồn di tích khỏi sự tác động của thiên nhiên, những khu rừng mới đã được trồng, vành đai xung quanh di tích cần được bảo vệ. Hiện nay, tuy còn nhiều việc phải tiếp tục làm, nhưng rừng núi Mỹ Sơn đã trở lại màu xanh. Trong quá trình gia cố, phát lộ di tích, Ban quản lý di tích Mỹ Sơn vẫn phải tiếp tục làm lại quá trình rà soát bom mìn lần hai để bảo đảng chiến tranh không làm tổn thương con người và di tích thêm lần nữa.
Đồng thời, với việc bảo tồn di tích ngày một tốt hơn thì nhu cầu văn hoá của nhân dân và du khách ngày một cao hơn. Mỹ Sơn trở thành một điểm thu hút khách tham quan trong và ngoài nước, Mỹ Sơn dần đần hồi phục diện mạo trong sự yêu mến của mọi người. Để thu hút khách du lịch và phát triển kinh tế, đồng thời làm giảm bớt áp lực tác động vào di tích trong thời gian tới. Uỷ ban nhân dân huyện Duy Xuyên đã có dự án xây dựng khu du lịch Thạch Bàn, Mỹ Sơn. Với dự án này, hy vọng sự bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích tháp Chàm, Mỹ Sơn được thực hiện một cách có hiệu quả và bền vững. Di sản Văn hoá thế giới tháp Chàm Mỹ Sơn chứa đựng những giá trị văn hoá lớn lao, cần sự hiểu biết và yêu mến của mọi người.
29. Ngũ Hành Sơn – Biển Non Nước.
Ngũ Hành Sơn - tên của năm ngọn núi cẩm thạch nằm kề với biển, liền sông được vua Minh Mạng đặt tên mỗi ngọn núi tượng trưng cho năm nguyên tố cơ bản của vũ trụ là Kim Sơn, Thuỷ Sơn, Thổ Sơn, Mộc Sơn và Hoả Sơn.
Có nhiều truyền thuyết về sự hình thành Ngũ Hành Sơn, trong đó có truyền thuyết cho rằng: “Ngày xưa, nơi đây là vùng biển hoang vu, chỉ có một ông già sống đơn độc trong túp lều tranh. Một hôm, trời đang sáng bỗng nhiên tối sầm, giông bão nổi lên, một con giao long rất lớn xuất hiện vùng vẫy trên bãi cát và một quả trứng khổng lồ từ từ lăn ra ở dưới bụng. Sau đó giao long quay ra biển đi mất. Lát sau, một con rùa vàng xuất hiện, tự xưng là Thần Kim Quy, đào cát vùi quả trứng xuống và giao cho ông già nhiệm vụ bảo vệ giọt máu của Long Quân. Quả trứng càng ngày càng lớn, nhô lên cao chiếm cả một vùng đất rộng lớn. Vỏ trứng ánh lên đủ màu sắc xanh, đỏ, trắng, vàng, tím lấp lánh như một hòn ngọc khổng lồ. Một hôm, ông lão vừa chợp mắt thì nghe có tiếng lửa cháy, ông cầu cứu móng Rùa - vật mà Thần Kim Quy đã giao lại cho ông lúc ra đi và trong lòng trứng hiện ra một cái hang rộng rãi, mát mẻ. Ông đặt lưng xuống ngủ thiếp luôn và không biết đang xảy ra một phép lạ: một cô gái xinh xắn bước ra từ trong trứng và nơi ông nằm là một trong năm hòn đá cẩm thạch vừa được hình thành từ năm mảnh vỏ của quả trứng”.
Thuỷ Sơn là hòn núi lớn và đẹp nhất trong khu danh thắng, đỉnh gồm ba ngọn nằm ba tầng giống như ba ngôi sao Tam Thai nên có tên gọi là núi Tam Thai. Ngọn cao nhất 106m ở phía tây bắc gọi là Thượng Thai gồm có Vọng Giang Đài, chùa Tam Thai, chùa Từ Tâm, động Hoàng Cung, động Hoa Nghiêm, động Linh Nham, thạch động Huyền Không,… Ngọn phía nam thấp hơn gọi là Trung Thai, nơi đây du khách sẽ nhìn thấy Cổng Trời, hang gió Tây, hang gió Đông, động Vân Thông, động Thiên Long, hang Vân Nguyệt,… Ngọn phía đông hơi nhô cao lên gọi là Hạ Thai gồm có Vọng Hải Đài, chùa Linh Ứng, động Tàng Chơn, Bàn Cờ, giếng Tiên và động Âm Phủ.
Lên khỏi 156 bậc cấp đá hoa cương là cổng Tam Quan cổ kính dẫn vào chùa Tam Thai, nơi vẫn còn lưu giữ được “quả Tim Lửa” và chiếc chuông khắc tên vua Minh Mạng.
Từ Vọng Giang Đài, Vọng Hải Đài du khách thoả thích ngắm nhìn cảnh làng quê thanh bình bên dòng sông Cổ Cò cùng với biển cả bao la. Cảnh sắc hang động thật kỳ vĩ - ánh sáng mặt trời len lỏi qua các ngách đá, thạch nhũ tạo ra với nhiều hình hài khác nhau rất ấn tượng, du khách có thể cảm nhận bằng chính sự chiêm nghiệm, khám phá của mình.
Ở phía tây khu danh thắng Ngũ Hành Sơn có nhiều hang động thiên nhiên cảnh sắc đẹp. Ở ngọn Kim Sơn có chùa Thái Sơn, chùa và động Quán Thế Âm, hang Tam Thanh. Ngọn Hoả Sơn có chùa Linh Sơn, động Huyền Vi, chùa và động Phổ Đà Sơn.
Tham quan động Quán Thế Âm và Huyền Vi du khách không khỏi ngạc nhiên thú vị trước hình tượng của Phật được tạo ra từ thạch nhũ rất sinh động. Hoà thượng Thích Phán Nhẫn phát hiện ra động Quán Thế Âm vào năm 1956, cửa động cách chân núi khoảng mười mét, đường vào động là những bậc đá tự nhiên đi sâu xuống lòng núi. Ngay phía đối diện cửa động là một khối thạch nhũ tạo thành hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát rất hoàn chỉnh, cân phân, thanh tú. Một lớp da đá lấp lánh như kim tuyến bề ngang hơn gang tay phủ từ bờ vai phải chạy dài đến hết thân tượng, bàn tay phải có nâng bình nước cam lồ. Trong động còn có bộ tam khí của nhà Phật gồm chuông, trống và mõ bằng đá với những âm thanh rất chuẩn và thật. Cuối động là hồ nước mát lạnh, trong suốt quanh năm gọi là hồ nước Cam Lồ.
Biển Non Nước trải dài gần 5km với bãi cát sạch và rộng, nước biển ở đây trong xanh và môi trường chưa bị ô nhiễm, bãi cát thoai thoải có độ dốc rất thấp. Sóng tại đây cũng không quá lớn nên rất thích hợp cho du khách trong các chuyến nghỉ biển và nghỉ ngơi tắm nắng. Nhân viên cứu hộ luôn túc trực tại các bãi tắm để đảm bảo công tác cứu hộ cũng như an ninh. Bãi tắm nằm gần kề dưới cụm Ngũ Hành Sơn, không xa thành phố nhưng dân cư thưa thớt, người dân địa phương tắm ở đây không nhiều, phần lớn là du khách tạo nên không khí yên tĩnh, cảnh quan khá đẹp và hấp dẫn.
30. Khái quát TP. Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng nằm ở trung độ của đất nước, nằm trên trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không. Quốc lộ 14B nối cảng biển Tiên Sa, Liên Chiểu đến Tây Nguyên và trong tương lai gần nối với hệ thống đường xuyên Á qua Lào; Đông Bắc Campuchia, Thái Lan, Mianma. Đà Nẵng còn là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên và các nước trên đến các nước vùng Đông Bắc Á.
Địa hình thành phố vừa có đồng bằng vừa có đồi núi, vùng núi cao và dốc tập trung ở phía Tây và Tây Bắc, một số đồi thấp xen kẽ những đồng bằng hẹp. Đồng bằng ven biển là vùng đất thấp chịu ảnh hưởng của biển bị nhiễm mặn, lại là vùng tập trung nhiều cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, quân sự và các khu chức năng của thành phố. Địa hình đồi núi chiếm diện tích lớn, chủ yếu ở độ cao 700 - 1500 m, độ dốc lớn, là nơi tập trung nhiều rừng đầu nguồn có tác dụng bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển du lịch của thành phố.
Với diện tích 125.624,46 ha, thành phố có các loại đất: cồn cát và đất cát ven biển, đất mặn, đất phèn, đất phù sa, đất xám bạc màu, đất đen, đất đỏ vàng, đất mùn đỏ vàng, đất thung lũng, đất xói mòn trơ sỏi đá. Quan trọng là nhóm đất phù sa thích hợp với thâm canh lúa, trồng rau, hoa quả ven đô và nhóm đất đỏ vàng thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, dược liệu, chăn nuôi gia súc.
Diện tích đất lâm nghiệp là 51.854 ha, chiếm 41,3% diện tích lãnh thổ, trong đó đất rừng tự nhiên là 36.729,44 ha, tập trung chủ yếu ở phía Tây huyện Hoà Vang, một số ít ở quận Liên Chiểu, quận Sơn Trà, đất rừng trồng là 15.124,42 ha, có hầu hết ở các quận, huyện trong thành phố nhưng tập trung chủ yếu vẫn là huyện Hoà Vang, quận Liên Chiểu, quận Ngũ Hành Sơn. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 49,6%, trữ lượng gỗ khoảng 3 triệu m3, phân bố chủ yếu ở nơi có độ dốc lớn, địa hình phức tạp, tập trung ở Sơn Trà, Hải Vân và Tây Hoà Vang.
Rừng của thành phố ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa phục vụ nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển du lịch, nhất là Sơn Trà, Hải Vân và Bà Nà.
Hiện nay mới chỉ phát hiện một ít tài nguyên khoáng sản là khối đá hoa cương ở Non Nước, đá ốp lát, đá vôi ở phía Tây huyện Hoà Vang, mỏ cát trắng ở Nam Ô… Đặc biệt vùng thềm lục địa có nhiều triển vọng về dầu khí.
Nguồn nước cung cấp cho thành phố chủ yếu là từ các sông Cu Đê, Cẩm Lệ, Vĩnh Điện. Nước ngầm của vùng khá đa dạng, các khu vực có triển vọng khai thác là nguồn nước ngầm tệp đá vôi Hoà Hải – Hoà Quý ở chiều sâu tầng chứa nước 50 – 60 m; khu Khánh Hoà có nguồn nước ở độ sâu 30 - 90 m; các khu khác đang được thăm dò.
Đà Nẵng có bờ biển dài khoảng 70 km, có vịnh nước sâu với các cửa ra biển như Liên Chiểu, Tiên Sa, có vùng lãnh hải thềm lục địa với độ sâu 200 m, tạo thành vành đai nước nông rộng lớn thích hợp cho phát triển kinh tế tổng hợp biển và giao lưu với nước ngoài.
Bờ biển có nhiều bãi tắm đẹp như Non Nước, Mỹ Khê, Thanh Khê, Nam Ô với nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ thú và giá trị được nâng lên nhiều lần bởi các bãi tắm và các cảnh quan này không xa nội thành Đà Nẵng, có ý nghĩa lớn cho phát triển du lịch và nghỉ dưỡng.
Khả năng phát triển kinh tế thuỷ, hải sản và nuôi trồng thuỷ sản lớn. Vùng biển Đà Nẵng có trữ lượng hải sản lớn, khả năng khai thác hàng năm khoảng 60 - 70 nghìn tấn. Sản lượng khai thác trung bình hàng năm đạt khoảng 25 nghìn tấn, chủ yếu là cá nổi ven bờ.
Thành phố còn có hơn 546 ha mặt nước có khả năng nuôi trồng thuỷ sản, tạo điều kiện tốt để xây dựng vùng nuôi thuỷ sản với các hình thức như nuôi bè ở Thọ Quang, nuôi tôm ở Nại Hiên Đông, Hoà Cường, vùng biển Cổ Cò, Hoà Hiệp quanh chân đèo Hải Vân… Các loại hải sản chính đang nuôi là cá mú, cá hồi, cá cam, tôm sú và tôm hùm.
Về tiềm năng du lịch Đà Nẵng là một trong ba vùng du lịch trọng điểm của cả nước, là nơi có tiềm năng du lịch phong phú, bao gồm các tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn. Có nhiều danh lam thắng cảnh như đèo Hải Vân, bán đảo Sơn Trà, Bà Nà, núi Chúa, Ngũ Hành Sơn, các bãi tắm Mỹ Khê, Non Nước, bảo tàng chàm với di tích Chàm gắn kết với phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn, cố đô Huế và các tỉnh duyên hải miền Trung. Những tài nguyên này là điều kiện cho phép Đà Nẵng phát triển nhiều loại hình du lịch như nghỉ mát, tắm biển, tham quan, du lịch nghiên cứu, du lịch văn hoá…
31. Bảo tàng nghệ thuật điêu khắc Chăm.
Đến thăm Bảo tàng Điêu khắc Champa - một bảo tàng độc đáo không chỉ của thành phố Đà Nẵng,Việt Nam mà còn của cả thế giới - dẫu giữa ngày mưa hay ngày nắng, buổi sáng hay buổi chiều, du khách vẫn nhận ra một không khí rất riêng mà nơi này, do đặc trưng của mình vẫn luôn giữ được: sự trầm lắng của những hoài niệm.
Chính thức được xây dựng vào tháng 7 năm 1915, với sự giúp đỡ của Viện Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội, Bảo tàng Điêu khắc Champa Đà Nẵng hiện tại có khoảng gần 2.000 hiện vật lớn nhỏ, trong đó có 288 hiện vật đang trưng bày bên trong nhà Bảo tàng (được phân chia thành các phòng trưng bày gồm: Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Tháp Mẫm và các hành lang Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Quảng Bình và Bình Định), 187 hiện vật trưng bày ngoài sân vườn và hơn 1200 hiện vật hiện đang lưu giữ trong kho. Hầu hết các tác phẩm điêu khắc hiện có tại bảo tàng là những tác phẩm nguyên bản trên 3 chất liệu chính là sa thạch, đất nung và đồng nung, phần lớn là sa thạch, có niên đại từ thế kỷ XII đến thế kỷ XV thuộc nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau.
Các tác phẩm nghệ thuật được trưng bày tại đây hầu hết đều có một cuộc đời chìm nổi như chính số phận của nền văn hóa rực rỡ đã sản sinh ra nó. Từ trong đổ nát của thời gian, chiến tranh và cả sự quên lãng của con người, những tác phẩm điêu khắc Champa tuyệt vời đã được nhiều thế hệ dày công mang về đây. Và trong chỉnh thể có tính hệ thống này, các công trình của các nghệ nhân Champa xưa lại có được một đời sống mới.
Đến bảo tàng, ta như thấy lại quá khứ vàng son của một dân tộc mà lòng say mê và khả năng sáng tạo nghệ thuật đều ở một trình độ rất cao. Thế giới thần linh kỳ bí, những câu chuyện bằng hình ảnh, các biểu tượng tôn giáo, đường cong thân thể các vũ nữ, những bầu ngực căng tròn, nụ cười phảng phất nét thời gian... tất cả đều sống động, chi tiết và gợi cảm vô cùng.
Chịu ảnh hưởng sâu sắc nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của văn minh Ấn Độ nhưng người Champa xưa đã biết nhìn đời sống và tôn giáo theo những cảm quan riêng của mình. Sự khúc xạ đó đã tạo ra cho thế giới nghệ thuật của họ một vẻ đẹp rất riêng, gần gũi nhưng lại thiêng liêng, quen thuộc nhưng lại độc đáo, tinh tế, không lẫn lộn.
32. Bà Nà – Núi Chúa.
Bà Nà - Núi Chúa là một dãy núi thuộc huyện Hòa Vang cách Đà Nẵng 40 km về phía Tây Nam, cao 1.487 m so với mực nước biển. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 17 dến 20oC.
Ở Bà Nà, du khách sẽ cảm nhận được bốn mùa riêng biệt trong một ngày: sáng - xuân, trưa - hạ, chiều - thu, tối - đông và khác với Đà Lạt là không bị ẩm ướt vì các cơn mưa nhỏ. Đặc biệt khi cơn mưa xuất hiện, chúng ta được xem mưa rơi xung quanh sườn núi mà phần đỉnh vẫn luôn khô ráo, vẫn trời mây quang tạnh, không khí thoáng đãng mát mẽ. So với Tam Đảo, Đà Lạt, Bà Nà có ưu thế hơn về tầm nhìn toàn cảnh. Từ trên những mỏm núi, du khách có thể bao quát cả một không gian mênh mông: biển cả, thành phố Đà Nẵng, những cánh đồng lúa xanh tận chân trời...
Trong khi nhiệt độ từ tháng 5 đến tháng 8 là những tháng nóng nhất ở ven biển miền Trung thường lên tới 32oC thì ở đây chỉ có 17oC đến 20oC, cao nhất từ 22oC - 25oC. Còn ban đêm xuống tới 15oC, tương đương với nhiệt độ trung bình về mùa đông ở miền Bắc. Khí hậu ôn hòa suối chảy róc rách, rừng cây xào xạc làm cho nơi đây có thể sánh với những vùng nghỉ mát như Tam Đảo, Đà Lạt... Bà Nà còn có giá trị là khu bảo tồn thiên nhiên với 544 loài thực vật bậc cao, 256 loài động vật, trong đó có 6 loài cây và 44 loài động vật quí hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam theo tiêu chuẩn quốc tế.
Lên Bà Nà, du khách sẽ cảm nhận được cái cảm giác như đi lạc trong mây và sương khói. Cảm xúc của mỗi người khi lên nơi này có thế có khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng cái ý nghĩ rằng, giữa vùng nhiệt đới gió mùa này mà chọn một nơi như Bà Nà làm nơi nghỉ dưỡng thì khó có nơi nào bằng sẽ luôn là một ý nghĩ chung...
Với những ưu thế tuyệt diệu đó, từ những năm đầu thế kỉ XX người Pháp đã chọn Bà Nà là nơi nghỉ mát và xây dựng nơi đây hàng trăm biệt thự, lâu đài... Thiên tai, địch họa hơn nửa thế kỉ qua đã làm mất đi dấu tích các lâu đài, nhà nghỉ cổ xưa... nhưng vẫn còn đó sự hào phóng của thiên nhiên với những cánh rừng nguyên sinh và một vùng khí hậu ôn hòa mát mẻ với muôn ngàn âm thanh xào xạc của đồi thông hòa quyện cùng khúc nhạc róc rách của những con suối tràn lên trên thành đá hoa cương, rồi lặng lẽ lẫn khuất sau những cánh rừng xanh ngắt.
Hiện nay, một số biệt thự tại khu du lịch Bà Nà đã được trùng tu lại với đầy đủ các tiện nghi và dịch vụ hiện đại sẵn sàng phục vụ du khách. Nhiều khu biệt thự của Nhà nước cũng như của tư nhân đã được xây dựng tại đây, đủ sức đáp ứng được nhu cầu tham quan, nghỉ mát của du lkhách. Đặc biệt, hệ thống cáp treo hiện đại sẽ đưa quý khách từ đồi Vọng Nguyệt, ẩn hiện trong mây và băng qua khu rừng nguyên sinh bên dưới để đến trung tâm khu du lịch Bà Nà.
Bà Nà - nơi hội tụ vẻ mông lung, lãng mạn của tạo vật, chút cảm hoài gạch ngói rêu phong của thời gian và sự tham dự có ý thức của con người vào cái đẹp. Từ trên đỉnh Bà Nà nhìn về Đà Nẵng, con người như cảm thấy mình có được một cuộc sống khác, tận hưởng được những hạnh phúc khác... những thứ mà cuộc sống náo nhiệt thị thành không bao giờ biết được.
Dưới chân núi Bà Nà, Suối Mơ là điểm du lịch rất đông khách, nhất là vào mùa hè. Ở đây có thác Tóc Tiên 9 tầng, thác này gọi là thác Tóc Tiên bởi vì đứng từ phía dưới chân thác nhìn lên thác như một mái tóc của một nàng tiên. Phong cảnh kết hợp giữa núi rừng bao la với những dòng nước trắng xóa, mát mẻ giúp cho chúng ta quên ngay đi những mệt mỏi của đời thường để tận hưởng những giây phút thư giãn thần tiên.
33. Làng Nam Ô – kho xăng Linh Chiểu – bán đảo Sơn Trà.
Mấy năm gần đây, nước mắm Nam Ô đã dần khôi phục lại được thương hiệu nổi tiếng của mình. Khác với các vùng làm nước mắm khác ở VN, làng Nam Ô chỉ chế biến nước mắm từ cá cơm than đánh bắt vào tháng Ba âm lịch. Nước mắm Nam Ô ngon một phần là nhờ chọn thứ muối Cà Ná hạt to đã để lâu vài ba năm. Muối mang về đổ trên nền xi-măng sạch, khô ráo, để từ 5 - 7 ngày cho chảy hết chất nước đắng, sau đó cho vào chum, vại cất vài năm trước khi đem làm.
Cá cơm than được lựa chọn kỹ, là loại cá tươi, không to quá hoặc nhỏ quá. Khi muối, không cần rửa lại, vì trước khi lên bờ, cá đã được rửa bằng nước biển. Nếu rửa bằng nước ngọt sẽ làm cá mất ngon, để lâu sẽ bị thối. Những thùng, chum, vại muối phải làm bằng gỗ bằng lăng hoặc gỗ mít, mới đúng cách. Khi trộn cá, người ta phải chú ý sao cho cá thấm muối thật đều, không bị nát, xếp từ từ từng lượt vào chum vại, đựng cá muối. Phía trên cùng đặt một lần vỉ đan bằng tre, hoặc mo cau khô gài lại. Sau đó đậy nắp thật kín, đưa vào phòng tối, khô ráo, sạch sẽ, kín gió, giữ nhiệt độ vừa phải, khoảng 6 – 7 tháng trộn cá muối lại. Khi nào lớp vỉ chèn xuất hiện lớp men mầu trắng thì tháo vỉ, vớt lớp men ấy ra.
Bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng) có diện tích gần 4400ha, cách trung tâm Đà Nẵng khoảng 7km, hiện đang được xây dựng thành một số khu du lịch với những bãi tắm thơ mộng, có nơi thích hợp với du lịch mạo hiểm hoặc du lịch lặn và vùng biển bao quanh Sơn Trà trong tương lai là một trong 15 khu bảo tồn biển quốc gia. Sơn Trà có nhiều cảnh đẹp.
Hòn Nghê là một tảng đá rất lớn nằm gần bờ phía đông bán đảo, có hình dáng giống con Nghê đang tắm. Từ đỉnh Bàn Cờ cao 625m có thể quan sát toàn đảo và trung tâm thành phố Đà Nẵng; Bãi Bắc nằm phía đông bán đảo, với bãi cát thoải, về mùa đông thường có vích và đồi mồi lên bờ đẻ trứng. Bãi Bụt, bãi Nam nằm ở phía đông nam bán đảo có những khu bãi tắm đẹp với các quần thể san hô nằm rất gần bờ, sóng ở hai bãi này êm đềm, an toàn cho du lịch lặn.
Bao quanh Sơn Trà là biển, sát ngay rừng cây là bãi cát trắng mịn, hẹp thoải chạy dài theo bờ biển. Ở những nơi vắng người, khỉ thường theo rừng xuống bãi biển chơi đùa. Xen giữa cát, nước biển, cây là những hòn đá tảng nhiều hình dạng đẹp mắt. Hòn thì trông giống cá cóc nghiêng mình trên bãi cát, hòn giống đôi rùa ngẩng đầu lên đùa bỡn với nhau, hòn hình cô gái tắm biển.
Bờ biển phía bắc có gió và sóng mạnh, thích hợp với du lịch mạo hiểm, phía nam Sơn Trà, biển êm dịu, an toàn. Sơn Trà có khoảng 20 con suối chảy, cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu cho nhân dân sống xung quanh. Nước suối ở Sơn Trà còn được coi là một trong những nguồn tài nguyên có giá trị kinh tế và xuất khẩu. Sơn Trà còn có ngọn hải đăng Tiên Sa là một trong những nhà đèn đẹp và lớn nhất Việt Nam, được xây dựng lại năm 1958.
Sơn Trà không chỉ quyến rũ đối với khách du lịch mà còn là nơi tìm đến của nhiều nhà khoa học sinh thái. Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà với hệ sinh thái rừng thường xanh lá rộng với nhiều loài cây bản địa, đặc biệt là có cây chò đen, dầu lá bóng, chạy dài tới ven biển tạo nên những bãi biển thơ mộng.
Ở đây có nhiều cây lớn với nhiều hình dạng kỳ lạ. Số loài thực vật bậc cao lên tới gần 1000 loài, thuộc 483 chi trong đó có 22 loài quí hiếm như cây Cốt toái bổ, cây Vạn tuế lược, Re hương, Cẩm Lai Bà Rịa và 143 loài cây làm thuốc, 104 cây cảnh. Sơn Trà có những quần hệ trảng cây bụi, trảng cỏ phong phú, chảy dài xuống ven biển.
Ở khu bảo tồn này còn có 30 loài thú thuộc 15 họ, 51 loài chim thuộc 25 họ và 15 loài bò sát và 3 loài ếch nhái. Ở Sơn Trà có phổ biến các loại động vật quí hiếm như voọc chà và còn khoảng 50-60 cá thể, khỉ đuôi dài, lợn rừng, đồi, chồn bạc má, sóc chân vàng, cầy vòi đốm, gà tiền mặt đỏ, vích.
34. Đèo Hải Vân – Bạch Mã – Lăng Cô.
Trên con đường xuyên Việt qua dải đất miền Trung đầy nắng gió, đèo Hải Vân lâu nay đã trở thành nơi thưởng ngoạn lý tưởng của lữ khách vào Nam, ra Bắc. Từ Đà Nẵng theo quốc lộ 1A về phía Bắc, sau khi qua vùng Nam Ô, du khách bắt đầu lên đèo Hải Vân. Con đường đèo quanh co, ẩn hiện giữa mây, cây rừng và đá núi. Hải Vân là bức tranh thiên nhiên hoành tráng do kỳ công của tạo hoá và bàn tay của con người tạo ra đến mức hài hoà. Du khách không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh vật hùng vĩ, đèo dốc hiểm trở, địa hình núi cao, vực sâu, rừng cây ngút ngàn, suối khe róc rách, khí hậu trong lành. Khen ai đã khéo đặt tên cho nơi này: Hải Vân (Mây biển).
Có những lúc mây nhiều che phủ cả khúc đèo mây quấn quýt như níu lấy chân du khách. Ở độ cao gần 500m so với mặt nước biển, đèo Hải Vân là ngừng nghỉ tuyệt vời. Du khách cảm thấy ngất ngây trước trời mây non nước, tận hưởng hết vẻ đẹp vô cùng ngoạn mục của cảnh núi cao, biển rộng có một không hai này. Tại đây du khách phóng tầm mắt để bao quát một vùng non nước bao la: nhìn về phía Bắc có thể thấy biển Lăng Cô, xa hơn là dãy Bạch Mã đẹp như tên gọi; nhìn về phương Nam là vịnh Đà Nẵng, thành phố Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà và Ngũ Hành Sơn huyền thoại. Sau khi nghỉ ngơi ở đèo, du khách xuống đèo xuôi về phía Bắc. Du khách sẽ có cảm giác tuyệt vời khi vừa đổ xuống chân đèo Hải Vân Bắc, gặp làng chài Lăng Cô quyến rũ, đẹp như tranh giữa một vùng đèo cao và biển sâu. Lăng Cô được ví là chốn “Bồng lai tiên cảnh”, được xếp và cụm du lịch liên hoàn: Lăng Cô - Bạch Mã - Cảnh Dương - Hải Vân - Non Nước, là trọng điểm của du lịch miền Trung. Dừng chân nơi đây du khách được hít thở không khí trong lành, ngắm cảnh đẹp và thưởng thức các món ăn ngon ngọt được nấu từ sò huyết, ghẹ, mực, tôm hùm, cua bể, lươn, cá chình.
Đến Hải Vân được uống trà, ngồi chõng tre, ở lều tranh, nghe hò Huế, hò Quảng và được tham dự các buổi ngâm thơ, bình văn… có gì thú vị bằng! Ở đây có gió mát của biển Đông, một ít vị mặn của biển và rất nhiều hơi ấm tình người, du khách sẽ nhớ mãi.
Núi Bạch Mã hay Dãy Bạch Mã là một dãy núi đẹp, là ranh giới tự nhiên giữa Huế và Đà Nẵng. Núi Bạch Mã: cách Huế 60 km về phía Nam, núi Bạch mã ở độ cao 1.450m, là nơi nghỉ mát nổi tiếng ở Việt Nam. Trên đỉnh núi hùng vỹ 4 mùa xanh tươi với thác nước, suối rừng, là cả một vùng khí hậu ôn đới như ở SaPa, Tam Ðảo, Ðà Lạt ... Núi Bạch Mã còn là nơi quy tụ nhiều loại động vật và thực vật quý hiếm ở miền nhiệt đới, vì vậy đã được chính phủ nước CHXHCN Việt Nam quy hoạch thành khu rừng cấm quốc gia.Trên từng nẻo đường của khu nghỉ mát rộng 369ha, đặc biệt là tại Công viên rừng, hoa lay ơn, hoa lan đất nở suốt bốn mùa làm bịn rịn mỗi bước chân du khách qua đường.
Bãi tắm Lăng Cô dài khoảng 8km, nằm dọc Quốc lộ 1A, cạnh đèo Hải Vân và cách Vườn Quốc gia Bạch Mã 24km. Ðây là một bãi tắm có bờ biển thoải, cát trắng, sóng vừa và lớn, thủy triều lên xuống theo chế độ bán nhật triều với mức chênh lệch thấp (chỉ khoảng 0,7-0,8m), rất thích hợp cho loại hình du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng, lặn biển, và đã được xác định là một khu nghỉ mát lý tưởng từ mấy chục năm nay. Nằm liền kề bãi tắm Lăng Cô là núi Hải Vân - Hải Vân Quan một thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam. Dọc theo chân núi Hải Vân, biển Lăng Cô có dải san hô, tôm hùm và nhiều loại hải sản có giá trị cao. Trong khu vực đó còn có hòn Sơn Chà (đảo nhỏ), tại đây còn bảo tồn nhiều loại động, thực vật hoang dã. Phía sau bãi tắm là đầm Lập An và dãy núi Bạch Mã. Tất cả những yếu tố đó mang lại cho Lăng Cô tiềm năng to lớn về phát triển nhiều loại hình du lịch: nghỉ mát, lặn biển, tìm hiểu hệ động - thực vật hoang dã, nuôi trồng thủy sản.
35. Khái quát TP. Huế.
Huế là thành phố nằm ven biển Đông, là thành phố miền Trung nằm giữa hai thành phố lớn Hà Nội và Sài Gòn. Hai tỉnh láng giềng của Huế là Quảng Trị và Đà Nẵng. Đèo Hải Vân nối liền Huế với Đà Nẵng và ranh giới thời tiết hai miền. Ai đã một lần đến Việt Nam, chắn hẳn đã từng biết khí hậu ở Việt Nam rất khác biệt nhau. Trong khi ở miền Nam thường là khí hậu nhiệt đới thì ở miền Bắc là khí hậu ôn đới. Khí hậu ở Huế thường nóng ẩm và nó là sự kết hợp của khí hậu miền Bắc và vùng ven biển phía Nam.
Du khách đến Huế thường là để tham quan đền đài lăng tẩm. Họ thăm Huế vào nhiều thời điểm khác nhau. Nếu như du khách trong nước thường đến Huế từ khoảng đầu tháng 5 cho đến cuối tháng 9, thì khách du lịch nước ngoài lại đến Huế trong khoảng từ tháng 10 cho đến cuối tháng 4. Thời tiết lý tưởng nhất ở Huế thường là vào tháng 11.
Huế không chỉ được biết đến vì lịch sử của nó mà còn là vì những danh lam thắng cảnh với vô số đền đài. Trước đây Phú Xuân (cái tên gọi của Huế thời xa xưa) là thành phố nhỏ nằm bên dòng Hương Giang đầy thơ mộng, trữ tình. Sau này Phú Xuân được đổi tên thành Huế. Huế trở thành thủ đô sau khi Nguyễn Ánh thống nhất đất nước. Trong gần 400 năm (1558 – 1945) Huế là thủ đô của Việt Nam.
Nếu như ở tả ngạn sông Hương là cung điện, thành trì của vua chúa thì ở hữu ngạn sông Hương là những lăng tẩm rất hữu tình của các vua Nguyễn như lăng Tự Đức, Minh Mạng, Gia Long ....và đằng sau mỗi lăng tự đều ẩn chứa một lịch sử riêng biệt. Đến thăm lăng bạn sẽ còn được nghe kể tỉ mỉ hơn nữa về những vị vua thời xa xưa này. Huế là nơi không thể bỏ qua được nếu như bạn là người quan tâm và say mê với lịch sử Việt Nam. Ngày nay người ta có thể biết nhiều về lịch sử của Huế qua văn chương, mạng Internet, truyền hình, phim tư liệu ... nhưng tốt hơn cả vẫn là một lần tới Huế để khám phá những điều kì thú và hấp dẫn này .Và khi nào có dịp trở về thăm quê hương Việt Nam, nhất định tôi sẽ ghé thăm thành phố xinh đẹp này.
Chùa Thiên Mụ, biểu tượng của Huế, nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5 km trên đồi Hà Kề tả ngạn sông Hương, thuộc xã Hương Long, được xây vào năm 1601 dưới thời chúa Nguyễn Hoàng. Tháp Phước Duyên được vua Triệu Trị cho xây vào năm 1844, tháp hình bát giác 7 tầng và cao 21m. Đẹp nhất vẫn là phong cảnh đồi núi bên kia dòng Hương Giang nhìn từ Thiên Mụ vào buổi hoàng hôn...Đó cũng không phải là tất cả những gì bạn có thể thưởng thức được ở Huế. Ngoài những lăng tẩm và chùa chiền nổi tiếng, bạn còn có thể tới thăm thành Huế với Tử cấm thành, Văn Miếu, núi Bạch Mã, Điện Hòn Chén, trường Quốc học...
Ai đã đến Huế, chắc hẳn đã từng được nhìn thầy cầu Tràng Tiền bắc qua sông Hương. Đã bao nhiêu lần trong tuổi thơ của mình, tôi đã từng ước được một lần đặt chân trên cây cầu này và đi dạo dưới những chiều mưa ở Huế. Nhưng ước mơ ngày ấy của tôi đã không trở thành hiện thực, dù Huế nằm không cách xa lắm với Thanh Hóa quê hương tôi. Khi viết đến đây tôi chợt nhớ đến những vần thơ đã đọc được ở đâu đó... thật nhẹ nhàng, bình dị và sâu lặng:
...“Tạm biệt Huế với anh là tiễn biệt
Hải Vân ơi đứng tắt ngọn sao khuya
Tạm biệt Huế với nụ hôn thầm lặng
Em trở về hóa đá phía bên kia“...
Tôi không thể viết hết những lời yêu thương dành cho Huế, tôi yêu cố đô xinh đẹp này, yêu những món ăn truyền thống ẩm thực và yêu cả cái "mô tê răng rứa" cực kì dễ thương và trữ tình của Huế. Giữa cuộc sống hối hả và tấp nập của ngày hôm nay, Huế là thành phố duy nhất vẫn còn giữ nguyên những vẻ đẹp văn hóa truyền thống từ ngàn năm xưa của quê hương đất Việt. Không biết đã có biết bao nhiêu bài hát đã được viết về Huế và bao nhiêu bài thơ ca ngợi vẻ đẹp nơi này. Huế đóng một vai trò không thể thiếu trong làng thơ ca Việt Nam và ngoài ra còn được biết đến bởi nơi đây là quê hương của những người con đất Việt lừng danh như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Du, Nguyễn Tri Phương, Bà Huyện Thanh Quan ...
Ai đã nhiều lần ghé thăm Việt Nam, chắc hẳn đã từng ghé chân qua Huế. Và chắc chắn khi đọc đến đây họ sẽ mỉm cười và gật đầu tán thành với tôi rằng Huế quả là đẹp và thơ mộng lắm. Tôi vẫn thường nói với những người bạn Đức của tôi rằng: "Nếu bạn đã từng đến Việt Nam nhưng chưa bao giờ ghé thăm Hà Nội thì bạn chưa thực sự đến Việt Nam. Nhưng nếu bạn đã thực sự đến Việt Nam mà chưa một lần đặt chân tới Huế thì có nghĩa là bạn đã bỏ qua một nửa của nền văn hóa Việt Nam".
Huế chào đón và chờ đợi bước chân bạn. Hãy thử một lần ghé thăm thành phố xinh đẹp này, chắc chắn bạn cũng sẽ yêu nó như tôi. Thay cho lời kết của bài này là hai câu thơ tôi gửi dành cho Huế :
Huế yêu ơi hẹn một ngày mai nhé,
Ta sẽ về thăm lại cố đô xưa.
36. Sông Hương – Cầu Tràng Tiền – Núi Ngự Bình.
Sông Hương hay Hương Giang là con sông chảy qua thành phố Huế ở tỉnh Thừa Thiên Huế, miền trung, Việt Nam. Sông Hương có hai nguồn chính và đều bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn. Dòng Tả Trạch chảy từ dãy Trường Sơn Đông về phía tây bắc với 55 thác nước hùng vĩ, sau đó chảy chậm qua ngã ba sông Bằng Lãng. Hữu Trạch ngắn hơn và là nhánh phụ, chảy qua 14 thác nguy hiểm và vượt qua phà Tuần để tới ngã ba Bằng Lãng nơi dòng này gặp nhau và tạo nên sông Hương.
Từ Bằng Lãng đến cửa sông Thuận An, sông Hương dài 30km và chảy rất chậm (bởi vì mực nước sông không cao hơn mấy so với mực nước biển). Khi chảy quanh dọc chân núi Ngọc Trân, sắc nước sông Hương xanh hơn hơn – đây là địa điểm Chùa Ngọc – vì tại đây có một vực rất sâu.
Sông Hương rất đẹp khi chiêm ngưỡng nó từ nguồn và khi nó chảy quanh các chân núi, xuyên qua các cánh rừng rậm và mang theo hương thơm của hệ thực vật nhiệt đới. Con sông chảy chậm qua những làng mạc xanh tươi và râm mát như Kim Long, Nguyệt Biều, Vỹ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh và hoà lẫn vào với hương thơm của hoa cỏ Huế... Con sông với sắc xanh lung linh, trong trẻo như một viên ngọc dưới ánh mặt trời. Nó từng là nguồn cảm xúc của bao thế hệ du khách khi họ đi thuyền dọc theo sông Hương để nhìn ngắm phong cảnh nên thơ và lắng nghe những điệu ca Huế truyền thống trong đêm tĩnh mịch.
Các công trình kiến trúc hai bên bờ sông gồm thành quách, thị tứ, vườn tược, chùa chiền, tháp và đền đài... ánh phản chiếu của chúng trên dòng nước khiến con sông thậm chí còn mang thêm nhiều chất thơ và tính nhạc. Nhiều người luôn gắn liền sự thanh bình, thanh lịch và cảnh vật lặng lẽ của Huế với dòng Sông Hương.
Cầu Tràng Tiền: Vắt qua Sông Hương có hàng chục chiếc cầu, nhưng chỉ có một cây cầu trở thành một trong những biểu tượng của Huế là cầu Tràng Tiền. Theo sách "Đại Nam Nhất Thống Chí" do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn: "cầu sắt Trường Tiền ở Đông Nam Kinh Thành... khởi làm năm Thành Thái thứ 9 (1897) cầu có 6 gian (6 nhịp), dài khoảng 400 m (1,200 ft), đến năm 1899 mới xong"". Đến tháng 8 năm 1904, một cơn bão dữ dội tràn vào miền Trung Việt Nam, cầu bị sập 4 nhịp, chỉ còn 2 nhịp. Năm 1906 cầu được sữa chữa lại. Cầu Tràng Tiền hôm nay đã được tu bổ nhiều lần qua thời gian. Ngay bên tả đầu cầu xưa là chợ nhỏ của bến đò Trường Tiền có tên chợ Đông Ba. Nay chợ Đông Ba là một trung tâm thương mại của thành phố.
Núi Ngự Bình cao 105 mét có hình dáng cân xứng và ấn tượng. Ở hai bên Bằng Sơn là hai ngọn núi nhỏ tên là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn. Sau khi quan sát thấy Bằng Sơn trông giống như một tấm bình phong, nhà Nguyễn đã quyết định chọn Huế làm nơi xây dựng “Tử Cấm Thành”. Vua Gia Long đã đồng ý với những thầy địa lý chọn ngọn núi đó làm án thờ phía trước của của hệ thống tường bao chắc chắn có chức năng bảo vệ thành, và đổi tên nó là Ngự Bình.
Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình là một món quà vô giá thứ hai thiên nhiên dành cho Huế. Sông núi bổ sung cho nhau tạo nên một cảnh quan sông núi tuyệt đẹp cho Huế. Từ lâu, núi Ngự và sông Hương đã được coi là những biểu tượng của Huế, và mọi người cũng thường gọi Huế là “Vùng đất của sông Hương và núi Ngự”.
37. Kinh Thành Huế.
Nằm giữa dải đất miền Trung khí hậu khô cằn, hè nắng dội, đông mưa dầm, là một vùng non xanh nước biếc, phong cảnh kỳ tú trải dọc theo bờ con sông Hương xuôi ra biển Đông. Huế từ thời các chúa Nguyễn đã từng được chọn làm thủ phủ xứ Đàng Trong: Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần dựng phủ ở Kim Long năm 1635-1687; Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Khoát dời phủ về Phú Xuân trong những năm 1687-1712; 1739-1774. Huế còn là kinh đô triều vua Quang Trung Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn, rồi một lần nữa chính thức trở thành kinh đô của cả nước Việt Nam khi Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, mở đầu cho vương triều Nguyễn kéo dài suốt 143 năm. Với bề dày lịch sử gắn liền với chín đời cha ông nhà Nguyễn ở đây, không có gì khó hiểu khi vua Gia Long chọn mảnh đất nằm ở trung độ đất nước để làm kinh đô cho triều đại mình.
Khởi công xây dựng năm 1805, Kinh Thành Huế được quy hoạch bên bờ Bắc sông Hương, xoay mặt về hướng Nam, với diện tích mặt bằng 520 ha, có 10 cửa chính gồm:
- Cửa Chính Bắc (còn gọi cửa Hậu, nằm ở mặt sau Kinh Thành).
- Cửa Tây-Bắc (còn gọi cửa An Hòa, tên làng ở đây).
- Cửa Chính Tây.
- Cửa Tây-Nam (cửa Hữu, bên phải Kinh Thành).
- Cửa Chính Nam (còn gọi cửa Nhà Đồ, do gần đó có Võ Khố - nhà để đồ binh khí, lập thời Gia Long).
- Cửa Quảng Đức .
- Cửa Thể Nhơn (tức cửa Ngăn, do trước đây có tường xây cao ngăn thành con đường dành cho vua ra bến sông).
- Cửa Đông-Nam (còn gọi cửa Thượng Tứ do có Viện Thượng Kỵ và tàu ngựa nằm phía trong cửa).
- Cửa Chính Đông (tức cửa Đông Ba, tên khu vực dân cư ở đây).
- Cửa Đông-Bắc (còn có tên cửa Kẻ Trài)
Ngoài ra Kinh Thành còn có 1 cửa thông với Trấn Bình Đài (thành phụ ở góc Đông Bắc của Kinh Thành, còn gọi là thành Mang Cá), có tên gọi là Trấn Bình Môn. Hai cửa bằng đường thủy thông Kinh Thành với bên ngoài qua hệ thống Ngự Hà là Đông Thành Thủy Quan và Tây Thành Thủy Quan.
Thành ban đầu chỉ đắp bằng đất, mãi đến cuối đời Gia Long mới bắt đầu xây gạch. Kinh Thành Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc kiến trúc truyền thống Việt Nam, tư tưởng triết lý phương Đông với thuyết âm dương ngũ hành của Dịch học Trung Hoa cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng kiến trúc quân sự phương Tây kiểu Vauban (tên một kiến trúc sư người Pháp cuối thế kỷ XVII) .
Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình xây dựng Kinh Thành Huế có lẽ là công trình đồ sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, với một khối lượng công việc khổng lồ đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đắp thành... kéo dài từ thời điểm tiến hành khảo sát năm 1803 (triều vua Gia Long) đến khi hoàn chỉnh vào năm 1832 (triều vua Minh Mạng).
Với mục đích phòng thủ là chính, mặt bằng của thành có dạng hình vuông hơi khum ở phía trước theo địa hình dải đất dọc bờ sông Hương, mỗi mặt có các cổng thành, trên có vọng lâu dùng để quan sát. Các mặt thành lại được xây khúc khuỷu với những pháo đài được bố trí cách đều nhau, kèm theo các pháo nhãn, đại bác, kho đạn... Thêm vào đó, hệ thống hào bao bọc ngay bên ngoài được đào gần 10km chiều dài. Riêng hệ thống sông đào (Hộ Thành Hà) vừa mang chức năng bảo vệ vừa có chức năng giao thông đường thủy có chiều dài hơn 7 km (đoạn ở phía Tây là sông Kẻ Vạn, đoạn phía Bắc là sông An Hòa, đoạn phía Đông là sông Đông Ba, riêng đoạn phía Nam dựa vào sông Hương).
Dưới con mắt của các nhà địa lý phong thủy, Kinh Thành Huế nằm trên vùng ‘Vương đảo”, trong phạm vi được tạo ra bởi dòng chảy của sông Hương phía trước mặt và hai chi lưu gồm sông Bạch Yến, Kim Long chảy vòng mặt sau cùng hợp lại ở hạ lưu. Sông Hương đóng vai trò minh đường, cùng hai hòn đảo nhỏ Cồn Hến và cồn Dã Viên có vị thế Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ (rồng xanh bên trái, hổ trắng bên phải) chầu về trước Kinh Thành. Bên kia sông, không xa lắm là ngọn Bằng Sơn được đổi tên thành Ngự Bình, che chắn mặt trước Kinh Thành như một bức bình phong thiên nhiên, giữ chức năng tiền án. Kinh Thành và mọi công trình kiến trúc của Hoàng Thành, Tử Cấm Thành đều xoay về hướng Nam, hướng mà trong Kinh Dịch đã ghi “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ“ (ý nói vua quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ). Dựa trên các nguyên tắc của thuật phong thủy, các vua nhà Nguyễn đã kết hợp các yếu tố có sẵn trong địa hình tự nhiên như sông, núi, đảo... cùng sự can thiệp đúng chỗ của bàn tay con người khi lấp một số đoạn của sông Bạch Yến, Kim Long, đồng thời đào một loạt hệ thống sông, hào ở trong và ngoài Kinh Thành để phục vụ cho ý tưởng của mình. Tất cả những cố gắng trên không nằm ngoài ý nguyện định đô lâu dài của vương triều Nguyễn. Thật khó nhận ra sự sắp xếp gò ép trong một tổng thể hài hòa kiến trúc- thiên nhiên như thế. Không gây ấn tượng trấn áp tinh thần, cũng không có vẻ hoang sơ dã thảo, Kinh Thành Huế khiến cho người ta cảm nhận được đúng mức không khí tôn nghiêm nhưng không mất đi cảm giác êm đềm thư thái giữa thiên nhiên gần gũi. Bên cạnh đó, phong cách kiến trúc và cách bố phòng khiến Kinh Thành Huế thực sự như một pháo đài vĩ đại và kiên cố nhất từ trước đến nay ở Việt Nam mà Le Rey, một thuyền trưởng người Pháp đã từng đến Huế năm 1819 phải thốt lên: “Kinh Thành Huế thực sự là pháo đài đẹp nhất, đăng đối nhất ở Đông Dương, thậm chí so với cả pháo đài William ở Calcutta và Saint Georges ở Madras do người Anh xây dựng”.
38. Bảo tàng cổ vật.
Bảo tàng cổ vật hiện ở tại số 3 Lê Trực với một khuôn viên rộng gần 6.500m2. Toà nhà chính để trưng bày các cổ vật tiêu biểu có diện tích gần 1200m2 . Toà nhà này nguyên là điện Long An được kiến trúc vào năm 1845 dưới thời vua Thiệu Trị. Bản thân toà nhà này là một công trình bằng gỗ tuyệt mỹ, có tới 128 cây cột gỗ quý. Trên toàn bộ các bộ phận bằng gỗ của toà nhà chạm trổ hàng trăm bức tranh cổ điển, các con vật thiêng liêng: rồng, lân, rùa, phụng... và trên 1000 bài thơ bằng chữ Hán. Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá đây là một trong những cung điện đẹp nhất ở Việt Nam.
Trong cung điện này, hiện trưng bày khoảng 300 hiện vật cổ quý hiếm bằng vàng, bạc, ngọc, sành, sứ, gỗ...Tại đây, bạn có thể trông thấy bàn, ghế, kiệu, giường, tủ của nhà vua; giày, hia, y phục của vua, hoàng hậu, công chúa, hoàng tử...Tất cả những cổ vật được trưng bày tại bảo tàng là những tác phẩm nghệ thuật có giá trị được các nghệ nhân thực hiện một cách công phu và tài tình.
39. Chùa Thiên Mụ.
Chùa Thiên Mụ được chúa Nguyễn Hoàng cho xây dựng vào năm 1601 gắn với truyền thuyết về một bà tiên áo đỏ. Đây là một trong những kiến trúc tôn giáo cổ và đẹp nhất Huế. Ngôi chùa nằm trên đồi Hà Khê cách trung tâm Tp. Huế khoảng 7km về phía tây.
Trong khuôn viên chùa còn có nhiều công trình và di vật được đánh giá cao như tháp Phước Duyên hình bát giác có 7 tầng cao 21m; chuông Đại Hồng Chung cao 2,5m, đường kính 1,4m, nặng 2.052kg; điện Đại Hùng là ngôi điện chính có kiến trúc đồ sộ, hiện vẫn còn bức hoành phi bằng gỗ sơn son thiếp vàng do chính tay Nguyễn Phúc Chu viết năm 1741.
Là một trong quần thể di tích Cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới ngày 11-12-1993. Di tích cấp quốc gia Quyết định số 1964QÐ/VHTT ngày 27-8-1996
40. Điện Hòa Chén.
Điện Hòn Chén nguyên là ngôi đền thờ nữ thần Po Nagar (Nữ Thần Mẹ xứ sở) của người Chăm. Theo truyền thuyết dân gian Chăm, nữ thần Po Nagar là con của Ngọc hoàng Thượng đế được sai xuống trần gian, bà có công lao tạo ra trái đất và các loại gỗ trầm, lúa gạo. Hương mộc và kỳ nam là thứ gỗ tượng trưng cho sự linh hiển của Nữ thần. Bà còn làm tỏa hương gạo ngọt ngào, cổ vũ dân trồng cây bồ đề.
Tiếp nhận từ người Chăm một di tích tôn giáo độc đáo như điện Hòn Chén, người Việt dễ dàng dung hợp được cả một tín ngưỡng thần linh mang sắc thái riêng của người Chăm. Có lẽ vị Nữ thần của dân tộc Chăm xét trên bình diện tâm linh có nét tương đồng với các Nữ thần của người Việt. Để ký âm cho danh từ Po Nagar bằng Hán văn, các Nho sĩ ngày xưa đã phải tạo ra một âm hưởng hao hao và mang một ý nghĩa tương đương nhất định bằng bốn chữ Hán: Thiên Y A Na.
Trong quần thể di tích cố đô Huế, có lẽ điện Hòn Chén gắn với nhiều giai thoại nhất. Dân gian còn lưu truyền rằng điện Hòn Chén xưa có tên là Hoàn Chén với ý nghĩa “trả lại chén ngọc”, vì vua Minh Mạng trong một lần lên đây đã đánh rơi một chén ngọc xuống dòng Hương, tưởng không cách gì lấy lại được thì bỗng nhiên một con rùa to bằng chiếc chiếu nổi lên ngậm chén ngọc trả lại cho nhà vua! Song, trong các văn bằng sắc phong chính thức của các vua Nguyễn, thì ngôi điện vẫn xuất hiện với tên chính thức “Ngọc Trản Sơn Từ” (đền thờ ở núi Ngọc Trản). Đến thời Đồng Khánh (1886-1888), ngôi điện mới được đổi tên là Huệ Nam Điện (ý là mang lại ân huệ cho vua nước Nam) và cũng gắn với nhiều giai thoại khác nữa.
Điện Hòn Chén là một cụm di tích gồm khoảng 10 công trình kiến trúc to nhỏ khác nhau đều nằm lưng chừng sườn núi Ngọc Trản, hướng mặt ra sông Hương, ẩn mình dưới những tàng cây cao bóng cả. Mặt bằng của toàn bộ cụm di tích này không lớn lắm, công trình kiến trúc chính là Minh Kính Đài tọa lạc ở giữa; bên phải là nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện, Chùa Thánh; bên trái là dinh Ngũ Hành, bàn thờ các quan, động thờ ông Hổ, am Ngoại Cảnh. Sát mép bờ sông còn có am Thủy Phủ. Ngoài ra, trong phạm vi ấy còn có nhiều bệ thờ, nhiều am nhỏ nằm rải rác đó đây.
Minh Kính Đài chính là nơi tổ chức tế lễ ở điện Hòn Chén, ngày xưa được triều đình quy định mỗi năm tổ chức hai lần vào thượng tuần tháng 3 và tháng 7 Âm lịch, có cả quan chức được cử về làm chủ tế. Minh Kính Đài chia làm 3 cung, theo thứ tự từ cao xuống thấp là: Đệ nhất cung (còn gọi là Thượng cung), nơi thờ Nữ thần Thiên Y A Na, Thánh mẫu Vân Hương, ảnh vua Đồng Khánh và một số vị thần khác; Đệ nhị cung thờ hàng chục tượng thần thánh khác nhau, là nơi bày biện các đồ thờ cúng để rước sắc trong những dịp lễ lớn; Đệ tam cung thiết hương án, hai bên đặt trống, chuông, là chỗ cử hành lễ, cũng là nơi khách thập phương dâng hương cúng bái.
Minh Kính Đài là một công trình kiến trúc tiêu biểu lấy hình ảnh con phụng để trang trí. Trên các nóc nhà, hình phụng được thể hiện bằng nghệ thuật khảm sành sứ tinh xảo, khiến du khách có cảm tưởng những con chim phụng như từ núi rừng tụ hội về đây, báo hiệu những điềm lành cho mảnh đất thiêng liêng này.
Có lẽ không sai khi có người cho rằng, điện Hòn Chén là ngôi điện duy nhất có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân xứ Huế và đó cũng là ngôi điện duy nhất ở Huế có sự kết hợp giữa nghi thức cung đình và tín ngưỡng dân gian; giữa lễ hội và đồng bóng; giữa văn hóa tâm linh và mê tín dị đoan. Đây cũng là nơi trang trí mỹ thuật đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ 19.
Điện Hòn Chén không chỉ là một di tích lịch sử và tôn giáo mà còn là một thắng cảnh, một điểm tham quan văn hóa độc đáo thu hút hàng ngàn khách tham quan, nhất là vào dịp lễ hội tháng 3 và tháng 7 Âm lịch hàng năm
41. Lăng Tự Đức.
Lăng Tự Đức là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc thời Nguyễn. Ông vua thi sĩ Tự Đức (1848-1883) đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, phù hợp với sở thích và nguyện vọng của con người có học vấn uyên thâm và lãng tử bậc nhất trong hàng vua chúa nhà Nguyễn. Lăng tọa lạc trong một thung lũng hẹp thuộc làng Dương Xuân Thượng, tổng Cư Chánh (nay là thôn Thượng Ba, xã Thủy Xuân, thành phố Huế).
Với 36 năm trị vì, Tự Đức là ông vua tại vị lâu nhất trong số 13 vua nhà Nguyễn. Ông tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, con trai thứ hai của vua Thiệu Trị. Theo luật thế tập của chế độ phong kiến, lẽ ra anh trai ông là Hồng Bảo mới là người nối ngôi. Nhưng do tài năng thấp kém, tính khí ngông nghênh nên Hồng Bảo bị vua cha phế truất khỏi ngôi Tiềm để, Hồng Nhậm được đưa lên ngai vàng trở thành vua Tự Đức - một vị vua, một nhà thơ hiền lành, thương dân, yêu nước nhưng thể chất yếu đuối, tính cách có phần bạc nhược và bi quan.
Làm vua trong bối cảnh xã hội khó khăn, bên ngoài giặc ngoại xâm tấn công, bên trong huynh đệ lục đục giành nhau ngôi báu, bản thân nhà vua lại đau ốm, bệnh hoạn nên không có con. Tự Đức quả là một số phận của những bi kịch éo le. Để trốn tránh cuộc đời khắc nghiệt đó, Tự Đức cho xây dựng khu lăng tẩm này như một hành cung thứ hai để tiêu sầu và phòng lúc “ra đi bất chợt”, bởi như vua từng nói: “người khỏe còn lo chuyện bất thường huống chi kẻ yếu!” (Khiêm Cung Ký) .
Khi mới khởi công xây dựng, vua Tự Đức lấy tên Vạn Niên Cơ đặt cho công trình. Nhưng sau khởi nghĩa Chày Vôi do anh em Đoàn Hữu Trưng khởi xướng, vua cho đổi tên thành Khiêm Cung, sau khi vua mất gọi là Khiêm Lăng.
Bố cục khu lăng gồm 2 phần chính, bố trí trên 2 trục dọc song song với nhau, cùng lấy núi Giáng Khiêm ở phía trước làm tiền án, núi Dương Xuân làm hậu chẩm, hồ Lưu Khiêm làm yếu tố minh đường.
Toàn cảnh lăng Tự Đức như một công viên rộng lớn. Ở đó quanh năm có suối chảy, thông reo, muôn chim ca hát. Yếu tố được tôn trọng triệt để trong lăng Tự Đức là sự hài hòa của đường nét. Không có những con đường thẳng tắp, đầy góc cạnh như các kiến trúc khác, thay vào đó là con đường lát gạch Bát Tràng bắt đầu từ cửa Vụ Khiêm đi qua trước Khiêm Cung Môn rồi uốn lượn quanh co ở phía trước lăng mộ và đột ngột khuất vào những hàng cây sứ đại thụ ở gần lăng Hoàng hậu Lệ Thiên Anh. Sự sáng tạo của con người hài hòa với cảnh quan tự nhiên tạo nên một khung cảnh thơ mộng, diễm lệ. Trong cái quyến rũ của mây nước, hương hoa đó, người ta như quên đi rằng đó là lăng tẩm của một người quá cố mà ngỡ là thiên đường của cỏ cây, của thi ca và mộng tưởng...
Gần 50 công trình trong lăng ở cả hai khu vực tẩm điện và lăng mộ đều có chữ Khiêm trong tên gọi. Qua khỏi cửa Vụ Khiêm và miếu thờ Sơn Thần, du khách đi trên con đường chính dẫn vào khu vực điện thờ, nơi trước đây là chỗ nghỉ ngơi, giải trí của vua. Thoạt tiên là Chí Khiêm Đường ở phía trái, nơi thờ các bà vợ vua. Tiếp đến là 3 dãy tam cấp bằng đá Thanh dẫn vào Khiêm Cung Môn - một công trình hai tầng dạng vọng lâu như một thế đối đầu tiên với hồ Lưu Khiêm ở đằng trước. Hồ Lưu Khiêm nguyên là một con suối nhỏ chảy trong khu vực lăng, được đào rộng thành hồ. Đó là yếu tố “minh đường” để “tụ thủy”, “tích phúc”, đồng thời là nơi để thả hoa sen tạo cảnh. Giữa hồ có đảo Tịnh Khiêm với những mảnh đất trồng hoa và những hang nhỏ để nuôi thú hiếm. Trên hồ Lưu Khiêm có Xung Khiêm Tạ và Dũ Khiêm Tạ, nơi nhà vua đến ngắm hoa, làm thơ, đọc sách... Ba cây cầu Tuần Khiêm, Tiễn Khiêm và Do Khiêm bắt qua hồ dẫn người ta đến đồi thông bạt ngàn và đảo xanh ngát hương cỏ hoa, như đưa họ sang thế giới thần tiên, mộng ảo ngay giữa chốn đời thường.
42. Lăng Đồng Khánh.
Lăng Đồng Khánh được xây dựng trên vùng đất thuộc làng Cư Sĩ, nay là thôn Thượng Hai, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Được xây dựng trong 4 đời vua (1888-1923) nên vừa mang lối kiến trúc xưa vừa chịu ảnh hưởng của kiến trúc Tây Âu.
Vua Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Thị, còn có tên là Đường và Biện. Ông là con trưởng của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Bùi Thị Thanh, sinh ngày 12 tháng Giêng năm Giáp Tý (19-2-1864). Năm 1865 lúc được 2 tuổi, Ưng Thị được vua Tự Đức nhận làm con nuôi và giao cho bà Thiện Phi Nguyễn Thị Cẩm chăm sóc, dạy bảo.
Sau binh biến năm 1885, vua Hàm Nghi bỏ ngai vàng ra Tân Sở, triều đình Huế thương lượng với Pháp đưa Ưng Đường lên ngôi, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
Ở ngôi được 3 năm, vua Đồng Khánh bệnh và mất vào ngày 27 tháng 12 năm Mậu Tí (28-1-1889) lúc được 25 tuổi.
Sau khi mất, bài vị vua Đồng Khánh được đưa vào thờ trong Thế Miếu và có Miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng đế. Vua Đồng Khánh có 10 người con (6 trai, 4 gái).
43. Lăng Gia Long.
Tên gọi lăng Gia Long hiện nay thực ra là để chỉ cả một quần thể lăng tẩm của nhiều người trong hàng quyến thuộc của nhà vua, với trọng địa là khu lăng mộ của vua Gia Long và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Quá trình xây dựng lăng diễn ra trong 6 năm (1814-1820), bắt đầu từ thời điểm bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu (chính phi của vua Gia Long) qua đời vào ngày 21-2-1814. Nhà vua đã sai các quan trong Khâm Thiên Giám đi chọn đất để mai táng vợ mình.
Về sau phát triển thành một khu lăng mộ rộng lớn với chu vi đến 11.234,40m (tài liệu của L. Cadière), gồm những lăng sau:
- Lăng Quang Hưng của bà Thái Tông Hiếu Triết Hoàng hậu, vợ thứ hai của chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1620-1687), thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Thái (Trăn).
- Lăng Vĩnh Mậu của bà Anh Tông Hiếu Nghĩa Hoàng hậu, vợ chúa Nghĩa Vương Nguyễn Phúc Thái (Trăn) (1650-1725).
- Lăng Trường Phong của Túc Tông Hiếu Ninh Hoàng đế Nguyễn Phúc Thụ (Chú) (1697-1738).
- Lăng Thoại Thánh của bà Hưng Tổ Hiếu Khương Hoàng hậu (1738-1811), vợ thứ hai của Nguyễn Phúc Côn (Luân) và là thân mẫu của vua Gia Long.
- Lăng Hoàng Cô của Thái Trưởng Công chúa Long Thành, chị ruột vua Gia Long.
- Lăng Thiên Thọ của vua Gia Long và vợ ông.
- Lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, vợ thứ hai của vua Gia Long, mẹ vua Minh Mạng.
Toàn bộ khu lăng này là một quần sơn với 42 đồi núi lớn nhỏ có tên gọi riêng, trong đó Đại Thiên Thọ là ngọn lớn nhất được chọn làm tiền án của lăng và được dùng để gọi tên chung cho cả quần sơn này: Thiên Thọ Sơn. Tất cả đều được quy hoạch trong khu vực quan phòng rộng hơn 28 km2, tạo thành một cảnh quan hùng tráng chạy dài từ chân dãy Trường Sơn đến bờ Tả Trạch - một hợp lưu của Hương Giang. Đích thân vua Gia Long đã thám sát, duyệt định vị trí, quy hoạch và chỉ đạo công tác thiết kế cũng như giám sát tiến độ thi công. Sử cũ cho hay, thầy Địa lý Lê Duy Thanh (con trai nhà bác học Lê Quý Đôn) là người tìm được thế đất này, nơi mà theo ông “đã tập trung được mọi ảnh hưởng tốt lành tỏa ra từ nhiều núi đồi bao quanh”
Lăng tẩm nhà vua nằm trên một quả đồi bằng phẳng rộng lớn. Trước có ngọn Đại Thiên Thọ án ngữ, sau có 7 ngọn núi làm hậu chẩm. Bên trái và bên phải, mỗi bên có 14 ngọn núi là “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ”. Tổng thể lăng chia làm 3 khu vực:
Phần chính giữa là khu lăng mộ của vua và bà Thừa Thiên Cao Hoàng hậu. Qua khỏi sân chầu với các hàng tượng đá uy nghiêm và 7 cấp sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi. Bên trong Bửu Thành có hai ngôi mộ đá, dạng thạch thất, được song táng theo quan niệm “Càn Khôn hiệp đức” - một hình ảnh đẹp của hạnh phúc và thủy chung.
Bên phải khu lăng là khu vực tẩm điện với điện Minh Thành là trung tâm. Điện Minh Thành được dùng để thờ Hoàng đế và Hoàng hậu thứ nhất. Minh Thành nghĩa là “sự hoàn thiện rực rỡ”. Cũng có một cách giải thích khác là “hoàn thành vào ngày mai”, bởi người ta cho rằng: “Sườn của điện này chưa có sơn son thếp vàng và chạm khắc còn đơn giản”. Bên trong điện Minh Thành, ngày trước có thờ nhiều kỷ vật gắn bó với cuộc đời chinh chiến của vua Gia Long như cân đai, mũ, yên ngựa.
Bên trái khu lăng là Bi Đình, nay chỉ còn một tấm bia lớn ghi bài văn bia “Thánh đức thần công” của vua Minh Mạng ca ngợi vua cha, được chạm khắc tinh tế và sắc sảo.
Men theo các lối đi giữa những đám cỏ và hoa rừng, du khách thả bước dưới bóng thông tươi mát để sang thăm các lăng phụ cận. Đáng lưu ý nhất là lăng Thiên Thọ Hữu của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu, nằm trong một vị thế u tịch mà sâu lắng. Điện Gia Thành ở đó cũng là một công trình kiến trúc được xây dựng theo mô thức của điện Minh Thành, dùng để thờ người phụ nữ đã sinh ra vị vua có tài nhất của triều Nguyễn - vua Minh Mạng.
Đến thăm lăng Gia Long, du khách có thể đi thuyền theo sông Hương khoảng 18km rồi cập bến lăng; hay đi đường bộ chừng 16km rồi qua bến đò Kim Ngọc, đi thêm vài cây số đường rừng thì bắt gặp hai Trụ biểu uy nghi nằm ngoài cùng. Trước đây, đó là những cột báo hiệu, nhắc nhở mọi người phải kính cẩn khi đi qua khu vực này và có đến 85 cột như vậy trong quần thể lăng Gia Long. Năm 1859 còn 42 cột và hiện nay du khách chỉ trông thấy 2 cột. Mới hay, thời gian và sự thờ ơ của con người có sức tàn phá kinh khủng. Ngày nay, chỉ còn rừng thông xanh làm đương biên cho khu lăng, bởi quanh lăng không có La thành.
Theo gợi ý của L. Cadière từ hơn 60 năm trước đây, du khách nên viếng lăng Gia Long vào buổi chiều. Đó là thời khắc có thể ngắm cảnh hoàng hôn đang đến từ phía bên kia các hồ nước. Lấp lánh trong nắng vàng là những bóng thông xào xạc, vi vu đang soi bóng xuống mặt hồ gợn sóng. Chính lúc ấy, du khách mới cảm nhận hết vẻ đẹp hùng tráng và kỳ vĩ của khu lăng này. Phong cảnh xinh tươi hòa với nét uy nghi của đồi núi xa xa. Sự khắc khổ tĩnh lặng của cái chết hòa với sự sinh động, nét tuyệt mỹ của thiên nhiên chung quanh. Vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn yên nghỉ trong sự tĩnh lặng tuyệt vời của vũ trụ.
Lăng Gia Long là một bức tranh trác tuyệt về sự phối trí giữa thiên nhiên và kiến trúc, trong đó, thiên nhiên là yếu tố chính tạo nên nét hùng vĩ của cảnh quan. Đến thăm lăng, du khách được thả mình trong một không gian tĩnh lặng nhưng đầy chất thơ để suy ngẫm về những thành bại của cuộc đời mình cũng như vinh nhục của ông vua đầu triều Nguyễn
44. Lăng Minh Mạng.
Lăng Minh Mạng khởi công xây dựng vào năm 1804, sau hàng chục năm lựa chọn đất tốt. Năm 1843 gần 3 năm sau khi Minh Mạng qua đời Lăng mới được xây dựng mang tên Hiếu lăng , cách kinh thành 12km (vùng đồi cẩm kê, nhìn ra ngã 3 bằng lăng) chiếm một diện tích 26ha, với trên 30 công trình kiến trúc lớn nhỏ. Lăng chia làm hai khu vực, nơi thờ và nơi đặt mộ, nằm trên một trục dọc xuyên suốt cả khu vực. Những công trình chủ yếu đều được xây dựng trên trục chính này; công trình khác làm đăng đối ở hai bên, theo một trật tự nghiêm ngặt. Cả khu lăng tẩm được điểm xuyết bằng nhiều hồ sen, cầu, cổng, đình tạ, vườn hoa cây cảnh, thông. .., rất ngoạn mục.
Vây bọc quanh Lăng là thành hình bầu dục, chu vi gần 1800m; tường thành cao trên 3m, dày gần 1m. Phía trước có ba cổng lớn. Cổng chính giữa là Đại Hồng Môn, hai bên là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Sau Đại Hồng Môn là sân chầu rộng thênh thang; hai bên sân có tượng đá văn quan võ tướng và voi ngựa chầu hầu. Tiếp đó là nhà bia - một tòa nhà vuông vức dựng trên nền cao ba tầng. Phía trước phía sau đều có bậc đá để lên xuống, thành bậc tạc rồng. Trong nhà bia đặt tấm bia thánh đức thần công cao trên 3m, rộng gần 2m, khắc bài văn bia do vua Thiệu Trị soạn thảo. Sau nhà bia là sân tế, chia làm 4 cấp cao dần.
Cuối sân tế là Hiển Đức Môn, cổng vào khu thờ được xây kín bằng một vòng tường thành (nội la thành) hình chữ nhật. Sau Hiển Đức Môn là một sân rộng lát gạch Bát Tràng. Cuối sân là điện Sùng Ân - điện thờ chính dựng theo kiểu "Trùng thiền diệp ốc". Hai bên sân là Đông Phối điện và Tây Phối điện. Sau điện Sùng Ân lại có một sân nữa, hai bên sân là Tả Tùng viện và Hữu Tùng viện: Phía sau khu điện thờ, qua cửa Hoàng Trạch là lối đi dẫn tới cầu Trung Đạo bắc ngang qua Hồ Trường Minh, hai bên song song với cầu Trung Đạo là cầu Tả Phụ và cầu Hữu Bột. Qua cầu Trung Đạo, cách một sân hẹp là tới Minh Lâu - tòa nhà vuông hai tầng tám mái lợp ngói lưu ly dựng trên nên cao, khá nguy nga đồ sộ.
Qua Minh Lâu đi tiếp theo Đường Thần Đạo, hai bên có vườn hoa, già sơn và hai bên cột trụ biển cao tới 21m sẽ tới cầu "Thông Minh Chính Trực" bắc ngang qua hồ Tân Nguyệt. Hai đầu cầu có dựng "bái môn", trụ đông, xa dòng, trang trí bằng các tấm men pháp lam các màu. Qua cầu là một sân hẹp, tiếp đó là hệ thống bậc đá dẫn tới bửu thanh hình tròn (viên thành), trong đặt mộ Vua.
Lăng Minh Mạng với hệ thống điện thờ, lầu gác trùng trùng lớp lớp đăng đối chỉnh tề như trên đã tạo ra một cảnh thế Đường bệ uy nghiêm, phản ánh được phần nào tư tưởng và cá tính của ông vua nổi tiếng chuyên chế này.
45. Lăng Khải Định.
Lăng Khải Định đây là Lăng cuối cùng của dòng vua nhà Nguyễn. Được khởi xây từ năm 1920, đến năm 1931 mới hoàn chỉnh. Lăng Khải Định cách cố Đô Huế 10km, nằm trên núi Châu Ê, gọn trong 1 khuôn viên hình chữ nhật dài 117m, rộng 49m. Vật liệu chính để xây Lăng là sắt thép và bê tông. Trong khuôn viên của Lăng có rất ít cây cối nhưng đứng từ trên sân khấu trước nhà bia hay đứng từ trên Điện Khải Thành nhìn ra, phong cảnh xa xa xung quanh Lăng cũng không kém phần hùng vĩ. Trước mặt Lăng có khe Châu Ê chảy vòng từ trái sang phải, ở phía chân trời có núi Chóp Vung và núi Kim Sơn chầu vào trước Lăng trong vị thế "tả long hữu hổ".
Điện Khải Thành và cung Thiên Định cùng với cửa tam quan sân chầu, nhà bia, trụ biểu, nhà phụng trực, nhà quan cư đều là những công trình kiến trúc nửa Âu nửa Á. Trên đỉnh cung Thiên Định có gắn cột thu lôi, bên trong cung có tượng của Khải Định bằng đồng mạ vàng. Trong Lăng có bắc một hệ thống đèn điện, các tầng sân đều lát gạch hoa.
Cái làm nên giá trị của Lăng Khải Định không phải ở nghệ thuật trang trí nội thất. Điện Khải Thành và cung Thiên Định được điểm tô lộng lẫy và hài hòa bằng những công trình mỹ thuật kết hợp chặt chẽ trang trí với điêu khắc và hội họa. Đó là những tác phẩm khảm mảnh sành sứ và mảnh chai nhiều màu sắc thể hiện nhiều đề tài truyền thống như các kiểu hoa văn, chữ triện, các loài cây cỏ, hoa lá chim thú...Những tác phẩm khảm sành sứ này là những bức phù điêu rất tinh xảo, màu sắc tươi tắn, trang nhã, hài hòa và sinh động. Nghệ thuật trang trí nội thất của Lăng Khải Định đã đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của nghệ thuật trang trí Việt Nam trong việc kết hợp kỹ thuật ghép ảnh với kỹ thuật khắc chạm nổi và sử dụng chất liệu độc đáo là mảnh sành, mảnh sứ, mảnh chai nhiều để thể hiện các đề tài trang trí truyền thống một cách thoải mái, tự nhiên đầy chất thơ. Đây là bằng chứng về thiên tài của những nghệ nhân trang trí nội thất truyền thống ở Huế đầu thế kỷ XX.
46. Lăng Thiệu Trị.
Lăng Thiệu Trị có tên chữ là Xương Lăng, nằm ở địa phận làng Cư Chánh, xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy. So với lăng tẩm các vua tiền nhiệm và kế vị, lăng Thiệu Trị có những nét riêng độc đáo. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây-Bắc, một hướng ít được dùng trong kiến trúc cung điện và lăng tẩm thời Nguyễn. Cách lăng 8 km về phía trước, ngọn núi Chằm sừng sững được chọn làm tiền án. Dòng sông Hương chảy qua trước mặt làm yếu tố minh đường. Ngay cách chọn “Tả thanh long” và “Hữu bạch hổ” cũng có những nét khác thường: đồi Vọng Cảnh ở bên này sông được chọn làm “rồng chầu”, nhưng “hổ phục” lại là ngọn Ngọc Trản ở bên kia sông. Đằng sau, núi Kim Ngọc xa mờ trong mây được chọn làm hậu chẩm; đồng thời, những người kiến trúc lăng còn đắp thêm một mô đất cao lớn ở ngay sau lăng để làm hậu chẩm thứ hai. Một nét riêng khác là lăng không có La thành bao quanh. Nếu ở lăng Gia Long, La thành bằng gạch được thay thế bởi vô số núi đồi bao quanh như một vành đai tự nhiên, hùng tráng bảo vệ giấc ngủ cho vị tiên đế triều Nguyễn thì ở lăng Thiệu Trị, những cánh đồng lúa mượt mà, những vườn cây xanh rờn ở chung quanh được xem là La thành. Chính vòng La thành thiên nhiên đó tạo cho cảnh quan lăng Thiệu Trị sự thanh thoát và yên bình. Ông vua vốn được tiếng là thương dân đã yên nghỉ giữa ruộng vườn tươi tốt như cuộc đời bình dị của ông, không trăn trở nghĩ suy, không cầu kỳ, phức tạp mà mộc mạc thân quen vô cùng.
Thiệu Trị tên là Nguyễn Phúc Miên Tông, con trai trưởng của vua Minh Mạng. Lên ngôi giữa tuổi 34, nhà vua trị vì được 7 năm (1841-1847) thì băng hà, hưởng thọ 41 tuổi. Sinh thời, nhà vua chưa lo nghĩ đến cái chết của mình, phần nữa, không muốn binh dân hao tổn quá nhiều sức lực và của cải nên ông chưa xây cất Sơn lăng. Cho đến lúc chuẩn bị ra đi, nhà vua đã trăn trối với người con trai sắp kế vị rằng: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao, chân núi cận tiện, để dân binh dễ công việc. Con đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu Lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiệm ước, không nên làm nhiều đền đài, hao phí đến tài lực của binh dân”.
Vâng mệnh cha, vua Tự Đức đã sai các quan Địa lý đi chọn đất xây lăng. Họ tìm được cuộc đất tốt ở chân núi thấp thuộc làng Cư Chánh, cách Kinh Thành chừng 8km để xây cất lăng mộ. Ngọn núi ấy được đặt tên là núi Thuận Đạo và lăng ấy có tên là Xương Lăng.
Quá trình xây cất Xương Lăng diễn ra nhanh chóng và gấp rút, nên chỉ sau ba tháng thi công, các công trình chủ yếu đã hoàn thành. Ngày 14-6-1848, vua Tự Đức thân hành lên Xương Lăng kiểm tra lần cuối. 10 ngày sau, thi hài vua Thiệu Trị được đưa vào an táng trong lăng sau 8 tháng quàn tại điện Long An ở cung Bảo Định. Vua Tự Đức viết bài văn bia dài trên 2.500 chữ, cho khắc lên tấm bia “Thánh đức thần công”, dựng vào ngày 19-11-1848 để ca ngợi công đức của vua cha.
Tổng thể kiến trúc của lăng Thiệu Trị là sự kết hợp và chọn lọc từ mô thức kiến trúc của lăng Gia Long và lăng Minh Mạng. Xương Lăng giống với Thiên Thọ Lăng ở chỗ đều không có La thành, khu vực lăng mộ và tẩm điện biệt lập, song song với nhau. Xương Lăng lại giống Hiếu Lăng ở cách thức mai táng và xây dựng toại đạo, Bửu Thành hình tròn với hồ Ngưng Thúy hình bán nguyệt bao bọc ở phía trước. Lăng gồm hai khu vực: lăng và tẩm. Phần lăng nằm ở bên phải, phía trước có hồ Nhuận Trạch thông với hồ Điện ở trước khu tẩm qua một hệ thống cống ngầm và nối với hồ Ngưng Thúy ở trước Bửu Thành, tạo thế “chi huyền thủy” chảy quanh co trong lăng. Ngay sau hồ Nhuận Trạch là nghi môn bằng đồng đúc theo kiểu “long vân đồng trụ” dẫn vào Bái Đình rộng lớn. Hai hàng tượng đá ở hai bên tả, hữu của sân là tiêu biểu của nghệ thuật tạc tượng đầu thế kỷ XIX ở Huế. Tiếp theo Bi Đình dạng phương đình là lầu Đức Hinh ngự trên một quả đồi thấp hình mai rùa. Các nhà thiết kế lăng Thiệu Trị đã tách riêng khu vực tẩm điện trong lăng Minh Mạng rồi cải tiến, sửa đổi cho phù hợp với cảnh quan của Xương Lăng để tạo ra đồ án thiết kế lăng này. Chính vì thế mà Bi Đình và lầu Đức Hinh ở Xương Lăng mang dáng vóc của Bi Đình và Minh Lâu ở lăng Minh Mạng. Đứng trên lầu Đức Hinh, phóng tầm mắt ra phía sau sẽ thấy một cảnh quan trác tuyệt. Hồ Ngưng Thúy như vầng trăng xẻ nửa án ngữ trước Bửu Thành. Bên trên hồ có 3 chiếc cầu: Đông Hòa (phải), Chánh Trung (giữa) và Tây Định (trái), dẫn đến bậc tam cấp vào Bửu Thành - nơi đặt thi hài của nhà vua. Xa hơn về phía phải của lăng có gác Hiển Quang - nơi nghỉ ngơi, suy tưởng của nhà vua ở cả cõi âm lẫn cõi dương.
Có lẽ do yếu tố địa lý không cho phép kiến tạo Xương Lăng theo một trục dọc như Hiếu Lăng nên khu vực điện thờ được xây dựng riêng, cách lầu Đức Hinh 100m về phía trái. Ngay sau hồ Điện có một nghi môn bằng đá cẩm thạch, bên trên là những liên ba và một bầu Thái cực hình nậm rượu bằng pháp lam, trang trí hoa lá vui mắt và sinh động. Bức hoành phi nằm giữa những hoa văn trang trí với 4 chữ Hán: “Minh đức viễn hỷ” (Đức sáng cao xa vậy!) như muốn ghi mãi vào không trung tài đức của nhà vua. Bước lên tam cấp dẫn vào khu vực điện Biểu Đức, du khách sẽ đi qua Hồng Trạch Môn nhìn về phía Bắc, một dạng vọng lâu như Hiển Đức Môn (ở lăng Minh Mạng) và Khiêm Cung Môn (ở lăng Tự Đức sau này). Chính giữa là điện Biểu Đức, nơi thờ cúng bài vị của vua và Hoàng hậu Từ Dũ. Trong chính điện, trên những cổ diêm ở bộ mái và ở cửa Hồng Trạch, du khách sẽ đọc được hơn 450 ô chữ chạm khắc các bài thơ có giá trị về văn học và giáo dục. Các công trình phụ thuộc như Tả, Hữu Phối Điện (trước), Tả, Hữu Tùng Viện (sau) quây quần chung quanh điện Biểu Đức càng tôn thêm vẻ cao quý của chính điện. Bên kia hồ Điện, hòn Bàu Hồ làm bình phong cho khu vực điện thờ, lác đác những bóng thông già ngạo nghễ vươn mình lên trời xanh, bất chấp mưa nắng, gió bão, như khí phách người quân tử.
Vua Thiệu Trị nằm đó, yên giấc ngàn thu trong khung cảnh thanh bình của đồng quê và sự quây quần của quyến thuộc, mặc thế sự đổi thay, mặc con tạo xoay vần. Chếch về phía trước lăng là lăng Hiếu Đông của bà Hồ Thị Hoa (mẹ vua). Bên trái phía sau là Xương Thọ Lăng của bà Từ Dũ (vợ vua) và không xa phía trước là khu mộ “tảo thương” - nơi có nhiều ngôi mộ của các ông hoàng, bà chúa nhỏ bé, con vua Thiệu Trị. Tất cả quây quần, đoàn tụ với nhau. Chính khu lăng này là sự thể nghiệm nét đẹp giản đơn để 16 năm sau, một Khiêm Lăng trữ tình và thơ mộng ra đời, đánh dấu một bước ngoặt vinh quang trong nghệ thuật kiến trúc triều Nguyễn.
47. Chùa Từ Đàm – Mộ Cụ Phan Bội Châu.
Từ Đàm là một trong những ngôi chùa lớn ở Huế. Chùa được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 (khoảng năm 1695). Hòa thượng Minh Hoàng Tử Dung, là người có công đầu trong việc sáng lập nên ngôi chùa này.
Chùa Từ Đàm thuộc khu vực phường Tràng An, nằm ngay trên khoảng đất có địa thế đẹp: cao, rộng, bằng phẳng. Chùa cách trung tâm thành phố 2 km (1 miles), theo đường Điện Biên Phủ, qua cầu Nam Giao, vượt hết con dốc đầu tiên là đến cổng chùa. Chùa quay về hướng đông nam, phía trước lấy núi Kim Phụng làm án, bên tả có chùa Linh Quang và nhà thờ vị yêu nước đáng kính Phan Bội Châu. Phía sau sát khuôn viên chùa là chùa Thiên Minh. Bên phải chùa Từ Đàm là đường Điện Biên Phủ.
Chùa Từ Đàm được xây theo kiểu cấu trúc "chùa Hội". Cổng tam quan chùa cao và rộng, có mái ngói. Ngay trong cổng có cây bồ đề lớn, tỏa bóng mát quanh năm. Chùa chính gồm tiền đường và nhà Tổ. Tiền đường được xây trên nền móng bằng đá hoa cương cao 1,5 m (4.5 ft), mái xây theo kiểu cổ lầu tạo cho ngôi chùa dáng vẻ cao lớn, uy nghi. Trên các bờ mái và nóc chùa người ta đắp những cặp rồng uốn cong, mềm mại, đối xứng tạo nên vẻ đẹp hài hòa, cân đối. Dưới mái cổ lầu là những bức đắp nổi sự tích Đức Phật. Trên các trụ cột tiền đường có các bức đối dài. Hai bên phía phải và trái sát với tiền đường có hai lầu chuông, trống. Trong điện có pho tượng đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa sen.
Sân chùa được thiết kế rất rộng. Hàng năm vào ngày lễ Phật Đản, đây là một tụ điểm thường diễn ra lễ hội lớn và đông nhất của Phật tử Huế.
Nghĩa trang Phan Bội Châu nằm sâu bên một góc đường số 5 Thanh Hải (thuộc phường Trường An - TP.Huế). Cổng vào nghĩa trang đóng kín bởi cái khoá dây hoen gỉ từ lâu, con đường rộng khoảng 2m để vào nghĩa trang có nhiều cỏ dại, rác, các loại cây mọc bừa bãi... và không ai nghĩ đó là khu nghĩa trang mang tên nhà yêu nước Phan Bội Châu, là nơi an nghỉ của hơn 20 nhà tiền bối yêu nước như: Nguyễn Chí Diểu, Lê Bồi, Lê Tự Nhiên, ông bà Trần Hoành, mạc sĩ Nguyễn Huy Nhu, nhà văn Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn), đệ ngụ thể - Tam Lang, tịch Nguyễn Văn Soan, Hồng Sơn dã mã Võ Thành Minh, mộ bà Hoàng Thị Phương, nhà thơ Thanh Hải... với diện tích khoảng 500m2 được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia.
Theo tài liệu lịch sử để lại thì với ý định giúp cho cụ Phan có một ngôi nhà riêng biệt khi bị toàn quyền Pháp đưa về giam lỏng ở Huế năm 1925, hai cụ Huỳnh Thúc Kháng và Võ Liên Sâm đã dùng số tiền do đồng bào Nam - Trung - Bắc quyên góp mua một mảnh vườn trên dốc Bến Ngự để dựng nhà cho cụ ở và một thửa đất thứ hai rộng khoảng 1 mẫu đất (nay là nghĩa trang Phan Bội Châu).
Với ý định ban đầu, cụ Phan sẽ dùng mảnh đất này để xây một cô nhi viện. Tuy nhiên, ý định nhân đạo đó bị thực dân Pháp ngăn cản, không thực hiện được nên cụ dùng mảnh đất này làm nơi an nghỉ ngàn thu cho các đồng chí của mình.
Vì mảnh đất không được rộng, nên năm 1934 cụ viết một bản "quy ước nghĩa trang" quy định rõ những ai được phép nằm lại nơi đây, là những đồng chí đồng sự với cụ Phan, vì chủ nghĩa cách mạng mà hy sinh. Từ đó, năm 1934 trên đồi Quảng Tế xuất hiện một nghĩa trang mang tên Phan Bội Châu.
48. Đàn Nam Giao.
Đàn Nam Giao là nơi các vua Nguyễn tế trời, được đặt tại làng An Ninh vào năm 1803, thời vua Gia Long. Năm 1806, đàn được dời về phía Nam của Kinh Thành - nay là địa phận phường Trường An, thành phố Huế. Đây là đàn tế trời duy nhất ở Việt Nam còn khá nguyên vẹn, với rừng thông xanh bao bọc quanh đàn. Trước đây, đích thân vua cùng các quan trong triều phải trồng và chăm sóc những cây thông này. Đối với họ, đây là chốn thiêng liêng bậc nhất cần phải gìn giữ. Ngày nay, số thông cũ tuy không còn nhưng một loạt các cây khác đã được tiếp tục trồng thay thế. Đàn gồm 3 tầng, xây chồng lên nhau, tượng trung cho “tam tài“: thiên, địa, nhân.
Tầng trên cùng hình tròn - Viên Đàn - tượng trưng cho trời, xung quanh có lan can quét vôi màu xanh. Trên nền Viên Đàn có lát những phiến đá Thanh được khoét lỗ tròn. Đến kỳ tế lễ, những lỗ này được dùng để cắm cột dựng lều vải màu xanh hình nón, gọi là Thanh Ốc.
Tầng tiếp theo hình vuông - Phương Đàn - tượng trưng cho đất, lan can quét vôi màu vàng. Khi tế, người ta dựng lều vải màu vàng, gọi là Hoàng Ốc.
Tầng dưới cùng cũng có hình vuông, lan can quét vôi màu đỏ, tượng trung cho con người. Cả ba tầng đều có trổ cửa và bậc cấp ở 4 mặt Đông, Tây, Nam, Bắc.
Xung quanh ba tầng đàn này còn có các công trình như Trai Cung (dành cho vua vào nghỉ ngơi trai giới trước khi tế vài ngày), Thần Trù (nhà bếp, nơi chuẩn bị các con vật cúng tế), Thần Khố (kho chứa đồ dùng cho cuộc tế) và một số công trình phụ khác.
Theo quan niệm “Vua là Thiên tử“ (con trời) nên chỉ có vua mới được quyền cúng tế trời đất (cha mẹ của vua), cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, tạ ơn trời đất. Lễ Tế Giao đầu tiên dưới thời Nguyễn được tổ chức năm 1807 và từ đó trở đi được tổ chức vào mùa xuân hàng năm cho đến thời Thành Thái, vào năm 1907, thì đổi lại 3 năm một lần.
Công việc chuẩn bị được giao cho bộ Công và bộ Lễ, tiến hành hàng tháng trước khi tế, liên quan đến nhiều nghi lễ phức tạp, vật dụng tốn kém. Các quan và bản thân nhà vua cũng phải trai giới 3 ngày trước khi tế. Dưới thời Bảo Đại, thời gian trai giới rút xuống còn 1 ngày.
Người ta gọi những con vật được đem ra cúng trong dịp này là các con sinh (hay còn gọi con sanh). Đó là trâu, heo, dê. Hàng chục con được tập trung vỗ béo từ trước bằng những thức ăn tinh sạch. Khâm Thiên Giám có nhiệm vụ xem ngày lành tháng tốt. Vua đích thân ban hành những chiếu dụ thông báo cho dân chúng, tri ân cho các quan và cho phép giảm án tù.
Dọc đường từ Đại Nội đến Giao Đàn, nhân dân phải kết cổng chào, lập hương án đón đám rước nhà vua đi qua. Đoàn Ngự đạo của nhà vua sẽ đi ra từ Ngọ Môn, vượt sông Hương qua cầu phao bằng thuyền (khi chưa có cầu Trường Tiền), đến Nam Giao bằng con đường mà trước đây gọi là “Nam Giao cựu lộ“ là đường Phan Bội Châu và “Nam Giao tân lộ” tức là đường Điện Biên Phủ ngày nay.
Cuộc lễ chính thức bắt đầu lúc 2 giờ sáng, với nhiều nghi lễ lần lượt tiến hành ở các tầng đàn, có sự tham gia của các quan cũng như sự góp mặt của dàn nhạc (chuông, trống, chiêng, khánh, tù và, nhị, sáo...). 128 văn công và vũ công múa Bát Dật, các ca công hát 9 khúc nhạc tế trong 9 giai đoạn khác nhau của cuộc lễ. Sau gần 3 tiếng đồng hồ, buổi tế mới kết thúc.
Lễ Tế Giao cuối cùng của nền quân chủ Việt Nam được tổ chức dưới thời vua Bảo Đại, vào nửa đêm rạng ngày 23-3-1945, đúng 5 tháng trước khi nền quân chủ ấy sụp đổ hoàn toàn. Ngày nay, đàn Nam Giao trở thành một chứng tích lịch sử quan trọng trong cụm di tích triều Nguyễn.
49. Nhà vườn Huế.
Mỗi khu vườn như vậy là một thế giới biệt lập, rộng một vài mẫu hoặc năm ba sào, bao bọc bằng lũy tre xanh hay hàng rào chè tàu được cắt xén ngay ngắn tươm tất. Trong phạm vi ấy ngoài ngôi nhà vườn kiến trúc bằng gỗ quý chạm khắc tinh tế dùng để thờ tổ tiên, vài ngôi nhà phụ dùng cho con cháu ăn ở, không gian còn lại là sân vườn với ao hồ bể cạn, non bộ, bình phong, giếng nước và đôi khi còn có cả ngôi mộ của người đã có công tạo lập ra cơ ngơi ấy.
Người ta đi vào vườn bằng một cổng nhỏ xây bằng vôi gạch, hoa cỏ trồng dọc lối đi. Nhưng lối đi ấy không bao giờ được trở thẳng vào gian giữa của ngôi nhà chính, vì đây là gian nhà thiêng liêng dành để thờ phụng tổ tiên. Lối đi ấy được chặn lại bằng một tấm bình phong cao quá đầu người và phải rẽ qua hướng khác để vào sân nhà. Tấm bình phong có thể xây bằng vôi, gạch, tô nối hình chữ "thọ" chữ "phúc" hay một trong những hình ảnh của "tứ linh" nhưng cũng có thể là một hàng cây dâm bụt, hoặc một dãy chè tàu đơn giản.
Sau tấm bình phong là hòn non bộ, nhưng đôi khi chính hòn non bộ ấy còn giữ chức năng của tấm bình phong. Non bộ là những cảnh sơn thủy hữu tình được chủ nhân yêu thích và thường do chính bàn tay mình thu nhỏ lại. ở đó có núi đồi, hang động, sông suối, cỏ cây, cầu cống, và đôi nơi còn có thể hiện một vài sinh họat của con người. Mấy tiên ông đang ngồi đánh ván cờ thiên cổ dưới một gốc cây đại thọ trên sườn núi. Lã Vọng câu cá ở bờ sông. Vài bác tiều phu làm củi bên bờ suối. Và cũng có thể có đủ bốn hình ảnh: ngư, tiều, canh, mục.Với chiếc bể cạn xây gần hòn dã sơn, chủ nhân thường trồng lên đó một số hoa cỏ sống được cả 4 mùa: mai lan cúc trúc, hoặc mai liên cúc tùng tượng trưng cho tứ thời: xuân, hạ, thu, đông.
Như vậy, cả không gian lẫn thời gian đều được thu gọn lại trên một mặt bằng mỗi bề năm 3 mét. ở vườn phủ cụ Đô chẳng hạn, trên hòn non bộ còn thể hiện lòng yêu đất nước quê hương. Trước mặt dãy Trường Sơn trùng điệp là hình ảnh chùa Một Cột (miền Bắc), chùa Thiên Mụ (miền Trung), và Tháp Mười (miền Nam). Hình ảnh Tổ quốc Việt Nam đã được thu nhỏ lại một cách gọn gàng, xinh xắn, để hàng ngày chủ nhân nhìn ngắm, nâng niu. Và ở đó, người ta thấy rõ được hình ảnh "cỏ cây chen đá, lá chen hoa" của Bà huyện Thanh Quan thuở trước.
Nếu khu vườn rộng của cố đô có Cồn Hến và Cồn Dã Viên thì trong sân vườn này cũng có hai tảng đá hình thù đặc biệt dựng ở hai bên sân trước nhà để tượng trưng cho thế "rồng chầu, hổ phục". Nếu kinh thành Huế có con sông Hương trước mặt thì vườn nhà ở đây lại có ao trồng sen thả cá với những chiếc ghế đá, ghế gỗ đặt dưới gốc cây dừa, gốc mít trồng dọc bên bờ. Mặt ao là một tấm gương trong suốt phản chiếu hình ảnh các công trình kiến trúc và cảnh vật trong khu vườn ấy. Tất cả là một màu xanh tươi tắn dịu dàng:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
(Hàn Mặc Tử)
Trong khu vườn Huế, người ta còn trồng nhiều loại cây lưu niên để cho bóng mát và quả chín bốn mùa. Nhiều loại cây ăn quả ở đây được đưa từ miền Bắc vào và từ miền Nam ra, có cả nhãn lồng Hưng Yên lẫn sầu riêng Nam Bộ.
Ngôi mộ trong vườn tạo ra cảm giác gần gũi thân thương giữa người đã chết và người đang sống. Đó là một thể hiện tình cảm gắn bó và một sự biết ơn của những người trong gia đình đối với tiền nhân. Và cũng nói lên nằm dưới mộ như đang còn sống và ăn ở trong vườn, trong nhà cùng con cháu. Người sống và người chết ở bên nhau. Người xưa xem chuyện sinh tử là chuyện bình thường. Có được nhân sinh quan như thế, cuộc sống của con người càng được ung dung, thanh thản.
Người Huế đã thể hiện lòng khát khao chế ngự thiên nhiên của mình bằng cách khái quát không gian rộng lớn và thời gian vô cùng vào trong bố cục của sân vườn. Nhà vườn Huế thể hiện rõ nét thú tiêu khiển thanh tao, sự chăm sóc kiên trì, tưới bón cẩn thận, bàn tay tài hoa và khối óc đầy chất văn hóa của chủ nhân. Nhà vườn là một nét đặc trưng trong nhân văn Huế. Không thiên hẳn về mục đích kinh tế như một số nơi khác, chủ nhân ở đây vừa dùng nó để nuôi dưỡng chính mình, vừa để bảo tồn một phong cách sống đẹp của con người.
50. Ca Huế.
Ca Huế là một thể loại dân ca đặc sắc. Ai đó đã một lần đến với Huế, được ngắm dòng Hương Giang và nghe cô gái Huế ngân nga các diệu Mái Nhì, các diệu Lý...Lòng sẽ vấn vương và chẳng muốn về.Chính vì sự lãng mạn và trường tồn mãi mãi ấy đã làm nên một Huế rất đặc trưng. Xin trích dẫn một bài viết từ trung Tâm tin học Bưu Điện Đà Nẵng để chúng ta nhận biết thêm về Huế thân yêu.
Ca Huế không phải lối giải trí xô bồ mà nó thường kén người nghe. Một đêm ca Huế có thể đưược tổ chức trong một thính phòng nho nhỏ nhưng thi vị và hấp dẫn hơn cả là được nghe ca Huế trong một đêm trăng lên trên dòng Hương Giang thơ mộng. Lúc đó tâm hồn của người nghe và cả ca sĩ cùng dàn nhạc dường như được siêu thoát trong một bầu không khí như đưược thăng hoa cùng trời, mây, sông, nước. Sau phần đầu của một đêm ca Huế với tiết tấu âm nhạc rộn ràng, vui tưươi của điệu Bắc, ngưười ta thường hát những ca khúc trang trọng, uy nghiêm như Long Ngâm, Tứ Đại Cảnh... Đêm càng về khuya, không gian càng yên tĩnh là lúc đó những điệu Nam Ai, Nam Bình, tương tư khúc... cất lên với nỗi buồn thưương nhưng cũng rất gợi tình.
Ngưười ta đến với ca Huế là để được đắm chìm trong cảm giác xao xuyến, buồn, vui đến lạ kỳ. Bước chân xuống mạn thuyền Rồng, trong không gian tĩnh mịch giữa trời, mây, sông, nước để cảm nhận hơn nữa cái chất Huế qua những âm điệu trầm bổng, du dương của giọng hát cô ca sĩ Huế hòa quyện với tiếng réo rắt của dàn nhạc đủ cả đàn bầu, đàn tranh, đàn nguyệt, sáo, xênh, phách... bản hòa tấu gồm 4 nhạc khúc Lưu thủy, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ đã mở đầu cho một đêm ca Huế.
Ngày nay, do thị hiếu của ngưười nghe các ca sĩ thưường lồng vào chương trình những bài tân nhạc nhưưng cũng rất dễ thương về Huế với các nhạc phẩm đầy chất Huế thật sự đi vào lòng người nhưư "Mưa trên phố Huế", "Huế thương", "Đêm tàn bến Ngự", "Ai ra xứ Huế, " Đây thôn Vĩ Dạ"... Dù bạn đã từng được nghe nhiều ca sĩ tài danh hát những khúc ca về Huế, nhưng khi đã nghe ca sĩ Huế hát một lần thôi bạn sẽ có được một cảm xúc thật lạ thưường, và khó có thể diễn tả được. Có lẽ "cái tình cố Đô" chỉ có người cố Đô mới thấu hiểu được hết chăng?
Ca Huế bao gồm cả hai yếu tố ca Huế và đàn Huế, được dựa trên một hệ thống các thể điệu của trên 60 tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc nằm trên hai dòng lớn là điệu Bắc và điệu Nam. Những nhạc khúc thuộc về điệu Bắc mang âm sắc tưươi vui, sang trọng và các ca khúc thuộc về điệu Nam nghe man mác, buồn thương. Cũng có những bản nhạc vừa mang âm hưưởng của điệu Bắc, vừa pha phách điệu Nam như bài Tứ Đại Cảnh rất nổi tiếng mà nhiều ý kiến cho là tác phẩm của vua Tự Đức (1848-1883).
Một đêm ca Huế trên sông Hưương giữa tiếng sóng nước ru vỗ vào mạn thuyền rồi lan xa, lan xa... Trăng càng về đêm càng vằng vặc giữa thinh không tĩnh mịch... Giọng hát, tiếng đàn đã thực sự ru tâm hồn ta vào một miền ký ức sâu thẳm nhuộm tím lòng người mà không sao quên được đó, Huế ơi!
51. Thánh địa La Vang.
Thánh Địa La Vang nằm trong khu vực xưa gọi là Dinh Cát (đời Chúa Nguyễn Hoàng vào Nam, thế kỷ XVI. Vùng này gọi là Dinh Cát, tức là Dinh xây trên một vùng đất cát, có khi còn gọi là Cát Dinh), nay thuộc xã HảI Phú, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, thuộc Tổng Giáo phận Huế cách thành phố Huế độ 60 km về phía Bắc, và cách thị xã Quảng Trị chừng 6 km về phía Nam.
Dinh Cát là vùng đất cống hiến nhiều vị anh hùng tử đạo và cũng là nơi có số người Công Giáo sinh động.
La Vang là một phường nhỏ bé, mất hút giữa chốn rừng thiêng nước độc, chẳng mấy ai lui tới, ngoại trừ một số tiều phu từ phía Quảng Trị lên. Sau nầy, trong thời kỳ cấm cách, nhiễu loạn, giáo hữu từ các xứ đạo như Hạnh Hoa, Cổ Vưu, Thạch Hãn... trốn lên rừng núi để tránh cơn bách hại. Khi bình yên, họ lại trở về quê quán. Như vậy, La Vang xưa được xem là nơi “lánh nạn” của nguời công giáo trong các thời kỳ khó khăn nhất trước đây.
Tại sao gọi là La Vang? có nhiều cách giải thích
Cách giải thích thứ nhất: Cụ Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài (Phước Môn Quận Công), trong bút tích về Đền Thờ Thánh Mẫu La Vang đề ngày 28 tháng 2 năm 1925, tại Huế, có viết: “La Vang là tiếng kêu om sòm. Thường ngườI ta đặt tên chỗ nọ chỗ kia, thì lấy tên cái khe, cây cổ thụ, hay tên người nào trước ở đó mà đặt tên chổ, song đây thì lấy tiếng La Vang mà đặt tên cũng là lạ. La Vang là tiếng khi người ta lâm nguy mà kêu cứu, tiếng đuổi thú dữ, la vang là tiếng rao truyền, la vang la tiếng khi ngườI ta được sự vui mừng quá bội, hoảng hốt mà la vang hay là tiếng quở trách. Tưởng rằng ý định đã xui cho người ta dùng tiếng La Vang mà đặt tên cho chổ này cho ứng nghiệm về việc đã xảy ra bấy lâu nay về sau này nữa”. Đức Cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn (1878 - 1948), trong bài diễn văn về Đức Mẹ La Vang (18.08.1932), có nói: “Tên La Vang là vì xưa ở nơi đó có nhiều cọp, xóm Trí Bưu vào làm chòi ở lại, làm gỗ vỡ đất, nên đêm nào củng đánh mõ la lối để đuổi cọp, vì thế xóm xung quanh nhà thờ gọi là La Vang”. “Ban đêm phường La Vang không có sự thinh lặng. Đêm nào người ta cũng la lối om sòm. Họ đánh mõ, đánh thùng rộn ràng, để đuổi các thú dữ như heo rừng, voi, cọp... từ rú xanh ra phá phách khoai, sắn, lúa. Nên người ta gọi là phường La Vang”.
Cách giải thích thứ hai: Tiếng La Vang do chữ Lá Vằng mà ra. Linh mục Philiphê Lê Thiện Bá (1891 – 1981), Nguyên Giáo Sư Tiểu Chủng Viện và Đại Chủng Viện Huế, chánh quán làng Cổ Vưu (Trí Bưu), có để lại bút tích giải thích tên gọi La Vang như sau: “Trong địa bộ làng Cổ Vưu có ghi: “Phường Lá Vằng”, vì ngày xưa trên linh địa La Vang có vô số cây lá vằng. Loại cây này có hột đen, ăn được, vị đắng và lá là một vị thuốc. Người phụ nữ xứ Dinh Cát (Quảng Trị) thường dùng lá vằng sắc uống khi sinh con. Do đó khi lập phường thì nhà nước đặt tên là “Phường Lá Vằng”. về sau người ta đọc Lá Vằng thành La Vang”. “Phường Lá Vằng”, Thánh địa La Vang là một vùng đất rừng rú xen kẻ nhiều thứ cây, trong đó có cây lá vằng nhiều hơn cả.
Từ chốn Lá Vằng, hay La Vang được loan truyền từ đời nọ sang đời kia, là Đức Mẹ Maria hiện ra an ủi nâng đỡ con cái của Mẹ trong thời kỳ bách hại này.
Từ đó tiếng lành đồn xa, khắp Giáo phận Huế, trong các giáo phận khác ở Việt Nam và cả Đông Dương, về việc Đức Mẹ hiện ra tại La Vang cùng nhiều ơn lạ của Mẹ Thiên Chúa.
Thật vậy, Đức Mẹ đã biến nơi âm u, rừng thiêng nước độc trở thành nơi qui tụ con cái muôn phương. Tiếng kêu của con cái Mẹ trong cảnh lầm than cũng là tiếng vang động tới cõi thiên đình. Từ đó nhiều người tứ xứ, từ khắp nơi tuôn về Mẹ.
“Phường lá vằng” đã trở thành “Thánh Địa La Vang”. Đồng bào lương giáo khắp nơi tuôn về hành hương, cầu nguyện, xin ơn độ trì. Mẹ đã nhậm lời và ban nhiều ơn lành phần hồn phần xác.
52. Thành cổ Quảng Trị.
Hơn hai thế kỷ trước, Thành cổ Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà Nguyễn. Thành Quảng Trị xây dựng từ đầu đời vua Gia Long (1802), nguyên gốc được đắp bằng đất theo dạng hình vuông, đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837) mới xây bằng gạch. Đây là nơi để vua ngự mỗi khi đi tuần thú, nơi làm lễ thăng quan cho các đại quan cấp tỉnh và tổ chức các tiết lễ khác trong năm. Suốt gần 140 năm (1809-1945) dưới thời nhà Nguyễn, Thành cổ Quảng Trị là trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của tỉnh Quảng Trị và là thành lũy quân sự để bảo vệ kinh đô Huế ở phía Bắc. Tuy nhiên, đến thời Pháp thuộc, dinh lũy này được thực dân Pháp xây dựng thành nhà lao. Từ năm 1929-1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam cầm hàng ngàn sĩ phu yêu nước, chiến sĩ Cộng sản và cả những người dân vô tội.
Thời đánh Mỹ năm 1972, vùng đất Quảng Trị được xem là chiến trường khốc liệt nhất, nơi diễn ra những cuộc đụng đầu nảy lửa giữa ta và địch. Với địa thế vừa là bàn đạp để thực hiện âm mưu “Bắc tiến” khi có điều kiện, vừa là lá chắn bảo vệ “biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17”, đây là chiến trường sinh tử đối với Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau hai cuộc tấn công bất ngờ và quả cảm của quân ta - bắt đầu từ giữa trưa ngày 30/3/1972, thị xã Quảng Trị được giải phóng vào chiều ngày 01/5/1972. Từ đây, bắt đầu 81 ngày đêm kiêu hùng của những chiến binh quả cảm của chúng ta với cuộc chiến không cân sức về khí tài trong lòng Thành cổ.
Để lấy lại tinh thần và gây sức ép với ta tại Hội nghị Paris, địch dốc toàn bộ lực lượng mở cuộc phản kích tái chiếm Quảng Trị với mục tiêu số một là chiếm lại tòa Thành cổ. Trong cuộc hành quân lấy tên “Lam Sơn 72” bắt đầu ngày 28/6/1972, địch đã huy động phản kích bằng máy bay phản lực, bình quân mỗi ngày 150-170 lần (có ngày 220 lần), 70-90 lần B52, 12-16 lần tàu khu trục hạm và tuần dương hạm thuộc Hạm đội 7 - Thái Bình Dương, hai sư đoàn dự bị chiến lược là Sư dù và thủy quân lục chiến, 4 trung đoàn thiết giáp - mỗi trung đoàn có 79 xe tăng và xe bọc thép... Đây là cuộc hành quân đẫm máu, cực kỳ tàn bạo với đủ loại vũ khí hiện đại: Từ bom phá, bom na-pan, bom lân tinh, bom bi, bom 7 tấn, bom điều khiển bằng la-de, đến các loại pháo chơm, pháo khoan, chất độc hóa học và hơi ngạt. Người ta đã ghi nhận được: Đêm 4/7, pháo đài bay B52 Mỹ đã ném 4.000 tấn bom, ngày 31/7, khoảng 2 vạn quả đại bác cỡ lớn từ 105-203mm đã rơi xuống vùng phụ cận và khu vực thị xã Quảng Trị. Báo chí phương Tây thời bấy giờ bình luận và so sánh số bom đạn Mỹ ném xuống chiến trường Quảng Trị khoảng 328 ngàn tấn, tương đương sức công phá của 7 quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima (Nhật Bản) năm 1945.
Trong lửa đạn khốc liệt ấy, Thành cổ Quảng Trị với chu vi hơn 2.160m là “túi bom” của kẻ thù. Chúng huy động tối đa lực lượng, phương tiện để chiếm bằng được Thành cổ vì đây là địa bàn chiến lược, có thể tạo sức nặng mặc cả với ta tại Hội nghị Paris. Không thể thống kê hết số bom đạn dội xuống mảnh đất này.
Thế nhưng, bom đạn không làm sờn lòng những chiến sĩ anh hùng - hầu hết đều rất trẻ. Các anh, anh dũng bám trụ giữ từng tấc đất Thành cổ. Trong một ngày, các chiến sĩ đã phải đánh địch phản kích từ 5-7 lần, có khi 13 lần. Cuộc chiến đấu ở đây đã diễn ra như một huyền thoại và cách đánh cũng vượt ra những qui ước thông thường với những tấm gương quả cảm: Phan Văn Ba nát một bàn tay vẫn xin ở lại, Hán Duy Long dùng trung liên kẹp nách truy kích diệt 58 tên địch, 3 lần bị thương vẫn giữ vững trận địa... Ở đây, lựu đạn phải để xì khói trên tay mới ném, phải trèo lên tường cao ném xuống hoặc bò sát miệng hầm của địch mà liệng vào... Cuộc chiến đấu anh hùng 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị kết thúc bằng thất bại của một đội quân xâm lược đông trên 5 vạn tên với thừa thãi sức mạnh bom đạn, một lần nữa làm sáng ngời chân lý: Kẻ xâm lược có vũ khí tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con người có ý chí thép gang, một lòng chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã đổ xuống, tô thắm cho trang sử vẻ vang của dân tộc, để xanh ngời cỏ non Thành cổ hôm nay. Di tích Thành cổ hôm nay chỉ là một gian nhà truyền thống, những quả pháo nằm rải rác chung quanh một nấm mồ khổng lồ mang tính biểu tượng. Trong lòng nó chỉ vỏn vẹn cây súng và bộ quân phục giản đơn của người lính nhưng chất chứa biết bao suy tưởng. Đến Thành cổ, thắp một nén hương ở mảnh đất thiêng liêng ấy, chưa bao giờ bạn cảm nhận giai điệu bi tráng của hành khúc “Hồn tử sĩ” vang lên với nhiều cung bậc cảm xúc đến vậy.
53. Khái quát tỉnh Quảng Trị - Thị xã Động Hà.
Quảng Trị là tỉnh ven biển thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Bình, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía tây giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía đông giáp biển Đông. Trung tâm hành chính của tỉnh là thị xã Đông Hà nằm cách 598 km về phía nam thủ đô Hà Nội và 1.112 km về phía bắc thành phố Hồ Chí Minh . Nơi đây có sông Bến Hải - cầu Hiền Lương, giới tuyến chia cắt hai miền Nam - Bắc Việt Nam trong gần 20 năm (1954 - 1975). Quảng Trị bao gồm 2 thị xã và 8 huyện: Thị xã Đông Hà, Thị xã Quảng Trị, Huyện Cam Lộ, Huyện Cồn Cỏ, Huyện Đa Krông, Huyện Gio Linh, Huyện Hải Lăng, Huyện Hướng Hóa, Huyện Triệu Phong, Huyện Vĩnh Linh.
Địa hình đa dạng bao gồm núi, đồi, đồng bằng, cồn cát và bãi biển chạy theo hướng tây bắc - đông nam. Mạng lưới sông ngòi dày đặc, nhất là ở các huyện miền núi vì vậy tiềm năng thủy điện dồi dào. Khí hậu rất khắc nghiệt, có gió Tây Nam và gió Lào rất khô nóng.
Trong những năm chiến tranh Việt Nam, Quảng Trị là một trong những nơi bị thả bom nhiều nhất. Ngày nay Quảng Trị là nơi có nhiều địa danh, di tích lịch sử. Qua cầu treo Đakrông là đến đường mòn Hồ Chí Minh. Thành cổ Quảng Trị là một nơi gắn liền với chiến dịch mùa hè 1972. Tại tỉnh này còn có một số địa danh khác như nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, địa đạo Vịnh Mốc, chiến trường Khe Sanh, căn cứ Cồn Tiên - Dốc Miếu, hàng rào điện tử McNamara... Quảng Trị còn có bãi tắm Cửa Tùng được mệnh danh là "hoàng hậu của các bãi tắm" Đông Dương.
Tỉnh có đường sắt Bắc Nam, đường quốc lộ 1A chạy qua. Đặc biệt có đường 9 nối với đường liên Á qua cửa khẩu Lao Bảo sang Lào.
Thị xã Đông Hà là thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Trị, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh Quảng Trị. Thị xã nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh Quảng Trị, nằm trên giao lộ của quốc lộ 1A nối Thủ đô Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh và hệ thống đường xuyên Á theo hướng Đông Tây nối Thái Lan, Mianma với các nước trong khu vực. Với vị trí này cho phép Đông Hà phát triển các mối quan hệ giao lưu kinh tế - xã hội một cách thuận lợi với cả nước và các nước trong khu vực, đặc biệt là phát triển mạnh ngành dịch vụ.
Toàn thị xã có 9 phường, dân số đến cuối năm 2004 là 79.036 người. Tổng diện tích đất tự nhiên: 7.255,44 ha.
Đông Hà là trung tâm thương mại, dịch vụ, công nghiệp của tỉnh. Cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và xã hội được quan tâm đầu tư và phát triển đã làm cho bộ mặt đô thị thay đổi nhanh chóng. Đông Hà cũng là nơi tập trung các cơ quan hành chính sự nghiệp đầu ngành của tỉnh, Trung ương, các doanh nghiệp Nhà nước… đã làm tăng thêm nguồn lực cho sự phát triển. Lực lượng lao động ngày càng tăng cả về quy mô và chất lượng, cùng với đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật không ngừng lớn mạnh là động lực lớn cho sự phát triển của thị xã Đông Hà.
Cơ cấu kinh tế của thị xã Đông Hà là: Dịch vụ - Công nghiệp - TTCN và nông nghiệp ven đô. Cơ cấu các ngành trong giá trị GDP là: Dịch vụ: 66,7%, công nghiệp - xây dựng 29,3%, nông nghiệp: 4,1%.
Cùng với sự thay đổi nhanh về bộ mặt đô thị, những năm qua, các lĩnh vực văn hoá - xã hội đều có nhiều chuyển biến tiến bộ. Giáo dục đào tạo phát triển mạnh về quy mô và chất lượng, trên địa bàn có 01 trường Cao đẳng sư phạm, 01 Trung học chuyên nghiệp, có các trung tâm dạy nghề tổng hợp của tỉnh và trung ương. Mỗi năm thu hút hàng vạn con em ở trong tỉnh và các tỉnh ngoài đến học tập, nghiên cứu khoa học.
Hoạt động văn hoá thông tin, TDTT phát triển rộng khắp và đi vào chiều sâu. Thị xã có 1 Nhà văn hoá trung tâm tỉnh, 1 nhà Văn hoá thanh thiếu nhi tỉnh, 01 sân vận động trung tâm, 7 nhà thi đấu, 01 nhà bảo tàng tỉnh, 01 thư viện tỉnh, 03 sân tenis, 03 câu lạc bộ võ thuật, 01 câu lạc bộ thể hình, 04 sân bóng chuyền đạt tiêu chuẩn thi đấu hạng A1,… cơ bản đáp ứng nhu cầu tập luyện và thi đấu trong Tỉnh và thị xã.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ. Trên địa bàn thị xã có 1 bệnh viện Đa khoa có quy mô 300 giường bệnh, có 06 phòng khám khu vực 45 giường bệnh, 09 trạm Y tế phường có tổng số 48 giường bệnh. Lực lượng cán bộ y tế trên địa bàn thị xã có 482 người, cán bộ ngành dược có 171 người. Hàng năm đảm nhiệm khám chữa cho hàng trăm nghìn lượt bệnh nhân của tỉnh và các tỉnh lân cận. Hiện nay thị xã đang xây dựng đề án để đưa Đông Hà lên đô thị loại 3 trước năm 2007 và trở thành thành phố thuộc tỉnh trước năm 2010.
54. Đường 9 nam Lào – Nghĩa trang Trường Sơn – Cửa khẩu Lao Bảo.
Đi trên đường 9 nam Lào, du khách có dịp ngắm nhìn và hiểu thêm về những di tích lịch sử của vùng đất Quảng Trị như chiến trường Khe Sanh, Làng Vây, cầu Hiền Lương, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn... Còn sang bên kia biên giới, con đường đưa du khách về thành phố Savanakhet khá vắng bóng người qua lại và xe cộ. Thỉnh thoảng lại bắt gặp các đoàn xe du lịch mang biển số của Đà Nẵng hoặc Thừa Thiên-Huế. Savanakhet được xem là thành phố lớn thứ 2 của Lào. Tuy không có nhiều thắng cảnh để xem nhưng đến chùa Xay Nhạ Phùm và That Ing Hang, du khách cũng khám phá được những bí ẩn trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Lào.
Nghĩa Trang Trường Sơn những này mênh mông hoa cỏ. Tất cả các ngôi mộ (cả vô danh và có tên) dù vắng lặng nhưng nghi ngút khói hương. Những đồng đội tìm về đồng đội và đi tìm đồng đội vẫn chưa biết ở đâu... lại lẳng lặng thắp hương tưởng nhớ đến những ngày khói lửa. Mời quý vị trở lại với không khí tĩnh lặng linh thiêng ở nghĩa trang Trường Sơn. ''ngôi nhà'' chung trên đồi Bến Tắt của các anh hồn liệt sĩ, một phần máu xương và nỗi đau của dân tộc Việt Nam là đây. Những người quản trang gọi đó là chốn linh thiêng, chốn linh thiêng giữa đại ngàn Trường Sơn.
Quảng Trị có tới 72 nghĩa trang liệt sĩ nhưng nghĩa trang được nhiều người tới thăm viếng nhất là nghĩa trang Trường Sơn vì sự hoành tráng và uy nghiêm của nó. Nghĩa trang Trường Sơn gắn chặt với Binh đoàn 559 và con đường Hồ Chí Minh huyền thoại. Suốt 16 năm gian nan ác liệt, hàng triệu tấn bom, hàng vạn tấn chất độc hoá học và các phương tiện chiến tranh hiện đại nhất của Mỹ đã đổ xuống đây hòng ngăn chặn bước tiến của các đoàn quân chi viện cho mặt trận phía Nam. 16 năm, gần 20 ngàn chiến sỹ đã nằm lại với núi rừng Trường Sơn để hôm nay họ lại quần tụ về đây cũng trên con đường năm xưa. Núi rừng Trường Sơn từng chứng kiến máu xương của người lính thắm đỏ trong màu xanh của đại ngàn nay lại che chở cho linh hồn các anh. Giữa Trường Sơn mênh mông, từng vong linh thanh xuân cứ dội về và thiêng liêng đến bất tận.
Từ TP HCM hoặc Hà Nội, du khách đến Huế, sau đó lên xe thẳng tiến ra thị xã Đông Hà (Quảng Trị) và tiếp tục theo đường số 9 (hay còn gọi là đường 9 Nam Lào) để đến cửa khẩu Lao Bảo. Du khách sẽ làm thủ tục xuất nhập cảnh.
Ở cửa khẩu, bạn sẽ gặp nhiều cô gái có dáng vẻ nhanh nhẹn, tay mang những túi xách căng phồng. Đó chính là những "ngân hàng lưu động" của vùng biên. Không chỉ thế, bạn còn có thể mua được simcard điện thoại của Lào để sử dụng trong những ngày du lịch. Loại simcard thông dụng nhất là 100.000 đồng/thẻ (trong đó tài khoản để sử dụng khoảng 40.000 đồng). Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và tiền kip (Lào) vào những ngày cuối tháng 7 là 100.000 VND đổi được khoảng 62.000 kip. Những khách hàng lớn nhất của các "ngân hàng di động" chính là những doanh nghiệp, các tiểu thương vì số tiền quy đổi khá nhiều.
Hàng hóa tại đây hầu hết là hàng Thái và một phần từ Trung Quốc. Rẻ nhất vẫn là những hàng mỹ phẩm như dầu gội, sữa tắm, kem đánh răng và một số mặt hàng điện gia dụng như nồi cơm điện, máy xay sinh tố, bếp điện từ... Mức chênh lệch giá với sản phẩm cùng loại ở TP HCM từ vài chục nghìn đến vài trăm nghìn đồng. Đa số các sản phẩm như dầu gội, sữa tắm... đều được bán theo lô từ 5 đến 10 sản phẩm.
Sang bên kia biên giới, con đường đưa du khách về thành phố Savanakhet khá vắng bóng người qua lại và xe cộ. Thỉnh thoảng lại bắt gặp các đoàn xe du lịch mang biển số của Đà Nẵng hoặc Thừa Thiên-Huế. Savanakhet được xem là thành phố lớn thứ hai của Lào. Tuy không có nhiều thắng cảnh để xem nhưng đến chùa Xay Nhạ Phùm và That Ing Hang, du khách cũng khám phá được những bí ẩn trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Lào.
55. Cồn Tiên – Dốc Miếu – Hàng rao điện tử Macnamara.
Cồn Tiên nằm trên sông Hàm Luông, thuộc huyện Châu Thành, nhưng giáp huyện Chợ Lách. Đây là một vùng đất mới, thấp hơn mực nước trung bình nên người dân phải đắp bờ bao chung quanh ngăn nước để có thể định cư sống với nghề làm vườn. Bên ngoài đất cồn tiếp tục tích tụ, mỗi khi triều xuống lộ ra một bãi cát rộng lớn.
Trong vòng mười năm nay, cứ đến ngày mùng 5- 5 âm lịch, có đến 4.000 - 5.000 người từ Vũng Liêm, Măng Thít (tỉnh Vĩnh Long), từ các huyện khác trong tỉnh Bến Tre đi ghe đổ về cồn Tiên. Mấy năm gần đây, dân từ Tiền Giang cũng qua tụ hội.Tất cả những người du chơi cồn Tiên đều bằng ghe thuyền.Có ghe lớn chở khách, có thuyền nhỏ chở hàng từ khắp nơi được huy động về làm náo động cả cồn. Có ghe lớn còn mang theo cả trống, đàn ra hội cồn chơi văn nghệ.
Ngoài bãi cát giữa sông, thanh niên thiếu nữ tắm sông, đùa giỡn, hát ca dưới sông như trên sân khấu nước.Họ gọi đây là Vũng Tàu 2. Những thanh niên hiếu động chở đầy bùn trên ghe,họ trét bùn đầy người như đi tắn bùn, lấy đất bùn ném vào nhau mà không ai phiền hà. Mọi người vui chơi, tắm sông, ăn uống, đến nước lớn, khi bãi cát bị dìm trong nước sông thì ai nấy trở về.
Dốc Miếu nằm trên quốc lộ 1A thuộc thôn Gia Phong, phía bắc thị trấn Do Linh. Từ năm 1947, thực dân Pháp đã đống chốt quân sự ở đây. Đến thời Mỹ thì Dốc Miếu trở thành căn cứ quân sự lớn nhất vùng Do Linh với kinh phí lên đến con số trăm triệu USD. Thời kỳ khó khăn của những năm 68-70, để ngăn chặn nguồn chi viện từ miền bắc Việt Nam vào miền nam, buộc đế quốc Mỹ phải xây dựng hàng rào điện tử mang tên của bộ quốc phòng Mỹ - MacNamara. Đó là một hàng rào gồm 12 lớp kẽm gai chồng nhau cao 3m, phía trên có cài mìn tự động, phía dưới là chi chít bải mìn. Ngoài ra còn có hệ thống đèn pha để kiểm soát mọi sự thâm nhập vào ban đêm. Và Dốc Miếu đã trở thành căn cứ quan trọng nhất trong dảy hàng rào điện tử này. Tuy nhiên nó đã bị vô hiệu hoá bởi quân ta một thời gian sau, trong đó phải kể đến sự chiến đấu không mệt mỏi của các đội quân du kích Trung Sơn, Trung Hải, trung Giang, ... Dốc miếu xứng đáng là một di tích lịch sử.
Hôm nay, khi đi qua địa phận này, mặc dù ngút ngàn là màu xanh của lúa, của cây, xung quanh là trường học, nhà dân nhưng nếu để ý thì vẫn còn nhìn thấy dấu vết của những tàn tích, vết sẹo chiến tranh chưa hàn gắn hết. Chiến tranh qua đi, những người dân may mắn còn sống lại trở về với "vùng đất chết". Họ trở lại với ruộng vườn, làng mạc, để khôi phục sự sống dậy của một mảnh đất từng bị cày xéo bởi đạn bom. Đến cả người Pháp cũng không tin nổi Quảng Trị có thể trồng được cao su vì họ cho rằng đấy là vùng đất của nắng và gió. Thế mà giờ đây diện tích cao su của Gio Linh đã lên đến con số vạn ha trong đó xung quanh vùng Dốc Miếu đã được phủ bởi màu xanh bạt ngàn của cây lấy mũ - Cao su. Tiếc rằng thời gian gần đây khi Dốc Miếu được tỉnh Quảng Trị đầu tư để trở thành điểm dừng chân trong hành trình của khách du lịch thì cũng là lúc quán xá, nhà hàng mọc lên một cách tự phát, thiếu sự quản lý và quy hoạch. Và cũng từ đây đã hình thành các dịch vụ ăn theo không mấy trong lành - dịch vụ mà ai cũng biết là dịch vụ gì rồi đấy - thật là tai tiếng cho mảnh đất thiêng liêng. Không biết những than phiền của người dân nơi đây đã đến cửa của các nhà chức tranh hay chưa và đến bao giờ nó sẽ được xử lý.
Hàng rào điện tử phòng ngự Macnamara, là một điểm cao án ngự phía Tây Đông Hà, có vị trí chiến lược hết sức quan trọng nên cuối năm 1966 Mỹ - ngụy bắt đầu xây dựng 241 thành cứ điểm trọng yếu của tuyến phòng thủ. Từ cứ điểm này Mỹ - Ngụy có thể khống chế toàn bộ đường 9 - Khe Sanh, cả khu vực hành lang Nam vĩ tuyến 17 bảo vệ căn cứ Ái Tử, thị xã Đông Hà, Thị xã Quảng Trị. Để mở màn cho chiến dịch Quảng Trị năm 1972 và đập tan toàn bộ các căn cứ trong tuyến phòng thủ phía Nam vĩ tuyến 17, trước hết phải giải phóng cứ điểm 241. Đúng 12 giờ 45' ngày 02/4/1972, toàn bộ cứ điểm 241 đã bị tê liệt hoàn toàn. Toàn bộ binh lính ngụy quyền đã đầu hàng.
56. Cầu Hiền Lương – sông Bến Hải.
Cầu Hiền Lương bắc qua sông Bến Hải trên Quốc lộ 1A tại Km 735, lần đầu tiên cầu Hiền Lương được xây dựng vào năm 1928 làm bằng gỗ dành cho người đi bộ. Sau nhiều lần sửa chữa nâng cấp, năm 1950, Pháp xây lại cầu mới bằng bê tông cốt thép nhưng để hạn chế việc vận chuyển binh lính và phương tiện chiến tranh, du kích ta đã đánh sập cây cầu này.
Tháng 5/1952, một lần nữa Pháp cho xây lại cầu Hiền Lương gồm 7 nhịp, trụ bằng bê tông, thân cầu bằng thép và mặt cầu được lát bằng gỗ thông, dài 178m. Năm 1967, cầu này lại bị Mỹ đánh sập. Để phục vụ chiến trường miền Nam và chiến trường Quảng Trị, cầu phao Hiền Lương lại được bắc qua sông.
Việc nâng cấp cầu Hiền Lương là một hạng mục trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và năm 1995, Bộ Giao thông Vận tải quyết định nâng cấp Quốc lộ 1A, xây lại cầu mới ngay trên tuyến cầu cũ. Thể theo nguyện vọng của nhân dân Vĩnh Linh, nhân dân Quảng Trị và cả nước, Bộ Văn hóa Thông tin đã đầu tư xây dựng khu di tích Đôi bờ Hiền Lương với vốn đầu tư gồm 40 tỷ đồng.
Như vậy đã có 8 lần có cây cầu bắc qua sông Bến Hải nhưng cây cầu được đi vào lịch sử dân tộc là cây cầu được làm từ năm 1952, bởi nó nối hai miền Nam - Bắc và cũng là cây cầu chứng tích cho nỗi đau chia cắt đất nước. Một cây cầu chỉ dài 178m mà để qua được nó trong độc lập tự do, dân tộc ta đã phải trải qua cuộc kháng chiến trường kì gian khổ, ác liệt mà vô cùng oanh liệt. Nhà thơ Thanh Hải xúc động viết:
Cách nhau chỉ một mái chèo
Mà đi trăm núi vạn đèo về đây.
Tháng 7-1954, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến 9 năm của nhân dân ta, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ, lấy sông Bến Hải làm giới tuyến quân sự tạm thời, đợi ngày tổng tuyển cử, hiệp thương thống nhất đất nước. Do đế quốc Mỹ cùng các thế lực thù địch rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta nên sông Bến Hải vô tình thành chứng nhân lịch sử, chứng kiến nỗi đau chia cắt hai miền Nam Bắc.
Theo quy ước của Hiệp định Giơnevơ thì tất cả các đồn công an giới tuyến đều phải treo cờ hàng ngày. Để cho cột cờ, lá cờ đỏ sao vàng của dân tộc ta đứng vững dưới mưa bom bão đạn, các chiến sĩ đồn công an Hiền Lương đã anh dũng chiến đấu trên 300 trận lớn nhỏ, mưu trí dũng cảm bắt biệt kích, thám báo địch vượt sông, đặt mìn phá hoại cột cờ.
Ở bờ Bắc dòng sông, đã xuất hiện nhiều tấm gương cảm động của người dân, một lòng vì lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc. Một trong ngàn vạn tấm gương ấy là mẹ Nguyễn Thị Diệm. Dưới mưa bom bão đạn, cứ mỗi lần cờ bị rách là mẹ lại chạy tới chân cột cờ để vá ngay. Nhờ có những người như mẹ Diệm mà lá cờ đỏ sao vàng, biểu tượng của ý chí đấu tranh và khát vọng thống nhất đất nước, hiên ngang, phần phật tung bay hàng chục năm trời trước sự hằn học tức tối của kẻ thù.
Với ý nghĩa thiêng liêng của lá cờ Tổ quốc ở đôi bờ Bến Hải mà một trong những nội dung chính của “Ngày hội thống nhất non sông” là “Lễ thượng cờ”. Đúng 7 giờ sáng, tại Kỳ đài Hiền Lương, lá cờ đỏ sao vàng được từ từ kéo lên trên đỉnh cột cờ vừa được dựng lại bề thế vững chãi trong sự xúc động nghẹn ngào của hàng vạn người dân cùng đông đảo những người đã từng sống, chiến đấu ở đôi bờ Bến Hải suốt bao năm tháng chiến tranh ác liệt.
57. Địa Đạo Vĩnh Mốc – Cửa Tùng.
Vịnh Mốc là một làng chài ven biển cách thị trấn Hồ Xá khoảng 13 km, cách bãi tắm Cửa Tùng khoảng 7km. Trong kháng chiến chống Mỹ, Vịnh Mốc có một vị thế vô cùng quan trọng trong việc tập kết và vận chuyển lương thực, vũ khí cho đảo Cồn Cỏ.
Năm 1965, trước sự đánh phá khốc liệt của không quân và pháo binh Mỹ vào Vĩnh Linh, Vịnh Mốc cũng như bao làng quê khác bị hủy diệt hoàn toàn. Với quyết tâm bám trụ quê hương và chi viện cho miền Nam, nhân dân Vĩnh Linh đã chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất. Họ đã kiến tạo một hệ thống làng hầm đồ sộ độc đáo mà địa đạo Vịnh Mốc là đại diện tiêu biểu nhất.
Toàn bộ địa đạo được đào trong quả đồi đất đỏ có độ cao chừng 30m, rộng hơn 7 ha. Hệ thống đường hầm cấu trúc hình vòm có kích thước khoảng 0,9 x 1,75m với độ dài 2.034m bao gồm nhiều nhánh nối thông với nhau qua trục chính dài 780m. Có 13 cửa ra vào được chống đỡ bằng cột gỗ và ngụy trang khá kín đáo. Tất cả đều đào chếch theo hướng gió, đảm bảo chức năng thông hơi cho đường hầm. Địa đạo gồm 3 tầng, mỗi tầng có chức năng khác nhau. Tầng thứ nhất cách mặt đất 10m dùng để cơ động chiến đấu và trú ẩn tạm thời; Tầng thứ hai sâu 15m là nơi sinh sống và hoạt động của dân làng; Tầng thứ ba có độ sâu 30m là nơi trung chuyển hàng hóa vũ khí.
Để đảm bảo cho hàng trăm con người ăn ở, sinh hoạt an toàn tiện lợi, dọc hai bên đường hầm người ta đào 94 căn hộ, mỗi căn hộ đủ cho 3-4 người ở. Ngoài ra trong đường hầm có hội trường (sức chứa 50 người dùng làm nơi hội họp, biểu diễn văn nghệ, chiếu phim), 3 giếng nước, bếp Hoàng Cầm, kho gạo, trạm phẩu thuật, trạm gác, máy điện thoại… Đặc biệt có nhà hộ sinh, nơi ra đời của 17 đứa trẻ suốt trong hai năm 1967-1968.
Chiến tranh đã lùi xa nhưng vẫn còn đó một làng hầm huyền thoại. Khi đứng trước sự kiến tạo kỳ diệu này, có rất nhiều dòng cảm xúc nhưng tất thảy đều công nhận "Làng địa đạo Vịnh Mốc giống như một tòa lâu đài cổ nằm im lìm trong lòng đất giấu kín biết bao điều kỳ lạ về những con người đã làm ra nó và thời đại nó đã sinh ra". Địa đạo Vịnh Mốc là công trình trí tuệ và nỗ lực phi thường của nhân dân Vịnh Mốc và lực lượng vũ trang. Nó tạc vào lịch sử Vĩnh Linh một nét son rực rỡ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Sau khi đất nước thống nhất, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận địa đạo Vịnh Mốc là di tích lịch sử Quốc gia và đưa vào danh mục di tích đặc biệt. Cũng từ đó, di tích này luôn được Đảng, Chính phủ và các ngành chức năng hết sức quan tâm đầu tư tôn tạo để giữ gìn di sản quý báu này.
Cửa Tùng là một bãi biển đẹp tuyệt vời ở Quảng Trị. Đây là vùng bãi biển trải dài gần 1km nằm ở thôn An Đức, xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Linh, là một vịnh nhỏ ăn sâu vào chân dải đất đồi bazan chạy sát biển gọi là Bãi Lay. Kề sát phía Nam bãi biển là cửa của dòng sông Hiền Lương (hay còn gọi là sông Minh Lương, sông Bến Hải). Nơi đây từng được các nhà du lịch quốc tế mệnh danh là “nữ hoàng của các bãi tắm”.
bãi tắm Cửa Tùng không rộng và dài nhưng mang một vẻ đẹp rất riêng. Bãi biển phẳng lặng, nước trong xanh và biển lúc nào cũng lộng gió. Ôm lấy bãi biển Cửa Tùng là dải đồi đất đỏ bazan với những dải đá kéo dài ăn sâu ra biển cùng với bãi cát mịn màng. Trên đồi là khu dân cư trù mật với những vườn cây như mít, chè, dứa, chuối, chôm chôm, mãng cầu… Ðây quả là một bãi tắm êm đềm. Hai bãi đá ngầm ăn sâu ra biển từ hai phía là Mũi Si và Mũi Lai đã tạo nên một cái vịnh nhỏ kín đáo và không có các dòng hải lưu cuốn xoáy.
Cửa Tùng như một bức tranh sinh động, thay đổi màu sắc từng giờ dưới ánh nắng mặt trời. Thật thú vị khi được ngồi trên thuyền xuôi dòng Bến Hải để ngắm nhìn cảnh sắc nơi đây. Từ chân cầu Hiền Lương, thuyền sẽ đưa du khách lướt nhẹ trên dòng nước trong xanh, sóng gợn lăn tăn, rì rào gió thổi. Dọc hai bên bờ sông là màu xanh mướt của những ruộng lúa, ngô, màu xanh đậm của các lũy tre, các rặng phi lao và các làng xóm mờ xa. Vào buổi chiều tà, du khách có thể thỏa sức ngắm nhìn những đàn hải âu nhởn nhơ chao liệng đùa giỡn trên những làn sóng thẫm xanh. Đêm đến là thời gian của gió trời và nhạc biển. Tiếng sóng ì ầm hòa với tiếng reo triền miên của rặng phi lao đưa du khách vào giấc ngủ êm đềm.
Cửa Tùng xưa là nơi neo đậu của thuyền bè cư dân đánh cá. Dưới thời Pháp thuộc, thấy khí hậu ở đây mát mẻ hiền hòa, người Pháp đã sử dụng Cửa Tùng làm nơi nghỉ ngơi, tắm biển, giải trí.
58. Khái quát tỉnh Quảng Bình – TP. Đồng Hới.
Quảng Bình nằm ở vị trí trung độ của cả nước, có các trục lộ lớn quốc gia chạy xuyên suốt chiều dài của tỉnh, có cửa khẩu quốc gia Cha Lo, cửa khẩu Kà Roong và tương lai sẽ mở hai cửa khẩu quốc gia nữa. Mặt khác, Quảng Bình là một tỉnh ven biển, hướng ra biển trong phát triển và giao lưu kinh tế. Vị trí địa lý là một lợi thế trong sự phát triển kinh tế của tỉnh. Phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía Nam giáp tỉnh Quảng Trị, phía Tây giáp với Lào, phía Đông giáp với biển Đông. Vị trí địa lý này tạo thuận lợi cho Quảng Bình trong việc tiếp cận và tiếp thu những công nghệ và phương thức quản lý tiên tiến.
Quảng Bình có diện tích tự nhiên là 8.052 km2. Địa hình cấu tạo phức tạp, núi rừng sát biển, tạo thành độ dốc cao dần từ Đông sang Tây. Đồng bằng nhỏ hẹp, chủ yếu tập trung theo hai bờ sông chính; diện tích chiếm khoảng 15% tổng diện tích tự nhiên. Khoảng 85% diện tích là đồi núi, đá vôi. Mật độ sông ngòi dày, toàn tỉnh có 5 con sông chính: sông Gianh, sông Roòn, sông Nhật Lệ, sông Lý Hoà, sông Dinh. Hầu hết các con sông bắt nguồn từ đỉnh núi Trường Sơn đổ ra biển Đông, sông ngắn và do nhiều phụ lưu hợp thành.
Quảng Bình mang tính chất khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự phân hoá sâu sắc của địa hình và chịu ảnh hưởng khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam nước ta. Trong năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 3 đến tháng 9 và mùa khô, lạnh từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình các tháng trong năm khoảng 250C – 260C. Tổng lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000 mm – 2.500 mm, tập trung vào các tháng 9, 10, 11. Độ ẩm tương đối 83 – 84%.
Quảng Bình có bờ biển dài 116 km từ Đèo Ngang đến Hạ Cờ với vùng đặc quyền lãnh hải khoảng 20.000 km2. Dọc theo bờ biển có 5 cửa sông chính tạo nguồn cung cấp phù du sinh vật có giá trị cho việc phát triển nguồn lợi thuỷ sản. Ngoài khơi có 5 đảo nhỏ tạo ra những vịnh có vị trí thuận lợi cho các hoạt động kinh tế biển như Hòn La. Bờ biển có nhiều bãi tắm đẹp, vùng biển có một số ngư trường với nhiều loại hải sản quý hiếm như tôm hùm, mực, hải sâm… cho phép Quảng Bình phát triển kinh tế tổng hợp biển.
Ngoài ra, vùng ven biển Quảng Bình có tiềm năng rất lớn về cát thạch anh, nguyên liệu để sản xuất thuỷ tinh cao cấp xuất khẩu. Biển Quảng Bình có hầu hết các loài hải sản có mặt ở vùng biển Việt Nam (1.000 loài), có những loài hải sản có giá trị kinh tế cao mà các tỉnh khác ít có hoặc không có như: tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang… Phía Bắc biển Quảng Bình có bãi san hô trắng với diện tích hàng chục ha, không những là nguồn nguyên liệu mỹ nghệ có giá trị mà còn tạo điều kiện duy trì hệ sinh thái san hô đặc thù của vùng biển sâu miền Trung. Theo số liệu điều tra và đánh giá của Bộ Thuỷ Sản (năm 1996), trữ lượng cá ở vùng biển Quảng Bình (chưa kể đến một số loài cá như cá ngừ, cá chuồn) là khoảng 51.000 tấn; trữ lượng tôm biển ước tính là 2.000 tấn chủ yếu là các loài tôm mũ ni, đánh bắt vào vụ nam. Trữ lượng mực là 8.000 – 10.000 tấn.
Diện tích tiềm năng mặt nước nuôi trồng thuỷ sản (sông ngòi, ao hồ nhỏ, hồ chứa, mặt nước lớn, diện tích trồng lúa có khả năng nuôi, diện tích bãi bồi ven sông, ven biển, nước mặn) là 15.000 ha, trong đó diện tích có khả năng nuôi trồng thuỷ sản mặn lợ là 4.000 ha, nuôi trồng thuỷ sản ngọt là 11.000 ha.
Tài nguyên sinh vật bao gồm nhiều khu hệ thực, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều nguồn gen quý hiếm. Đặc trưng cho đa dạng sinh học ở Quảng Bình là vùng Karst Phong Nha - Kẻ Bàng.
Quảng Bình có nhiều nguyên liệu cho công nghiệp vật liệu xây dựng gồm đá vôi, đá sét xi măng, sét gạch ngói, đá hộc xây dựng, đá granít,… Đá vôi các loại có trữ lượng khoảng khoảng 5.400đá vân sọc với nhiều màu sắc đẹp, phân bố ở Xuân Sơn, đá mài (Bố Trạch), Tiến Hoá, Đồng Lê (Tuyên Hoá), Hoà Sơn (Minh Hoá); nguyên liệu gốm sứ có mỏ cao lanh ở Lộc Ninh - Đồng Hới, trữ lượng 30,4 triệu tấn, thuộc loại mỏ lớn của nước ta, mỏ dạng lộ thiên dễ khai thác; nguyên liệu cho thuỷ tinh có cát trắng Thạch Anh. Ở phía Bắc Ba Đồn - Quảng Trạch có bãi cát trắng với diện tích rộng gần 40 km2, ước tính trữ lượng 35 triệu tấn, ở Thanh Khê - Bố Trạch có trữ lượng 5 triệu tấn. Cát có độ tinh khiết cao, hạt mịn, hàm lượng Si02 tới 98 – 99%, nằm cạnh đường giao thông, dễ khai thác vận chuyển, có thể phục vụ cho việc sản xuất các mặt hàng thuỷ tinh cao cấp và các vật liệu từ silicát khác.
Các khoáng sản kim loại và phi khoáng khác có các loại khoáng sản nhiên liệu có mỏ than đá antraxit ở huyện Minh Hoá, trữ lượng khoảng 50 – 100.000 tấn, có ý nghĩa địa phương. Than bùn ở Quảng Trạch, Lệ Thuỷ, Bố Trạch, trữ lượng khoảng 900.000 tấn là nguồn nguyên liệu phục vụ phân vi sinh.
Khoáng sản kim loại và kim loại quý hiếm có sắt ở Phú Thiết - Lệ Thuỷ, Thọ Lộc - Bố Trạch; mănggan ở Kim Lai, Đồng Văn, Cải Đăng (Tuyên Hoá), chì, kẽm ở Mỹ Đức - Lệ Thuỷ; wonfram ở Kim Lũ (Tuyên Hoá); vàng ở Làng Ho, Asóc, La Huy, Bãi Hà, Làng Mô, trữ lượng titan lớn nằm dọc theo bờ biển.
Nguyên liệu hoá chất và phân bón có pyrit phân bố chủ yếu ở Quảng Trạch, Lệ Thuỷ, có thể khác thác làm nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp địa phương hoặc cung cấp cho những nhà máy hoá chất; phôphorit phân bố chủ yếu ở các hang động đá vôi Quảng Ninh, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Minh Hoá, dọc theo bờ sông Rào Nậy với 23 điểm khác nhau. Trữ lượng tìm kiếm đánh giá là 150 nghìn tấn, hàm lượng P205 trong quặng trung bình khoảng 15 – 20%. Cùng với than bùn ở Quảng Trạch, đôlômit cũng được khai thác làm nguyên liệu sản xuất phân bón tổng hợp.
Quảng Bình là khu vực chuyển tiếp của văn hoá các miền trên cả hai chiều Bắc – Nam và Đông – Tây, đồng thời cũng là nơi tạo hoá để lại nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ, mở ra khả năng phong phú cho phát triển nhiều loại hình du lịch như tham quan, thám hiểm, nghỉ ngơi, nghiên cứu du lịch sinh thái. Quảng Bình có bốn khu danh thắng nổi tiếng là Đèo Ngang, Lý Hoà, cửa biển Nhật Lệ và Phong Nha. Bờ biển có một số bãi tắm và điểm nghỉ ngơi giải trí kỳ thú như Cửa Nhật Lệ, cảng Giang, vịnh Hòn La, bãi tắm Đá Nhảy, di tích Bàu Tró. Đặc biệt Quảng Bình có vùng Karst trẻ Phong Nha - Kẻ Bàng – Him Nậm Nô rộng lớn (khoảng 200 nghìn ha) và là điển hình không chỉ của Việt Nam mà còn của cả thế giới. Vùng Karst này có trên 300 hang động lớn nhỏ, được mệnh danh là “vương quốc hang động”, đang tiềm ẩn trong nó nhiều điều kỳ lạ và hấp dẫn các nhà thám hiểm, các nhà khoa học và du khách. Khu động Phong Nha còn có cả một hệ di tích lịch sử văn hoá có giá trị cho nhiều thời đại như các di tích khảo cổ học tiền sử, di tích văn hoá Chàm, di tích các trọng điểm trong chiến tranh chống Mỹ. Hệ thống động Phong Nha được đánh giá là hang động có giá trị hàng đầu thế giới với bốn điểm nhất (dòng sông ngầm dài và sâu nhất – 13.969 m, cửa hang cao và rộng nhất, có những bờ cát rộng và đẹp nhất, thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất). Vào tháng 7/2003, vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Quảng Bình có 140 di tích đã được kiểm kê, đánh giá, trong số đó nổi bật nhất là quần thể di tích và danh thắng thị xã Đồng Hới gồm luỹ Đào Duy Từ và Quảng Bình Quan; di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nổi tiếng làng Ho (tuyến đường mòn lịch sử Hồ Chí Minh).
Đồng Hới là thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Bình ở vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập thành phố Đồng Hới trên cơ sở thị xã Đồng Hới.
Đồng Hới nằm gần cửa sông Nhật Lệ, cách thủ đô Hà Nội khoảng 500 km về phía nam-đông nam theo quốc lộ 1A hoặc đường sắt Bắc Nam. Có thể đến Đồng Hới bằng quốc lộ 1A hoặc đường Trường Sơn hoặc bằng tàu hoả theo đường sắt Bắc Nam xuống ga Đồng Hới; đường thủy: cảng Nhật Lệ; đường hàng không: sân bay Đồng Hới đang được xây dựng và cuối năm 2006 sẽ mở các tuyến bay đến Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng (gạch men, xi măng, nhôm), đánh bắt hải sản, thương mại.
Thành phố Đồng Hới là nơi nghỉ ngơi của du khác đến tham quan di sản thế giới: Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, tắm biển Nhật Lệ, Đá Nhảy và suối nước khoáng nóng Bang, khu nghỉ mát Sun Spa. Ẩm thực chủ yếu: các món ăn hải sản.
59. Quảng Bình Quan – Lũy Thầy.
Quảng Bình Quan được nhà chiến lược Đào Duy Từ xây năm 1631 đang “sống chung” với những toà building hiện đại.
ĐÀO DUY TƯ ( 1572 - 1634 ), nhà chiến lược, tác giả thời chúa Nguyễn lập nghiệp mở mang bờ cõi về phía Nam, quê Làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phường Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Ông thông kinh sử, tinh thâm lý số và binh thư đồ trận. Nhưng vì thân phụ ông ( Đào Tá Hán) xuất thân là quản gíap trong nghề ca hát mà luật lệ thời ấy thì nghiêm cấm không cho con nhà xướng ca ra thi cử, nên ông không tiến thân đuọc. Bất đắc chí, ông bỏ Đông Kinh ( Hà Nội) lần vào miền Nam, định theo phò chúa Nguyễn.
Trong lúc bơ vơ nơi phủ Hoài Nhơn, ( nay thuộc phường Bồng Sơn) tỉnh Bình Định, ông tạm khuất thân ở ẩn, chăn trâu cho nhà giàu Chúc Tịnh Long ở thôn Tòng Châu.
Tiếng tăm của ông dần dần được sĩ phu biết đến, Khán Lí Trần Đức Hòa ở Qui Nhơn mến tài , gả con cho ông và tiến cử lên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Đuọc chúa Sãi trọng dụng phong làm nội tán, ông tận tụy giúp chúa Nguyễn về quân sự, chính trị, văn hóa, đương đầu với chúa Trịnh đem về nhiều thắng lợi.
Năm 1630 ông xướng xuất việc đắp lũy Trường Dục ở huyện Phong Lộc, tỉnh Qủang Bình. Qua năm 1631 ông lại đắp thêm một lũy nữa từ cửa bể Nhật Lệ đến núi Đâu Mâu ( ở Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình), cao một trượng , dài trên 200 trượng ( tục gọi là lũy Thầy. Đến đời Thiệu Trị mang tên là " Định Bắc trường thành").
Năm 1634 ông mất, thọ 62 tuổi, được phong tặng hàm Tán trị dực vận công thần, Kim tử vinh lộc đại phu, Đại lí tự khanh, tước Lộc Khê hầu. Đến triều Minh Mạng, truy phong tước Hoàng Quốc Công.
60. Động Phong Nha, Động Tiên Sơn.
Động Phong Nha nằm trên địa phận xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình. Cái nơi vốn bị coi là ''chó ăn đá gà ăn sỏi'' ấy lại khiến không ít du khách vô cùng ngạc nhiên bởi vẻ đẹp tuyệt vời của miền sơn cước. Đồi núi nhấp nhô và những thửa xuộng bậc thang uốn lượn theo dòng sông xanh biếc. Làng quê yên bình nằm dưới lùm tre thấp thoáng những mái nhà nâu đỏ bên dòng sông Son. Những o thôn nữ giặt giũ bên bến nước. Nhưng vẻ đẹp mỹ miều của kỳ quan Phong Nha và thiên nhiên hữu tình ở Sơn Trạch chưa thực sự ''đẻ trứng vàng'' cho Quảng Bình?
Phong Nha được UNESCO công nhận là hang động nước có thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất thế giới thật không ngoa. Vô số những khối thạch nhũ đủ hình thù uyển chuyển đua nhau soi mình trong dòng nước trong xanh. Hai hàng cột thạch nhũ xen nhau xếp bên vách động mà không cột nào giống cột nào. Rừng cột chôn mình dưới làn nước sâu 6 - 7m, thành dãy đền lung linh bí ẩn như 1 toà thuỷ cung nguy nga tráng lệ. Ở đây có khối thạch nhũ Đại Kim chuông (vì gõ nhẹ vào sẽ có tiếng chuông ngân âm vang), cũng là khối thạch nhũ lớn thứ 2 Đông Nam Á, khối Tóc tiên dài đến 24m lóng lánh ánh kim tuyến...''
Điều đáng tiếc là hệ thống ánh sáng xanh xanh đỏ đỏ như đèn sân khấu hiện đang sử dụng trong hang động Phong Nha khiến du khách cảm thấy như đang lạc vào động của một cô đồng nào đó. Chúng làm cho vẻ đẹp lóng lánh tự nhiên của thạch nhũ bị nhạt nhoà. Anh Thiết - một hướng dẫn viên khẳng định: '' Phải có hệ thống ánh sáng thật tinh tế mới có thể tôn vinh được vẻ đẹp của thạch nhũ từ những mái vòm cao đến 50m''.
Động Tiên Sơn nằm ở chân núi khu danh thắng Kim Sơn, thuộc xã Vĩnh An, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa được người dân địa phương tự hào gọi là "Phong Nha thứ hai của Việt Nam". Từ chân núi hoang vu nhìn lên, chỉ thấy cửa động đen ngòm chênh vênh. Đường lên động Tiên Sơn là những bậc đá cheo leo, dốc và trơn tuột đến đứng tim. Cả một vùng núi non, sông nước huyền bí với vẻ đẹp hùng vĩ thu gọn vào tầm mắt. Vùng này xưa gọi là Ngọc Sơn thuộc tổng Biên Thượng, huyện Vĩnh Lộc, phủ Quảng Hóa. Nơi đây thế đất hiểm trở, phía Đông giáp Hà Trung và quốc lộ 1A, phía Tây là rừng núi bạt ngàn dọc sông Mã đến tận Cẩm Thuỷ, Thạch Thành. Không phải ngẫu nhiên mà Hồ Quý Ly từng lấy chỗ này để dựng thành, xây nghiệp Bá Vương.
Theo thuyết phong thủy, thành dựa lưng vào dãy núi Sen đá vôi với thế long chầu hổ phục. Phía trước là sông Mã cuồn cuộn chảy. Tứ diện đều có thể tận dụng thế thiên thời, địa lợi, hiểm yếu và lợi hại khi có biến. Trong cuốn Những thắng tích của xứ Thanh, tác giả Hương Nao viết: "Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược vào thế kỷ 13, vua Trần cùng Tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tập kết lực lượng về vùng Kim Sơn này. Sau hơn 3 tháng, vua Trần và các tướng lĩnh có một lực lượng hùng hậu kéo ra bắc, đánh thắng quân xâm lược liên tiếp trong các trận Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương rồi giải phóng kinh thành Thăng Long". Đây cũng là nơi hoạt động của nghĩa quân Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 do Tống Duy Tân lãnh đạo.
Qua cửa động nhỏ được khoá tạm bằng cổng tre, cả đoàn sững lại trước vẻ đẹp của bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao 20m bằng nhũ thạch, mình khoác cà sa trắng toát ngự trên tòa sen lung linh khi đèn pin chiếu vào. Vào sâu bên trong động, có một con đường nhỏ nằm giữa những hình thù kỳ dị của tạo vật với nhiều dáng vẻ tạo bởi nhũ đá trắng toát. Leo lên vài phiến đá, sẽ bắt gặp ngay những "mái tóc" của các nàng tiên, được đan dày bằng nhiều sợi nhũ đá nhỏ, mảnh và đều tăm tắp xõa từ vòm hang xuống. Bên trái là những bông hoa san hô, hoa đá khổng lồ giống hệt san hô ngoài biển sừng sững với muôn ngàn ngũ sắc giữa vòm hang sống động. Những khối nhũ thạch hình chim muông, cá, sư tử, voi... trong một thế giới vừa thực vừa hư.
Bên trong động có một cái giếng được gọi là Giếng Tiên, giống cái bình đựng nước trong vắt đặt trên đá. Thỉnh thoảng lại có tiếng "tong" của giọt nước rơi từ nhũ đá. Đi sâu vào trong động, khi lách mình qua thiên la địa võng nhũ đá để đi xuống Thủy Cung ở độ sâu hơn 10m, cung Thủy Tề Vương hiện ra tráng lệ với những con cá, trai, hến và muôn vàn loài thuỷ sinh từ nhũ đá. Chạm tay vào đàn, vang lên những âm thanh kỳ diệu, xa xăm. Đâu đó, tiếng rì rào của thác nước bạc óng ánh đang tuôn xuống dòng suối bạc lung linh. Động khá rộng, kéo dài đến tận xã Vĩnh Minh cách đây vài cây số. Người ở đây cũng chưa ai khám phá hết những bí ẩn của động này.
61. Khu chứng tích Sơn Mỹ.
Lượng khách đến tham quan Khu chứng tích Sơn Mỹ (Quảng Ngãi) ngày càng tăng. Khu chứng tích Sơn Mỹ (làng Mỹ Lai, xã Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi) - nơi ghi dấu vụ quân đội Mỹ thảm sát 504 người dân vô tội vào ngày 16/3/1968 - đã đón 9.286 lượt du khách đến tham quan. Trong đó có 7.370 lượt khách trong nước và 1.616 khách nước ngoài đến từ 24 quốc gia khác nhau trên thế giới, đa số là đến từ Mỹ, Nhật, Hàn Quốc.
Tại lễ dâng hương và đặt vòng hoa trước đài tưởng niệm ở Khu chứng tích Sơn Mỹ do Sở VH-TT phối hợp với UBND huyện Sơn Tịnh tổ chức hôm 16/3 vừa qua cũng thu hút đông đảo người dân địa phương cùng du khách trong và ngoài nước đến dự.
Được biết, trong năm 2005, Khu chứng tích Sơn Mỹ đã đón 38.956 lượt khách đến tham quan. Trong đó có 8.450 lượt khách nước ngoài đến từ 31 nước trên thế giới. Qua thống kê các năm cho thấy lượng du khách đến tham quan, tưởng niệm tại Khu chứng tích Sơn Mỹ ngày càng tăng.
Đa số du khách khi đến Khu chứng tích này là đều lên án tội ác dã man mà quân đội Mỹ đã gây ra đối với người dân Sơn Mỹ và mong muốn người dân nơi đây quên đi đau thương, cố gắng xây dựng quê hương ngày càng phát triển và sẽ luôn được sống trong hoà bình
62. Khái quát tỉnh Ninh Thuận – Thị xã Phan Rang, Tháp Poklong Giarai, Tháp Hòa Lai.
Ninh Thuận là tỉnh duyên hải Nam Trung bộ Việt Nam, phía bắc giáp Khánh Hoà, phía tây giáp Lâm Đồng, phía nam giáp Bình Thuận và phía đông giáp biển Đông. Ninh Thuận được bao bọc 3 mặt là núi: phía bắc và phía nam tỉnh là 2 dãy núi cao nhô ra sát biển, phía đông là vùng núi cao của tỉnh Lâm Đồng. Địa hình có 3 dạng: miền núi, đồng bằng, vùng ven biển. Tỉnh có 2 hệ thống sông chính: hệ thống sông Cái, bao gồm các sông nhánh như sông Mê Lam, sông Sắt, sông Ông, sông La, sông Quao... và hệ thống các sông suối nhỏ phân bố ở phía bắc và nam tỉnh như sông Trâu, sông Bà Râu.
Thị xã Phan Rang nằm trên giao điểm của 3 trục giao thông chiến lược là đường sắt Bắc - Nam, quốc lộ 1A, đường số 11 lên Đà Lạt. Phan Rang cách Tp Nha Trang 105 km, Đà Lạt 110 km, Tp Hồ Chí Minh 350 km và Hà Nội 1382 km.
Ninh Thuận đang hình thành các vùng sản xuất chuyên canh như: nho, thuốc lá, mía, đường, bông, hành, tỏi và nuôi trồng thủy sản. Ninh Thuận là một trong số các ngư trường lớn của nước ta. Ninh Thuận là một bức tranh hài hoà giữa đồng bằng, đồi núi và biển cả. Nằm trong cụm du lịch quốc gia thuộc tam giác Đà Lạt - Nha Trang - Phan Rang, Ninh Thuận có những thắng cảnh: bãi biển Ninh Chữ, bãi biển Cà Ná, đèo Ngoạn Mục, thủy điện Đa Nhim và di tích lịch sử quí giá là các tháp Chàm: Pôklông Garai, Pôrômê, Hoà Lai,... hầu như còn nguyên vẹn. Đến thăm nơi đây du khách có thể tham gia nhiều loại hình du lịch: tắm biển, nghỉ dưỡng, du thuyền, leo núi, săn bắn, tham quan các di tích lịch sử, hoặc tham dự các lễ hội của người Chăm.
Di tích Danh thắng: Bãi tắm Ninh Chữ; Làng du lịch Cà Ná; Núi Đá Trắng; Tháp Pôklông Garai; Tháp Pôrômê; Tháp Hoà Lai; Vịnh Vĩnh Hy. Các Lễ hội như: Lễ hội Katê; Lễ hội Cha Bun; Lễ hội Rija Nưga; Lễ hội Jòn Jang
Tháp Poklong Giarai nằm trên ngọn đồi Trầu thuộc phường Đô Vinh, cách trung tâm thị xã Phan Rang 9km về phía Tây Bắc, được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV (thời Vua Shihavaman, người Việt gọi là Chế Mân) để thờ Vua PôKlong Garai (1151-1205), vị vua đã có nhiều công lớn trong lĩnh vực thủy lợi (dẫn thủy nhập điền), không những thế dưới triều ông trị vì đất nước Chăm Pa được hưng thịnh, nhân dân sống ấm no, hạnh phúc.
Tháp Poklong Garai là một tổng thể gồm ba tháp: tháp chính (cao 20,5m), tháp lửa (cao 9,31m), tháp cổng (cao 8,56m). Công trình này có trình độ kiến trúc, nghệ thuật, điêu khắc đạt đến đỉnh cao. Tháp đã được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1979.
Hàng năm trên các tháp chàm người Chăm tổ chức nhiều lễ hội như lễ: Chal Cỗu (lễ cả nước) tổ chức vào tháng giêng Chăm lịch (lịch Chăm); Lễ mở cửa (lễ cầu đảo), tổ chức vào tháng 4 Chăm lịch (khoảng tháng 4, 5 âm lịch) ; Lễ Katê (lễ tưởng niệm đấng Cha), là lễ lớn nhất trong nhân dân và trên các tháp của người Chăm (được coi như ngày tết), tổ chức vào ngày 1/7 Chăm lịch (khoảng tháng 10 dương lịch); Lễ Cha Bun (lễ tưởng niệm đấng Mẹ), tổ chức vào tháng 10 Chăm lịch, những lễ hội này nhằm mục đích là chúc sức khỏe, mưa thuận gió hòa.
Cụm tháp Hòa Lai (Tân Hải - Ninh Hải) có từ thế kỷ thứ 9 là công trình cổ nhất của nghệ thuật kiến trúc đền tháp Chăm. Những di tích đền đài Chăm có rải rác tại 22 làng Chăm ở Ninh Thuận, mỗi nơi ẩn chứa nhiều giá trị đang được phát hiện.
63. Làng gốm Bàu Trúc.
Làng gốm Bàu Trúc (tiếng Chăm gọi là Palay Hamuk) nằm cách thị xã Phan Rang - Tháp Chàm (tỉnh Ninh Thuận) khoảng 10km về hướng Nam. Toàn làng có 440 hộ với 2887 nhân khẩu dân tộc Chăm. Do sự phân công lại lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đã có 20% chuyển sang làm dịch vụ thương mại, chăn nuôi gia súc theo mô hình trang trại. 80% số hộ còn lại vẫn gắn bó với nghề gốm truyền thống mẹ truyền con nối. Theo truyền thuyết của cư dân địa phương, nghề làm gốm do vợ chồng ông tổ Poklong Chanh dạy cho phụ nữ trong làng từ ngàn xưa được nhân dân duy trì cho đến ngày nay. Để tưởng nhớ công ơn của tổ nghề, bà con lập đền thờ Pôklong Chanh ngay trong làng và tế lễ vào dịp lễ hội Katê hàng năm.
Trở lại làng gốm Bàu Trúc trong những ngày tháng sáu, chúng tôi gặp không khí lao động khẩn trương của một trong những làng nghề cổ xưa nhất trong vùng Đông Nam Á. Dưới bóng mát những mái hiên nhà, dưới những tán cây cổ thụ thấp thoáng bóng dáng những người phụ nữ Chăm đang cần mẫn tạo hình cho sản phẩm gốm truyền thống. Hàng ngàn con người gắn bó máu thịt với nghề làm gốm đã tạo nên một diện mạo văn hoá độc đáo của cộng đồng dân tộc Chăm Việt Nam.
Nghề làm gốm rất công phu. Đất sét được lấy từ đồng Bàu Trúc về đập nhỏ. Trước khi nặn gốm, người thợ phải đào hố ủ đất qua một đêm với lượng nước vừa phải. Sáng hôm sau, đem đất đã ủ trộn với cát mịn nhào nhuyễn. Phụ nữ Chăm nặn gốm hoàn toàn bằng tay, không dùng bàn xoay như những nơi khác. Họ đi vòng quanh bệ gốm để chế tác sản phẩm. Có lẽ Bàu Trúc là làng gốm duy nhất ở Việt Nam mà người thợ chỉ dùng bàn tay tài hoa của mình để cho ra đời những sản phẩm đất nung.
Sau khi tạo dáng, gốm thô được đưa ra phơi nắng 4-6 giờ rồi dùng mảnh sành hoặc cật tre làm láng. Mỗi gia đình sản xuất gốm mộc trong thời gian năm - mười ngày mới đưa ra nung chín, lò nung lộ thiên. Sản phẩm gốm được xếp đan xen với rơm và củi khô. Thời gian đốt 4-5 giờ là gốm chín có sắc đỏ tươi nguyên của màu đất được tôi luyện qua lửa.
Khi sản phẩm ra lò, trước lúc đưa ra thị trường tiêu thụ, các già làng có nhiệm vụ “kiểm định chất lượng” sản phẩm. Gốm ra lò được các chủ vựa từ thị xã Phan Rang- Tháp Chàm lên ăn hàng đưa về phố phân phối cho người tiêu dùng nội tỉnh. Hoặc người làm gốm tự thuê xe chở vào Bình Thuận lên Lâm Đồng phục vụ tận tay người tiêu dùng. Sau khi trừ hết chi phí, mỗi người thợ làm gốm Chăm có thu nhập 700-800 ngàn đồng/tháng. Riêng những người sản xuất gốm mỹ nghệ phục vụ khách du lịch và trang trí nội thất có thu nhập ổn định trên 1 triệu đồng/tháng.
64. Làng dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp.
Làng Mỹ Nghiệp Nằm cách thị xã Phan Rang khoảng 10 km về hướng Nam, thuộc huyện Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận là làng nghề dệt thổ cẩm truyền thống khá đặc sắc. Đa số người dân ở đây là dân tộc chăm.
Nghề dệt thổ cẩm có từ lâu đời, theo truyền thuyết vào thế kỷ 17 vua Ponưra. Bà là một nghệ nhân tạo ra những hoa văn rất đặc sắc trên nền vải, và chính bà đã tạo ra nghề dệt này, bà đã truyền lại cho ông Xa và bà Chaleng. Họ là hai vợ chồng sinh sống ở làng ChaLeng thời xưa và bây giờ chính là làng Mỹ Nghiệp.Ngày xưa người dân tự trồng bông làm nguyên liệu sản xuất và dùng cây Chùm Bầu, cây Mo, bùn non làm phẩm nhuộm và dùng các khung gỗ thô sơ làm công cụ tạo ra sản phẩm mà chủ yếu dùng làm trang phục cho người quá cố. Cho đến năm 1991 cơ sở của nghề dệt đã được hình thành nhưng chưa được phát triển chỉ tiêu thụ tại các tỉnh Lâm Đồng, Daklak.... Những năm gần đây mặt hàng này không chỉ được tiêu thụ trong nước mà còn được xuất khẩu sang thị trường nhiều nước trên thế giới.
Nghề dệt đã tạo cho người dân làng Mỹ Nghiệp có việc làm và mức thu nhập tương đối ổn định. Nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nên Nghề dệt làng Mỹ Nghiệp ngày càng phát triển mạnh, hiện nay đã có nhiều cơ sở sản xuất đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đứng trước cơn lốc của nền kinh tế thị trường ngày nay, hầu hết các sản phẩm đều có những yêu cầu thay đổi mẫu mã để đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng, Nhưng người dân tộc Chăm ở đây vẫn quyết tâm duy trì bảo vệ những nét hoa văn truyền thống của cha ông trên mặt dệt thổ cẩm của mình.
65. Đồi cát, suối Hồng, các khu du lịch tại Phan Thiết.
Đến Phan Thiết du khách sẽ tắm biển Hòn Rơm tham gia các hoạt động trò chơi bãi biển manh tính chất giao lưu kết bạn như: kéo co, đua ghe, đôi hia ngàn dặm, xác ướp Ai Cập, đá bóng tình yêu, nhảy bao bố. Đặc biệt buổi tối du khách sẽ tham gia chương trình lửa trại tại bãi biển Hòn Rơm với các trò chơi dân gian độc đáo vui nhộn như Khéo tay hay làm, Phụ nữ đảm đang. Ngoài những hoạt động trên du khách sẽ tham quan sa mạc cát vàng, đồi cát bay Mũi Né, suối Hồng, tháp chàm Poshanu, tháp cổ của ngừoi Chiêm Thành, Lầu Ông Hoàng... Trước khi về sẽ ghé chợ Phan Thiết mua các đặc sản biển, quà lưu niệm...
Theo thống kê của nhiều công ty du lịch lữ hành tại TP HCM cho thấy, 75-80% khách du lịch nghỉ cuối tuần, nếu đi biển nơi đến sẽ là Phan Thiết - Mũi Né. Bởi nơi đây phong cảnh hữu tình, có nhiều khu nghỉ mát (resort) và an ninh rất tốt. Mũi Né - Phan Thiết nổi lên như một địa điểm du lịch biển mới, hoang sơ, hấp dẫn, vì vậy lượng khách đi nghỉ ở đây ngày càng nhiều, tiêu chuẩn phòng nghỉ, hệ thống khách sạn, nhà nghỉ, khu nghỉ mát đa dạng và đạt tiêu chuẩn, tạo nhiều lựa chọn cho du khách.
Các địa danh như tháp Chàm Pôsanư, lầu Ông Hoàng, suối Hồng... còn khá xa lạ, từ đó tạo sự hấp dẫn du khách. Phan Thiết còn có lợi thế rất lớn là đồi cát làm cho không khí thoáng hơn, đẹp hơn. Ở Phan Thiết không chỉ có khu vực đồi cát mà còn có khu vực bàu Sen, từ Phan Thiết đi lên Ninh Chữ còn có vịnh Vĩnh Hy..., tất cả những điểm này đều có thể thiết kế nằm gọn trong tour du lịch hai ngày.
Tình hình an ninh ở Phan Thiết - Mũi Né rất an toàn. Giám đốc Resort Sài Gòn - Mũi Né cho biết có nhiều khi khách ngủ không đóng cửa và chưa thấy báo cáo gì về mất cắp. Nhà dân có hàng rào mà không có cổng, khách du lịch lang thang đêm ở khu vực này chẳng mấy khi bị móc túi, giật đồ.
Giờ đây, Mũi Né đã phát triển rất nhiều khu nghỉ mát từ trung bình đến cao cấp có thể đáp ứng nhu cầu nghỉ dưỡng của những du khách cần hai ngày nghỉ ngơi. Giá phòng ở những khu nghỉ mát này tuy cao hơn khách sạn bên ngoài nhưng cuối tuần nếu không đặt trước khách cũng sẽ khó kiếm được phòng.
Phan Thiết - Mũi Né còn đáp ứng nhu cầu du lịch dã ngoại của các đoàn lớn. Khu đồi Hồng, hòn Rơm là nơi lý tưởng để tổ chức những đêm lửa trại, các trò chơi vận động ngoài trời cho hàng trăm khách. Tỷ lệ phòng trung bình khoảng trên 60% nhưng vào những ngày cuối tuần thì chẳng lúc nào còn phòng trống. “Vào thời gian cao điểm như Giáng sinh, tết tây, tết âm lịch... nếu khách không đặt phòng trước ba tháng thì không thể nào có phòng nghỉ”
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top