CHƯƠNG 5. HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

CHƯƠNG 5. HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

          Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự phát triển cao của sản xuất hàng hóa không chỉ về lượng, mà còn về chất so với các phương thức sản xuất trước đó; ngoài lượng hàng hóa khổng lồ mà nó tạo ra, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa còn làm xuất hiện loại hàng hóa mới- đó là hàng hóa sức lao động. Và khi sức lao động trở thành hàng hóa thì tiền tệ mang hình thái tư bản và gắn liền với đó là sự xuất hiện quan hệ giữa nhà tư bản và người công nhân làm thuê. Bản chất mối quan hệ này thể hiện ở chỗ nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do người công nhân làm thuê tạo ra. Giá trị thặng dư là nguồn gốc hình thành thu nhập của nhà tư bản và tập đoàn trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trọng tâm học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác- một trong những phát minh vĩ đại nhất của chủ nghĩa Mác- xoay quanh vấn đề “hòn đá tảng” này trong học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

I. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA TIỀN TỆ THÀNH TƯ BẢN

1. Công thức chung của tư bản

Tiền là vật phẩm cuối cùng trong lưu thông hàng hoá, đồng thời cũng là hỡnh thức biểu hiện đầu tiên của tư bản. Lúc đầu, mọi tư bản đều biểu hiện dưới hỡnh thức một số tiền nhất định; tuy nhiên bản thân tiền không phải là tư bản, mà chỉ trở thành tư bản khi được sử dụng để bóc lột sức lao động của người khác.

Sự vận động của tiền thông thường (tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn H-T-H (hàng-tiền-hàng) và tiền là tư bản (tiền trong lưu thông tư bản T-H-T’ (tiền-hàng-tiền). Giữa hai hỡnh thức vận động trờn của tiền a) cú sự giống nhau về hỡnh thức vỡ trong chỳng đều có sự đối lập giữa mua và bán; tiền và hàng; người mua và người bán. b) có sự khác nhau về chất. Nếu trong lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu bằng việc bán (H-T) rồi kết thỳc ở việc mua (T-H) tạo ra vai trũ trung gian của tiền (bởi trong lưu thông này, mục đích cuối cùng của lưu thụng là giỏ trị sử dụng của hàng húa); thỡ trong lưu thông hàng hóa tư bản bắt đầu từ việc mua (T-H) rồi kết thúc ở việc bán (H-T) tạo ra vai trũ trung gian của hàng (bởi trong lưu thông này, mục đích cuối cùng là giá trị, là giá trị lớn hơn giá trị khi mua vào để bán).

Tiền trong lưu thông tư bản vận động theo công thức T-H-T’, trong đó T’=T+ ∆t (∆t là số tiền trội hơn T, được gọi là giá trị thặng dư và kí hiệu là m). Số tiền ứng ra ban đầu với mục đích thu được giá trị thặng dư trở thành tư bản. Như vậy, tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Công thức T-H-T’ với T’= T+m được coi là công thức chung của tư bản. Mọi tư bản đều vận động theo công thức (quy luật) này, với mục đích cuối cùng là đem lại giá trị thặng dư.

Như vậy, tư bản là tiền tự lớn lên hay giá trị sinh ra giá trị thặng dư hay nói cách khác, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư, mục đích lưu thông tư bản là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư nên sự vận động của tư bản là không có giới hạn do sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.

2. Mâu thuẫn của công thức chung

Bản chất của công thức chung của tư bản T-H-T’ là giá trị sinh ra giá trị thặng dư; nhưng giá trị thặng dư (m) do đâu mà có, liệu lưu thụng hàng hoỏ cú làm cho tiền sinh ra và kộo theo việc hỡnh thành giỏ trị thặng dư (m)?

- Xét các trường hợp trong lưu thông có sinh ra giá trị thặng dư (m) không? a) Trong trường hợp trao đổi ngang giá, chỉ có sự thay đổi hỡnh thỏi của giỏ trị, từ tiền thành hàng hoặc từ hàng thành tiền, tổng giỏ trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi trước sau vẫn không thay đổi. b) Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, hàng hoá có thể bán cao hơn hoặc thấp hơn giá trị. Nhưng, trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi người sản xuất đều vừa là người bán, vừa là người mua. Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù cho cái thiệt khi mua và ngược lại. Cho dù có người chuyên mua rẻ, bán đắt thỡ tổng giỏ trị toàn xó hội cũng khụng hề tăng lên, bởi vỡ số giỏ trị mà người này thu được chẳng qua cũng chỉ là sự ăn chặn số giá trị của người khác mà thôi. Như vậy, lưu thông và bản thân tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị.

- Xét trường hợp ngoài lưu thông có sinh ra giá trị thặng dư (m) không? Câu trả lời là không, bởi khi người có tiền trong tay không tiếp xúc với lưu thông, đứng ngoài lưu thụng thỡ khụng thể làm cho số tiền của mỡnh lớn lờn được. “Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông”[1]. Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản, C.Mác là người đầu tiên phân tích và giải quyết mâu thuẫn đó bằng lý luận về hàng hoỏ sức lao động.

3. Hàng hoá sức lao động và tiền công trong chủ nghĩa tư bản

a. Hàng hoá sức lao động

- Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản đũi hỏi sự hiện diện của một loại hàng hoá đặc biệt mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó. Hàng hoá đó là sức lao động.

Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong con người và được người đó sử dụng vào sản xuất. Sức lao động là cái có trước, là yếu tố tiềm năng, cũn lao động là quá trỡnh sử dụng sức lao động.

Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá. a) Người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao động của mỡnh và chỉ bỏn sức lao động ấy trong một thời gian nhất định. b) Người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mỡnh đứng ra tổ chức sản xuất nên muốn sống chỉ cũn cỏch bỏn sức lao động cho người khác sử dụng.

Việc sức lao động trở thành hàng hoá đánh dấu một bước ngoặt trong phương thức kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất, là một bước tiến lịch sử so với chế độ nô lệ và phong kiến, Sự bỡnh đẳng về hỡnh thức giữa người sở hữu sức lao động với người sở hữu tư bản che đậy bản chất của chủ nghĩa tư bản- chế độ được xây dựng trên sự đối kháng lợi ích kinh tế giữa tư bản và lao động.

- Hai thuộc tính của hàng hoá sức lao động. Giống như mọi hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.

Giá trị của hàng hoá sức lao động cũng do số lượng lao động xó hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Giá trị sức lao động được quy về giá trị của toàn bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động và để duy trỡ đời sống của công nhân làm thuê và gia đỡnh họ. Giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó bao hàm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trỡnh độ văn minh đó đạt được, vào điều kiện lịch sử hỡnh thành giai cấp công nhân và cả điều kiện địa lý, khớ hậu.

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ở quá trỡnh tiờu dựng (sử dụng) sức lao động, tức là quá trỡnh lao động để sản xuất ra một hàng hoá, một dịch vụ nào đó. Trong quá trỡnh lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư. Đó chính là đặc điểm riêng của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động và đặc điểm này sẽ giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản.

b. Tiền công trong chủ nghĩa tư bản

- Bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản. Tiền công biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động, là giá cả của hàng hoá sức lao động. Tuy nhiên, trong chủ nghĩa tư bản, dễ có sự lầm tưởng tiền công là giá cả của lao động bởi nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đó lao động để sản xuất ra hàng hoá và bởi tiền công được trả theo thời gian lao động (ngày, giờ, tuần, tháng), hoặc theo số lượng hàng hoá đó sản xuất được. Nhưng thực chất, cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao động mà là sức lao động. Vậy, tiền công không phải là giá trị của lao động mà chỉ là giá trị hay giá cả của hàng hoá sức lao động.

Hai hỡnh thức cơ bản của tiền công trong chủ nghĩa tư bản. a) Tiền cụng tớnh theo thời gian là hỡnh thức tiền cụng tớnh theo thời gian lao động của công nhân dài hay ngắn (giờ, ngày, tuần, tháng). b) Tiền công tính theo sản phẩm là hỡnh thức tiền cụng tớnh theo số lượng sản phẩm đó làm ra hoặc số lượng sản phẩm đó hoàn thành trong một thời gian nhất định. Mỗi một sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định gọi là đơn giá tiền công. Để quy định đơn giá tiền công, người ta lấy tiền cụng trung bỡnh một ngày của một cụng nhõn chia cho số lượng sản phẩm của một công nhân sản xuất ra trong một ngày lao động bỡnh thường.

          Tiền công tính theo sản phẩm, một mặt giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý, giỏm sỏt quỏ trỡnh lao động của công nhân dễ dàng hơn; mặt khác, kích thúc công nhân lao động tích cực để tạo ra nhiều sản phẩm để thu được lượng tiền công cao hơn.

- Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế. a) Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mỡnh cho nhà tư bản. b) Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tư liệu tiêu dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền cụng danh nghĩa của mỡnh.

          Tiền công danh nghĩa là giá cả hàng hoá sức lao động, nó có thể tăng lên hay giảm đi tuỳ theo sự biến động trong quan hệ cung-cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hay giảm xuống thỡ tiền cụng thực tế sẽ giảm xuống hoặc tăng lên. Vỡ vậy, nếu giỏ trị của đồng tiền không thay đổi thỡ tiền cụng thực tế tỉ lệ thuật với tiền cụng danh nghĩa và tỉ lệ nghịch với giỏ cả hàng hoỏ trờn thị trường.


II. QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

1. Sự thống nhất giữa quỏ trỡnh sản xuất ra giỏ trị sử dụng và quỏ trỡnh sản xuất ra giỏ trị thặng dư

a. Quỏ trỡnh sản xuất ra giỏ trị sử dụng

          Mục đích của sản xuất hàng hoá trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị thặng dư. Nhưng để sản xuất giá trị thặng dư, trước hết nhà tư bản phải tổ chức sản xuất ra những hàng hoỏ cú giỏ trị sử dụng, vỡ giỏ trị sử dụng là nội dung vật chất của hàng hoỏ, là vật mang giỏ trị và giỏ trị thặng dư. Đây cũng là quá trỡnh nhà tư bản tiêu dùng hàng hoá sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất giá trị thặng dư, vỡ vậy nú cú cỏc đặc điểm là công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.

          Trong quỏ trỡnh sản xuất hàng hoỏ tư bản chủ nghĩa, bằng lao động cụ thể của mỡnh, cụng nhõn sử dụng những tư liệu sản xuất và chuyển giá trị của chúng vào hàng hoá; và bằng trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị sức lao động, phần lớn hơn đó là giá trị thặng dư.

b. Quỏ trỡnh sản xuất ra giỏ trị thặng dư

          Quỏ trỡnh sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất với sức lao động. Để có các yếu tố sản xuất, nhà tư bản phải bỏ tiền ra mua a) Tư liệu sản xuất theo giá cả thị trường. b) Sức lao động trên thị trường theo thoả thuận.

          Giả định, để chế tạo ra 1kg sợi, nhà tư bản kinh doanh sợi ứng ra 56 ngàn đơn vị tiền tệ để mua 2kg bông, chi 6 ngàn đơn vị cho hao phí máy móc và chi 5 ngàn đơn vị mua sức lao động của công nhân điều khiển máy móc trong 10 giờ. Giả định việc mua này đúng giá trị, mỗi giờ lao động sống của công nhân tạo ra giá trị mới kết tinh vào sản phẩm là 1 ngàn đơn vị thỡ nhà tư bản kinh doanh sợi thu được lượng giá trị thặng dư là 5 ngàn đơn vị tiền tệ.

Phõn tớch. Trong quỏ trỡnh sản xuất, người công nhân sử dụng máy móc để chuyển 1kg bông thành 1kg sợi, theo đó giá trị của bông và hao mũn mỏy múc cũng được chuyển vào sợi. Giả định chỉ trong 5 giờ đầu công nhân đó kộo xong 1kg bụng thành 1kg sợi, thỡ giỏ 1kg sợi được tính theo các khoản như sau

Giá trị 1kg bông chuyển vào              =      20 000 đơn vị

Hao mũn mỏy múc                            =        3 000 đơn vị

Giá trị mới tạo ra trong 5 giờ lao động   =    5 000 đơn vị

Tổng cộng                                         =      28 000 đơn vị

Nếu quỏ trỡnh lao động ngừng ở đây thỡ nhà tư bản chưa có giá trị thặng dư. Thời gian lao động (5 giờ) mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động của mỡnh gọi là thời gian lao động tất yếu và lao động trong khoảng thời gian ấy gọi là lao động tất yếu.

Nhưng nhà tư bản đó mua sức lao động trong 10 giờ. Trong 5 giờ lao động tiếp theo, nhà tư bản chi thêm 20 ngàn đơn vị để mua 1kg bông và 3 ngàn đơn vị hao mũn mỏy múc và với 5 giờ lao động này, người công nhân vẫn tạo ra 5 ngàn đơn vị giá trị mới và có thêm 1kg sợi với giá 28 ngàn đơn vị. Tổng số tiền nhà tư bản chi ra để có được 2kg sợi sẽ là

Tiền mua bông (20 000 x 2)                       =       40 000 đơn vị

Hao mũn mỏy múc (mỏy chạy 10 giờ)                 =         6 000 đơn vị

Tiền lương công nhân sản xuất trong 10 giờ   =     5 000 đơn vị

Tổng cộng                                                   =       51 000 đơn vị

Tổng giá trị của 2kg sợi là 2kg x 28 000 = 56 000 đơn vị và như vậy, lượng giá trị thặng dư thu được là 56 000 - 51 000 = 5 000 đơn vị. Thời gian lao động (5 giờ sau) để tạo ra giá trị thặng dư gọi là thời gian lao động thặng dư.

Như vậy, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Theo C.Mác, “Bí quyết của sự tự tăng thêm giá trị của tư bản quy lại là ở chỗ tư bản chi phối được một số lượng lao động không công nhất định của người khác”. Sở dĩ có sự chi phối đó là do nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất. Việc nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do quỏ trỡnh sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra gọi là bóc lột giá trị thặng dư.


2. Bản chất của tư bản; sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến

a. Bản chất của tư bản

          Các nhà kinh tế học tư sản cho rằng, công cụ lao động, tư liệu sản xuất đều là tư bản; thực ra công cụ lao động, tư liệu sản xuất là những yếu tố cơ bản của sản xuất vật chất trong bất kỳ phương thức sản xuất nào; chúng chỉ là tư bản khi trở thành tài sản của nhà tư bản và được dùng để bóc lột người lao động làm thuê.

Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của người lao động làm thuê. Bản chất của tư bản thể hiện ở chỗ giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sản xuất ra.

b. Tư bản bất biến, tư bản khả biến

          Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản ứng tiến ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động, nghĩa là tạo ra các yếu tố của quá trỡnh sản xuất. Cỏc yếu tổ này cú vai trũ khỏc nhau trong việc tạo ra giá trị thặng dư.

          - Khái niệm tư bản bất biến và vai trũ của tư bản bất biến. a) Bộ phận tư bản tồn tại dưới hỡnh thức tư liệu sản xuất (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ v.v) mà giá trị của nó được lao động cụ thể của người công nhân chuyển nguyên vẹn vào sản phẩm mới, tức là giá trị không thay đổi về lượng trong quỏ trỡnh sản xuất gọi là tư bản bất biến (c). b) Tư bản bất biến tuy không là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư nhưng nú cú vai trũ là điều kiện không thể thiếu để sản xuất ra giá trị thặng dư. Tư bản bất biến quyết định năng suất lao động của người công nhân.

- Khái niệm tư bản khả biến và vai trũ của tư bản khả biến. a) Bộ phận tư bản tồn tại dưới hỡnh thức sức lao động trong quá trỡnh sản xuất đó cú sự thay đổi về lượng. Sự tăng lên về lượng do giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt khi được tiờu dựng thỡ nú tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giỏ trị của bản thõn nú, ký hiệu là (v). b) Tư bản khả biến chỉ rừ nguồn gốc duy nhất của giỏ trị thặng dư là lao động của công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.

Nếu ký hiệu giỏ trị hàng hoỏ là G, thỡ G = c+v+m; trong đó c là tư bản bất biến, v là tư bản khả biến, m là giá trị thặng dư. Trong công thức này, c là điều kiện không thể thiếu để sản xuất ra giá trị thặng dư, cũn v cú vai trũ quyết định trong quá trỡnh đó, vỡ nú chớnh là bộ phận tư bản tự lớn lên.

3. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư

a. Tỷ suất giá trị thặng dư

Tỷ suất giá trị thặng dư (m’) là tỷ lệ % giữa số lượng giá trị thặng dư (m) với tư bản khả biến (v). Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư m’= và m’= ; Trong đó, t là thời gian lao động tất yếu, t’ là thời gian lao động thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư phản ỏnh trỡnh độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.

b. Khối lượng giá trị thặng dư

Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được trong một thời gian sản xuất nhất định. Công thức tính khối lượng giá trị thặng dư M = m’.V hoặc M =  ; Trong đó, V là tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian trên, Khối lượng giá trị thặng dư tỷ lệ thuận với với cả hai nhân tố m’ và V.

Lưu ý, cụng thức này chỉ đúng khi v trong  là một lượng xác định, nghĩa là tiền công không đổi, khi đó V đại biểu cho số lượng công nhân nhất định được sử dụng. Như vậy, đó chứng minh được khối lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được như thế nào?

4. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và và giá trị thặng dư siêu ngạch

          Mục đích của các nhà tư bản là thu được giá trị thặng dư tối đa; do vậy họ dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối là hai phương pháp phổ biến nhất.

a. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Ví dụ, ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân tạo ra một giá trị mới là 10 đơn vị, thỡ giỏ trị thặng dư tuyệt đối là 40 và tỷ suất giá trị thặng dư là m’= = 100%. Nếu kéo dài lao động thêm 2 giờ nữa, mọi điều kiện khác vẫn như cũ, thỡ giỏ trị thặng dư tuyệt đối tăng lên 60 và m’cũng tăng lên thành m’= = 150 % . Việc kéo dài ngày lao động không thể vượt quỏ giới hạn sinh lý của cụng nhõn (vỡ họ cũn cần thời gian ăn ngủ, nghỉ ngơi v.v để phục hồi sức khoẻ) nên gặp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân đũi giảm giờ làm. Nhưng vỡ lợi nhuận, khi độ dài ngày lao động không thể kéo thêm, nhà tư bản tỡm cỏch tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động về thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vỡ vậy, kộo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao động là để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.

b. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động trong ngành sản suất ra tư liệu sinh hoạt để hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.

Ví dụ, ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là lao động tất yếu, 5 giờ là lao động thặng dư. Nếu giá trị sức lao động giảm đi 1giờ thỡ thời gian lao động tất yếu xuống cũn 4 giờ. Do đó, thời gian lao động thặng dư tăng từ 5 giờ lên 6 giờ và m’ tăng từ 100% lên 150 %. Để hạ thấp giá trị sức lao động, nhà tư bản phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao động xó hội trong cỏc ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để trang bị cho ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng.

c. Sản xuất giá trị thặng dư sỉêu ngạch

Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới sớm hơn các nhà máy khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thi trường của nó. Như thế nhà tư bản chỉ phải bỏ ra ít chi phí hơn các nhà tư bản khác mà vẫn bán được với giá như các nhà tư bản khác, từ đó thu được giá trị thặng dư cao hơn. Khi số đông các nhà máy đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ một cách phổ biến thỡ giỏ trị thặng dư siêu ngạch của doanh nghiệp đó sẽ không cũn nữa. Trong từng nhà mỏy, giỏ trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, nhưng trong phạm vi xó hội thỡ nú lại thường xuyên tồn tại. Giá rị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt, đánh bại các đối thủ của mỡnh trong cạnh tranh. C.Mỏc gọi giỏ trị thặng dư siờu ngạch là hỡnh thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.

5. Sản xuất giá trị thặng dư- quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản

           Nếu quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoỏ là quy luật giỏ trị thỡ quy luật kinh tế cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là quy luật giá trị thặng dư.

a. Thế nào là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản?

Quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản bởi nó quy định bản chất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, chi phối mọi mặt đời sống kinh tế của xó hội tư bản. Không có sản xuất giá trị thặng dư thỡ khụng cú chủ nghĩa tư bản. Ở đâu có sản xuất giá trị thặng dư thỡ ở đó có chủ nghĩa tư bản, ngược lại ở đâu có chủ nghĩa tư bản thỡ ở đó có sản xuất giá trị thặng dư. Chớnh vỡ vậy, theo C.Mỏc, tạo ra giỏ trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. V.I.Lênin cũng gọi quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.

b. Nội dung quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản

          Nội dung của quy luật này là sản xuất nhiều và ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê.

c. Sản xuất giá trị thặng dư- quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản

Sản xuất nhiều và ngày càng nhiều giá trị thặng dư là mục đích, là động lực thường xuyên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, là yếu tố đảm bảo sự tồn tại, thúc đẩy sự vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản; đồng thời nó làm cho mọi mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, đưa đến sự thay thế tất yếu chủ nghĩa tư bản bằng một xó hội cao hơn.

          Quy luật giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản trong xó hội tư bản- đó là mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân.

          Quy luật giá trị thặng dư đứng đằng sau cạnh tranh tư bản chủ nghĩa. Với mục đích là thu được ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư, các nhà tư bản cạnh tranh với nhau, tiêu diệt lẫn nhau để có được quy mô giá trị thặng dư lớn hơn, tỷ suất giá trị thặng dư cao hơn.

Để sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản ra sức áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến sản xuất; do đó lực lượng sản xuất phỏt triển mạnh mẽ, nền sản xuất cú tớnh chất xó hội hoỏ ngày càng cao, mõu thuẫn giữa tớnh chất xó hội của sản xuất với hỡnh thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt.

Tất cả những yếu tố trên đưa xó hội tư bản đến chỗ phủ định chính mỡnh, dẫn đến sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản để thay thế bằng một phương thức sản xuất cao hơn, tiến bộ hơn. Đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.

III. SỰ CHUYỂN HÓA CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ THÀNH TƯ BẢN- TÍCH LŨY TƯ BẢN

1. Thực chất và động cơ của tích luỹ tư bản

          Để có thể hiểu được thực chất của tích luỹ tư bản cần phải phõn tớch quỏ trỡnh tỏi sản xuất tư bản chủ nghĩa. Tái sản xuất nói chung được hiểu là quỏ trỡnh sản xuất được lặp đi, lặp lại và tiếp diễn liên tục; sản xuất, hiểu theo nghĩa rộng cũng có nghĩa là tái sản xuất, có hai loại tái sản xuất là tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

a. Giá trị thặng dư- nguồn gốc của tích luỹ tư bản

          Tỏi sản xuất là tất yếu khỏch quan của xó hội loài người. Tỏi sản xuất cú hai hỡnh thức chủ yếu là tỏi sản xuất giản đơn (trong sản xuất nhỏ) và tái sản xuất mở rộng (trong sản xuất lớn). Muốn tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải sử dụng một phần giá trị thặng dư để tăng thêm tư bản ứng trước.

Việc sử dụng giá trị thặng dư hay sự chuyển hoá một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản gọi là tích luỹ tư bản. Nói cách khác, thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư trở lại thành tư bản, hay cũn gọi là quỏ trỡnh tư bản hóa giá trị thặng dư. Như vậy, nguồn gốc của tích luỹ tư bản là giá trị thặng dư- là lao động của công nhân bị nhà tư bản chiếm đoạt. Nói cách khác, toàn bộ của cải của giai cấp tư sản đều do lao động của giai cấp công nhân tạo ra.

b. Những yếu tố ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ tư bản

          Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định thỡ quy mụ tớch luỹ tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia giữa tích luỹ và tiêu dùng. Nếu tỷ lệ giữa tích luỹ và tiêu dùng đó được xác định, thỡ quy mụ tớch luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Có bốn yếu tố ảnh hưởng đến khối lượng giá trị thặng dư

a) Trỡnh độ bóc lột giá trị thặng dư (m’). Thông thường, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tăng thêm máy móc, thiết bị và công nhân. Nhưng nhà tư bản có thể không tăng thêm mà bắt số công nhân hiện có cung cấp thêm lao động bằng cách tăng cường thời gian và cường độ lao động; đồng thời, tận dụng triệt để công suất của máy móc hiện có, chỉ tăng thêm nguyên liệu tương ứng.

b) Năng suất lao động. Năng suất lao động xó hội tăng lên thỡ giỏ cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ một là, với khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể lấn sang phần tiêu dùng, trong khi sự tiêu dùng của nhà tư bản không giảm mà vẫn có thể bằng hoặc cao hơn trước; hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ cũng có thể chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm nhiều hơn trước. Sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đó tạo ra nhiều yếu tố phụ thờm cho tớch luỹ nhờ việc sử dụng vật liệu mới và tạo ra cụng cụ mới của vật liệu hiện có như những phế thải trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân- những vật vốn không có giá trị. Cuối cùng, năng suất lao động sẽ tăng làm cho giá trị của tư bản cũ tái hiện dưới hỡnh thức hữu dụng mới càng nhanh.

c) Chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Tư bản sử dụng là khối lượng giá trị những tư liệu lao động mà toàn bộ quy mô hiện vật của chúng đều hoạt động trong quá trỡnh sản xuất sản phẩm; cũn tư bản tiêu dùng là phần giá trị những tư liệu lao động ấy được chuyển vào sản phẩm theo từng chu kỳ sản xuất dưới dạng khấu hao. Do đó, có sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng và sự chênh lệch này là thước đo sự tiến bộ của lực lượng sản xuất. Khi trừ đi tổn phí hàng ngày trong việc sử dụng máy móc và công cụ lao động- giá trị hao mũn được chuyển vào sản phẩm- nhà tư bản tiếp tục sử dụng máy móc và công cụ lao động đó mà không đũi hỏi một chi phớ khỏc.

Kỹ thuật càng hiện đại, sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiờu dựng càng lớn thỡ sự phục vụ không công của tư liệu lao động ngày càng lớn. Xem bảng minh họa sau

Thế hệ máy

Giá trị máy (triệu USD)

Năng lực sản xuất sản phẩm (triệu chiếc)

Khấu hao trong một sản phẩm (USD)

Chênh lệch tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng (USD)

Khả năng tích luỹ so với thế hệ máy 1

I

10

1

10

9.999.990

II

14

2

7

13.999.993

2tr SP x (10 – 7) = 6tr USD

III

18

3

6

17.999.994

3tr SP x (10 – 6) = 12tr USD

          d) Đại lượng tư bản ứng trước. Trong công thức M = m’.V, nếu ? không thay đổi thỡ khối lượng giá trị thặng dư chỉ có thể tăng khi tổng tư bản khả biến tăng. Và, tất nhiên tư bản bất biến cũng phải tăng lên theo quan hệ tỷ lệ nhất định. Do đó, muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư phải tăng quy mô tư bản ứng trước. Đại lượng tư bản ứng trước càng lớn thỡ quy mụ sản xuất càng được mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu.

          Tóm lại, để năng cao quy mô tích luỹ, cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xó hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để năng lực sản xuất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.

2. Tích tụ tư bản và tập trung tư bản

          Trong quỏ trỡnh tỏi sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy mô của tư bản cá biệt tăng lờn thụng qua quỏ trỡnh tớch tụ và tập trung tư bản. Tích tụ và tập trung tư bản là quy luật phát triển của nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.

 

 

a. Tích tụ tư bản

          Tích tụ tư bản là việc tăng quy mô tư bản cá biệt bằng tích luỹ của nhà tư bản riêng rẽ, nó là kết quả tất nhiên của tích luỹ. Tích tụ tư bản, một mặt, là yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kĩ thuật; mặt khác, sự tăng lên của khối lượng giá trị thặng dư trong quỏ trỡnh phỏt triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa lại tạo khả năng hiện thực cho tích tụ tư bản.

b. Tập trung tư bản

          Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bản cá biệt lớn. Đây là sự tích tụ những tư bản đó hỡnh thành, là sự thủ tiờu tớnh độc lập riêng biệt của chúng, là việc nhà tư bản này tước đoạt nhà tư bản khác, là việc biến nhiều tư bản nhỏ thành một số ít tư bản lớn. Cạnh tranh và tín dụng là hai đũn bẩy mạnh nhất của tập trung. Do cạnh tranh mà tập trung tư bản có thể diễn ra bằng biện pháp tự nguyện hay cưỡng bức. Tín dụng tư bản chủ nghĩa là một phương tiện để tập trung những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong xó hội vào tay nhà tư bản.

          Tích tụ và tập trung tư bản giống nhau ở chỗ đều làm tăng quy mô tư bản cá biệt, nhưng khác nhau ở chỗ nguồn tích tụ tư bản là giá trị thặng dư tư bản hoỏ, cũn nguồn tập trung là cỏc tư bản đó hỡnh thành trong xó hội. Do tớch tụ tư bản mà tư bản cá biệt tăng lên, làm cho tư bản xó hội cũng tặng theo. Cũn tập trung tư bản chỉ là sự bố trí lại các bộ phận tư bản xó hội đó cú, quy mụ tư bản xó hội vẫn như cũ. Tích tụ tư bản biểu hiện mối quan hệ giữa các nhà tư bản với nhau.

          Tập trung tư bản cú vai trũ rất lớn đối với sự phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhờ có tập trung tư bản mà có thể tổ chức được một cách rộng lớn lao động hợp tác, biến quá trỡnh sản xuất rời rạc, thủ cụng thành quỏ trỡnh sản xuất phối hợp theo quy mụ lớn và được xếp đặt một cách khoa học, xây dựng dựng được những công trỡnh cụng nghiệp lớn, sử dụng được kĩ thuật và công nghệ hiện đại.

          Tập trung tư bản không những dẫn đến sự thay đổi về lượng của tư bản mà cũn làm cho tư bản có một chất lượng mới, làm cho cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên, nhờ đó mà năng suất lao động tăng lờn nhanh chúng. Chớnh vỡ vậy, tập trung tư bản trở thành đũn bẩy mạnh mẽ của tớch luỹ tư bản.

          Quỏ trỡnh tớch tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng, do đó, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng ngày càng trở thành nền sản xuất xó hội hoỏ cao độ, làm cho mâu thuẫn kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc thêm.

3. Cấu tạo hữu cơ của tư bản

          Sản xuất bao giờ cũng là sự kết hợp hai yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động. Sự kết hợp của chúng dưới hỡnh thỏi hiện vật gọi là cấu tạo kỹ thuật.

          - Cấu tạo kỹ thuật của tư bản là tỷ lệ giữa khối lượng tư liệu sản xuất với số lượng lao động cần thiết để sử dụng các tư liệu sản xuất đó. Cấu tạo kỹ thuật là cấu tạo hiện vật, nên nó biểu hiện dưới cỏc hỡnh thức số lượng máy móc, nguyên liệu, năng lượng do một công nhân sử dụng trong một thời gian nào đó. Cấu tạo kỹ thuật phản ảnh trỡnh độ phát triển của lực lượng sản xuất xó hội.

          - Cấu tạo giá trị của tư bản là tỉ lệ theo đó, tư bản phân thành tư bản bất biến (hay giá trị của tư liệu sản xuất) và tư bản khả biến (hay giá trị của sức lao động) cần thiết để tiến hành sản xuất. Cấu tạo kỹ thuật thay đổi sẽ làm cho cấu tạo giá trị thay đổi. C.Mác dùng phạm trù cấu tạo để phản ánh mối quan hệ đó. Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản, do cấu tạo kỹ thuật quyết định và phản ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản.

          Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, do tác động thường xuyên của tiến bộ khoa học và công nghệ, cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng không ngừng biến đổi theo hướng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên đó biểu hiện ở chỗ bộ phận tư bản bất biến tăng nhanh hơn bộ phận tư bản khả biến, tư bản bất biến tăng tuyệt đối và tăng tương đối, cũn tư bản khả biến thỡ cú thể tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm xuống một cách tương đối. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản làm cho khối lượng tư liệu sản xuất tăng lên, trong đó sự tăng lên của máy móc, thiết bị là điều kiện để tăng năng suất lao động, cũn nguyờn liệu tăng theo năng suất lao động.

          Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên nhanh chóng ở thời kỳ công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa, hoặc ở những thời kỳ nền kinh tế tư bản thay đổi cơ cấu kinh tế. Việc sử dụng kĩ thuật mới đũi hỏi phải cú lao động thành thạo, được đào tạo với giá trị sức lao động cao, nhưng năng suất lao động nâng cao lại làm cho giá trị hàng hoá kỹ thuật hiện đại giảm xuống. Xu hướng chung là tỷ trọng lao đông có trỡnh độ cao và lao động trí tuệ ngày một tăng, gây nên những hậu quả xó hội tiờu cực đối với toàn bộ đội ngũ người lao động làm thuê.

IV. QUÁ TRÌNH LƯU THÔNG CỦA TƯ BẢN VÀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ

1. Tuần hoàn của tư bản

Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quỏ trỡnh sản xuất và quỏ trỡnh lưu thông. Lưu thông của tư bản, theo nghĩa rộng là sự vận động của tư bản, nhờ đó mà tư bản lớn lên và thu được giá trị thặng dư, cũng tức là sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Tư bản cụng nghiệp trong quỏ trỡnh tuần hoàn đều vận động qua ba giai đoạn, tồn tại dưới ba hỡnh thức và thực hiện ba chức năng:

a. Giai đoạn thứ nhất

          Nhà tư bản dùng tiền để mua tư liêu sản xuất và sức lao động. Quá trỡnh lưu thông đó biểu thị theo sơ đồ sau

                                       SLĐ (sức lao động)

                   T – H

                                      TLSX (tư liệu sản xuất)

          Chức năng giai đoạn này là biến tư bản tiền tệ thành hàng hoá dưới dạng tư liệu sản xuất và sức lao động để đưa vào sản xuất, gọi là tư bản sản xuất.

b. Giai đoạn thứ hai

Nhà tư bản tiêu dùng những hàng hoá đó mua, tức là tiến hành sản xuất. Trong quỏt trỡnh sản xuất, cụng nhõn hao phớ sức lao động, tạo ra giá trị mới, cũn nguyờn liệu được chế biến, mỏy múc hao mũn thỡ giỏ trị của chúng được bảo tồn và chuyển dịch vào sản phẩm mới. Quỏ trỡnh sản xuất kết thỳc, lao động của công nhân làm thuê đó tạo ra những hàng hoỏ mới mà giỏ trị của nú lớn hơn giá trị các yếu tố sản xuất mà nhà tư bản đó mua lỳc ban đầu, vỡ trong đó có giá trị thặng dư do công nhân tạo ra. Sự vận động của tư bản ở giai đoạn này biểu thị theo sơ đồ sau

                             TLSX

          H                                    … SX … - H’

                             SLĐ

Trong công thức này, H’ chỉ tư bản dưới hỡnh thỏi hàng hoỏ mà giỏ trị của nú bằng giỏ trị của tư bản đó hao phớ để sản xuất ra nó cộng với giá trị thặng dư. Kết thúc của giai đoạn này, tư bản sản xuất chuyển hoá thành tư bản hàng hoá.

c. Giai đoạn thứ ba

          Nhà tư bản trở lại thị trường với tư cách là người bán hàng. Hàng hoá của nhà tư bản được chuyển hoá thành tiền. Công thức vận động của tư bản ở giai đoạn thứ ba biểu thị theo sơ đồ      H’ - T’. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hoá chuyển thành tư bản tiền tệ. Đến đây, mục đích của nhà tư bản đó được thực hiện, tư bản quay trở lại hỡnh thỏi ban đầu trong tay chủ của nó, nhưng với số lượng lớn hơn trước. Số tiền bán hàng hoá đó, nhà tư bản lại đem dùng vào việc mua bán tư liệu sản xuất và sức lao động cần thiết để tiếp tục sản xuất và toàn bộ quá trỡnh trờn được lặp lại.

Tổng hợp quỏ trỡnh vận động của tư bản công nghiệp trong cả ba giai đoạn ta có sơ đồ

                             SLĐ

          T – H                             … SX … - H’- T’

                             TLSX

          Trong sơ đồ này, với tư cách là một giá trị, tư bản đó trải qua một chuỗi biến hoỏ hỡnh thỏi cú quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau. Trong các giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất.

          Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hỡnh thỏi, thực hiện ba chức năng rồi trở về hỡnh thỏi ban đầu với giá trị không những được bảo tồn, mà cũn tăng lên. Tuần hoàn của tư bản chỉ cú thể tiến hành bỡnh thường trong điều kiện các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng được chuyển tiếp. Mặt khác, tư bản phải nằm lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Vỡ vậy, sự vận động tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục không ngừng; đồng thời, là sự vận động đứt quóng khụng ngừng. Phự hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản cú ba hỡnh thỏi của tư bản công nghiệp là tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hoá. Để tái sản xuất diễn ra bỡnh thường, tư bản xó hội cũng như từng tư bản cá biệt đều tồn tại cùng một lúc dưới cả ba hỡnh thỏi. Tỏi sản xuất của mọi doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa trong cũng một lúc đều gồm có tư bản tiền tệ chi ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động; tư bản sản xuất dưới hỡnh thỏi tư liệu sản xuất và sức lao động đang hoạt động; tư bản hàng hoá sắp đem ra bán. Đồng thời, trong lúc một bộ phận của tư bản là tư bản tiền tệ đang biến thành tư bản sản xuất, thỡ một bộ phận khỏc là tư bản sản xuất đang biến thành tư bản hàng hoá và bộ phận thứ ba là tư bản hàng hoá đang biến thành tư bản tiền tệ. Mỗi bộ phận ấy đều lần lượt mang lấy và trỳt bỏ một trong ba hỡnh thỏi đó.

Ba hỡnh thỏi của tư bản không phải là ba loại tư bản khỏc nhau mà là ba hỡnh thỏi của một tư bản cụng nghiệp biểu hiện trong quỏ trỡnh vận động của nó. Song cũng trong quá trỡnh vận động ấy đó chứa đựng khả năng tách rời của ba hỡnh thỏi tư bản, Trong quỏ trỡnh phỏt triển của chủ nghĩa tư bản, khả năng tách rời đó đó làm xuất hiện tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay, hỡnh thành cỏc tập đoàn khác nhau trong giai cấp tư bản: chủ công nghiệp, nhà buôn, chủ ngân hàng v.v chia nhau giá trị thặng dư.

2. Chu chuyển của tư bản

          Chu chuyển của tư bản là sự tuần hoàn của tư bản nếu xột nú là một quỏ trỡnh định kỡ đổi mới, và sự lặp đi lặp lại không ngừng. Chu chuyển của tư bản nói lên tốc độ vận động của tư bản cá biệt.

a. Thời gian chu chuyển của tư bản

          Thời gian tư bản thực hiện được một vũng tuần hoàn gọi là thời gian chu chuyển của tư bản. Thời gian đó của tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.

          Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất. Thời gian sản xuất gồm thời gian lao động, thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất. Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn là do tác động của các yếu tố a) Tính chất của ngành sản xuất, chẳng hạn ngành đóng tàu có thời gian sản xuất dài hơn ngành dệt vải, và bản thõn trong ngành dệt thỡ dệt trơn có thời gian sản xuất ngắn hơn dệt trang trí hoa văn v.v. b) Quy mô hoặc chất lượng các sản phẩm, chẳng hạn xây dựng một xí nghiệp mất thời gian hơn xây dựng một ngôi nhà ở thông thường. c) Thời gian vật sản xuất chịu tác động của quá trỡnh tự nhiờn dài hay ngắn. d) Năng suất lao động. đ) Dự trữ sản xuất đủ hay thiếu v.v

          Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông. Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, do đó, không sản xuất ra hàng hoá, cũng không sản xuất ra giá trị thặng dư. Thời gian lưu thông gồm có thời gian mua và thời gian bán hàng hoá. Thời gian lưu thông dài hay ngắn là do các nhân tố sau đây quy định thị trường xa hay gần, tỡnh hỡnh thị trường xấu hay tốt, trỡnh độ phát triển của ngành giao thông vận tải v.v. Thời gian chu chuyển của tư bản càng ngắn thỡ càng tạo ra điều kiện cho giá trị thặng dư được sản xuất ra nhiều hơn, tư bản càng lớn nhanh hơn.

b. Tốc độ chu chuyển của tư bản

          Các tư bản khác nhau hoạt động trong những lĩnh vực khác nhau thỡ số lần chu chuyển trong một đơn vị thời gian (một năm) không giống nhau; nói cách khác, tốc độ chu chuyển của chúng khác nhau. Tốc độ chu chuyển của tư bản đo bằng số lần (vũng) chu chuyển của tư bản trong một năm.   

Công thức tính tốc độ chu chuyển của tư bản là n = ; Trong đó, n là số lần chu chuyển của tư bản trong một năm, TGn là thời gian trong năm, TGa là thời gian chu chuyển của một tư bản nhất định. Như vậy, tốc độ chu chuyển của tư bản tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của nó.

          Lực lượng sản xuất phát triển, kĩ thuật tiến bộ, những tiến bộ về mặt tổ chức sản xuất, việc áp dụng những thành tựu của hoá học, sinh học hiện đại vào sản xuất, phương tiện vận tải và bưu điện phát triển, tổ chức mậu dịch được cải tiến v.v cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của tư bản.

3. Tư bản cố định và tư bản lưu động

          Các bộ phận khác nhau của tư bản sản xuất không chu chuyển một cách giống nhau. Sở dĩ như vậy là vỡ mỗi bộ phận tư bản dịch chuyển giá trị của nó vào sản phẩm theo những cách thức khác nhau. Căn cứ vào tính chất chu chuyển khác nhau, người ta chia tư bản sản xuất thành hai bộ phận: tư bản cố định và tư bản lưu động.

          Tư bản cố định là một bộ phận của tư bản sản xuất đồng thời là bộ phận chủ yếu của tư bản bất biến (máy móc, thiết bị, nhà xưởng v.v) tham gia toàn bộ vào quỏ trỡnh sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mũn của nú trong quỏ trỡnh sản xuất.       Tư bản cố định được sử dụng lõu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và nú bị hao mũn dần trong quỏ trỡnh sản xuất.

Cú hai loại hao mũn là hao mũn hữu hỡnh và hao mũn vụ hỡnh. Hao mũn hữu hỡnh là hao mũn về vật chất, hao mũn về giỏ trị sử dụng. Hao mũn hữ hỡnh do quỏ trỡnh sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mũn đi cho tới chỗ hỏng và phải được thay thế. Hao mũn vụ hỡnh là sự hao mũn thuần tuý về mặt giỏ trị. Hao mũn vụ hỡnh xảy ra ngay cả khi mỏy múc cũn tốt nhưng bị mất giỏ vỡ xuất hiện nhiều máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn, hoặc có giá trị tương đương, nhưng công suất cao hơn. Để tránh hao mũn vụ hỡnh, cỏc nhà tư bản tỡm cỏch kộo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc v.v nhằm tận dụng máy móc trong thời gian càng ngắn càng tốt.

Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng để tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên nhằm tránh được thiệt hại hao mũn hữu hỡnh do tự nhiờn phỏ huỷ và hao mũn vụ hỡnh gõy ra. Nhờ đó mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh chóng.

Tư bản lưu động là một bộ phận của tư bản sản xuất, gồm một phần tư bản bất biến (nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ v.v) và tư bản khả biến (sức lao động), được tiêu dùng hoàn toàn trong một chu kỡ sản xuất và giỏ trị của nú được chuyển toàn bộ vào sản phẩm trong quỏ trỡnh sản xuất.

Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỉ suất giá trị thặng dư trong năm tăng lên. Việc phân chia tư bản ứng trước thành tư bản bất biến (c) và tư bản khả biến (v) là dựa vào vai trũ của từng bộ phận tư bản trong quỏ trỡnh sản xuất ra giỏ trị thặng dư. Ở đây việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động là đặc điểm riêng của tư bản sản xuất và căn cứ của sự phân chia là phương thức chuyển dịch giỏ trị của chỳng vào sản phảm trong quỏ trỡnh sản xuất, hay dựa vào phương thức chu chuyển của tư bản.

Phân chia tư bản theo hỡnh thức của sự chu chuyển

Tư bản cố định

Tư bản lưu động

c1

c2

V

Tư bản bất biến

Tư bản khả biến

Trong đó, c1 là giá trị máy móc, thiết bị, nhà xưởng v.v, c2 là giá trị nguyên, nhiên, vật liệu, v là giá trị sức lao động.

Việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động không phản ánh được nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư, nhưng lại cú ý nghĩa quan trọng trong quản lý kinh tế. Nú là cơ sở để quản lý, sử dụng vốn cố định, vốn lưu động có hiệu quả hơn. Đặc biệt, với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, sự đổi mới của thiết bị công nghệ diễn ra nhanh chóng, thỡ việc giảm tối đa hao mũn tài sản cố định, nhất là hao mũn vụ hỡnh là đũi hỏi bức xỳc đối với khoa học và nghệ thuật quản lý kinh tế.

V. CÁC HÌNH THÁI TƯ BẢN VÀ CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

1. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận

          a. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa

          Nếu gọi giỏ trị hàng hoỏ là W thỡ W = c + v + m. Đó là những chi phí lao động thực tế của xó hội để sản xuất hàng hoá. Nhưng đối với nhà tư bản, để sản xuất hàng hoá, họ chỉ cần chi phí một lượng tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí đó gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, được kí hiệu là k; công thức tính k = c + v. Như vậy, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là phần giá trị bù lại giá cả của những tư liệu sản xuất và giá cả sức lao động đó tiờu dựng để sản xuất ra hàng hoá cho nhà tư bản. Nếu dùng k để chỉ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thỡ cụng thức W = c + v + m sẽ chuyển hoỏ thành W = k + m.

          Giữa chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và giá trị hàng hoá có sự khác nhau cả về chất và lượng. Về chất, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ là sự chi phí về tư bản; cũn giỏ trị hàng hoỏ là chi phớ thực tế của xó hội để sản xuất ra hàng hoá. Chi phí thực tế là chi phí về lao động xó hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá.    Về lượng, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phớ thực tế, tức là giỏ trị của hàng hoỏ, vỡ W = k+m thỡ k =W-m. Đối với nhà tư bản, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là giới hạn thực tế của lỗ lói kinh doanh nờn họ ra sức tiết kiệm chi phí bằng mọi cách.

b. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận

Lợi nhuận và bản chất của lợi nhuận

1) Lợi nhuận. Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa nên sau khi bán hàng theo đúng giá trị, nhà tư bản không chỉ bù lại đủ số tiền đó ứng ra mà cũn thu lại được một số tiền lời ngang bằng m. Số tiền này là lợi nhuận (ký hiệu là p). Lợi nhuận là giỏ trị thặng dư khi được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, là kết quả hoạt động của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Công thức tính lợi nhuận là p =W-k. Khi đó, công thức W =k+m sẽ chuyển thành W =k + p, có nghĩa là giá trị hàng hoá tư bản chủ nghĩa bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận.

2) Bản chất của lợi nhuận. Lợi nhuận là hỡnh thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phản sánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Cỏi khỏc nhau giữa m’ và p’ là ở chỗ, khi núi m là hàm ý so sỏnh nú với v, cũn khi núi p lại hàm ý so sỏnh với (c + v); p và m thường không bằng nhau, p có thể cao hơn hoặc thấp hơn m, tuỳ thuộc và giá cả bán hàng hoá do quan hệ cung-cầu quy định. Nhưng xột trờn phạm vi toàn xó hội, tổng số lợi nhuận luụn ngang bằng tổng số giỏ trị thặng dư.

Tỷ suất lợi nhuận và những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận

          1) Tỷ suất lợi nhuận. Khi giá trị thặng dư chuyển hoỏ thành lợi nhuận thỡ tổng số giỏ trị thặng dư chuyển hoá thành tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước; nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p’, thỡ p’ = . Trên thực tế, người ta thường tính p’ hàng năm bằng tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận thu được trong năm (P) và tổng tư bản ứng trước (K) theo công thức p’ hàng năm =

Xét về lượng, tỷ suất lợi nhuận luôn nhỏ hơn tỉ suất giá trị thặng dư: p’ < m’ (vỡ p’ = cũn m’ = ); Xét về chất, tỷ suất giá trị thặng dư biểu hiện đúng mức độ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động. Cũn tỷ suất lợi nhuận chỉ núi lờn mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản. Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho các nhà đầu tư tư bản thấy đầu tư vào đâu thỡ sẽ thu được lợi nhuận lớn hơn (ngành nào có p’ lớn hơn). Do đó, tỷ suất lợi nhuận là mục tiêu cạnh tranh và là động lực thúc đẩy sự hoạt động của các nhà tư bản.

          Tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp phụ thuộc nhiều yếu tố như tỷ suất giá trị thặng dư, cấu tạo hữu cơ của tư bản, tốc độ chu chuyển tư bản, tiết kiệm tư bản bất biến v.v

          2) Những yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận. Ta đó biết p’ = (1); m’ =  nên m = m’.v. Thay m = m’.v vào (1) ta có p’ = (2). Tỷ suất lợi nhuận của một lượng tư bản tăng hay giảm, do đó, phụ thuộc vào các yếu tố sau.

Một là phụ thuộc vào tỷ suất giá trị thặng dư; Tỷ suất lợi nhuận là hỡnh thỏi chuyển hoỏ của tỷ suất giỏ trị thặng dư nên giữa chúng có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau. Sự phụ thuộc ấy thể hiện ở chỗ trong công thức (2), nếu là một đại lượng không đổi thỡ p’ tỉ lệ thuận với m’. Vớ dụ, nếu m’=100%, với một tư bản 8000c+2000v sẽ thu được 2000m thỡ p’ =20% và nếu m’=200%, cũng tư bản đó sẽ thu được 4000m và p’ sẽ là 40%. Do đó, những biện pháp nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư cũng là những biện pháp nâng cao tỷ suất lợi nhuận.

Hai là phụ thuộc vào tốc độ chu chuyển tư bản. Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản (n) tăng thỡ khối lượng tư bản hoạt động trong năm sẽ lớn (mặc dù khối lượng tư bản ứng trước không thay đổi) làm cho khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên, do đó tỉ suất lợi nhuận hàng năm cũng tăng lên. Ví dụ, với một tư bản ứng trước 10000 đơn vị tiền tệ, nếu tốc độ chu chuyển của tư bản là n = 1, ta cú 8000c + 2000v + 2000m và p’ = 20%; n = 2 thỡ cũng số tư bản như trên ta có 8000c + 2000v + 4000m và p’ = 40%. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với số vũng chu chuyển và tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Do đó, để nâng cao tỷ suất lợi nhuận, các nhà tư bản đều tỡm mọi cỏch rỳt ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông hàng hoỏ của mỡnh.

Ba là tiết kiệm tư bản bất biến. Trong công thức p’ = , nếu m và v là những đại lượng không đổi, thỡ tỷ suất lợi nhuận sẽ vận động ngược chiều với tư bản bất biến. Vỡ thế, để nâng cao tỷ suất lợi nhuận, các nhà tư bản tỡm mọi cỏch tiết kiệm tư bản bất biến như sử dụng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nhà kho, phương tiện vận tải với hiệu quả cao nhất; thay nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ tiền; giảm chi tiêu bảo hiểm lao động, môi trường, giảm tiêu hao vật tư, năng lượng và tận dụng phế liệu, phế phẩm, phế thải trong tiờu dựng sản xuất và tiờu dựng cỏ nhõn của xó hội để sản xuất hàng hoá.

Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận nói trên được các nhà tư bản khai thác triệt để. Song, vỡ điều kiện cụ thể của mỗi ngành sản xuất khác nhau nên cùng một lượng tư bản như nhau đầu tư vào các nhành sản xuất khác nhau lại thu được tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Từ đó dẫn đến sự cạnh tranh hỡnh thành tỷ suất lợi nhuận bỡnh quõn.

2. Lợi nhuận bỡnh quõn và giỏ cả sản xuất

a. Cạnh tranh trong nội bộ ngành và sự hỡnh thành giỏ trị thị trường

          Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các nhà máy trong cùng một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hoá, nhằm mục đích giành ưu thế trong sản xuất và trong tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Cạnh tranh trong nội bộ ngành được thực hiện thụng qua cỏc biện phỏp cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoỏ sản xuất, nõng cao chất lượng hàng hoỏ, cải tiến mẫu mó v.v làm cho giỏ trị cỏ biệt của hàng hoỏ do nhà mỏy sản xuất ra thấp hơn giỏ trị xó hội để thu được lợi nhuận siêu ngạch.

          Kết quả cạnh tranh trong nội bộ ngành dẫn đến hỡnh thành giỏ trị xó hội của hàng hoỏ, tức là giỏ trị thị trường của hàng hoá, làm cho điều kiện sản xuất trung bỡnh của một ngành thay đổi, giá trị xó hội của hàng hoá giảm xuống, chất lượng hàng hoá được nâng cao, chủng loại hàng hoá phong phú v.v.

b. Sự cạnh tranh giữa cỏc ngành và sự hỡnh thành lợi nhuận bỡnh quõn

Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà máy tư bản, kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích tỡm nơi đầu tư có lợi hơn. Trong xó hội, cú nhiều ngành sản xuất khỏc nhau với cỏc điều kiện sản xuất không giống nhau, do đó, lợi nhuận thu được và tỷ suất lợi nhuận không giống nhau, mà mục đích của các nhà tư bản là lợi nhuận cao nên các nhà tư bản phải chọn ngành nào có tỉ suất lợi nhuận cao nhất để đầu tư.

          Ví dụ, trong sản xuất tư bản chủ nghĩa có ba nhà tư bản đều có 100 tư bản đầu tư vào ba ngành sản xuất khác nhau. Ngành cơ khí có ; Ngành dệt may có ; Ngành thuộc da có . Tỷ suất giá trị thặng dư là m’ =100%. Do điều kiện sản xuất khác nhau,  khác nhau nên giá trị hàng hoá và tỉ suất lợi nhuận (P’) của ba nhà tư bản sẽ là

Gcơ khí = 80c + 20v +20m =120, P’cơ khí = , P’cơ khí = 20%.

Gdệt may = 70c +30c +30m = 130, P’may = , P’may = 30%

Gthuộc da = 60c + 40v + 40m = 140, P’ thuộc da = , P’ thuộc da = 40%

          Nhận xột. Nhỡn vào tỷ suất lợi nhuận của ba nhà tư bản trên, ta thấy nhà tư bản sản xuất da có tỷ suất lợi nhuận cao nhất (P’ = 40%), nhà tư bản sản xuất dệt may cú tỷ suất lợi nhuận trung bỡnh (P’ = 30%), cũn nhà tư bản sản xuất cơ khí có tỷ suất lợi nhuận thấp nhất (P’ = 20%). Mục đích của các nhà tư bản luụn luụn tỡm nơi có tỷ suất lợi nhuận cao để đầu tư, vỡ vậy cỏc nhà tư bản sản xuất cơ khí di chuyển tư bản và sức lao động từ ngành cơ khí sang ngành da. Kết quả là làm cho quy mô sản xuất của ngành cơ khớ bị thu hẹp lại cũn quy mụ của ngành thuộc da ngày càng mở rộng.

          Tại ngành da, do quy mô mở rộng đó làm cho sản phẩm da cung lớn hơn cầu (sản phẩm ế sẽ tồn đọng) không bán được, lập tức thị trường giảm giá bán sản phẩm ra, tỷ suất lợi nhuận P’ cũng theo đó mà giảm từ 40% xuống 30%. Tại ngành cơ khí, do quy mô bị thu hẹp nên đó làm cho sản phẩm cơ khí cầu lớn hơn cung, hàng hoá cơ khí sẽ khan hiếm. Khi hàng hoá khan hiếm, người bán sẽ nâng giá. Khi giá bán sản phẩm cơ khí tăng, tỉ suất lợi nhuận P’ sẽ tăng từ 20% lêm 30%.

          Cuối cùng, cả ba nhà tư bản đều nhận được mức lợi nhuận là 30%. Lợi nhuận này được gọi là lợi nhuận bỡnh quõn. Vậy, lợi nhuận bỡnh quõn là lợi nhuận bằng nhau của tư bản bằng nhau vào các ngành sản xuất khác nhau. Nó chính là lợi nhuận mà các nhà đầu tư thu được căn cứ vào tổng tư bản đầu tư, nhõn với tỷ suất lợi nhuận bỡnh quõn, khụng kể cấu thành hữu cơ của nó như thế nào. Sự hỡnh thành lợi nhuận bỡnh quõn đó làm cho quy luật giỏ trị thặng dư, quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản bị biến dạng. Quy luật giá trị thặng dư hoạt động trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thể hiện thành quy luật lợi nhuận bỡnh quõn.

          Tỷ suất lợi nhuận bỡnh quõn là “con số trung bỡnh” của tất cả cỏc tỷ suất lợi nhuận khỏc nhau hay tỷ suất lợi nhuận bỡnh quõn là tỷ số theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản xó hội. ’ =  hoặc ’ = ; trong đó, là tổng giá trị thặng dư của xó hội, là tổng tư bản xó hội.

          Khi hỡnh thành tỷ suất lợi nhuận bỡnh quõn, cú thể tớnh lợi nhuận bỡnh quõn  từng ngành theo công thức  = k.’; trong đó k là tư bản ứng trước của từng ngành.

c. Sự chuyển hoá của giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất

          Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi lợi nhuận (p) chuyển hoỏ thành lợi nhuận bỡnh quõn () thỡ giỏ trị hàng hoỏ chuyển thành giỏ cả sản xuất. Giỏ trị hàng hoỏ G = c + v + m chuyển thành giá cả sản xuất (k + ), tức là giá cả sản xuất bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận bỡnh quõn.

          Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất, giá cả sản xuất là phạm trù kinh tế tương đương với phạm trù giá cả. Giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả trên thị trường, giá cả sản xuất điều tiết giá cả thị trường, giá cả thị trường xoay xung quanh giá cả sản xuất.

          Khi giỏ trị hàng hoỏ chuyển thành giỏ cả sản xuất thỡ quy luật giỏ trị cú hỡnh thức biểu hiện là giá cả sản xuất; quy luật giá trị thặng dư cú hỡnh thức biểu hiện là quy luật lợi nhuận bỡnh quõn.

3. Sự phân chia giá trị thặng dư giữa các tập đoàn tư bản

a. Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp

- Nguồn gốc của tư bản thương nghiệp. Tư bản thương nghiệp xuất hiện rất sớm trong lịch sử. Nó tồn tại trên cơ sở lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. Trước chủ nghĩa tư bản, lợi nhuận của tư bản thương nghiệp chủ yếu là do mua rẻ, bán đắt. Trong chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp là một bộ phận tư bản công nghiệp tách ra chuyên đảm nhận khâu lưu thông hàng hoá. Như vậy, hoạt động của tư bản thương nghiệp chỉ là những hoạt động phục vụ cho quá trỡnh thực hiện giỏ trị hàng hoỏ của tư bản công nghiệp. Công thức vận động của nó là T – H – T’.

          Tư bản thương nghiệp có đặc điểm vừa phụ thuộc vào tư bản công nghiệp, vừa có tính độc lập tương đối. Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ tư bản thương nghiệp chỉ là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra. Tính độc lập tương đối biểu hiện ở chỗ chức năng chuyển hoá cuối cùng của hàng hoá thành tiền trở thành chức năng riêng biệt tách rời khỏi tư bản công nghiệp, nằm trong tay người khác.

          Khi tư bản thương nghiệp xuất hiện, nú cú vai trũ và lợi ớch to lớn đối với xó hội, bởi 1) Nhờ cú thương nhân chuyên trách việc mua bán hàng hoá nên lượng tư bản ứng vào lưu thông và chi phí lưu thông nhỏ hơn khi những người sản xuất trực tiếp đảm nhận chức năng này. 2) Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua bán hàng hoá, người sản xuất có thể tập trung thời gian chăm lo việc sản xuất, giảm dự trữ sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị thặng dư. 3) Nhờ có thương nhân chuyên trách việc mua bán hàng hoá sẽ rút ngắn thời gian lưu thông, tăng nhanh chu chuyển tư bản, từ đó tăng tỉ suất và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm.

          - Lợi nhuận thương nghiệp. Tư bản thương nghiệp nếu chỉ giới hạn trong việc mua bán hàng hoá, (không kể việc chuyên chở, bảo quản, đóng gói) thỡ khụng tạo ra giỏ trị và giỏ trị thặng dư. Nhưng là tư bản, nó chỉ có thể hoạt động với mục đích thu lợi nhuận. Vậy, lợi nhuận thương nghiệp là gỡ; do đâu mà có?

          Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được tạo ra trong quỏ trỡnh sản xuất mà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp, để tư bản thương nghiệp bỏn hàng hoỏ cho mỡnh. Lợi nhuận thương nghiệp là hỡnh thức biến tướng của giá trị thặng dư. Nguồn gốc của nó cũng là một bộ phận lao động không được trả công của công nhân. Tư bản công nghiệp “nhường” một phần giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp bằng cách bán hàng hoá thấp hơn giá trị thực tế của nó, để rồi tư bản thương nghiệp bán đúng giá trị, thu về lợi nhuận thương nghiệp. Ví dụ, Tư bản công nghiệp ứng ra 900 để sản xuất hàng hoá với cấu tạo hữu cơ là 4/1, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%, tư bản cố định hao mũn hết trong một năm thỡ tổng giỏ trị hàng hoá là 720c + 180v +180m = 1080; Tỷ suất lợi nhuận là= 20%. Để lưu thông được số hàng hoá trên, giả định tư bản cụng nghiệp phải ứng thờm 100 nữa, tỷ suất lợi nhuận chỉ cũn là = 18%. Nếu việc ứng 100 này không phải là tư bản công nghiệp mà tư bản thương nghiệp ứng ra, thỡ nú cũng được hưởng một lợi nhuận tương ứng với 100 tư bản là 18. Vậy tư bản công nghiẹp phải bán hàng hoá cho tư bản thương nghiệp với giá thấp hơn giỏ trị 720c + 180v + (180m – 18m) = 1062. Cũn tư bản thương nghiệp sẽ bán hàng hoá theo đúng giá trị, tức là 1080 để thu được lợi nhuận thương nghiệp là 18.

          Việc phân phối giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công nghiệp và tư bản thương nghiẹp diễn ra theo quy luật tỉ suất lợi nhuận bỡnh quõn thụng qua cạnh tranh và thụng qua chờnh lệch giữa giỏ cả sản xuất cuối cựng (giỏ bỏn lẻ thương nghiệp) và giá cả sản xuất công nghiệp (giá bán buôn công nghiệp).

b. Tư bản cho vay và lợi tức cho vay

- Tư bản cho vay là hỡnh thức tư bản xuất hiện từ trước chủ nghĩa tư bản. Điều kiện tồn tại của hỡnh thức tư bản này là sản phẩm trở thành hàng hoá và tiền tệ đó phỏt triển cỏc chức năng của mỡnh. Trước chủ nghói tư bản, hỡnh thức đặc trưng của tư bản cho vay là tư bản cho vay nặng lói. Trong xó hội tư bản, tư bản cho vay là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà người chủ của nó cho nhà tư bản khác sử dụng trong thời gian nhất định để nhận được số tiền lời nào đó (gọi là lợi tức).

          Tư bản cho vay có đặc điểm a) Quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng tư bản. Đối với người cho vay nó là tư bản sở hữu, đối với người đi vay nó là tư bản sử dụng. b) Tư bản cho vay là một hàng hoá đặc biệt, vỡ khi cho vay người bỏn khụng mất quyền sở hữu, cũn người mua chỉ được mua quyền sử dụng trong một thời gian nhất định. Và khi sử dụng thỡ giỏ trị của nú khụng mất đi mà cũn tăng lên; giá cả của nó không do giá trị mà do giá trị sử dụng của tư bản cho vay, do khả năng tạo ra lợi tức của nó quyết định. Lợi tức chính là gái cả của hàng hoá tư bản cho vay. c) Tư bản cho vay là tư bản được sùng bái nhất. Do vận động theo công thức T-T’ nên nó gây ấn tượng hỡnh thức rằng tiền cú thể đẻ ra tiền.

          Sự hỡnh thành tư bản cho vay là kết quả của sự phát triển quan hệ hàng hoá-tiền tệ đến một trỡnh độ nhất định làm xuất hiện một quan hệ là có nơi tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, có nơi lại thiếu tiền để hoạt động. Tư bản cho vay ra đời góp phần vào việc tích tụ, tập trung tư bản, mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của tư bản. Do đó nó góp phần làm tăng thêm tổng giá trị thặng dư trong xó hội.

          - Lợi tức và tỷ suất lợi tức. Lợi tức (ký hiệu là z) là một phần của lợi nhuận bỡnh quõn mà tư bản đi vay trả cho tư bản cho vay về quyền sở hữu tư bản để được quyền sử dụng tư bản trong một thời gian nhất định. Người cho vay và người đi vay thoả thuận với nhau về tỷ suất lợi tức.

Tỷ suất lợi tức (ký hiệu là z’) là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay trong một thời gian nhất định. Công thức tính z’ =; trong đó Klà số tư bản cho vay.

          Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào tỉ suất lợi nhuận bỡnh quõn và quan hệ cung - cầu về tư bản cho vay. Giới hạn vận động của tỷ suất lợi tức là 0 < z’ < p’.

c. Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa. Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng

          - Quan hệ tín dụng tư bản chủ nghĩa là hỡnh thức vận động của tư bản cho vay. Sự ra đời và tồn tại của tín dụng bắt nguồn từ đặc điểm của chu chuyển vốn tiền tệ và sự cần thiết sinh lơi đối với tiền tệ tạm thời nhàn rỗi và nhu cầu vồn cho sản xuất và kinh doanh nhưng chưa tích luỹ kịp. Chính những diễn biến nói trên đó dẫn đến sự hỡnh thành quan hệ cung cầu tiền tệ giữa người đi vay và người cho vay.

          Những hỡnh thức cơ bản của tín dụng tư bản chủ nghĩa gồm a) tín dụng thương nghiệp (tín dụng giữa các nhà tư bản trực tiếp kinh doanh, mua bán chịu hàng hoá với nhau) và b) tín dụng ngân hàng (tín dụng giữa những người có tiền cho những người sản xuất, kinh doanh vay tiền thông qua môi giới trung gian là các ngân hàng, trong đó, ngân hàng vừa đại diện cho người đi vay, vừa đại diện cho người cho vay).

- Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng. Tư bản ngân hàng là loại xí nghiệp tư bản kinh doanh tư bản tiền tệ và làm môi giới cho người đi vay và người cho vay. Nghiệp vụ ngân hàng chia ra thành nghiệp vụ nhận gửi và nghiệp vụ cho vay. Ngân hàng vay tiền theo tỷ suất lợi tức thấp, cho vay theo tỷ suất lợi tức cao hơn. Ngân hàng đem một phần của số chênh lệch đó trang trải các chi phí cần thiết về nghiệp vụ của mỡnh, phần cũn lại là lợi nhuận ngõn hàng. Sự cạnh tranh giữa cỏc ngành trong xó hội tư bản chủ nghĩa làm cho lợi nhuận ngõn hàng cũng bằng lợi nhuận bỡnh quõn; nếu khụng, chủ ngõn hàng sẽ chuyển vốn sang kinh doanh cỏc ngành khỏc.

Ngoài nghiệp vụ trờn, ngõn hàng cũn đóng vai trũ “thủ quỹ” cho xó hội và làm trung tõm thanh toỏn cho cỏc nhà tư bản. Các nhà tư bản đều có tài khoản riêng, nghĩa là đều gửi vốn ở ngân hàng. Khi mua bán, thanh toán với nhau, họ chỉ cần gửi séc đến ngân hàng, Ngân hàng sẽ chuyển số tiền ghi trong séc từ tài khoản của người mua sang tài khoản của người bán. Việc thanh toán này vừa tiện lợi, nhanh chóng, vừa giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông.

d. Công ty cổ phần. Tư bản giả và thị trường chứng khoán

          - Công ty cổ phần. Sự phát triển nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và các quan hệ tín dụng đó làm xuất hiện cỏc cụng ty cổ phần- loại xớ nghiệp lớn mà vốn của nú hỡnh thành từ việc liờn kết nhiều tư bản cá biệt và các nguồn tiết kiệm cá nhân thông qua việc phát hành cổ phiếu.

          Cổ phiếu là loại chứng khoán có giá, bảo đảm cho người sở hữu nó được quyền nhận một phần thu nhập của công ty dưới hỡnh thức lợi tức cổ phiếu (cổ tức). Lợi tức cổ phiếu khụng cố định mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động của công ty. Về nguyên tắc, công ty cổ phần không hoàn lại vốn cho chủ cổ phiếu; cổ phiếu bị mất giá trị khi công ty bị phá sản. Cổ phiếu có nhiều loại cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đói, cổ phiếu ghi danh (cú ghi tờn người mua), cổ phiếu vô danh (không ghi tên người mua).

          Cổ phiếu được mua bán trên thị trường theo giá gọi là thị giá cổ phiếu. Thị giá cổ phiếu luôn biến động, một phần do sự biến động của tỷ suất lợi tức ngân hàng, một phần vỡ những đánh giá về tỡnh hỡnh hoạt động của công ty cổ phần, về lợi tức cổ phiếu dự đoán sẽ thu được.

          Người mua cổ phiếu gọi là cổ đông. Về mặt tổ chức và quản lý, đại hội cổ đông là cơ quan tối cao bầu ra hội đồng quản trị và quyết định phương hướng kinh doanh cùng những vấn đề quan trọng khác trong hoạt động của công ty. Phiếu biểu quyết trong đại hội cổ đông được quy định theo số lượng cổ phiếu, bởi vậy những nhà tư bản nắm được số cổ phiếu khống chế có khả năng thao túng mọi hoạt động của công ty.

          Ngoài cổ phiếu, khi cần vốn cho hoạt động kinh doanh, công ty cổ phần cũn phỏt hành trỏi phiếu. Khỏc với cổ phiếu, trỏi phiếu cho người sở hữu nó có quyền được nhận một khoản lợi tức cố định và được hoàn trả vốn sau thời hạn ghi trên trái phiếu. Người mua trái phiếu không được tham gia đại hội cổ đông.

          Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần là nguồn lợi lớn đối với các nhà tư bản. Nhờ nó mà tư bản được tập trung nhanh chóng và xuất hiện những xí nghiệp khổng lồ mà không một tư bản riêng lẻ nào đủ sức tạo nên. Đồng thời nó cũn tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển tư bản đầu tư, tăng tính linh hoạt và cạnh tranh trong nền kinh tế.

- Tư bản giả và thị trường chứng khoán. Tư bản giả là tư bản tồn tại dưới hỡnh thức chứng khoỏn cú giỏ, nú mang lại thu nhập cho người sở hữu chứng khoán đó. Tư bản giả bao gồm hai loại chủ yếu cổ phiếu do công ty cổ phần phát hành và trái phiếu do công ty hoặc ngân hàng hay nhà nước phát hành. Tư bản giả có các đặc điểm có thể mang lại thu nhập cho người sở hữu nó; có thể mua bán được; bản thân tư bản giả không có giá trị, sự vận động của nó hoàn toàn tách rời sự vận động của tư bản thật, nó có thể tăng hay giảm mà không cần có sự thay đổi tương đương của tư bản thật.

          - Thị trường chứng khoán. Chứng khoán là các loại giấy tờ có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu, công trái, kỳ phiếu, tín phiếu, văn tự cầm cố, các loại chứng chỉ quỹ đầu tư v.v. Thị trường chứng khoán là loại thị trường mua bán các loại chứng khoán.

Thị trường chứng khoán là loại thị trường rất nhạy với các biến động kinh tế, chính trị-xó hội, là “ phong vũ biểu” của nền kinh tế. Giỏ cả chứng khoỏn tăng biểu hiện nền kinh tế phát triển, ngược lại biểu hiện nền kinh tế đang sa sút, khủng hoảng.

e. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp và địa tô tư bản chủ nghĩa

- Sự hỡnh thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp. Trong nông nghiệp, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được hỡnh thành chủ yếu trên hai con đường. Một là, thông qua cải cách, dần dần chuyển kinh tế địa chủ phong kiến sang kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa như ở Đức, Ý, Nhật, Nga v.v. Hai là, thống qua cách mạng dân chủ tư sản, xoá bỏ kinh tế địa chủ phong kiến, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa như ở Anh, Mỹ, Pháp v.v. Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là chế độ độc quyền sở hữu ruộng đất và độc quyền kinh doanh ruộng đất. Cả hai loại độc quyền ruộng đất nói trên đó ngăn cản tự do cạnh tranh trong nụng nghiệp. Về quan hệ xó hội đối với ruộng đất trong chủ nghĩa tư bản bao gồm ba giai cấp địa chủ (độc quyền sở hữu ruộng đất), tư bản kinh doanh nông nghiệp (độc quyền kinh doanh ruộng đất) và giai cấp công nhân nông nghiệp.

- Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa. Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thuê ruộng đất của địa chủ và thuê công nhân để tiến hành sản xuất. Do đó nhà tư bản phải trích một phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra để trả cho địa chủ dưới hỡnh thức địa tô. Như vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là một bộ phận lợi nhuận siờu ngạch ngoài lợi nhuận bỡnh quõn của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ với tư cách là kẻ sở hữu ruộng đất.

- Cỏc hỡnh thức địa tô tư bản chủ nghĩa

          + Địa tô chênh lệch. Nông nghiệp có một số đặc điểm khác với công nghiệp, như số lượng ruộng đất bị giới hạn; độ màu mỡ tự nhiên và vị trí địa lý của ruộng đất không giống nhau; các điều kiện thời tiết, khí hậu của địa phương ít biến động; nhu cầu hàng hoá nông phẩm ngày càng tăng. Do đó, xó hội buộc phải canh tỏc trờn ruộng đất xấu nhất (về độ màu mỡ và vị trí địa lý) nờn giỏ cả hàng hoỏ nụng phẩm được hỡnh thành trờn cơ sở điều kiện sản xuất xấu nhất chứ không phải ở điều kiện trung bỡnh như trong cụng nghiệp. Vỡ thế, canh tỏc trờn đất tốt và trung bỡnh sẽ cú lợi nhuận siờu ngạch. Phần lớn lợi nhuận siờu ngạch sẽ tồn tại thường xuyên, tương đối ổn định và chuyển hoá thành địa tô chênh lệch. Như vậy, địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siờu ngạch ngoài lợi nhuận bỡnh quõn thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung được quyết định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bỡnh (ký hiệu Rcl). Địa tô chênh lệch có hai loại là địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II.

          a) Địa tô chênh lệch I là loại địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Chẳng hạn, có độ màu mỡ tự nhiờn trung bỡnh, tốt và cú vị trớ gần nơi tiêu thụ hay gần đường giao thông.

          Ví dụ 1, Địa tô chênh lệch I thu được trên những ruộng đất có độ màu mỡ tự nhiên trung bỡnh và tốt (giả sử cú P’ = 20%).

Loại ruộng

Tư bản đầu tư

P’

Sản lượng  (tạ)

Giá cả sản xuất

cá biệt

Giá cả sản xuất chung

Địa tô chênh lệch

Của 1 tạ

Của tổng sản phẩm

Của 1 tạ

Của tổng sản phẩm

Tốt

100

20

6

20

120

30

180

60

Trung bỡnh

100

20

5

24

120

30

150

30

Xấu

100

20

4

30

120

30

120

0

          Ví dụ 2, Địa tô chênh lệch I thu được trên những ruộng đất có vị trí thuận lợi như gần nơi tiêu thụ hay gần đường giao thông.

Vị trí ruộng đất

Tư bản đầu tư

P

Sản lượng (tạ)

Chi phí vận chuyển

Tổng giá cả sản xuất cá biệt

Giá cả sản xuất cá biệt 1tạ

Giá cả sản xuất chung

Địa tô chênh lệch

Của 1 tạ

Của tổng sản phẩm

Gần thị trường

100

20

5

0

120

24

27

135

15

Xa thị trường

100

20

5

15

135

27

27

135

0

          b) Địa tô chênh lệch II là loại địa tô thu được nhờ thâm canh năng suất, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên cùng đơn vị diện tích.

          Ví dụ 3, Cần chú ý rằng, năng suất của lần đầu tư thêm phải lớn hơn năng suất của lần đầu tư trờn ruộng xấu, thỡ khi đó mới có được lợi nhuận siêu ngạch.

Loại ruộng

Lần đầu tư

Tư bản đầu tư

P

Sản lượng (tạ)

Giá cả sản xuất cá biệt 1tạ

Giá cả sản xuất chung

Địa tô chênh lệch

1tạ

Tổng sản lượng

Cùng một thửa ruộng

Thứ 1

100

20

4

30

30

120

0

Thứ 2

100

20

6

20

30

180

60

Thứ 3

100

20

8

15

30

240

120

          Trong thời hạn hợp đồng, lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh đem lại thuộc nhà tư bản kinh doanh ruộng đất. Chỉ đến khi hết thời hạn hợp đồng, địa chủ mới tỡm cỏch nõng giỏ cho thuờ ruộng đất, tức là biến lợi nhuận siêu ngạch do đầu tư thâm canh đem lại (địa tô chênh lệch II) thành địa tô chênh lệch I. Tỡnh trạng này dẫn đến mâu thuẫn: nhà tư bản thuê đất muốn kéo dài thời hạn thuê, cũn địa chủ lại muốn rút ngắn thời hạn cho thuê. Do đó, trong thời gian thuê đất, nhà tư bản tỡm mọi cỏch quay vũng, tận dụng, vắt kiệt độ màu mỡ đất đai.

          + Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp tuyệt đối phải nộp cho địa chủ, dù ruộng đất đó tốt hay xấu, ở gần hay xa. Địa tô tuyệt đối là số lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bỡnh quõn, hỡnh thành nờn bởi chờnh lệch giữa giỏ trị nụng sản với giỏ cả sản xuất chung của nụng phẩm.

          Ví dụ, Có hai tư bản trong nông nghiệp và trong công nghiệp đều là 100, cấu tạo hữu cơ trong nông nghiệp là 3/2, cấu tạo hữu cơ trong cụng nghiệp là 4/1. Giả sử m’=100%, thỡ giỏ trị sản phẩm và giỏ trị thặng dư sản xuất ra trong từng lĩnh vực sẽ là: Trong công nghiệp 80c + 20v + 20m = 120; Trong nông nghiệp 60c + 40v + 40m = 140. Giá trị thặng dư dụi ra trong nụng nghiệp so với trong cụng nghiệp là 20. Số chờnh lệch này khụng bị bỡnh quõn hoỏ mà chuyển hoỏ thành địa tô tuyệt đối.

          Cơ sở của địa tô tuyệt đối là so cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong cụng nghiệp. Cũn trong nguyờn nhõn tồn tại địa tô tuyệt đối là do chế độ đọc quyền sở hữu ruộng đất đó ngăn cản nông nghiệp tham gia cạnh tranh giữa các ngành để hỡnh thành lưọi nhuận bỡnh quõn.

+ Địa tô độc quyền là hỡnh thức đặc biệt của địa tô tư bản chủ nghĩa. Địa tô độc quyền có thể tồn tại trong nông nghiệp, công nghiệp khai thác và ở các khu đất trong thành thị. Trong nông nghiệp, địa tô độc quyền có ở các khu đất có tính chất đặc biệt, cho phép trồng các loại cây đặc sản hay sản xuất các sản phẩm đặc biệt. Trong công nghiệp khai thác, địa tô độc quyền có ở khai thác kim loại, khoáng chất quý hiếm, hoặc những khoáng sản có nhu cầu vượt xa khả năng khai thác chúng. Trong thành thị, địa tô độc quyền có ở các khu đất có vị trí thuận lợi cho phép xây dựng các trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, nhà cho thuê có khả năng thu lợi nhuận cao. Nguồn gốc của địa tô độc quyền cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền của sản phẩm thu được trên đất đai ấy, mà nhà tư bản phải nộp cho địa chủ.

 

Câu hỏi ôn tập

1. Phân tích sự chuyển hoá của tiền tệ thành tư bản. Theo anh (chị), điều kiện gỡ quyết định tiền tệ biến thành tư bản, Vỡ sao?

2. Phân tích hàng hoá sức lao động và ý nghĩa của lý luận này đối với lý luận giá trị thặng dư?

          3. Phân tích quá trinh sản xuất giá trị thặng dư và những nhận xét từ quá trỡnh sản xuất đó?

          4. Cơ sở và ý nghĩa của việc phõn chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến?

5. Phân tích 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. í nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiờn cứu vấn đề này?

          6. So sánh giá trị thặng dư với lợi nhuận, tỷ suất giá trị thặng dư với tỷ suất lợi nhuận?

          7. Phân tích thực chất và động cơ tích luỹ tư bản. Mối quan hệ và sự khác nhau giữa tích tụ và tập trung tư bản. Vai trũ của tập trung tư bản trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản?

8. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ tư bản. í nghĩa của việc nghiờn cứu vấn đề này?

9. Trỡnh bày khỏi niệm chi phí sản xuất TBCN, lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận. Sự xuất hiện các khái niệm trên đó che lấp bản chất và nguồn gốc của chỳng như thế nào?

          10. Phõn tớch sự hỡnh thành tỷ suất lợi nhuận bỡnh quõn và giỏ cả sản xuất. í nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này?

          11. Phân tích những nội dung cơ bản về sự hỡnh thành cụng ty cổ phần và thị trường chứng khoán. í nghĩa thực tiễn của việc nghiờn cứu vấn đề này ở nước ta hiện nay?

12. Phân tích bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa và các hỡnh thức địa tô.Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này?

          13. Phõn tớch sự hỡnh thành địa tô chênh lệch. Phân biệt địa tô chênh lêch I và địa tô chênh lệch II. í nghĩa của việc nghiờn cứu địa tô chêng lệch II?


CHƯƠNG 6. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN

VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

 

I. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN

1. Sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do sang chủ nghĩa tư bản độc quyền

a. Nguyờn nhõn hỡnh thành chủ nghĩa tư bản độc quyền

Nghiên cứu chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, C.Mác và Ph.Ăngghen đó dự bỏo rằng, tự do cạnh tranh sinh ra tớch tụ và tập trung sản xuất; tớch tụ và tập trung sản xuất phỏt triển đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến độc quyền. Vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mỏc vào điều kiện lịch sử mới của thế giới, V.I. Lênin đó chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản đó chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, đồng thời ông nêu ra những (năm) đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đó.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX do những nguyên nhân

1) Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật đẩy nhanh quá trỡnh tớch tụ và tập trung sản xuất, hỡnh thành cỏc xớ nghiệp cú quy mụ lớn

2) Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lũ luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát v.v đó tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hoá chất mới như axit sunphuaric, thuốc nhuộm v.v; động cơ điezen, máy phát điện, máy tiện, máy phay v.v ra đời; phát triển những phương tiện vận tải mới như xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay v.v và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đũi hỏi xớ nghiệp phải cú quy mụ lớn; mặt khỏc, nú dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn

3) Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ v.v ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xó hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn

4) Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, cũn cỏc nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn

5) Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trỡnh tớch tụ và tập trung tư bản

6) Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đũn bẩy mạnh mẽ thỳc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hỡnh thành cỏc cụng ty cổ phần, tạo tiền để cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.

Từ những nguyên nhân trên, V.I.Lênin khẳng định “tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền”[2].

b. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền

Chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do phát triển đến độ nhất định thỡ xuất hiện cỏc tổ chức độc quyền. Lúc đầu tư bản độc quyền chỉ có trong một số ngành, một số lĩnh vực của nền kinh tế. Hơn nữa, sức mạnh kinh tế của các tổ chức độc quyền cũng chưa thật lớn. Tuy nhiên, sau này, sức mạnh của các tổ chức độc quyền đó được nhân lên nhanh chóng và từng bước chiếm địa vị chi phối trong toàn bộ nền kinh tế. Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn phát triển mới- chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Nếu trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, sự phân hoá giữa các nhà tư bản chưa thực sự sâu sắc nên quy luật thống trị của thời kỳ này là quy luật lợi nhuận bỡnh quõn, cũn trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật thống trị là quy luật lợi nhuận độc quyền.

Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản chất của chủ nghĩa tư bản. Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một hỡnh thỏi biến tướng của quy luật giá trị thặng dư.

2. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền

a. Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

          Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hỡnh thành cỏc tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc. Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao. Khi mới bắt đầu quá trỡnh độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hỡnh thành theo liờn kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đó phỏt triển theo liờn kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khỏc nhau. Những hỡnh thức độc quyền cơ bản là cácten, xanhđica, tờrớt, côngxoócxiom, cônggơlômêrat.

          Cỏcten là hỡnh thức tổ chức độc quyền giữa các nhà tư bản ký hiệp nghị thoả thuận với nhau về giỏ cả, quy mụ sản lượng, thị trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán v.v. Các nhà tư bản tham gia cácten vẫn độc lập về sản xuất và lưu thông. Họ chỉ cam kết làm đúng hiệp nghị. Vỡ vậy, cỏcten là liờn minh độc quyền không vững chắc. Trong nhiều trường hợp, những thành viên thấy ở vào vị trí bất lợi đó rỳt ra khỏi cỏcten, làm cho cỏcten thường tan vỡ trước kỳ hạn.

          Xanhđica là hỡnh thức tổ chức độc quyền cao hơn, ổn định hơn cácten. Các xí nghiệp tham gia xanhđica vẫn giữ độc lập về sản xuất, chỉ phụ thuộc về lưu thông: mọi việc mua- bán do một ban quản trị chung của xanhđica đảm nhận. Mục đích của xanhđica là thống nhất đầu mối mua và bán để mua nguyên liệu với giá rẻ, bán hàng hoá với giá đắt nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

          Tờrớt là một hỡnh thức độc quyền cao hơn cácten và xanhđica, nhằm thống nhất cả việc sản xuất, tiêu thụ, tài vụ đều do một ban quản trị quản lý. Cỏc nhà tư bản tham gia tờrớt trở thành những cổ đông thu lợi nhuận theo số lượng cổ phần.

          Cụngxoúcxiom là hỡnh thức tổ chức độc quyền có trỡnh độ và quy mô lớn hơn các hỡnh thức độc quyền trên. Tham gia côngxoócxiom không chỉ có các nhà đầu tư tư bản lớn mà cũn cú cả cỏc xanhđica, tờrớt, thuộc các ngành khác nhau nhưng liên quan với nhau về kinh tế, kỹ thuật. Với kiểu liên kết dọc như vậy, một côngxoóc xiom có thể có hàng trăm xí nghiệp liên kết trên cơ sở hoàn toàn phụ thuộc về tài chính vào một  nhóm tư bản kếch sù.

          Từ giữa thế kỷ XX phát triển một kiểu liên kết mới- liên kết đa ngành- hỡnh thành những cụnglụmờrat hay consơn khổng lồ thâu tóm nhiều công ty, xí nghiệp thuộc những ngành công nghiệp rất khác nhau, đồng thời bao gồm cả vận tải, thương mại, ngân hàng và các dịch vụ khác v.v

          Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền. Giá cả độc quyền là giá cả hàng hoá có sự chênh lệch rất lớn so với giá cả sản xuất. Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hoá mà họ bán ra và giá cả độc quyền thấp hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hoá mà họ mua, trước hết là nguyên liệu. Qua đó, họ thu được lợi nhuận độc quyền. Tuy nhiên, giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư. Vỡ xột  toàn bộ xó hội thỡ tổng giỏ cả vẫn bằng tổng số giỏ trị và tổng lợi nhuận vẫn bằng tổng giỏ trị thặng dư trong các nước tư bản chủ nghĩa. Những thứ mà các tổ chức độc quyền kếch xù thu được cũng là những thứ mà các tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa và nhân dân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc mất đi.

b. Tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính

          Cựng với quỏ trỡnh tớch tụ và tập trung sản xuất, trong cụng nghiệp cũng diễn ra quỏ trỡnh tớch tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hỡnh thành cỏc tổ chức độc quyền trong ngân hàng. Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như trong công nghiệp, do quá trỡnh cạnh tranh cỏc ngõn hàng vừa và nhỏ bị thôn tính, dẫn đến hỡnh thành những ngõn hàng lớn. Khi sản xuất trong ngành cụng nghiệp tớch tụ ở mức độ cao, thỡ cỏc ngõn hàng nhỏ khụng đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho công việc kinh doanh của các xí nghiệp công nghiệp lớn. Các tổ chức độc quyền này tỡm đến các ngân hàng lớn hơn thích hợp với các điều kiện tài chính và tín dụng của mỡnh. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải tự sáp nhập vào các ngân hàng mạnh hơn hoặc phải chấm dứt sự tồn tại của mỡnh trước quy luật khốc liệt của cạnh tranh. Quỏ trỡnh này đó thỳc đẩy các tổ chức độc quyền ngân hàng ra đời.

          Sự xuất hiện, phát triển của các độc quyền trong ngân hàng đó làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trũ mới. Ngõn hàng từ chỗ chỉ là kẻ trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay đó nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xó hội nờn cú quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế xó hội tư bản. Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng cử đại diện của mỡnh vào cỏc cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dừi việc sử dụng tiền vay, hoặc cỏc tổ chức độc quyền ngân hàng cũn trực tiếp đầu tư vào công nghiệp. Trước sự khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trỡnh xõm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho mỡnh. Quỏ trỡnh độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thỳc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính. Tư bản tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa tư bản độc quyền ngân hàng và tư bản độc quyền trong công nghiệp.

          Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hỡnh thành một nhúm nhỏ độc quyền chi phối toàn bộ đời sống kinh tế và chính trị của toàn xó hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính. Những người đứng đầu tài chính thiết lập sự thống trị của mỡnh thụng qua chế độ tham dự. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc (hay là “công ty mẹ”); công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty khác, gọi là “công ty con”; “công ty con” đến lượt nó lại chi phối các “công ty cháu” cũng bằng cách như thế. Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần. Ngoài “chế độ tham dự”, bọn đầu sỏ tài chính cũn sử dụng những thủ đoạn như lập công ty mới, phát hành trái khoán, kinh doanh công trái, đầu cơ chứng khoán ở sở giao dịch, đầu cơ ruộng đất v.v để thu được lợi nhuận độc quyền cao.

     Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các mặt khác. Về mặt chính trị bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng. Sự thống trị của bọn tài phiệt đó làm nảy sinh chủ nghĩa phỏt xớt, chủ nghĩa quõn phiệt và nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nước đang phát triển và chậm phát triển.

c. Xuất khẩu tư bản

          V.I.Lênin chỉ ra rằng, xuất khẩu hàng hoá là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, cũn xuất khẩu tư bản là đặc điểm của giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Xuất khẩu hàng hoá là mang hàng hoá ra nước ngoài để thực hiện giá trị và giá trị thặng dư, cũn xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản đó.

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu do những nguyên ngân

1) Một số ít nước phát triển đó tớch luỹ được một khối lượng tư bản lớn và có một số “tư bản thừa” tương đối cần tỡm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận hơn so với đầu tư ở trong nước

2) Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu tư bản, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.

    Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hỡnh thức chủ yếu là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. a) Đầu tư trực tiếp là hỡnh thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Các xí nghiệp mới hỡnh thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn của công ty nước ngoài. b) Đầu tư gián tiếp là hỡnh thức xuất khẩu tư bản dưới dạng cho vay thu lói. Đó là hỡnh thức xuất khẩu tư bản cho vay.

          Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính ra toàn thế giới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan có những tác động tích cực đến nền kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trỡnh chuyển kinh tế tự cung tự cấp thành kinh tế hàng hoỏ, thỳc đẩy sự chuyển biến từ cơ cấu kinh tế thuần nông thành cơ cấu kinh tế nông-công nghiệp, mặc dù cơ cấu này cũn quố quặt, lệ thuộc vào kinh tế của chớnh quốc.

d. Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền

Quỏ trỡnh tớch tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hỡnh thành cỏc tổ chức độc quyền quốc tế. Thực chất sự phân chia thế giới về kinh tế là sự phân chia thị trường tiêu thụ hàng hoá và đầu tư. Dưới chủ nghĩa tư bản, thị trường trong nước luôn luôn gắn với thị trường ngoài nước. Trước chủ nghĩa tư bản đó tồn tại mậu dịch quốc tế. Nhưng trong thời đại tư bản độc quyền, vấn đề thực hiện ngày càng trở nên đặc biệt gay gắt. Do đó nhu cầu về thị trường ngoài nước tăng lên rất lớn. Trong điều kiện này, các độc quyền không đơn thuần cần thị trường tiêu thụ mà cần thị trường có sự đảm bảo, ổn định thường xuyên, ngăn được mọi đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra, việc độc quyền hoá tăng cường, việc mở rộng không ngừng quy mô sản xuất của các độc quyền đũi hỏi tăng tương đối lượng nguyên liệu mà nguồn cung cấp chủ yếu lại ở ngoài những nước tư bản chủ nghĩa phát triển- nơi các độc quyền sinh ra và hoạt động. Việc kiểm soát các nguồn nguyên liệu mà độc quyền khổng lồ ngày càng quan tâm không thể thực hiện bằng việc trao đổi hàng hoá thông thường mà bằng xuất khẩu tư bản, đặc biệt là dưới hỡnh thức xuất khẩu tư bản sản xuất.

Do đó, trong thời đại tư bản độc quyền, cuộc đấu tranh gay gắt giành thị trường tiêu thụ và nguồn nguyên liệu cũng như lĩnh vực đầu tư tư bản ở nước ngoài ngày càng mở rộng. Sự đụng độ trên trường quốc tế giữa các độc quyền dân tộc có sức mạnh kinh tế to lớn và được sự ủng hộ của nhà nước “của mỡnh”, cuộc đấu tranh ác liệt giữa chúng sẽ diễn ra và tất yếu nảy sinh nguyện vọng thoả hiệp, ký kết các hiệp định để củng cố địa vị độc quyền trong những lĩnh vực hoặc những thị trường nhất định. Các hiệp định về phân chia thị trường thế giới thường được thực hiện dưới hỡnh thức hiệp định Cácten và dẫn tới việc xuất hiện các độc quyền quốc tế hay là các liên minh quốc tế giữa các nhà tư bản. Đó là kết quả của quá trỡnh tớch tụ sản xuất theo chiều sõu và theo chiều rộng. Ban đầu, quá trỡnh tớch tụ sản xuất và hỡnh thành độc quyền dân tộc diễn ra trong phạm vi từng nước. Sau đó trên cơ sở phỏt triển của quỏ trỡnh tớch tụ, cỏc độc quyền lần lượt vượt khỏi biên giới quốc gia. Sự thoả hiệp và cạnh tranh giữa các độc quyền quốc gia của các nước tư bản khác nhau đó dẫn đến sự hỡnh thành cỏc độc quyền quốc tế và sự phân chia về kinh tế giữa chúng. Như vậy, sự phân chia thế giới về kinh tế (hay là sự phân chia thị trường thế giới) là đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Sự phân chia này trở thành tất yếu trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và diễn ra trong các tổ chức độc quyền tư nhân. Kết quả là dẫn tới sự hỡnh thành cỏc tổ chức độc quyền quốc tế dưới các hỡnh thức cỏcten, xanhđica, tơrớt. Sự phân chia này là sự phân chia trực tiếp, có quan hệ gắn bó với xuất khẩu tư bản. Điều đó đó được V.I.Lênin phân tích sâu sắc và cho đến nay vẫn cũn giỏ trị khoa học.

e. Sự phõn chia thế giới về lónh thổ giữa cỏc cường quốc đế quốc

          Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng việc phân chia thế giới về lónh thổ. Cỏc cường quốc ra sức xâm chiếm các nước chậm phát triển để làm thuộc địa nhằm giành thị trường tiêu thụ hàng hoá, nguồn nguyên liệu, nơi đầu tư tư bản có lợi và căn cứ quân sự. Từ sau năm 1880, những cuộc xâm chiếm thuộc địa bắt đầu phát triển mạnh. Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các nước đế quốc đó hoàn thành việc phõn chia lónh thổ thế giới. Song, sự phõn chia đó rất không đều nên tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đũi chia lại thế giới đó chia xong. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai trong nửa đầu thế kỷ XX. Bản chất của sự phõn chia lónh thổ thế giới (hay cũn gọi là sự phõn chia chớnh trị) là thực hiện chủ nghĩa thực dõn, hỡnh thành hệ thống thuộc địa. Ngoài ra, cũn cú hỡnh thức mà V.I.LLờnin gọi là hỡnh thức quỏ độ. Đó là tạo ra sự phụ thuộc về tài chính v.v; ví dụ, Achentina không phải thuộc địa với nghĩa đầy đủ của Anh nhưng là thuộc địa tài chính của quốc gia này.

Về vấn đề này, V.I.Lênin viết “Khi nói đến chính sách thực dân trong thời đại chủ nghĩa đế quốc tư bản, thỡ cần chỳ ý rằng tư bản tài chính và chính sách quốc tế thích ứng với nó (…) đó tạo nờn hàng loạt hỡnh thức lệ thuộc cú tớnh chất quỏ độ của các nước. Tiêu biểu cho thời đại đó, không những chỉ có hai loại nước chủ yếu: những nước chiếm thuộc địa và những thuộc địa, mà cũn cú nhiều nước phụ thuộc với những hỡnh thức khỏc nhau, những nước nào trên hỡnh thức thỡ được độc lầp về chính trị, nhưng thực tế lại mắc vào cái lưới phụ thuộc về tài chính và ngoại giao”[3].

Từ những năm 50 của thế kỷ XX trở đi, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ đó làm sụp đổ và tan ró hệ thống thuộc địa kiểu cũ, nhưng điều đó không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân đó bị thủ tiờu. Trỏi lại, cỏc cường quốc đế quốc chuyển sang thi hành chính sách thực dân mới, mà nội dung chủ yếu của nó là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự để duy trỡ sự lệ thuộc của cỏc nước đang phát triển vào các nước đế quốc.

     Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.

3. Sự hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thăng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền

     Các tổ chức độc quyền hỡnh thành do chớnh sự vận động nội tại của chủ nghĩa tư bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó không vượt ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng, phát triển những xu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng hoá nói chung, làm cho các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hoá và của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện mới.

a. Sự hoạt động của quy luật giá trị

Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đó ỏp đặt giá cả độc quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị không cũn hoạt động. Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng qua là nhằm chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản thỡ tổng số giỏ cả vẫn bằng tổng số giỏ trị. Như vậy, nếu như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh trnah quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất, thỡ trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.

b. Sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư

Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy luật giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bỡnh quõn. Bước sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Do đó quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là hỡnh thức biểu hiện của quy luật giỏ trị thặng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.

          Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp độc quyền; một phần lao động không công của công nhân ở các xí nghiệp không độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị mất đi do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi cả một phần lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản và các nước thuộc địa, phụ thuộc.

     Như vậy, sự biểu hiện của quy luật giá trị thăng dư trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao chỉ là sự phản ánh quan hệ thông trị và bóc lột tư bản độc quyền trong tất cả cỏc ngành kinh tế của xó hội tư bản và trên toàn thế giới.

II. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN NHÀ NƯỚC

1. Nguyờn nhõn hỡnh thành và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

          a. Nguyờn nhõn hỡnh thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

          Vào đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đó chỉ rừ chủ nghĩa tư bản độc quyền chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là khuynh hướng tất yếu. Nhưng chỉ đến những năm 50 của thế ky XX, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước mới trở thành hiện thực rừ ràng và là một đặc trưng cơ  bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại.

     Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời do những nguyên nhân chủ yếu sau

          1) Tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thỡ tớch tụ và tập trung sản xuất càng cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế lớn đũi hỏi sự điều tiết xó hội đối với sản xuất và phân phối, một sự lên kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nói cách khác, sự phát triển hơn nữa của trỡnh độ xó hội hoỏ lực lượng sản xuất đó dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xó hội quản lý nền sản xuất. Lực lượng sản xuất xó hội ngày càng cao càng mõu thuẫn gay gắt với hỡnh thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, do đó tất yếu đũi hỏi một hỡnh thức mới của quan hệ sản xuất để lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện cũn sự thống trị của chủ nghĩa tư bản. Hỡnh thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

          2) Sự phát triển của phân công lao động xó hội đó làm xuất hiện một số ngành mà cỏc tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vỡ đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản…Nhà nước tư sản trong khi đảm nhiệm kinh doanh các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.

          3) Sự thống trị của độc quyền đó làm sõu sắc thờm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách để xoa dịu những mâu thuẫn đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xó hội v.v.

          4) Cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tỡnh hỡnh đó đũi hỏi phải cú sự điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế, trong đó không thể thiếu vai trũ của nhà nước.

          5) Việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với chủ nghĩa xó hội hiện thực và tỏc động của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ cũng đũi hỏi sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế.

          b. Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

     Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một cơ chế thống nhất nhằm làm giàu cho các tổ chức độc quyền và giúp quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thích ứng với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất do cuộc cách mạng khoa học, công nghệ tạo ra.

     Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nó là sự thống nhất của ba quá trỡnh gắn bú chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trũ can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh của độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước trong một cơ chế thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.

     V.I.Lênin chỉ ra rằng “Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày đặc những quan hệ lệ thuộc để bao trùm hết thảy các thiết kế kinh tế và chính trị (…) đó là biểu hiện rừ rệt nhất của sự độc quyền ấy”[4]. Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đó trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư bản thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ ngoài chức năng một nhà tư bản thông thường, nhà nước cũn cú chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xó hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù v.v. Ph.Ănghen cho rằng nhà nước đó vẫn là nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thỡ nú lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu. Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xó hội chứ khụng phải là một chớnh sỏch trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.

          Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trũ kinh tế nhất định đối với xó hội mà nú thống trị, song ở mỗi chế độ xó hội, vai trũ kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xó hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quỏ trỡnh kinh tế, vai trũ của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. Ngày nay vai trũ của nhà nước tư sản đó cú sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xó hội bằng thuế, luật phỏp mà cũn cú vai trũ tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các biện pháp đũn bẩy kinh tế vào tất cả cỏc khõu của quỏ trỡnh tỏi sản xuất: sản xuất, phõn phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hỡnh thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trỡ sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.

2. Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

     a. Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước

     V.I.Lênin đó từng nhấn mạnh rằng sự liờn minh cỏ nhõn của cỏc ngõn hàng với cụng nghiệp được bổ sung bằng sự liên minh cá nhân của ngân hàng và công nghiệp với chính phủ “Hôm nay là bộ trưởng, ngày mai là chủ ngân hàng; hôm nay là chủ ngân hàng, ngày mai là bộ trưởng”[5].

     Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện thông qua các đảng phải tư sản và chủ các hội chủ xí nghiệp. Các đảng phái này đó tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xó hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức bộ máy nhà nước.        Thông qua các hội chủ xí nghiệp, một mặt, các đại biểu các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau; mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được cài vào các ban quan trị của các tổ chức độc quyền, nắm giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành những người đỡ đầu các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập vào nhau này (cũn gọi là sự kết hợp) đó tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giữa cỏc tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến các địa phương ở các nước tư bản.

          b. Sự hỡnh thành khu vực kinh tế nhà nước và sở hữu nhà nước tư sản

     Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng nét nổi bật nhất là sức mạnh của độc quyền và của nhà nước kết hợp với nhau trong lĩnh vực kinh tế. Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế là sự thay đổi các quan hệ sở hữu. Nó biểu hiện không những ở chỗ sỡ hữu nhà nước tăng lên mà cả ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá trỡnh chu chuyển của tổng tư bản xó hội. Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho hoạt động của bộ máy nhà nước, mà gồm cả những doanh nghiệp nhà nước trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xó hội như giao thông vận tải, giáo dục, y tế, bảo hiểm xó hội v.v; trong đó ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất

          Sở hữu nhà nước hỡnh thành dưới những hỡnh thức 1) Xõy dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách. 2) Quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại. 3) Nhà nước mua cổ phiếu của các doanh nghiệp tư nhân. 4) Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các doanh nghiệp tư nhân.

          c. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản

     Một trong những hỡnh thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự điều tiết quá trỡnh kinh tế. Hệ thống điều tiết của nhà nước tư sản hỡnh thành một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dõn, toàn bộ quỏ trỡnh tỏi sản xuất xó hội. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước được thực hiện dưới nhiều hỡnh thức như: hướng dẫn, kiểm soỏt, uốn nắn những lệch lạc bằng cỏc cụng cụ kinh tế và cỏc cụng cụ hành chớnh-phỏp lý, bằng cả ưu đói và trừng phạt; bằng những giải phỏp chiến lược dài hạn như lập chương trỡnh, kế hoạch tổng thể phỏt triển kinh tế, khoa học, cụng nghệ, bảo vệ môi trường, bảo hiểm xó hội v.v và bằng cả cỏc giải phỏp ngắn hạn.

          Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rừ nột nhất sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Chúng bao gồm nhiều lĩnh vực như chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát, chính sách về tăng trưởng kinh tế, chính sách xó hội, chớnh sỏch kinh tế đối ngoại. Các công cụ chủ yếu của nhà nước tư sản để diều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế như ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ-tín dụng, các doanh nghiệp nhà nước, kế hoạch hoá hay chương trỡnh hoỏ kinh tế và cỏc cụng cụ hành chớnh-phỏp lý. Tuỳ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của từng nước, trong từng thời kỳ và sự vận dụng các học thuyết kinh tế, sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản có các mô hỡnh thể chế kinh tế khỏc nhau như mô hỡnh trọng cầu, mụ hỡnh trọng cung, mụ hỡnh trọng tiền v.v. Những học thuyết kinh tế quan trọng đó được vận dụng vào sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước như học thuyết của Kenynes (J.Kenynes 1854-1946) chiếm vị trí thống trị từ những năm 40-70 của thế kỷ XX, sau đó là học thuyết kinh tế của P. A.Samuelson đang là cơ sở lý luận cho sự điều tiết vĩ mô của nhà nước và quản lý vĩ mụ của cỏc doanh nghiệp.

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VAI TRÒ VÀ GIỚI HẠN LỊCH SỬ CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

1. Vai trũ của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển của nền sản xuất xó hội

     Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn, từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền mà nấc thang tột cùng của nó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Trong suốt quá trỡnh phỏt triển, chủ nghĩa tư bản đó cú những mặt tớch cực đối với phát triển sản xuất. Đó là

     1) chuyển nền sản xuất nhỏ thành nền sản xuất lớn hiện đại. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đó giải phúng loài người khỏi “đêm trường trung cổ” của xó hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại. Dưới tác động của quy luật giá trị thăng dư và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá, chủ nghĩa tư bản đó làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng của cải nhiều hơn các xó hội trước cộng lại.

     2) Phát triển lực lượng sản xuất. Quá trỡnh phỏt triển của chủ nghĩa tư bản đó làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với trỡnh độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ công lên lên kỹ thuật cơ khí, sang tự động hoá, tin học hoá và công nghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ là quỏ trỡnh giải phúng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người.

     3) Thực hiện xó hội hoỏ sản xuất. Chủ nghĩa tư bản đó thỳc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh và đạt tới mức điển hỡnh nhất trong lịch sử, cựng với nú là quỏ trỡnh xó hội hoỏ sản xuất cả về chiều rộng và chiều sõu. Đó là sự phát triển của phân công lao động xó hội, sản xuất tập trung với quy mụ hợp lý, chuyờn mụn hoỏ sản xuất và hợp tỏc lao động sâu sắc; mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, cỏc lĩnh vực ngày càng chặt chẽ làm cho cỏc quỏ trỡnh sản xuất phõn tỏn được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống, một quá trỡnh sản xuất xó hội. Tuy nhiờn, những thành tựu chủ nghĩa tư bản đạt được trong sự vận động đầy mâu thuẫn. Điều đó thể hiện ở hai xu hướng trái ngược nhau là xu thế phát triển nhanh chóng và xu thế trỡ trệ của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

     V.I.Lờnin nhận xột, sự phỏt triển nhanh chúng và sự trỡ trệ thối nỏt là hai xu thế cựng song song tồn tại trong nền kinh tế của chủ nghĩa đế quốc. Đó chính là một biểu hiện quan trọng thuộc bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Ngày nay, bản chất này biểu hiện rất nổi bật.    Xu thế phát triển nhanh của nền kinh tế biểu hiện ở chỗ, sau chiến tranh thế giới thứ II, đặc biệt là vào những năm 50, 60 thế kỷ XX, trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới đó xuất hiện thời kỳ tăng trưởng với tốc độ cao hiếm thấy. Trong thời gian 1948-1970, Mỹ, Anh, Pháp, CHLB Đức, Italia, Canađa, Nhật bản v.v có tỷ suất tăng trưởng bỡnh quõn trong tổng giá trị thu nhập quốc dân đạt 5,1%. Đồng thời, việc nâng cao hiệu quả lao động sản xuất cũng rất rừ rệt. Sở dĩ như vậy là do a) yêu cầu nội tại và xu hướng tăng nhanh tốc độ phát triển lực lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. b) nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có những nhân tố kích thích phát triển. c) việc mở rộng thị trường trong và ngoài nước. d) đặc biệt là tác dụng kích thích của hai hệ thống kinh tế thế giới.

     Xu thế trỡ trệ của nền kinh tế hay xu thế kỡm hóm mà V.I.Lênin đó chỉ ra cú nguyờn nhõn cơ bản là do sự thống trị của độc quyền. Độc quyền đó tạo ra những nhõn tố ngăn cản sự tiến bộ kỹ thuật và phát triển sản xuất như quy định giá cả độc quyền, hạn chế sản lượng và mua phát minh kỹ thuật. Ngày nay, các nhân tố gõy trỡ trệ vẫn cũn tồn tại và tiếp tục tỏc động.

     Sự tồn tại song song của hai xu thế trong chủ nghĩa tư bản một mặt nói lên rằng chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn cũn sức sống, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cũn cú thể tự điều chỉnh và trong giới hạn nhất định nó cũn cú thể thớch ứng với nhu cầu phỏt triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy xó hội tư bản chủ nghĩa đang vấp phải những giới hạn nhất định, mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn chưa giải quyết được.

2. Giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản

     Bờn cạnh mặt tớch cực núi trờn, trong quỏ trỡnh phỏt triển, chủ nghĩa tư bản đó gõy ra những hậu quả nặng nề cho loài người; hai cuộc chiến tranh thế giới đẫm máu và hàng trăm cuộc chiến tranh cục bộ khác; chạy đua vũ trang và ô nhiêm môi trường; nạn đói nghèo và bệnh tật của hàng trăm triệu người, nhất là ở các nước chậm phát triển. Giới hạn lịch sử của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trỡnh độ xó hội hoỏ cao của lực lượng sản xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đó cú điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nhưng không thể khắc phục được mâu thuẫn này.

     Mâu thuẫn cơ bản nói trên biểu hiện thành những mâu thuẫn cụ thể sau đây

     a) Mâu thuẫn giữa tư bản và lao động thể hiện ở sự phõn cực giàu - nghốo và tỡnh trạng bất cụng xó hội tăng lên. Sự bần cùng hoá tuyệt đối lẫn tương đối của giai cấp công nhân vẫn đang tồn tại. Tuy đại bộ phần tầng lớp trí thức và lao động có kỹ năng đang có việc làm được cải thiện mức sống và gia nhập vào tầng lớp trung lưu, nhưng vẫn không xoá được sự phân hoá giàu-nghèo ngày càng sâu sắc. Thu nhập của 358 người giàu nhất thế giới lớn hơn thu nhập hàng năm của hơn 45% dõn số thế giới. Tỡnh trạng cụng nhõn, người lao động thất nghiệp ngày càng tăng. Trong xó hội tư bản ngày nay, sự bất bỡnh đẳng và các tệ nạn xó hội vẫn tồn tại một cỏch phổ biến- sự suy đồi về xó hội, văn hoá và đạo đức ngày càng trầm trọng.

     b) Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. Ngày nay, mâu thuẫn này đang chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước chậm phát triển bị lệ thuộc với những nước đế quốc thành mâu thuẫn giữa các nước và tầng lớp thượng lưu giàu có ở phương Bắc với các nước và tầng lớn nghèo khổ ở phương Nam. Nếu so sánh thu nhập thời kỳ 1930-1993 ta thấy khoảng cách giàu nghèo của hai nhóm nước này tăng lên 280% GDP (của 550 triệu dân châu Phi chỉ bằng GDP của nước Bỉ (10 triệu dân). Nhiều tài liệu công bố trên các phương tiện truyền thông đó chứng tỏ cỏc nước thứ ba không những bị vơ vét cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà cũn mắc nợ khụng thể nào trả được. Hàng năm, các nước chậm phát triển vay nợ phải trả cho các nước chủ nợ số tiền lói từ 130 đến 150 tỷ USD. Chớnh vỡ thế, trong những năm 80 của thế kỷ XX, thế giới thứ ba bị trỡ trệ, suy thoỏi. Điều này được Ngân hàng Thế giới khẳng định, ở châu Phi, Mỹ Latinh, hàng trăm triệu người đó nhận thấy, đi cùng với tăng trưởng là sự suy tàn về kinh tế, phát triển nhường chỗ cho suy thoái; ở một vài nước Mỹ Latinh, GNP theo đầu người hiện nay thấp hơn so với 10 năm trước đây. Trong nhiều nước châu Phi, nó cũn thấp hơn cách đây 20 năm” (...) một thế giới mà trong đó từ 20 năm nay ở châu Phi, từ 9 năm nay ở Mỹ Latinh mức sống không ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vùng khác tiếp tục tăng lên tuy có chậm hơn, đó là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được”[6].

          c) Mâu thuẫn giữa các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa ba trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu của thế giới tư bản, giữa các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia. Mâu thuẫn này có phần dịu đi trong thời kỳ cũn tồn tại sự đối đầu giữa hai hệ thống thế giới tư bản chủ nghĩa và xó hội chủ nghĩa, nay cú chiều hướng diễn biến phức tạp sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Một mặt, sự phát triển của xu thế toàn cầu hoá và của cách mạng khoa học và công nghệ khiến các nước đó phải liên kết với nhau. Mặt khác, do tác động của quy luật phát triển không đều và lợi ích cục bộ của giai cấp thống trị ở mỗi nước, các nước đó đó trở thành đối thủ cạnh tranh với nhau, tranh giành quyền lực và phạm vi ảnh hưởng trên thế giới, nhất là giữa ba trung tâm Mỹ, Nhật Bản và Tây Âu. Biểu hiện của mẫu thuẫn giữa các nước ấy trước hết là cuộc chiến tranh thương mại, chiến tranh về đầu tư kỹ thuật, tài chính cũng như sự cạnh tranh giữa TNCs dưới nhiều hỡnh thức.

          d) Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xó hội

     Mâu thuẫn này là mâu thuẫn xuyên suốt thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội trờn phạm vi toàn thế giới. Chế độ xó hội chủ nghĩa ở Liờnxụ và Đông Âu sụp đổ khiến chủ nghĩa xó hội tạm thời lõm vào thoỏi trào, nhưng bản chất thời đại không hề thay đổi. Loài người vẫn ở trong giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xa hội vẫn tồn tại một cách khách quan. Trong thực tế, mâu thuẫn này biểu hiện trong mưu đồ của thế lực đế quốc lợi dụng sự sụp đổ chủ nghĩa xó hội ở một số nước để đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liết bằng mọi thủ đoạn (không loại trừ sự can thiệp bằng quân sự) nhằm xoá bỏ các nước xó hội chủ nghĩa cũn lại.

     Nhưng do điều kiện quốc tế có những thay đổi, do giữa một số nước xó hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đó thiết lập quan hệ chớnh thức về mặt nhà nước, có quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh về nhiều mặt cho nên mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xó hội và chủ nghĩa tư bản ngày nay biểu hiện chủ yếu bằng “diễn biến hoà bỡnh” và chống “diễn biến hoà bỡnh”. Tuy hỡnh thức biểu hiện cú khỏc trước, nhưng đấu tranh giữa chủ nghĩa xó hội và chủ nghĩa tư bản vẫn là cuộc đấu tranh rất quyết liệt diễn ra trên phạm vi toàn thế giới.

     Chủ nghĩa tư bản ngày nay- với những thành tựu đáng kể của nó, là sự chuẩn bị tốt nhất những điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xó hội trờn phạm vị toàn thế giới. Nhưng bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xó hội vẫn phải thụng qua cuộc cỏch mạng xó hội. Dĩ nhiờn, cuộc cỏch mạng xó hội sẽ diễn ra bằng phương pháp nào- hoà bỡnh hay bạo lực, điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử-cụ thể của từng nước và bối cảnh quốc tế chung trong từng thời điểm, vào sự lựa chọn của các lực lượng cách mạng.


[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 2004, t.23, tr.249

[2]  V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.27, tr.402

[3]  V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.27, tr.485

[4]  V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.27, tr.535

[5] V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, t.31, tr.275

[6]Rơnê Đuymông: Mt thế gii không th chp nhn được, Học viện Nguyễn Ái Quốc xuất bản, năm? trang?

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #abc#tuananh