Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử.
Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Ông là hiện tượng thơ kì lạ và bậc nhất của phong trào Thơ mới, với cuộc đời nhiều bi thương nhưng là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất "như ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời văn học Việt Nam với cái đuôi rực rỡ, chói lòa" (CLV). ĐTVD là một trong những bài thơ tình hay nhất của HMT. Bài thơ thể hiện một tình yêu thiết tha, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa vào lòng người, cái thực và cái mộng, huyền ảo và cụ thể hòa vào nhau. Hai khổ thơ đầu là bức tranh ban mai thôn Vĩ và cảnh sông nước đêm trăng; niềm đau cô lẻ của một hồn thơ thiết tha yêu đời, yêu người.
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách .. đậm đà"
Được viết năm 1938, trong những ngày tháng vật lộn với căn bệnh hiểm nghèo tại trại phong, tác giả nhận được tấm bưu ảnh về phong cảnh xứ Huế có sông nước, có thuyền, có trăng, có mặt trời cùng những hàng cau kèm theo những dòng thư hỏi thăm. Xúc động, bồi hồi trước tấm lòng cố nhân, HMT đã sáng tác bài thơ này.
Mở đầu bài thơ là câu hỏi ngỏ, rất đỗi dịu dàng, rất "Huế".
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ"
Câu hỏi có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu của lời thơ vô cùng dịu nhẹ. Sự dịu nhẹ này chứa đựng nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi. Bởi chủ thể "anh" trong câu thơ mà đã có nhiều ý kiến cho rằng đó là lời của người thiếu nữ nơi xứ Huế - Kim Cúc – là người con gái mà tác giả thầm thương. Câu hỏi như một lời trách móc, hờn dỗi rất đỗi nhẹ nhàng và duyên dáng của người con gái ấy. Nhưng rồi nhìn ở góc độ khác, có lẽ rằng câu hỏi này lại là lời mà chính tác giả đang tự vấn lòng mình, tự trách sao cảnh huế đẹp như vậy mà anh không về chơi. Đó là một câu hỏi lớn, nỗi đau khắc khoải, bây giờ đây về lại Huế đã trở thành niềm khao khát của HMT. Bởi lẽ khi sáng tác bài thơ này, nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của bệnh phong, vậy nên ông chỉ có thể quay về thôn Vĩ trong tâm tưởng. Hai chữ "về chơi" đã khiến Vĩ Dạ trở thành một chốn thân thương với nhà thơ, là nơi mà ông gắn bó bằng cả tâm hồn mình. Câu thơ đa thanh nhưng chiều sâu là tiếng lòng của Hàn Mặc Tử, là ước ao thầm kín, là niềm khao khát được trở về thôn Vĩ, được thăm lại cảnh cũ, người xưa.
Ngay cả khi tác giả không thể quay trở về thôn Vĩ, không thể trực tiếp đón nhận vẻ đẹp phong cảnh nơi đây. Thì thôn Vĩ trong tâm tưởng của tác giả vẫn luôn đẹp lung linh:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền."
Nhắc đến thôn Vĩ Dạ, hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ là những "hàng cau". Điệp từ "nắng" gợi ra bức tranh thơ lãng mạn về vườn quê xứ Huế và nối kết hai hình ảnh "nắng hàng cau", "nắng mới lên" làm cho "nắng" và "cau" đan cài, hòa quyện vào nhau trong sức "mới", toát lên cái nồng nàn, mỡ màng của sự sống, gợi lên vẻ tinh khôi, thanh khiết và thanh thoát. "nắng mới lên" không chỉ gợi lên cảm giác trong trẻo mới mẻ, tươi tắn mà còn mở ra một không gian, thời gian thôn Vĩ trong buổi sớm mai – thời điểm bắt đầu của vạn vật.
Cảnh trong thơ HMT hiện lên với vẻ đẹp của mảnh vườn tràn đầy nhựa sống: "vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Đại từ "ai" phiếm chỉ, không xác định nhưng lại khiến cho độc giả ngầm hiểu rằng đó là khu vườn của cô gái Huế. Khu vườn đầy những cỏ cây xanh "mướt". Chỉ một từ "mướt" thôi mà khiến cho người đọc cảm thấy có cả một khu vườn tươi tốt, mơn mởn hiện ra trước mắt. Thêm vào đó, phép so sánh "xanh như ngọc" cũng đã gợi cho độc giả thấy được sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một sắc màu cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Với nhịp thơ uyển chuyển kết hợp vói từ ngữ mang tính hình tượng cao, cảnh vật nơi dây như càng thêm huyền bí và đẹp đẽ. Vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu của khu vườn xanh mướt, tất cả mọi thứ đều tràn đầy nhựa sống.
Trong cảm xúc bất tận, xao xuyến về khung cảnh thôn Vĩ, hình ảnh con người thấp thoáng sau khóm trúc hiện lên thật đặc biệt: "Lá trúc chen ngang mặt chữ điền". Khi đọc câu thơ, một khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu chính xác là những gì hiện ra trong tâm tưởng của mỗi độc giả. Phải chăng đây chính là bóng dáng của người con gái Hàn Mặc Tử vẫn thầm thương? Dáng vẻ xa xôi, bị cách trở bởi hàng trúc nhưng lại mang đến những xuyến xao da diết cho người nhìn. Đến đây, cảnh và người đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong trẻo. Tóm lại, bằng những chi tiết quen thuộc bình dị mà không kém phần độc đáo gợi cảm, HMT đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ - Huế tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh với người. Đoan thơ cũng đã làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương, làng mạc VN thân yêu muôn đời.
Bước sang khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử lại cho độc giả thấy được một nét khác của Huế, phong cảnh không gian của Vĩ Dạ không còn tĩnh lặng mà có cả sự vận động, chuyển biến. Nếu như tác giả nhìn cảnh vật bằng sự lạc quan yêu đời ở khổ thơ thứ nhất, thì đến đây tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc mặc cảm chia lìa hiện ra rõ nét dưới từng câu chữ.
"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay."
Gió thổi mây bay theo quy luật tự nhiên, thường là một chiều nhưng ở đây là đôi đường đứt gãy. Gió đóng khung trong gió, mây cuộn trong mây. Điệp từ "gió" và "mây" cũng đã tô đậm ý thơ ấy. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã viết "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Tới đây, cảnh vật cũng như đang nhuốm màu buồn của sự chia ly. Nhịp ¾, nhịp thơ cắt đôi tựa như sự chia rẽm chia phôi ngang trái. Mỗi đối tượng bị cách li trong một khuôn nhịp riêng biệt – "gió theo lối gió", "mây đường mây" – làm nổ bật sự chia lìa nhau. hình ảnh "dòng nước buồn thiu" lặng im trôi và "hoa bắp lat| cũng không còn là hình ảnh thực mà nó đã nhuốm màu tâm trạng, mang hòn người. cảnh có sự lay động nhưng là sự lay động khẽ khàng, vật vờ, hiu hắt của hoa bắp chỉ làm tăng thêm sự tĩnh lặng, buồn vắng trong cảnh. Và đó cũng là cảm giác cô đơn, vắng lặng, buồn hiu hắt trong lòng thi sĩ. Hai câu thơ không chỉ nhằm tả cảnh, tả tình trong cảnh mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm ả, lững lờ, cái nét trầm tư không nơi nào có được của Huế đẹp và thơ.
Mạch thơ đã vận động từ ngoại cảnh vào tâm cảnh. Bức tranh sông nước, bờ bãi như trải dài và thấm sâu một nỗi buồn li biệt. Tới hai cau thơ sau, mạch thơ đã chuyển hẳn một thế giới thôn Vĩ thực tràn đầy ánh nắng sang một thế giới mộng thấm đãm ánh trăng ở khổ hai:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có trở trăng về kịp tối nay?"
Thơ HMT ngày là cõi nắng, đêm là cõi trăng. HMT rất mê trăng. Trăng đã đi vào thơ ông như một nhân vật huyền thoại, một nơi chốn để tâm hồn thi nhân được phiêu diêu, thoát tục. Không ai viết nhiều và viết hay về trăng như HMT:
"không gian đắm đuối toàn trăng cả
Anh cũng trăng mà em cũng trăng."
Trăng dưới ngòi bút tài hoa của thi nhân bông trở nên huyền ảo, tạo nên không gian nửa thực nửa hư như trong cõi mộng. Bởi chỉ có mộng thì sông mới là "sông trăng" và chỉ có mộng thì thuyền mới trở đầy trăng. Với HMT lúc đó, trăng có ý nghĩa như một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm tri kỉ giờ chỉ còn là nỗi ước ao, là sự khát khao gặp gỡ và nối niềm lo âu về sự muộn màng, dang dở. Nó đã trở thành một nỗi ám ảnh da diết. Cho nên, lời thơ của HMT cất lên như một câu hỏi đau đáu một nối niềm day dứt với một chứ "kịp" đầy phấp phỏng: "Có trở trăng về kịp tối nay?". Đồng thời, lời thơ cũng hé mở cho người đọc về cảm nhận và tâm thế sống của tác giả: Cảm nhận về một hiện tại ngắn ngủi, không thể thực hiện đực ước mơ của một người đang bệnh hoạn, cô đơn; Một tâm thế sống là phải chạy đua với thời gian, tranh thủ từng ngày, từng từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của số phận mình để níu giữ, để vươn tới những gì là hạnh phúc.
Hồn thơ có lẽ vì thế mà khắc khoải, hoài nghi theo lối nói phiếm chỉ "thuyền ai" trong câu hỏi tu từ. Thuyền ai là thuyền của người nào? Câu hỏi với bao niềm mong đợi, bồn chồn, tạo mối thương tâm, xót xa cho người đọc. "Có trở trăng về kịp tối nay?" là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, một mong ước và một nỗi lo sợ. Một niềm hi vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. HMT cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vật mà người đọc càng thấy hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đâug, càng đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.
Từ thế giới cõi mộng, sang đến khổ thơ thứ 3, thi nhân đã đưa ta tới thế giới cõi hư. Đó là thế giới mang vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và chất chứa tình đờim tình người thiết tha, nhưng xa xăm vô vọng của nhà thơ.
"mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng qua nhìn không ra
Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ "khách đường xa" được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng khắc khoải chờ đợi và niềm khát khao mãnh liệt. Từ "mơ" nằm đầu câu đã thể hiện rõ tâm trạng mong chờ ấy của thi nhân. "mơ" chứ không phải là "mong", vì không mong được nên mơ, vì có lẽ sống trong mơ có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn. "khách đường xa" ở đây phải chăng chính là cô gái Huế, và khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng – màu tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng, tinh khôi của người con gái huế, nhất là Hoàng Cúc, từng là nữ sinh trường Đồng Khánh. Trong sự đa nghĩa của câu thơ, màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở đây vượt lên trên mức binfht hường nên đã hóa thành màu áo của ảo ảnh và chính vì nhìn vào ảo ảnh nên hình bóng của giai nhân cứ mờ nhòe, hư ảo. Ở đây sương khói mờ nhân ảnh "Ở đây" - ở nơi nhà thơ chữa bệnh – nơi mà HMT luôn xem là lãnh cung giam lỏng trong lòng mình. "Ở đây" và "ngoài kia" có xa xôi mấy đâu, ấy vậy mà một lần trở lại nơi chốn cũ lại là điều không tưởng. Bởi vậy mà câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào huế - nơi có gian nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói sương của kỉ niệm. Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng "Ai biết tình ai có đậm đà?". Đây là sự hoài nghi của một người yêu đời tha thiết. Nhà thơ trong trạng thái bị dày vofg vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào trống trải. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn mang theo nỗi buồn vô vọng và những uẩn khúc của HMT – một tâm hồn đau thương chới với, bất lực trong mặc cảm chia lìa nhưng cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.
Cuộc đời HMT ngắn ngủi và đau thương, hồn thơ ông chất chứa nhiều nỗi khát vọng về tình yêu, về cuộc sống, nhưng ẩn chứa sau đó là những nỗi xót xa, đau đớn đến cùng cực. Chính điều đó đã làm nên một chất thơ vừa thơ mộng, trong trẻo đến vô ngần, lại cũng cực kỳ phức tạp khi thường xuyên thấy sự xuất hiện của những yếu tố kỳ dị, liêu trai, điên cuồng. Các hình ảnh biểu hiện nội tâm có sự hòa quyện giữa thực và ảo cùng các bút pháp nghệ thuật, ngôn ngữ thơ tinh tế giàu liên tưởng. Giọng điệu chi phối bởi cảm xúc cụ thể mỗi khổ, khi thiết tha say đắm, khi chậm rãi, u hoài, khi khắc khoải da diết đã góp phần không nhỏ tạo nên sự thành công của tác phẩm.
Với Đây thôn Vĩ Dạ, bằng tài năng và thế giới tình cảm dạt dào của người thi sĩ, ta không chỉ cảm nhận được khát khao được sống, khát khao giao hòa, gắn bó với cuộc đời mà còn xót xa, đồng cảm với số phận của người thi sĩ tài hoa mà bạc mệnh. Cuộc đời riêng nhiều đau khổ khiến Hàn Mặc Tử không thể hòa nhập với cuộc đời, ông chỉ lặng lẽ thể hiện tình yêu qua thế giới mộng tưởng của bản thân nhưng cuối cùng người thi sĩ ấy vẫn phải trở về thực tại đơn độc, lạnh lẽo, một mình chống chọi với những tai ương, bất hạnh.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top