2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng

2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và xây dựng

chế độ dân chủ nhân dân (1945 - 1954):

a. Hoàn cảnh lịch sử:

Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải

Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây ra nhiều cuộc khiêu khích, tàn

sát đồng bào ta ở Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên lạc với phía

Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán, thương lượng.

Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, để cho

chúng kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô, ngày 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung

ương Đảng đã họp hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì

của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái

viên đi gặp phía Pháp để đàm pháp song không có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành

động của Pháp chứng tỏ chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hòa

hoãn không còn. Hòa hoãn nữa sẽ dẫn đến họa mất nước. Trong thời điểm lịch sử

phải quyết đoán ngay, hội nghị đã hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả

nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính

quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày

19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng

ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi

trên Đài tiếng nói Việt Nam.

Thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp xâm lược là ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc và đánh địch

trên đất nước mình nên ta có chính nghĩa, có "thiên thời, địa lợi, nhân hòa". Ta cũng

có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt nên về lâu dài ta sẽ có khả năng đánh thắng quân

xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân

sự ở trong nước và tại Đông Dương không dễ khắc phục được ngay.

Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây

4 phía, chưa được nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân,

đã chiếm đóng được 2 nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có

quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở miền Bắc.

Những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn là cơ sở để Đảng

xác định đường lối cho cuộc kháng chiến.

b. Quá trình hình thành và nội dung đường lối kháng chiến:

Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành từng bước qua thực tiễn đối

phó với âm mưu, thủ đoạn xâm lược của thực dân Pháp.

Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trong chỉ thị Kháng chiến

kiến quốc, Đảng đã xác định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân

Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng. Trong quá trình chỉ

39

đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch đã chỉ đạo kết

hợp đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp

định tách Nam bộ ra khỏi Việt Nam.

Ngày 19/10/1946, Thường vụ Trung ương Đảng mở hội nghị quân sự toàn

quốc lần thứ nhất do Tổng bí thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định

"không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp",

hội nghị đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để quân dân cả

nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong chỉ thị Công việc khẩn cấp bây

giờ (5/11/1946), Hồ Chủ tịch đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi

bước vào cuộc kháng chiến và khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.

Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập

trung trong 3 văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc

kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn quốc kháng chiến của Trung

ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh

(19/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh.

Nội dung đường lối:

- Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng tháng

Tám, "đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc

lập".

- Tính chất kháng chiến: "Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc

chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính

chất toàn dân, toàn diện, lâu dài". "Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do,

độc lập, dân chủ và hòa bình". Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc

giải phóng và dân chủ mới.

- Chính sách kháng chiến: "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động

thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do,

hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân. Thực hiện toàn dân kháng chiến...

Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt".

- Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến: "Đoàn kết toàn dân, thực hiện

quân, chính, dân nhất trí... Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện

toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến.

Giành quyền độc lập, bảo tòan lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc.

Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ... Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự

túc...".

- Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân,

thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là

chính.

- Kháng chiến toàn dân: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng

phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người V.n phải đứng lên

đánh thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng

xóm là một pháo đài.

40

- Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế,

văn hóa, ngoại giao. Trong đó:

o Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng

Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào

và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.

o Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ

trang nhân dân, tiêu diệt địch giải phóng nhân dân và đất đai, thực

hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng

chiến lâu dài... Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo

thêm cán bộ.

o Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc,

tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và

công nghiệp quốc phòng.

o Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nền

văn hóa dân chủ mới theo 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại

chúng.

o Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực.

"Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp", sẵn

sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.

o Kháng chiến lâu dài: là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh

của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân

hòa" của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn

địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.

o Dựa vào sức mình là chính: "Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt" vì ta bị

bao vây 4 phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh

sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước

song lúc đó cũng không được ỷ lại.

o Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song

nhất định thắng lợi.

Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng

đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý

về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất

nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm có tác dụng

đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng

bước ETQqBTđi tới thắng lợi vẻ vang.

Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 - 1950, Đảng đã tập

trung chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự

do lớn, đánh bại cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây

dựng hậu phương, tìm cách chống phá thủ đoạn "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh,

dùng người Việt đánh người Việt" của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên

41

Giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của địch, quân ta

giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.

Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều

chuyển biến mới. Nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan

hệ ngoại giao. Cuộc kháng chiến của nhân dân 3 nước Đông Dương đã giành được

những thắng lợi quan trọng. Song lợi dụng tình thế khó khăn của thực dân Pháp, đế

quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Điều kiện lịch sử

đó đặt ra yêu cầu bổ sunh và hoàn chỉnh đường lối cách mạng, đưa cuộc chiến tranh

đến thắng lợi.

Đáp ứng yêu cầu đó, tháng 2/1951, Đảng cộng sản Đông Dương họp Đại hội

đại biểu lần thứ hai tại Tuyên Quang. Đại hội nhất trí tán thành Báo cáo chính trị của

Ban chấp hành Trung ương do Hồ Chí Minh trình bày và ra nghị quyết tách Đảng

cộng sản Đông Dương thành 3 đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến của 3

dân tộc đi tới thắng lợi. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng

lao động Việt Nam.

Báo cáo Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới

chủ nghĩa xã hội do Tổng bí thư Trường Chinh trình bày đã kế thừa và phát triển

đường lối cách mạng trong các cương lĩnh chính trị trước đây của Đảng thành đường

lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó được phản ánh trong Chính

cương của Đảng Lao động Việt Nam. Nội dung cơ bản là:

- Tính chất xã hội: "xã hội Việt Nam hiện nay gồm có 3 tính chất: dân chủ

nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Ba tính chất đó đang đấu

tranh lẫn nhau. Nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính

chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải

quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân

Pháp và bọn can thiệp".

- Đối tượng cách mạng: cách mạng Việt Nam có 2 đối tượng: Đối tượng

chính hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc

Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể

lúc này là phong kiến phản động.

- Nhiệm vụ cách mạng: "Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt

Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật

sự cho dân tộc, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm

cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho

chủ nghĩa xã hội. Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ

chính trước mắt là hòan thành giải phóng dân tộc. Cho nên lúc này phải tập

trung lực lượng vào việc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược".

- Động lực của cách mạng: gồm "công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị,

tiểu tư sản trí thức và tư sản dân tộc; ngoài ra là những thân sĩ (địa chủ)

yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp thành

nhân dân. Nền tảng của nhân dân là công, nông và lao động trí thức".

42

- Đặc điểm cách mạng: "Giải quyết những nhiệm vụ cơ bản nói trên do nhân

dân lao động làm động lực, công nông và lao động trí thức làm nền tảng và

giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc

cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng đó không phải là cách

mạng dân chủ tư sản lối cũ cũng không phải là cách mạng xã hội chủ nghĩa

mà là một thứ cách mạng dân chủ tư sản lối mới tiến triển thành cách mạng

xã hội chủ nghĩa".

- Triển vọng của cách mạng: "cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt

Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội".

- Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội: "Đó là một con đường đấu tranh lâu

dài, đại thể trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là

hoàn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa

bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người

cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai

đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội,

tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau,

mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau".

- Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: "Người lãnh đạo cách mạng là

giai cấp công nhân". "Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công

nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển

chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để

thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và

tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam".

- Chính sách của Đảng: Có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân

chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng

chiến đến thắng lợi2.

- Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hòa bình và dân chủ, phải tranh thủ

sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc,

Liên Xô, thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và đoàn kết Việt - Miên - Lào.

Đường lối, chính sách của Đại hội đã được bổ sung, phát triển qua các hội

nghị Trung ương tiếp theo.

Tại hội nghị lần thứ nhất (3/1951), Đảng đã phân tích tình hình quốc tế và

trong nước, nhấn mạnh chủ trương phải tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo chiến

tranh, "củng cố và gia cường quân đội chủ lực, củng cố bộ đội địa phương và dân

quân du kích"; "gia cường việc lãnh đạo kinh tế tài chính", "thực hiện việc khuyến

khích, giúp đỡ tư sản dân tộc kinh doanh và góp vốn của tư nhân để phát triển công

thương nghiệp", "tích cực tham gia phong trào bảo vệ hòa bình thế giới", "củng cố

Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức".

2. 15 chính sách gồm: kháng chiến, chính quyền nhân dân, mặt trận dân tộc thống nhất, văn hóa giáo dục, đối với tôn

giáo, chính sách dân tộc, đối với vùng bị tạm chiếm, ngoại giao, đối với Miên Lào, đối với ngoại kiều, đấu tranh cho

hòa bình và dân chủ thế giới, thi đua ái quốc.

43

Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ hai (họp từ ngày 27/9 - 5/10/1951)

đã nêu lên chủ trương đẩy mạnh cuộc kháng chiến trên cơ sở thực hiện tốt 3 nhiệm

vụ lớn là "ra sức tiêu diệt sinh lực của địch, tiến tới giành ưu thế quân sự"; "ra sức

phá âm mưu thâm độc của địch: lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt

đánh người Việt", đẩy mạnh kháng chiến ở vùng bị tạm chiếm; "củng cố và phát

triển sức kháng chiến của toàn quốc, toàn dân, củng cố và phát triển đoàn kết".

Tại hội nghị Trung ương lần thứ 4 (1/1953), vấn đề cách mạng ruộng đất được

Đảng tập trung nghiên cứu, kiểm điểm và đề ra chủ trương thực hiện triệt để giảm tô,

chuẩn bị tiến tới cải cách ruộng đất. Hội nghị cho rằng: muốn kháng chiến hoàn toàn

thắng lợi, dân chủ nhân dân thật thà thực hiện, thì phải thiết thực nâng cao quyền lợi

kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân.

Đến hội nghị Trung ương lần thứ 5(11/1953), Đảng quyết định phát động

quần chúng triệt để giảm tô và tiến hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. "Cải

cách ruộng đất để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi". "Cải cách ruộng đất là

chính sách chung của cả nước nhưng phải làm từng bước tùy điều kiện mà nơi thì

làm trước nơi thì làm sau". "Cải cách ruộng đất là một cuộc cách mạng nông dân,

một cuộc giai cấp đấu tranh ở nông thôn, rất rộng lớn, gay go và phức tạp. Cho nên

chuẩn bị phải thật đầy đủ, kế hoạch phải thật rõ ràng, lãnh đạo phải thật chặt

chẽ...".

Đường lối hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân,

tiến lên chủ nghĩa xã hội của Đảng được thực hiện trên thực tế trong giai đoạn 1951

- 1954.

3. Kết quả, ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh

nghiệm:

a. Kết quả và ý nghĩa lịch sử:

Kết quả của việc thực hiện đường lối:

- Về chính trị: Đảng ra hoạt động công khai đã có điều kiện kiện toàn tổ

chức, tăng cường sự lãnh đạo của đối với cuộc kháng chiến. Bộ máy chính

quyền 5 cấp được củng cố. Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên

Việt) được thành lập. Khối đại đoàn kết toàn dân phát triển lên một bước

mới. Chính sách ruộng đất được triển khai, từng bước thực hiện khẩu hiệu

người cày có ruộng.

- Về quân sự: Đến cuối năm 1952, lực lượng chủ lực đã có 6 đại đoàn bộ

binh, 1 đại đoàn côngbinh - pháo binh3. Thắng lợi của các chiến dịch

Trung Du, Đường 18, Hà-Nam-Ninh, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng

Lào.v.v... đã tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất

đai và dân cư, mở rộng vùng giải phóng của Việt Nam và cho cách mạng

Lào.v.v... Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 được ghi vào lịch sử

3. 6 đại đoàn bộ binh là: 308, 304, 312, 320, 325 và 1 đại đoàn công - pháo binh là 351. Bộ đội tập trung năm

1953 lên đến 33 vạn người.

44

- dân tộc ta như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế

kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu

sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa

thực dân.

- Về ngoại giao: Với phương châm kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và

ngoại giao, khi biết tin Pháp có ý định đàm phán, thương lượng với ta thì

ngày 27/12/1953, Ban Bí thư ra thông tư nêu rõ: "lập trường của nhân dân

Việt Nam là kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Song nhân

dân và Chính phủ ta cũng tán thành thương lượng nhằm mục đích giải

quyết hòa bình vấn đề Việt Nam". Ngày 8/5/1954, Hội nghị quốc tế về

chấm dứt chiến tranh Đông Dương chính thức khai mạc ở Genéve (Thụy

Sỹ). Ngày 21/7/1954, các văn bản của Hiệp nghị Genéve về chấm dứt

chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân ta kết thúc thắng lợi.

- Ý nghĩa lịch sử:

o Đối với nước ta: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng

chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến

tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức

độ cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn

lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm mưu mở

rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh,

lập lại hòa bình ở Đông Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo

điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ, hậu

thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân

tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường

quốc tế.

o Đối với quốc tế: Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên

thế giới; mở rộng địa bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội

và cách mạng thế giới cùng với nhân dân Làovà Campuchia đập tan

ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ

thống thuộc địa của thực dân Pháp.

Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm

lược, Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu

đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân

dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ

và xã hội chủ nghĩa trên thế giới".

b. Nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm:

Nguyên nhân thắng lợi:

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ là kết

quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là:

45

- Có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng, với đường lối kháng chiến đúng đắn

đã huy động được sức mạnh toàn dân đánh giặc. Có sự đoàn kết chiến đấu

của toàn dân tâp hợp trong mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi - Mặt trận

Liên Việt, được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công nông và trí

thức vững chắc.

- Có lực lượng vũ trang gồm 3 thứ quân do Đảng trực tiếp lãnh đạo ngày

càng vững mạnh, chiến đấu dũng cảm, mưu lược, tài trí, là lực lượng quyết

định tiêu diệt địch trên chiến trường, đè bẹp ý chí xâm lược của địch, giải

phóng đất đai của Tổ quốc.

- Có chính quyền dân chủ nhân dân, của dân, do dân và vì dân được giữ

vững, củng cố và lớn mạnh, làm công cụ sắc bén tổ chức toàn dân kháng

chiến và xây dựng chế độ mới.

- Có sự liên minh đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa 3 dân tộc Việt Nam, Lào,

Campuchia cùng chống 1 kẻ thù chung. Đồng thời có sự ủng hộ, giúp đỡ to

lớn của Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa, các dân tộc yêu

chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Pháp.

Bài học kinh nghiệm:

Trải qua quá trình lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến kiến quốc, Đảng đã tích

lũy được nhiều kinh nghiệm quan trọng.

Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho

toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện. Đó là đường lối chiến tranh nhân dân;

kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ

chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ

nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống đế quốc, giải phóng dân

tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới,

xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt đáp ứng yêu

cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Thứ tư, quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài. Đồng

thời tích cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến tranh và nghệ

thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, đưa

kháng chiến đến thắng lợi.

Thứ năm, tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và

hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: