54-75 chong Mi
Chương IV
Đảng Lãnh Đạo Cách Mạng xã hội chủ nghĩa
ở miềN Bắc Và kháng chiến chống Mỹ,cứu
Nước(1954-1975)
I. Đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới
1. Đặc điểm nước ta sau tháng 7 - 1954
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh
đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả
nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn
còn dưới ách thống trị của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.
ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh
kiên quyết của nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút
khỏi Hà Nội và ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi
miền Bắc. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục
kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của
cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã
nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ
quân sự của Mỹ.
Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7-
7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay
Bửu Lộc. Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương
tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ngày 23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là "trưng cầu
dân ý" để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống.
Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở các
cuộc hành quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia
cắt lâu dài đất nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu
chống lại nhân dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Với chính sách "tố cộng",
"diệt cộng", loại cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để trừng trị, và với khẩu hiệu "thà
giết nhầm hơn bỏ sót", chúng thẳng tay đàn áp tất cả các lực lượng chống đối. Chỉ tính
đến cuối năm 1955, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị
bắt và bị giết hại.
Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta một yêu
cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam
99
tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung
của thời đại.
Xuất phát từ việc nhận thức sâu sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình
hình đất nước sau tháng 7-1954, trải nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và
Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng
đã từng bước hình thành.
2. Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục
thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960)
a) Chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sau khi hòa bình được lập lại, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Tuy nhiên,
miền Bắc bước vào khôi phục kinh tế trong điều kiện có nhiều khó khăn. 143.000 ha
ruộng đất bị bỏ hoang, hàng trăm ngàn gia đình không có nhà ở, hàng chục vạn người
không có việc làm, nhiều tệ nạn do xã hội cũ để lại còn hoành hành, phần lớn xí nghiệp
ngừng hoạt động, hàng hoá khan hiếm. Nhiệm vụ trước mắt là tiếp quản những vùng
giải phóng theo quy định của Hiệp định Giơnevơ. Việc tiếp quản đó bước đầu thuận lợi,
nhân dân ta đã làm chủ hoàn toàn Thủ đô từ ngày 10-10-1954. Hướng đấu tranh chủ yếu
của nhân dân miền Bắc thời kỳ này là chống âm mưu của địch dụ dỗ, cưỡng ép đồng
bào ta di cư vào Nam. Trong hoạt động này, do chậm phát hiện và chưa thấy hết âm mưu
thâm độc của Mỹ - Pháp, nên gần một triệu người miền Bắc đã bị cưỡng ép di cư vào
Nam.
Xuất phát từ tình hình trên, Đảng chủ trương đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa của Đảng từng bước được hình thành
và phát triển.
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã đề ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là
hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát
triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và
mở rộng hoạt động quan hệ quốc tế... để sớm đưa miền Bắc trở lại bình thường sau chín
năm chiến tranh.
Hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1955 và lần thứ tám tháng 8-1955 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa II) đã nhận định: Mỹ và tay sai đã hất cẳng Pháp ở miền Nam,
công khai lập nhà nước riêng chống phá Hiệp định Giơnevơ, đàn áp phong trào cách
mạng. Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn
thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ
vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Để củng cố miền Bắc, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ, trước hết cần
hoàn thành cải cách ruộng đất, chia ruộng đất cho nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu
ruộng đất của giai cấp địa chủ; đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội;
kiện toàn lãnh đạo các cấp và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất.
100
Hội nghị đề ra kế hoạch 3 năm (1955-1957) với những mục tiêu cụ thể:
- Khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, trên cơ sở đó phát triển sản
xuất, nhằm giảm bớt khó khăn cho nhân dân. Phấn đấu phục hồi mức sản xuất năm
1939 - năm có mức sản xuất cao nhất ở Việt Nam thời Pháp thuộc.
- Chủ trương khôi phục nông nghiệp là trọng tâm. Ban hành nhiều chính sách
khuyến nông.
- Đề ra chính sách khôi phục tiểu thủ công nghiệp và công thương nghiệp. Ban
hành nhiều chính sách bảo hộ cho các xí nghiệp công, tư thương nghiệp được phát triển
sản xuất để phục vụ dân sinh; không vội vàng thủ tiêu những công thương nghiệp tư
nhân, nếu thấy có lợi cho nền kinh tế. Coi trọng thành phần kinh tế quốc doanh, tạo điều
kiện cho thành phần này dần dần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Tháng 12-1957, Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
đánh giá thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách
mạng trong giai đoạn mới. Đến tháng 11-1958, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp
Hội nghị lần thứ mười bốn đề ra kế hoạch ba năm phát triển kinh tế - văn hóa và cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư doanh (1958-1960).
Hội nghị xác định cải tạo kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và buôn bán
nhỏ, tư bản tư doanh, chuyển sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất thành sở hữu tập thể xã
hội chủ nghĩa dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Lấy cải tạo làm trọng tâm nhằm
phát triển kinh tế, văn hóa, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố chế độ dân chủ nhân
dân. Xây dựng, củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống
nhất nước nhà.
Tháng 4-1959, Hội nghị lần thứ mười sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
II) thông qua hai nghị quyết quan trọng: Nghị quyết về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp
và Nghị quyết về vấn đề cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Về hợp tác hóa nông nghiệp, Hội nghị xác định hình thức và bước đi của hợp tác
xã là: hợp tác hóa đi trước cơ giới hóa, do vậy hợp tác hóa phải đi đôi với thủy lợi hóa
và tổ chức lại lao động, để phát huy tính ưu việt và sức mạnh của tập thể. Hội nghị chỉ
rõ ba nguyên tắc cần được quán triệt trong suốt quá trình xây dựng hợp tác xã là: tự
nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hội nghị chủ trương cải tạo hòa
bình đối với giai cấp tư sản. Về chính trị, vẫn coi giai cấp tư sản là thành viên của Mặt
trận Tổ quốc, về kinh tế không tịch thu tư liệu sản xuất của họ, mà dùng chính sách
chuộc lại, thông qua hình thức công tư hợp doanh, sắp xếp công việc cho người tư sản
trong xí nghiệp, dần dần cải tạo họ thành người lao động.
Chủ trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội đã tạo nên những chuyển biến
cách mạng trong nền kinh tế và xã hội ở miền Bắc nước ta. Miền Bắc được củng cố,
từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương ổn định, vững mạnh đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
101
b) Chủ trương tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở miền Nam
Nắm vững âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương, nên
ngay trước ngày ký Hiệp định Giơnevơ, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa II) từ ngày 15 đến ngày 17-7-1954, đã chỉ rõ: "Hiện nay đế quốc Mỹ
là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của
nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ"1.
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và cán bộ chiến
sĩ cả nước: "Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng
bào cả nước nhất định được giải phóng"2.
Về cách mạng miền Nam, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 nêu rõ: Đế
quốc Mỹ và tay sai đang mưu tính, phá hoại Hiệp định Giơnevơ nhằm chia cắt lâu dài
Việt Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam phải chuyển từ đấu tranh vũ trang
sang đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ của Đảng ở miền Nam trong giai đoạn mới là: "lãnh
đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình,
thực hiện tự do dân chủ,... cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập.
Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn
áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành
động tiến công của địch, ngụy, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ
kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta"3.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và công tác của các đảng bộ miền
Nam, tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập, do Lê Duẩn, ủy viên Bộ Chính trị
làm Bí thư.
Từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam, tháng 8-1956, Lê
Duẩn đã dự thảo Đường lối cách mạng miền Nam. Bản Đường lối cách mạng miền Nam
được đưa ra thảo luận tại Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ họp tháng 12-1956.
Bản Đường lối vạch rõ ngày 20-7-1956 đã không có tổng tuyển cử như Hiệp định
Giơnevơ quy định. Chế độ thống trị của Mỹ, Diệm ở miền Nam lúc bấy giờ là một chế
độ độc tài, phátxít, hiếu chiến. Để chống Mỹ-Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con
đường cứu nước và tự cứu mình là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng
không có một con đường khác1.
Mục đích của cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chính quyền độc tài phátxít
Mỹ - Diệm, thực hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc, độc lập,
để giải phóng nhân dân miền Nam ra khỏi ách đế quốc phong kiến độc tài phátxít Mỹ -
Diệm để cùng với toàn quốc thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc2.
Đường lối cách mạng miền Nam là một trong những văn kiện quan trọng, góp
1, 2. Sđd, tr. 319, 322.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, t.15, tr. 308.
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.17, tr. 785, 787.
102
phần vào sự hình thành đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam của Đảng.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách
mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm
vụ cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm.
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ:
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị
của đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam; Con
đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào
lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang
để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành
lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam.
Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ, đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến cho
nên cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu
tranh vũ trang lâu dài và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ cần tăng cường công tác
Mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam
thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đủ sức lãnh đạo trực tiếp cách
mạng miền Nam.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II)
có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã đáp ứng đúng nhu cầu của lịch sử, mở đường
cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh cách mạng độc lập tự
chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
II. Thực hiện các kế hoạch nhà nước ở miền Bắc và
đấu tranh chống Mỹ và tay sai ở miền Nam (1954-
1965)
1. Thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước
Ngay sau khi hòa bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khôi
phục kinh tế và hoàn thành cải cách ruộng đất. Ngay từ những ngày đầu được giải
phóng, cùng với quá trình khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời
sống nhân dân, nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là tiếp quản những vùng địch tạm chiếm
theo quy định của Hiệp định Giơnevơ. Việc tiếp quản diễn ra hết sức khó khăn, phức
tạp bởi Pháp và tay sai đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá, làm rối loạn xã
hội và mất trật tự an ninh trước khi chúng rút quân.
105
ở nhiều địa phương, Pháp và tay sai đã tung tin bịa đặt để gây hoang mang, kích
động dân chúng, thúc ép đồng bào theo đạo Thiên Chúa rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn di
cư vào Nam. Có nơi chúng đã cung cấp tiền của, phương tiện cho bọn phản động gây
rối trật tự trị an như ở Bùi Chu (Nam Định), Phát Diệm (Ninh Bình), gây bạo loạn ở Ba
Làng (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu (Nghệ An). Đây là cuộc đấu tranh chính trị sâu sắc,
nhưng lãnh đạo Đảng và chính quyền nhiều địa phương chưa thấy hết được tính chất
phức tạp và cấp bách của nó, do đó đã không có những chủ trương, biện pháp đối phó
kịp thời, thậm chí có nơi đã không dám trấn áp bọn phản động cầm đầu, sợ vi phạm
Hiệp định Giơnevơ. Đảng ta đã phê phán những sai lầm đó và thành lập các ban chỉ đạo
chống cưỡng ép dân di cư. Đồng thời, để ổn định tình hình, nhiều chính sách của Đảng
và Nhà nước được ban hành kịp thời trong thời gian này như: chính sách đối với tôn
giáo; chính sách đối với công chức, trí thức trước đây làm việc cho địch; chính sách đối
với ngụy quân. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn huy động hàng vạn cán bộ, bộ đội đến
giúp đỡ các địa phương, tuyên truyền, vận động quần chúng đấu tranh chống địch
cưỡng ép di cư nhằm ổn định tình hình.
Sau chiến tranh, nền kinh tế miền Bắc gặp nhiều khó khăn gay gắt, việc khôi phục
kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh đã được khẩn trương thực hiện. Cụ thể là:
Trong khôi phục kinh tế, Đảng đặt trọng tâm là sản xuất nông nghiệp. Việc khôi
phục sản xuất nông nghiệp được kết hợp với cải cách ruộng đất và vận động đổi công,
giúp nhau sản xuất, đồng thời, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho nông nghiệp.
Sản xuất nông nghiệp được khôi phục và phát triển, nạn đói bị đẩy lùi, tạo điều
kiện giải quyết những vấn đề cơ bản trong nền kinh tế quốc dân, kết quả này góp phần
ổn định chính trị, trật tự an ninh xã hội.
Cùng với khôi phục sản xuất nông nghiệp, việc khôi phục công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và giao thông vận tải cũng hoàn thành. Hầu hết các xí nghiệp quan trọng đã
được phục hồi sản xuất và tăng thêm thiết bị, một số nhà máy mới được xây dựng.
Trong quá trình khôi phục kinh tế, Đảng hết sức coi trọng thành phần kinh tế quốc
doanh, tạo điều kiện cho thành phần này dần dần giữ được vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân. Giao thông vận tải nhanh chóng được phục hồi, mọi hoạt động kinh tế ở
miền Bắc đã ổn định. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế được phát triển nhanh.
Hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở được xây dựng và củng cố, đã phát
huy được hiệu lực trong việc hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế và trong việc đập
tan mọi âm mưu và thủ đoạn của bọn phản động chống đối chế độ mới.
Công cuộc giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất được tiếp tục đẩy mạnh. Để
đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cải cách ruộng đất, Đảng chủ trương dựa hẳn vào
bần cố nông, đoàn kết với trung nông, đánh đổ giai cấp địa chủ, tịch thu ruộng đất của họ
để chia đều cho dân cày nghèo.
Đến tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đã căn bản hoàn thành ở đồng bằng, trung
du và 280 xã ở miền núi. Chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến ở miền Bắc nước ta
đến đây bị xóa bỏ hoàn toàn. 9 triệu người trong hơn 2 triệu hộ dân lao động được chia
hơn 810.000 ha ruộng đất.
Trong quá trình cải cách ruộng đất, bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng ta đã
106
phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài trong chỉ đạo thực hiện.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sai lầm là chủ quan, giáo điều, không xuất phát từ tình
hình thực tiễn, nhất là những thay đổi quan trọng về quan hệ giai cấp, xã hội ở nông
thôn miền Bắc sau ngày được hoàn toàn giải phóng. Do đó, trong chỉ đạo, thực hiện cải
cách ruộng đất, đã cường điệu hóa đấu tranh giai cấp ở nông thôn, dẫn đến mở rộng quá
mức đối tượng đấu tranh; sử dụng hình thức, phương pháp không phù hợp với đối tượng
là địa chủ ở nông thôn Việt Nam; trong chỉnh đốn tổ chức, đã nhận định sai về tình hình
tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, cho rằng về cơ bản đã bị địch lũng đoạn, từ đó dẫn đến
xử lý oan những cán bộ, đảng viên tốt. Sai lầm này đã gây ra một số tổn thất đối với
Đảng và quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) tháng 9 - 1956
đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, công khai tự phê bình trước nhân dân thi
hành kỷ luật đối với một số uỷ viên Bộ Chính trị và uỷ viên Trung ương Đảng và thành
khẩn tiến hành sửa sai một cách kiên quyết, khẩn trương, thận trọng và có kế hoạch lãnh
đạo chặt chẽ, nên từng bước đã khắc phục được những sai lầm trong cải cách ruộng đất.
Cuối năm 1957, công cuộc khôi phục kinh tế đã vượt chỉ tiêu đặt ra:
Các xí nghiệp quan trọng được phục hồi và tăng thêm thiết bị, một số xí nghiệp
mới được xây dựng; mọi hoạt động kinh tế ở miền Bắc ổn định. Các lĩnh vực văn hoá,
giáo dục, y tế phát triển nhanh; nông nghiệp đã vượt mức năm 1939 (cuối năm 1957,
sản lượng lương thực đạt 4 triệu tấn / năm so với mức 2,4 triệu / năm 1939); hệ thống
đoàn thể từ Trung ương đến địa phương được củng cố và xây dựng (9-1955, Mặt trận
dân tộc thống nhất được đổi tên thành Mặt trận Tổ quốc Việt Nam).
Trên cơ sở thắng lợi của kế hoạch khôi phục kinh tế, Đảng đã tổ chức thực hiện kế
hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế - văn hóa (1958-1960).
Đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh: Đến tháng 11-1969, đã cải tạo 2.097
cơ sở thương nghiệp tư bản với tổng số vốn 25 triệu đồng, có 1.732 tư sản và 500 người
trong gia đình họ được sắp xếp việc làm. Các xí nghiệp được sắp xếp lại, hợp nhất các
xí nghiệp nhỏ thành các xí nghiệp quy mô vừa. Đồng thời, Đảng chủ trương phát triển
mạnh thành phần kinh tế nhà nước, nhất là công nghiệp quốc doanh. Từ năm 1958-
1960, Nhà nước đã đầu tư xây dựng cơ bản 1.481 triệu đồng, tăng 2,3 lần thời kỳ 1955-
1957. Giá trị sản lượng công nghiệp năm 1960 tăng 4,8 lần so với năm 1955, đạt 850
triệu đồng.
Trong cải tạo nông nghiệp: Đã tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp và Đảng coi
đây là khâu chính của công tác cải tạo các thành phần kinh tế. Phương châm hợp tác
hoá: "Tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ và bước đi phải từ thấp đến cao" và "...
từ hình thức thấp như tổ đổi công tiếp lên hợp tác xã bậc cao. Quy mô cũng phải từ nhỏ
tiến lên lớn". Thực hiện chủ trương trên, trong năm 1958, phong trào hợp tác hoá phát
triển mạnh và nhanh chóng trở thành cao trào. Sau hơn 2 năm (1958-1959), hợp tác hoá
nông nghiệp được coi như hoàn thành cơ bản. Trong 3 năm (1958-1960), sản xuất nông
nghiệp đạt nhiều kết quả, tăng trưởng trung bình mỗi năm 5,6%.
Song, bên cạnh đó, nhiều hợp tác xã còn gặp khó khăn, sản xuất sút kém, một số
cán bộ hợp tác xã tham ô, lạm dụng của công... Các nguyên tắc và phương châm cải tạo
tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp của Đảng không được tuân thủ đúng đắn, có những
107
sai phạm và còn gò ép, áp đặt, chạy theo thành tích... làm cho nông dân thiếu tin tưởng,
một số xã viên xin ra khỏi hợp tác xã. Nguyên nhân là ở chỗ phong trào hợp tác hoá còn
nóng vội, vi phạm nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi, không nắm vững phương châm:
tốt, vững, gọn, chưa tìm ra hình thức quản lý hợp tác xã thích hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Trong cải tạo tiểu thủ công nghiệp và những người buôn bán nhỏ. Đảng và Nhà
nước chỉ đạo tiến hành theo các hình thức tổ chức hợp tác khác nhau. Sau hai năm,
ngành thủ công nghiệp đã xây dựng được 45.000 hợp tác xã, thu hút 75% thợ thủ công ở
thành thị và nông thôn, bước đầu tăng thêm đầu tư thiết bị, cải tiến kỹ thuật. Tuy nhiên,
ở đây cũng có thể nhận thấy những hạn chế tương tự như trong phong trào hợp tác hoá.
Ngoài ra, việc phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, chăm lo cải thiện đời sống nhân
dân đã rất được coi trọng. Năm 1960, cứ 100 người dân có 18 người đi học (năm 1939
chỉ có 3 người), số giường bệnh tăng lên 2 lần.
Sau khi miền Bắc hoàn thành kế hoạch ba năm (1958-1960), Đảng lãnh đạo Kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) nhằm xây dựng bước đầu cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và
hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện phương hướng, nhiệm vụ và các chỉ tiêu kế hoạch do Đại hội lần thứ
III đề ra, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã mở nhiều hội nghị chuyên đề nhằm cụ
thể hóa đường lối, đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, như: Hội nghị lần thứ tư
tháng 4-1961 bàn về xây dựng Đảng để bảo đảm vai trò lãnh đạo thực hiện đường lối
chủ trương của Đảng trong giai đoạn mới; Hội nghị lần thứ năm tháng 7-1961 bàn về
phát triển nông nghiệp; Hội nghị lần thứ bảy tháng 3-1962 bàn về phát triển công
nghiệp; Hội nghị lần thứ tám tháng 4-1963 bàn về kế hoạch nhà nước; Hội nghị lần thứ
mười tháng 12-1964 bàn về lưu thông phân phối, giá cả...
Trong quá trình thực hiện kế hoạch năm năm lần thứ nhất, nhiều cuộc vận động và
phong trào thi đua được triển khai sôi nổi ở các ngành và các địa phương. Trong nông
nghiệp có phong trào thi đua theo gương của Hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình), trong
công nghiệp có phong trào thi đua với Nhà máy cơ khí Duyên Hải (Hải Phòng), trong
tiểu thủ công nghiệp có phong trào thi đua với Hợp tác xã thủ công nghiệp Thành Công
(Thanh Hóa), trong ngành giáo dục có phong trào thi đua học tập Trường cấp II Bắc Lý
(Hà Nam), trong quân đội có phong trào thi đua "Ba nhất", v.v..
Đặc biệt, phong trào "Mỗi người làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào
miền Nam ruột thịt" theo Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị chính trị
đặc biệt tháng 3-1964 khi đế quốc Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh ở miền Nam đã
làm tăng thêm không khí phấn khởi, hăng hái vươn lên hoàn thành Kế hoạch năm năm
lần thứ nhất.
Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt được những thành tựu to lớn. Trong nông
nghiệp, năm 1961 sản lượng lương thực miền Bắc đạt 5,8 triệu tấn, tăng 8,8% so với
năm 1960. Đến năm 1965, 88,8% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp. Nông
nghiệp miền Bắc đã phát triển tương đối toàn diện, bảo đảm cho miền Bắc ổn định về
kinh tế - xã hội, phát huy vai trò hậu phương lớn với tiền tuyến lớn.
108
Tuy vậy, bên cạnh những thành tích nêu trên vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất
định. Việc hợp nhất và đưa ồ ạt các hợp tác xã lên bậc cao là chủ quan, nóng vội. Tổ
chức sản xuất trong nông nghiệp và trình độ quản lý của cán bộ chưa đáp ứng được yêu
cầu, cơ sở vật chất nghèo nàn. Tỷ lệ xã viên xin ra khỏi hợp tác xã cao.
Trong công nghiệp, công nghiệp quốc doanh phát triển với nhịp độ cao. Các
ngành công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, hoá chất... được xây dựng và đi vào
sản xuất. Đến năm 1965 có 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh đã được xây dựng.
Công nghiệp nhẹ và mạng lưới công nghiệp địa phương phát triển khá. Mặc dù vậy,
công nghiệp vẫn còn chưa hướng vào mục tiêu trung tâm phục vụ sản xuất nông nghiệp
và hàng tiêu dùng. Quan niệm về công nghiệp hoá còn giản đơn, đồng nhất công nghiệp
hoá với việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, quá nhấn mạnh
đến việc phát triển công nghiệp nặng, đầu tư quá nhiều vào xây dựng cơ bản trong điều
kiện có chiến tranh phá hoại.
Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, trình độ văn hoá, kỹ thuật của cán bộ và nhân dân
được tăng lên rõ rệt. Bảo vệ sức khoẻ và chăm sóc y tế được đảm bảo. Các tệ nạn xã hội
giảm mạnh. Số lượng học sinh, sinh viên tăng lên đáng kể. Năm 1965, miền Bắc có 4,5
triệu người đi học (trong 16 triệu dân), có 10.290 trường phổ thông các cấp (năm 1969
có 7.066 trường), có 18 trường đại học và cao đẳng với 34.000 sinh viên (năm 1960 có
9 trường và 8.000 sinh viên)...
Trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, lực lượng ba thứ quân đã nâng cao một
bước sức mạnh chiến đấu, 30% ngân sách quốc phòng được đầu tư xây dựng các công
trình quân sự, hoàn thành tốt việc chi viện cho chiến trường miền Nam. Tuy nhiên,
chúng ta vẫn còn chưa nhận thức được mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và phát triển
quốc phòng.
Trong hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước, thành tựu lớn nhất là đã nâng
cao địa vị quốc tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tranh thủ sự đồng tình và giúp
đỡ của các nước anh em và nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh giải phóng.
Kế hoạch này mới thực hiện được bốn năm thì phải chuyển hướng do phải đối phó
với chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất do đế quốc Mỹ gây ra, kể từ ngày 5-8-
1964. Mặc dù vậy, những mục tiêu chủ yếu của kế hoạch đã cơ bản hoàn thành.
Trải qua 10 năm khôi phục, cải tạo và xây dựng chế độ mới, "miền Bắc nước ta đã
tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người
đều đổi mới"1 với chế độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng lớn
mạnh, miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng cả nước.
2. Nhân dân miền Nam đấu tranh chống đế quốc Mỹ và tay sai
Sau khi hất cẳng Pháp, trực tiếp can thiệp vào miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ
đã biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, lập phòng tuyến để ngăn chặn ảnh hưởng
của chủ nghĩa xã hội xuống Đông Nam á, thiết lập căn cứ quân sự để tiến công miền
Bắc xã hội chủ nghĩa.
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.11, tr. 224.
109
Để thực hiện những âm mưu đó, đế quốc Mỹ đã nhanh chóng thiết lập bộ máy
chính quyền đứng đầu là Ngô Đình Diệm, xây dựng lực lượng quân sự gần nửa triệu
người cùng hàng vạn cảnh sát, mật vụ được trang bị, vũ khí phương tiện chiến tranh
hiện đại của Mỹ.
Bộ máy chính quyền, quân đội Sài Gòn đã trở thành công cụ tay sai đắc lực nhằm
thi hành chính sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Chúng vừa dụ dỗ, lừa
bịp, vừa đàn áp, khủng bố với nhiều thủ đoạn thâm độc, dã man. Chúng ráo riết thi hành
quốc sách "tố cộng", "diệt cộng", lập "khu trù mật", "khu dinh điền" nhằm mục đích bắt
bớ, trả thù tất cả những người yêu nước kháng chiến cũ; thẳng tay đàn áp phong trào
đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ của các tầng lớp nhân dân; gây ra nhiều vụ
thảm sát đẫm máu ở Mỏ Cày, Bình Đại (Bến Tre) ngày 19-8-1954; Chợ Được (Quảng
Nam) ngày 4-9-1954; Ngân Sơn, Chí Thạnh (Phú Yên) ngày 8-9-1954.
Về phía lực lượng cách mạng, sau khi chuyển quân tập kết ra miền Bắc theo Hiệp
định Giơnevơ, tương quan lực lượng giữa ta và địch ở miền Nam có sự thay đổi lớn: ta
tuy có ưu thế về chính trị và lực lượng quần chúng nhân dân đông đảo nhưng không còn
lực lượng vũ trang, không còn chính quyền. Trong khi đó, kẻ thù có đủ sức mạnh về
kinh tế và quân sự, nắm trong tay cả bộ máy ngụy quân, ngụy quyền đồ sộ. Chúng thẳng
tay đàn áp, tiêu diệt phong trào cách mạng, gây cho ta nhiều tổn thất nặng nề.
Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và địch cụ thể lúc này, Đảng đã quyết
định thay đổi phương thức đấu tranh quân sự sang đấu tranh chính trị, lãnh đạo quần
chúng đấu tranh đòi Mỹ - Diệm phải thi hành hiệp định, phải tổ chức hiệp thương tổng
tuyển cử thống nhất đất nước và đòi thực hiện các quyền dân sinh, dân chủ, chống mọi
hành động khủng bố, đàn áp.
Thực hiện chủ trương chuyển hướng của Đảng, hàng trăm tổ chức quần chúng
công khai, trong đó có các ủy ban đấu tranh đòi hòa bình được thành lập ở miền Nam.
Phong trào đấu tranh đòi hiệp thương tổng tuyển cử, chống bầu cử lừa bịp, chống cướp
đất, đuổi nhà, dồn dân, đòi công ăn việc làm, chống khủng bố, chống sa thải, chống bắt
lính, v.v., được phát triển mạnh mẽ ở cả nông thôn và thành thị với gồm hàng triệu lượt
người tham gia.
Để giữ gìn lực lượng và duy trì hoạt động trong điều kiện quân thù khủng bố dã
man, các đảng bộ ở miền Nam đã sắp xếp lại tổ chức và rút vào hoạt động bí mật. Nhiều
địa phương đã chủ trương "điều" và "lắng"1 cán bộ để bám dân, bám đất lãnh đạo phong
trào.
Trước hành động khủng bố ngày càng tàn bạo của địch, yêu cầu vũ trang chống
khủng bố ngày càng trở nên bức bách. Nhiều nơi quần chúng lấy vũ khí chôn giấu từ năm
1954, cướp súng địch, dùng vũ khí tự tạo để tự vệ, chống lại khủng bố, tiêu diệt những
tên phản động, chỉ điểm, ác ôn.
Tháng 10 - 1957, tại Chiến khu Đ, Đại đội 250 - đơn vị vũ trang đầu tiên được
thành lập. Đến cuối năm 1957, ở Nam Bộ có 37 đại đội vũ trang, ở Liên khu V nhiều
đội vũ trang cũng được thành lập. Một số trận đánh tiêu diệt quân ngụy đã diễn ra ở Thủ
1. Điều cán bộ đi hoạt động ở địa phương khác khi đã bị lộ, lắng là tạm thời rút vào hoạt động bí mật để bảo toàn
lực lượng.
110
Dầu Một và Biên Hòa.
Trong những năm 1954 - 1957, do chính sách tàn bạo của Mỹ - Diệm, lực lượng
cách mạng miền Nam bị tổn thất lớn. Song, nhờ chủ trương chuyển hướng kịp thời của
Đảng và với tinh thần kiên định, dũng cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân miền
Nam, cách mạng không bị tiêu diệt, trái lại đã trụ vững, từng bước khôi phục và phát
triển.
Từ năm 1958, Mỹ - Diệm càng đẩy mạnh khủng bố dã man, liên tiếp mở tiếp các
cuộc hành quân càn quét, dồn dân quy mô lớn vào các trại tập trung. Ngày 1-12-1958,
chúng đã giết hại hàng ngàn cán bộ cách mạng và đồng bào yêu nước ở trại giam Phú
Lợi (Thủ Dầu Một). Tháng 3-1959, Diệm tuyên bố "đặt miền Nam trong tình trạng
chiến tranh". Ngày 6-5-1959, Mỹ - Diệm ra luật 10/59 lê máy chém đi khắp miền Nam.
Tòa án quân sự đặc biệt của chúng đưa thẳng người bị bắt ra xét xử và bắn tại chỗ.
Thực hiện chính sách khủng bố tàn bạo, tổ chức càn quét, dồn dân lập ấp của Mỹ -
Diệm chứng tỏ chúng không mạnh, trái lại thể hiện sự thất bại của "Chiến lược
Aixenhao" thực thi ở miền Nam. Chính sách khủng bố và chiến tranh đó đã làm cho
mâu thuẫn giữa Mỹ - Diệm với nhân dân miền Nam Việt Nam thêm gay gắt, làm cho
tình thế cách mạng chín muồi, dẫn đến bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của quần chúng.
Vào đầu năm 1959, một số cuộc nổi dậy của đồng bào các tộc ít người ở Tà Lốc,
Tà Léc (Bình Định), ở Bác ái (Ninh Thuận) phá Khu tập trung trở về buôn làng cũ.
Ngày 28-8-1959, nhân dân các tộc người ở Trà Bổng đã vũ trang khởi nghĩa giành chính
quyền và khởi nghĩa đã nhanh chóng nổ ra ở các huyện Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ. Khởi
nghĩa Trà Bổng và các huyện miền Tây Quảng Ngãi đã mở đầu cuộc khởi nghĩa từng
phần nổ ra trên quy mô tương đối lớn, đúng thời cơ và sáng tạo trong việc sử dụng các
hình thức bạo lực đã góp phần làm phong phú thêm về phương thức và nghệ thuật khởi
nghĩa từng phần giành chính quyền cơ sở chống lại ách thống trị của chủ nghĩa thực dân
mới của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Giữa lúc đó, Nghị quyết của Hội nghị lần thứ mười lăm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa II) về cách mạng Việt Nam ở miền Nam đã truyền đến các đảng bộ ở
miền Nam. Nghị quyết mười lăm của Ban Chấp hành Trung ương đã vạch rõ phương
hướng đánh đổ chính quyền của đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân
dân đã tạo đà cho cuộc khởi nghĩa từng phần nổ ra ngày càng rộng lớn.
Ngày 17-1-1960, ở Bến Tre, cuộc khởi nghĩa bắt đầu bùng nổ ở huyện Mỏ Cày, sau
đó lan ra các huyện Minh Tân, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú, rồi nhanh
chóng mở rộng ra khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và một số nơi
thuộc các tỉnh Trung Bộ. Hệ thống kìm kẹp của địch ở xã, ấp bị tê liệt và tan vỡ từng mảng
lớn.
Đến cuối năm 1960, phong trào Đồng khởi đã làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở
địch ở nhiều vùng nông thôn, có 1.383 xã/ 2.627 xã nhân dân lập chính quyền tự quản.
Vùng giải phóng ra đời trên phạm vi rộng lớn, nối liền từ Tây Nguyên đến miền Tây
Nam Bộ và đồng bằng Liên khu V. Thắng lợi của phong trào Đồng khởi ở nông thôn đã
thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh ở đô thị và các đồn điền, nhà máy. Từ thắng lợi
của phong trào Đồng khởi, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập (Tây Ninh), Mặt trận Dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Cách mạng miền Nam đã có một tổ
111
chức chính trị để tập hợp rộng rãi quần chúng, nhân dân đoàn kết đấu tranh thực hiện
chương trình hành động 10 điểm mà nội dung cơ bản là đánh đổ thuộc địa trá hình của
đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, xây dựng một miền Nam độc lập,
dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.
Thắng lợi của phong trào Đồng khởi là bước nhảy vọt lịch sử của cách mạng miền
Nam.
Do thất bại trong chiến tranh "đơn phương" nên ngay sau khi lên làm Tổng thống
Hoa Kỳ, Kennơđi đã chuyển sang chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam. Chiến
lược "Chiến tranh đặc biệt" là một trong ba loại chiến tranh của chiến lược toàn cầu
"phản ứng linh hoạt" của đế quốc Mỹ. Trong chiến lược chiến tranh này, Mỹ đã dùng
hai thủ đoạn chủ yếu: một là, tăng cường lực lượng quân đội ngụy quyền Sài Gòn và
khả năng cơ động của chúng với vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ, do cố
vấn quân sự Mỹ trực tiếp chỉ huy; hai là, đẩy mạnh quốc sách "ấp chiến lược" nhằm
dồn dân, tách lực lượng cách mạng ra khỏi nhân dân theo hình thức "tát nước, bắt cá" để
bình định miền Nam. Với hai thủ đoạn đó, Mỹ - Diệm hy vọng sẽ nhanh chóng làm thay
đổi tương quan lực lượng để dễ bề tiêu diệt cách mạng miền Nam.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình giữa ta và địch ở miền Nam kể từ sau
ngày Đồng khởi, trong cuộc họp tháng 1 năm 1961 và tháng 2 năm 1962, Bộ Chính trị
Trung ương Đảng đã đề ra chủ trương chỉ đạo chính xác là tiếp tục giữ vững tư tưởng
chiến lược tiến công, đưa đấu tranh vũ trang phát triển lên song song với đấu tranh
chính trị, tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược: đô thị, nông thôn đồng bằng và
nông thôn rừng núi, bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận. Đảng chỉ
rõ, do đặc điểm phát triển không đều của cách mạng miền Nam, tương quan lực lượng ở
mỗi vùng khác nhau, nên phương châm đấu tranh phải linh hoạt, thích hợp với từng
vùng
cụ thể.
Vùng rừng núi: Lấy đấu tranh vũ trang là chủ yếu.
Vùng nông thôn đồng bằng: Kết hợp hai hình thức đấu tranh vũ trang và chính trị.
Vùng đô thị: Lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu.
Để tăng cường sự chỉ đạo của Trung ương Đảng đối với cách mạng miền Nam,
tháng 10-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập, Nguyễn Văn Linh được cử
làm Bí thư Trung ương Cục. Đảng bộ miền Nam được kiện toàn với hệ thống tổ chức
thống nhất, tập trung từ Trung ương Cục đến các chi bộ. Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam làm thêm chức năng của chính quyền cách mạng. Ngày 15-2-1961,
các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng miền
Nam Việt Nam.
Cách mạng miền Nam đã có bước phát triển mới. Trên mặt trận quân sự ta đã thu
được nhiều thắng lợi quan trọng. Trong ba năm 1961 - 1963, ta đã đánh hơn 50 trận lớn
nhỏ với những chiến thắng vang dội như trận ấp Bắc (Mỹ Tho), Cái Nước - Đầm Dơi
(Cà Mau). Phong trào đấu tranh phá "ấp chiến lược" phát triển mạnh mẽ, với phương
112
châm "bám đất, bám làng", "một tấc không đi, một ly không rời". Tính từ năm 1961 đến
năm 1963, chúng ta đã phá hoàn toàn 2.895 ấp/6.161 ấp; giành quyền làm chủ
12.000/17.000 thôn; giải phóng 5/14 triệu dân.
Do tác động của phong trào đấu tranh quân sự và phong trào phá "ấp chiến lược",
phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị cũng phát triển sôi động, mạnh mẽ, nhất là từ
năm 1963 trở đi, lôi cuốn đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động, trí thức, học sinh,
sinh viên và các giáo phái tham gia, đặc biệt là phong trào đấu tranh của đồng bào Phật
giáo.
Với những chiến thắng dồn dập trên các mặt trận quận sự và chính trị của nhân
dân miền Nam, đến cuối năm 1964 đã làm cho nửa triệu quân ngụy dưới sự chỉ huy của
2,5 vạn cố vấn Mỹ đã tỏ ra bất lực, không đủ sức làm công cụ chủ yếu của "Chiến tranh
đặc biệt". Phong trào phá "áp chiến lược" trong những năm 1964-1965 phát triển rộng
lớn. Hệ thống ấp chiến lược của Mỹ bị phá trên 85%. Cuộc khủng hoảng của chính
quyền Sài Gòn ngày càng trầm trọng. Ngày 1-11-1963, dưới sự chỉ đạo của Mỹ, lực
lượng quân đảo chính đã giết chết anh em Diệm - Nhu. Từ tháng 11-1963 đến tháng 6-
1965 đã diễn ra 10 cuộc đảo chính quân sự nhằm lật đổ lẫn nhau trong nội bộ chính
quyền Sài Gòn.
Tháng 9-1964, Bộ Chính trị họp và chủ trương giành thắng lợi quyết định ở miền
Nam trong một vài năm tới. Bộ Chính trị cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - Uỷ viên Bộ
Chính trị vào miền Nam trực tiếp phụ trách, chỉ đạo cuộc kháng chiến.
Được sự chi viện tích cực của miền Bắc thông qua tuyến đường Trường Sơn trên
đất liền và trên biển, quân và dân miền Nam đã mở nhiều chiến dịch với hàng trăm trận
đánh lớn nhỏ trên khắp các chiến trường, như ở An Lão, Đèo Nhông - Dương Liễu,
Việt An, Ba Gia. (Khu V và khu vực Tây Nguyên, Trị Thiên), Bình Giã, Đồng Xoài
(Nam Bộ).
Phong trào đấu tranh chính trị ở các đô thị cũng phát triển sôi động, mạnh mẽ từ
giữa năm 1963 trở đi. Trước phong trào đấu tranh dồn dập và có hiệu quả của nhân dân
miền Nam, đến cuối năm 1964, đầu năm 1965, ba chỗ dựa chủ yếu của Mỹ là ngụy
quân ngụy quyền, hệ thống "ấp chiến lược" và các đô thị bị lung lay tận gốc.
Chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao
nhất đã hoàn toàn bị phá sản. Oétmolen phải thừa nhận: "Tình hình ở Việt Nam xấu đi
hiện ra rõ rệt hơn bao giờ hết. Nếu chiều hướng này cứ tiếp diễn thì tiến tới sự tiếp quản
của Việt Cộng ở đất nước này có lẽ nội trong một năm"1.
Đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ là một thắng lợi to
lớn nữa có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta ở miền Nam. Thắng lợi này tạo cơ sở
vững chắc để đưa cách mạng miền Nam tiếp tục tiến lên.
1. Oétmôlen: Tường trình của một quân nhân, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 1998, tr. 47.
113
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top