170 truyen ngan hay cua tac gia VN. P4..Yuchun
Nắng chiều
Nguyễn Khải
1
Chị Bơ đe tôi:
- Nếu cậu lại đem chuyện của chị với anh ra viết báo thì đừng có vác mặt đến đây chị chị em em nữa nhá!
Khốn nỗi, cái thằng viết lại vốn có tật thích lôi việc của nhà ra viết. Chuyện hay thì giấu đi, còn chuyện dở thì phóng đại lên. Nên anh em họ hàng phải từ bỏ, vợ con phải giận hờn, bè bạn cũng gớm mặt. Nói tốt về mình là người viết hồi ký, là người bình thường với cái tâm lý thông thường mượn bút mực để tự khoe. Còn kể xấu mình, tự bới móc mọi thói tật của mình thì đích thực là anh nhà văn rồi. Tại sao thế! Tôi cũng không hiểu nữa. Có thể là cái nghiệp dĩ của những người cầm bút chăng? Nhưng lần này tôi viết về bà chị tôi với ông anh rể muộn mằn có khác với những chuyện trước. Lần này tôi chỉ có khoe thôi. Tôi khoe cái hay cái đẹp cái phúc đức của dòng họ nhà tôi, nếu như đây đó thấp thoáng một nụ cười, thì cũng là cái mỉm cười hiền lành, vui một chút, nghịch một chút cho câu chuyện được đậm đà.
2
Tức là chị Bơ tôi bằng lòng đi lấy chồng. Lấy chồng lần thứ nhất là chỉ vừa mới năm nọ. Tôi năm nay đã xấp xỉ sáu mươi tức thì chị tôi không còn trẻ nữa. Năm chị tôi nhận lời xuất giá, là vừa tròn bảy chục tuổi. Chị Ðại, cũng là một bà chị khác của tôi, là em dâu ông Nguyễn Thế Truyền, đứng ra mai mối. Trong họ nhà tôi, đàn ông thì hiền lành, nhút nhát, làm gì cũng sợ, chỉ cầu được yên thân, còn phần lớn các bà lại hết sức ghê gớm, ăn nói ghê gớm, hành động táo bạo, còn các trò chơi của mấy bà thì vô cùng quái đản. Chị Ðại bảo tôi với cái giọng thản nhiên nhất:
- Chúng tao định gả chồng cho bà Bơ, mày thấy thế nào?
- Tôi hét lên:
- Sắp xuống lỗ còn đi lấy chồng, các bà tính toán rõ hay!
Chị Ðại vẫn nói dửng dưng:
- Chúng mày đều là quân ích kỷ. Chỉ nghĩ tới mình mà không nghĩ người. Mày sợ xấu hổ à?
- Chứ lại không, thiên hạ họ biết chuyện phải cười đến vỡ bụng.
Ai cười mặc kệ họ. Là việc hay việc tốt chứ có phải việc xấu đâu mà sợ họ cười.
Tôi vẫn vùng vằng:
- Chị tính lại đi, không phải chuyện đùa đâu. Vỡ lở ra là tai tiếng lắm. Chị Ðại đã hơi cười cười:
- Ðể tao tính lại nhá. Mấy chục năm nay chị Bơ chỉ ở với gia đình cô Hoàng. Nay vợ chồng cô ấy đi Pháp rồi thì chị Bơ ở với ai? Hay là xuống ở với vợ chồng mày.
Tôi lắc đầu:
- Nhà tôi như trại lính, bà Bơ không chịu xuống đâu. ở với chị có được không?
Chị Ðại vẫn cười:
- ở thế nào được. Một bà già đã đủ để con cháu nó cằn nhằn rồi, hầu thế nào được cả hai.
Tôi bắt đầu phân vân:
- Cũng khó nhỉ, tuổi già ở chòm chõm một mình là nguy lắm, lúc đêm hôm...
Chị Ðại thủng thẳng tính:
- ở một mình cũng vẫn được, nhưng đêm phải có người đến cùng ngủ. Mày hoặc vợ mày, hoặc con mày phải thay nhau mà đến, lúc khỏe không đến cũng được, nhưng lúc ốm đau là phải đến.
Sự phản đối của tôi đã bớt hăng hái tới già nửa vì cái viễn cảnh phải cắt phiên nhau xuống cùng ở với bà Bơ. Là mẹ thì buộc phải đến rồi, không thích không vui cũng phải đến. Nhưng là chị, là bà chị họ, cũng phiền nhỉ... à, thế mà khó giải quyết đấy. Nói gì thì nói, cách tính toán của chị Ðại là hết sức thiết thực. Nhân nghĩa hão, sĩ diện dởm, người khổ càng khổ hơn vì có ai chịu đưa tay cho kẻ bất hạnh víu lấy đâu. Trong họ nhà tôi có nhiều bà đẹp đẽ hẳn hoi, có học thức hẳn hoi, làm phu nhân cũng còn được huống hồ làm vợ làm mẹ như mọi người mà đành chịu cảnh phòng không chỉ vì những tính toán không đâu vào đâu của các bậc cha mẹ. Thời Mỹ lại đòi chỉ gả con cho những gia đình quan lại, môn đăng hộ đối, là dở hơi hết sức. Ði làm dâu những gia đình đã tàn lụi, với những bà mẹ chồng hút thuốc sâu kèn, nói năng đài các nhưng một xu không dính túi, những ông chồng quen thói ăn chơi nhưng chẳng có nghề ngỗng gì, ra thở vào than vì thời thế đã đổi thay, thì còn khổ cực, nhục nhã hơn con ở. Thà ở vậy mà hóa hay. Chị Bơ tôi sở dĩ muộn chồng vì cả một thời son trẻ chả ai để ý đến chị cả. Là con ông bác họ lên ở với chú thím với các em. Tiếng là người trong gia đình nhà quan, nhưng cô cháu nghèo làm sao dám so bì với các bà em phú quý. Ðã nghèo lại không được đẹp, lại ăn mặc xuềnh xoàng, nói năng rất ít, luôn luôn xuất hiện ở phía sau, là người rất cần thiết cho mọi người nhưng vẫn bị mọi người quên bỏ. Chị bị bỏ quên cũng vì chị không bao giờ đòi, chị cam phận, lại tự khép mình vào cái khuôn khổ lễ giáo đã không còn mấy ai theo nữa. Các bà chị con ông bác tôi vẫn chê chị Bơ là người cổ mà, trời đất ơi, đã nghèo lại còn cổ thì coi như số phận đã được an bài rồi.
3
Cái chuyện vui lúc tuổi đã xế chiều của bà chị tôi được bắt đầu như sau:
Cách đây khoảng bảy, tám năm, một bà chị khác lập nghiệp ở xứ Bờ Biển Ngà có làm giấy bảo lãnh cho chị Bơ sang ở bên đó. Hai bà vốn hợp tính nhau từ thời con gái, về già đều là những tín đồ rất nết na của đạo Phật, có ăn ở với nhau ít năm cuối chắc cũng êm ấm. Ðã nghĩ mọi việc xong xuôi chỉ còn đợi ngày đi thì bà bên kia lại viết thư về báo hoãn, vì nghe đâu chính phủ bên ấy sẽ thay đổi, sẽ đổ hẳn, nên vợ chồng phải di chuyển cơ nghiệp qua Pháp. Nói vậy thì biết vậy, chứ còn cái gì sau đó ai mà biết. Chị Ðại phàn nàn với tôi: "Bà Bơ tuổi Sửu, cái số ấy là vất vả lắm, một đời hầu hạ các ông em bà em, rút lại tay trắng. "Xưa nay chị Bơ chỉ biết sống cho các em, dựa dẫm vào các em, vui buồn hộ mọi người, nay các em kéo nhau đi tuốt tuột, còn trơ lại có một mình, ăn không ra bữa, ngủ không ra giấc, chẳng có cái gì riêng để mà lo mà buồn, đi lại như cái bóng, va vào cái này đụng vào cái kia của hai căn buồng vừa ẩm vừa tối, nghĩ thật tội. Ai cũng than thở là rất tội mà không một ai mở miệng mời bà chị nhất họ tới ở nhà mình để tiện bề chăm sóc, vợ chồng tôi cũng thế. Lúc khỏe đã vậy, lúc ốm thì sao, ốm một trận rồi chết cũng đã vất vả, lại ốm đến vài năm mới thật rầy rà. Cũng may trong họ còn có chị Ðại. Chị có quyền la mắng tất cả mà không ai dám giận vì chị ăn ở rất thật lòng, lại rất thạo việc. Việc người sống và người chết của cả một họ mà không có chị dúng tay vào là y như bê bết. Nói cho đúng chị cũng không dúng tay, một ngón tay cũng không động đậy, mà chỉ dùng miệng thôi, tính giùm cho thôi. Cái việc này thì thủ tục phải như thế này, sự chi tiêu phải như thế này, và chị cắt đặt luôn, một lũ con cháu và kẻ ăn người làm cứ thế mà chạy. Và chị đã lặng lẽ đảo ngược cái vận số của chị Bơ bằng một bài toán đến thần tình. Số là cách đây đã nửa thế kỷ, có một anh thanh niên con nhà nghèo nhưng rất đẹp trai và học cũng giỏi, vừa đỗ bằng Thành chung xong, tới gia đình ông bác tôi làm người kèm học cho mấy ông anh còn nhỏ tuổi. Người ra mở cửa đóng cửa cho thầy giáo trẻ là chị Bơ, năm đó cũng khoảng mười tám đôi mươi. Ði lại được vài năm thì anh giáo trẻ ngỏ lời xin được cưới chị Bơ, vì anh đã tìm được việc làm ở một nhà thương nào đó. Vậy là cả nhà cười, cười lăn cười lộn. Là cười cái táo tợn của một thằng con trai chẳng biết trời cao đất dầy gì, mới dám mở mồm đòi làm cháu rể cụ Thượng. Cháu cũng như con, phải tìm cửa tương xứng để gả bán chứ. Người con trai vì xấu hổ, vì giận thân không đến nữa. Vậy là thôi. Theo chị Ðại, hình như chỉ có một lần ấy, cái lần duy nhất ấy, có một người đàn ông để ý đến chị Bơ, quý mến cái dịu dàng, cái lặng lẽ, cái đảm đang của chị và mong mỏi được mời chị về sống với nhà mình. Rồi anh ta lấy vợ, đẻ một bầy con, rồi góa vợ và lấy một đời vợ nữa, lại thêm mấy đứa con và góa vợ lần thứ hai. Người đàn ông có cái số phận vất vả ấy tên là Phúc, cái năm bắt đầu câu chuyện cảm động này đã bẩy mươi mốt tuổi, hơn bà chị tôi một tuổi. Tôi cũng chưa rõ, do một tình cờ nào mà chị Ðại được biết ông Phúc sắp đi Pháp theo giấy bảo lãnh của con. Cái kế hoạch đầy tính nhân đạo và thực tế của chị lập tức thành hình và lập tức chuyển động. Chị nhờ một cô cháu có quan hệ họ hàng với ông Phúc tới bàn với ông, bằng cách nào đó có thể đưa chị Bơ đi, sang tới Pháp các bà em sẽ tới đón chị về ở nhà họ, vì anh chị em không có quyền đứng ra bảo lãnh nhập cảnh. Ông Phúc bằng lòng ngay và nói thêm: "Nhưng phải làm giấy giá thú mới hợp lệ!". Chị Ðại đã trả lời liền, giá thú thì giá thú, sang tới Pháp là hết giá trị, mà cũng chả cần làm giấy ly hôn, còn lấy được ai nữa mà cần giấy ly hôn. Tôi hỏi chị Ðại:
- Lần đầu chị bàn với chị Bơ cái chuyện này, chị Bơ bảo sao?
Chị Ðại cười:
- Giẫy nẩy như đỉa phải vôi. Mặt mũi đỏ nhừ đỏ tử. Gái chưa chồng nói chuyện hôn nhân ai chả thế.
Tôi cũng phì cười:
- Cái bà này có những sáng kiến đến quái đản.
Chị Ðại lườm nhẹ tôi, nói đay:
- Nếu mày không thích thì mày mời bà ấy về ở nhà mày. Cho tao được rảnh nợ.
Tôi nín lặng. Chị Ðại nói tiếp
- Bà ấy chửi tao một lúc rồi ngồi im. Tao chỉ hỏi lại có một câu: tùy bà, nếu bà không bằng lòng thì bảo tôi để tôi còn có lời nói lại.
- Chị Bơ bảo sao?
- Còn bảo sao! Bảo là tùy cô, cô muốn làm gì thì làm chứ tôi không biết.
- Vậy là xong à?
- Xong chứ, người ta vẫn còn vướng vất cái tình cũ mới đưa vai ra gánh lấy, chứ vui vẻ quái gì.
4
Vậy là chị tôi đi lấy chồng, nói cho đúng là giả đò lấy chồng, về danh nghĩa vẫn có giấy giá thú, nhưng ông ở nhà ông, bà ở nhà bà, cơm ai nấy ăn, giường ai nấy nằm, không có gì khác trước. Chị Ðại với chị Hoàng là hai bà hay nói tục nhất họ, nói những chuyện đến các em, và các cháu ngồi nghe cũng phải đỏ mặt, nên chị Ðại cũng có những lời bình luận về sự ở riêng này, chị nói tục lắm tôi không tiện viết ra đây. Tôi có nghe nói bữa hai ông bà dắt nhau ra phường đăng ký hôn thú, cô ủy viên thư ký phường hỏi bà cụ theo đúng thủ tục: "Thưa bác, bác kết hôn lần này là lần thứ mấy?". Bà cụ cúi gằm mặt không dám trả lời, ông cụ phải nói thay "Lần thứ nhất". Lấy chồng lần thứ nhất mà không có chạm ngõ, không ăn hỏi, không cưới xin gì cả, đến bữa cơm thân mật trong gia đình cũng phải hai tháng sau mới dám làm, nghĩ cũng tội. Mà là con cháu nhà quan hẳn hoi. Tháng đầu chị tôi đi lấy chồng, tôi không dám lại thăm. Sợ chị tôi ngượng, tôi cũng sợ tôi ngượng. Nhưng tôi vẫn thấp thỏm đợi cái bữa ăn mà bà chị và ông anh sẽ mời. Nói cho thật, không phải vì miếng ăn, mà muốn đến để "quan sát" một chút. Chắc là bà chị tôi cũng biết thế nên nhất định bà không mời cái thằng em mất nết, chuyện bố mẹ nó, nó còn chẳng tha, huống hồ chuyện của các bà chị. Chị Ðại gọi bữa cơm đó là bữa cơm đoàn kết, cái từ cách mạng dùng vào trường hợp này thật là khéo quá. Chứ còn biết gọi gì khác. Sau bữa cơm hai họ chừng vài ngày, bà Bơ cũng làm một bữa cơm thân mật chỉ mời riêng có ông Phúc và mấy người con của ông lại ăn thôi. Bà lão nấu ngon quá, nghề riêng mà, nên chỉ mấy ngày sau ông lão lại mò đến xin ăn một bữa nữa. Rồi ngày nào cũng đến đòi ăn, ăn bữa trưa. Rồi ăn cả bữa tối. Rồi đòi ngủ lại, vì say quá, vì trời tối quá, thiếu gì lý do xin được ngủ lại của một ông già đang ngất ngây trước hạnh phúc mới. Tôi toét miệng cười. Chị Ðại trợn mắt nhìn tôi, quát to: "Thằng mất dậy! Mày nghĩ gì mà lại cười, hả!".
5
Phải hơn hai tháng sau tôi mới được gặp cả hai vợ chồng bà Bơ. Là nhân ngày giỗ ông nội tôi, tức ông ngoại bà Ðại, ông chú bà Bơ, tại nhà ông anh trưởng họ. Bà đến trước đã cả giờ rồi mới thấy ông đến. Chả ai chào ai, cứ như người dưng. Tuy ông Phúc đã ngoài bảy chục tuổi nhưng còn đẹp lão lắm, vóc dáng cân đối đi lại nhanh nhẹn, cái miệng và con mắt của ông già khi cười khi nói còn rất là lẳng. Ðàn ông như thế nếu muốn lấy một bà trong ngoài bốn mươi chả có gì là khó. Lại có tiền nữa. Quả tình ông ấy đối với bà chị tôi vẫn còn vương vấn phần nào cái hương vị của mối tình đầu. Là vẫn không ngớt nghĩ về nhau, nghĩ về một cô gái nhút nhát, lặng lẽ, có thể làm người vợ hiền, người mẹ đảm không ngờ số phận lại hẩm hiu đến thế. Khi ông ấy chưa đến, chị Ðại có hỏi bà Bơ: "Bà đã dặn kỹ địa chỉ chưa? Nhà trong hẻm, lối đi lắt léo là khó tìm lắm". Bà Bơ trả lời ngắn gọn: "Ðã bảo rồi". Chị Ðại lại hỏi: "Ông ấy vẫn đi xe đạp à? Ðừng ỷ vào sức khỏe, ngã chết có ngày". Vẫn trả lời rất ngắn gọn: "Nói mãi nhưng không nghe". Tôi nghiêng mặt cười mủm mỉm, vì chợt nghĩ cách xưng hô của những cặp vợ chồng trẻ mới cưới cái thời còn đánh Pháp. Vào bữa ăn, tôi được xếp ngồi cạnh bà Bơ và ông chồng. Bà Ðại ngồi phía đối diện với ông trưởng họ. Ông trưởng họ là người hết sức thật thà, có nghề xem tử vi và tướng mặt, nghe ông ấy nói về vận số, ai cũng vừa lòng, vì mọi cái xui xẻo đã thuộc về năm qua tháng qua, còn tháng tới và năm tới chỉ gặp toàn những may mắn. Ông trưởng họ ngắm nhìn bà Bơ rồi tán: "Khí sắc chị Bơ rất vượng, năm tới là chuyện vui lắm". Bà Ðại buông một câu, nghe muốn nổi da gà: "Năm tới bà Bơ có tin vui, hả?". Tất cả mọi người đều cúi mặt, không ai dám nhếch môi. Mặt bà Bơ tái đi, còn ông chồng thì quay lại nhòm vợ rồi cười hề hề. Cái giống đàn ông thật quá tệ! Ông trưởng họ vẫn tiếp tục tán tụng bà chị hết sức hồn nhiên: "Chị dạo này trông đẹp hẳn ra". Rõ nỡm. Khen một bà lão đẹp ra, vậy mà cũng đòi làm thầy tướng số! Lại vẫn bà Ðại bình luận: "Cái đó đã hẳn, khỏi cần phải cậu nói". Tất nhiên tôi phải tế nhị hơn ông trưởng họ, nên tôi không nói gì cả, cũng không nhìn chăm chú vào một ai, chỉ lắng nghe và thoáng nhìn thôi. Tôi để ý thấy chị Bơ vẹo cổ tay cầm đôi đũa của ông chồng lấy giấy bản lau qua một lượt, rồi lại lau qua cái bát ăn. Chị không nói một lời và mắt vẫn nhìn thẳng. Lúc ăn cơm, chị gắp một miếng thịt gà, dùng tay lọc xương ra, lại xé miếng thịt cho nhỏ, rồi gắp vào bát của chồng. Cái ông chồng đến là nhõng nhẽo, chỉ đợi vợ gắp thức ăn mới ăn, cho gì ăn nấy, không tự đụng đũa vào bất cứ món nào khác. Chị Ðại nhận thấy ngay, chị quát lên: "Cái ông này đại lãn nhỉ, mắt bà ấy đã lòa dở, không hầu vợ thì thôi lại bắt vợ hầu mình". Ông chồng lại há mồm ra cười, hàm răng giả thật đều và thật trắng. Cuối bữa ăn, nhà chủ đưa cho mỗi người một cái khăn tay dấp nước nóng, ông Phúc mở khăn lau mặt rồi đưa cho vợ. Bà vợ cầm lấy cái khăn lau dở của chồng lau luôn mặt mình. Tôi cúi mặt xuống, sống mũi cay xè, chỉ muốn nhỏ ra mấy giọt nước mắt của yêu thương.
6
Lấy chồng được nửa năm thì chị Bơ phải đi mổ mắt. Một mắt bên phải mờ hẳn đi như có màng kéo, bác sĩ bảo phải mổ. Chị đến nằm ở nhà thương Ðiện Biên Phủ, cô gái út của ông chồng xách hai túi to vừa quần áo vừa đồ dùng vặt vãnh theo mẹ kế cùng vào bệnh viện. Mẹ nằm trên giường, cô con chồng trải mảnh ni lông nằm dưới chân giường, mà là con gái nhà giàu, là tiểu thư. Anh trai và chị dâu thì phóng xe máy đưa cơm ngày hai buổi, vợ đưa cơm trưa, chồng đưa cơm chiều, rồi bón cơm cho mẹ, ép mẹ ăn từng thìa, tiền tiêu như nước. Bữa tôi tới thăm chị Bơ, chị đã được tháo băng mắt, nhưng phải mang kính, nhìn mọi thứ vẫn còn mờ mịt. Chị em trò chuyện được một lúc thì ông Phúc tới. Bà đi bệnh viện được vài ngày thì ông ở nhà bị vấp ngã. Ngã nhẹ thôi nhưng đi lại đã phải dựa vào cây gậy. Ông chống gậy lò dò bước vào, cô con gái vội kéo ghế mời bố ngồi kề giường mẹ. Ông kẹp cây gậy trong đùi, đưa tay nắm lấy bàn tay gầy guộc của bà vợ, hỏi nhỏ nhẹ: "Ðêm qua bà có ngủ được không? Con mắt mổ còn nhức lắm không?". Bà Bơ trả lời: "Thưa, đã đỡ nhiều ạ, đêm qua chỉ thức có một lần thôi ạ". Con gái nói thêm: "Ðêm qua mẹ ngủ say lắm, trưa nay mẹ dùng cơm cũng đã được trên lưng bát". Bà Bơ vẫn để ông lão nắm lấy tay mình, than thở: "Thưa, con mắt tuy đã lành nhưng cái nhìn còn kém lắm, chỉ sợ nó kém mãi thì không làm gì được, ông lại vất vả". Một bà nằm giường bên, cũng ngồi gần đó bắt chuyện: "Bà cụ cứ sợ con mắt bị hỏng con cháu phải hầu, thêm bận họ ra". Ông Phúc nói rất to: "Bà nhà tôi cứ hay nghĩ quẩn, mình hầu hạ chúng nó cả một đời, nay chúng nó có phải hầu lại mình cũng chỉ vài năm chứ mấy. Chả là cái tuổi chúng tôi cũng sắp được về hầu các cụ tôi rồi". Tôi nghe ông anh rể nói chỉ muốn bật kêu lên: "Anh ơi, anh là người đàn ông chung tình nhất, rộng lượng nhất. Ước gì bọn em được tốt như các anh".
7
Bà Bơ ở bệnh viện về được vài tháng, con mắt bị mổ sáng lại dần, bà lại đi chợ, lại nấu cơm ngày ba bữa hầu ông, thì ông chồng lại bị ngã lần thứ hai.Là do ông vẫn đi xe đạp, cái chân đau vừa khỏi lại nhảy lên xe liền, rồi vấp té, tuổi già té xe đâu phải chuyện nhỏ, nhưng ông lão khoẻ chỉ nằm viện có mấy ngày, các khớp xương đã hết sưng nhưng phải nằm, như người liệt. Tôi đến thăm thấy ông nằm đọc sách, chăn nệm trắng tinh, vẻ mặt thỏa mãn như rất bằng lòng với số phận. Chỗ ông nằm thì cực kỳ sạch sẽ, nhưng cái chỗ của bà nằm bừa bộn như cái bếp. Ðúng là cái bếp thật với đủ thứ dụng cụ phức tạp để phục vụ cho cái ăn của người nằm phòng trong. Mà hầu hạ một cách tươi vui, như được dịp báo đáp một ơn nghĩa rất khó trả. Lần nào tôi đến thăm, chị cũng bảo: "Anh vừa nhắc đến cậu, cứ thắc thỏm đã lâu không thấy cậu đến". Rồi bắt phải ở lại cùng dùng cơm với anh. "Anh ăn một mình buồn lắm". Bữa cơm hàng ngày do chị tôi nấu vẫn rất ngon, nấu ngon hơn nhiều bà vợ. Miếng bít tết thật mềm, bát canh cá dưa thật ngon, đến đĩa dưa đĩa cà muối cũng thơm ngon lạ thường. Lần nào ngồi vào ăn tôi cũng hỏi: "Thế chúng nó đâu cả?" "Chúng nó" không phải là người của gia đình nhà gái. Không có người nào bên họ nhà gái tới hầu hai ông bà những lần ốm đau, đến thăm thì có mồm mép đỡ chân tay thì có. "Chúng nó" đây chỉ là mấy người con và cháu của ông anh rể tôi thôi, nhưng gọi thế cho nó thân, vừa thân lại vừa khéo, là không phân biệt con ông hay con bà, là con của cả ông và cả bà. Ông anh rể như có biết cái ý tứ ấy nên ông trả lời: "Cậu tính, bây giờ chỉ có hai vợ chồng già hầu nhau chớ trông cậy thế nào được bọn nó. Tôi đau thì bà hầu tôi, bà đau thì tôi hầu bà. Nói dại, bây giờ bà nhà tôi cũng đau nốt, thì tôi phải tự bò ra bếp nấu cháo nấu cơm chứ biết gọi ai". Chắc không chỉ là một câu nói nịnh mà còn là cái tình thực. Bao giờ ông anh tôi nói tôi đều muốn ứa nước mắt cả.
8
Ông anh rể tôi hóa ra phải nằm thật, nằm đã hai năm nay, nằm ở nhà vợ vì ông đã quyết định về ở hẳn với bà. Có một lần tôi than thở với chị Ðại về cái nghiệp báo nặng nề của chị Bơ một đời người vất vả, đã nghĩ về già được thảnh thơi chút ít lại lẩm cẩm đi rước một người đàn ông xa lạ về hầu, cái số kiếp gì lại đen đủi đến thế.
Chị Ðại quắc mắt nạt nộ ngay, theo chị hai năm qua là quãng đời đẹp nhất của bà Bơ, được hai năm ấy rồi có phải chết cũng thỏa. Tôi vẫn nhăn răng ra cười, hơn bảy chục tuổi đầu vẫn phải đi chợ, phải nấu ăn ngày ba bốn bữa, thi thoảng có tạt qua các em, ngồi chưa nóng chỗ đã láo liên đòi về, "vì anh ở nhà có một mình", ngày không được nghỉ mà đêm ngủ cũng không đẫy giấc, sống như thế lại bảo là rất thỏa, có mà điên. Chị Ðại nhìn tôi một cách rất khinh bỉ rồi giảng giải:
- Một đời bà Bơ có cái gì là của riêng mình đâu, đến một thằng đàn ông của riêng mình cũng không có. Bây giờ bà ấy đã có một ông chồng, là của riêng bà ấy, là mon homme, là ông nhà tôi, ông xã nhà tôi, nó vui lắm, hãnh diện lắm, không nói ra nhưng cứ nhìn mặt là tao biết. Hầu hạ một ông già nửa liệt nửa què mà mặt tươi hơn hớn cứ như người vừa bắt được của, mắt mày mù hay sao mà không nhận ra? Còn tao ấy à, tao lại khác, tao lấy chồng từ năm mười bảy tuổi, ăn ở với nhau trên năm chục năm mới dứt được cái nợ đời, ở với nhau lâu quá tức là nợ, hầu một thằng đàn ông trên nửa thế kỷ lắm lúc muốn phát điên lên, nó chán quá, nhàm quá, ngày nào cũng làm từng ấy việc, nói từng ấy câu, giận hờn nhau cũng là trong bài bản đã quen thuộc. Chán muốn chết. Nên đã có lần tao đi mẹ nó sang Mỹ, ở cả năm với con gái và con rể, trông con cho chúng nó, để cho đời nó khỏi nhàm .
ồ, lại ra là thế. Hình như là thế thật vì có thấy chị Bơ phàn nàn gì về những vất vả của chị đâu, mà lại còn vui lắm, lại chẳng ốm đau gì, cứ khỏe ra, mắt như sáng dần, đi lại phăm phăm, nói năng cũng nhiều hơn và hoạt bát tinh tường hẳn. Cái sức mạnh thầm kín nào đã khiến một bà lão trẻ hẳn lại, vui hẳn lại, có vẻ ham sống hơn trước, còn dám tính toán cả những việc của tương lai? Là tình yêu chăng? Này, các bạn trẻ, các bạn chớ vội cười. Các bạn chớ có nghĩ một cách tự phụ rằng chỉ ở lứa tuổi của các bạn mới biết mãnh lực của tình yêu. Không nên chủ quan như thế! Các bà nội cũng vẫn có, nếu như cái ma lực ấy các cụ không tiêu xài quá phung phí lúc thiếu thời.
Trong số các bà chị và ông anh còn đang sống ở thành phố, tôi rất thích đến thăm và tán chuyện với chị Bơ và ông chồng rất tốt bụng của chị. Cũng như trước đây tôi đã nghiền đến chơi với chị Hoàng, dầu rằng mỗi lần gặp, chị đều trêu chọc tôi, chửi thẳng chửi xéo tôi vì tôi là thằng cộng sản rắn mặt như lời đồn đại trong họ. Chị chửi tôi, chửi cộng sản, nhưng chị chửi có duyên quá nên tôi vẫn năng đến. Ðến với chị Bơ tôi lại có một nhu cầu khác. Tôi lặng lẽ ngắm nghía ông anh rể ngồi lom khom trên ghế, cây gậy kẹp trong đùi, vừa nhìn vợ làm cơm, vừa kể chuyện Ðông Tây kim cổ, chuyện vui và cả chuyện buồn, giọng kể ngọt ngào, âu yếm, còn bà vợ chạy lui chạy tới, quay trước quay sau, hai bàn tay không lúc nào ngưng nghỉ, chốc chốc lại quay mặt về phía chồng, hỏi một cách thơ ngây, một cách nũng nịu: "Lại ra thế hả ông?", "Con người đẹp thế, tốt thế mà bạc phận ông nhỉ? "¡n cơm xong, ông ngồi hút thuốc lá, bà ngồi sát cạnh, đặt bàn tay gầy guộc nhăn nheo lên đùi chồng, ông chồng nắm chặt lấy bàn tay ấy, nắn bóp các ngón và trò chuyện với tôi, thỉnh thoảng lại hỏi vợ, "Ngón tay bà sao lạnh thế, lòng bàn tay cũng lạnh, bà đưa hộp dầu tôi xoa cho". Lạy trời cho anh chị tôi được sống thêm mươi năm nữa, cho đời thêm ấm áp, thêm đẹp. Và tôi thầm cảm ơn chị Ðạt, một bà chị hễ mở miệng nói là ai cũng ngán nhưng ai cũng thương vì khẩu xà mà tâm phật. Chỉ có cái tâm tốt của con người mới làm nẩy nở được những cái mầm yêu thương đang bị thui héo ở đâu đó.
Ngày 27-11-1989
Nàng công chúa lạc loài
Trần Thị Thùy Mai
Chuyện xảy ra thực tình cờ, đúng năm năm sau ngày Cầm bỏ gian phòng này đi. Năm năm, bức chân dung của nàng vẫn còn lại trên tường, mái tóc dài như rong, màu áo tím, tím đến cả ánh mắt. Mắt nàng sâu thẳm, rợn người. Ðã bao năm nàng ngồi đó, thầm lặng tham dự vào cuộc đời tôi - cho đến buổi chiều hôm ấy...
Túc đến tìm tôi ở cổng cơ quan, lúc tôi vừa chủ trì xong một buổi họp quan trọng. Hắn luôn luôn biết rõ lúc nào đầu óc tôi căng thẳng, mệt mỏi và luôn tìm được những lý do rất bất ngờ. Có hôm hắn trịnh trọng tuyên bố: "Tao chiêu đãi mầy... nhân ngày giỗ bố tao". Có khi thì "Nhân kỷ niệm ngày tao yêu lần đầu", có khi thì nhân danh ngày rằm, ngày vía gì đó. Chiều hôm ấy, như mọi lần, hắn gợi ý "chiêu đãi" tôi bằng cách đi kiếm một đứa con gái về để chung vui. Tôi cười, không đồng tình cũng không phản đối. Từ lúc tôi có tiền và bắt đầu lao vào cuộc ăn chơi, Túc đã dẫn đến quá nhiều loại đàn bà con gái đến nỗi không nhìn vào một phụ nữ nào mà tôi không cảm thấy nghi ngờ. Tất cả bọn họ đối với tôi đã trở thành một món ăn vừa chán nhàm vừa không thể thiếu.
Trời xẩm tối, tôi về phòng. Không có xe Túc dưới chân cầu thang. Một dòng phấn trên chiếc bảng con: "Tao có việc gấp, sẽ trở lại ngay". Hừm. Việc gấp? Tôi nhún vai. Không khí lạnh phả vào mặt, tê tái thú vị. "Tách" một cái, cửa mở, trước mặt tôi là một khoảng tối mờ với tiếng muỗi vo ve... tôi sờ soạng bật công tắc. Ánh đèn rực sáng. Như mọi lần, bức tranh mầu tím đập vào mắt tôi. Nhưng lần này, trước bức tranh có một thiếu nữ ngồi im lặng.
Tôi đến gần. Một cô bé chừng mười sáu tuổi thu mình trên chiếc ghế mây, hai tay bó gối. Vóc người tròn trĩnh với chiếc áo gió mầu mận chín. Ðôi mắt mở to kinh ngạc đầy vẻ bỡ ngỡ trẻ thơ. Tôi rùng mình vì một cảm giác vừa thích thú vừa ghê tởm. "Mẹ kiếp, thế này thì có lẽ thần thánh cũng có thể làm dỏm được, trời ạ!".
Tôi chậm rãi ngồi xuống mép giường, chậm rãi hút hết điếu thuốc, quẳng mẩu đầu lọc vào sọt. "Lại đây". Tôi hất hàm gọi. Cô gái ngoan ngoãn đứng dậy, rồi lại ngồi xuống. Tôi bước đến, nâng cằm cô bé:
- Em tên gì?
Cô ta rụt rè, giọng khản đi:
- Ái
Một cái tên quen quen! Nhưng quan trọng gì, thường đây là cái tên giả. Ðiều cần thiết là có một cái từ để gọi, dù trong một đêm thôi. Tôi cúi xuống định bế bổng cô ta lên.
*
* *
Trông con nít quá, vẻ măng sữa trên làn da và đôi mắt làm tôi thấy ghê ghê, nhưng thực tình mà nói, có thể làm gì hơn trong lúc này!
Và chuyện bất ngờ xảy ra ngoài dự đoán.
Khi tôi chạm vào vai cô gái, cô đứng phắt dậy, mặt mũi tái xanh và khuỵ xuống. Hoảng hốt, tôi đặt cô lên giường, cuống quýt mở các cúc áo bó chặt lấy cô. Chợt tôi sững người: dưới cổ, một vết ruồi son đỏ tươi, như một hạt đậu xinh xinh. "Ái Duy... Trời ơi, đúng Ái Duy rồi !. "hình như nghe gọi đúng tên mình, đôi mắt hôn mê nhắm nghiền của thiếu nữ hé mở. Trong vẻ ngái ngủ ngây dại đó, tôi nhận ra đứa bé học trò mười năm trước.
Năm ấy Ái Duy lên bảy, tôi vừa vào đại học. Tôi là người dạy kèm, vừa là bạn vừa làg cô bé ái mồ côi mẹ. Cha Ái Duy là giám đốc một cơ quan lớn trong thành phố. Ông luôn bận rộn với công việc và thường xuyên vắng nhà. Trong căn nhà rộng, u nhã, lạnh lẽo chỉ còn hai chúng tôi với một bà cô nghễnh ngãng, nếu không kể một bầy chim câu ở mé trái hiên nhà và vô số nhân vật trong những cuốn chuyện cổ trên giá sách.
Ái là một cô bé hơi kỳ cục, vừa ngoan hiền vừa bướng bỉnh. Cô bé yêu bố một cách kỳ lạ và đã quen nghĩ về bố như một phẩm chất siêu việt. Ái thèm biểu lộ tình thương hết sức, và vì bố luôn vắng mặt, cái tình cảm trẻ con sôi trào chan chứa ấy được san sẻ qua tôi. Ái Duy đã vẽ bao nhiêu bức tranh với hộp mầu tôi mua cho, rồi chính tôi đã dán những bức tranh ấy lên bốn bức vách của phòng học - gian phòng nhỏ có những cửa sổ viền hoa tím xinh xinh. Những bức tranh đã ghi lại cả thế giới cỏn con của anh em tôi. Này đây là ông bố với cặp kính trắng và cái áo kiểu Tôn Trung Sơn, tay cầm chùm chìa khóa - khóa xe hon đa, khóa tủ, khóa nhà, khóa phòng giấy, khóa tủ hồ sơ... cô bé đã cố công đặc tả hình thù từng chiếc một. Bà cô nghễnh ngãng thì luôn luôn có chiếc chảo to trên tay. "Em thích nhất là lúc cô đang chiên bánh phồng tôm". Những chiếc bánh phồng tôm làm cho bé Ái đặc biệt thích thú, không phải vì ngon, mà vì cái cách chúng duỗi ra và phình to như có phép màu trong chảo dầu nóng.
Còn những bức về Ái và tôi thì nghệch ngoặc và sai sự thực một cách tuyệt vời. Một khung cửa sổ mầu tím có hoa nơi bệ cửa, tôi và Ái ngồi trên những bông hoa, y như một màn xiếc. Tôi và Ái đứng trên một cành ổi trĩu quả, chân mang giày, người thẳng đứng. Khi tôi chỉ ra điều vô lý đó, Ái cau mày suy nghĩ rất lâu rồi bất chợt tìm ra giải pháp: vẽ ngay cho mỗi người một đôi cánh. Thế là tôi và Ái đậu trên cây như đôi chim, không lo ngã xuống bao giờ. Sẽ không ai nhận ra những nhân vật thần kỳ này, nếu chàng trai không có chiếc mũ bê rê to và cô bé không mang một chấm ruồi son được cố tình tô rất đậm, rất tròn dưới cổ...
Chính cái chấm son vừa đập vào mắt tôi... Không hiểu bằng con đường nào, nhân vật thần kỳ bé bỏng đã bay đến đây, nằm trên chiếc giường phóng đãng này?
*
* *
Tôi đến bên cửa sổ, lẳng lặng đốt thuốc và chờ.
Ái Duy cựa mình, mở mắt, ngẩn ngơ một lát rồi ngồi hẳn dậy.
Bất giác, tôi buồn nôn, một nỗi ghê tởm xen lẫn bực bội. Tôi không biết ứng xử thế nào trong hoàn cảnh này, và cuối cùng đã chọn cách ứng xử theo thói quen. Ái Duy đã tới đây, nghĩa là bé Ái không còn nữa. Nghĩa là trong tôi, chút thiên đường cuối cùng, nếu có, cũng đã tản cư vào địa ngục. Tại sao tôi không được quyền buông thả trong địa ngục của mình?
Gieo mình xuống giường, tôi quờ tay nắm lấy tay cô bé, bàn tay nhỏ mềm như cánh chim câu. Ái Duy kêu lên một tiếng, giằng tay ra và lùi về phía bên kia giường. Trò vờ vĩnh ngây thơ? Tôi đã gặp khá nhiều loại nữ sinh "chíp chíp" ở đây, đủ để biết cái lối giả vờ lần đầu sa ngã là một thứ trang sức không mất tiền của những loại đàn bà trước tuổi đó. Nhưng lần này, hình như không phải thế. Ðôi mắt mở to sợ sệt kia biểu lộ điều gì đây thành khẩn đến xót xa. Óc hiếu kỳ của tôi bị kích thích đến cực độ và tôi quyết định đi đến cùng xem sự thể ra sao. Mặt giường phút chốc bừa bộn dưới một cuộc giằng co quyết liệt. Không hiểu từ lúc nào, tôi đã nắm chặt hai tay cô gái trong tay mình với một sức ghì siết mãnh liệt làm toàn thân tôi tê dại và mê mẩn.
Ái Duy kêu lên nhưng không dám kêu to, những tiếng kêu như tiếng thở. Nàng lăn vào sát bên tôi để giằng tay ra, những ngón tay mảnh mai dịu mềm cố sức gỡ tay tôi. Một lối tự vệ hết sức dại dột... Thình lình giữa lúc ấy có tiếng đập cửa, rồi tiếng huýt sáo vang lên từ ngoài hiên gác. Túc trở lại, đúng như đã hẹn.
Lẽ ra tôi phải mở cửa cho hắn vào. Nhưng cô gái dường như hiểu ra điều chi sẽ đến, cố chắp tay lại, nhìn tôi lặng im như van vỉ. Bất chợt tôi thấy lại bé Ái trong ánh mắt ấy. Hạ giọng rất khẽ tôi bảo:
- Em đừng sợ.
Nhìn thấy bức màn đầu giường, tôi nhẹ nhàng kéo Ái Duy vào đó. Cô bé ngoan ngoãn theo tôi như không hề nhớ trước đây có một chút tôi vừa làm cô hoảng sợ đến mức nào. Bây giờ điều làm cô khiếp hãi đang đứng ngoài khung cửa.
Túc gọi tên tôi một lúc, rồi im lặng. Có lẽ hắn đang nhìn vào lỗ khóa, và đang bể đầu chẳng hiểu tại sao chẳng có ai trong phòng. Chiếc xe hai ống khói của tôi vẫn nằm im dưới chân cầu thang kia mà.
Bên tôi, Ái Duy run rẩy nép sát vào như nhờ che chở. Bỗng chốc những ham muốn trong tôi nguội lại, chỉ còn nỗi xót thương. "Một lát thôi, hắn sẽ đi". Tôi thì thầm. Ðúng vậy, năm phút sau có tiếng làu bàu gắt gỏng, rồi tiếng xe rồ ga, xa dần.
Ðồng hồ chỉ bảy giờ tối. Gió bắt đầu thổi trên mái nhà, ngọn cây me đập từng cơn vào cửa sổ. Cô gái đứng sững giữa căn phòng, ngơ ngẩn, phân vân.
- Em không cần tiền sao? - Cuối cùng tôi lên tiếng hỏi, phá tan nỗi yên lặng rình rập giữa hai người.
Cô bé nhìn tôi, như không hiểu tôi nói gì.
- Thế sao em lại đến đây?
Ái Duy khẽ chớp mắt, hai giọt lệ rơi xuống. Mắt nàng mầu hạt dẻ với hàng mi cong dày và những tia nhìn kỳ lạ mà ngày xưa tôi chưa từng thấy bao giờ.
Tôi cầm tay Ái Duy dẫn đến bên bàn ăn, lần này là cái cầm tay thân tình của người chủ nhà. Tôi ăn một mình vì nàng cứ ngồi trơ không nhúc nhích.
Lát sau, không chịu nổi, tôi bỏ đĩa, xúc từng thìa thức ăn đút cho Ái Duy, nàng miễn cưỡng, nhai, nuốt, mắt nhìn đăm đăm về phía trước, rồi chợt bật khóc, khóc thật sự như đứa trẻ.
"Mẹ ơi!", Ái Duy kêu lên, tiếng gọi cổ sơ nhất thốt ra từ mọi nỗi đau, khiến mắt tôi bỗng dưng cay xót. Ái Duy! Bé Ái Duy ngày xưa! Ðiều gì đã xảy ra với em?
- Em phải đi - cô bé ngẩng mặt lên, dường như hiểu nỗi thắc mắc của tôi.
- Không được. Em ngồi đây, nghỉ một lát. Nhà em ở đâu? Tôi sẽ lấy xe đưa em về.
Tôi biết rất rõ nhà Ái Duy ở đâu, căn nhà sau những tán lá ổi xanh và giàn hoa tỏi tím. Gần mười năm không đến đó, nhưng đường đi tôi vẫn chưa quên. Thế mà đã vờ vĩnh; thì ra tự thâm tâm, tôi cũng sợ Ái Duy nhận ra tôi, tôi vẫn sợ thằng tôi quỷ sứ bây giờ xóa nhòa hình ảnh thần kỳ trong những bức tranh thời thơ ấu của nàng.
"Không... Không, em không về nhà nữa. "Ái Duy rụt người lại khi nghe đề nghị của tôi. "Thú thực, em làm tôi chẳng hiểu gì cả, cô bé ạ, nhưng hình như em đang gặp rắc rối. Tôi có thể giúp em được gì không?". Cô bé nhìn tôi từ đầu đến chân như muốn đánh giá lại xem có thể tin cậy con người xa lạ đứng trước mình tới mức nào. Không rõ bộ dạng tôi lúc đó ra sao nhưng Ái Duy dần dần dịu lại, tỳ cằm lên bàn tay.
- Em sẽ kể cho anh nghe - cô bé khựng lại, thảng thốt - nhưng anh đã quen biết gì em đâu? - phút ngập ngừng qua đi, cô bé bắt đầu câu chuyện của mình.
- Này nhé, tên em là...
Tôi khẽ đặt một ngón tay lên miệng: "Suỵt, đừng, em không cần phải nói tên với anh. Anh chưa biết em là ai, và sẽ không biết em là ai ở đâu. Nhưng cứ kể cho anh nghe, anh hứa sẽ tìm cách giúp em".
"Bây giờ nghĩ lại, em không hiểu sao có thời kỳ em sống bình an phẳng lặng như thế. Em có trường học, bạn bè, những kỷ niệm vui, những nỗi buồn, nỗi thiếu thốn xót xa cảm thấy mình thèm có mẹ, thèm được vỗ về yêu thương, nhưng tất cả những vui và buồn, thiếu và đủ ấy đều phẳng lặng, ổn định trong một trật tự đã thành nếp từ thời còn bé. Tất cả chỉ xảy ra khủng khiếp là khi người đàn bà ấy đến gặp em. Lúc bấy giờ đã tan trường, cô ấy đón đường em ngay cổng. Cô ta ném vào mặt em mảnh áo may ô rách như một lời nguyền rủa. Em chịu trách nhiệm gì về mảnh áo ấy ? Ấy thế mà, từ lời nguyền rủa ấy, cuộc sống em như gãy gập. Em không biết diễn tả cách nào. Em chỉ biết có điều gì đó đã sụp đổ, một trật tự đã đảo lộn. Không bao giờ còn như trước, không bao giờ nữa.
Em quên nói là mẹ em đã mất từ khi em còn nhỏ. Em lớn lên lặng lẽ, cô thì không nghe em nói gì bao giờ, còn ba thì đi mù mịt chẳng mấy lúc có nhà. Ba em rất nghiêm, khắc kỷ, dù vậy em rất yêu ba, gần như tôn thờ..." Bây giờ, Ái Duy đang nằm úp mặt trên gường, cằm tỳ lên hai tay. Ánh đèn dừng lại trên sống mũi thon thon, một nửa khuôn mặt chìm trong bóng mờ. Tôi ngồi trong ghế bành, hút thuốc và nhìn những sợi tóc cô đang trải ra trên mặt gối.
Tự đáy lòng, em cảm thấy mất mát không gì bù đắp nổi từ khi ba em lấy vợ. Nhưng may mắn sao mợ em là một người mẹ kế rất tốt. Vả lại, em đã quá quen với sự cô độc đến nỗi chẳng còn thấy buồn chán nữa. Ở trong nhà em hòa thuận hiếu lễ và cô đơn. Mỗi bữa ăn em vẫn nói chuyện, vui cười, âu yếm các em, thưa gửi với ba mợ. Rồi những giờ còn lại em ru rú trong căn phòng trên gác, đó là thế giới của em, ở đó em thực sự sống cuộc đời của mình.
Gia đình em vẫn phát triển với những tiện nghi ngày càng phong phú, những tiện nghi tất nhiên là đến bằng con đường chân chính, vì ba em là một người nghiêm trang mẫu mực, đúng đắn đến mức khô khan. Ba em sống nghiêm túc đến nỗi ban khiếu tố ở địa phương đã phải bật cười vì kinh ngạc, rồi sau đó mới bất bình phẫn nộ, khi có tin cô văn thư của cơ quan hô hoán lên rằng ba em đã giở trò chim chuột và định cưỡng hiếp cô ta. Cái tin đó chẳng khác nào một thứ chuyện vừa khó tin vừa không có thực. Ở đời không thiếu những lời vu khống, nhưng không ai có thể vu khống những vị bồ tát. Hành động vu cáo trở lại trừng phạt kẻ chủ mưu: Cô văn thư bị buộc phải xin thôi việc.
Từ đầu đến cuối, ba em không phân trần nửa lời. Ông không thiếu người ủng hộ và bênh vực, khi cần đến. Kể cả mợ em, người làm chứng có giá trị cao nhất. Trước ban khiếu tố, mợ em đã nhận vào giờ xảy ra vụ việc như lời người đàn bà kia tố cáo, ba em ốm nghỉ ở nhà, và chính mợ đã điện thoại mời bác sĩ đến thăm bệnh. Làm sao ông có mặt một lúc hai nơi được? Tất cả trôi qua như một bài toán đơn giản, và tưởng chừng rồi sẽ chẳng còn ai phải nhớ.
Nhưng một chiều, người đàn bà ấy đón em trước cổng trường. Em suýt không nhận ra cô ta, vì cô ta đã gầy tọp đi, hai gò má nhô cao, tóc xõa rũ rượi. Cô ta có bốn đứa con và hiện nay không có việc làm nữa.
Người đàn bà nhìn em, đôi mắt chết, và rút ra một mảnh vải. Ðó là một mảnh may ô bị xé toạc, có chữ đầu tên ba em thêu trên đó. (Ba em thường đi công tác nên em đã đánh dấu tất cả quần áo của ông để tránh lẫn lộn).
Em cầm mảnh vải nhận ra dấu hiệu ngạc nhiên:
- Tại sao cô xé áo của ba tôi... Nhưng lúc nào? "Lúc ông ấy nằm trên bụng tôi". Giọng nói lạnh lẽo của người đàn bà vang lên bên tai em. Em lặng người đi như hóa đá. Em biết cô ấy đã thua trận, ngã gục, bây giờ cô ta căm hận và báo thù.
Khi em về đến nhà, ba em không có ở đó. Em đến bên mợ. Mợ đang thử cái máy may mới mua. Em đặt mảnh áo xuống bên mợ, lặng lẽ. Mợ quay nhìn, rồi cau mày yên lặng. "Con điên sao?". Lát sau mợ hỏi và nhìn em. Cái nhìn cho biết là bà đã hiểu và không cần giải thích gì thêm nữa.
"Con điên sao". Câu hỏi của mợ làm em không biết vịn vào đâu mà lần nữa. Lẽ nào là điên rồ, cái nguyện vọng muốn biết sự thật về những gì thân thiết nhất của đời mình? Bất giác em nhận ra giọng nói bình thản kia, đã từ rất lâu rồi chính mợ đã hiểu hơn ai hết, ba em là người như thế nào... em rùng mình, chới với như vừa thụt chân xuống vực sâu...
Trước mắt em, mợ thản nhiên tiếp tục đạp máy. Hình ảnh mợ in trên những vật dụng đắt tiền trong gian phòng. Mợ đã có đủ để không cần thắc mắc gì thêm cả. Còn em, em không cần gì cả, em cần ba em. Nhưng làm sao em có lại ba như vẫn từng đã có? Làm sao sự phẳng lặng trở lại? Làm sao yên tâm và hy vọng? Làm sao...
Em gập người lại, lảo đảo, muốn nôn mà không nôn được. Mợ em ngẩng lên, nhìn thấy em giật mình:
- Con ốm à? Mợ hỏi.
Em lắc đầu:
- Không. Con không muốn sống trong cái nhà này nữa.
Ái Duy!". Mợ kêu lên, vừa lo lắng vừa tức giận.
"Con không muốn sống trong cái nhà này nữa." Em nhắc lại và nấc lên nhưng em không khóc. Như một người lên cơn động kinh, em thấy chân tay co giật. Mợ em nhào vào phòng ngủ. Bà đi gọi điện thoại cho ba em. Trong trạng thái kích động mãnh liệt, em đi thẳng ra đường, hai tay không cầm một thứ gì tùy thân.
Những con đường. Những con đường nhảy múa trước mắt em. Xe cộ, cây cối, người qua lại. Những con đường!
Em đi, đi hoài, không nghĩ ngợi. Một cái gì đấy đã rạn vỡ, không thể hàn gắn được nữa. Một thế giới đã sụp đổ không còn nơi nương náu.
Ðêm lạnh, phố vắng. Em dần dần nhận ra mình đói, rét, mỏi mệt và nếu cứ đi tiếp mãi em sẽ thành một trong những người điên lang thang của thành phố này.
Em ngồi xuống chiếc ghế đá bên mé công viên. Một chiếc xe máy rà lại. Em nhìn một lúc mới nhận ra một người đàn ông đang cúi xuống:
- Lên đây, anh chở đi. Chết cóng bây giờ.
Em không nhớ sau đó em và anh ta đã nói những gì. Em chỉ nhớ trong trạng thái mê muội tê cóng, mình đã lên ngồi sau xe.
Lúc đến căn phòng này, em bắt đầu thấy sợ. Hình như có điều gì khủng khiếp sẽ đến. Nhưng em không thể ra khỏi trạng thái rũ liệt. Anh ta pha cho em một cốc chanh nóng nhưng em chỉ hớp được một hớp. Thấy vậy, anh ta ra khỏi phòng, khóa trái cửa lại.
Dần dần, em hơi tỉnh lại, bắt đầu nhớ ra mình đang ở nơi đâu. Giữa lúc đó em nghe tiếng người lên thang, và anh đến...
Ái Duy ngừng kể. Trời tối mịt mùng trên ô kính chắn gió.
Cô bé kiệt sức. Lúc kể xong, cả người cô rung lên, mái tóc dài úp sát xuống gối. Tôi ngồi yên trong ghế bành. Không biết làm gì, cũng không biết nói gì.
Trên giường, Ái Duy nằm yên, lịm dần trong giấc ngủ. Những ngấn nước mắt còn đọng quanh mi.
Ðêm ấy tôi ngủ trên tấm drap trải giữa sàn nhà, cuộn mình trong chăn. Ðêm yên tĩnh, tôi nghe tiếng thổn thức trong cơn mơ ngủ thỉnh thoảng dội lên từ lồng ngực cô gái trẻ thơ. Hình như tôi đã từng cảm thấy nỗi đau đớn ê chề này hơn một lần trong đời. Tôi đã cảm thấy như thế vào ngày Cầm bỏ đi sau khi bĩu cặp môi khinh khi tuyệt đẹp trên tình yêu thần thánh của tôi ngày đó. Tôi đã đau đớn nằm trên cái sàn nhà này - lúc ấy còn trơ trụi chưa hề có dấu vết những vật dụng xa hoa - Nằm, tự nguyền rủa và muốn hủy diệt cả cuộc đời bất lực của mình. Rồi chợt bản năng sinh tồn trỗi dậy, tôi ra đi, lột xác, vứt bỏ những niềm tin, chấp nhận những con đường ngắn nhất để có quá hơn những gì Cầm đòi hỏi. Khi cuộc sống đã đầy ắp thú vui vật chất, tôi khoái trá nghĩ sẽ có ngày Cầm ao ước trở lại với tôi và lúc đó tôi sẽ quay lưng để làm nhục nàng. Nhưng nàng không quay trở lại, bao năm nàng không trở lại. Dần dần, lòng căm thù nguôi ngoai, nghĩ đến Cầm tôi chỉ còn một cảm giác mơ hồ không vui không buồn. Ðôi khi tôi cảm ơn nàng đã khiến tôi đủ sức mạnh để thay đổi số phận mình - đúng thế, lòng căm hận có khi còn mạnh hơn cả tình thương yêu. Nàng đã cho tôi một số phận khác và biến tôi thành một con người khác. Bây giờ tôi không căm ghét nàng nữa vì lẽ giản dị: tôi đã trở thành giống như nàng.
Bây giờ, cạnh tôi là một cô gái mười sáu tuổi thất vọng. Thế giới thần tiên của tuổi thơ tan biến: một thế giới khác, nham nhở, ti tiện hiện ra. Hôm nay cô bé ngạt thở, vùng vẫy. Ngày mai cô sẽ thở quen không khí ấy, thậm chí không thể thiếu nó. Cũng như tôi bây giờ...
Suốt trong đêm, ánh mắt ma mị của Cầm cứ xoáy vào tôi, cám dỗ, xúi giục, khêu gợi một điều gì vốn có từ trong bản năng của đàn ông. Tôi nhổm dậy, đến ngồi cạnh Ái Duy. Đôi mắt nhắm nghiền mệt mỏi. Gò ngực thiếu nữ phập phồng dưới lớp chăn. Tôi rít thuốc liên tục, rồi đứng dậy đưa cái giường xếp nhỏ ra hành lang, cùng với chiếc chăn bông đương đầu với đêm lạnh.
Ðêm lặng yên, lặng yên đến không thể nào chịu được.
*
* *
Sáng mai tôi tỉnh dậy. Tiếng lá ngoài kia rì rào: hình như hôm nay trời ấm hơn.
Cửa phòng mở hé. Tiếng nhạc nho nhỏ phát ra từ chiếc Cassette ở đầu giường: "Chuông thanh thanh, chuông thanh thanh, chuông giáo đường thanh thanh...". Thấy tôi bước vào. Ái Duy đang ngồi hát theo tiếng nhạc chợt dừng lại, mỉm cười. Đó là lần đầu Ái Duy cười với tôi từ hôm qua đến giờ. Trong nụ cười thấp thoáng vẻ hoàn hồn, tin cậy và tôi biết đó là phần thưởng đền bù cho một đêm không ngủ.
- Bây giờ em mới nhớ, hôm nay là Nôen.
- Vâng. Hôm nay, nếu em đồng ý, anh sẽ đưa em đi chơi để nhìn trời đất Giáng sinh.
Ái Duy nhìn tôi như dò xem trong lời đề nghị ấy có gì đáng sợ không.
- Em đừng ngại. Anh hứa không làm cho em sợ hãi đâu... Anh xin em, mình không thể ở đây lâu hơn được. Sẽ có người đập cửa như hôm qua ấy.
Ðiều đó hoàn toàn là thực, vì những thằng bạn phóng đãng của tôi đâu có để lỡ dịp tụ tập vào một ngày rảnh rỗi như thế này. Mặt Ái Duy xanh rờn: "Vâng, vâng, em sẽ đi". Tôi mỉm cười: sự tình cờ đã đẩy tâm hồn trẻ con dễ thất vọng mà cũng dễ tin này về phía tôi, và chốc lát tôi biết mình đã từ gã hoang đàng biến thành tay hiệp sĩ. "Ðược rồi, anh sẽ cố gắng làm cho ngày hôm nay không buồn tẻ, nhưng ta phải giao ước nhé: hôm nay ai cũng phải vui, không ai được nhắc đến chuyện buồn. Ngày Chúa ra đời mà!".
Hai chúng tôi thỏa thuận với nhau và ngồi vào điểm tâm, với món mì cua muôn năm của anh chàng độc thân. Ái Duy nhìn lên bức chân dung của Cầm. Cái nhìn ngây thơ của cô bé như bị hút vào ánh mắt mê hoặc của nàng tiên cá trong tranh.
- Ai đấy anh?
- Người đàn bà của đời anh đấy. Em hãy nhìn thoáng qua thôi, nhìn lâu sẽ bị hớp hồn, giống như anh ngày trước.
- "Em thấy sợ" - Ái Duy nói. "Có cái gì ma quái ấy, anh ạ".
- Ðúng, nàng là ma, ở đấy quá lâu nàng đã biến thành ma quỷ. Em không tưởng được đâu. Những đêm trăng hắt vào, nàng lè lưỡi ra dài hàng thước. Từ trong giường nhìn ra, anh ớn lạnh, cô độc đến xây xẩm mặt mày.
Ái Duy mở to mắt nhìn tôi như muốn hỏi xem đùa hay thật. Rồi cô bé trầm ngâm nhìn chân dung thiếu phụ, mặt thoáng vẻ phân bì trẻ thơ:
- Anh... anh đã yêu cô ấy nhiều lắm, phải không?
Tôi gật đầu. "Ðẹp quá. Chắc anh không bao giờ quên cô ấy". Bỗng dưng tôi thấy buồn cười: "Anh cũng không biết. Có thể là thế". Không, hình như tôi đã không hề nghĩ gì về Cầm. Tôi đã quên nàng từ rất lâu, những nhức nhối cũng đã qua. Nhưng nàng vẫn còn đó mãi mãi vẫn còn đó, trên từng vật dụng xa hoa bừa bãi, trên gối chăn hàng đêm xê dịch trong cuộc truy hoan, trong sự trống rỗng chán chường gậm nhấm đời tôi!
Chiếc Bonus chạy như mũi tên lao trên đường. Ái Duy ngồi sau, tôi chỉ nghe thoang thoảng tiếng nói, hình như cô bé hỏi tôi tại sao lại dùng cái xe to kềnh càng như thế này.
- Xe này theo kịp cả ô tô, Ái Duy ạ!
- Ðể làm gì?
- Ðể làm gì à? Anh không biết. Có lẽ để thỏa mãn lòng háo thắng. Cái đó quỷ quái và mạnh mẽ lắm, em ạ. Không có điều đó, chắc cuộc sống của anh chẳng còn gì.
Như để chứng minh điều vừa nói, tôi cho xe vọt chạy lên. Những cây xanh hai bên đường như giật lùi mờ thoáng. Vài chiếc ô tô cũ rỉ rả bên đường tụt về phía sau. Ái Duy cười, tiếng cườ itrong như thuỷ tinh. Ðúng là trẻ con, khóc đấy rồi cười đấy. "Sợ không? Có sợ thì ôm lấy người lái nhé". Tôi cho xe phóng nhanh hơn nữa, tốc độ chóng mặt. "Không!" Cô bé bướng bỉnh trả lời. Xe phóng nhanh hơn nữa. "Không! Không."... Tiếng Ái Duy reo trong gió, rồi một lát, tôi thấy bàn tay nhỏ mềm bám nhẹ vào vai mình: "Em chóng mặt quá". Tôi cười thành tiếng, tiếp tục phóng xe. Ái Duy kêu to: "Em sẽ buông tay ra. Em té xuống cho mà xem". Tôi sợ, đầu hàng, cho xe chậm lại. Sau lưng tôi, Ái Duy đấm thùm thụp, trách móc. Bỗng nhiên tôi cười vang, nghịch ngợm như chú học trò nhỏ.
Bãi cỏ dưới chân đồi Thiên An xanh ngắt, những cây thông non ẩn mình lấp ló dưới thung lũng đầy sương.
- Sao đến đây hở anh?
- Thì em đã chẳng bảo là đến bất cứ đâu cũng được. Ðã lâu lắm anh không đến chỗ này. Sáng nay, lúc đi cùng em trên đường, tự nhiên anh thấy nhớ cảnh cũ.
Thuở còn đi học, tôi thường đến ngọn đồi này, có lúc là để yên tĩnh ôn thi, có khi để mượn những cuốn sách rất xưa ở thư viện của nhà dòng. Lâu lắm rồi, tuy vẫn ở trong thành phố, tôi không trở lại. Bây giờ tôi ngồi đây, trên chiếc áo mưa trải rộng, Ái Duy nằm sấp, chiếc áo gió đỏ thắm vẽ một vệt mầu tươi sáng trên cỏ xanh.
Vẻ mặt Ái Duy khiến tôi nghĩ cô bé đang sống trong mơ. Và lạ thay, tôi cũng có cảm tưởng như thế: một giấc mơ bất ngờ, kỳ lạ.
"Hình như em đã đến đây nhiều lần, khi còn nhỏ.". Ái Duy vừa nói vừa chăm chăm nhìn xuống hồ Thủy Tiên. Ðôi lông mày đen, cau lại như muốn đào sâu vào trí nhớ:
- Ðúng, đúng rồi! Ở đây có một mặt hồ tròn và bên kia là tu viện... Khi còn nhỏ, em đã nhìn, và tưởng tượng tới tòa lâu đài và mặt hồ bằng gương trong chuyện Chú lính chì... Tôi gõ gõ lên mái tóc Ái Duy. Đúng, tôi cũng vừa nhớ lại đã có lần dẫn cô bé học trò lên đây, thuở đó Ái Duy còn thích ngậm ô mai. "Em đã đến đây với một người." Ái Duy bỗng thở dài. Tiếng thở hòa tan vào cơn gió đang xì xào quanh mặt hồ rồi mất hút trong thung lũng thông. "Bây giờ em không còn hình dung được mặt mũi người ấy nữa. Thế mà thuở đó đọc truyện cổ tích, em luôn thấy các hiệp sĩ và các hoàng tử có đôi mắt và miệng cười giống hệt anh ấy...".
Ái Duy dừng lại, bứt một bông cỏ, chúm môi thổi vào nhị hoa.
- Bây giờ anh ấy đâu rồi - Tôi hỏi.
- Em không biết. Lâu lắm rồi, tự nhiên em lại nghĩ đến. A! Nếu mà anh ấy vẫn còn ở nhà, có lẽ hôm qua em sẽ không ra đi.
Vẻ mặt Ái Duy rũ ra, buồn bã.
- Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Em làm tôi phật lòng ghê gớm lắm đấy.
- Vì sao?
- Nếu hôm qua em vẫn ở nhà, hôm nay tôi chẳng được biết em. Giờ đây em không vui sao. Hãy nhớ lời giao ước đấy nhé!
Ái Duy vội vã trả lời: "Ồ! Không, không, vui chứ".
- Ít ra tôi cũng dễ thương gần bằng ông anh hoàng tử của em ngày trước.
Ái Duy nhìn tôi chăm chăm:
- Anh chẳng giống gì anh ấy đâu. Anh ấy nghiêm và hiền. Anh ấy cũng không có ria mép...
- Khó gì ria mép. Có thể nơi nào đấy ông anh của em bây giờ cũng đã để ria mép, không chừng cả râu quai nón nữa.
Ái Duy phá ra cười: "Nhất định không có đâu, những người hiền lành không có râu".
- Nghĩa là anh dữ tợn lắm?
Ái Duy lắc đầu: "Ðến bây giờ em cũng chẳng rõ anh là người thế nào?".
- Thế sao em lại dám đi cùng tôi?
- Em cũng không biết, nhưng em linh cảm, nhất định anh không phải là ma quỷ.
Câu nói giản đơn của nàng, không hiểu sao, làm tim tôi se thắt.
Ái Duy đứng dậy, chạy xuống lòng thung lũng, cúi nhặt những trái thông rơi rải rác trên mặt cỏ. Mầu áo đỏ phấp phới sau những tán thông xanh.
Tôi chầm chậm bước theo sau cô bé, tay cầm điếu thuốc cháy dở và nhận ra mình đã qua cái tuổi có thể chạy nhảy hồn nhiên trên cỏ. Ái Duy đang chập chờn trước mắt. Qua hết bờ dốc cô bé tìm thấy một ngôi mộ cũ nằm lẻ loi bên sườn đồi và ngồi thụp xuống sau thành mộ.
Thấy rất rõ chỗ nấp ấy nhưng tôi cũng giả vờ đi quanh tìm kiếm và gọi to:
- Bé ơi! Bé ơi!
Một tiếng reo dài, hai bàn tay nhỏ bịt lấy mắt tôi, tinh nghịch. Chúng tôi ngồi bên nhau trên bức thành quanh ngôi mộ, chân buông thõng chạm đầu vào những ngọn cỏ ngũ sắc...
"Tội nghiệp cho ai nằm đây, ngày đêm chỉ có một mình". Ái Duy nói, bứt những cánh hoa ngũ sắc tung về phía nấm mộ. Chợt cô bé ra chiều tư lự: "Nếu bây giờ đột ngột động đất chẳng hạn, hai anh em mình sẽ vĩnh viễn nằm lại nơi đây".
- Anh chắc như vậy sẽ hạnh phúc lắm. Ở dưới ấy mình sẽ không cô đơn.
Tôi định nói: "Ít nhất cũng dễ chịu hơn khi nằm cạnh em lúc còn sống", nhưng kịp dừng lại vì thấy dường như lời đùa cợt ấy ẩn chứa chút xíu đểu cáng. Tôi ngập ngừng, im lặng rồi chợt ngạc nhiên vì sự đàng hoàng của mình.
Bây giờ Ái Duy đang say sưa bứt bông cỏ gấu tết lại để chơi trò đá gà. Cô đưa cho tôi một cọng, tôi ngẩn người:
- Làm thế nào đây nhỏ, từ lâu anh quên cái trò này mất rồi.
"Thế này... Thế này nhé" Ái Duy loay hoay gài hai bông cỏ vào nhau. Mắt cô bé chăm chú nhìn, rồi chợt ngẩng lên sáng trong mầu hạt dẻ. Một chút nắng mùa đông long lanh trong ánh mắt thỏ con.
- Sao thế anh? Ái Duy hỏi, bỡ ngỡ.
Mặt tôi lúc ấy có lẽ thoáng vẻ ngây dại, buồn và hạnh phúc.
- Anh cũng không hiểu. Tự nhiên anh nhớ thời còn nhỏ, bắt dế, trèo cây, tắm sông, nghịch nước. Hình như em vừa đánh thức tất cả trở dậy trong anh, chúng nằm ngủ quên đâu đấy. Lâu quá anh bận rộn đến tưởng như mình không có quá khứ.
- Anh nói leo cây làm em cứ nhớ hồi còn nhỏ ngoài vườn nhà có cây ổi lớn. Em cứ mơ leo lên mà người lớn cấm ngặt. Thế là em vẽ em và anh Thắng đứng trên cành ổi. Rồi em cho vào cả hai những cặp cánh thật dài.
- Ðể làm gì? Tôi tủm tỉm cười, mắt chợt rất cay.
- Ðề phòng khi có ngã mình sẽ bay lên, thật dễ sợ nếu ngã từ trên cao xuống mà không có cánh.
- Người có cánh đâu, em?
- Vậy mới khủng khiếp. Làm sao hở anh?
- Có hai cách. Một là ngã chết, hai là chấp nhận tình trạng chênh vênh đang sống, thay đổi dáng kiểu người. Hóa thân làm một chủng loại gì đó có thể lắt lẻo ở mọi độ cao. Dần dần sẽ quen, sống béo tốt, vui tươi, giàu có nữa.
- Em không hiểu.
- Hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng thôi, bé hãy trở lại chuyện ngày còn nhỏ...
Ràn rụa nước mắt, Ái Duy úp mặt vào vai tôi, và tôi khẽ đặt tay lên mớ tóc tơ vuốt nhẹ như vỗ về đứa trẻ.
Trên đường về, chiếc Bonus lao theo những con dốc dài. "Nhanh lên anh, nhanh lên!" Ái Duy kêu lên và cười, tiếng cười lạ lùng trong như thủy tinh. Tôi nhún vai: chiếc xe bốc lên, lao như xé gió.
- Nhanh lên nữa! Nhanh lên!
Giọng cô bé tinh nghịch, hối hả. Hai cánh tay quàng quanh người tôi, cái đầu nhỏ áp vào lưng áo. Tình huống bất ngờ làm tôi hơi bối rối "Sao? Hết sợ như hồi sáng rồi hả? Nhanh thế này được chứ?".
"Ðược" một tiếng thoáng bên tai, rồi chợt mắt tôi tối sầm. Hai bàn tay Ái Duy vừa bịt lấy mắt tôi, chiếc xe loạng choạng. Tôi thắng gấp, xe nẩy bật, quay tròn. Một tiếng "rầm" rùng rợn trên mặt đường, tôi không còn biết gì nữa... gì nữa.
*
* *
Tôi cũng không nhớ sau đó người và xe làm cách nào về đến nhà. Buổi chiều, tôi lục tìm thuốc tím và mấy lọ nước khác để lau chùi những vết trầy kéo dài trên mu bàn tay và đầu gối. Không hiểu sự may mắn nào đã giúp chúng tôi thoát chết, hoặc ít ra cũng không bị thương trầm trọng.
Ái Duy nằm yên lặng lơ mơ trong ghế bành. Chiếc áo gió mầu đỏ toạc một đường dài. Tôi bực bội phát cáu vì câu chuyện gặp gỡ tình cờ đã suýt biến thành một trò chơi trí mạng. Nén cảm giác đau thương, tôi bảo:
- Ngốc là sự tìm cách hủy diệt mình, em bé ạ. Chẳng giải quyết được gì cả, Hèn nhát! Anh không bao giờ muốn chết.
- Thì anh đã chẳng bảo chết nằm bên em là một hạnh phúc. - Ái Duy bướng bỉnh trả lời.
- Ðừng có ngu. Kinh nghiệm đầu tiên mà mọi người con gái phải có là đừng bao giờ tìm cách kiểm chứng lời nói của đàn ông - Tôi nói thêm với giọng pha trò để không khí đỡ căng thẳng - những lời ấy thuộc phạm trù thi ca, không thuộc phạm trù khoa học.
- Ít ra, nhờ vậy bây giờ em mới hiểu ra điều đó.
Tôi nhún vai, lắc đầu, không nói nữa.
Tối hôm ấy, sau bữa ăn tối, Tôi đưa cái gường xếp nhỏra hành lang. Bên trong Ái Duy chuẩn bị đi ngủ. Qua khung kính mờ, bóng cô gái ngã xuống kéo dài. Cái bóng đang chải tóc.
Ðèn tắt. Một lát. Rồi ánh sáng trở lại, hắt qua ô thông hơi. Cửa mở. Ái Duy bước ra, ngồi xuống mép giường, mắt mở ro, tay rụt rè nắm lấy tay tôi.
Nằm yên, tôi nhìn cô bé. Không hiểu sao, giờ phút này lòng tôi bình thản lạ.
- Có chuyện gì nữa, bé?
- Em đang nghĩ đến ngày mai. Anh khuyên em nên thế nào?
- Về nhà. Xem như không có chuyện gì xảy ra. Ði học, đi chơi, nếu thích thì trèo cây, bắt bướm v.v...
- Không thể được. - Ái Duy thở dài, một tiếng thở buồn thương.
- Ðược. Và phải như thế nào. Khi những bức xúc qua đi, em sẽ trở lại bình thường.
- Anh lại nói như thế sao? Với em, không bao giờ có thể như trước nữa.
- Ðó chỉ là một bước để trở thành người lớn, chỉ có thế thôi. Em tưởng em có thể làm trẻ con mãi sao? Chẳng quan trọng gì cả, rồi em sẽ hiểu ra và chấp nhận.
-Không, không thể được. Ái Duy oà lên khóc.
"Không, em muốn ở lại đây. Em không thể trở về. Hãy cho em ẩn náu một nơi không có giả dối, không có nhơ nhuốc". "Không có một nơi nào như thế cả". Tôi muốn hét vào tai nàng điều đó. Nhưng làm sao cho nàng tin. Ôi! Ái Duy, những ảo tưởng đầu đời của tôi!
- Anh ơi, tuổi thơ của em đã chấm dứt rồi. Em muốn ở lại đây, ngày ngày em sẽ cọ sàn và nấu ăn. Rồi em sẽ chiên bánh phồng tôm...
Ái Duy nắm cả hai tay tôi. Run run tôi đứng dậy, nhẹ nhàng đẩy cô bé ra. Nhưng cô không buông, và từng bước, chúng tôi đến gần lan can.
Sao đầy trời. Mầu đen tím huyễn hoặc phủ xuống thế gian. Lặng yên, lặng yên mênh mông, chỉ có tiếng Ái Duy thì thầm: "Không hiểu sao anh ạ, lúc này em thấy anh giống như anh Thắng của em hồi xưa vô cùng! Hãy để em ở lại đây. Em yêu anh".
Không hiểu vào giờ phút thốt ra mấy tiếng thiêng liêng ấy, cô bé có hiểu mình đang nói gì không? Tôi đứng trân người, chết điếng, xao xuyến vì sự thử thách quái ác đó. Mái tóc cô bé dịu dàng áp vào vai tôi, mùi thơm thiếu nữ làm tôi ngây ngất.
Nhưng tôi trấn tĩnh được. "Bé, bé biết không, anh vẫn nghĩ tìm kiếm sự thanh khiết tuyệt đối là dấn thân vào cuộc hành hương không tới đích. Nhưng không hiểu sao hôm nay... Hồi nhỏ, anh từng kể chuyện một gã ác độc suốt đời toàn chém giết, chỉ duy nhất một lần hắn đã cứu được một con nhện. Khi chết, y xuống hỏa ngục và lúc sắp bị thiêu cháy thì một sợi dây nhện từ trời buông xuống kéo hắn ra khỏi âm ty. Anh có linh cảm rằng sau này khi anh chết, nếu có gì cứu rỗi được anh, đó chính là cái đêm này.
Ái Duy nhìn xoáy vào tôi, đôi mắt ngây dại dưới ánh sao. - Nghĩa là thế nào, hở anh?
- Nghĩa là thế này, giả dụ đúng là em yêu anh, giả dụ có một điều gì đó giữa chúng ta... Ðiều đó, bé ạ, nếu là chuyện nghiêm túc, thì lúc này anh chưa dọn mình để đón tiếp nó.
Ái Duy sững người một phút, rồi lùi lại:
- Như thế nghĩa là em phải ra đi?
- Này nhé! Sáng mai, anh sẽ đưa em đến một ngã tư mà anh biết rõ từ đó em có thể đi bộ về nhà trong năm phút. Ðừng ngạc nhiên. Em sẽ về nhà, xin lỗi mọi người, sống bình thường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Em hãy yên tâm quên hết những gì xảy ra hôm nay; anh hứa với em rằng chỉ có một mình anh biết, mà anh lại không hề rõ em là ai, tên gì, ở đâu. Rồi một ngày kia chính anh cũng chẳng còn nhớ nữa.
Ái Duy vẫn đứng lặng. Hai con mắt nàng nhìn tôi, đôi mắt mầu hạt dẻ, lần đầu tiên tôi thấy trong ánh nhìn ấy một vẻ ai oán đến não lòng.
- Em không hiểu vì sao lại phải cẩn thận đến rắc rối như thế. Nhưng thôi, điều đơn giản nhất thì em hiểu rồi: anh không cần có em... Em sẽ đi, đúng như lời anh khuyên - Bỗng nhiên cô bé nghẹn ngào run rẩy: "Bây giờ anh đến đây...".
Ái Duy ngước mắt lên, mắt nhắm nghiền. Tôi đặt hai tay nhẹ nhàng quanh vai cô bé, "Hãy hiểu cho anh. Sau này em sẽ hiểu". Tôi nhủ thầm và khẽ hôn lên trán cô bé, cái hôn của người anh dành cho đứa em bé nhỏ.
Nhưng Ái Duy mở choàng mắt, lắc đầu, quàng hai cánh tay mảnh dẻ vào cổ tôi. Rồi nàng quả quyết níu đầu tôi xuống và hôn vào môi tôi, cái hôn đầu đời như một thứ lễ vật ngọt ngào. Bây giờ thì tôi không cưỡng lại những lời ru dỗ ngọt ngào của trái tim mình được nữa...
Ðêm lặng yên, lặng yên bất tận. Chợt một hồi chuông từ trời cao thánh thót vang ngân. Ðã nửa đêm, giờ Chúa ra đời.
*
* *
Lại một sớm mai tràn vào hành lang hẹp qua những ô thông hơi. Tôi tỉnh giấc và nghe tiếng nhạc vọng từ Cassette: "Nghe kể chuyện ngày xưa, có một nàng công chúa...".
Rửa mặt, thay áo xong, tôi bước vào phòng.
Cửa mở! Chăn bông nằm nửa trên nửa dưới, chéo chăn phết mặt sàn gạch hoa. Trên gối vẫn còn chỗ trũng xinh xinh, mấy sợi tóc tơ còn vướng lại.
Ái Duy đã đi rồi, lặng lẽ, đột nhiên như khi nàng đến. Tôi nhào ra phía cửa sổ, nhìn xuống đường. "Ái Duy, Ái Duy!"
Tự nhiên trong tôi trào lên một ước muốn xót xa được thấy lại khuôn mặt cô bé. Tôi định xuống lấy xe lao ngay đến căn nhà ấy, căn nhà có những cây ổi vươn cành ra tới bờ thành. Nhưng không hiểu sao tôi dừng lại... Hãy chờ một thời gian để lắng xuống những xôn xao của cơn bão. Có thể tất cả cũng chỉ là ảo giác như thế...
Mười ngày sau, khi biết cơn bão ấy không bao giờ qua đi, tôi tìm đến ngôi nhà, ngỡ sẽ gặp cô bé đi học về, áo trắng và cặp sách ôm trước ngực.
Bà cô nghễnh ngãng ra mở cửa. Bây giờ bà già quá mức tôi tưởng tượng, đét như một cành củi khô. Khó khăn lắm tôi mới hỏi thăm được và bà trả lời rằng Ái Duy không trở về nhà. Gia đình tìm kiếm khắp nơi, vẫn bặt tăm.
Năm sau, cũng vào dịp Noel, tôi đến một thành phố khác nhận công việc làm ăn và được mời dự dạ vũ ở nhà một người bạn. Phòng nhảy mờ ảo dưới ánh đèn lác đác trên cây thông rực rỡ. Ðang ngồi trước ly rượu, chợt tôi giật mình vì thấy một đôi trai gái cặp tay nhau bước vào. Người con trai còn trẻ nhưng khá mập, bụng đã phát triển quá mức. Cô gái mặc jupe đỏ thời trang lưng hở rất thấp, bộ ngực nhô lên rụt rè dưới cổ áo rộng. Trời ơi, đấy là Ái Duy!
Ái Duy! Nhưng sao nàng thay đổi nhiều quá thế? Nàng quay cuồng theo điệu nhạc, đôi môi son màu cánh sen thời thượng. Ái Duy... Tôi dụi mắt, nhưng đúng là cái răng khểnh khi cười, cái cổ cao mảnh khảnh, không bao giờ tôi quên.
Nhạc dừng. Tôi đến gần bên gốc thông. Gã con trai đặt một tay lên khoảng thịt da mát mẻ sau lưng cô gái.. "Ái Duy", tôi gọi khe khẽ, một lần, hai lần. Nàng không nhúc nhích. Lẽ nào em đã quên cả tên của mình rồi ư?
Chợt người đàn ông thầm thì điều gì, chỉ tay về phía cửa. Cô gái quay nhìn nghiêng nửa người lại, và tôi bàng hoàng nhận ra: cô ta không có vết son dưới cổ. Không phải Ái Duy!
Ðêm hội tan. Tôi trở về khách sạn, lòng bồn chồn vì vui mừng lẫn nuối tiếc. Ái Duy! Bây giờ em ở đâu? Biết đâu chừng, ở nơi xa xôi nào đấy em chẳng đang phấn son quay cuồng trong tay gã đàn ông không quen biết? Nếu thế thì em sẽ nghĩ gì về tôi, về điều thiện còm cõi mà tôi đã nói với em đêm em cầu xin tôi giữ em lại, và tôi đã quay đi, mặc em lăn xuống dốc cuộc đời!
Cứ thế, tôi nằm chong mắt trong đêm yên lặng. Lúc ánh sáng mai lờ mờ hiện ra qua những ô kính trên cao, tôi chợt thầm nghĩ: Không, mãi mãi Ái Duy vẫn là Ái Duy! Mãi mãi vẫn là em của đêm ấy, chính em đã ra đi để khẳng định niềm tin của mình, bất chấp những lời tôi khuyên nhủ. Ở con người mảnh khảnh nhỏ nhoi ấy là sức mạnh mãnh liệt không tàn lụi...
Ái Duy, ngọn lửa nhỏ của tôi, bây giờ em ở đâu?
Ngày không bình thường
Phạm Hoa
Trời đã sắp sáng. Bạo biết thế vì cô đã thức được một lúc lâu. Ðêm qua, Bạo bồn chồn như đứa trẻ ngủ trong đêm ba mươi Tết, chỉ thấp thỏm mong trời mau sáng. Một loạt bom xa xa làm cô chợt tỉnh. Từ lúc đó, Bạo không nhắm mắt được nữa. Cô nằm im một lát mới nhỏm dậy. Căn nhà hầm tối, đen như trong hộp, râm ran tiếng ngáy của đồng đội. Cô rón rén bước ra cửa.
Bên ngoài, trời sáng lờ mờ mát lạnh. Bạo cảm thấy tỉnh táo và khỏe khoắn. Một cảm xúc háo hức là lạ. Cô muốn chạy vù ra sân. Muốn gọi tất cả mọi người dậy. Bạo dừng lại ngắm những giọt sương đang từ từ tròn hạt. Lúc quay vào nấu cơm ăn sáng, cô đụng đổ cây đèn, rồi lại đụng đổ cả chiếc xoong đựng nước uống trên bàn. Cô phì cười vì sự vô ý của mình.
Sạp nằm có tiếng cựa mình. Chị Thành quát:
- Ðứa nào đấy?
Bạo bịt miệng cười:
- Em đây.
Một lát sau, ở góc hầm có ánh lửa cháy bập bùng. Không riêng gì Bạo, ngay sau đó các cô gái khác đều trở dậy cả. Mới năm giờ sáng, họ dậy sớm hơn mọi khi. Căn nhà hầm nhộn nhịp, chứa đựng vẻ khác thường.
Ðó là một buổi sớm của ngày hai mươi - Ngày không bình thường của tiểu đội thông tin trên đèo Văng Mu, điểm chốt của điểm cao trên một ngàn mét. Là ngày vui của các cô gái. Hôm nay họ sẽ nhận được thư nhà, thư bè bạn, thư người yêu. Mỗi một tháng họ được nhận thư một lần vào ngày hai mươi. Thư gửi đến sẽ dồn về ban chỉ huy đại đội, cơ quan đóng cách họ những mười lăm cây số dưới thung lũng. Dưới đó, anh liên lạc sẽ dần bóc thư của từng người một đọc dõng dạc qua máy điện thoại. Họ không còn cách nào tốt hơn. Chính năm cô gái trên Văng Mu yêu cầu đại đội làm như vậy. Nếu không chờ thư đến tay các cô lại chậm thêm vài chục ngày nữa. Những lần đầu, bao nhiêu bí mật gia đình, bí mật tình yêu bị bóc trần như ban ngày, các cô rất ngượng. Lại có thêm vài anh tủm tỉm cười, chế nhạo, các cô la lối lên. Ðại đội trưởng phải ra lệnh cấm không được ai bén mảng lên nhà đại đội khi cậu liên lạc đọc thư vào máy. Tất cả quen dần thành nếp sống bình thường của năm chiến sĩ thông tin trên điểm cao. Từ đó, ngày hai mươi trở nên gần gũi thân thiết, là ngày mong chờ của các chiến sĩ. Một ngày vui thực sự, ngày họ được hòa nhập vào đời sống hằng ngày của những người thân ở phương xa. Ðó là ngày thiêng liêng và đặc biệt quan trọng đối với những người đang yêu như Bạo. Nhất là chỗ ở của các cô gái lại chót vót trên cao một ngày hàng chục trận bom giội xuống, thiên nhiên lại tàn khốc, là nơi bom đạn ác liệt, là nơi mà nhiều bạn bè không quen biết...
Bạo vẫn hí húi nấu cơm trong góc hầm. Cô mặc chiếc áo mỏng không có tay, mặt đỏ rực lên vì nóng. Sáng nay Bạo có vẻ bận rộn và vụng về. Ðánh đổ đèn, đánh đổ xoong là Bạo. Bỏ quên hộp thịt đã mở dưới đất cho kiến vào cũng là Bạo. Chốc chốc lại thấy chị Thành hỏi vọng vào:
- Ðứa nào đổ nước ra cửa hầm tràn cả vào nhà đây?
Bạo chạy ra cửa xem, tủm tỉm cười:
- Em.
- Lại em. Ðãng trí quá em ạ.
Trong hầm, các cô gái vội vã thu dọn những đống dây điện, đống cuốc, xẻng vào góc. Căn hầm sáng sủa và rộng rãi hơn. Một điều lạ nữa là hôm nay: không ai bảo ai, các cô đều chải tóc soi gương tỉ mỉ như trong ngày sẽ có khách đến chơi.
Tiểu đội có Minh là nhỏ nhắn, thanh mảnh được coi là đẹp gái nhất. Minh rất hay tỉa tót làm dáng, nhưng cô vẫn thầm ghen với nước da đỏ thau của Bạo. Minh đẹp một cách yếu ớt, Bạo đẹp một cách khỏe khoắn và tháo vát. Ðó là một đôi bạn rất thân và cũng rất hay giận nhau. Thế quái nào Minh lại yêu anh đại đội trưởng pháo, to và đen nhẻm. Bạo lại yêu anh chàng sinh viên có phần yếu đuối, lịch sự và kiểu cách. Anh sinh viên ấy cùng tuổi với Bạo. Bạo rất bực với cách xưng hô "tôi" trong mỗi lá thư của anh ta gửi đến. Nhưng đó chỉ là nhược điểm nhỏ thoáng qua. Bạo vẫn yêu anh ta nhiệt tình và say đắm.
Cả tiểu đội có năm chị em. Chị Thành không giống các cô. Chị cao và nhỏ người, nắng chiến trường làm nước da chị đen sạm và khắc khổ. Chị hơn các cô một tuổi. ý thức làm chị của Thành rất rõ. Các cô gái ở đây đều rất nể và sợ Thành. Có lẽ chỉ có Bạo là người dám nói đùa với chị. Thành cũng rất mến Bạo. Mặc dù Bạo có ngang tàng đôi chút, nhưng lại dũng cảm, việc phá mìn vướng, cả đại đội không ai giỏi hơn Bạo.
Bạo bê nồi cơm nóng hổi đặt ra tảng đá. Cùng lúc đó, chiếc máy điện thoại đặt trên bàn nứa rung lên bần bật. Một hồi chuông dài và gắt. Thành dẹp sổ theo dõi công việc sang bên, chạy tới cầm máy. "Hồng Hà đâu...". Một giọng đàn ông ồm ồm cộc lốc của ông trung đoàn trưởng pháo. Ông nói một câu ngắn của người quen ra mệnh lệnh:
- Khu vực dê sáu tám (D68) bị mìn vướng, đứt toàn bộ dây. Yêu cầu sáng nay phải nối cho họ trực chiến.
Thành buông máy nhẩm tính toán luôn. Chị có thói quen sắp xếp công việc ngay sau khi nhận điện. Tổng số dây điện khu vực tiểu đoàn pháo vị chi là hai ki-lô-mét. Vừa phá mìn vướng vừa rải dây, nối dây, mất đứt hai người một ngày vất vả. Sau đó chị giục mọi người đi ăn cơm. Trong đầu Thành thoáng linh cảm thấy rằng: công việc hôm nay sẽ rối mù lên cho mà xem. Nắng đẹp thế này, nhất định nó sẽ đánh mạnh.
Năm người con gái ngồi xúm quanh chiếc bàn ăn nhỏ. Chiếc ghế buộc bằng ba đoạn nứa võng xuống phát ra tiếng kêu kẽo kẹt. Minh sốt sắng nhất. Nhỏ người nhưng rất nhanh. Ba cô cướp được ba cái bát lành. Bát của chị Thành tất nhiên là không cô nào dám tranh. Còn lại là chiếc bát thủng trôn vì bom bi. Bạo phải dọn bếp núc nên chậm chân ra sau. Cô cầm chiếc bát hỏng lên, nhất định không chịu thua.
- Hôm nay đến lượt đứa nào ăn bát thủng !
- Cái Minh.
- ứ! Hôm qua em ăn bát thủng rồi.
- Mới có buổi chiều. Phải cả sáng nay nữa mới đủ một ngày.
- Không.
- Này.
- Không.
- Này.
Giằng nhau một lúc, Bạo cười:
- Thế mày gọi tao là chị tao nhường cho.
- Thì chị. Nào chị Bạo ơi!
- Dạ đi.
- Dạ. Ðược chưa.
- Ðược. Em ngoan ăn cơm rồi đi phá mìn cho giỏi nhé. Chị cưng, chị thương.
Bạo còn đáo để vuốt đầu Minh mấy cái, chị Thành giục, họ mới bắt đầu bưng bát. Miếng cơm vừa trôi khỏi miệng, lại có điện thoại. Lần này là điện dưới đại đội công binh gọi lên. Ðường dây từ đơn vị gọi lên sở chỉ huy sư đoàn tiền phương bị đứt. Một giờ đêm qua ở dưới đó có một quả bom nổ chậm bất chợt nổ.
Bữa ăn lại được tiếp tục. Vẫn cái đà vui vẻ một cách khác thường ấy, Bạo dọa sẽ mách tay đại đội trưởng pháo là Minh ghẻ ruồi. Bao giờ Minh cũng yếu lý lẽ hơn. Cô chỉ còn biết chê cái tên của Bạo, cái tên thô như một người lên gân. Ai lại Quang Bạo, Minh Bạo hay là Thành Bạo dù sao nghe vẫn vương vướng. Cái tên này phải hình dung ra một cô gái to béo gân guốc, đáo để...
Một loạt bom. Rồi một loạt nữa. Ba loạt cả thảy. Cả hầm lắc mạnh như sắp vỡ đôi. Sau đó là tiếng phản lực sà rất thấp, có cảm giác như các ngọn cây cũng bị gió quật tung. Các cô gái nhìn nhau, đoán:
- Chắc ở cây số mười.
- Không! Cây số mười bốn.
- Có khi sát chân đèo.
Họ còn đang xác định vị trí bom rơi thì có điện. Từ lúc đó, điện gọi tới tấp lên tổ chốt thông tin. Ðơn vị nào cũng la ầm lên đường dây liên lạc của họ bị đứt. Các cô gái phải ăn cơm nhanh hơn. Thành hết nhận điện của đơn vị này lại cắm phích nghe đơn vị khác. Anh nào cũng to mồm đòi phải nối dây ngay tức khắc, Thành phát bẳn lên, quát vào máy:
- Từ từ đã nào. Làm gì mà các ông hét ầm lên như thế? Phải hiểu cho người ta chứ.
Thành buông máy sững sờ giây lát. Chị giắt lại mấy sợi tóc vương trên má, nhẩm tính. Dê sáu tám hai người. Ðại đội công binh một người buổi sớm, buổi chiều lên sư đoàn bộ. Xuống lèn đá một người. Rồi chị tặc lưỡi thầm nghĩ: bận mấy cũng chẳng bằng đêm hôm kia. Ba lần B.52 ném bom luôn xuống đèo. Quả nổ, quả không. Vừa rải dây, nối dây mất một ngày một đêm mới xong. Cùng lắm chỉ bằng hôm đó chứ mấy? Các cô gái đã biết trước tình thế. Họ đứng dậy sau bữa ăn. Cô nào cũng trong tư thế sẵn sàng. Có cô đã đội mũ sắt, khoác súng vào người.
Chị Thành và miếng cơm cuối cùng rồi đứng dậy nốt... Chị phân công việc luôn. Năm người đều ra mặt đường cả. Bạo và chị sẽ xuống Dê sáu tám. Khi đi mang theo dụng cụ phá mìn vướng.
Thoắt một cái họ đã đứng ở ngã ba rẽ đi các hướng. Họ vội vã chia tay nhau. Ðến chỗ ngoặt, Minh vẫn còn ấm ức với Bạo. Cô giơ nắm tay nhỏ xíu lên dọa:
- Tối nay, nối dây về sớm "ông" nhận thư của mi qua điện thoại cho coi, "ông" sẽ nhận là Bạo.
Bạo cười to:
- Thách Minh đấy! Thách đấy!
Bạo khoác tấm lá chắn cao ngang đầu đi trước. Tấm lá chắn là vật che mảnh đạn hình tam giác, được kết bằng những nùn rơm to và chắc như bắp tay. Dụng cụ phá mìn còn có cây sào dài bảy tám mét, có chạc dùng để quơ những sợi dây mìn vướng nhỏ như sợi tóc. Loại mìn vướng này rất nhạy và rất hiểm độc. Một cơn gió thoảng qua cũng có thể làm cho mìn nổ. Hai người còn luồn qua sào phá mìn một cuộn dây điện nặng chục cân.
Bạo là cô gái siêng năng và chăm chỉ. Khi yêu, tình yêu của cô cũng rất mạnh mẽ. Trong tâm hồn cô gái trẻ này có một khoảng rộng yên tĩnh, đằm thắm và thiết tha dành cho người mình yêu. Vốn sinh ra trên đồng đất trồng màu ven sông Hồng, Bạo rất chân thật và hơi vụng về. Gần như cô không biết viết thư, không biết nói những câu hoa hòe hoa sói. ở giữa điểm cao như vùi mình trong bom đạn, đời sống đơn giản đi nhiều lắm. Công việc bình thường ở đây là ăn ngủ, phá mìn và nối dây điện. Không hề có thứ công việc nào xen lẫn, không khái niệm thứ bảy, chủ nhật. Không có một giờ rảnh rỗi. Vậy mà trong mỗi lá thư bao giờ Bạo cũng mở đề bằng câu: "Hôm nay nhân tiện ngày chủ nhật" hay "Hôm nay nhân tiện trời mưa..."; có hôm cái Minh vớ được mẩu thư viết dở, nó tò mò xem rồi đọc toáng lên. Bạo đứng đực ra nhìn, mặt đỏ gay, một lúc mới biết chạy tới giằng miếng giấy lại. Thế mà Bạo còn làm thơ gửi cho anh sinh viên rất giỏi chữ nghĩa. Ðại khái cũng câu ba câu bảy gập ghềnh như đá dưới lòng suối cạn:
Bèo hợp lại tan
Hoa nở rồi tàn
Nhưng tình yêu giữa đôi ta không đứt
Như sợi dây em nối đêm ngày...
"Tìm bảy ngày cũng không thấy vần" - Vẫn cái Minh ranh mãnh nó vớ được, đọc xong nó nói như vậy. Từ đó, mỗi lúc hậm hực điều gì muốn trả thù, Minh lại lấy giọng ê a ngâm:
"Bèo hợp rồi lại tan..." thế là đủ để Bạo toát mồ hôi, chịu thua. Mãi sau này Bạo phải mặc cả đổi chỗ nằm gần cửa hầm cho Minh, nó mới chịu quên cái đoạn thư khổ sở đó đi cho.
Thế nào chiều nay Bạo cũng có thư. Cô tin rằng lá thư sẽ rất dài. Từ chiều hôm qua Bạo đã linh cảm như vậy. Niềm tin ấy làm Bạo bồn chồn thích thú. Cô vui khác ngày thường. Bạo cảm thấy mình yêu cuộc đời hơn, yêu mảnh đất chiến trường mà cô đang sống và yêu mọi người. Cô tự hứa từ nay cô sẽ dễ dãi hơn đối với Minh. Không kể chuyện ma con khỉ độc dọa nó nữa. Cô yêu cả con đường gập ghềnh này, cả những ngọn cây cỏ xanh này, cho đến con chim đang hót xa xa...
Hai người đi sâu vào cánh rừng le tốt ngập đầu. ở đó lác đác có những cây cọ rừng mập mạp xanh tốt, lá vươn dài như lá dừa. Thỉnh thoảng mới thấy những cây khộc già nua đầu cành đang nứt những búp lá non tơ. Cho đến lúc nghe tiếng ho của một pháo thủ và con gà cục ta cục tác trong khẩu đội gần đó, thì họ dừng lại. Ðã đến khu vực mìn vướng nổ. Nhiều trái tự hủy, để lại một đám đất nát bét và một khoảng cây cối giập, gãy xơ xác.
Chị Thành quan sát xung quanh rồi nhận xét:
- Dây mìn đấy, Bạo ạ! Mắt thường mà cũng trông thấy một quả kia kìa!
Bạo nhìn theo hướng bàn tay Thành. Một trái mìn mầu xám xù xì nấp dưới một cành cây nhỏ. Cô quạt bằng mũ sắt, tắc lưỡi:
- Kệ nó chị ạ. Chọc một cái là nó nổ, sợ gì!
Bạo nói rồi vẫn ung dung ghếch AK lên đùi, cầm mũ sắt quạt. Trời nóng. Trên đôi má đỏ chín của Bạo đã có mấy giọt mồ hôi. Khi đã buộc tóc lại thật gọn, xắn quần xắn tay áo, họ mới đứng dậy bắt đầu công việc. Bạo dựng lá chắn lên, chống thật chắc chắn. Cô ngồi thụp phía sau như một đứa trẻ đi trốn. Chị Thành đứng xa hơn làm nhiệm vụ rải dây. Bạo đưa sào lên phía trước. Cô chỉ cần vung sào, khuấy động cành cây ngọn cỏ, chạm vào bốn sợi dây vướng nổ là trái mìn sẽ nổ. Trái mìn đầu tiên Bạo phá hôm đó lại không phải là trái chị Thành trông thấy. Ðó là quả vùi sâu trong đống lá mục. Cô vừa tung sào bất thần đã có tiếng nổ. Bạo giật bắn người rồi lại cười khanh khách. Bụi chưa tan, cô đã dịch lá chắn về phía trước rồi giải lao một phút. Cô hỏi chị Thành.
- Sinh viên đại học chắc họ sống sướng lắm chị Thành nhỉ? Ông bạn em ông ấy viết thư, em cảm thấy các ông ấy sang trọng lắm. Có đúng không chị?
- Ðấy là em cảm giác thế. Họ cũng vất vả lắm. Họ ở một phòng mười hai người cơ đấy!
Bạo lẩm bẩm:
- Có thể là như vậy.
Bạo lại thu mình sau tấm lá chắn. Cô đưa sào về phía trước. Trái mìn lần này gan góc hơn. Bạo phải quơ chục lần nó mới nổ. Tiếng nổ vẫn rất to làm Bạo giật nảy mình, cô đưa ống tay áo quệt mồ hôi trên mặt rồi quay về phía Thành nói chuyện tiếp.
- Em có một miếng vải hoa rất đẹp. Em sẽ cắt một chiếc áo lót thật nghịch ngợm. Cổ theo kiểu trái tim xoay về vai trái. Hàng khuyết sẽ xẻ bên hông.
Nói xong chưa kịp nghe Thành trả lời, cô lại ngồi thụp xuống, dịch tấm lá chắn về phía trước. Bạo phá mìn say mê tỉ mỉ và ung dung làm người khác đến phát thèm lên được. Ðó là cung cách phá mìn rất bình tĩnh, thông minh mà chị Thành cũng khâm phục. Công việc này rõ ràng không thể để một người vội vàng, hấp tấp làm được.
- Ngày còn ở nhà ấy mà, cái "lão" người yêu của em bấy giờ còn nhỏ và yếu hơn em cơ. Có hôm đi chăn bò ngoài bãi sông Hồng, em dọa cho sợ, phải đuổi bò về cơ đấy.
Thành cười:
- Thật là đáo để.
Thành cũng có biết qua người yêu của Bạo. Cái anh chàng quá trẻ ngồi vắt chân qua lan can thềm nhà chụp một kiểu ảnh rất điệu. Thành không chê gì anh ta. Chị chỉ thoáng ngờ vực trong lòng một điều, hình như Bạo sắc sảo hơn anh ta quá nhiều. Trong cuộc đời thực, liệu đôi trai gái này có sánh vai nhau được không? Bạo đã phá đến trái mìn thứ năm, thứ sáu... Họ đã trông thấy khẩu đội pháo xa xa. Rất lạ là hôm nay, Bạo không quen được với tiếng nổ. Mỗi một tiếng mìn dội lên Bạo vẫn giật nảy mình quay lại cười khanh khách. Chị Thành thấy Bạo có vẻ chủ quan quá, quát vọng lên:
- Bạo! Chú ý vào. Coi chừng đấy!
Bạo cười, đôi môi đỏ chót rất xinh.
- Chị yên tâm. Một mình em đã phá hàng nghìn quả mìn rồi.
Niềm vui ấy lan sang cả Thành. Phải, chị rất tin tưởng Bạo, nhưng điều ấy cũng có thể xảy ra lắm chứ? Công việc quen thuộc của Bạo là phá mìn, nhưng ai biết đâu được, bất cứ một sự chủ quan nào chẳng gây ra tai nạn? Phía trước kia, trong những bụi cây lòa xòa hiền lành, một ụ đất mấp mô, hay dưới đám lá mục, là những cái chết bất thần đang rình núp chờ đón; nhất là hôm nay Bạo lại có vẻ coi thường. Nghĩ như thế, tự nhiên Thành muốn ứa nước mắt. Chị yêu Bạo quá. Chị muốn đối xử dịu dàng với Bạo, muốn cho Bạo cái gì. Ðứng trước những người tốt người ta thường có những ý nghĩ trong lành hơn. Chị Thành đứng ngẩn người ra nhìn Bạo hồi lâu. Cô ấy vẫn cúi lom khom sau chiếc lá chắn. Và hễ cứ sau một trái mìn nổ, Bạo quay lại chuyện trò. Vẫn là dòng suy nghĩ sôi nổi của Bạo về bạn, về người yêu. Sau khi nói xong chẳng cần biết Thành có nghe hay không, cô lại quay về phía trước, dịch tấm lá chắn lên.
Họ trở lại Văng Mu lúc sương mù đã kết thành từng cụm đặc sánh trên đầu. Bất ngờ lý thú là lúc đi cả tiểu đội chia tay nhau ở chỗ rẽ, lúc về lại gặp nhau đúng chỗ ấy. Ðủ mặt cả năm người, Bạo trông thấy từ xa Minh đi trước. Nó thất thểu vì đói và nhọc.
Cứ sau một ngày lăn lộn ngoài đèo khuôn mặt đầy đặn của nó lại bị vơi đi một tí. Bạo vẫn tỉnh như không gọi rối rít:
- Tớ cứ tưởng cậu về lâu rồi!
- Thì người ta cũng tưởng đằng ấy về lâu rồi.
- Tớ làm mà cứ nóng cả gan ruột. Chỉ sợ cậu về trước mệnh danh tớ, nhận thư.
- Tớ mà về trước xem, chả phải bàn.
- Thôi thôi các cô! Chóng lên. Còn khối việc phải làm ra đấy.
Họ vào đến trước sân, chị Thành đã buộc xong hai chiếc tăng vào những gốc cây nhỏ. Những chiếc tăng xòe nặng buộc thõng xuống để hứng sương đêm lấy nước dùng. Mỗi đêm một tấm tăng rộng có thể hứng được một lít nước. Mười chiếc tăng hết đêm họ sẽ dồn được mười lít nước. Thứ nước kết tinh từ hơi sương trong ngăn ngắt. Trừ khi bom đánh gần, hơi sương qua khói thuốc đạn sẽ đắng ngắt như pha thuốc ký ninh. Các cô gái lần lượt căng những chiếc tăng ra đón nước. Sương dày làm ướt cả mặt, cả tóc. Khu đèo lạnh hẳn xuống vài độ.
Tối hôm đó các cô gái ăn cơm rất nhanh chóng. Hầu như ai cũng vội, cũng mong cho đến cái giờ phút mong chờ ấy. Các cô không đùa ầm ĩ nữa. Cái Minh nhỏ bé lại còn tỏ ra chín chắn, nó nói:
- Biết mình có thư không mà trông. Cái gì đến sẽ đến, cái gì không đến sẽ không đến.
Bạo vạch mặt:
- Rõ đồ nói khoác. Có thật không mong thư không? Thế thì cử cậu đi sửa đường dẫn lên sư bộ nhé.
- ứ, tớ cũng có mong.
Bạo cười ha hả. Chưa đến sáu giờ tối, các cô đã xúm xít bên tảng đá. Ai cũng tỏ ra bình thản. Chỉ có Bạo vẫn xông xáo đứng trong cùng, là người cầm ống nghe máy điện thoại. Phải đến hai chục phút rồi, Bạo vẫn chưa liên lạc được với đại đội. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng sét nổ sàn sạt, rầm rầm trong máy điện thoại, cầm lấy ống nghe giật nẩy tay lên.
Bạo sốt ruột gắt:
- A-lô... Thăng Long đâu. Cắm dây cho chặt vào.
Cuối cùng sự mong chờ của các cô gái đã được thỏa mãn. Tiếng cậu liên lạc rõ mồn một trong máy. Cậu ta bảo mọi người đều có thư, trừ chị Thành. Tất cả các cô thở phào một tiếng. Thư của Bạo được đọc trước. Mặt cô đỏ ửng lên, cô đứng vào nghe máy, nụ cười bỗng nở trên môi ngượng ngập.
Mọi người chăm chú nhìn Bạo. Họ không được nghe đọc thư, nhưng tò mò muốn biết Bạo có tin lành hay dữ. Tin buồn hay vui. Bắt đầu mặt Bạo đỏ chín, nghe đọc thư, cứ thế cô tái dần đi. Một tay Bạo buông thõng xuống. Các cô ngạc nhiên sợ hãi nhìn Bạo. Giây phút căng thẳng ấy cũng chấm dứt khi Bạo chuyển ống điện thoại cho Minh. Mặt Bạo chợt đỏ bừng, mấy giọt nước mắt nóng hổi lăn rất nhanh qua má. Cô ấm ức dằn từng tiếng:
- Hắn vẫn chẳng xưng anh với mình. Cóc cần!
Các cô gái nhìn nhau rồi phá lên cười. Cứ thế lần lượt từng cô. Họ xếp hàng chờ đến lượt mình vào nghe cậu liên lạc đọc thư. Thời gian vẫn trôi đi. Ở Văng Mu, một tháng lại có một ngày không bình thường như vậy. Nhưng nói cho cùng, cái ngày ấy cũng chỉ là ngày bình thường trong suốt bốn năm trời dài đằng đẵng trên điểm cao Văng Mu của những người lính.
Mùa hè 1980
Ngày cuối cùng của chiến tranh
Vũ Cao Phan
Không hiểu vì sao cho đến tận bây giờ tôi vẫn chưa kể ra câu chuyện này, mặc dù còn như in đôi tay gày guộc của ma xơ* run rẩy lần tìm chiếc chìa khóa, vạt sân hoang, những khuôn mặt trẻ con và tiếng kêu thảng thốt của chính tôi lúc đó, hai mươi năm trước...
Lúc đó, sớm của một ngày trước Ba mươi tháng Tư, năm người lính đứng bên chiếc cổng sắt xiêu vẹo, phía trong nhô cao một tháp xi măng lênh khênh. Vậy là đây rồi. Chúng tôi gọi cửa. Người gác dan chạy ra rồi thụt vô luôn. Có cái gì đó lao xao, rồi im, rồi lao xao. Mãi sau, vài cái đầu thập thò và một người đàn bà bận đồ đen từ sâu hút trong sân đi ra:
- Dạ thưa, các ông là giải phóng?
- Vâng, chúng tôi có thể vào?
- Dạ được.
Cửa mở. Tôi ngó lại người đàn bà:
- Ðây là nhà thờ sao?
- Dạ không, trường học, đây là trường học, thưa trung úy. (Bà kêu đại vậy chứ tôi có mang thứ phù hiệu nào trên người đâu). Nhưng trường học đóng cửa rồi, chắc đã cả tháng nay. Còn chúng tôi ở Cô nhi viện G, từ miền Trung chạy giặc, Giê su, xin lỗi (bà lấm lét nhìn tôi) chạy bom đạn mới tấp vô. Nơi này bữa trước làng lính có ở, sau họ nhường cho Cô nhi viện.
Bất giác tôi nắm chặt báng súng, nghi ngại:
- Còn lính ở trong không, thưa bà?
Bà già cũng hoảng hồn:
- Dạ không, không có, họ đi hết trơn từ mấy bữa rồi. Hồi hổm có tốp chạy qua đây trút bỏ đồ lính rồi cũng "dông"luôn.
Những thứ "trút bỏ" được nhìn thấy ngay ở chỗ quẹo. Cả xứ sở đang lên cơn sốt di tản, khó mà xác định đây là vùng mới giải phóng hay vẫn còn nằm trong tay quân đội Sài Gòn. Chúng tôi dừng lại bên chiếc tháp. Không giống một tháp canh. Mà một trường học có nó để làm gì cũng không rõ. Có vẻ như tháp được dùng cho mục đích quan trắc thường xuyên nào đấy. Sơ sài nhưng khá vững. Tôi yêu cầu đồng đội cảnh giới rồi leo lên.
Cuộc tổng tiến công trực tiếp vào nội đô Sài Gòn đã nổ ra từ ngày hôm qua. Các đơn vị phòng không được lệnh bám sát bộ binh đánh địch trong hành tiến. Nhưng trung đoàn tôi thì dừng lại ở hướng này, cách Sài Gòn khá xa về phía bắc, sẵn sàng đón lõng những đường bay địch mà rất có thể xuất phát từ các căn cứ ngoài Việt Nam bất ngờ lao đến một lúc nào đấy. Tôi, Chủ nhiệm trinh sát trung đoàn được chỉ thị thiết lập gấp một đài quan sát cho nhiệm vụ trên. Chúng tôi đã phát hiện ra chiếc tháp từ chiều hôm qua trên bản đồ UTM tỷ lệ 1/25000 mới lấy được của địch và phải mất gần sáu giờ đồng hồ cho việc tìm đến nơi.
- Lý tưởng! Không thể nói khác được.
Tôi gật đầu với các chiến sĩ khi đã ở dưới mặt đất. Quả vậy, đài quan sát được đặt ở đây chẳng những nằm thẳng hướng xác định mà xạ giới quan sát lại rất rộng, không bị che khuất. Tôi mở máy liên lạc với trung đoàn trưởng, báo cáo tình hình rồi khẳng định bắt đầu nhận nhiệm vụ. Từ giờ phút này, mạng hai oát trên tất cả các trận địa pháo cao xạ đã sẵn sàng nhận chỉ thị mục tiêu của chúng tôi. Hơn thế nữa, trung đoàn trưởng trao quyền trực tiếp hạ khẩu lệnh xạ kích cho tôi trong trường hợp khẩn cấp.
Tôi nói với ma xơ Giám đốc Cô nhi viện, người đàn bà bận đồ đen, rằng do nhiệm vụ quân sự, chúng tôi sẽ ở lại đây. Rằng cũng do tính chất của nhiệm vụ quân sự, tôi muốn được xem qua nơi đóng quân. Bà già khẽ khàng đáp "dạ" nhưng đôi mắt của bà lại không có vẻ như vậy. Nắm chắc địa bàn công tác là tác phong của người lính trinh sát nhưng tôi còn có ý muốn tìm kiếm một vị trí tập kết cho cái đơn vị nhỏ bé của mình. Gần như hành quân suốt đêm, tất cả đều đã thấm mệt. Tôi để Vinh, một tiểu đội trưởng trinh sát già dặn ở lại đài quan sát rồi cùng các chiến sĩ bước theo ma xơ.
Ngôi trường tọa lạc trong một khuôn viên khá rộng song hầu như chỉ có một dãy nhà ngang với dăm bảy phòng học mà giờ đây Cô nhi viện dùng làm nơi ăn ở lẫn nơi học tập, vui chơi cho các cháu. Mới di tản đến nhưng nơi có vẻ các ma xơ vẫn cố gắng duy trì nền nếp cũ. Chúng tôi lướt qua các phòng, gắng không gây xáo động những khuôn mặt trẻ thơ hồn nhiên, đủ các lứa tuổi. Một bé trai làm bộ chĩa súng lên trời bóp cò trước sự kinh hãi của ma xơ phụ trách lớp. Tôi mỉm cười. Trẻ em là trẻ em, dù chúng ở đâu. Trong một phòng khác, các bé gái đang học khâu vá. Gian cuối cùng, cửa khóa. Tôi hỏi ma xơ liệu đây có phải là phòng thừa còn bỏ trống không thì bà đáp nhanh như tên bắn:
- Dạ không. Ðây là nơi tôn nghiêm nhất, thưa trung úy, nhà nguyện của Cô nhi viện. Nó cũng là nơi chứa các đồ Thánh lễ.
Hẳn thế, đây là Cô nhi viện công giáo mà. Như vậy chúng tôi chỉ còn cách dựng lều trú quân ở một góc nào đó. Không sao. Có vẻ như đọc được ý nghĩ của tôi, ma xơ Giám đốc chỉ xuống một căn nhà nhỏ gần như tách biệt:
- Các ông coi thử căn nhà này. Một gia đình của Cô nhi viện đang ở đó, nhưng chúng tôi có thể thu xếp được.
Gia đình có ba người, một thiếu phụ trẻ với đứa con nhỏ và một thiếu nữ, cỡ 16, 17 tuổi. Vẻ mặt hơi rầu của thiếu phụ là điều mà chúng tôi có thể giải thích, vì ma xơ đã cho biết chồng của chị đang chốt ở một phòng tuyến nào đó. Tuy thế khi thấy chúng tôi vào nhà, sau lời chào, thiếu phụ đã mau mắn kêu thiếu nữ:
- Lấy nước mời mấy chú đi em, Dịu Thơm.
Ôi cái tên nghe bình yên quá. Chiến tranh dường đâu có ngụ ở nơi này.
Trong khi cô gái còn chưa kịp tìm thấy bình nước thì ma xơ Giám đốc đã nhanh chóng quyết định:
- Cô Hồng thu xếp để chuyển gia đình lên ở chỗ tôi cho mấy ông giải phóng mượn tạm chỗ này ít bữa. Và quay lại phía tôi: Trung úy định ở lại đây bao lâu?
- Hết chiến tranh, thưa ma xơ. Tôi cười. Nhưng chiến tranh cũng chỉ còn một trận đánh này và tôi không nghĩ rằng nó lại kéo dài.
Thêm một lần ma xơ nhìn tôi như có chút phân vân.
Ngày hôm ấy chúng tôi thay nhau trực trên đài quan sát với biết bao nôn nóng khi nghe tiếng pháo từ hướng đông, hướng tây và xa hơn nữa, hướng nam. Ðôi lúc mơ hồ vọng đến cả tiếng súng nhỏ. Sẽ đến rất gần một ngày Sài Gòn; ngày mai, ngày kia, hay...?
Nhưng đã xảy ra một chuyện làm đảo lộn công việc của chúng tôi. Bắt đầu là binh nhất Ruân, con chiên xứ đạo gốc Hải Hậu băn khoăn tìm đến vào lúc cuối chiều:
- Anh ạ, có chuyện này khó hiểu. Em hỏi ma xơ khi nào thì hành lễ, lúc đầu ma xơ làm bộ như không nghe, rồi sau đó bà hỏi: "Mấy ông giải phóng cũng quan tâm chuyện đó sao? Chúng tôi làm lễ rồi, cảm ơn". Em phải nói rằng em là con Chúa, bấy lâu ở rừng chỉ đến thầm với Chúa được thôi, nay có nhà nguyện thì sướng nhất rồi, em muốn đi lễ. Em nói thế, ma xơ nhìn em rất lạ rồi bỏ đi mà không nói gì thêm. Anh thấy không, chúng mình đến đây từ sớm, đã có buổi lễ nào đâu? Không có lễ sáng mà cũng chưa thấy lễ chiều. Em để ý kỹ lắm mà. Ma xơ nói thế thì lạ thật!
Tôi chưa kịp chia sẻ mối nghi hoặc thì tiểu đội trưởng Vinh xuất hiện:
- Báo cáo chủ nhiệm, không ổn đâu! - Vinh hạ giọng.
- Có địch!
Vinh cho biết anh đi kiếm rau dền, rau rệu quanh trường, vừa lúc qua phía sau nhà nguyện thì đột ngột cửa sổ hé mở rồi đóng vội lại ngay. Anh áp sát chân tường và nghe thấy bên trong có tiếng động.
- Anh xem. - Vinh chỉ. - Ðứng đây mình vẫn nhìn thấy ổ khóa trái đen đen kia. Rõ ràng là...
Ruân đưa thêm ý kiến:
- Có một lúc ma xơ đi ngang chỗ khóa cửa, em để ý thấy bà bước chậm, miệng lẩm bẩm điều gì đó và đôi mắt thì không yên ngó vào một chỗ.
Các chiến sĩ trinh sát của tôi khá đấy. Tôi cũng đã thấy đôi điều ngờ ngợ và giờ đây thì rất nhanh, như một phản ứng nghề nghiệp, tất cả các dữ kiện được xâu lại để bật lên thông tin chủ yếu này: ma xơ Giám đốc đã giấu ai đó - những ai đó - trong nhà nguyện kia vào lúc chúng tôi vừa hành quân đến đây. Ai?
Tôi không có lý do gì để không đồng ý với tiểu đội trưởng Vinh rằng đó là địch. Và chúng thậm chí không chỉ có một tên. Rất có thể địch đã để lại đây một tốp nhỏ - vì lý do nào đó - sau khi "nhường khu trường cho Cô nhi viện" như lời ma xơ. Và cũng có thể đó là những tên chối bỏ cuộc chiến từ đâu đó chạy về, vẫn như lời ma xơ. Tôi quyết định phong tỏa nhà nguyện mà không cần cật vấn thêm ai nữa. Phương án tác chiến được vạch ngay với hai kịch bản cho những tình huống, hoặc địch lợi dụng trời tối để lén rút chạy, hoặc chúng mưu đồ tập kích lại chúng tôi. Chỉ biết rằng từ giờ phút này với năm người, gánh nặng của nhiệm vụ chiến đấu đã tăng lên gấp bội.
Ðể có thể khống chế được mặt sau ngôi trường, tôi không có cách nào khác là phân công Ruân đem tăng võng ra mắc ở mấy gốc cây xế phía hồi nhà. Ðộng tác này không thể không đập vào mắt ma xơ và mặc dù lúc đó đã tối trời, tôi vẫn cái thấy cái nhìn của bà hướng đến như muốn hỏi: Vậy thì cần làm gì, căn nhà mà các ông yêu cầu?
Vậy là cuối cùng, đã đến với chúng tôi một đêm bức bối và hồi hộp lạ thường. Pháo cứ rền lên từng đợt, chớp cứ rung bần bật phía đường chân trời và thân xác chúng tôi thì căng lên hết nỗi. Chúng tôi lắng theo bước chân chiến thắng của đồng đội, chúng tôi lo làm nhiệm vụ được giao, và chúng tôi... Thôi, khỏi cần kể thêm. Khuya mọi thứ có dịu đi nhưng tuyệt nhiên không một ai muốn chợp mắt.
Lúc đó quãng nửa đêm, trăng hạ tuần chưa qua khỏi ngọn cây. Tôi làm hiệu bí mật theo dõi khi đồng đội phát hiện một bóng đen. Bóng đen từ đầu bên kia dẫy nhà men theo chân tường, lợi dụng sự che khuất của các bóng cây, chầm chậm, di chuyển về hướng này. Cuối cùng thì bóng đen cũng đến được gốc cây cách nhà nguyện lối chừng mươi bước. Mục đích có thể là đã rõ: tên này, hoặc làm nhiệm vụ đưa tin, hoặc tìm cách mở cửa cho đồng bọn. Nhưng điều tác hại là cả khoảng trước cửa nhà nguyện lại hết sức trống trải, và kẻ phiêu lưu kia đành hầu như án binh bất động nơi gốc cây. Tôi dự kiến bắt sống nhưng chưa kịp hành động thì ngay lúc đó đã đẩy tới một tình huống bất ngờ. Bóng đen bỗng tách khỏi gốc cây, nghe ngóng rồi nhảy lên bậc thềm chỗ cửa nhà nguyện và chắc là bước hụt, y ngã sấp với một tiếng "xoảng". Rất nhanh, bóng đen đứng vụt dậy biến mất về hướng ngược lại. Tôi quyết định không đuổi theo.
Buổi sáng, các chiến sĩ thu được từ hiện trường một cặp lồng với cơm canh tung toé, mấy ổ bánh mì và một chiếc dép. Vậy là mục đích của cuộc phiêu lưu ban đêm đơn giản hơn điều chúng tôi tưởng. Tôi cho xếp gọn các thứ, để ngay ngắn trên thềm nhà nguyện.
Ngày làm việc đã trở lại mà không một ai trong Cô nhi viện đi qua hướng này, trong khi các ma xơ thì có vẻ lóng ngóng đứng ngồi chẳng yên. Cũng chẳng có lễ sáng trong nhà nguyện nữa, đương nhiên. Và cũng không một ai trong chúng tôi nhìn thấy ma xơ Giám đốc đâu, bà như giấu mặt vậy. Tất cả giống một sự đồng lõa tự tố cáo.
Vào phiên liên lạc sớm với trung đoàn, tôi được nhắc tăng cường cảnh giác và được biết thêm rằng ngày hôm nay - rất có thể là ngày hôm nay - các quân đoàn bộ binh sẽ tiến vào nội đô. Trong báo cáo của mình tôi cũng đề cập đến tình hình mặt đất nơi tác nghiệp và xin được toàn quyền hành động. Trung đoàn trưởng đồng ý: "Gắng hết sức bắt sống hay gọi hàng. Ðừng phung phí cái chết, chiến tranh sắp qua rồi. Vả lại ở đó đang có nhiều trẻ em phải không?"
Tôi quyết định đi tìm ma xơ Giám đốc, phải nói chuyện với bà ta trước đã. Tất nhiên sẽ không có thuyết giảng về chính tà, về chỗ đứng, dù ở thời điểm này. Càng không cần vòng vo Tam Quốc. Tôi nghĩ là mình hiểu bà. Các ma xơ luôn hành động hướng thiện như bằng chứng đây về trại mồ côi. Tình huống mà chúng tôi gặp phải cũng vậy, hẳn vì bà muốn tránh đổ máu. Tôi sẽ nói với ma xơ rằng chúng tôi cũng muốn thế, do đó xin ma xơ vận động những kẻ đang ẩn náu trong nhà nguyện kia buông súng đầu hàng. Cách mạng sẽ khoan dung.
Nhưng tôi được trả lời là ma xơ Giám đốc đang ốm? Không thể chần chừ, tôi nói với một ma xơ khác có vẻ đứng tuổi:
- Xin ma xơ lấy chìa khóa mở căn nhà nguyện kia. Chúng tôi cần kiểm soát trong đó.
- Giê su! Bà thốt lên. - Nhưng tôi không có chìa khóa. Thứ đó ma xơ Giám đốc giữ.
- Thì ma xơ trình lại với bà ấy yêu cầu của chúng tôi. Từ giờ phút này nhà nguyện bị phong tỏa xin ma xơ thu xếp để tất cả mọi người, nhất là trẻ em chuyển hết về đằng kia. - Tôi tuyên bố.
Ma xơ làm dấu thánh rồi tất bật đi luôn. Nhưng hơn nửa tiếng trôi qua, không thấy bà quay lại. Tuy nhiên các trẻ em đã được đưa ra khỏi khu vực phụ cận.
Phải hành động ngay. Tôi triệu tập bộ đội, chỉ để một chiến sĩ ở lại đài quan sát. Vinh tới, anh nói mà không biểu hiện một trạng thái nào rõ rệt trên nét mặt:
- Quân ngụy đã đầu hàng. Anh nghe đây...
Vinh tăng chiết áp của chiếc đài bán dẫn Sô-ny lúc nào cũng cặp kè bên sườn anh. Ðập ngay vào tai tôi lệnh hạ vũ khí cho quân đội Sài Gòn của Tổng thống Dương Văn Minh. Tôi cảm nhận cả mình cũng không có cảm xúc rõ rệt nữa khi hướng về đồng đội:
- Chúng ta sẽ đánh trận cuối cùng của chiến tranh.
"Ðiều gì cũng có thể xảy ra", ý nghĩ đó lướt nhanh trong khi tôi phân công vị trí chiến đấu cho các chiến sĩ. Mọi sự chấp hành đều lập tức và tuyệt đối.
- Phá khóa gọi hàng! Tôi ra lệnh.
- Kìa Chủ nhiệm, ma xơ...
Tôi quay lại. Ma xơ, ma xơ Giám đốc bỗng như từ đâu đó hiện ra đi về phía chúng tôi, bước chân lẩy bẩy như khựng lại, như trờ tới. Khi bà gắng giơ cao một chùm chìa khóa, hào hển điều chi mà khi đến gần mới nghe rành:
- Xin đừng bắn vô trỏng, trung úy...
Mới chỉ qua một đêm, ma xơ đã gầy rộc hẳn đi. Bà cúi xuống, đôi tay gầy guộc run rẩy lần tìm chiếc chìa khóa nhà nguyện. Có lẽ bà đã đếm qua nó cả chục lần nhưng vẫn tìm, tìm hoài. Cuối cùng thì bà cũng giữ lấy một chiếc, nhìn lên:
- Trung úy để tôi.
Thoắt một cái, động tác của ma xơ bỗng trở nên nhanh hoạt lạ lùng. Bà như khẳng định lại tư thế Giám đốc. Khóa nẩy, cửa mở, sau dấu Chúa tuẫn nạn, bà kêu rành rọt:
- Má đây, ra đi các con... Và bất đồ đổ ụp dưới chân tôi, bà nấc lên: - Lạy Chúa, xin các ông đừng giết. Chúng đâu có tội, chúng không có tội...
Thôi rồi! Tôi chợt hiểu tất cả khi từ trong góc tối của nhà nguyện, thất thểu, sợ sệt và hốc hác vì đói bước ra ba đứa trẻ lai: hai Mỹ đen, một Mỹ Trắng. "Trời! Lại có thể như thế sao Chúa ơi".
- Lấy sữa trong ba lô pha cho các cháu mau đi! Tôi nói với đồng đội trong khi cúi xuống đỡ ma xơ dậy.
Và cũng chỉ nói được đến thế, tôi đã phải xoay người bước nhanh để lẩn trốn những giọt nước mắt của chính mình. "Lại có thể như thế được sao, lại có thể...".
--------------------------------------------------------------------------------
* - Maxơ gốc tiếng Pháp: Ma souer (chị của tôi, xơ của tôi) nhưng được Việt hóa trong khẩu ngữ từ miền trung trở vào để chỉ người phụ nữ tu hành trong nhà thờ Thiên Chúa giáo, thường làm những việc thiện trong nhà thờ (tương tự như từ xơ, nhưng được hiểu với nghĩa tôn quý hơn).
Ngày Tết về thăm quê
Nguyễn Khải
Hôm ấy là ngày 29 Tết, những ngày cuối chạp u ám, buốt giá và buồn tẻ. Tôi từ bến đò qua đê đi tắt ruộng xiên chéo một đường thẳng đến tận đầu làng. Bốt Chi Ðiền cách làng năm mươi thước. Ngày tôi đi bốt mới xây xong, có bốn lô-cốt chìm, một lô-cốt nổi cao ba bốn tầng, trên mỏm bắc một khẩu đại liên, bây giờ cỏ mọc xung quanh bốt xanh um, dây thép gai gỡ dỡ cuộn lại từng đống nhớn nhỏ, tầng trên cùng của lô-cốt nổi sạt đi đâu mất, tường chằng chịt vết đạn. Cây gạo cổng làng đã đây rồi, nhưng rõ là không phải cây gạo ngày xưa mà bóng cây che tối cả mấy khoảnh ruộng, trâu bò buộc dưới gốc đen kín, mùa đình đám thì kết nụ, cuối xuân hoa nở đỏ rực như đốt lửa, bây giờ các cành của nó đã bị ai tiện cụt, chỉ còn trơ lại một cái thân chọc thẳng, trùi trũi. Làng tôi rất nhỏ, chỉ có hơn trăm nóc nhà, phong cảnh chẳng có gì đáng để ý, nhân dân chỉ còn hãnh diện ở ngôi đình Cả và lai lịch của ông Thành hoàng. Tục truyền, tám ông Thành hoàng ở vùng này là tám anh em do một mẹ đẻ ra. Ông Thành hoàng làng tôi là anh Cả. Trong đám rước, long đình ông Cả đi đầu, cao nhất, đẹp nhất. Trong làng không có nhà nào có đến năm mẫu ruộng, nhưng mọi người đều tự hào: tuy nghèo kiết nhưng vẫn là nền anh. Những tay đầu bò đầu biếu say rượu đi cà khịa đánh nhau với người thôn bạn phần nhiều họ đều nhường cả. Nhưng cái điều đáng tự hào nhất của dân làng bây giờ cũng không còn nữa. Ngôi đình Cả tiều tụy không khác gì một túp lều rách, hai đầu hồi đình bị đại bác phá tung, mái ngói tróc nham nhở như người đánh vẩy cá. Vào trong làng cảnh tượng càng chán ngán hơn, chỉ thấy những tường đất xếp ngổn ngang, những túp rạ co kéo, tranh giành nhau, những bụi tre mới nhú phờ phạc và từ khối hỗn độn ấy xông lên mùi ẩm ướt, hôi mốc. Ðến chỗ rẽ về ngõ nhà tôi có một chị to béo, khăn vuông che gần kín mặt, từ đám ruộng cấy cần bước lên đi trước tôi vài bước. Trông dáng người tôi nhận ngay ra chị Vườn. Tôi mừng quá bước nhanh đến ngang chị khẽ hỏi:
- Chị vẫn khỏe!
Chị dừng lại nhìn tôi thoáng một cái rồi trả lời:
- Các anh về chơi. Cảm ơn anh tôi vẫn khỏe.
Rồi chị cắp rổ cần bước ngoắt đi. Biết là chưa nhận được ra tôi, tôi vừa cười vừa gọi lại:
- Chị Vườn ơi, tôi đây mà!
Lập tức chị quay phắt lại, nhìn tôi một lần nữa rồi kêu lên:
- Anh Cu phải không?... Thế mà không nói ngay, cứ ngỡ là ông khách nào.
Tôi nhìn chị:
- Trông tôi lạ lắm à. Chị thì vẫn như xưa.
Chị Vườn cứ đứng ngắm tôi từ đầu đến chân, miệng tủm tỉm cười:
- Cao lớn quá. Thoáng trông không thể nào nhận ra. Mới ngày nào nhỉ... à, để tôi gọi ông Kinh cho ông ấy mừng.
Thế là chị cắp cả rổ cần, quần vẫn để xắn đến bẹn, chân đầy bùn, chạy vào ngõ nhà tôi, réo ầm ĩ:
- ối ông Kinh ơi! Anh Cu về kia kìa. Ra mà nhận mặt ông em!...
Ngày tôi đi bộ đội chỉ có ủy ban xã biết, còn đến anh tôi cũng không hay (thầy u tôi mất sớm, từ ngày bé tôi vẫn ở với anh). Năm ấy chị Vườn là thôn đội phó du kích. Chị cho quần áo của tôi vào cái thúng khảo đội lên đầu đi qua bốt, còn tôi tay cầm thuổng, lưng đeo giỏ như người đi đào chuột đi tắt ruộng đón đường. Khi chia tay, chị nắm lấy tay tôi dặn: "Nhớ đến thù làng mà giết cho nhiều Tây nhé!". Hôm nay lại gặp chị và tôi tự xét không đến nỗi hổ thẹn với lời dặn của chị năm xưa. Anh tôi đương phát rào ở ngõ, nghe nói em về vứt cả dao, chạy ra đón. Thấy tôi, anh ôm chầm ngay lấy, vừa khóc, vừa nói:
- Chú Cu về đấy à. Anh tưởng chú lại đi mãi đâu rồi... Sao chẳng chịu thư từ gì cho nhà biết cả.
Tôi nhìn lại anh tôi, sao anh có thể già đến thế. Ngày tôi đi anh cao lớn hơn nhiều, tính lại nghiêm nên tôi càng thấy mình bé bỏng, trẻ con. Bây giờ râu anh mọc sồm soàm, người choắt lại, đứng chỉ có đến tai tôi, mặc cái áo bông rách, quần ống thấp ống cao trông càng tiều tụy. Anh thấy tôi to lớn, đĩnh đạc khác xưa nên cứ luẩn quẩn đi bên cạnh, nói đi nói lại:
- Chú, chú khỏe chứ. Thật không ngờ Tết này chú lại về.
Bà chị dâu đi chợ vắng, các cháu đứa đi cấy, đứa đi học. Hai anh em vừa nói với nhau được vài câu chuyện thì người kéo vào đã đầy nhà, vừa họ hàng, vừa hàng xóm láng giềng nghe tin tôi về nên chạy lại xem mặt. Tôi lấy ở trong ba-lô ra một gói kẹo, một bao thuốc lá, mời từng người, trẻ con thì ăn kẹo, các cụ, các ông hút thuốc, còn các bà, các chị cứ mủm mỉm cười: "Gớm, anh Cu bây giờ giàu nhỉ. Mua quà đãi khắp làng". Mọi người đều khen tôi to lớn, trắng trẻo, đẹp trai hơn ngày ở nhà, và hỏi tôi đã xây dựng gia đình ở đâu chưa, có định cưới vợ ở làng không để còn liệu manh mối, chị Vườn lúc ấy mới nói thật:
- Ngày anh đi trông người cứ bé choắt, tôi cứ chắc mẩm thế nào cũng phải về lộn. Năm ấy anh mới mười bảy nhỉ?... Ai ngờ...
Tôi nói:
- Nhờ có chị khuyến khích tôi, lại mang giúp quần áo nên nay tôi mới trở thành người bộ đội. Ơn chị tôi vẫn nhớ.
Chị vẫn cười to như xưa:
- Ai dám nhận ơn của anh. Bây giờ anh là anh hùng quân đội, đi đây đi đó người ta hỏi quê anh ở đâu thì trả lời quê tôi ở làng Chi Ðiền, huyện Nam Sách, như thế cũng đủ mát mặt chúng tôi rồi.
Trong khi nói chuyện tôi để ý ở góc cửa có một chị trông rất quen mặt, nhìn vài ba lần thì nhận ngay ra là cái Miều, con ông anh họ. Ngày trước, tôi với nó vẫn đi cắt cỏ trâu với nhau, nó mới mười bốn tuổi mà cao hơn tôi cái chỏm đầu, nhưng chỉ được cái lưng dài còn làm ăn đến đuểnh đoảng. Có hôm gánh cỏ về, đường mưa trơn, nó cứ bấm chân xuống đất không dám bước, rồi khóc hu hu. Tôi tức mình mắng nó: "Người cứ đuỗn như con cá rô đực, gánh có gánh cỏ mà cũng khóc, mày thì rồi chó nó lấy". Rồi tôi san một nửa gánh cỏ của nó sang tôi. Bây giờ nó lại có vẻ thấp hơn trước, người béo đỏ mập mạp, trông đẹp gái và gọn ghẽ, lại thấy nó bế một thằng bé chừng lên hai, lên ba tuổi. Tôi hỏi nó:
- Cái Miều đấy hử?
Nó nói như dỗi:
- Giờ chú mới nhận ra cháu đấy à. Sao chóng quên thế.
Tôi chống chế:
- Quên đâu mà quên... Mày bế con ai thế?
Nó toét miệng cười. Tôi gắt:
- Cười cái gì. Con ai đấy?
Nó ngoảnh mặt đi, lấy tay che mặt, tiếng cười càng to.
Anh tôi bảo tôi:
- Con nó đấy. Con lên ba rồi. Rõ chú với cháu.
Lúc ấy nó cũng đặt thằng bé xuống, đun vào giữa nói:
- Vào với ông, ông đấy, vào ông cho kẹo.
Tôi đưa cho đứa bé một cái kẹo, định bế nó, nhưng nó quay ngoắt ra ôm lấy cổ mẹ đu lên, rồi quay lại nhìn tôi lấm lét:
- Anh bộ đội, anh bộ đội cho kẹo...
Miều ôm lấy con phát vào đít:
- Láo, ông mày đấy... ra lạy ông đi. Lạy ông... ạ... Cháu là con mẹ Miều cháu đấy ạ...
Mọi người cười ầm lên. Bỗng vòng người ngồi ở hè giãn ra nhường lối cho một ông cụ tóc bạc phơ bước vào. Tôi nhìn lên: kìa chú tôi. Tôi đứng dậy đỡ lấy chú.
- Lạy chú, chú sang chơi.
Chú tôi năm nay phải hơn tám mươi tuổi. Trước ngày tuy tôi làm ăn ở nhà anh, nhưng đêm đêm lại vác chiếu sang nhà chú ngủ. Chú thương tôi mồ côi bố mẹ, lại làm ăn vất vả nên rất chiều. Chú chỉ có một người con trai ra làm trưởng thôn được hai năm thì bị địch bắt đem dìm chết ở ngay cái giếng xóm trên. Thằng Thâm là cháu nội nhưng lại phải đi ở cho người làng khác, đêm đến chỉ có hai chú cháu tôi ngủ ở nhà. Chú nằm gác chân lên tôi kể chuyện làm ăn chán rồi lại lẩy kiều, hát chầu văn cho nghe. Người chú rất lắm rận, đêm rận bò sang tôi đốt cứ ngoay ngoáy, gãi đến phát ghẻ, nhưng không đêm nào tôi không mò sang đấy ngủ để được chú ủ ấp, an ủi. Chú nhìn tôi rất lâu, mắt nhấp nháy, rồi đưa tay lên quệt nước mắt, mãi mới nói được: Tao tưởng mày bỏ làng rồi đấy. Mày ghét chúng tao lắm phải không? Cứ đi biền biệt như người giận dỗi cái gì...
Thấy chú khóc, tôi cũng ứa nước mắt. Chú lại lẩm bẩm:
- Sao cũng may tao còn sống để được trông thấy mày.
Rồi chú hỏi tôi:
- Bây giờ mày đổi tên là Ðức Song phải không. Song hay là Sang. Tao thấy ảnh chụp anh hùng Ðặng Ðức Song thì đúng là mày. Anh tôi đỡ lời:
- Chú nó đấy ạ. Hồi ở nhà chú ấy cũng đã đổi là Song rồi nhưng không ai gọi.
Tên tôi ngày bé là Sang, song vì trùng tên với con cháu nên người làng cứ gọi tôi là anh Cu. Sau anh tôi phải đổi tên tôi là Song. Ra bộ đội tôi mới thêm chữ Ðức đệm giữa: Ðức Song.
Cái Miều đứng ở ngoài nói chõ vào:
- Chốc nữa chú Song ra mà xem ảnh chú treo ở phòng thông tin ấy. Ðẹp, đẹp là... tha hồ mà đắt vợ.
Tôi phải lườm nó một cái nó mới chịu ngồi thụp xuống nhưng vẫn cười rúc rích.
*
* *
Bữa cơm trưa 29 đã có mùi vị Tết. Dưa nén, hành nén, thịt gà luộc. ¡n xong tôi sửa soạn định lên đình gặp ủy ban thì có tiếng nói từ ngoài cổng:
- Chú Song còn ở nhà không?
Tôi ngó ra thấy thằng Thâm bế con đi vào sân. Thấy tôi nó chạy vội lên hè, cầm lấy tay tôi lắc lắc:
- Ôi, chú hơn tuổi cháu mà chú còn trẻ quá, cháu hóa già hơn chú rồi.
Tôi nhìn lại quả nó biến đổi nhiều quá. Ngày trước nó vào loại đẹp trai của làng, có bộ ngực nở và hai cánh tay rắn chắc. Nhiều cô mê nó cứ đi mua thuốc lào biếu nó hút. Thành thử nó là tay nghiện nặng, tiền không mất một xu mà vẫn có thuốc hút quanh năm. Nay nó già hơn tôi thật, tóc lờm sờm, gò má nhô lên xanh nhợt, mắt trũng sâu lờ đờ.
Nói chuyện được một lát, tự nhiên nó bảo tôi:
- Cái Cún con nó lấy chồng rồi chú ạ.
Tôi cười:
- Mới lấy à?
- Lấy nhau cũng được hơn ba năm rồi, đã gần có ba con.
Tôi chép miệng.
- Nhanh nhỉ.
Thâm nhìn tôi, rồi hắn nói hơi buồn buồn:
- Kể ra ngày con gái cô ấy cũng đẹp thật, cháu đã định ướm hỏi đám ấy đấy, nhưng... sau nghĩ là của chú nên cháu lại thôi.
Tôi đỏ mặt:
- Ai bảo mày thế, bạn chăn trâu thôi, chứ đã có tình ý gì đâu.
Thâm càng có vẻ tiếc rẻ:
- Cháu cũng nghĩ như vậy, vì từ ngày chú đi chẳng gửi về cho cô ấy lá thư nào cả. Nếu có vấn đề gì thì ít ra cũng phải có hứa hẹn với nhau chứ... thôi việc nó cũng đã qua rồi.
Thâm bế con cùng lên đình với tôi. ở đình có lớp học ngắn ngày của các cán bộ trong toàn xã, gồm những người bị xử trí oan vừa được trả lại tự do và anh chị em cốt cán trong cải cách. Tôi vừa bước vào sân đình thì ông Hợp thoáng trông thấy tôi. Ông ngừng nói chuyện rồi chạy ra:
- Chú Song, chú đã về chơi đấy ư?
Trông ông vẫn như xưa, cái mũ nồi rách ở chỏm để lòi cả tóc, một mắt bị kéo màng trắng, còn một mắt rất tinh nhanh, hàm răng trên vàng khè ám khói thuốc lào, hơi nhô ra, khi cười rất độ lượng và hiền lành. Ông nắm tay tôi hỏi:
- Chú được về chơi bao nhiêu hôm?
Khi biết tôi được về phép có một tuần, ông chặc lưỡi:
- Kể ra xa nhà năm sáu năm về chơi được có một tuần thì cũng còn ít. Nhưng nhiệm vụ quân đội thì...
Rồi ông lôi tôi vào trong đình, mọi người xôn xao lên: "Kìa anh Cu, nghe tin về từ sáng kia mà". "Trông chững chạc nhỉ". Ông Hợp tươi cười đun tôi ra phía trước giới thiệu:
- Tôi xin giới thiệu một người của làng ta, một người làm vinh dự cho quê hương ta là đồng chí Ðặng Ðức Song, Anh hùng quân đội... Ðồng chí...
Ông chưa nói hết mọi người đều đứng dậy vỗ tay hoan hô. Tôi liếc nhìn thoang thoáng toàn là những cán bộ cũ của xã, có thêm ít người mới, chắc là anh em cốt cán. Ông ra hiệu im lặng, rồi nói tiếp:
- Ðồng chí Song là anh hùng Ðiện Biên Phủ, nghĩa là có rất nhiều chuyện về Ðiện Biên. Tôi đề nghị hôm nào Tết ra xã sẽ tổ chức cho đồng chí Song nói chuyện với bà con trước khi về đơn vị.
Sau ông dắt tôi xuống nhà dưới nói chuyện. Tôi móc túi lấy bao thuốc lá để trên bàn. Ông nheo mắt, bóc thuốc lá cười:
- Ðộ này cũng hút thuốc lá kia à?
- Không, ngày Tết thì mua về vài bao hút cho vui.
- Thế nào, chú còn nhớ những chuyện hồi còn kháng chiến không. Tôi vẫn nhớ ơn chú đấy nhé. Lắm lúc nghĩ lại thấy mình còn sống được đến bây giờ kể cũng giỏi thật.
Nhân vui chuyện ông nhắc lại thời kỳ hoạt động cũ. Hồi ấy ông là bí thư của chi bộ Ðảng ở xã, nhiều ngày ông đến nằm ngay trong buồng nhà anh tôi để nắm tình hình lính bốt. Những ngày ấy, tôi cứ chăn trâu luẩn quẩn bên ngoài, đến bữa cơm lại đưa cơm vào, có động làm hiệu báo. Có hôm ông mót đái quá liền đục một lỗ nhỏ ở vách sau cho nước tiểu thông ra, ai ngờ nước chảy xuống nền nhà không thấm ngay mà lại kéo thành một đường thẳng chạy ra vườn. Tôi chợt đến thấy thế vội vàng lấy tro đổ lên rồi quét đi, vừa xong thì bọn lính bốt sục tới. Sau biết chuyện ông Hợp cứ khen mãi: "Thắng Song nó bé mà lại tinh khôn hơn mình, suýt nữa thì chết cả lũ". Chuyện cũ chán, ông cho biết tình hình sửa sai của xã, bây giờ ông lại về nhận nhiệm vụ bí thư Ðảng như cũ, kỳ vừa qua ông cũng bị xử trí oan, đi tù mất mấy tháng. Lúc chia tay ông dặn tôi:
Hôm nào chú lại đằng nhà ăn bữa cơm rau muối với vợ chồng tôi, tôi sẽ cho chú biết thêm tình hình của xã nhà. Tôi chắc chú sẽ góp được nhiều ý kiến hay.
Tôi hơi ngượng nghịu:
- Tôi thì còn có ý kiến gì.
Ông trợn mắt:
- Xưa chú khác, bây giờ chú khác. Chú tưởng hễ đi bộ đội là không có trách nhiệm gì về phong trào của xã nữa à. Nhớ hôm nào lại chơi nhá...
Sáng hôm sau tôi dậy sớm đi thăm nhà bà dì em ruột u tôi ở xóm trại. Bà có hai con trai là thằng Cớn và thằng Cởn, một đi bộ đội, một vào du kích, cả hai đều đã hy sinh. Bây giờ bà chỉ còn một người con gái, nhưng vẫn ở riêng vì đứa con rể ăn ở với mẹ vợ chẳng ra gì. Ngày tôi còn ở nhà bà thương tôi như con đẻ, vẫn cứ bảo xuống ở dưới ấy nhưng anh tôi không bằng lòng. Mỗi lần đi chợ bán được một món hàng gì, bà lại rẽ vào gặp tôi, cởi vạt áo khi cho một đồng, khi cho vài đồng. Bà đang xay thóc, cái váy mặc vá chằng vá đụp, hai ống chân gầy choắt khô khỏng. Tôi rón rén đi đến đứng sát đằng sau, khẽ nói:
- Dì đưa con xay đỡ cho nào.
Bà giật mình quay lại thấy tôi ngơ ra một lát rồi vừa chửi vừa khóc:
- Cha bố mày, mày đi bộ đội mà không thèm nói với dì đến một tiếng. Mày về bao giờ thế hả con... Vào trong này.
Bà cầm tay tôi nắn bóp, rồi lại sờ mặt tôi, nắn đùi tôi, nước mắt cứ giàn giụa.
- Bây giờ tao chỉ còn có mày, thằng Cớn, thằng Cởn nó bỏ tao nó đi, mày mà bạc nữa thì tao biết ở với ai.
Tôi an ủi dì:
- Con coi dì cũng như u con, bây giờ con về là vui rồi sao dì lại khóc cho nó thêm buồn ra.
Dì tôi chùi nước mắt, hỏi tôi về chơi được bao lâu, và muốn giữ tôi ở dưới này ăn Tết. Dì đem nải chuối vừa dấm chín ra bảo tôi ăn rồi nói:
- Này, cái Cún con nó lấy chồng rồi. Ðến hoài, con bé vừa đẹp người lại đẹp nết.
Tôi thẹn quá nên nói có vẻ không cần:
- Cô ấy lấy chồng mặc cô ấy chứ.
Dì phát vào lưng tôi:
- Quân bạc, nó để ý mày từ ngày còn bé kia đấy. Nó đợi tin mày mãi thỉnh thoảng lại đến tao hỏi dò. Tao thương nó quá nên cứ nói dối nó là người trong xã đi dân công ra ngoài ấy vẫn gặp mày và mày vẫn nhắn tin về. Mãi năm nọ mới chịu đi lấy người khác. Con bé đến ngoan.
Tôi cởi áo ra xay nốt thúng thóc còn lại, bà chạy đi đâu một lát về bảo tôi ngừng tay rồi móc túi đưa tôi tờ giấy năm nghìn còn mới.
- Con cầm lấy mà tiêu. Dì nghèo cũng chẳng có gì...
Tôi biết dì tưởng tôi đi bộ đội thì túng thiếu như hồi còn kháng chiến nên giật tạm tiền của ai đây. Tôi đưa lại và nói:
- Con không túng đâu, dì cầm lấy mà mua vải, mua thuốc. Con trông dì gầy lắm.
Bà giận dỗi:
- Hay mày chê ít, dì nghèo, dì chỉ có thế thôi con ạ.
Rồi bà mở khuy túi áo trên của tôi, nhét tờ giấy bạc vào. Cò kèo mãi tôi đành phải nhận, nhưng định bụng rằng hôm nào đi tôi sẽ gửi lại cho anh tôi cầm xuống trả bà.
Khi tôi trở ra đến đầu ao có giồng một rặng táo thì thấy một người đàn bà, mặt bầu bầu, bụng chửa, bế con đi lại. Ðúng là cái Cún con!. Cô ta dáng chừng cũng đã trông thấy tôi nên khẽ kéo nón xuống che mặt. Hai đứa chỉ cách nhau có vài bước, tôi đã định bước chéo chân né người vào một bên rào đi thẳng, nhưng có một cái gì bắt tôi phải dừng lại. Cún con thấy tôi đứng chờ, càng luýnh quýnh.
Tôi đi sát lại, hỏi:
- Cô Cún còn nhớ tôi không? Song đây mà.
Lúc ấy Cún mới bỏ nón ra ngượng nghịu nhìn tôi nhưng không nói gì. Ðứa con thấy người lạ nhệch mồm ra mếu rồi úp mặt vào vai mẹ. Mẹ nó đưa mắt nhìn xuống đất rồi cũng mếu máo nốt. Tôi định nắm tay cô ta dắt vào nhà dì tôi nói chuyện một lúc, nhưng người chị gái đi sau cũng vừa tới, chào tôi rồi giục em: "Thôi dì xin phép anh ấy mà đi, muộn rồi đấy". Cún lại đội nón, cúi đầu xuống, bế con theo chị. Tôi ngoái nhìn lại đợi cho hai người đi khuất bờ ao mới quay về.
Tôi thấy cần phải kể lại một chút về mối tình bạn bè giữa tôi và Cún con. Cún là người con gái đầu tiên đến với tôi và chiếm một vị trí quan trọng trong những kỷ niệm của tôi về quê hương. Năm ấy, tôi mười sáu tuổi và Cún con mười lăm. Tôi và nó tuy cùng làng nhưng ở hai xóm cách nhau khá xa. Nó để ý tôi và mến tôi trước khi tôi biết đến nó. Lần đầu hai đứa thật sự quen nhau là do một cuộc đánh tam cúc tay ba ở ngoài đồng: tôi, Cún con và thằng em họ. Tôi chơi bài rất thấp, vả lại vốn cũng không ưa nhưng vì hôm đó lại được thông luôn mấy ván nên đã bắt đầu ham. Một ván tôi kết đôi pháo điều. Cún con nhìn bài tôi ngần ngừ một lúc rồi dúi hai cây bài còn lại vào tận dưới lớp bài chui.
Tôi cười ré lên:
- A tướng, tướng đi ỉa!
Thằng em tôi hơi nghi nên lôi hai con bài chui ra lật xem: ai ngờ lại là đôi tịnh vàng. Tịnh vàng phải chui pháo điều? Thì ra nó muốn ngồi đánh bài lâu với tôi nên cứ giả vờ thua để tôi hăng máu, không chóng chán. Thằng em họ tôi rất láu, nó cứ nhìn con bé chòng chọc rồi cười:
- £, đánh bài hay nhỉ... Tao biết thừa rồi...
Tôi chỉ thấy Cún con đỏ mặt lên nhìn đi chỗ khác.
Hai đứa chúng tôi chăn hai con trâu. Từ ngày quen nhau tôi cứ cưỡi trâu ra đồng lại nhờ Cún chăn hộ, còn tôi đi đánh bẫy chim, đơm cá, đào ổ chuột đến buổi mới về. Thường thường Cún cứ buộc hai đầu thừng của hai con trâu lại, cho chúng nó đi với nhau. Một chiều tôi đi chơi về, tìm trâu lại thấy trâu buộc díu đôi cởi mãi không được, trời thì sắp có cơn giông. Tôi giận quá quát tướng lên:
- ới Cún, Cún ơi... đi đâu rồi!
Cún con ở đâu chạy lại, cười cười. Tôi trợn mắt gắt:
- Sao không chăn riêng lại buộc thừng lại với nhau làm người ta tháo mãi không được.
Nó nhìn tôi gườm gườm.
- Người ta đã chăn hộ cho mà đi chơi lại còn làm bộ. Gắt gắt cái gì...
Tôi càng tức:
- Từ nay không khiến chăn hộ nữa. Tháo thừng ra. Nó cũng găng:
- Sai ai đấy, muốn về trước thì tháo lấy.
Tôi tháo mãi không được liền nắm lấy lưỡi liềm nó cầm ở tay giằng lấy, rồi một chân dận đầu thừng, một tay kéo thừng căng ra cứa đứt đôi. Khi tôi cưỡi trâu về quay lại nhìn thấy nó đương đưa vạt áo lau nước mắt. Hôm sau tôi gặp nó vì ngượng quá nên lại làm ra vẻ giận, mặt hầm hầm không nói. Nó đến bên tôi, làm lành trước:
- Có đi đâu thì đi đi để trâu tôi chăn cho.
Tôi khó trả lời quá nên cứ lặng im.
Nó lại nói:
- Hôm qua tôi cũng định giằng liềm lại nhưng vì anh cầm đằng lưỡi sợ anh đứt tay nên tôi phải buông ra. Vì cái thừng mà u tôi chửi tôi cả một buổi tối đấy.
Ngày bé tôi ăn mặc rất rách rưới, tóc cứ để bờm che kín cả gáy, cả tai. Ngồi chơi với nhau, Cún cứ thủ thỉ bảo tôi:
- Sao không cạo đầu đi, để thế ngứa chết.
Tôi đỏ mặt:
- Nhưng không có tiền.
Nó gặng hỏi:
- Cần bao nhiêu?
Tôi lảng ra:
- Không cần.
Có buổi nó còn mang kim chỉ và mụn đi vá áo cho tôi, bắt cả rận. Tôi bó cỏ vào loại đẹp nhất làng, bó vồng lên như quả trám, lội nước không tuột. Những đứa mười một, mười hai tuổi mới đi cắt cỏ lần đầu, thích làm đỏm đều đến van vỉ tôi đổi công cắt lấy công bó. Buổi nào đi cắt cỏ tôi đều bó cho Cún một gánh đẹp nhất, đến nỗi nó phải bảo tôi: "Bó đẹp vừa thôi, để lúc về dỡ ra đỡ tiếc". Ði đâu hai đứa cũng líu ríu bên nhau. Mới đầu tôi không để ý đến Cún lắm, coi nó cũng như những đứa trẻ khác, sau thấy nó săn sóc tôi, an ủi tôi, khiến tôi cũng bớt tủi vì thân phận mồ côi nên tôi cũng trở lại mến nó. Hôm nào nó ở nhà là tôi thấy như thiếu, trống cái gì, người cứ ngơ ngác suốt buổi, không thiết chơi bời với ai khác. Mọi khi chúng tôi vẫn cưỡi trâu sánh đôi, nhưng sau tôi cứ muốn để nó đi trước, hoặc tôi vượt lên trước, và khi thấy người khác nhìn hai đứa thì mặt tôi đỏ lên, lúng túng. Năm sau tôi đi bộ đội cũng không kịp gặp Cún để dặn dò. Từ bấy đến nay những lúc nằm rỗi tôi lại nghĩ đến người bạn gái bé nhỏ, lúc ấy trong người vừa buồn buồn, vừa thương nhớ lại hơi thổn thức, và tự nhiên tôi nghĩ đến ngày tôi về nhà, gặp lại nó, hai đứa chắc còn thân nhau hơn xưa. Bây giờ nghe Thâm và dì tôi nói chuyện lại thì ra nó đã yêu tôi từ ngày ấy, yêu tôi trước khi tôi kịp biết rằng mình cũng đã... yêu nó. Tôi đã yêu nó thật ư? Tôi chưa hề nói với nó một câu nào hò hẹn, yêu đương. Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ rằng Cún sẽ là vợ tôi. Nhưng tôi vẫn nhớ, vẫn thương và bây giờ thì tôi thấy bâng khuâng, hối tiếc như vừa để mất một cái gì rất quý.
*
* *
Tối 30 Tết. Chỉ còn mấy giờ nữa là bước sang một năm mới với những công việc và ước vọng mới. Suốt làng sáng rực ánh lửa. Trai, gái đốt đuốc gọi nhau đi xem chèo của xã ở đình trên. Nhà nào cũng bắc thùng ở giữa sân nấu bánh, nước sôi bánh kêu lục cục, lửa lùa vào các thớ gỗ nổ đôm đốp. Tết năm nay là Tết vui nhất của làng. Tám, chín năm kháng chiến bốt kề đầu làng, tối đến hút thuốc cũng phải vào trong buồng kín, ngày Tết đều luộc bánh chưng ban ngày, mà luộc bánh ngày thì còn gì là hương vị ngày Tết.
Nhà ông anh tôi tối hôm ấy trở thành một cái câu lạc bộ, những người đi nhờ sân định tắt ruộng sang đình trên xem chèo đều dừng lại chơi. Người ngồi trên giường, người ngồi dưới đất, phải giải cả chiếu ra đầu hè. May trời đêm ấy lại đẹp, âm ấm như cuối thu. Ông anh tôi đã cạo râu, húi tóc, mặc bộ quần áo nâu mới, trông sáng sủa, vui vẻ hơn hôm qua nhiều. Nói chuyện một lát ông sai con mang đàn bầu ra đánh. Cũng vì tiếng đàn bầu mà anh tôi lấy được vợ. Nguyên ngày trước anh tôi ở trong phường chèo của xã, thường hay sang các xã bạn diễn những ngày đình đám đầu xuân. Một năm phường chèo ở trọ nhà ông trưởng bạ, ông ta có người con gái út, trạc trên đôi mươi, làm ruộng, buôn bán đều đảm, nhưng chỉ được có tiếng đàn mà người con gái ông trưởng bạ nhất định xin đi theo, dù bố mẹ chửi mắng, đe dọa thế nào cũng mặc. Ông chú đánh đàn tranh, một người anh họ thổi tiêu, ban nhạc gia đình chơi các bài lưu thủy, bình bán, kim tiền... Mọi người lại đề nghị tôi hát. Tôi hát hỏng vốn không ra gì, nhưng sau khi hát bài Giải phóng Ðiện Biên mọi người nắc nỏm khen giọng tôi ấm làm tôi xấu hổ quá. Có tiếng đề nghị cô Tỵ hát chèo. Tất cả quay về phía một cô bé vỗ tay rầm rầm. Cái Tỵ cũng không bé lắm, đến tuổi mười bảy, mười tám rồi. Chị cái Tỵ là Tẹo xưa cũng ở trong phường chèo của xã. Thường Tẹo hát và anh tôi đệm nhị. Giọng của Tẹo rất trường, tiếng vang, khi vào lại ngọt, hơn nữa là người có nhan sắc nên thanh niên làng nhiều anh muốn ngấp nghé. Ngày ấy nó rất mê tôi, và mẹ nó cũng bằng lòng gả nó cho tôi, nhưng tôi lại nghĩ nó là đứa con hát, không đứng đắn, quen ngay lưng, lấy về lại hầu nó nhọc nên cứ thoái thác. Tỵ đẹp hơn chị, giọng hát còn có phần trong trẻo, quyến rũ hơn. Tỵ hát một đoạn chèo trong tích Trương Viên. Mọi người lại đề nghị hát lại lần nữa. Hát xong, nó nhìn tôi tủm tỉm cười: "Em hát hai bài mà anh Song không cho em gái gì à?". Cái Miều ngồi cạnh tôi thừa lúc không ai để ý ghé sát vào tai tôi nói nhỏ: "Chú xem con mắt nó có sắc không?". Tôi biết tính con bé này hay chọc ghẹo nên gạt đi, nhưng nó cứ bám nhằng lấy: "Cháu bảo thật đấy, nó bảo với cháu là nếu chú hỏi nó thì nó nhất định bằng lòng lấy chú". Tôi hỏi lại: "Nếu tao bằng lòng thì mày thấy thế nào?". Nó toét miệng cười: "Cũng phải bằng lòng chứ, nhưng nó lao động kém lắm, còn lười hơn con chị nó nhiều đương có nguyện vọng xin đi văn công đấy. Chú giới thiệu cho nó đi với".
Cả nhà thức cho đến lúc giao thừa. Trên đình có tiếng chiêng và tiếng trống đánh thì thùm, cung coong. Trời hơi sáng vì lửa ở các nhà, ở dọc đường hắt lên. Từ nóc các mái nhà mờ mờ bay lên những mảng sợi trắng rất xốp và nhẹ, khói hương hay sương đêm. Anh tôi lấy vôi ra vẽ bốn góc sân bốn cái cung lớn, có bốn mũi tên chĩa ra ngoài trừ ma quỷ. ở giữa vẽ một cái vòng tròn là cót thóc, chung quanh vẽ cày, bừa, cuốc, hy vọng năm tới thóc lúa đầy nhà, no ấm quanh năm. Anh thông tin của thôn đã trèo lên cái chòi cuối xóm báo tin giao thừa, đọc thư chúc tết của Hồ Chủ tịch, của ủy ban Huyện và Xã gửi tới nhân dân. Sau đó tiếng động nhẹ dần, lắng đi rồi im hẳn. Các cánh cửa khép lại, ánh sáng thu tròn một khoảng trên bàn thờ có những sợi khói nhang uốn éo bay qua. Nhìn ra ngoài trời đen thăm thẳm và mưa xuân bắt đầu rây lất phất.
*
* *
Chiều mồng bốn Tết, tôi từ giã gia đình, quê hương lên đường về đơn vị. Lúc nhấc ba lô lên thấy nặng gấp đôi lúc thường, mở ra không hiểu ai đã xếp lên trên lớp quần áo hai cái bánh chưng, một nửa cái giò nạc, một đĩa chè kho gói lá chuối. Tôi để cả lại chỉ mang đi có một cái bánh. Chồng cái Miều cứ đòi khoác ba lô cho tôi đến tận bến đò, anh tôi cũng đi theo tiễn chân. Vợ chồng Thâm từ sau cải cách đến nay vẫn làm nghề chở đò ngang ở sông, hôm nay đến phiên vợ chồng nó. Chồng đương ngồi ăn cơm bên kia bờ, thấy bóng tôi bỏ cơm, chèo vội sang. Tôi xuống đò, đò chèo xa anh tôi vẫn còn đứng trên bờ vẫy. Gần áp bờ thì Thâm hỏi tôi:
- Chú định ra tàu mấy giờ?
- Tàu bảy giờ.
- Chết, giờ mới có năm giờ, còn sớm chán. Ðể cháu chở chú đi chơi trên sông một lát.
Tôi bằng lòng để ba lô vào trong khoang, ngồi một đầu thuyền, Thâm ngồi một đầu thuyền. Nó nhìn tôi cười:
- Thế là chú nói dối cháu đấy nhá!
Tôi cũng cười:
- Bận khác về phép lâu hơn thì mới có thì giờ lo liệu chứ. Các cô làng ta cũng không dễ tính lắm đâu.
Mái chèo đập xuống nước bì bõm, nước ngoạm hai bên mạn thuyền choàm choạp. Con thuyền lờ lững khi ở giữa dòng, khi men theo phía bên đê dốc thẳng, đất lở xuống đen nâu. Xa xa những cụm tre đứng cô độc, xõa sượi, buồn bã. Khi thuyền đến chỗ ngoặt sông thì ở những mảng bè nép mình dưới chân đê đã có những đốm lửa le lói sáng.
Thâm khẽ nói:
- Ðể cháu chở chú lên bến trên thì đi gần được một quãng đường.
Phía làng đã khuất hẳn, nhưng tôi vẫn đăm đắm nhìn theo. Tôi đi đã nhiều nơi, đóng quân lại ở nhiều chỗ, phong cảnh đẹp đẽ hơn đây nhiều, nhân dân coi tôi như người làng và cũng có những người yêu tôi tha thiết nhưng sao sức quyến rũ, nhớ thương vẫn không mãnh liệt, day dứt bằng mảnh đất cội cằn này. Làng mạc bị tàn phá nhưng mảnh đất quê hương vẫn đủ sức nuôi sống tôi như ngày xưa nếu tôi có ngày trở về. ở miếng đất ấy tháng giêng tôi đi đốt bãi đào ổ chuột, tháng tám nước lên đánh dậm, úp cá, đơm tép, dấm cá rô, tháng chín, tháng mười đi móc con da dưới vệ sông. ở miếng đất ấy những ngày phiên chợ dì tôi lại mua cho vài cái bánh rợm, đêm nằm với chú, chú gác chân lên tôi mà lẩy Kiều, ngâm thơ, những tối liên hoan xã nghe cái Tỵ hát chèo và đôi lúc lại được ngồi nói chuyện với Cún con nhắc lại những kỷ niệm đẹp đẽ hồi thơ ấu. Khung cảnh chung quanh tôi bắt đầu mờ dần rồi trắng xóa, sương xuống dày đặc đến không còn trông rõ cái gì nữa. Phảng phất trong không khí có thứ mùi quen thuộc, không hẳn là mùi nhang ngày Tết, cũng không phải là thứ mùi nào khác có thể gọi tên được, nó man mác, có lẽ đã lâu lắm tôi mới lại cảm thấy nó. Thôi, tôi nhớ ra rồi... đó là thứ mùi vị đặc biệt, mùi vị của quê hương...
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top