46. VÔ-LƯỢNG CAM-LỘ

46. VÔ-LƯỢNG CAM-LỘ

Những tên khác nhau của đức Phật A-di-đà:

Vô-lượng Cam-Lộ-Vương Như-Lai, tức là A-Di-Đà Phật. Đức Phật A-Di-Đà có ba tên : Vô-Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Quang Phật và Cam-Lộ Vương Như-Lai. A-Di-Đà, tiếng Phạn là Amita, nghĩa : Vô-lượng cam-lộ. Vô-lượng cam-lộ là Pháp-bảo không lường. Pháp bảo là nước mưa cam-lộ. Pháp-bảo là không lường sáng-suốt. Pháp-bảo là không lường bền dài. Bởi cớ ấy nên gọi Phật A-Di-Đà có ba, hay như ba vị Phật, nghĩa như vậy.

Cả thảy chư Phật, chư Tăng và các cảnh-giới, cái chi có ra cũng là do pháp, nên đức Vô-lượng cam-lộ cũng gọi là Pháp-tạng-vương. Tánh của Pháp-tạng-vương là không tranh, nên gọi là bình-đẳng tánh, tánh A-Di-Đà Phật.

Xác định Pháp A-di-đà là huyền giáo, A-di-đà là ý pháp chớ không phải là tên của một người nào đó:

Người đời nay mà biết được Phật A-Di-Đà là do nơi đức Phật Thích-Ca nói ra. Giáo-pháp của Phật nói ra có ba cách : đốn-giáo, tiệm-giáo và huyền-giáo; mà giáo-lý A-Di-Đà đây, tức là huyền giáo ví-dụ, so-sánh, trừu-tượng vậy. Sở-dĩ Phật Thích-Ca phải nói ra như thế, là bởi có một nhơn-duyên cảnh-ngộ xảy ra, pháp-lý tuỳ duyên mà ứng hiện. Chớ sự thật thì không phải có riêng một vị Phật A-Di-Đà, và một thế-giới Cực-Lạc. Chính thế-giới địa-cầu nào có là cũng bằng tứ-đại, là cả thảy đều như nhau, đều khổ-não, vô-thường, vô ngã; chỉ có thế-giới tinh-thần của mỗi tâm người, hay là giới-luật trong sạch của mỗi sắc thân, ấy mới gọi là thế-giới cực-lạc. Còn nói về Phật A-Di-Đà, tức là pháp-lý, chớ không phải một người. Hiểu theo ý Pháp của Phật Thích-Ca nói ra đây, thì A-Di-Đà ấy tức là Phật Thích-Ca Mưu-ni đó. Y Ngài muốn nói như thế, là để cho các bậc Thinh-Văn, biết hiểu được sự cao quý bất thối của đạo Ngài vậy. Vì khi xưa chư Phật nói pháp, ngoài nghĩa lý ra, còn có ý nữa. Bởi có ý mới có pháp, thế nên khi nào có ai được nghe lời Ngài nói, trong lúc có cớ sự gì đó, thì mới hiểu được ý của Ngài muốn nói gì ai, Ngài nói làm sao và để chi? Vậy nên người đời nay bằng muốn hiểu biết kinh A-Di-Đà, mà không cần hiểu nhơn-duyên ý muốn của sự có ra bài kinh ấy, thì không bao giờ hiểu được.

Xác định những người thấy Phật A-di-đà là huyền ảo (sư tử hống):

Đến đây, chắc có nhiều người bảo rằng : Phật A-Di-Đà vẫn có thật, xứ Tây-phương vẫn có thật. Có người gặp Phật ấy và thấy xứ ấy, có người đi qua bên ấy, có người gặp Phật Thánh bên ấy qua đây thật. Có người ngủ thấy, hay mơ-tưởng thấy rõ ràng. Cho đến có nhiều linh hồn kẻ chết trở lại, cũng y như vậy.

Nhưng chúng ta nên biết rằng : pháp-lý thì cái chi cũng có cả bởi có mới có pháp nói ra được, pháp ấy mới là thật chỗ giác-ngộ, nên mới tạm gọi là có. Còn về sự việc, cái chi có hình tướng, thì là có thay đổi vô thường, ma biến quỷ quyệt, đâu có chắc vĩnh viễn, mà gọi là có được. Bởi cớ ấy nên xứ nào mà có, bậc người nào mà có đi nữa, thì cũng thảy là ma vọng huyền ảo mà thôi. Chính cái ấy nghe hiểu biết gặp-gỡ của tư-tưởng, tinh-thần, ý muốn, đức tin mơ vọng của ta, nó đã nói bảo cho ta hay như vậy, chính nó xuất hiện ra như thế đó, chớ không phải ai, hoặc ở đâu hết.

Xác định pháp A-di-đà có mục đích là gây sự ham mộ, để an ủi, chớ không đắc trí tuệ:

Vậy ta nên hiểu nơi chơn-lý triết-lý là đủ, là giải-thoát tấn-hóa ích lợi yên vui, chớ sự thấy gặp của tinh-thần đức tin, nó chỉ làm cho ta đựơc sự ham-mộ, an-ủi bằng thiện lành nhắm mắt chớ không đắc trí-huệ, thấu đạo-lý được. Nó chỉ là một pháp ích-lợi nhỏ, để tịnh tâm cho hạng yếu đuối nhỏ nhít sơ cơ. Chớ pháp ấy không thành Phật đặng. Vì thần-quyền tha lực, hầu-hạ theo thầy, ở khít bên thầy, kẻ ấy chưa phải là giống như ông thầy được, thì ngóng trông làm chi rộn nhọc. Sự thật như vậy đó các Ngài!

Pháp A-di-đà đáp ứng cho bậc thượng trí nhưng cũng lợi ích cho kẻ trầm mê:

Các bậc nhơn thiên không phải dễ gì, hiểu biết thấy nghe tỏ gặp chơn tướng của Phật A-Di-Đà và xứ Cực-Lạc, bằng pháp-lý đâu. Kìa như khi xưa đứa Phật Thích-Ca kêu ông Xá-Lợi-Phất, là bậc đại Bồ-Tát pháp sư mà nói, chớ nào có nói bảo với hạng Nhị thừa. Thế thì bộ kinh A-Di-Đà, Vô-lượng thọ, Quán vô-lượng thọ, câu chuyện Phật A-Di-Đà và cõi phương Tây, tức là một bộ luận thuyết triết lý, pháp lý huyền-giáo, đúng-đắn, hay-ho, giá-trị quý báu lợi ích vô cùng cho bậc thượng trí và cũng không mất phần độ dắt kẻ trầm mê ác trược nữa. Vậy thì nơi đây chúng ta hãy hiểu xem, đức Phật Thích-Ca ban-bố pháp-lý, dạy trí-huệ cho chư Bồ-Tát cách nào, những phương tiện gì? Và các bậc đã thật giải-thoát rồi ấy, lãnh dùng ra sao, sẽ nên được những việc chi cho biết, nhứt là những lúc về sau nầy.

Bối cảnh lịch sử của giáo hội khi Phật nói kinh A-di-đà, đủ hạng, đủ căn cơ, thượng trung và hạ:

Thuở xưa đức Phật Thích-Ca nói kinh A-Di-Đà, là bởi nhơn một lúc nọ chư đệ-tử của Ngài đã đưỡc rất đông nhiều, phân chia ra nhiều Giáo hội to lớn, nhằm lúc Ngài tuổi đã già, đã được trên mươi bốn năm dạy đạo, tức là đã vào thời kỳ pháp-hoa thượng thặng. Bấy giờ trong số đệ-tử tâm trí phân chia ra ba bậc : thượng, trung, hạ. Trong số thượng trí có rất nhiều bậc Bồ-Tát pháp-sư, thay thế cho Ngài đi dạy đạo khắp nơi, còn số hạ mê đần-độn biếng nhác giải-đãi thối-chuyển cũng nhiều, lại chán chê nhàm mệt, không biết rõ sự quý báu nhiệm-mầu của đạo. Cũng có lắm bậc cư sĩ tại gia quy-y Phật, Pháp, Tăng mà lại chẳng biết quý trọng Tam-Bảo, họ cứ mãi ngó ngay danh-lợi thích ham, thường khi chỉ bố-thí cúng-dường cho có lệ, hoặc nói có chừng mà không cần màng sự hiểu nghe Pháp bảo. Cũng như vua Ba-Tư-Nặc thời xưa, ngồi nghe Phật thuyết-pháp, mà than mỏi lưng, lại còn nói là quen nhớ sự vui chơi kỹ-nhạc. Như La-Hầu-La con Phật, chín tuổi xuất-gia, còn ham mê chơi giỡn, bỏ học, cang-ngạnh, ỷ-lại Phật độ, mà chẳng cần tu. Lắm kẻ tu hành dung dưỡng danh-lợi, nhờ nương tiếng Phật, núp bóng Phật mà xem thường, ở trong đạo lại ngó bên đời. Lắm người bên đời lại dễ-duôi khinh-lờn luật-pháp, tưởng chừng như là Tăng tục giống in nhau v.v...

Giáo lý cực cao của kinh A-di-đà, gần với Hoa Nghiêm:

Đủ cả những sự : từ bên trong mỏi-mệt, bên ngoài bất kính, do đó đức Phật mới kêu ông Xá-Lợi-Phất, là bậc đại trí-huệ hơn hết, mà nói về đức Phật A-Di-Đà và chỉ ra xứ Cực-Lạc, cho mọi người thấy rõ sự quý-báu ích-lợi của đạo Ngài; vừa là để mở rộng trí phương-tiện độ-sanh cho ông Xá-Lợi-Phất, cùng chư Bồ-Tát khác, và cũng vừa khuyến-khích sự tu tinh-tấn, cho các bậc hạ căn kia vậy. Thế nên pháp-lý A-Di-Đà này, gọi là pháp Đại-thừa, của đức Như-Lai dạy trau trí-huệ cho chư Bồ-Tát. Trong ấy chỉ rõ rằng : mỗi một cái danh-từ của pháp; là tức như một vị Phật, trong danh-từ ấy có chưa đủ cả thế-giới, tác dụng, bổn-nguyện, dung-chứa, ích-lợi, sáng-suốt, vĩnh-viễn. Chính trong một tiếng nói, là chứa đủ cả nghĩa lý, thế-giới, chúng sanh, chư Phật, các pháp, vạn-vật. Trong một tiếng nói là sự thành-tựu cả một võ-trụ; một cái pháp, là sanh ra tất cả đủ hết rồi vậy. Cả thảy chư Phật đều là các pháp cả! Pháp là sáng-suốt hơn hết, là sống dai hơn hết, là mát mẻ ngọt-ngào hơn hết. Cõi pháp sẽ chứa độ tất cả sự khổ-não của chúng-sanh. Các bậc Bồ-Tát có hiểu biết như thế, mới chứng được vô-ngại viên-thông và thay Phật mà thuyết-pháp tự nơi mình, không còn sợ lo nữa. Vì đã đắc đủ thần-thông phương-tiện, biến hóa không lường, hay xa vô tận.

Giới thiệu cảnh giới Tây Phương và lý pháp của nó:

1. Thuở ấy có đủ các hạng nhơn thiên, thần quỷ, ma-vương, rồng rắn, chim-phụng, thần âm-nhạc, vua Trời, Bồ-Tát, A-La-Hán, Tỳ-kheo, nam nữ đông-đảo hội lại, tức là vua chúa, tướng binh; kỵ nhạc, các hạng cư-sĩ thiện nhơn, quan quân, nghiệp-nghệ, cùng các hạng bậc tu xuất-gia đầy đủ. Những kẻ ấy đều có ở trong giáo-pháp của Phật, đều thường nghe pháp gặp nhau, tựu-hội nơi Pháp-bảo, trong những bao nhiêu năm dạy đạo, chớ không phải trong một thời gian nói pháp. Nghĩa là từng có bao nhiêu hạng bậc ấy, trước sau ai cũng hạp chịu nghe theo pháp-lý, vì pháp nào cũng là A-Di-Đà cả; 1250 tỳ kheo là số Tỳ-kheo đắc quả trong mấy mươi năm của Phật dạy đạo.

Đức Phật thuở ấy kêu ông Xá-Lợi-Phất mà nói, tức như kêu gọi với các bậc thượng trí, bảo phải để vào tai nghe dạy. Từ đây qua phương tây, cách mười muôn ức cõi Phật có một thế giới kêu là Cực-Lạc. Nghĩa là : nơi đây là sự kham-nhẫn Ta Bà phiền não ác trược, của đời xao xuyến tranh đua cấu loạn không giới luật, như bến bờ bên này, tương đối cùng bên kia là giới luật thanh tịnh yên vui giải-thoát, nín nghỉ lặng ngừng, chết trơ như mặt trời lặn phương Tây, là chỗ trở đầu hưu trí, dứt bỏ cuộc đời! Phương Đông như trẻ nhỏ mới sanh, cảnh vọng động, phương Tây như ông già chết bỏ, cảnh chơn như từ vọng động đến chơn-như, là phải trải qua mười muôn ức cảnh giới luật của sự giác-ngộ nhỏ, hay là mười giới-luật của mười niệm giác lớn. Có đắc đủ 10 giới luật của bậc giác, con người mới xuất-gia giải-thoát thanh tịnh, là bên kia đặng.

Mười giới luật của mười các giác ấy là : chúng-sanh hằng ở trong đời, chấp thân mạng, cái có có làm ta, tạo gây mười nghiệp tội nơi thân, khẩu, ý, sát sanh, trộm cắp, dâm dục, nói dối, khoe khoang, đâm thọc, rủa chửi, tham lam, sân giận, si mê, lấy đó làm của cải, chỗ ở của cái ta, như mười địa ngục khổ-não, ra không khỏi đặng. Cố chấp mãi có bấy nhiêu, để giữ chắc cõi đời ma biến vô thường lầm lạc. Hết cố chấp các khổ quả báo, thì con người lại bám níu theo mười điều thiện trái ngược, để được sướng vui thiên đường. Họ mắc kẹt ở trong cái cao cái thấp, cái khổ cái vui, cái ác, cái thiện ấy mãi, mà không bao giờ ra được. Đời đời kiếp kiếp chịu ức muôn lần đi ra đi vào sanh tử, mà không được đến đâu cả, nên đối với trung đạo giải-thoát chơn như, dứt bỏ xa lìa hai mối vọng-động ác thiện ấy, họ không thế nào định tâm yên lặng để đến được, nên gọi là rất xa quá xa bên kia, chớ không phải tự cao hay giỏi gì đâu cả, mà hòng kiếm gặp, hay đến ở theo được. Thử ngay mỗi người nhập-định giây lát còn không được, thì làm sao được ở trong giới luật yên định xuất-gia. Mà hễ nhập-định yên lặng không được, thì đâu có gặp Cực-Lạc là tột vui của trong ấy, kẻ ấy tức nhiên phải sống bằng thân khẩu ý vọng-động, chịu khổ báo, mặc cho nhàm chán thích ưa lăn lộn mãi theo đời, thì dễ gì muôn triệu ức kiếp như thế, mà được hết chấp, yên định nhập vào cõi của Giáo hội, nên chẳng phải gọi là quá xa, xa khỏi mười muôn ức cõi giới-luật, giác-ngộ nhỏ nhặt, nơi mỗi chút một niệm. Đúng lý như vậy, con người từ cõi thế đến được xuất-gia yên định ở trong giới-luật là rất lâu và xa lắm, phải trải qua mười muôn ức cõi giới-luật giác-ngộ nhỏ, mỗi lúc mới thấy gặp, chớ nào phải đâu dễ tu, dễ đắc, và đạo là tầm thường không quý báu hay xác thân là yên vui dễ gặp. Thế-giới Cực-Lạc ấy là sự tột vui của trong giới-luật yên-định, cùng là xác thân nầy được giải-thoát Khất-sĩ; mà đúng theo đây thì đức Phật Thích-Ca, Ngài chỉ ngay về Giáo-hội Tăng-già, nền đạo quý báu hiện-tại của Ngài, trong giữa cõi đời cực-khổ, và quá xa khỏi cực-khổ, là thế-giới Cực-Lạc phương Tây bên kia. Vậy thì, chính luật tạng giới xuất-gia là cõi Tây-phương Cực-Lạc.

Lý giải biểu trưng của đức Phật A-di-đà:

3. Đức Phật nói : Tại thế-giới ấy có một vị Phật tên là A-Di-Đà, hiện-tại đang nói pháp ở đó. Nghĩa là : trong giữa giới-luật vắng lặng yên định chết trơ ấy trong đó có pháp-tạng hiện ra giảng dạy, có tánh bình-đẳng không tranh nói ra, có vô-lượng cam-lộ Pháp-bảo túa ra, có trí-huệ vô-lượng quang, có cái sống vô-lượng thọ, có cái pháp cam-lộ vương tuôn ra mãi mãi (Tức là Ngài thuyết-pháp trong giữa cõi giới-luật thanh-tịnh Cực-Lạc Giáo-hội thế-giới riêng của Ngài. Nơi đây đức Phật nói về nền đạo luật Giáo-hội, chớ không phải chỉ cho thân hay tâm là xứ Cực-Lạc, hoặc ở đâu đâu cả).

Lý giải biểu trưng về 7 lớp lan can báu, 7 lớp lưới báo, và 7 hàng cây bồ đề, tất cả đều có ý là 7 món bao quanh để bảo vệ:

4. Xứ ấy ngoài có bảy lớp lan-can báu, nghĩa là bảy lớp giới-luật quí báu, thất-tụ giới 243 điều trong giới-bổn tỳ-kheo :

1) 4 giới luật.

2) 13 giới tổn hại Tăng tàn

3) 2giới không định.

4) 30 giới phá sự thanh-bần

5) 90 giới hành phạt

6) 4 giới đặc biệt.

7) 100 giới nhỏ phải học.

Cộng là 243 giới quí báu, bao bọc vòng ngoài như lan can, để ủng hộ sự yên định bên trong Giáo-hội, là cõi Phật chơn như vắng lặng Cực-Lạc.

Kế đó bảy lớp lưới báu, nghĩa là : bảy giới diệt tránh. Khi nào ở trong Giáo-hội, chư Tăng có tranh cãi với nhau, kẻ tự cao muốn nhảy vọt lên, để phải rớt ra ngoài. Người lại hạ mình thấp, mà thụt lùi chun xuống thế sa ngã bởi giận hờn thì có bảy phương pháp nầy, như bảy lớp lưới báu đón ngăn chặn lại :

1) Hoặc dùng cách tự thuận

2) Hoặc nói quyết rằng quên

3) Hoặc mình không biết không cố ý

4) Hoặc xin lỗi thành thật, mình đã lỡ phạm

5) Hoặc chuyển lên Giáo-hội xem xét cho

6) Hoặc nhờ sự quảng đại quyết định cho

7) Hoặc cùng nhau niệm Phật bỏ qua khỏa lấp, xem như cỏ mới mọc.

6. Bảy hàng cây bồ-đề báu, là bảy Pháp-bảo chánh-giác bồ-đề :

1) Phân biệt sự lành với sự dữ

2) Tinh-tấn mà lướt lên

3) An-lạc trong vòng đạo-đức

4) Thắng phục tâm ý mình đặng làm lành

5) Nhớ tưởng đạo-lý.

6) Nhứt tâm đại-định

7) Vui chịu với mọi cảnh ngộ

Vậy thì bảy lớp lan-can thất-tụ là Pháp-bảo của thân. Bảy lớp lưới diệt-tránh là Pháp bảo của miệng. Bảy lớp chánh-giác hàng cây là Pháp-bảo của ý; bảy giác ý nầy là cây bồ-đề, chỗ tâm ngồi tu an trụ, mỗi ngày đựơc no đủ, che đậy, nương dựa cho chư Tăng Thánh chúng đó.

7. Ba thứ ấy đều có bảy món báu cẩn bọc chung-quanh. Nghĩa là lan-can, lưới và cây báu ấy có ra, là do bảy báu : bố-thí, nhẫn-nhục, tinh-tấn, trì giới, thiền-định, trí-huệ, chơn-như, cẩn bọc un-đúc tạo thành. Thân, khẩu, ý trong sạch tốt đẹp của chư Tăng, có được như thế, là do bảy báu ấy. Nhờ đó mà cõi Giáo-hội ấy, cái chơn tâm của các Ngài xuất-gia mới ở được. Chính luật tạng giới-luật, đó là pháp nuôi tâm, chỗ trau tâm của tất cả, là xứ Cực-Lạc; cũng là miếng đất thanh-tịnh của lục-độ thanh-tịnh, Tịnh-độ, Tịnh-thổ, vì giới-luật là mặt đất chỗ ở thanh-tịnh trong sạch yên vui hơn hết.

Lý giải biểu trưng ao thất bảo, hoa sen đủ màu trong ao, hoa trời buổi sáng, việc lượm hoa, chim hót:

8. Trong đó có ao thất-bảo là đạo tràng chứa đựng bảy nhóm báu, nước báu công-đức là pháp-lý bát chánh-đạo. Đáy ao cát bằng vàng là rốt-ráo sâu-xa yếu-lý của pháp, là quý báu như vàng từ chút từ lời. Bốn phía bờ ao bằng vàng bạc, lưu-ly, pha-lê là bốn bậc thánh pháp hiệp lại thành đạo, Pháp-bảo của bậc Như-Lai là chơn-như, như vàng; của bậc Bồ-Tát là trí-huệ, như bạc : của bậc Duyên-Giác là thiền định, như lưu-ly; của bậc Thinh-Văn là trì giới, như pha-lê. Mặt đất cát vàng, là giới-luật nền tảng mặt đất tỉ-mỉ quí báu như vàng. Lầu các bằng châu ngọc xunh quanh, là những nhóm Giáo-hội nhỏ ở xung quanh, ngoài đạo tràng, Tăng chúng ấy như rường cột nóc nền, của lầu các quý báu. Đạo giáo như nhà lầu; kẻ tu học có thấp cao lớn nhở đủ hạng là lầu các đủ hạng.

Giữa ao có bốn thứ hoa sen lớn như bánh xe, xanh đỏ trắng vàng, hào-quang chói rực theo màu sắc, là trong giữa đạo-tràng có bốn bậc trí-huệ, hằng chuyển pháp-luân, trí bậc Như-Lai, chơn-như, như hoa vàng, diễn pháp ra, ánh sáng chói-lọi như màu vàng kim. Trí bậc Bồ-Tát, trí-huệ như hoa bạc, diễn pháp ra, ánh sáng tỏ rõ như màu trắng bạc. Trí bậc Duyên-Giác, thiền-định thanh-tịnh như hoa xanh, diễn pháp ra, ánh sáng trong suốt như màu xanh. Trí bậc Thinh-Văn, trì giới giữa điều luật như hoa đỏ, diễn pháp ra, ánh sáng tốt tươi như màu đỏ, thảy đều là pháp-lý thơm-tho mầu diệu, đáng khen-ngợi cả.

Nơi xứ Cực-Lạc mỗi buổi sáng ra, có hoa trời tuôn rơi đầy đất, là nơi Giáo-hội mỗi khi có thuyết-pháp, thì pháp-lý ấy như ánh mặt trời, làm cho tâm trí của mỗi người đều sáng tỏ ra, giác-ngộ chơn-lý, thấy rõ pháp-lý cao quí tốt đẹp, như bông hoa trời; ấy là lời lành tốt của những bậc bề trên thiện lành trong sạch, ban-bố dạy xuống cho khắp chung tất cả. Tâm người thanh-tịnh lóng nghe, cũng như mặt đất vàng chứa đựng, chư Thánh chúng lượm hoa để trong túi bên hông, đem cúng-dường mưới phương vạn ức chư Phật, là Tăng chúng bậc đã đắc quả thanh-tịnh, dùng trí nhớ lượm thâu, chứa đựng lời lành sáng ấy, ôm giữ bên lòng, đem đi giảng dạy cho chư Phật vị-lai, đang là chúng-sanh hiện tại ở khắp các nơi khác. Cũng tức là sự giáo-hóa chúng-sanh, thay thế chư Phật, làm no lòng từ bi của chu Phật, bằng sự đem chúng-sanh thâu vào đạo, cúng-dường chư Phật. Gần tới bữa ăn liền trở về xứ ăn cơm, rồi đi kinh-hành, là gần tới ngày Phật có nói pháp nữa, thì Tăng chúng trở về nghe thêm, như ăn cơm, học nghe xong, no lòng đầy-đủ, là đi hành đạo nữa. Kinh-hành là hành đúng theo kinh, kinh là pháp dạy trau tâm, là sự trau sửa tâm người, tâm mình.

Tiếp tục trích kinh và giảng ý pháp:

Trong xứ Cực-Lạc ngày đêm sáu thời, có bảy thứ chim như : bạch-hạc, công, két, nhồng, sáo, cưỡng, chìa-vôi, kêu ra tiếng dịu-hòa như nhạc trời, là ở trong giới-luật tốt vui, ngày đêm sáu giờ ngoài lúc tu thiền-định, thì các bậc Như-lai, Bồ-Tát, độc-giác, vô-sanh, bất-lai, nhứt-vãng lai, nhập lưu, bảy bậc thượng trí này như chim, bằng nói luận đạo nghe hay-ho, vui thích, êm ái, hòa nhã, như nhạc trời, ấy là lời trong sạch, giải thoát, êm ái, dịu dàng, khuyến khích ca tụng. Những lời ấy nói về năm căn, năm lực, bảy phần bồ đề và tám pháp thánh đạo, nên làm cho ai cũng đem lòng niêm tưởng Phật, Pháp, Tăng, không xao-lãng. Ơ xứ ấy, mỗi khi có ngọn gió thổi qua, cây và lưới rung khua, kêu ra những tiếng dịu-hòa, dường như trăm ngàn món nhạc đồng trổi lên một lượt, tự nhiên ai nghe cũng đem lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng cả; là mỗi khi có nhơn duyên việc chi xảy đến, như luồng gió thổi qua, như sự tranh cãi với nhau, thì các sư đem lưới pháp đón ngăn dịu hòa lại, bằng sự thuyết-pháp, cùng mỗi khi vấn đáp luận đạo, về pháp chánh giác bồ đề, thì ai ai cũng nói giống cùng nhau một lúc, nghe thật êm ái thanh tao, khiến cho ai cũng đem lòng niệm tưởng Phật, Pháp, Tăng, không gián đoạn. Xứ ấy được trang nghiêm như vậy, là nhờ công đức của Phật A-Di-Đà tạo thành, là Giáo hội ấy được bằng thẳng, mát mẻ trong sạch, là do nhờ Pháp bảo tam tạng Vô lượng cam lộ. Vô lượng cam lộ là tất cả giáo pháp trong mấy mươi năm của Phật. Ơ xứ ấy kêu là Cực-Lạc, là bởi các bậc Thinh-Văn còn đang nghe pháp, với chư Bồ-Tát đã đi dạy đạo, số nhiều trội thêm lên mãi, không có thể đếm nhứt định, nên mới gọi là tột vui, của thế-giới đại-hiền sống chung nhau.

Đức Phật Thích-Ca nói : Chẳng phải một mình ta khen tán pháp-tạng vô-lượng cam-lộ mà thôi, cả thảy chư Phật bậc trước, bậc sau, bậc ở bên nầy, bậc ở bên kia, bậc ở trên, bậc ở dưới, bậc nào cũng đều dùng lời nói ca-tụng Pháp-bảo, kéo dài mãi mãi về sau, trùm khắp cả quá-khứ hiện-tại, vị-lai, ba lớp hạng của cả thế-giới mà tỏ cho chúng-sanh biết rằng : chúng-sanh chớ khá hoài-nghi vì công-đức của Pháp-bảo nầy, mà chư Phật tất cả đều đang gìn-giữ thật hành đây vậy.

Lại vầy nữa : những ai người cư-sĩ nghe đến bên A-Di-Đà, hằng niệm tưởng đến, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc đến bảy ngày, một lòng không tưởng khác, thì đến lúc lâm-chung, Phật A-Di-Đà và chư Thánh chúng sẽ qua tiếp độ, đem về cho sống bên Cực-Lạc. Nghĩa là : những ai đã am hiểu, thấy được nghĩa lý của pháp vô-lượng cam-lộ, là bậc ấy tâm trí cũng đã lành sáng khá lắm. Bằng niệm tưởng pháp ấy không xao-lãng, hoặc pháp-sanh được một niệm chánh-giác, hoặc hai niệm chánh-giác, hoặc bảy niệm chánh-giác, là kẻ ấy sẽ tự chết bỏ cảnh trần, sanh sống qua bên nhà đạo, xuất-gia giải-thoát theo ở với Phật, Tăng; ấy là nhờ pháp vô-lượng cam-lộ và các điều trong sạch của pháp tiếp dẫn đó. Vậy những ai muốn cầu vãng sanh Cực-Lạc, hoặc đã phát tâm, thì đã xuất-gia. Đang phát tâm là đang xuất gia. Sẽ phát tâm là sẽ xuất gia. Ai ai cũng nên hãy phát tâm giải-thoát, được sanh vào trong nhà Phật cả thảy.

Đức Phật Thích-Ca nói : Ta khen tặng công đức Phật A-Di-Đà, thì các Phật kia cũng khen tặng lại ta y như vậy. Vì cả thảy chư Phật đều là vô-lượng cam-lộ như nhau có một. Ngài kêu Xá-Lợi-Phất nói : Tuy nói vậy chớ không phải ít thiện-căn, phước-đức, nhơn-duyên mà đặng giải-thoát xuất-gia nhập đạo đâu, ở trong cõi đời dẫy đầy ác dơ của sự thấy, của thời kiếp, của thân mạng, của phiền não, của chúng-sanh dơ ác nầy, dễ gì họ chịu nghe biết, tin pháp-lý của Phật đặng. Thuở ấy đức Phật giảng xong, ai ai cũng thấy rõ xứ Cực-Lạc và Phật A-Di-Đà, là giới-luật Tăng-già và Pháp bảo Vô-lượng Cam-lộ là Phật, nên ai cũng vui mừng tinh-tấn hoan lạc. Còn bậc trí-huệ thì lại được mở-mang phương-tiện, biết thêm nhiều danh từ, nhiều vị Phật bằng pháp, và nhiều thế-giới chúng-sanh, do những Phật hay pháp ấy tạo ra, tức là đắc được vô số pháp thiền, vô số trí huệ, vô số pháp-lý biện-luận, kinh, luật, để đi ra lập đạo nên thành những giáo-hội khác. Như thế nghĩa là người cầu vãng-sanh Tịnh-độ Cực-Lạc, tức là cầu mong xuất-gia giải-thoát Khất-sĩ du Tăng, sống trong giới luật Tăng-già Giáo-hội, để học với Pháp tạng Vô-lượng Cam-lộ là A-Di-Đà vậy.

Hiểu những ý pháp rồi thì hảy tự tu, đừng cầu vái, ỷ lại nữa:

Như vậy Tịnh-độ Cực-Lạc, Phật A-Di-Đà, có ra là do nơi thân trong sạch trì-giới cụ túc trọn đủ, và tâm định chơn-như của mỗi người. Ví nếu giới định đã trong sạch, thì người ấy đâu còn ở trong cõi đời một giờ một khắc chịu nổi nữa được, mà không phải phải là đã ở trong Giáo hội Tăng già, vui sống trong cõi giới luật, với chư Thánh chúng trong đạo Phật. Và như hiểu pháp Vô-lượng Cam-lộ rồi, thân tâm giới định hoàn toàn rồi, thì cõi thế gian đâu còn dung chứa được nữa, mà chẳng phải là họ sùng tôn bái trọng, thỉnh đưa cho về xứ Phật, để đi trứơc, cho họ theo sau. Thế mới biết rằng : thân giới là xứ Cực-Lạc tịnh độ, còn tâm định là Phật A-Di-Đà. Vì giới năng sanh định, định năng phát huệ, lẽ ấy rất thường. Biết như thế là tự lo tu, không còn trông đợi cầu vái ỷ lạu nữa.

Lý giải bài chú vãng sinh:

Kìa các xứ An-Độ, xưa nay họ có cầu vái đi đâu, hoặc theo ai gì đâu. Ay là nhờ họ hiểu rõ lý, nghĩa và ý của Phật dạy, theo chữ tiếng của họ, nên có khác hẳn với xứ ta vậy. Cho đến như bài chú vãng-sanh là bài nhắc nhở cho tâm ta chăm-chú, thế mà cũng có lắm người lầm-hiểu. Trong ấy đại để nói vắn tắt rằng : những ai muốn vãng-sanh, muốn giải-thoát cõi sanh tử luân hồi, muốn đến cõi sống mãi của đức Vô-lượng Cam-lộ, là phải diệt trừ tất cả nghiệp chướng tội-lỗi của thân khẩu ý, thì mới được xuất-gia giải-thoát khỏi sự kham nhẫn. Bài ấy là để nhắc cho ta nhớ rằng : tấm lòng cầu đạo, có ra là do sự giảm dứt nghiệp tội, là được vãng-sanh, chớ không phải đọc tụng linh thiêng, hay ai cho mà hết tội nghiệp.

Lý giải những tướng tốt của Phật:

Như thế chư Phật cũng đều gọi là Vô-lượng thọ Phật, là Pháp bảo còn mãi, sống mãi, không lường, pháp ấy tức là chơn-như bình-đẳng vĩnh-viễn, chơn thật, bất hoại, nên gọi là Vô-lượng-thọ Phật, kẻ nào mà được chơn-như bình-đẳng Vô-lượng-thọ Pháp, thì sẽ có đủ 32 tướng tốt, 80 cách đẹp, của sự trọn lành, trọn sáng, thành Phật. Kẻ ấy sẽ có mắt dài và đen, là sự thấy xa và không ô nhiễm... Lỗ tai lớn và dài, tròn đầy. Chơn mày cong, dài, xanh và đâu lại, là trí sáng tròn thanh-tịnh, cao xa, và dung hòa tuyệt-đối. Tóc xoáy tròn khu ốc, là đầu óc đầy đủ. Có nhục-đảnh nổi cao đội ngọc ma-ni, là trí cao đội thờ báu giải-thoát. Mình sắc vàng kim, là sự làm theo đạo-lý quí báu như vàng. Cánh tay tròn dài là việc làm trọn lành và để lâu dài. Bàn tay tròn bằng thẳng, là mỗi việc làm công-bình chơn chánh, tròn theo việc đạo. Ngón tay tròn dài búp măng, là mỗi sự chỉ giáo đều xa dài, tròn sáng, thẳng vót. Cổ tay tròn, cánh chõ đuột-đà, là sự cử động đều tròn tốt đẹp. Am mã tàng ẩn khuấc bên trong, là sự không dâm-dục. Mình cao trượng sáu, là nối liền trời đất, thiện-ác, tinh-thần vật-chất, mười sáu lượng tấc. Thịt da mềm mại, là nhu-hòa hiền lương giới hạnh. Bàn chơn no tròn không hót là Niết-Bàn chơn-như tự-nhiên. Ngón tay ngón chơn có da đính nhau, là các sự chỉ giáo rất khít-khao hòa hợp. Trong mình túa ra ánh sáng, là tâm lành sáng chói. Mình-mẩy thơm tho là ý niệm đáng khen ngợi. Trên đầu có hào-quang tròn bằng một ôm, là trí-huệ túa ra pháp lý ánh sáng, đúng tròn với việc làm. Mỗi bước chơn đi có tòa sen, là mỗi bước mỗi nơi trải qua, đều có những bậc xuất gia Giáo-hội chư Tăng theo tôn trọng hầu hạ. Ngài bay là thoạt đi thoạt ở, không chi quyến luyến níu kéo buộc ràng bẩn chân, trên sự giải-thoát không không cao-thượng. Hào-quang lớn chiếu năm hòn núi, là pháp lý soi thông ngũ-uẩn. Mắt xanh xem thấu bốn biển, là trí thanh-tịnh quán-xét sự khổ lớn, của sanh, tử, lão, bịnh. Phóng quang tiếp dẫn qua sông, là thuyết-pháp phun lời ánh sáng, tiếp dẫn đưa độ kẻ ở sông mê nguồn ái. Ngài ở giữa xứ Cực-Lạc, là lạc tại cực kỳ trung, vui nơi chỗ tột giữa trung đạo; Ngài vui tươi trầm-tĩnh tự-nhiên, chơn-như bình-đẳng, ấy là đức Vô-lượng-thọ, hay bậc đắc pháp Vô-lượng Cam-lộ, A-Di-Đà Phật đó. Ngài mặc áo vàng, là pháp giới hạnh-kiểm quí báu như vàng. Ngài cao lớn hơn hết, ấy là pháp chơn-như chúa-tể pháp-vương vậy. Chơn thân ấy mới gọi là thân của đức A-Di-Đà Vô-lượng-thọ Phật, và của cả thảy chư Phật khác, cũng in nhau như một.

Lý giải về 4 vị Bồ-tát, Quan Âm, Thế Chí, Phổ Hiền, và Văn Thù:

Ngài có bốn người con là : Quán Thế-Am Đại-từ-bi, Đại-Thế-Chí, Đại-hỷ-xả, Đại-Trí, Văn-Thù, Đại-Hạnh Phổ-Hiền. Nghĩa là : bình-đẳng sanh ra bốn pháp : từ-bi, hỷ-xả, đại-trí, đại-hạnh; hay cũng là bốn pháp sanh bình-đẳng. Bình đẳng như đầu, từ-bi là tay mặt, hỷ-xả là tay trái, đại-trí là chơn mặt, đại-hạnh là chơn trái, gồm đủ vào một thân mình pháp to lớn. Như thế thì bình-đẳng là Vô-lượng-thọ, Vô-lượng-quang, Cam-lộ-vương, A-Di-Đà Phật, ngồi tòa sen vàng giữa xứ Cực-Lạc, đầu có ngọc bửu châu sáng đỏ. Từ-bi là Bồ-Tát Quán-Thế-Am, là quán xét sự thế tiếng khổ tối tăm, ngồ an-trụ tòa sen trắng, sắc trắng trong sạch, là có chư đệ tử Giáo-hội. Ngài hầu gần bên Phật, đầu đội thên tướng chơn-như Phật làm nhục kế. Hỷ-xả là Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, là nối trí theo đại nguyện cứu-thế của Phật. Ngồi an-trụ tòa sen, là có chư đệ-tử Giáo-hội. Ngài hầu gần bên Phật, y như đức Quán-Thế-Am, đầu đội thân tường chơn-như Phật làm nhục kế. Đại-trí là Bồ-Tát Văn Thù. Văn là nghe, Thù là đáp, bậc vô-ngại viên thông, đại hùng đại lực, cỡi xác thân như cỡi sư tử, nói lời như sư tử, dõng-mãnh hùng-lực. Đại-hạnh là Bồ-Tát Phổ-Hiền, tương đối với Văn-Thù, là phổ hóa sự hiền từ đức hạnh, cỡi xác thân như cỡi bạch-tượng, nói lời như bạch tượng, hiền từ đĩnh đạc. Đó là bốn pháp Bồ-Tát, ủng hộ một pháp bình đẳng Như-Lai là Phật, ở trong xứ Cực-Lạc Tăng già Giáo hội, cũng gọi là bốn hạng đệ-tử lớn, làm tay chơn hầu theo Phật làm con Phật.

Pháp tu quán theo kinh A-di-đà:

Vậy thì những ai muốn quán tưởng xứ Cực-Lạc và Phật A-Di-Đà, thì trước hết hãy quán xét tưởng nhớ như vầy : Thân này như mặt trời sắp lặn phương Tây chết mất, hướng Tây là cõi giải-thoát chơn-như vắng lặng, ấy là cõi xuất-gia ly tục, như cõi chết ban đêm đối với cảnh đời, như bỏ dứt những sự hẹp-hòi, để thấy rõ cảnh giới bao la vô-cực của đạo đức võ-trụ. Giới luật như mặt đất lưu-ly, pha-lê, như vàng-bạc. Các Pháp bảo là lan can, lưới, cây bồ-đề, nào là ao, là sen, lầu các, chim kêu, chư Thánh chúng, Tăng sư áo vàng phất phơ bay lượn. Kìa là đức Phật Vô-lượng Cam-lộ, thân tướng trang nghiêm tốt đẹp đủ cách. Ngài đang phóng quang tiếp dẫn chúng-sanh. kìa Quán-Thế-Am, Đại-Thế-Chí đứng hầu hai bên, oai-nghi chỉnh túc, mỗi cử chỉ đoan trang, chư Thánh chúng đang ngồi nghe dạy đạo cùng khắp trên mặt ao hồ thất bửu. Kìa như ta đã đến đó nghe kinh, Phật đã giảng dạy như thế, và như ta cũng đã tỏ ngộ, muốn ở luôn theo hầu Phật, quyết tu nối nguyện Phật, tế-độ chúng-sanh về sau v.v... Cả thảy đều thấy ngay ra bằng pháp lý, là sự thật nơi giới-luật Giáo hội Tăng già đạo Phật. Như thế tất nhiên sẽ đặng tự mình phát tâm giải-thoát, xuất-gia Khất-sĩ, được nhập trong nhà Phật, giáo hội Tăng già, hoặc tự mình sẽ tạo ra được một giáo pháp khất-sĩ tịnh độ phương Tây xứ Phật khác, y như bà Vi-Đề-Hy một cách ( xem trong Quán Vô-Lượng-Thọ Kinh). Chính bà Vi-Đề-Hy, nhờ Phật dạy cho quán xét tưởng nhớ như thế, mà được giác-ngộ thấy rõ ra cõi pháp là trang nghiêm, quý báu không lường còn cuộc đời là chết khổ. Thế là bà và các thị nữ đều thảy xuất-gia nhập đạo hiện-tại, ấy như Phật A-Di-Đà và chư Thánh chúng qua rước đó, tức là bà vãng-sanh Tịnh-độ, đã chết bõ thân xác đối với cõi đời, thì làm khất-sĩ giải-thoát, sống trong giới-luật Cực-Lạc tây-phương mới đặng. Như thế thì ai ai nếu may ra giác-ngộ, cũng là được vãng-sanh hiện-tại, được gặp Phật, được vào ở trong xứ Phật A-Di-Đà hiện-tại cả.

Tác dụng và giáo trị của quyển chơn lý nầy:

TÓM LẠI : Quyển Vô-Lượng Cam-Lộ này có ra, thật là hoàn toàn đúng chơn-lý, triết-lý, pháp-lý, đạo-lý, ý nghĩa của chư Phật dạy. Nó sẽ giúp cho biệt bao sự tấn-hoá của người tu niệm Phật mà còm kém hiểu, hằng bày ra lắm sự hình ảnh mơ vọng, cùng sự đọc tụng nhịp-nhàng, làm như đạo Phật là một trò vui đồng bóng, mà từ xưa kia là vẫn chưa hề có. Nó sẽ giảm bớt cho được biết bao nhiêu huyễn-hoặc mơ-hồ, vô lý nghĩa của thần-quyền bịa thuyết. Nó sẽ giúp ích cho dân-tộc trên đường tiến-triển về pháp-lý thật-tế an vui, tinh-thần tốt đẹp, không còn phải là một lối tu hành tai hại chờ chết bại xuội. Nó sẽ làm cho người tu biết rõ lẽ sống của mình và tất cả, trên sự thành công và hạnh phúc. Vì nó đã chỉ rõ ra tất cả những pháp để làm Phật, thành Phật, nên quả Phật, nên thế-giới cho tất cả. Mặc dầu theo đây mới chỉ là một triết-lý giải sơ bề ngoài, chớ chưa phải là Vô-lượng cam-lộ và Cực-lạc nhỏ hẹp của sự trau tâm, hay lớn-lao của võ-trụ, và những cách giảng-giải khác nữa. Nhưng hiểu tạm vắn-tắt theo đây, là chúng ta ai ai cũng sẽ đủ được dễ dàng giải-thoát, vãng-sanh Tịnh-độ và gặp Phật Vô-lượng Cam-Lộ hết.

XỨ CỰC LẠC

Giải về thiền định, từ sơ thiền tới ngũ thiền:

Trong phép tu thiền-định, từ : tầm sát, hỷ, lạc, tịnh định, là từ con đường của nhơn loại bước tới Niết-Bàn.

Định là NIẾT-BÀN. Tịnh là TỊNH-ĐỘ. Lạc là CỰC-LẠC hay cõi trời VÔ-SẮC-GIỚI. Hỷ là cõi trời SẮC-GIỚI. Tầm-sát là cõi trời DỤC-GIỚI.

Đó là những nấc thang tấn-hoá của nhơn loại. Nghĩa là :

1) BẬC SƠ THIỀN phải tu năm phép này : Lấy TẦM-SÁT làm gốc vốn, để đến hỷ, lạc, tịnh, định. Có tầm-sát là tầm-tòi quán xét, dục muốn sự thiện, mới dứt qua khỏi ác nhơn tội-lỗi, mà đến lần được hỷ, lạc, tịnh, định, nên kêu gọi là Dục-giới-thiên, cái cảnh dục của lớp trên nhơn loại.

2) BẬC NHỊ THIỀN còn tu bốn phép này : Lấy HỶ lảm chỗ ở, để đến với lạc, tịnh , định. HỶ là sự Mầng, mầng sống trong sự thiện lành tốt đẹp, đúng theo lẽ có-có, nên kêu gọi là Sắc-giới-thiên, lớp trên cao hơn cảnh dục muốn. Trình-độ của nguời đã qua khỏi sự tầm-sát.

3) BẬC TAM THIỀN con tu ba phép này : Lấy LẠC làm chỗ ở, để đến với tịnh, định. Lạc là sự vui, vui sống trong cảnh không-không tất cả, cũng không còn có thiện nữa, nên kêu gọi là Vô-sắc giới-thiên. Vô-sắc-giới-thiên là tên gọi nơi người cư-sĩ, chớ nếu xuất gia, thì kêu là Cực-Lạc. Lớp trên cao hơn cảnh sắc có có. Trình-độ của người đã qua khỏi sự hỷ.

4) BẬC TỨ THIỀN còn tu hai phép này : Lấy TỊNH làm chỗ ở, để đến với định. Tịnh là sạch, là sống trong sạch, trong sự giải thoát xuất gia, nên gọi là Tịnh-độ, Tịnh-độ là lục-độ thanh-tịnh, lớp cao trên hơn cảnh Vô sắc và Cực-Lạc. Trình độ của người đã qua khỏi sự lạc.

5) BẬC NGŨ THIỀN hay ĐẠI ĐỊNH là còn một phép này : Lấy ĐỊNH làm chỗ ỡ, không còn đi đâu nữa cả. ĐỊNH là yên-lặng, sự-sống yên-lặng hoàn-toàn nên gọi là Niết-Bàn, Niết-Bàn là đứng ngừng hưu-trí, ngưng việc rốt-ráo, không còn chỗ đến, đến đây là kết quả mục đích. Lớp trên cao hơn Tịnh-độ, cao trên hơn hết. Trình độ của người qua khỏi sự tịnh sạch.

ĐÓ LÀ PHÉP TU TRÊN NHƠN LOẠI :

Sơ định là :...............................................................TẦM-SÁT , hỷ, lạc, tịnh, định.

Nhị định là : ............................................................... HỶ, lạc, tịnh, định.

Tam định là : ............................................................... LẠC, tịnh, định.

Tứ định là : ..................................................................... TỊNH, định.

Ngũ định là : ........................................................................... ĐỊNH.

1) SƠ ĐỊNH, là cảnh trời Dục-giới-thiên, cảnh của người cư-sĩ giữ 5 giới chay kỳ, ở tại nhà.

2) NHỊ ĐỊNH, là cảnh trời Sắc-giới-thiên, cảnh của người cư-sĩ giữ 8 giới, trường chay, ở am chùa.

3) TAM ĐỊNH, là cảnh giới Vô-sắc-giới-thiên, cảnh của người cư-sĩ, giữ 10 giới, ngọ chay, không tiền, ở cốc, hang, động, hoặc là xứ Cực-Lạc của người tu tập xuất gia khất-sĩ ở trong Giáo-hội.

4) TỨ ĐỊNH, là cảnh Tịnh-độ Tây-phương của bậc tu xuất-gia khất-sĩ thanh-tịnh, giữ 250 giới giải-thoát.

5) NGŨ ĐỊNH, là cảnh Niết-Bàn, của những bậc đắc thiền-định hay đại-định.

Đó nghĩa là từ cảnh trời Dục-giới, đến Sắc-giới, đến Vô-sắc hay Cực-lạc sẽ đến Tịnh-độ, và đến Niết-Bàn, tức là danh-từ tên gọi của pháp thiền-định, chỗ ở của tâm, chớ không phải ở đâu hết. Như thế tức là sự chỉ rõ ra rồi, từ đây chắc không còn ai hiểu lầm nữa.

Thế thì chỉ có sự thật lo tu là đúng hơn hết.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top