42 CHƯƠNG KINH
KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG
(KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG)
NGHI THỨC TRÌ TỤNG
TÁN PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẵng ai bằng.
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loại.
Quy y trọn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ.
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
QUÁN TƯỞNG
Phật chúng sinh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ:
Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn pháp, hiền thánh tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ:
Nam mô Sa bà Giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa giáo chủ, đương lai hạ sanh Di Lặc tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lỵ Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ tát, Đạo tràng hội thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ:
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)
TRÌ TỤNG
Cành dương nước tịnh,
Rưới khắp tam thiên.
Tính không tám đức,
Lợi lạc nhân thiên.
Thấm nhuần pháp giới,
Tịnh nghiệp tăng diên.
Phúc sinh tội diệt,
Lửa hóa hồng liên.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ tát ma ha tát (3 lần)
BÀI TÁN LƯ HƯƠNG
Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa,
Lòng con kính ngưỡng thiết tha,
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)
CHÚ ĐẠI BI
Nam Mô Đại Bi Hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ gia. Nam mô A rị gia bà lô kiết đế thước bát ra gia. Bồ đề tát đỏa bà gia. Ma ha tát đõa bà gia. Ma ha ca rô ni ca gia. Úm tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tả. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hệ rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng, a thệ đựng, tát bà tát đá na ma bà già ma phạt đặt đậu.
Đát điệt tha. Úm a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế. Di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma la ma la. Ma hê ma hê, rị đà đựng, cu ru cu ru kiết mông.
Cu ru cu ru, phạt xà gia đế. Ma ha phạt xà gia đế.
Đà ra đà ra địa rị ni, thất Phật ra gia. Giá la giá la, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê, y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lị. Phạt sa phạt sâm, Phật ra xá gia. Hu lu hu lu ma la. Hu lu hu lu hê lị, sa ra sa ra, si ri si ri, su ru su ru. Bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ. Di đế rị gia, na la cẩn trì, địa rị sắt ni na. Ba dạ ma na sa bà ha. tất đà dạ sa bà ha. Ma ha tất đà dạ sa bà ha. Tất đà dủ nghệ thất bàn ra dạ sa bà ha. Na la cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra sa bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, sa bà ha. Sa bà ma ha, a tất đà dạ, sa bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, sa bà ha. Ba đà ma kiết tất đá dạ, sa bà ha. Na la cẩn trì bàn già ra gia, sa bà ha. Ma bà rị thắng kiết ra dạ, sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, sa bà ha. Úm tất điện đô mạn đá ra bạt đà gia, sa bà ha. (3 lần)
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
KỆ KHAI KINH
Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu,
Ngàn muôn ức kiếp dễ hay đâu.
Con nay nghe thấy xin vâng giữ,
Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
PHẦN DUYÊN KHỞI
Sau khi Ðức Thế Tôn thành đạo, Ngài tự nghĩ: “Xa lìa mọi ham muốn, tâm được yên vui bình tĩnh. Tâm yên vui bình tĩnh là điều cao quý nhất. Chính Tâm ấy mới ở trong Ðại-định để hàng phục mọi ma chướng.”
Suy nghĩ xong, Ðức Phật đến vườn Lộc-Giả nói pháp Tứ-đế, độ anh em ông Kiều Trần Như, năm người đều chứng đạo quả. Tiếp đó có vị Tỳ-khưu lại muốn hỏi những điều còn nghi ngờ, xin Phật chỉ bảo cho các điều phải trái. Vì vậy, Ðức Thế-Tôn lại cặn kẽ dạy bảo khiến các vị Tỳ-khưu, ai nấy đều lĩnh hiểu rành mạch, và chắp tay kính cẩn đón nghe những lời Phật dạy.
I. Chứng quả xuất thế gian
Chương một
Ðức Phật dạy: Từ biệt người thân yêu, xuất gia tu đạo, biết tường tận tâm tính, hiểu thấu vô vi, gọi là Sa-môn. Thường giữ gìn 250 giới cấm, trong sạch, chăm làm các điều thiện, bỏ các sự ác, tu bốn đạo hạnh chân-chính, thành quả vị A-La-Hán. Ngôi nầy sống lâu mãi mãi, có thần thông biến hóa, đi bay đến nơi nào thì trời đất nơi ấy phải rung động.
Sau đến ngôi A-Na-Hàm, ngôi nầy khi hết tuổi thọ thế gian thì thần thức sẽ sinh lên cõi trời thứ 19 để dự vào ngôi A-La-Hán.
Sau đến ngôi Tư-Ðà-Hàm, ngôi nầy phải còn một lần sinh lên trời, một lần xuống nhân gian nữa, mới được lên ngôi A-La-Hán.
Sau hết là Tu-Ðà-Hoàn, ngôi này phải trải qua chín lần tử, chín lần sinh nữa mới được đến quả vị A-La-Hán.
Người đã đọan tuyệt ái dục, không còn chạy theo ái dục, cũng như người đã chặt đứt chân tay, thì không còn dùng được tay chân ấy nữa.
II. Tu hạnh xuất gia
Chương hai
Phật dạy: Người xuất gia tu đạo, phải đọan bỏ ái dục, biết nguồn gốc tâm tính, hiểu nghĩa lý sâu xa và liễu-ngộ phép vô-vi của Phật.
Trong tâm không thấy phép gì để được, ngoài cảnh không còn môn gì để cầu. Tâm không cố chấp vào đạo, cũng không kết buộc thêm nghiệp. Không phải nhớ, không làm, không tu, không chứng, không phải trải qua các ngôi thứ, mà ngôi thứ độc-tôn ấy chính là đạo.
Chương ba
Phật dạy: Người cạo bỏ râu tóc, vào hàng Sa-môn, học đạo của ta, phải lìa bỏ của cải thế gian, chỉ cốt sao cho tạm đủ. Mỗi ngày mỗi bữa ăn giữa trưa, một giấc ngủ dưới gốc cây, không nên ăn, ngủ hai lần trong một ngày đêm.
Người bị mê lầm trụy lạc, đều do tâm yêu muốn sinh ra vậy.
Chương bốn
Phật dạy: Chúng sinh lấy mười điều là thiện, cũng lấy mười điều là ác. Ba điều về thân, bốn điều về miệng, ba điều về ý.
Ba điều về thân là: Giết hại, trộm cắp, dâm dục. Bốn điều về miệng là: Nói lưỡi đôi chiều, nói lời độc ác, nói thêu dệt, nói dối càn. Ba điều về ý là: Tham lam, giận tức, si mê.
Mười điều ấy thuận với chính-đạo, nói chung là mười điều thiện, trái lại là mười điều ác.
Chương năm
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều.
Nếu người có lỗi tự giác-ngộ, đổi ác làm lành, tội sẽ tiêu mòn. Ví như người đau ốm được ra mồ hôi, bệnh tật sẽ dần khỏi vậy.
Chương sáu
Phật dạy: Kẻ ác tâm, khi nghe thấy người ta làm điều thiện, hay sinh phá quấy. Nhưng các ông phải nín nhịn, đừng giận tức, trách mắng họ.
Kẻ trồng nhân xấu, sẽ tự hái quả xấu.
Chương bảy
Phật dạy: Kẻ xấu, nghe người ta tu đạo, làm những việc nhân từ. Họ cố đến mắng ta, ta im lặng, không nói lại một lời.
Khi mắng xong, ta hỏi họ rằng: “Ngươi đem lễ vật biếu người khác, họ không nhận, lễ vật ấy có trả lại ngươi không?” Kẻ xấu kia đáp: “Lễ vật đó về tôi vậy.”
Phật lại bảo: “Nay ngươi đến mắng ta, ta không nghe, lời mắng ấy lại trả lại ngươi và ngươi tự dìu lấy tội lỗi: nhân nào, quả ấy, như vang theo tiếng, như bóng theo hình, không thể tránh được. Vậy đừng nên làm điều ác.”
Chương tám
Phật dạy: Kẻ ác hại người hiền, cũng như ngửa mặt nhổ bọt lên trời. Bọt chẳng tới trời, trái lại bọt rơi mặt mình. Hay như tung bụi ngược gió, bụi không tới người bị tung, trái lại bụi trở lại tạt vào mình.
Kẻ ác hại người hiền cũng thế, người hiền không bị hại, mà chính kẻ ác tự hại mình trước.
III. Lập tín nguyện
Chương chín
Phật dạy: Kẻ học rộng biết nhiều, nhưng hiểu và tin đạo một cách nông cạn, không thể lãnh ngộ được ý đạo.
Trái lại người biết giữ bền tâm chí, phụng sự đạo một cách chắc chắn, thì lý đạo mới hiểu sâu xa vậy.
IV. Tu lục-độ hạnh
1.Bố-thí độ
Chương mười
Phật dạy: Thấy người ta truyền bá đạo, mình giúp thêm hoan hỷ, sẽ được phúc rất nhiều.
Một vị sa môn hỏi Phật: “Phúc đem chia người khác có hết không?” Phật đáp: “Ví như bó đuốc cháy, hàng trăm, ngàn người cầm đuốc đến, châm lấy lửa đem về nấu thức ăn và đốt đèn sáng, mà lửa ở bó đuốc cháy đầu tiên kia vẫn còn nguyên. Vậy ông nên hiểu, phúc cũng như thế.”
Chương mười một
Phật dạy: Cho 100 người ác ăn, không bằng cho một người thiện ăn. Cho 100 người thiện ăn không bằng cho một người trì năm giới ăn. Cho một vạn người trì năm giới ăn, không bằng cúng dường một vị Tu-Ðà-Hoàn. Cúng dường một trăm vạn vị Tu-Ðà-Hoàn, không bằng cúng dường một vị Tư-Ðà-Hàm. Cúng dường một ngàn vạn vị Tư-Ðà-Hàm, không bằng cúng dường một vị A-Na-Hàm. Cúng dường mười vạn vị A-Na-Hàm, không bằng cúng dường một vị A-La-Hán. Cúng dường một triệu vị A-La-Hán, không bằng cúng dường một vị Bích-Chi Phật. Cúng dường mười triệu vị Bích-Chi Phật, không bằng cúng dường một Ðức Phật trong ba đời. Cúng dường một trăm triệu Ðức Phật, không bằng cúng dường một vị vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng.
Chương mười hai
Phật dạy: Người ta có 20 điều khó làm:
Nghèo khổ biết bố thí là khó.
Giàu sang biết học đạo là khó.
Bỏ mình vì lẽ phải là khó.
Thấy được kinh Phật là khó.
Sanh nhằm đời có Phật là khó.
Nhịn sắc nhịn dục là khó.
Thấy thứ tốt không ham cầu là khó.
Bị nhục không giận tức là khó.
Có thế lực không ỷ là khó.
Gặp việc vô tâm là khó.
Học rộng nghiên cứu nhiều là khó.
Trừ diệt ngã mạn là khó.
Chẳng khinh người chưa học là khó.
Thực hành tâm bình đẳng là khó.
Chẳng nói sự phải quấy là khó.
Gặp được Thiện Tri Thức là khó.
Thấy tánh học đạo là khó.
Tùy duyên hóa độ người là khó.
Thấy cảnh không động tâm là khó.
Khéo biết phương tiện là khó.
2. Trì giới độ
Chương mười ba
Một vị Sa-môn hỏi Phật: “Bạch Thế-tôn, nhờ nhân duyên gì biết được đời trước?”
Ðức Phật dạy: “Tâm thanh tịnh, giữ bền chí, thì tâm lãnh-hội được đạo nhiệm mầu. Ví như lau bụi mặt gương. Bụi hết mặt gương sáng tỏ hiện ra.
Người học đạo cũng vậy, nếu đoạn trừ hết ái-dục, thì sẽ biết được đời trước.”
Chương mười bốn
Một vị Sa-môn hỏi Phật: “Bạch Thế-tôn: thế nào là thiện nhất và lớn nhất?”
Phật dạy: “Hành đạo giữ tâm chân chính là thiện nhất. Chí khí cùng đạo hoà hợp là lớn nhất.”
3. Nhẫn nhục độ
Chương mười lăm
Một vị Sa-môn hỏi Phật: “Bạch Thế-tôn, cái gì mạnh nhất, cái gì sáng nhất?”
Phật dạy: “Tu hạnh nhẫn nhục mạnh nhất, vì tâm không chứa chấp điều ác, nên thân thể được nhẹ nhàng, khỏe mạnh, và được mọi người tôn trọng.
Tâm xấu diệt hết, chút bụi phiền não không còn, gọi là sáng nhất.
Vả lại, sáng nhất có nghĩa là đã được trí hiểu biết hết thảy, cho nên, vạn vật trong mười phương, kể từ khi chưa có trời, đất cho đến ngày nay, đều trông thấy, nghe thấy và hiểu biết khắp tất cả vậy.”
4. Thiền-định độ
Chương mười sáu
Phật dạy: Người ôm ấp tâm ái dục, không thể thấy được đạo, ví như nước đã lắng trong, lại cho tay quấy đục lên. Tuy mọi người đến soi mặt mình, nhưng không thể thấy bóng mình hiện trong đó nữa.
Người tu đạo cũng thế, nếu còn ham mê ái dục thì trong lòng vẫn còn vẩn đục, nên không thấy được đạo chân chính. Các ông là Sa-môn, phải gấp đoạn trừ ngay ái dục. Khi ái dục hết, đạo mới khả dĩ lĩnh ngộ được.
5. Bát-nhã độ
5.1. Trí căn-bản
Chương mười bảy
Phật dạy: Người học đạo thấy rõ đạo, cũng như người cầm đuốc vào trong nhà tối. Bóng tối hết chỉ có ánh sáng còn lại.
Người học đạo, hiểu rõ đạo tức là Vọng-tâm mê mờ hết, chỉ còn toàn ánh sáng Chân-tâm thường trụ.
5.2. Trí hậu đắc
Chương mười tám
Phật dạy: Người học đạo pháp của ta, nhớ mà không chấp nhớ mới gọi là nhớ. Làm mà không chấp làm mới gọi là làm. Nói mà không chấp nói mới gọi là nói. Tu mà không chấp tu mới gọi là tu. Người khéo lĩnh hội thì được gần đạo. Kẻ mê mờ thì cách xa đạo.
Cái đạo lớn không thể lấy lời nói để bàn luận nổi, và cũng không bị vật nào câu thúc được. Nếu có một mảy may sai lầm, thì chỉ bằng nháy mắt sẽ mất hết.
5.3. Gia-hành trí
a. Quán vô thường
Chương mười chín
Phật dạy: Quán sát trời đất là vô thường, quán sát thế giới là vô thường. Quán sát tâm linh giác là Bồ-đề.
Hiểu như thế thời đắc đạo rất chóng vậy.
b. Quán vô ngã như huyễn
Chương hai mươi
Phật dạy: Quán sát bốn đại trong thân nầy, mỗi cái có tên riêng, không có cái nào đáng gọi là ta cả. Cái ta đã không có, thì thân nầy cũng là giả dối.
c. Thông quán ngũ dục
Chương hai mươi mốt
Phật dạy: Người tùy theo thế tình, tham cầu danh vọng. Khi được công danh hiển đạt, thì thân thể đã già yếu. Kẻ tham danh lợi ở đời không biết học đạo, chỉ uổng công nhọc xác.
Ví như cây hương đốt, khi được người ta ngửi thấy mùi thơm, thì thân hương đã hóa thành tro bụi, vì lửa luôn đốt cháy liền thân hương vậy.
Chương hai mươi hai
Phật dạy: Người ham mê tiền tài, sắc đẹp, tất nhiên sẽ bị tai vạ. Tài sắc ví như mật dính lưỡi dao. Mật ngon không đáng một miếng ăn, nhưng trẻ con ngây dại, tham liếm chút mật, nhất định chúng sẽ bị đứt lưỡi.
Chương hai mươi ba
Phật dạy: Người ta thường cho rằng bị giam hãm trong nhà tù là khổ. Nhưng sự khổ ấy chưa bằng nỗi khổ bằng sự ràng buộc bởi gia đình, vợ chồng, con cái. Vì người sống trong nhà tù, còn có thì giờ nhàn rỗi, và có khi được ra. Trái lại người có gia đình lúc nào cũng phải lo nghĩ về việc nhà cửa làm ăn... nên rất khổ.
Do sắc sinh tình, do tình sinh ân ái, canh cánh bên lòng. Mặc dầu có tai nạn phải kề bên miệng hổ, cũng phải cam tâm nhẫn chịu. Người xuống bùn thì phải lấm chân nên gọi là phàm tục. Trái lại người nào vượt ngoài vòng ái dục, gọi là bậc La-Hán xuất trần.
Chương hai mươi bốn
Phật dạy: Người đời có nhiều sự ham muốn, nhưng ham muốn nữ sắc hơn hết, do sắc đẹp sinh lòng ham mến, nên cái ham mến là hơn hết.
May thay, chỉ có một sắc đẹp, chớ có hai thì tất cả mọi người trong thiên hạ không ai tu nổi được.
Chương hai mươi lăm
Phật dạy: Người mê ái dục, cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tức nhiên sẽ bị bỏng tay.
Chương hai mươi sáu
Thiên Thần đưa Ngọc nữ đến chỗ Phật để phá hoại quả tu của Ngài. Ðức Phật nói: “Cái túi da đựng đồ dơ bẩn, lại đây làm gì? Tránh xa đi, ta không thèm đâu”. Thiên Thần thấy Phật nói thế, liền khởi tâm kính cẩn, nhân đấy, ông liền hỏi Phật về ý đạo. Phật bèn giải đáp. Thiên Thần nghe xong, liền được chứng quả Tu-Ðà-Hoàn.
6. Tinh-tấn độ
1a. Mặc áo giáp hạnh tinh-tấn
Chương hai mươi bảy
Phật dạy: Người tu đạo, cũng như cây gỗ trên mặt nước, trôi giữa dòng sông, không chạm hai bên bờ, không bị người ta vớt lấy hoặc bị quỷ thần ngăn cản, hay nước xoáy chìm, cũng không bị mục nát. Ta bảo đảm cây gỗ ấy, chắc chắn trôi thẳng về biển.
Người học đạo cũng thế. Nếu không bị tình dục lôi cuốn, hay tà ma ám ảnh, cứ tinh tiến tu phép vô vi, ta bảo đảm người ấy quyết định đắc đạo vậy.
Chương hai mươi tám
Phật dạy: Các Phật-tử ! Phải cẩn-thận đừng nên gần gũi sắc dục. Gần nó tất nhiên sinh hoạ. Khi đắc quả A-La Hán rồi, mới có thể tin được ý ngươi.
Chương hai mươi chín
Phật dạy: Các Phật-tử, phải cẩn-thận đừng nhìn nữ sắc, cũng chớ nên nói chuyện.
Nếu cùng họ nói chuyện, phải chính-tâm nhớ nghĩ: “Mình là Sa-môn, sống trong cõi đời vẩn đục như hoa sen trong bùn mà không nhiễm chất hôi tanh của bùn. Phải tưởng người già như phụ mẫu. Người lớn hơn như anh chị, người kém tuổi như em, người trẻ tuổi như con. Nên khởi chính-tâm cứu độ cho họ được giải-thoát, để dập tắt những ý-nghĩ xằng bậy.
Chương ba mươi
Phật dạy: Người hành đạo phải tránh xa ái-dục, ví như cỏ khô tránh xa lửa.
Chương ba mươi mốt
Phật dạy: Có kẻ lo sợ khi động tình dâm dục không kìm hãm nổi, muốn tự đoạn âm. Phật liền bảo rằng: “Ðoạn âm không bằng đoạn tâm”.
Tâm như ông tướng chỉ-huy. Nếu tướng đình-chỉ thì quân phải theo lịnh. Tâm cũng như vậy. Nếu tâm nghĩ xằng bậy không ngăn cấm được, thì dù đoạn-âm cũng vô ích.
Phật liền thuật lại bài kệ của Ðức Phật Ca-Diếp như sau: “Do ý ngươi sinh tư tưởng, tư tưởng sinh ái-dục. Nếu trong tâm bình tĩnh thì ngoài thân yên ổn”.
Chương ba mươi hai
Phật dạy: Người ta vì tình yêu, tình dục mà sinh buồn phiền, lo nghĩ. Từ lo nghĩ sinh sợ hãi. Nếu không yêu muốn thì không lo sợ chi cả.
1b. Mặc áo giáp tưởng-tinh-tấn
Chương ba mươi ba
Phật dạy: Người tu đạo như người chiến-sĩ đánh nhau với quân địch. Khi người ấy mặc áo giáp ra trận, hoặc hèn nhát nửa đường rút lui, hoặc giao chiến mà chết, hay đánh được khải-hoàn.
Sa-Môn học đạo cũng thế. Phải vững chí, tinh tiến, quả cảm, hùng dũng trước nguy hiểm. Quyết tiêu-diệt ma quân để chiếm lấy đạo-quả.
2. Tiếp-thiện tinh-tấn
Chương ba mươi bốn
Một vị Sa-môn đêm đêm tụng kinh Di-Giáo của Phật Ca-Diếp. Tụng lâu tiếng khàn đục, rồi suy nghĩ hối hận muốn thôi.
Phật bèn hỏi: “Ngày trước ông ở nhà làm nghề nghiệp gì?” Vị ấy đáp: “Con thích đánh đàn”. Phật lại hỏi: “Cây đàn dây chùng thế nào?” Vị ấy thưa rằng: “Tiếng nó không kêu”. Phật lại hỏi: “Dây đàn lên găng thế nào?” Vị ấy thưa: “Tiếng gay gắt và sẽ đứt”.
Phật lại hỏi: “Dây đàn vừa phải, không căng, không chùng thế nào?” Vị ấy thưa: “Tiếng nó dịu dàng, êm ái, nghe rất vui tai.”
Phật dạy tiếp: “Sa-môn các ông học đạo cũng như cây đàn. Phải giữ mực điều-hoà thì đạo mới thắng. Nếu hành đạo quá sức thì thân mỏi mệt, thân nếu mỏi mệt thì ý sanh phiền não, ý sanh phiền não thì thoái đạo. Thoái đạo thì tội lỗi sinh. Nếu tâm an-tịnh giữ mực trung bình, thì đạo không bao giờ mất vậy.
Chương ba mươi lăm
Phật dạy: Người thợ rèn sắt trừ hết sét rỉ, thì sắt mới trở nên đồ dùng tốt. Người học đạo cũng thế, phải trừ hết tâm nhơ bẩn thì đạo hạnh mới trở nên trong sạch vậy.
3. Lợi lạc tinh-tấn
Chương ba mươi sáu
Phật dạy: Kẻ đã xa lìa được con đường ác, được sinh làm thân người là việc khó. Ðược sinh làm người, lại được được sinh làm đàn ông là khó. Ðược sinh làm đàn ông có sáu căn đầy đủ là khó. Ðược sáu căn đầy đủ, lại được ở giữa cõi người trần là khó. Ðược gặp Phật ra đời là khó. Ðược gặp Phật ra đời lại được gặp đạo là khó. Ðược gặp đạo lại khởi lòng tin kính là khó. Ðã khởi lòng tin đạo lại phát tâm Bồ-đề là khó. Ðã phát tâm Bồ-đề lại tu chứng đến quả-vị không còn phải tu chứng lại là việc khó hơn hết.
V. Minh cấp giới thặng
Chương ba mươi bảy
Phật dạy: Người nào tuy cách xa ta hàng ngàn dặm, nhưng luôn luôn tuân theo giới luật của ta, tất nhiên sẽ được chứng quả. Trái lại, những người dù thân cận bên ta, hàng ngày trông thấy ta mà không chịu noi theo ta, theo những điều ta giảng dạy, thì không bao giờ được chứng đạo quả.
Chương ba mươi tám
Phật hỏi một vị sa môn: “Mệnh người ta sống độ bao lâu?” Vị Sa-môn thưa: “Trong khoảng vài ngày.” Phật bảo: “Ông chưa biết đạo”. Phật lại hỏi vị Sa-môn khác: “Mệnh người ta sống độ bao lâu?” Thưa rằng: “Trong khoảng bữa ăn.” Phật bảo: “Ông cũng chưa biết đạo.” Phật lại hỏi vị Sa-môn khác nữa: “Mệnh người ta sống được bao lâu?” Thưa rằng: “Trong khoảng còn hít thở”. Phật bảo: “Hay lắm! Hay lắm! ông hiểu đạo vậy.”
TÍN GIÁO – GIẢI LÝ – TU HÀNH
I. Tín giáo
Chương ba mươi chín
Phật dạy: Người học đạo nên tin theo những điều giáo-hoá của Phật.
Kinh sách của ta, cũng như ăn mật ở bát, ở giữa hay ở chung quanh bát đều ngọt cả.
II. Giải lý
Chương bốn mươi
Phật dạy: Sa-môn hành đạo, đừng như trâu kéo mật, thân tuy thành đạo, mà tâm không hành đạo thì có ích gì? Nếu tâm hành đạo thì thân khỏi phải hành đạo.
III. Tu hành
Chương bốn mươi mốt
Phật dạy: Người hành đạo như trâu chở nặng, đi vào bùn lầy, tuy mỏi mệt, nhưng không dám quay trở lại, trông sang bên phải, bên trái. Chỉ khi nào ra khỏi đám bùn ấy, mới được nghỉ ngơi.
Sa-môn cũng vậy, phải đề phòng tình dục tệ hại hơn bùn lầy. Phải nhất tâm suy nghĩ về đạo, mới có thể thoát khỏi khổ não.
PHẦN KẾT LUẬN
Chương bốn mươi hai
Phật dạy: Ta coi ngôi vua, quan như bụi qua kẽ hở, coi vàng ngọc như ngói sỏi, coi nhung lụa gấm vóc như vải thô, coi đại-thiên giới như hạt cải, coi nước.
TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Khi ngài Quán Tự Tại Bồ tát thực hành sâu xa pháp Bát nhã ba la mật đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
Này ông Xá lỵ Tử ! Sắc chẵng khác Không, Không chẵng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thụ, Tưỡng, Hành, Thức cũng đều như thế.
Này ông Xá lỵ Tử ! Tướng Không của mọi pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt.
Cho nên trong “Chân Không ” không có Sắc, không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc.
Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ tát y theo Bát nhã ba la mật đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết bàn.
Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát nhã ba la mật đa, được đạo quả vô thượng chánh đẵng chánh giác.
Cho nên biết Bát nhã ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thực không hư.
Vì vậy nói ra bài chú Bát nhã ba la mật đa, liền nói bài chú ấy rằng:
“Yết đế, yết đế, Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha”.
NIỆM PHẬT
Thân Phật thanh tịnh tựu lưu ly.
Trí Phật sáng ngời như trăng sáng
Phật ở thế gian thường cứu khổ.
Tâm Phật không đâu không từ bi.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (10 lần)
Nam mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật (10 lần)
Nam mô Cực Lạc Giáo Chủ A Di Đà Phật (10 lần)
Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Phật (10 lần)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (3 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)
CHÚC NGUYỆN
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
Đêm ngày sáu thời thường an lành,
Tất cả các thời đều an lành,
Xin nguyện Từ bi thường gia hộ.
HỒI HƯỚNG
Công đức tụng kinh khó nghĩ lường,
Vô biên thắng phước đều hồi hướng.
Khắp nguyện chúng sinh trong pháp giới,
Đều được vãng sinh về cực lạc.
Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não,
Nguyện chân trí tuệ thường sáng tỏ,
Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,
Kiếp kiếp thường tu Bồ tát đạo.
Nguyện sinh Cực lạc cảnh phương Tây,
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ.
Hoa nở thấy Phật chứng vô sinh,
Bồ tát bất thoái là bạn hữu.
PHỤC NGUYỆN
Kính mong:
Phật nhật tỏ thêm, pháp luân quay mãi,
Mây từ rợp khắp, nguổn đạo dài lâu,
Quốc gia hưng vượng, dân chúng an hòa,
Thế giới thanh bình, chúng sinh hoan lạc.
Cúi xin:
Công đức trì chú, niệm Phật, tụng kinh hồi hướng Tây Phương, trang nghiêm Tịnh độ. Báo bốn trọng ân, giúp ba đường khổ. Hiện tiền tứ chúng, tăng trưởng thắng nhân. Quá vãng chân linh, siêu sinh lạc quốc. Âm dương đều lợi, ba cõi cùng nhờ, pháp giới chúng sinh đồng thành Phật đạo.
(đại chúng cùng đọc)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tử và chúng sinh,
Đều trọn thành Phật đạo.
ẤN TỐNG
Hiệu Pháp Lạc Huệ
Hiệu Phúc Quốc
Hiệu Phúc Viên
Hiệu Diệu Độ
Hiệu Phúc Quang
Tự Phúc Viên
Hiệu Diệu Lễ
Hiệu Diệu Hạnh
Tự Phúc Thông
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top