561-end

Thôi gia bảo.

Mọi người tề tựu ở chính sảnh, nghị hội đầu tiên kể từ khi họ ly khai Biên Hoang Tập sắp sửa diễn ra.

Trác Cuồng Sinh giữ ghế chủ tọa, mọi người chia nhau ngồi hai hàng trái phải, theo quy định của nghị hội thì các thành viên ngồi phía trước, dự thính viên ngồi phía sau, thứ tự rất mạch lạc.

Trác Cuồng Sinh tằng hắng mấy tiếng, vừa để thông giọng, vừa để làm hiệu dẹp yên những tiếng rì ầm lao xao trong sảnh, lấy lại sự trang nghiêm cho hội nghị.

Khi thấy tất cả mọi người đã đổ dồn mắt vào mình, “danh sĩ” Trác Cuồng Sinh mới hân hoan hỏi: “Ai sẽ là người tiến cử Hướng huynh?”.

Bàng Nghĩa ngơ ngác: “Tự nhiên tòi ra nghi thức nào thế?”.

Thôi Hoành đã từng tham gia hội nghị, vì vậy không cần ai giới thiệu, nhưng Hướng Vũ Điền mới lần đầu tới dự thính, chiếu theo truyền thống của nghị hội thì nhất thiết phải có thành viên tiến cử, rồi lại do tập thể giơ tay biểu quyết tán thành hay phản đối.

Yến Phi nhìn Trác Cuồng Sinh, lòng man mác một tư vị gì rất lạ. Phong thái hiện tại của lão khiến chàng nhẹ nhõm, bí mật về Tiên môn tựa hồ không gây tác động tiêu cực nào lên con người này. Chàng mỉm cười: “Đúng là nên theo quy củ. Yến Phi nguyện dùng danh dự của mình bảo đảm, Hướng Vũ Điền không những không phải là địch nhân mà còn có thể nói là một hảo huynh đệ của chúng ta. Các vị có thể đặt lòng tin tuyệt đối vào y, y sẽ thay Cao tiểu tử trở thành thám tử hàng đầu của đại quân Biên Hoang chúng ta, giúp chúng ta nắm trọn tình hình địch nhân trong lòng bàn tay”.

Mọi người đồng thanh hoan hô với niềm phấn khởi thực sự. Họ đều đã được lĩnh giáo và thể nghiệm sâu sắc võ công cũng như tài trí của Hướng Vũ Điền, nay có y trợ giúp, sát vai tác chiến, ai nấy đều nhiệt liệt cổ vũ, mỗi lúc một tự tin thêm lên.

Hướng Vũ Điền đứng dậy ôm quyền đáp lễ, cười nói: “Được đan tay hợp tác với Hoang nhân các vị là vinh hạnh của họ Hướng này, từ nay trở đi, chúng ta là đồng minh chiến hữu, trước khi cứu Thiên Thiên tiểu thư và Tiểu Thi tỷ về, Hướng Vũ Điền này xin thề với trời không bao giờ lùi bước”.

Mọi người lại hoan hô rộn ràng, không khí vô cùng sôi nổi.

Trác Cuồng Sinh mời Hướng Vũ Điền ngồi xuống, mỉm cười nói: “Mời thám tử hàng đầu của chúng ta báo cáo tình hình địch nhân”.

Hướng Vũ Điền đưa mắt dọ hỏi ý kiến Yến Phi, đoạn kể ra cặn kẽ tình hình phân bố hai cánh quân của người Yên, cuối cùng kết luận: “Bạn đồng minh Thác Bạt tộc chủ là một thống soái sáng suốt, hoàn toàn đủ tư cách liên thủ tác chiến với chúng ta, về mặt này mời Thôi huynh giải trình cho rõ hơn”.

Thôi Hoành nghiêm chỉnh nói: “Lần này ta theo Hướng huynh về bảo hội họp với các huynh đệ Hoang nhân, hoàn toàn không phải đi một mình mà còn dẫn theo một cánh quân tinh nhuệ gồm năm ngàn người hiện do Đinh Tuyên thống lĩnh, đến một vị trí chiến lược xác định và vào một thời cơ thích hợp thì sẽ cùng chúng ta giáp kích địch nhân”.

Mọi người cả mừng, hò reo như sấm động, khiến không khí hội nghị sôi nổi tột độ.

Mộ Dung Chiến cảm khái: “Thế thì thực lực của chúng ta sẽ tăng lên rất nhiều, khả năng chiến thắng cũng chắc chắn hơn”.

Thôi Hoành nói: “Không phải ta bợ đỡ hay hành động vì tộc chủ, nhưng quả thực tộc chủ đã có dự liệu từ lâu rồi, đoán rằng Mộ Dung Thùy sẽ phái người đến chặn đánh các vị nên đã mời Hướng huynh dò xét tình hình địch nhân, lại rút năm nghìn người ra cho ta chỉ huy, chuẩn bị ổn thỏa, vì vậy sau khi Hướng huynh về Can thành, chúng ta lập tức khởi hành lên đường, không để lỡ thời gian nữa”.

Mọi người lúc này mới hiểu nguyên nhân Hướng Vũ Điền tán thưởng Thác Bạt Khuê vừa rồi.

Cơ Biệt cười ha hả: “Người ta nói Mộ Dung Thùy rất hiểu thuật dùng binh, nhưng cứ như ý ta thì lần này thuật dùng binh của hắn không thông rồi, đội quân của Thôi huynh đây mới thực sự là kỳ binh”.

Mọi người lại ồn ào.

Trác Cuồng Sinh nói: “Mời Trấn Ác trình bày tình hình bên chúng ta”.

Vương Trấn Ác nói: “Bên chúng ta cũng có một cánh kỳ binh. Nếu địch nhân vẫn giám sát chặt chẽ Thôi gia bảo, nhất định sẽ trúng kế. Trong con mắt dò xét của địch nhân, năm nghìn quân của chúng ta chỉ là lực lượng chống đỡ cho Thôi gia bảo hôm kia, thực tế thì ba tháng trước đó, người của chúng ta đã lục tục đến thành lũy của Thôi huynh, ngụy trang bằng việc vận chuyển vật tư lương thảo, sau đó phần đông mọi người vẫn bí mật ở lại”.

Hướng Vũ Điền hỏi: “Nếu địch nhân phát hiện ra lúc đến thuyền đầy ắp người, lúc đi lại chỉ còn lơ thơ vài người thì liệu có sinh nghi không?”.

Hô Lôi Phương cười đáp: “Thuyền vận binh của chúng ta đi đến đều vào lúc đêm khuya, khiến địch nhân không nhìn rõ hư thực, người ít hơn một chút thì đắp người cỏ vào, đi đến vội vã, bảo đảm địch nhân không nhận ra sơ hở đâu”.

Hồng Tử Xuân vui vẻ bảo: “Chỉ cần địch nhân tưởng lầm là chúng ta chỉ có năm ngàn người, thì năm ngàn người còn lại có thể trở thành kỳ binh rồi. Mộ Dung Long chưa bao giờ giao thủ với chúng ta, có chú ý cũng bằng thừa, nhất định sẽ trúng kế”.

Thác Bạt Nghi tiếp lời: “Huống hồ địch nhân đến giám sát động tĩnh của chúng ta ở đây, rất có khả năng chỉ là chuyện mười mấy ngày gần đây, căn bản không hiểu kế hoạch vận binh bí mật của chúng ta đã tiến hành được hơn ba tháng rồi”.

Thôi Hoành tán thưởng: “Kế hay!”.

Trác Cuồng Sinh cười to: “Các vị thủ túc, bây giờ tình hình rõ ràng lắm rồi, chúng ta đã nắm quyền chủ động, chiếm hết thế thượng phong, hãy xem cuộc chiến giữa chúng ta và quân đoàn Long thành có dứt điểm sạch sẽ không, có khử được một cánh tay hữu dụng của Mộ Dung Thùy không?”.

Mộ Dung Chiến gật đầu: “Trận chiến này nhất định là sẽ xảy ra trước khi Mộ Dung Thùy đánh Bình Thành, thế thì chúng ta có thể trừ bỏ chướng ngại, cùng Thác Bạt tộc hợp kích Mộ Dung Thùy, khiến hắn tiến thoái lưỡng nan”.

Hướng Vũ Điền nói: “Ta có một đề xuất”.

Mọi người đều đổ dồn mắt vào Hướng Vũ Điền.

Hai mắt Hướng Vũ Điền lấp lánh tinh quang, y ung dung nói: “Khi ta báo cáo tình hình phân bố binh lực của địch nhân với Thác Bạt tộc chủ và Thôi huynh, Thôi huynh vừa nghe đã hiểu, lại có thể bổ sung những chỗ thiếu sót của ta, đủ thấy Thôi huynh nắm rõ môi trường địa lý của vùng Thái Hành sơn, để y sách hoạch toàn bộ kế hoạch hành động là có thể thu được một kết quả to lớn gấp nhiều lần công sức bỏ ra”.

Mọi người đều đưa mắt nhìn sang Thôi Hoành.

Thôi Hoành được khen ngợi thì hơi bối rối, khiêm nhường đáp: “Tại hạ từ nhỏ đã theo cha vào săn bắn ở Thái Hành sơn, lớn lên rồi vẫn thích thú săn bắn đều đều, vì vậy rất quen thuộc tình hình và địa lý Thái Hành sơn và vùng phụ cận, có thể đóng góp chút ý tâm đắc về vấn đề này”.

Diêu Mãnh mừng rỡ: “Bây giờ đến một tên tiểu tốt không hiểu binh pháp như ta cũng cảm thấy nắm chắc phần thắng trong tay rồi. Thôi bảo chủ đừng khách sáo, Hoang nhân chúng ta đều là hạng tự khen mình, xưa nay chưa biết khiêm tốn là gì hết, Thôi bảo chủ có kế hoạch gì xin nói ra”.

Yến Phi ung dung nói: “Ta đề nghị từ giờ để Thôi huynh làm tổng chỉ huy, ý kiến các vị thế nào?”.

Mọi người không ai là không hưởng ứng tán thành.

Thôi Hoành không sao thoái thác được, đành vui vẻ chấp nhận: “Kế hoạch của ta đơn giản dễ tiến hành lắm, chỉ hai câu thôi, đó là ‘dụ địch tấn công, dẫn kỳ binh phá’”. Y ngừng lại một chút rồi tiếp: “Binh lực của quân đoàn Long thành đạt tới ba vạn, gấp đôi chúng ta, mục tiêu chiến tranh của chúng cũng rất rõ ràng phân minh, chính là muốn chúng ta vĩnh viễn không đến được Bình Thành, đồng thời Mộ Dung Long tưởng lầm chúng ta không hiểu hắn đặt phục binh trên đường, vì vậy kế dụ địch khẳng định có thể thành công, vấn đề là chúng ta có thể triệt để đánh bại hắn mà vẫn bảo tồn thực lực hay không”.

Thác Bạt Nghi nói: “Nghe ý Thôi huynh thì biết huynh đã sắp sẵn cơ mưu vạch ra đại kế tác chiến rồi”.

Thôi Hoành đáp: “Nói thẳng ra, trước khi Hướng huynh hồi báo tình hình địch nhân, ta quả thực có nỗi khổ tâm là không biết dùng sức vào chỗ nào, bây giờ thì đã vén mây mù nhìn thấy mặt trời rồi. Khi Hướng huynh thuật lại tình hình địch nhân, trong lòng ta đã có một phương án”.

Hồng Tử Xuân cau mày: “Muốn đánh bại quân đoàn Long thành cũng không khó khăn gì, nhưng muốn đánh cho Mộ Dung Long sạch không kình ngạc, tan tác chim muông thì thật chẳng dễ dàng, không chỉ vì quân đoàn Long thành là sư đoàn tinh nhuệ, Mộ Dung Long là tướng tài quân sự, mà còn vì khi Mộ Dung Long nhận ra tình hình có dấu hiệu không ổn thì có thể rút lại vào núi để giữ gìn nguyên khí, như thế thì sẽ đến lượt chúng ta tiến thoái lưỡng nan, lúng túng như kiến bò chảo nóng”.

Mọi người nhao nhao gật đầu đồng ý, vì Hồng Tử Xuân nói ra điều họ lo lắng nhất.

Thôi Hoành thong thả nói, vẻ nghiêm trang: “Nơi Mộ Dung Long giấu quân, sơn dân Thái Hành gọi nó là Vụ Hương , vì nó nằm kẹp giữa hai con sông, là vùng trũng của đồi núi do chủ lưu trải dài mà tạo ra, ba mặt có núi cao bao bọc, vì vậy tiết xuân ngùn ngụt hơi nước, lại chỉ có một lối ra, nếu chúng ta dồn chúng rút lui vào Vụ Hương thì quả thực sẽ xuất hiện tình huống mà Hồng lão bản lo lắng”.

Đồ Phụng Tam từ đầu tới giờ vẫn không hé răng, lúc này vui vẻ lên tiếng: “Ta cũng tin chắc rằng Thôi huynh đã nắm chắc kế mưu trong tay rồi”.

Mộ Dung Chiến hỏi Hồng Tử Xuân: “Theo khả năng phán đoán khí tượng của Hồng gia, mấy hôm tới đây liệu có trận sương mù nào không?”.

Hồng Tử Xuân đáp: “Tiết cuối đông đầu xuân thường có sương mù dày, hôm nay lúc lão Trác đánh thức ta dậy, ta đã cảm thấy độ ẩm rất cao, chỗ mà Mộ Dung Long ẩn quân mà đã tên là Vụ Hương thì lúc sáng sớm rất có khả năng bị sương khói bao phủ”.

Bàng Nghĩa thắc mắc: “Chúng ta đang dụ địch đến tấn công cơ mà? Chỗ Vụ Hương có khói sương gì hay không thì có liên quan gì đến chúng ta?”.

Cơ Biệt cười: “Nói đến cao lâu mỹ tửu thì lão ca phải là hạng nhì, mà không ai dám đứng hạng nhất. Nhưng bàn về sa trường binh lửa thì huynh đúng là dân ngoại đạo. Chúng ta quan tâm đến tình hình Vụ Hương vì chúng ta phải trốc sạch bọn Mộ Dung Long đi, trốc cả gốc lẫn rễ”.

Hướng Vũ Điền nói: “Mấu chốt cho thành bại lần này là phải triệt đường lui của Mộ Dung Long. Hắn không phải là hạng vô dụng tầm thường như Mộ Dung Bảo đâu, hắn tinh thông binh pháp, những điều chúng ta nhìn nhận và đánh giá được thì hắn cũng sẽ hiểu rõ chẳng kém gì chúng ta cả. Vì vậy nhất định hắn sẽ chừa đường lui cho mình, nếu chiến sự bất lợi cho hắn, hắn sẽ rút lui khỏi Vụ Hương trong trật tự, rồi tìm chỗ hiểm yếu mà cố thủ, thế thì chúng ta bỏ công sức bao nhiêu, đến lúc ấy chẳng gặt hái được gì, mới gọi là tiến thoái lưỡng nan đấy”.

Trác Cuồng Sinh phấn chấn nói: “Kế phá địch bây giờ thế là nhất hô vạn ứng rồi, mời Thôi soái cho ý kiến”.

Diêu Mãnh giễu: “Cái gì mà nhất hô vạn ứng, kiến thức quân sự của ngươi chẳng hơn ta bao lăm, ta không đoán được thì tin rằng ngươi chẳng đoán được đâu”.

Mọi người không nhịn được phá lên cười rộ.

Trác Cuồng Sinh liếc mắt nhìn hắn, ra vẻ giận dữ, cười qua kẽ răng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng, tiểu tử ngươi càng ngày ngày giống cái gã Cao Ngạn kia rồi đấy. Đúng, ta cũng là dân ngoại đạo với binh pháp như Bàng lão bản, nhưng ta có khối óc, không phải suy nghĩ bằng mông đít như tiểu tử ngươi”.

Mộ Dung Chiến phì cười: “Đừng nói vớ nói vẩn nữa, bây giờ chúng ta đang trên chiến trường, không phải là du sơn ngoạn thủy đâu”.

Mọi người bèn đổ dồn mắt vào Thôi Hoành.

Yến Phi liếc nhìn Hướng Vũ Điền, thấy y đang tựa mình vào lưng ghế, thần thái thư thả, khóe môi nhếch nụ cười, chừng như đang hưởng thụ không khí hội nghị bình đẳng không phân tôn ti, một thứ không khí riêng có của các Hoang nhân.

Thôi Hoành nói: “Kế hoạch của ta có thể gọi là ‘Tam kỳ chi kế’, kỳ thứ nhất là toán quân theo chúng ta từ Bình Thành đến, kỳ thứ hai là năm ngàn huynh đệ Hoang nhân vẫn chưa bị bọn địch phát giác ra, kỳ thứ ba chính là đội biệt kích do chúng ta tổ chức giã thẳng vào sào huyệt địch, đội biệt kích này chỉ chừng hơn trăm người, nhưng đúng là các chiến binh võ công cao cường nhất của chúng ta, trong đó có Yến Phi huynh và Hướng huynh. Khi địch nhân lao ra khỏi Vụ Hương để tấn công thì toán biệt kích sẽ âm thầm trèo núi băng đèo tiến vào Vụ Hương, cắt đứt đường lui của địch, khi Mộ Dung Long trở về Vụ Hương thì sẽ kinh hoàng nhận ra kết cục bi thảm nhất đời đang chờ đợi bọn chúng”.

Yến Phi chợt cảm thấy bất nhẫn.

Hi vọng cuộc chiến tranh với người Yên là lần cuối cùng chàng phải ra sa trường, từ đó về sau chàng có thể tự do lựa chọn cuộc sống cho mình.

Hướng Vũ Điền nói: “Nếu chúng ta tận dụng sương mù để tập kích, bọn địch ở lại giữ Vụ Hương sẽ không biết hư thực thế nào, vô hình trung một trăm người ấy sẽ có sức công phá long trời lở đất đấy”.

Mộ Dung Chiến gật đầu: “Binh bại như núi lở ấy mà, chỉ cần nhốn nháo một cái thì quân tinh nhuệ đến đâu cũng chỉ là một lũ ô hợp mà thôi. Ý của Mộ Dung Long là mượn sương mù để yểm hộ, phục kích chúng ta, nhưng ngược lại lại bị chúng ta lợi dụng sương mù phá hoại quân đoàn của chúng, nhất định là hắn không ngờ tới được”.

Vương Trấn Ác mừng rỡ nói: “Khi Mộ Dung Long thấy tình hình bất lợi, sẽ thổi tù và cho quân rút về Vụ Hương, lại gặp phải bọn lính giữ trại đang hoang mang tháo chạy ngược ra, hai cánh bại quân gặp nhau đúng là thời khắc mà quân đoàn yếu nhất, nếu chúng ta có thể nắm bắt được vị trí và thời điểm chúng gặp nhau này, mai phục thêm cánh kỳ binh thứ tư, thì trận chiến này có thể giành được toàn thắng rồi”.

Thôi Hoành chăm chú nhìn Vương Trấn Ác hồi lâu, vui vẻ nói: “Kế này của Vương huynh diệu lắm, cũng chính là điều mà ta chưa nghĩ tới, cánh kỳ binh thứ tư mà có khoảng năm trăm người là đã đạt được đến hiệu quả lý tưởng nhất rồi, cuối cùng đợi địch nhân tề tựu với nhau xong là có thể chặt bọn chúng thành hai khúc đầu đuôi không ứng cứu được nhau, như thế địch nhân sẽ rối trận, khó mà lật ngược được tình thế nữa, lúc đó kết quả trận đánh chỉ phụ thuộc vào việc chúng ta có đủ sức tiêu diệt toàn bộ quân đoàn địch hay không mà thôi”.

Trác Cuồng Sinh vuốt râu cười: “Cả kế hoạch tác chiến đã thành hình thành dạng rồi thì đặt tên là ‘Tứ kỳ chi sách’, nhưng chi tiết thì vẫn cần suy nghĩ vạch vòi cho cặn kẽ, chúng ta cứ định ra thời gian hành động xong đi hẵng, những việc khác để sau nghị hội hãy bàn. Lần này Mộ Dung Long tự đem dây buộc mình, những tưởng có thể lợi dụng địa thế Thái Hành sơn để đánh cho chúng ta trở tay không kịp, nào ngờ bị chúng ta khéo léo lật ngược ván cờ, đẩy chúng vào thế chết. Ha ha, Hoang nhân chúng ta đều là dạ quỷ, nếu có thể tác chiến với địch trong cơn mộng mị đêm khuya thì càng có lợi cho chúng ta”.

Thôi Hoành nói: “Việc không tiện để lâu nữa, chúng ta phụ trách năm nghìn huynh đệ đi dụ địch, hoàng hôn hôm nay sẽ lên đường, làm ra vẻ sơ hở không hề phòng bị để dẫn dụ địch”.

Bàng Nghĩa lộ vẻ băn khoăn: “Làm sao để địch tưởng chúng ta không phòng bị? Nếu biểu hiện quá mức ngờ nghệch ngây ngô thì ngược lại chỉ khiến chúng sinh nghi mà thôi”.

Yến Phi hiểu rõ tâm can Bàng Nghĩa, hắn đã nặng tình cảm với Tiểu Thi, dẫu chỉ sống cùng nhau một thời gian ngắn, vì vậy đã cố hết sức mình để tăng thêm cơ hội thành công, hoàn toàn không sợ mình nói ra điều nghi vấn trong lòng thì sẽ vi phạm tác phong nói ít làm nhiều xưa nay của mình.

Thôi Hoành mỉm cười: “Bàng lão bản hỏi có lý lắm, song vấn đề này để Trấn Ác huynh trả lời thì thích hợp hơn.

Vương Trấn Ác hân hoan đáp ngay: “Khi ta phác thảo kế hoạch hành động thì hoàn toàn không tính đến sự có mặt toán kỳ binh của Thôi bảo chủ. Lúc hoàng hôn, khi đại quân lên đường, chúng ta nên làm cho trọn những việc cần làm, phái một cánh quân đi dò đường, lại đặt người canh gác tuần tiễu trên các điểm cao hai bên đường, nhưng lúc cho xe thồ đi xuống thì phải giả vờ như là mang theo một số lượng lớn vật tư lương thực và binh khí, tạo điều kiện cho địch nhân xác định mục tiêu công kích. Thêm nữa, chúng ta cần hành quân thật chậm, địch nhân mới có đủ thời gian đặt phục kích ở những nơi có lợi nhất cho chúng, thế thì chúng ta có thể nắm được vị trí mà chúng sẽ lao ra tập kích chúng ta”.

Hô Lôi Phương hỏi: “Những cỗ xe chở vật tư đều rỗng cả, phải không?”.

Vương Trấn Ác đáp: “Nếu là xe rỗng thì những vệt bánh xe sẽ tố cáo mưu định của chúng ta, vì vậy phải lấy đồ nặng gì đó thay cho lương thực vật tư mới có thể khiến địch nhân mắc bẫy”.

Hướng Vũ Điền tán thưởng: “Kế hay!”.

Trác Cuồng Sinh hỏi Thôi Hoành: “Địch nhân sẽ tấn công chúng ta ở quãng nào?”.

Thôi Hoành nói: “Nếu chúng ta cứ men Thái Hành sơn tiến lên phía bắc thì đi chừng hai ngày là vào vùng núi rừng Vụ Hương, ở đó có một trảng núi đồi tên là Bắc Khưu, là nơi thích hợp nhất cho địch nhân triển khai phục kích tấn công. Toán kỳ binh mà Đinh Tuyên suất lĩnh đang ẩn nấp trong vùng sơn dã cách Bắc Khưu ba mươi dặm về phía tây bắc, có thể phối hợp ăn ý với chúng ta”.

Trác Cuồng Sinh cười ha hả: “Đại cục đã định! Đại cục đã định! Các vị thủ túc, có còn đề xuất gì nữa không?”.

Đồ Phụng Tam trầm giọng hỏi: “Ta không có ý kiến gì khác về trận chiến này, nhưng sau trận chiến thì sao đây? Mộ Dung Thùy sẽ có phản ứng thế nào? Chúng ta có nên thừa thắng truy kích, đánh úp Mộ Dung Thùy cứu Thiên Thiên và Tiểu Thi ra không?”.

Mọi người cùng lặng đi, cả sảnh đường im phăng phắc.

Yến Phi thầm than thở trong lòng, đánh bại Mộ Dung Thùy tuy không dễ, nhưng vẫn có thể ứng biến tác chiến được, nhưng tác chiến là một chuyện, còn cứu Kỷ Thiên Thiên và Tiểu Thi lại là chuyện khác, cho dù có thể đánh bại Mộ Dung Thùy, cũng e là rất khó đạt được mục tiêu cuối cùng, vì vậy mọi người đều nín thinh.

Đương nhiên! Họ hoàn toàn không biết đến năng lực siêu phàm thần giao cách cảm giữa chàng và Kỷ Thiên Thiên, mà đây cũng trở thành một mấu chốt lớn nhất quyết định xem có cứu được chủ tỳ Thiên Thiên hay không.

Hướng Vũ Điền lên tiếng phá tan bầu không khí tĩnh mịch: “Việc ấy thì phải xem Mộ Dung Thùy có mang chủ tỳ họ đến Bình Thành hay không. Nếu Mộ Dung Thùy để họ trong sơn trại thì chúng ta còn có cơ hội”.

Bàng Nghĩa cau mày: “Chúng ta làm sao biết được Mộ Dung Thùy mang họ đi hay là để họ lại?”.

Hướng Vũ Điền liếc Yến Phi, cười: “Cứ để đấy ta lo”.

Trừ Thác Bạt Nghi, mọi người đều nửa tin nửa ngờ, có điều ai cũng đã nếm mùi bản lĩnh của họ Hướng, biết y có thủ đoạn quỷ thần vô lượng, vì vậy không thắc mắc gì.

Bàng Nghĩa hỏi: “Giả sử Mộ Dung Thùy đem họ theo thì sao?”.

Đồ Phụng Tam điềm đạm nói: “Chúng ta cứ thế công kích sơn trại, khiến Mộ Dung Thùy mất căn cứ hậu phương, không còn cách nào kéo dài chiến sự được, điều đó cũng tăng thêm khả năng thắng lợi cho chúng ta”.

Bàng Nghĩa ủ rũ nói: “Sợ nhất là Mộ Dung Thùy thấy tình thế bất lợi, làm cho đá vàng cùng nát luôn thì chúng ta... ôi!”.

Sảnh đường lặng ngắt như tờ, có thể nghe thấy cả tiếng kim rơi.

Bàng Nghĩa đã nói ra điều mà mọi người lo lắng nhất, nếu đẩy Mộ Dung Thùy vào tuyệt lộ, ai cũng hiểu được hắn sẽ xử chủ tỳ Thiên Thiên thế nào.

Yến Phi lên tiếng: “Chưa đến thời khắc cuối cùng thì Mộ Dung Thùy sẽ không làm hại hai người đó đâu. Chúng ta cứ làm sao đánh một trận mà thắng được Mộ Dung Thùy, khi tình huống ấy xuất hiện, ta tin rằng có thể cứu được Thiên Thiên và Tiểu Thi khỏi tay hắn”.

Trác Cuồng Sinh kêu lên: “Thôi đừng nghĩ ngợi nhiều nữa, chúng ta đành đi bước nào tính bước đó thôi. Giải tán”.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=63#ixzz1bznwUHvv

Kiến Khang. Thạch Đầu thành.

Lưu Mục Chi đến sau lưng Lưu Dụ, khom mình thi lễ: “Đại nhân triệu tại hạ đến có việc quan trọng gì sao?”.

Lưu Dụ tựa hồ đang dõi mắt ngắm cảnh sắc bên ngoài cửa sổ, thư thả nói: “Ta muốn rời Kiến Khang, Mục Chi nhớ sắp xếp ổn định tình hình Kiến Khang lúc ta không ở đây nhé”.

Lưu Mục Chi choáng người: “Có phải tấn công Bồn Khẩu không?”.

Lưu Dụ ung dung đáp: “Vẫn sai chút ít, nhưng Mao Tu Chi đã vây hãm Bạch Đế thành, cắt đứt phần thượng du Đại Giang của Hoàn Huyền, khiến Hoàn Huyền không còn cách nào phản kích Ba Lăng, đến nỗi không cục cựa gì được nữa. Hoàn Huyền không phải kẻ ngốc, hắn hiểu nếu cứ tiếp tục duy trì tình trạng này, nhất định hắn sẽ thất bại. Vì vậy Hoàn Huyền sẽ hạ lệnh cho quân đội ở Bồn Khẩu chủ động xuất kích, tấn công huynh đệ ta ở Tang Lạc châu, chỉ cần Hoàn Huyền có thể đẩy lui chúng ta là có thể tạm thời thở dài nhẹ nhõm, buông tay chuyển về tấn công Ba Lăng, sau đó phản kích Mao Tu Chi, đây là cơ hội lật ngược thế thua cuối cùng của Hoàn Huyền, cũng là đường sống duy nhất của hắn, không đời nào Hoàn Huyền bỏ lỡ đâu”.

Lưu Mục Chi hỏi: “Có phải đại nhân định đích thân đến Tang Lạc châu chỉ huy trận chiến này không?”.

Lưu Dụ điềm đạm trả lời: “Trận chiến này không được phép sơ suất chút nào, nếu luận riêng về thực lực, địch quân ở Bồn Khẩu nhỉnh hơn quân đội Tang Lạc châu của ta, vì vậy ta phải đích thân ra tiền tuyến để cổ vũ sĩ khí đại quân”.

Lưu Mục Chi trầm giọng: “Đại nhân tuyệt đối không thể ra tiền tuyến vào lúc này”.

Lưu Dụ quay phắt lại, tức giận: “Gì cơ?”.

Lưu Mục Chi cúi đầu không đáp.

Vẻ giận dữ trên mặt Lưu Dụ phai dần, thay vào đó là thái độ áy náy: “Xin lỗi Mục Chi! Ta thất thố quá, ta... chà!”.

Lưu Mục Chi ngẩng đầu lên, nhìn Lưu Dụ: “Đại nhân đã từng hỏi tại hạ, bây giờ ngài đang ở vị trí nào? Muốn thể hiện tốt trên vị trí đó thì nên làm thế nào? Bây giờ là lúc khảo nghiệm đại nhân đó”.

Lưu Dụ cau mày: “Ta không hiểu!”.

Lưu Mục Chi nói: “Hiện tại, tuy chưa có danh phận nhưng đại nhân cũng chẳng khác gì quân vương của triều đình phái mãnh tướng tinh binh ra thảo phạt quân phản loạn. Điểm khác với quá khứ là đại nhân đã giao binh quyền cho tướng lĩnh tiền duyên, nếu vào lúc then chốt mà đại nhân lại ra chiến trường thu lại quyền chỉ huy vào tay thì khác nào tranh công với tướng lĩnh, cũng là tước bớt quyền được lập đại công của họ, vì vậy hết sức không nên”.

Lưu Dụ bứt rứt: “Nhưng... nhưng... ôi chà!”.

Lưu Mục Chi nói: “Tại hạ hiểu đại nhân đang lo rằng Lưu Nghị và mấy người kia sẽ hai lòng, nhưng đã nghi thì không nên dùng, đã dùng thì đừng nghi, để họ chứng tỏ tài năng của họ đi. Thử nghĩ nếu người chỉ huy ở Tang Lạc châu là đại nhân, sau khi cầm cự giằng co mười mấy ngày, thấy thắng lợi đã ngay trước mắt mà đột nhiên có thánh thượng ở hậu phương ngự giá thân chinh, đại nhân sẽ có cảm giác gì?”.

Lưu Dụ ngẩn người: “Ta chưa hề nghĩ tới điều đó”.

Lưu Mục Chi nói: “Đại nhân chưa nghĩ tới tình huống này bởi vì ngài chưa quen với vai trò mới của mình, còn tưởng rằng mình là thống soái nơi sa trường. Đại nhân đừng lo lắng. Bất luận Lưu Nghị, Hà Vô Kỵ hay Ngụy Vịnh Chi thì đều là các mãnh tướng đã từng kinh qua trăm trận, lại được quân sĩ chúng ta đang hừng hực tinh thần, đủ để ứng phó với bất cứ tình huống nào. Trong khi đó ngôi sao của Hoàn Huyền đang mờ dần, quân sĩ Kinh Châu lòng chùn ý nhụt, bây giờ lại đang rời Bồn Khẩu chủ động xuất kích thì thua chắc không nghi ngờ gì nữa”.

Lưu Dụ thở dài.

Lưu Mục Chi nói: “Chiến thắng to lớn này sẽ đánh quang con đường thông đến Giang Lăng, Hoàn Huyền đã bại rõ, không ai thay đổi được kết quả ấy, lúc đó thì đại nhân có thể nghĩ đến việc thân chinh ra tiền tuyến đốc thúc và khuyến khích việc quân cũng chẳng muộn nào”.

Lưu Dụ thở dài: “Mục Chi nói đúng lắm, chính là vì trận chiến này liên quan đến thành bại nên ta đây mới căng thẳng thế này”.

Lưu Mục Chi ung dung nói: “Đại nhân đứng ngoài trận chiến còn có một chỗ lợi khác, đó là để đám danh môn quý tộc Kiến Khang biết rằng thủ hạ của đại nhân đông đảo như như mây, đủ khả năng đánh bại quân Kinh Châu, để bọn họ khỏi khinh thường nữa”.

Lưu Dụ cười nói: “Ta bị thuyết phục rồi. Có điều ta định bụng sẽ phải tự tay chém Hoàn Huyền, riêng việc này ta không lùi bước đâu”.

Lưu Mục Chi nói: “Tại hạ có thể sắp xếp thỏa đáng việc này, tại hạ sẽ sai người bí mật đi thông tri cho Vô Kỵ và Vịnh Chi để họ hiểu ý muốn của đại nhân, khi thời cơ chín muồi thì đại nhân có thể đích thân ra sa trường chỉ huy chiến dịch đánh Giang Lăng.

Lưu Dụ ngạc nhiên hỏi: “Vì sao không nói thẳng với Lưu Nghị?”.

Lưu Mục Chi đáp: “Đại nhân cần chú ý đến cách điều khiển tướng lĩnh thủ hạ, mỗi người có một hoàn cảnh xuất thân và tính cách khác nhau, không thể cư xử như nhau được, nếu không thì loạn mất. Lưu Nghị tính tình cao ngạo, chẳng coi ai bằng mình, nhưng quả thực là một kẻ có tài, vì vậy có thể trọng dụng với ít nhiều nhún nhường. Người như thế nhất định không bỏ lỡ một cơ hội nào để trảm sát Hoàn Huyền, vì như thế thì hắn sẽ lập được công lao lớn nhất, trở thành người danh tiếng hiển hách nhất sau đại nhân. Tại hạ không nói thẳng với hắn là vì sợ hắn hứa một đằng làm một nẻo, khiến đại nhân lỡ việc”.

Lưu Dụ thở dài: “Mục Chi nói vậy ta hơi hối hận, có phải ta dùng sai hắn rồi chăng?”.

Lưu Mục Chi nghiêm chỉnh đáp: “Đại nhân giao trọng trách cho Lưu Nghị là hoàn toàn chính xác, mà thậm chí là một quyết định rất cao minh, hóa giải được sự tranh giành bè phái vô hình trong Bắc Phủ binh, vì vậy tại hạ chưa từng có một câu nào phản đối”.

Lưu Dụ trầm ngâm: “Liệu Lưu Nghị có trở thành hậu hoạn không?”.

Lưu Mục Chi đáp: “Điều ấy thì phải xem hắn ta có tự lượng sức mình không, có an phận thủ thường không. Tuy nhiên nếu có, đấy cũng sẽ là việc sau khi diệt xong Hoàn Huyền, bây giờ uy thế đại nhân đang rực rỡ như mặt trời chính ngọ, ai dám mạo phạm ngài kia chứ?”.

Lưu Dụ thở dài nặng nhọc, gắng bình tĩnh lại, gật đầu nói: “Đều nhờ Mục Chi nhắc nhở ta mới tránh được phạm sai lầm, nhưng ta nhất định phải tự tay giết chết Hoàn Huyền đấy”.

Lưu Mục Chi nói: “Khi địch nhân ở Bồn Khẩu bị phá, Hoàn Huyền sẽ liều chết chống cự, ba cánh quân của Mao Tu Chi, Lưu Nghị và Doãn Thanh Nhã sẽ vây đánh Giang Lăng, đó chính là lúc đại nhân đích thân ra chiến trường, vì chỉ có đại nhân mới đủ tư cách và năng lực chế ngự ba cánh quân khác nhau, lúc đó thử hỏi Lưu Nghị còn hó hé gì được?”.

Lưu Dụ cuối cùng cũng tươi mặt, gật đầu: “Vậy theo lời Mục Chi thôi, ta sẽ gắng chờ tới lúc đó”.

Lưu Mục Chi thầm thở phào nhẹ nhõm.

o0o

Vì Thác Bạt Nghi kèo nhèo mời mọc, Yến Phi và Hướng Vũ Điền đến “nhà” y trong Thôi gia bảo dùng cơm với Hương Tố Quân. Hương Tố Quân đã lùm lùm cái bụng, không thể tự mình xuống bếp được nữa.

Nhìn dáng vẻ tràn trề hạnh phúc của nàng, Yến Phi càng kiên định quyết tâm thực hiện mong ước của Thác Bạt Nghi.

Cơm nước xong, Yến Phi và Hướng Vũ Điền cùng ra về, Hướng Vũ Điền cười bảo: “Trên đời điều khiến người ta lưu luyến không quên nhất chính là tình thân, bao gồm cả nghĩa phu thê, tình cha con trong đó. Nhưng những Bí nhân như chúng ta thì lại đi ngược lại hoàn toàn, trừ tộc trưởng có con cái tập quyền, những đứa con khác ra đời rồi đều phải lìa cha mẹ, do người trong tộc cùng nuôi nấng dạy bảo, từ nhỏ đã phải chấp nhận những cuộc rèn luyện gian nan nghiêm khắc nhất, thể chất mà yếu đuối một chút là không chịu đựng nổi, mười đứa trẻ thì chỉ có ba bốn đứa sống tiếp được. Vì vậy vừa rồi trông thấy dáng vẻ hi vọng mãn nguyện của Tố Quân phu nhân, trong lòng ta có cảm giác quái lạ lắm”.

Yến Phi thầm nghĩ thảo nào Bí nhân luẩn quẩn ở đây, nếu không phải là để hóa giải thù hận của Vạn Sĩ Minh Dao, đúng là không biết kết thúc việc này ra sao. Chàng nói: “Có một chuyện ta vẫn muốn hỏi ngươi...”.

Hướng Vũ Điền nói: “Hẵng để ta nói hết đã. Vừa rồi ta nói mình có cảm giác quái lạ, là vì nó đã khiến ta tự suy xét lại bản thân. Sở dĩ ta tôn kính sư tôn như thế, vì ông không chỉ truyền võ công cho ta mà còn trở thành một người hầu như phi phàm, cũng vì ông đã bù đắp cho ta một thứ mà người Bí chúng ta vẫn khao khát và vẫn thiếu thốn, đó là tình thân. Vậy đấy! Ngươi hỏi gì hỏi đi!”.

Yến Phi hỏi: “Tham gia Cuồng hoan tiết của các ngươi xong, mấy năm sau đó ta và Tiểu Khuê đều đúng dịp ấy trở về sa mạc, nhưng trước sau không tìm thấy dải ốc đảo mà các ngươi dùng để tổ chức Cuồng hoan tiết. Bọn ta thất vọng vô cùng, rút cục là nguyên nhân gì thế?”.

Hai người tiến vào vườn giữa của Thôi gia bảo, men theo đường nhỏ tà tà thả bộ qua rừng, lúc này cành lá vẫn đẫm sương, nhưng không còn thấy băng đóng két nữa.

Màn trời tối tăm, thời tiết không được tốt, chẳng qua trong vườn có đào lê đang đua nhau nẩy mầm, cỏ xanh tí tách đội đất nhô lên, khiến không khí cũng mơn mởn một chút hương xuân.

Không gian ẩm ướt.

Hướng Vũ Điền lộ vẻ kinh ngạc: “Ta không ngờ ngươi còn nhớ Cuồng hoan tiết của bọn ta, lại còn lặn lội đi tìm ốc đảo mà bọn ta gọi là Hồn ma trong biển cát ấy, đó là một ốc đảo lạ lắm, nó thoắt ẩn thoắt hiện trong suốt một trăm năm qua, sau Cuồng hoan tiết chừng nửa năm thì nó bị bão cát vùi kín, vì vậy các ngươi không tìm thấy”.

Yến Phi nói: “Chắc là bên dưới mảnh đất có mạch nước ngầm, gió cát qua đi thì sẽ hồi sinh thôi”.

Hướng Vũ Điền gật đầu tán thành: “Có lẽ vậy đấy. Chắc không phải các ngươi muốn tham gia Cuồng hoan tiết, mà chỉ vì không sao quên được Minh Dao, chả trách người anh em Thác Bạt Khuê của ngươi gặng hỏi ta về Minh Dao, khi ngươi gặp lại Minh Dao ở Trường An thì lại choáng váng đến vậy”.

Yến Phi không muốn nhắc lại chuyện xưa, liền đánh trống lảng: “Nhân lúc rảnh rỗi đôi chút này bọn mình nghỉ ngơi đi, qua đêm là lên đường rồi”.

Hướng Vũ Điền chưa có cơ hội đáp, Trác Cuồng Sinh đã từ đằng sau đuổi đến, gọi: “Phi Phi, ta có việc tìm ngươi!”.

Hướng Vũ Điền vỗ vai Yến Phi, cười nói: “Ta đi tìm chỗ kềnh đây! Ngươi tự bảo trọng nhé, ha!”, nói đoạn sải bước đi.

Trác Cuồng Sinh đến bên Yến Phi, túm lấy vai chàng, dắt tới chỗ đình nghỉ chân trong vườn thì ngồi xuống bảo: “Ta không có cơ hội thật à?”.

Yến Phi nhăn mặt: “Trời ạ! Di chứng của cái cửa trời là khiến người ta đứng ngồi không yên, chẳng thiết gì cơm nước”.

Trác Cuồng Sinh nói: “Làm gì mà nghiêm trọng thế. Tiên môn tác động rất tích cực tới ta, bây giờ sinh tồn có ý nghĩa lớn lao hơn đối với ta rồi, cảm thấy mình ưu việt hơn nhân thế, có điều con người lúc nào chẳng tò mò, sợ nhất là sau này ngươi biến mất tăm mất tích, không tìm được ngươi mà hỏi cho rõ ràng thì gay”.

Thấy Yến Phi trừng mắt nhìn mình, lão đành xuống nước: “Ôi, coi như ta không thoát được thói thường, bảo cho ta biết đi, có phải ta hết mọi cơ hội rồi không?”.

Yến Phi nói: “Nếu ta nói là ngươi vẫn còn một chút cơ hội, ngươi sẽ biến thành một con người khác, không phải là Trác Cuồng Sinh nữa mà là Trác Cuồng Điên, biến thành một kẻ tâm thần dồn hết quãng đời còn lại đi tìm kiếm Tiên môn. Thế thì bất hạnh nào bằng? Không ai có thể khẳng định Tiên môn là tốt hay xấu, vứt bỏ tất cả để đuổi theo một việc lành dữ khó đoán, có phải là ngu xuẩn lắm không? Ta không có lựa chọn nào khác thì đã đành, ngươi còn nhiều lựa chọn, hãy sáng suốt hơn đi!”.

Trác Cuồng Sinh thở dài ủ rũ: “Ngươi nói vậy vì ngươi cho rằng ta không hề còn cơ hội. Sự thực này tàn nhẫn hơn ta nghĩ, đừng thấy ta hi hi ha ha mà tưởng ta lạc quan, trong lòng ta lúc nào cũng chất chứa một nỗi bi thương khó lòng diễn đạt...”.

Giọng Yến Phi lạc cả đi: “Ngươi mà bi thương? Thôi đừng lừa ta nữa! Ngươi là con người biết hưởng thụ, biết tìm thú vui hạng nhất Biên Hoang Tập, không những biết làm thế nào nào cho đời thêm sôi động mà còn biết cải thiện điều kiện sống mà mình đang rơi vào, người như ngươi đây mà dám than là đang đau khổ hả?”.

Trác Cuồng Sinh thở dài: “Có lẽ ta hơi phóng đại tí chút, có điều đau khổ là chuyện quá thường gặp trong cuộc sống, chẳng ai may mắn tránh được, đó là một cảm giác hụt hẫng, cũng là một thứ cảm giác khiến người ta phải nghĩ giá mà nếu như thế này thế nọ thì sẽ lý tưởng hơn, đương nhiên loại lý tưởng đó vĩnh viễn không bao giờ viên mãn được. Trước đây ta hoàn toàn không hiểu nguyên do của cảm giác đó, bây giờ cuối cùng đã hiểu rồi, nguyên do đó chính là sự ‘tồn tại’ của chúng ta, căn bản không phải là sự tồn tại cuối cùng, mà là một chuyến lữ hành hữu hạn ở một nơi nào đó mà thôi”.

Yến Phi cười buồn: “Ta đã cảnh báo từ đầu rồi, có một số chuyện không biết thì tốt hơn, bộ dạng bây giờ của ngươi đã chứng minh lời ta”.

Trác Cuồng Sinh nói: “Chúng ta là huynh đệ mà, thẳng thắn hơn đi, có phải ta hoàn toàn không còn cơ hội nào không?”.

Yến Phi nói: “Câu này ta thật không nói ra được, bởi ta không đủ tư cách, nhưng căn cứ vào kinh nghiệm bản thân, nếu ngươi muốn đạt tới cảnh giới của Tôn Ân thì phải bỏ hết võ công vốn có đi, luyện lại từ đầu”.

Trác Cuồng Sinh hít một hơi lạnh buốt: “Sao thế được? Ngươi không còn phương pháp nào thành công nhanh hơn để dạy ta sao? Như Cao tiểu tử đó, ngươi có thể thay đổi luồng chân khí trong cơ thể hắn cơ mà!”.

Yến Phi đáp: “Vấn đề ở chỗ ngươi là cao thủ, không phải thấp thủ, mà cao thủ hạng nhất như ngươi, chân khí trong người vần chuyển theo đường lối khác hẳn so với huyền môn chính tông, ta không thể can thiệp vào được, không giúp gì được. Huống hồ cho dù ta có thể sửa đổi Tiêu Dao khí của ngươi đi nữa thì ngươi vẫn còn cách cảnh giới Tôn Ân một khoảng khá xa, ngươi bảo ta nói thế nào bây giờ? Ôi, khiến ngươi thành ra vật vã khổ sở thế này, ta hối hận không để đâu cho hết”.

Hai người nhìn nhau, đột nhiên cùng ôm bụng cười lăn lộn.

Trác Cuồng Sinh vừa thở vừa cười: “Cái tên tiểu tử nhà ngươi tàn nhẫn quá thể, làm vỡ tan cả giấc mộng thành tiên của ta”.

Yến Phi cười đứt cả hơi, nhăn nhó bảo: “Ta muốn tốt cho ngươi thôi, tin ta đi! Nếu coi đời người là một cơn mộng thì đó là một cơn mộng đẹp, nhắm mắt đuổi theo một thứ mãi mãi không với tới được thì mộng đẹp sẽ thành mộng xấu đấy”.

Trác Cuồng Sinh xoa xoa bụng: “Thực ra những điều ta nói chẳng buồn cười tí ti ông cụ nào, nhưng vì sao ta lại cười ghê thế nhỉ?”.

“Chớ hỏi ta!”. Yến Phi đáp.

Trác Cuồng Sinh bình tĩnh lại, trầm ngâm bảo: “Ngươi khỏi phải hối hận, ta ép ngươi tiết lộ chân tướng, một mặt tại cái tính trời sinh ta thích vạch vòi căn cơ cội rễ mọi chuyện, mặt khác là muốn phân tích rõ chỗ đứng của mình. Nghe ngươi nói ta hiểu rằng đây có lẽ là bí mật lớn nhất thế gian này, ta đã nhìn nhận lại sự tồn tại của mình theo một cách thức mới hoàn toàn, đột nhiên cảm thấy tất cả đều đầy ắp ý nghĩa. Con bà nó chứ! Cuộc sống sao mà kỳ diệu đến vậy! Ngoài chỗ này còn có chỗ khác, ngoài sống chết còn có thứ khác, hóa công thật kỳ diệu, thật khó hình dung. Trước đây ta luôn sống kiểu vô ý thức, không tư tưởng, bây giờ thì giống như một người bừng tỉnh, nhìn ra những thứ trước kia đã bỏ quên, từ một điểm cao hơn nhìn bao quát xuống, như con chim ấy, trông thấy những sự vật quá đỗi bình thường trước kia bỗng khoác lên mình một diện mạo khác hẳn. Cuộc sống của ta vì thế mà phong phú hơn lên”.

Yến Phi ngờ vực: “Mong những lời ngươi nói đây là thực, đừng cố tình nói trại ra để xoa dịu ta, để giảm bớt cảm giác ăn năn của ta”.

Trác Cuồng Sinh kêu lên oan ức: “Đương nhiên là thực rồi, mỗi câu mỗi chữ của ta đều xuất phát từ trong phế phủ. Đã có bí mật của Tiên môn thì đương nhiên sẽ có bí mật về sự sống và cái chết. Có lẽ sau khi chết ta sẽ gặp được một duyên kỳ ngộ nào đó. Kiếp này ta vô duyên với Tiên môn, đâu có sao? Chí ít thì ta cũng đã chạm tới rìa mối duyên ấy, đã hơn hẳn bao nhiêu kẻ sống trong ảo tưởng mà không nhận ra kia kìa”.

Yến Phi cảnh cáo: “Đừng có viết tuốt tuột những ý nghĩ ấy ra nghe chưa!”.

Trác Cuồng Sinh hớn hở nói: “Yên tâm đi! Bút sa gà chết, ta hiểu mà. Bây giờ điều ta lo lắng nhất chính là ngươi đấy, vì sao ngươi nói ngươi không còn lựa chọn nào khác?”.

Yến Phi cười ruồi: “Lại thế rồi, toàn ép người ta”.

Trác Cuồng Sinh nghiêm chỉnh nói: “Ta chấp nhận số mệnh về vụ Tiên môn, Tiên môn sẽ trở thành bí mật sống để dạ chết mang đi của ta, ngươi không phải lo ta mất trí đâu. Song con người khó tránh khỏi sự tò mò, ta nghĩ gạn hỏi ngươi để thỏa mãn sự tò mò đó cũng không phải là việc gì quá đáng!”.

Yến Phi đành đầu hàng: “Được rồi! Đằng nào cũng đã sai, sai thêm chút nữa cũng thế. Ta là người trường sinh bất tử, cho dù nhục thân tan rữa thì vẫn là du hồn vĩnh viễn không siêu tịnh, con đường duy nhất giải thoát ta khỏi kiếp ấy chính là Tiên môn, vì vậy mới nói ta không còn lựa chọn nào khác.

Trác Cuồng Sinh sửng sốt, một lát sau gật đầu: “Hiểu rồi!”.

Lão chực nói lại thôi, cuối cùng không nói năng gì nữa.

Yến Phi hiểu lão đang muốn hỏi mình định thu xếp Kỷ Thiên Thiên thế nào, chỉ là không thốt ra lời. Chàng chìa tay ra: “Còn câu hỏi nào khác không?”.

Trác Cuồng Sinh chăm chú nhìn chàng: “Ta không biết nên thông cảm hay nên ngưỡng mộ ngươi?”.

Yến Phi nói: “Tuy ta biết phá không mà đi, nhưng thực chất vị trí của ta và ngươi không khác nhau nhiều đâu. Ta không biết bên kia Tiên môn là cảnh tượng gì, tương tự ngươi không biết kiếp người chết đi thì sẽ ra sao ấy, bình đẳng, đúng không?”.

Trác Cuồng Sinh vuốt râu: “Đúng, ta phải đối mặt với tương lai bí ẩn, đó cũng là đặc tính của sinh mệnh, không biết là từ đâu đến, rồi đi về đâu. Những lời chúng ta nói ở đây hôm nay ta vĩnh viễn không quên. Bây giờ ta quả thực rất vui rồi, nhưng không phải kiểu vui ngày xưa, mà là một nỗi vui khổ sở, một nỗi vui cam chịu”.

Nói đoạn cười ha hả rồi thong thả bước đi.

Nhìn theo bóng lão xa dần, Yến Phi thấy lòng miên man xúc cảm.

Tình cảnh của Trác Cuồng Sinh chứng tỏ việc chàng trước nay kiên trì không tiết lộ thiên cơ là đúng đắn. Bất cứ một ai biết bí mật về Tiên môn thì đều trở nên bộp chộp nôn nóng muốn lao qua cánh cửa ấy để xem bên kia có cái gì, khốn thay Yến Phi không thể nào giúp họ được.

Kỷ Thiên Thiên là ngoại lệ duy nhất, vì tâm linh của nàng và chàng hòa hợp, chàng có cách để giúp nàng, nhưng quá trình đó thập phần hung hiểm.

Giả sử Kỷ Thiên Thiên không thể nuôi dưỡng được Dương thần thì sẽ ra sao?

Giả thiết đó, chỉ nghĩ thôi cũng đủ khiến chàng tê buốt châu thân, và càng cảm kích sự đoái thương của ông trời.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=63#ixzz1bznzsEOU

Thác Bạt Khuê và Sở Vô Hạ thúc ngựa chạy lên một ngọn đồi nhỏ cách Bình Thành hơn mười dặm về phía đông nam, mấy tên thân vệ thì mai phục ở dưới đồi.

Quanh ngọn đồi, núi non trải rộng ra khắp bốn phía, mặt đất mờ ảo dưới ánh tà huy, cảnh vật đẹp tuyệt vời.

Thác Bạt Khuê dõi mắt về bình nguyên phía đông, nơi dãy núi Thái Hành đang nằm vắt ngang từ nam sang bắc, cảm khái: “Cuối cùng mùa xuân đã đến, mùa xuân của tộc Thác Bạt ta cũng đến rồi”.

Sở Vô Hạ hân hoan nói: “Hôm nay tộc chủ rất vui thì phải!”.

Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Không phải là rất vui, mà là vui nhất, chưa bao giờ vui như thế, niềm vui mà trước đây thậm chí không dám nghĩ đến nữa”.

Sở Vô Hạ phấn khởi ra mặt: “Tộc chủ đang nghĩ gì thế?”.

Thác Bạt Khuê trầm ngâm chốc lát, dường như đang cân nhắc xem có nên nói cho Sở Vô Hạ biết những ý nghĩ đang quay cuồng trong đầu óc mình không, cuối cùng cũng thổ lộ: “Ta đang nghĩ đến quốc đô tương lai”.

Sở Vô Hạ ngạc nhiên: “Thiếp cứ tưởng tộc chủ đang nghiền ngẫm diễn biến chiến sự”.

Thác Bạt Khuê tủm tỉm: “Khi Thôi Hoành thống lĩnh rời khỏi Bình Thành, ta đã có cảm giác chiến thắng đang nằm trên tay. Từ nhỏ ta đã có sở thích ngẫm nghĩ về tương lai, ta không cam lòng chỉ làm bá chủ một phương đâu, ta có một sứ mệnh thiêng liêng đối với Thác Bạt tộc, đó là lập nên một đế quốc hùng mạnh, thay Tấn đế thống trị thiên hạ”.

Rồi y ung dung tiếp: “Nghĩ tới tương lai cũng là một cách tuyệt diệu giúp ta nhẹ nhõm thảnh thơi hơn, khiến ta không phải vướng víu giới hạn vì hoàn cảnh bế tắc hiện tại, nhờ đó tâm tư ta sẽ được giải phóng, tầm nhìn sẽ được mở rộng ra vô hạn, đó là một lạc thú, rung động lắm”.

Sở Vô Hạ nhìn theo ánh mắt y, vẻ mặt mê mẩn say sưa, ả thở một hơi: “Tộc chủ đúng là một nhân vật siêu phàm”.

Thác Bạt Khuê kiêu hãnh nói: “Đúng như ta vừa nói đấy, nếu chí hướng của ta chỉ là uy chấn một phương thì chỉ có thể đi trông thấy bước nào mới đi bước ấy, tuyệt đối không suy xét được toàn thể đại cục từ mọi góc độ. Nhưng chí ta không ở đó, mà coi thống trị thiên hạ là trách nhiệm của mình, tầm nhìn sẽ vươn xa, thậm chí vươn xa hơn cả cực hạn của bản thân, như thế mới có thể lập nên đại nghiệp vô tiền khoáng hậu”.

Sở Vô Hạ hỏi: “Tộc chủ nói làm thiếp chẳng hiểu gì cả, tộc chủ có cực hạn gì chứ? Thiếp không nhận ra”.

Thác Bạt Khuê mỉm cười im lặng.

Sở Vô Hạ phụng phịu: “Tộc chủ à!”.

Thác Bạt Khuê đưa mắt nhìn bình nguyên xa gần, điềm đạm nói: “Bảo ta trả lời nàng thế nào bây giờ nhỉ? Vô Hạ tuy thông minh tuyệt đỉnh, nhưng lại là dân ngoại đạo với chính trị, lẽ nào định bắt ta phải hao hơi tổn sức giải thích chăng?”.

Sở Vô Hạ chuyển đề tài: “Vậy tộc chủ nói cho thiếp biết quốc đô lý tưởng của ngài sẽ là thành trì nào đi?”.

Thác Bạt Khuê rõ ràng là rất cao hứng, cười nói: “Vô Hạ tò mò quá, thôi ta đành thỏa mãn lòng hiếu kỳ của nàng vậy, quốc đô lý tưởng nhất đối với ta chính là Lạc Dương”.

Sở Vô Hạ ngẩn người: “Không phải là Bình Thành ư?”.

Thác Bạt Khuê hào hứng hỏi: “Vì sao Vô Hạ đoán là Bình Thành?”.

Sở Vô Hạ đáp: “Bình Thành gần Bắc Cương, có thể phối hợp từ xa với cứ địa Thịnh Lạc của tộc chủ, chính là một địa điểm tốt để lập đô”.

Thác Bạt Khuê gật đầu: “Trong một thời gian dài sau này, Bình Thành vẫn là nơi lý tưởng để lập đô, là cứ điểm ưu việt nhất để bình định phương Bắc. Có thể nói thế này, Bình Thành là thành trì dụng võ, Lạc Dương là đô hội an dân”.

Sở Vô Hạ hỏi: “Luận về quy mô thì Bình Thành không so được với Lạc Dương đúng không? Vì sao lại ưu việt hơn Lạc Dương về mặt chiến trận?”.

Thác Bạt Khuê đáp: “Xem xét từ giác độ chiến lược quân sự, Lạc Dương nằm ở bình nguyên nơi Hoàng Hà và Lạc Thủy gặp nhau, vì vậy thoáng đãng rộng rãi, tiện lợi vô cùng về mặt giao thông, nhưng xét hình thế địa lý thì lại chơ vơ cô lập, nằm chon von ở bờ nam Hoàng Hà, muốn khống chế khu vực Hà Bắc phì nhiêu thì hơi khó, vì vậy nhất định phải củng cố quốc lực rồi mới xây dựng cơ đồ được”.

Mắt lấp lánh tinh quang, vẻ mặt xa xăm, y ung dung tiếp: “Dòng họ Thác Bạt của tộc Tiên Ti ta vào Trung Nguyên muộn hơn tất cả các dân tộc khác, nói về văn hóa thì lạc hậu hơn họ nhiều. Đến nay vẫn sống tập trung ở Bình Thành và Nhạn Môn, chưa có cách nào để vứt bỏ lối sống bôn ba trên lưng ngựa, còn các tộc du mục còn nặng tập tính phân bố theo thủy thổ”.

Ngừng một lát, y lại nói: “Trong những tháng ngày dùng võ lực chinh đông chinh tây, cách sống trên lưng ngựa gắn liền với cách chiến đấu của chúng ta, tạo cho chúng ta đặc tính thiện chiến và hung mãnh. Chúng ta có thể dùng vó ngựa bình định thiên hạ, nhưng không thể dùng vó ngựa cai trị thiên hạ. Thành bại của việc cai trị thiên hạ hoàn toàn tùy thuộc vào việc chúng ta có biết trút bỏ hình thái du mục theo lối bộ lạc hay không, có biết dung hòa với Hán tộc, đẩy nhanh tốc độ Hán hóa hay không! Nếu không thì bất luận võ lực chúng ta cao cường thế nào, cuối cùng cũng chỉ có thể huy hoàng được một khoảnh khắc thôi, không lâu dài được”.

Sở Vô Hạ lộ vẻ cảm động, chân thành nói: “Vô Hạ chưa bao giờ gặp người nào cao thâm viễn lự như tộc chủ. Trước đây người Vô Hạ sùng kính nhất là phụ thân, chỉ tiếc ông nhiều kế hoạch nhưng tầm nhìn chỉ giới hạn ở những tình hình trước mắt, không sánh được với người nhìn xa trông rộng như tộc chủ”.

Thác Bạt Khuê làm như không nghe thấy những lời tán tụng của Sở Vô Hạ, hai mắt sáng quắc, chậm rãi nói: “Việc chuyển từ Bình Thành tới Lạc Dương chứng tỏ sự hưng khởi của dân tộc ta. Bình Thành đằng nào thì cũng lệch về phương Bắc, phía ấy có người Nhu Nhiên, họ đang mạnh dần lên, chúng ta không tránh khỏi bị họ xâm lấn lãnh thổ gây sức ép, còn Lạc Dương là trung tâm văn hóa chính trị từ thời Hán, sau đó là thời Tấn, nằm chếch về phương Nam, địa vị chính trị, truyền thống văn hóa hay điều kiện địa lý đều ưu việt hơn hẳn Bình Thành. Điều quan trọng nhất là dời đô đến Lạc Dương, mới có thể tiến hành các cải cách cần thiết, tiến thêm một bước hòa tan vào văn hóa Hoa Hạ”.

Sở Vô Hạ thắc mắc: “Vì sao chỉ có dời đô mới tiến hành được cải cách và Hán hóa?”.

Thác Bạt Khuê đáp: “Đây là tình hình tất yếu xảy ra khi tân thay thế cựu, người theo đuổi cái mới sẽ luôn vấp phải sự phản đối kịch liệt của các thế lực truyền thống kiên trì với quá vãng. Lập Bình Thành làm đô hay Thịnh Lạc làm đô cũng chẳng khác nhau mấy tí, có thể nói là tất nhiên thôi, nhưng nếu dời đô đến Lạc Dương, tất cả mọi mặt đều thay đổi hoàn toàn, vì vậy những thế lực cũ không chỉ phản đối dời đô mà còn phản đối việc Hán hóa, sợ rằng không chỉ khó cai trị người Hán, mà còn bị người Hán đồng hóa, đánh mất phong cách dũng mãnh vốn là vũ khí giúp chúng ta lập quốc. Vì vậy bây giờ những người đồng quan điểm với ta trong tộc vẫn còn ít lắm, họ cho rằng thiên di về nam chẳng khác nào vứt bỏ đất hương hỏa mà tổ tiên để lại cho chúng ta, vứt bỏ nền văn hóa vốn có, lại có thể vì thủy thổ không hợp mà dẫn đến việc uy thế của chúng ta suy yếu đi, vì vậy việc dời đô chưa chắc đã được hoàn thành nhờ tay ta. Ha, làm sao chúng ta đột nhiên lại đề cập đến việc này nhỉ?”.

Sở Vô Hạ dịu dàng thốt: “Điều tộc chủ nói khiến Vô Hạ cảm động lắm”.

Thác Bạt Khuê phì cười: “Cảm động? Vô Hạ tự dưng lại có hứng thú với chính trị à?”.

Sở Vô Hạ nói: “Vô Hạ không hứng thú gì với chính trị cả, nhưng Vô Hạ rất tò mò về quan điểm của tộc chủ, hiểu vì sao ý nghĩ về tương lai lại là một biện pháp hữu hiệu giúp tộc chủ thư thả, Vô Hạ nghe lời tộc chủ nói mà quên hết mọi ưu phiền, tấm lòng rộng mở, quên hết chiến sự đang sắp đổ xuống dải đất này”.

Thác Bạt Khuê hừ mũi: “Mộ Dung Thùy!”.

Sở Vô Hạ bồn chồn nói: “Tâm ý của tộc chủ khiến người ta khó dò đoán, khó hình dung. Mỗi lần trông thấy tộc chủ trầm tư, trong lòng Vô Hạ đều nảy ra một nỗi sợ hãi vì không hiểu ngài đang nghĩ gì?”. 

Thác Bạt Khuê hào hứng hỏi: “Vô Hạ sợ ta ư?”.

Sở Vô Hạ duyên dáng nói: “Đương nhiên là sợ, sợ nhất là đánh mất sự sủng ái của tộc chủ với Vô Hạ, lúc ấy thì Vô Hạ chỉ còn nước tự kết liễu đời mình, không có tộc chủ bảo vệ, sống nữa cũng chẳng có ý nghĩa gì”. 

Thác Bạt Khuê cười: “Làm gì mà nghiêm trọng đến nỗi thế! Sự thực thì người nói cảm kích phải là ta, không có Phật tàng và Ninh Tâm đan của nàng thì nay hươu chết về tay ai còn chưa biết được. Nếu ta có thể đánh bại Mộ Dung Thùy thì Vô Hạ lập được công đầu đấy”.

Sở Vô Hạ thích thú kêu lên: “Vô Hạ là của tộc chủ, đương nhiên sẽ tận hiến mọi thứ, chỉ cần tộc chủ chấp thuận cho Vô Hạ phục thị người cả đời là Vô Hạ mãn nguyện lắm rồi”. 

Thác Bạt Khuê trầm ngâm chốc lát, đoạn hỏi: “Có phải Vô Hạ tinh thông thuật luyện đan lắm không?”.

Sở Vô Hạ thoáng giật mình: “Sao tộc chủ hỏi vậy?”.

Thác Bạt Khuê nói vẻ không vui: “Cứ trả lời ta trước đi đã. ”

Sở Vô Hạ tủi thân cúi đầu xuống, khẽ gật đầu. Thác Bạt Khuê vui hẳn lên: “Thế có thể luyện cho ta mấy viên Ninh Tâm đan nữa được không?”.

Sở Vô Hạ dàu dàu nói: “Muốn chế thành Ninh Tâm đan thì chỉ e phải An Thế Thanh, người có danh là Đan Vương mới luyện được. Những viên Ninh Tâm đan cuối cùng đã đưa cho tộc chủ dùng rồi, không còn đồ mẫu đưa cho An Thế Thanh phác ra làm thành phần hỏa hầu nữa, vì vậy cho dù An Thế Thanh đồng ý ra tay cũng không có cách nào hoàn thành sở nguyện của tộc chủ cả”.

Thác Bạt Khuê thất vọng rõ rệt: “Thế cái thuật luyện đan mà nàng biết đó thì dùng để luyện thứ đan gì?”.

Sở Vô Hạ miễn cưỡng đáp: “Thiếp chỉ biết luyện Ngũ Thạch tán, nhưng mà...”.

Thác Bạt Khuê cắt ngang lời ả: “Vậy thì nàng luyện một ít Ngũ Thạch tán cho ta thử xem, nếu đúng là có di chứng xấu thì ta sẽ lập tức ngưng dùng”.

Sở Vô Hạ kháng nghị: “Tộc chủ!”.

Lần thứ hai Thác Bạt Khuê ngắt lời ả, trầm giọng bảo: “Làm như ta yêu cầu đi”.

Sở Vô Hạ lộ vẻ hối hận, nhưng không nói gì, vì ả hiểu tính tình của Thác Bạt Khuê, một khi đã ra quyết định thì không ai trên đời còn lay chuyển được y. Ả không thay đổi được y, mà e rằng Yến Phi cũng không thay đổi được.

o0o

Lưu Mục Chi bước vào thư phòng, Lưu Dụ đang cúi mình trên án chăm chú đọc các loại chiếu lệnh văn cáo chất cao như núi, trông bộ dạng gã là biết gã đang khổ sở. 

Lưu Dụ ngẩng đầu, thở dài: “Ngồi đi, ôi chà, Mục Chi không thể thay ta xử lý những thứ đau đầu buốt óc này sao?”.

Lưu Mục Chi đến gần, ngồi xuống một bên, mỉm cười nói: “Tôi đã chọn ra cho đại nhân rồi, tất cả đều là những văn thư mà đại nhân không thể không xem, vả chăng đây mới chỉ là khởi đầu thôi, đại nhân nên chuẩn bị tâm lý đi”.

Lưu Dụ cười khổ: “Có rất nhiều chỗ ta xem mà chẳng hiểu gì hết, Mục Chi giải thích cho ta với. Ôi, đến giờ ta mới hiểu, vì sao chính trị Kiến Khang là chính trị của danh gia vọng tộc, vì chỉ có họ mới viết được ra những thứ lỉnh kỉnh quái quỷ nhường này, cũng chỉ có họ mới hiểu mình viết cái gì mà thôi”.

Lưu Mục Chi không nhịn được phì cười: “Đại nhân không hiểu chỗ nào?”.

Lưu Dụ buồn phiền nói: “Nhiều chỗ không hiểu lắm, chẳng biết nên bắt đầu từ đâu, có điều có một danh từ khiến ta ấn tượng cực kỳ sâu sắc, vì nó được đề cập rất nhiều lần trong các tấu chương văn cáo khác nhau, đó là ‘cắt đất’”.

Lưu Mục Chi đổi sắc mặt: “Cái mà đại nhân chú ý chính là vấn đề cốt tử gần một trăm năm nay đấy, xem ra trực giác chính trị của đại nhân rất sắc sảo”.

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Sao mà khéo thế? Xin tiên sinh giải thích cho ta”.

Lưu Mục Chi thoáng trầm ngâm, tựa hồ đang cân nhắc từ ngữ để Lưu Dụ dễ hiểu: “Thời Ngụy Tấn là thời đại chao đảo hỗn loạn, những ngày tao loạn nhiều hơn những ngày yên hàn, nhưng nguyên nhân sâu xa là manh nha từ thời Hán. Bắt đầu từ Hán Vũ Đế trở đi, mậu dịch rất phát triển, hàng hóa lưu thông, nhưng tình hình này đến tận cuối đời Hán vẫn không hề biến chuyển tốt, xã hội không chỉ xuất hiện những giai cấp đặc quyền mà còn phát sinh hiện tượng tập trung ruộng đất về tay một số cá thể, dẫn đến việc càng ngày càng nhiều nông dân mất đất, nền kinh tế đang từ kinh doanh mậu dịch chuyển sang kinh tế vườn trại.

Lưu Dụ gật đầu: “Giai cấp đặc quyền này chính là giới danh gia vọng tộc ngày nay”.

Lưu Mục Chi gật đầu xác nhận rồi tiếp tục: “Quyền lực của hoàng triều Ngụy Tấn phân tán, cộng thêm chiến loạn liên miên, Hồ tộc ở vùng biên tái lại liên tục xâm lấn khiến tình hình thêm rối ren. Chính trị Ngụy Tấn đã hình thành thế đối lập giữa các đại địa chủ và tiểu địa chủ, đại địa chủ thì có đặc quyền về chính trị, còn tiểu địa chủ thì là cường hào ác bá, cả hai tuy cùng có ruộng đất nhưng do quyền lực chính trị bất bình đẳng nên nảy sinh mâu thuẫn rất ghê gớm, giống như loạn Thiên Sư đạo , chính là đòn phản kích của thổ hào phương Nam đối với bọn danh gia vọng tộc”.

Lưu Dụ gật đầu vẻ chăm chú: “Ta nhận ra tính nghiêm trọng của vấn đề rồi”.

Lưu Mục Chi nói: “Tính nghiêm trọng của vấn đề thực ra không chỉ ở đó. Dân đen mất ruộng lại còn phải chịu gánh nặng sưu thuế, đồng thời lại còn phải đi lao dịch, đi lính, chẳng có gì làm sinh kế, khác gì cố nông hay thân ở đợ, còn có rất nhiều người bị biếm làm nô tỳ nhà quan, số lượng nhà nông vì thế mà giảm liên tục, đẩy thêm một nấc làm suy yếu lực lượng thống trị của triều đình. Trong tình cảnh dân tình chán ngán bất mãn, khởi nghĩa rồi bạo động nổi lên khắp nơi, kinh tế ngày càng tiêu điều sa sút”.

Lưu Dụ gật đầu: “Ta hiểu điều này, sở dĩ ta vào lính cũng vì nghèo quá, không một mảnh đất cắm dùi, không còn đường nào mà đi cả”.

Lưu Mục Chi nói: “Vì vậy từ thời Vương Đạo đến nay, người ta đã tiến hành cắt đất hoặc cải cách ruộng đất rất nhiều lần, mục đích cuối cùng là giải phóng đất đai và nông nô khỏi tay người sở hữu ruộng. Bây giờ đại nhân chắc đã hiểu mình đang đứng ở đâu, danh gia vọng tộc Kiến Khang sợ nhất chính là tổn thất lợi ích, không thể giữ được đặc quyền và ruộng đất lâu đời của mình, vì vậy mà An công thất thế, rất đông người theo ủng hộ Tư Mã Đạo Tử, sau này vì Tư Mã Đạo Tử quá hủ bại, chỉ chăm chăm lo tư lợi mới khiến người ta phản đối y. Hoàn Huyền sở dĩ được bọn nhà giàu Kiến Khang ủng hộ cũng đều vì họ ngồi chung một thuyền, nâng đỡ lợi ích lẫn nhau”. 

Lưu Dụ đăm chiêu suy nghĩ, đoạn trầm giọng nó: “Lẽ nào bọn nhà giàu Kiến Khang cũng hoài nghi ta như thế, có điều mối hoài nghi của họ đúng đấy, bây giờ ta chỉ muốn thay đổi tình hình này ngay lập tức thôi”.

Lưu Mục Chi nói: “Bọn nhà giàu Kiến Khang sợ nhất là đại nhân sẽ nối gót An công, tiến hành cải cách ruộng đất một lần nữa, do đại nhân xuất thân cơ hàn, không như con nhà gia thế như An công, nếu tiến hành cải cách thì sẽ triệt để hơn nhiều, điều đó gây tổn hại triệt để đến lợi ích của bọn chúng”.

Lưu Dụ phát nhức đầu: “Ta nên làm sao đây?”.

Lưu Mục Chi nói: “Cải cách ruộng đất thì đương nhiên phải làm rồi, nếu không thì ăn làm sao nói làm sao với dân chúng? Có điều tiến hành đến mức nào, cải cách đến quy mô nào đều phải cân nhắc cho chính xác mới có thể giành được sự ủng hộ của bọn thế gia vọng tộc. Nếu cải cách triệt để như đại nhân mong muốn thì đại nhân sẽ trở thành công địch của bọn họ, phương Nam này sẽ chia năm bè bảy bối, triều đình cũng có thể sụp đổ đó”.

Lưu Dụ hỏi: “Thế thì tiến thoái lưỡng nan nhỉ? Ta nhất định sẽ nối chí An công, tiến hành cải cách, nhưng cải cách nhất định sẽ gây phản cảm cho một bộ phận quyền thế, ta nên xử trí ra sao?”.

Lưu Mục Chi nói: “Đây chính là sự miêu tả chân xác nhất hoàn cảnh hiện tại của đại nhân, chỉ có một cách thôi, đó là thanh trừ những lực lượng phản đối đại nhân, cho đến khi nào không còn một ai quan điểm trái ngược với người, lời người nói ra, lệnh người đưa ra, bất luận là cường hào thế tộc hay ai chăng nữa cũng đều phải cúi đầu vâng phục”.

Lưu Dụ hít vào một hơi lạnh buốt: “Gì cơ?”.

Lưu Mục Chi nói: “Luận về đánh trận, đại nhân vượt xa tại hạ, sau khi giết Hoàn Huyền, chiến tranh có thể vẫn kéo dài, muốn mở rộng phạm vi kiểm soát đến bất cứ một góc nào ở phía nam đều châm ngòi cho một cuộc chiến tranh với những hình thức mỗi lúc mỗi khác, nhưng đều là nạn binh đao cả. Muốn thắng trận chiến như thế thì cũng cần một chiến lược và ưu việt, tuyệt đối không nên gieo thêm nhiều kẻ thù để đến nỗi tỷ lệ tương quan chênh lệch quá. Chúng ta cần võ lực to lớn để hậu thuẫn, nhưng cũng cần thủ đoạn chính trị khéo léo để phối hộp, như thế mới có thể hy vọng cải cách thành công”.

Lưu Dụ thở phào một hơi: “Ôi, ta thà đối mặt với thiên quân vạn mã còn hơn đối mặt với đống thối rữa chán ngấy này”.

Lưu Mục Chi nói: “Đại nhân tuyệt đối không được rút lui, đại nhân chính là ánh dương đầu tiên sau ngày dài tăm tối, là niềm hy vọng mới mẻ nhất của nhân dân. Nếu đại nhân bỏ cải cách thì sẽ đánh mất sự ủng hộ của dân chúng”.

Lưu Dụ nghĩ đến Giang Văn Thanh, nghĩ đến đứa con nàng ẵm, nghĩ đến Nhậm Thanh Thị, gật đầu: “Ta chỉ muốn thổ lộ nỗi lòng thôi mà, dĩ nhiên là ta không rút lui đâu”.

Lưu Mục Chi nói: “Từ đầu, đại nhân và thế gia vọng tộc đối địch nhau, họ không tín nhiệm đại nhân, bước đầu tiên chúng ta phải làm là tranh thủ sự ủng hộ và bênh vực của những người có chí trong bọn họ. Dễ dàng nhận thấy cho dù có trừ bỏ Hoàn Huyền vì vẫn còn lẻ tẻ đó đây những người phản đối, họ đều là những người thành thạo trò chơi chính trị, tuyệt đối không dùng vũ khí công khai để gây khó dễ cho đại nhân đâu, mà sẽ dùng âm mưu thủ đoạn, ví dụ như phân hóa các tướng lĩnh có dị tâm dưới trướng đại nhân, người đời có câu ám tiễn khó phòng, đại nhân đừng khinh suất đấy”.

Lời hắn nói làm Lưu Dụ nhớ tới Nhậm Thanh Thị, công dụng lớn nhất của nàng là biến ám tiễn thành minh tiễn, giúp gã biết cách đề phòng và phản kích.

Lưu Mục Chi nói đúng, chiến tranh không thể kết thúc chỉ nhờ cái chết của Hoàn Huyền, đấu tranh sẽ còn tiếp tục, gây dựng cơ nghiệp đã khó, giữ được cơ nghiệp còn khó hơn.

Lưu Mục Chi nói: “Đấu tranh chính trị là một cuộc đấu tranh khốc liệt, phải có bên chết, bên sống, không thể dùng tình người mà lý luận, vì vậy đại nhân phải hiểu rõ chỗ đứng của mình, phải làm những việc cần làm”.

Lưu Dụ trầm ngâm chốc lát, khi ngẩng lên nhìn lại Lưu Mục Chi thì hai mắt sáng quắc, gật đầu: “Ta rất cảm kích lời nhắc nhở của Mục Chi, chẳng hiểu tại sao sau khi tới Kiến Khang tuy ta có lúc tỉnh táo sáng suốt, nhưng phần lớn thời gian ta cứ u u mê mê như đang nằm mộng”.

Lưu Mục Chi cười: “Vì đại nhân đã đặt hết tinh thần vào trận chiến với Hoàn Huyền, nếu đại nhân được trực tiếp ra sa trường, tinh thần đại nhân sẽ khác hẳn mà”.

Lúc ấy Tống Bi Phong đi vào, ghé tai Lưu Dụ nói nhỏ: “Nhậm hậu nhắn, muốn gặp đại nhân đêm nay”.

Lưu Dụ tự nhủ Nhậm Thanh Thị chủ động hẹn gặp gã nhất định là có việc cần thiết, bèn gật đầu lĩnh ý.

Lúc này, gã đã hiểu rõ, gã không còn lựa chọn nào khác hơn là lăn mình vào cuộc đấu tranh chính trị sóng gió mờ mịt hung hiểm vạn phần ở Kiến Khang.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=64#ixzz1bzo3WwNS

Cửa lớn Thôi gia bảo mở toang, đoàn chiến binh đông đảo từ trong kìn kìn đi ra, men theo bờ bắc sông tiến về phía tây, nổi bật nhất là đội xe la chừng hơn hai trăm cỗ, nối đuôi nhau kéo dài đến hơn nửa dặm.

Trác Cuồng Sinh và Vương Trấn Ác thúc ngược đi trong tốp tiên phong đằng đầu hàng. Vừa đi, Trác Cuồng Sinh vừa ngoái đầu lại xem xét, cười nói: “Quân đội của chúng ta giống lính vận lương hơn lính đánh trận, mà lại giống quá mức, địch nhân liệu có nảy lòng ngờ không đây?”.

Vương Trấn Ác đang ngước lên quan sát bầu trời đêm mờ mịt dày mây, mặt y hiện ra hơn hớn dưới ánh sáng bập bùng của ngọn đuốc, y đáp vẻ tự tin: “Tất cả những phương pháp chúng ta đều phù hợp với dự tưởng của địch nhân, muốn làm cho chúng nảy ra ý nghĩ là nhầm lẫn thì dùng sự thực bề ngoài bảo cho chúng biết rằng chúng ta không ngờ chúng đang mai phục ở con đường trước mặt, nếu ta là Mộ Dung Long, nhất định sẽ trúng kế”.

Trác Cuồng Sinh gật đầu: “Ngươi nhìn kìa! Các huynh đệ đều có vẻ mặt nhẹ nhõm thoải mái, chính là vì họ hiểu trận đánh này của chúng ta chắc thắng một trăm phần trăm. Bây giờ chúng ta đi men theo bờ bắc sông, có dòng chảy làm bình phong ngăn, chỉ cần chú ý đến tình hình mặt tây, Mộ Dung Long nhất định sẽ vô kế khả thi, chỉ có đợi chúng ta ngày kia rời đường sông, đi qua chỗ gò bắc thì mới có thể phát động tập kích, tất cả đều nằm trong tính toán của chúng ta rồi”.

Vương Trấn Ác nói đầy xúc cảm: “Cuối cùng ta lại có thể dẫn quân đi đánh trận rồi. Ôi, ta vốn tưởng vĩnh viễn không còn cơ hội này nữa, nhưng Biên Hoang Tập đã thay đổi sinh mệnh ta, đúng là một cảm giác kỳ dị bay bổng như mộng mị, sợ nhất là nằm mơ đấy, lúc tỉnh dậy lại trở thành một kẻ mất hết mọi hy vọng và ý chí chiến đấu”.

Trác Cuồng Sinh điềm đạm hỏi: “Giả như ta nói trước mắt ngươi chỉ là một cảnh ảo tập thể thì ngươi nghĩ sao?”.

Vương Trấn Ác ngẩn người, trầm ngâm một thoáng rồi đáp: “Nhưng ta thực sự biết mình đang không mơ mà. Nếu thực là mơ thì ngươi sẽ rất mông lung, không thể nghĩ xem là mình có mơ hay không, khi ngươi phát giác ra mình mơ cũng là lúc ngươi tỉnh dậy rồi”.

Trác Cuồng Sinh cười khổ, chẳng nói chẳng rằng.

Vương Trấn Ác chuyển đề tài: “Có một chuyện ta muốn hỏi ý kiến quán chủ”.

Trác Cuồng Sinh cảm thấy rất vinh dự, cho rằng danh tướng lẫy lừng một thời như Vương Trấn Ác đây phải thỉnh giáo mình về việc đánh trận thì rất hân hoan: “Trong lòng Trấn Ác có điều gì ngờ vực thì cứ nói ra, xem xem ta có thể giúp được hay không”.

Vương Trấn Ác nói: “Biên Hoang Tập tuy là một nơi tốt đấy, nhưng không thích hợp lắm với ta, trời sinh ta số khổ, hành quân đánh trận vất vả vô cùng thì chịu được, nhưng cuộc sống mà say sưa như nhấp rượu, sống sáng nay bất cần sáng mai lại không thích hợp lắm với ta”.

Trác Cuồng Sinh lúc này mới hiểu là mình đã hiểu lầm tâm ý của y, bèn nói: “Mỗi người một chí mà, Trấn Ác có dự tính gì cho tương lai chưa?”.

Vương Trấn Ác nói: “Ta định sẽ về Kiến Khang nương tựa Tiểu Lưu gia, quán chủ thấy ý nghĩ đó có ổn không?”.

Trác Cuồng Sinh đáp: “Nếu trận đánh này phá được Mộ Dung Thùy, Trấn Ác nhất định sẽ được Thác Bạt Khuê hân thưởng, xem cách Thác Bạt Khuê trọng dụng Thôi Hoành thì biết y khát người tài như khát nước, lại rất coi trọng người Hán, đã có sẵn đà phóng rồi, sao Trấn Ác không đầu nhập vào trướng Thác Bạt Khuê, chắc chắn sẽ tốt lành”.

Vương Trấn Ác lộ vẻ khinh miệt: “Ta trước sau gì cũng là người Hán, đương nhiên hy vọng có thể ra công hãn mã vì dân tộc mình”.

Trác Cuồng Sinh nói: “Ta hiểu rồi. Không biết có phải vì sống lâu trong Biên Hoang Tập mà ta đã dần dần quên mất gốc gác Hán nhân của mình không, bây giờ lúc nào cũng nghĩ mình là Hoang nhân. Trấn Ác về Kiến Khang theo cờ Lưu Dụ thì chắc chắn là ổn thôi, ta sẽ viết một lá thư tiến cử Trấn Ác với gã, lá thư tiến cửu này sẽ áp dấu của toàn bộ thành viên Chung lâu Nghị hội, kể cả Yến Phi luôn, đảm bảo khi Trấn Ác tới Kiến Khang thì sẽ lập tức được Lưu Dụ trọng dụng.

Vương Trấn Ác mừng rỡ bái tạ, nhưng lại nghĩ ra điều gì, ấp úng hỏi: “Thư mà quán chủ viết sẽ chỉ nói sự thực thôi chứ?”.

Trác Cuồng Sinh phì cười: “Tiểu tử tỉnh táo thế! Sợ ta khoa trương bốc phét như thuyết thư hả? Yên tâm đi! Ta biết cách lựa mà. Ha, sự thực thì ta chẳng nói một lời nào ngoa ngôn đâu, nhưng người đọc thì cứ tưởng là điêu trá lắm. Nghìn vàng còn dễ kiếm chứ một mãnh tướng như Trấn Ác thì thắp đuốc cũng khó tìm ra, trận chiến Bắc khâu sẽ chứng thực đánh giá của ta”.

o0o

Lưu Dụ dán râu ria lên để che đi diện mạo thật của mình rồi rời khỏi thành Thạch Đầu, có Tống Bi Phong đi theo.

Kiến Khang quả thực đã thay đổi, không chỉ khôi phục lại cảnh nhiệt náo phồn hoa thời Tạ An mà người trên đường còn tươi tắn nhẹ nhõm hơn, cho thấy một cảnh thái bình thịnh thế.

Lưu Dụ nhớ lại lời Yến Phi trước khi từ giã, phúc khí của dân chúng xung quanh đang nằm trong lòng bàn tay y, nếu Lưu Dụ này rút lui hay từ bỏ, bách tính sẽ lại rơi vào cảnh khổ sở bị giới nhà giàu và quyền quý Kiến Khang chèn ép, gã đâu nhẫn tâm bỏ mặc họ như thế?

Gã hiểu rõ hơn bất cứ lúc nào vị trí của mình hiện nay.

Vì sự đối lập, lợi ích và xung đột giữa giới thượng lưu và hạ lưu, gã đang ở trạng thái đối địch với giới thượng lưu. Hiện tại không có ai dám chống lại gã, chỉ vì không ai dám trêu vào gã, nhưng sau khi Hoàn Huyền đi, gã bắt buộc phải phân chia quyền lực để duy trì vận mệnh của chính quyền phương Nam, cái hiện trạng mà theo đó gã độc nắm đại quyền như hiện nay sẽ thay đổi.

Tiếng Tống Bi Phong vang lên bên tai gã: “Lưu Mục Chi có bản lĩnh thật, ngươi xem Kiến Khang như vừa thoát thai hoán cốt, tất cả đều ngăn nắp rõ ràng, trên các phố phường Kiến Khang, ta chưa bao giờ thấy nhiều tiếng cười vui như bây giờ, thời An công còn tại vị cũng chưa từng có cảnh thái bình thịnh trị thế này đâu”.

Lưu Dụ cười: “Thì ra Tống đại ca nghĩ giống ta quá”.

Đồng thời trong lòng gã nghĩ, muốn ta đem dân chúng phương Nam dâng lên cho kẻ khác để mặc chúng chà đạp lăng nhục thì ta không làm được, cách duy nhất để đạt đến mục tiêu đó là trở thành người nắm quyền thực sự của phương Nam, trừ bỏ hết mọi thế lực phản đối, đích ngắm cuối cùng chính là bảo tọa hoàng đế.

Tống Bi Phong thì thào: “Làm tốt lắm, tâm nguyện của An công và Huyền soái gần như được hoàn thành nhờ tay Tiểu Dụ rồi”.

Lưu Dụ đặt tay lên vai Tống Bi Phong: “Chỉ cần Lưu Dụ này còn thì nhất định không làm Tống đại ca thất vọng”.

o0o

Yến Phi bì bõm lội lên bờ, đến bên Hướng Vũ Điền: “Quả nhiên đúng như dự đoán, xung quanh đây không có thám tử của địch nhân”.

Yến Phi giơ tay ra hiệu về phía bờ, các huynh đệ ẩn nấp quanh đó vội vã đẩy mấy con thuyền nhỏ chất đầy quân trang, sau đó bơi thuyền đưa vật tư đến.

Cánh quân tập kích mặt hậu địch nhân này vừa vặn một trăm người, kể cả Yến Phi và Hướng Vũ Điền.

Quân trang trên thuyền ngoài lương khô và nước ngọt thì toàn là hỏa khí và ám khí do Cơ Biệt đích thân lựa chọn, có thể phát huy khả năng sát thương cực lớn ngay cả trong điều kiện mưa gió và sương mù. Những người đủ tư cách tham dự chuyến hành động này đều là cao thủ về võ công, chẳng ai kém mà được tuyển vào đây.

Thuyền phải trở đi trở lại hàng mấy lần mới hoàn thành nhiệm vụ vận chuyển người và hàng hóa. Yến Phi và Hướng Vũ Điền ở điểm cao hai bên bờ sông giám sát động tĩnh xa gần, nếu phát hiện ra thám tử của địch nhân thì sẽ xuất thủ giết chết, vì lần hành động này phải giữ bí mật hoàn toàn mới đạt được hiệu quả mong muốn.

Hướng Vũ Điền hỏi: “Ngươi vẫn nhớ Minh Dao chứ?”.

Yến Phi đáp: “Nếu ta nói là quên hẳn rồi thì là nói dối. Nhưng lạ lắm, khi ta nhớ đến nàng thì trong lòng rất bình tĩnh, không xốn xang rạo rực như trước kia nữa. Ngươi có nhớ nàng không?”.

Hướng Vũ Điền trả lời: “Thi thoảng, nhất là khi nào nhàn rỗi quá hay tẻ nhạt quá. Nhưng ta hiểu rõ tâm trạng ngươi, chuyện đã qua rồi, hãy quên đi hết những gì bất như ý trước đây mà sống một cuộc sống mới. Nàng là người con gái cứng rắn, về mặt tình cảm có khi còn cứng rắn hơn cả ta và ngươi”.

Yến Phi nói: “Hy vọng đúng như ngươi nghĩ! Ngươi nói phải, về mặt tình cảm thì ta rất yếu đuối, từ khi mẹ mất, ta giống như một hồn ma vất vưởng, không nơi nương tựa, cảm giác đó khiến người ta sống mà như chết”.

Hướng Vũ Điền gật đầu: “Ta hiểu tâm trạng của ngươi, đúng vào lúc ngươi mất hết mọi lưu luyến với cuộc sống, sắp sửa bất chấp tất cả để giết Mộ Dung Văn thì đột nhiên gặp Minh Dao, từ đó ngươi yêu nàng điên cuồng, rồi lại vấp phải một cú giáng thảm khốc hơn. Nếu có kiếp trước, nhất định ngươi đã thiếu Minh Dao một món nợ ân tình nào đó”. Y trầm ngâm một thoáng rồi tiếp: “Con người có kiếp trước không nhỉ?”.

Yến Phi nói: “Ta chẳng rỗi hơi mà nghĩ xem con người có kiếp trước hay không. Ta chỉ biết tình yêu là điều làm cuộc sống con người có ý nghĩa nhất, vì vậy cho dù là hạng cuồng đồ hung ác đến đâu cũng cần tìm kiếm đối tượng để gửi gắm niềm yêu thương của mình, đó là nhân tính. Thuở thiếu thời ta từng nghe một chuyện về một tên độc hành đại đạo, một tên giết người như ngóe, đến đàn bà trẻ con cũng không từ, nhưng hắn rất yêu con ngựa cưỡi của mình, dẫu nó già yếu vô cùng hắn cũng không vứt bỏ, cuối cùng vì con ngựa cước lực quá yếu, khiến hắn bị những kẻ truy đuổi bắt kịp, hắn lại đỡ tên cho con ngựa, đến nỗi táng mạng dưới màn mưa tên”.

Hướng Vũ Điền nói: “Không chỉ có tình yêu mới đem lại sức mạnh để con người sống tiếp, mà còn có hận thù, giống như ngươi vì muốn báo thù cho mẹ mà đã cần cù tu tập võ nghệ, lại gặp lại được người trong mộng thuở thiếu thời, chỉ tiếc hiện thực quá tàn khốc, ngươi đã tìm sai đối tượng để gửi gắm tình yêu”.

Yến Phi lầm bầm: “Ta đã tìm sai đối tượng thật ư?”.

Hướng Vũ Điền cười khổ: “Ta chỉ nói lựa theo giọng điệu ngươi thôi, nói bừa ấy mà”.

Yến Phi vừa nhìn con thuyền nhỏ cuối cùng rời bờ vừa nói: “Ở bên ngươi thì câu chuyện lúc nào cũng trở về cuộc sống quá vãng, điều mà ta muốn quên lãng, nhưng chúng ta vẫn phải hướng nhìn tương lai. Thôi, đến lúc đi rồi này!”.

o0o

Lưu Dụ uống chung trà thơm mà Nhậm Thanh Thị dâng lên, đợi ả ngồi xuống bên cạnh, sốt ruột hỏi: “Có chuyện gấp gì chăng?”.

Nhậm Thanh Thị đáp với vẻ bình tĩnh: “Ở Kiến Khang hiện đang có một tin đồn liên quan đến Lưu gia”.

Lưu Dụ cau mày: “Tin đồn gì?”.

Nhậm Thanh Thị thong thả kể: “Có người đi khắp nơi phao tin rằng Lưu gia gian dâm với Vương Đạm Chân con gái Vương Cung. Vương Cung muốn giữ kín nỗi điếm nhục ấy nên ép gả con gái cho Hoàn Huyền, nhưng Hoàn Huyền phát giác ra cô ta không còn trinh tiết nên đối xử rất lạnh nhạt, Vương Đạm Chân vừa buồn vừa giận, đành lấy cái chết để kết thúc mọi chuyện”.

“Bình!”.

Lưu Dụ đập tay lên cái kỷ nhỏ bên cạnh, cái kỷ lập tức rã ra, bốn chân gãy gập sụm xuống đất.

Nhậm Thanh Thị giật nảy mình nhìn Lưu Dụ, hai mắt gã tóe lửa, trán nổi gân xanh, rõ ra cơn thịnh nộ. Ả chưa từng nhìn thấy bộ dạng đó ở gã, hiển nhiên điều vừa nghe đã khiến gã động đến chân hỏa.

Lưu Dụ giận dữ đến mức gần mất lý trí, chỉ muốn dốc hết lực lượng đang có trong tay ra tróc nã kẻ phao tin rồi tra tấn hắn thật tàn khốc. Đạm Chân là yếu điểm của gã, gã căn bản không muốn bị người ta biết, thế mà nay có kẻ quá đáng như thế, đã bịa đặt sai sự thực lại còn xúc phạm nặng nề danh dự của Đạm Chân trong khi nàng đã mất.

Lưu Dụ không màng tìm cách lấy lại bình tĩnh.

Lưu Mục Chi nói đúng, địch nhân sẽ không dùng đao thương vũ khí mà chỉ dùng các loại âm mưu thủ đoạn để đối phó, tấn công gã trên mọi phương diện. Gã trầm giọng bảo: “Tiếp đi!”.

Nhậm Thanh Thị nói: “Tin đồn ấy lan ra trước tiên trong đám con cháu nhà giàu, nói y như thật ấy, còn nói ngươi lén lút thông dâm với Vương Đạm Chân lúc cử hành tang lễ cho An công ở Quảng Lăng. Thiếp đã tìm cách truy nguyên nơi xuất phát nguồn tin đó, nhưng đến lúc này vẫn chưa thu hoạch được gì”.

Lưu Dụ lặng thinh, hai mắt đằng đằng sát khí.

Nhậm Thanh Thị dịu dàng nói: “Lưu gia đoán ai là người phao tin đây?”.

Lưu Dụ thốt: “Thanh Thị!”.

Nhậm Thanh Thị khẽ khàng thưa: “Thiếp nghe đây”.

Lưu Dụ hỏi: “Nàng bảo ta phải làm thế nào bây giờ?”.

Nhậm Thanh Thị đáp: “Bất luận có chuyện đó thật hay không, Lưu gia cũng đừng bao giờ chủ động đề cập đến nó, nếu có người hỏi, Lưu gia nên gạt phăng đi, thậm chí nên giết quách kẻ táo gan mở miệng hỏi, tin đồn tự nhiên sẽ được dập tắt thôi”.

Lưu Dụ cau mày: “Nhưng sự việc hoàn toàn không như vậy, đó là lời đồn đê tiện vô liêm sỉ, hủy hoại một cách ác ý thanh danh của Đạm Chân tiểu thư, ta làm sao mà chịu nổi?”.

Nhậm Thanh Thị đáp: “Rõ ràng là một chuyện bí mật vô cùng, thiếp chưa từng nghe thấy, mà Hoàn Huyền nhất định cũng chẳng biết gì. Người biết không nhiều, ai là kẻ phao tin thì sẽ bật ra ngay. Nếu Lưu gia xử lý vụ này thì phải để thiếp biết kẻ đó là ai”.

Sắc mặt Lưu Dụ rất khó coi: “Quả tình ta và Đạm Chân tiểu thư đã từng yêu thương nhau, nhưng không có kết quả nên chuyện giữa hai bên mau chóng chấm dứt. Chà, con bà nó! Bây giờ ta rất muốn giết một kẻ”.

Nhậm Thanh Thị hỏi: “Giết ai?”.

Lưu Dụ dằn từng tiếng: “Tạ Hỗn!”.

Nhậm Thanh Thị dường như đã đoán ra từ trước, không tỏ lộ ngạc nhiên hay sửng sốt: “Lưu gia sẽ ra tay chứ?”.

Lưu Dụ lộ vẻ cay đắng, khẽ lắc đầu. Nhậm Thanh Thị thản nhiên nói: “Nếu Lưu gia quyết ý giết chết Tạ Hỗn, thiếp đây sẽ chúc mừng người”.

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Chúc mừng ta ư?”.

Nhậm Thanh Thị đáp: “Dĩ nhiên là chúc mừng Lưu gia rồi, hành động đó sẽ trấn nhiếp tất cả đám quyền quý phương Nam, khiến kẻ nào cũng hiểu rõ, Lưu Dụ là người không thể trêu vào được, Lưu gia đã có thể giết Tạ Hỗn thì cũng có thể giết bất cứ ai, ai mà không sợ chứ?”.

Lưu Dụ đáp: “Ta không muốn ai sợ ta cả. Ôi, làm sao ta có thể hạ thủ với Tạ Hỗn được. Thiên hạ sẽ cho rằng ta là đồ vong ân bội nghĩa, huynh đệ trong Bắc Phủ binh nhất định cũng sẽ nghĩ thế”.

Nhậm Thanh Thị nói: “Thế thì phải xem Tạ Hỗn có biết điều không. Lưu gia giết hắn đúng vào lúc mọi người đều cho rằng hắn đáng giết thì làm gì còn ai dám dị nghị nữa chứ”.

Lưu Dụ ủ rũ nói: “Một khi Vương phu nhân còn tại thế thì bất kể Tạ Hỗn đặt điều kể tội ta thế nào, ta cũng không thể hạ sát thủ với hắn được”.

Nhậm Thanh Thị bình tĩnh hỏi: “Vậy khi bà ấy mất rồi thì sao?”.

Lưu Dụ ngạc nhiên, lộ vẻ suy nghĩ.

Nhậm Thanh Thị nói: “Từ lúc chồng con chết trận ở Cối Kê, Vương phu nhân mỗi ngày một yếu, Chung Tú tiểu thư lại mới mất, e rằng bà cũng không trụ được bao nhiêu ngày nữa đâu”.

Lưu Dụ buồn bã nín lặng.

Nhậm Thanh Thị nói: “Tin đồn có lẽ không phải do chính Tạ Hỗn bịa đặt ra, vì suy cho cùng Tạ Hỗn vẫn là con cháu Tạ gia, không thể nào gây tổn hại đến danh tiết của một người con gái bạc mệnh đã qua đời, hành động ấy không xứng hợp với tác phong nhà họ Tạ”.

Lưu Dụ ngẩn người: “Thanh Thị nói thế là thế nào?”.

Nhậm Thanh Thị không giải thích, cứ nói tiếp theo mạch: “Rất có khả năng là Tạ Hỗn tiết lộ chuyện tình cảm giữa Lưu gia và Đạm Chân tiểu thư với một kẻ khác, kẻ đó lòng dạ đen tối, bèn tô vẽ thêm thắt quanh sự thực cho thành tin đồn nhảm này. Đó mới là kẻ phao tin, chưa chừng hắn mong mỏi trong cơn tức giận, Lưu gia sẽ giết Tạ Hỗn, khiến cho giới thượng lưu Kiến Khang sinh ác cảm với Lưu gia, đồng thời khiến Lưu gia đánh mất lòng quân và lòng dân, kế này độc thật”.

Hai mắt Lưu Dụ sáng quắc, gã trầm giọng hỏi: “Lưu Nghị?”.

Nhậm Thanh Thị thủng thẳng: “Lưu Nghị là một trong những nghi phạm thôi, cũng có thể là người nào khác lắm, Gia Cát Trường Dân chẳng hạn”.

Lưu Dụ la lên: “Gia Cát Trường Dân? Không thể nào, nàng nên hiểu rằng ông ta là thế giao của Vương Hoằng, cũng là một trong những người tỏ thái độ ủng hộ ta từ đầu”.

Nhậm Thanh Thị nói: “Ông ta ủng hộ là ủng hộ Lưu gia trở thành thủ lĩnh của Bắc Phủ binh, không phải là trở thành người nắm đại quyền và rắp ranh bước lên ngôi đế tinh. Gần đây Gia Cát Trường Dân, Hi Tăng Thi và Tạ Hỗn qua lại rất thân mật, chỉ hiềm cái thói phong lưu không sửa được, lúc nào cũng tụ tập ở Hoài Nguyệt lâu, lại không cho ai hầu rượu, hiển nhiên toàn bàn những việc không muốn để người khác nghe thấy, làm sao mà qua mắt thiếp được?”.

Sắc mặt Lưu Dụ càng khó coi.

Nhậm Thanh Thị nói: “Thiếp chủ động cầu kiến Lưu gia là vì sợ Lưu gia không hiểu vị thế hiện tại của mình. Theo thiếp biết, Tư Mã Hưu Chi cũng liên tục ngầm đưa tin tức với thân thích Vương tộc đang nắm thực quyền ở các nơi, các thế lực phản đối Lưu gia hiện đang rục rịch giống dạo Hoàn Huyền mới vào kinh, các nhà quyền quý ở Kiến Khang cũng ngầm tiếp cận Lưu gia, chỉ có điều tình hình ngược lại hoàn toàn mà thôi!”.

Lưu Dụ hỏi: “Ta có thể tín nhiệm ai được đây?”.

Nhậm Thanh Thị đáp: “Thực ra cũng khá nhiều người trong các danh môn vọng tộc ủng hộ Lưu gia đấy, Vương Hoằng là một trong số đó, Lưu gia có thể tin tưởng hoàn toàn vào ông ta”. Ngừng một lát, ả lại tiếp: “Nghe đồn người đang có ý định thân chinh đánh dẹp Hoàn Huyền, nhưng hiện tại tình hình rất đặc biệt, người nên án binh bất động”.

Lưu Dụ dứt khoát: “Không! Ta nhất định phải đích thân chém chết quân cẩu trệ Hoàn Huyền”.

Nhậm Thanh Thị nói: “Vậy thì phải tìm một người thay Lưu gia chỉ huy quân đội Kiến Khang để ứng phó với các bất trắc có thể xảy ra, người này phải là người mà Lưu gia tuyệt đối tin tưởng được.

Lưu Dụ đáp: “Ta lập tức triệu Khoái Ân về, có hắn ngồi giữ Kiến Khang, kẻ nào dám gây chuyện là kẻ đó chết chắc rồi”.

Nhậm Thanh Thị vui vẻ nói: “Lưu gia cuối cùng cũng đã nắm được thuật làm vua rồi đấy”.

Lưu Dụ ngơ ngác: “Việc đó với thuật làm vua thì liên quan gì đến nhau?”.

Nhậm Thanh Thị đáp: “Lưu gia sẽ mau chóng hiểu ra thế nào là thuật làm vua. Thiếp biết đêm nay Lưu gia còn phải trở về Thạch Đầu thành, thời gian không còn nhiều, để thiếp thị hầu Lưu gia cho người quên đi mọi phiền não, được không?”.

Lưu Dụ thầm thở dài, phiền não gì gã cũng chịu được hết, chỉ có chuyện động đến Đạm Chân là gã không sao bỏ qua nổi. Vị trí này đúng là rất khó ngồi, trở thành cái đích cho thiên hạ ngắm vào quả thực không dễ chịu.

Nhậm Thanh Thị nũng nịu ngả vào lòng gã.

Ôm tấm thân nóng bỏng của ả trong tay nhưng đầu óc Lưu Dụ lại bay bổng về Tang Lạc châu trên thượng du Kiến Khang.

Sau khi giết Hoàn Huyền, gã có thể dồn hết tâm trí vào cuộc đấu tranh trong triều đình, trừ bỏ tất cả những thế lực chống đối, áp dụng kế hoạch của Lưu Mục Chi để từng bước cải cách hiện trạng xã hội bất công bình. Thể chất và tinh lực gã không còn là của gã nữa mà là của bách tính phương Nam, là trụ cột của nhiều gia đình khác.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=64#ixzz1bzo61FaG

Sau khi trở về Thạch Đầu thành, Lưu Dụ lập tức triệu Lưu Mục Chi đến thư phòng nói chuyện, vì Giang Văn Thanh đã từng khen ngợi Lưu Mục Chi rất có khả năng trong việc xử lý các nguy cơ, mà gã thì đang vấp phải nguy cơ đầu tiên kể từ khi đến Kiến Khang, với bản lĩnh chính trị hạn chế của mình, gã thực không giải quyết được vấn đề trước mắt, đành mượn đến bộ óc của Lưu Mục Chi vậy.

Tin đồn thật đáng sợ, vừa có căn cứ sự thực vừa bẻ cong bẻ quẹo, thật thật giả giả, dễ dàng làm nhập nhèm chân tướng sự việc, càng lan rộng càng nhiều bịa đặt.

Lưu Dụ đã gặt hái khá nhiều lợi ích nhờ chiêu bài “Nhất tiễn trầm Ẩn Long” của Trác Cuồng Sinh nên hiểu rõ hơn ai hết uy lực và mối nguy của những lời đồn đại.

Gã nhất định phải dập tắt ngọn lửa trước khi nó cháy thành đám, không phải vì bản thân hắn, mà vì Vương Đạm Chân, nàng ở trên trời có linh không thể chấp nhận ai quấy nhiễu mình.

Lưu Mục Chi bị lôi dậy giữa đêm, liền vội vàng chạy tới thư phòng, mặt mày ngái ngủ, nhưng nghe Lưu Dụ thuật lại câu chuyện với Nhậm Thanh Thị, cơn buồn ngủ của hắn bay biến cả.

Lưu Dụ nhìn Lưu Mục Chi với vẻ chờ đợi, nhưng thực không nghĩ ra bậc trí giả này có cách giải quyết ổn thỏa nào không.

Lưu Mục Chi không hỏi cội nguồn tin đồn, chỉ trầm ngâm chốc lát rồi gật đầu: “Mục Chi hoàn toàn nhất trí với đại nhân, kẻ dựng chuyện rõ ràng rắp tâm hãm hại Tạ Hỗn, tâm thuật của kẻ đó cao minh đấy, không đơn giản đâu”.

Nhậm Thanh Thị là bí mật của Lưu Dụ, cho dù với hạng tâm phúc như Lưu Mục Chi, gã cũng không muốn thổ lộ, vì vậy đành chấp nhận luận điểm của Lưu Mục Chi mà không thể nào nói cho hắn biết đây là ý kiến của Nhậm Thanh Thị, không liên quan gì đến mình, tuy thế việc Lưu Mục Chi tán đồng ý kiến ấy đã cho gã thấy trí lực và kiến thức của Nhậm Thanh Thị.

Lưu Mục Chi tiếp tục: “Việc này bảo lớn cũng được, nhỏ cũng xong, nhưng nếu không cẩn thận ứng phó thì hậu quả khó lường. Đối với giới quyền quý Kiến Khang, danh dự quan trọng hơn bất kỳ điều gì, nếu đại nhân biến thành kẻ đồi bại háo sắc trong mắt họ thì việc cai trị của đại nhân sẽ gặp nguy cơ. Nhưng vấn đề lớn nhất vẫn nằm ở sự đối lập giữa hai giai cấp trên và dưới”.

Lưu Dụ nôn nóng: “Tiên sinh có cách gì ứng phó không?”.

Lưu Mục Chi từ tốn hỏi: “Xin hỏi đại nhân, quan hệ giữa người và Vương tiểu thư thế nào?”.

Lưu Dụ nhìn thái độ điềm tĩnh của Lưu Mục Chi, cảm thấy tin tưởng hắn thêm bao nhiêu lần, tuy không muốn nhưng cũng thẳng thắn kể ra.

Lưu Mục Chi nghe hết, tỏ vẻ đồng ý: “Tạ Hỗn đúng là người giỏi thói ngồi lê đôi mách, những kẻ khác tuyệt đối không biết những chi tiết tường tận thế này. Trước khi nói ra cách giải quyết, Mục Chi phải hiểu tâm ý của đại nhân”.

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Tâm ý gì?”.

Lưu Mục Chi nghiêm chỉnh nói: “Đại nhân có muốn giết Tạ Hỗn không?”.

Lưu Dụ cười khổ: “Vừa rồi khi mới nghe chuyện về tin đồn, quả thực ta chỉ muốn băm vằm hắn. Ôi, nhưng làm sao mà ta ra tay với hắn được? Ta có thể làm kẻ vong ân bội nghĩa được ư?”.

Lưu Mục Chi điềm nhiên nói: “Nếu Tạ Hỗn mật mưu tạo phản thì sao? Đại nhân không thể nhường nhịn dung túng cho hắn mãi chứ?”.

Lưu Dụ nói: “Ta sẽ giam lỏng hắn hoặc đày hắn đến chỗ nào xa tít hẻo lánh, đối phó với một người như Tạ Hỗn thì thiếu gì cách”.

Lưu Mục Chi nói: “Nếu Tạ Hỗn biết là bất kể hắn có đắc tội thế nào đại nhân cũng không dám giết hắn thì hắn có dám táo tợn hơn không?”.

Lưu Dụ ngẩn người: “Ta chưa nghĩ đến điều này”.

Lưu Mục Chi trầm giọng đáp: “Đúng như điều Mục Chi nói hồi chiều đấy, đại nhân phải bỏ hết những yêu thương căm ghét của bản thân đi, hãy ứng phó với các thế lực phản đối mình bằng những thủ đoạn hữu hiệu, tuyệt đối không được mềm lòng, bất kể kẻ đó là ai”.

Lưu Dụ thở dài: “Nhưng nếu ta giết Tạ Hỗn, người đời còn coi ta ra cái gì? Huynh đệ trong Bắc Phủ binh sẽ nghĩ thế nào? Ta thực không muốn hai tay dính máu con em nhà họ Tạ”.

Lưu Mục Chi đáp: “Điều đó tùy thuộc vào cách đại nhân xử lý Tạ Hỗn, chỉ cần xử lý cho đắc địa thì dẫu đại nhân có chém đầu hắn, người đời cũng không thể lèm bèm gì được”.

Lưu Dụ phấn chấn hỏi: “Mục Chi có cách thức tuyệt diệu nào chăng?”.

Lưu Mục Chi đáp: “Đại nhân có thể gọi Vương Hoằng đến, để y đem lời đại nhân nói truyền ra ngoài, đầu tiên là phủ nhận toàn bộ, chứng minh Vương tiểu thư và đại nhân không hề có tư tình, và bởi không hề có tư tình, nên những chuyện sau sẽ như đá ném xuống lòng nước, lặng tăm dần không cần đại nhân đứng ra giải thích gì nữa.

Lưu Dụ gật đầu: “Quả thực là một cách, tương lai giết được Hoàn Huyền thì người bên Hoàn Huyền tất sẽ chứng minh hộ ta tình hình sau khi Đạm Chân đến Giang Lăng”.

Lưu Mục Chi nói: “Đồng thời đại nhân có thể bảo Vương Hoằng nói bóng nói gió người phao tin đồn kia là Tạ Hỗn. Trong giới thượng lưu Kiến Khang, ai mà chẳng biết Tạ Hỗn xưa nay vẫn bất hòa với đại nhân, không ai hoài nghi suy đoán ấy đâu, lại thêm Tạ Hỗn trước đây cũng đã có tiền lệ, đã từng vu cho đại nhân hại chết cha và huynh trưởng của hắn”.

Lưu Dụ cau mày: “Chỉ ra Tạ Hỗn là người phao tin thì có tác dụng gì?”.

Lưu Mục Chi đáp: “Đại nhân còn có thể bảo Vương Hoằng truyền ra mấy câu, nói đại nhân niệm ân tình An công và Huyền soái nên nhân nhượng ba lỗi lầm của Tạ Hỗn, phao tin đồn nhảm là lỗi lầm thứ nhất, nếu tái phạm hai lần nữa thì nhất định giết chết không tha. Sau này để xem Tạ Hỗn có biết đường an phận thủ thường không, nếu lỗi lầm chồng chất thì đại nhân có giết hắn cũng chẳng ai dám nói đại nhân phụ nghĩa vong ân, vì đại nhân đã cho hắn cơ hội nhưng hắn khăng khăng không nhận ý tốt ấy mà!”.

Lưu Dụ nhăn nhó: “Cách của Mục Chi hữu hiệu đấy, chí ít cũng có thể khiến Tạ Hỗn thấp thỏm trong một thời gian ngắn. Nhưng làm sao ta giải thích với Đạo Uẩn phu nhân được? Nhỡ bà hỏi ta Tạ Hỗn mà phạm lỗi hai lần nữa là ta giết hắn phải không thì ta trả lời thế nào?”.

Lưu Mục Chi mỉm cười: “Trước khi gợi ý cho Vương Hoằng tung tin thì đại nhân hãy bảo Tống đại ca mách riêng với Đạo Uẩn phu nhân, nói rằng đại nhân đau đầu buốt óc lắm mới phải công khai cảnh cáo như thế, mục đích là răn đe Tạ Hỗn, mong hắn sửa đổi, nếu không thì hại người rồi sẽ hại cả mình, đại nhân chỉ muốn tốt cho hắn nên mới làm thế thôi!”.

Lưu Dụ mừng rỡ: “Tiên sinh quả là thông tuệ bằng trời. Cơ mà nếu Tạ Hỗn không nhận ý tốt của ta, cứ tái phạm hết lần này đến lần khác thì ta phải giết hắn thật à?”.

Lưu Mục Chi thản nhiên đáp: “Không giết thì khiến mọi người phục tùng sao được?”.

Lưu Dụ sửng sốt nín lặng, không ngờ cách nghĩ của Lưu Mục Chi giống Nhậm Thanh Thị đến thế, bất giác gã nhớ lại lời Nhậm Thanh Thị nhắc về thuật làm vua.

Lưu Mục Chi lặng lẽ quan sát Lưu Dụ hồi lâu, cuối cùng chậm rãi bảo: “Đại nhân nên hiểu vị thế hiện thời của mình, có nhiều việc bất như ý lắm. Dĩ nhiên đại nhân không thể tàn sát vô tội vạ, nhưng nên rành mạch rằng có công được thưởng, phạm tội phải phạt, công tội phân minh mới tạo được quyền uy. Như hạng Lưu Nghị, tuy biết rõ hắn có dị tâm, nhưng vì hắn phá được quân Hoàn Huyền ở Tang Lạc châu, đại nhân cũng phải chiếu theo công trạng hắn mà ban thưởng, đó mới là cách làm đúng, như thế mọi người đều vui vẻ mà gắng sức vì đại nhân”.

Lưu Dụ buột miệng hỏi: “Đó là thuật làm vua phải không?”.

Lưu Mục Chi đáp: “Thuật làm vua chính là thủ đoạn chế ngự quần thần, tuy thế phong cách mỗi người mỗi khác, đại nhân xưa nay đãi người bằng thành ý, đó là ưu điểm của đại nhân. Nhưng đối với những hạng ngoan cố u mê thì cách đó không hữu dụng, không thông đồng bén ngọt, vậy thì cai quản quốc gia sao được?”.

Lưu Dụ thở dài sườn sượt: “Hiểu rồi”. Ngưng một chốc, lại tiếp: “Ta nghe tin Gia Cát Trường Dân và Tư Mã Hưu Chi đều đang rục rịch hành động, ta nên đối phó với họ thế nào?”.

Lưu Mục Chi đáp: “Hiện thời chúng ta không tiện làm gì họ cả, nếu không sẽ bị người ta tưởng rằng mình ăn không nói có để diệt trừ những người chống mình, khiến ai nấy đều nơm nớp. Cứ để đấy đã, diệt được Hoàn Huyền xong, đợi những kẻ chống đối thò đuôi ra, chúng ta sẽ giáng những đòn sấm sét xuống, trốc sạch cả gốc lẫn rễ bọn nó lên”.

Lưu Dụ gần đầu ra ý hiểu: “May mà có Mục Chi bày mưu tính kế cho ta, bằng không đêm nay ta mất ngủ rồi”.

o0o

Bình Thành.

Thác Bạt Khuê triệu tập hội nghị quân sự trước trận chiến. Trọng thần đại tướng đều tề tựu đầy đủ, kế có Trưởng Tôn Tung, Thúc Tôn Phổ Lạc, Trưởng tôn Đạo Sinh, người Hán có Hứa Khiêm và Trương Côn. Những người tham dự hội nghị này đều là tâm phúc của Thác Bạt Khuê, vì những việc mà hội nghị đề cập đều là việc cơ mật nên tuyệt đối giữ kín không để tin tức lọt ra ngoài.

Thác Bạt Khuê thở dài, mở đầu: “Nhớ năm xưa thanh thế Phù Kiên như mặt trời chính ngọ át hết Đại quốc của chúng ta, lại còn chia Đại quốc thành hai phần, phần đông Hoàng Hà do Lưu Khố Nhân thống trị, phần tây Hoàng Hà nằm trong tay Lưu Vệ Thần, không phụ thuộc lẫn nhau, lại kiềm chế lẫn nhau. Thác Bạt Khuê ta là nô lệ mất nước, cũng may Lưu Khố Nhân chiếu cố, không có ân đức của ông ta, Thác Bạt Khuê này chẳng có ngày hôm nay rồi”.

Trưởng Tôn Tung và Thúc Tôn Phổ Lạc đều là các thủ lĩnh bộ lạc dẫn quân về theo Thác Bạt Khuê từ thời đầu quật khởi, nghe nhắc lại chuyện này đều không khỏi cảm khái vì dòng chảy thời gian.

Sau mấy lời ôn cố, hai mắt Thác Bạt Khuê sáng quắc lên, cất giọng trầm trầm không giận mà có uy, nói: “Nhưng Lưu Vệ Thần lòng lang dạ sói, đã mấy lần dồn ta vào chỗ chết, Hừ, Lưu Vệ Thần thật là hoang tưởng, không tự lượng sức. Ta chiêu tập bộ lạc cũ ở Ngưu Châu, lên ngôi Đại chúa, hắn vẫn không biết tốt xấu, lại phái con trai là Lưu Trực Lực Đề dẫn chín vạn quân đến đánh úp, nhưng bị năm nghìn người của ta đập cho tan tác ở Thiết Kỳ sơn, rồi thừa thắng truy kích, vượt qua Hoàng Hà xuống nam, đánh thẳng vào đô thành của hắn, trảm sát cha con Lưu Vệ Thần và hơn năm nghìn người của tộc hắn, ném xác xuống Hoàng Hà, lại lấy được hơn ba mươi vạn ngựa, hơn bốn trăm vạn dê bò, từ đó trở đi nước ta từ yếu trở thành mạnh, gần đây không còn ai dám chống đối chúng ta nữa”.

Mọi người nhìn Thác Bạt Khuê, đều hơi thắc mắc là đang lúc nước sôi lửa bỏng này vì sao y không đi vào chính đề, thảo luận xem làm sao để thắng được trận chiến then chốt trước mắt ngay mà lại đi kể lại những nỗi hàn ôn thuở nào.

Thác Bạt Khuê ngửa nhìn xà nhà, nói như mơ ngủ: “Các ngươi có hiểu vì sao ta chỉ có năm ngàn người mà phá được đội chiến binh đông đến chín vạn quân của Lưu Trực Lực ở Thiết Kỳ sơn không?”.

Phần đông những người tham dự hội nghị hôm nay đều đã trực tiếp tham gia chiến dịch có tính quyết định ấy, nhưng nguyên nhân dẫn đến chiến thắng ngày đó rất phức tạp, nhắc đến tình hình hai bên địch ta thì có Lưu Trực Lực cuồng vọng tự đại, khinh thường Thác Bạt Khuê, hấp tấp tiến đánh, ngoài ra còn có thiên thời khí hậu, địa lý hoàn cảnh, tài cầm quân đánh trận của Thác Bạt Khuê, thực khó chỉ dùng vài câu mà khái quát được, trong khi tình hình hiện tại hiển nhiên không thích hợp để bất cứ ai tràng giang đại hải.

Trong sảnh im phăng phắc, chỉ có dư âm câu hỏi của Thác Bạt Khuê vẫn lởn vởn trong tai mọi người.

Thác Bạt Khuê đưa mắt nhìn từng người một, bình tĩnh tự trả lời: “Vì ta hiểu mình không còn đường lui nữa, địch không bại thì ta chết”.

Mọi người nghe thấy, nhiệt huyết trào sôi, nhất tề hô vang, muốn phát tiết hết những phấn khích trong lòng.

Không khí tức thì nóng lên.

Thác Bạt Khuê thay đổi giọng điệu, khẳng khái nói: “Ở khu vực Trung Nguyên, hiện tại chỉ có một người xứng là đối thủ của Thác Bạt Khuê này, đó là Mộ Dung Thùy, phải giết được người này, Trung Nguyên mới không còn ai cản đường ta nữa. Trận chiến này ta cũng không còn đường lui, nếu thua, không còn ai trong chúng ta sống sót được mà rời khỏi phương Bắc này, cho dù có may mắn thoát thân thì cũng long đong nay đây mai đó, đợi đến lúc bị làm thịt, trời đất tuy rộng nhưng không có chỗ dung thân”.

Mọi người lại nhất tề hô vang để biểu lộ tinh thần quyết tâm tử chiến.

Mọi người đều hiểu rõ lời của Thác Bạt Khuê, nếu trận này thất bại, Mộ Dung Thùy sẽ trở thành thế lực độc bá phương Bắc, lúc đó cho dù có chạy trốn đến nơi cùng trời cuối đất cũng không ai dám thu dụng họ, thậm chí còn chặt đầu họ đem nạp cho Mộ Dung Thùy lĩnh công.

Thác Bạt Khuê lạnh lùng nói: “Mộ Dung Thùy không phải là một Lưu Trực Lực Đề khác đâu, hắn tuyệt đối không phạm sai lầm như Lưu Trực Lực Đề, vượt xa Mộ Dung Bảo, lần này chúng ta càng phải quyết tâm, quyết tâm hơn bất cứ một chiến dịch nào trong quá khứ, phải đấu trí đấu lực với Mộ Dung Thùy”.

Rồi y mỉm cười rạng rỡ: “Nhưng ta có thể khẳng định với các vị, thời cơ thắng lợi đang nằm trong tay chúng ta, chỉ cần chúng ta vứt bỏ được sự e dè đối với Mộ Dung Thùy, toàn tâm toàn ý cảm tử cho chiến dịch, lần đầu tiên trong đời, Mộ Dung Thùy sẽ thất bại, và trận đánh này sẽ khiến nước Yên của hắn tan rã tiêu vong, vĩnh viễn không còn hy vọng trỗi dậy nữa”.

Mọi người cảm nhận rất rõ nụ cười của Thác Bạt Khuê xuất phát từ đáy lòng, tức thì cùng cảm nhiễm sự tự tin của hắn.

Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Mộ Dung Thùy rất giảo hoạt, đã dám lội tuyết hành quân, từ Vinh Dương đến Ngũ Hồi sơn, phía đông Thái Hành sơn, hội hợp với quân đoàn do Mộ Dung Long dẫn từ Lung thành tới, vượt đèo dốc, qua núi cao, đi đường núi, mở thông đường rừng của cư dân Thái Hành sơn, sau đó chia quân làm hai đường, một đường đến Vụ Hương ở mặt tây nam Thái Hành sơn, do Mộ Dung Long chỉ huy, chuẩn bị phục kích đội Hoang nhân của Yến Phi, một đường khác do hắn đích thân đốc sư, lẩn vào vùng núi săn bắn ở mặt đông chúng ta, đợi Hoang nhân bị tập kích thì lập tức giáng một đòn sấm sét xuống Bình thành. Mộ Dung Thùy ơi! Kế kỳ binh của ngươi lần này không xong rồi, Thác Bạt Khuê ta đâu phải hạng như Mộ Dung Vĩnh cho ngươi hí lộng trên lòng bàn tay, lần này ngươi sẽ nhận ra người tính không bằng trời tính, cái thời giễu võ dương oai của ngươi chẳng còn kéo dài bao nhiêu ngày nữa đâu”.

Mọi người nghe nói, tinh thần phấn chấn, không ngờ Thác Bạt Khuê lại nắm vững tình hình của Mộ Dung Thùy đến thế. Nên biết sở dĩ Mộ Dung Thùy có thể tung hoành trên chốn sa trường chưa từng chiến bại cũng đều vì hắn giỏi thuật xuất kỳ chế thắng, khiến người ta không dò được hư thực, lại thêm tướng sĩ đều liều mạng, ai cũng hung hăng xung sát.

Nhưng nếu kỳ binh của Mộ Dung Thùy mà không còn là kỳ binh thì khác, sự e dè bấy nay đối với Mộ Dung Thùy liền tiêu giảm trong lòng mọi người.

Thác Bạt Khuê nói: “Khi Thôi Hoành dẫn năm ngàn tinh nhuệ rời Bình Thành thì đã đặt nền móng cho chiến thắng của chúng ta. Quân của Thôi Hoành mới là kỳ binh chân chính, khi hắn và Yến Phi liên hệ với nhau, tương kế tựu kế, trốc sạch cả gốc lẫn ngọn quân đoàn Long Thành đông đến ba vạn mạng của Mộ Dung Long, làm suy giảm sĩ khí quân Mộ Dung Thùy”.

Mọi người đều thán phục tài suy đoán cao thâm mạc trắc của Thác Bạt Khuê, cũng lại tăng thêm lòng tin tưởng vào y. Quân Thôi Hoành bí mật rời Bành Thành, không một ai biết là chuyện gì, đến bây giờ nhờ Thác Bạt Khuê nói ra, họ mới biết được Thôi Hoành gánh vác một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược sâu xa, quyết định thắng bại trên sa trường đến vậy.

Ai cũng hiểu nếu đội quân Biên Hoang bị đánh tan tác thì phe Thác Bạt Khuê chẳng còn bản lĩnh gì mà giành trắng lợi trước Mộ Dung Thùy.

Trưởng Tôn Tung có vị trí cao nhất trong số những người có mặt, lại quan hệ khá thân thiết với Thác Bạt Khuê, thận trọng hỏi rằng: “Binh lực của Mộ Dung Thùy ẩn ở phía núi săn như thế nào?”.

Thác Bạt Khuê đáp: “Binh lực nằm trong khoảng sáu đến bảy vạn người, trang bị tề chỉnh, cộng thêm năng lực cầm quân của Mộ Dung Thùy, chúng ta không được phép sơ suất”.

Cả một mùa đông tập hợp binh lực, chiêu tập các bộ lạc, không tính năm nghìn người đi theo Thôi Hoành thì hiện thời ở hai thành Nhạn Môn, Bình Thành, binh lực chỉ ước hai vạn hai ngàn người, đúng là một trời một vực so với binh lực hùng mạnh của Mộ Dung Thùy ở phía núi săn.

Trưởng Tôn Đạo Sinh nói: “Chỉ cần chúng ta dựa vào thành mà cố thủ, hai thành lại chiếu ứng lẫn nhau thì nhất định sẽ đánh cho Mộ Dung Thùy tơi tả không còn mảnh giáp”.

Thác Bạt Khuê lắc đầu: “Không, chúng ta cần chủ động xuất kích, đấu một trận sảng khoái với Mộ Dung Thùy tại Nhật Xuất nguyên”.

Nhật Xuất nguyên là khoảng đồng cỏ nằm giữa Bình thành và núi săn, nếu quyết chiến ở đó thì sẽ chính diện giao đấu, không còn cách nào dựa vào địa thế hay điều kiện tự nhiên để triển khai chiến thuật đột kích, phục kích, tập kích được nữa, độ rủi ro sẽ rất cao.

Mọi người cùng choáng váng.

Thác Bạt Khuê ung dung nói: “Đây là cách duy nhất để chiến thắng vang dội ghê gớm. Nếu chúng ta áp đảo Mộ Dung Thùy trên sa trường, chư hùng quan nội còn ai dám xuất quan trêu vào chúng ta nữa? Đành mà ngồi nhìn chúng ta tấn công vào Trung Sơn, thu thập người Yên, lúc đó mảnh đất Trung Nguyên sẽ là vật nằm trong túi Thác Bạt Khuê ta”.

Thúc Tôn Phổ Lạc cau mày: “Cho dù tính thêm cả đội Hoang nhân thì quân lực của chúng ta vẫn ít hơn Mộ Dung Thùy chừng một đến ba vạn, e rằng xác suất chiến thắng không cao”.

Trương Côn cũng tham gia: “Tại sao chúng ta không dựa vào thành mà chiến, Mộ Dung Thùy đánh lâu không hạ được thì cũng coi như thua trận này thôi”.

Thác Bạt Khuê bình tĩnh đáp: “Biết người biết ta trăm trận trăm thắng. Phản ứng của các ngươi cho thấy các ngươi chưa vứt bỏ được nỗi sợ sệt trước Mộ Dung Thùy. Nhưng ta có thể nói một cách chắc chắn và kiên quyết thế này, Mộ Dung Thùy đã đánh mất ân sủng của vị thần Chiến tranh, đây là trận thua đầu tiên của hắn, cũng là trận chiến cuối cùng của hắn”.

Cả sảnh đường lặng ngắt như tờ, im lặng đợi Thác Bạt Khuê nói tiếp.

Thác Bạt Khuê đưa mắt nhìn một vòng, trầm giọng nói: “Bất luận Mộ Dung Thùy có quân đông ngựa mạnh thế nào thì lần này cũng là lao sư viễn chinh, tướng sĩ nhớ nhà, lại thêm việc quân đoàn bên Long Thành bị phá, tình thế đó khiến quân Mộ Dung Thùy rối loạn, sĩ khí sa sút, lại thêm tuyến vận lương quá xa khiến Mộ Dung Thùy không thể đánh nhanh thắng nhanh, mỗi một yếu tố đó đều bất lợi cho hắn cả, muốn đập tan hắn thì đây là cơ hội ngàn năm một thuở, và cũng là cơ hội duy nhất. Nếu để hắn biết khó mà lui, trở về Trung sơn thì sau này chẳng lường được hươu về tay ai cả!”.

Không đợi mọi người lên tiếng, Thác Bạt Khuê lại tiếp: “Các ngươi tưởng chúng ta không bằng người Yên chăng? Sai rồi, chiến binh của chúng ta về bất cứ mặt nào cũng chỉ có hơn chứ không kém người Yên. Người Yên ở Trung Nguyên đã lâu, đã đánh mất tác phong mạnh mẽ hung hãn của thời chăn ngựa ở thảo nguyên trước đây, còn chúng ta vẫn giữ được tính cách kiên nghị của dân tộc tái ngoại. Luận về chiến mã, những con ngựa tốt nhất đang nằm trong tàu ngựa của chúng ta, Mộ Dung Thùy chỉ nắm những chiến mã hạng hai mà thôi. Và còn...”.

Nói đến đây y dừng lại, đợi mọi người dồn ánh mắt mong mỏi vào mình, mới hô lên: “... và còn đội quân Biên Hoang và các anh em của chúng ta nữa, khi chúng ta cầm chân Mộ Dung Thùy ở Nhật Xuất nguyên, hình thành thế đối đầu đôi bên thì đoàn quân Biên Hoang chính là kỳ binh có thể lao ra từ bất cứ phương hướng nào, giã cho Mộ Dung Thùy một đòn chí mạng. Mộ Dung Thùy sẽ trở nên dè dặt trước hai đầu tấn công nên khó lòng thi triển hết thực lực, rơi vào cảnh tiến thoái lưỡng nan. Quyền chủ động không nằm trong tay hắn nữa mà chuyển sang tay chúng ta. Ta tin tưởng hoàn toàn rằng chúng ta sẽ thắng trận này, mấu chốt là chúng ta có đặt mình ngang hàng, thậm chí là hơn Mộ Dung Thùy hay không, có toàn tâm toàn ý liều sinh tử vì tương lai của chúng ta hay không thôi!”.

Mọi người nhất tề hưởng ứng, hò reo vang lừng.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=64#ixzz1bzo8VABI

Sau buổi triều sớm, Lưu Dụ mời Vương Hoằng tới quan thự của gã trong hoàng thành để nói chuyện. Truyền tả hữu lui ra xong, Lưu Dụ nói: “Gần đây huynh có nghe tin đồn về ta và Đạm Chân tiểu thư không?”.

Vương Hoằng hừ mũi: “Tin đồn dạng ấy thì ai mà tin? Ta đương nhiên là có nghe chứ, nhưng bọn nào không óc mới tin. Một là ta hiểu rõ con người đại nhân, hai là Vương Đạm Chân là cô gái thế nào? Tình huống trong tin đồn căn bản không thể xảy ra ở hiện thực, huống hồ lại còn xảy ra ở ngay phủ thống lĩnh của Huyền soái ở Quảng Lăng? Vô lý hết sức!”.

Lưu Dụ tự nhủ nếu không có Chung Tú đưa đường dẫn lối thì đến gặp mặt Vương Đạm Chân một lần cũng khó chứ nói gì chuyện khác, cũng may Tạ Hỗn bất lương vô liêm sỉ đến đâu cũng không nỡ bán rẻ cô chị họ. Những điều Vương Hoằng nói cũng khiến Lưu Dụ bối rối khó xử, vì nếu nhờ ông ta tung tin đồn khác thì chẳng phải là người ta vô tư mà mình tự tư, há miệng mắc quai hay sao.

Vương Hoằng lại nói: “Đại nhân khỏi bận tâm đến những lời ngồi lê đôi mách rẻ rúng đó, dân Kiến Khang có tật xấu là ưa đàm tiếu chuyện người khác, không có tin đồn thì họ sống không yên ấy mà”.

Lưu Dụ sực nghĩ ra một điều, ngập ngừng hỏi: “Nhưng liệu có ai tin thật không?”.

Vương Hoằng đáp: “Bất kể tin đồn nhảm nhí hoang đường thế nào cũng có người theo đuôi tâng bốc truyền lan thêm, hoặc chí ít sẽ có kẻ vẽ vời cố sức tung rộng ra, đại nhân không phải lo đâu, thứ tin đồn ấy ở đây một thời gian là lại lắng xuống, chẳng còn ai nhớ là chuyện gì nữa đâu”.

Lưu Dụ cau mày: “Rốt cục là ai mà đê tiện thế nhỉ, nỡ lòng bịa đặt tin đồn điêu trá ác tâm làm tổn hại danh tiết của Đạm Chân tiểu thư!”.

Sắc mặt Vương Hoằng rất kỳ cục: “Đại nhân muốn truy ra xem kẻ tung tin đồn là ai ư?”.

Lưu Dụ ngớ người: “Huynh biết là ai à?”.

Vương Hoằng thở dài: “Đại nhân đừng hỏi thì tốt hơn”.

Lưu Dụ trầm giọng: “Phải chăng đã có kẻ mách với huynh về đứa tung tin đồn?”.

Vương Hoằng thấy Lưu Dụ lộ vẻ nghiêm trọng quá, ngạc nhiên hỏi: “Sao đại nhân không lập tức hỏi ai tung tin đồn nhảm mà lại cứ kèo nhèo việc đứa nào mách với ta?”.

Lưu Dụ không chịu bỏ qua: “Gia Cát Trường Dân hoặc Hy Tăng Thi mách với ông chứ gì?”.

Vương Hoằng lộ rõ vẻ kinh ngạc, định nói lại thôi.

Lưu Dụ dồn ép: “Huynh đừng có giấu ta. Bây giờ ở Kiến Khang, chẳng có mấy người khiến ta tin tưởng, ông là một trong số ít ấy, nhất thiết đừng làm ta thất vọng”.

Rồi gã nhẹ giọng đi: “Ta không muốn truy ra bất cứ ai cả, chỉ muốn dập tắt tin đồn gây tổn hại đến sự trinh bạch của Đạm Chân tiểu thư mà thôi”.

Vương Hoằng nhăn mặt: “Khi lời đồn lan rộng thì nhất định có người đoán kẻ tung tin là ai, đó là biến tướng của lời đồn, không thể tin là giống với bản thân lời đồn được”.

Lưu Dụ không vui tí nào: “Huynh vẫn muốn giấu ta ư?”.

Vương Hoằng đành đầu hàng: “Tăng Thi kể với ta đấy, hắn bất bình thay đại nhân mà”.

Lưu Dụ gần như khẳng định câu trên là thật, câu dưới là Vương Hoằng cố ý nói tốt cho Hy Tăng Thi, sự thực thì Hy Tăng Thi mách Vương Hoằng về thân phận thật sự của kẻ tung tin đồn, là muốn tăng thêm tính khả tín của tin đồn để lay chuyển sự ủng hộ của Vương Hoằng đối với Lưu Dụ. Lời Vương Hoằng đã chứng thực tính chính xác về nguồn tin mà Nhậm Thanh Thị cung cấp.

Gốc họa là Lưu Nghị, vây quanh hắn, lấy hắn làm trung tâm, dần dần hình thành một tập đoàn chống đối sự cai trị của Lưu Dụ. Do Lưu Nghị là một trong những yếu nhân của Bắc Phủ binh, tay nắm binh quyền, lại có phe phái riêng trong Bắc Phủ binh, dần dần khiến những con em gia đình quyền quý vốn giao hảo hắn bắt đầu sinh lòng trông đợi rằng có thể mượn sức mạnh của hắn để cản trở việc Lưu Dụ đăng đế.

Lưu Dụ bình thản hỏi: “Tăng Thi có nói với huynh kẻ tung tin đồn là Tạ Hỗn không?”.

Vương Hoằng nói: “A, thì ra đại nhân đã nghe ai là kẻ tung tin đồn rồi à”.

Lưu Dụ giả cách bình thản hững hờ, mỉm cười nói: “Tiểu tử Tạ Hỗn đúng là không khá lên được, ta đã trọng dụng hắn, hắn lại ngu độn vô tri như thế. Bây giờ ta chỉ sợ hắn bị kẻ khác lợi dụng, làm ra những chuyện đại nghịch vô đạo khiến ta khó xử mà thôi”.

Vương Hoằng thấy gã không đả động gì đến Hy Tăng Thi thì thở phào nhẹ nhõm: “Ta đã từng khuyên hắn, nhưng hắn vẫn còn canh cánh nặng lòng về cái chết của cha và anh. Có lúc ta thật không hiểu, ở Kiến Khang ai mà chả biết cái chết của cha và anh nó không hề liên quan đến đại nhân, muốn trách thì phải trách cha hắn mới đúng, nhưng hắn lại không chịu chấp nhận”.

Lưu Dụ nói: “Huynh có muốn giúp tiểu tử Tạ Hỗn ấy không? Cũng là giúp ta một chút”.

Vương Hoằng nhận lời ngay: “Đại nhân cứ dặn!”.

Lưu Dụ nói: “Xin chuyển lời cảnh cáo của ta đến Tạ Hỗn, nói ta niệm tình Tạ gia, có thể bỏ qua cho hắn ba lần lầm lỗi, lần này coi như sai lầm thứ nhất, nếu hắn còn dám tái phạm hai lần, nhất định giết chết không tha, hắn không phải kẻ ngốc, sau này nên biết lựa nói lựa làm. À nhưng huynh đừng nói trực tiếp với hắn”.

Vương Hoằng ngạc nhiên: “Không nói trực tiếp thì truyền đạt thế nào đây?”.

Lưu Dụ mỉm cười: “Có câu dĩ độc trị độc, lấy lời đồn trị lời đồn. Huynh truyền lời này của ta ra ngoài, càng nhiều người biết càng tốt, cho thấy thái độ ta căm ghét lời đồn biết ngần nào, cho dù là con cháu Tạ gia ta cũng sẽ xử lý nghiêm”.

Vương Hoằng ngẩn người.

Lưu Dụ nói: “Ông có thể làm tốt việc này không?”.

Vương Hoằng trầm ngâm chốc lát, gật đầu nhận lời: “Đúng là trong vô kế khả thi lại tìm ra cách, hy vọng sau lần cảnh cáo này nó sẽ tự biết điều, không phạm lỗi nữa, nếu không đại nhân đã nói phải giữ lời, sẽ không thu lại nữa”.

Lưu Dụ nhìn phản ứng của Vương Hoằng, hiểu rằng kế của Lưu Mục Chi đã thành công, vì phản ứng của Vương Hoằng đại diện cho phản ứng của lớp danh gia vọng tộc, nhận thấy rằng Lưu Dụ đã rất nung nấu trước khi ra quyết định này, chỉ vì muốn mở cho Tạ Hỗn một bến quay về”.

Hai người lại hàn huyên một lúc, sau đó Vương Hoằng cáo từ ra về.

o0o

Thái Hành sơn.

Yến Phi và Hướng Vũ Điền trèo lên một đỉnh đồi, dõi mắt nhìn những ngọn núi phía Vụ Hương.

Hướng Vũ Điền nói: “Đêm nay có lẽ chúng ta sẽ đến được địa điểm đã định, còn một ngày một đêm để nghỉ ngơi dưỡng thần rèn giũa nhuệ khí”.

Yến Phi yên lặng.

Hướng Vũ Điền hỏi: “Ngươi đang nghĩ gì vậy?”.

Yến Phi cười khổ: “Còn gì mà nghĩ nữa chứ?”.

Hướng Vũ Điền gật đầu: “Đang nhớ Kỷ Thiên Thiên chứ gì. Nếu ta là ngươi thì cũng thấp thỏm phập phồng, vì trong tình hình bình thường, cho dù đánh bại được Mộ Dung Thùy cũng vẫn không có cách nào cứu được chủ tỳ nàng ta, sợ nhất là Mộ Dung Thùy muốn cho đá vàng nát cả, chẳng qua khả năng này nhỏ quá nhỏ, vì Mộ Dung Thùy tuyệt đối không bị hãm ở vùng hoang địa này. Đẩy lui Mộ Dung Thùy thì có thể, nhưng muốn đánh cho y suy sụp hoàn toàn, kiệt quệ hoàn toàn thì còn khó hơn lên trời, với thực lực hiện nay, chúng ta không thực hiện được”.

Ngừng một lát, y tiếp: “Cũng may hiện thời không phải là tình hình bình thường, vì ngươi và Kỷ Thiên Thiên có dị thuật thần giao cách cảm”.

Yến Phi hỏi: “Mộ Dung Thùy có đem chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên ra chiến trường không nhỉ?”.

Hướng Vũ Điền lắc đầu: “Cũng khó nói lắm”.

Yến Phi thở dài, hiển nhiên phiền não vô cùng.

Hướng Vũ Điền nói: “Ta lại hy vọng y đem họ theo, nếu không thì ngươi càng phiền phức hơn nữa”.

Yến Phi hiểu điều Hướng Vũ Điền nói. Ý của y rằng nếu Mộ Dung Thùy để hai cô gái lại sơn trại, Yến Phi chẳng còn lựa chọn nào khác hơn là tập kích sơn trại cứu người ra. Nhưng nếu chủ tỳ họ yên ổn quay về, Hoang nhân hoàn thành nhiệm vụ xong là xong, không phải mạo hiểm sống chết ra chiến trường liều mạng với quân Yên nữa.

Mất đi trợ lực của Hoang nhân, khả năng thắng lợi của Thác Bạt Khuê sẽ giảm, có nguy cơ tiêu vong toàn quân, mà Yến Phi thì xấu tốt gì cũng có một nửa dòng máu Thác Bạt, đâu nhẫn tâm để cảnh đó xảy ra.

Yến Phi lắc đầu: “Nếu Mộ Dung Thùy biết Mộ Dung Long thất bại, y không yên tâm để họ lại sơn trại đâu”.

Hướng Vũ Điền đồng ý: “Có nhẽ thế”.

Rồi y hỏi: “Nếu đơn đả độc đấu, ngươi có tự tin thắng được Mộ Dung Thùy trong mấy chiêu?”.

Yến Phi cười khổ: “Ngươi đánh giá ta cao thế kia ư?”.

Hướng Vũ Điền cười: “Ngươi tự đánh giá thế nào? Mộ Dung Thùy tuy được xưng hiệu là Đệ nhị thượng thủ trong các tộc Hồ phương Bắc nhưng so với Tôn Ân, kẻ đã luyện thành Hoàng Thiên Vô Cực thì còn cách một quãng rất xa à!”.

Yến Phi nói: “Thế thì ta nói thẳng ra vậy, ta đã từng giao thủ với y, hiểu rõ bản lĩnh của y, với công pháp hiện tại của ta, nếu thẳng thừng mà đánh thì trong vòng mười kiếm sẽ lấy được mạng y, vấn đề là ta không thể giết y, nếu không Thiên Thiên và Tiểu Thi sẽ bị đám thủ hạ của y loạn đao phanh thây. ”

Hướng Vũ Điền phát hoảng: “Nếu ngươi không thể giết y trong ba hiệp, lại không thể giết y thì ngươi sẽ rất mất sức, làm sao thi triển được chiêu số của Tiểu tam hợp, gọt bớt sức chiến đấu của y?”.

Yến Phi hỏi: “Ngươi có nghĩ được mưu kế cao diệu nào không?”.

Hướng Vũ Điền nói: “Ta mà nghĩ ra thì ngươi cũng nghĩ được rồi. Kế duy nhất để chủ tỳ họ thoát thân được chính là tạo ra một tình thế khiến kẻ mạnh như Mộ Dung Thùy cũng cảm thấy không có hy vọng thủ thắng. Phải tạo ra một tình thế đặc biệt, điều đó đương nhiên khó, nhưng không phải là không thể, khi tình thế đặc biệt ấy xuất hiện thì ngươi có thể khiêu chiến Mộ Dung Thùy, cùng y quyết một trận thắng bại, phần thưởng là chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên. Mộ Dung Thùy tâm tính cao ngạo, nếu thua trước mặt thủ hạ thì đương nhiên không khỏi nhụt tinh thần”.

Yến Phi hỏi: “Mộ Dung Thùy có chịu để ta dễ dàng thực hiện ý định thế không?”.

Hướng Vũ Điền nói: “Tôn Ân biết rõ sự lợi hại của ngươi, ta biết rõ sự lợi hại của ngươi, nhưng Mộ Dung Thùy không biết, chỉ cho rằng ngươi là Yến Phi năm xưa giao thủ với y, chỉ cần vật đánh cược đủ độ hấp dẫn, ví dụ như ngươi chiến bại thì Thác Bạt Khuê sẽ phải thề với trời rằng cúi đầu xưng thần với Mộ Dung Thùy, vĩnh viễn không dám sinh nhị tâm, làm sao Mộ Dung Thùy không mạo hiểm một chuyến?”.

Yến Phi uể oải nói: “Ta hiểu Tiểu Khuê lắm, y quyết không chịu dồn hết vận mệnh dân tộc lên một mình ta đâu. Y cũng không biết ta lợi hại đến mức nào cả”.

Hướng Vũ Điền chìa tay: “Đó chỉ là một cách ta nghĩ ra để cứu họ về, đành phải thử nghiệm xem Thác Bạt Khuê có phải là huynh đệ chân chính của ngươi không”.

Rồi y đảo mắt ra dáng suy nghĩ: “Còn một cách nữa, nhưng không biết có thông đồng bén giọt không nữa, đó là bảo Kỷ Thiên Thiên nhận lời với y, nếu y thắng thì cô ấy sẽ thuận lòng toàn tâm toàn ý theo y”.

Yến Phi ngán ngẩm: “Những lời ấy làm sao ta nói được với Thiên Thiên?”.

Hướng Vũ Điền nghĩ cũng phải, phát chán nói: “Đúng! Nam tử hán đại trượng phu, đâu thể để buột câu đó ra? Con bà nó! Còn cách gì khả dĩ nữa đây? Nếu không phải đã hết lựa chọn thì Mộ Dung Thùy quyết không đủ sức quyết chiến với người đã lần lượt giết được Trúc Pháp Khánh và Tôn Ân”.

Yến Phi nói: “Còn một vấn đề khó khăn khác nữa, đó là cho dù ta thắng được hắn, nếu hắn bội ước không trả người thì làm sao đây?”.

Hướng Vũ Điền nói: “Chỉ cần ngươi khống chế được y thì làm gì có chuyện hắn không thả người”.

Yến Phi tỏ vẻ mệt mỏi: “Tạm thời nghĩ ít thôi, đến lúc đó tùy cơ ứng biết, xem có cách gì không vậy”.

Hướng Vũ Điền cười: “Đúng, đến đâu hay đến đó, bây giờ cứ nghĩ xem làm sao để tiêu diệt quân đoàn Long Thành thì đơn giản hơn nhiều”.

Hai người đi xuống núi.

o0o

Lúc Lưu Dụ quay về Thạch Đầu thành thì mặt trời đã lặn xuống dãy núi tây, thủ hạ báo Tống Bi Phong đang đợi gã trong thư phòng. Tim Lưu Dụ đập thình thịch, ban sáng trước lúc lâm triều gã đã nhờ Tống Bi Phong đến Ô Y hạng để báo riêng với Tạ Đạo Uẩn một tiếng về việc Tạ Hỗn, theo đúng kế sách của Lưu Mục Chi, vì sao phải mất cả ngày mới xong việc?

Tống Bi Phong đang ngồi trầm tư trong thư phòng, thấy gã bước vào cũng chỉ khẽ gật đầu.

Lưu Dụ đến ngồi bên cạnh y: “Vương phu nhân phản ứng ra sao?”.

Tống Bi Phong thở ra nặng nhọc: “Đại tiểu thư thất vọng lắm, nhưng không phải là thất vọng về ngươi mà về thằng ngu Tạ Hỗn. Ta thấy bà ấy rất buồn”.

Lưu Dụ xúc động trong lòng, Tạ Đạo Uẩn quả là người đáng kính đáng quý, thấu tình đạt lý, nếu có lựa chọn khác, gã quyết không làm bà thương tổn.

Vì sao mình lại đứng ở vị trí này? Vì cái gì? Sự thực thì gã biết rõ đáp án, trải dài ra trước mắt gã là con đường dẫn tới ngai vàng đế quân, con đường ấy chông gai, gập ghềnh, bước được một bước thì phía sau sụp đổ, không còn đường lui. Hai bên là vực sâu muôn trượng, đạp sai một bước thì tan xương nát thịt như chơi.

Lưu Dụ hỏi: “Vương phu nhân có cho rằng ta trách oan Tạ Hỗn không?”.

Tống Bi Phong đáp: “Ta có nói với đại tiểu thư về nội dung tin đồn, bà lập tức đoán ngay là liên quan đến tiểu tử Tạ Hỗn, bà còn nói... ôi!”.

Lưu Dụ chưa bao giờ nghe Tống Bi Phong nói cái giọng đó về Tạ Hỗn, một thứ giọng khinh thường, đủ thấy y phẫn nộ tới mức nào. Điều đó cũng dễ hiểu thôi, tư thái phong lưu thi tửu của Tạ thị đều đang bị hủy hoại trong tay Tạ Hỗn.

Lưu Dụ hỏi: “Vương phu nhân còn nói gì nữa?”.

Tống Bi Phong đáp: “Bà nói chuyện năm xưa giữa ngươi và Đạm Chân tiểu thư bị đại thiếu gia liệt vào hàng cơ mật, thị tỳ biết chuyện cũng bị răn cấm nghiêm khắc rồi, về sau không cho ai nhắc đến chuyện đó nữa, vì vậy người biết chuyện này chẳng có mấy ai, rõ ràng như vậy. Tạ Hỗn cũng không biết chuyện này, nhưng về sau gặp Tôn tiểu thư thi thoảng thẽ thọt thì thào nói xấu Đạm Chân tiểu thư, khiến hắn sinh lòng ngờ, tìm gặp thị tỳ thân của Tôn tiểu thư để gạn hỏi thì mới biết được việc đã qua”.

Không cần Tống Bi Phong nói, Lưu Dụ cũng đoán được đại khái, nhất định là Tạ Đạo Uẩn nghe tin đồn xong đã tìm thị tỳ biết chuyện để chứng thực tội trạng của Tạ Hỗn.

Lưu Dụ hơi bối rối, không biết nói thế nào cho phải, vì Tống Bi Phong đã gợi gã nhớ lại nỗi bi thống của Tạ Chung Tú.

Tống Bi Phong trầm giọng nói: “Ta phải đi đây!”.

Lưu Dụ la lên: “Gì cơ?”.

Tống Bi Phong đáp: “Ta đến cáo từ ngươi, khoảng đêm nay ta đi”.

Lưu Dụ thoáng ngạc nhiên, giọng se lại: “Đại ca phiền lòng về ta ư?”.

Tống Bi Phong thở dài: “Đừng đa nghi, việc này ngươi là người bị hại, Tạ Hỗn tự tung tự tác gây chuyện bậy làm ngươi tổn thương. Ta đi không phải là phiền gì ngươi, ta biết rõ ngươi là người thế nào mà. Ta đi vì không muốn nhìn thấy Tạ gia bất tri bất giác từ từ suy sụp, không nỡ chứng kiến cảnh tượng điêu linh lụi tàn của Tạ gia. Sự phong lưu của An công và đại thiếu gia đã thành quá khứ, Tạ gia không bao giờ còn có ai là danh tướng phong lưu như họ, cũng không thể mở mày mở mặt về đường chính trị nữa. Ta đã không thể giúp gì thì đành bỏ đi xa, tránh nhìn ngó cho lòng thanh tịnh, cố gắng tìm vui trong nỗi bất hạnh, hy vọng có thể yên tĩnh sống nốt quãng đời còn lại”.

Lưu Dụ hỏi: “Đại ca muốn đến Lĩnh Nam thật à? Cần gì phải đi xa thế?”.

Tống Bi Phong đáp: “Sớm hay muộn cũng phải đi, phương Nam bây giờ không còn ai là đối thủ của ngươi nữa, chỉ cần ngươi cẩn thận mọi chuyện, chưa chừng có thể hoàn thành được tâm nguyện đuổi rợ Hồ thống trị thiên hạ của đại thiếu gia. Cố gắng mà làm nhé!”. 

Lưu Dụ nghẹn lời.

Tống Bi Phong ngập ngừng định nói lại thôi.

Lưu Dụ nói: “Tống đại ca có lời vàng ý ngọc gì thì cứ nói ra đi!”.

Tống Bi Phong nói: “Lời vàng ý ngọc gì đâu, sớm nay ta muốn hỏi ngươi nhưng không thể hỏi được”.

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Liên quan đến việc gì thế?”.

Tống Bi Phong đáp: “Ta muốn hỏi ngươi, giả sử Tạ Hỗn lại phạm lỗi tiếp, đến lần thứ ba, ngươi có giết hắn không?”.

Lưu Dụ rùng mình khó thở, cả quyết đáp: “Chỉ cần một lời của Tống đại ca thì ta xin thề bất luận hắn phạm bao nhiêu lỗi lầm, Lưu Dụ này cũng sẽ tha cho hắn”.

Tống Bi Phong buồn rầu nói: “Câu này lẽ ra ta không nên nói, vì ta biết câu này sẽ khiến ngươi trở thành kẻ dám nói mà không dám làm. Ôi! Đại tiểu thư nói với ta Tạ Hỗn quả thực hận ngươi đến tận xương thủy, lúc nào cũng nung nấu báo thù, loại người này chết cũng không đáng tiếc, chỉ vì hắn là con cháu Tạ gia, ta mới không nhịn được phải hỏi ngươi!”.

Lưu Dụ nói: “Chỉ cần hắn không phạm tội tạo phản gây loạn, ta nhất định sẽ tha cho một con đường sống”.

Tống Bi Phong nói: “Đại tiểu thư lo lắng hắn sẽ phạm chính điều ấy đấy, từ lúc Tiểu Dụ vào nắm Kiến Khang, hành vi của hắn trở nên khác lạ, không muốn nói chuyện với đại tiểu thư nữa. Chẳng ai hiểu hắn đang ấp ủ điều gì”.

Lưu Dụ thầm nhủ Tạ gia đúng là hết rồi, nếu Tạ Đạo Uẩn chẳng may qua đời, Tạ gia sẽ do Tạ Hỗn cầm trịch, lúc đó không biết sẽ thành cái giống gì.

Tống Bi Phong nói: “Chúng ta cũng không cần lo lắng quá, đại tiểu thư sẽ gọi Tạ Hỗn đến nói chuyện, nghiêm khắc cảnh cáo hắn, hy vọng tiểu tử ấy biết trông trước trông sau, nếu không hắn sẽ phải gánh hết mọi hậu quả”.

Dứt lời đứng dậy luôn.

Lưu Dụ nói: “Để ta tiễn đại ca một thôi đường. Ôi, ta tự mua dây buộc mình, Tiểu Phi và Phụng Tam đã rời bỏ ta đi, bây giờ đến lượt Tống đại ca, ta buồn quá đi mất”.

Cặp mắt tuổi tác của Tống Bi Phong hoe đỏ: “Ngươi tiễn ta đến cổng thành là được rồi, hình như Văn Thanh đang tìm ngươi đấy”.

Lưu Dụ vẫn chưa phát hiện ra sự khác lạ của Tống Bi Phong, ngạc nhiên hỏi: “Văn Thanh tìm ta ư? Vì sao không ai báo lên nhỉ?”.

Tống Bi Phong nói: “Ngươi cứ gặp cô ấy là rõ, thay ta gửi lời từ biệt cô ấy nhé!”.

Lưu Dụ không còn cách nào khác, đành đưa họ Tống đến cổng thành rồi nhìn theo cho đến khi bóng y chìm khuất trong ánh lửa đèn nhập nhoạng, nghĩ rằng ly biệt từ đây, không bao giờ còn gặp lại, trong lòng gã trào lên tư vị buồn sầu khó tả.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=64#ixzz1bzoBGNsb

Thác Bạt Khuê và Sở Vô Hạ cùng các tướng lĩnh cưỡi ngựa ra khỏi cửa đông Bình Thành, nhìn các tướng lĩnh từ trong thành tràn ra kìn kìn, đi về phía đông.

Đội tiên phong ba nghìn người do Trưởng tôn Đạo Sinh suất lĩnh, chia làm ba đường hành quân tiến về Nhật Xuất Nguyên. Đội này toàn kỵ binh, nhiệm vụ là tiền trạm cho đội chủ lực, chiếm lấy cao điểm Nguyệt Khâu ở Nhật Xuất Nguyên.

Từ ngày tới Bình Thành, Thác Bạt Khuê chưa từng lơi lỏng, y đã đi khắp các núi lớn đồi nhỏ đồng dã bình nguyên quanh Bình Thành, Nhật Xuất Nguyên luôn là chiến trường lý tưởng nhất đối với y.

Nhật Xuất Nguyên là bình nguyên, địa thế đơn giản, sông Tang Càn từ đông bắc chảy xuống, băng ngang qua đồng cỏ chảy tiếp về hướng tây nam, cắt thảo nguyên ra làm hai nửa.

Nguyệt Khâu là một gò đống trứ danh ở Nhật Xuất Nguyên, mặt bắc quay ra sông Tang Càng, giống như một con rắn dài rộng gần ba dặm băng ngang qua bình nguyên, nằm ở khoảng giữa Thái Hành sơn và Bình Thành.

Chiếm được Nguyệt Khâu là sẽ chiếm được ưu thế khống chế thảo nguyên, gò này là địa điểm có giá trị chiến lược nhất ở Nhật Xuất Nguyên.

Chỉ cần đại quân của tộc Thác Bạt có thể tận dụng được môi trường địa lý đặc thù của Nguyệt Khâu để phân bố đại quân thì cái gò đó sẽ trở thành trận địa vững vàng nhất của Nhật Xuất Nguyên, chặn cứng lấy con đường mà Mộ Dung Thùy phải đi qua để đến Bình Thành.

Số chiến binh đổ vào trận đánh hôm nay tổng cộng là hai vạn người, còn hai ngàn người chia ra giữ Bình Thành và Nhạn Môn để phòng hờ Mộ Dung Thùy cho quân đi vòng tập kích. Tuy nhiên khả năng này rất nhỏ, Thác Bạt Khuê chỉ cẩn tắc để vô ưu mà thôi, bởi vì bất cứ lúc nào y cũng có thể dẫn đại quân ở Nhật Xuất Nguyên lộn trở về phối hợp với quân giữ thành đánh úp hai đầu, Mộ Dung Thùy không thể gánh đỡ nổi.

Thác Bạt Khuê lại triệu thêm chừng năm nghìn thợ mộc tráng đinh ở ngoại vi hai thành dến làm dân công, xuất phát theo cánh chủ lực, phụ trách việc vận chuyển lương thảo, đào hào đắp lũy và các việc tạp vụ khác trong quân.

Thác Bạt Khuê rất bình tĩnh, chiến tranh tới gần chỉ làm y thêm thư thái, không thấp thỏm sáng chiều hay ưu tư về tương lai vô thường như trước đây nữa.

Các kỵ sĩ đi ra khỏi cổng thành đầy khí thế, tinh thần chiến đấu cao độ, mỗi người đều biết rõ đối thủ là Mộ Dung Thùy, người hùng quân sự của phương Bắc, trận chiến này sẽ quyết định ai nắm quyền bá chủ ở đây, nhưng cũng hiểu rõ lãnh tụ tối cao Thác Bạt Khuê hôm nay hùng tâm tráng trí tràn căng ngực, kế sách đã đâu ra đó, cứ thế mà thi hành.

Sở Vô Hạ bận võ phục, duyên dáng yểu điệu ngồi trên lưng ngựa, hai mắt lóng lánh đầy hứng khởi, nhìn sang Thác Bạt Khuê ở bên, hân hoan nói: “Mùa xuân đến thật rồi, mặt đất không còn tuyết đọng nữa”.

Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Mùa xuân đến với đất trời, và đến với cả Thác Bạt Khuê ta nữa. Khi Mộ Dung Thùy hãi hùng nhận ra ta tiến quân vào Nhật Xuất Nguyên thì đã chậm một bước rồi, hối cũng không kịp nữa”.

Ở phía bên kia, Trưởng Tôn Tung băn khoăn: “Mộ Dung Thùy sẽ phản ứng sao đây? Đương nhiên hắn biết kỳ binh mà chúng ta đưa ra không phải là kỳ binh nữa”.

Thác Bạt Khuê hớn hở đáp: “Dẫu hắn tài trí bằng trời thì nghĩ nát cả óc cũng không hiểu vì sao chúng ta có thể nắm chắc lộ trình hành quân của hắn đến thế, căn thời gian chính xác đến thế. Riêng một sự sơ suất đó đã đủ để cho trận thế của hắn rối loạn, tiến thoái lung tung rồi”.

Mọi người đều cho rằng Thác Bạt Khuê đang ám chỉ thám báo siêu cấp Hướng Vũ Điền, nhưng không biết người mà y muốn nhắc đến chính là Kỷ Thiên Thiên. Không có Kỷ Thiên Thiên thì không bao giờ có được ưu thế hiện nay.

Thúc Tôn Phổ Lạc thở phào: “Khi Mộ Dung Thùy sửng sốt biết chúng ta bày trận ở Nguyệt Khâu, đồng thời nghe tin quân đoàn Long Thành bị phá, chẳng hiểu hắn có chịu nổi cả hai đòn hợp công ấy không, giá có ai miêu tả được bộ mặt lúc đó cho ta thì hay quá”.

Mọi người nghe vậy cùng phá lên cười.

Trưởng Tôn Tung nói: “Lúc ấy hắn chỉ có hai lựa chọn, một là lập tức lui binh, hai là đến thẳng Nhật Xuất Nguyên giao phong chính diện với chúng ta, mà bất luận là lựa chọn nào cũng đều khó khăn, khó quyết định cả”.

Thác Bạt Khuê chậm rãi lắc đầu: “Không đâu! Mộ Dung Thùy chỉ có một lựa chọn thôi, nếu hắn hoang mang rút lui thì ta sẽ toàn lực truy kích, khiến hắn tan vỡ toàn quân trước khi về được đến Trung sơn, y như đã từng giã vỡ quân đoàn của thằng con trai Tiểu Bảo Nhi nhà hắn trước đây, Mộ Dung Thùy không ngu độn thế đâu”.

Rồi y dùng giọng Tiên Ti gọi to: “Các chàng trai! Cố gắng nhé!”.

Ba nghìn kỵ sĩ đồng thanh dạ ran, Trưởng tôn Đạo Sinh phát lệnh, tù và rúc lên, ba nghìn kỵ binh chia làm ba đội như ba lưỡi kiếm sắc đâm thẳng về phía Nhật Xuất Nguyên.

Dưới ánh chiều tà, tiếng vó ngựa dâng đầy đồng dã.

o0o

Hơn hai trăm cỗ xe la trải dài ẩn nấp bên sông, toán quân giữ nhiệm vụ dụ địch đã được nghỉ ngơi suốt một ngày, người và súc vật đều phục hồi tinh lực. Trước khi mặt trời xuống núi, họ bắt đầu chỉnh đốn hành trang, sẵn sàng lên đường khi màn đêm buông xuống.

Đoàn thám hiểm do Tiểu Kiệt chỉ huy đã ba lần phái người về truyền tin, vẫn chưa phát hiện ra tung tích quân địch trên đoạn đường phía trước.

Vương Trấn Ác, Trác Cuồng Sinh, Cơ Biệt, Hồng Tử Xuân và Bàng Nghĩa họp lại thương thảo lộ trình hành quân.

Trác Cuồng Sinh nói: “Chúng ta sẽ tiếp tục đi ven sông độ một canh giờ nữa, tách dần khỏi đường sông, tiến vào bình nguyên phía tây Thái Hành, từ đó lại tiếp tục đi hai đêm nữa sẽ đến được Bắc Khâu là chỗ nhiều khả năng địch nhân phát động đột kích nhất, tuy nhiên đây chỉ là phỏng đoán của phía mình, sự thực thì Mộ Dung Long có thể đến Bắc Khâu vào bất kỳ thời gian nào trước chúng ta và chuẩn bị khoái mã để công kích, vì nhìn bề ngoài chúng ta quá sút kém, không thể chịu được dù chỉ một đòn tấn công”.

Vương Trấn Ác lắc đầu: “Địch nhân chỉ có hai cơ hội tấn công chúng ta, hễ là người hiểu binh pháp thì không đời nào phát động tấn công trên tuyến đường chúng ta hành quân, vì lúc đó quân ta đang ở trong trạng thái cảnh giới cao độ, nếu chúng tấn công đúng thời điểm đó thì sẽ vấp phải sự kháng cự ngoan cường của chúng ta”.

Hồng Tử Xuân nói: “Trấn Ác nói có lý lắm. Chà, lão Trác à, không phải ta trách cứ lão đâu, về thuyết thư thì lão là Biên Hoang đệ nhất, nhưng lão chả hiểu tí gì về chiến trận”.

Trác Cuồng Sinh cười mắng: “Tên gian thương chết tiệt kia, chẳng bao giờ từ bỏ cơ hội nào để bôi bác ta. Được, ta thừa nhận mình ngoại đạo với quân sự. Trấn Ác, vậy ngươi thử nói địch nhân sẽ tấn công trong hai trường hợp nào?”.

Vương Trấn Ác nói: “Cơ hội tấn công tuyệt vời nhất của địch nhân là đợi chúng ta hành quân hết một đêm, người mệt ngựa ốm, thân thể rã rời, đến giờ nổi lửa nấu cơm, chúng ta chưa kịp hồi phục thể lực, sức đề kháng yếu nhiều, ý chí chiến đấu lung lay, tấn công lúc ấy là dễ nhất”.

Cơ Biệt cười: “Lúc ấy mà không có được mưu kế ứng phó kỳ diệu nào thì quả thực chúng ta không kham nổi một đòn đâu, về mặt này thì chí ít lão Trác không nói sai”.

Bàng Nghĩa cười: “Trác quán chủ giỏi thật đấy, giỏi ngang một nửa binh pháp gia chứ chẳng chơi, một binh pháp gia nguyên vẹn thì biết mình biết người, còn Trác quán chủ thì chỉ biết mình mà không biết người, vì vậy là nửa cái binh pháp gia”.

Trác Cuồng Sinh cười rú lên: “Tha cho ta đi mà, được không?”.

Mọi người cười ha hả, không khí nhẹ nhõm hẳn đi.

Vương Trấn Ác nói: “Thôi gia bảo sở dĩ đoán ra địch nhân sẽ phát động tấn công chúng ta ở Bắc Khâu, một là vì đồi đó ở cách Vụ Hương mười dặm về phía tây, nơi địch nhân được lợi cả về tiến công và rút lui phòng thủ, vì đồi núi dễ mai phục, tấn công được từ cả bốn phía, khiến chúng ta không tài nào phòng thủ hết. Theo tin của Tiểu Kiệt, chưa thấy địch nhân xuất hiện ở con đường phía trước, điều đó cho thấy Mộ Dung Long đã quyết ý phục kích chúng ta ở Bắc Khâu, vì vậy không phái thám báo đi trinh thám để tránh khiến chúng ta cảnh giác”.

Hồng Tử Xuân gật đầu: “Hiểu rồi!”.

Cơ Biệt ngửa mặt nhìn trời: “Đêm nay xem chừng trời trong trẻo, tấm nhìn rõ ràng càng thêm thuận tiện cho việc hành quân của chúng ta, địch nhân rất định không dám mạo hiểm tấn công đâu”.

Vương Trấn Ác nói: “Đây là nguyên nhân thứ ba khiến địch không thể phát động tấn công trước khi chúng ta đến Bắc Khâu. Theo Thôi bảo chủ, do vấn đề địa thế, đầu mùa xuân, lúc Lê Minh sương mù tụ dày, ảnh hưởng đến cả một vùng quanh Bắc Khâu, đến nỗi sương mù khói mây mù mịt, tầm nhìn không rõ, đó là địa điểm phục kích tuyệt hảo nhất của địch nhân, qua khỏi Bắc Khâu thì địch nhân sẽ đánh mất ưu thế về địa lý, đánh mất thiên thời địa lợi, vì vậy mà Mộ Dung Long nhất định sẽ không bỏ qua cơ hội này, cũng sẽ khiến chúng ta có thể sắp xếp xảo diệu để dụ địch vào tròng.

Trác Cuồng Sinh cười to: “Mấu chốt là Mộ Dung Long tưởng rằng mình là kỳ binh, mà chúng ta thì coi chúng như những tảng thịt ngon đưa vào miệng hổ. Ha! Đến lúc lên đường rồi!”.

Phía tây nam của Bắc Khâu là một cánh rừng rậm rộng chưa đến năm mươi dặm, năm ngàn quân Biên Hoang nghỉ ngơi cả ngày, đợi mặt trời xuống núi rồi tiếp tục lên đường.

Đợi tốp dụ địch khởi hành rồi họ mới bắt đầu xuất phát, trước tiên đi về hướng tây, xa hẳn Thôi gia bảo thì chuyển sang hướng bắc, mục đích là tránh tai mắt địch nhân.

Do ngựa nhanh hành trang nhẹ nhàng, tuy lên đường muộn hơn tốp dụ địch nhưng rồi lại bỏ xa tốp đó ở đằng sau, đi gấp một đêm là bằng hai đêm hành trình của tốp đó.

Họ có thể đến Bắc Khâu sớm hơn một đêm, mai phục ở cánh rừng rậm mặt tây Bắc Khâu, di dưỡng tinh thần, đợi bọ ngựa đến bắt ve thì họ sẽ làm chim sẻ.

Đồ Phụng Tam đang ngồi tựa vào cây thì Mộ Dung Chiến đến trước mặt hắn, ngồi xổm xuống nói: “Thuận lợi cả!”.

Đồ Phụng Tam cười tươi hơn hớn, hưởng ứng: “Thuận lợi cả!”.

Hai người đập tay để biểu thị sự hưng phấn, tiếng đập tay vang lên giòn giã trong không gian.

Mộ Dung Chiến thở dài: “Đợi mòn đợi mỏi cuối cùng cũng đến, chủ tớ Kỷ Thiên Thiên bị bắt đem về bắc, ta không vui nổi”.

Đồ Phụng Tam nói: “Ta chưa bao giờ nghĩ mình lại có thể vào sinh ra tử vì một người đàn bà, nhưng bây giờ cảm thấy vì nghĩa không thể cân nhắc nhiều, ấy là chuyện tất nhiên vậy”.

Mộ Dung Chiến nói: “Nghĩ cũng thật lạ, từ Biên Hoang Tập đến đây, ta chưa hề nghe thấy nửa câu than van oán thán, ai cũng tham gia lần hành động này một cách tự phát, ai cũng muốn đổ máu vì Thiên Thiên, thậm chí sẵn sàng hiến luôn mạng sống quý báu của mình”.

Đồ Phụng Tam nói: “Thiên Thiên đã lay động được trái tim mỗi chúng ta, nếu nàng ấy không hy sinh bản thân mình thì Biên Hoang Tập đã toi đời từ lâu rồi”.

Mộ Dung Chiến nói: “Nhưng ta lo lắm, đánh thắng không có nghĩa là có thể cứu được nàng an toàn trở về, hy vọng Yến Phi lại tạo ra kỳ tích gì đó, hoàn thành được nhiệm vụ hầu như bất khả thi này”.

Mắt Đồ Phụng Tam sáng ngời, hắn trầm giọng nói: “Điều ấy thì phải chờ xem chúng ta có thể thắng được đến mức nào, nếu vây khốn được Mộ Dung Thùy thì có thể ép hắn đem chủ tớ Kỷ Thiên Thiên ra làm điều kiện trao đổi để thoát thân”.

Mộ Dung Chiến hỏi: “Ta đã nghĩ đến khả năng này, nhưng Thác Bạt Khuê đồng ý chăng? Thác Bạt Khuê là người khét tiếng tâm lang thủ lạt trong Hồ tộc chúng ta, hắn sẽ không ngại bất cứ giá nào để triệt mọi đường tái sinh vùng dậy của Mộ Dung Thùy đâu”.

Đồ Phụng Tam nói: “Thế thì phải xem xem hắn có là người anh em thân thiết nhất của Yến Phi hay không”.

Mộ Dung Chiến thở dài: “Ta không lạc quan chút nào cả”.

Đúng lúc ấy Thác Bạt Nghi hấp tấp chạy tới: “Hú hồn hú vía, Diêu Mạnh cho người trở về thông báo, cách đây ba dặm về phía trước có một tốp chừng hơn một trăm khinh kỵ vừa đi ngang qua, hướng về phía Bắc Khâu, suýt chút nữa là phát hiện ra chúng ta”.

Mộ Dung Chiến thở phù: “Không ngờ Mộ Dung Long cẩn thận như thế, chúng ta phải đặc biệt lưu tâm đấy”.

Đồ Phụng Tam nói: “Đừng lo, đây có lẽ là cánh kỵ binh cuối cùng của địch đi tuần sát vùng phụ cận, Mộ Dung Long còn sợ bị phát hiện tung tích hơn chúng ta ấy chứ, hắn sợ chúng ta cảnh giác mà”.

Thác Bạt Nghi nói: “Ta đã theo Diêu Mãnh và người của hắn đi thám thính rõ ràng tình hình quanh đây, quan sát trên điểm cao thì không thấy bóng một tên địch nào, đợi trời tối chúng ta có thể lên đường thôi”.

Y lại ngạc nhiên nhìn kỹ Đồ Phụng Tam: “Có phải ta cảm giác sai không? Tại sao luôn cảm thấy Đồ đương gia khang khác so với trước kia, sao mặt đương gia tươi tỉnh như gió xuân bát ngát thế kia”.

Đồ Phụng Tam cười: “Cứu được chủ tớ Kỷ Thiên Thiên về, ai mà không tươi tỉnh như gió xuân kia chứ?”.

Mộ Dung Chiến ngửa mặt nhìn trời: “Đến lúc rồi”.

o0o

Tiểu Thi đang đứng tựa song nhìn ra ngoài, Kỷ Thiên Thiên đến bên cạnh hỏi: “Vẫn khó chịu lắm ư?”.

Tiểu Thi đáp: “Khá lắm rồi ạ! Xuân sang trời ấm lên nhiều”. Rồi nàng nhỏ giọng: “Tiểu thư, muội sợ lắm!”.

Kỷ Thiên Thiên xót xa ôm lấy vai nàng: “Thi Thi lại lo lắng rồi”.

Tiểu Thi cự: “Muội không lo lắng hão đâu. Tiểu thư xem, ở đó vốn có mười mấy doanh trướng mà bây giờ không thấy đâu nữa”.

Kỷ Thiên Thiên đã lưu ý đến tình hình ấy từ lâu, bèn xoa dịu: “Đang thời buổi hành quân đánh trận mà! Quân đội đương nhiên phải được điều động chứ”.

Tiểu Thi hỏi: “Họ đi đâu nhỉ?”.

Kỷ Thiên Thiên dịu dàng đáp: “Tất nhiên là đến Bình Thành rồi, còn nơi nào khác thích hợp hơn để đi ư?”.

Tiểu Thi nhìn nàng, ngạc nhiên hỏi: “Tiểu thư không lo lắng thật ư? Sơn trại này kín đáo như vậy, nhỡ đâu binh tướng Bình Thành không biết, thế thì chết!”.

Kỷ Thiên Thiên tủm tỉm: “Đừng nghĩ lung tung, Bình Thành do Yến lang và người huynh đệ của chàng là Thác Bạt Khuê chủ trì, họ rất nhạy bén, không đến nỗi ngờ nghệch thế đâu”.

Tiểu Thi thắc mắc: “Trông tiểu thư lúc nào cũng như nắm rõ tình hình bên ngoài vậy, tại sao thế, muội không hiểu”.

Kỷ Thiên Thiên đáp: “Muội còn không hiểu nhiều điều lắm. Nói tóm lại là muội cứ tin vào ta, ngày chúng ta thoát nạn sắp đến rồi!”.

Tiểu Thi ngây thơ nói: “Thế thì tốt quá, tự do rồi, chúng ta sẽ quay về định cư ở Biên Hoang Tập phải không ạ?”.

Kỷ Thiên Thiên cười: “Dĩ nhiên là quay về Biên Hoang Tập rồi, trên đời còn chỗ nào tốt hơn nữa chăng?”.

“Không còn thật”. Tiểu Thi nói.

Lần này đến Kỷ Thiên Thiên kinh ngạc: “Khi ở Biên Hoang Tập chẳng phải em rất sợ hay sao?”.

Tiểu Thi bẽn lẽn đáp: “Lúc đầu thì đúng là lạ nhà, không quen, ai cũng như hung thần ác sát, mặt mũi hằm hằm, bộ dạng như muốn ăn tươi nuốt sống người ta. Nhưng sống cùng họ lâu ngày thì mới nhận ra họ cũng là những người lương thiện, đối xử với chúng ta rất tử tế”.

Kỷ Thiên Thiên phì cười: “Lương thiện thì không đề cập vội! Nhưng họ đều là những hảo hán chân tình chân tính, để ta kể cho em một bí mật nhé! Họ đang rời khỏi Biên Hoang Tập để đến đây cứu chúng ta đấy”.

Tiểu Thi sửng sốt: “Sao tiểu thư biết?”.

Kỷ Thiên Thiên vỗ vỗ vai Tiểu Thi, ngầm ra hiệu Phong Nương vừa vào phòng.

Phong Nương nhón gót đi lại chỗ họ, Kỷ Thiên Thiên cảm thấy Phong Nương muốn tìm mình nói chuyện, liền ghé tai Tiểu Thi nói nhỏ: “Đừng lo lắng gì hết, ông trời khắc có an bài thỏa đáng, Thi Thi khổ sở đã đủ rồi, bây giờ hãy lên giường ngủ một giấc thật ngon, ngày mai nhất định sẽ tốt đẹp hơn ngày hôm nay đấy”.

Tiểu Thi y lời đi ra.

Phong Nương vừa đi đến gần Kỷ Thiên Thiên vừa thở dài.

Trực giác mách bảo nàng rằng Phong Nương rất thông cảm với cảnh ngộ của chủ tớ nàng, chỉ có điều lực bất tòng tâm, nàng bỗng thấy mến bà ta hơn lên: “Trông đại nương sao như có tâm sự?”.

Phong Nương hỏi: “Tiểu thư thì không có tâm sự ư?”.

Kỷ Thiên Thiên nhún vai: “Lo lắng thì ích gì”. Sực nghĩ ra, nàng hỏi: “Có phải ta và Tiểu Thi phải ra tiền tuyến không?”.

Phong Nương đáp: “Điều ấy do hoàng thượng quyết định, chúng ta sẽ chóng được biết thôi”.

Kỷ Thiên Thiên nảy ra hy vọng, nếu Mộ Dung Thùy đi vắng, khối chủ lực lại bị điều ra trận tiền, Yến Phi chỉ cần có đủ nhân thủ đột kích doanh trại là nàng và Thi Thi sẽ đủ cơ hội thoát thân. Thoắt lại nghĩ sang cảnh đao kiếm vô tình, trong tình cảnh đó, Phong Nương nhất định sẽ liều chết ngăn cản, nàng bỗng thấy lòng mâu thuẫn lạ kỳ. Nàng hỏi: “Hoàng thượng đang ở đâu?”.

Phong Nương ngập ngừng một thoáng rồi đáp: “Mấy hôm nữa hoàng thượng mới về, lúc đó tiểu thư đi hay ở sẽ rõ ràng ngay thôi”. Nói đoạn lại thở dài.

Kỷ Thiên Thiên không nhịn được bèn hỏi: “Có phải đại nương nhớ chuyện xưa không?”.

Phong Nương trầm ngâm chốc lát rồi nói: “Tiểu thư đang toan tính một việc dở nhất”.

Kỷ Thiên Thiên nghĩ bụng câu này phải nói với Mộ Dung Thùy mới là đúng đối tượng, nhưng sự quan tâm và nhắc nhở của Phong Nương vẫn khiến nàng cảm kích, nàng bèn đáp: “Từ ngày đầu mất tự do đến nay, tôi vẫn luôn dự tính những việc rất tệ”.

Phong Nương bùi ngùi nói: “Hai chuyện khác nhau, đến tận hôm nay, tiểu thư vẫn ôm ấp hy vọng, nhưng khi phát hiện ra tất cả hy vọng đều là ảo ảnh thì cảm giác ấy không dễ chịu chút nào đâu”.

Kỷ Thiên Thiên cảm thấy Phong Nương đang diễn tả cảm giác của chính bà ta, chính bà ta là người đang mất dần mọi hy vọng và mong mỏi, vì hạnh phúc và niềm vui của bà đã bị quá khứ không thể vãn hồi vùi lấp rồi.

Kỷ Thiên Thiên nói: “Nếu ta thực sự đánh mất mọi hy vọng, ta sẽ biết cách phải làm thế nào”.

Phong Nương buồn bã nói: “Sao phải khổ thế! Ta đã nhiều lần khuyên hoàng thượng, nhưng người đều bỏ ngoài tai, cuối cùng hoài công vô ích. Làm thế này thì có ý nghĩa gì kia chứ. Chuyện nam nữ có thể miễn cưỡng được sao?”.

Kỷ Thiên Thiên kinh ngạc: “Phong Nương!”.

Phong Nương ngắt lời nàng: “Lão thân nhất thời không cầm được nên lảm nhảm đôi chút, tiểu thư bất tất bận tâm. Ôi, ta quả thực có tâm sự, nhớ lại những chuyện nghĩ cũng không dám nghĩ xưa kia, hy vọng Yến Phi có thể thoát được tai kiếp này!”.

Kỷ Thiên Thiên sững sờ: “Yến Phi?”.

Phong Nương nói át đi: “Không cần nghĩ ngợi nhiều. Chỉ cần Yến Phi còn sống thì tiểu thư vẫn còn tương lai tươi đẹp, đúng không?”.

Lời lẽ của Phong Tứ Nương ẩn chứa nhiều điều sâu xa, Kỷ Thiên Thiên tuy cảm thấy nhưng không đoán ra ý nghĩa của chúng là gì.

Phong Nương hạ giọng: “Tiểu thư đi ngủ sớm đi! Lão thân đa sự rồi...”.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=64#ixzz1bzoDiKRC

Vào canh hai, Yến Phi và Hướng Vũ Điền dẫn đội đột kích đánh thẳng vào hậu phương của địch, đến thẳng dãy núi bao lấy Vụ Hương. Để tránh đánh rắn động cỏ khiến bao công lao đổ xuống sông xuống bể, toàn quân tỏa vào các vách đá vây quanh Vụ Hương tìm chỗ ẩn thân nghỉ ngơi, trong lúc đó Yến Phi và Hướng Vũ Điền lại đi dò đường.

Vụ Hương là một lòng chảo nhỏ nằm trong Thái Hành sơn, vốn là chốn thế ngoại đào nguyên cho cư dân theo nghề săn bắn định cư và kiếm kế sinh nhai, nhưng cuối cùng khó tránh khỏi kiếp nạn, đã bị cuốn vào vòng lửa chiến tranh. Với tác phong của người Yên thì chắc hẳn họ lành ít dữ nhiều rồi.

Núi non bốn mặt Vụ Hương sừng sững, chỉ phía tây có lối ra, được người Yên liên tục mở rộng khai thông thành đường núi thông đến tận Bắc Khâu nằm dưới chân núi.

Gần một trăm nếp nhà nằm đều đặn rải rác trên một khoảnh thung lũng rộng chừng một dặm, hiển nhiên đều là nhà ở mới dựng lại trên nền những ngôi nhà tranh vách đất đơn sơ của cư dân bản địa, ngoài ra còn có vài trăm lều trướng doanh trại.

Mặt đông bắc có tiếng thác đổ, một dòng suối ngoằn ngoèo chảy qua Vụ Hương tuôn về hướng đông nam, quả thực là nơi lý tưởng tiện lợi cả hai bề công thủ. Nếu không phải Thôi Hoành nghĩ ra kế đột kích từ hậu phương Vụ Hương lên thì chỉ cần quân Long Thành rút vào trong lòng chảo là thế vững như bàn thạch, phòng thủ rắn rỏi như tường đồng.

Về mặt chiến lược, kế này của Mộ Dung Thùy quả thực là kín kẽ chắc chắn, không thể nào thất bại, chỉ đáng tiếc là y tính trước tính sau nhưng không tính đến người đàn bà mà y nhất kiến chung tình lại chính là kẽ hở duy nhất.

Hướng Vũ Điền hỏi: “Ngươi nghe thấy gì không?”.

Lúc này dưới thung lũng đèn đóm nhập nhoạng, phần lớn mọi người đã say giấc nồng trong các căn nhà hoặc lều trại, chỉ có vài người lính gác đêm đứng thị sát trên các điểm then chốt.

Từ vị trí cao hơn lòng chảo chừng năm mươi trượng nhìn xuống, các nếp nhà chỉ bé như những cái hộp, phối hợp với những chiếc lều tròn tạo thành một bức tranh là lạ bất tuân bố cục, hoặc tụ hoặc tán trong màn đêm thanh bình, không toát lên một chút gì khí vị của chiến tranh.

Vụ Hương quả thực tên xứng với thực, hơi nước dâng đầy không khí tạo thành một lớp sương mù mong mỏng trùm lên cả thung lũng, gây cảm giác kỳ dị hư ảo.

Yến Phi gật đầu: “Tiếng chó sủa, nếu chúng ta cứ xông bừa xuống thì chưa tới được thung lũng đã bị linh giác tinh nhạy của đàn chó phát hiện ra rồi”.

Hướng Vũ Điền nói: “Quân đoàn Long Thành thân kinh bách trận, chỉ cần thời gian chừng một hơi thở thôi là có thể lập tức tổ chức phản kích, lúc ấy kẻ hứng đủ chính là chúng ta”.

Yến Phi nói: “Như Thôi Hoành nói thì hơi nước sẽ tích tụ nhiều hơn vào lúc sẩm tối, nhất là vào mùa xuân nóng ẩm thế này, đến khi trời sáng sa mù sẽ tụ lại đặc quánh trong thung lũng, hạ thấp sự cảnh giác của đàn chó, chỉ cần chúng ta hành động đủ nhanh, cộng thêm hỏa khí lợi hại của Cơ Biệt thì chúng ta sẽ hoàn thành nhiệm vụ.

Hướng Vũ Điền nói: “Chúng ta còn cần chia sức đề phòng địch nhân, để tối mai hãy hành động, bằng không hôm nào địch nhân cũng theo lệ kiểm tra các bẫy cảnh báo thì hành động đột kích của ta không còn đường triển khai nữa”.

Yến Phi kinh ngạc hỏi: “Hình như ngươi chắc chắn lắm, nhưng ta thật không nghĩ ra cách gì”.

Hướng Vũ Điền nói: “Nếu cần thanh trừ tất cả các bẫy thì lại phải dựa vào xúc giác, chỉ e thần tiên cũng chẳng làm được, nhưng chỉ cần mở ra một con đường xuống thung lũng riêng cho chúng ta dùng, thì bản nhân tự tin thừa sức. Bí nhân chúng ta lăn lộn lâu năm ở sa mạc, đã luyện được một thứ xúc giác nhạy bén cao độ trước nguy hiểm, cái hôm mà Minh Dao tiếp cận lúc chúng ta quyết chiến, thực sự nàng ấy đã náu mình rất kỹ, chỉ có điều không thoát khỏi cảm ứng mẫn tuệ đặc biệt với nguy hiểm của ta”.

Tự nhiên y nói luôn sang chuyện khác: “Này, ngươi có tin là có số phận không?”.

Từ ngày đầu tiên quen Hướng Vũ Điền, Yến Phi đã hiểu phong cách nói chuyện của y, đang từ chủ đề này nhảy sang chủ đề khác hoàn toàn không ăn nhập gì cả là chuyện thường tình. Trong đầu óc y luôn ăm ắp những điều mà người bình thường không tài nào tưởng tượng được, ăm ắp hứng thú tìm biết và mò mẫm những điều mới lạ.

Mỗi lần trò chuyện với y, Yến Phi đều thấy được vỡ vạc một điều gì.

Yến Phi trầm ngâm chốc lát, thở dài: “Ta chưa bao giờ để ý hay nghĩ xem liệu có số mệnh hay không, vì biết rằng dù nghĩ nát cả óc cũng không nghĩ ra. Có điều cái hôm ở đường Trường An, thấy Minh Dao vén rèm để lộ ra khuôn mặt như hoa như ngọc với ta, còn mỉm một nụ cười hớp hồn vô cùng phong tình, sau này nhớ lại, sự trùng hợp ấy vô cùng huyền diệu sâu xa, tựa hồ ở một nơi kín mít tăm tối nào đó đã có sắp xếp, nếu không thì biết giải thích ra sao đây?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Nói hay lắm! Nếu không phải Minh Dao hôm đó cố ý muốn chọc tức ta thì quyết không vén rèm mỉm cười với đàn ông bên kia đường đâu, mà Yến huynh nếu không có ý đồ thích sát Mộ Dung Văn thì lúc ấy cũng không thể có mặt ở đường Trường An, một sự trùng hợp tưởng chừng đơn giản như vậy mà phải bao nhiêu cái “nếu” mới đứng vững được đấy. Thiếu nó thì những chuyện ấy đều đã không xảy ra”.

Yến Phi cau mày: “Hướng huynh rốt cục muốn nói đến đạo lý nào đây?”.

Hướng Vũ Điền nói: “Ta đang nghĩ vận số trên đời là vấn đề nói đến ai thịnh ai suy. Ta và ngươi hiện nay đang chung vai sát cánh, thực ra là sự an bài của số phận, nhìn theo cách khác, các huynh đệ ngươi hoàn toàn không phải là đối thủ của Mộ Dung Thùy, thực lực hai bên chênh lệch quá lớn. Kỳ diệu nhất là cho dù biết rõ sự an bài của số phận, chúng ta cũng không có cách nào cải biến được số phận đó, bởi vì chúng ta căn bản là không có sự lựa chọn nào cả, đành phải phục tùng số phận. Lẽ nào chúng ta lại nửa dường bỏ dở, ngồi nhìn Mộ Dung Thùy tiêu diệt Thác Bạt Khuê, và Kỷ Thiên Thiên vĩnh viễn trở thành con chim kim tước xinh đẹp trong lồng son?”.

Yến Phi ngạc nhiên: “Vì sao đột nhiên ngươi lại nảy ra ngần ấy ý nghĩ kỳ quái thế?”.

Hướng Vũ Điền trầm giọng nói: “Ta và ngươi đều hiểu rõ, trên đời hiện nay chỉ có một tầng lớp và không gian tồn tại, thế nhân mê muội trong nó mà không tự nhận thức được gì cả, chúng ta cũng đang trải qua đúng cảnh giới đó đây, lao đầu vào yêu và hận, hăm hở đấu đá liên miên vì những mục đích và sự đeo đuổi khác nhau. Vị chúa tể của trần gian này là một lực lượng vô ảnh vô hình, mênh mông tràn ngập khắp nơi, nó ở ngoài tư tưởng cảm xúc của con người, không sờ được, không nhìn thấy, nhưng chúng ta lại có thể lọc ra sự tồn tại của nó từ những hoàn cảnh cụ thể, ví dụ như cuộc trùng phùng của ngươi và Minh Dao. Ta hoàn toàn không hiểu nó, cũng vĩnh viễn không hiểu rõ được bản chất của nó, chỉ có thể nói đó là số phận, nhưng người đời thường thường bỏ qua sự tồn tại của nó, vì nó là một năng lực vượt quá tầm nhận biết của chúng ta, chớp mắt là chúng ta lại một lần nữa hăm hở lao vào, quên đi hết những điều vừa mới hiểu ra được. Giống như trong một giấc mộng, tỉnh dậy rồi lại đến lúc tiếp tục giấc mộng khác thôi”. 

Yến Phi chợt không rét mà run, tất cả những sự vật trước mắt tội tình gì mà phải tồn tại!

Hướng Vũ Điền nói: “Đó chính là nguyên nhân ta mặc cho Minh Dao chuyên tâm luyện đại pháp, vì ta chỉ chăm chăm tìm biết bí mật của nhân thế này mà thôi. Nghĩ thử xem! Chỉ thiếu một điều kiện nhịp nhàng là ngươi và Minh Dao sẽ không thể trùng phùng hôm ấy ở Trường An, số mệnh lạ lùng biết mấy, cũng đáng sợ biết mấy. Nhưng chúng ta thường dùng một vài cách an ủi tầm thường để đi giải mã bản thân, nhận định đó chỉ là sự trùng hợp, không liên quan gì đến số phận. Chẳng hạn, khi ngươi khi gặp sư phụ ở rìa sa mạc, số mệnh đã sắp xếp đường hướng tương lai của ngươi, cũng đã quyết định số phận của ta, quyết định số phận của tất cả mọi người khác như Mộ Dung Thùy, Thác Bạt Khuê rồi”.

Yến Phi cảm thấy khắp người lạnh buốt, những điều Hướng Vũ Điền nói thực hư vô lơ lửng, nhưng lại ngầm ẩn nhiều điều chí lý khó lòng phản bác. Nếu không gặp Minh Dao, có lẽ chàng sẽ không đến Biên Hoang Tập, nếu Cao Ngạn không khăng khăng muốn gặp Kỷ Thiên Thiên, thì chàng và nàng đã vô duyên vô phận; Nếu không vì Tạ An rời khỏi Kiến Khang, Kỷ Thiên Thiên cũng không đời nào đến Biên Hoang. Những tình huống đó quả thực là sự xâu chuỗi của một lô các sự ‘nếu’.

Hướng Vũ Điền hỏi: “Giả thử chúng ta xé gió mà đi, liệu có thoát được sự khống chế của số mệnh không, hay cái động thiên phúc địa gì kia cũng chỉ là một phần của số mệnh?”.

Yến Phi cười khổ: “Chuyện này tốt nhất đừng nên nghĩ đến nữa, nghĩ thêm chỉ mua sầu chuốc não, ta nghe ngươi nói mà phát lú lẫn rồi”.

Hướng Vũ Điền cười: “Cách nhìn nhận của ngươi cũng tương tự quan điểm của người đời đối với cái chết. Vì quên nó, người ta mới sống vui được, ai muốn chịu khổ kia chứ?”.

Yến Phi gật đầu: “Đích xác là như vậy! Hiện thời chúng ta có nên rời khỏi đây, tìm nơi nào yên ổn mà đánh một giấc, chìm vào cơn mộng quên hết sự đời đi không?”.

Hướng Vũ Điền vui vẻ: “Chính hợp ý ta. Đi thôi!”.

o0o

Lưu Dụ dậy sớm, Lưu Mục Chi đến cầu kiến, Lưu Dụ bèn mời y cùng ăn cơm sáng.

Hai người vừa ăn vừa nói chuyện, Lưu Dụ ái ngại: “Vất vả cho tiên sinh quá, thấy hai mắt tiên sinh vằn đỏ lên là biết cả đêm qua tiên sinh không ngủ”.

Lưu Mục Chi nói: “Đa tạ đại nhân quan hoài. Đêm qua Mục Chi có chợp mắt được chừng một canh giờ, tỉnh lại càng nghĩ đến tình hình hiện nay, càng có cảm giác nguy hiểm rình rập trùng trùng, cũng may nghĩ được vài cách phá giải”.

Lưu Dụ mừng rỡ: “Xin tiên sinh chỉ giáo”.

Lưu Mục Chi nói: “Chúng ta lập tức đẩy nhanh quá trình thổ đoạn”.

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Hôm qua ta vừa đề cập đến thổ đoạn, tới bây giờ ta vẫn không hiểu là việc gì, chỉ biết liên quan đến lợi ích căn bản của các thế gia phú hộ, cũng là nguyên nhân chính yếu khiến họ e dè với ta, đang tình hình này mà đẩy nhanh một chương trình cải cách lớn như vậy có hấp tấp quá không?”.

Lưu Mục Chi vuốt râu mỉm cười: “Xin hãy để Mục Chi giải thích rõ ràng nội dung thổ đoạn với đại nhân. Từ khi nhà Tấn lập quốc ở Giang Tả, trước sau đã có vài lần thổ đoạn, mà nổi danh nhất là có thổ đoạn đời Hàm Hòa, thổ đoạn đời Hàm Khang, thổ đoạn của Hoàn Ôn và thổ đoạn của An công. Thổ đoạn tức là phương pháp trưng thu thuế, và gắn liền với trưng thu thuế là biên chế hộ tịch”.

Lưu Dụ gật đầu: “Ta hiểu rồi, muốn thu thuế công bằng thì phải phân rõ hộ khẩu, có thống kê hộ khẩu rõ ràng xác thực thì mới tiến hành chế độ thuế thu hữu hiệu được”.

Lưu Mục Chi vui vẻ nói: “Đúng như vậy đấy. Năm năm trước đời Hàm Hòa, tô đất kế thừa chế độ trưng thu theo đinh (người đàn ông trưởng thành lao động trong gia đình) của nhà Tiền Tấn, mỗi đinh là bốn đấu ngũ cốc. Có thể chế độ trưng thu theo đinh này không công bằng lắm, vì nó không phân biệt giàu nghèo, nên những đại địa chủ đương nhiên có lợi hơn, những người không có đất đai hoặc ít ruộng thì chật vật vô cùng. Vì vậy vào năm Hàm Hoà thứ năm, triều đình ban lệnh cải cách từ thu theo đinh sang thu theo ruộng đất, tô đất thu đánh theo mẫu, người có nhiều ruộng thì cố nhiên phải nộp nhiều thuế hơn, ruộng ít nộp ít thuế hơn, chế độ thu gạo lúa theo ruộng đất này đại để được áp dụng đến thời An công chấp chính”.

Lưu Dụ thắc mắc: “Thế Hoàn Ôn thì làm việc gì?”.

Lưu Mục Chi đáp: “Cải cách của Hoàn Ôn cơ bản thể hiện ở việc biên đính hộ tịch. Từ thổ đoạn Hàm Hòa đến thổ đoạn Hoàn Ôn là hai mươi mấy năm, lưu dân phương Bắc liên tục thiên di xuống nam, nhất là trong thời kỳ Thạch Hổ tàn bạo thống trị thì lưu dân xuống nam càng nhiều hơn, triều đình phải đặt ra Kiều quận để an trí cho họ, lại thêm nhiều gia tộc lớn phá sản đào vong nên hộ tịch biên đính thời đó không còn sát sự thực nữa. Cải cách của Hoàn Ôn là làm lại hộ tịch, nạp những lưu dân ngụ cư vào hộ tịch, như thế sẽ tăng được thuế thu cho triều đình”.

Lưu Dụ gật đầu: “Ta bắt đầu hiểu ra rồi, chính sách ruộng đất và thuế thu chính là nền tảng của sự thống trị, nếu mặt này làm lỏng lẻo chểnh mảng thì nguồn thu nhập của triều đình sẽ bấp bênh. Sau Hoàn Ôn là An công vì sao vẫn cần đến thổ đoạn? Chắc hẳn hộ tịch không thay đổi mấy đâu mà”.

Lưu Mục Chi nói: “Bất cứ một cải cách nào cũng cần thiết với thời điểm của nó. Hoàn Ôn tiến hành thổ đoạn là vì lần bắc phạt thứ hai. Nhân lực và tài lực hao tổn trầm trọng, vì vậy phải tăng thêm thu nhập. Thổ đoạn của An công là vì Phù Kiên đã thống trị phương Bắc, bất cứ lúc nào cũng có thể cử binh uy hiếp phương Nam, mà quân lực của phương Nam thì tập trung hết ở khu vực trung và thượng du Trường Giang, do Hoàn Xung suất lĩnh, ở Kiến Khang binh lực hời hợt, cần phải tăng cường thêm một lực lượng quân sực nữa, đó chính là Bắc Phủ binh mà đại nhân đang thống lĩnh hiện nay”.

Lưu Dụ thở dài: “Nhờ tiên sinh giải thích, ta đã hiểu khả năng nhìn xa trông rộng của An công hơn trước đây, không có người thì làm gì có chiến thắng Phì Thủy”.

Lưu Mục Chi nói: “Thổ đoạn của An công khác biệt lớn nhất với các thổ đoạn trước chính là không tính gạo theo số đinh, cũng không tính gạo theo số ruộng, mà tính gạo theo khẩu, mỗi khẩu hai đấu gạo”.

Lưu Dụ bắt đầu lẫn lộn, thắc mắc hỏi: “Tiên sinh vừa nói thu theo ruộng là tương đối công bằng, vì sao An công lại sửa đổi nguyên tắc ấy?”.

Lưu Mục Chi nói: “Điều này chứng tỏ được thiên tài chính trị đầy thực tế của An công, mục tiêu chính trị của người là tăng thuế để lập nên lực lượng quân sự mới, vì vậy mới nhằm đúng thời điểm để thi hành chính sách mới”.

Ngừng một lát, y tiếp: “Thu thuế theo ruộng kể thì đúng là công bằng nhất, nhưng lý tưởng và hiện thực luôn có khoảng cách. Dưới chế độ quý tộc thế phiệt chuyên chính, thu thuế theo ruộng căn bản là không thể thực hiện được, đồng thời thu thuế theo ruộng còn rất phiền phức về thủ tục, dễ trốn thuế, còn thu theo nhân khẩu thì đơn giản, dễ thi hành”.

Lưu Dụ hiểu ra, giai cấp thống trị là do các thế gia vọng tộc lũng đoạn, họ làm sao mà toàn tâm toàn ý thi hành những cải cách thuế gây bất lợi cho mình được. Cố nhiên, khi Hoàn Ôn còn tại thế, uy nhiếp phương Nam, ai dám bất tuân thì bị lôi ra để tế cờ thị chúng, phương pháp ấy rất có hiệu quả. Nhưng sau khi Hoàn Ôn qua đời, những người ấy không sợ nữa, mỗi người một phách làm chính sách thu thuế đúng đắn chỉ còn là vỏ rỗng. Đến thời Tạ An, chính sự mục ruỗng, gây tổn hại nghiêm trọng cho lợi ích quốc gia, Tạ An đành học theo người tiền nhiệm, lựa lấy một phương pháp thu thuế hữu hiệu và phù hợp với tình hình đương thời.

Cùng lúc gã hiểu ra tầm quan trọng của sự thực tế, chỉ quan tâm đến lý tưởng mà xem nhẹ thực tế thì sẽ gây mầm hậu quả tai họa. Chẳng hạn gã luôn không thích cách sống mơ màng say sưa, thanh nhã ỏn ẻn của các gia tộc trâm anh thế phiệt Kiến Khang, càng ngứa mắt với thái độ bóc lột và áp chế của họ đối với tầng lớp dưới, nhưng không thể thay đổi tình trạng này được, chí ít là hiện thời, vì nó không thực tế.

Lý tưởng cố nhiên quan trọng, nhưng hiệu quả của thực tế quan trọng hơn nhiều, đó mới là tác phong thực dụng. Gã phải học theo Tạ An.

Lưu Mục Chi lại tiếp: “Một khả năng chính trị khác của An công là quyết định chỉ có quân nhân đang thi hành quân dịch mới được miễn thuế, những người khác, kể cả vương công quý tộc lẽ ra được miễn thuế cũng phải nộp cả, hoàn toàn bình đẳng”.

Lưu Dụ hỏi: “Tình hình hiện nay thì sao?”.

Lưu Mục Chi nói: “Từ khi An công thoái vị, Tư Mã Đạo Tử đương quyền, tất cả lại hồi phục như cũ, vương công đại thần đều được đặc quyền miễn thuế, đến khi Thiên Sư quân làm loạn thì lượng thuế thu của triều đình càng giảm sút”.

Lưu Dụ nói: “Vậy ta nên cải cách thế nào?”.

Lưu Mục chi nói: “Dục tốc bất đạt, chúng ta chỉ cầm nghiêm khắc thi thành biện pháp thổ đoạn của An công, tạm thời đã đủ rồi”.

Lưu Dụ nói: “Ta không hiểu, điều này có liên quan trực tiếp gì với nguy cơ phải ứng phó hiện nay?”.

Lưu Mục Chi đáp: “Đại nhân tiếp tục thực hành chính sách của An công, điều đó cho thấy đại nhân là người kế thừa sự nghiệp của An công và Huyền soái, tiêu chí rất rõ ràng, những người sáng suốt trong số thế gia vọng tộc trước đây ủng hộ chính sách của An công sẽ chuyển sự ủng hộ đó sang cho đại nhân. Điều này càng chứng tỏ đại nhân là người có năng lực trị quốc.

Lưu Dụ gật đầu: “Ta bắt đầu thấy có chút manh mối rồi! Đúng! Điều này chứng minh rõ hơn mọi lời nói rằng ta là người cải cách theo đường lối của An công và Huyền soái”.

Lưu Mục Chi nói: “Mặt khác, đại nhân cũng chứng tỏ mạnh mẽ cho đám nhà giàu phương Nam biết, đại nhân không phải là người hủy diệt bọn họ, mà là một An công khác, mọi lời nói việc làm đều lo nghĩ cho đại cục”.

Lưu Dụ nói: “Nhưng sẽ luôn có người phản đối ta lặp lại chính sách của An công, tựa như có không ít người đã phản đối An công năm xưa”.

Lưu Mục Chi mỉm cười: “Chính Mục Chi đang hy vọng có người đứng ra phản đối đại nhân đây”.

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Ta không hiểu”.

Lưu Mục Chi nói: “Đại nhân đã từng nghĩ là ngài bây giờ và An công năm xưa khác nhau chỗ nào chưa?”.

Lưu Dụ nhăn trán ngẫm nghĩ.

Lưu Mục Chi trầm giọng nói: “Chỗ khác biệt lớn nhất là khi đại nhân đánh Hoàn Huyền, binh quyền đã chuyển hết vào tay đại nhân, ai dám phản đối, đại nhân cứ thẳng tay xử trí, đó là biện pháp đưa phương Nam từ rối loạn về trật tự. Cứ xét trong lịch sử, muốn thi hành bất cứ một chính sách nào cũng phải có thực lực hùng mạnh làm hậu thuẫn. Mục Chi không phải là muốn đại nhân phải nhấn mạnh theo ta thì sống, chống ta thì chết đâu. Ai không hợp tác đây? Cứ cách chức quan của hắn, kẻ nào phản đối là kẻ đó dám tạo phản, phải dùng đến pháp trị. Ngoài ra trong thời kỳ bất ổn định, đại nhân quyết không thể rút lui được, phải dùng nắm tay sắt trị quốc thì mới là hành vi sáng suốt”.

Mắt Lưu Dụ sáng quắc lên: “Ta hiểu rồi!”.

Rồi gã cười ha hả: “Tiên sinh nói những lời này đã giúp ta gặt hái được nhiều lắm. Về thổ đoạn, tiên sinh cứ đưa ra các chủ kiến, ta sẽ toàn lực ủng hộ tiên sinh, tiên sinh muốn ta làm thế nào, ta sẽ theo thế ấy”.

Lưu Mục Chi vui vẻ lĩnh mệnh.

Lưu Dụ nghiêm chỉnh nói: “Điều ta đang hy vọng nhất chính là bách tính có thể được hưởng những ngày tháng yên bình đầy đủ, còn những vui buồn mừng giận của cá nhân ta thì không quan trọng”.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=65#ixzz1bzoHN8wa

Lúc hoàng hôn, Thôi Hoành trở về khu doanh trại, Đinh Tuyên mừng rỡ ra đón.

Trong rừng, khu doanh trại hoàn toàn yên tĩnh, trong bóng tối lính gác nghiêm ngặt, chòi gác san sát. Thôi Hoành vui vẻ hỏi: “Tất cả vẫn ổn chứ!”.

Đinh Tuyên nói: “Nhờ hồng phúc đại nhân, kẻ địch vẫn chưa xuất hiện trong phạm vi giám sát của chúng tôi.”

Đinh Tuyên rất khâm phục người tài trí đảm lược như Thôi Hoành, lại biết rõ lần này Thác Bạt Khuê sắp mình tới làm trợ thủ cho Thôi Hoành là nể mặt Yến Phi, ngấm ngầm có ý tài bồi vì vậy sau khi nhận nhiệm vụ thì vẫn run rẩy ớn lạnh, chỉ sợ có gì sơ thất. 

Đinh Tuyên tuy là người Hán nhưng lại lớn lên ở phương bắc, nơi thống trị của các tộc Hồ, không mấy thiện cảm với chính quyền tôn thất nhà Tấn ở phương nam, đồng thời muốn vươn lên ở phương bắc thì phải nương tựa vào một chính quyền Hồ tộc nào đó, sau một thời gian nghiên cứu, Đinh Tuyên chọn Thác Bạt tộc lúc ấy đang bắt đầu hưng khởi.

Đinh Tuyên lại nói: “Bên tộc chủ đưa tin lại, báo rằng người đã dốc hết toàn quân đến Nguyệt Khâu ở Nhật Xuất Nguyên bày binh bố trận, buộc Mộ Dung Thùy phải ra giao phong chính diện.”

Thôi Hoành gật đầu: “Ừ.”

Trước khi rời Bình Thành, y và Thác Bạt Khuê đã vạch ra đại kế tác chiến toàn diện để vừa có thể phối hợp lẫn nhau vừa tranh thủ thành quả to lớn nhất.

Thôi Hoành và Đinh Tuyên bước đến sát rìa đông nam của khu rừng doanh trại, nhóng mắt nhìn ra hướng Bắc Khâu ở cách đó ba mươi dặm dưới ánh hoàng hôn, nói: “Khi trời sập tối chúng ta sẽ lập tức xuất phát, bí mật hành quân, đến chỗ còn cách mặt bắc Bắc Khâu năm dặm thì dừng lại mai phục, nghỉ ngơi khoảng hai canh giờ, trước khi trời sáng lại lặng lẽ tiếp cận quả đồi này, chỉ cần thấy có tín hiệu lửa khói thì lập tức phát động tấn công.”

Đinh Tuyên gật đầu lĩnh ý.

Thôi Hoành mỉm cười: “Lần này Mộ Dung Long nhất định trúng kế, quan trọng là chúng ta có đánh được tan tác triệt để binh đoàn Long thành tinh nhuệ của hắn hay không thôi, trận chiến này chúng ta chắc chắn phải giành được thắng lợi to, nếu chỉ là thắng lợi nhỏ thì chẳng có gì khác thất bại, hiểu không?”.

“Đinh Tuyên hiểu!”. Đinh Tuyên đáp.

o0o

Kiến Khang. Thạch Đầu thành.

Lưu Dụ đang ăn cơm tối với Giang Văn Thanh trong nội đường. So với tối qua thì tâm trạng gã thư thới hơn nhiều. Từ lúc biết Văn Thanh mai thai đứa con của mình, gã tự nhiên muốn đem hết tình yêu trong tim dồn hết sang Văn Thanh, gỡ bỏ mối mắc mứu trong lòng, lo lắng bảo vệ cho nàng đầy đủ.

Dưới ánh nến, trông Văn Thanh kiều diễm hơn hoa, khiến trái tim gã ngập tràn yêu thương.

Văn Thanh thấy gã liên tục gắp thức ăn vào bát cho mình đến nỗi chất lên có ngọn, liền cười bảo: “Nhiều thế này Văn Thanh ăn sao cho hết?”.

Lưu Dụ mỉm cười: “Vì tương lai của chúng ta, Văn Thanh nhất định phải ăn nhiều lên, con mới trắng trẻo mũm mĩm, mới xuất thế trở thành một chàng trai rắn rỏi được.”

Văn Thanh vừa thẹn vừa mừng lườm gã: “Nhìn xa thế, tối nay đại nhân vui vẻ quá nhỉ!”.

Lưu Dụ gật đầu: “Hôm nay quả thực ta vui lắm vì việc cai trị đất nước bắt đầu có phương hướng, đều nhờ Mục Chi bàn mưu tính kế cho ta. Nói thẳng ra, ta xưa nay vốn không có thiện cảm với bọn cùng nho, nhưng Mục Chi lại khiến ta thay đổi hoàn toàn cách nhìn nhận đó. Lạ thật, y thực tế và tỉnh táo hơn cái gã lỗ mãng kiến văn hạn hẹp như ta rất nhiều, không chỉ nói suông đạo tiên vương, nhân nghĩa đạo đức mà còn giúp ta sửa đổi tính nết.”

Giang Văn Thanh nói: “Mục Chi quả là người đặc biệt, Dụ lang nhớ đối đãi tử tế với y nhé.”

Lúc ấy thủ hạ vào báo, Khoái Ân đến Thạch Đầu thành, đang đợi ở sảnh ngoài.

Lưu Dụ mừng quá đỗi, nhủ bụng lần này đến nhanh thế, gã vốn tưởng phải tám đến mười ngày Khoái Ân vẫn chưa thể vâng lệnh triệu hồi mà quay về.

Giang Văn Thanh vui vẻ nói: “Tiểu Ân đã về, đại nhân mau đi gặp hắn đi.”

Lưu Dụ vội vàng đứng dậy, ghé lại gần Văn Thanh thơm lên má nàng, lại xoa xoa cái bụng lùm lùm của nàng rồi mới ra ngoài sảnh.

Nhìn thấy gã, Khoái Ân nhảy nhổm khỏi ghế, vẻ mặt kích động, quỳ sụp xuống hô: “Khoái Ân thỉnh an thống lĩnh đại nhân.”

Lưu Dụ cúi xuống đỡ hắn dậy, túm chặt lấy vai hắn: “Tiểu Ân, đệ làm tốt lắm, không, cực kỳ tốt mới đúng! Đệ đã lập được đại công!”.

Mặt mày Khoái Ân lấm bụi đường, giọng hắn run run, biểu lỗ nỗi xúc động tận đáy lòng: “Đều nhờ thống lĩnh đại nhân giáo hối và đề cử, Tiểu Ân làm sao dám phụ công.”

Lưu Dụ dắt hắn đến một góc ngồi xuống, hỏi luôn điều vẫn ngờ vực: “Sao ngươi đến được nhanh thế?”.

Khoái Ân đáp: “Thư hỏa tốc của đại nhân truyền đến đúng lúc thuộc hạ nhận được lương thảo của Âm Kỳ tướng quân ở Vô Tích, bèn lập tức phóng khoái mã chạy tới. Thuộc hạ đã làm theo chỉ thị của đại nhân, đem quân phù và văn thư nhận lệnh giao cho Âm tướng quân, đồng thời dặn dò kỹ càng về tình hình Cối Kê cho y biết.”

Trong quân đội hiện nay, nếu hỏi người mà Lưu Dụ tin tưởng nhất là ai thì Khoái Ân và Âm Kỳ phải đứng đầu bảng, còn trên cả bọn Ngụy Vịnh Chi, Hà Vô Kỵ, Bành Trung…

Lưu Dụ hỏi: “Tình hình khu hỗn loạn đó bây giờ ra sao rồi?”.

Khoái Ân đáp: “Thiên Sư quân đã bị đánh tan tác rồi. Thuộc hạ làm theo chỉ thị của Mạc Chi tiên sinh, một mặt tuyên xưng Tôn Ân đã vùi thây trong cơn giận của dân cư, đồng thời đem thủ cấp Từ Đạo Phúc và Trương Vĩnh đến treo ngoài cửa đông Cối Kê để thị chúng ba ngày, mặt khác theo lời dặn của Lưu Mục Chi tiên sinh, tiến hành kế sách an dân, miễn thuế ruộng cho dân trong vòng nửa năm, tu bổ thành trì các nơi, lại nhân cơ tịch thu sung công ruộng đất của bọn cường hào tham gia phản loạn ở các vùng rồi phân bổ công bằng lại cho nông phu địa phương, đại họa do Tôn Ân gây nên đã được thu xếp ổn thỏa.”

Lưu Dụ thầm than hổ thẹn, Lưu Mục Chi đã từng đề cập đến cách thu vén lại những thứ rách nát do bọn Thiên Sư quân để lại, nhưng bản thân gã thì chỉ nung nấu việc giết Hoàn Huyền nên lúc ấy không để ý, bây giờ Khoái Ân nhắc gã mới nhớ lại.

Cũng may có bàn tay căn cơ của Lưu Mục Chi đã an bài gọn ghẽ, lo lắng cho toàn cục, bậc trí giả cặn kẽ và chu đáo ấy đã dốc hết sức vì gã, nếu không thì gã nhất định sẽ làm cho mọi việc rối tung lên, đã loạn lại còn loạn hơn.

Đồng thời Lưu Dụ lại nhớ rằng Lưu Mục Chi đã nhấn mạnh mấy lần rằng mình phải dùng nắm đấm mạnh mẽ hữu lực để thống trị phương nam, công việc sau loạn Thiên Sư chính là lời giải thích thuyết phục nhất cho lời nói của Lưu Mục Chi. Vì tất cả các thế lực phản đối ở các thành của Cối Kê đều bị Lưu Dụ tróc sạch cả rễ lẫn gốc, vì vậy không có gì cản trở việc đẩy tranh chính sách ích nước lợi dân này, việc đến đâu thông đồng bén giọt đến đấy, đạt được những thành quả khiến người ta phải tự hào.”

Gã đồng thời có cảm giác kinh sợ, thử nghĩ nếu mình chỉ cầu một người độc tài tự tư tự lợi, bất luận trước mắt có áp bức bóc lột dân đen thế nào, nhất thời dân chúng cũng chỉ còn đường phục tùng chứ không còn sức phản kháng. Đương nhiên, đến lúc dân bơ vơ không nơi nương tựa, dân chúng sẽ cảm thấy dù chết cũng chẳng có gì ghê gớm lắm, tự nhiên sẽ sinh loạn. Nhưng nếu đẩy mạnh chính sách an dân thì mọi người sẽ cảm kích mà không tạo phản, hiệu quả khác hoàn toàn.

Lưu Dụ quyết định phải thường xuyên tự nhắc nhở mình quyết không được gây ra những hành động làm tổn hại dân chúng, phúc khí của dân chúng tùy thuộc vào một quyết định của gã, làm sao gã có thể khiến nhân dân khiếp hãi, việc gì cũng phải suy nghĩ cặn kẽ thì mới tiến hành, thận trọng gò bản thân theo những nguyên tắc cần thiết.

Chỗ cao minh nhất của Lưu Mục Chi là mượn cớ dẹp loạn Thiên Sư để đem ruộng đất phân bổ lại, dập tắt nguồn gốc tai họa do Thiên Sư quân gây ra. Qua hành động tùy cơ ứng biến này, gã tự nhủ mình phải học cách lựa chiều tình hình để chọn ra chính sách phù hợp nhất.

Khoái Ân hỏi: “Chẳng hay đại nhân kíp gọi thuộc hạ về là có chỗ nào cần dùng đến thuộc hạ? Chỉ cần đại nhân dặn dò thì thuộc hạ nguyện lao vào nước sôi lửa bỏng, muôn chết cũng không từ.”

Lưu Dụ nhớ lại hôm Hầu Lượng Sinh tự tận, Khoái Ân đến Kiến Khang báo tin với bộ dạng bàng hoàng ngơ ngác, khác hẳn với một Khoái Ân mãnh tướng có ảnh hưởng rất lớn trong Bắc Phủ binh hiện nay. Từ đó, gã lại liên tưởng đến mình lúc trở về Kiến Khang, không biết đi đâu, đành phải thỏa hiệp với Tư Mã Đạo Tử, ngàn vạn mối cảm xúc đan xen với nhau. 

Gã nói: “Không nghiêm trọng đến thế đâu, ta triệu ngươi về là muốn ngươi thay ta giữ Kiến Khang để ta tranh thủ đi đối phó Hoàn Huyền.”

Khoái Ân choáng váng: “Một nhiệm vụ to lớn như thế, thuộc hạ e khó lòng đảm đương được.”

Lưu Dụ cười: “Thẳng thắn một câu, ta là dân ngoại đạo với chính trị, e rằng còn vò đầu bứt tai hơn cả ngươi nữa. Cũng may chính trị có Lưu Mục Chi phụ trách, ngươi chỉ cần nắm chắc binh quyền, giữ vững Thạch Đầu thành, ai dám tạo phản thì giáng cho nó một cú sấm sét, nhưng khả năng ấy nhỏ lắm. Bây giờ Kiến Khang đang ở trong tình trạng quân quản, ngươi chỉ cần điều động thủ hạ giữ vững trị an Kiến Khang là ổn rồi.”

Nghĩ ngợi chốc lát, gã tiếp: “Lát nữa ta sẽ mời Lưu Mục Chi tiên sinh đến thương lượng, nhân cơ hội này trao cho ngươi một chức vị danh xứng với thực để ngươi dễ bề quản hạt Kiến Khang.”

Khoái Ân thấp thỏm: “Nhưng còn đám quyền quý…”

Lưu Dụ ngắt lời hắn với một nụ cười: “Có Lưu Dụ này hậu thuẫn, Tiểu Ân còn gì phải sợ? Trong giới quý tộc cũng có khá nhiều người ủng hộ chúng ta, nếu có kẻ nào dám gây nhiễu loạn, chúng ta sẽ làm cho nó khổ sở đến không thể chịu đựng nổi, binh quyền nằm trong tay ai thì người đó làm chủ. Ngươi cứ phối hợp với những cách thức chính trị thuần thục của Lưu Mục Chi tiên sinh là sẽ không xảy ra vấn đề gì đâu.”

Khoái Ân lúc này mới hơi bình tâm, vội vàng tạ ơn.

Lưu Dụ trầm ngâm một thoáng rồi nói: “Ta sẽ dẫn Tiểu Ân đi gặp vài người, để họ rõ quyết định của ta, còn trong quân thì ta không lo lắng chút gì, bởi ai cũng biết những công lao mà ngươi đã lập được.”

Khoái Ân ngập ngừng, chực nói lại thôi.

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Tiểu Ân sao ấp úng thế, có điều gì muốn nói?”.

Mắt Khoái Ân đỏ hoe lên: “Thuộc hạ hi vọng có thể rửa hận cho Hầu tiên sinh.”

Lưu Dụ cười khổ: “Ta đang nhờ ngươi giúp ta ổn định tình hình Kiến Khang, làm sao ngươi theo ta đi thảo phạt Hoàn Huyền được?”.

Khoái Ân nói: “Thuộc hạ đâu dám kháng lệnh đại nhân? Thuộc hạ chỉ hi vọng biết được con yêu nữ hại chết Hầu tiên sinh là ai thôi.”

Lưu Dụ lúc này mới biết là mình hiểu lầm ý Khoái Ân, gã đau lòng vô cùng, chẳng lẽ nói cho Khoái Ân biết con yêu nữ mà gã và Đồ Phụng Tam nhắc đến hôm đó là Nhậm Thanh Thị? Gã đành đẩy đưa: “Lúc ấy còn một số việc chúng ta chưa rõ, vì vậy mới suy đoán như thể. Ta ngờ rằng có người bên mình tiết lộ tin tức, đâu biết thuần túy là hiểu lầm. Nói cho rốt ráo thì oan đầu nợ chủ đều là Hoàn Huyền, chúng ta hãy nghĩ cho đại cục, đừng truy đuổi ai khác nữa.”

Sự thực gã cũng không hài lòng với những lời thoái thác đãi bôi của mình, nhưng còn cách nào khác nữa đâu? Quả thực tạm thời gã không làm sao chế ra được một câu chuyện có tính thuyết phục hơn. 

Khoái Ân lộ vẻ nửa tin nửa ngờ.

Lưu Dụ vỗ vỗ vai hắn: “Ta nghĩ cho Tiểu Ân thôi, chuyện này liên quan đến một môn phái bí ẩn trên giang hồ, nhưng đầu lĩnh của họ đã hiệp đồng với Yến Phi, vào đúng thời khắc trọng yếu đã li khai Hoàn Huyền, dẫn đến việc Hoàn Huyền chạy trốn khỏi Kiến Khang. Cứ làm cho tốt đi, chỉ cần ngươi có thể làm cho dân chúng phương nam an cư lạc nghiệp, cơm no áo ấm thì cũng như đã báo đáp ân tình của Hầu tiên sinh rồi.”

Khoái Ân cuối cùng cũng lộ vẻ tin tưởng, quả quyết đáp: “Xin tuân phục hoàn toàn chỉ thị của đại nhân.”

Lưu Dụ thầm thở phào.

Nhớ lại giang hồ sóng gió trước đây, nhớ những ngày mọi người đối đãi chân tình với nhau, lúc này trong lòng Lưu Dụ vẫn còn chứa chan cảm xúc.

Từ lúc đi lại với Nhậm Thanh Thị, Lưu Dụ đã che giấu quanh co hộ ả, mãi cho đến nay, khi Lưu Dụ đã trở thành người cầm quyền của Kiến Khang mà vẫn phải nói dối hộ ả trước mặt Khoái Ân, đổ vấy trách nhiệm cho Ma môn. Cũng may Khoái Ân không ráo riết truy tìm căn nguyên cội rễ, nếu không chẳng biết Lưu Dụ còn phải dối trá vòng vèo đến đâu.

Hi vọng chân tướng sự việc mãi mãi không bị bóc trần, để gã khỏi phải khó ăn khó nói với viên đại tướng tâm phúc này.

o0o

Cao Ngạn xộc vào khuê phòng của Doãn Thanh Nhã, kêu lên: “Tin tốt lành! Tin tốt lành! Lần này thành công thu lợi rồi đây!”.

Ả tỳ nữ đang thị hầu Doãn Thanh Nhã đã sớm quen với những hành vi kỳ quặc ấy rồi, không đợi cô chủ nhắc liền vội vàng thi lễ rồi lui ra.

Doãn Thanh Nhã cau mày: “Tên tiểu tử này phát cuồng rồi chắc!”.

Cao Ngạn hào hứng ngồi xuống bên cạnh: “Tin tốt thứ nhất là lão Mao Tu Chi đã hạ được Bạch Đế thành, tiến binh uy hiếp Giang Lăng, khiến tên tặc tử Hoàn Huyền sợ vãi đái, bẩn hết cả quần. Ha, tưởng tượng ra mới thấy sống động làm sao chứ!”. 

Doãn Thanh Nhã cười khúc khích, lườm gã mắng: “Đúng là miệng chó không mọc được ngà voi, họa là đồ ngốc mới tin ngươi! Ôi, Tiểu Bạch Nhạn ta thì cũng chẳng tốt đẹp hơn đồ ngốc bao nhiêu, bằng không thì làm sao lại cứ bìu ríu lấy cái tên tiểu tử này.”

Cao Ngạn cười hì hì: “Sao cũng được. Nghe đây. Tin tốt thứ hai, thống lĩnh đại nhân của chúng ta đã phê cho Đổ tiên của chúng ta nhậm chức quan đầu triều vùng Lưỡng Hồ, đồng thời gom Lưỡng Hồ bang về Bắc Phủ binh. Lão Trình được giao nhiệm vụ xem xét luận công ban thưởng, nếu có huynh đệ nào trong bang không muốn làm quan hoặc làm lính thì cứ việc tự tiện làm theo ý mình. Ha, đây có lẽ là ơn đức cao dày của hoàng đế đây.”

Doãn Thanh Nhã không để tâm, trừng trừng nhìn Cao Ngạn: “Ai muốn làm quan cũng được, mỗi người một chí mà, nhưng ta không cho phép ngươi dính dấp vào quan quách gì đâu nhé, rõ chưa?”.

Cao Ngạn la lên: “Ta đâu có ngu đến thế? Kiệu tám người khiêng đến rước cũng không lay được ta đi làm quan đâu, ta chỉ mong túi đầy ắp tiền tiêu mãi không hết, ngày ngày cùng Nhã nhi…”

Doãn Thanh Nhã bịt tai lại, mặt đỏ bừng lên: “Ta không nghe, không nghe! Nói nữa ta đập cho một trận đấy.”

Cao Ngạn vờ kinh ngạc: “Nàng tưởng ta định nói gì? Ta không nói là đêm đêm, mà là ngày ngày kìa, ban ngày ban mặt có thể làm được gì chứ? Chỉ có du sơn ngoạn thủy thôi ạ! Nhã nhi nghĩ đến trò gì đặc biệt thú vị hơn à?”.

Doãn Thanh Nhã thả hai tay xuống, hậm hực nói: “Không đôi co với ngươi nữa, còn việc gì không, mau báo lên, bản cô nương còn rất nhiều chuyện cần làm.”

Cao Ngạn nói: “Chuyện gấp gì cũng không bằng chuyện ta sắp nói. Có phải Nhã nhi rất thích ngồi trên Kỳ Binh hiệu, ngự giá thân chinh, đánh cho lũ chó săn của Hoàn Huyền rơi hết xuống nước, thua bại hoàn toàn không?”.

Mắt Doãn Thanh Nhã sáng ngời: “Ngươi đang nói gì kia?”.

Cao Ngạn thủng thẳng: “Lão Ngụy vừa từ Tang Lạc Châu về, nói quân Lợi Châu dưới thung lũng đang rục rịch di chuyển, vì vậy mời chúng ta xuất động thủy sư cùng phối hợp với họ để giáp kích quân Kinh Châu trên Trường Giang. Ôi, cứ tưởng Nhã nhi có hứng thú, nào ngờ Nhã nhi bận đến nỗi không giải quyết xong mà bứt ra được.”

Doãn Thanh Nhã giận quá nghiến răng kèn kẹt: “Tiểu tử chết tiệt, dám trêu tức ta!”.

Rồi cười tươi như hoa: “Vì sao cái đồ khả ố như ngươi vụt một cái lại biến thành đại hảo nhân, lại đồng ý cho người ta tham chiến?”.

Cao Ngạn nói: “Người khác không rõ tâm tư của nàng chứ giấu sao được cái gã phu quân như ta đây, đều nhờ ta cực lực đánh bạt đi các ý kiến khác, nói Nhã nhi ngồi trấn Kỳ Binh hiệu thì các chàng trai bên dưới sẽ tăng cao sĩ khí lên hàng trăm lần, mọi người hứng khởi quá sẽ không tiếc thân, đánh một trận thủy chiến đặc biệt hào hùng, vì vậy ai vắng mặt cũng không quan trọng chứ riêng Nhã nhi thì không thể thiếu được. Trận chiến này liên quan đến thành bại của cả cuộc chiến tranh, tuyệt đối không được sơ suất, đánh thắng là có thể tróc thẳng đến nhà Hoàn Huyền rồi.”

Doãn Thanh Nhã không rỗi hơi cãi cọ lôi thôi với kẻ tự xưng là phu quân nàng kia, chỉ vui vẻ nói: “Ngươi khá đấy!”.

Cao Ngạn càng nói càng hăng: “Lão Ngụy còn đem tin đến, trận chiến này nếu thắng, thống lĩnh đại nhân của chúng ta sẽ ngự giá thân chinh đến tiền duyên chỉ huy đại cục, Hoàn Huyền lần này sẽ thành trứng chọi đá. Nhã nhi có thể báo thù rửa hận được rồi đấy.

Doãn Thanh Nhã hậm hực nói: “Cái gì mà ân đức hoàng đế, cái gì mà ngự giá thân chinh, tên Lưu Dụ ấy làm hoàng đế ư? Ngươi chỉ giỏi khuếch khoác, chỉ giỏi hồ ngôn loạn ngữ thôi.” Rồi lại hỏi: “Lão Ngụy mà ngươi nhắc đến là ai đấy?”.

Cao Ngạn bắt đầu bốc: “Đương nhiên là một trong thất hổ tướng dưới trướng lão Lưu, là vị anh hào danh chấn thiên hạ: Ngụy Vịnh Chi…”

Doãn Thanh Nhã ngắt lời: “Sáu hổ tướng kia là bọn thần thánh phương nào?”.

Cao Ngạn lúng túng: “A, điều đó thì không rõ lắm.”

Doãn Thanh Nhã trợn mắt mắng: “Lại tào lao!”.

Liền đó lại nghiêm chỉnh nói: “Nhưng lần này ta nhất định tham chiến, nếu không thuyền đội đừng hòng mơ tưởng đến việc ra khơi.”

Cao Ngạn vội bảo đảm: “Điều này tất nhiên không phải là tào lao, dẫu ta gan to bằng trời cũng chỉ hạn chế ở cái gan háo sắc, còn ở những phương diện khác thì gan ta bé xíu rất thảm hại.”

Doãn Thanh Nhã hỏi: “Khi nào quân ta xuất phát?”.

Cao Ngạn nói: “Đi luôn bây giờ đấy, kính thỉnh Nhã nhi di giá đến Kỳ Binh hiệu.”

Doãn Thanh Nhã nhảy nhỏm lên, kêu: “Thế thì còn dềnh dàng ở đây làm gì nữa, họ không đợi chúng ta là khốn đó!”.

Cao Ngạn ung dung nói: “Nhã nhi đừng lo, ta với nàng là những người lên thuyền sau cùng, sẽ nhận được những tràng hoan hô reo hò của các chàng trai để dâng cao sĩ khí, đây là chủ ý của lão Trình và lão Thủ, không liên quan gì đến phu quân đâu.” 

Doãn Thanh Nhã túm lấy ngực áo gã, thét: “Ngươi nói gì?”.

Cao Ngạn tỏ vẻ ngây thơ vô tội, giơ tay nói: “Phu quân đã nói gì? Không nhớ, không nhớ!”.

Doãn Thanh Nhã vận kình nhấc bổng gã lên khỏi ghế tựa, khẽ lẳng tay, Cao Ngạn đứng không vững liền bị hất văng ra ngoài cửa.

Doãn Thanh Nhã đuổi theo sau, hầm hầm ra oai: “Dẫn đường cho ta mau, không thì coi chừng cái mạng nhỏ nhoi của ngươi đó.”

Cao Ngạn nhấc chân định bước, chợt kêu lên: “Mưu sát thân phu! Mưu sát thân phu này!”.

Doãn Thanh Nhã không kìm được, bật cười đuổi theo.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=65#ixzz1bzoJhKQ3

“Yến lang! Yến lang!”.

Yến Phi nhắm mắt lại, tinh thần từ hiện thực tựa như thủy triều ầm ầm rút về thế giới thuần chất tâm linh, tiếp nhận và hòa quyện với tâm linh của Kỷ Thiên Thiên, thân thể hai người tuy cách xa hằng trăm dặm, nhưng trái tim họ đã gắn bó hòa nhập làm một, hoàn toàn không giống như trạng thái Dương thần xuất mộng mà ra.

“Thiên Thiên! Chúng ta lại ở bên nhau rồi!”.

Tính yêu nồng nàn của Kỷ Thiên Thiên tràn đầy không gian tâm linh của chàng, ái tình nóng bỏng triệt để, không chút do dự hoài nghi, tâm linh hòa hợp của hai người không có chỗ cho những ảnh hưởng xấu không tránh khỏi của tình yêu nam nữ xen vào.

Yến lang à! Chàng đang ở đâu?

Yến Phi đáp lời: “Ta đang ở một nơi hẻo lánh trong khu vực Thái Hành sơn, người địa phương gọi là Vụ Hương, đang chờ đợi một trận chiến ác liệt sẽ xảy ra khi trời sáng”.

Kỷ Thiên Thiên thở dài nặng trĩu: “Thiên Thiên biết rõ rằng trong tình huống này chiến tranh không thể tránh khỏi, nhưng vẫn không nén nổi nỗi khủng khiếp trong lòng, mâu thuẫn nhất là không những Thiên Thiên lo lắng cho bên chàng, mà còn lo cho cả những người bên cạnh, vì sao ông trời lại đẩy Thiên Thiên vào hoàn cảnh này?”.

Yến Phi nói: “Thiên Thiên cần phải kiên cường hơn, dũng cảm đối mặt với mọi chuyện xảy ra, thời điểm quan trọng sắp xảy đến trong vòng tám đến mười ngày nữa. Chẳng phải nàng muốn tình yêu của đôi ta kéo dài vĩnh viễn sao? So với chuyện này khổ nạn của Thiên Thiên hết sức ngắn ngủi. Vì ta, vì Tiểu Thi, Thiên Thiên cần kiên cường hơn bất cứ thời khắc nào, sau đó chúng ta lại có nhau, vĩnh viễn không rời xa”.

Kỷ Thiên Thiên nói: “Yến lang đừng lo cho Thiên Thiên, không ai ngăn nổi đôi ta đoàn tụ, Thiên Thiên hoàn toàn tin ở Yến lang. Đêm qua Phong Nương nói rất kỳ quái, bà ta không đồng tình Mộ Dung Thùy đối xử như vậy với muội và Thi Thi, nói muội cần nghĩ đến khả năng xấu nhất, nhưng lại nói rằng chỉ cần Yến lang có thể thoát khỏi kiếp nạn, Thiên Thiên vẫn có một tương lai tươi đẹp, bà ta khiến muội rất bất an”.

Yến Phi nói: “Sở dĩ bà ta nói thế là vì cho rằng trận này bọn ta chắc chắn sẽ thảm bại. Bất quá nhận định của bà ta sẽ thay đổi sau buổi sớm ngày mai, bọn ta cũng đang nỗ lực vì điều này”.

Kỷ Thiên Thiên nói: “Nhưng vì sao muội vẫn có thể có tương lai tốt đẹp?”.

Yến Phi hơi trầm ngâm, đoạn đáp: “Theo ta suy đoán, Phong Nương đã hạ quyết tâm liều chết phóng thích hai người, trong tình cảnh hiện nay bà ta dù có tâm nhưng vô lực. Hoặc giả bà ấy biết được sắp xếp của Mộ Dung Thùy, ví dụ như để bọn muội ở lại sơn trại, hoặc là đưa hai người về Trung Sơn, như vậy Phong Nương có thể nghĩ ra biện pháp”.

Kỷ Thiên Thiên a lên một tiếng nói: “Yến lang bàng quan nên nhìn rõ hơn”.

Yến Phi thở dài: “Nhưng sau buổi sáng mai, cách nghĩ của Mộ Dung Thùy sẽ thay đổi. Phàm chuyện gì có lợi cũng có hại, cuộc chiến ngày mai nến chúng ta toàn thắng, Mộ Dung Thùy không cách gì ngăn cản Hoang nhân bọn ta tiến về phía bắc nữa, hắn sẽ thay đổi chủ ý, giữ Thiên Thiên và Tiểu Thi ở bên mình, không để hai người vuột khỏi tầm mắt”.

Kỷ Thiên Thiên thất vọng: “Vậy muội và Thi Thi phải làm sao?”.

Yến Phi đáp: “Tình thế chiến trường thiên biến vạn hóa, chúng ta cần nhẫn nại chờ thời cơ. Thiên Thiên gắng luôn ở bên Tiểu Thi, khi thời cơ đến, khổ nạn của hai người sẽ qua đi. Thiên Thiên nghỉ ngơi bồi dưỡng tinh thần, duy trì trạng thái tốt nhất. Ta phải đi đây”.

Kỷ Thiên Thiên khẽ hô: “Muội biết rồi! Yến lang trân trọng!”.

Yến Phi mở to mắt, khuôn mặt anh tuấn của Hướng Vũ Điền xuất hiện, ánh mắt kỳ dị lấp lánh chăm chú nhìn chàng.

Bốn phía sương mù giăng kín, cảnh vật ở ngoài mười bước tựa như bị màn sương nuốt chửng chỉ thấy lờ mờ.

Yến Phi hỏi: “Loại trừ được chướng ngại chưa?”.

Hướng Vũ Điền không đáp mà hỏi lại: “Yến huynh vừa rồi phải chăng đã đối thoại tâm linh với Kỷ Thiên Thiên?”.

Yến Phi hỏi: “Ngươi có cảm ứng thấy Thiên Thiên không?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Đó là chỗ kỳ quái nhất, ta không cảm giác được chút nào về nàng, chỉ cảm thấy tâm linh Yến huynh thoái lui về một nơi xa xôi không sao tới được, chỉ lưu lại thể xác trống rỗng, tựa như Yến huynh đã chết rồi”.

Y thở dài tiếp: “Ta thật hâm mộ ngươi, nói thực ta cũng muốn được nếm trải tư vị như vậy, thảm thay ta hiểu bản thân tuyệt đối không có phúc phận như vậy, số mệnh đã định ta suốt đời cô độc rồi”.

Yến Phi nói: “Hướng huynh bất tất phải hối tiếc, những gì ngươi có người thường mơ còn không được”.

Hướng Vũ Điền chuyển đề tài, hân hoan nói: “Lần này chúng ta chắc chắn sẽ thắng”.

Yến Phi ngạc nhiên: “Vì sao đột nhiên Hướng huynh khẳng định như thế?”.

Hướng Vũ Điền mỉm cười: “Bởi cho đến lúc tới hang này ta vẫn không hề phát giác bất kỳ chướng ngại hay cạm bẫy nào, rõ ràng Mộ Dung Long căn bản không nghĩ rằng nơi dấu quân bị phát hiện, vì vậy cũng không chuẩn bị phòng ngự, chỉ cần chúng ta tiếp được tín hiệu, từ trong sương mù xông ra đột kích, nhất định có thể trục xuất địch nhân ra khỏi Vụ Hương. Thế trận lần này hoàn toàn nghiêng về một phía”.

Hai mắt Yến Phi lộ vẻ kiên định, gật đầu: “Chỉ còn cách bình minh nửa canh giờ, chúng ta sẽ rất mau chóng có kết quả”.

Tiếp đó chúm môi phát ra tiếng chim hót, một trăm hảo thủ Hoang nhân nấp phía sau thận trọng tiến lên, lặng lẽ chiếm lĩnh vị trí công kích.

o0o

Trác Cuồng Sinh thở dài: “Cuối cũng cũng đến lúc!”.

Tiểu Kiệt và hơn chục huynh đệ từ hai bên đỉnh đồi giơ cao đuốc soi sáng chỗ đóng quân của bọn họ, để cho địch nhân mai phục ở chỗ kín nhìn rõ vị trí của họ.

Địa điểm bọn họ chọn lựa chính là chỗ thích hợp nhất để dựng trại trên ngọn đồi phía bắc, hai bên là dãy đồi cao hơn mười trượng kéo từ nam sang bắc giới hạn khu vực đồng cỏ và rừng thưa, một con suối từ đông bắc chảy đến uốn mình quanh bình nguyên ven đồi.

Không đợi sai bảo, các xe la chia thành hai đại đội chầm chậm tiến vào đồng hoang, thứ tự chia thành hai cánh, đội nọ cách đội kia khoảng trăm trượng.

Trác Cuồng Sinh quát lớn: “Anh em ta! Đến lúc làm chuyện lớn rồi”.

Các chiến sĩ từng nhóm một tới đúng chỗ đã được chỉ định, giống như đã được huấn luyện hàng trăm lần, đồng loạt xuống ngựa, tháo yên cương để ngựa tới uống nước suối nghỉ ngơi.

Chỉ còn đám lãnh tụ Trác Cuồng Sinh, Vương Trấn Ác, Hồng Tử Xuân, Cơ Biệt vẫn ở trên lưng ngựa chỉ huy đại cục.

Cơ Biệt nói: “Tuy biết là có sương mù, nhưng không nghĩ lại dày đặc thế này”.

Trác Cuồng Sinh cười: “Ở đây có sương mù mới đúng, quan trọng nhất là Vụ Hương không hổ danh là làng sương mù, sương giăng mờ mịt giơ tay không thấy rõ năm ngón. Ha!”.

Cơ Biệt nói: “Tâm tình Trác quán chủ lúc này quả thật khoan khoái”.

Trác Cuồng Sinh nói: “Sao có thể khó chịu được chớ? Ta lo nhất là hành quân quá chậm, không kịp đến đây trước khi trời sáng, giờ đây sớm được gần nửa canh giờ, đương nhiên là thấy rất thoải mái rồi”.

Vương Trấn Ác hét to: “Tháo la!”.

Hơn ngàn Hoang nhân đang chờ lệnh vội vã động thủ tách rời la và xe, lại dắt hết la tập trung ở hai bên dòng suối nhỏ.

Cơ Biệt đắc ý nói: “Coi ta biện pháp của ta tuyệt chưa? Đó gọi là Hoành xa trận, trong xe chứa đầy đất đá đảm bảo chịu được thiên binh vạn mã xung kích”.

Vương Trấn Ác chờ tháo la xong đâu đấy lại ra mệnh lệnh thứ hai: “Dỡ mui xe, cố định bánh xe!”.

Thủ hạ lập tức theo lời dùng những súc gỗ vuông chèn bánh xe chết cứng lại, đồng thời dỡ hết mui xe để lộ những bí ẩn bên trong.

Nguyên lai trong xe ngoài đá vụn thì phía hướng ra ngoài còn có những tấm da sống để chắn tên, xa trận sắp theo hình chữ nhất ở hai bên trở thành lá chắn bảo vệ người ngựa ở giữa, tạo nên một công trình phòng ngự vững chắc.

Vương Trấn Ác lại ra lệnh: “Đặt trống!”.

Các chiến sĩ mang mười cái trống đại từ trên xe tới xếp ở giữa.

Vương Trấn Ác quát to: “Bố trí ‘bán mã tác’! Ai về chỗ nấy!”.

Lần này toàn bộ hơn năm ngàn chiến sĩ đều tham gia hành động, mấy trăm người tiến về phía chân đồi rải hết lớp nọ tới lớp kia ‘bán mã tác’, những người còn lại tập hợp phía sau xa trận nắm trường cung giáo dài chờ ứng phó với lợi khí của kỵ binh địch, ai nấy đều phấn chấn mắt sáng ngời, mọi người đều biết thắng lợi đã nằm trong tay.

Hồng Tử Xuân ngẩng đầu nhìn trời nói: “Trời sắp sáng đến nơi, đến lúc ‘nổi lửa nấu cơm rồi’!”.

Mộ Dung Chiến và Đồ Phụng Tam quỳ trên đỉnh núi quan sát động tĩnh đại quân ở phía đông làm nhiệm vụ dụ địch, từ cách xa ba dặm bọn họ chỉ nhìn thấy ánh lửa lờ mờ.

Mộ Dung Chiến nói: “Sương trắng mênh mông thế này có lợi hay có hại đối với chúng ta?”.

Đồ Phụng Tam đáp: “Đương nhiên có lợi, ít nhất cho việc truy sát địch”.

Lại tiếp: “Ta rất lo bọn họ không đến kịp, bây giờ thì an tâm rồi”.

Mộ Dung Chiến nói: “Ta định hỏi ngươi một câu, hy vọng ngươi trả lời thành thực”.

Đồ Phụng Tam cười: “Gì mà nghiêm trọng thế? Được rồi! Ta đầu hàng, ở Kiến Khang ta đã gặp được người trong mộng, còn về chi tiết cụ thể xin chờ đánh xong trận này rồi sẽ bẩm lên”.

Mộ Dung Chiến mặt mũi hớn hở: “Thật bất ngờ, phải chúc mừng ngươi mới được!”.

Đồ Phụng Tam nói: “Chẳng những ngươi bất ngờ mà trước đó ta cũng không hề nghĩ đến, lại càng bất ngờ rằng vẫn có người khiến ta động tâm. Nhưng mọi chuyện xảy ra tựa như trời rung đất chuyển, tránh cũng không nổi, mà cũng không muốn tránh”.

Mộ Dung Chiến thở dài: “Nghe ngươi nói khiến ta không thể chờ đợi ngươi kể rõ mọi sự, có thể tiết lộ thêm chút ít không?”.

Lúc này một bóng người từ khu rừng hoang bên dưới vọt ra, chạy thẳng tới trước mặt hai người, thì ra là Diêu Mãnh.

Diêu Mãnh chạy vòng ra sau lưng hai người, quỳ thấp xuống nói: “Địch nhân trúng kế rồi, ở khu rừng cách trận địa phía tây của bọn lão Trác chừng một dặm thấy một đội kỵ binh địch mai phục, tuy không sao biết là bao nhiêu người, nhưng chắc chắn là hơn năm ngàn”.

Đồ Phụng Tam thở phào nói: “Lấy binh lực địch mà tính toán, phục binh ở phía tây hẳn phải có hai đội, mỗi đội có từ năm ngàn đến tám ngàn mới hợp lý. Nguyên nhân là địch nhân có ba vạn quân tất dốc hết ra kéo tới toàn lực tiến công”.

Mộ Dung Chiến gật đầu đồng ý: “Như vậy quân binh Long Thành giữ Vụ Hương hẳn không tới một ngàn, có khi chỉ vài trăm người, bọn Yến Phi chắc chắn đủ sức nuốt sống bọn chúng”.

Đồ Phụng Tam chăm chú nhìn về phía xa xa, nói: “Có tín hiệu rồi! Bọn lão Trác đã ‘nổi lửa nấu cơm’, rõ ràng đã bố trí xong trận địa phòng ngự vững chắc dựa vào xa trận”.

Mộ Dung Chiến nói: “Chúng ta về chuẩn bị thôi”.

o0o

Hoang nhân bày trận ở khu rừng thưa phía đông bắc cách chừng ba dặm, Thôi Hoành từ ngọn cây nhảy xuống nói với Đinh Tuyên: “Bên phía Trấn Ác huynh bắt đầu ‘đốt lửa thổi cơm’ rồi”.

Phía sau được chia thành hai đội, mỗi đội hai ngàn năm trăm chiến sĩ Thác Bạt tộc tinh nhuệ, ai nấy thể hình dũng mãnh, tinh thần hăng hái, lúc này mọi người đều tháo yên cho ngựa, bản thân ngồi dưới đất cùng ngựa nghỉ ngơi dưỡng sức chuẩn bị sống chết với địch nhân.

Bọn họ đều là chiến sĩ trong tộc tôn sùng Thác Bạt Khuê, trung thành tuyệt đối, mỗi người đều sẵn sàng hy sinh tính mệnh vì hưng suy của Thác Bạt tộc.

Thôi Hoành căn dặn Đinh Tuyên: “Nhớ kỹ! Đến loạt trống thứ hai chúng ta mới xuất kích, ngàn vạn chớ lầm lẫn”.

Đinh Tuyên đáp: “Ta sẽ không lầm”.

Thôi Hoành xoay người, trước tiên quét mắt nhìn đám thủ hạ, sau đó ra hiệu cho mọi người lắp yên ngựa.

Các chiến sĩ đồng loạt bật dậy như điện giật, lanh lẹ chộp yên ngựa trên mặt đất đặt lên lưng ngựa, không chút do dự, tựa như đang khao khát mong đợi thời khắc này.

Thôi Hoành rất kích động.

Các chiến sĩ có mặt ở đây chính là đội quân hắn vẫn mơ tưởng, tin rằng bọn họ sẽ kế tục Yên nhân trở thành đoàn quân vô địch tung hoành thiên hạ, còn Thác Bạt Khuê sẽ là vị bá chủ mới thống nhất bắc phương.

Đến thời khắc này, hắn nhận thức sâu sắc được tính chất quan trọng của việc Thác Bạt Khuê sai hắn chỉ huy năm ngàn lính tinh nhuệ này chi viện cho Biên Hoang kình lữ, nếu không dù Hoang nhân có thể thủ thắng thì binh lực cũng không đủ để tiêu diệt Long Thành quân đoàn với hơn ba vạn binh, như vậy so với thất bại chẳng khác gì nhau.

Sau khi tự hắn định ra mưu kế kết hợp với Hoang nhân, số mệnh toàn quân bị tiêu diệt của Long Thành quân đoàn coi như đã được chú định, khả năng đánh bại Mộ Dung Thùy cuối cùng đã xuất hiện.

Thôi Hoành nén kích động quay sang Đinh Tuyên vẫn đang chăm chú nhìn về phía chiến trường: “Khi địch nhân lộ dấu hiệu thất bại Hoang nhân sẽ khua hồi trống thứ hai, nhớ kỹ là khi tiếng trống kết thúc mới được tấn công, lúc này địch nhân ắt sẽ lùi về Vụ Hương, nhiệm vụ của ngươi là xung phong chia cắt đối phương làm hai khúc, cùng Hoang nhân từ trận địa xông ra giáp kích Yên quân, địch nhân chạy về Vụ Hương để ta xử lý”.

Đinh Tuyên xoay mình lại, trầm giọng đáp: “Tuân lệnh!”.

Lúc này các chiến sĩ đã hoàn thành việc lắp yên cương, đứng bên chiến mã chờ lệnh.

Thôi Hoành quát: “Lên ngựa!”.

Chiến sĩ ào ào nhảy lên ngựa.

Thôi Hoành và Đinh Tuyên cùng phóng lên mình ngựa, đồng thời quay đầu ngựa tiến về phía chiến trường.

Phía sau các chiến sĩ chia làm đôi, một cánh theo sau Đinh Tuyên chầm chậm tiến về phía chiến trường, cánh bên kia theo Thôi Hoành di chuyển về phía Vụ Hương.

Lúc này vùng trời phía đông đã xuất hiện ánh bình minh, một màn sương trắng bao trùm núi đồi hoang dã, thời khắc chiến tranh chung quy đã điểm.

o0o

Hướng Vũ Điền đang mày mò nghiên cứu hỏa khí trên tay cất tiếng hỏi: “Trong khi sương mù ẩm ướt thế này món đồ chơi này còn tác dụng không?”.

Yến Phi chăm chú nhìn doanh trại địch nhân ở năm mươi trượng bên dưới, nhưng dù là với mắt tinh như chàng thì cũng chỉ nhìn thấy trong khoảng hai mươi trượng thì tầm mắt đã bị sương mù dày đặc ngăn cách, nghe nói bèn trả lời: “Đây là Thần hỏa phi nha do Cơ đại thiếu gia đặc chế để ứng phó với tình huống ẩm ướt mùa xuân, có thể bay liệng hơn trăm trượng, khi đánh trúng mục tiêu hỏa dược bên trong sẽ nổ tung, dầu lửa sẽ bám vào lều trại và phòng ốc đối phương, bảo đảm có thể đốt cháy bất cứ thứ gì, chúng ta phải tin tưởng vào Cơ đại thiếu”.

Hướng Vũ Điền ngước nhìn trời thở dài: “Trời sáng rồi! Đêm qua dường như quá dài”.

Đoạn vỗ vào túi đeo lưng nói: “Ngoài Thần hỏa phi nha còn có mười quả độc yên hỏa lựu pháo, tuy nhiên xem ra trận này không có cơ hội dùng đến, giữ lại để dùng sau vậy”.

Thấy Yến Phi không trả lời liền hỏi: “Ngươi khẩn trương ư?”.

Yến Phi đáp: “Nói không khẩn trương là lừa ngươi. Bọn ta ở đây như cách tuyệt với nhân thế, chẳng biết gì tình huống bên ngoài Vụ Hương, cũng chẳng biết bọn lão Trác có đến kịp địa điểm bày trận cự địch hay không nữa, phải đến khi nghe hồi trống đầu tiên mới biết có thuận lợi hay không”.

Hướng Vũ Điền nói: “Ta rất đồng cảm với ngươi. Trước đây ta luôn độc lai độc vãng, mọi chuyện đều khống chế trong tay, biết rõ năng lực của mình. Nhưng chiến tranh lại là công việc mọi người cùng chung, chỉ cần một mặt phối hợp không được sẽ thành nguyên nhân thất bại, cảm giác này thật không dễ chịu đựng”.

Đột nhiên hai mắt sáng rực hỏi: “Ngươi nghe thấy không?”.

Yến Phi trầm giọng: “Địch nhân phát động rồi!”.

o0o

Xa xa loáng thoáng vọng tới tiếng chân của ngàn vạn con ngựa phi như bay.

Trời sáng dần.

Hoang nhân đứng bên hai dãy xa trận lặng lẽ chờ đợi.

Trác Cuồng Sinh hổn hển thở gấp mấy hơi nói với Hồng Tử Xuân bên cạnh: “Mùi vị chờ đợi thật khó chịu đựng, sợ nhất là địch nhân hôt nhiên phát giác có cạm bẫy là chúng ta toi đời”.

Hồng Tử Xuân nói: “Yên chí đi! Tình huống lão lo lắng có thể phát sinh bất cứ lúc nào trước khi trời sáng, nhưng tuyệt đối sẽ không xảy ra vào lúc này nữa. Đến bây giờ địch nhân vẫn không động tĩnh gì chứng tỏ đối phương đã rơi vào tròng của chúng ta. Có thể nhẫn nại hơn chút được không?”.

Cơ Biệt ở bên kia Hồng Tử Xuân đang mở to mắt nhìn dãy đồi phía tây, nhả ra một hơi thở dài nói: “Trái tim ta quả thật không đủ mạnh mẽ, từ lúc chúng ta bắt đầu ‘nổi lửa nấu cơm’ tim ta cứ đập thình thịch không yên, con người ta khẳng định không hợp để ra chiến trường, nếu quả có chọn lựa, ta sẽ bỏ ngũ”.

Trác Cuồng Sinh mắng: “Đừng có nói những lời bi quan nữa đi, vậy thì ngươi tới đây làm gì? Có ai bắt buộc ngươi đâu?”.

Cơ Biệt đáp: “Ta tới vì Thiên Thiên tiểu thư, vì nàng ta nguyện làm cả những việc không muốn làm. Thiên Thiên tiểu thư bị bắt đi là sỉ nhục lớn nhất của Hoang nhân bọn ta, chỉ có cứu nàng về chúng ta mới có thể hạnh phúc được”.

Hồng Tử Xuân cười: “Bây giờ Cơ đại thiếu hối hận rồi sao?”.

Cơ Biệt cười đáp: “Sao lại hối hận? Chưa bao giờ ta nghĩ bản thân sẽ không sống sót trở về Biên Hoang Tập”.

Trác Cuồng Sinh chợt giật mình: “Tới rồi!”.

Hai phía đông tây đồng thời vang rền tiếng vó ngựa.

Chủ trì chiến tuyến phía đông là Vương Trấn Ác hét lớn: “Mọi người chuẩn bị!”.

Năm ngàn chiến sĩ Hoang nhân trên trán đều chít khăn mang theo tiêu chí Dạ Oa Tử, chiến sĩ mang khiên phía sau xa trận nắm lấy khiên, tiếp đến là người mang binh khí dài, ba hàng tiễn thủ phía sau đều giương cung đặt tên sẵn sàng chờ đợi.

Cuộc chiến cả hai bên cùng mong đợi toàn diện triển khai.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=65#ixzz1bzoM4yUo

Long Thành quân đoàn quả nhiên không hổ danh vang lừng Tái bắc, trong làn sương mờ buổi sớm đã dùng thế lôi đình vạn quân, xuất hiện từ bốn phương tám hướng, tựa như cơn lốc xoáy tập kích thẳng vào trận địa của Hoang nhân.

Nếu Hoang nhân không phải đã có chuẩn bị từ trước, thêm vào xa trận có sức phòng ngự cực mạnh, nhất định bọn họ đã bị vó ngựa của địch nhân đạp nát, một manh giáp cũng không còn, hiện tại tình thế đương nhiên là khác hẳn.

Quân chủ lực của địch nhân chia làm bốn đội, mỗi đội năm ngàn người, theo hai hướng Đông Tây ào xuống đồi cực kỳ hung mãnh, tựa như sóng dữ đánh vào bờ, khiến người ta phải kinh sợ.

Còn hai đội quân khác mỗi đội ba ngàn người lần lượt từ phía nam và phía bắc của vùng đất bằng ở giữa Khâu Lăng điên cuồng xông tới tấn công hai bên sườn trận địa của Hoang nhân.

Vương Trấn Ác chỉ huy toàn cục thần sắc lãnh tĩnh, không hề bị uy thế của địch nhân làm lay chuyển, lạnh lùng quan sát nắm vững tình hình hư thật mạnh yếu của địch nhân.

Hàng kỵ binh đầu tiên của phe địch từ hai mé đông tây xông tới chợt ngã lăn ra, Hoang nhân cất tiếng reo hò chấn động đất trời, thì ra là dây Bán mã tác đã phát huy tác dụng.

Vị trí chăng dây đã được tính toán cẩn thận, vừa khéo nằm cách đáy dốc hai trượng, nhờ vào cây cỏ và sương mù che chắn, vốn là để khắc chế kỳ binh bất ngờ tấn công, địch nhân nghênh ngang không để ý thì lập tức trúng bẫy. Đám quân lính đi đầu người ngựa lăn tòm xuống dốc, khiến cho địch nhân khí thế đang hừng hực lập tức rối loạn, chỗ hay nhất chính là làm cho địch nhân bị lỡ đà, phía trước tuy người ngựa lổn ngổn nhưng vẫn không có cách nào dừng lại được, phía sau thì đồng bọn không ngừng dồn tới, tình huống đúng là tiến thoái lưỡng nan.

Vương Trấn Ác quát lớn: “Bày thuẫn!”.

Quân cầm khiên chia làm ba hàng đứng trước xa trận và lỗ trống ở hai cánh, hàng đầu tiên ngồi bệt xuống đất, hàng thứ hai quỳ ngồi, hàng cuối cùng đứng thẳng người, toàn bộ đều giơ cao khiên, tạo thành khiên trận kín kẽ không có chỗ hở, bảo hộ sáu hàng tiễn thủ đứng phía sau.

Địch nhân vượt đồi tấn công đến trận thế đại loạn, sau khi ổn định hàng ngũ thì hai cánh kỵ binh hai bên như lốc xoáy ập tới, trong lúc này, chỉ có hai đội kỵ binh của địch nhân có đủ năng lực để chuyển bại thành thắng.

Cách bố trí xa trận này là do Vương Trấn Ác dụng tâm thiết kế, cố ý khiến cho địch nhân sinh ảo tưởng là vẫn còn cơ hội, không vì gặp phải thất bại mà thối lui, cứ như vậy, địch nhân sẽ sa lầy vào khổ chiến, là chiến lược làm tiêu hao phần lớn sức lực của địch nhân.

Thật ra hai kẽ hở ở hai cánh nam bắc vừa hư vừa thật, cũng là nơi tập trung binh lực mạnh nhất của Hoang nhân, không cần lực lượng hai bên, năng lực phản kích rất lớn, quân cầm khiên tuy chỉ có ba hàng, nhưng loại khiên mà hàng đầu tiên sử dụng phía dưới còn có gắn tiêm trùy, có thể đâm thủng khiên nặng bằng sắc, đủ sức chống đỡ sức tấn công của kỵ binh địch, tiễn thủ xếp thành sáu hàng luân phiên bắn tên, địch kỵ rất khó mà tiến gần trong vòng năm mươi bước.

Vương Trấn Ác quát lớn: “Bắn tên!”.

Tên bắn phụt ra khỏi dây cung, làn mưa tên tàn nhẫn chụp xuống địch nhân, hàng tiễn thủ cuối cùng bắn xong thì hàng đầu lại giương cung bắn tiếp đợt tên thứ hai.

Kỵ binh địch ào ào ngã xuống.

Bọn kỵ binh từ trên đồi phi xuống lâm vào cảnh khó khăn, xa trận của Hoang nhân đã chặn ngang đường bọn chúng, phía sau thì đồng bọn không ngừng ùn ùn chen lấn, lại bị trận mưa tên bắn đến rát cả mặt, có thể tưởng tượng tình huống thảm khốc và hỗn loạn đến mức nào.

Tiếng tù và thu quân ở mặt đông vang lên.

Vương Trấn Ác biết Mộ Dung Long thấy tình thế không ổn nên ra lệnh lui quân, y nào dám do dự, cuồng bạo quát lớn: “Đánh trống!”.

“Tùng! Tùng! Tùng! Tùng!”.

Tiếng trống trận vang rền khắp ngọn đồi phía bắc.

Yến Phi và Hướng Vũ Điền nghe thấy tiếng trống thì lập tức tinh thần phấn chấn như trút bỏ được gánh nặng.

Theo kế hoạch, tiếng trống vang lên thì Mộ Dung Chiến và Đồ Phụng Tam dẫn đầu năm ngàn Hoang nhân lập tức hành động, cùng với Hoang nhân ở xa trận công kích địch nhân ở mé tây, khiến cho quân địch ở mé tây trận địa không thể hội hợp với đồng bọn ở mé đông, không có cách nào dập tắt vụ hương được.

Tiếng trống dồn dập gấp rút rồi đột nhiên dừng bặt.

Lúc tiếng trống dừng, chính là lúc bọn họ tấn công.

Hướng Vũ Điền giơ cao Thần hỏa phi nha (quạ lửa), mỉm cười: “Đến lúc rồi!”.

Yến Phi từ sớm đã đánh lửa, đến gần bốn mũi tên lửa, sau khi buộc dây dẫn hỏa dài khoảng một thước rồi châm lửa.

“Soẹt!”.

Thần hỏa phi nha từ tay Hướng Vũ Điền bay vọt lên, trong làn khói mịt mù bắn ra vệt lửa mỹ lệ, nhắm dưới triền phất cánh tung bay.

Một trăm huynh đệ hai người một tổ đồng thời y theo cách mà làm, năm chục con Thần hỏa phi nha xuyên qua làn khói đậm đặc, vẽ ra năm chục vệt sáng trong sương khói, như một bức đồ án không ngừng biến hóa, bao trùm tất cả, lại chất chứa sức phá hoại.

Chỉ cần một con quạ lửa trong số bắn trúng mục tiêu, đủ có thể khiến cho Vụ Hương chìm trong biển lửa, đến lúc khói lửa mịt mù trời đất, Mộ Dung Long chắc biết không còn đường lui, chỉ còn duy nhất một sinh lộ tháo chạy về phía bắc, khi đó bọn chúng sẽ đụng phải năm ngàn tinh nhuệ Thác Bạt của Thôi Hoành.

Yến Phi lớn tiếng ra lệnh, chúng nhân nhất tề hò reo, từ vách núi leo tr'o xuống, chém giết tới Vụ Hương.

Vương Trấn Ác chỉ nhìn hình thế bên địch là biết đối phương đã mất hết thanh thế, địch nhân hai bên theo bộ đội mặt đông như thủy triều chạy về phía phương hướng Vụ Hương.

Sau gò tây lại là tiếng chém giết rân trời, hiển thị bộ đội do Mộ Dung Chiến cùng Đồ Phụng Tam lãnh đạo đã y theo kế hoạch xuất kích khỏi chỗ ẩn mình, cắt chặn địch nhân muốn vòng qua Vụ Hương.

Vương Trấn Ác thấy cơ hội không thể bỏ mất, quát lớn: “Trống trận!”.

Tiếng trống trận đợt nhì lập tức vang vọng ầm ầm.

Đồng thời chiến sĩ Hoang nhân trong trận nhất tề hoan hô, hóa thủ thành công, lần lượt lên ngựa, một nửa do Trác Cuồng Sinh, Hồng Tử Xuân và Cơ Biệt dẫn dắt, xông ra khỏi xa trận vượt gò mà đi, giáp kích địch nhân mặt tây.

Nhất thời tiếng vó ngựa long trời, chiến sĩ Hoang nhân đạp trên thi thể nhân mã phe địch, triển khai phản kích toàn diện.

o0o

Thác Bạt Khuê và Sở Vô Hạ sóng vai phi lên gò bằng cao nhất Nguyệt Khâu, vùng bình dã mặt đông bát ngát lọt hết vào đáy mắt, Thái Hành Sơn xa tận chân trời tựa như đã trở thành chung kết của mặt đất.

Thác Bạt Khuê giơ roi ngựa chỉ đằng xa: “Đó là Liệp Lĩnh chỗ giấu quân của Mộ Dung Thùy, ta thật hy vọng có thể đứng bên cạnh y, nhìn phản ứng và vẻ mặt của y lúc y biết được bọn ta đã tiến quân đến Nguyệt Khâu.

Sở Vô Hạ hít một hơi trong lành, Tang Can hà từ hướng đông bắc rót về, chảy qua mặt bắc Nguyệt Khâu, đi về phía tây nam, hai bên bờ màu sắc xanh rờn, cảnh đẹp mặt đất hồi xuân, sinh cơ rừng rực.

Thác Bạt Khuê cảm thán: “Nếu để ta thọ thêm năm chục năm nữa, ta tất có thể nhất thống thiên hạ, cho dù phương Nam có Lưu Dụ quật khởi, trở thành tân triều chi chủ, vẫn không phải là đối thủ của Thác Bạt Khuê ta”.

Sở Vô Hạ không đáp lời.

Thác Bạt Khuê ngoái nhìn nàng, ngạc nhiên: “Vô Hạ tại sao không nói gì, không đồng ý với ta sao?”.

Sở Vô Hạ ôn nhu: “Tộc chủ đang hưng phấn, Vô Hạ nào dám phá hứng của tộc chủ, lại không muốn nói lời trái lòng, chỉ còn nước không nói”.

Thác Bạt Khuê hiển nhiên tâm tình cực tốt, không nghĩ ngỗ ngược chút nào, cười khà khà: “Vô Hạ cứ nói thẳng đừng ngại, ta tuyệt sẽ không vì lời nói thật lòng của nàng mà không còn cao hứng”.

Sở Vô Hạ nói: “Tôi chỉ hy vọng tộc chủ đừng khinh thị Lưu Dụ, gã đó quả là nhân kiệt, luôn luôn có thể sáng chế ra kỳ tích ở chốn cùng đường, người coi thường gã đều không có kết quả tốt”.

Thác Bạt Khuê cười thốt: “Vô Hạ có lẽ còn chưa biết ta đã từng kề vai tác chiến với Lưu Dụ, rất rành về gã, hiểu rõ tính cách và tài cán của gã hơn ai hết. Người khác có lẽ sẽ khinh thị gã mà phạm sai lầm, lại tuyệt không thể là Thác Bạt Khuê ta”.

Sở Vô Hạ ngạc nhiên: “Vậy tại sao tộc chủ đối với việc chinh phục phương Nam vẫn có lòng tin như vậy?”.

Thác Bạt Khuê ngửa nhìn bầu trời, thở phào một hơi hào tình tráng khí trong lòng, thản nhiên đáp: “Ta là nhìn thiên hạ đại thế, Bắc mạnh Nam yếu, từ xưa đã vậy, luận về nhân khẩu, nhân khẩu phương Bắc luôn nhiều hơn phương Nam. Cho nên Phù Kiên dốc sức khởi binh, có thể đạt tới trăm vạn binh hùng, còn Tạ Huyền chỉ có thể dùng tám vạn quân nghênh chiến ở Phì Thủy, do đó có thể thấy sự so bì nhân khẩu Nam Bắc”.

Sở Vô Hạ im lặng không nói gì, không có cách phản bác. Nhân khẩu là nhân tố trọng yếu nhất của kinh tế, nam canh tác, nữ thêu dệt, chính là hai cột trụ lớn của kinh tế. Thác Bạt Khuê từ mặt nhân khẩu nhiều ít đi so sánh mạnh yếu Nam Bắc là có lý.

Thác Bạt Khuê hiển nhiên rất có hứng đàm luận, nói tiếp: “Thứ đến là về mặt quân sự, bất kể là Thác Bạt Tiên Ti tộc bọn ta hay là Mộ Dung Tiên Ti tộc, ngay cả người Hồ Khương, người Đê và người Hung Nô, binh chủng đều dùng kỵ binh làm chính, sức chiến đấu mạnh, bất kể về sự tinh mật trong tổ chức, sự tinh nhuệ trên kỵ thuật, sự tinh minh về dò xét thám thính địch tình, đều hơn xa Hán nhân phương Nam, chỉ cần không có sai lầm của Phù Kiên, Hán nhân nào phải là đối thủ của bọn ta!”.

Sở Vô Hạ hỏi: “Vậy tại sao mãi cho đến ngày nay, Bắc phương vẫn chưa thể chinh phục được Nam phương?”.

Thác Bạt Khuê vui vẻ đáp: “Vô Hạ hỏi rất hay! Đây chính là vấn đề tay suy tư nhiều năm, chỉ có minh bạch nguyên nhân thất bại của tiền nhân, Thác Bạt Khuê ta mới có thể tránh phạm phải sai lầm đồng nhất, dẫn tới thất bại trong khi thành công đã với trong tầm tay”.

Sở Vô Hạ động dung: “Thì ra tộc chủ đã sớm đắn đo vấn đề về mặt này, không phải là nhất thời hứng khởi, nói lời hào tráng”.

Thác Bạt Khuê ngạo nghễ: “Thác Bạt Khuê ta sao giống được hạng cuồng vọng vô tri đó. Muốn chinh phục phương Nam, trước tiên phải thống nhất phương Bắc, nếu ta có thể đánh tan Mộ Dung Thùy trận này, ta có lòng tin nội trong hai chục năm sẽ dẹp yên chư hùng phương Bắc, lại cho ta thời gian ba chục năm nữa, phương Nam cũng phải thần phục dưới gót sắt của ta. Với thể phách hiện giờ của ta, sống tới bảy chục tuổi cũng không kỳ lạ gì, cho nên ta tuyệt không phải khẩu xuất cuồng ngôn, mà là căn cứ theo tình huống hiện thực mà suy đoán ra”.

Sở Vô Hạ không hiểu: “Tại sao chinh phục phương Nam cần tới ba chục năm?”.

Thác Bạt Khuê đáp: “Dùng vũ lực thống nhất phương Bắc không phải là chuyện khó, ta có lòng tin hết mình có thể làm được. Nhưng tiếp đó là làm sao để thống trị phương Bắc mới là chỗ khốn khó, nếu không ta chỉ là một Phù Kiên khác, chiến bại Phì Thủy, đế quốc lập tức tan tành, đây chính đã tỏ lộ Phù Kiên chưa giải quyết được vấn đề trị quốc”.

Sở Vô Hạ lòng hiếu kỳ nổi lên, nhịn không được hỏi: “Phù Kiên thật ra đã có vấn đề ở chỗ nào?”.

Thác Bạt Khuê thần sắc biến thành nghiêm trọng, chầm chậm thốt: “Nói cho cùng, bất kể là Thạch Lặc hay là Phù Kiên, đều bại ở chỗ chưa thể lo toan được quan hệ dân tộc. Vấn đề này dính líu tới hai mặt, đầu tiên là dùng một tộc đi thống trị nhiều dân tộc bao gồm cả Hán nhân lẫn Hồ nhân, sự dung hòa dân tộc nào phải chuyện một sớm một chiều có thể giải quyết được, vấn đề xảy ra khắp nơi đâu phải chỉ một”.

Ngưng một chút lại nói: “Thứ đến là thống nhất không thể từ huyết thống mà phải xem mức độ cao thấp của văn hóa, văn hóa càng cao thì càng biết hiểu thuật trị quốc, mà muốn thống nhất các tộc, cần phải trước hết thống nhất văn hóa, cứ như chỉ có quân lực lớn mạnh nhất mới có thể chinh phục bốn phương, trị quốc cũng như vậy, chỉ có văn hóa tối cao mới có năng lực duy trì quốc gia đi đến nhất thống”.

Sở Vô Hạ nói: “Lời này của tộc chủ thật khiến người ta sực tỉnh, nhưng Phù Kiên cũng không phải đã dốc sức thúc đẩy Hán hóa đó sao? Y lại vẫn thất bại cáo chung”.

Thác Bạt Khuê hân hoan thốt: “Lời nói của Vô Hạ xảo hợp đã hồi đáp vấn đề tại sao ta nghĩ cần ba chục năm mới có thể thu phục phương Nam. Thống nhất và dung hợp văn hóa không phải là chuyện đụng tới là được, Phù Kiên chính vì nôn nóng vội vàng đi tới, thời cơ còn chưa chín mùi đã xua quân Nam hạ, dẫn tới thất bại uổng phí công sức, Thác Bạt Khuê ta sao có thể lần theo lối mòn của y cho được?”.

Lại nói: “Ta sở dĩ chọn Lạc Dương làm quốc đô tương lai, chính là vì lợi ích cao xa thống nhất thiên hạ. Bởi Lạc Dương là trung tâm văn hóa Bắc phương ngoài Trường An, là cố đô của Đông Hán, Ngụy, Tấn, mà Hán nhân phương Bắc nhận miếu không nhận thần, hễ có ai có thể lập đô ở vùng núi Tung sông Lạc, người đó liền là sở tại của văn hóa chính thống”.

Sở Vô Hạ tâm phục: “Tộc chủ không những có chí thống nhất thiên hạ, còn có năng lực thống nhất thiên hạ, cho nên có đại kế hồng đồ như vậy”.

Thác Bạt Khuê ngoài nhìn xuống Nguyệt Khâu, gò đồi nhấp nhô trên bình nguyên đã có chiến sĩ phe mình hùng cứ, bảo vệ trấn thủ các địa điểm chiến lược, an doanh lập trại, công sự binh đã bắt đầu đào hào, hòng trong thời gian ngắn nhất kiến lập trận địa có sức phòng ngự vững mạnh.

Đội xe la không ngừng kéo đến từ Bình Thành, vận chuyển lương thảo vật tư trong Bình Thành, phong cảnh hoành tráng.

Thác Bạt Khuê thở dài thườn thượt: “Trận chiến giữa Mộ Dung Long với huynh đệ Yến Phi của ta chắc đã thắng bại phân minh rồi”.

Sở Vô Hạ lòng minh bạch Thác Bạt Khuê sở dĩ đột nhiên nói đến hồng đồ đại kế trong tương lai, chính là vì trong đầu y đang treo giắt thành bại của Hoang nhân, mà tưởng tượng tới tương lai chính là phương pháp giảm nhẹ ưu lo trong lòng. Thác Bạt Khuê quày ngựa: “Bọn ta về đi!”.

o0o

Chiến trường thi thể trải khắp nơi, làm cho người ta bất nhẫn không dám nhìn.

Trận chiến này Hoang nhân toàn thắng, giết cả hai vạn địch quân, bị thương chỉ có hai ngàn hơn, có thể thấy chiến huống kịch liệt tới cỡ nào.

Liên quân Hoang nhân và Thác Bạt tộc chết trận hơn ngàn, trọng thương chỉ mấy trăm, sô lượng tử thương so với địch nhân thật không đáng bì.

Bọn họ còn đoạt được số lượng lớn binh khí cung tên và lương thực của Long Thành quân đoàn, còn bắt được năm ngàn chiến mã, thành quả to tát.

Dưới sự chỉ huy của Thôi Hoành và Vương Trấn Ác, liên quân đang thu thập tàn cục chiến trận để lại, một mặt an táng tử sĩ, đồng thời trị liệu cho thương binh.

Bọn Yến Phi, Hướng Vũ Điền, Trác Cuồng Sinh, Hồng Tử Xuân, Cơ Biệt, Bàng Nghĩa đứng trên đồi cao, quan sát tình huống bốn bề.

Diêu Mãnh lúc này quất ngựa lên đến đỉnh đồi, ấn bàn đạp nhảy xuống ngựa, lớn tiếng: “Không thấy thi thể Mộ Dung Long, e rằng tiểu tử đó đã chạy thoát”.

Hồng Tử Xuân gật đầu: “Chắc đã chạy thoát, có người thấy hắn có mấy chục thân binh bảo vệ chạy về hướng bắc”.

Trác Cuồng Sinh vuốt râu: “Mộ Dung Long đem tin toàn quân bị diệt về cho cha hắn, cha hắn sẽ có phản ứng gì đây?”.

Cơ Biệt thở dài: “Chuyện đó có trời mới biết”.

Mọi người đều muốn cười, lại cười không nổi. Chiến tranh là ác sự tàn nhẫn xem ai bị thương nặng hơn, phe bại đã thê thảm, phe thắng cũng không tốt đẹp gì.

Diêu Mãnh nói: “Thôi bảo chủ kêu tôi đến hỏi các vị đại ca xử trí đám tù binh và thương binh làm sao?”.

Mọi người đưa mắt nhìn sang Yến Phi, xem quyết định của chàng.

Yến Phi không khỏi nghĩ tới thủ đoạn tàn nhẫn của Thác Bạt Khuê xử lý tù binh địch ở Tham Hợp pha, thầm thở dài một hơi: “Kẻ có thể đi đứng được, cứ để bọn họ đi, bọn ta cần phải đối đãi đàng hoàng đối với kẻ trọng thương phe địch”.

Trác Cuồng Sinh đề nghị: “Ngày mai đội xe lừa ngựa vận chuyển lương thảo vật tư của Hô Lôi Phương sẽ tới nơi, có thể để gã sau khi bỏ lương thảo, chở tất cả những tù binh bị thương nặng về Thôi gia bảo chữa trị, sau khi thuyên giảm thì thả cho bọn họ đi”. 

Cơ Biệt gật đầu: “Đó là biện pháp tốt nhất”.

Diêu Mãnh nhảy lên ngựa, lãnh mệnh ra đi.

Trác Cuồng Sinh nói: “Bọn ta phải đợi Hô Lôi Phương đến rồi mới có thể khởi hành, e phải lưu lại đây hai ngày, cũng có thể nghỉ ngơi cho khỏe, khôi phục lại nguyên khí”.

Cơ Biệt dõi nhìn bốn phía, cười khổ: “Thật không muốn ở lại địa phương quỷ sứ này”.

Mọi người đều đồng cảm.

Yến Phi thốt: “Ta phải đi trước một bước thông báo cho Thác Bạt Khuê, Hướng huynh có cùng đi với ta chứ?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Ngươi muốn bỏ rơi ta cũng đâu được”.

Trác Cuồng Sinh thốt: “Thật ghen tị với các ngươi, nói đi là đi, bỏ vũng bùn này cho bọn ta”.

Bàng Nghĩa nói: “Ngươi cũng có thể cùng lên được với bọn tiểu Phi mà, ai dám cản trở ngươi?”.

Trác Cuồng Sinh đáp: “Ta nào phải là kẻ không biết nghĩa khí giang hồ như vậy? Hơn nữa ta tự nhủ chạy không lại hai tên tiểu tử bọn họ, sợ làm chậm hành trình của bọn họ”.

Hồng Tử Xuân ngạc nhiên: “Thì ra ngươi đã biết tự lượng, cũng biết nghĩ cho người ta”.

Trác Cuồng Sinh thở dài: “Ta không có tâm tình nói chuyện cười với ngươi. Thật không hiểu mình tại sao trước đây ở Biên Hoang Tập đại chiến liên miên lại chưa từng có cảm giác chán ngán chiến tranh như giờ phút này? Thật cổ quái”.

Hướng Vũ Điền điềm đạm thốt: “Bởi chiến tranh ở Biên Hoang Tập trước đây đều là chiến đấu để bảo vệ Biên Hoang Tập, tính chất bất đồng với trận chiến hôm nay, mà chiến tranh chính là trò chơi xem ai có thể chịu đựng được. Ngủ ngon một đêm, cảm giác của ngươi ngày mai sẽ khác”.

Tiếp đó nói với Yến Phi: “Khởi hành đi!”.

Yến Phi thốt: “Tất cả y theo kế mà làm, cẩn thận coi chừng Mộ Dung Thùy phái người phục kích các ngươi, y là kẻ kiên cường, tuyệt sẽ không bị trận thua này dao động, mà trong tay y vẫn còn đủ thực lực có thể phản kích bọn ta”.

Nói xong cùng Hướng Vũ Điền phóng xuống triền đồi, lướt như bay đi.

- o O o -

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=65#ixzz1bzoOeUQa

Lưu Dụ tiếp lấy trà nóng Nhậm Thanh Thị dâng lên, nhấp hai ngụm, đặt lên tiểu kỷ bên cạnh.

Nhậm Thanh Thị từ từ quỳ xuống trước mặt gã, sau đó chui vào lòng gã, ôm chặt lấy hông gã, nói một cách mãn nguyện: “Không ngờ Lưu gia mau đến gặp thiếp thần như vậy, Thanh Thị thật rất vui mừng”.

Lưu Dụ nảy sinh cảm giác thư thái, từ mặt trời lên tới mặt trời lặn, gã bận bịu đến mù trời mịt đất, bị bức đi xử lý chiếu lệnh văn thư vô cùng vô tận, công tác nặng nề làm cho gã hít thở không nổi, nhưng lúc Nhậm Thanh Thị chui vào lòng, tất cả mọi phiền não liền quét sạch hết.

Gã biết rõ mình không những mê luyến nhục thể động hồn của ả, ỷ lại vào ả để nắm bắt tâm trạng và động tĩnh của cao môn Kiến Khang, còn sinh ra tình cảm với ả. Đã từng có một lúc gã khinh ghét oán hận ả, nhưng giờ phút này chỉ còn lại tình yêu nóng bỏng, đây là sự phát triển thuở ban đầu mới quen ả hoàn toàn không ngờ tới.

Mỗi lần ở chung với ả, gã gắng hết sức không nghĩ tới Giang Văn Thanh, theo hiệu lực kỳ diệu “kiểu Lý Thục Trang” mà Nhậm Thanh Thị không ngừng phát huy, cảm giác có lỗi vì gã che giấu Giang Văn Thanh mà đến cũng dần dần giảm bớt.

Gã càng lúc càng rõ, muốn đứng vững ở vị trí của gã, phàm chuyện gì có lợi cho gã cũng đều không thể cự tuyệt.

Nhậm Thanh Thị như con mèo ướt nằm phục trong lòng gã, dịu dàng thốt: “Thủ pháp Lưu gia ứng phó Tạ Hỗn cao minh vô cùng, hiện tại thế tộc Kiến Khang ai ai cũng coi trọng Lưu gia, biết Lưu gia xử sự đãi người rất có đường lối, cho dù có quan hệ đặc thù như Tạ Hỗn với Lưu gia, làm quá mức mà Lưu gia đã vạch ra, Lưu gia cũng không tha thứ cho hắn”.

Lưu Dụ kinh ngạc: “Tin tức không ngờ truyền bá mau như vậy sao?”.

Nhậm Thanh Thị đáp: “Long Thành quân đoàn là thông qua miệng Vương Hoằng phát lời cảnh cáo với cao môn Kiến Khang mà! Chỉ cần đầu tiên truyền bá trong hẻm Ô Y, chưa tới một ngày đã truyền khắp đáp cao môn Kiến Khang, huống hồ hiện tại không có ai không để ý kỹ tới Lưu gia, tin tức còn lan nhanh hơn trước nữa”.

Lưu Dụ hỏi: “Tạ Hỗn có phản ứng gì?”.

Nhậm Thanh Thị đáp: “Tạ Hỗn có phản ứng gì thì không ai biết, nhưng đợt sóng này chưa lặng lại tới đợt sóng khác, có một lời đồn gián tiếp quan hệ đến Lưu gia lại đã thoát ra”.

Lưu Dụ thất thanh: “Cái gì?”.

Nhậm Thanh Thị hỏi: “Tống đại ca có phải đã đi không?”.

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Nàng làm sao mà biết nhanh như vậy?”.

Nhậm Thanh Thị đáp: “Lời đồn chính là có liên quan đến Tống đại ca, nói Tống đại ca bất mãn với chuyện chàng làm, căm phẫn bỏ đi”.

Lưu Dụ đôi mắt sát cơ rừng rực, hằn học thốt: “Lại là tên tiểu tử Tạ Hỗn đó, hắn không phải chán sống rồi sao?”.

Nhậm Thanh Thị hỏi: “Lưu gia khẳng định là do Tạ Hỗn đồn đại?”.

Lưu Dụ đáp: “Ngoại trừ hắn ra, còn ai biết nữa? Cũng chỉ có hắn mới đi làm chuyện ngu xuẩn như vậy”.

Nhậm Thanh Thị thốt: “Hắn đang thăm dò Lưu gia”.

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Thăm dò ta?”.

Nhậm Thanh Thị giương đôi mắt đẹp, ngước đầu nhìn gã, dịu giọng: “Hắn đang thăm dò xem Lưu gia có phải làm theo lời nói không, nếu Lưu gia thoái rụt, hắn liền có thể vãn hồi thể diện, cũng có thể làm giảm uy phóng của Lưu gia”.

Tiếp đó lại nói: “Kiến Khang là chốn thị phi dễ tai bay vạ gió, tình huống kiểu này đặc biệt kịch liệt trong cao môn, người của cao môn đại tộc tầm nhìn hẹp hòi, chuyện xa bọn chúng nhìn không tới, thích nhất là châm chọt khuyết điểm của người ta trước mắt, rồi bịa đặt ra đến vô hạn. Tạ Hỗn tập nhiễm thứ phong khí bất lương đó, hiểu biết chơi loại thủ đoạn này nhất”.

Lưu Dụ xém chút đã phá miệng mắng lớn, may sao không dính dấp tới Vương Đạm Chân, cho nên vẫn có thể đè nén lửa giận trong lòng, trầm giọng: “Ta nên làm gì?”.

Nhậm Thanh Thị dựa cằm lên bộ ngực chắc nịch của gã, nghiêm chỉnh thốt: “Rất dễ! Trực tiếp đem Tạ Hỗn giải ra Thạch Đầu thành, bất chấp hắn giải thích thế nào, nói với hắn rằng hắn đã phạm vào sai lầm lần thứ nhì, nếu dám tái phạm, lập tức chém đầu hắn, xem hắn sao này còn dám gây tội với chàng không?”.

Lưu Dụ thừ người: “Nhưng ta làm sao mà đối diện với Đạo Uẩn phu nhân đây? Nếu bà ta vì chuyện này mà bệnh tình càng trầm trọng, Lưu Dụ ta chết vạn lần cũng không hết áy náy”.

Nhậm Thanh Thị thở dài: “Nếu chàng mềm lòng về chuyện này, nào khác gì hại Tạ Hỗn”.

Lưu Dụ cười khổ: “Chuyện Tạ Hỗn phạm phải lần này, nói lớn thì không lớn, nói nhỏ cũng không nhỏ, nhưng tựa hồ vẫn chưa đến mức đem hắn ra nghiêm khắc cảnh cáo”.

Nhậm Thanh Thị thốt: “Tạ Hỗn dám tản bá lời đồn, hiển nhiên là hắn không coi lời cảnh cáo Lưu gia thông qua Vương Hoằng phát ra ra gì. Thiếp thần biết Lưu gia không muốn giết hắn, không phải vì có hảo cảm gì đối với hắn, mà là vì niệm tình Tạ gia. Bất quá Lưu gia cũng phải nghĩ tới phòng lụt lội cần phải lo trước khi nước dâng, Lưu gia nếu có thể cho tiểu tử đó biết rõ tâm ý của Lưu gia sớm, tương lai không còn cần phải đối diện nan đề như vậy”.

Lưu Dụ trầm ngâm một hồi lâu, thở dài: “Ta thật làm không được. Sợ nhất là hắn không lâu sau lập tức phạm sai sót lần ba, ta sẽ không còn đường chọn lựa nữa”.

Nhậm Thanh Thị thốt: “Có lẽ là Tạ Hỗn nhất định muốn đi con đường đối lập với Lưu gia đó! Đừng nói tới hắn nữa! Thiếp thần muốn Lưu gia sủng ái thiếp thần, mọi sự khác không trọng yếu nữa”.

Lưu Dụ thầm thở dài một hơi, trong lòng gã biết lối nhìn của Nhậm Thanh Thị là đúng, khổ là gã thật không dám làm cho Tạ Đạo Uẩn bị kích động nữa, sợ bà chịu không nổi.

Gã có cần đi nói chuyện hòa hảo một lần với Tạ Hỗn không?

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=65#ixzz1bzoQgxph

Liệp Lĩnh. Hoàng hôn.

Chẳng biết như thế nào, bắt đầu từ sau giờ ngọ, Kỷ Thiên Thiên cứ cảm thấy bất an trong lòng, có phải Yến lang đã xảy ra chuyện gì hay không? Hận là thời gian không trôi qua thật nhanh, chỉ có khi đêm tối tĩnh mịch, nàng mới có thể ngưng tụ tâm lực liên lạc với Yến Phi.

Khi trời bắt đầu tối, sơn trại bắt đầu đốt đèn, Kỷ Thiên Thiên trong lòng nhẫn nại chờ đợi, không thể đề tỉnh bản thân mình phải bảo trì tấm lòng thanh tịnh bình hòa. Lúc này Phong Nương đến, thần sắc nghiêm trọng.

Tim của Kỷ Thiên Thiên đập mạnh lạ thường, cảm giác có sự bất thường.

Phong Nương nói: “Hoàng thượng đã trở lại, gọi tiểu thư đi gặp ngài, xin mời tiểu thư đi theo ta”.

Tiểu Thi hét lên một tiếng kinh hãi, Mộ Dung Thùy khẳng định là người làm nàng sợ hãi trên thế gian này.

Kỷ Thiên Thiên biết không có lựa chọn nào khác, an ủi Tiểu Thi vài câu, tìm mọi cách trấn an nàng, sau đó theo Phong Nương ra đi.

Từ lúc tới sơn trại tới giờ, nàng và Tiểu Thi bị cấm không cho bước ra khỏi cửa nửa bước, đây là lần đầu tiên họ bước chân trên con đường lót đá hai bên nhà cửa san sát.

Phong Nương đột nhiên bước chậm lại, Kỷ Thiên Thiên biết bà ta muốn nói gì đó với mình, liền vội đi tới bên cạnh.

Bốn phía toàn là Yên binh, ai ai cũng đều bận rộn chuẩn bị cho cuộc chiến, nhìn thấy Kỷ Thiên Thiên, bọn họ đều dừng tay, đưa mắt chào đón nàng, ánh mắt bọn họ thật khiến cho người ta khó chịu, tựa như dã thú đang nhìn con mồi, muốn nhanh chóng ăn tươi nuốt sống, vô cùng đáng sợ.

Phong Nương thở dài: “Ta có điểm lo lắng, hoàng thượng thần thái khác hẳn khi trước, tiểu thư nên chuẩn bị tâm lý, ngàn vạn lần đừng nên chọc giận ngài”.

Tim Kỷ Thiên Thiên như chìm xuống, thầm than hỏng rồi, nếu như giờ phút này Mộ Dung Thùy bỏ đi tác phong của một quân tử, thú tính bộc phát nàng biết ứng phó như thế nào đây?

Phong Nương tiếp tục: “Đại chiến gần kề, đặc biệt hiện giờ chưa có thể biết được thắng thua ra sao, con người ở trong trạng thái khác thường có thể làm những chuyện mà lúc bình thường họ không bao giờ làm, ta sợ hoàng thượng hiện đang ở trong tình huống đó”.

Kỷ Thiên Thiên trong lòng run lên, thật muốn lập tức kêu Yến Phi tới cứu nàng, nhưng nàng biết chàng đang ở cách xa trăm dặm, nước xa không thể cứu lửa gần, dù rằng chàng có đang ở gần, làm như thế có khác nào xông vào hang cọp cứu nàng, chỉ là hy sinh vô ích, mọi việc nàng chỉ đàng cố gắng một mình lo liệu mà thôi.

Nhưng nàng phải ứng phó với Mộ Dung Thùy như thế nào đây?

Từ lúc Yến Phi đả thông kinh mạch cho nàng tại Vinh Dương, còn truyền cho nàng vô thượng đạo pháp Bách Nhật Trúc Cơ, người ngoài không biết rằng chân khí nội công của nàng luôn âm thầm tăng trưởng. Chính diện giao đấu nàng đương nhiên không phải là đối thủ của Mộ Dung Thùy, nhưng bất ngờ tấn công không chừng có thể làm cho Mộ Dung Thùy bị thương nặng, nhưng hậu quả sau đó, nàng không thể đảm nhận được, với quan hệ giữa nàng và Mộ Dung Thùy, chắn chắn là không còn đường lui nữa.

Nếu làm như vậy, sẽ làm lộ ra tình hình thật sự, tương lai Yến Phi tới Yên doanh cứu nàng sẽ gặp phải tình huống bất lợi phi thường.

Làm thế nào ứng phó Mộ Dung Thùy, thật là khó nghĩ.

“Tiểu thư!”.

Tiếng kêu của Phong Nương cắt đứt luồng tư tưởng của Kỷ Thiên Thiên, lúc này rời khỏi cửa trại, tiến vào doanh địa chăng đầy lều trại ở phía tây sơn trại, dưới ánh sáng từ ngọn đuốc bập bùng, có thể thấy nơi này tràn đầy áp lực trầm trọng của chiến tranh có thể tùy lúc bùng nổ.

Chiến mã hí vang.

Kỷ Thiên Thiên liếc nhìn sang Phong Nương, Phong Nương lo lắng nhìn nàng, vẻ băn khoăn hiện rõ trong từng lời nói cử chỉ.

Nhưng Kỷ Thiên Thiên cũng có thể thấy Phong Nương quả thật bất lực, bà ta không thể làm gì hơn.

Kỷ Thiên Thiên chợt phát sinh cảm giác là mình đang rơi vào hang sói, nếu như Mộ Dung Thùy xé bỏ lớp ngụy trang, lộ ra bản tính sài lang, chẳng thể nào bảo đảm được sự an toàn của nàng nữa, nhưng nàng có phương pháp tự cứu, đó là tự sát để bảo tồn trinh tiết.

Tại giờ phút này, nàng đối với Mộ Dung Thùy không còn một chút thương xót, chỉ còn sự căm ghét thống hận.

Nhân thế này không phải là hư ảo và quá ngắn ngủi sao? Tất cả những chuyện xảy ra trong nhân thế, đều có đặc tính riêng. Bình thường có thể nghĩ như vậy, nhưng khi sự tình xảy ra trên chính bản thân mình, nàng lại không thể chấp nhận được, cũng không thể đặt mình lên trên nó rồi ung dung suy xét.

Trước mắt hiện ra một doanh trướng khác hẳn các lều trại khác, ở cách xa các lều trại khác hơn mười trường, thêm vào trang trí đặc biệt, có lính canh giữ nghiêm ngặt nói lên thân phận của chủ nhân.

Rốt cuộc đã đi tới soái trướng của Mộ Dung Thùy, nơi này rất có thể là nơi chấm dứt tánh mạng của nàng, nếu như nàng chết đi thì Thi Thi thế nào, Yến Phi sẽ như thế nào? Nhất thời Kỷ Thiên Thiên cảm thấy vô cùng mâu thuẫn.

Phong Nương dường như đã hạ quyết tâm, hạ giọng nói nhanh vào tai nàng: “Ta sẽ không rời khỏi nơi đây, nếu như có chuyện gì xảy ra, tiểu thư chỉ cần la lớn tiếng, ta sẽ liều chết xông vào ngăn cản”.

Kỷ Thiên Thiên bất đắc dĩ cười khổ, trong lòng cảm kích, nàng không biết đáp lại như thế nào.

Tên thủ lĩnh đám vệ sỹ giữ cửa cất giọng truyền: “Thiên Thiên tiểu thư đến”.

Vệ sỹ vén màn trướng.

Kỷ Thiên Thiên cắn răng, quay nhìn Phong Nương ra dấu cho bà ta yên tâm, sau đó bước vào trướng.

Màn trướng hạ xuống ngay khi nàng bước vào trong.

Trướng rộng ba trượng vuông, hai bên tường treo đèn bằng da dê chiếu sáng, khiến người ta có cảm giác thoải mái dễ chịu, trên mặt đất phủ đầy da dê, khi đặt chân lên đó có cảm giác mềm mại thư thái.

Mộ Dung Thùy ngồi ở giữa trướng, một chân để dưới đất, một chân co lên, trên người y tỏa ra khí thế bá chủ hùng hồn, lúc này y hai mắt tỏa sáng, hung ác nhìn Kỷ Thiên Thiên, khát vọng trong lòng y lộ ra không hề che giấu.

Kỷ Thiên Thiên hiểu được sự lo lắng của Phong Nương. Mộ Dung Thùy quả thật khác hẳn ngày thường, mục quan nóng bỏng chứng tỏ hắn đã mất đi sự nhẫn nại đối với nàng, mất đi năng lực tự chủ.

Mộ Dung Thùy là một bá chủ ngạo thị thiên hạ, thế mà không thể chinh phục được trái tim nàng, phải rút lui hết lần này đến lần khác, không hề dùng quyền lực áp bức nàng. Nhưng y đã muốn thứ gì thì tuyệt sẽ không hề lùi bước. Vào thời khắc khẩn trương trước cuộc chiến, tinh thần căng thẳng của y cần phải tìm chỗ để phát tiết, nàng chính là mục tiêu tốt nhất của y.

Sự việc tới nước này, Kỷ Thiên Thiên ngược lại lại trở nên bình tĩnh, hướng về phía hắn thi lễ vấn an như bình thường.

Mộ Dung Thùy trầm giọng: “Ngồi đi!”.

Kỷ Thiên Thiên yên lặng ngồi xuống, chẳng biết cứ nên đón lấy ánh mắt đáng sợ của y hay là cúi đầu né tránh, lựa chọn nào cũng ẩn chứa hung hiểm khó dò. Nàng nghĩ chuyện đã đến nước này, còn phải sợ gì nữa? Nhìn thẳng vào ánh mắt của hắn, nàng nhíu mày hỏi: “Hoàng thượng đang bận rộn trăm công nghìn việc vẫn triệu ta tới đây, chẳng biết là vì chuyện gì?”.

Mộ Dung Thùy thở dài, cười khổ: “Ta muốn gặp nàng cũng không được sao? Cần gì phải có ly do?”.

Kỷ Thiên Thiên cảm thấy an tâm, ít nhất Mộ Dung Thùy bằng lòng cho nàng cơ hội nói chuyện. Nàng bình tĩnh hỏi: “Hoàng thượng rõ ràng đã nắm chắc phần thắng trong tay, sao lại có vẻ tràn đầy tâm sự như vậy?”.

Mộ Dung Thùy lãnh đạm đáp: “Ta có thể không có tâm sự sao? Trừ phi Thiên Thiên chịu đáp ứng gả cho Mộ Dung Thùy ta, ta sẽ hết phiền não, tại nơi đây lập thệ: ta sẽ không phụ sự ưu ái của Thiên Thiên dành cho ta”.

Kỷ Thiên Thiên trong lòng thầm kêu cứu mạng, Mộ Dung Thùy giờ phút này đã đưa ra tối hậu thư cho nàng, không thuyết phục được bằng lời nói thì sẽ dùng võ lực. Nàng có thể trì hoãn, ví dụ như nói với y là đợi chiến tranh chấm dứt sẽ tính lại, hoặc để nàng trở về suy nghĩ cho chín chắn, nhưng đó chỉ là kế sách tạm thời, nàng không có cách nói ra khỏi miệng, không phải là nàng không muốn lừa gạt Mộ Dung Thùy, mà là có nguyên nhân quan trọng hơn, đó là Yến Phi. Nàng thật sự không có cách nói ra lời nói phản bội lại Yến Phi, dù là giả dối cũng không.

Kỷ Thiên Thiên cúi đầu: “Hoàng thượng biết rõ đáp án của ta rồi, từ ngày đầu tiên hoàng thượng bắt chủ tớ chúng ta từ Biên Hoang Tập, hoàng thượng đã biết rồi”.

Mặt Mộ Dung Thùy hiện ra thần sắc thất vọng, tiếp theo y hai mắt sáng quắc, trầm giọng: “Ta sẽ làm Thiên Thiên đổi ý”.

Kỷ Thiên Thiên thầm than trong bụng, thần sắc bình tĩnh ngẩng đầu nhìn lại Mộ Dung Thùy, nàng không phải chuẩn bị la lên, làm vậy chỉ hại chết Phong Nương mà thôi, nàng cũng không thể để cho nam nhân nào ngoài Yến Phi đụng đến thân thể nàng dù chỉ là trong giấc mộng. Hạ quyết tâm xong, nàng không còn ý nghĩ sợ hãi nữa, nói “Cần gì phải khổ như vậy? Hoàng thượng chỉ có thể được thân xác ta mà thôi”.

Hai mắt Mộ Dung Thùy lộ ra vẻ hung bạo, quát lên: “Làm gì có chuyện dễ dàng như vậy?”.

Kỷ Thiên Thiên biết y thẹn quá thành giận, đang chuẩn bị vận công đánh vỡ kinh mạch tự sát thì cửa trướng chợt mở toang, Phong Nương tiến vào như một làn khói, kêu lớn: “Hoàng thượng!”.

Mộ Dung Thùy đang muốn phóng mình sang ôm lấy Kỷ Thiên Thiên, thấy vậy giận dữ quát: “Phong Nương!”.

Phong Nương vẻ mặt nghiêm trang đứng giữa hai người, bên ngoài quân lính nghe được liền kéo vào, nhất thời trong trướng tình thế căng thẳng.

Mộ Dung Thùy xanh mặt, rõ ràng là giận dữ cực độ, dùng ánh mắt hung ác gườm gườm nhìn Phong Nương.

Kỷ Thiên Thiên thở dài: “Ta không có chuyện gì, Phong Nương trở về trước đi”.

Phong Nương làm như không nghe nàng nói, hướng Mộ Dung Thùy nói: “Hoàng thượng ngàn vạn lần nên tự trọng, đừng làm chuyện để rồi sau này sẽ hối hận suốt đời”.

Hai mắt Mộ Dung Thùy hiện ra sát khí trùng trùng.

Đúng lúc này bên ngoài có người lớn tiếng loan báo: “Liêu Tây Vương Mộ Dung Nông có chuyện khẩn cấp cần bẩm cáo phụ hoàng”.

Mộ Dung Thùy không vui: “Có chuyện gì cần cấp vậy, cứ nói đi”.

Mộ Dung Nông xuất hiện trước cửa trướng, quỳ xuống bẩm: “Xin thứ cho hài nhi vô lễ, Thác Bạt Khuê kéo quân từ Khuynh Sào tới Nhật Xuất Nguyên bố trận lập trại tại Nguyệt Khâu, hình như còn biết chúng ta giấu binh ở Liệp Lĩnh nữa, thỉnh phụ hoàng định đoạt”.

Mộ Dung Thùy biến sắc, thất thanh kêu lên: “Cái gì?”.

Mộ Dung Nông lặp lại một lần nữa.

Kỷ Thiên Thiêm cảm thấy nội tâm Mộ Dung Thùy đang sợ hãi, đó thuần túy là một loại trực giác, cũng là lần đầu tiên nàng phát hiện tâm trạng này trên người Mộ Dung Thùy.

Mộ Dung Thùy đã sợ hãi rồi, từ lúc sanh ra tới giờ đây là lần đầu tiên y cảm thấy sợ. Tại đây không ai hiểu được tâm sự của y bằng Kỷ Thiên Thiên, lòng tin tất thắng của Mộ Dung Thùy đang bị dao động, kế kỳ binh của y không thành công, ngược lại còn gây hại cho bản thân. Mộ Dung Thùy mất đi thế chủ động, giờ đang rơi vào thế hạ phong.

Mộ Dung Thùy rất nhanh lấy lại bình tĩnh, hai mắt hiện ra vẻ tinh minh, trầm giọng ra lệnh: “Phong Nương đưa Thiên Thiên tiểu thư trở về đi”.

Phong Nương có chút do dự, sau đó quay sang hướng Kỷ Thiên Thiên nói: “Tiểu thư! Chúng ta trở về đi!”.

o0o

Yến Phi và Hướng Điền Vũ ngồi xuống bên dòng suối, Hướng Vũ Điều vục mặt xuống dòng nước, thống khoái uống nước ừng ực.

Bằng vào công lực của hai người, không cần phải nghỉ ngơi giữa đường, chỉ là ngày hôm qua đã dùng một phần lớn nguyên khí đánh nhau với địch nhân, sau đó còn truy đuổi cả trăm dặm, cho nên bọn họ cảm thấy mệt nhọc.

Trong rừng tràn ngập sương mù, bóng đêm mông lung, trăng sao lúc mờ lúc tỏ.

Hướng Vũ Điền cất đầu lên, ngẩng nhìn bầu trời đêm: “Ngươi nhất định phải thuyết phục huynh đệ của ngươi, ta nhận thấy khiêu chiến Mộ Dung Thùy để quyết định số phận của chủ tỳ Thiên Thiên là kế duy nhất có thể thực hiện được”.

Yến Phi thở dài: “Ta quá hiểu rõ Thách Bạt Khuê, đối với hắn mà nói, chuyện tình nghĩa huynh đệ vĩnh viễn không thể quan trọng hơn việc hắn lập quốc xưng hùng, từ nhỏ hắn đã có tính tình này, không ai có thể thay đổi hắn được”.

Hướng Vũ Điền hỏi: “Khi Mộ Dung Thùy biết Thác Bạt Khuê tiến binh đến Nhật Xuất Nguyên, không biết hắn sẽ nghĩ thế nào?”.

Yến Phi đáp: “Hắn sẽ nghĩ rằng đại kế dùng kỳ binh đột kích đã tan thành mây khói, còn chúng ta chẳng những biết hắn giấu quân ở Liệp Lĩnh mà còn rất có khả năng biết được Long Thành binh đoàn mai phục ở Vụ Hương, vậy nên chỉ còn một sự lựa chọn duy nhất là phải chính diện giao phong với chúng ta”.

Hướng Vũ Điền suy tư nói: “Mộ Dung Thùy vẫn còn có một cơ hội chuyển bại thành thắng, là nhân lúc trận địa của Thác Bạt Khuê chưa ổn định, nhờ vào binh lực hùng mạnh tiêu diệt Thác Bạt Khuê, làm cho chúng ta và Thác Bạt Khuê không có cơ hội hội họp lại”.

Yến Phi phản đối: “Thác Bạt Khuê đã dám tiến quân vào Nhật Xuất Nguyên, tức đã sớm đoán được Mộ Dung Thùy có chiêu này, chắc có lòng tin ứng phó được”.

Hướng Vũ Điền gật đầu đồng ý: “Theo lý thì như thế!”.

Dứt lời ngã người ra phía sau, cười nói: “Nước suối trong ngọt phi thường, sao ngươi không uống một ít đi?”.

Yến Phi đi đến bờ suối, cúi người vốc nước lên uống: “Ngươi nói đúng! Mộ Dung Thùy rút đám bại quân của Long Thành quân đoàn đến Liệp Lĩnh trước, phát động công kích đến quân đội của Tiểu Khuê ở Nhật Xuất Nguyên, bởi vì khi đó lòng quân đã bị ảnh hưởng”.

Hướng Vũ Điền hỏi: “Huynh đệ của ngươi chống cự được không? Mộ Dung Thùy tại chiến trường chưa từng thua trận bao giờ”.

Yến Phi đáp: “Sự thật thì Tiểu Khuê từ khi xuất đạo tới nay cũng không hề bại trận, thông thường lấy ít thắng nhiều, hắn lợi dụng địa thế của Nguyệt Khâu, khiến Mộ Dung Thùy không thể sánh bằng”.

Hướng Vũ Điền nói: “Nếu huynh đệ của ngươi có thể chịu đựng qua chiến dịch này, tuy nói binh lực của Mộ Dung Thùy nhân số vẫn gấp mấy lần liên quân bọn ta, nhưng chỉ cần có bọn ta giữ vững Nguyệt Khâu, lương thực lại sung túc hơn Mộ Dung Thùy, tình thế bọn ta trông đợi sẽ xuất hiện. Ta vẫn nghĩ ép Mộ Dung Thùy quyết thắng bại một trận là kế duy nhất có thể làm”.

Yến Phi tiếp: “Mộ Dung Thùy dụng binh như thần, nếu như y biết không có cách công phá Nguyệt Khâu, sẽ chuyển toàn lực đối phó với Hoang nhân chúng ta, sẽ không bỏ qua dễ dàng như vậy đâu, chỉ có đến lúc y thúc thủ không còn cách, mới sẽ tiếp nhận vụ khiêu chiến”.

Chàng lại cười khổ: “Nếu quân của chúng ta có thể tránh cuộc công kích của Mộ Dung Thùy, đến Nguyệt Khâu, ngươi nói coi, nếu tình huống đó xảy ra, Mộ Dung Thùy vì đường vận lương quá dài, lương thực không vận chuyển kịp, sẽ sinh lòng muốn rút lui, lúc ấy Tiểu Khuê đã ở vào thế chắc chắn không bại, ngươi nghĩ Tiểu Khuê có chịu mạo hiểm vì ta hay không? Ta hiểu rõ hắn quá mà”.

Hướng Vũ Điền khuyên: “Ngươi có thể biểu diễn vài chiêu Tiểu Tam Hợp của ngươi cho Tiểu Khuê coi, cho hắn thấy rõ ràng ngươi chắc chắn có thể thắng được Mộ Dung Thùy”.

Yến Phi đáp: “Tiểu Khuê hoàn toàn không phải là người ngu xuẩn, hắn biết ta không thể xuống tay giết chết Mộ Dung Thùy, thứ chiêu số như Tiểu tam hợp không dùng được, có nhiều cố kỵ như vậy, rủi ro thất bại của ta sẽ tăng cao. Ngươi nghĩ xem, nếu như ta không phải một lòng muốn giết Mộ Dung Thùy, đối với Tiểu Khuê có lợi ích gì? Hắn sẽ không cùng ta xông vào nơi nguy hiểm đâu”.

Hướng Vũ Điền chợt nói: “Ta có đề nghị này, ngươi cứ thử xem sao, cho nên ta nói ngươi cần phải thuyết phục được huynh đệ của ngươi”.

Yến Phi cười khổ: “Thử nói lại tình hình coi”.

Hướng Vũ Điền mắt sáng rực chăm chăm nhìn chàng, mỉm cười: ”Tình huống bây giờ đã dần rõ rệt, chỉ chúng ta có thể hội họp hai cánh quân, dựa vào nơi hiểm để thủ, Mộ Dung Thùy chẳng những mất đi ưu thế vốn có, còn lâm vào tình trạng tiến thối lưỡng nan, mà trên sự thật Mộ Dung Thùy không làm khó được bọn ta, bọn ta cũng không làm khó được y. Chiến dịch Tham Hợp pha sẽ không diễn ra nữa, Mộ Dung Thùy càng không phải là Mộ Dung Bảo mà đem so, một khi Yên quân lui về Liệp Lĩnh, trận chiến này coi như chấm dứt. Dưới tình thế đó, lão ca ngươi sẽ trở thành nhân vật then chốt để đột phá cục diện giằng co. Nhận thức của ta về Thác Bạt Khuê đương nhiên không sâu sắc bằng ngươi, nhưng ta lại ngửi thấy khí vị ngoan cường trên mình y, người huynh đệ của ngươi tuyệt không phải hạng tầm thường, nói không chừng y chịu mạo hiểm một ván. Bỏ qua cơ hội này, sau này hươu chết về tay ai thật khó dự liệu”.

Yến Phi cười khổ không nói gì.

Hướng Vũ Điền tiếp: “Lời ta nói không phải là vô lý, mà là chính là muốn giúp ngươi vững tin hơn, sợ nhất là ngươi không dám đề xuất ý kiến này với hắn, ngay cả cơ hội duy nhất cũng mất đi. Ôi! Ta còn nghĩ đến một hậu quả đáng sợ hơn”.

Yến Phi trong lòng run lên: “Nói đi!”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Nếu lần này Mộ Dung Thùy quay về mà hao binh tổn tướng, khẳng định hận Hoang nhân các ngươi thấu xương, thẹn quá hóa giận, hắn đối với Kỷ Thiên Thiên chủ tỳ sẽ không chút khách khí, làm cho Hoang nhân các ngươi thương tâm, bọn ta dẫu hối hận ăn năn cũng đã muộn. Hà huống Kỷ Thiên Thiên đã trở thành biểu tượng vinh nhục của Hoang nhân, Mộ Dung Thùy và thủ hạ sẽ tập trung oán hận trong lòng trên người nàng, đến lúc đó Mộ Dung Thùy không giết Kỷ Thiên Thiên thì sẽ không làm tan nổi mối oán hờn của vợ con quân sĩ. Tuy rằng Mộ Dung Thùy ngàn vạn lần không muốn, nhưng nếu hắn muốn chiến sĩ tiếp tục bán mạng vì hắn, vì hắn chinh phạt Thác Bạt Khuê, chỉ có một lựa chọn là xử quyết chủ tớ Kỷ Thiên Thiên mà thôi”.

Yến Phi ngồi yên không nói gì, thật lâu sau hỏi: “Mộ Dung Thùy vì sao chịu cùng ta quyết đấu chứ?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Trước tiên, hắn không cho rằng ngươi có thể thắng hắn, kế đến, hắn cũng có thể thấy rằng ngươi không dám giết hắn, hắn có thể thoải mái tấn công còn ngươi có chỗ hiềm kỵ, cho nên hắn sẽ tăng thêm phần thắng. Điểm cuối cùng cũng là quan trọng nhất, điều đó sẽ trở thành cơ hội duy nhất để y đảo chuyển bại cục, như vậy thì kẻ kiêu hùng thiên hạ như Mộ Dung Thùy sẽ không bỏ qua đâu”.

Yến Phi thở dài: “Dưới tình huống như vậy, tà làm sao đánh bại hắn được?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Cho dù không dùng đến kỳ chiêu Tiểu tam hợp, bằng vào Âm Dương nhị thần hợp nhất của ngươi cũng thừa sức đánh bại hắn, chi tiết phải để ngươi vào cuộc mới nắm bắt được, ta thập phần tin tưởng ngươi có thể đắc thắng một cách đẹp mắt”.

Yến Phi hỏi: “Mộ Dung Thùy đánh cuộc mà không chịu thua thì sao?”.

Hướng Vũ Điền cười khổ: “Vậy thì ta và ngươi đều biến thành mấy tên điên, tất cả các Hoang nhân đều sẽ biến thành điên khùng, nhào tới đám quân Yên gặp ai giết đó, Mộ Dung Thùy chắc sẽ không ngu xuẩn vậy đâu”.

Yến Phi hít một hơi dài: “Ta sẽ tìm cơ hội nói chuyện với Tiểu Khuê vậy”.

Hướng Vũ Điền phản đối: “Không phải tìm cơ hội, mà là đến Nguyệt Khâu lập tức tỏ rõ chuyện này với Tiểu Khuê của ngươi, bọn ta có thể theo mục tiêu này mà điều chỉnh chiến lược, nếu Thác Bạt Khuê quyết cự tuyệt, bọn ta cần tìm biện pháp khác”.

Yến Phi vươn mình đứng dậy “Hiểu rồi! Tiếp tục lên đường thôi!”.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=66#ixzz1bzoUClCz

Tiến quân tới bình nguyên Nhật Xuất thật là mạo hiểm quân sự lớn nhất trong đời Thác Bạt Khuê.

Đến lúc Mộ Dung Thùy biết được y trú quân ở Nguyệt Khâu, sẽ đoán được Long Thành quân đoàn rủi nhiều may ít, bởi y đã biết Mộ Dung Thùy giấu quân ở Liệp Lĩnh, chắc tự có thể dò thám được nơi chốn của Lưu Dụ. Mà phương pháp duy nhất để Mộ Dung Thùy xoay chuyển cục diện là lợi dụng tin tức Long Thành quân đoàn bại trận còn chưa truyền tới, lòng quân còn chưa bị chấn động, mặt khác Thác Bạt Khuê y trận địa còn chưa ổn định, dùng binh lực áp đảo xuất kích từ Liệp Lĩnh, đánh tan y!

Thác Bạt Khuê đứng trên gò cao nhất của Nguyệt Khâu, trông nhìn dòng nước và bình dã dưới bầu trời đầy sao, mặt đất bao trùm một lớp sương mù, làm cho tầm nhìn cũng khó với xa.

Phong hiểm lớn nhất của trận này không phải ở chỗ đối phương người đông, bởi bên mình sĩ khí ngút trời, dựa vào ưu thế của đất gò dĩ dật đãi lao, có thể quân bình sự kém thế về mặt quân lực. Phong hiểm ở chỗ đối thủ là Mộ Dung Thùy.

Mãi cho đến nay, Mộ Dung Thùy vẫn là người Thác Bạt Khuê sợ nhất trong lòng, về binh pháp, Mộ Dung Thùy là thiên tài, dụng binh như thần, tướng sĩ đều chịu liều chết nghe lệnh y, cho nên mấy chục năm trời tung hoành phương Bắc, chưa từng có địch thủ.

Bất quá vụ mạo hiểm này hoàn toàn đáng giá.

Thác Bạt Khuê tính toán kỹ càng, chuyến này Mộ Dung Thùy hoang mang đến tấn công, chuẩn bị chưa đủ, khó mà duy trì được lâu, chỉ cần có thể kháng cự công kích mãnh liệt đợt đầu của Mộ Dung Thùy, thanh thế tất sẽ suy giảm, cuối cùng chỉ có một đường thoái lui.

Trận chiến này may mắn có thể giữ không để mất, sẽ tiêu trừ được sự sợ hãi của chiến sĩ phe mình đối với Mộ Dung Thùy, giúp cho thủ hạ cảm thấy mình có tư cách và bản lãnh đánh bại Mộ Dung Thùy.

Sở Vô Hạ bên cạnh hì hục hỏi: “Còn khoảng một canh giờ là trời sáng, tại sao vẫn chưa thấy bóng dáng địch nhân?”.

Thác Bạt Khuê ung dung đáp: “Mộ Dung Thùy đã đến!”.

Sở Vô Hạ liền khẩn trương hẳn, nhìn trái trông phải, hỏi: “Ở đâu?”.

Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Vô Hạ khẩn trương à?”.

Sở Vô Hạ cười khổ không nói, đối diện là Mộ Dung Thùy đại gia binh pháp đệ nhất Bắc phương, ai có thể không rùng mình phát lãnh?

Thác Bạt Khuê điềm đạm thốt: “Chiến dịch phục kích Hách Liên Bột Bột ở Hồ Thành trước đây, ta liền nghĩ ra kế dụ địch đến tấn công, tình huống hiện tại chính là tiến hành y theo ý tưởng của ta, Vô Hạ nên hưng phấn mới phải”.

Sở Vô Hạ không hiểu: “Lẽ nào lúc đó tộc chủ đã đoán được Mộ Dung Thùy phát binh đến Liệp Lĩnh?”.

Thác Bạt Khuê thầm nghĩ ta đâu phải thần tiên, đương nhiên đâu thể đoán Mộ Dung Thùy sẽ đến từ phương nào, bất quá lại biết có Kỷ Thiên Thiên thám tử thần kỳ đó, làm cho Mộ Dung Thùy khó mà thi triển kế kỳ binh nữa.

Vào lúc này, bốn phương tám hướng đồng thời vang lên tiếng vó ngựa, Mộ Dung Thùy cuối cùng đã đến, hơn nữa không chút do dự toàn lực tấn công.

Thác Bạt Khuê quát lớn: “Phóng hỏa tiễn!”.

Lính còi hiệu đợi lệnh sau lưng lập tức thổi vang lanh lảnh, phát ra mệnh lệnh của y.

Mấy trăm hỏa tiễn từ vòng ngoài Nguyệt Khâu bắn ra, mục tiêu không phải là địch nhân, mà là bốn bề xung quanh Nguyệt Khâu, hơn trăm đống củi khô tẩm ướt dầu hỏa chất cao như đồi liền phừng phừng ánh lửa, chiếu sáng vòng ngoài Nguyệt Khâu một dải đỏ bừng, còn Nguyệt Khâu lại tối đen như mực, không thấy chút ánh sáng nào.

Nhất thời địch ta phân minh, địch nhân đến công kích hoàn toàn bộc lộ trong ánh lửa, nhưng lại có muốn thoái cũng không biết làm sao.

Cho dù phi phóng đường xa đến tập kích, người Yên vẫn trận địa chỉnh tề, chia làm tám đội, trong đó hai đội mỗi đội ba ngàn quân, tấn công chính diện, mục đích chỉ là muốn kềm chế bọn họ.

Sát chiêu thật sự của Mộ Dung Thùy là vòng ra sau công kích, đập mạnh vào hậu phòng và hai bên cánh bọn họ, phát huy đến tận cùng ưu điểm xung kích chiến của kỵ binh.

Chỉ cần xem Mộ Dung Thùy đến không hơi không tiếng, trước chuyện không thấy chút xíu điềm báo, thình lình thanh thế hùng dũng phát động, uy thế kinh người, là biết Mộ Dung Thùy xuất sắc tới cỡ nào trong việc tổ chức đột tập.

Nếu Thác Bạt Khuê không sớm chuẩn bị, trận chiến này chỉ có bại chứ không có thắng, còn phải thua rất thê thảm.

Chiến hiệu lại vang lên, hàng hàng lớp lớp kình tiễn từ trận địa vòng ngoài Nguyệt Khâu bắn ra, địch kỵ từng hàng ngã quỵ, bụi đất bốc mù trời, hòa lẫn cùng sương đêm thành một thể.

Giờ phút đó, Thác Bạt Khuê biết rõ, sau khi trải qua đêm nay, Mộ Dung Thùy không còn là chiến thần trận nào cũng thắng nữa.

o0o

Lưu Dụ bước vào cửa viện Tạ gia, tùy tùng chỉ có bốn thân binh, bởi gã không muốn để ấn tượng gã thị uy với Tạ gia.

Tiếp đãi gã là Lương Định Đô, hắn đã thế vị trí trước đây của Tống Bi Phong trong Tạ gia, hơn nữa là người rất quen biết Lưu Dụ, nhưng với thân phận địa vị của Lưu Dụ hiện tại, Lương Định Đô thật không đủ tư cách bỏ qua lễ tiết.

Lưu Dụ lần này đến Tạ gia là muốn nói chuyện hòa hảo với Tạ Hỗn, hòa hoãn quan hệ khẩn trương giữa bọn họ, Tạ Hỗn nếu là kẻ thức thời, nên thân hành ra nghênh đón, vậy mọi sự sẽ tốt đẹp, nhưng tình huống trước mặt rõ ràng không phải vậy.

Lương Định Đô lùi ra sau một bước, thấp giọng: “Đại tiểu thư đang cung hầu đại nhân ở Vong Quan hiên, đại tiểu thư vì có bệnh, không thể thân hành ra cửa lớn nghênh đón, xin đại nhân thứ lỗi”.

Lưu Dụ hỏi: “Tôn thiếu gia đâu?”.

Lương Định Đô cười khổ: “Tôn thiếu gia ra ngoài còn chưa về”.

Lưu Dụ thở dài một hơi, thầm nghĩ mình đã khẳng định Tạ Hỗn có ở nhà mới đến hẻm Ô Y, tên tiểu tử này rõ ràng không muốn gặp mình.

Lương Định Đô thấp giọng: “Tôn thiếu gia biết đại nhân đến, đã lẻn đi từ cửa sau”.

Lưu Dụ ngạc nhiên nhìn Lương Định Đô.

Lương Định Đô tựa như đã hạ quyết tâm, cung kính: “Định Đô hy vọng có thể đi theo đại nhân”.

Lưu Dụ rùng mình, nghĩ tới câu nói cây ngã khỉ chạy đó, Tạ gia quả thật đại thế đã lìa, cả người trong phủ cũng có ý bỏ đi, Lương Định Đô tiết lộ chuyện của Tạ Hỗn chính là muốn biểu thị ý trung thành với mình. Lòng cảm khái, nhẹ nhàng thốt: “Hiện tại còn chưa phải lúc, đợi sau này hãy nói!”.

Lưu Dụ thật không nhẫn tâm cự tuyệt “lão bằng hữu” có thể coi là một nửa đệ tử của Tống Bi Phong.

Lương Định Đô lập tức tạ ơn liên miên, biểu thị cảm kích trong lòng.

Lúc này đã đến ngoài cửa Vong Quan hiên, nhìn đôi liễn “Cư quan vô quan quan chi sự, xử sự vô sự sự chi tâm” treo hai bên, trước đây có thấy một lần không có cảm nhận gì, mà đến giờ phút này gã mới thấu hiểu tâm cảnh năm xưa của Tạ An, đồng cảm với trải nghiệm của mình. So với sự tiêu sái lỗi lạc của Tạ An, gã tự thẹn mình không bằng, căn bản không phải là chất liệu như Tạ An.

“Đại nhân!”.

Lưu Dụ bị Lương Định Đô gọi tỉnh khỏi cơn mê đắm trầm tư, sau khi phân phó thủ hạ ở ngoài đợi, sải bước tiến vào Vong Quan hiên.

Cảnh huống trong hiên vẫn như xưa, nhưng Lưu Dụ luôn cảm thấy khác với quá khứ, có lẽ tâm cảnh của gã đã biến đổi, hoặc có lẽ là vì gã biết rõ tình trạng điêu linh của Tạ gia hiện tại.

Tạ Đạo Uẩn ngồi ngã người trên một cái ghế nằm, đắp mền mỏng, dung nhan tái nhợt, thấy Lưu Dụ vào, kêu khẽ: “Xin thứ cho ta không thể đứng dậy nghênh tiếp thi lễ với đại nhân, đại nhân xin đến bên tay, không cần câu nệ tục lễ”.

Lưu Dụ nảy sinh cảm giác không dám đối diện bà, thầm thở dài một hơi, dời đến bên cạnh bà, ngồi xuống cái ghế nhỏ bày sẵn cho gã.

Tiểu tỳ hầu hạ Tạ Đạo Uẩn thi lễ thoái ra ngoài hiên.

Tạ Đạo Uẩn hỏi: “Đại nhân có phải vì Tạ Hỗn mà đến không?”.

Lưu Dụ liền đáp: “Phu nhân xin gọi ta là Tiểu Dụ, ta cũng vĩnh viễn là Tiểu Dụ mà phu nhân quen biết”.

Tạ Đạo Uẩn lộ vẻ mặt cay đắng, mắt đầy nỗi ưu lo, tựa như đã hao phí rất nhiều khí lực mới có thể giữ cho đầu óc sáng suốt: “Ta sao lại không hiểu tâm ý của Tiểu Dụ, tiểu Hỗn vừa về đến là ngươi đến liền, chắc là muốn hóa giải cục diện khó chịu với tiểu Hỗn. Ài! Hiện tại tuổi trẻ có ý tưởng của tuổi trẻ, ta thân thể lại không khỏe....

Lưu Dụ đau lòng: “Phu nhân nghỉ ngơi cho khỏe, đừng vì chuyện của tiểu bối mà phiền não, có thể khang phục lại rất mau chóng”.

Tạ Đạo Uẩn bình tĩnh thốt: “Khang phục thì sao? Không phải là sống chịu thêm tội sao? Ta có thể cầm cự đến ngày nay, thấy mộng tưởng của Huyền đệ hoàn thành trong tay ngươi, ta đã cảm thấy ông trời đặc biệt khai ân với ta rồi”.

Lời nói và thần thái của bà câu dần hồi ứng thống khổ lúc Tạ Chung Tú chỉ còn vài hơi thở, nhiệt lệ nhịn không được, trào ra khóe mắt.

Tạ Đạo Uẩn mỉm cười: “Tiểu Dụ quả vẫn còn là Tiểu Dụ của ngày trước. Nói cho ta biết! Lời cảnh cáo chỉ cho phép tiểu Hỗ phạm lỗi ba lần đâu phải là ngươi nghĩ ra chứ?”.

Lưu Dụ dùng tay áo gạt nước mắt thành dòng trên má: “Đích xác là người khác nghĩ cách cho tôi, tôi có phải đã làm sai không? Tôi thật rất hối hận, lời cảnh cáo tựa như không có chút tác dụng đối với Tôn thiếu gia”.

Tạ Đạo Uẩn khe khẽ thốt: “Chuyện đó làm sao nói đúng sai được? Người đều đã chết rồi! Ta thật không muốn nói tới y, nhưng muốn trách thì nên trách Tiểu Diễm, sự gàn bướng cứng đầu cứng cổ của y không những đã hại mình, còn suýt nữ liên lụy tới ngươi, đó là chuyện An công cũng liệu không được. May là Tiểu Dụ ngươi có hồi thiên chi thuật, nếu không tình hình không dám tưởng tượng, tình huống trước mắt có được không phải dễ, Tiểu Dụ ngươi phải trân quý”.

Lưu Dụ thành khẩn: “Tiểu Dụ sẽ ghi nhớ lời giáo huấn của phu nhân”.

Tạ Đạo Uẩn hỏi: “Tình huống Hoàn Huyền thế nào?”.

Lưu Dụ đáp: “Tiểu Dụ chuyến này đến bái phỏng phu nhân, chính là muốn từ giã phu nhân. Hiện tại tôi đang chờ tin tức tiền tuyến, một khi tin vui báo về, tôi cần lập tức khởi trình ra tiền tuyến, chỉ huy chiến sự công đả Giang Lăng”.

Tạ Đạo Uẩn nói: “Ta biết Tiểu Dụ bận bịu đủ chuyện, không cần đợi tiểu Hỗn nữa, hắn đại khái sẽ không về trước canh một. Ài! Ta không dạy được hắn”.

Lưu Dụ thầm thở dài, Tạ Hỗn đã bỏ lỡ cơ hội cuối cùng hóa giải hiềm khích với gã, mà Tạ Đạo Uẩn cũng không còn được bao nhiêu ngày, một khi Tạ Đạo Uẩn buông tay ra đi, giữa gã và Tạ Hỗn không còn ngăn ngừa gì nữa, sự phát triển của tình hình không còn chịu bất cứ một ai khống chế nữa.

Tạ Đạo Uẩn mệt mỏi nhắm mắt lại.

Lưu Dụ thấp giọng: “Phu nhân nghỉ ngơi cho khỏe, đợi sau khi tôi tru trừ Hoàn Huyền xong, sẽ lại đến thỉnh an phu nhân”.

Tiếp đó thoái lùi ba bước, quỳ xuống “bộp” một tiếng, cung cung kính kính khấu đầu lạy ba lạy, ngậm lệ ra đi.

Đồng thời trong lòng gã nảy sinh dự cảm bất tường, đây có lẽ là lần cuối cùng gã gặp mặt Tạ Đạo Uẩn.

o0o

Đến hoàng hôn, Yến Phi và Hướng Vũ Điền đã đến Nhật Xuất nguyên, nhìn thấy Nguyệt Khâu vẫn tung bay tinh kỳ của Thác Bạt Khuê, mới đỡ được gánh nặng trong đầu.

Đêm hôm qua hiển nhiên đã có một cuộc quyết chiến kịch liệt, phóng tầm mắt đâu đâu cũng không ít thi thể người ngựa, công sự binh đang thu thập tàn cục, đào huyệt chôn xác.

Công sự phòng ngự vòng ngoài tiến hành bố trí kỹ càng, bắt mắt nhất là tuyến đông Nguyệt Khâu, đào một hào sâu hình bán nguyệt chìa ra ngoài dài khoảng hai dặm, sâu cả trượng, rộng một trượng rưỡi, đống đất bản thân đã cao tới nửa trượng, thêm vào sức phòng ngự của hào sâu.

Hai người phóng thẳng tới doanh trại, các chiến sĩ nhận ra Yến Phi, lập tức xáo động, hò reo vang trời, lan khắp khu gò cao.

Thúc Tôn Phổ Lạc đang điều động khu vực này nghe tiếng chạy tới, nhìn thấy Yến Phi từ đằng xa, quát lớn: “Yến gia có phải mang tin tốt về không?”.

Yến Phi dùng tiếng Tiên Ti đáp lời: “May không nhục mệnh! Long Thành quân đoàn không còn tồn t.ai nữa”.

Lời nói của chàng liền gây nên một tràng tiếng hoan hô hò reo thấu trời, đám chiến sĩ chạy đi truyền tin.

Thúc Tôn Phổ Lạc mừng như điên, nhảy xuống ngựa, dẫn hai người lướt như bay trên gò đến soái trướng.

Dọc đường Hướng Vũ Điền để ý đến sự phân bố doanh trướng, không khỏi thầm khen ngợi, cách sắp xếp doanh trại so với cha con Mộ Dung Thùy và Mộ Dung Long, Thác Bạt Khuê không kém chút nào, theo hoàn cảnh đặc thủ của Nguyệt Khâu, chia ra trong doanh có doanh, doanh nào cũng bảo vệ lẫn nhau, tiện nghi linh hoạt, liên hệ sát nhau, có thể ứng phó bất kỳ công kích phía nào.

Thời Tam Quốc, Thục vương Lư Bị dốc hết toàn lực công đả Tôn Ngô, đem doanh trướng bố trí thành một tuyến dài bảy tám trăm dặm, bị đại tướng Tôn Ngô Lục Tốn nhắm đúng nhược điểm, sai thủ hạ dùng hỏa công, tấn công một điểm, Thục quân lập tức tan rã, trở thành cố sự “hỏa thiêu liên doanh tám trăm dặm” lưu truyền thiên cổ. Cho nên có thể thấy tính trọng yếu của việc lập doanh, có thể quan hệ đến thành bại của chiến tranh.

Lên đến đỉnh gò, soái trướng rộng lớn xuất hiện trước mắt, dài gần ba trăm bước, rột hơn trăm bước ở trung ương vùng cao, xung quanh cắm cờ xí đủ màu, đại diện cho các quân đoàn khác nhau, bất kể từ hướng nào nhìn lên đỉnh gò, cũng đều có thể thấy tinh kỳ tung bay theo gió.

Thác Bạt Khuê đang ngồi ngoài cửa trướng, Sở Vô Hạ đang băng bó vết thương trên cánh tay trái của y, bên kia là Trưởng tôn Tung, tựa như vừa mới bẩm báo chuyện trong quân.

Thân binh canh phòng soái trướng bốn bề.

Mục quang của Thác Bạt Khuê như hai mũi tên bắn về phía bọn họ, tiếp đó lộ ra một nụ cười xán lạn, có cảm giác như nụ cười của y phọt ra từ trong lòng.

Tịch dương hạ xuống núi Tây, phát ra muôn vạn ánh hoàng hôn, chiếu rọi Bình Thành đã trở thành một điểm đen nhỏ, hiển lộ khí tượng ngoạn mục nơi soái trướng, Thác Bạt Khuê càng có khí thế hớp hồn không gì so sánh được.

Thác Bạt Khuê vụt đứng dậy, lắc đầu thở dài: “Các ngươi cuối cùng đã đến! Ta đã đợi lâu lắm rồi!”.

Trưởng tôn Tung và Sở Vô Hạ liền đứng dậy theo y, Sở Vô Hạ có hơi bẽn lẽn thi lễ với bọn họ.

Hướng Vũ Điền đứng yên, ngầm xô Yến Phi một cái.

Lúc này Thác Bạt Khuê cất bước đi về phía bọn họ, mục quang bắn kỳ quang, vừa đi vừa nói: “Tiểu Phi chắc rõ hơn ai hết, ta từ lúc biết hiểu đến giờ, luôn luôn trông đợi giờ phút này đến, cuối cùng đã trông đợi được rồi”.

Yến Phi đến đón, cười nói: “Ta lên đường đến đây, dọc đường cứ lo có còn có thể nhìn thấy soái kỳ của ngươi tung bay trên bình nguyên Nhật xuất không, hiện tại yên tâm rồi”.

Hai người nhất tề hoan hô, ôm nhau chặt cứng.

Hướng Vũ Điền dẫn đầu hú lên, mọi người liền hòa ứng, lập tức câu dắt tiếng hoan hô từ bốn phương tám hướng dưới đỉnh gò truyền vọng, sĩ khí vọt thẳng lên trời cao.

Thác Bạt Khuê tách rời Yến Phi chút ít, đôi mắt lấp loáng: “Tiểu Phi ngươi nói cho ta biết, có phải Long Thành quân đoàn đã tan tành không?”.

Yến Phi cười đáp: “Nếu không phải vậy, ngươi làm sao gặp được bọn ta?”.

Chúng thân binh lại hò reo hoan hô.

Thác Bạt Khuê thỏa dạ buông Yến Phi, đến ôm Hướng Vũ Điền đứng bên cạnh bọn họ, vui vẻ thốt: “Ngươi đã là huynh đệ của Tiểu Phi, cũng là huynh đệ của Thác Bạt Khuê ta, một ngày là huynh đệ, vĩnh viễn là huynh đệ”.

Hướng Vũ Điền hỏi: “Đêm hôm qua Mộ Dung Thùy có phải đã chịu thiệt không?”.

Thác Bạt Khuê buông Hướng Vũ Điền, mỉm cười đáp: “Có lẽ có thể nói như vậy. Đêm hôm qua trước khi trời sáng, Mộ Dung Thùy dẫn quân đến tấn công, ta tuy đã sớm có chuẩn bị, vẫn ứng phó cật lực phi thường. Thẳng thắn mà nói, Mộ Dung Thùy quả không hổ danh đại gia binh pháp đệ nhất Bắc phương, chiến pháp làm cho người ta phải tán thán học theo, cứ như từng đợt từng đợt sóng dữ ùa tới, nội trong hơn một canh giờ không ngừng xung kích khu doanh trại của bọn ta, bên này thoái thì bên kia tiến, làm cho bọn ta không có thời gian hít thở. Có một lúc ta còn nghĩ không còn giữ được nữa, kinh hiểm nhất là Mộ Dung Thùy đích thân dẫn quân, đột phá cánh phải của bọn ta, công nhập vào trận địa, may sau cuối cùng bị ta cứng rắn đuổi ra, vết thương nơi tay trái ta là bị Bắc Bá thương của y quét tặng”.

Yến Phi và Hướng Vũ Điền đưa mắt nhìn nhau, đều không ngờ trận chiến đêm qua kịch liệt hung hiểm như vậy.

Yến Phi hỏi: “Thương vong thế nào?”.

Thác Bạt Khuê đáp: “Bên ta chết hơn tám trăm, bị thương gần hai ngàn, bất quá Mộ Dung Thùy còn thảm hơn ta, tử thương cũng năm ngàn mạng, ta dám khẳng định vài ngày tới đây bọn ta không cần lo về y nữa”.

Nói xong nắm cánh tay hai người đi tới soái trướng, trước hết giới thiệu Trưởng tôn Tung và Sở Vô Hạ cho Hướng Vũ Điền biết, tiếp đó nói: “Vô Hạ mau xin lỗi hỏi thăm Tiểu Phi đi, vị huynh đệ này của ta là người lòng dạ rộng rãi, không tính toán chuyện xưa với nàng đâu”.

Sở Vô Hạ nhún mình thi lễ: “Yến gia đại nhân đại lượng, xin thứ cho tội bất kính của Vô Hạ trước đây”.

Yến Phi còn nói gì được nữa, chỉ còn nước hồi lễ với nàng.

Hướng Vũ Điền chợt vươn vai lười biếng: “Ta muốn tìm một chỗ nghỉ ngơi, tộc chủ và Yến huynh có thể chuyện trò thoải mái với nhau”.

Yến Phi lập tức tê tái, biết Hướng Vũ Điền ám thị cho chàng làm tới, nói ra yêu cầu với Thác Bạt Khuê.

Thác Bạt Khuê như cảm thấy được tâm ý của Hướng Vũ Điền, ngạc nhiên nhìn sang Yến Phi: “Tiểu Phi có phải có chuyện muốn nói với ta?”.

Yến Phi cười khổ: “Chính là như vậy!”.

Thác Bạt Khuê vui vẻ thốt: “Hướng huynh xin vào tệ trướng nghỉ ngơi”. Lại nói với Sở Vô Hạ: “Để nàng phụ trách chiêu đãi Hướng huynh”.

Hướng Vũ Điền không chút khách khí, vỗ vai Yến Phi, để Sở Vô Hạ dẫn vào soái trướng.

Thác Bạt Khuê cười nói: “Bên Tang Can hà có một chỗ gọi là ‘Tiên Nhân Thạch’, cảnh trí cực đẹp, bọn ta đến đó được chứ?”.

Yến Phi gật đầu đồng ý.

Thác Bạt Khuê ngẩng nhìn trời, thở dài: “Đêm nay sẽ là một đêm tinh quang xán lạn. Ngựa đâu!”.

Thân binh liền dắt hai thớt tuấn mã tới.

Thác Bạt Khuê thốt: “Không ai cần đi theo, có huynh đệ Yến Phi của ta bên cạnh, bất cứ tình huống nào bọn ta cũng có thể thong thả ứng phó”.

Nói xong cùng Yến Phi đạp bàn đạp lên ngựa, phi xuống triền bắc của Nguyệt Khâu, đi tới đâu cũng nghe tiếng hò reo vang vọng mây ngàn.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=66#ixzz1bzoWfAZN

Lưu Dụ vừa từ hẻm Ô Y quẹo vào Ngự đạo, Khoái Ân dẫn mười mấy kỵ binh phóng tới, hân hoan như điên từ đằng xa rướn cổ: “Đánh thắng rồi! Đánh thắng rồi!”.

Lưu Dụ toàn thân dâng hiện cảm giác tê tái vì hưng phấn, chân lông dựng đứng hết, ghìm cương giữa đường.

Khoái Ân giục ngựa đến trước đầu ngựa gã, nhảy vội xuống ngựa, phục xuống bẩm cáo: “Tin đại hỉ tiếp được từ tiền tuyến, quả như sở liệu của đại nhân, địch nhân ở Bồn Khẩu dưới sự chỉ huy của đại tướng Hà Đạm đã dốc hết sào huyệt nhào ra, dùng một trăm hai chục chiến thuyền lén đánh Tang Lạc châu, bị quân ta và Lưỡng Hồ quân chiến thuyền tổng cộng một trăm chín chục chiến đánh tan trên Đại Giang, toàn quân bị diệt. Quân ta thừa thế tấn công Bồn Khẩu, chiếm lĩnh Tầm Dương, cho nên đặc phái người đến báo”.

Lại nói: “Bài vị tế miếu đều tìm được ở Tầm Dương, hiện đang dùng thuyền chở về kinh”.

Lưu Dụ cảm thấy chóng mặt, không phải là vì thân thể mệt mỏi, mà là quá kích động. Từ sau khi tiến vào Kiến Khang, gã luôn luôn khổ não chờ đợi giờ khắc này, từng nghĩ tới đích thân ra tiền tuyến, lại bỏ đi ý định đó dưới sự khuyên can hết mức của Lưu Mục Chi, vì vậy mà lo được lo mất, hiện giờ nhận được tin chiến thắng, trời đất âm u biến mất hết, khoái trá trong lòng, thật khó tả được.

Trận quyết chiến với Hoàn Huyền sắp đến nơi, đêm nay gã sẽ khởi trình đến Tầm Dương, không ai có thể ngăn cản gã nữa.

Cái mạng quèn của Hoàn Huyền cần phải để gã tận tay thu thập, tạo một kết thúc.

Trận chiến này đâu phải dễ, thế lực của Hoàn gia ở Kinh Châu thâm căn cố đế, giống như con rít trăm chân, chết mà không cứng người, gã sẽ thận trọng đối phó, tuyệt không thể vì thắng lợi mà sinh kiêu căng, khinh địch dẫn đến hư sự.

Lưu Dụ thốt: “Tiểu Ân lên ngựa! Bọn ta vừa đi vừa nói, ta muốn nắm rõ tình huống Tang Lạc châu”.

o0o

Tiên Nhân Thạch là bảy khối đá khổng lồ đặc biệt cao to trong đám loạn thạch khúc quanh bờ nam Tang Can hà, hình dáng như thân người, lại tựa như muốn qua sông, cho nên có tên là Tiên Nhân Thạch.

Thác Bạt Khuê ngửa nhìn bầu trời đêm, tràn trề cảm xúc: “Thình lình ta cảm thấy những năm tháng ấu thơ đã biến mất nay lại quay về. Có nhớ không? Bọn ta lúc trước ở Đại thảo nguyên luôn thích nhìn sao trời, thố lộ lý tưởng và hoài bão của mình. Khà! Ngươi rất ít nói về mình, đều là ta nói nhiều, nhưng ngươi là người nghe tốt nhất, không có ngươi, ngày tháng ta ở thảo nguyên sẽ rất ảm đạm u buồn”.

Tiếp đó nhìn sang Yến Phi, thành khẩn: “Sau khi lớn lên, bọn ta xuất hiện nhiều chỗ khác biệt trên nhiều phương diện, nhưng không ảnh hưởng chút nào đến tình thủ túc giữa bọn ta. Ài! Có những chuyện ta không muốn làm, nhưng vì Thác Bạt tộc, ta không còn chọn lựa nào khác. Ngươi có tâm sự gì muốn nói, cứ trực tiếp nói ra, vì ngươi ta có thể làm bất cứ chuyện gì”.

Yến Phi cười khổ: “Đừng hứa hẹn khinh suất như vậy, ngươi nghe xong rồi hãy nói câu cuối đó!”.

Thác Bạt Khuê thong dong thốt: “Tiểu Phi ngươi quá coi thường ta, vì ngươi, ta quả có thể hy sinh bất cứ cái gì. Tiểu Phi trước mặt ta vẫn là Tiểu Phi của trước đây”.

Yến Phi trầm giọng: “Ta muốn xin ngươi tạo ra một hình thế, giúp cho ta có thể khiêu chiến Mộ Dung Thùy, vật đánh cá là Thiên Thiên và đại nghiệp của ngươi”.

Thác Bạt Khuê hiện thần sắc trầm tư, tiếp đó dịu giọng: “Còn nhớ tình huống lúc bọn ta mới gặp Vạn Sĩ Minh Dao không?”.

Yến Phi không hiểu Thác Bạt Khuê sao lại lảng qua chuyện ngựa trâu không chút quan hệ gì, lại cũng bị y dẫn dắt tâm sự, thầm nghĩ mình làm sao mà quên được. Lúc đó bọn họ đến tuyệt cảnh sơn cùng thủy tận, khơi khơi vào giờ phút như vậy, Vạn Sĩ Minh Dao như thần vật động hồn nhất trời cao phái xuống, như một đóa hoa tươi tắn xuất hiện tại sa mạc khô cằn nơi không có sinh cơ nhất thế gian, thứ cảm giác chấn động và tìm được sự sống khi cùng đường đó chỉ có hai người bọn họ mới hiểu.

Chàng gật đầu biểu thị còn nhớ.

Thác Bạt Khuê thốt: “Lúc ban đầu ta còn nghĩ là ảo tưởng lầu sò chợ biển trước khi lâm tử, cũng chưa từng nói với ngươi lúc đó trong lòng ta đang nghĩ gì, lợi dụng cơ hội này cho ngươi biết luôn”.

Yến Phi ngạc nhiên nhìn y: “Ngoại trừ Vạn Sĩ Minh Dao ra, ngươi còn có thể nghĩ tới gì khác?”.

Thác Bạt Khuê vui vẻ đáp: “Vẫn là có liên quan tới Vạn Sĩ Minh Dao, cái ta nghĩ đến là, nếu không không dành một ngụm nước cuối cùng trong túi nước cho ta, ta có thể đâu còn mạng để nhìn thấy nàng”.

Thân người Yến Phi giật nảy.

Thác Bạt Khuê ngửa mặt cười lớn: “Ngươi hiện tại chắc đã rõ đáp án của ta, huynh đệ! Ta tuyệt không dị nghị đối với yêu cầu của ngươi”.

Yến Phi hoan hỉ: “Tiểu Khuê!”.

Thác Bạt Khuê vụt búng người dậy, ung dung thốt: “Trên sự thật phương pháp ngươi đề xuất là phương pháp duy nhất để đánh bại Mộ Dung Thùy. Cho dù thêm vào Hoang nhân các ngươi, cho dù người Yên sĩ khí thất thoát trầm trọng, nhưng đối phương binh lực vẫn hơn xa bọn ta, phối hợp với thủ đoạn quân sự xuất thần nhập hóa của Mộ Dung Thùy, bọn ta có thể phòng thủ Nguyệt Khâu cũng khó vô cùng tận rồi”.

Lại chăm chú dõi nhìn Tang Can hà chảy qua trước mắt, trầm giọng: ‘Không có ai có thể áp đảo Mộ Dung Thùy trên chiến trường, dưới tình thế hiện nay càng là chuyện không thể nào làm được, người Yên sùng bái y như thiên thần, cứ như sự sùng bái của Bắc Phủ binh ở phương Nam đối với Tạ Huyền, trong lòng người Yên, giữa thiên hạ căn bản không có ai có thể đánh ngã Mộ Dung Thùy. Giả như ngươi có thể đánh bại y trước mặt người Yên, hình tượng bất bại của Mộ Dung Thùy sẽ bị hủy diệt triệt để, thần thoại của y cũng coi như xong, bắt đầu từ giây phút đó, thiên hạ phương Bắc không còn là thiên hạ của Mộ Dung Thùy nữa, mà là thiên hạ của Thác Bạt Khuê ta”.

Thác Bạt Khuê như cơn lốc xoay vụt lại, đối diện Yến Phi: “Cuộc đánh cá của bọn ta và Mộ Dung Thùy, là nếu y thắng, ta sẽ dâng nhượng hai tòa thành trì Bình Thành và Nhạn Môn, hơn nữa còn thoái ra ngoài Trường Thành, nếu không, y phải giao ra chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên. Ta có lòng tin hết mình đối với ngươi, chính như người Yên tin Mộ Dung Thùy là người khổng lồ không thể ngã gục trên chiến trường, ta khẳng định không có ai có thể dưới tình huống độc đấu thắng được người huynh đệ tốt nhất của ta”.

Yến Phi lòng cảm động từng cơn, lại có chút khó tin: “Đa tạ ngươi!”.

Thác Bạt Khuê ngồi xuống tảng đá quay lưng lại Yến Phi, song cước xoãi ra, trầm giọng: “Chuyện ta sợ nhất hiện giờ cũng là biện pháp duy nhất Mộ Dung Thùy xoay chuyển cục thế”.

Yến Phi hỏi: ”Có phải sợ y một mặt kiềm chế ngươi tại bình nguyên Nhật Xuất, mặt khác lại đích thân dẫn quân đột kích bộ đội Hoang nhân bọn ta?”.

Thác Bạt Khuê thở dài: “Nếu Mộ Dung Thùy ngu xuẩn như vậy, ta cầu còn chưa được. Hiện tại Biên Hoang kình lữ là bộ đội khó đụng chạm nhất trong thiên hạ, đủ thứ nhân tài, muốn gì có nấy, cao thủ như mây, khó được nhất là từ xưa đến nay, chưa từng có một nhánh bộ đội nào hoàn toàn bao gồm đám vong mệnh chi đồ, ai ai cũng tự nguyện tham dự, cái hướng tới là mục tiêu tôn sùng, vinh diệu của Biên Hoang Tập. Nhánh bộ đội như vậy mà toàn thần giới bị, phe tập kích trái lại sẽ lọt và thế bị động, kẻ chịu thiệt cũng chỉ có Mộ Dung Thùy”.

Yến Phi nhíu mày: “Vậy ngươi lo cái gì?”.

Thác Bạt Khuê trầm giọng: “Cái ta lo là Mộ Dung Thùy vào giờ phút then chốt này buông bỏ Kỷ Thiên Thiên, đem trả chủ tỳ bọn họ cho bọn ta, như vậy ta sẽ bị hãm vào cục diện một mình tác chiến”.

Yến Phi chấn động thần hồn, nói không nên lời.

Thác Bạt Khuê quay người lại, ngồi khoanh gối: “Cho nên ta đã dùng một chút thủ đoạn, làm cho Mộ Dung Thùy không thể đột nhiên biến thành thông minh, ta vốn muốn thương lượng với ngươi rồi mới tiến hành, thời gian lại không cho phép ta làm như vậy. Ài! Ngươi đừng trách ta, vì Thác Bạt tộc, ta không còn đường chọn lựa nào khác”.

Yến Phi cười khổ: “Nói đi! Ài! Cái gì không còn đường chọn lựa nào khác mà tiểu tử ngươi nói từ đầu thì ra là có hàm ý khác”.

Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Ngươi hiểu ta nhất. Sau khi trận chiến đêm hôm qua kết thúc, ta sai người đưa một phong thư cho Mộ Dung Thùy, nói chỉ cần y chịu giao chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên ra, ta có thể tha cho y một con đường sống, để cho y an nhiên quay về Trung Sơn, nếu không, ta sẽ bắt bọn chúng không còn một mạng sống sót trở về”.

Yến Phi buồn bã không nói gì.

Thác Bạt Khuê vẫn là Thác Bạt Khuê của trước đây. Bằng vào cười hận của Mộ Dung Thùy đối với Thác Bạt Khuê, tuy biết rõ lời Thác Bạt Khuê nói là nói ngược, cũng tuyệt sẽ không giao ra chủ tỳ Thiên Thiên dưới tình huống như vậy, nếu không, còn mặt mũi gì nữa? Trên sự thật chàng rất khó trách được Thác Bạt Khuê, cũng không muốn Hoang nhân đột nhiên thoái lui, vậy sẽ hãm Thác Bạt Khuê vào tuyệt cảnh vạn kiếp bất phục. Nói cho cùng mình một nửa là người của Thác Bạt tộc, nếu xảy ra chuyện như vậy, chàng chỉ còn nước kề vai gắng sức kháng chiến với Thác Bạt Khuê, mãi cho đến hơi thở cuối cùng.

Thác Bạt Khuê thốt: “Ta hiểu rõ Mộ Dung Thùy, cho dù hiện nay lọt vào thế hạ phong, vẫn có lòng tin tất thắng, tính cách cao ngạo của y sẽ không cho phép y khuất phục bọn ta, mà giao trả chủ tỳ Thiên Thiên chính là hành vi khuất phục không thể nào chối cãi được, sau khi nhận được thơ của ta, tình huống ta sợ nhất sẽ không thể xuất hiện. Nếu ngươi có thể Đánh bại Mộ Dung Thùy giữa sự chăm chú quan sát của hai phe địch ta, sẽ là hảo sự lưỡng toàn kỳ mỹ. Bề ngoài nhìn ta tựa như không thiết tưởng cho ngươi, trên sự thật ta không những vì mình, cũng là vì ngươi. Tiểu Phi ngươi có thể tụ thủ bàng quan sao?”.

Yến Phi cười khổ: “Tiểu tử ngươi, ta thật không biết nên cảm kích ngươi hay là nên trách móc ngươi. Được rồi! Thuận miệng nói với ngươi một chuyện khác, sau trận chiến này, ngươi phải để Tiểu Nghi giải giáp về nhà, để mặc cho gã sống theo lối sống của gã”.

Thác Bạt Khuê ngạc nhiên: “Tiểu Nghi sao lại sợ ta như vậy?”.

Yến Phi đáp: “Ngươi đã làm chuyện gì, lòng tự biết rõ, đừng nói mấy lời đó nữa”.

Thác Bạt Khuê giơ tay đầu hàng: “Sao cũng được, chỉ cần ngươi không trách ta là được”.

Yến Phi thở dài: “Tên tiểu tử ngươi làm cho ta cảm thấy không phải với Hoang nhân”.

Thác Bạt Khuê thốt: “Không nghiêm trọng vậy chứ! Sao lại quan hệ đến chuyện của ngươi? Vì thắng lợi tối hậu, ta có thể làm bất cứ chuyện gì, tất cả đều là vì nghĩ cho đại cục”.

Yến Phi thốt: “Chuyện của Tiểu Nghi, ta coi như ngươi đã đáp ứng. Quân tử nhất ngôn...”.

Thác Bạt Khuê tiếp lời: “Tứ mã nan truy. Ta sẽ đích thân nói với Tiểu Nghi, bảo đảm sẽ không ngoài chịu trong chối, ngươi có thể an tâm”.

Tiếp đó trầm ngâm: “Trước khi Hoang nhân đến, có thể khẳng định Mộ Dung Thùy không dám xâm phạm, ta hy vọng ngươi và Hướng Vũ Điền có thể quay về hội hợp với Hoang nhân, tăng cường thực lực của Hoang nhân”.

Yến Phi hỏi: “Nếu Mộ Dung Thùy tử thủ Liệp Lĩnh thì sao?”.

Thác Bạt Khuê vui vẻ đáp: “Vậy hỏa khí do Cơ đại công tử của các ngươi chế tạo có thể có được chỗ dùng rồi, người Yên thật có thể không còn một mạng sống sót trở về. Mộ Dung Thùy sẽ không phạm vào sai lầm như vậy đâu, huống hồ binh lực của y vẫn còn trên liên quân bọn ta. Chuyện chiến tranh để ta lo, các ngươi chỉ cần phối hợp với ta”.

Vụt búng người dậy, thở phào một hơi thườn thượt: “Đã có kế để ngươi đơn độc khiêu chiến Mộ Dung Thùy, bọn ta phải cải biến sách lược, chỉ cần các ngươi có thể an toàn đến Nguyệt Khâu, ta sẽ tạo ra hình thế mà ngươi mong xuất hiện, đoạt lại chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên từ tay Mộ Dung Thùy. Hơn nữa giảm nhẹ ý có lỗi đối với Hoang nhân của ngươi, ta sẽ tận hết sở năng giảm thấp thương vong của Hoang nhân, đây là một lời hứa, đủ mặt huynh đệ rồi!”.

Yến Phi do dự một hồi: “Ngươi hiện tại đã hoàn toàn tiếp nhận Sở Vô Hạ rồi?”.

Thác Bạt Khuê thở dài: “Ta không phải không nghe lời ngươi nói, hơn nữa không có lúc nào không ghi nhớ lời cảnh cáo của ngươi, nhưng trải qua một thời gian trường kỳ quan sát nàng, nàng quả đã có lòng sửa đổi, huống hồ nàng cho đến giờ phút này toàn là lập công cho ta, ta làm sao nhẫn tâm không cho nàng cơ hội làm lại từ đầu. Trong mắt ngươi, nàng có lẽ là yêu nữ mưu đồ bất chính, nhưng ta chỉ nghĩ nàng là một nữ tử đáng thương đã mất đi tất cả. Ta đã trở thành cơ hội cuối cùng của nàng, nàng là một cô gái thông minh, chắc biết giữ buông ra sao”.

Yến Phi thốt: “Ta lần đầu hy vọng là ta đã nhìn lầm, mà là ngươi đúng”.

Nói xong đứng dậy.

Thác Bạt Khuê giơ tay nắm hai vai chàng, mỉm cười: “Huynh đệ! Còn nhớ tình cảnh bọn ta gặp lại ở Biên Hoang Tập chứ? Tựa như mới xảy ra hôm qua. Lúc đó Phù Kiên thanh thế bài sơn đảo hải, thống lãnh trăm vạn đại quân xâm lăng miền Nam, ngươi không nghĩ ta có thể thắng chút nào. Xem xem! Thời thế đổi thay, hiện tại tình huống thế nào? Cái làm ta cao hứng nhất là bọn ta lại một lần nữa kề vai tác chiến. Tin ta đi, ta sẽ toàn tâm toàn ý tận lực vì hạnh phúc tương lai của ngươi, ta sẽ không làm ngươi thất vọng”.

Yến Phi thản nhiên: “Về chuyện này, ta hoàn toàn tin tưởng ngươi”.

Thác Bạt Khuê thở dài: “Sau khi ngồi lên vị trí này, đâu còn giống lúc trước nữa, người có quan hệ thân mật ngày xưa, khoảng cách đều biến thành xa vời, Tiểu Nghi là một thí dụ tốt, bởi ý tưởng của bọn ta không còn tương đồng nữa. Nhưng chỉ có ngươi vẫn là huynh đệ thân cận nhất của ta, không biến chuyển vì bất cứ chuyện gì. Lúc ngươi gọi ta là tiểu tử, ta cảm thấy ấm cúng trong lòng vô cùng. Con đường bọn ta đi tuy khác biệt, nhưng Yến Phi vĩnh viễn là huynh đệ tốt nhất của Thác Bạt Khuê ta”.

Yến Phi thốt: “Ta hiểu rồi! Đến lúc về doanh trại rồi”.

o0o

Dưới ánh đèn lửa chiếu rọi, Kỷ Thiên Thiên dời đến song cửa nhìn ra ngoài, Tiểu Thi âu lo nặng nề đứng bên cạnh: “Không có chuyện gì, nghỉ ngơi sớm một chút, muội còn chưa hoàn toàn bình phục đó”.

Tiểu Thi lo lắng: “Bên ngoài xảy ra chuyện gì vậy? Bắt đầu từ sớm hôm nay, không ngừng có người thụ thương chở về trị liệu trong trại, chiến tranh đã bắt đầu rồi sao?”.

Kỷ Thiên Thiên đáp: “Đêm hôm qua Mộ Dung Thùy dẫn quân công kích doanh trại của Thác Bạt tộc, hiện tại xem tình huống chắc là không làm ăn được gì, bọn ta nên cao hứng mới đúng”.

Tiểu Thi sợ sệt: “Đã là như vậy, sao tiểu thư cả ngày hôm nay sầu tư im ắng vậy? Thật ra đã xảy ra chuyện gì?”.

Kỷ Thiên Thiên thầm nghĩ nếu nói ra chuyện xảy ra đêm hôm qua cho nàng ta biết, bảo đảm còn hù nàng ta sợ dữ hơn, hé nụ cười mỉm đáp: “Ngày nào chiến tranh còn chưa phân thắng bại, ta làm sao mà khoái lạc cho được? Còn sợ mừng vui quá sớm. Nhưng từ một mặt lạc quan mà nhìn, tình huống Mộ Dung Thùy ngày trước đại phá Mộ Dung Vĩnh sẽ không trùng diễn được, hươu chết về tay ai còn chưa biết chắc”.

Tiểu Thi buồn thảm: “Tiểu thư...”.

Kỷ Thiên Thiên ôm vai nàng ta: “Có tâm sự gì, nói ra cho ta nghe, để ta giải tỏa mối lo cho muội”.

Tiểu Thi nấc nghẹn muốn khóc: “Cho dù Yến công tử và người của Thác Bạt tộc được toàn thắng, nhưng bọn ta... bọn ta...”.

Nói còn chưa dứt đã khóc không thành tiếng.

Kỷ Thiên Thiên ôm nàng ta vào lòng, trong đầu cũng hoang mang bần thần. Nàng càng biết nguy cơ đang dồn ép đến mi mày, đến khi Mộ Dung Thùy quay về, ai biết được y có nổi thú tính không?

Nàng nên làm sao đây? Có nên thông tri cho Yến Phi biết không? Làm vậy có phải chỉ có hại chứ không có ích, quấy nhiễu tâm thần của Yến Phi, làm loạn kế hoạch của chàng không? Nếu Yến Phi bất chấp tất cả tới cứu nàng, kết quả sẽ ra sao?

Lúc nghĩ ngợi đến mức tim đập thình thịch, Phong Nương đến nơi, đi tới sau lưng hai người, nói: “Để lão thân hầu Tiểu Thi lên giường nghỉ”.

Kỷ Thiên Thiên ngạc nhiên nhìn sang Phong Nương.

Tiểu Thi kháng nghị: “Tôi vẫn chưa buồn ngủ”.

Phong Nương giơ tay điểm dưới nách Tiểu Thi, Tiểu Thi liền mất đi tri giác, nhờ có Kỷ Thiên Thiên đỡ mới không ngã xuống đất.

Kỷ Thiên Thiên cả kinh: “Đại nương!”.

Phong Nương thần tình đờ đẫn: “Ta là muốn tốt cho nàng ta!”.

Sang một bên đỡ Tiểu Thi lên, đưa nàng ta lên giường.

Kỷ Thiên Thiên bất lực đắp chăn cho Tiểu Thi, không vui: “Tại sao phải làm vậy?”.

Phong Nương điềm đạm đáp: “Nghe được không?”.

Kỷ Thiên Thiên dời sức chú ý ra ngoài, bắt được thanh âm giày lính đạp thùm thụp đang dần dần tiếp cận.

Phong Nương hạ lệnh cho mấy nữ binh trong nhà hầu cận chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên: “Các ngươi ra ngoài cho ta”.

Đám nữ binh ngây người, nghe lệnh bỏ đi ra.

Phong Nương đến bên tai Kỷ Thiên Thiên thấp giọng: “Mọi sự để lão thân xử lý, tiểu thư không cần nói”.

Lúc Phong Nương xuất thủ điểm huyệt Tiểu Thi, Kỷ Thiên Thiên liền sinh ra lòng giới bị bà ta, sợ bà ta sẽ làm như vậy với mình, lúc này mới biết đã hiểu lầm bà ta.

Tiếng bước chân đã đến ngoài cửa, một tướng lãnh người Hán bước vào, mục quang rơi trên mình Kỷ Thiên Thiên, thi lễ: “Hộ quân Cao Tú Hòa, tham kiến Thiên Thiên tiểu thư, Hoàng thượng có lệnh thỉnh Thiên Thiên tiểu thư di giá”.

Phong Nương hừ lạnh: “Hoàng thượng sớm có nghiêm lệnh chuyện của Thiên Thiên tiểu thư để ta toàn quyền phụ trách, Hoàng thượng muốn gặp Thiên Thiên tiểu thư, ta làm sao mà không biết được chứ?”.

Cao Tú Hòa kinh ngạc, hiển nhiên chỉ là y lệnh hành sự, nào ngờ lại gánh nỗi bất mãn của Phong Nương, lắp bắp: “Chuyện Hoàng thượng phân phó, mạt tướng chỉ y theo lệnh mà chấp hành, xin phu nhân tha thứ”.

Phong Nương thốt: “Chuyện này không hợp quy củ, ta phải hỏi rõ Hoàng thượng, Thiên Thiên tiểu thư mới có thể theo ngươi”.

Cao Tú Hòa khốn khổ: “Vậy... vậy...”.

Phong Nương thốt: “Bất tất phải nhiều lời, chuyện này để ta một mình gánh lấy, Hoàng thượng muốn trách tội, chỉ có thể trách một mình lão thân thôi, không thể trách Cao tướng quân đâu. Ta bây giờ lập tức đi gặp Hoàng thượng, Cao tướng quân có thể lưu lại ngoài ốc, đợi ta về đã”.

Nói xong không lý gì tới Cao Tú Hòa, bương bả ra cửa đi gặp Mộ Dung Thùy.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=66#ixzz1bzoZDM4j

Trác Cuồng Sinh lo lắng: “Bọn ta không có mặt, không biết Phí Nhị Phiết có cầm giữ nổi mặt Biên Hoang Tập không?”.

Hồng Tử Xuân theo đằng sau cười nói: “Việc đó ngươi yên tâm, có tiền là vạn sự đều hứng, mà lão Phí chinh là đệ nhất cao thủ trong Biên Hoang Tập bọn ta, chỉ cần lo tốt việc tài chính, còn có mặt nào phải nghĩ tới nữa chứ? Hiện tại Thọ Dương có khác nào là thành thị huynh đệ của Biên Hoang Tập, hô ứng lẫn nhau, bất cứ cục trường nào cũng có thể ứng phó được”.

Bàng Nghĩa bên cạnh Hồng Tử Xuân nói: “Sợ nhất là hạng Diêu Trường, thấy có thể thừa cơ, phái người công đả Biên Hoang Tập, bọn ta sẽ biến thành không có nhà quay về”.

Trác Cuồng Sinh cười thốt: “Điểm đó trái lại ta đâu có lo, trước hết khoan nói đến Diêu Trường có tự lo cho mình nổi không, cho dù hắn có năng lực đó, cũng không dám mạo hiểm như vậy, Trường An cách Biên Hoang Tập quá xa, chỉ cần lão Phi đem hết mọi người và lương thực lui tới Thọ Dương, bảo đảm có thể khiến cho người của Diêu Trường chết đói. Khà!”.

Hai ngàn chiến sĩ Biên Hoang đang thong thả hành quân dưới trời sao, xa xa bên phải là mạch núi Thái Hành nhấp nhô liên miên bất tuyệt.

Sau khi nghỉ ngơi một ngày, bọn họ chia binh bốn đường, mỗi đội hai ngàn người, lần theo Thái Hành Sơn ùa về tây bắc, mỗi một người mang đủ lương khô dùng trong năm ngày, ngựa giáp giản dị nhẹ nhàng, đi đứng linh hoạt khinh xảo, có thể ứng phó bất cứ đột biến nào.

Theo suy đoán của bọn họ, Long Thành binh đoàn đã bị đánh tan triệt để, quá vượt ngoài ý liệu của Mộ Dung Thùy, nhất thời không có cách nào động viên chặn đường tấn công bọn họ. Bất quá đối với một thống soái vô địch uy chấn Bắc phương như Mộ Dung Thùy, bọn họ không dám coi thường, vẫn đề phòng bị tập kích.

Giữa đội này với đội nọ giữ khoảng cách khoảng một dặm, một nửa đi trước, một nửa theo sau, tả hữu tiền hậu đều hô ứng lẫn nhau. Tiểu Kiệt lãnh đạo toàn thể hơn ba chục cao thủ phong môi đã xuất phát trước đại đội nửa ngày, lợi dụng hình thế hiểm trở của Thái Hành Sơn, lên vùng cao của sơn mạch đặt trạm canh, chỉ cần thấy bóng dáng địch, khẳng định không qua mắt được bọn họ.

Bảy ngày chiến sĩ còn lại theo lộ tuyến sang tây, áp giải đội xe la vận tải lương thực, vật liệu và vũ khí, dựa theo Hoàng Hà bên trái, nhắm Bình Thành lên đường.

Đến lúc Mộ Dung Thùy phát giác bọn họ lần theo Thái Hành Sơn mà đến, sẽ khó lòng toàn lực công phá Thác Bạt Khuê bố trận ở Nhật Xuất nguyên, bởi bộ đội của bọn họ toàn là kỵ binh, có thể nhanh mà cũng có thể chậm, nếu cắt đứng đường về lui lại Liệp Lĩnh của Mộ Dung Thùy, cho dù là Mộ Dung Thùy cũng phải thảm bại.

Ngày ẩn đêm đi, đối với chiến sĩ bình thường là chuyện khốn khó, nhưng Hoang nhân toàn là đám càng đến đêm càng có tinh thần, đêm tối hành quân trái lại có lợi cho bọn họ.

Tất cả y theo kế mà làm, không ngừng tiếp cận chiến trường chính, tâm tình của Hoang nhân cũng không ngừng bốc cao, tuy vẫn chưa có ai nghĩ ra được phương pháp hoàn thiện làm sao cứu được chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên thoát khỏi ma chưởng của Mộ Dung Thùy, nhưng so với trước đây ở Biên Hoang Tập xa ngoài ngàn dặm thúc thủ không có cách, than thở bất lực, đâu còn có thể nói giống.

o0o

Phong Nương tiến vào soái trướng, vượt ngoài ý liệu của bà, Mộ Dung Thùy không nổi trận lôi đình, mà thần sắc bình tĩnh, ôn hòa thốt: “Ngồi!”.

Phong Nương lần này đi gặp Mộ Dung Thùy, kỳ thực lòng đã nuôi ý bỏ mình, cho dù hy sinh tính mệnh, bà cũng phải gắng sức khuyên Mộ Dung Thùy đừng hấp tấp với Kỷ Thiên Thiên. Trong Mộ Dung Tiên Ti tộc, mọi người ai ai cũng biết mạo phạm Mộ Dung Thùy như vậy, bất kể là vì cái gì, đều sẽ không có kết quả tốt.

Phong Nương ngồi một bên, mục quang nhìn Mộ Dung Thùy.

Mộ Dung Thùy tựa có vẻ bẽn lẽn tránh ánh mắt của bà: “Đại nương đã hiểu lầm rồi, ta mời Thiên Thiên đến là muốn đích thân xin lỗi nàng”.

Phong Nương không rõ đây có phải là lời thật lòng của y không, bất quá bà đã đi quá mức rồi, điềm đạm nói: “Từ lúc Hoàng thượng phái lão thân phụ trách nhiệm vụ chiếu cố chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên, trong lòng lão thân luôn luôn có một câu muốn hỏi Hoàng thượng, đến hôm nay càng có cảm giác không nói ra không khoan khoái được, xin Hoàng thượng ban chuẩn cho lão thân hỏi câu đó”.

Mục quang của Mộ Dung Thùy cuối cùng đã quay về phía bà, thở dài: “Từ nhỏ bọn ta luôn luôn tình như tỷ đệ, đến hôm nay tình huống cũng đâu có cải biến, ta có lẽ hông tín nhiệm con của ta, nhưng lại tuyệt không thể không tín nhiệm bà, nếu không năm xưa không thể mạo hiểm tử tội tha cho bà và Mặc Di Minh một con đường sống, mãi cho đến hôm nay ta vẫn không hối hận quyết định năm xưa. Giữa bà và Mặc Di Minh thật ra đã xảy ra chuyện gì, ta không hỏi tới nửa câu, Phong Nương bà bây giờ lại đến chất vấn ta? Câu bà muốn hỏi, ta đại để đã đoán được hỏi cái gì, tốt nhất là đừng nói ra, tránh làm tổn thương cảm tình giữa bọn ta”.

Phong Nương khổ não: “Đại ân đại đức của Hoàng thượng đối với lão thân, Phong Nương không dám quên một giây một phút nào, nhưng lời tôi muốn nói ra, lại không thể giấu trong lòng được nữa, tôi càng biết rõ chỉ có một mình tôi mới dám nói ra”.

Mộ Dung Thùy hồi phục lại sự bình tĩnh: “Phong Nương có phải muốn ta phóng thích chủ tỳ Thiên Thiên, đưa bọn họ về cho bộ đội Hoang nhân đang xua quân Bắc thượng không?”.

Phong Nương trầm giọng: “Đây là phương pháp duy nhất có thể phá Thác Bạt Khuê, như vậy Hoang nhân không còn có thể tiếp tục động lực Bắc thượng, Hoang nhân tuyệt không chịu bán mạng cho Thác Bạt Khuê đâu”.

Mộ Dung Thùy tự tin mỉm cười: “Đây quả là tình huống Thác Bạt Khuê sợ nhất, sau khi Hoang nhân được Thiên Thiên, sẽ quay đầu bỏ đi, để Thác Bạt Khuê một mình tác chiến. Cho nên tiểu tử đó đã viết một phong thư gởi cho ta, nói bậy nói bạ nào là chỉ cần ngươi đem chủ tỳ Thiên Thiên giao ra, sẽ thả cho ngươi một con đường sống, cách khích tướng ngu xuẩn như vậy, cũng chỉ có hạng tiểu nhân đê tiện như Thác Bạt Khuê mới nghĩ ra được”.

Phong Nương mừng ra mặt: “Hoàng thượng không thể trúng gian kế của Thác Bạt Khuê đâu!”.

Mộ Dung Thùy ung dung thốt: “Bà đối với chiến tranh thủy chung chỉ nằm ngoài, cho nên chỉ chăm chăm nhìn được mất nhất thời, bỏ sót hình thế chỉnh thể. Đúng! Bễ ngoài nhìn ta quả bị bức vào thế hạ phong, quân đoàn của Tiểu Long cơ hồ toàn quân bị diệt trong chiến dịch Vụ Hương, bộ đội Hoang nhân cưỡi uy thế đại thắng Bắc thượng, khí thế như cầu vồng, đêm hô qua bọn ta đột tập Thác Bạt Khuê lại không ích lợi gì, nhưng sự thật là sự thật, binh lực của bọn ta vẫn vượt trên liên quân của đối phương, nếu chính diện giao phong, kẻ chịu thiệt khẳng định là bọn chúng”.

Phong Nương biến sắc: “Hoàng thượng vẫn không chịu phóng thích chủ tỳ bọn họ?”.

Mộ Dung Thùy điềm đạm đáp: “Thử tưởng tượng tình huống kế tới xem, nếu ta đem Thiên Thiên giao cho Hoang nhân, Hoang nhân lập tức triệt tẩu, Thác Bạt Khuê sẽ làm gì? Lúc đó y chỉ còn một chọn lựa, là tử thủ Nguyệt Khâu. Chiến sĩ Thác Bạt tộc là bộ đội tinh nhuệ nhất đương kim thiên hạ ngoài chiến sĩ Yên tộc ta, đến lúc biết không còn đường lui, mỗi một người đều sẽ phấn đấu đánh đến cùng, đêm hôm qua bọn chúng chứng tỏ bọn chúng có đủ sức để thủ Nguyệt Khâu, mà chỉ cần bọn chúng có thể giữ vững một tháng, lương thực của bọn ta cạn kiệt, sẽ xuất hiện tình huống nghiêm trọng, tướng sĩ cũng sẽ vì tác chiến trường kỳ mà thương vong tăng cao, sinh ra ý muốn trở về, trái lại rất bất lợi cho bọn ta”.

Tiếp đó hai mắt sáng lên: “Nhưng nếu ta mặc cho Thác Bạt Khuê và Hoang nhân hợp lại, hình thế sẽ là hai chuyện khác hẳn”.

Phong Nương không hiểu: “Như vậy Thác Bạt Khuê thực lực sẽ tăng hơn nhiều, không lẽ không thể thủ được Nguyệt Khâu sao?”.

Mộ Dung Thùy mỉm cười: “Chuyện đó đương nhiên rồi. Bất quá Thác Bạt Khuê còn có thể chỉ cố tử thủ Nguyệt Khâu thôi sao? Hoang nhân đến vì cái gì? Bọn chúng vọng tưởng có thể đoạt được Thiên Thiên từ trong tay ta, tuyệt không cam tâm ở lại Nguyệt Khâu, không thể không chủ động xuất kích, lúc đó quyền chủ động đã lọt vào tay ta, còn giữa Thác Bạt Khuê và Hoang nhân sẽ sản sinh mâu thuẫn, trở thành cục diện tiến thoái lưỡng nan. Ví như chỉ cần ta giả tư thế triệt tẩu, Hoang nhân có thể giương mắt nhìn ta đem Thiên Thiên đi sao?”.

Nhất thời Phong Nương không có lời nào để cãi lại.

Mộ Dung Thùy vui vẻ thốt: “Bà không ngờ đâu! Hiện tại Thiên Thiên đã trở thành chìa khóa thắng lợi của bọn ta, cũng chỉ có nắm chắc chủ tỳ Thiên Thiên trong tay, mới có cơ hội nhất cử tiêu diệt Hoang nhân và Thác Bạt tộc. Đến lúc binh lực của chúng đã bị tước giảm đến một mức độ, cho dù muốn thủ giữ Nguyệt Khâu cũng hữu tâm mà vô lực, bọn ta không những có thể thu phục đất đã mất, hơn nữa có thể thừa thế đoạt lấy Biên Hoang Tập, làm cho người Nam trong một thời gian không có cách nào Bắc thượng quấy nhiễu, ta liền thanh trừ được mọi chướng ngại, có thể an tâm dụng binh ở Quan nội, hoàn thành đại nghiệp thống nhất Bắc phương”.

Phong Nương lòng chấn động, Mộ Dung Thùy quả nhìn rất thấu triệt, Hoang nhân là vì cứu chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên mà đến, tuyệt sẽ không chỉ an phận thủ giữ Nguyệt Khâu, đến lúc bọn họ chủ động xuất kích, Mộ Dung Thùy liền có thể bằng vào ưu thế binh lực mà tước giảm và đả kích bọn họ.

Mộ Dung Thùy mỉm cười: “Phong Nương hồi nãy có phải muốn hỏi ta xem Mộ Dung Thùy ta thật ra là lấy giang sơn làm trọng hay là đặt nặng mỹ nhân hơn? Ta có thể nói một cách khẳng định với bà, nếu hai thứ chỉ có thể chọn một, ta sẽ chọn giang sơn, vì nó quan hệ đến sự tồn vong suy thịnh của Đại Yên quốc ta, cá nhân ta có thể hy sinh bất cứ cái gì”.

Phong Nương bàng hoàng nhìn Mộ Dung Thùy, hơi thở cấp xúc.

Mộ Dung Thùy thốt: “Hoang nhân quỷ kế trăm bề, mà ta không thể chỉ trố mắt canh chừng chủ tỳ Thiên Thiên, trọng trách bảo vệ chủ tỳ bọn họ rơi lên mình Phong Nương bà. Trong quân của ta, ngoại trừ ta ra, chỉ có bà có bản lĩnh thắng được Yến Phi. Vì Mộ Dung Tiên Ti tộc bọn ta, bà cần phải toàn lực giúp ta, để hiển thị quyết tâm của ta, lúc tất yếu bà có thể hạ thủ xử quyết Thiên Thiên, vậy Hoang nhân sẽ nổi điên mà tấn công, bọn ta liền có thể đánh thẳng vào đầu, tiêu diệt hết địch nhân”.

Phong Nương cảm thấy rùng mình tê tái, hồn thân lạnh ngắt, lòng xốn xang. Bà chưa từng nghĩ tới Mộ Dung Thùy đối với Kỷ Thiên Thiên tình sâu tợ biển không ngờ có thể tận miệng ra chỉ thị giết chết Kỷ Thiên Thiên.

Mộ Dung Thùy lại nói: “Vì Mộ Dung Tiên Ti tộc bọn ta, vì các chiến sĩ tộc ta chịu cảnh bị chôn sống ở Tham Hợp pha, Phong Nương bà cần phải vứt bỏ tình cảm thương tiếc đối với chủ tỳ Thiên Thiên, toàn tâm toàn ý lo chuyện này cho ta. Chủ tỳ Thiên Thiên đã trở thành con mồi, tuyệt đối không cho phép có sai sót. Bà phải tìm cách trấn an chủ tỳ bọn họ, đừng để bọn họ biết ý tưởng trong lòng ta. Lợi dụng Hoang nhân vẫn còn trên đường Bắc thượng, đêm nay ta sẽ tiến quân đến Nhật Xuất nguyên, dựa vào Tang Can hà thiết lập doanh trại, tạo thành hình thế lưỡng quân đối đầu. Chuyện quan hệ tới sự tồn vong của tộc ta, ta không có đường chọn lựa, bà cũng không có đường chọn lựa nào khác”.

Phong Nương buồn bã: “Lão thân minh bạch rồi!”.

Mộ Dung Thùy ngửa nhìn nóc trướng, lạnh lùng thốt: “Tên tiểu nhân Thác Bạt! Ngươi quá đề cao mình rồi, trận này sẽ khiến cho ngươi vĩnh viễn không còn cơ hội trở mình nữa”.

Yến Phi tiến vào trong trướng, Hướng Vũ Điền đang ngồi khoanh gối, lúc Yến Phi vén màn trướng, mở hai mắt, kỳ quang loang loáng nhìn Yến Phi, khẩn trương hỏi: “Thế nào?”.

Yến Phi thắm đèn da dê trong trướng, ngồi xuống trước mặt y: “Y đã đáp ứng”.

Hướng Vũ Điền ngạc nhiên: “Có phải đã tốn rất nhiều khí lực thuyết phục y không? Sao mặt mày ngươi cổ quái vậy?”.

Yến Phi đáp: “Trái lại là đằng khác, lại đúng với lòng y, y sảng khoái đáp ứng”.

Hướng Vũ Điền cảnh giác vén cửa trướng nhìn ra ngoài, nhíu mày: “Y đã đi rồi?”.

Yến Phi đáp: “Y không an tâm, đích thân đi tuần bố trí mới của trận địa, đêm nay bọn ta sẽ vót chông cắm đầy hào”.

Hướng Vũ Điền gật đầu: “Đây quả là một địa phương tốt có chỗ hiểm trở để thủ, hơn nữa đằng sau dựa vào Bình Thành, về mặt lương thảo không thành vấn đề”.

Yến Phi thở dài một hơi.

Hướng Vũ Điền không hiểu: “Đã giải quyết được vấn đề lớn nhất, tại sao ngươi lại cứ như tâm sự trùng trùng vậy?”.

Yến Phi cười khổ: “Chính ta cũng không rõ, có lẽ là vì hai phe địch ta hình thế đều đã cải biến, làm cho ta không còn nắm chắc được nữa. Vừa nãy Tiểu Khuê nói rõ Hoang nhân bọn ta cần phải nghe theo sự chỉ huy điều động của y. Ài! Ngươi cũng biết Hoang nhân bọn ta đều là hạng cao ngạo không nghe lời, quen muốn làm gì thì làm, sợ rằng sau khi đến Nguyệt Khâu sẽ lập tức có vấn đề”.

Hướng Vũ Điền đồng ý: “Đúng! Nói cho cùng, mục tiêu chiến tranh của bọn ta và của người huynh đệ của ngươi đâu giống nhau, chiến lược cũng sẽ vì vậy mà có khác, vấn đề đó rất khó giải quyết triệt để”.

Yến Phi thốt: “Vừa đi vừa nghĩ đi!”.

Hướng Vũ Điền hỏi: “Bọn ta đi đâu?”.

Yến Phi đáp: “Đi hội hợp với huynh đệ Hoang nhân bọn ta, thẳng thắn nói cho bọn họ biết tình huống hiện thời, có lẽ có người có thể nghĩ ra biện pháp giải quyết”.

o0o

Kiến Khang. Thạch Đầu thành.

Ba chiếc Song đầu hạm đậu bên bờ sông, buồm căng gió lộng, lúc nào cũng có thể nhổ neo khởi hành.

Lưu Dụ đứng bên cầu gỗ bắt lên thuyền, tâm tình kích động, quả là khó dùng lời để tả. Gã phấn đấu biết bao năm trời, cho dù vào lúc đi đến đường cùng, vẫn không chịu buông bỏ, hình thế tận hết sức lực tranh thủ cuối cùng đã xuất hiện trước mắt.

Không còn bất cứ một ai, không còn bất kỳ một chuyện nào có thể ngăn trở gã đi đối quyết chính diện với Hoàn Huyền, để rửa sạch mối sỉ nhận cho Đạm Chân. Trong thâm tâm gã biết rõ, bất kể gã trở thành người có quyền lực nhất phương Nam đương kim, hay là một đế hoàng vô danh mà hữu thực, Đạm Chân vĩnh viễn là nữ tử gã chung tình nhất, gã dốc hết cảm tình cho nàng, chịu đả kích chịu vết thương trầm trọng nhất trong đời vì nàng, cũng vì nỗi khuất nhục và cái chết của nàng mà gánh chịu nỗi hối hận nuối tiếc trọn đời không có cách nào bù đắp được.

Thời khắc khốn khổ trông chờ cuối cùng đã đến, chỉ có tận tay chém Hoàn Huyền, mới có thể tiết được cừu hận gã ung đúc nung nấu trong lòng.

Đến tống tiễn có Vương Mật, Vương Hoằng, Khoái Ân, Lưu Mục Chi và Giang Văn Thanh.

Mục quang của Lưu Dụ chăm chú nhìn dòng nước cuồn cuộn tuôn chảy, dưới bầu trời đêm mờ mịt, một làn sương mỏm quyến luyến trên mặt sông, con sông lớn từ nơi xăm xăm vô biên miền Tây đổ về, nối liền gã với Hoàn Huyền, ở giữa là thâm cừu đại hận không có cách nào hóa giải.

Lưu Dụ từ từ xoay mình, mục quang nhìn sang Lưu Mục Chi. Mình lẽ nào là chân mệnh thiên tử của Nam phương tân triều? Nếu không, làm sao một mưu sĩ siêu cấp như Lưu Mục Chi lại có thể xuất hiện kịp thời như vậy? Không có y, mình khẳng định không ứng phó được chính trị phức tạp mây sóng quỷ quyệt của Kiến Khang.

Mục quang của gã quay sang Vương Mật, thốt: “Sau khi ta rời khỏi Kiến Khang, Vương đại nhân phải giữ chắc giữ vững tình huống Kiến Khang. Về mặt triều chính, xin trông cậy vào ý kiến của Mục Chi; về mặt quân sự, để Khoái tướng quân phụ trách toàn bộ, hai người bọn họ là đại biểu của ta khi xuất sư không có mặt, Vương đại nhân có thể hoàn toàn tin cậy bọn họ.

Vương Mật cung kính lãnh mệnh.

Lưu Dụ tuyệt không sợ Vương Mật ngoài dạ trong phản, hiện tại danh vị quyền lực của Vương Mật là do gã ban tặng, gã không vì chuyện Vương Mật từng trung thành nghe lời Hoàn Huyền mà xử tử lão, buông một góc lưới, huống hồ còn ân sủng Vương Mật hơn nữa.

Khoái Ân nói: “Đại nhân an tâm đi! Bọn tôi sẽ không cô phụ kỳ vọng của đại nhân đối với bọn tôi”.

Lưu Dụ mỉm cười: “Ta rất cao hứng thấy Khoái Ân tướng quân tự tin hết mình, nếu như có bất cứ loạn sự gì xảy ra, chỉ cần giữ được Thạch Đầu thành, có thể ứng phó bất cứ đột biến nào”.

Khoái Ân lớn tiếng lãnh mệnh.

Vương Hoằng hân hoan: “Đại nhân uy thế như mặt trời giữa ban ngày, nếu có người nào dám không tự lượng sức, tức là chán sống rồi”.

Lưu Dụ mỉm cười: “Nhớ lại ngày trước bọn ta kề vai tác chiến ở Diêm Thành, đối phó hải tặc, đến ngày nay nói lời từ biệt ở đây, làm sao mà ngờ được? Hồi tưởng lại chuyện quá khứ, cứ như một trường xuân mộng, thật cảm xúc tràn trề”.

Vương Hoằng bị gã câu dẫn tâm tình: “Không biết tại sao, từ ngày đầu quen biết đại nhân, tôi liền sinh ra lòng tin đối với đại nhân. Thẳng thắn mà nói, trước đó tôi luôn luôn nhìn lầm tình huống, nhưng đối với đại nhân lại là lần đầu không nhìn lầm”.

Lưu Mục Chi cười nói: “Vào tình huống then chốt nhất, tạo ra chọn lựa sáng trí nhất, đủ có thể giúp mình được phúc lợi cả đời”.

Lưu Dụ mỉm cười: “Xin cho phép ta nói vào câu riêng tư với Văn Thanh”.

Bốn người vui vẻ gật đầu.

Lưu Dụ kéo Giang Văn Thanh sang một bên, thấp giọng: “Sau khi ta ra đi, Văn Thanh phải bảo trọng thân thể, đừng nghĩ ngợi lung tung, tránh ảnh hưởng...”.

Giang Văn Thanh hờn dỗi ngắt lời gã: “Biết rồi! Chàng cũng phải cẩn thận hành sự, đừng khinh địch”.

Lưu Dụ thốt: “Ta sẽ thận trọng còn hơn bất cứ giờ phút nào trước đây, đến lúc ta quay về, sẽ mang thủ cấp Hoàn Huyền tế anh linh trên trời của nhạc trượng đại nhân”.

Giang Văn Thanh dịu giọng: “Chỉ cần Hoàn Huyền rơi đầu dưới đao của Dụ lang, hận ý trong lòng thiếp sẽ tan theo mây khói, những thứ khác không để ý tới nữa”.

Lưu Dụ lòng trào dâng tư vị khó tả, từ sau khi Giang Văn Thanh mang thai, nàng như đã biến thành một người khác, tháo gởi giải phóng khỏi gút thắt thù hận, không để ý tới chuyện quá khứ nữa, mà dõi trông vào tương lai tươi đẹp.

Sầu oán rối ren của mình cũng có thể tháo bỏ được chứ?

Thanh âm của Giang Văn Thanh vang bên tai gã: “Tôi biết chiếu cố lấy mình. Chúc Dụ lang chuyến này thuận buồm xuôi gió, cờ bay đắc thắng, khải hoàn trở về”.

Lưu Dụ kích động từng cơn.

Gã cuối cùng đã có năng lực bảo vệ nữ tử mình yêu dấu, không còn hữu tâm vô lực như trước nữa. Gã thốt: “Chuyện triều đình, tự có Mục Chi tiên sinh và Tiểu Ân ứng phó, Văn Thanh không cần phải hao tổn tinh thần, hài tử của bọn ta mới là trọng yếu nhất.

Giang Văn Thanh mặt phơn phớt hồng, cúi đầu dịu dàng nói: “Thật nhiều lời quá! Giang Văn Thanh bây giờ chỉ muốn làm một người vợ tốt và một người mẹ hiền, chuyện khác đâu còn liên quan đến thiếp”.

Lưu Dụ cười ha hả, dắt tay Giang Văn Thanh về chỗ lên thuyền, nắm tay từng người tạm biệt, lên thuyền ra đi.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=66#ixzz1bzobg23M

Yến Phi mở to mắt, bầu trời sao mênh mông lọt vào tầm mắt, ý thức quay lại với chàng, phảng phất cảm giác vừa trở lại làm người.

Hướng Vũ Điền ngồi trên một tảng đá to bên trái cách đó chừng hơn mười bước nhìn Yến Phi cười nói: “Yến huynh nhận được tin tức hữu dụng gì từ phía Thiên Thiên tiểu thư chăng?”.

Yến Phi ngoảnh đầu nhìn về phía Nhật Xuất nguyên, có thể lờ mờ nhìn thấy ánh đèn lửa trong doanh trại Thác Bạt Khuê ở Nguyệt Khâu, thở phì một hơi: “Mộ Dung Thùy bắt đầu phản kích, binh lính trên Liệp Lĩnh nhổ trại đi rồi, phòng ngự sơn trại tăng cường gấp bội, rõ ràng sợ chúng ta cướp trại cứu người”.

Hướng Vũ Điền hỏi: “Hai ngày nay Kỷ Thiên Thiên có gặp Mộ Dung Thùy không?”.

Yến Phi nhăn nhó: “Thiên Thiên muốn nói lại ngừng, ta cảm thấy nàng đầy lo lắng, khi ta nói lúc này là thời khắc hết sức quan trọng, tuyệt đối nàng không thể giấu ta chuyện gì, nếu không ta sẽ có quyết định sai lầm, lúc đó nàng mới đem chuyện xảy ra hai hôm nay cho ta biết”.

Tiếp đó đem chuyện Kỷ Thiên Thiên kể lại hết. Đoạn thở dài: “Lòng ta hơi loạn, tình hình tựa hồ hết sức không hay”.

Hướng Vũ Điền trầm ngâm một thoáng, gật đầu nói: “Chuyển biến của Phong Nương rất kỳ quái, trước đây bà ta dứt khoát toàn lực bảo vệ Kỷ Thiên Thiên, nhưng sau khi gặp Mộ Dung Thùy đã biến thành lãnh đạm, lại không nói một lời về tình hình Mộ Dung Thùy, thật là kỳ quái”.

Yến Phi nói: “Thiên Thiên nói có cảm giác Phong Nương tâm tình trầm trọng, tựa hồ có chuyện đau khổ và mâu thuẫn không giải quyết nổi”.

Hướng Vũ Điền vỗ đùi than: “Phong Nương bị Mộ Dung Thùy thuyết phục rồi”.

Đoạn quay sang nhìn Yến Phi, hai mắt lấp lánh: “Đương nhiên Phong Nương không phải khuất phục Mộ Dung Thùy vì mong muốn cá nhân gì, mà bị Mộ Dung Thùy đem đại nghĩa dân tộc sinh tử tồn vong thuyết phục, không thể không lần nữa đứng về phía Mộ Dung Thùy, từ người bảo hộ Kỷ Thiên Thiên biến thành người giám quản nàng”.

Lại tiếp: “Đột nhiên ta cảm giác rất nguy hiểm, nếu đêm nay chúng ta không nghĩ ra biện pháp thì sẽ thua rất thảm”.

Yến Phi nhíu mày: “Nghiêm trọng thế sao?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Ta là người bàng quan thấy rõ. Ta đoán là Mộ Dung Thùy đã chọn lựa giữa đại nghĩa dân tộc và Kỷ Thiên Thiên khiến hắn từ ham muốn cá nhân, hồi phục bổn sắc vô địch thống soái, lãnh khốc vô tình, Kỷ Thiên Thiên không còn là chướng ngại, ngược lại còn là nhân tố quan trọng để hắn giành thắng lợi”.

Yến Phi biến sắc: “Hắn làm sao lợi dụng được họ?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Ngươi ắt phải biết câu trả lời, ví dụ như phát ra lời cảnh cáo chúng ta, nếu trong vòng ba ngày Hoang nhân không lập tức thối lui, hắn sẽ xử quyết chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên trước mặt mọi người, khi đó chúng ta làm gì đây? Nếu mạo hiểm tấn công thì đúng ý Mộ Dung Thùy. Huynh đệ của ngươi có chịu đâm đầu vào chỗ chết không?”.

Yến Phi thở dài: “Đại khái là không. Ta cảm giác đêm qua Tiểu Khuê bị Mộ Dung Thùy làm cho phát hoảng, vì vậy mới cho rằng mưu kế khả thi duy nhất là do ta một mình thách đấu Mộ Dung Thùy. Hắn còn nói sẽ cố sức giảm thương vong cho Hoang nhân, mà chỉ có tử thủ Nguyệt Khâu mới có thể giảm số thương vong xuống thấp nhất. Ta quá hiểu hắn mà”.

Tiếp đó sát cơ trên hai mắt cực thịnh nói: “Chúng ta có thể đánh một ván bài, nhân lúc Mộ Dung Thùy đưa chủ tỳ Thiên Thiên tới Nhật Xuất nguyên hạ thủ cứu người hay không?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Cơ hội thành công rất nhỏ, Mộ Dung Thùy tuyệt không để chúng ta đắc thủ, cần phải nghĩ cách khác”.

Yến Phi khổ sở: “Ta còn nghĩ ra được cái gì khác chứ?”.

Hướng Vũ Điền nhíu mày suy tư, đoạn nói: “Hiện giờ vấn đề lớn nhất của chúng ta không phải là mâu thuẫn giữa Thác Bạt Khuê và chúng ta, mà là chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên vẫn còn trong tay Mộ Dung Thùy, khiến hắn chiếm thế thượng phong, khống chế chủ động. Nhưng nếu có thể tạo ra một tình thế khiến cho Mộ Dung Thùy không dám đụng đến một sợi tóc của họ, trận chiến để quyết định thắng thua vẫn có thể tiến hành như kế hoạch, chẳng lo gì Mộ Dung Thùy cự tuyệt”.

Yến Phi chấn động: “Có phải ngươi đã nghĩ ra biện pháp không?”.

Hướng Vũ Điền hết hẳn phiền muộn, mặt mũi tươi tỉnh, cười ha hả nói: “Đó kêu là trời chẳng tuyệt đường người ta, dù Mộ Dung Thùy dùng binh như thần, trí cao bằng trời nhưng không ngờ rằng chúng ta có cách đối thoại từ xa với Kỷ Thiên Thiên, từ đó mà biết rõ từng cử động của hắn. Biện pháp của ta hết sức đơn giản, đó là tìm cách đốt lương của hắn”.

Yến Phi ngẩn người một lúc, tiếp đó hai mắt sáng bừng lên.

Hướng Vũ Điền nói: “Trận này Mộ Dung Thùy tính kế lâu dài, lương thảo chuẩn bị đầy đủ bảo đảm cho hắn tiến có thể công thoái có thể thủ, cơ hồ ở thế bất bại. Nếu lương thảo của hắn bị đốt cháy mất một nửa, thêm vào Long Thành binh đoàn mấy ngàn bại quân thương bệnh binh, sẽ không thể duy trì đến lúc hắn lui được về Trung Sơn, khi đó hắn sẽ rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan”.

Yến Phi gật đầu: “Đúng vậy! Nếu hắn chỉ còn năm ngày lương, lúc đó thủ cũng không được mà lui cũng không xong, chỉ còn nước tiếp thụ khiêu chiến của ta”.

Hướng Vũ Điền cười: “Đến lúc ấy có khi chỉ cần trăm cỗ xe lương là có thể đổi lấy chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên, tình thế sẽ hoàn toàn đảo ngược”.

Yến Phi nói: “Nhưng Mộ Dung Thùy đã có vết xe đổ Long Thành quân đoàn, nhất định sẽ coi sóc rất kỹ các kho lương thực, không để chúng ta đắc thủ”.

Hướng Vũ Điền hân hoan rút từ trong bọc ra liên tử thiết cầu bên trong có dấu Thánh xá lợi, ung dung nói: “Đừng quên ta có tuyệt kỹ bay liệng trên cao, ngày ấy Biên Hoang Tập cao thủ như mây, nhưng đâu có ai đụng được vào chéo áo ta, huống hồ bây giờ còn có ngươi phối hợp. Trong bọc tiểu đệ còn có chục quả độc yên hỏa pháo do Cơ đại thiếu gia chế tạo, đủ sức đốt cháy mười kho lương của Mộ Dung Thùy”.

Yến Phi nói: “Nhưng chúng ta không biết trong số sơn trại đâu là kho lương, mà tình hình không cho phép chúng ta tìm kiếm từ từ”.

Hướng Vũ Điền nói: “Thông thường kho lương phải đặt ở xa địch nhân, trong sơn trại thì phải ở trung tâm, dù bên ngoài phóng hỏa tiễn cũng khó ảnh hưởng đến kho lương. Huống hồ ta có bản lĩnh có thể dùng mũi ngửi thấy được mùi vị hơi nước trong sa mạc, đủ để tìm thấy ốc đảo trong sa mạc khô hạn. Tuy không bằng khứu giác linh dị của Phương tổng tuần, nhưng ở trong sơn trại thì rất có tác dụng”.

Yến Phi tinh thần đại chấn hỏi: “Muốn ta phối hợp thế nào?”.

Hướng Vũ Điền nói: “Ngươi giả bộ xông vào sơn trại cứu Kỷ Thiên Thiên, làm càng loạn càng tốt. Chúng ta không những phải phóng hỏa, mà còn phải ngăn địch nhân cứu hỏa”.

Yến Phi hỏi: “Bao giờ hành động?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Đương nhiên là đêm nay, nếu để Mộ Dung Thùy chuyển lương thực đi, hoặc là mang phân tán ở những chỗ khác nhau chúng ta sẽ mất cơ hội. Khi Mộ Dung Thùy dựng kho lương căn bản không nghĩ đến lại có người đến đốt lương, cơ may thành công của chúng ta rất lớn”.

Yến Phi nhảy dựng dậy nói: “Đi thôi!”.

o0o

Thác Bạt Khuê đứng trên đỉnh đồi bằng phẳng ánh mắt ngưng trọng nhìn xuống bình nguyên phía đông hàng trăm ngọn đuốc di động.

Sở Vô Hạ nghi hoặc hỏi: “Mộ Dung Thùy đang chơi trò gì vậy? Sai người cầm đuốc đi lại lung tung ở bên ngoài hai dặm”.

Thác Bạt Khuê trầm giọng: “Đó là trò múa lửa trứ danh của Yên nhân, cũng là kế dụ địch của Mộ Dung Thùy, nguy hiểm ẩn tàng ở những chỗ ánh đuốc không chiếu tới, nếu cứ theo ánh đuốc phán đoán vị trí và bố phòng của Yên binh tấn công bừa bãi nhất định sẽ nếm đòn đau”.

Sở Vô Hạ không hiểu: “Tộc chủ đã không xuất trận công kích, rõ ràng đã nhìn ra quỷ kế của Mộ Dung Thùy, vì sao Mộ Dung Thùy vẫn không chịu rút về?”.

Thác Bạt Khuê nói: “Mục tiêu của Mộ Dung Thùy không phải là muốn dẫn dụ ta xuất kích mà muốn khiến ta không dám xuất kích”.

Sở Vô Hạ ngạc nhiên: “Cứu cánh Mộ Dung Thùy muốn làm gì?”.

Thác Bạt Khuê trầm giọng đáp: “Hắn muốn lập trận dựng lều giáp sông để hình thành thế trận đối trì với chúng ta”.

Sở Vô Hạ hỏi: “Như vậy chẳng phải hợp ý tộc chủ ư? Vì sao lại thở dài?”.

Thác Bạt Khuê gượng cười: “Mộ Dung Thùy chung quy vẫn là Mộ Dung Thùy. Trò này chính là để liên tục hủy hoại đối phương, hại chúng ta suốt đêm không nhắm mắt, ngày mai không còn sức lực quấy nhiễu hắn. Từ sau trận kịch chiến đêm qua, chúng ta không có lúc nào được nghỉ ngơi”.

Lúc này ánh đuốc đã di chuyển đến cách bọn họ một dặm, năm trăm Yên binh đồng thanh hò hét, chiến mã hí vang, tỏ rõ ý gây hấn.

Sở Vô Hạ nói: “Có quan hệ gì? Hoang nhân chưa tới, tộc chủ cũng không định tấn công bọn họ mà”.

Thác Bạt Khuê nói: “Không phải ta thở than cho mình mà lo phiền vì Yến Phi, Mộ Dung Thùy quyết định rời bỏ Liệp Lĩnh, chuyển quân tới Nhật Xuất nguyên là vì hắn đã nắm được mấu chốt thành bại của trận này”.

Sở Vô Hạ lắc đầu: “Thiếp không hiểu”.

Thác Bạt Khuê đáp: “Việc chủ yếu của Mộ Dung Thùy là đứng vững ở Nhật Xuất nguyên, thiết lập trận địa vững chắc. Nguyệt Khâu đã bị ta chiếm mất, nơi hiểm yếu duy nhất Mộ Dung Thùy có thể dựa vào là Tang Can hà. Chỉ cần hắn dựng trại ven sông, bố trí chủ lực quân ở bờ nam, lương thực vật tư vũ khí thì đặt ở bờ bắc, có thể nói đã đứng vững trên thế bất bại, tiến có thể công, thoái có thể thủ. Bằng ưu thế binh lực, thực sự chúng ta không làm gì được hắn, may sao Mộ Dung Thùy cũng không làm gì được chúng ta”.

Sở Vô Hạ nói: “Nếu cứ giằng co như vậy cuối cùng lui binh hẳn phải là Mộ Dung Thùy, vì sao tộc chủ lo âu như vậy?”.

Thác Bạt Khuê cười thảm: “Vấn đề là Kỷ Thiên Thiên nằm trong tay hắn, hắn sẽ lợi dụng Kỷ Thiên Thiên như thế nào là điều ta cảm thấy rất lo sợ”.

Sở Vô Hạ hiểu rõ, thảo nào Thác Bạt Khuê than thở vì Yến Phi.

Thác Bạt Khuê nói: “Vừa rồi trong lòng ta có hai ý nghĩ đấu tranh kịch liệt, một là dốc toàn lực xuất kích để cho Mộ Dung Thùy không thể đạt được ý đồ, một cách khác là giữ vững chỗ này, không làm bất cứ cái gì. Hiện tại nàng hẳn phải biết ý nghĩ nào thắng thế rồi”.

Sở Vô Hạ run lên: “Tộc chủ!”.

Thác Bạt Khuê thở dài: “Yến Phi là người duy nhất trên đời có thể khiến ta hành động theo cảm tính, nhưng lý tính của ta vẫn chiếm thượng phong, nhưng cũng khiến ta cảm thấy hổ thẹn với Yến Phi. Ai! Vì sao cuộc đời cứ mãi khiến người ta cảm thấy bất lực thế này”.

Sở Vô Hạ cảm nhận sâu sắc mâu thuẫn nội tâm của Thác Bạt Khuê, nhất thời nói không nên lời.

o0o

Hướng Vũ Điền la: “Mẹ ơi! Suýt nữa thì lỡ mất cơ hội tốt”.

Từ đỉnh núi nhìn xuống sơn trại Liệp Lĩnh lửa đuốc như sao sa chiếu sáng rực, giới bị nghiêm mật ngoài dự tính.

Suy đoán của Hướng Vũ Điền về vị trí kho lương hoàn toàn đúng, bởi có tới hơn hai chục phòng xá ở trung tâm cửa mở rộng, các bao lương thực được mang lên xe la, xe nào chất đầy hàng rồi lập tức khởi hành theo đại lộ dẫn ra cổng trại, nhập vào đoàn xe đông như kiến bám đuôi nhau chầm chậm tiến về phía Nhật Xuất nguyên. Xe la đã dỡ hàng không ngớt quay lại tiếp tục chuyển hàng, hình thành hai đội xe như hai con rồng thấy đầu mà chẳng thấy đuôi.

Trên tường trại bố trí đầy cung tiễn thủ, mấy chục tòa tiễn lâu xung quanh cũng lố nhố bóng người, ai nấy tinh thần hưng phấn giám sát tình huống gần xa, chỉ cần địch nhân xuất hiện khẳng định sẽ có hàng trăm mũi kình tiễn đón chào, dù rằng Yến Phi có bản lĩnh đỡ tên cũng khó thoát.

Ở những nơi đường sá giao nhau trong trại từng toán từng toán quân sĩ vũ trang tận răng, trên đỉnh kho lương cũng có tiễn thủ canh giữ, nếu người tới đây không phải là Hướng Vũ Điền và Yến Phi, bất cứ ai cũng đành bỏ cuộc giữa chừng không làm gì được. Ngay cả hai người nếu có cách khác cũng sẽ không đem thân mạo hiểm như vậy.

Yến Phi thở dài: “Hay cho Mộ Dung Thùy, hiểu rõ mấu chốt thắng bại trận này, ta đoán hắn sẽ bỏ sơn trại Liệp Lĩnh. Nếu phải rút lui về Trung Sơn thì sẽ chuyển sang chiếm lấy Quân Đô quan ở bắc Thái Hành sơn, cho một mồi lửa thiêu cháy sơn trại”.

Hướng Vũ Điền nói: “Mộ Dung Thùy cao minh khiến người ta phát ớn, nếu không có lão ca ngươi có được tin tức ngay lập tức từ Kỷ Thiên Thiên, chúng ta sẽ lỡ mất dịp may. Qua đêm nay Mộ Dung Thùy sẽ đem lương thực chuyển tới chỗ rất an toàn trên bình nguyên”.

Yến Phi nheo mắt quan sát sơn trại nằm ở năm chục trượng phía dưới hỏi: “Ngươi vẫn chắc ăn chứ?”.

Hướng Vũ Điền hỏi lại: “Mộ Dung Thùy có ở dưới không?”.

Yến Phi nhắm mắt, một lúc sau mới mở ra đáp: “Thiên Thiên đã chuyển đi Nhật Xuất nguyên, xem ra Mộ Dung Thùy cũng tới đó chủ trì đại cuộc rồi”.

Hướng Vũ Điền thở phào nói: “Không có những cao thủ tuyệt đỉnh như Mộ Dung Thùy và Phong Nương tọa trấn, cơ hội thành công của chúng ta rất cao, chỉ cần ngươi đốt cháy mấy xe vận lương ở cổng đại trại, tiện thể tạo ra tình thế hỗn loạn chúng ta cần, mấy con la cũng chẳng có cá tính đâu, đúng không?”.

Yến Phi nói: “Muốn tới được chỗ đó để không ai biết cũng phải mất cả canh giờ”.

Hướng Vũ Điền lắc đầu: “Quá phí thời gian, ta có thể đưa ngươi vào trại”.

Yến Phi ngạc nhiên: “Như vậy khác gì đâm đầu vào chỗ chết?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Chẳng phải không có biện pháp, nhưng mà ngươi cần phải hồi phục trạng thái, nếu không thì đúng là đi tìm chết”.

Yến Phi giật mình, Hướng Vũ Điền nói đúng, tự hiểu rằng từ lúc Kỷ Thiên Thiên suýt bị Mộ Dung Thùy làm nhục, chàng lúc nào cũng hoảng hốt trong lòng, toàn trông vào chủ ý của Hướng Vũ Điền.

Hướng Vũ Điền tiếp tục: “Chỉ coi ngươi đến đây không thể lập tức cảm ứng thấy Kỷ Thiên Thiên có ở dưới đó hay không là biết vì ngươi quan tâm quá độ đến Kỷ Thiên Thiên dẫn đến tâm thần thất thủ, Âm thần với Dương thần không làm sao tự nhiên hợp làm một, tinh thần và công lực giảm sút rất nhiều. Nếu ngươi không thể hồi phục lại, thì chẳng những tính mệnh lão ca ngươi khó giữ, mà tiểu đệ cũng phải bồi thêm một mệnh này”.

Yến Phi toàn thân tê dại như bị sét đánh, mau chóng tỉnh táo lại, tinh thần tiến vào cảnh giới trong sáng rạng rỡ của Đạo gia.

Hướng Vũ Điền lập tức sinh cảm ứng, mừng rỡ: “Yến Phi ngươi được lắm, lại trở thành Yến Phi khiến ta bội phục rồi”.

Yến Phi giục: “Nói biện pháp của ngươi ra đi”.

Hướng Vũ Điền nén tình cảm hưng phấn trong lòng, hai mắt lấp lánh dị quang, trầm giọng nói: “Ta có thể vận kình đẩy ngươi bay qua khoảng cách ba mươi trượng đến thẳng vị trí hàng rào, bảo đảm địch nhân đột nhiên phát giác không kịp phát tên, dù có một, hai kẻ phản ứng đặc biệt nhanh kịp thời xạ tiễn thì cũng không thể chính xác được. Ngàn vạn không được để kẻ nào ngăn cản, chỉ cần ngươi mượn đầu tường tá lực là có thể nhảy đến mái nhà gần nhất, lúc đó địch nhân ném chuột sợ vỡ đồ, tiễn thủ ngoại vi không còn là uy hiếp nữa, đó là bước đầu tiên”.

Yến Phi gật đầu: “Bước thứ hai thế nào?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Trước khi hạ xuống mái nhà, ngươi phải ném độc yên hỏa pháo ra để độc yên nhanh chóng lan ra trùm kín khu vực kho lương tạo thuận lợi cho ta hành sự”.

Yến Phi hỏi: “Ta phải châm ngòi hỏa pháo vào lúc nào?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Trong trại chỗ nào chả có đuốc, bằng bản lĩnh của lão ca ngươi dễ dàng mượn lửa ở đó mà châm hỏa pháo. Sau đấy nhân lúc rối loạn xông tới cổng trại, cướp lấy một cây đuốc đốt lương làm cho càng rối loạn hơn, đến lúc nghe ta cười lớn làm hiệu lập tức trở lại chỗ này coi nhiệt náo”.

Yến Phi khen tuyệt: “Kế hay lắm!”.

Hướng Vũ Điền móc ra sáu quả hỏa lựu pháo đưa cho Yến Phi nhét vào bọc, nói tiếp: “Đầu tiên ngươi phải nhảy lên, ta sẽ vỗ vào gót chân ngươi, tiễn ngươi vào trại”.

Trong chớp mắt công lực Yến Phi đã đề thăng đến đỉnh cao, ra hiệu nói: “Chuẩn bị!”.

Hướng Vũ Điền dặn: “Nhớ đừng dùng chiêu số Tiểu tam hợp, nếu không để truyền đến tai Mộ Dung Thùy sẽ khiến hắn không dám giao thủ với ngươi”.

Yến Phi nhẹ nhàng cười: “Có thể không khai sát giới ta tuyệt đối sẽ không giết người”.

Nói xong hai tay ấn mạnh xuống đất bay vọt lên, Hướng Vũ Điền khẽ quát một tiếng, song chưởng đẩy ra như chớp vào đế giày Yến Phi.

Yến Phi như mũi tên rời khỏi dây cung bay lên, chớp mắt đã vượt qua khoảng không rộng lớn giữa vách núi và tường trại, như một con phi ưng bay liệng trên không nhào xuống bên ngoài sơn trại.

Tiếng la hoảng trên tường trại và tiễn lâu nổi lên, ai nấy vội vã giương cung lắp tên, nhưng đại bộ phận vẫn không biết địch nhân ở đâu, kẻ nhìn thấy thì không kịp phát tên.

Yến Phi như một tia chớp từ trên trời xẹt xuống, sát na đã tới phía trên trại tường phía đông, tiễn thủ trên đầu tường ào ào giương cung đặt tên, nhưng đều chậm một bước.

Yến Phi đẩy ra hai chưởng, kình khí cuồn cuộn như cuồng phong tập trung ép vào địch nhân ở vị trí chàng sẽ đặt chân tới.

Địch nhân theo nhau ngã lăn lông lốc ra phía sau, chẳng nói gì bắn tên, mà nhất thời bò dậy còn không nổi.

Cả sơn trại bị kinh động, tiếng quát tháo vang khắp đây đó, hiệu lệnh chiến đấu vang vang.

“Bình!”.

Chưởng phong đụng vào đầu tường, Yến Phi mượn lực phản chấn lăng không lộn người vọt lên, tà tà bay về phía kho lương trung tâm.

Kình tiễn từ khắp các lâu phòng bắn ra, nhưng đúng như Hướng Vũ Điền dự liệu, nếu không lạc ra chỗ khác thì là chẳng đến nơi.

Hai tay Yến Phi thò vào bọc móc ra hỏa lựu pháo, dụng thủ pháp liên châu quăng ra ném trúng nhiều cây đuốc trong khu vực kho lương.

“Bụp! Bụp! Bụp!”.

Hỏa lựu pháo liên tiếp nổ tung, từng bựng khói đen cuồn cuộn bay lên lan tỏa rất nhanh, chớp mắt khói độc đã trùm kín phạm vi kho lương, không ngừng loang ra.

Hỏa lựu pháo do Cơ Biệt chế tạo dùng tiêu thạch, lưu hoàng, lang độc, tỳ sương trộn với thuốc súng tạo thành, độc yên tỏa ra tuy không làm chết người, nhưng đủ để ai hít phải mũi mồm chảy máu, mắt cay xè, làm tê liệt sức chiến đấu địch nhân, nhất thời địch trại vốn giới bị nghiêm mật biến thành loạn xạ. Địch nhân ở nơi khác thì bị độc yên ngăn cản, lại không nhìn thấy gì nên cũng không thể cứu viện được.

Yến Phi vận chuyển chân khí dùng phép thiên cân trụy hạ xuống đất.

Xung quanh toàn địch nhân hoảng hốt và những con la phát cuồng, vì độc yên che mắt không ai biết Yến Phi tới bên cạnh.

Yến Phi hiểu rằng thành công trong tầm tay, đâu còn do dự, bế khí lao nhanh trong vùng khói đen, thuận tay giật một cây đuốc lao đến đám xe lương chen chúc trên con đường lớn thông với cổng trại.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=66#ixzz1bzoel5Z9

“Thiên Thiên! Thiên Thiên!”.

“Yến lang!”.

Yến Phi từ trong không gian tâm linh kỳ dị cất tiếng hỏi: “Thiên Thiên đang ở đâu?”.

Kỷ Thiên Thiên trả lời: “Muội đang ngồi trên lưng ngựa, có Tiểu Thi bên cạnh, đang ở bờ nam Tang Can hà, có thể trông thấy từ xa trận địa của huynh đệ Thác Bạt Khuê của chàng. Yến lang à! Có chuyện gì xảy ra thế? Sơn trại bốc cháy, Yên nhân ai nấy đều cực kỳ hoảng hốt, Mộ Dung Thùy cũng phải phóng ngựa trở lại Liệp Lĩnh, muội chưa từng thấy hắn có vẻ mặt thế bao giờ, hắn hoảng sợ rồi”.

Yến Phi hỏi: “Bên cạnh nàng còn có ai?”.

Kỷ Thiên Thiên đáp: “Ngoài Phong Nương còn có hơn mười nữ binh và nhiều Yên tộc chiến sĩ, bọn họ hẳn đều thuộc hệ thống thân binh của Mộ Dung Thùy, toàn là tinh binh, trong đó có mấy người còn là cao thủ”.

Yến Phi nói: “Thiên Thiên đừng sợ, lửa trên sơn trại là do bọn ta phóng lên, mục đích là để đốt cháy lương thảo của Mộ Dung Thùy. Bây giờ thành công rồi, lương thực còn lại không đủ duy trì để Mộ Dung Thùy trở về Trung Sơn, khiến hắn lâm vào tuyệt cảnh, chỉ còn một lựa chọn là đem bọn nàng trao đổi lấy rút lui an toàn”.

Niềm vui của Kỷ Thiên Thiên như thủy triều trào dâng cả sang không gian tinh thần của Yến Phi, khẽ hô: “Yến lang a!”.

Yến Phi tiếp tục: “Thiên Thiên không phải lo Mộ Dung Thùy phát tác thú tính nữa, trong tình hình này hắn không dám làm thương tổn nàng, bởi nàng đã trở thành vốn liếng duy nhất để đàm phán, mất nàng là chuyện hắn không đảm đương nổi”.

Kỷ Thiên Thiên đáp: “Minh bạch rồi! Muội sẽ lấy cái chết uy hiếp khiến Mộ Dung Thùy không dám lỗ mãng”.

Yến Phi nói: “Thiên Thiên chỉ cần nhẫn nại hai ngày đợi Hoang nhân bọn ta đến nơi là mọi chuyện có thể tiến hành theo kế hoạch. Không chừng chỉ cần trăm xe lương đã có thể bức Mộ Dung Thùy trao trả nàng rồi. Ta phải đi đây!”.

Kỷ Thiên Thiên hoan hỉ nói: “Yến lang trân trọng! Muội và Tiểu Thi biết phải tự lo thế nào”.

Yến Phi mở to mắt, cảnh tượng sơn trại lọt vào tầm mắt, phần lớn phòng xá trong trại đều bị vạ lây, cả ngọn núi chìm ngập trong đám khói dày đặc, thế lửa mãnh liệt không sức gì cản nổi.

Thanh âm Hướng Vũ Điền vang bên tai: “Bại thế của Mộ Dung Thùy đã thành, sĩ khí lại càng bị đả kích trầm trọng, dù hắn có ba đầu sáu tay cũng không đủ sức đảo ngược tình thế”.

Yến Phi chân thành nói: “Đa tạ ngươi!”.

Hướng Vũ Điền đặt tay lên vai chàng, khẽ mỉm cười: “Ít nhất có một nửa là ta vì mạng sống của mình, bởi ta từng hứa với mọi người sẽ không rút lui trước khi cứu được chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên! Ha”.

Yến Phi cười: “Đi thôi chứ?”.

Hai người rời khỏi đỉnh núi, ánh bình minh vừa xuất hiện ở chân trời phía đông.

o0o

Thác Bạt Khuê đứng trên đỉnh đồi nét mặt cổ quái nhìn Liệp Lĩnh ở phía xa xa khói đen bốc lên nghi ngút. Bên hắn đám Sở Vô Hạ, Trưởng Tôn Tung, Trưởng tôn Phổ Lạc và các thân binh ai nấy để lộ vẻ nghi hoặc, ngược lại chẳng ai để ý đến doanh trại Yên nhân được xây dựng giáp sông cách bọn họ chỉ năm dặm.

Trưởng tôn Phổ Lạc nói: “Có lẽ Mộ Dung Thùy ra lệnh đốt trại để tránh thủ hạ vì có đường lui mà giảm đấu chí, đây là kế ‘phá phủ trầm chu’”. 

Trưởng Tôn Tung lắc đầu: “Lương thảo đủ dùng cho sáu bảy vạn người trong một thời gian dài đâu dễ di chuyển theo đường núi gập ghềnh tới Nhật Xuất nguyên trong vòng nửa ngày một đêm. Phía Mộ Dung Thùy nhất định xảy ra sự cố nghiêm trọng rồi”.

Trưởng tôn Phổ Lạc nói: “Trời ẩm ướt thế này, tuyệt không phải là do hỏa hoạn, trừ phi... Ai! Nhưng làm sao có thể?”.

Thác Bạt Khuê liếc nhìn Sở Vô Hạ bên cạnh, thầm nghĩ khi có mặt thủ hạ đại tướng, Sở Vô Hạ biết điều không nói một lời, an phận thủ thường, hiểu biết tình đời như vậy quả thật khó kiếm.

Lạnh lùng nói: “Chuyện không thể xảy ra đã xảy ra”.

Trưởng Tôn Tung ngạc nhiên: “Ai mà có thể phóng hỏa đốt cháy lương thảo của Yên binh khi bọn họ canh phòng nghiêm mật như thế?”.

Thác Bạt Khuê ung dung đáp: “Yến Phi cộng thêm Hướng Vũ Điền có thể sáng tạo bất cứ kỳ tích gì”.

Nói chưa dứt lời, Yến Phi hiện thân ở sườn đồi bên phải, chớp mắt đã tới trước mặt mọi người.

Thân hình lực lưỡng của Thác Bạt Khuê chấn động nhìn Yến Phi: “Huynh đệ! Là các ngươi làm phải không?”.

Trưởng Tôn Tung và Trưởng tôn Phổ Lạc vội lui lại để Yến Phi tới trước mặt Thác Bạt Khuê. Yến Phi gật đầu: “Bọn ta ít nhất đốt mất của Mộ Dung Thùy một nửa số lương thực, thêm vào tổn thất của Long Thành binh đoàn, cho dù Mộ Dung Thùy dè xẻn cũng khó cự được mười ngày, dù hắn lập tức lui binh thì cũng không đủ lương về đến Trung Sơn”.

Thác Bạt Khuê hai mắt sáng rực, nói: “Không đủ ba, bốn ngày chuẩn bị đừng mong rút quân nổi, huống hồ ta còn khiến cho hắn muốn lui không được, tiến thoái lưỡng nan”.

Trưởng Tôn Tung nói: “Nếu Mộ Dung Thùy lập tức sai người phi báo với Trung Sơn, lại giả thiết Mộ Dung Bảo ở Trung Sơn trong vài ngày tập hợp đủ số lượng lớn lương thực, nhưng không có hai chục ngày cũng đừng mong chuyển được tới Nhật Xuất nguyên. Hiện tại có thể nói Mộ Dung Thùy rơi vào tuyệt cảnh, chúng ta có cơ đại thắng rồi”.

Yến Phi lắc đầu: “Mộ Dung Thùy sẽ không lui binh, bởi trong tay hắn còn có thứ để trông cậy, không phải hoàn toàn bại thế”.

Thác Bạt Khuê thở dài hỏi: “Hướng Vũ Điền đâu rồi?”.

Yến Phi đáp: “Hắn đi thông báo cho Hoang nhân, nói bọn họ tiến quân đến phía nam doanh trại Yên nhân bày trận dựng doanh tạo thế mũi nhọn với bọn ta, khống chế Mộ Dung Thùy”.

Thác Bạt Khuê nhíu mày: “Như vậy tựa hồ khác với kế hoạch ban đầu của chúng ta”.

Yến Phi bình tĩnh nói: “Ta có mấy lời muốn nói riêng với ngươi”.

Thác Bạt Khuê lộ vẻ khổ sở, nói: “Các ngươi lui hết xuống chân đồi”.

Trưởng Tôn Tung và Trưởng tôn Phổ Lạc đưa mắt nhìn nhau dẫn mọi người đi xuống, đám thân binh vội vã theo sau, Sở Vô Hạ khẽ vuốt ve lưng bàn tay Thác Bạt Khuê rồi mới bỏ đi, trong một thoáng mọi người kéo đi sạch, trên đồi chỉ còn lại Thác Bạt Khuê và Yến Phi.

Thác Bạt Khuê thở dài nói: “Nói đi, người anh em tốt của ta!”.

Yến Phi điềm đạm nói: “Hôm qua khi ngươi đồng ý ta khiêu chiến Mộ Dung Thùy, trong lòng ngươi không nghĩ là được, đúng không?”.

Thác Bạt Khuê gượng cười: “Lúc đó trong đầu ta nghĩ gì đâu có quan trọng gì, quan trọng nhất là ta chịu ủng hộ ngươi. Yến Phi chung quy vẫn là Yến Phi, chuyện không thể làm được cuối cùng lại biến thành hiện thực. Trước đây nếu Mộ Dung Thùy tiếp nhận lời thách đấu của ngươi thì hắn quá ngu xuẩn, nhưng bây giờ đấy chính là cơ hội duy nhất của hắn, bởi có quan hệ đến sinh tử tồn vong của Mộ Dung Tiên Ti tộc của hắn. Trong lòng ngươi có gì nói hết ra đi”.

Yến Phi nói: “Ta muốn đưa ra cho Mộ Dung Thùy một yêu cầu khiến hắn không thể cự tuyệt được, đó là lấy sự an toàn rút lui của hắn đổi lấy Thiên Thiên và Tiểu Thi”.

Thác Bạt Khuê rầu rĩ nói: “Như vậy không được rồi, ngươi giao cho hắn đủ lương thực, hắn rất có khả năng lật lọng không thả người. Trong tình huống này không có khả năng điều đình, căn bản không ổn”.

Yến Phi nói: “Trước tiên không bàn đến chuyện ổn hay không ổn, hãy cho ta biết ngươi có chịu hy sinh như thế không?”.

Thác Bạt Khuê khổ sở: “Ngươi không hiểu ta”.

Yến Phi bình tĩnh: “Sai rồi! Ta hiểu ngươi hơn ai hết”.

Thác Bạt Khuê ngước mắt nhìn, hai mắt lộ vẻ phẫn khái, lắc đầu: “Ta hoàn toàn không đồng ý lời ngươi. Ngươi hiểu ta cái gì chứ? Hoặc giả đúng là ngươi hiểu ta hơn bất kỳ người nào, nhưng ngươi có nghĩ giữa người với người hiểu biết lẫn nhau vẫn có những giới hạn khá lớn không? Mỗi người chúng ta đều cô độc, đều là một cá thể bị tách rời. Khi ở Tham Hợp pha ta hạ lệnh chôn sống hàng binh, ngươi có hiểu được cảm thụ trong lòng ta không? Đó là thứ tâm tình mà Yến Phi ngươi không cách gì hiểu được. Vào thời điểm ấy ta cảm thấy mình tuyệt đối cô lập, nhưng ta biết mình không còn cách nào khác, chỉ làm như vậy mới có thể đánh bại Mộ Dung Thùy, nếu ta không làm thế, ngày sau bị chôn sống sẽ là tộc nhân của ta. Ta không vì bản thân mà vì Thác Bạt tộc, mà bao nhiêu hậu quả tai hại sẽ do một mình ta chịu đựng. Ngươi biết nỗi kinh hoàng và đau khổ trong lòng ta không? Ngươi có biết ta sợ phải đi ngủ không? Trong đêm sâu không người, ta kinh hoàng tỉnh dậy từ cơn ác mộng, nhưng tất cả chỉ có thể lặng lẽ chịu đựng. Ta rất muốn có thể giống như ngươi ở Biên Hoang Tập uống rượu say sưa một mình, nhưng lại phải khổ sở khắc chế, có ai nguyện ý bán mạng cho một tên quỷ say sưa túy lúy không? Yến Phi! Cho ta hay ngươi có hiểu ta không?”.

Yến Phi không biết nói gì.

Ánh mắt Thác Bạt Khuê dịu đi, cười thảm nói: “Cơ hội cả đời ta trông đợi cuối cùng đã đến. Nói thực dù là binh lực như nhau nếu ta chính diện đối địch với Mộ Dung Thùy ta vẫn thua nhiều thắng ít, về mặt này tự ta biết rõ, chỉ có trong tình trạng không bình đẳng ta mới có thể đánh bại hắn. Vậy mà chính khi tình trạng này xuất hiện ngươi lại buộc ta bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở, ngươi hiểu rõ mâu thuẫn và đau khổ trong lòng ta chứ?”.

Yến Phi chán nản nói: “Ta còn nói gì được đây?”.

Thác Bạt Khuê ngẩng đầu hú lên thống thiết, tựa như muốn xả hết phẫn hận trong lòng, sau đó mau chóng hồi phục bình tĩnh, mỉm cười: “Huynh đệ! Ta nói như vậy không phải để xúc phạm ngươi, mà chỉ hy vọng ngươi minh bạch cảm giác của ta. Ha! Nói ra rồi dễ chịu hơn nhiều. Cho ngươi biết quyết định của ta nhé? Chỉ cần đoạt được chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên từ trong tay Mộ Dung Thùy, ta sẵn lòng trả bất cứ giá nào, hy sinh bất cứ thứ gì, chỉ có một điều kiện”.

Yến Phi vốn đã tuyệt vọng, nghe nói vậy hết sức ngạc nhiên: “Điều kiện gì?”.

Thác Bạt Khuê hoan hỉ nói: “Trước khi nói ra điều kiện, trước tiên ta muốn nói rõ vì sao ta chịu đáp ứng ngươi. Lý do rất đơn giản, bởi vì đây là cơ hội cuối cùng của ngươi, nếu bỏ lỡ e rằng ôm hận cả đời, còn ta thì dù thả hổ về rừng, nhưng tương lai vị tất đã thua”.

Tiếp đó chăm chú nhìn Yến Phi, cười nói: “Nói cho cùng ta còn trẻ hơn Mộ Dung Thùy nhiều, thời gian đứng về phía ta”.

Yến Phi ngầm thở dài. Thác Bạt Khuê trách mình không hiểu hắn, hoặc giả là mình không có cách nào hoàn toàn hiểu rõ hắn, lại cũng hoặc giả là giữa người với người vĩnh viễn không thể hiểu hết đối phương, chính Thác Bạt Khuê cũng không minh bạch tâm lý chàng.

Từ khi nắm được bí mật Tiên môn, Yến Phi đã có cách nhìn rất khác về cuộc đời, ở nhân thế này tuy chàng chỉ là khách qua đường, nhưng tình yêu của chàng với Kỷ Thiên Thiên lại là vĩnh hằng, để có thể dắt tay nhau tiến vào Động thiên phúc địa, chàng sẵn sàng trả bất cứ giá nào, kể cả dấn thân vào cuộc chiến tranh chàng căm ghét nhất, cũng như Thác Bạt Khuê vì hưng suy tồn vong của Thác Bạt tộc mà hy sinh tất cả, đó cũng là mâu thuẫn căn bản nhất giữa hai người.

Nếu có thể lựa chọn, tuyệt đối chàng không muốn để Thác Bạt Khuê bỏ lỡ cơ hội mong chờ bấy nay.

Thác Bạt Khuê tiếp tục: “Điều kiện của ta là ngươi phải công nhiên thách đấu với Mộ Dung Thùy, trước mặt thiên quân vạn mã đánh bại hắn, hạ cái chiêu bài Bắc phương đệ nhất nhân của hắn xuống”.

Yến Phi hiểu rõ, cũng cảm thấy điều kiện này của Thác Bạt Khuê chàng có thể tiếp thụ được, mà lại là biện pháp vẹn cả đôi bề. Đương nhiên đó cũng là một ván bài, cược rằng Yến Phi có thể trong tình huống có điều cố kỵ đả bại Mộ Dung Thùy một cách ngoạn mục.

Gật đầu: “Sẽ làm như ngươi nói”.

Thác Bạt Khuê hỏi: “Ngươi có chắc trong điều kiện không hại đến tính mệnh hắn đánh bại hắn không?”.

Yến Phi đáp: “Ta sẽ cố hết sức”.

Thác Bạt Khuê trầm giọng: “Khi cần thiết thì hại tính mạng hắn vẫn hơn là để hắn đánh bại ngươi”.

Yến Phi gật đầu: “Ta hiểu”.

Thác Bạt Khuê cười nói: “Ta yên tâm rồi, đợi huynh đệ Hoang nhân của ngươi tới, Mộ Dung Thùy bại cục đã thành, chúng ta sẽ hạ chiến thư với hắn, nói rõ muốn hắn trước mặt hai phe đối trận tiến hành quyết đấu, nếu hắn thắng, chúng ta sẽ lập tức dâng lên trăm xe lương đầy, từ nay ngươi sẽ không hỏi đến chuyện Kỷ Thiên Thiên nữa, ta thì lập tức dẫn quân về Thịnh Lạc, trong đời ta sẽ không bước vào Trường Thành nửa bước”.

Yến Phi chấn động nói: “Tiểu Khuê!”.

Thác Bạt Khuê nói: “Đề nghị của bọn ta ắt phải khiến Mộ Dung Thùy không thể cự tuyệt. Giả thiết người thắng là ngươi, Mộ Dung Thùy phải thả chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên ra, còn chúng ta vẫn tặng hắn trăm cỗ xe lương để hắn khỏi lo thiếu lương. Ta và Mộ Dung Thùy trước mặt mọi người lập lời thề để không ai dám thất tín với thiên hạ”.

Yến Phi thở dài.

Thác Bạt Khuê nhíu mày: “Chẳng phải ta đã nói đúng điều ngươi muốn hay sao? Vì sao vẫn bộ dạng đầy lo lắng như thế?”.

Yến Phi gượng cười: “Ta đang lo sợ”.

Thác Bạt Khuê ngạc nhiên: “Sợ cái gì?”.

Yến Phi nhìn vào mắt hắn đáp: “Ta sợ ngươi lừa ta”.

Thác Bạt Khuê thất thanh: “Lừa ngươi?”.

Yến Phi nét mặt ngưng trọng chậm rãi trả lời: “Lúc ta đánh bại Mộ Dung Thùy chính là lúc Yên quân yếu nhất, nếu ngươi nắm được thời cơ xua quân tấn công, rất nhiều khả năng đánh bại Yên nhân, ta chính là sợ ngươi không chịu bỏ qua cơ hội đó”.

Thác Bạt Khuê nhìn Yến Phi một lúc lâu, gật đầu: “Đúng là ngươi hiểu rõ ta hơn người khác, ta cũng không định giấu ngươi, đích xác ta có ý tưởng đó. Nhưng ngươi cứ yên tâm, ta đã sớm bỏ đi ý định này, bởi ta không muốn phải ân hận suốt đời và cảm thấy có lỗi với ngươi, không phải vì những việc ngươi đã làm cho ta mà vì ngươi là huynh đệ tốt của ta. Nếu Thác Bạt Khuê ta lừa dối ngươi, hãy để cho ta nước mất tộc tan, chết không an lành. Như vậy đủ chưa?”.

Yến Phi ngượng ngùng: “Coi như ta trách lầm ngươi”.

Thác Bạt Khuê lướt tới bên cạnh Yến Phi, đưa tay ôm lấy vai chàng trỏ về phía doanh trại Mộ Dung Thùy xa xa, buông dài một hơi thở nói: “Người anh em! Hạnh phúc tương lai của ngươi ở đó. Từ khi mẫu thân ngươi mất đi, ta luôn nghĩ trăm phương ngàn kế muốn ngươi vui vẻ lại, nhưng luôn không thành công. Hiện tại giải dược duy nhất ở trước mắt, Thác Bạt Khuê lại tàn nhẫn đưa tay phá hoại tương lai của ngươi sao? Trong chuyện này ngươi có thể tuyệt đối tín nhiệm ta, sự tín nhiệm lẫn nhau giữa chúng ta chính là mấu chốt thành bại trong cuộc chiến này”.

Yến Phi lòng rất cảm động, chàng rất rõ tính cách Thác Bạt Khuê, tuy rằng rất nhiều chuyện hắn hành động bất kể thủ đoạn, nhưng tuyệt đối không mang tồn vong dân tộc ra mà thề, điều đó chứng minh thành ý của hắn.

Thác Bạt Khuê hỏi: “Ngươi có nghĩ đến một tình huống không?”.

Yến Phi đáp: “Có phải là Mộ Dung Thùy không chịu ứng chiến, chỉ dùng Thiên Thiên và Tiểu Thi uy hiếp Hoang nhân lập tức lui binh không?”.

Thác Bạt Khuê bật cười: “Ta nghĩ đến tình huống khác, Mộ Dung Thùy hẳn không ngu xuẩn như vậy, bởi trong tình hình thiếu lương, làm hại đến Thiên Thiên của ngươi khẳng định Mộ Dung Thùy chỉ còn đường chết. Ta nghĩ rằng Mộ Dung Thùy chịu đánh cuộc, nhưng không chịu thua, không chịu theo lời hứa trao trả Thiên Thiên và Tiểu Thi”.

Yến Phi nói: “Lúc đó chúng ta chẳng còn lựa chọn nào, đành toàn lực tiến công, cùng Mộ Dung Thùy quyết thắng sa trường”.

Thác Bạt Khuê trầm ngâm một thoáng, gượng cười: “Đó chính là tình huống ta sợ nhất. Binh lực Mộ Dung Thùy vẫn nhiều hơn, nếu hắn cố ý kích nộ dụ ta tấn công, quyền chủ động nằm trong tay hắn, nếm đòn đau chính là chúng ta. Vì vậy cần chuẩn bị tâm lý, trong bất kỳ tình huống nào cũng phải nhẫn nại, nhẫn nại đến khi Mộ Dung Thùy cạn lương là sẽ thắng”.

Yến Phi biến sắc: “Nếu hắn xử quyết Thiên Thiên và Tiểu Thi thì sao?”.

Thác Bạt Khuê cười khổ: “Ngươi muốn báo thù cho họ nhất định phải cực kỳ nhẫn nại, đó là phương pháp duy nhất để đánh bại Mộ Dung Thùy, đơn đả độc đấu hắn không chắc là đối thủ của ngươi, nhưng trên sa trường không ai làm gì nổi hắn. Dù chúng ta có ý muốn liều mạng, nhưng thủy chung vẫn là tấm thân huyết nhục, chỉ cậy sức mạnh tất sẽ bại vong”.

Yến Phi rầu rĩ nói: “Hiểu rồi”.

Thác Bạt Khuê khẽ cười: “Tiểu Phi dù gì cũng chớ nản lòng, chiến trường thiên biến vạn hóa, cơ hội không ngừng xuất hiện. Bằng Điệp Luyến Hoa của ngươi, cộng thêm Hướng Vũ Điền, chỉ cần nắm được sơ hở nào đó của đối phương, không chừng lại có thể sáng tạo kỳ tích”.

Yến Phi trở lại bình tĩnh, gật đầu: “Ta sẽ tuyệt đối không để mất ý chí. Hướng Vũ Điền đang chờ, ta phải đi đây”.

Thác Bạt Khuê buông chàng ra, nghiêm túc nói: “Ta sẽ dùng mọi lực lượng đoạt mỹ nhân từ tay Mộ Dung Thùy về cho ngươi”.

Yến Phi vỗ vai hắn, một mình bỏ đi.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=67#ixzz1bzoiJ4DH

Thuyền Lưu Dụ đến Tầm Dương làm cho cả thành tưng bừng nhộn nhịp, dân chúng tranh nhau đến hoan nghênh, đám Lưu Nghị, Hà Vô Kỵ, Ngụy Vịnh Chi, Trình Thương Cổ, Lão Thủ và Cao Ngạn hộ tống thẳng tới phủ thái thú.

Ngồi xuống xong đâu đấy, Lưu Dụ trước tiên hỏi đến trận chiến Tang Lạc châu, Lưu Nghị lập tức mặt mũi hớn hở tường thuật lại rất sinh động. Lưu Dụ chỉ nhìn thần sắc phản ứng của đám Hà Vô Kỵ là biết Lưu Nghị nói quá về công lao bản thân, bất quá thời khắc này đâu rảnh để tính toán với hắn.

Lưu Dụ nghe xong trước hết khen ngợi mọi người, đoạn hỏi đến tình huống Hoàn Huyền.

Ánh mắt mọi người đều dồn vào Cao Ngạn, hiển nhiên gã thủ tịch phong môi Biên Hoang Tập dù ở rõ xa Biên Hoang vẫn có tin tức thông linh nhất.

Cao Ngạn hân hoan nói: “Hoàn Huyền khiến ta nghĩ đến con rết trăm chân chết còn ngọ nguậy, gốc gác nhà y ở Kinh Châu quả thật hết sức sâu rộng, trở lại Giang Lăng mới hơn hai chục ngày đã tập kết được hai vạn binh lực, chiến thuyền hơn một trăm chiếc trang bị hoàn chỉnh, bề ngoài hùng hổ, nhưng bọn ta hiểu rằng y ngoài mạnh trong yếu, không chịu nổi một đòn”.

Lưu Dụ mỉm cười: “Con rết trăm chân chết đi còn ngọ nguậy, đúng là mô tả rất chính xác về Hoàn Huyền, chúng ta tuyệt không thể coi thường mà phải đấu trí đấu lực với y, nếu không dù có thắng cũng thương vong nặng nề, không lợi cho tương lai”.

Lại cười hỏi: “Vì sao không thấy Tiểu Bạch Nhạn đâu?”.

Cao Ngạn nhẹ nhàng như không: “Tiểu Nhạn nhi của ta tuy đã làm vợ nhưng vẫn còn thẹn thò sợ gặp mọi người”.

Câu trả lời của hắn gây nên một trận cười ầm ĩ trong phòng.

Trình Thương Cổ lim dim mắt cất giọng eo éo: “Tiểu Bạch Nhạn gả cho ngươi từ bao giờ? Dường như ta còn chưa được uống rượu mừng của các ngươi”.

Cao Ngạn ngang nhiên chẳng chút ngượng ngập: “Chờ thêm ít lâu nữa sẽ có rượu mừng, mà nhất định sẽ không nhận sót phần lễ vật của Đổ Tiên ngươi”.

Trong lòng Lưu Dụ dâng lên cảm giác hết sức ấm áp, hồi tưởng năm ấy ở Biên Hoang Tập, Cao Ngạn vừa nhìn thấy Doãn Thanh Nhã lập tức say mê thần hồn điên đảo, tựa như chuyện mới xảy ra hôm qua, khi ấy mình còn dùng lời lẽ nghiêm khắc cảnh cáo hắn chớ đùa với lửa, đâu nghĩ rằng đó lại là khởi đầu của mối lương duyên trời định. Chuyện đời khó liệu cũng chỉ đến vậy là cùng.

Hà Vô Kỵ nói: “Báo cáo đại nhân, bảo đảm đại nhân không tin, hôm trước Hoàn Huyền sai người đến thuyết phục, nói nếu bọn tôi chịu rút khỏi Tầm Dương, giải tán quân đội thì sẽ để bọn tôi một cơ hội sửa chữa sai lầm. Mẹ nó chứ! Hoàn Huyền đang nằm mơ chắc?”.

Ngụy Vịnh Chi xì một cái nói: “Y đúng là kẻ mộng nói mê”.

Lưu Dụ nhíu mày: “Điều này thể hiện Hoàn Huyền vẫn rất tự tin, vì sao y có niềm tin như vậy?”.

Lưu Nghị đáp: “Nói cho cùng vẫn là do quan hệ cao môn hàn môn mà ra. Tướng lĩnh một giải Kinh Châu toàn xuất thân từ cao môn đại tộc, nhiều đời chịu ân Hoàn gia, luôn ôm mối hoài nghi với đại nhân, vì vậy Hoàn Huyền mới có thể trong một thời gian ngắn ngủi tại đó chỉnh đốn binh lực, tập trung đại quân. Hiện giờ Lưỡng Hồ quân ở Ba Lăng đã chuyển đến Tầm Dương, Mao Tu Chi trấn giữ thành Bạch Đế không dám vọng động, khiến Hoàn Huyền có thể toàn lực đối phó chúng ta. Với tính cách cuồng vọng tự đại của Hoàn Huyền, cộng thêm lợi thế thuận dòng, rất nhiều khả năng sẽ nhân lúc chúng ta trên đường Bắc thượng thuận dòng phản kích, chúng ta không hẳn đã chiếm hết thượng phong”.

Dù rằng Lưu Dụ trong lòng có ý giới bị với Lưu Nghị, nhưng cũng không thể không thừa nhận ý kiến Lưu Nghị rất có kiến giải, đồng thời nghĩ nếu quả hắn trở thành địch nhân của mình, tuyệt đối sẽ không dễ ứng phó.

Gật đầu: “Lưu huynh nói rất đúng, vì vậy nếu muốn đánh bại Hoàn Huyền thì không thể chỉ bằng dũng lực, cần phải phân hóa những người ủng hộ y, nếu không dù có chém chết được Hoàn Huyền thì hậu hoạn vẫn không dứt”.

Tiếp đó lại nói: “Các vị có đề nghị gì không?”.

Mọi người đều lộ vẻ lúng túng, đúng như Lưu Nghị nói, cao môn hàn môn không phải là chuyện mới xảy ra một sớm một chiều, hai bên không có cơ sở để tin tưởng lẫn nhau, tướng lĩnh cao môn ủng hộ Hoàn Huyền không hẳn là vì có hảo cảm với y, mà là vì hy vọng bảo vệ được đặc quyền và lợi ích của mình.

Lưu Dụ trong bụng đã sẵn định kiến nói: “Quan hệ Hoàn Huyền và tướng lĩnh Kinh Châu mới nhìn thì có vẻ rất chắc chắn, sự thực lại hết sức mong manh, chỉ cần chúng ta cho bọn họ hiểu rằng lợi ích của họ sẽ không tổn hại là có thể đạt được mục tiêu phân hóa bọn họ”.

Trình Thương Cổ nhíu mày: “Vấn đề là bọn họ căn bản không tín nhiệm chúng ta, chưa kể bọn họ trong thâm tâm thực sự không coi trọng hàn nhân”.

Lưu Dụ nói: “Chúng ta có thể dùng thành ý tác động bọn họ”.

Lưu Nghị hỏi: “Làm thế nào để bọn họ cảm thấy thành ý của ta?”.

Lưu Dụ hỏi: “Chúng ta có thể tìm trong đám người ủng hộ Hoàn Huyền một người có tiếng tăm và ảnh hưởng làm điểm đột phá. Ở Kiến Khang ta trọng dụng Vương Mật, lập tức khiến cho cao môn Kiến Khang an lòng, bây giờ lại dùng kế cũ, bảo đảm vẫn mang lại hiệu quả thần kỳ”.

Mọi người không ai không chấn động tinh thần. Trừ Trình Thương Cổ và Cao Ngạn ai nấy đều hiểu rõ uy lực của hiệu ứng Vương Mật.

Đầu óc Hà Vô Kỵ trở lại linh hoạt nói: “Người như thế không ai hơn đại tướng Hồ Phiên của Hoàn Huyền, người này trung lương chính trực, uy tín ở Kinh Châu cực cao, xưa nay không ưa Hoàn Huyền, tuy thế muốn lay chuyển hắn cũng không dễ”.

Lưu Dụ nói: ”Để hắn biết Hoàn Huyền dùng độc giết anh thì thế nào?”.

Trình Thương Cổ vỗ đùi: “Đây chính là tuyệt kế để làm giảm sút ủng hộ của quân dân Kinh Châu đối với Hoàn Huyền, nhưng đại nhân có bằng cứ chính xác không?”.

Lưu Dụ đầy tin tưởng: “Nhân chứng vật chứng sớm đã bị Hoàn Huyền hủy diệt. Bất quá ta đã nắm chắc tình huống xác thực Hoàn Huyền giết anh, Hồ Phiên ắt là người biết rõ tình hình năm đó Hoàn Xung đột nhiên bệnh chết, chỉ cần đem sự thật năm ấy ấn chứng với lời ta, đương nhiên hắn sẽ biết đưa ra phán đoán chính xác. Người này hiện giờ ở đâu?”.

Ngụy Vịnh Chi đáp: “Hồ Phiên là một trong các tướng Kinh Châu tham gia chiến dịch Tang Can hà, thuyền hắn bị hỏa tiễn đốt cháy, toàn thân giáp trụ mà vẫn lặn dưới nước hơn mười trượng trèo lên bờ thoát thân, nhưng vì toàn bộ đường thủy đường bộ về Kinh Châu bị quân ta phong tỏa, hắn đành phải trốn đến một hương thôn quanh đây”.

Hà Vô Kỵ cười: “Coi như tiểu tử đó vận đỏ đi, vì chúng ta đang chuẩn bị tới bắt hắn”.

Chỉ nghe đám Ngụy Vịnh Chi nắm vững phương hướng và tình huống đào tẩu của Hồ Phiên như trong lòng bàn tay là biết bọn họ đã khống chế mọi chuyện, nắm được chủ động.

Lưu Dụ nói: “Ta sẽ thân tới gặp hắn để biểu thị thành ý”.

Mọi người đều khen hay.

Trình Thương Cổ nói: “Giả sử chuyện xấu xa giết anh của Hoàn Huyền từ miệng Hồ Phiên truyền bá rộng rãi, Hoàn Huyền sẽ có phản ứng gì?”.

Lưu Dụ mỉm cười: “Đương nhiên chuyện đó buộc y càng mong thắng gấp để tránh đêm dài nhiều mộng, lòng quân càng thêm bất ổn. Việc đi gặp Hồ Phiên không trì hoãn được nữa, ta muốn lên đường ngay”.

Ngụy Vịnh Chi xung phong: “Để tôi dẫn đường”.

Lưu Dụ trầm giọng nói: “Hồ Phiên ảnh hưởng nhiều nhất đến tướng lĩnh Kinh Châu, nhưng dân chúng thì ta cũng phải tốn một phen công phu, cũng phải truyền bá rộng rãi chuyện Hoàn Huyền giết anh trong dân chúng”.

Cao Ngạn vỗ ngực: “Chuyện đó để ta lo, cố sự ‘Hoàn Huyền giết anh’ trong vòng ba ngày sẽ được bàn tán khắp đầu đường cuối ngõ ở Giang Lăng”.

Lưu Dụ nói: “Cao Ngạn ngươi cũng đồng thời loan báo bất kỳ ai lấy được đầu Hoàn Huyền mang đến gặp ta đều nhận được trăm lượng hoàng kim”.

Lại trầm giọng nói: “Ta không nghĩ rằng lại phải nhờ sức người khác lấy đầu Hoàn Huyền, mục đích là khiến Hoàn Huyền thần hồn nát thần tính, đi mỗi bước đều kinh hoàng, nếm trải cay đắng chúng bạn rời bỏ, buộc y phải dốc toàn lực quyết chiến một trận trên Đại Giang với chúng ta”.

Mọi người nhất loạt đồng ý.

Lưu Dụ mỉm cười: “Mọi việc tiến hành theo như kế hoạch, hy vọng khi ta trở về thuyền đội của Hoàn Huyền đã rời khỏi Giang Lăng”.

Nói xong lập tức đứng lên, mọi người cũng vội vã đứng dậy.

Cao Ngạn nét mặt cổ quái nói: “Ta có mấy lời muốn nói riêng với Lưu gia”.

Lưu Dụ vui vẻ: “Chúng ta vừa đi vừa nói được không?”.

o0o

Thảo nguyên phía tây Thái Hành sơn.

Đại quân Biên Hoang dừng lại trước khi trời tối cắm trại hai bên bờ một dòng sông nhỏ nổi lửa nấu cơm. Chỉ còn cách Nhật Xuất nguyên hai ngày đường, không ai dám lơi lỏng, thám tử do Diêu Mãnh và Tiểu Kiệt chỉ huy phóng ngựa trinh sát tứ phía, đồng thời bố trí canh gác trên các cao điểm.

Vương Trấn Ác, Bàng Nghĩa, Mộ Dung Chiến, Thác Bạt Nghi, Trác Cuồng Sinh, Đồ Phụng Tam, Hồng Tử Xuân, Cơ Biệt bảy lãnh tụ Hoang nhân lên mỏm đồi cao phía bắc quan sát hình thế xa gần, lợi dụng lúc trời chưa tối hẳn nghiên cứu lộ tuyến hành quân ngày mai.

Bắt đầu từ ngày hôm qua bọn họ đổi cách hành quân từ ngày nghỉ đêm đi thành ngày đi đêm nghỉ đề phòng Mộ Dung Thùy phái quân mượn bóng đêm tập kích, đối với kẻ dụng binh như thần Mộ Dung Thùy, Hoang nhân dù có mắt cao tới trời cũng không dám coi thường vì đã từng lĩnh giáo thủ đoạn của hắn.

Hồng Tử Xuân ngẩng đầu nhìn trời nói: “Coi sắc trời thì mấy ngày tới đây thời tiết vẫn còn tốt”.

Thái Hành sơn ở phía bên phải trải dài ngàn dặm, cao lớn hùng vĩ, đỉnh non sừng sững, chập chùng hiểm trở, cây rừng xanh thẳm, vách núi âm u, quái thạch lởm chởm, hoa núi rực rỡ, thật đáng để chiêm ngưỡng.

Cơ Biệt nói: “Mộ Dung Thùy tựa hồ không có động tĩnh gì, rốt cuộc là lành hay dữ đây?”.

Bàng Nghĩa lo lắng: “Yến Phi và Hướng Vũ Điền đáng ra phải về rồi, đến bây giờ vẫn chẳng thấy bóng dáng đâu, thật khó yên tâm”.

Đồ Phụng Tam khẽ cười: “Không việc gì phải lo cho bọn hắn, bọn hắn không lập tức chạy về gặp bọn ta hẳn là vì đoán đúng Mộ Dung Thùy không có hành động gì, nếu ta không lầm Thác Bạt tộc đã kiềm chế được Mộ Dung Thùy rồi. Thác Bạt đương gia, suy đoán của ta hợp lý chứ?”.

Thác Bạt Nghi đáp: “Tệ chủ hẳn đã ổn định được trận thế ở Nguyệt Khâu, theo thói quen của tệ chủ tất đã có kế hoạch hoàn chỉnh để chống lại Mộ Dung Thùy toàn lực công kích, sẽ không để bị Mộ Dung Thùy dễ dàng công phá”.

Trác Cuồng Sinh hân hoan: “Trận này chúng ta đã chiếm hết thượng phong, nắm chắc chủ động, thời điểm chúng ta tới Nhật Xuất nguyên hẳn Mộ Dung Thùy sẽ biết đại thế đã mất, bởi vì chúng ta thì binh khỏe lương nhiều, Mộ Dung Thùy thì hậu viện không đủ, đường vận lương quá dài, nếu cầm cự lâu thì địch nhân sẽ thiệt thòi lớn”.

Mộ Dung Chiến đầy lo lắng nói: “Nếu đối thủ không phải là Mộ Dung Thùy ta sẽ đồng ý với nhận xét của quán chủ. Mộ Dung Thùy là người từng trải qua nhiều sóng gió, huống hồ binh lực hắn vẫn nhiều gấp đôi chúng ta, đáng lo là Thiên Thiên và Tiểu Thi đang trong tay hắn, nếu hắn đem tính mạng họ ra uy hiếp, e rằng chúng ta sẽ bị hãm vào tình thế bế tắc”.

Vương Trấn Ác cười khổ nói: “Hắn chẳng cần dùng tính mệnh Thiên Thiên tiểu thư và Tiểu Thi thư uy hiếp chúng ta, chỉ cần mang theo họ rút lui về Trung Sơn thì chúng ta làm gì? Truy kích ư? Biết rõ là cái bẫy chết người mà vẫn phải đâm đầu vào”.

Bàng Nghĩa biến sắc: “Làm sao bây giờ? Trước đây ngươi chẳng hề đề cập đến khả năng này, bây giờ mới lại nói tới”.

Thác Bạt Nghi nói: Lão Bàng chớ trách Trấn Ác, sự thật ai nấy đều đã có tính toán nhưng không nói ra thôi, chúng ta chỉ có thể đến đâu tính đến đó thôi”.

Vương Trấn Ác nói: “Trên chiến trường chớp mắt đã có hàng vạn biến hóa, rất nhiều chuyện đến khi xảy ra mới có thể quyết định. Đến Nhật Xuất nguyên rồi thì tình thế sẽ rõ ràng, lúc đó sẽ lại nghĩ cách”.

Trác Cuồng Sinh nói: “Bàng lão bản đừng lo, ta thấy Tiểu Phi và tiểu Hướng hai tiểu tử nhấm nháy nhau tựa hồ đã có cách, bất quá vì chuyện chưa thành nên không nói ra. Chúng ta phải tin vào Yến Phi, hắn đã làm nên nhiều kỳ tích, lần này chắc cũng không ngoại lệ”.

Mộ Dung Chiến gật đầu: “Đúng! Chẳng phải Yến Phi đã nói sẽ tạo ra một tình thế khiến Mộ Dung Thùy khuất phục hay sao? Bọn họ sở dĩ chưa về có khả năng là đang nỗ lực theo phương hướng này”.

Cơ Biệt thở dài: “Đó là cách nghĩ lạc quan nhất. Nói thật là càng tới gần Nhật Xuất nguyên ta càng lo sợ, Mộ Dung Thùy đâu phải là người dễ đối phó”.

Vương Trấn Ác trầm giọng nói: “Mộ Dung Thùy là người gia gia ta e ngại nhất, từng nhiều lần khuyên Phù Kiên phải trừ khử hắn, chỉ là ngay cả Phù Kiên cũng không có gan làm, lo như thế sẽ khiến đế quốc chia năm xẻ bảy”. 

Trác Cuồng Sinh nói: “Đừng nói những lời khiến người ta thất vọng chán nản đi, Mộ Dung Thùy thì làm sao? Chúng ta có thể hành quân đến tận đây đủ thấy Mộ Dung Thùy cũng có nhược điểm và sơ hở”.

Đồ Phụng Tam chấn động la: “Ha! Coi ai đến kìa!”.

Mọi người nhìn theo tay hắn trỏ, dưới tia sáng hoàng hôn cuối cùng, hai bóng người xuất hiện ở chân trời xa xa phi như bay đến.

Bàng Nghĩa mừng rỡ: “Là Tiểu Phi và lão Hướng”.

Cơ Biệt ước ao: “Hy vọng bọn họ mang vè tin tức tốt lành, hiện giờ ta rất yếu đuối, không thể chịu nổi bất kỳ đả kích nào”.

Yến Hướng hai người chớp mắt đã tới đỉnh núi cách đó hơn một dặm, đưa tay vẫy mọi người.

Trác Cuồng Sinh cười nói: “Coi bọn họ mạnh như rồng như hổ thế kia là biết bọn họ đã nắm chắc phần thắng, không để chúng ta thất vọng đâu. Ha! Thiên thư của ta chắc sẽ có kết cục trọn vẹn rồi”.

Đoạn đưa tay vỗ vào túi đeo lưng nói: “Nếu không thì ta sẽ đem Thiên thư ra đốt sạch, bởi sẽ không làm sao viết tiếp được”.

Hai người mau chóng tới gần, cuối cùng chạy nhanh lên sườn núi.

Bàng Nghĩa nhịn không được, hét to: “Là tin tốt hay tin xấu đây?”.

Hướng Vũ Điền cười lớn: “Đương nhiên là tin tốt, lập tức cử hành Chung lâu nghị hội tạm thời để bọn ta đưa ra lời bố cáo khiến ai nấy đều phấn khởi”.

Nói đến câu cuối cùng, hai người đã tới trước mặt chúng nhân.

Mọi người đồng thanh hoan hô hò hét, không khí nặng nề bay sạch.

o0o

Lưu Dụ và Cao Ngạn sóng vai bước ra cửa, đi xuống bậc thềm, Lưu Dụ thấy hắn vẫn ngập ngừng tựa hồ khó mở miệng, ngạc nhiên: “Có chuyện gì khó nói ra miệng sao?”.

Cao Ngạn đưa mắt cho gã.

Lưu Dụ hiểu ý ra hiệu cho tả hữu tránh xa, nói: “Yên tâm nói đi”.

Cao Ngạn ghé sát tai Lưu Dụ nói: “Tiểu Bạch Nhạn nhờ ta cầu xin lão ca ngươi, hy vọng có thể buông tha cho Hồ Khiếu Thiên”.

Lưu Dụ nghĩ đi nghĩ lại mới nhớ ra Hồ Khiếu Thiên là gian tế Nhiếp Thiên Hoàn cài vào Đại Giang bang, đồng thời chợt phát giác bản thân không hề nghĩ đến mối thù của Giang Hải Lưu, bất giác cảm thấy hổ thẹn. Nói: “Cao tiểu tử ngươi đã nói, đương nhiên ta phải thân đảm đương việc này, sẽ không truy cứu hắn nữa, bảo Thanh Nhã yên tâm”.

Cao Ngạn không ngờ nói chuyện với Lưu Dụ dễ dàng như thế hết sức mừng rỡ, nhưng lại hoài nghi hỏi: “Đại tiểu thư không vấn đề gì chứ?”.

Lưu Dụ nhớ lại dáng vẻ Giang Văn Thanh lúc tiễn biệt, hân hoan nói: “Đại tiểu thư làm sao có vấn đề được? Bây giờ không những nàng không rảnh quan tâm chuyện giang hồ mà còn chẳng hứng thú hỏi đến bất cứ chuyện gì khác, chỉ cần chúng ta giết chết Hoàn Huyền là được rồi. Huống hồ lại là Cao tiểu tử ngươi tự mình xin cho Hồ Khiếu Thiên, về phía nàng ngươi càng không phải lo”.

Cao Ngạn cảm thấy hết sức vinh dự nói: “Ngươi quả rất trọng tình bằng hữu, Lưu Dụ vẫn là Lưu Dụ ngày trước”.

Lưu Dụ cười mắng: “Ngươi nghĩ ta là người nào? Bớt nói lời thừa đi, có phải ngươi chuẩn bị ở lại Lưỡng Hồ không?”.

Hai mắt Cao Ngạn phóng ra những tia sáng khao khát, mơ màng nói: “Giết chết Hoàn Huyền rồi ta sẽ cùng Tiểu Bạch Nhạn tới Biên Hoang Tập nghe Kỷ Thiên Thiên đàn ca hát xướng trên đỉnh Chung lâu, sau đó sẽ hưởng thụ ít ngày khoái lạc ở Biên Hoang Tập, sau đó sẽ coi tâm ý Tiểu Bạch Nhạn, nàng thích trở về Lưỡng Hồ mà! Ta theo nàng về đó, chỉ cần nàng cao hứng là được”.

Lưu Dụ cười: “Người ta bảo lấy chồng theo chồng, ngươi thì lại cưới vợ theo vợ, tiểu tử ngươi thật hạnh phúc”.

Cao Ngạn xúc động nói: “Năm ấy do ta các ngươi mới có cơ hội đến gặp Kỷ Thiên Thiên, ngờ đâu lại tạo thuận lợi cho tiểu tử Yến Phi, thực sự ta đã ghen tỵ suýt chết, đâu ngờ vận đỏ chớp mắt đã rớt lên đầu tiểu đệ. Sở dĩ ta và Nhã nhi có được ngày hôm nay đương nhiên là tự mình nỗ lực, nhưng nếu không có các vị đại ca giúp đỡ thì chắc chắn sẽ không có cục diện này, trong thâm tâm ta hiểu rất rõ”.

Trong lòng Lưu Dụ thực sự cảm khái, so với gã Cao Ngạn đơn thuần hơn nhiều, trước lúc gặp Tiểu Bạch Nhạn thì ra sức kiếm tiền, ra sức tiêu tiền. Còn nhớ khi bản thân mình một lòng một dạ tham gia chiến dịch Phì Thủy thì tiểu tử này còn yêu cầu mình tới Kiến Khang giúp hắn chơi bời, bây giờ thì hắn cái gì cũng đủ. Khổ thân mình sau khi giết chết Hoàn Huyền rồi còn phải trở lại Kiến Khang đối diện với cuộc đấu tranh vĩnh viễn không ngừng nghỉ. Ai là người thông minh hơn quả thực đã quá rõ.

Lưu Dụ nói: “Có muốn làm quan không? Ta có thể để ngươi làm phó cho lão Trình”.

Cao Ngạn nhảy dựng lên: “Vạn lần không được! Nếu không Nhã nhi sẽ đạp ta xẹp lép”.

Lưu Dụ thở dài: “Nhã nhi của ngươi khẳng định là người thông minh, làm quan thực sự không dễ dàng”.

Lúc này Ngụy Vịnh Chi tự dẫn ngựa đến, cười nói: “Các vị nói xong rồi chứ?”.

Lưu Dụ vỗ vai Cao Ngạn: “Hưởng thụ cho hết ơn trời, bây giờ ngươi không cần ghen tỵ với ai hết, mà người hâm mộ ngươi nhất định không ít, trong đó có cả ta”.

Cao Ngạn hân hoan: “Đi mau về mau, giết chết Hoàn Huyền rồi Nhã nhi sẽ không còn tâm sự gì nữa”.

Lưu Dụ tiếp lấy dây cương từ Ngụy Vịnh Chi nhảy lên lưng ngựa.

Ngụy Vịnh Chi và hơn chục tùy tòng đồng loạt lên ngựa theo Lưu Dụ ra khỏi cửa viện phóng đi như gió.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=67#ixzz1bzokjSRJ

Qua hai ngày đêm nỗ lực không nghỉ, Yên nhân dựng được một khu doanh trại theo kiểu ‘tiệm sách’, tức là lấy gỗ trồng thành hàng rào, xung quanh đào hào. Lều trại được bố trí sát ven sông, dùng bốn cây cầu phao nối giữa hai bờ sông Tang Can hà, xung quanh chặt cây dựng rào, tạo thành một loại công sự phòng ngự có thể chống lại kình tiễn và đá tảng, hàng rào gỗ cao thấp không đều ở các góc tường cho phép lính bắn cung nấp đằng sau xạ tiễn, phía sau hàng rào còn có hầm sâu, dù hàng rào bị phá địch nhân cũng khó vượt qua bên kia.

Sau khi hoàn thành hàng rào phòng ngự, Yên nhân mới thở phào nghỉ ngơi chuẩn bị ứng phó với chiến sự sắp xảy ra.

Từ hàng phòng ngự vành ngoài vào đến doanh trướng gần nhất chừa khoảng cách gần ngàn bộ để phòng địch nhân chơi bài cũ dùng Thần hỏa phi nha tập kích doanh trại. Trận địa ở bờ nam Tang Can hà lớn hơn bên đối ngạn tới ba, bốn lần, vắt ngang Nhật Xuất nguyên, dài tới bốn dặm, nếu Yên nhân theo đông doanh rút lui, doanh trại sẽ trở thành một chướng ngại khổng lồ ngăn trở truy binh đối phương.

Nằm sát bên hàng rào phòng ngự là ba chục đài quan sát, có thể giám thị tình thế gần xa không bỏ sót điểm nào, khi tác chiến lại có thể dùng làm tiễn lâu từ trên cao xạ kích địch nhân.

Doanh trại nhấp nhô trên thảo nguyên nam bắc, rõ ràng Yên nhân không hổ danh vô địch hùng sư phương Bắc với khả năng chuẩn bị chiến dịch tuyệt vời, mặc dù vừa bị địch nhân đốt cháy đại bộ phận lương thực vẫn không hề tỏ ra hốt hoảng.

Với ưu thế về binh lực, cộng thêm doanh trại phòng ngự kiên cố, sự sùng bái và niềm tin của tướng sĩ đối với Mộ Dung Thùy, có thể nói Yên nhân đã lập thành thế trận bất bại, vấn đề duy nhất chỉ còn là lương thực, khi hết lương thì dù Yên nhân ba đầu sáu tay cũng không chống nổi ma đói, cuối cùng cũng đến mặc cho đối phương mổ thịt. Quan trọng là trước khi tình huống đáng sợ đó xuất hiện liệu Mộ Dung Thùy có thể dẫn đầu Yên nhân đại phá Thác Bạt tộc và Hoang nhân hay không?

Tình huống cực kỳ vi diệu.

Chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên bị an trí trong lều trướng nằm ở vòng rào phía trong, do Phong Nương cầm đầu cao thủ cai quản. Hàng rào gỗ quây thành một khuôn viên chừng năm trăm bộ, nằm ở doanh trại bên nam ngạn, cách sông chừng hai ngàn bộ, nếu có nguy cơ có thể mau chóng mang chủ tỳ họ sang bắc ngạn, sắp xếp này đích xác đã phải tốn không ít công phu suy tính.

Đêm nay tiết trời cực đẹp, bầu trời đêm chi chít sao giăng, khí hậu ôn hòa.

Kỷ Thiên Thiên và Tiểu Thi ngồi bên ngoài trướng, tầm mắt bị rào gỗ cản trở, chỉ có ngẩng lên nhìn trời mới cảm nhận được tự do mất đi đã lâu.

Kỷ Thiên Thiên nói với Tiểu Thi vẻ mặt tê dại: “Thi Thi, đừng sợ nha!”.

Tiểu Thi thảm thiết: “Tiểu thư!”.

Kỷ Thiên Thiên thấp giọng: “Thi Thi nên khoan khoái mới phải! Thời khắc tối hậu cuối cùng đã tới, chúng ta có hy vọng thoát thân rồi”.

Tiểu Thi cúi đầu nói: “Tiểu thư không thấy thái độ Yên nhân đối với chúng ta thay đổi rất nhiều ư? Đại nương cũng không còn vui vẻ nữa. Tiểu Thi có chuyện gì cũng chẳng quan trọng, sợ nhất là bọn họ làm gì bất lợi với tiểu thư”.

Kỷ Thiên Thiên nhớ đến ánh mắt cừu địch của Yên nhân mấy ngày gần đây, trong lòng cũng thấy rất khó chịu.

Đáp: “Yến Phi đốt cháy lương thực của họ mà! Bọn họ không có chỗ nào phát tiết oán hận đành trút lên chúng ta. Nhưng Thi Thi không lo, Mộ Dung Thùy không dám đối xử với chúng ta như thế đâu, bởi chúng ta đã thành bùa hộ mệnh của hắn rồi”.

Tiểu Thi rất ngạc nhiên hỏi: “Tiểu thư luôn ở cùng muội, làm sao biết lửa ở sơn trại là do Yến công tử đốt lên?”.

Kỷ Thiên Thiên khẽ cười: “Thi Thi muốn biết đáp án ư?”.

Tiểu Thi gật đầu khẳng định

Kỷ Thiên Thiên khẽ nói: “Còn nhớ ta nói có khả năng truyền tin từ xa với Yến Phi không? Khi ấy Thi Thi còn sợ ta phát điên, lo lắng muốn chết. Bây giờ ta nhắc lại lần nữa, tình huống Thi Thi khó tin đó thực sự tồn tại, vì vậy chúng ta không hề cô lập. Lần này kế kỳ binh của Mộ Dung Thùy bị phá tan là do ta báo tin cho Yến Phi. Hiện tại Mộ Dung Thùy rơi vào tuyệt cảnh thiếu lương, còn huynh đệ Hoang nhân của chúng ta chỉ cách đây hai ngày phi ngựa. Khi bọn họ đến, bại thế của Mộ Dung Thùy đã thành, biện pháp giải quyết duy nhất là ở hai ta, khi không còn lựa chọn, Mộ Dung Thùy chỉ đành thả người đổi lấy lương thực, vì thế ta bảo Thi Thi không cần lo lắng mà phải cao hứng mới đúng”.

Tiểu Thi nghe lời trợn mắt há mồm.

Kỷ Thiên Thiên cười: “Vẫn không dám tin sao?”.

Lúc này Phong Nương tới, mặt mũi ảm đạm ngồi xuống đối diện với hai người, thở dài một hơi.

Từ khi hỏa thiêu sơn trại, đây là lần đầu tiên Phong Nương chủ động tiếp xúc gần gũi bọn họ.

Hai người ngơ ngác nhìn bà ta.

Phong Nương nhìn Kỷ Thiên Thiên, lại nhìn Tiểu Thi, vẻ mặt khổ sở nói: “Ta vừa ở chỗ hoàng thượng về đây”.

Kỷ Thiên Thiên cũng đang thầm hỏi chẳng lẽ Mộ Dung Thùy lại muốn mình đến gặp?

Phong Nương nói tiếp: “Hai người có phải đang thầm trách lão thân không?”.

Kỷ Thiên Thiên lắc đầu: “Làm sao bọn tôi trách đại nương được? Kỳ thực Thiên Thiên rất cảm kích đại nương bảo vệ, cũng rất hiểu chỗ khó xử của đại nương”.

Phong Nương lộ vẻ toàn thân mệt mỏi nói: “Không ai đoán được sự tình lại phát triển như bây giờ, quả thực ông trời thích trêu người”.

Kỷ Thiên Thiên đưa mắt cho Tiểu Thi, dò hỏi: “Tình huống bây giờ thế nào?”.

Phong Nương hơi ngạc nhiên, tựa hồ đang cân nhắc có nên cho chủ tỳ biết thêm chút ít để hiểu vấn đề, trầm ngâm một thoáng, giọng đầy cảm xúc: “Hoàng thượng cuối cùng đã gặp đối thủ cân sức cân tài, địch nhân cao minh đến mức khó tin, nuôi chí vượt lên. Bây giờ ta chỉ hy vọng chuyện này có thể giải quyết hòa bình. Tuy rằng hoàng thượng kiên quyết cự tuyệt đề nghị của ta, nghĩ rằng vẫn nắm chắc phần thắng, nhưng lão thân lại không nghĩ vậy, đối với năng lực và tài trí mà đối phương đã bày tỏ, cuối cùng hoàng thượng cũng phải chấp nhận số mệnh. Hy vọng Thiên Thiên tiểu thư và Tiểu Thi thư có thể sớm trở về nhà”.

Tuy bà ta lời lẽ không rõ ràng, nhưng Kỷ Thiên Thiên vốn hiểu rõ nội tình đoán được vừa rồi Phong Nương đã gắng thuyết phục Mộ Dung Thùy, xin hắn trao trả hai người bọn nàng để đổi lấy việc an toàn rút lui về Trung Sơn. Chỉ là Mộ Dung Thùy không chịu đáp ứng, vì vậy khiến Phong Nương bực bội không nhịn được tìm hai người trút bầu tâm sự, đồng thời an ủi bọn họ.

Lòng thương tiếc của Phong Nương đối với bọn họ đích xác xuất phát từ chân tâm. Ở nơi tứ cố vô thân này, Phong Nương là nhân tố duy nhất mang lại sự ấm áp cho hai người.

Kỷ Thiên Thiên cảm động: “Phong Nương!”.

Phong Nương lộ vẻ cảnh giác, thấp giọng nói: “Những lời ta nói, Thiên Thiên tiểu thư và Tiểu Thi thư biết trong lòng là được, chớ để người khác biết. Khuya rồi! Đi nghỉ sớm đi!”.

Kỷ Thiên Thiên vào đến trong trướng, Tiểu Thi hạ cửa trướng, đến bên nàng thì thầm hỏi: “Thật sao?”.

Kỷ Thiên Thiên âu yếm ôm vai Tiểu Thi, nói: “Có khi nào tiểu thư lừa muội chưa? Sở dĩ Mộ Dung Thùy rơi vào hạ phong là vì có ta làm thám tử thần kỳ ngầm báo tin cho Yến Phi, Mộ Dung Thùy cũng giống như Thi Thi, nằm mộng cũng không nghĩ thế gian có chuyện kỳ lạ như thế”.

Tiểu Thi nhảy cẫng lên: “Đến giờ muội vẫn cảm thấy khó tin, nhưng cũng biết tiểu thư không lừa muội”.

Kỷ Thiên Thiên dịu dàng nói: “Có còn nhớ Giang đại tiểu thư dưới danh nghĩa Biên Hoang công tử tặng chúng ta mấy xe đồ dùng phụ nữ không?”.

Tiểu Thi mơ màng: “Làm sao mà quên được? Đêm đầu tiên đến Biên Hoang Tập quả thật hết sức kích thích, lúc ấy muội sợ gần chết, nhưng bây giờ nghĩ lại lại thấy nhớ”.

Kỷ Thiên Thiên hân hoan: “Còn nhớ Bàng lão bản nói gì không?”.

Tiểu Thi hớn hở cười rất xinh: “Đương nhiên là nhớ, hắn kêu đám anh em gì đấy coi xem rốt cuộc đấy là xe thích khách hay là xe quà tặng. Ha! Nhắc tới thật là thú vị”.

Kỷ Thiên Thiên cười nói đầy ẩn ý: “Thi Thi nhớ kỹ thật”.

Tiểu Thi lập tức hai má đỏ bừng không nói được gì.

Kỷ Thiên Thiên lo lắng nhất là Tiểu Thi, làm được cho nàng cởi mở, có hy vọng vào tương lai, tâm tình Kỷ Thiên Thiên cũng rất khoan khoái.

Từ khi rời khỏi Biên Hoang Tập, lần đầu tiên nàng có cảm giác mê người cõi lòng nở hoa, vì tương lai không còn mờ mịt nữa.

o0o

Mộ Dung Thùy tế ngựa chầm chậm men theo hàng rào tuần sát doanh địa trên bờ sông phía nam, đó là thói quen xưa nay của hắn, dù đối thủ là ai cũng không bao giờ khinh địch.

Tùy tòng tướng lĩnh theo sau thấy hắn chẳng nói gì đều không dám lên tiếng, lặng lẽ đi theo.

Mộ Dung Thùy bề ngoài bình tĩnh, kỳ thực trong lòng không ngớt xao động.

Trước khi tận mắt nhìn thấy hàng chục kho lương chìm trong biển lửa, hắn vẫn tin là thắng lợi nằm trong tay. Dù cho Thác Bạt Khuê tiến vào Nhật Xuất nguyên, thậm chí Long Thành binh đoàn bị đánh bại đều không lay chuyển được niềm tin tất thắng của hắn. Nguyên nhân là hắn biết rõ thực lực của mình, biết rõ thực lực đối phương.

Nhưng khi nhìn lương thực biến thành tro tàn, hắn giống như chợt tỉnh từ giấc mộng đẹp đối diện với hiện thực tàn khốc, nhận ra rằng mình có khả năng bị đánh bại, đồng thời lần đầu tiên có ý hối hận về chuyện dùng sức mạnh bắt Kỷ Thiên Thiên về.

Vốn dĩ hắn cho rằng bằng mị lực hơn người và lòng thành của mình, để cho Kỷ Thiên Thiên tận mắt chứng kiến oai phong chinh đông phạt tây, làm biến đổi tình yêu của nàng với Yến Phi chuyển sang mình.

Nhưng hắn đã thất bại, thất bại hoàn toàn.

Nếu cứ để mặc Kỷ Thiên Thiên ở lại Biên Hoang Tập, bây giờ đâu có rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Thiên hạ cũng chỉ có thể bằng thân thủ của Yến Phi, cộng với hỏa khí lợi hại của Hoang nhân mới có thể tạo thành phá hoại chết người như thế ở giữa chốn quân doanh giới bị nghiêm mật như vậy.

Hắn từng cân nhắc kỹ lưỡng kiến nghị của Phong Nương lấy Kỷ Thiên Thiên trao đổi lương thực và rút lui an toàn về Trung Sơn, nhưng hậu quả tiếp đó hắn lại khó lòng gánh chịu nổi. Trong tình huống ta xuống địch lên, Thác Bạt Khuê sẽ thừa cơ khí thế dâng lên bừng bừng dễ dàng đoạt những thành trấn phía nam Bình Thành và Nhạn Môn như Mã Ấp, Dương Khúc, Tấn Dương, Ly Thạch, Lộ Xuyên, Trường Tử, thậm chí cả khu vực Lạc Dương, còn đại quân mình vô công trở về nguyên khí chưa hồi phục, lại bị Thái Hành sơn ngăn trở chỉ còn biết nhìn Thác Bạt Khuê không ngừng mạnh lên, cho đến lúc không ai áp chế nổi nữa.

Mộ Dung Thùy biết rõ bản lĩnh của Thác Bạt Khuê, dù khi binh yếu tướng ít còn đủ sức uy hiếp Đại Yên quốc, vậy mà Đại Yên quốc ngoài bản thân mình ra không còn ai là đối thủ của hắn. Ánh mắt Mộ Dung Thùy dõi về hướng địch trận ở Nguyệt Khâu, hai ngày nay Thác Bạt Khuê không hề nhàn rỗi mà không ngừng tăng cường sức phòng ngự trên trận địa, tăng cường khó khăn của hắn khi công phá Nguyệt Khâu.

Hắn nghĩ đến việc theo đường vòng tiến công Bình Thành hay Nhạn Môn, nhưng tiếc là chế tạo công cụ đánh thành cần có thời gian, lương thực còn lại ít ỏi cũng không cho phép làm thế, biện pháp duy nhất để xoay chuyển cục diện vẫn liên quan đến chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên, không còn lựa chọn nào khác.

Mộ Dung Thùy cảm thấy bất lực, hổ thẹn và khổ sở vì ý nghĩ này. Tuy nhiên nếu quá khứ có thể lặp lại, hắn vẫn cứ mang Thiên Thiên đi.

o0o

Trác Cuồng Sinh đến bên Hướng Vũ Điền đang một mình ngồi tựa gốc cây, ngồi xuống nói: “Còn một ngày rưỡi đường nữa, chính Ngọ ngày kia ta sẽ đến Nhật Xuất nguyên”.

Hướng Vũ Điền ậm ừ một tiếng không nói gì.

Trác Cuồng Sinh mỉm cười: “Ngươi hẳn là người thích cô độc mới bỏ lều trại đến đây nghỉ ngơi trong cảnh màn trời chiếu đất”.

Hướng Vũ Điền ngước nhìn bầu trời sao, lạnh lùng nói: “Ngươi nói đúng! Ta quen sống cô đơn. Nói thực không những ta không thích gia đình, mà còn không ưa tán chuyện với người khác, bởi có rất ít người khiến ta có hứng thú, lời nói của bọn họ đại đa số là chỉ nói tràng giang đại hải, chẳng có ý nghĩa gì. Còn vì sao ta đến đây thì chẳng liên can gì đến màn trướng gì hết mà là vì ta muốn trấn giữ ở tận cùng phía trước để phát giác nguy hiểm sớm nhất”.

Trác Cuồng Sinh bật cười: “Lão ca ngươi phải chăng hạ lệnh trục khách?”.

Hướng Vũ Điền đáp: “Nếu ta muốn đuổi khách thì chẳng cần phải dài dòng như vậy. Bất quá nếu ngươi muốn nghe ta nói chuyện bản thân thì chớ phí thời gian, đừng toan tính vô ích”.

Trác Cuồng Sinh lắc đầu: “Không phải ta muốn biết bí mật gì của ngươi, mà chỉ muốn bày tỏ cảm kích chân thành với ngươi”.

Hướng Vũ Điền ngạc nhiên: “Vì sao phải cảm kích ta?”.

Trác Cuồng Sinh hân hoan nói: “Bởi vì ngươi không hạ thủ giết chết Cao tiểu tử, bằng hành động thực tiễn biểu thị ngươi là người ủng hộ trung thực thuyết thư của ta, hiếm có nhân vật cao minh như ngươi, khiến ta cảm thấy rất vinh hạnh, là tri kỷ cả đời khó cầu, ta không cảm kích ngươi thì cảm kích ai? ”

Hướng Vũ Điền gượng cười đáp lại.

Trác Cuồng Sinh hỏi: “Thật ta không hiểu sao một người như ngươi đột nhiên lại biến thành bằng hữu của tiểu Phi?”.

Hướng Vũ Điền nhức đầu nói: “Lại nữa rồi”.

Trác Cuồng Sinh xòe tay nói: “Chớ hiểu nhầm, ta chỉ thuận miệng nói vậy, ngươi có thể không cần trả lời”.

Đoạn lại hỏi: “Thường thường ngươi có cảnh giác nguy cơ bốn bề không?”.

Hướng Vũ Điền nhún vai đáp liền: “Đó là vấn đề thái độ, còn xem ngươi coi sinh mệnh thế nào. Con ngươi từ khi sinh ra sự thực không lúc nào không bị cái chết uy hiếp, bản thân sinh mệnh đồng thời cũng bao hàm cả đặc tính yếu đuối và kiên cường, người bình thường sẽ chọn cách quên đi cái chết, ta thì lựa chọn đối diện với nó, như thế lại càng cảm nhận được ý nghĩ của cuộc sống. Lão ca ngươi còn câu hỏi nào không?”.

Trác Cuồng Sinh biết ý bỏ đi.

o0o

Hoàn Huyền toàn thân giáp trụ quân phục và hơn mười cao thủ tùy tòng vây quanh chạy thẳng ra ngoài viện, Hoàn Vĩ chặn đường nói: “Xin hoàng thượng cân nhắc kỹ, hiện giờ chỉ nên thủ chứ không nên công”.

Hoàn Huyền dừng bước nhíu mày: “Chớ ngăn trẫm, trẫm đã tính toán kỹ càng, bây giờ chính là thời cơ tốt nhất để xoay chuyển cục diện”.

Hoàn Vĩ thở dài: “Hiện tại chúng ta vừa tạm ổn trận cước, nhưng sĩ khí chưa hồi phục, tuyệt đối không nên khinh cử vọng động”.

Hoàn Huyền bực tức nói: “Đừng có nói chuyện động trời. Chiến dịch Tang Lạc châu tuy quân ta bại, nhưng địch nhân cũng thương vong, nếu có thể nhân cơ hội này tận dụng lợi thế thuận dòng ra đòn sấm sét, đánh cho địch nhân trở tay không kịp là chỉ cần một trận xoay chuyển cả tình thế, rồi đóng quân ở Bồn Khẩu ngăn đối phương tiến về phía tây, sau đó ung dung quay đầu đối phó Mao Tu Chi, thu phục Ba Lăng, khi đó thiên hạ vẫn là thiên hạ của Hoàn gia. Đừng nhiều lời nữa, hãy trông nom Giang Lăng cẩn thận cho trẫm”.

Hoàn Vĩ khổ sở: “Đối với hình thế địch nhân chúng ta biết rất sơ sài, trong thành Giang Lăng có đầy gian tế, vọng động xuất quân hậu quả khó lường”.

Hoàn Huyền giận dữ: “Tìm gian tế là trách nhiệm của ngươi, còn tới nói với ta sao?”.

Hoàn Vĩ lui qua một bên, cúi đầu không nói nữa.

Hoàn Huyền hừ lạnh một tiếng cứ vậy đi ra cửa.

o0o

Lưu Dụ vừa trên thuyền bước xuống, Hà Vô Kỵ, Lưu Nghị, Trình Thương Cổ và Cao Ngạn ào ào kéo đến, nét mặt ai nấy đều phấn chấn.

Ngụy Vịnh Chi ở ngay sau Lưu Dụ nói: “Chuyện gì xảy ra?”.

Cao Ngạn tranh nói: “Tiểu Lưu gia vừa khai kim khẩu quả nhiên trời người đều thuận, một canh giờ trước nhận được phi cáp truyền thư từ Giang Lăng, vào lúc hoàng hôn Hoàn Huyền dốc hết binh mã chia hai đường thủy lục mưu đồ tập kích Tầm Dương, xin tiểu Lưu gia định đoạt”.

Lưu Dụ giật bắn mình, hai mắt bùng lên ánh dị quang hiếm thấy, chậm rãi nói: “Thật không ngờ Hoàn Huyền lại tạo thuận lợi cho chúng ta như thế”.

Lưu Nghị nói: “Chiến thuyền Kinh Châu quân gồm ba mươi lăm chiếc, chiến sĩ một vạn hai ngàn người do Hoàn Huyền thân tự chỉ huy, lục quân năm ngàn người do bộ tướng Lưu Thống và Phùng Trĩ cầm đầu”.

Lại nói: “Chỉ cần ta chuẩn bị cẩn thận, ở trong thành kiên cố là có thể đánh bại Hoàn Huyền, khiến y rút lui vô ích”.

Lưu Dụ tựa như không nghe thấy Lưu Nghị nói gì, trầm giọng hỏi: “Bên ta có bao nhiêu người?”.

Hà Vô Kỵ đáp: “Hiện giờ chiến thuyền có thể dùng được của ta tổng cộng tám mươi hai chiếc, chiến sĩ một vạn hai ngàn người, có thể khởi hành bất cứ lúc nào”.

Lưu Nghị ngạc nhiên: “Trên Đại Giang không có nơi hiểm trở để thủ, chiến thuyền đối phương nhiều hơn ta, chiếm lợi thế thuận dòng, nếu quyết chiến trên sông bất lợi thuộc về chúng ta”.

Lưu Dụ lạnh lùng: “Phục kích ở Tranh Vanh châu thì sao?”.

Lưu Nghị không biết nói gì.

Tranh Vanh châu ở cách Tầm Dương nửa ngày đi thuyền về phía thượng du, cũng giống như Tang Lạc châu là một hòn đảo giữa sông, có thể giấu thuyền ở đó.

Lưu Dụ dứt khoát: “Nếu Hoàn Huyền ngày đêm không nghỉ tiến quân cũng phải mất gần hai ngày mới đến được Tranh Vanh châu, đủ thời gian để ta bố trí máy bắn đá và nỏ máy trên đảo. Việc không nên chậm trễ, trong vòng một canh giờ nữa chúng ta sẽ khởi hành”.

Ngụy Vịnh Chi hỏi: “Quân Kinh Châu theo đường bộ tới ứng phó thế nào?”.

Lưu Dụ đáp: “Việc gì phải ứng phó? Chỉ cần đánh bại Hoàn Huyền, những kẻ khác còn làm được gì?”.

Đoạn lại quay sang Cao Ngạn nói: “Ngươi nói huynh đệ ẩn náu ở Giang Lăng thành khi thu được tin chiến thắng của ta ở Tranh Vanh châu lập tức truyền bá khắp nơi, cốt để lòng người Giang Lăng bàng hoàng, mất hết ý chí phản kháng, rõ chưa?”.

Cao Ngạn dạ to đáp ứng.

Lưu Dụ hít sâu một hơi thở, chậm rãi nói: “Cuối cùng thì ngày tàn của Hoàn Huyền cũng tới”.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=67#ixzz1bzooXW24

“Yến lang! Yến lang!”.

Yến Phi nhắm mắt tiến nhập vào cảnh giới nguyên thần đáp lại: “Ta đang mỗi lúc một tới gần Thiên Thiên hơn, nếu không có gì thay đổi ngày kia có thể tới được Nhật Xuất nguyên”.

Kỷ Thiên Thiên hớn hở: “Yến lang đốt cháy quân lương của Mộ Dung Thùy bắt đầu thấy tác dụng rồi! Vừa rồi Phong Nương nói với muội bà ấy từng khuyên Mộ Dung Thùy đem bọn muội đổi lấy lương thực và rút lui an toàn mà hắn vẫn chưa chịu, nhưng Phong Nương dự đoán sớm muộn hắn cũng phải khuất phục”.

Yến Phi nói: “Thiên Thiên cần chuẩn bị tâm lý, suy đoán của Phong Nương chỉ là nguyện vọng chủ quan của bà ta, hạng người như Mộ Dung Thùy chỉ cần vẫn còn chút hy vọng là tuyệt đối sẽ không buông tay”.

Kỷ Thiên Thiên không hiểu: “Đến khi hết lương thì Mộ Dung Thùy làm sao cự nổi?”.

Yến Phi đáp: “Vì vậy ta mới nói Thiên Thiên cần chuẩn bị tâm lý, bây giờ vốn liếng duy nhất Mộ Dung Thùy có trong tay là Thiên Thiên và Tiểu Thi, hắn sẽ tìm cách tạo ra một tình thế khiến Hoang nhân chúng ta buộc phải liều mạng đến cứu, hắn sẽ có thể tận diệt chúng ta”.

Kỷ Thiên Thiên kinh hoàng, chút nữa là để gián đoạn liên kết tâm linh, hỏi: “Vậy phải làm thế nào? Chắc chắn sẽ làm Thi Thi sợ đến chết!”.

Yến Phi ngầm thở dài đáp: “Muội phải động viên Thi Thi kiên cường lên, dù gì cũng không được nản lòng, khổ nạn sẽ mau chóng đi qua, vì tương lai tốt đẹp Thi Thi cần phải dũng cảm lên”.

Kỷ Thiên Thiên nói: “Mộ Dung Thùy chỉ có thể lấy bọn muội uy hiếp bọn huynh, nhưng đối với Thác Bạt Khuê không có tác dụng gì. Bọn huynh có thể chờ đến khi Mộ Dung Thùy hết lương mới tới Nhật Xuất nguyên, lo gì hắn không khuất phục”.

Yến Phi gượng cười: “Khó khăn là bọn ta không biết khi nào Mộ Dung Thùy hết lương, nếu Mộ Dung Thùy biết ta dùng kế hoãn binh nhất định sẽ không ngồi chờ chết mà sẽ rút lui bằng mọi giá, khi đó chúng ta phải vội vã đuổi theo thì lại rơi vào cạm bẫy của hắn”.

Kỷ Thiên Thiên thất vọng nói: “Thiên Thiên cao hứng quá sớm rồi”.

Yến Phi nói: “Thiên Thiên yên tâm đi, khi thời cơ thích hợp, ta sẽ công khai thách đấu Mộ Dung Thùy, đưa ra những điều kiện khiến hắn không thể cự tuyệt được. Tin ta đi, ta nhất định cứu được bọn muội, chúng ta sẽ rất nhanh chóng được ở bên nhau”.

Kỷ Thiên Thiên đáp: “Thiên Thiên tín nhiệm chàng, Yến lang trân trọng”.

Liên hệ đoạn tuyệt.

Yến Phi mở to hổ mục, lập tức nhìn thấy khuôn mặt Thác Bạt Nghi.

Yến Phi hỏi: “Có chuyện gì?”.

Thác Bạt Nghi đáp: “Người của Thôi Hoành đến rồi”.

Theo kế đã định, Thôi Hoành và năm ngàn thủ hạ Thác Bạt tộc chiến sĩ phụ trách hộ tống đoàn xe la vận tải lương thực đến Bình Thành. Bây giờ tình thế thay đổi, kế hoạch cũng biến đổi theo, các toán quân sau khi hội hợp cùng tiến về Nhật Xuất nguyên để ứng phó Yên nhân hoặc giả nhân cơ hội bọn họ đi đường xa mệt mỏi kéo đến tập kích.

Yến Phi nghe nói đứng lên nói: “Chúng ta phải lập tức tới Nhật Xuất nguyên tham dự hội nghị cuối cùng”.

Thác Bạt Nghi biết nhất định Yến Phi đã nhận được tình báo mới nhất từ Kỷ Thiên Thiên.

o0o

Tám mươi hai chiến thuyền lướt nhanh trên đại giang mênh mông dưới bầu trời đêm trăng sao vằng vặc.

Lưu Dụ ngạo nghễ đứng trên đài chỉ huy Kỳ Binh hiệu đón gió sông thổi tới, y phục bay lất phất, lộ rõ uy phong quân lâm thiên hạ. Bên cạnh là Ngụy Vịnh Chi và Lão Thủ, hai người thấy Lưu Dụ bộ dạng suy tư đều không dám quấy nhiễu.

Lúc này tâm trạng khoan khoái trong lòng Lưu Dụ thật khó hình dung. Lần này Hoàn Huyền tự tìm đường chết sự thực cũng có nguyên do, tuy rằng gã chưa từng gặp kẻ đại địch bình sinh căm hận nhất này lần nào, nhưng lại hiểu y rất rõ ràng, hơn hẳn là Hoàn Huyền hiểu về mình.

Hạng cao môn tử đệ như Hoàn Huyền trong mắt không người, cuồng vọng tự đại khi đã muốn có gì là sẽ dùng trăm phương ngàn kế đoạt lấy. Ở Kinh Châu y muốn gì được nấy, khi thấy vật nào hoặc người nào ưa thích là sẽ chỉ theo ý mình bất chấp hậu quả, Đạm Chân chính là vật hy sinh của tình trạng này. Khi Hoàn Huyền trở thành người quyền thế nhất phương Nam, không còn ai, kể cả bản thân mình có thể áp chế dã tâm thoán triều đoạt vị của y.

Sự thật y không hề nghĩ đến hậu quả.

Với kế hoạch bố trí tỉ mỉ của Ma môn, Hoàn Huyền dễ dàng trừ khử được hai đại kình địch Nhiếp Thiên Hoàn và Hác Trường Hanh, đồng thời như gió cuốn mây bay không phí chút khí lực đánh chiếm Kiến Khang, chém chết cha con Tư Mã Đạo Tử, uy danh lừng lẫy không ai sánh bằng.

Nếu khi ấy y có thể bình tĩnh tiếp tục hợp tác với Ma môn theo kế hoạch đã định, bằng thân phận tôn quý của bản thân và thi hành sách lược đúng đắn thì nhất định sẽ có nhiều cơ may trở thành thiên tử của triều đại mới. Nhưng tật cũ của Hoàn Huyền đã mau chóng lộ ra, cho rằng mọi công lao đều thuộc về mình, nghĩ Kiến Khang chỉ là một thành Giang Lăng khác, khiến y mất hết. Bên trong thì coi cao môn Kiến Khang như cỏ rác, đối xử với Tư Mã Đức Tông như nô tài, không chịu nghe lời can gián của Ma môn, còn bài xích toàn bộ nhân vật của Ma môn ra khỏi vòng quyền lực; bên ngoài thì không coi Lưu Dụ vào đâu.

Khi đột nhiên Ma môn không thèm lo việc cho Hoàn Huyền nữa, nếu y nhận rõ tình thế, tập trung toàn lực đối phó Lưu Dụ, cho dù bất lợi nhưng cũng đâu đến nỗi thất bại vừa nhanh vừa thảm đến thế. Nhưng tính cách và xuất thân của Hoàn Huyền đã làm hại y, khiến cho từ trong thâm tâm Hoàn Huyền coi thường Lưu Dụ. Lại thêm Hoàn Huyền là người chưa từng trải qua bị đả kích và thất bại. Đột nhiên Hoàn Huyền kinh hãi phát giác Kiến Khang hoàn toàn không phải là Giang Lăng, ở Kiến Khang y chỉ là một kẻ xâm lược không được hoan nghênh, không ai thực lòng ủng hộ, ý nghĩ này khiến y sinh ra sợ hãi, bèn bỏ Kiến Khang chạy về chốn cũ Giang Lăng.

Nhưng sau khi trở lại Giang Lăng, được chư tướng Giang Lăng tỏ lòng trung thành, sai lầm của y liền trở lại, nghĩ rằng mọi thứ vẫn như cũ, quân Kinh Châu vẫn là vô địch hùng sư dưới thời Hoàn Ôn, khiến y càng gấp gáp muốn rửa hận, trùng chấn uy phong, chính trong trạng thái không tự biết mình như vậy cuồng vọng phát động chiến dịch phản kích, ném hết vào canh bạc cuối cùng.

Lúc này Lưu Dụ hiểu rõ hơn bao giờ hết, sinh mạng Hoàn Huyền đang nằm trong tay mình.

Đạm Chân à! Thời điểm rửa thù tuyết hận cho nàng đến rồi.

o0o

Cộc! Cộc! Cộc!

Giọng nói trong veo của Doãn Thanh Nhã từ trong vọng ra: “Có phải tiểu tử Cao Ngạn đó không? Có chuyện gì vậy?”.

Cao Ngạn đẩy cửa bước vào, tí tởn hướng về phía Doãn Thanh Nhã ngồi bên cửa sổ nói: “Vợ chồng già với nhau có gì quan trọng hơn là giải sầu cho nàng nữa. Ha! Ta thấy phòng nàng có ánh đèn đương nhiên phải qua thăm nom”.

Thấy Cao Ngạn đóng cửa đến bên mình ngồi xuống, Doãn Thanh Nhã bực tức nói: “Ai là vợ chồng già với ngươi? Tốt nhất ngươi phải kiểm điểm lại, chớ có nghĩ rằng mình lập được chút công lao mà ta sẽ đặc biệt khoan dung cho ngươi. Úi! Buông tay!”.

Cao Ngạn thu bàn tay không theo quy củ vừa vuốt ve mặt Doãn Thanh Nhã, đắc ý thở dài: “Cuối cùng cũng đã đến lúc thu thập gian tặc Hoàn Huyền, Nhã nhi có thích không?”.

Doãn Thanh Nhã nhảy cẫng lên: “Người ta vì quá hưng phấn nên mới không ngủ được đây. Chúng ta thật sự có thể đánh bại y chứ?”.

Cao Ngạn đáp: “Nàng có thể yên tâm vạn lần. Hoàn Huyền so với tiểu Lưu gia của chúng ta thực sự còn thua xa lắm. Lão Lưu tiểu tử này quả thực không tệ, đại chiến hết trận nọ đến trận kia mà trận nào cũng thắng. Tên ngu xuẩn Hoàn Huyền đã đánh được trận lớn nào? Hai người căn bản không so sánh được”.

Doãn Thanh Nhã nửa tin nửa ngờ: “Hy vọng lần này không phải là ngoại lệ”.

Cao Ngạn khoái trá mê ly nhắm mắt nói: “Nhã nhi chỉ cần coi ánh mắt là biết kẻ sợ nhất phải ra chiến trường như ta mà còn không sợ, đặc biệt bây giờ chúng ta ở trên Kỳ Binh hiệu, có đệ nhất cao thủ về điều khiển thuyền ở phương nam Lão Thủ bẻ lái, cho dù ở trên Đại Giang khói lửa ngập trời cũng vẫn có thể kê cao gối ngủ yên. Ra chiến trường đâu được ung dung thế chứ? Ấy vậy mà lại là đúng như thế”.

Doãn Thanh Nhã trừng mắt mắng: “Thật khoác lác”.

Cao Ngạn mở mắt hỏi: “Chúng ta sinh mấy hài tử nhỉ?”.

Doãn Thanh Nhã lập tức hai má đỏ bừng, giận dữ nói: “Ai sinh hài tử với ngươi?”.

Cao Ngạn vui sướng nói: “Nhã nhi đoán coi là ai? Hây! Để ta ru Nhã nhi ngủ, khi tỉnh lại ắt đã có mặt ở Tranh Vanh châu rồi”.

o0o

Yến Phi và Hướng Vũ Điền lên đến một đỉnh núi nhỏ cách xa doanh trại về phía bắc, lo lắng nói: “Xem chừng Mộ Dung Thùy không chịu ngừng tay”.

Đoạn mang những đối thoại mới nhất với Kỷ Thiên Thiên thuật lại kỹ càng.

Hướng Vũ Điền nhíu mày suy tư, sau đó nói: “Đầu óc ngươi hẳn đang rất loạn?”.

Yến Phi gật đầu.

Hướng Vũ Điền nói: “Đó chính là thủ đoạn lợi hại nhất của Mộ Dung Thùy, lợi dụng chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên để nhiễu loạn tâm thần các ngươi, khiến các ngươi đánh mất lý trí, đưa ra phán đoán sai lầm, hành động sai lầm. Đổi là Thác Bạt Khuê bảo đảm Mộ Dung Thùy khó lòng đạt được mưu đồ”.

Yến Phi nói: “Ngươi đã nói ra nhược điểm lớn nhất của bọn ta, bất quá dù biết như vậy, nhưng nghĩ đến cứ rối bung cả, vì vậy ta mới tìm người tỉnh táo nhất là ngươi đưa tới đây nghĩ cách”.

Hướng Vũ Điền nói: “Chắc chắn ngươi tìm đúng người rồi, ta là người bàng quan thấy rõ, Mộ Dung Thùy đã cự tuyệt đề nghị giải quyết mâu thuẫn chết người bằng cách hòa bình, hiển nhiên lòng đã có định kế. Có thể dự kiến chỉ trong tình huống vô kế khả thi hắn mới chịu tiếp thụ lời thách đấu của ngươi, rõ ràng hiện nay hắn vẫn chưa bị hãm vào hoàn cảnh đó”.

Yến Phi thất vọng: “Tình huống ta sợ nhất là vừa tới Nhật Xuất nguyên, Mộ Dung Thùy thừa dịp chúng ta mệt mỏi, công khai biểu thị ý định xử quyết Thiên Thiên và Tiểu Thi, lúc ấy chúng ta phải làm gì?”.

Hướng Vũ Điền nói dứt khoát: “Mộ Dung Thùy chỉ hư trương thanh thế, nhất định không dám hạ thủ”.

Yến Phi lắc đầu: “Ngươi quá coi thường Mộ Dung Thùy rồi! Khi một người như hắn đã quyết định lựa chọn biện pháp có lợi nhất thì sẽ tuyệt đối không thay đổi để người ta chê cười. Tưởng tượng tình huống thế này xảy ra, nếu ở bên ngoài trận địa dựng một đài cao, chất đầy cành khô dễ cháy, trói Thiên Thiên và Tiểu Thi vào cọc rồi châm lửa thì chúng ta còn có lựa chọn nào đây?”.

Hướng Vũ Điền vẫn bình tĩnh lạnh lùng, gật đầu: “Chuyện đó rất có khả năng xảy ra, mà lại là một độc kế không sao phá giải được, chắc chắn quân ta sẽ phát điên lao tới liều mạng, kết quả sẽ là toàn quân bị tiêu diệt, còn bị Mộ Dung Thùy cướp mất lương thực, đồng thời Thác Bạt Khuê cũng toi đời”.

Tiếp đó lại suy tư nói: “Nhưng Mộ Dung Thùy cũng sẽ hết sức mạo hiểm, nếu chúng ta nhẫn nại không ra tay, chết toi chắc chắn sẽ là Mộ Dung Thùy, khi ấy hắn đành cứu Thiên Thiên và Tiểu Thi ra khỏi đống lửa. Đúng không?”.

Yến Phi đáp: “Chúng ta nhẫn nhịn được ư? Mà ngươi còn tính sót một điểm, đó chính là sau khi Mộ Dung Thùy xử tử bọn họ lại có thể theo Quân Đô quan ở bắc Thái Hành sơn rút lui, sai con trai tử thủ Quân Đô quan để hắn ung dung lui về Trung Sơn, chỉ cần trên đường được viện quân từ Trung Sơn đến tiếp ứng là hắn chẳng sao hết. Nhớ rằng binh lực của hắn vẫn nhiều hơn ta”.

Hướng Vũ Điền nói: “Một khả năng nữa là khi chúng ta vừa vượt đường xa mỏi mệt đến Nhật Xuất nguyên, Mộ Dung Thùy lập tức đem theo Thiên Thiên và Tiểu Thi giả bộ thoái lui theo đường Quân Đô quan, dẫn dụ chúng ta truy kích, kẻ xơi đòn khẳng định sẽ là chúng ta”.

Yến Phi khổ sở nói: “Chúng ta không thể không thừa nhận Mộ Dung Thùy vẫn nắm chặt quyền chủ động trong tay, chúng ta đang bị hắn xỏ mũi mà dắt”.

Dị quang lấp loáng trên mắt, Hướng Vũ Điền trầm giọng: “Ngươi không nghĩ đến chuyện đoạt Quân Đô quan chặn đường lui của Mộ Dung Thùy sao?”.

Yến Phi đáp: “Đương nhiên đã nghĩ đến rồi. Nhưng mà dù chúng ta có thể đánh chiếm Quân Đô quan, vẫn tuyệt không cự nổi Mộ Dung Thùy phản kích, cuối cùng thì Quân Đô quan vẫn nằm trong tay Mộ Dung Thùy, tình hình chẳng khác gì”.

Hướng Vũ Điền mỉm cười: “Vậy phải coi thời cơ chúng ta đánh chiếm Quân Đô quan là lúc nào, đúng là đầu óc ngươi loạn hết rồi”.

Yến Phi mau lẹ tiến vào cảnh giới tinh thần tỉnh táo trong suốt, không phải vì Hướng Vũ Điền cảnh cáo mà vì phải nắm được yếu quyết giải cứu Kỷ Thiên Thiên.

Mộ Dung Thùy sở dĩ dám đem vận mệnh Đại Yên ra đánh một canh bạc là vì hắn vẫn còn đường rút, trong chín phần chết vẫn tìm ra một phần sống, nhưng nếu cắt đứt đường lui, hắn còn dám mạo hiểm như vậy không?

Khi Mộ Dung Thùy hãm thân vào cục diện tuyệt vọng, lối thoát duy nhất là tiếp thụ lời thách đấu của Yến Phi, lời thách đấu này hắn không sao cự tuyệt được, bất luận thắng hay bại, hắn và bảy vạn quân vẫn có thể an toàn rút lui.

Đương nhiên thắng và bại khác nhau một trời một vực, thắng thì không những tiếp tục có Kỷ Thiên Thiên, trục xuất được kình địch khỏi Trung Nguyên, bại vẫn có thể an toàn bỏ đi, sau đó sẽ mưu đồ Đông sơn tái khởi.

Đó chính là lựa chọn tốt nhất của Mộ Dung Thùy trong hoàn cảnh tiến thoái vô lộ.

Hướng Vũ Điền hân hoan: “Lão ca hồi phục bình thường rồi. Phàm sự có lợi tất có hại, nhờ có dị năng truyền đạt tâm linh với Kỷ Thiên Thiên ngươi mới biết được nhất cử nhất động của Mộ Dung Thùy, thậm chí đến cả trạng thái tâm lý của hắn, vì vậy mà bên ta luôn luôn đi trước, nhưng cũng vì liên hệ tâm linh với Kỷ Thiên Thiên, cảm thụ sâu sắc tình cảm dao động của nàng ngược lại cũng ảnh hưởng đến tình tự của ngươi, dẫn đến đạo tâm thất thủ”.

Yến Phi gật đầu: “Sự thực đúng như vậy, càng gần đến lúc thành công, tình cảm được mất của ta càng nặng nề, Thiên Thiên đối với ta quá quan trọng, mất nàng ta tuyệt đối sẽ không chịu đựng nổi”.

Hướng Vũ Điền nói: “Nếu không nhờ Kỷ Thiên Thiên ngầm báo tin, chúng ta sẽ phán đoán sai lầm rằng Mộ Dung Thùy sẽ khuất phục trước tình thế ác liệt. Ngươi đi qua Quân Đô quan chưa? Đó là một con đường núi cheo leo xuyên qua bắc Thái Hành sơn, hai bên là núi rừng hiểm trở, đường đi khúc khuỷu lên xuống, chỉ cho phép hai ngựa đi song song. Ở giữa con đường dài năm dặm này có một tòa thạch bảo, gác cao hai trượng chứa được hơn trăm người. Với gần bảy vạn quân của Mộ Dung Thùy, nếu muốn rút lui theo con đường này phải mất hai, ba ngày, vì vậy nếu Mộ Dung Thùy dám giết chết chủ tỳ bọn họ là sẽ hết sức mạo hiểm”.

Yến Phi nói: “Ngươi đã biết rõ tình hình Quân Đô quan, hãy cho ta biết phải làm thế nào”.

Hướng Vũ Điền song mục kỳ quang lấp lánh: “Chúng ta vẫn y theo kế hoạch tiến về Nhật Xuất nguyên khiến Mộ Dung Thùy nghĩ rằng ta trúng kế hắn, sự thật tới Nhật Xuất nguyên chỉ là chiến sĩ Thác Bạt tộc của Thôi Hoành và đoàn xe la chở lương thực. Sau khi tới Nhật Xuất nguyên liền bố trí thành la xa trận ở phía nam doanh trại Yên nhân, chỉ thủ mà không công. Vì Thác Bạt tộc chiến sĩ không giống Hoang nhân, dù thấy Kỷ Thiên Thiên gặp nguy hiểm cũng không xông đến tiến công bằng mọi giá, vì vậy độc kế vạn vô nhất thất của Mộ Dung Thùy sẽ không còn tác dụng”.

Yến Phi hít sâu một hơi thở nói: “Nói tiếp đi”.

Hướng Vũ Điền tiếp tục: “Toàn bộ Hoang nhân bí mật tiến về Quân Đô quan, đội hình đặc biệt tinh nhuệ gồm cả ta với ngươi đi trước, nửa canh giờ trước khi Thôi Hoành đến Nhật Xuất nguyên sẽ đánh chiếm thạch bảo. Bằng thân thủ của ngươi và tiểu đệ, cộng thêm hỏa khí lăng lệ của Cơ đại thiếu gia chắc chắn sẽ làm được. Sau đó chúng ta trục xuất binh lính trấn thủ Quân Đô quan ra khỏi hạp đạo, ào ra bày trận bên ngoài Quân Đô quan, ngăn đường lui của Mộ Dung Thùy. Tuy rằng binh lực Mộ Dung Thùy hơn ta nhiều, nhưng bị quân của Thác Bạt Khuê và Thôi Hoành kiềm chế không động cựa gì được, lúc đó chính là thời điểm tốt nhất để Thác Bạt Khuê gửi chiến thư, buộc Mộ Dung Thùy phải tiếp nhận”.

Yến Phi khen: “Kế hay lắm!”.

Hướng Vũ Điền nói: “Đương nhiên Mộ Dung Thùy vẫn có thể dùng chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên uy hiếp chúng ta, nhưng sẽ thành đem cả vận mệnh toàn quân, thậm chí cả Đại Yên ra đánh cược, thật không phải là việc người khôn ngoan nên làm”.

Yến Phi nói: “Tiểu Khuê có thể tự mình tới bên ngoài địch trận thay ta thách đấu để cho toàn bộ thủ hạ của Mộ Dung Thùy biết rõ. Nếu trong tình huống đó Mộ Dung Thùy rụt vòi không dám ứng chiến mà lại mang Thiên Thiên ra uy hiếp chúng ta thì sẽ mất hết lòng quân. Tiểu Khuê biết rõ Mộ Dung Thùy, sẽ biết hành động chừng mực”.

Hướng Vũ Điền trầm giọng: “Thác Bạt Khuê sẽ làm theo lời ngươi chứ?”.

Yến Phi nói: “Trong tình huống này hắn sẽ không bán rẻ ta, ta sẽ nhờ Tiểu Nghi giải thích rõ với hắn”.

Hướng Vũ Điền nói: “Đó là cơ hội tốt nhất để Thác Bạt Khuê chứng minh bản thân hắn có phải là huynh đệ tốt nhất của ngươi hay không, chúng ta sẽ rất mau chóng có câu trả lời”.

Yến Phi hỏi: “Chúng ta về chứ? Hẳn mọi người tới rồi, có thể lập tức cử hành hội nghị, nghiên cứu chi tiết hành động”.

Hướng Vũ Điền cười nói: “Mộ Dung Thùy xưa nay luôn dùng kỳ binh để thắng, lần này chúng ta lại dùng kỳ binh chế trụ hắn, hẳn đến lúc này hắn vẫn không hiểu chuyện xảy ra từ đâu, nghĩ lại cũng thấy hoang đường. Lần này Mộ Dung Thùy thất bại trở về, mất hết uy danh, thực sự không đáng tội”.

Yến Phi hân hoan: “Thiên Thiên cố nhiên là mấu chốt thành bại trong trận này, là chuyện mà Mộ Dung Thùy nằm mơ không thấy, nhưng sự giúp đỡ của Hướng huynh cũng có tác dụng quyết định thành bại, ta hết sức cảm kích”.

Hướng Vũ Điền bật cười: “Giữa chúng ta cần gì phải nói thế? Ngươi cảm kích ta, ta cảm kích ngươi, chúng ta trong lòng tự biết, không cần phải nói”.

Yến Phi cười: “Chúng mình không cần khách khí nữa. Ta có cảm giác bầu trời u ám trở nên trong sáng thật tuyệt diệu, tinh thần càng sáng suốt hơn, tựa như có thể nhìn thấu tương lai, mười phần tin tưởng”.

Hướng Vũ Điền nói: “Tin thì cứ tin, nhưng ngàn vạn chớ có khinh địch, Mộ Dung Thùy là kẻ khó lường, không thể lấy lẽ thường xét đoán hắn, cần nhất là chúng ta phải tùy cơ ứng biến”.

Hai người nhìn nhau cười, đầy ý vị hiểu biết lẫn nhau, tri kỷ khó cầu, cùng nhau lướt nhanh về doanh trại.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=67#ixzz1bzor5Vpb

Đoàn thuyền của Lưu Dụ chia thành ba đội, đạo quân chủ lực do Kỳ Binh hiệu làm chủ với ba chục chiến thuyền, bao gồm cả mười hai chiếc Song Đầu thuyền giấu mình ở phía đông Tranh Vanh châu, nếu thuyền địch thuận dòng lướt tới định toàn tốc đạt đến Tầm Dương ở hạ du, vượt qua Tranh Vanh châu rồi mới kinh hoàng phát giác sự tồn tại của bọn họ thì hối đã không kịp vì nước chảy xiết.

Đội thuyền này sức chiến đấu mạnh nhất, Kỳ Binh hiệu cố nhiên do cao thủ về thủy chiến là Lão Thủ chỉ huy, phụ trách Song Đầu hạm cũng toàn là huynh đệ trước đây của Đại Giang bang tinh thông thủy chiến khống chế, bảo đảm sẽ cắt đứt thủy sư địch làm đôi, biến thành cục diện giằng co, Hoàn Huyền sẽ mất thế lợi thuận dòng thắng ngược dòng.

Hai đạo thủy sư còn lại đều gồm hai mươi lăm chiến thuyền, do Hà Vô Kỵ và Lưu Nghị thống lĩnh, mai phục ở hai bên bờ hạ du Tranh Vanh châu, khi thuyền đội của Hoàn Huyền bị chặn đứng, chiến thuyền đi trước bị bức chạy trốn về hạ du, bọn họ sẽ từ chỗ ẩn nấp xông ra đánh cho địch nhân không kịp trở tay.

Ba chục cỗ máy bắn đá và hai chục máy bắn tên được đưa lên bờ, bố trí dọc theo hai bên bờ nam bắc, dùng cây cỏ ngụy trang để che mắt địch. Trận địa trên bờ giao cho Trình Thương Cổ chỉ huy, Lưu Dụ giao cho lão hai ngàn chiến sĩ, khi thuyền đội của Hoàn Huyền đại loạn, sức công phá của bọn họ đối với địch hạm thật không gì sánh nổi.

Trước khi trời sáng Lưu Dụ tới Tranh Vanh châu, đến khi mặt trời lên cao thì mọi việc bố trí quân đã ổn thỏa, chỉ còn chờ Hoàn Huyền tới chui đầu vào lưới.

Trong gian thương sảnh của Kỳ Binh hiệu, Lưu Dụ và Ngụy Vịnh Chi cùng ăn trưa, Cao Ngạn mặt mũi hớn hở trở về báo: “Hệ thống cảnh báo dùng cách của Hoang nhân bọn ta đã hoàn thành, trạm quan sát đầu tiên đặt trên cao điểm cách Tranh Vanh châu năm chục dặm. Ban ngày thì dùng gương phản xạ ánh mặt trời, ban đêm dùng ánh đèn truyền tin, bảo đảm nắm chắc tình thế địch nhân trước một bước.

Lại tiếp: “Thông tin ban đêm dùng loại đèn lồng lớn đặc biệt do ta thiết kế, che kín năm mặt, chỉ có một hướng nhìn thấy ánh đèn, không sợ địch nhân trông thấy.

Ngụy Vịnh Chi cười: “Bắc Phủ binh bọn ta cũng có thứ đồ chơi ấy, cũng là do ngươi thiết kế chứ?”.

Cao Ngạn cũng cười: “Để ta uy phong một bận đi? Độ này không biết làm sao, đi đâu cũng gặp người chống đối. Ui! Vì sao không thấy Tiểu Nhạn nhi của ta, nàng không biết đói sao?”.

Lưu Dụ nói: “Đừng lo, bọn ta đã theo dặn dò của Tiểu Nhạn nhi, mang cơm vào trong phòng. Hắc! Nàng ta có vẻ hơi sợ ta, rốt cuộc ngươi đã nói xấu gì ta vậy?”.

Cao Ngạn kêu oan: “Không những ta không nói xấu ngươi, mà trước mặt nàng còn tán dương ngươi anh minh thần võ, đủ giang hồ nghĩa khí, tuyệt sẽ không vì làm quan to mà quên giang hồ huynh đệ ngày trước”.

Không đợi Lưu Dụ đáp, lại quay sang Ngụy Vịnh Chi nói: “Lão Ngụy, đèn lồng đặc chế hoặc giả ngươi có ta có, không có gì lạ, nhưng thủ pháp truyền tin thì khẳng định do lão tử sáng chế, có thể báo được tình huống địch hạm rất chính xác, ví như chia thành mấy đội, trước sau trái phải cách nhau bao xa, soái hạm của Hoàn Huyền ở vị trí nào, đại loại như vậy, hiểu chưa?”.

Ngụy Vịnh Chi bực tức: “Bây giờ ta mới hiểu làm sao có nhiều người khó chịu với ngươi thế”.

Lưu Dụ hỏi: “Ngươi đoán Hoàn Huyền ước chừng khi nào đến đây?”.

Cao Ngạn thấy Ngụy Vịnh Chi không có phản ứng gì, ngạc nhiên: “Ngươi hỏi ta ư?”.

Lưu Dụ điềm đạm: “Ngươi là Biên Hoang thủ tịch phong môi, giỏi quan sát chiều gió, không hỏi ngươi thì hỏi ai?”.

Cao Ngạn cảm thấy rất oai phong nói: “Theo lão tử, hiện nay gió đông thổi, Hoàn Huyền thuận dòng, chúng ta thuận gió! Ha! Lăng nhăng quá! Nếu như Hoàn Huyền không dừng lại giữa đường, ắt tới Tranh Vanh châu trước giờ Tuất”.

Ngụy Vịnh Chi lắc đầu: “Hoàn Huyền sẽ không dừng lại giữa đường làm chi, muốn tập kích Tầm Dương thì phải nhờ bóng đêm yểm trợ, trước tiên đốt cháy chiến thuyền ta đậu trên bến, đoạn lên bờ bao vây Tầm Dương, đợi quân bộ đến mới toàn lực công thành”.

Lưu Dụ bình tĩnh nói: “Ta muốn Hoàn Huyền đến được nhưng không về được”.

Cao Ngạn nói: “Lần này nhất định Hoàn Huyền thua bét, thậm chí toàn quân tiêu diệt, bất quá cơ hội trốn thoát của Hoàn Huyền lớn hơn bất kỳ ai, bởi gian tặc này lá gan còn bé hơn cả ta, các ngươi không nghe ư? Soái hạm của hắn bao giờ cũng có bốn thuyền buồm cực nhanh đi theo, mỗi chiếc có sáu lực sĩ phụ trách, danh nghĩa là hộ vệ, sự thực là Hoàn Huyền sợ chết, tình thế không ổn là nhảy ngay lên một chiếc lập tức có thể dọt lẹ”.

Ngụy Vịnh Chi ngạc nhiên: “Làm sao ngươi biết rõ thế?”.

Cao Ngạn vểnh mũi: “Ta xuất thân thế nào? Lấy việc mua bán tin tức mưu sinh, giỏi nhất là mua tin tức. Có tiền sai khiến được cả ma quỷ, ta mua được thủ hạ của Hoàn Huyền rồi tự nhiên cái gì mà không biết”.

Lưu Dụ hỏi: “Ngươi đã tới Giang Lăng chưa?”.

Cao Ngạn đắc chí: “Ngày nay thân phận địa vị của ta là gì chứ? Việc gì phải tự mạo hiểm? Chỉ cần ra chỉ thị, tự nhiên sẽ có huynh đệ Lưỡng Hồ bang chấp hành”.

Lưu Dụ băn khoăn: “Nếu để Hoàn Huyền trốn về Giang Lăng, muốn bắt được y cũng tốn công lắm”.

Cao Ngạn nói: “Lần này y dốc cả ổ đến đây, binh lính ở Giang Lăng chỉ còn mấy trăm người, Hoàn Huyền đâu dám ở lại Giang Lăng đợi ngươi đến mổ thịt? Ta khẳng định y về nhà rồi lập tức sẽ lại bỏ trốn”.

Nói xong, hai mắt sáng rực: “Ta có một kế hoạch bắt sống Hoàn Huyền, ấy là trước tiên ta sẽ tới Giang Lăng, tự mình chỉ huy lưới tình báo ở đó, tìm cách mua chuộc tướng lĩnh của Hoàn Huyền, chỉ cần y trở về nhà, nhất cử nhất động của y sẽ lọt hết vào mắt ta, khi ấy bất luận y chuồn đi đâu cũng không làm sao thoát khỏi bàn tay Lưu gia”.

Lưu Dụ hết sức phấn chấn, nhưng lại lo lắng hỏi: “Ta sợ nhất là ngươi có gì thất thố thì làm sao ăn nói với Tiểu Bạch Nhạn đây?”.

Cao Ngạn đầy tin tưởng đáp: “Cái gì thì ta không ổn chứ chạy trốn thì ta là hạng nhất. Để ta tới tạm biệt Nhã nhi rồi lập tức lên đường. Ha! Nàng nhất định sẽ theo ta đi”.

Lưu Dụ nói: “Nhớ kỹ bất luận tình huống biến hóa thế nào, cái mạng Hoàn Huyền cần phải do ta phụ trách, rõ chưa?”.

Cao Ngạn dạ một tiếng đáp ứng, như làn gió nhẹ bay vù đi.

Sương đêm mênh mang, Hoang nhân quân chia hai đường tiến về phía Quân Đô quan.

o0o

Sau khi thảo luận trong hội nghị, Hoang nhân sửa lại kế hoạch do Hướng Vũ Điền đề xuất ban đầu, khiến toàn bộ kế hoạch hành động càng thêm phù hợp với tình hình thực tế, càng thêm hiệu quả.

Một cánh quân phụ trách đột kích binh lính ở thạch bảo Quân Đô quan, nhân số không quá năm trăm nhưng toàn cao thủ, bao gồm cả đám Yến Phi, Hướng Vũ Điền, Đồ Phụng Tam, Trác Cuồng Sinh, Mộ Dung Chiến. Bọn họ tiến sâu vào Thái Hành sơn, trèo núi băng đèo, ngày đêm không nghỉ, đến lúc này đã đi được một ngày nửa đêm, giữa chừng chỉ nghỉ nửa canh giờ, mục đích là để khi đến Quân Đô quan vẫn còn mấy canh giờ dưỡng sức khôi phục nguyên khí, chờ thời cơ thích hợp đánh chiếm Quân Đô quan.

Một cánh quân nữa gần vạn Hoang nhân, đều là kỵ binh nhẹ, mang theo ba ngày lương khô do Vương Trấn Ác chỉ huy bám sát mé tây Thái Hành sơn, mượn cây rừng yểm trợ, ngày nghỉ đêm đi bí mật tiến tới Nhật Xuất nguyên. Cánh quân này còn phái đi một trăm cao thủ tinh tuyển do Cơ Biệt, Hồng Tử Xuân, Diêu Mãnh, Tiểu Kiệt lãnh đạo đi mở đường, nếu gặp thám tử địch sẽ thu thập đối phương trước để tránh tiết lộ hành tung quân chủ lực.

Năm ngàn chiến sĩ Thác Bạt tộc và đội xe lương của Thôi Hoành theo lộ tuyến cũ hành quân, mục tiêu là bình nguyên cách nơi đóng quân của Yên quân ở phía nam năm dặm.

Lúc này Hướng Vũ Điền đi đầu vừa lên tới một sườn núi quỳ một chân nhìn xuống dưới, đoạn hướng về đám Yến Phi phía sau ra hiệu dừng lại.

Đồ Phụng Tam vội ra lệnh Hoang nhân đi theo dừng lại tại chỗ.

Mấy người Yến Phi đến bên Hướng Vũ Điền, cùng nhau ngó xuống dưới, thảy đều hít hà một hơi.

o0o

Mặt trời vừa khuất núi, Lưu Dụ nhận được tin thuyền đội của Hoàn Huyền vừa tiến vào phạm vi cảnh giới năm mươi dặm, lập tức động viên toàn quân, các hạm thuyền đồng loạt nhổ neo di chuyển tới vị trí công kích đã được chỉ định.

Kỳ Binh hiệu được sáu chiếc Song Đầu hạm hộ vệ mai phục ở góc đông nam Tranh Vanh châu, trên thuyền bất luận là chiến sĩ phụ trách máy bắn đá và nỏ máy đều sẵn sàng đợi lệnh phát động tấn công mãnh liệt nhất.

Lưu Dụ đứng trên đài chỉ huy bất giác tâm tình trở nên khẩn trương, bất quá gã hiểu rằng đó chỉ là hiện tượng tạm thời, khi cuộc chiến bùng phát, tâm thần gã sẽ tiếp nhập cảnh giới hết sức trong sáng, giống như Tạ Huyền năm nào trong chiến dịch Phì Thủy lãnh đạo quân đội giành được thắng lợi toàn diện và quyết định.

Gió sông thổi nhẹ, một giải Tranh Vanh châu thượng hạ du chìm trong bóng đêm tịch mịch, làm tăng thêm áp lực tiềm tàng của trận bão táp cuồng bạo sắp nổi lên.

Ngụy Vịnh Chi bên cạnh quan sát xong tín hiệu đèn truyền tin từ trên đỉnh núi phía nam Tranh Vanh châu, hân hoan nói: “Tốc độ thuyền của Hoàn Huyền không có dấu hiệu chậm lại chút nào, lần này chắc chắn Hoàn Huyền trúng kế rồi”.

Lưu Dụ hít sâu một hơi thở nói: “Còn cách ta bao xa?”.

Ngụy Vịnh Chi đáp: “Còn năm chục dặm”.

Lưu Dụ nói: “Chúng ta cố chờ cho địch nhân tiến xuống hạ du, tốt nhất là toàn bộ bọn chúng lọt cả xuống hạ du mới thuận dòng truy sát, như vậy thì có thể giải quyết xong Hoàn Huyền ở đây”.

Ngụy Vịnh Chi nói: “Chỉ sợ không được như vậy, theo tín hiệu đèn, hạm đội của Hoàn Huyền chia thành ba đội, mỗi đội lại chia thành tả hữu hai tổ. Toán đi đầu gồm ba chục chiến thuyền, cách toán đi giữa gồm năm chục chiếc khoảng hai dặm, hạm đội chủ lực cách toán đi giữa còn xa hơn, tới ba, bốn dặm. Khi thuyền đội tiên phong vượt qua Tranh Vanh châu, Kinh Châu hiệu của Hoàn Huyền vẫn còn ngoài bảy tám dặm, nếu chúng ta vẫn chưa phát động e sẽ mất thời cơ”.

Lại nói tiếp: “Thời điểm công kích tốt nhất là khi toán đi giữa vượt qua Tranh Vanh châu, chúng ta có thể cắt chia chúng làm đôi, mượn sức máy bắn đá và nỏ máy ở Tranh Vanh châu nghênh đón thuyền đội chủ lực của địch thuận dòng không dừng lại được, khi không còn lo địch hạm đã bị đánh trọng thương chạy xuống hạ du nữa liền ngược dòng hợp lực cùng chúng ta tấn công thuyền đội chủ lực của địch”.

Lưu Dụ chửi: “Đồ hèn”.

Ngụy Vịnh Chi biết Lưu Dụ chửi Hoàn Huyền chứ không phải chửi mình, cười nói: “May mà y là đồ hèn, nếu không chúng ta có khả năng vẫn đang phải tấn công Kiến Khang!”.

Lưu Dụ thấp giọng: “Tới rồi! Chuẩn bị!”.

Lính giữ còi hiệu, lính đánh trống, lính cầm cờ, cầm đèn hiệu đằng sau lưng gã ai nấy đều phấn khởi tinh thần, chuẩn bị truyền mệnh lệnh Lưu Dụ phát ra đầu tiên.

o0o

Trác Cuồng Sinh buột miệng la to: “Má ơi!”.

Chỗ bọn họ nằm cách đường núi bên dưới bốn, năm dặm, triền núi sương khói mịt mờ không ảnh hưởng tới tầm nhìn của họ, bởi con đường cheo leo bên dưới ánh lửa sáng rực, chiếu rọi hàng ngàn lính Đại Yên đang cực nhọc khai sơn phá thạch, mở rộng đường đi.

Từ vị trí của họ có thể nhìn thấy tòa thạch bảo Quân Đô quan và đường sơn đạo dài chừng ba dặm nằm giữa chừng, đầu đuôi không thấy, nhưng có thể tưởng tượng tình huống cũng giống như trước mắt, Yên nhân cũng đang hối hả làm việc cật lực.

Giữa đường có một đám binh lính ngồi, ai nấy đều mình trần trùng trục, rõ ràng đang giải lao chờ đến lúc đám kia kiệt sức lui ra.

Đỉnh Quân Đô quan phảng phất như tường thành, bốn phía đều có lỗ châu mai vây quanh, ở giữa xây lâu thành, bên trong có đường dẫn xuống dưới. Thạch bảo nằm ở điểm cao bên sơn đạo trung tâm, đường núi thông với thạch bảo đổ nghiêng sang hai phía đông tây thành hai đường dốc dài. Thạch bảo vốn bị cách biệt với xung quanh, nhưng bây giờ hai bên đều mở thông lộ thành ra có thể từ hai phía đi vòng qua.

Trên đỉnh thạch bảo bố trí đầy tiễn thủ, hai bên sơn lộ cũng có Yên binh canh giữ bảo vệ nghiêm mật trông mà phát sợ.

Mọi người đêm ngày không nghỉ chạy đến đây, không ngờ lại có cục diện này.

Yến Phi nói: “Các ngươi coi!”.

Mọi người nhìn theo tay chàng trỏ, ở hai bên sườn dốc phía tây thạch bảo, rất nhiều Yên nhân đang chặt cây cối bên đường, cây chặt đổ rồi được phạt hết cành lá, chỉ còn thân chính được mang lên chất đầy đỉnh dốc.

Mộ Dung Chiến trầm giọng: “Mộ Dung Thùy dùng kế lui binh, đám thân cây này dùng để chế mộc lôi trận ngăn chặn truy binh.

Đồ Phụng Tam lắc đầu: “Mộ Dung Thùy không cam tâm rút lui như thế đâu, huống hồ vẫn chưa giải quyết được vấn đề lương thực. hắn mở mang sơn đạo là vì sợ chúng ta vào lúc hắn xử tử Thiên Thiên chủ tỳ vẫn có thể nhẫn nhịn coi mà không xuất thủ, hắn có thể từ Quân Đô quan lui về đông Thái Hành sơn. Mộ Dung Thùy thật không thẹn Bắc phương đệ nhất đại gia binh pháp, tính toán không sót điểm nào”.

Hướng Vũ Điền nói: “Ta đồng ý với kiến giải của Đồ đương gia, bằng ưu thế binh lực vừa đánh vừa lùi, Mộ Dung Thùy đích xác có nhiều cơ may rút lui về Quân Đô quan, dựa vào cửa quan cố thủ, đại quân bày trận ở phía đông Thái Hành sơn, như vậy có thể lập thế bất bại. Còn vấn đề quân lương, do chúng ta bị ngăn trở ở phía tây Quân Đô quan, hắn có thể ung dung ra ngoài săn bắn hái quả lượm rau, chỉ cần từ Trung Sơn có lương thực đưa tới là có thể phản công giành thắng lợi tối hậu”.

Trác Cuồng Sinh hỏi: “Bây giờ phải làm sao?”.

Yến Phi mỉm cười: “Đầu tiên phái người tới hai đầu thám thính, làm rõ tình huống cả đường sơn đạo, sau đó tiến vào vị trí công kích, mọi việc y theo kế hoạch cũ tiến hành, lúc ấy linh mộc trận ắt cũng đã ổn, khí lực của địch nhân cũng dùng hết sạch, chúng ta thì ít nhất còn bốn, năm canh giờ nghỉ ngơi, dù nhân số đối phương gấp mười ta cũng không đương nổi chúng ta tấn công đột ngột”.

Hướng Vũ Điền hân hoan: “Cứ quyết như thế đi, hiện giờ ta muốn thấy nhất là vẻ mặt và phản ứng của Mộ Dung Thùy nghe tin Quân Đô quan bị chiếm.

o0o

Thuyền địch lần lượt từ hai bên lướt về phía hạ du Tranh Vanh châu, chỉ có phong đăng treo ở đầu đuôi mỗi chiếc thuyền, giống như ánh lửa lân tinh của ma quỷ dật dờ trên mặt sông, tình cảnh âm u quỷ dị.

Một dải Đại Giang bị sương mù che phủ, hơi khó biết là mưa hay là sương. Tranh Vanh châu tối đen như mực, thuyền đội mai phục ở phía đông chìm trong màn sương.

Lưu Dụ như trút được khối đá trong lòng, nếu thuyền địch treo nhiều phong đăng, chắc chắn thuyền đội bên mình không biết trốn vào đâu, thêm nữa thuyền địch vì sợ đụng phải Tranh Vanh châu mà chọn đường đi cách xa Tranh Vanh châu, khiến bọn họ có thể tránh được tai mắt địch.

Không đầy hai khắc, ba chục chiến thuyền tiên phong của địch đã rời khỏi phạm vi khúc sông Tranh Vanh châu.

Lưu Dụ phát lệnh giương buồm. Lính cầm đèn hiệu lập tức truyền tin đi, ánh đèn chỉ hướng về hai phía nam bắc, không sợ bị địch nhân đang hướng về phía hạ du nhìn thấy.

Chiến sĩ trên ba chục chiến thuyền toàn bộ được động viên, cánh buồm mau lẹ được kéo lên. Ngọn phong đăng lớn sáu màu treo trên cột buồm chính được châm lửa để phân biệt địch ta.

Lúc này đội thuyền đi giữa của đối phương vừa tới, lướt nhanh qua thủy đạo theo hướng bắc nam Tranh Vanh châu về phía hạ du, trong một thoáng đã có gần hai chục thuyền địch lướt qua. Lưu Dụ hét lớn: “Tiến!”.

Tiếng trống lập tức nổi lên động trời, tiếng còi hiệu vang vang.

Phát động đầu tiên là phục binh do Trình Thương Cổ chỉ huy ở trên hai bờ nam bắc Tranh Vanh châu, đồng thời máy bắn đá, bắn tên vang lên âm hưởng đòi mệnh, đá lớn, hỏa tiễn, hỏa nỏ tiễn từ cao điểm hai bên bờ Tranh Vanh châu phóng ra, vạch nên một lưới lửa đan xen nhau như mưa rào chụp lên địch hạm.

Hạm đội Bắc Phủ binh mai phục ở phía đông từ chỗ ẩn thân ào ạt xông ra, hỏa tiễn do các chiến sĩ bắn ra như mưa bấc nhằm vào địch nhân trở tay không kịp.

“Rầm!”.

Kỳ Binh hiệu dẫn đầu lao đến dùng đầu thuyền bịt sắt đâm thẳng vào ngang lưng thuyền địch đi qua, đụng cho đối phương vỡ tan thân thuyền, gỗ vụn bắn tung tóe văng sang ngang, đụng phải một con thuyền không may mắn khác của bên mình, cả hai thuyền đều lật nghiêng chìm xuống.

Chiến sĩ trên Kỳ Binh hiệu đồng thanh hoan hô.

Lão Thủ luôn miệng quát tháo chỉ huy thủ hạ, Kỳ Binh hiệu mượn sức gió lượn gấp một vòng ngược dòng về hướng tây, một con thuyền địch đang bốc cháy đối diện tiến tới tránh không kịp, bị Kỳ Binh hiệu đâm ngang lưng lật nghiêng chìm nghỉm.

Sáu Song Đầu hạm đi theo như mãnh hổ lanh lẹ từ hai bên xông lên công thẳng vào địch hạm.

Lưu Dụ nhìn về phía thượng du Đại Giang, hiểu rằng thắng lợi đã cầm chắc, thuyền địch đội hình tán loạn, hoặc bị lửa đốt cháy, hoặc chầm chậm chìm xuống, thậm chí đâm lẫn nhau hết sức loạn xạ.

Đội thuyền đi giữa của địch tan vỡ, không còn sức phản kích.

Từ phía hạ du truyền đến tiếng hò hét chấn động cả mặt sông, rõ ràng hai đội thuyền Hà Vô Kỵ và Lưu Nghị đang phát động cuộc tấn công không thương xót vào địch nhân.

Mặt sông đã biến thành một biển lửa, khói đen ngút trời, tình huống cực kỳ ác liệt, đại chiến vẫn trên đà phát triển, quân chủ lực địch không hãm được đà theo dòng nước xiết tiến vào thủy vực Tranh Vanh châu, cũng là phạm vi xạ kích của máy bắn đá và hỏa tiễn, lần lượt bị kích trúng.

Lưu Dụ phát ra mệnh lệnh, tiếng trống trận lại rền vang, chiến sĩ trên thuyền đồng thanh gào rú, ba mươi hai chiến thuyền chia thành hai ngả từ nam bắc thủy đạo Tranh Vanh châu ngược dòng thuận gió trực diện đối đầu với địch hạm.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=67#ixzz1bzotXxp1

“Tiểu Thi! Tới đây cạnh ta!”.

Tiểu Thi nét mặt nhợt nhạt đến bên Kỷ Thiên Thiên ngồi xuống. Từ sáng nay bọn họ bị cấm ra khỏi lều, thủ vệ bên ngoài rõ ràng đã được tăng cường. Phong Nương tới thăm họ hai lần, lần nào cũng lặng yên không nói, vẻ mặt nặng nề làm tăng thêm bầu không khí khẩn trương trước khi mưa to gió lớn, đại sự sắp sửa xảy ra.

Kỷ Thiên Thiên thì không sao, nhưng Tiểu Thi lại không chịu nổi áp lực trầm trọng, tinh thần rất bất an.

Kỷ Thiên Thiên bình tĩnh dịu giọng nói: “Ta biết Thi Thi rất sợ hãi. Tuy chúng ta không nhìn thấy, nhưng lại nghe thấy âm thanh điều động quân mã bên ngoài, đại chiến tựa như có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhưng Thi Thi nhất định phải tin, ta và muội sẽ cùng vượt qua cửa ải khó khăn này, hôm nay sẽ là ngày cuối cùng chúng ta ở lại đây, mọi khổ nạn cũng sẽ kết thúc trong ngày hôm nay”.

Tiểu Thi nước mắt tuôn trào, nức nở: “Nhưng mà...”.

Kỷ Thiên Thiên nói: “Đừng khóc, bây giờ Thi Thi phải kiên cường hơn. Ngày hôm nay tuyệt không dễ dàng, muội dũng cảm đối diện với tất cả là giúp ta nhiều nhất.

Tiểu Thi cố ngăn nước mắt, nhưng vẫn còn thút thít.

Kỷ Thiên Thiên xót xa ôm vai Tiểu Thi, ghé vào tai khẽ nói: “Yến lang đã nghĩ ra kế hoạch hoàn hảo để cứu chúng ta, hiện giờ tình thế hoàn toàn do chàng khống chế, đương nhiên Mộ Dung Thùy không nghĩ thế mà cho rằng mình đã tạo được thế bất bại, nhưng chiến tranh xưa nay là trò chơi vô tình ngươi sống ta chết, sự thực sẽ khiến hắn kinh hoàng”.

Tiểu Thi ngước đôi mắt đẫm lệ nhìn Kỷ Thiên Thiên giọng bi thiết: “Tiểu thư! Nếu có cơ hội đào tẩu, ngàn vạn chớ làm như lần trước, không cần quan tâm muội nữa”.

Kỷ Thiên Thiên đau đớn nói: “Ngốc à! Tiểu thư sao nỡ bỏ muội mà đi? Tin ta đi, chúng ta nhất định có thể cùng nhau rời khỏi đây”.

Tiểu Thi giọng run run: “Tiểu thư!”.

Kỷ Thiên Thiên lại ghé sát tai Tiểu Thi nói khẽ: “Chuyện ta đã cho muội biết là thực đó, quyền chủ động đã lọt vào tay Yến lang, Mộ Dung Thùy không còn lựa chọn nào khác, rồi Thác Bạt Khuê sẽ thay mặt Yến lang thách Mộ Dung Thùy đơn đả độc đấu, phần đặt cược chính là chúng ta. Bất luận chuyện gì xảy ra, muội cũng phải giữ trọn niềm tin, dù rằng trong hoàn cảnh tuyệt vọng nhất cũng không được để mất hy vọng”.

Tiểu Thi nói: “Đúng là Yến công tử cho tiểu thư biết ư?”.

Kỷ Thiên Thiên nói: “Đến lúc này ta còn lừa muội nữa sao? Huynh đệ Hoang nhân của ta đã đến khu rừng bên rìa Nhật Xuất nguyên chờ đợi thời cơ thích hợp. Một đoàn quân Thác Bạt tộc tinh nhuệ khác đang tiến về phía Nhật Xuất nguyên, chính Ngọ sẽ tiến vào Nhật Xuất nguyên”.

Thân hình mảnh khảnh của Tiểu Thi run lên: “Thật vậy ư?”.

Kỷ Thiên Thiên bực bội nói: “Thì ra nha đầu ngươi đến lúc này vẫn còn nửa tin nửa ngờ. Ta không nói với muội là thật hay giả nữa, bởi vì lập tức sẽ có đáp án, ta muốn muội tận mắt chứng kiến sự việc sắp xảy ra”.

Tiếp đó hai mắt lộ vẻ khao khát nói: “Cuộc sống chẳng phải quá kỳ diệu sao? Con người ta không hề biết trân quý những gì đang có, cho đến lúc mất hết mọi thứ mới chợt phát giác những thứ mình đã có quý giá biết bao. Được rồi lại mất đương nhiên khiến người ta khó lòng chịu đựng, nhưng mất rồi lại được còn khiến người ta đặc biệt hoan hỉ, tuyệt vời nhất là ngươi có lại không phải những gì trước kia, bởi ngươi sẽ dùng thái độ hoàn toàn mới trân trọng và đối đãi với những thứ đó, dù rằng trước đó chỉ là những sự vật nhỏ nhặt tầm thường cũng sẽ mang ý nghĩa mới lạ. Khi tiểu thư ở Kiến Khang luôn mong truy cầu cái mới, đến hôm nay mới hiểu rằng vấn đề không phải ở chỗ có mới mẻ kích thích hay không, mà là ở tại lòng mình. Trở lại Biên Hoang Tập Thi Thi chớ quên những điều này, phải biết yêu quý mọi thứ xung quanh, biết làm chủ cuộc sống của mình”.

Tiểu Thi đang muốn nói, Kỷ Thiên Thiên khẽ bảo: “Phong Nương đến rồi!”.

Nói chưa dứt, Phong Nương vén trướng tiến vào, vẻ mặt tê dại nói: “Xin tiểu thư theo tôi, hoàng thượng muốn gặp tiểu thư”.

o0o

Thác Bạt Khuê chắp tay đứng bên rìa phía đông trên đỉnh một ngọn đồi rộng rãi ngầm quan sát doanh trại Mộ Dung Thùy, ánh mắt tập trung vào một tòa đài cao nằm giữa khu doanh trại phía nam.

Mỗi khi lập trại ở nơi hoang dã đều phải dựng vọng lâu và tháp canh xung quanh để có thể từ trên cao khống chế địch nhân phía dưới, nhưng doanh trại của tướng soái cũng phải đặt ở chỗ cao có tầm nhìn xa để khống chế toàn cục và chỉ huy tác chiến. Đài cao ba trượng đó chính là đài chỉ huy của Mộ Dung Thùy, có Mộ Dung Thùy tọa trấn ở đó, khi chưa hết lương, dù Thác Bạt tộc và Hoang nhân tiến công ác liệt đến đâu cũng chắc chắn sẽ hao binh tổn tướng mà lui.

Thác Bạt Khuê lắc đầu thở dài: “Mộ Dung Thùy ngươi thực sự có thể độc ác thế sao?”.

Sở Vô Hạ đứng sau lưng hỏi: “Vì sao tộc chủ nói vậy?”.

Thác Bạt Khuê nói như không có chuyện gì xảy ra: “Nàng không thấy cành khô chất đống ở doanh trại phía nam sao? Nếu ta đoán không nhầm, khi Hoang nhân vừa tới, Mộ Dung Thùy sẽ mang cành khô ra ngoài chất thành đống to, ở giữa dựng một cây cột gỗ, đem Kỷ Thiên Thiên và Tiểu Thi trói vào đó, trước tiên châm lửa đốt cành cây phía ngoài, khi đó Hoang nhân không còn lựa chọn nào khác đành sống chết xông đến cứu hỏa cứu người, Mộ Dung Thùy sẽ phát động toàn quân xuất kích, thừa dịp đoạt luôn lương thảo”.

Sở Vô Hạ nói: “Nhưng lại chỉ có chiến sĩ của chúng ta tới thôi à!”.

Thác Bạt Khuê bật cười: “Đó chính là chỗ tuyệt nhất, khi Mộ Dung Thùy thấy chỉ là người của Thôi Hoành, lúc ấy mới kinh hoàng phát giác lại thua một nước cờ nữa, nhưng không làm sao lật ngược thế cờ”.

Sở Vô Hạ chân thành nói: “Người ta nói Biên Hoang Tập đầy rẫy nhân tài, kỳ nhân dị sĩ đếm không xuể, muội luôn hoài nghi điều này, nhưng đến hôm nay thì không thể không chịu phục”.

Thác Bạt Khuê thầm nhủ kỳ nhân dị sĩ chính là Yến Phi, nếu không nhờ chàng có năng lực liên hệ tâm linh với Kỷ Thiên Thiên, trận này nhất định sẽ bại trận một cách hết sức hồ đồ.

Sở Vô Hạ nhìn về Quân Đô quan nằm ở phía bắc Thái Hành sơn ở phía chân trời xa xa, nói: “Khi Hoang nhân đoạt được Quân Đô quan tộc chủ sẽ làm gì? Chả lẽ cứ y theo kế hoạch của Hoang nhân mặc cho Mộ Dung Thùy bỏ đi để có được chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên ư?”.

Thác Bạt Khuê khẽ cười: “Mục tiêu của ta là đánh bại Mộ Dung Thùy, mục tiêu của Yến Phi là đoạt lại mỹ nhân, thoáng nhìn hai mục tiêu này dường như có mâu thuẫn, sự thực lại là một. Khi Kỷ Thiên Thiên an toàn trở về là ta hoàn thành lời hứa với huynh đệ Yến Phi của ta, sau đó mọi chuyện sẽ do ta làm chủ, hiểu chưa?”.

Sở Vô Hạ mắt sáng rực gật đầu: “Hiểu rồi!”.

o0o

Toàn thể doanh trại nhốn nháo, từng đám Yên binh được điều đi theo trật tự, những người ở lại cũng vội vã chỉnh lý trang bị, dặn bảo binh sĩ cho ngựa ăn, cảnh tượng y như đại chiến sắp xảy ra.

Kỷ Thiên Thiên có hơn hai mươi cao thủ Yên nhân áp tải theo Phong Nương đi về phía đài cao. Dọc đường Phong Nương không nói một lời, nét mặt trơ lạnh khiến người ta khó lòng đoán được bà ta đang có ý nghĩ gì, hoặc giả chẳng có ý nghĩ gì.

Từ khi bị Mộ Dung Thùy bắt đây là lần đầu tiên Kỷ Thiên Thiên có cảm giác rõ rệt về thân phận tù đồ. Nàng chẳng để ý gì đến những ánh mắt dò xét, giữ lòng trong sáng, lặng lẽ đi theo Phong Nương, cũng chẳng đoán Mộ Dung Thùy triệu nàng tới gặp để làm gì.

Cuối cùng Phong Nương cũng dừng lại, thì ra đã đến chân cây chiếc thang gỗ dẫn lên đài, Kỷ Thiên Thiên ngước nhìn lên, chỉ thấy lan can gỗ bao quanh đài, nhưng không có ai.

Kỷ Thiên Thiên quay nhìn Phong Nương, bà ta cúi đầu tránh ánh mắt nàng.

Kỷ Thiên Thiên ngầm thở dài tiến lên hai bước, đang định bước lên bậc thang chợt trong tâm cảnh giác, nhưng đã không kịp ứng biến, mười ngón tay của Phong Nương đã như mười mũi tên nhọn hoắt phóng vào lưng nàng, chớp mắt đã kích trúng hơn ba mươi huyệt đạo của nàng.

Kỷ Thiên Thiên mình mẩy tê cứng, huyết khí không thông, toàn thân tựa như không còn chút khí lực nào, nghiêng người chực ngã về phía sau. Phong Nương ở phía sau đỡ lấy nàng, ghé sát tai buồn rầu nói khẽ: “Tiểu thư! Xin thứ lỗi! Ta chỉ phụng mệnh mà làm, lúc này ta không còn lựa chọn nào khác, đành nghe theo mệnh trời. Thủ pháp này của ta chỉ kiềm chế chân khí để không thể đề khí vận kình, còn lại mọi cái vẫn như thường, sau khi hết tê dại khí lực lại hồi phục. Cấm chế chỉ có công hiệu trong sáu canh giờ rồi sẽ tự động giải trừ tùy theo khí mạch vận chuyển. Ai!”.

Kỷ Thiên Thiên đầu óc rối loạn, cũng không biết có nên căm hận Phong Nương hay không, quả nhiên cảm giác tê tái qua đi mau chóng, nàng lại có thể đứng thẳng lên bằng sức mình.

Phong Nương lùi lại một bước, hồi phục bình tĩnh, lạnh lùng nói: “Tiểu thư! Mời lên”.

Lúc này còn biết nói gì, Kỷ Thiên Thiên ngước nhìn lên, Mộ Dung Thùy đứng tựa lan can điềm đạm nói: “Thiên Thiên! Lên đây!”.

Kỷ Thiên Thiên thầm nghĩ vừa rồi Phong Nương tập kích mình nhất định diễn ra dưới sự giám thị của Mộ Dung Thùy, trách nào Phong Nương nói không được lựa chọn. Thở dài cất bước trèo lên bậc thềm, Mộ Dung Thùy lui bước vào trong.

Kỷ Thiên Thiên từng bước một tiến lên, thầm nghĩ may sao đây không phải là soái trướng của Mộ Dung Thùy mà là cao đài giữa thanh thiên bạch nhật dưới ánh mắt mọi người, nếu không hậu quả thật không dám tưởng tượng, dù nàng muốn tự tận cũng không đủ sức.

Bất quá là nghĩ đến Mộ Dung Thùy hành sự khó lường, hắn muốn làm gì thì làm nấy, ai dám can thiệp? Lại may mà Phong Nương tuyệt sẽ không để hắn công nhiên làm chuyện thương thiên bại lý như vậy, tâm tình có chút lạc quan hơn.

Trong tình trạng thấp thỏm bất an như vậy, Kỷ Thiên Thiên lên tới đài cao.

Mộ Dung Thùy đang tựa lan can nhìn về phía đồi cây hoang dã chập chùng phía nam Nhật Xuất nguyên, trầm giọng nói: “Thiên Thiên! Mời tới bên cạnh ta”.

Kỷ Thiên Thiên gót ngọc nhẹ nhàng bước tới sau lưng hắn, than: “Giữa chúng ta còn gì để nói nữa đây?”.

Mộ Dung Thùy tràn ngập cảm xúc nói: “Làm sao chúng ta lại tới tình cảnh này? Trời cao thật không công bình với ta”.

Kỷ Thiên Thiên im lặng không nói.

Mộ Dung Thùy thoắt xoay người, hai mắt lấp loáng nhìn chằm chặp vào nàng nói: “Đây là cơ hội cuối cùng của Thiên Thiên, chỉ cần nàng nói một câu, một trường máu đổ thành sông sẽ không xuất hiện, không thì chẳng những Yến Phi phải chết, Hoang nhân huynh đệ của nàng cũng không ai sống sót trở về, mọi thứ đều trong tay ta, không ai có thể thay đổi tình huống này”.

Kỷ Thiên Thiên buột miệng hỏi: “Thực sự tình huống do ngươi khống chế sao?”.

Ánh mắt Mộ Dung Thùy lộ vẻ cảnh giác, lướt tới nhanh như chớp vươn tay chụp vào vai Kỷ Thiên Thiên.

Kỷ Thiên Thiên nhếch môi không nói, nghĩ thầm ngươi nhầm rồi, nghĩ rằng Phong Nương nói một đằng làm một nẻo không chế trụ nàng, vì vậy nàng vẫn đủ sức tự tận.

Mộ Dung Thùy lộ vẻ cổ quái, hiển nhiên phát giác cấm chế của Phong Nương vẫn còn nguyên tác dụng, tiếp đó hai mắt cháy rực lên.

Kỷ Thiên Thiên thầm hô hỏng bét, biết hắn vì cú đụng chạm với mình mà phát tác thú tính, mất khả năng kiềm chế, có ý muốn xâm phạm nàng.

Kỷ Thiên Thiên rốt cuộc không thắng nổi nỗi sợ hãi trong lòng, giãy giụa kêu: “Buông ta ra!”.

Mộ Dung Thùy lắc đầu thở dài: “Buông tha nàng? Nàng nói gì vậy? Thiên Thiên quá hiểu ta, thứ ta không có được thì bất kỳ ai cũng không có được”.

Đúng lúc này tiếng còi hiệu vang lên.

Mộ Dung Thùy giật mình buông tay, xoay người nhìn.

Tiếng vó ngựa từ phía nam thảo nguyên vọng đến, hốt nhiên vô số kỵ sĩ từ trong rừng phóng ra, đội hình tề chỉnh, cờ xí tung bay, Yên nhân trong doanh trại thảy đều ngẩng đầu lên nhìn.

Mộ Dung Thùy tựa như quên mất Kỷ Thiên Thiên, mắt mở to bước đến bên lan can.

Kỷ Thiên Thiên thở phào, suýt nữa định bỏ xuống cao đài, nhưng lại không nỡ rời khỏi cảnh tượng rung động lòng người từ trên cao nhìn thấy.

Mặt trời treo cao giữa trời.

Nàng thầm nghĩ: “Yến lang không hề dối mình, năm ngàn tinh nhuệ Thác Bạt tộc đúng như chàng đã nói, chính Ngọ sẽ tới Nhật Xuất nguyên, thời điểm công kích Quân Đô quan đã đến”.

Mấy ngàn chiến sĩ ập đến như thủy triều, tới cách doanh trại Yên quân năm dặm về phía nam sắp thành trận thế, không ngớt lớn tiếng hò reo, khí thế sục sôi.

Tám tổ xe la đi theo trật tự sắp thành hàng ngang phía sau trận địa kỵ binh. Dù Kỷ Thiên Thiên hay Mộ Dung Thùy đều hiểu hơn hai trăm cỗ xe đặc chế này bất cứ lúc nào cũng có thể biến thành la xa trận hết sức kiên cố, không sợ bị tấn công.

Mộ Dung Thùy quét mắt nhìn bốn phía, đột nhiên ánh mắt dừng lại ở hướng Quân Đô quan cách đó hơn mười dặm, nét mặt lo sợ.

Kỷ Thiên Thiên thầm nhủ bây giờ ngươi hẳn đã biết chủ động không còn trong tay, bất giác cũng bội phục đầu óc linh hoạt của Mộ Dung Thùy, khi phát giác trong số quân kéo tới không có Hoang nhân lập tức biết không hay. 

Tiếng kêu kinh hãi vang lên khắp doanh trại.

Từng đụn khói đen kịt cuồn cuộn bốc lên từ con đường núi phía Quân Đô quan.

Mộ Dung Thùy chưa kịp phản ứng, tiếng vó ngựa lại vang lên, vô số chiến sĩ Hoang nhân từ khu rừng rậm sát bên Thái Hành sơn xông ra, tựa như sóng lớn phá tan đê ngăn, hàng vạn chiến mã phi nhanh như tên bắn trên đường sơn đạo. Yên nhân trong doanh trại ngoài việc trợn mắt há mồm ra chẳng có cách gì ngăn cản.

Không phải Mộ Dung Thùy không tính đến khả năng đối phương phong tỏa đường rút, đã phái tinh binh mãnh tướng trấn thủ Quân Đô quan, lại mở rộng đường dốc, đặt trận lôi mộc chính là để đối phó với tình huống này. Chỉ cần một mặt cố thủ đường núi, mặt khác xuất binh giáp kích chắc chắn sẽ đập tan âm mưu địch nhân. Nhưng không ngờ địch nhân chớp thời cơ chuẩn xác như thế, chọn đúng lúc binh lính trấn thủ Quân Đô quan ba ngày liên tục công tác sức mỏi gân mòn liền phát động công kích mãnh liệt.

Rất đông Yên nhân bị Hoang nhân tập kích đuổi chạy ra ngoài, khi bọn họ kinh hoàng phát giác Hoang nhân từ bên trái xông đến lập tức mất hết ý chí chiến đấu, cố chết chạy về phía doanh trại.

Quân Đô quan thất thủ.

Hiện giờ đường rút lui duy nhất của Yên nhân chỉ còn lại bốn cây cầu phao bắc ngang qua Tang Can hà, chưa nói đến việc cầu phao không chịu nổi công kích từ thượng du, mà dù có thể rút sang bên đối ngạn, muốn chạy về Trung Sơn còn phải vòng qua Thái Hành sơn, trong tình trạng thiếu lương, lại phải ứng phó địch nhân truy kích, hậu quả thật không dám tưởng tượng.

Mộ Dung Thùy quay đầu nhìn Kỷ Thiên Thiên, mặt cắt không còn hột máu.

o0o

Thuyền buồm tới bến sông Giang Lăng thành, cảnh tượng đập vào mắt khiến Hoàn Huyền tim đập chân run, không hiểu gì hết.

Cửa thành Giang Lăng mở rộng, dân chúng bồng bế nhau chạy trốn tán loạn, không thấy binh lính giữ thành đâu hết. Trên bến cực kỳ nhốn nháo, thuyền bè ào ào bỏ đi, phảng phất như đến ngày tận thế.

Hoàn Huyền không đợi thuyền ghé bờ, từ trên thuyền tung mình xuống bến, quát hỏi người chạy trốn xung quanh: “Có chuyện gì xảy ra?”.

Một người chạy tới đón, phía sau còn có hơn chục binh lính đi theo, nói: “Bẩm hoàng thượng, ngàn vạn chớ vào thành, trong thành loạn dân làm phản, hết sức nguy hiểm”.

Hoàn Huyền định thần nhìn lại mới hay là đại tướng tâm phúc Phùng Cai, thất thanh hỏi: “Hoàn Vĩ đâu rồi?”.

Phùng Cai đáp: “Tin tức về thuyền đội của hoàng thượng bị phục kích tại Tranh Vanh châu truyền về, đại tướng quân Hoàn Vĩ lập tức thu thập của cải vàng bạc bỏ đi, thần gắng khuyên ông ta ở lại, ông ta nói một câu rất khó nghe rồi bỏ đi chẳng buồn ngoảnh lại”.

Hoàn Huyền toàn thân lạnh buốt, trong mình không còn chút hơi ấm nào, quên cả căm hận Hoàn Vĩ, giọng nghi ngờ: “Tin tức làm sao truyền nhanh đến thế?”.

Phùng Cai rầu rĩ: “Lửa đỏ khói đen từ Tranh Vanh châu bốc lên đến mấy chục dặm còn trông thấy, thuyền bè đi về phía đông nháo nhác chạy ngược về, tin tức đã truyền khắp Kinh Châu”.

Hoàn Huyền nét mặt trắng bệch, run giọng hỏi: “Trẫm nên làm sao đây?”.

Phùng Cai nói: “Hiện tại Giang Lăng không thể giữ được, hoàng thượng phải đi ngay lập tức”.

Hoàn Huyền chợt có cảm giác tuyệt vọng chúng bạn bỏ rơi, cùng đường bí nẻo, hổn hển thở gấp mấy hơi, hỏi: “Đi đâu?”.

Phùng Cai vẫn bình tĩnh đáp: “Càng xa càng tốt! Nếu có thể chạy đến tận Hán Trung trong đất Thục thì có thể bảo đảm an toàn. Thần nguyện gắng hết sức bảo vệ thánh giá”.

Hán Trung là do anh họ Hoàn Huyền là Hoàn Hy trấn giữ, niệm tình thân thuộc, đương nhiên sẽ chịu để Hoàn Huyền lưu trú.

Hoàn Huyền bất giác quay đầu nhìn thuyền buồm, đêm qua y thấy đại thế đã mất, lập tức nhảy lên con thuyền này lợi dụng đặc tính cơ động linh hoạt của nó quay đầu bỏ chạy, may mà giữ được mệnh. Nhớ lại chuyện này vẫn cảm thấy ngượng ngùng.

Phùng Cai hiểu ý nói: “Hoàng thượng tuyệt đối không thể theo đường sông vào Thục, nghe nói thuyền đội của Mao Tu Chi đang đi xuống phía đông tiến về Giang Lăng, nếu muốn chạy thì phải theo đường bộ”.

Hoàn Huyền nhìn quanh, bên mình còn lại không đến hai chục người, bản thân thì nhếch nhác như chó nhà có tang, trông ra chẳng có ai giúp đỡ, ngày nọ chiếm đóng Kiến Khang uy phong bát diện, đâu nghĩ rằng lại có ngày hôm nay.

Hoàn Huyền thê thảm nói: “Ta đâu còn đường nào mà đi? Vậy thì đi theo đường bộ”.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=68#ixzz1bzoxkBRu

Hình thế Nhật Xuất nguyên rõ ràng phân minh.

Bề ngoài Mộ Dung Thùy dựa sông lập trận, tuy bị uy hiếp ba mặt nhưng vẫn chiếm thượng phong. Nhưng Hoang nhân chiếm cứ Quân Đô quan tiến có thể công, thoái có thể thủ; quân Thôi Hoành thì có la xa trận làm chướng ngại phòng ngự cũng có thể giữ vững trận địa. Nếu hai bên cứ giữ nhau như thế, một khi Yên nhân hết lương thì Mộ Dung Thùy sẽ đến lúc tàn đời, hiện thời vốn liếng duy nhất để mặc cả trong tay Mộ Dung Thùy chính là chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên.

Sau khi hết kinh hãi, Mộ Dung Thùy lại hồi phục khí khái của chủ soái vô địch, bước tới phía tây cao đài nhìn về phía Nguyệt Khâu.

Kỷ Thiên Thiên lặng lẽ đứng phía sau, gắng không để lộ hưng phấn và kích động trong lòng tránh kích nộ Mộ Dung Thùy.

Lúc này một đội nhân mã từ Nguyệt Khâu vượt qua đường hào mà đi, thẳng đến cách doanh trại Yên nhân hơn hai ngàn bộ.

Mộ Dung Thùy ra lệnh không được vọng động, đăm đăm nhìn Thác Bạt Khuê tế ngựa đi đầu.

Kỷ Thiên Thiên lần đầu tiên nhìn thấy Thác Bạt Khuê, tâm tình cổ quái, nàng biết Thác Bạt Khuê là người có thể chôn sống mấy vạn người mặt không biến sắc, nhưng cũng biết hắn là người anh em tốt nhất của Yến Phi, vận mệnh của nàng và Tiểu Thi đang nằm trong tay hắn.

Thác Bạt Khuê kìm ngựa đứng lại, hơn trăm tùy tòng vội dừng lại.

Mộ Dung Thùy sát cơ tràn ngập trên hai mắt, hừ lạnh một tiếng.

Thác Bạt Khuê hiện lên vẻ tàn khốc, hét lớn: “Thác Bạt tộc chủ Thác Bạt Khuê mời Yên chủ Mộ Dung Thùy nói chuyện”.

Mộ Dung Thùy ung dung đáp: “Hai bên giao chiến chỉ coi chân tài thực lực, còn nói lời thừa làm gì?”.

Hắn không cần đề khí cao giọng, âm thanh tự nhiên truyền khắp, Yên nhân trong doanh trại ai cũng nghe rõ ràng, đồng thanh thét lớn trợ uy, biểu thị quyết tâm tử chiến. Chiến sĩ Hoang nhân và Thác Bạt tộc ở ngoài xa mấy dặm tuy không nghe thấy đối thoại của hai người, nhưng nghe thấy tiếng hò hét của Yên nhân, lập tức phản ứng, nhất thời đây đó tiếng reo hò vang lên chấn động cả thảo nguyên.

Chờ tiếng hét hò lắng xuống, ánh mắt sắc như dao của Thác Bạt Khuê bắn về phía Mộ Dung Thùy, lạnh lùng nói: “Ta nói lời thừa hay không Yên chủ nghe xong sẽ biết, dám hỏi Yên chủ có còn hứng thú nghe không?”.

Kỷ Thiên Thiên ở phía sau Mộ Dung Thùy thầm hô lợi hại, Thác Bạt Khuê nhằm vào lời Mộ Dung Thùy phản kích, Mộ Dung Thùy bị bức xuống hạ phong, dù ngàn vạn lần không muốn cũng phải nghe rõ nguyên nhân Thác Bạt Khuê yêu cầu đối thoại, coi xem liệu có cơ hội để xoay chuyển tình thế hay không.

Quả nhiên Mộ Dung Thùy hơi biến sắc mặt, rõ ràng hết sức tức giận nhưng buộc phải nén lòng nói: “Ta đang chờ nghe đây”.

Thác Bạt Khuê ung dung nói: “Lần này Thác Bạt Khuê ta đến là để thay mặt huynh đệ Yến Phi của ta thách đấu Yên chủ, hai bên đơn đả độc đấu một trận, nếu Yên chủ đắc thắng, ta sẽ giao ra một trăm xe lương, đồng thời lập tức lui về Thịnh Lạc, chừng nào Yên chủ còn sống sẽ không bước nửa bước vào Trường Thành. Thác Bạt Khuê lấy vinh dự của Thác Bạt tộc mà thề sẽ không sai nửa lời”.

Lời hắn truyền ra, doanh trại Yên nhân lập tức yên lặng như tờ, chỉ còn tiếng ngựa hí điểm xuyết cho sự yên lặng nặng nề.

Trái tim Kỷ Thiên Thiên đập thình thịch, bây giờ nàng mới hiểu rõ lời Yến Phi, điều kiện Thác Bạt Khuê đề xuất khiến Mộ Dung Thùy không cách gì cự tuyệt thì ra lại có hậu quả nghiêm trọng như vậy.

Ánh mắt Mộ Dung Thùy lộ vẻ khó tin, trầm giọng hỏi: “Ta bại thì sao?”.

Thác Bạt Khuê nét mặt sáng bừng lên, lại lập tức hóa thành độc địa vô tình, nói: “Yên chủ vẫn nhận được trăm cỗ xe lương, nhưng phải lập tức giao trả Thiên Thiên tiểu thư và nữ tỳ Tiểu Thi hoàn toàn không tổn hại gì. Nếu như Yên chủ chịu tiếp thụ kiến nghị của ta, xin lập lời thề để bảo đảm sẽ giữ đúng lời hứa”.

Mộ Dung Thùy quay đầu liếc nhìn Kỷ Thiên Thiên, đoạn lại nhìn Thác Bạt Khuê hỏi: “Như thế nào mới coi là phân thắng bại?”.

Con tim Kỷ Thiên Thiên đập như điên như cuồng. Trong số hàng vạn người ở Nhật Xuất nguyên nàng là người đầu tiên hiểu quyết định trong đầu Mộ Dung Thùy. Từ ánh mắt Mộ Dung Thùy nhìn mình, nàng biết chắc tâm ý hắn, đôi mắt sáng lên hiển thị niềm tin tất thắng và hưng phấn trong lòng hắn về khả năng lật ngược thế bại.

Thác Bạt Khuê cười: “Cao thủ quyết đấu ai thắng ai bại tự nhiên sẽ phân biệt rõ ràng, nếu huynh đệ Yến Phi của ta bất hạnh thua trận, Thác Bạt Khuê ta lưu lại trăm cỗ xe lương, lượm xác rồi đi, không nói thêm nửa câu nào”.

Mộ Dung Thùy cười lớn: “Được! Huynh đệ Yến Phi của ngươi đã muốn tìm cái chết, Mộ Dung Thùy ta sao lại cự tuyệt? Ta cũng lập lời thề, mọi chuyện y lời Thác Bạt tộc chủ đã nói, nếu vi phạm lời thề, hãy để cho Mộ Dung Thùy ta vĩnh viễn không về đến Trung Sơn”.

Thác Bạt Khuê hân hoan: “Tốt! Tốt! Xin Yên chủ phái người tới doanh trại ta thương lượng những bố trí hai bên cùng chấp nhận được, hy vọng có thể lập tức tiến hành sau khi mặt trời lặn, Yên chủ có dị nghị gì không?”.

Mộ Dung Thùy hét lớn: “Mọi chuyện theo ý ngươi, mặt trời lặn ta sẽ cùng Yến Phi quyết chiến trên Nhật Xuất nguyên, coi xem Điệp Luyến Hoa của hắn lợi hại hay Bắc Bá thương của ta mạnh hơn”.

Lời nói vừa dứt, lập tức trong doanh trại Yên nhân bùng phát tiếng hò reo rung trời chuyển đất, khiến người ta cảm thấy niềm tin của Yên nhân đối với Mộ Dung Thùy gần như mù quáng.

Kỷ Thiên Thiên rất kích động, trong doanh trại địch nhân chỉ có nàng hiểu rõ trường quyết chiến này không hề dễ dàng, đồng thời cũng băn khoăn, thầm nghĩ nếu Yến Phi có gì bất trắc, bản thân nàng có muốn tự tận cũng không được.

Thác Bạt Khuê cười ha hả, quay đầu ngựa phi về phía Nguyệt Khâu.

o0o

Dưới ánh nắng chiều xuân tà tà chiếu xuống, Hoàn Huyền cùng hơn ba chục thân binh theo Phùng Cai dọc theo Đại Giang chạy trối chết về phía nam, đột nhiên Phùng Cai dừng lại, Đại Giang cuồn cuộn chắn ngang phía trước.

Hoàn Huyền ngạc nhiên: “Sao lại dừng?”.

Phùng Cai hỏi: “Hoàng thượng không nghe thấy tiếng vó ngựa truy binh đuổi tới sao?”.

Hoàn Huyền vận công vào song nhĩ, quả nhiên phía đông ẩn ước truyền đến tiếng vó ngựa, bản thân vì tâm thần bất ổn thành ra không lưu ý, kinh hãi hỏi: “Làm sao đây?”.

Phùng Cai lạnh lùng đáp: “Chúng ta bơi qua sông tới Mai Hồi châu thuộc Giang Trung, nghỉ ngơi nửa canh giờ, đợi trời tối hẳn lại bơi sang bờ bắc, như vậy ắt có thể tránh được truy binh”.

Hoàn Huyền bực tức nói: “Vậy sao lúc đầu không lên thuyền qua sông để tiết kiệm thời gian?”.

Phùng Cai ung dung: “Hoàng thượng minh xét, chủ yếu là chúng ta làm cho địch nhân không biết mình đào tẩu theo hướng nào, vì vậy phải dùng kế dụ địch mới có cơ may bí mật tới Hán Trung, nếu để ai cũng thấy ta lên bờ ở bắc ngạn thì khó lòng khiến địch mê hoặc”.

Hoàn Huyền nghĩ lại thấy cũng có lý, đồng ý: “Vậy thì chúng ta bơi qua sông”.

Liền dẫn đầu nhảy xuống sông.

o0o

Kỷ Thiên Thiên về đến lều, Tiểu Thi không kể gì hết mừng rỡ vùi đầu vào lòng nàng khóc ròng.

Kỷ Thiên Thiên ôm chặt ái tỳ thân hình run rẩy như một con chim nhỏ sợ hãi, thương xót nói: “Không sao rồi! Không sao rồi!”.

Tiểu Thi vẫn khóc nức nở.

Kỷ Thiên Thiên lúc này không khác gì một nữ tử yếu đuối, vất vả dìu Tiểu Thi đứng lên nói: “Thi Thi bây giờ tin chưa?”.

Tiểu Thi ngẩng đầu lên, đôi mắt đẫm lệ ánh lên vẻ ngượng nghịu, xấu hổ gật đầu.

Kỷ Thiên Thiên cầm chiếc khăn lụa lau nước mắt cho nàng, khẽ cười nói: “Thi Thi nên cười mới đúng! Đêm nay chúng ta sẽ giành lại được tự do. Ta sẽ cử hành một dạ hội đốt lửa, sẽ do Bàng lão bản chủ trì nghi thức nướng đùi dê ăn mừng. Có còn nhớ đùi dê nướng của Bàng lão bản không? Đùi dê do Cao Bằng lâu ở Kiến Khang làm cũng không bằng? Đúng không?”.

Tiểu Thi gật đầu đồng ý, lại lo lắng hỏi: “Yến công tử đích xác có thể thắng được Mộ Dung Thùy ư?”.

Kỷ Thiên Thiên cũng đang lo âu chuyện này, chỉ biết ghé sát tai Tiểu Thi an ủi: “Để ta cho Thi Thi biết một bí mật, những gì Trúc Pháp Khánh, Tôn Ân đều là bại tướng trong tay Yến lang, bọn họ đều là cao thủ tuyệt đỉnh đủ tư cách tranh cao thấp với Mộ Dung Thùy, còn gì mà phải lo?”.

Tiểu Thi căn bản không biết Trúc Pháp Khánh là thần thánh phương nào, nhưng đại danh của Tôn Ân lại như sét đánh ngang tai, nghe lời Kỷ Thiên Thiên có yên tâm hơn một chút, bình tĩnh lại. Định nói, chợt thẹn thùng cúi đầu xuống.

Kỷ Thiên Thiên lan tâm huệ chất, coi mặt biết ý, hoan hỉ nói: “Có phải Thi Thi muốn hỏi Bàng lão bản có đến hay không phải không?”.

Tiểu Thi má phấn đỏ tưng bừng, cự nự: “Tiểu thư!”.

Kỷ Thiên Thiên mỉm cười nói: “Đến để cứu ta và Thi Thi làm sao thiếu phần Bàng lão bản được? Rồi Thi Thi sẽ gặp hắn”.

Tiếp đó lại nói: “Tiện đây cho Thi Thi biết luôn, Cao công tử có việc lưu lại Lưỡng Hồ, vì thế lần này không theo đến đây”.

Tiểu Thi gật đầu tỏ ý đã biết, nhưng nét mặt không hề ngượng ngùng.

Chợt cửa lều vén lên, Phong Nương thần sắc cổ quái bước vào.

Kỷ Thiên Thiên thầm kêu hỏng to, vì huyệt đạo bị cấm chế nàng không phát giác bà ta ở bên ngoài, bằng thính lực của Phong Nương không biết đã nghe được bao nhiêu đối thoại của bọn nàng.

Phong Nương đến trước mặt hai người, chậm rãi quỵ xuống, vẻ khó tin: “Làm sao tiểu thư biết thủ tịch phong môi của Biên Hoang Tập tới Lưỡng Hồ, lần này không đến đây?”.

Tiểu Thi mặt hoa thất sắc ngước nhìn Kỷ Thiên Thiên.

Kỷ Thiên Thiên gắng trấn tĩnh, giọng tỉnh khô: “Ta chỉ thuận miệng an ủi Thi Thi, đại nương bất tất coi là thực”.

Ngay cả nàng cũng cảm thấy lý do này miễn cưỡng, muốn an ủi Tiểu Thi phải nói Cao Ngạn đã tới mới phải. Đồng thời cũng biết Mộ Dung Thùy đã bỏ nhiều công sức sưu tập tin tức về Hoang nhân, vì vậy mới biết rõ hành tung Cao Ngạn.

Phong Nương định thần nhìn kỹ Kỷ Thiên Thiên, nét mặt đầy nghi hoặc hỏi: “Nhưng tiểu thư nói không sai chút nào, đích xác Cao Ngạn đã đi Lưỡng Hồ”.

Kỷ Thiên Thiên biết mình càng giải muốn thích che giấu sự thực lại càng khiến Phong Nương nghi ngờ, chỉ biết gượng cười đáp: “Ta còn biết nói gì nữa đây?”.

Phong Nương nhìn kỹ Kỷ Thiên Thiên một hồi lâu, thở dài: “Thế nào cũng được! Hy vọng lần này nguy cơ vì tiểu thư mà có khả dĩ dùng phương pháp hòa bình giải quyết, chỉ cần đại quân an toàn trở về Trung Sơn, mọi chuyện khác lão thân chẳng cần quan tâm. Ai! Cũng chẳng đến lượt lão thân lo lắng”.

Kỷ Thiên Thiên thấp giọng hỏi: “Đại nương nghĩ rằng Yến Phi có thể thắng được không?”.

Phong Nương nét mặt nặng nề đáp: “Ta không biết. Bất quá bên ta từ trên xuống dưới không ai nghĩ rằng hoàng thượng thua Yến Phi. Nguyên nhân quan trọng nhất là hoàng thượng có thể giết chết Yến Phi, nhưng Yến Phi lại tuyệt đối không thể giết hoàng thượng, tiểu thư hẳn minh bạch tình huống vi diệu bên trong”.

Kỷ Thiên Thiên gật đầu tỏ ý hiểu, nói: “Đã vậy vì sao nghe giọng đại nương thì dường như nghiêng về Yến Phi?”.

Phong Nương cười gượng gạo: “Hoặc giả chỉ là mong muốn của ta, hy vọng hai người lại được tự do. Còn có một nguyên nhân nữa là loại người như Thác Bạt Khuê nhất định sẽ không vì tình huynh đệ mà đánh mất tương lai dân tộc, nếu hắn không hoàn toàn tin tưởng sẽ không đáp ứng trường quyết chiến này”.

Kỷ Thiên Thiên nói không nên lời.

Phong Nương nói: “Đến lúc rồi, Thiên Thiên tiểu thư và Tiểu Thi thư xin mời theo ta, một trong những điều kiện Thác Bạt Khuê đưa ra là hai vị phải đứng quan chiến ở trên cùng để bọn họ biết rõ tình hình hai vị”.

o0o

Hoàn Huyền và thủ hạ lên tới bờ nam Mai Hồi châu, bên kia sông vọng sang tiếng người nói và tiếng vó ngựa đi về phía tây, bất giác thầm kêu hú vía.

Phùng Cai suỵt một tiếng, thủ hạ hắn hơn mười thân binh lập tức tản ra tứ phía ẩn mình vào rừng cây trên ngọn đồi ven sông.

Hoàn Huyền rất cảm động, không ngờ khi mình gặp khó khăn vẫn có kẻ trung thành như vậy liều chết đi theo.

Y là con trai Hoàn Ôn, cả đời hô phong hoán vũ hoành hành bá đạo, đâu ngờ có lúc thế này, nỗi hoảng sợ trong lòng thực khó nói với người ngoài. Bất giác nhớ lại ngày nọ Tư Mã Đạo Tử hoang mang trốn khỏi Kiến Khang hẳn cũng có tâm tình như thế, ý nghĩ này khiến y cay đắng, cực kỳ khó chịu đựng.

Phùng Cai nói: “Xin hoàng thượng đi theo hạ thần!”.

Đoạn dẫn đầu đi xuyên qua rừng, đến một khu đất bằng phẳng giữa đồi cây, cung kính nói: “Mời hoàng thượng nghỉ ngơi”.

Hoàn Huyền và đám tùy tòng nhọc nhằn một đêm, lại phải chạy bộ hơn mười dặm đều mệt lử, nghe nói vội ngồi hết xuống.

Lúc này mặt trời đã khuất nẻo tây sơn, gió sông nhẹ nhàng thổi tới. Phùng Cai nói: “Bọn thần sẽ canh gác xung quanh, nếu truy binh đuổi tới, chúng ta lập tức lặn xuống sông trốn đi, bảo đảm có thể thoát khỏi địch nhân”.

Hoàn Huyền cảm động nói: “Tương lai trẫm Đông sơn tái khởi, nhất định sẽ không bạc đãi khanh”.

Phùng Cai luôn miệng tạ ơn, sau đó bỏ đi, khi tới chỗ khuất tầm mắt Hoàn Huyền liền triển khai thân pháp lướt nhanh về phía một ngọn đồi cao, vượt qua đỉnh đồi rồi chạy xuống dốc bên kia, hai bóng người từ trong rừng vọt ra, té ra là Cao Ngạn và Doãn Thanh Nhã.

Phùng Cai mừng rỡ dừng bước nói: “May không nhục mệnh!”.

Doãn Thanh Nhã nhảy cẫng lên: “Gian tặc trúng kế rồi”.

Cao Ngạn làm bộ lão luyện nói: “Phùng tướng quân làm tốt lắm, thống lĩnh đại nhân tất sẽ trọng thưởng”.

Phùng Cai khiêm tốn nói: “Được ra sức vì thống lĩnh đại nhân là vinh quang của Phùng Cai, chỉ hy vọng sau này có thể đi theo thống lĩnh đại nhân tận tâm làm việc là đã hài lòng lắm rồi”.

Một tiếng nói từ trong rừng vọng ra: “Phùng tướng quân chịu ra sức cho ta, ta hết sức cảm kích”.

Phùng Cai mừng rỡ ngước nhìn, thấy một người long hành hổ bộ rảo bước đi ra, phía sau là hơn trăm binh tướng Bắc Phủ binh.

Phùng Cai vội quỳ xuống cung kính: “Mạt tướng Phùng Cai bái kiến thống lĩnh đại nhân”.

Lưu Dụ đến trước mắt hắn, hai tay vung lên ra hiệu, bộ hạ lập tức chia thành hai đường lướt qua âm thầm tiến về hướng Hoàn Huyền.

Lưu Dụ đỡ Phùng Cai lên, hai mắt lấp lánh, chỉ nói một câu đơn giản: “Giờ khắc của Hoàn Huyền tới rồi”.

o0o

Nhật Xuất nguyên. Nguyệt Khâu.

Trăm cỗ xe lương tập trung ở phía nam doanh trại Yên nhân để Mộ Dung Thùy phái người đến kiểm tra, đảm bảo không gian dối.

Thôi Hoành thân dẫn quân giám sát, nếu Mộ Dung Thùy có hành động khác ý đồ đoạt lương lập tức sẽ phóng hỏa tiễn thiêu hủy xe lương, đương nhiên giao dịch sẽ kết thúc. Theo hiệp nghị khi Mộ Dung Thùy bại trận trao trả Kỷ Thiên Thiên, lương xa sẽ đồng thời để Yên nhân mang về doanh trại, bên giao bên nhận rõ ràng phân minh.

Ở khu vực nằm giữa trận địa Nguyệt Khâu và doanh trại Yên nhân chôn mấy chục cây đuốc chưa châm lửa, quây lại thành một vòng tròn lớn đường kính chừng năm chục bộ, giới hạn quyết chiến trường của Yến Phi và Mộ Dung Thùy.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=68#ixzz1bzozy6N2

Kỷ Thiên Thiên cùng Tiểu Thi thúc ngựa theo mọi người chầm chậm ra khỏi doanh trại phía tây tới trận địa quyết chiến.

Phong Nương luôn theo sát hai người, thay vào đám thân vệ của Mộ Dung Thùy là các nữ binh, nhìn bề ngoài ai nấy đều là cao thủ tinh nhuệ.

Theo hiệp nghị, mỗi bên có thể mang theo năm trăm người tới gần quan sát cuộc chiến, số còn lại phải lưu tại trận địa của mình, không được tiến hành bất kỳ điều động quân sự nào.

Kỷ Thiên Thiên nhìn về phía Nguyệt Khâu, vì nội công bị cấm chế ảnh hưởng đến thị lực, ở khoảng cách xa như vậy nàng chỉ miễn cưỡng thấy nhân mã bên mình đồng thời cũng đang ly khai trận địa tiến đến.

Hơn trăm ngọn đuốc xung quanh quyết chiến trường tạo thành một vòng cung lửa cháy rừng rực, ánh hồng bập bùng chiếu sáng thảo nguyên, tình cảnh quỷ dị khiến tâm tình ai nấy càng thêm trầm trọng.

Kỷ Thiên Thiên nhìn sang Phong Nương ở phía bên phải, bà ta tựa hồ tâm sự trùng trùng, ánh mắt lo âu nhìn về phía trước, nàng phát giác bà ta đang chăm chú nhìn Mộ Dung Thùy.

Mộ Dung Thùy cách chỗ bọn họ hơn chục hàng kỵ mã, vây quanh hơn chục đại tướng cả Hán lẫn Hồ, trong đó có cả con trai hắn là Mộ Dung Long và Mộ Dung Nùng. Bọn họ đang đàm luận, ai nấy thần sắc ngưng trọng, tựa hồ đang tranh luận sự kiện gì đấy.

Kỷ Thiên Thiên lòng chợt run lên, theo đạo lý nếu có gì cần thương lượng thì phải xong trước khi rời khỏi doanh trại, hơn nữa lời Mộ Dung Thùy chính là mệnh lệnh, đâu đến lượt kẻ khác tranh biện. Nghĩ đến đây, không đừng được dụng tâm cố lắng nghe, chỉ tiếc nội lực bị chế, trừ tiếng vó ngựa đạp lên mặt đất còn không nghe thấy bất kỳ lời thoại nào.

Đúng lúc này, Đan điền chợt nóng rực lên, chưa kịp hiểu chuyện gì, nội kình vốn bị Phong Nương dùng thủ pháp cấm chế không thể ngưng tụ được đột nhiên từ Đan điền phóng ra, theo Đốc mạch lên Ngọc chẩm quan, qua Thiên linh huyệt, lại đi xuống theo Nhâm mạch, chân khí vận chuyển, thính giác lập tức hồi phục linh mẫn, vừa kịp nghe được lời nói sau cùng của Mộ Dung Thùy: “Vinh nhục cá nhân so với tồn vong thịnh suy của dân tộc không đáng kể gì, ý ta đã quyết, các ngươi cứ theo lời ta mà làm”.

Câu nói này của Mộ Dung Thùy kết thúc cuộc tranh luận, không ai dám nói gì nữa.

Kỷ Thiên Thiên vừa mừng vừa lo.

Lo là vì lời nói của Mộ Dung Thùy rất có thâm ý, nhưng nàng lại không cách gì biết ý tứ hắn thế nào, mừng là cấm chế của Phong Nương không đương nổi chân khí chí dương của nàng, để cho nàng khôi phục được võ công.

Đội ngũ lúc này cách quyết chiến trường khoảng nửa dặm, y theo hiệp nghị không tiến thêm nữa, đội hình biến thành hàng ngang để mọi người mặt đối mặt với quyết chiến trường.

Theo chỉ thị của Phong Nương, Kỷ Thiên Thiên và Tiểu Thi tiến lên hàng trên cùng, Phong Nương cũng tế ngựa lên xen vào giữa, rất tự nhiên chia cách hai nàng.

Kỷ Thiên Thiên nhìn về phía trước, lập tức tầm mắt mở ra vô hạn, khu vực quyết chiến được hình thành bởi những cột đuốc hiện rõ trước mắt, đội ngũ bên mình đã vượt qua những cây đuốc cháy đùng đùng tới bên kia quyết chiến trường, triển khai thành một đội hình giống như vậy.

Con tim nàng đập rộn lên, bất giác tìm kiếm bóng dáng Yến Phi, chợt thấy trong đám đông một người nhảy xuống ngựa, rảo bước tiến về phía quyết chiến trường. Một cảm giác mê hoặc kỳ lạ chiếm hữu toàn thân nàng, bộ pháp của chàng thật dứt khoát, tràn đầy tiết tấu và mỹ cảm, tỏ rõ niềm tin và quyết tâm vượt qua bất cứ trở lực nào.

Vào thời khắc này nàng cảm giác rõ ràng dù mạnh như Mộ Dung Thùy cũng không có cách gì cản được Yến Phi.

Mộ Dung Thùy hừ lạnh một tiếng, nhảy xuống ngựa, không hề nhìn Kỷ Thiên Thiên mà hướng thẳng về phía tối đại kình địch và tình địch Yến Phi thong thả tiến bước.

o0o

Mặt trời đã khuất sau rặng núi phía tây, Mai Hồi châu một màu tăm tối, gió sông thổi đến từng cơn, Phùng Cai và thủ hạ ra đi không thấy trở lại, chẳng chút động tĩnh. Hoàn Huyền rốt cuộc không kiên nhẫn nổi, phái xuất thân binh đi coi tình hình.

Khí lực y đã hồi phục hơn một nửa, bắt đầu cảm giác thấy bụng đói cồn cào, nhớ ra đã hơn mười canh giờ chưa được ăn gì, nghĩ lại từ nhỏ đến giờ luôn luôn ăn no mặc đẹp, hôm nay mới lần đầu tiên biết thế nào là cảm giác nhịn đói, anh hùng khí đoản, hối hận đã không nghe lời Hoàn Vĩ lỗ mãng xuất binh, chuốc lấy thảm bại Tranh Vanh châu toàn quân bị tiêu diệt. Từ khi hiểu sự đến giờ bất luận làm chuyện gì y đều không biết đến hai chữ hối tiếc, lần đầu tiên ân hận cứ ý mình mình làm thì đã không kịp.

Chờ thêm một lát, người được phái ra như hoàng hạc một đi không trở lại, Hoàn Huyền cảm giác nguy cơ càng lúc càng tăng, lập tức bật dậy, đám thân binh vội theo y đứng lên, ai nấy nhìn nhau ngơ ngác, chân tay lạnh buốt, hồi hộp lo sợ.

Hoàn Huyền nói: “Chúng ta đi”.

Nói chưa dứt lời, bốn phía vang lên tiếng lửa cháy phù phù, vô số đuốc lửa xuất hiện vây kín bọn họ vào giữa, hàng trăm tiễn thủ giương cung lắp tên nhằm vào họ.

Hoàn Huyền và đám thân binh hồn phi phách tán, không người nào dám di động nửa bước.

Một người rảo bước tới, hét lớn: “Trừ Hoàn Huyền ra, những người còn lại nếu buông vũ khí thì được tự do bỏ đi, đây là cơ hội cuối cùng”.

Hoàn Huyền cố nén nỗi kinh hoảng, giận dữ quát: “Kẻ đến là ai?”.

Người nọ ngửa mặt lên trời cười lớn, tiếng cười biểu lộ đau thương vô hạn, chợt ngừng lại nói: “Hoàn Huyền ngươi nghe cho rõ đây, bổn nhân chính là Lưu Dụ”.

“Đinh đinh đang đang!”.

Lập tức vũ khí bị vứt ngổn ngang trên đám cỏ xung quanh Hoàn Huyền, tiếp đó cả đám thân binh hô nhau chuồn sạch.

Khi Lưu Dụ tới cách chừng ba trượng thì chỉ còn lại một mình Hoàn Huyền chơ vơ đứng đó.

Lưu Dụ đưa tay làm hiệu, thủ hạ xung quanh thu cất hết cung tên, bạt xuất trường đao.

Hiện tại việc Hoàn Huyền muốn làm nhất là xông khỏi trùng vây, nhưng khí thế của Lưu Dụ đã trói chặt y, khiến y không dám vọng động. Tại thời khắc liên quan đến sống chết này, trong đầu Hoàn Huyền chợt hiện lên khuôn mặt Tư Mã Nguyên Hiển bị bắt áp giải đến gặp y, trong tai còn vọng lại lời hắn nói Lưu Dụ sẽ báo thù cho hắn, khi ấy mình còn cười nhạo hắn, đâu ngờ lời Tư Mã Nguyên Hiển lại biến thành sự thực nhãn tiền thế này.

Hai người lần đầu tiên giáp mặt, ánh mắt tựa như đao kiếm giao đấu.

Trong lòng Lưu Dụ cảm xúc dâng lên như sóng lớn ngập trời, từ ngày Đạm Chân chết, gã luôn mong đợi thời khắc này, nghĩ lại nếu chẳng phải vì y, cuộc đời mình đâu ra nông nỗi này, nhất thời trong đầu ngổn ngang vô vàn cảm xúc.

Lạnh lùng nói: “Hoàn Huyền ngươi hẳn không ngờ có ngày hôm nay! Nghĩ tới ngươi mang danh thủ tịch Cửu phẩm cao thủ, ta sẽ để cho ngươi một cơ hội quyết đấu, coi xem Đoạn Ngọc Hàn của ngươi có thể làm được chuyện gì!”.

Hoàn Huyền đầy hy vọng hỏi vội: “Nếu ta thắng thì sao?”.

Lưu Dụ phì cười: “Ngươi cho là sẽ thế nào? Nếu ngươi quả có bổn lĩnh ấy, cứ thử coi xem có thể tránh khỏi cái chết vì vạn tiễn xuyên tâm quán thể không? Ha!”.

Hoàn Huyền tức giận nói: “Như thế là bất công!”.

Nét mặt Lưu Dụ trở nên nhẹ nhõm, ngạc nhiên nhún vai: “Công bình ư? Ngươi có khi nào công bình với người? Trước đây ngươi cậy thế làm nhục người khác, có nghĩ đến công bình không? Ngươi không những ngu xuẩn, mà còn vô liêm sỉ nữa!”.

Hoàn Huyền lộ vẻ nghi hoặc, không cầm được hỏi: “Ta có cảm giác kỳ quái, chúng ta phải chăng hôm nay là gặp nhau lần đầu? Vì sao ngươi giống như có thâm cừu đại hận với ta vậy?”.

Nhớ lại ngày nào Vương Đạm Chân nằm trong lòng mình, hiến dâng ái tình nóng bỏng thuần khiết biến gã thành nam nhân hạnh phúc nhất trên đời, tựa như có được bảo vật trân quý nhất, vậy mà chính Hoàn Huyền đã bằng cách hèn hạ nhất đoạt lấy Vương Đạm Chân, khiến nàng ôm mối nhục mà chết. Cừu hận này dù lấy hết nước Đại Giang cũng không rửa sạch được.

Lưu Dụ trầm giọng nói: “Đến khi đao ta xuyên qua thân thể ngươi, sẽ để ngươi biết đáp án”.

Hoàn Huyền ngẩng lên trời cười vang, đoạn song mục lộ hung quang nói: “Ta chỉ muốn hỏi một câu, khi hai ta động thủ kẻ khác có xen vào không?”.

Lưu Dụ lắc đầu: “Mỗi một người đều tiến bộ, chỉ riêng xuẩn tài ngươi không ngừng lui bước, đấy phải chăng là tính cách bẩm sinh của con em cao môn? Tự bấy đến giờ vẫn không học tập được gì từ những sai lầm của mình sao?”.

Lập tức bạt xuất bội đao chém thẳng vào Hoàn Huyền.

Đoạn Ngọc Hàn của Hoàn Huyền tuốt khỏi vỏ đương cự Hậu bối đao của Lưu Dụ, phát ra một thanh âm trong trẻo.

Coi tình hình thì có vẻ hai bên lực lượng quân bình, hốt nhiên Hoàn Huyền mặt đỏ bừng lên, tiếp đó lùi lại nửa bước.

Chúng nhân đồng thanh hò reo hoan hô trợ uy cho Lưu Dụ, hét to nhất là Tiểu Bạch Nhạn. Lúc này mọi người đều coi ra chỉ thuần bằng đao kình Lưu Dụ thắng được Hoàn Huyền nửa thành, nhưng những kẻ cao minh cỡ như Tiểu Bạch Nhạn đều biết Hoàn Huyền đã bị bức xuống hạ phong.

Hoàn Huyền thầm kêu khổ, nếu là lúc bình thường, nửa bước này chẳng những y chẳng phải lui về, mà còn có thể triển khai thủ pháp tinh vi giao đấu, chỉ cần chiếm được thượng phong là có nhiều cơ hội giết chết đối phương, lý tưởng nhất là chế phục Lưu Dụ, lúc đó có thể trao đổi để giữ được toàn mạng, tiếc rằng hiện tại lại không phải là tình huống bình thường.

Từ Tranh Vanh châu chạy về đến Mai Hồi châu là thời gian khủng hoảng nhất trong đời y, tựa như từ trên mây rơi thẳng xuống vũng bùn, thể năng tiêu hao, tinh thần suy sụp, võ công phát huy không nổi năm thành so với ngày thường, dù có ý muốn liều chết nhưng cũng không đủ sức liều chết. Ngược lại Lưu Dụ đang ở vào trạng thái tốt nhất, một đao trông hoàn toàn bình thường này thực sự chứa đựng toàn bộ tinh khí thần của gã, uy thế rung trời chuyển đất.

Hoàn Huyền cuối cùng cũng minh bạch hàm ý trào phúng trong câu nói vừa rồi của Lưu Dụ, đó là cười mình không hiểu tình thế, trước mắt là tình huống tuyệt không công bằng do chính Lưu Dụ một tay tạo ra. Lưu Dụ không hề muốn cho mình cơ hội quyết đấu công bình, mà là quyết giết chết mình.

Minh bạch chung quy cũng chỉ là minh bạch, nhưng mà cao thủ quá chiêu như đánh cờ đi sai một nước, muốn lật ngược thế cờ quả tình hết sức khó khăn. Chân khí của Hoàn Huyền bị đao kình cuồng mãnh của Lưu Dụ bức trở lại theo kinh mạch dội ngược về, lập tức làm cho khí huyết đảo lộn, mắt nổ đom đóm, chưa nói đến phản kích, chỉ cần sau khi thoái lui đứng vững được đã khó khăn cực kỳ.

Bao nhiêu cừu hận và oán khí của Lưu Dụ chất chứa lâu nay trút cả vào một đao này, thống khổ trong lòng lại không giảm mà tăng. Càng hiểu rõ mình đã chiếm được thượng phong, Hậu bối đao từ Đoạn Ngọc Hàn bật lên, Lưu Dụ xoay mình như gió, Hậu bối đao lại lần nữa bay lên quét ngang lưng Hoàn Huyền, không để y có thời gian hồi khí.

Sở dĩ gã liên tiếp giành được thắng lợi trong trường đại chiến với Hoàn Huyền, là vì đã vận dụng chiến lược thích hợp. Lần này quyết chiến với Hoàn Huyền gã đã bố trí tỉ mỉ, luôn ghi nhớ Đồ Phụng Tam từng đề tỉnh, Hoàn Huyền dù có vô vàn khuyết điểm, nhưng không thể phủ nhận là một kỳ tài võ học, Đoạn Ngọc Hàn của y có thể kế thừa Cửu Thiều Định Âm kiếm trở thành Giang Tả đệ nhất nhân, thực sự không phải nhờ may mắn mà có. Mà mục đích của gã chính là tự tay lấy mạng Hoàn Huyền để rửa thù tuyết hận cho Vương Đạm Chân chứ không phải muốn đánh bại Cửu phẩm cao thủ để bước lên ngôi vị đệ nhất, vì vậy đã bố trí xảo diệu cốt để Hoàn Huyền mất hết thể lực và ý chí, khiến y phải xa lìa đồng bọn, bốn bề thọ địch, mất hết sự trầm tĩnh và sức mạnh của một cao thủ.

Chính vì nắm vững nhược điểm của Hoàn Huyền nên ngay khi nhập cuộc gã đã dùng sách lược lấy cứng đụng cứng, muốn để ám ảnh tử vong bao trùm Hoàn Huyền, khiến y lo sợ hãi hùng, chịu đựng đủ mọi áp lực và lo phiền cho đến tận lúc gã tự tay lấy mạng y.

Trong lúc xoay mình, Lưu Dụ buộc mình phải đè nén nỗi niềm nhớ thương Vương Đạm Chân lúc này tựa như núi lửa dâng trào trong tâm linh, không cách gì ức chế được nữa.

“Đương!”.

Hậu bối đao quét trúng Đoạn Ngọc Hàn Hoàn Huyền kéo nhanh về đỡ, kình khí chính diện giao phong phát xuất tiếng nổ như sét đánh, tia lửa bắn tung tóe.

Lần này Hoàn Huyền lại càng không ổn, bị Lưu Dụ chấn văng cả người lẫn đao sang bên trái.

Xung quanh tiếng hò hét vang trời, ai nấy đều vui mừng hớn hở, bởi vì mọi người đều không ngờ tình huống lại biến đổi như vậy, Hoàn Huyền lại vô dụng như vậy.

Đám tướng lĩnh Bắc Phủ binh lại càng hiểu rõ nguyên nhân đưa đến cục diện hợp lý này, loại như Hà Vô Kỵ, Ngụy Vịnh Chi quen xông pha chiến địa đều coi thường con em cao môn. Đao pháp của Lưu Dụ được bồi dưỡng từ thực chiến sa trường trải qua bao sinh tử mà thành, còn hạng cao môn tử đệ trưởng thành với đủ mọi thuận lợi thì lại khiếm khuyết sự rèn luyện không gì thay thế được nói trên. Trong tình huống bình thường, Hoàn Huyền hoặc giả có thể áp đảo Lưu Dụ, nhưng trong nghịch cảnh dưới áp lực trầm trọng, lập tức thua kém hẳn Lưu Dụ, huống hồ hiện giờ Hoàn Huyền đang bị hãm trong tuyệt cảnh, ý chí so với một người lính tầm thường của Bắc Phủ binh cũng không bằng.

Tâm thần Lưu Dụ thì lại đang trong một trạng thái kỳ dị, con tim gã bị ngọn lửa hận thù thiêu đốt. Điều khiến gã đau lòng nhất là nỗi hổ thẹn đối với Vương Đạm Chân cứ mãi cắn xé con tim gã, nếu ngày ấy gã mặc cho Tạ Huyền phản đối cùng Vương Đạm Chân tư bôn đến Biên Hoang Tập, nàng đâu có phải chịu nhục tự tận.

Một mặt khác tinh thần gã lại duy trì ở trạng thái sáng suốt nhất, tựa như trong ngọn lửa nóng rực có một khối băng tuyết vĩnh viễn không tan, tuyệt đối kiểm soát tình huống của tối đại cừu địch, biết rõ Hoàn Huyền đã mất đi năng lực thoát khỏi bại cục.

Hoàn Huyền không còn cơ hội phát huy đao pháp tinh vi, Lưu Dụ lấy vụng chế khéo, ngay từ đầu đã khắc chế y.

Lưu Dụ điên cuồng gầm lên một tiếng, Hậu bối đao như sấm sét đánh tới.

Hoàn Huyền mặt không còn chút huyết sắc, gắng gượng hoàn kích.

“Đinh đinh đang đang!”.

Hậu bối đao giữ nguyên phương hướng nhắm Hoàn Huyền xả tới, đao sau càng mạnh hơn, xảo quyệt hơn đao trước, không ra chương pháp gì, nhưng lại là đao pháp hết sức hữu hiệu đúc kết từ sa trường, mỗi đao đều tránh cường kích nhược nhằm đánh vào sơ hở của đối phương, liền lạc như nước chảy không khe hở nào không lọt.

Hoàn Huyền từng bước từng bước bại thoái, hoàn toàn không phản kích được.

Đám đông quan chiến xung quanh đều ủng hộ Lưu Dụ, reo hò ầm ĩ, Cao Ngạn cầm đầu hét lớn: “Hoàn Huyền ngã xuống!”.

Tiếp đó toàn thể mọi người cùng phụ họa, chỉ nghe thấy rền vang “Hoàn Huyền ngã xuống!” như triều thủy ập tới chấn động cả Mai Hồi châu, xói thẳng vào đầu Hoàn Huyền.

“Thương!”.

Hoàn Huyền lảo đảo lùi lại, Lưu Dụ đứng yên bất động, Hậu bối đao chỉ thẳng vào Hoàn Huyền.

Bốn phía lập tức yên lặng như tờ, ai nấy mở to mắt coi thử Hoàn Huyền ngã xuống không dậy nổi hay không.

Hoàn Huyền cuối cùng cũng gắng gượng đứng vững, tóc tai bơ phờ, mặt mũi tái nhợt như lệ quỷ, môi run run, bàn tay cầm đao cũng rung bần bật, không còn chút hình tướng phong lưu nào, chưa nói gì đến phong thái hoàng đế.

Tiếp đến vai trái, sườn phải và đùi phải xuất hiện vết máu thấm qua áo quần, nguyên lai y đã trúng ba đao của Lưu Dụ, biến thành thế cùng lực kiệt.

Lưu Dụ ngửa lên trời cười lớn: “Hoàn Huyền ngươi có khi nào nghĩ có ngày hôm nay không? Sao còn ngơ ngác đứng đó làm gì? Phải chăng muốn chảy hết sạch máu? Còn chưa lại đây chịu chết?”.

Hoàn Huyền gào lên một tiếng, đề khởi toàn thân kình khí, như một mũi tên bay vọt về phía Lưu Dụ, Đoạn Ngọc Hàn biến thành một quầng sáng lớn phản chiếu ánh hỏa quang từ bốn phía rọi đến kích thẳng tới Lưu Dụ.

Hình ảnh Vương Đạm Chân trang điểm đẹp đẽ ngồi thuyền đến Giang Lăng lại phù hiện trong đầu Lưu Dụ, đó là cảnh tượng khiến cho Lưu Dụ đau lòng nhất, vĩnh viễn không thể quên, bất quá tất cả sẽ kết liễu theo một đao sắp sửa phát xuất, quá khứ sẽ được đào sâu chôn chặt trong ký ức cùng với Hoàn Huyền do chính tay gã giết chết, gã muốn đối diện với kẻ đang cố chết xông lại, gián tiếp hay trực tiếp tạo nên tương lai của gã.

Tâm thần Lưu Dụ tiến nhập vào cảnh giới chỉ thủy bất ba của võ đạo, tả quyền kích trúng chấn văng Đoạn Ngọc Hàn, sau khi thu hồi quyền đầu liền cúi mình xoay người, lợi dụng lúc Hoàn Huyền để trống trung lộ, Hậu bối đao đâm thẳng tới.

Hoàn Huyền tựa hồ loạng choạng không đứng vững tự mình ngã vào mũi đao của Lưu Dụ.

Hậu bối đao cắm ngập vào bụng.

Toàn thân Hoàn Huyền giật nảy lên, thân hình mềm nhũn gục vào Lưu Dụ.

Lưu Dụ ghé sát vào bên tai y nói: “Một đao này là vì Đạm Chân giành cho ngươi, Đạm Chân chính là nữ tử yêu quý nhất của Lưu Dụ ta, ngươi hiểu rõ chưa?”.

Hoàn Huyền lộ xuất thần sắc không thể tin được, tiếp đó hai mắt trợn ngược tắt hơi.

o0o

Kỷ Thiên Thiên đồng thời hết sức mâu thuẫn.

Cuối cùng nàng cũng hiểu mấy câu nói của Mộ Dung Thùy có liên quan đến vinh nhục cá nhân, rất nhiều khả năng trực tiếp quan hệ đến việc hắn thực hiện lời hẹn ước. Bởi vì khi Mộ Dung Thùy lập lời thề nói nếu làm sai, hắn sẽ vĩnh viễn không nhìn thấy Đô thành Trung Sơn, điều đó cũng chỉ liên quan đến đến cá nhân, không giống như Thác Bạt Khuê mang cả Thác Bạt tộc ra lập lời thề. Khi Mộ Dung Thùy bước ra quyết chiến trường không nhìn nàng, phải chăng là vì trong lòng có điều hổ thẹn?

Với sự tinh minh của Thác Bạt Khuê, sao không phát giác điều gian xảo trong lời thề của Mộ Dung Thùy, hay là đối với Thác Bạt Khuê, chỉ cần Mộ Dung Thùy chết đi, mọi chuyện còn lại không cần để ý? Nhưng không lẽ dù cho Mộ Dung Thùy chiến bại vẫn cố hy sinh vinh nhục cá nhân mình, không chịu trao trả chủ tỳ mình?

Đây là điều rất quan hệ với nàng và Tiểu Thi, cũng là tin tức hết sức mấu chốt, nhưng nàng lại không thể truyền đi cho Yến Phi, sợ rằng sẽ khiến chàng nhiễu loạn tinh thần, sợ chàng vì bối rối mà phải thất thố ngậm hờn dưới Bắc Bá thương của Mộ Dung Thùy. 

Đúng vào thời khắc kỳ dị nhất của cuộc đời, nàng lại không rõ cái gì là hy vọng? Cái gì là tuyệt vọng? Ranh giới thật khó phân.

Khi Mộ Dung Thùy từ trên ngựa bước xuống, sự chú ý của Yến Phi rời khỏi Kỷ Thiên Thiên và Tiểu Thi, quay sang tập trung vào Mộ Dung Thùy.

Hướng Vũ Điền nói đúng, vũ kỹ của Mộ Dung Thùy đã đạt đến giới hạn cao nhất của thể năng người thường, các động tác tiếp nhau hết sức hoàn mỹ, không lộ ra chút sơ hở. Muốn đánh bại hắn mà không giết hắn căn bản là không có khả năng, điều rất dễ xảy ra là bản thân mình vì có điều cố kỵ mà lạc bại thân vong.

Muốn đánh bại Mộ Dung Thùy, cần phải dùng sách lược hai mũi giáp công, ấy là xuất kỳ bất ý tấn công kết hợp thêm các chiêu số cuối cùng của Tiểu tam hợp.

Vì hai người đã từng giao thủ nên Mộ Dung Thùy đối với chàng đã có những định kiến, đối với kiếm pháp của chàng hẳn đã có tính toán, đó chính là thiên kiến thâm căn cố đế của hắn, cũng là khiếm khuyết duy nhất trong một tổng thể không khiếm khuyết.

Khiếm khuyết của Mộ Dung Thùy chính là cái tâm của hắn.

Mộ Dung Thùy chẳng những là một binh pháp đại gia, mà còn là nhất đại tông sư võ học, kinh nghiệm phong phú hơn bất kỳ ai, một khi để hắn ổn định trận cước, triển khai công thế, bản thân mình thì không thể thi triển Tiểu tam hợp mà đả đấu với hắn đến cùng, khác nào trùng diễn tình huống ngày nọ cùng Hướng Vũ Điền giải quyết chiến sinh tử, Yến Phi sẽ chỉ có thể gặp chiêu phá chiêu để bảo đảm khỏi thua, hãm vào tình huống liệt thế bị động.

Mà với kiến thức của Mộ Dung Thùy, hắn sẽ dần dần mò ra hư thực, uy hiếp của Âm thủy Dương hỏa đối với Mộ Dung Thùy sẽ không ngừng giảm sút. Đến khi tình huống như vậy xuất hiện, cách duy nhất để chàng bảo mệnh chính là dùng Tiểu tam hợp phản kích, kết quả vẫn là ngươi không chết thì ta chết, đó là tình huống Yến Phi không muốn để xảy ra nhất.

Lúc này chàng và Mộ Dung Thùy đều cách quyết chiến trường hơn trăm bước, hai người với cùng tốc độ chậm rãi tiến tới, dường như đã ước định như vậy từ trước.

Cả cánh đồng đêm yên lặng như tờ, trừ tiếng lửa cháy phần phật trên các cột đuốc hòa trộn với tiếng lừa kêu ngựa hí vọng theo gió lớn thổi qua thảo nguyên, thiên địa một màu tái tê.

Những người đứng gần quan chiến của hai bên ai cũng có cảm giác không chịu nổi bầu không khí ngưng đọng, áp lực trầm trọng.

Yến Phi hiểu rằng mình cần phải trong thời gian đi trăm bước này nghĩ ra biện pháp thủ thắng, nếu không nhất định không thể bằng lực lượng bản thân ly khai vòng chiến, vĩnh viễn mất đi Kỷ Thiên Thiên và Tiểu Thi.

Mọi hy vọng của Hoang nhân, thịnh suy tồn vong của Thác Bạt tộc, tất cả đều đặt lên vai chàng.

Đúng!

Muốn đánh bại Mộ Dung Thùy, thắng phụ phải được quyết định trong vòng một chiêu, như vậy mới có thể xuất kỳ bất ý, dĩ kỳ chế thắng, giống như lần này Mộ Dung Thùy bị bức xuống hạ phong, không thể không mạo hiểm tiếp thụ khiêu chiến, chính vì bọn họ có Kỷ Thiên Thiên ngầm báo tin mới có thể dĩ kỳ chế kỳ, khiến cho mưu toan của Mộ Dung Thùy không triển khai được, không để cho Mộ Dung Thùy có cơ hội phản bại thành thắng.

Đạo lý giống như vậy cũng có thể áp dụng cho trường quyết đấu này.

Oanh!

Não bộ Yến Phi như bị sét đánh trúng, nguyên thần đề thăng, Âm thần Dương thần hòa làm một, tinh thần linh giác dâng lên đến mức chí cao.

Mọi thứ đều biến hóa chậm hẳn lại, tốc độ của Mộ Dung Thùy cũng tựa hồ giảm đi, sự thực đương nhiên mọi thứ không có gì thay đổi, chỉ có tốc độ bản thân Yến Phi là thay đổi, cảm giác của chàng nhanh thêm bao nhiêu, tương ứng với cước bộ của Mộ Dung Thùy chậm đi bấy nhiêu, tuy nhiên cũng chỉ là những biến hóa rất khó thấy.

Cách vòng chiến chỉ vài chục bộ.

Mộ Dung Thùy song mục lóe thần quang trừng trừng nhìn Yến Phi không chớp, mỗi bước đều khẳng định, mỗi bước đều bảo trì cùng một tốc độ, vì song thủ cầm thương đã đổi thành đơn thủ, ngọn lửa đang cháy bùng bùng ở gần chỗ hắn chịu áp lực nghiêng ngả vào bên trong.

Âm thủy Dương hỏa trong nội thể Yến Phi đồng thời vận hành, tại thời khắc này bất giác chàng cảm kích Tôn Ân, nếu không phải đã có kinh nghiệm hợp lực khai mở Tiên môn với Tôn Ân, chàng không có cách gì kiểm soát được lực đạo Tiên môn nặng nhẹ, hiện tại lòng chàng đã có tính toán.

Xuy xuy xuy xuy!

Bắc Bá thương của Mộ Dung Thùy bắn vọt lên không, hóa thành vô số thương ảnh, hiển lộ khí thế Bắc phương bá chủ cực kỳ uy mãnh, khiến người trông thấy cõi lòng lạnh buốt, không một người nào dám ho he, bởi áp lực đè nặng lên những người đến quan chiến thật khó chịu đựng nổi.

Hai người đồng thời tiến vào quyết chiến trường.

“Tranh!”.

Điệp Luyến Hoa rời khỏi vỏ, ai nấy đều sinh ra cảm giác kỳ dị, Điệp Luyến Hoa phản chiếu ánh lửa rực rỡ không còn là lợi khí tầm thường mà là thần vật mang linh tính. Trừ Hướng Vũ Điền và Kỷ Thiên Thiên không ai biết rõ tại sao lại có thứ cảm giác cổ quái như vậy đối với Điệp Luyến Hoa, nhưng mà sự thực chính là như vậy.

Mộ Dung Thùy bước vào vòng chiến, mâu ảnh biến mất, Bắc Bá thương hiện rõ chân thân, được Mộ Dung Thùy tay nắm chuôi thương chĩa lên trời, tình cảnh thật quỷ dị.

Điệp Luyến Hoa trỏ thẳng về phía Mộ Dung Thùy.

Đột nhiên Bắc Bá thương từ trên cao rơi xuống, đúng vào sát na mũi thương chĩa thẳng vào mũi kiếm, Mộ Dung Thùy lại chuyển đổi sang hai tay cầm thương, đoạn không biết là người phóng thương hay thương mang theo người, Bắc Bá thương như mũi tên rời cung đâm thẳng về phía Yến Phi, người coi lập tức có cảm giác thảm liệt, tựa hồ như cả tinh tú trên thảo nguyên, cả trời và đất đều bị nhát đâm thần kinh quỷ khóc này kiềm chế, một thương hàm chứa chân khí vận khởi đến mức chí cao này quả thực có uy thế không thể kháng cự. Càng khiến người ta run sợ Mộ Dung Thùy chiến lược cao minh phát huy tới tận cùng ưu thế của binh khí dài và nặng, chỉ cần chiếm được chút thượng phong là có thể thừa thế truy kích cho đến khi đối thủ lạc bại thân vong.

Chính vào thời khắc Mộ Dung Thùy phát động công kích, Yến Phi vọt lên, Điệp Luyến Hoa cắt ngang hư không đâm vào Bắc Bá thương, chính diện nghênh kích Mộ Dung Thùy.

Nhưng tất cả mọi người đều không biết, kể cả đối thủ Mộ Dung Thùy là người trong cuộc, Yến Phi đang cố gắng kiềm chế duy trì cùng tốc độ di động với Mộ Dung Thùy, với khoảng cách hiện tại của song phương, điểm giao kích giữa Điệp Luyến Hoa và Bắc Bá thương sẽ nằm chính giữa vòng chiến.

Tuyệt đại đa số mọi người đều không rõ vì sao Yến Phi vì sao lại ngu xuẩn như vậy? Cho dù công lực không cách nhau là mấy, nhưng chính diện đụng nhau như vậy thì Mộ Dung Thùy với ưu thế binh khí vừa dài vừa nặng hơn, hơn nữa Bắc Bá thương chế bằng tinh cương, Điệp Luyến Hoa rất có khả năng đụng phải là gãy vụn.

Không ai nghĩ rằng tình huống lại phát triển như vậy.

Mộ Dung Thùy tuy cảm thấy không thỏa đáng, nhưng Bắc Bá thương của hắn đã ở thế phát ra không thu hồi được nữa, chính mình là chủ cũng không cách gì cải biến sự việc sắp sửa xảy ra.

Ngọn lửa trên hơn trăm cây đuốc vây quanh quyết chiến trường đều co rút lại rất kỳ quái, có thể thấy khí trường của hai người cường mạnh ghê người đến thế nào. Vòng chiến thoắt biến thành ảm đạm, khiến cho tình huống càng thêm hung hiểm.

Trong chớp mắt cự ly giữa hai người từ năm trăm bước rút ngắn lại còn ba chục bước, kiếm thương sẽ lập tức giao kích, khiến cho không ai ngờ có biến hóa xuất hiện.

Với tốc độ tưởng chừng không còn có thể nhanh hơn được nữa, Yến Phi chợt lại tăng tốc, đây là điều vượt quá thể năng người thường có thể làm được, đột nhiên thay đổi hẳn vận mệnh dường như đã được chú định rồi.

Điểm chạm không còn nằm ở chính giữa vòng chiến nữa mà dịch về phía Mộ Dung Thùy.

Cao thủ giao đấu, đặc biệt là những cao thủ tuyệt đỉnh như Mộ Dung Thùy và Yến Phi, mỗi chiêu mỗi thức đều liên quan chặt chẽ giữa tâm, thủ và binh khí, hoàn toàn tự nhiên đạt đến những tính toán tinh vi nhất để mang đến kết quả tốt nhất. Một thương của Mộ Dung Thùy được kích ra dựa vào những suy tính như vậy, sát na tiếp xúc với mũi kiếm đối phương, chân khí vận chuyển cũng phải ăn khớp để đạt đến trạng thái tối cao.

Sự biến hóa của Yến Phi căn bản là không thể làm được, vậy mà lại phát sinh hiển nhiên trước mắt, lập tức khiến cho tính toán trước đó của Mộ Dung Thùy trở thành sai lầm, xuất hiện chỉ một chút khiếm khuyết, nhưng Mộ Dung Thùy đã vô phương cải biến, mà căn bản không thể cải biến chiêu thức.

Hoang nhân và Thác Bạt tộc chiến sĩ phía bên Yến Phi không kịp hò hét khen hay, chẳng những vì bọn họ đã khẩn trương đến nghẹt thở mà còn vì tình huống biến hóa quá nhanh, không ai theo kịp tốc độ như vậy.

Hai mươi bước.

Yến Phi đạt đến cực hạn tốc độ của Âm thần Dương thần hợp nhất, Điệp Luyến Hoa lại có biến hóa vi diệu, đang từ đâm thẳng tới hóa thành trầm xuống, sau đó tà tà hất lên.

Ai nấy đều run lên, lực đạo hất lên đương nhiên không sánh bằng đâm thẳng, mà Yến Phi lâm thời biến chiêu như vậy, chắc chắn là kình lực và khí thế kém đi nhiều, dù rằng có hất trúng đầu mũi thương, khẳng định cũng không thể làm thay đổi thương thế của Mộ Dung Thùy, vì sao Yến Phi lại ngớ ngẩn như vậy?

Chỉ có Yến Phi và Hướng Vũ Điền bàng quan là hiểu rõ, người khác không hiểu là đương nhiên, bởi vì chiêu thức Yến Phi sử dụng không phải là chiêu thức của phàm trần, mà là tuyệt chiêu sau cùng có thể phá nát hư không – Tiên Môn Quyết.

Trong hỏa sinh thủy, trong thủy sinh hỏa.

Chí âm chi thủy và cấp dương chi hỏa từ uyển mạch Yến Phi trút vào Điệp Luyến Hoa, xuất hiện tình cảnh khiến người quan sát không tin ở mắt mình, trường kiếm một bên hóa thành trắng bạch như tuyết, bên kia đỏ rực như lửa giống như hai luồng sáng một trắng một đỏ, tạo thành một vầng hào quang chói mắt hết sức kỳ dị không gì tả nổi đụng nhanh vào mũi Bắc Bá thương.

Yến Phi và Mộ Dung Thùy trong sự trông ngóng của muôn người, rốt cuộc đã chính diện giao phong.

Điệp Luyến Hoa đập trúng Bắc Bá thương.

Lửa đuốc xung quanh đồng thời tắt phụt.

Thanh âm kiếm thương giao kích mọi người chờ đợi không thấy vang lên, chiến quyển một vùng hắc ám, trận quyết chiến tựa hồ mất tăm tích trên thảo nguyên.

Tất cả mọi người hai bên tựa hồ tâm tạng nhảy vọt ra khỏi yết hầu, thời khắc khẩn trương đến cùng cực, ở trung tâm vòng chiến xuất hiện một điểm sáng chói mãnh liệt đến mức không thể nhìn thẳng vào, tiếp đó bộc phát âm thanh như sét đánh.

Kỳ quái nhất là ánh sáng chói chiếu ra không lâu, chỉ ánh lên trong sát na Điệp Luyến Hoa hất trúng đầu Bắc Bá thương rồi chợt biến mất.

Oanh!

Trừ Yến Phi và Hướng Vũ Điền, không ai biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng hậu quả lại thấy rõ.

Một lần nữa thân hình Yến Phi và Mộ Dung Thùy xuất hiện, cảm giác giống như vừa rồi bọn họ đã bị bóng tối nuốt chửng, ánh trăng ánh sao chiếu xuống không hề có tác dụng, đến thời khắc này hắc ám mới lại nhả bọn họ ra.

Hai người đồng thời văng ra phía sau.

Yến Phi tiếp đất trước tiên, loạng choạng lùi mấy bước mới miễn cưỡng đứng vững.

Mộ Dung Thùy thì giống như diều đứt dây bay về phía bên mình, sau khi rơi xuống đất còn lăn lộn hơn mười bước mới oằn mình đứng lên, Bắc Bá thương vẫn nắm trong tay, nhưng chỉ còn lại cán thương, đoạn đầu thương dài hơn hai thước đã biến mất không còn tung tích.

Khoảng cách giữa hai người đã kéo dài ra hơn mười trượng, Mộ Dung Thùy còn ngã ra ngoài vòng chiến.

Trên thảo nguyên không nghe một tiếng động, chuyện vừa xảy ra quá chấn động, người của hai bên còn chưa kịp hồi tỉnh.

Mộ Dung Thùy cầm cán thương ngơ ngác, đã không thể tin, lại cũng không hiểu.

Đám Trác Cuồng Sinh thảy đều trợn mắt ngơ ngẩn, sự việc không thể rốt cuộc đã biến thành có thể, không những Yến Phi đã thành công đánh ngã Mộ Dung Thùy, mà còn thành công đánh bật vũ khí khỏi tay hắn.

Yến Phi lúc này toàn thân mềm xèo, vừa rồi khi Điệp Luyến Hoa khai triển Tiểu Tiên môn lóe lên rồi vụt tắt, tuy chưa đủ để tạo nên đột phá quá nhân, nhưng cũng thành công phá được một thương kinh thiên động địa của Mộ Dung Thùy.

Ai nấy vẫn còn đang kinh hãi chưa nói gì, ánh mắt đổ dồn vào Mộ Dung Thùy đang thẫn thờ nhìn cán thương gãy trong tay, coi xem hắn có chịu nhận bại, thực hành lời hứa hay không.

Yến Phi càng lo lắng, Mộ Dung Thùy tuy thụ thương, nhưng không quá nghiêm trọng, nếu hắn kiên trì tái chiến, bản thân mình chân lực tổn hao quá độ, chắc chắn sẽ táng mệnh dưới đoạn thương.

Mộ Dung Thùy ngửa đầu nhìn lên bầu trời đêm, lộ vẻ mặt quyết đoán, đột nhiên vứt bỏ đoạn thương, trầm giọng nói: “Ta thua rồi!”.

Phía Thác Bạt Khuê bộc phát hò hét hoan hô đầu tiên, tiếp đó là chiến sĩ trên Nguyệt Khâu và quân của Thôi Hoành, cuối cùng đến lượt Hoang nhân gào thét như điên cuồng, ai nấy đều biết Yến Phi đã thắng.

Kỷ Thiên Thiên đứng trong đội ngũ Yên nhân quan chiến cũng hoan hỉ như điên, nhưng vì xung quanh mọi người thần tình tê dại, vì vậy không dám biểu hiện ra.

Kỷ Thiên Thiên chớp thời cơ hô hoán Yến Phi, nhưng Yến Phi vì chân nguyên tổn hao quá độ không hề phát giác.

Ánh mắt Mộ Dung Thùy hướng về phía Yến Phi, không nói gì.

Tiếng hò reo dần dần lắng dịu, thảo nguyên mau chóng hồi phục yên tĩnh vốn có.

Bên kia Thác Bạt Khuê sắc mặt không đổi quan sát Mộ Dung Thùy, tình huống hắn muốn thấy nhất đã phát sinh, đối với Yến Phi, hắn đã tận tình huynh đệ, hiện tại mọi chuyện chỉ còn chờ coi Mộ Dung Thùy có thực hành lời hứa hay không. Hắn vẫn im lặng, vì hắn hiểu rất rõ Mộ Dung Thùy, không muốn vì lời nói của mình ảnh hưởng đến sự phát triển của tình huống.

Chân khí của Yến Phi dần dần hồi phục, nhưng vẫn chưa đạt đến trình độ toàn lực xuất thủ một lần nữa.

Mộ Dung Thùy lui về phía sau liên tiếp hai chục bước mới ngừng lại, rút ngắn khoảng cách tới người bên mình, lưng vẫn quay về phía bên mình, trầm giọng quát: “Đưa Thiên Thiên tiểu thư và Tiểu Thi tới đây cho ta!”.

Tiểu Thi vừa mừng vừa sợ a lên một tiếng nhìn sang phía Kỷ Thiên Thiên, Kỷ Thiên Thiên lại xuất hiện vẻ mặt cảnh giác, không hưởng ứng ánh mắt Tiểu Thi.

Chúng tướng hai bên tả hữu đang muốn túm lấy cương ngựa của Kỷ Thiên Thiên chủ tỳ, Phong Nương bỗng quát dừng lại: “Thiên Thiên tiểu thư và Tiểu Thi hai người do lão thân phụ trách”.

Kỷ Thiên Thiên nhìn về phía Phong Nương, thấy nét mặt bà ta đầy kiên quyết, hiển nhiên trong chuyện này tuyệt không nhượng bộ.

Mộ Dung Nùng vẻ mặt khó coi nói: “Đây là...”.

Phong Nương kiên quyết ngăn hắn lại, tiếp đó lưỡng thủ vươn ra chụp lấy cương ngựa của Kỷ Thiên Thiên và Tiểu Thi kéo đi, ở thời khắc bất kỳ một động tác nhỏ nhặt nào cũng có thể gây ra hiểu nhầm, ai dám ngăn trở bà ta?

Bên Hoang nhân cảm thấy hết sức không thỏa đáng, theo hiệp nghị, lúc này Mộ Dung Thùy phải trước hết phái xuất thủ hạ mang xe lương về doanh trại, nhận lương và giao người đồng thời tiến hành. Nhưng vì chủ tỳ Kỷ Thiên Thiên vẫn nằm trong tay Mộ Dung Thùy nên không ai dám xuất ngôn phản đối.

Yến Phi cũng sinh tâm nghi ngờ, chỉ hận tối thiểu cũng phải có công phu uống một chén trà nữa chàng mới miễn cưỡng xuất thủ được. Bởi vì hiện tại chàng cách Mộ Dung Thùy gần năm chục trượng, nước xa không cứu được lửa gần, nếu vọng động xuất thủ chỉ sợ lại khiến Mộ Dung Thùy phản ứng kịch liệt hơn, vì vậy đành đứng coi biến hóa, lo lắng trong lòng còn ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phục nguyên của chàng.

Kỷ Thiên Thiên nhìn Phong Nương, tuy bà ta nét mặt bình tĩnh, nhưng nàng biết rằng bà ta cũng giống như mình hoài nghi thành ý của Mộ Dung Thùy khi thực hành lời hứa.

Vừa rồi một kích toàn lực của Mộ Dung Thùy vẫn lưu lại ấn tượng sâu sắc trong đầu nàng, thiên hạ e là chỉ có Yến Phi mới có thể phá được một kích đủ sức khai sơn phá thạch của hắn, bản thân nàng tuy đã tiến bộ rất nhiều, nhưng chí dương chi khí vẫn chưa hoàn thành, thực sự rất khó đương nổi một kích như vậy của Mộ Dung Thùy.

Cuối cùng nàng đã minh bạch, vào thời khắc khẩn trương dân tộc sinh tử tồn vong, Mộ Dung Thùy không những bỏ rơi vinh nhục cá nhân, mà còn buông bỏ mối tình luyến ái đối với nàng, chuẩn bị hy sinh nàng và Tiểu Thi mong khiêu khích Hoang nhân quên mình công kích, Thác Bạt Khuê tiến thoái lưỡng nan, sau khi Hoang nhân thua trận, ngày tàn của Thác Bạt Khuê cũng không còn xa.

Nhìn thấy càng lúc càng tới gần Yến Phi, tình cảm của nàng càng thêm sa sút, hai bên gần gũi nhau như vậy, nhưng lại bị một thứ pháp trường vô hình chia cách, đao phủ chính là Mộ Dung Thùy cách nàng chỉ ba chục bộ đang quay lưng lại phía nàng. Kỷ Thiên Thiên lặng lẽ vận khí, đề tụ công lực, chưa có khi nào nàng căm hận Mộ Dung Thùy như thế.

Đột nhiên Mộ Dung Thùy tung người lên, từ trên không lộn vòng hai lần, một quyền lăng không đánh về phía Kỷ Thiên Thiên.

Phía bên Thác Bạt Khuê ai nấy đều hết sức kinh hãi, Hướng Vũ Điền là người đầu tiên phi thân hạ mã chạy tới như bay, tiếp đó là Đồ Phụng Tam, Mộ Dung Chiến mấy người thúc ngựa xông tới.

Thác Bạt Khuê hét lớn: “Giết!”.

Dẫn đầu Hoang nhân xông tới, lập tức kéo theo toàn quân, ai nấy đều không kể tính mệnh lao về phía Mộ Dung Thùy.

Bên này Mộ Dung Nùng cũng rút bội đao hét lớn: “Vì Mộ Dung Tiên Ti tộc chiến đấu!”.

Dẫn quân xông về phía trước.

Yến Phi cũng bay lên chính vào lúc song cước Mộ Dung Thùy ly địa, chỉ tiếc tốc độ so với bình thời không bằng một nửa, bất giác sinh xuất cảm giác tuyệt vọng.

Ai cũng biết, không có người nào vãn hồi được thảm sự sắp xảy ra.

Quyền phong khiến cho Kỷ Thiên Thiên chút nữa đã nghẹt thở, nàng không rảnh coi tình hình Tiểu Thi, đang muốn gắng gượng hoàn kích, Phong Nương ở bên cạnh đã vọt lên khỏi lưng ngựa hét to: “Tiểu thư mau đưa Tiểu Thi chạy đi!”.

Kỷ Thiên Thiên chợt hiểu ra, hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của Mộ Dung Thùy và Phong Nương, thân mình bay lên lướt về phía Tiểu Thi, an nhiên rơi xuống mình ngựa phía sau Tiểu Thi.

“Bình!”.

Quyền đầu Mộ Dung Thùy đập trúng ngực Phong Nương, chính hắn cũng không ngờ Phong Nương không hề chống đỡ quyền này.

Phong Nương mắt mũi mồm đồng thời ứa máu, xương cốt toàn thân nát vụn, trước khi chết hai mắt vẫn mở to như muốn nói với Mộ Dung Thùy, bà ta không còn nợ nần gì hắn nữa.

Thân thể Phong Nương ngã ngửa ra đằng sau, Kỷ Thiên Thiên thúc ngựa nghiêng nghiêng phóng đi.

Mộ Dung Thùy lâm nguy bất loạn, trước tiên vận công tiêu trừ hết lực phản chấn từ kình khí hộ thể của Phong Nương, song cước tiếp đất lập tức lướt sang ngang, lại đánh ra một quyền nhằm thẳng vào bối tâm Kỷ Thiên Thiên.

Kỷ Thiên Thiên nhìn thấy Yến Phi đã chạy qua vòng chiến, cách nàng và Tiểu Thi không tới trăm bộ, tinh thần cực phấn chấn, quên hết sợ hãi đối với võ công của Mộ Dung Thùy, xoay người phản thủ đẩy ra một chưởng.

Quyền chưởng đụng nhau, sự tình bất ngờ nhất xảy ra, ầm một tiếng, thân hình Kỷ Thiên Thiên kịch chấn, Mộ Dung Thùy ứng chưởng bay tung lên, phun ra một búng máu tươi.

Yến Phi, Hướng Vũ Điền, Hoang nhân và chiến sĩ của Thác Bạt Khuê ai nấy hoan hỉ vô cùng, không tin ở mắt mình.

Kỷ Thiên Thiên không quản gì huyết khí đảo lộn, một tay cầm cương, một tay ôm Tiểu Thi, song cước không ngừng thúc ngựa, chiến mã chuyển sang nước đại phi như điên về phía Yến Phi.

Phía Thác Bạt Khuê vang lên tiếng hoan hô như sấm.

Lúc này trong mắt Yến Phi chỉ có hai người Kỷ Thiên Thiên và Tiểu Thi, không hề lưu tâm đến tình hình Mộ Dung Thùy.

Kỷ Thiên Thiên kìm cương ngựa, chiến mã giảm tốc độ. Một niềm vui sướng kỳ lạ lan tỏa toàn thân, duy nhất một điều ân hận là Phong Nương đã hy sinh bản thân đổi lấy sinh mệnh và tự do cho họ.

Tiểu Thi toàn thân run bắn lên, lần này không phải là vì kinh hoảng mà là vì sự việc không thể xảy ra đã xảy ra, không còn khống chế nổi tình cảm kích động trong lòng.

Yến Phi rốt cuộc cũng chạy tới, gọi to: Thiên Thiên!”.

Kỷ Thiên Thiên từ trên lưng ngựa nghiêng người rơi xuống lọt vào vòng tay an toàn và ấm áp của Yến Phi.

Các chiến sĩ lướt qua họ, tựa như thủy triều ầm ầm xông về phía địch nhân.

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=68#ixzz1bzp46JPh

Lão nhân thở dài: “Cuối cùng cũng kể xong câu chuyện này, bao nhiêu ngày rồi nhỉ?”.

Hơn ba chục tiểu hài tử ngồi vây quanh lão trên thềm đá của ngôi miếu thờ vội vàng xòe bàn tay lên đếm số ngày. Đám trẻ này đứa lớn nhất cũng không quá mười hai tuổi, bé nhất còn chưa tới năm tuổi, trong số đó có một tiểu nữ hài mắt lớn nói to: “Đêm nay là đêm thứ hai mươi ba rồi!”.

Dưới ánh phong đăng chiếu xuống, ba chục cặp mắt thơ ngây tràn đầy mong mỏi, khát vọng và hiếu kỳ đăm đăm nhìn lão.

Từ khi lão nhân tới tiểu sơn thôn phong tục thuần phác này, trẻ con trong làng ăn cơm tối xong đều tập trung hết tới đây nghe lão giảng cố sự Biên Hoang.

Đứa bé trai ấm ức nói: “Chuyện còn chưa kết thúc mà! Sao lại nói là xong rồi?”.

Lão nhân kể chuyện phần lớn khuôn mặt bị râu tóc bạc trắng che khuất, khiến người ta cảm thấy ba nếp nhăn trên trán đặc biệt đáng chú ý, cặp nhãn thần bị mi mắt che đi hơn nửa có vẻ như không nhìn thấy cả cây gập hình dáng cổ quái đặt bên cạnh lão, nhưng khi câu chuyện kể đến đoạn lão thật quan tâm, hai con ngươi lại từ dưới mi mắt xạ ra ánh mắt sáng rực, nghe nói vậy khẽ cười: “Bất kỳ cố sự nào cũng có lúc kết thúc, đêm nay là đêm cuối cùng ta ở lại Khúc Thủy thôn, các con còn chuyện gì muốn biết thì hỏi đi, sau này sẽ chẳng còn cơ hội nữa, bản thân ta cũng không biết sẽ đi về đâu, cũng không biết có quay lại nữa không”.

Một đứa nhỏ hỏi: “Vậy ác nhân Mộ Dung Thùy cuối cùng có bị Yến Phi giết chết không?”.

Lão nhân ho khan hai tiếng, gật đầu nói: “Hỏi rất hay! Mộ Dung Thùy tuy thương thế khá nặng, nhưng được thủ hạ cố chết bảo vệ chạy trốn về doanh trại. Nếu Mộ Dung Thùy có thể bỏ hết mọi chuyện, lập tức chữa thương, không chừng có thể phục nguyên. Nhưng y vì Đại Yên quốc, miễn cưỡng nén thương thế liền đêm vượt qua cầu phao rút quân về Bắc, vòng qua phía đông Thái Hành sơn định trở về Trung Sơn, lại đích thân dẫn quân kháng cự Thác Bạt Khuê truy kích, cuối cùng để đến nỗi thương thế phát tác, chưa về đến Trung Sơn đã nhất mệnh ô hô, báo ứng y đã vi phạm lời thề. Tự đó trở đi Đại Yên quốc không thể chấn hưng nổi, còn Thác Bạt Khuê thay thế Mộ Dung Thùy trở thành bá chủ Bắc phương”.

Một bé gái khác lại hỏi: “Kỷ Thiên Thiên có gả cho Yến Phi không?”.

Lão nhân vuốt râu hoan hỉ đáp: “Hoang nhân không tham dự vào việc truy kích Mộ Dung Thùy, mọi người trở về Biên Hoang Tập, từ đó trở đi Biên Hoang Tập bước vào thời kỳ hưng thịnh nhất. Kỷ Thiên Thiên có gả cho Yến Phi hay không chẳng ai biết, cũng không ai để ý, Biên Hoang Tập xưa nay là địa phương không cần biết đến lễ tục, chỉ biết hình ảnh Yến Phi và Kỷ Thiên Thiên luôn luôn gắn liền với Biên Hoang Tập, bọn họ sống ở đó ba năm, sau đó bỗng nhiên bỏ đi, từ đó không biết tung tích, không ai gặp lại họ, cũng không ai biết tin tức họ... ài!”.

Đứa trẻ lớn nhất ngạc nhiên hỏi: “Lão công công vì sao lại thở dài?”.

Lão nhân gượng gạo: “Không có chi, chỉ là nhất thời cảm xúc thôi! Còn ái tỳ của Kỷ Thiên Thiên là Tiểu Thi trở thành lão bản nương của Đệ Nhất lâu. Lão Bàng là người thực tế, đám cưới Tiểu Thi ở Đệ Nhất lâu tổ chức một tiệc rượu cực to, nhưng tân khách quá đông, kết quả là rượu mừng uống suốt bảy ngày bảy đêm, thật là một thịnh sự hiếm có ở Biên Hoang Tập”.

Nữ hài tử nhỏ tuổi nhất rụt rè hỏi: “Về sau thì sao?”.

Lão nhân hai mắt lộ vẻ nhớ nhung đáp: “Sau khi Yến Phi cùng mỹ nhân bỏ đi, Biên Hoang Tập vẫn còn hưng thịnh tới hai chục năm nữa, cho đến khi các nguyên lão của Biên Hoang Tập người chết người bỏ đi. Tới lúc nguyên lão cuối cùng là lãnh tụ Dạ Oa tộc Diêu Mãnh rời đi, Biên Hoang Tập bắt đầu đi vào con đường suy vong. Lúc này thiên hạ dần dần hình thành cục diện đối kháng giữa Thác Bạt Khuê ở phương Bắc và Lưu Dụ ở phương Nam, hai người đều minh bạch tính chất chiến lược của Biên Hoang Tập, không còn cố kỵ gì nữa, song phương đều cố gắng nắm quyền khống chế Biên Hoang Tập, Hoang nhân ở giữa hóa thành nạn nhân, tình huống ngày càng ác liệt, thương lữ sợ hãi không dám tới Biên Hoang Tập, không thể hồi phục thịnh vượng trước kia nữa”.

Lại thở dài: “Ài! Đến lúc phải đi rồi!”.

Lũ nhỏ đều lộ vẻ không đồng ý.

Lão nhân mỉm cười: “Ta cũng không nỡ xa các ngươi, nhưng các hài tử ở làng khác đang chờ thì sao?”.

Một đứa nhỏ ngây thơ hỏi: “Câu chuyện của ông có thật không?”.

Lão nhân chậm rãi vớ cây gậy cổ quái đứng lên đáp: “Con nghĩ nó thật thì là thật, nghĩ nó giả thì là giả. Thật thật giả giả, đời người vốn dĩ là như thế”.

Tiếp đó xuyên qua đám hài tử nhao nhao đứng dậy, bước lên con đường rải đá dẫn sang làng bên. Đám trẻ kéo nhau theo lão, tiễn lão đến tận cổng làng.

Lão nhân quay lại giang hai tay ngăn lũ nhỏ lại, cười nói: “Thiên hạ không có tiệc rượu nào không tàn, tiệc cưới của Bàng lão bản tuy dài, sau bảy ngày cũng kết thúc. Về nhà ngủ đi! Mong rằng các con đêm nay có giấc mộng lành". 

Đoạn lại xoay mình đi.

Trong đám trẻ một đứa bé gái cao giọng hỏi: “Biên Hoang Tập có còn không?”.

Lão nhân thở dài: “Vì sao phải biết?”.

Tiếp đó với giọng già lão khàn khàn ca lên: “Bắc vọng Biên Hoang do vạn lý, cuồng ca liệt tửu tích điêu tàn! Anh hùng mỹ nhân kim hà tại? Cô thạch đại giang độc điếu ngư”.

Giọng ca đi xa dần, theo bóng lão nhân biến mất trong bóng tối cây rừng, nhưng âm hưởng đau buồn của bài ca vẫn vang vọng mãi bên tai mọi người.

o0o

Tháng tám năm Nghĩa Hy thứ mười hai, Lưu Dụ đại cử Bắc phạt, bộ đội tiên phong chia thành bốn đường tiến lên, một đường do Vương Trấn Ác, Đàn Đạo Tế từ Hoài, Tứ tiến lên lấy Hứa Xương, Lạc Dương; một đường do Thẩm Lâm Tử, Lưu Tuân Khảo dẫn đầu thủy sư phối hợp và chi viện cho Vương Trấn Ác; một đường do Thẩm Điền Tử, Phó Hoằng Chi mang quân tiến công Võ Quan; lộ quân cuối cùng là thủy quân của Vương Trọng Đức từ Hoài nhập Tứ, từ Tứ nhập Thanh, theo Thanh Thủy tiến vào Đại Hà.

Lưu Dụ đích thân chỉ huy đại quân chủ lực tiến vào Biên Hoang, thẳng tới Biên Hoang Tập, khi gã tới Biên Hoang Tập, Hoang nhân đã sớm bỏ đi hết, gác không lầu vắng cảnh tượng như quỷ vực.

Lưu Dụ được chúng tiền hô hậu ủng theo Đông môn vào thành, tế ngựa trên Đông môn đại nhai, Đệ Nhất lâu sừng sững phía trước, nhớ đến quá khứ, những ngày tháng năm nào ở Biên Hoang Tập, quả thực tâm tình nặng nề chịu không nổi.

“Biên Hoang Tập có thể sẽ có ngày hủy trong tay ngươi”.

Câu nói này của Đồ Phụng Tam vẫn còn vẳng bên tai, tựa hồ mới nói ra đêm hôm qua, vậy mà chớp mắt đã hơn chục mùa nóng lạnh trôi qua.

Lưu Dụ sinh xuất cảm giác buồn rầu bất lực. Gã hiểu rõ hơn ai hết, bất luận lần này Bắc phạt thành hay bại, tương lai Biên Hoang Tập sẽ không tồn tại nữa. Nếu thắng, Biên Hoang sẽ trùng quy bản đồ, biến thành một tòa thành trì của đế quốc; nếu không thắng trở về, gã tất phải hạ lệnh phá hủy hoàn toàn Biên Hoang Tập để khỏi rơi vào tay kình địch Thác Bạt Khuê, trở thành căn cứ địa tiền tuyến, thành bàn đạp tiến công miền Nam của y. Nhớ lại tháng ngày tươi đẹp ngày xưa ở Biên Hoang Tập, đối lại tình cảnh hoang lương trước mắt lại càng thảm thương.

Cố nhân ở Biên Hoang Tập gã đã gặp Cao Ngạn, năm trước Cao tiểu tử mang thê nhi từ Lưỡng Hồ tới thăm gã, biết rằng Tiểu Bạch Nhạn đã sinh cho hắn ba trai hai gái, Lưu Dụ còn phá lệ bồi tiếp hắn uống rượu ba đêm.

Từ sau khi tự tay giết chết Hoàn Huyền, gã không có một ngày rảnh rỗi, không có cách nào tới Biên Hoang Tập thăm đám lão bằng hữu, đến khi biết Yến Phi và Kỷ Thiên Thiên đã rời khỏi Biên Hoang Tập, càng cảm thấy không còn hứng thú, không còn nghĩ gì đến chuyện viếng thăm Biên Hoang Tập nữa. Hôm nay rốt cuộc cũng đến đây, nhưng lại là trong tình cảnh như thế này.

Đang khi nhập thần suy tư, thân binh đến báo trên Chung lâu phát hiện một chiếc hộp sắt được niêm phong bằng giấy, trên giấy niêm phong viết bốn chữ “Lưu Dụ thân khởi”.

Lưu Dụ rất ngạc nhiên, vội giục ngựa phi về Cổ Chung Trường, lên thẳng đỉnh Chung lâu, thấy một chiếc rương sắt vuông vức mỗi bề nửa thước cao hai thước đặt ngay ngắn ở giữa Quan Viễn đài, trên giấy niêm quả nhiên có đề bốn chữ ‘Lưu Dụ thân khởi’.

Lưu Dụ nhận ra nét bút Trác Cuồng Sinh, chợt động tâm nói: “Các ngươi lui hết ra”.

Chúng thủ hạ lui ra hết, chỉ còn một mình, Lưu Dụ quỳ gối, xé bỏ niêm phong, mở nắp rương, vừa nhìn thấy nhiệt lệ lập tức dâng tràn khóe mắt, không cầm được bị Biên Hoang Tập gợi lại những tình cảm nhớ nhung sâu sắc không thể vãn hồi trong dĩ vãng. Bên trong hòm sắt chứa một chồng dày những bản thảo chép tay, tựa đề “Biên Hoang Truyền Thuyết”.

- o HẾT o -

Read more: http://4vn.eu/forum/showthread.php?152-Bien-Hoang-Truyen-Thuyet-Huynh-Di-_-Da-post-du-bo-586-hoi&page=68#ixzz1bzp71lfn

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: