Từ ấy - Tố Hữu.
Tố Hữu là nhà thơ cách mạng lớn nhất Việt Nam trong thế kỉ XX, lý tưởng đấu tranh cách mạng đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận trong sáng tác của ông. Tập thơ "Từ ấy" (1937 – 1946) có thể coi là tập thơ đầu tay đánh dấu mối duyên đầu của Tố hữu với thơ ca cách mạng. Bài thơ Từ ấy được nằm ở phần đầu của tập thơ, là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Tác phẩm là cái tôi trữ tình tràn đầy niềm vui sướng hân hoan khi lần đầu tiên giác ngộ ánh sáng lý tưởng của Đảng. Cảm xúc ấy được nhà thơ ghi lại bằng những vần thơ tự sự trữ tình tràn đầy niềm vui và ánh sáng, sự giác ngộ đến chuyển biến về nhận thức của người thanh niên cộng sản.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Tôi bược lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gắn kết nhau thêm mạnh khối đời.
Trước khi đến với ánh sáng của cách mạng, Tố hữu cũng như bao thanh niên khác cùng thời không tìm thấy lối đi cho mình. Đó là những tháng ngày mà Tố Hữu đã từng viết:
"Đâu những ngày xưa tôi thấy tôi
Băn khoan đi tìm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn bước than ôi bức chẳng rời."
Ánh sáng của Đảng như nguồn sáng diệu kỳ làm bừng sáng âm hồn thi nhân:
"Từ vô vọng, mênh mông đêm tối
Người đã đến. Chói chang nắng dội
Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi. hạnh phúc biết bao nhiêu!"
Tháng 7/1938, Tố hữu được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng. Phút giây ấy đã làm thăng hoa cuộc đời của nhà thơ. Từ ấy và đặc biệt là 2 khổ thơ đầu đã thể hiện niềm vui và mối duyên đầu của người thanh niên trẻ khi đến với cách mạng. Đồng thời là cột mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển biến trong đường đời, đường thơ của Tố Hữu.
Đoạn thơ mở đầu bằng lời tự sự diễn tả niềm vui sướng, niềm hạnh phúc tột đỉnh và sự say mê khi bắt gặp lý tưởng của Đảng, của cái tôi trẻ trung tràn đầy nhiệt huyết. Đảng như vầng dương sáng soi cuộc đời thi nhân:
"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim."
"Từ ấy" không chỉ có ý nghĩa nhấn mạnh mốc thời gian tháng 7 năm 1938 - cái mốc thời gian đặc biệt quan trọng trong cuộc đời của Tố Hữu, đó là khi ông được bước vào hàng ngũ Đảng - mà còn nhấn mạnh mốc son đáng nhớ trong tâm hồn chàng thanh niên tuổi mười tám. Nhà thơ diễn tả ánh sáng của Đảng bằng một hình ảnh thơ rất chói chang, ấm nóng: "bừng nắng hạ". Từ "bừng" chỉ ánh sáng phát ra đột ngột: bừng sáng, bừng ngộ, bừng tỉnh. "Nắng hạ" là ánh nắng chói chang, ấm nóng, mạnh mẽ. Ánh sáng ấy đánh thức một tâm hồn đang lạc lối, dẫn nhà thơ vượt qua u tối để vươn tới ngày mới. Hình ảnh "nắng hạ" kết hợp với động từ mạnh "bừng" cùng nghệ thuật ẩn dụ đã khẳng định được lý tưởng cách mạng tác động vô cùng mạnh mẽ đến tâm hồn của nhà thơ. Lí tưởng của Đảng – "mặt trời chân lí" đã xua tan màn đêm tăm tối, mở ra một chân trời hoàn toàn mới. Đây là một hình ảnh độc đáo, bất ngờ, táo bạo giàu ý nghĩa thẩm mỹ mà cũng rất chính xác, gợi cảm. Hình ảnh "mặt trời chân lý chói qua tim" đã diễn tả được niềm vui rất đỗi thiêng liêng, có cái gì đó gần như "choáng váng" – chữ dùng của Hoài Thanh – và sức xuyên tháy kì diệu, mạnh mẽ của lí tưởng Đảng đối với tình cảm, nhận thức của thi sĩ. Với giọng thơ trữ tình, đằm thắm, tha thiết, niềm vui đến với lí tưởng được diễn tả không trừu tượng mà là trong những hình tượng đẹp và gợi cảm.
"Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn ràng tiếng chim.."
Hai câu thơ sau tác giả đã sử dụng bút pháp trữ tình lãng mạng cùng với nhiều hình ảnh so sánh có tính chất chẳng định: Tố Hữu dùng từ "là" chứ không dùng "như". Tác giả đã bày tỏ được niềm hạnh phúc vô biên, sức sống kì diệu của tâm hồn mình trong buổi đầu tiên đến với lí tưởng Đảng. Các tính từ chỉ mức độ như "đậm", "rộn" đã nói hộ nhà thơ về niềm vui sướng của chính bản thân mình. Những vận động vui tươi tràn ngập trong tâm hồn của thanh niên trẻ, niềm háo hức khi được đón nhận lí tưởng cách mạng được so sánh với âm thanh và hình ảnh lấy từ thiên nhiên tạo vật :"Vườn hoa lá" và "rộn tiếng chim". Một vườn hoa tràn đầy âm thanh sức sống khi được đón nhận ánh mặt trời của chân lí, đón nhận một con đường thênh thang tươi sáng cho cuộc đời, cho hồn thơ: một cuộc đời có ý nghĩa thiêng liêng, to lớn, một hồn thơ bát ngát tình yêu cách mạng, yêu đồng bào. Nếu như trước đó, tâm hồn thi sĩ là một khu vườn đông với cành khô lá úa thì giờ đây, khi được gặp gỡ lí tưởng cách mạng, bỗng chốc tâm hồn đó trở thành một khu vườn mùa hạ xanh tươi, ngập tràn ánh nắng mặt trời, nồng nàn, rộn rã tiếng chim ca và ngạt ngào hương sắc: "rất đậm hương và rộn tiếng chim".
Khổ hai của tác phẩm là khổ thơ biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái tôi trữ tình. Từ sự giác ngộ trong lý tưởng cách mạng đến sự hình thành nên tư tưởng lớn trong tâm hồn của nhà thơ:
"Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời."
Giác ngộ lý tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ sống đối với người cộng sản, nhà thơ chủ động, tự giác hòa "cái tôi" với "cái ta" chung của mọi người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ những người lao khổ. Chỉ với bốn dòng thơ, Tố Hữu đã cho độc giả thấy được cái tôi cá nhân cùng cái ta rộng lớn. "Tôi buộc lòng tôi với mọi người", câu thơ mang đầy sự chủ động ấy đã thể hiện được một trái tim giàu tình cảm, vì nhân, vì dân.
Động từ "buộc" thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm sắt đá của tố hữu để vượt qua "ranh giới" của "cái tôi" để sống chan hòa với "mọi người", với "trăm nơi". Cụm từ "để tình trang trải" thể hiện tâm hồn nhà thơ như muốn trải rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi cảnh ngộ của những cuộc đời cần lao. Đây là điều khác biệt của Tố Hữu với các nhà thơ Mới đương thời, trong khi ông giác ngộ cách mạng và đi theo con đường lý tưởng thì các nhà thơ mới lại đang đau buồn với cái tô bé nhỏ, cô đơn, chôn chặt niềm đau trong vần thơ bi lụy. Nhận thức mới của Tố Hữu cũng thật khác xa với nhân vật Hạ Du ("Thuốc" – Lỗ Tấn). Nếu Hạ Du xa rời quần chúng nhân dân để rồi ôm nỗi đau bi kịch của người cách mạng thì Tố Hữu lại biết đứng về nhân dân lao khổ và giác ngộ trong hàng ngũ ấy. Hai câu sau: "đẻ hồn tôi với bao hồn khổ; gần gũi nhau thêm mạnh khối đời" đã khẳng định tình cảm hữu ái giai cấp của Tố Hữu. Tâm hồn của thi sĩ từ đây sẽ nghiêng về phía "bao hồn khổ" để cảm thông, chia sẻ, để cá nhân hòa vào tập thể, tạo nên một bức tranh quần chúng đông đảo, vĩ đại.
Bốn câu thơ tuy thể hiện cái tôi cá nhân, thế nhưng lại không hề cô lập, riêng lẻ, mà cái tôi hòa nhập, gắn kết với mọi người. Sự gắn kết ấy đã được khẳng định bởi tác giả bằng một loạt các động từ: "với mọi người", "với trăm nơi", với "bao hồn khổ". Gắn kết để sẻ chia, tạo nên sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc. Ở đây, tình yêu thương con người không mang tính chung chung mà là tình cảm cụ thể, là sự quan tâm, gắn bó chân thành đối với quần chúng lao khổ.
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ..
Khổ thơ cuối cùng khép lại bởi sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của thi nhân. Là sự hóa thân của cái Tôi vào cái Ta chung của "kiếp phôi pha". Tố Hữu khẳng định sự chuyển biến tình cảm của mình. Ông tự nhận mình là một thành viên thân thiết ruột thịt trong đại gia đình quần chúng bị áp bức, đau khổ trong xã hội cũ. Nhà thơ nhận mình là "con của vạn nhà" là em của "vạn kiếp phôi pha" còn là anh của "vạn đầu em nhỏ" "cù bất cù bơ". Các điệp từ "là" cùng với các từ "con", "em", "anh" đã khẳng định được tình cảm dạt dào của Tố Hữu đối với nhân dân đói khổ. Từ "là" được lặp lại nhiều lần cùng con số ước lệ "vạn", nhấn mạnh mối quan hệ hiển nhiên giữa bản thân và đại gia đình quần chúng nhân dân, gắn bó với họ, cùng san sẻ, gánh vác khổ đau. Chính vì những người anh phải sống "kiếp phôi pha", những người em "cù bất cù bơ" ấy mà người thanh niên cộng sản Tố Hữu say mê hoạt động cách mạng, và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yêu của nhà thơ. Không phải ngâu nhiên mà từ đây, Tố Hữu đã bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với những "em bé mồ côi", "chị vú em" hay "cô gái giang hồ".. – những con người mà tá giả cho đó là "những tù nhân khốn nạn của bần cùng".
Ngòi bút tinh tế, dùng hình tượng thơ táo bạo, chói sáng, giàu khát vọng lãng mạng, bay bổng, say mê. Câu thơ mạnh, cảm xúc thơ tràn đầy. Nhịp điệu thơ biến đổi sinh động, hăm hở, dồn dập say sưa, lôi cuốn cùng các biện pháp tu từ sử dụng nhuần nhuyễn như điệp từ, so sánh, ẩn dụ.. tất cả đã góp phần không nhỏ để làm nên một bài thơ hay và lôi cuốn người đọc. Bài thơ là cái tôi tràn đầy cảm xúc. Đó là cái tôi lần đầu được giác ngộ lý tưởng và nguyện đem tất cả tinh thần lẫn tuổi trẻ của mình phụng sự cho lý tưởng cao cả ấy. Tác phẩm cũng là tuyên ngôn nghệ thuật mang đậm phong cách thơ của Tố Hữu; là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top