170 truyen ngan hay cua tac gia VN. P3..Yuchun
Mưa bụi
Mường Mán
Không khí se lạnh. Ngọn đèn dưới hiên phả thứ ánh sáng ảo dịu xuống sáu người ngồi quanh mặt bàn tròn thấp. Năm nam và một nữ. Chai rượu đế làng Chuồn lưng nửa, đĩa hàu luộc còn đầy. Cạn ly xong, Hoàng lảng mắt ra vườn cây nặng trĩu bóng chiều và mưa hờ hững nói:
- Nào, hát đi Ngọc Yến B.
- Ngọc Yến Bê à, tên gì nghe ngộ vậy? - Luân buột thốt, nhìn chăm chăm cô gái ngã người trên lưng ghế mây, mắt lim dim cơ hồ thả hồn lạc tận đâu. Vẻ mặt nửa ngờ của Luân khiến Ðĩnh bật cười:
- Không phải nhan sắc này họ Ngọc tên Bê đâu ngốc ạ, cô nàng có giọng hát na ná nữ ca sĩ Ngọc Yến nên được thiên hạ ở đây tặng cho quái danh ấy, B, bờ chứ không phải bờ ê Bê.
Cả bọn cười rộ, Xuyến mở choàng mắt, làu bàu:
- Cả tỉ lần em nói với các người em hát không giống ai, chỉ giống em thôi, sao ưa gán ghép hoài vậy? Ưu tiên kẻ mới từ xa về, anh Luân thích em hát bài gì nào?
- Bài gì cô thích.
Luân dè dặt. Xuyến chơm chớp mắt:
- Hôm ở nhà anh Thái không có mặt em nhưng nghe kể anh đã yêu cầu chị Hằng hát "Diễm xưa", cái bài mỗi lúc nghe anh thường... nổi da gà phải không?
- Ðúng thôi! - Luân đỏ mặt dù mặt đã đỏ sẵn vì rượu - Nhưng hôm ấy nghe Hằng hát tôi lại... toát mồ hôi hột, bởi chợt nhận ra mình không còn trẻ lắm nữa, cái thằng học trò khờ khạo thuở xa xưa đã ly dị vĩnh viễn, bỏ mình mà đi mất rồi.
Ðoạn Luân kể vào cái thuở xa xưa nọ có cậu học trò trường cao đẳng mỹ thuật yêu một cô sinh viên y khoa, mỗi ngày đưa đón nhau trên bến đò Thừa Phủ, cùng tham gia phong trào học sinh sinh viên tranh đấu... Ngỡ tình nồng đến trăm năm, nhưng rồi vào một buổi chiều thu mưa gặp nhau ở bến đò, nàng bỗng "ân cần" gỡ chiếc cặp tóc đồi mồi chàng vừa tặng mấy hôm trước trả lại, "âu yếm" thỏ thẻ rằng lòng nàng đã khác, đã "lỡ dại" yêu, và nhận lời cầu hôn của một anh phi công mất rồi. Buồn rầu, tức tưởi, chàng ném chiếc kẹp vô duyên ấy xuống bến sông, lững thững qua phố, vào một quán cà phê vắng ngắt, tình cờ nghe Diễm xưa của Trịnh Công Sơn phát từ quầy, dỗ lòng nguôi ngoai bằng năm tách càphê đen không đường, yêu cầu bà chủ quán tốt bụng cho nghe lui tới bài hát cả chục lần và từ đó, ở bất cứ không gian, thời gian nào hễ nghe Diễm xưa chàng lại không thể không nhớ mối tình non yểu ấy.
Giọng kể tưng tửng, chẳng mấy hào hứng của Luân làm kẻ tin người ngờ. Dẫu vậy, Ngọc Yến B vẫn cất tiếng hát đầm ấm, du dương với cây ghi-ta thùng cũ sờn ôm trên lòng. Mưa vẫn hay mưa trên tầng tháp cổ. Buổi chiều ngồi ngóng những chuyến mưa qua. Gương mặt đẹp vốn trắng xanh thoáng hồng vì men rượu, người hát chìm đắm vào giọng nhạc non mềm yếu tựa chiếc lá mỏng manh, vẫn ngồi mà như trôi theo dòng. Ðiều khiến Luân kinh ngạc, lúc ngẩng ngước, mắt nàng nhòa lệ.
Những gương mặt vây quanh cơ hồ vụt chao mờ đi sau màn sương mỏng mịn. Thứ sương khói không hẳn của hoài niệm. Ðĩnh tóc muối nhiều hơn tiêu, nhà thơ lâu nay cất kỹ thơ trong ký ức và những cuốn tập, thi thoảng mới bốc hứng đọc đôi ba bài cho bạn bè nghe trong những cuộc nhậu, cởi mở, hào phóng. Thái sau thời gian dài đỡ khá nhiều đòn "hữu chiêu" lẫn "vô chiêu" ở một cơ quan văn hóa thấm mệt, đành hưu non, trở thành phóng viên báo chí lặng lẽ, sâu lắng. Hoàng chủ quán càphê kiêm mánh mung chợ trời bỗ bã, vui tính. Tảo họa sĩ ngày mỗi phất nhờ nguồn tranh luôn được chiếu cố bởi những khách yêu tranh nước ngoài, cần kiệm, chừng mực. Những gương mặt suốt mười lăm năm ở Canada tít mù đôi khi thoáng nhớ Luân không thể mường tượng nổi mỗi người có thể tĩnh tại với cuộc sống của mình. Cuộc sống vào thời anh bỏ đi ai cũng ít nhiều lao đao, cái thời còn đậm dư âm cuộc chiến tranh đã qua, bè bạn đứa chết đã chết, đứa sống sót quay về, dẫu lằn ranh chia cách hai phía chiến trận đã xóa vẫn nhìn nhau qua những kính mầu nghi kỵ, giữ kẽ, thậm chí tị hiềm nhỏ nhen. Bây giờ thì đứa bon chen hồ như đã mỏi gối, đứa bị đá đau quên bớt đau, đứa thất chí lúc nào chẳng hay. Tất cả đều được thời gian lộng vào cái khung thanh thiên quá đát, thích trào lộng hơn tranh cãi, khoái nói cười văng mạng hơn trầm tư hiền triết... Và Xuyến, cô gái đến với cuộc đời muộn hơn cả bọn chừng hai chục năm lúc này lại có vẻ âu sầu hơn cả.
Nheo mắt ngắm nước mắt hoen má Xuyến một cách giễu cợt, Ðĩnh cười khề khà, nói ngay khi nàng vừa ngưng tiếng hát:
- Hóa ra không chỉ thằng Luân mà cả nhan sắc này cũng có những chiều ngồi ngắm mưa qua!
Và tiếng cười lẻ phụ họa. Xuyến tặng ông anh họ cái lườm mượt mà.
- Cảm ơn Ngọc Yến B. Luân nói, cầm chai rót đầy ly đưa Xuyến, nàng vui vẻ "cưa đôi" đoạn lật tay nhìn đồng hồ bảo có cái hẹn, ai muốn theo cứ việc tháp tùng. Ðĩnh khoát tay:
- Dẫn thằng Luân theo cho hắn biết lễ độ với các hội nhóm quái đản ở xứ này.
- Ði đâu? - Luân bửng lửng. Xuyến nháy mắt:
- Một nơi rất... thú vị!
Cả bọn về hùa dốc Luân nên đi.
*
* *
Họ ra đường lúc chiều vừa chín rụng. Ðêm dâng ngợp. Phố lên đèn. Luân định gọi xích lô, Xuyến bảo:
- Trời đẹp, nên thả bộ. Giờ này trên thiên đường đang quét dọn gì đó làm bụi bay xuống trần thành mưa bụi, mình đi trong bụi kể như đi... bụi, anh thấy không?
Luân hít sâu hơi thuốc lá, ém khói xuống tận bụng rồi thở ra từ tốn:
- Trí tưởng tượng của cô giàu cỡ tỉ phú.
- Không dám đâu, triệu phú thôi!
Cả hai cùng cười. Dư vị bữa nhậu còn váng vất trong họ tí lửa, chưa say cũng chợt nghe giọng hơi bông bốc.
- Xuyến thường hát ở những cuộc đàn đúm như thế?
- Chỉ với bạn bè thôi, thỉnh thoảng anh Ðĩnh lại rủ em tới bù khú, gọi là để quên đi phần nào em thường ngày.
- Em... à cô thường ngày thế nào?
- Ðừng tò mò, rất có thể anh cho em không mấy đức hạnh, đức hạnh sao được khi chỉ mỗi mình con gái lại ngồi nốc rượu cười đùa hát hỏng giữa cả một xâu đàn ông thế kia!
- Sao lúc hát "Diễm xưa" cô lại khóc?
Xuyến cau mày, dấm dẳng:
- Anh hỏi cứ như là công tố viên lục vấn bị cáo trước tòa í. - Rồi nàng cười khúc khích: - Rất đơn giản, bởi vì em cũng là người phàm như anh.
- Người phàm! Luân thú vị lập lại, cười tiếng cụt:
- Nói một chút về cô đi Xuyến.
- Em hả? Biết nói sao về mình nhỉ? Anh thử hình dung một nhân viên mậu dịch bán các thứ tặng phẩm, hàng thủ công mỹ nghệ trong Ðại Nội xem. Ngoại trừ những lúc tiếp các đoàn du khách nội địa hay nước ngoài dẻo miệng xí xô xí xao lập lui tới mở mẩu quảng cáo đã mòn nhẵn hết sự bóng bẩy của ngôn từ, còn thừa khối thời gian để ngồi ngáp vặt hoặc đi lang thang khắp các ngõ ngách thành quách, và cứ ngỡ mình là nàng công chúa lạc loài, một cung phi bị quân vương quên để mắt tới. Thời còn ngồi trên ghế đại học em đâu ngờ có ngày lại phải giam mình vào nơi cung cấm kia. Còn anh, nghe nói sắp tới tính quay về đây ở luôn, tìm lại cây cọ vẽ đã đánh mất, bộ bên đó không vẽ được sao?
- Ðược, nhưng thiếu... không khí!
- Ðiên! Trong lúc em muốn bỏ nơi này mà đi. Ðại Nội không chỉ ở chỗ kia đâu, em luôn có cảm tưởng từ lâu nó đã phình rộng ra choán cả thành phố, và mọi người cứ lẩn quẩn trong những bức thành cổ y hệt bầy kiến bám mãi cái tổ cũ kỹ của mình.
- Bậy!
Luân buông thõng, thoáng rùng mình không phải vì những điều nàng nói gợi cho anh chút liên tưởng nào mà bởi vì những âm sắc của giọng Huế bất chợt đụng vào nơi nào đó sâu kín trong tâm khảm. Chất giọng trải qua bao thăng trầm vẫn dịu dàng, đài các, đôi khi bén buốt đến nao lòng. Thận trọng ướm thử rồi Luân bạo dạn khoác tay cô gái, nửa đùa nửa thật.
- Lúc này công chúa có cảm thấy lạc loài không?
Nàng làm thinh, tặng anh cái liếc xéo sắc lạnh như mắt mèo. Ngang qua một góc phố vắng, đèn đường bị hỏng, tối mù. Xuyến bỗng níu Luân dừng lại dưới tán me, ngửa mặt thấp giọng.
- Hôn em đi, nếu anh thích.
Ngỡ ngàng, ngập ngừng, đoạn người đàn ông ôm hôn nàng. Môi vừa rời nhau Xuyến cười buồn:
- Cảm ơn, cái giống đàn ông các anh vớ vẩn, quỷ quái thật, nhưng không thể sống mà thiếu các người được.
Và, họ tiếp tục bước. Ðêm thưa tiếng động, đèn đường soi qua mưa bụi tỏa ánh lù mù lên những mặt tường, mái phố ướt át. Gió chốc chốc luồn qua mọi khe hở len vào tận lòng thoáng se lạnh êm ả. Người đàn ông đốt thuốc gần như liên tục, và Xuyến ngậm tăm im lặng suốt lúc họ thả bộ qua cầu Trường Tiền, như thể chỉ cần mở miệng thốt ra lời nào tức khắc bị ngã tòm xuống sông.
Ðến cái nơi Xuyến nửa đùa nửa thật bảo là Câu Lạc Bộ Những Người Mộng Du, Luân cảm thấy ấm cúng ngay khi thoạt bước qua ngưỡng cửa thấy khá đông người trong một căn phòng rộng. Tất cả đều ăn mặc đẹp, thậm chí rất chải chuốt và, dĩ nhiên không hề lệch một li thời trang. Thoáng nhìn những đôi nam nữ ngồi sánh vai bên nhau dễ lầm tưởng họ là vợ chồng, hồ như chẳng có ai lẻ bạn. Không khí sực nức mùi hội hè. Mọi người ồn ào chào đón Ngọc Yến B, tò mò ngắm nghía khách lạ. Xuyến lôi Luân đến một bàn trống, ấn vai anh ngồi xuống, cao giọng giới thiệu:
- Tối nay tình cờ gặp kẻ xa lạ này ở nhà anh Ðĩnh, em bèn nhặt rồi bê ông ta tới đây, bạn rất thân của anh Ðĩnh gàn í!
Luân ngượng nghịu nhận những cái bắt tay nồng nhiệt của quý ông, và những nụ cười chào có duyên lẫn vô duyên của các quý bà.
Hoa, bia Huda, thức ăn bày biện trên bàn phủ khăn trắng nom sang trọng, đẹp mắt. Các thứ đã sẵn sàng, nhưng mãi đến lúc bà chủ nhà xuất hiện bữa tiệc mới bắt đầu.
Sang trọng, quý phái trong chiếc rốp dài mầu lam ngọc, tóc bới cao phô gương mặt trái xoan khéo điểm trang làm to thêm đôi mắt vốn to, nét môi mọng hường hẳn vốn cũng mọng hường từ thuở mới dậy thì, người đàn bà lượn ánh mắt mềm mượt khắp phòng, mủm mỉm cười, dịu dàng nói:
- Cảm ơn các bạn đã đến gần như đông đủ. Nào, xin mời tất cả cùng nâng ly kỷ niệm ngày ly hôn lần thứ hai của tôi.
Tiếng nàng nói hệt phát pháo lệnh làm nổ chuyển cả dây pháo, không khí lập tức thịnh hỉ tiếng cười nói, chạm li rôm rả. Luân thốt giật mình bởi thình lình Xuyến đập khẽ lên tay anh:
- Sao cứ nhìn người ta đắm đuối như bị hớp mất hồn vậy ông?
Cắt khóe nhìn khó tả soi mói hay ngây ngẩn khỏi bà chủ nhà, dọn vẻ mặt tỉnh tuồng khá nhanh, Luân vờ nhăn mặt:
- Quái, ngày ly hôn cũng bày đặt kỷ niệm.
- Ngày được trả lại tự do mà, nên lắm chứ, tại sao không? - Nghe giọng mình hơi xẵng, Xuyến cười:
- à mà... đại để mỗi tối thứ bảy họ đều gặp gỡ nhau theo kiểu luân phiên mang đồ ăn thức uống đến cùng góp vui, mỗi tuần phải viện lý do nào đó mới vui chứ!
- Bà ta đã ly hôn tới lần thứ hai? Thật hay đùa?
- Suỵt, lại tò mò.
Câu chuyện bị cắt ngang vì ông khách trung niên có bộ ria mép khá bảnh ngồi đối diện trịnh trọng nâng ly bia ngang mày, tươi cười mời Luân.
Tương tự mọi cuộc vui khác, ăn uống, trò chuyện chán, họ chuyển sang "hệ" ngâm thơ, đàn hát, vài cặp dạn dĩ dìu nhau ra khiêu vũ trong cả biển vỗ tay tán thưởng. Một lúc nào đó Xuyến không còn ngồi bên Luân, nàng đi quanh các bàn hiến tặng tiếng hát hết mình như thể ngày mai không được hát nữa.
Tiệc tan trước nửa đêm. Chủ nhà đứng bên cửa thân mật, lưu luyến bắt tay từ biệt từng vị khách, ngoại trừ Luân, ai cũng nhận được một đóa hồng bạch - lấy từ những lọ hoa chưng trên bàn - do nàng tặng kèm nửa nụ cười duyên.
Ra đường, Luân ngạc nhiên thấy Xuyến lại lững thững bước đến sóng vai mình.
- Ủa, Xuyến chưa về sao?
- Em vốn thích thả bộ, vả lại... Vừa nói nàng vừa đặt vào tay Luân chiếc cặp đồi mồi bảo khẽ: - Chị ấy gửi tặng anh, thay vì tặng hoa như những người khác, quà đặc biệt í!
Luân vụt ngỡ mình bị đẩy lọt thỏm vào tâm một cơn lốc quỷ tha ma bắt trong khi vẫn đứng yên. Năm ngón tay khô lạnh xiết chặt cái vật cũ kỹ tưởng như không bao giờ còn gặp lại. Nhìn vẻ mặt cực kỳ khó tả của người đàn ông, Xuyến bật cười thành tiếng:
- Em thấy đêm nay lúc nào anh cũng sẵn sàng trợn muốn rách cả khóe mắt diễn tả đủ mọi tư thế... ngạc nhiên. Có gì kinh khủng đâu, cái kẹp xấu xí này đúng là cái anh đã ném xuống bến sông ngày nọ, lúc anh thất thểu bước đi, chị cảm thấy nhẫn tâm nhưng không đủ can đảm gọi anh lại, bèn thuê mấy đứa nhỏ vạn đò mò nó lên và cất giữ đến tận bây giờ, rõ rồi chứ?
Nửa tin nửa ngờ, Luân ngắc ngứ nói:
- Quái, thế bao nhiêu năm nay...
- Lỡ yêu rồi nhận lời cầu hôn của một chàng phi công chỉ là chuyện phịa. Thật ra hồi ấy chị biết anh thuộc típ mơ mộng, lãng mạn kinh niên, tham gia hoạt động phong trào chỉ vì ham vui, nên chẳng dám rủ anh cùng bí mật lên Xanh rồi sau đó tập kết ra miền bắc. Nay thì công danh khá vững vàng, nhưng tình duyên toàn gặp bước không may, năm ngoái chị rời Hà Nội quay về sửa sang lại mảnh vườn hoa, căn nhà cũ của ông bà già...
- À ra thế. Tôi thấy họ đều rất tỉnh táo, lịch sự, vui vẻ sao cô dám bảo đó là Câu Lạc Bộ Những Người Mộng Du?
- Mộng du theo cách nói ác khẩu của anh Ðĩnh gàn í. Anh ấy cho rằng mọi thành viên đến đó mong tìm thấy hạnh phúc chắp nối hay chắp vá đều là người đi trong lúc đang ngủ cả, rởm tuốt!
- Thế họ không phải là vợ chồng hay bồ bịch của nhau sao?
- Ða số đang tìm hiểu, thử bắt đầu lại sau một vài lần gãy đổ y như bà chủ nhà vậy.
- Ngộ thật, kể cả... cô?
- Em sắp ra tòa ly dị - Xuyến nói rành rọt sau chừng nửa phút e thẹn, ngập ngừng. Mỗi tuần em đến đó chung vui với họ để quên đi hoàn cảnh không vui của mình, mộng du vài khoảng khắc để rồi... Giờ thì chắc anh hiểu tại sao em lại khóc khi hát "Diễm xưa", mọi đổ vỡ hình như bao giờ cũng mang chung một tần số.
Chợt dường như cố nuốt nỗi nghẹn vừa dâng lên cổ, đoạn nàng tiếp tục giọng trút bầu:
- Cô bán hàng cho khách du lịch trong Ðại Nội dù đã có chồng vẫn ngỡ mình là cung phi bị quân vương quên lãng, những mong giũ bỏ cái ám ảnh bị tù túng trong những bức tường thành cô bèn bỏ việc đi làm tiếp viên nhà hàng, một hôm gặp một "hoàng tử" về từ nước ngoài như anh vậy, phải lòng rồi thầm lén ngoại tình. Nay "hoàng tử" quất ngựa tàu cau, đức ông chồng muốn nói với nàng bằng tay hơn bằng miệng, đành lôi nhau đến trước vành móng ngựa. Ðơn giản quá phải không? Thôi muộn rồi, em về, chúc anh ngủ ngon!
Xuyến dợm quay gót. Thoáng hẫng. Luân níu vội tay nàng:
- Khoan đã, nếu không quá phiền lòng, tôi mời cô lên ga uống vài tuần trà. Trên ấy các hàng quán mở suốt đêm. Chậc, chả là tôi muốn nghe thêm về cô ấy. Xuyến cười:
- Hình như anh đang bị choáng? Thỉnh thoảng nhất là đêm nay anh nên bắt chước em mộng du một tí, lên đó đi, vừa uống trà, nghe có tàu hú gọi biệt ly, vừa trò chuyện với cái kỷ vật tình buồn của anh, hoặc quay lui đóng vai kẻ trộm lẻn vào nhà nàng để bị chó bẹc giê xé xác xin cứ tùy ý.
Chiếc hôn dưới tán me hồi đầu đêm vụt cháy lại trong tâm trí với đủ độ nồng lẫn độ ấm khiến người đàn ông nghe giọng mình bỗng hơi lạc đi một cách kỳ cục:
- Em... nỡ về thật sao?
Câu nói kèm ánh mắt nửa van lơn nửa mơn trớn làm Xuyến thoáng rùng mình, nhưng rồi nàng nói ráo hoảnh:
- Ðến quán trà hay mặt nệm nào đó trong khách sạn? Ðừng có dụ khỉ, em sáng mắt ra rồi anh ạ, kiếm một tấm chồng nội địa dù chắp vá vẫn đảm bảo hơn...
Nàng vụt quay đi, biến khuất sau màn sương dày mịt, âm vang lạnh lẽo của câu nói cơ hồ còn ong ong trong tai người đàn ông. Luân đứng sững nhìn chiếc bóng mình đổ dài trên mặt đường ánh ướt ngước nhìn, ngạc nhiên thấy trời đã thôi mưa...
*
Ðêm hôm ấy ngồi trầm tư trong một quán nước trước sân ga, thay vì uống trà anh đốt tiếp ngọn lửa hoài niệm trong mình bằng cách uống thêm vài cốc rượu. Mân mê, ngắm nhìn chiếc kẹp đồi mồi rồi Luân chợt phát hiện nó chẳng phải của mình như lời Xuyến "tự bạch". Trên lưng nó mang hai cái tên khắc chìm bằng dao khá vụng về. Nhưng không phải tên anh và nàng mà mang tên nàng và... Ðĩnh.
Ngây người hệt bất thần nuốt phải gậy mất một lúc, Luân mới thốt nhớ dạo ấy hai đứa ở chung trong ký túc xá Nam Giao, sau một chuyến đi Nha Trang chơi, anh mang về hai cái kẹp tóc, Ðĩnh nằn nì xin một, gọi là để tặng người hắn ta ngày đêm thương thầm nhớ trộm nào đó. Buồn cười là bây giờ chiếc của hắn ta còn đây, chiếc của anh bị người ta chê đành xuống sông chải tóc Hà Bá từ dạo ấy.
Ôi, cái thuở học trò... Kinh thật, thằng Ðĩnh bí mật đến thế là cùng, giấu tình kỹ hơn mèo giấu cứt. Phải đi vòng vèo "mộng du" ngoài hai mươi năm giờ mới biết hóa ra hai đứa cùng thờ chung một mối thất tình: Giờ hắn ra vẻ kinh bạc, coi nàng như đồ rởm nhưng biết đâu vẫn còn yêu nàng dữ dội!?
Chị chủ quán ngái ngủ ngồi giấu mình sau cái tủ thuốc lá lạ lùng thấy ông khách bỗng phát ra những tiếng cười lục khục nghe kỳ cục hết sức, bèn chắc bụng ông ta không khùng cũng say. Người bình thường thì đâu có ai nửa đêm ra quán ngồi mân mê mãi một cái kẹp tóc đồi mồi cổ lỗ sĩ rồi cười y hệt đười ươi như thế?
*
* *
Mảnh trăng liềm đính giữa nền trời sau cơn mưa nom mỏng manh hệt vệt bơ vàng quệt hững hờ trên nền giấy thẫm. ánh trăng dù yếu ớt vẫn góp chung ánh đèn đổ dài chiếc bóng người đàn bà trẻ trên mặt đường. Nàng thong thả đi về phía nhà ga như dạo chơi, nhưng thật ra trong lòng đang rối rắm lắm nỗi niềm.
Họ gặp nhau giữa ngã ba, dù thêm khăn trùm đầu và áo khoác Luân vẫn nhận ra Xuyến ngay khi hai người còn cách nhau cả chục thước. Như chưa hề chia tay, nàng cất tiếng trước:
- Bộ anh đi uống trà thật sao?
- Thật chứ.
- Ðừng ngạc nhiên. Về nhà, gọi cửa mãi đức ông chồng mới mở, rồi thì cả một trận mưa đấm đá đổ xuống người, em cắn chặt răng không thèm thốt lấy một lời, không dưng chợt nhớ tới anh, bị thôi thúc bởi ý nghĩ có phải anh đang ngồi ở quán trà hay đang vui thú ở chỗ nào khác nên ra khỏi nhà. Khùng quá đi mất!
Tiếng nói nhỏ nhẹ nhanh chóng tan trong sương mù, Luân lại còn tưởng nó còn bám dai dẳng trên da mặt mình thứ cảm giác ghê gai. Người đàn ông thầm rủa mình vô tình, mãi đến lúc này mới thấy đôi má nàng tím bầm, và bên cánh mũi trái hằn vết cào rớm máu. Anh lảng mắt lên vòm cây cố giấu tiếng thở dài:
- Nếu không gặp tôi em sẽ đi đâu?
áng lặng đoạn Xuyến nói không quả quyết lắm:
- Ngồi ở một quán nào đó trên ga chờ sáng. Rất vui là anh đã không hề nói dối.
Ðảo mắt về phía dốc Nam Giao rồi ngoảnh lại phía bờ sông. Luân tự hỏi nên rẽ đường nào? Một mặt nệm trên phòng ngủ quán trọ hay khách sạn sẽ rất tuyệt vời, nhưng nếu nhắc đến nó lúc này e đường đột, thậm chí nhẫn tâm. Như đọc thấy nỗi băn khoăn của anh, Xuyến mỉm cười.
- Về chỗ của em trong Ðại Nội đi, dù nghỉ việc mấy tháng rồi, ông bảo vệ già vẫn chưa quên em đâu, có anh đi kèm ông sẽ cằn nhằn nhưng chỉ cần ít tiền lót tay là xong. Nào, mình qua bên kia sông nghe anh!
Thật hay đùa? ánh mắt nàng trong suốt đến không đọc được ý nghĩa khác thường nào vẩn lên trong ấy. Luân lập lờ:
- Gấp gì, trời còn đẹp lắm mà, cứ thả bộ như em vẫn thích, cứ nép sát vào anh cho đỡ lạnh.
Họ chầm chậm bưới dưới bóng râm những hàng cây. Ðêm quạnh vắng, cả thế giới cơ hồ im ngủ, chỉ còn mỗi hai người thức, kéo lê những chiếc bóng qua mặt đất hoang vu. Người đàn ông lại đốt thuốc gần như liên tục, và Xuyến ngậm tăm im lặng. Ðến giữa cầu Trường Tiền, nàng khẽ níu tay anh dừng lại, tháo khăn trùm cho tóc xõa bông trong gió, ngửa mặt thì thầm:
- Hôn em đi!
Môi vừa rời nhau, Xuyến chậm rãi buông rời từng tiếng:
- Cảm ơn! Cái giống đàn ông các anh thật đáng yêu, nhưng đã đến lúc em không cần đến các người nữa rồi. Chiếc kẹp đồi mồi của anh vẫn ở dưới ấy, có muốn em tìm hộ không?
Vẻ mặt bỗng tối sầm trong khi môi còn rạng nét cười huyễn hoặc, buồn rượi. Và, vào cái khoảng khắc ngắn ngủi ấy anh chưa kịp thốt nên lời thì nàng đã vụt quay người, buông mình xuống mặt sông tối đen.
Mùa đông ấm áp
Nguyễn Thị Thu Huệ
Tôi đứng trên phà vừa rời bến từ bãi cháy sang Hồng Gai. Thành phố trên sông huyền ảo và lung linh lạ thường. Ðèn sáng lóe trên các con tàu ra khơi đánh cá, trên những chiếc tàu lớn ghé vào cảng ăn than. Ðèn từ các ngôi nhà cao thấp lô nhô trên lưng chừng núi, kéo cao đến đỉnh núi cũng còn lấp lóe. Mặt sông loang loáng nước. Sóng ầm oạp và gió từ sông đưa lên làm tôi ớn lạnh. Tôi bỗng thấy mình bé tí teo, lơ lửng giữa một khoảng không thăm thẳm cao và mịt mùng sóng. Mọi thứ chợt ùa về trong tôi, dù nó là những kỷ niệm xa tít tắp. Tôi không có ý định ngày nào cũng phải nhớ về nó, khi cuộc sống của tôi bây giờ đã khác lắm rồi. Nhưng cũng không bao giờ quên. Nó là một phần đời của tôi, là ngưỡng cửa đầu tiên tôi đập mặt mình vào khi tôi hơn hai mươi tuổi.
Năm tôi hai mươi hai tuổi. Một buổi sáng tỉnh dậy. Tôi nhận được phong thư. Nét chữ của anh. Người đàn ông hơn tôi mười hai tuổi "Ðến với bọn anh đi. Rừng núi và sông nước sẽ đón em. Bé tí ơi, đi một ngày ra khỏi nhà là bé có bao nhiêu thứ để sống có ích. Bọn anh ở đây có hôm quên cả ngủ vì cuộc sống tuyệt vời quá, ngủ thấy tiếc lắm. Em đừng mang nhiều thứ lỉnh kỉnh, nhảy xe hàng và xuống nhé.
Hôn cô bé tí ti và yêu em nhiều. Anh".
Tôi đọc đến thuộc lòng từng chữ, chỗ xuống dòng hay ngắt đoạn. Mối tình đầu tiên. Thoáng va chạm, run rẩy đầu tiên. Tất cả tôi gửi gắm nơi anh. Dù anh đã một lần sang sông. Anh bảo: số anh phải thế. Ai cũng có số cả, việc anh lấy vợ và bỏ vợ là hợp cách. Nếu cứ cố chống, nó sẽ hại đường khác, tốt nhất là kệ. Tôi tin anh bởi anh có cái gì vừa gặp tôi đã tin ngay. Mắt anh thăm thẳm buồn. Ðôi môi cũng buồn, và cả dáng người cũng buồn rười rượi như thể lần đắm đò thứ nhất đã đè nặng sự cay đắng lên người anh.
Hai ngày sau. Buổi chiều. Tôi đã đến bến phà và chuẩn bị sang sông. Phà đông nghẹt người, xe cộ và hàng hóa. Nắng đã tắt. Trên sông tràn lan một mầu đỏ ối của hoàng hôn. Mầu đỏ lịm hắt từ đâu đó loang dài trên mặt sông, ánh trên khuôn mặt những người cùng chuyến với tôi. Chắc mặt tôi cũng có cái màu đỏ. Tôi yêu cuộc sống, yêu tất cả những gì xung quanh tôi, những người đàn bà lầm lụi, những người đàn ông đen sạm vì gió biển. Tôi là người đang sung sướng. Thế mới biết, bà bao giờ cũng đúng tuy có lúc bà nói hơi nhiều. Nước mắt chảy xuôi. Bố mẹ có thể chết thay con, còn con thì phần lớn chết vì người khác, ví dụ như người yêu chẳng hạn. Tôi bỏ nhà để đến với anh thế này chỉ được bà đồng ý. Còn bố mẹ thì cấm triệt để. Ngày ấy, con gái mới lớn lại đi xa một mình, đến chỗ người đàn ông mới bỏ vợ, liệu có ai dám to gan mà cho đi chưa? Nhưng tôi thì quyết tâm, đi bằng được. Tôi đã thắng.
Phà chậm chạp trôi qua sông. Tất cả thấm đẫm một sắc màu huyền ảo bởi tôi nhìn chúng bằng ánh mắt kẻ đang yêu. Một người đàn ông ngồi bên một cái lồng chim. Ông ta hình như ngồi sẵn trên phà từ lâu dù phà bao lần cập bến và lại sang bờ bên kia. Ông đang chăm chú vào việc của mình là vặt lông chim. Những cái lông chim bé bé, mềm mại bay quẩn trong không gian và rắc đầy trên mặt sông, chỗ con phà đi qua. Trong ráng chiều, trong tiếng xịch xịch của động cơ, những tiếng lít chít của những con chim trong lồng, những con chim non tròn xoe đỏ bầm máu như những quả sim to đang trơn trụi quẫy đạp dưới đất. Tôi bỗng thấy chóng mặt. Tôi hoa mắt. Phần vì đi đường xa. Phần vì những cái mắt chim bé tí, đen nhánh như hai giọt mực nhìn tôi. Tôi thấy thương chúng quá. Người ta ăn những con này, may ra mỗi con được một phần tư miếng. Tôi đến bên ông, ngồi thụp xuống và giữ lấy tay ông:
- Cháu xin ông. Ông đừng thịt chúng. Có ai mua đâu mà ông thì cứ vặt lông chúng mãi thế?
Ông già ngẩng nhìn tôi. Ðôi môi khô nứt nhệch ra đầy vẻ quái ác. Hai mắt đục lờ như mắt cá ươn. Một khuôn mặt dị dạng. Tôi bỗng chùn lại. Ông ta cúi xuống, tiếp tục túm lấy những con chim bé bỏng và miết lông chúng nhanh như máy.
Tôi thò tay vào túi, chỗ tiền ít ỏi bà dúi cho tôi chắc đủ trả cho ông ta chỗ chim còn sống trong lồng.
- Cháu muốn mua chỗ chim còn sống.
Ông ngẩng nhìn tôi, hơi nhệch nhệch một bên mép, giọng khản đặc:
- Năm trăm.
Chỗ tiền tôi có, có thể mua được gấp bốn lần chỗ chim đó.
Tôi mở nắp lồng. Lũ chim chao đảo sấp ngửa đè lên nhau. Tôi nhẹ nhàng lôi từng con ra và thả chúng. Tuổi trẻ thật ngu xuẩn và hiếu thắng. Gần hết bọn chim tôi thả không bay lên được vì chúng đều bị thương không nặng thì nhẹ. Tôi, lúc ấy, trước mắt mọi người chắc là một con bé thừa tiền và ngu ngốc. Một vài con chim đập đập cánh lập bập bay lên. Thật tiếc cho số chúng. Con nào yếu thì rơi ngay xuống phà. Vài con khỏe mạnh thì bay vù lên, trên nó là bầu trời, dưới nó là mặt nước mênh mông. Tôi nhìn theo, xót xa vì biết thế nào nó cũng bị rơi. Sóng và gió ầm ào, sức chúng làm sao sống nổi. Tôi cúi xuống và tìm kiếm những con bị rơi, nhặt chúng bỏ vào lồng. Thương nó, tốt nhất là để nó yên thân trong lồng còn hơn thả tự do cho chúng. Chúng không thể bay bởi sức tàn lực kiệt.
Phà cập bến.
Tôi bắt đầu phải nghĩ đến tình cảnh của mình.
Không ai đón tôi cả. Anh không đến. Hàng quán lưa thưa. Mọi người ai vào đó, chẳng ai còn sức mà nhìn tôi cùng chiếc lồng chim nữa, ngoài mấy đứa trẻ con. Làm gì bây giờ. Tôi tẩn ngẩn đứng lại. Việc đầu tiên phải giải quyết là chiếc lồng chim và những con chim không có khả năng bay. Chúng đáng để thịt. Thật mua dây buộc mình. Tôi đưa chiếc lồng chim vào tay một ông già bán nước "Cụ mang lũ chim này về thịt đi, chúng cũng sắp chết rồi". Tôi đặt chiếc lồng chim xuống chân và chào cụ rồi quay đi ngay. Cụ già ngây ra nhìn tôi, rồi nhìn những con chim bé bé đen đen đang loạch xoạch quẫy đạp.
Anh không đón tôi.
Mắt tôi bắt đầu cay xè. Ðây là nơi nhiều người qua lại tôi cố nhịn chứ phải chỗ vắng vẻ, có lẽ tôi khóc từ lâu rồi. Tôi là người kém bản lĩnh. Sai cũng khóc, tranh luận để đúng về mình xong cũng khóc. Tức bực cũng khóc. Tôi không hề biết mình phải đi đâu vì tôi không còn nhớ lắm cái địa chỉ anh viết thư cho tôi. Một bà cụ già nghe tôi trình bày, cụ cũng trình bày lại một cách rất rắc rối. Tôi không hiểu gì cả ngoài việc là đường sá ở đây lòng vòng lắm. Lần đầu tiên đi xa không cùng bố mẹ. Xung quanh tôi toàn là người xa lạ và bận bịu. Bây giờ đang là giờ cơm nước. Sau lưng tôi, phà đã đầy khách và chuẩn bị sang sông. Tiếng máy nổ xịch xịch. Những người cùng chuyến phà với tôi biến đi đâu như thể họ tan vào đất tự lúc nào. Tôi chỉ nhìn thấy ông lão bán chim. Ông ta đang ngồi xuống uống rượu với quả khế xanh, và hút thuốc lào.
Tám năm trôi qua nhanh như chớp mắt nhưng cũng chậm như sên. Khi hạnh phúc, thời gian qua mau. Khi đau khổ, thời gian dừng lại. Tôi bây giờ là một thiếu phụ, dù mới bằng tuổi anh ngày ấy. Có khi chưa bằng. Ðẫy đà và uy nghi, tôi béo và mỡ màng chứ không nhí nhảnh như năm nào đến đây. Và bây giờ đi đâu đã có kẻ đưa người rước. Tốt nghiệp đại học ngoại giao, nhưng tôi không làm cố định ở đâu cả. Có cơ quan ở đó vài năm, có nơi hai tháng. Tôi chuyển đi phiên dịch hay làm ở văn phòng đại diện cho các cơ quan nước ngoài ở Việt Nam. Chồng tôi cũng là một nhà doanh nghiệp. Con gái tôi lên bốn tuổi. Nó xinh hơn bố và mẹ. Người ta bảo tôi có phúc, nhất là bố mẹ tôi. Mẹ bảo: "Lắm khi đang ngủ, tao lại giật mình đánh đùng không hiểu mày có lấy được chồng hay không? Nằm ngẩn ngơ một lúc, nhớ ra là mày có chồng mà có con rồi, tao mừng không thể tả được. May thế không biết".
... Ngày ấy. Lúc cho xong cái lồng chim, và sau khi ngơ ngơ nhìn ngó một lúc tôi bắt đầu đi bộ. Ðường bụi lầm và đen đúa vì đất và than. Những chiếc xe Ben bò ì ạch trên đường với những tấn than như con bọ hung. Nhà cửa, cây cối, tất cả nhuốm một màu xám xịt. Nước mắt tràn ra khỏi mi, tôi không giữ nó trong người được nữa rồi. Tôi dừng lại. Hà Nội của tôi bây giờ xa lắc. Bố mẹ đang ngồi bàn về tôi trong sự đau khổ bởi tôi là đứa con không vâng lời. Tôi thèm được về, trong căn nhà với ba con người đó. Tôi bắt đầu ân hận.
- Trúc, Trúc, có phải Trúc không?
Tim tôi khua loạn xạ trong lồng ngực vì đã có ai đó gọi tên tôi. Nhưng không phải tiếng của anh. Một người thanh niên đang lao xe tới chỗ tôi đứng.
- Em là Trúc?
- Vâng ạ. - Tôi ngây người nhìn anh. Anh đen hay bẩn? Mũi anh ta hin hin.
- Anh Hoạt nhờ anh đón em.
- Thế anh ấy đâu ạ?
- Anh ấy phải ở nhà thu xếp để em đến. Hậu phương bao giờ cũng phải vững chắc thì mới thắng lợi được! - Anh ta cười, nụ cười hồn hậu.
Tôi ngồi lên xe. Chiếc xe anh đèo tôi giống y chiếc xe thồ, chỉ khác là không có hai cái sọt thôi. Anh ấy và tôi ngả nghiêng trên con đường lầm bụi. Tôi thấy mình vui lên vì đã bắt được tín hiệu của anh, người đàn ông tôi có đầu tiên trong đời. Anh đưa tôi đến trước một dãy nhà ngói chênh vênh bên sườn núi, có mấy cái cây con con đen đúa vì bụi. Cửa sổ mở ra núi, nhìn hút lên cao là cây cỏ hoang dại. Mọi vật khô khốc. Những chiếc giường cá nhân, những chiếc chiếu đen đen, sơ sài và tạm bợ. Tôi nhìn quanh. Trong góc phòng, chỗ tối nhất đang phát ra tiếng khầng khậc. Anh đưa đường mủm mỉm cười:
- Anh Hoạt đấy. Thôi coi như anh xong nhiệm vụ với anh Hoạt. Anh phải đi về đội đây. Bọn anh còn phải tiếp tục khảo sát thực địa. Lúc nào rỗi, em và anh Hoạt sang bọn anh chơi.
Tôi nhìn chăm chăm vào phía góc phòng nơi đang nhịp nhàng phát ra những âm thanh quái đản. Anh đấy ư? Một khuôn mặt phì phì, ung ủng với một cái mồm há ra thở nặng nhọc như kéo cưa. Hai tay thả thõng thượt như người hết sinh lực. Hai bàn chân đen nhẻm thò ra ngoài chiếc chăn rách. Trông anh, từ cổ xuống giống như một xác chết.
- Anh Hoạt, anh Hoạt ơi! - Tôi lay người anh khe khẽ.
- Hừm... - Anh hù tôi một cái rồi trở mình, xoay lưng vào mặt tôi. Ngủ tiếp.
Căn phòng thoáng yên tĩnh.
Nước mắt tôi lại thánh thót rơi. Bố mẹ có yêu thương tôi và các cụ ngày ngày có dạy dỗ tôi trăm nghìn sự thì chắc cũng chưa bao giờ nghĩ sẽ dạy tôi phải xử lý với tình huống này như thế nào.
Bóng tối ập xuống. Trong không khí có mùi ngai ngái của khói củi. Tôi tựa cửa ngóng vu vơ ai đó mà tôi chẳng biết. Thế còn sướng hơn là ngắm một người đang ngủ li bì, quanh người nồng nàn mùi chua chua của rượu, một thứ rượu rẻ tiền và chóng say.
Bây giờ, sau nhiều năm, tôi mới hiểu ra những gì xảy ra với anh và tôi ngày ấy là hợp quy luật. Nhưng ngày ấy, tôi và mọi người thì nghĩ rằng anh là một lão đàn ông đàng điếm, trai lơ và ích kỷ. Một con người không có tình yêu. Bố mẹ tôi thì cho anh là kẻ lọc lừa.
... Lúc ấy, khoảng bảy giờ tối thì anh dậy. Khuôn mặt anh mờ mịt như người vừa ở trong hàng thế kỷ chui ra. Sau hơn hai trăm cây số và mấy lần phà, tôi được nghe anh đón tôi bằng câu đầu tiên "Anh khát quá. Anh thèm ăn một bát canh rau gì đó man mát. Hoặc là uống một gáo nước lã cũng được. Nước mưa ngọt lắm". Những người cùng phòng ái ngại nhìn tôi và lặng lẽ tản đi hết. Tôi lại khóc rấm rứt. Anh thì trố mắt ra nhìn tôi, vẻ không hiểu gì cả. "Sao thế em? Chúng mình gặp nhau thế này vui quá còn gì. Hay em đang gặp chuyện gì buồn. Thế em đến lúc nào đấy, ăn gì chưa?". Tôi khóc vì anh nhưng anh thì nghĩ là tôi khóc vì một cái gì đó. Nói ra chẳng giải quyết được cái gì cả. Và anh ôm lấy tôi. Thế là mọi nỗi uất hờn tan đi hết. Tôi yêu anh. Một tình yêu đầu tiên, thánh thiện và trong sáng vô cùng. Tôi yêu tất cả những gì có ở nơi anh. Và anh là người đẹp nhất trong tất cả những chàng trai xung quanh tôi. Người con gái đến tuổi dậy thì có những đụng chạm đầu tiên với một người đàn ông, thường bị xúc động ghê gớm và không bao giờ quên.
Ðêm đến. Hai chúng tôi đi bộ ra rừng. Tôi vui vẻ trở lại và không thấy mệt mỏi. Ðêm ở rừng âm u, huyền bí. Xa xa, tiếng sóng biển ầm ĩ. Tôi và anh ôm lấy nhau. Rồi anh bỏ tôi ra, thao thao kể về những công việc của anh dưới này. Ði khảo sát địa hình của những mỏ than. Lập đề án khai thác than và đưa chúng vào sử dụng. Có bao nhiêu cách khai thác. Và đủ mọi chuyện đã xảy ra trong những ngày anh ở đây. Anh kể cho tôi nghe về những chuyến đi săn đêm. Rồi biển động thì con sóng to ra sao, tiếng nó va vào kè đá thế nào. Anh hào hứng kể với tôi mọi chuyện, cả chuyện anh trêu các cô gái mỏ thế nào, như thể tôi là một thằng bạn lâu ngày anh gặp lại. Ðến một thảm cỏ khô khô, tôi và anh cùng ngồi xuống. Anh hôn tôi. Một nụ hôn loang loáng chạy qua môi tôi, môi anh mềm, mát lạnh. Môi tôi nóng run rẩy. Anh chạm vào tôi như gió thoảng rồi buông ra ngay, khi tôi chưa kịp trấn tĩnh. Tôi ngây người nhìn anh và tự hỏi: anh chán tôi rồi hay sao?
Anh vẫn tiếp tục kể mọi chuyện. Còn tôi thì bắt đầu nghi ngờ anh. Rồi anh thì thào "Về ngủ đi. Em đi xa chắc mệt lắm". Tôi trả lời "Em có thể ngồi đây với anh đến sáng. Em lặn lội xuống đây với anh không phải để ngủ". Anh cười "Vớ vẩn. Sương xuống sẽ làm em quay lơ ra. Mà anh thì ngày mai cũng phải đi làm. Hôm nay đã say cả ngày rồi. Vì em đấy. Chúng nó bảo anh là người hạnh phúc nhất nên phải khao rượu. Mà tính anh đã uống phải say xỉn thì thôi. Uống lởm khởm súc miệng khó chịu lắm".
Tôi im lặng. Trên trời, những chùm sao nhay nháy một cách yếu ớt. Hóa ra tôi chẳng quan trọng gì với cuộc sống của anh cả. Anh chồm người lên tôi. Tôi im lặng và chờ đợi. Người tôi run lên vì anh gần gũi tôi quá. Anh hỏi: "Yêu anh không, bé con?". Tôi gật, người nóng bừng. "Trước anh, bé đã yêu ai chưa?". Tôi lắc. "Sao bé có vẻ từng trải và bạo dạn lắm. Anh nghĩ là em đã có một ai?". Tôi tiếp tục lắc. "Em yêu anh và tin anh nên em không sợ anh". Anh ngồi thẳng dậy, cười: "Con gái chết vì cái sự tin đó. Hết đời như chơi đấy bé ạ, nếu không biết giữ mình. Bạ ai cũng tin thì nguy. Nhỡ anh hại đời con gái của em và bỏ em thì sao?". Tôi thấy ngần ngại: "Sao lại hại em. Chúng mình yêu nhau và sẽ lấy nhau". Tôi nói và ngồi lên, vòng hai tay ôm lấy người anh. Anh im lìm như pho tượng. "Mọi chuyện xa xôi lắm bé con ạ. Anh vừa thoát cuộc sống gia đình. Thỉnh thoảng đón thằng cu, chăm sóc nó là anh thấy sung sướng. Anh chưa tưởng tượng ra mình sẽ lấy vợ và lại đẻ con. Ðó là cả một sự mạo hiểm". Tôi nóng mặt: "Thế tại sao anh nói là anh yêu em?". "Anh yêu em ngay từ khi nhìn thấy lần đầu. Nhưng em còn chíp hôi lắm. Vả lại, chắc gì em sẽ yêu anh mãi? Anh tin là em sẽ chán anh trước. Nhất là anh già rồi, chỉ kém bố mẹ em có vài tuổi thôi". "Vậy anh gọi em xuống đây để làm gì?". Tôi cáu "Ơ hay nhỉ. Ði thế này em không thích sao. Em được đến một vùng đất mới mẻ và đáng yêu. Anh thì được đi đây đi đó. Ðược sống như ý muốn của mình chứ không sống theo ý thích của người khác. Hồi bé thì sống theo ý bố mẹ. Lớn lên một tí, chưa hiểu đời là cái gì và nên xử lý với nó ra sao thì a lê hấp, lấy vợ. Một cô vợ ngày ngày dạo quanh anh như một ông công an mặc váy trong nhà. Trong túi áo của nàng sẵn một cái còi, cần đến là thổi toét toét, ngay cả khi đi ngủ". Anh cười và ôm lấy tôi. Môi anh lại lướt nhanh trên môi tôi. Mát mẻ dịu dàng như miếng lê. "Cài khuy áo ngực lại, cô bé. Ngực em lộ ra hết trước mặt anh rồi". Tôi nóng bừng người. Trong bóng tối, có một chút loe loé sáng của một ánh đèn hắt xa xa, ngực tôi lộ ra, trắng như mầu sứ. Anh nhẹ nhàng, chăm chú cài áo cho tôi như tôi là con của anh. Anh phủi nhẹ nhẹ đất ở quần tôi và kéo tôi đứng dậy. "Về đi. Ðừng bao giờ ra chỗ lạ mặc cái áo dễ bật cúc như thế này. Nó sẽ kích thích đàn ông, lúc ấy em sẽ bị vạ lây đấy". "Anh không yêu em sao?" Tôi thảng thốt hỏi. "Yêu em và thương em lắm chứ, bé con của anh. Nhưng đừng bắt anh phải sống khác mình. Hiểu cho anh nhé". Tôi cay đắng, im lặng đi theo anh. Ðến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ là lúc ấy, tôi không còn hiểu anh là kiểu người gì nữa. Theo như tôi được biết, trai gái yêu nhau thì phải hôn nhau và ham muốn được sống với nhau. ít nhất là anh phải có những hành động gì đó với tôi, khi chỉ có hai đứa với nhau, giữa núi non và biển cả. Chúng tôi là hai kẻ tự do hoàn toàn cơ mà. Mẹ cũng dạy tôi nhiều. Tôi cũng được nghe nhiều, và cả đọc truyện nữa, hình như chưa có trường hợp nào tương tự thế này. Tôi và anh không nói gì cả và về nhà. Anh nhường phòng cho tôi và sang nhờ một người bạn. Biết tôi sợ ma, anh rủ chị cấp dưỡng bếp ăn tập thể về cùng ở với tôi cho vui. Ðêm đó, với tôi là đêm trắng. Trong khuya. Không gian lành lạnh của một ngày đầu đông. Tôi nghe tiếng gió khua lá cây rừng xào xạc. Thỉnh thoảng có tiếng tu huýt của một giống chim rừng gì đó bay vèo qua. Rồi tĩnh lặng. Loáng thoáng, tiếng ngáy của anh bên kia tấm liếp được gió đưa qua bên tôi. Tôi nghĩ đến bố mẹ, giờ này chắc bố mẹ cũng không ngủ được vì còn phải cùng nhau tưởng tượng ra những cạm bẫy nào mà tôi sẽ mắc phải.
Sáng hôm sau, anh chạy sang phòng tôi. Khuôn mặt anh tràn trề sinh lực chứ không như lúc anh mới tỉnh cơn say rượu. Tôi tin là hôm qua anh ngủ rất ngon. "Chào. Bé ngủ ngon không? Hôm nay bé ở nhà với các chị nhé, anh phải đi làm đây. Bảo các chị ấy dẫn ra chợ nhé. Tham quan chợ một lúc rồi về ghi nhật ký, vài chục năm nữa giở ra đọc, thích lắm bé ạ". Anh vô tư trèo lên cái xe đạp mà không cần thấy tôi đang trân trối nhìn anh. Anh nháy mắt với tôi, và phóng vụt đi. Tôi không bao giờ nghĩ hiểu rằng trên đời lại có một cái loại tình yêu quái quỷ như thế này. Chị cấp dưỡng tay bóp chặt nắm tiền, cười: "Ði chợ mua cua bể và mực. Làm món chả mực và cua rang muối. Em sẽ thích lắm". Tôi bèn cáo từ chị và ở nhà một mình.
Tôi ngồi im lìm giữa một căn nhà tồi tàn sơ sài như trong khoang thuyền của người ngư dân sống cuộc đời chài lưới. Nằm ra giường và nhìn ra sân. Ngoài trời, nắng đầu đông loang vàng. Gió se se lạnh. Tôi thấy trống trải và hụt hẫng. Như người đứng trước một cuộc chạy thi, trước mặt là vòng hào quang rực rỡ. Chạy mãi, chạy hết hơi đuối sức, trước mặt còn lại một bãi đất hoang, lởm chởm đá.
Một ngày nữa trôi qua. Một sự lập lại như ngày trước. Anh rất quan tâm chăm sóc đến sức khỏe của tôi. Làm mọi món ăn bằng đồ biển cho tôi thưởng thức. Nhưng anh không hề hôn thêm tôi lần nào nữa. Tối đến, anh để tôi ở nhà và đi câu tôm cùng bạn bè. Anh không cho tôi đi vì sợ tôi bị lạnh sẽ ốm. Và anh không muốn tôi mất ngủ, da sẽ xấu lắm.
Ngày thứ ba. Anh đưa tôi ra bến phà để sang Bãi Cháy. Tôi về. Trước mặt tôi, đó là cả một chặng đường dài tít tắp với ba lần sang sông. Không còn cái đích là tình yêu trước mặt để vẫy gọi nữa. Tôi về với căn nhà be bé như cái tổ chim che chở cho tôi. Lúc ấy, tôi mới hiểu gia đình quan trọng như thế nào.
Tôi vừa đi. Hai mắt cay xè, mòng mọng nước và cố gắng kìm nén để đừng khóc trước anh. Phà rùng rùng sang ngang. Anh đứng trên bờ vẫy tôi rối rít. Anh hét lên trong gió là bao giờ xong việc sẽ về thăm tôi. Anh chuyển hẳn công tác về vùng mỏ, nó hợp với nghề và sở thích của anh. Tôi quay đi, hạ cái túi lỉnh kỉnh những tôm, cua, sò, huyết và mực khô anh mua biếu bố mẹ tôi xuống. Bắt đầu khóc. Khóc như mưa giăng qua mắt. Khóc như bị hun khói ngày rằm tháng bảy vào lễ chùa Hà cùng mẹ. Tất cả, tan nát và mịt mờ đau khổ.
Rồi tôi cũng về tới nhà.
Ðến bây giờ sau nhiều năm, tôi vẫn còn nhớ nét mặt của bố mẹ khi nhìn thấy tôi hiện ra ở cửa như một kẻ bại trận, với một ít chiến lợi phẩm lục đục trong túi. Bố mẹ già xọp đi. Cả khuôn mặt toát lên màu xám xịt, như thể hai người vừa chạy thoát được một trận bom. Tôi vào nhà, quăng đám đồ đạc ra đất, ngồi phịch xuống giường. Người khô khốc và nặng trĩu. Bố mẹ nhìn tôi đầy vẻ kinh hãi và không ai bảo ai, chạy thẳng ra đường. Hai người ngó mỗi người một ngả, rồi quay nhìn nhau, và lại ngó nghiêng như tìm ai đó. Rồi, cả hai cùng vào. Mẹ hỏi: "Nó đâu?" Tôi ngơ ngác: "Ai cơ ạ?". "Thằng khốn ấy chứ ai?". Tôi thấy nhẹ bỗng: "Anh ấy chuyển hẳn về đó công tác. Bao giờ có điều kiện sẽ về Hà Nội chơi thôi ạ". "Ai đưa mày về đến đây?". Mặt mẹ đỏ dần lên. "Con tự về mẹ ạ". Mẹ hét lên: "Làm sao đến nông nỗi này con ơi. Thôi thế là xong đời rồi. Nó xơi mày xong nó đi đằng nó rồi mày lại tự bò về chứ gì? Thằng khốn nạn. Nó bỏ vợ con bơ vơ. Nó lại lừa con tôi. Tôi phải giết nó. Thân tàn ma dại rồi con ơi. Sao tôi khổ thế này. Tôi có ác độc gì đâu mà giời phạt tôi". Mẹ đau khổ thật sự, lồng lộn lên như con thú bị thương. Trông mẹ già xọp và quằn quại. Ai không biết tưởng như một tai họa gì đó như cơn lốc ào vào nhà tôi. Tôi ra sức thanh minh rằng anh tốt lắm, anh chăm chút tôi bằng tình cảm của một người anh với em gái, rằng tôi chưa hề bị anh xơi một tý nào, rằng anh còn dạy tôi cách sống ra sao giữa những người đàn ông xa lạ. Tôi càng bênh vực anh thì bố mẹ càng gầm rít. Tôi khóc vì nhớ anh và vì cuộc tình của tôi và anh hình như tan vỡ. Còn bố mẹ thì tưởng tôi là kẻ lầm đường lạc lối, bị một thằng Sở Khanh mang cuộc đời con gái đi mất. Và tôi là kẻ thất tình. Bố mẹ đi theo con đường suy nghĩ của bố mẹ trong sự tưởng tượng. Tôi thì lại sống bằng cái dĩ vãng của ba ngày chua chát vừa qua, khi hiểu rằng anh không yêu tôi như tôi tưởng. Tôi là kẻ bỏ đi - trước mắt bố mẹ.
Sau đó, bố mẹ đã bằng khả năng của mình xử lý anh. Nhưng hình như anh cũng không vì thế mà bị làm sao cả. Anh là người có chuyên môn, lại dám xông xáo, hình như anh lên lãnh đạo.
Tôi và anh chia tay nhau. Phần vì tôi tự ái. Phần vì bố mẹ. Phần vì tôi cũng xinh đẹp và có nhiều người mê. Và ba năm sau, tôi lấy chồng. Một người chồng tuyệt vời trước mắt mọi người. Ngày cưới tôi, mẹ tôi khóc hu hu. Tôi hỏi tại sao, mẹ bảo "Giời thương tao, tao chết cũng nhắm mắt, nó biết mày mất trinh mà vẫn làm đám cưới to thế. Thời mẹ, con gái như con chỉ đáng gọt gáy bôi vôi thôi. Cố sống cho tử tế với nó, lúc nào nó cáu quá, có đánh con thì con cũng cố mà chịu nhé". Tôi im lặng nhìn mẹ. Không hiểu mẹ có bị lẩm cẩm không. Hay là tôi phải gào lên với mẹ và mọi người rằng, tôi không bị mất gì cả, chẳng ai trộm cắp gì của tôi cả.
... Những lon bia. Những đĩa thức ăn đặc sản của vùng biển đầy ự trên bàn chờ đón đoàn của tôi về công tác. Họ về đây ký hợp đồng mua than của ta. Tôi có nhiệm vụ giao dịch và là mối dây giữa hai cơ quan. Những lời chúc tụng và những ánh mắt đàn ông nhìn ngắm tôi. Tôi quen với những thứ đó rồi. Chỉ có điều, chưa một người đàn ông nào nhìn tôi như Hoạt ngày ấy. Bây giờ, quay trở lại Hồng Gai, tôi đã thành người khác. Tôi có nhìn thấy một cậu thanh niên xách một túm chim rừng, con mỏ dài, con mỏ ngắn. Màu lông rất đẹp. Anh ta hỏi tôi có mua không, hai ba nghìn một con. Tôi cười lắc đầu chợt nghĩ, ở Hà Nội chim quay mười bảy nghìn một con, đắt thật. Tôi nhớ anh cồn cào, dù tôi rất yêu chồng và con tôi. Hai chuyện đó, theo tôi, hoàn toàn chẳng can dự gì với nhau cả.
Ðêm đến. Tôi đi ra biển. Khoảng rừng ngày xưa chúng tôi ngồi với nhau giờ người ta san phẳng và xây nhà rồi. Nhà mọc san sát. Trang trí nội thất đẹp như những khách sạn mini. Trên đầu tôi, vẫn những vì sao lưa thưa, có vì sáng rực, có vì nhạt nhòa, trên biển ánh sáng nhiều và chi chít hơn ngày xưa rất nhiều. Cuộc sống ngày một đi lên, sung túc hơn. Càng sống, càng thấy anh đúng. Những cái gì ngày xưa tôi oán giận anh, ngày nay tôi làm đúng như vậy. Hóa ra, con người, từ lúc sinh ra đến lúc chết đi ai cũng đi chung một con đường. Vừa giống nhau, lại vừa khác nhau. Người may mắn thì ít xa vào ổ gà. Người đen đủi thì hay rơi xuống hố. Những cái sự bắt đầu và kết thúc thì như nhau cả. Tôi im lìm nhìn biển đen thẫm trước mặt. Mùa đông năm nay đi về hướng nào chẳng biết. Tháng mười một nhưng nắng vẫn hoe vàng. Tôi chỉ mặc một chiếc váy thun mà không bị lạnh. Ai đó bảo rằng biển ấm vào mùa đông và mát vào mùa hè. Biển muôn đời đáng yêu và dễ gần. Hồi chiều, tôi tìm đến nơi ngày xưa anh công tác. Người ta bảo anh đi khỏi đó lâu rồi. Anh ưa sự khám phá. Hình như anh vào khu mỏ mới nghiên cứu và khai thác than mỏ nhỏ. Những mỏ vô danh và chưa ai đặt chân tới. Có người thì bảo hình như anh và bốn người nữa trong một lần đi thăm dò mỏ mới, hít phải chất titan gì đó trong khe sâu và chết rồi. Có người lại bảo anh chuyển sang Hải quan, chuyên đi tàu trên biển bắt bọn buôn lậu quốc tế. Nói chung, tôi chẳng nhận được những thông tin gì cụ thể về anh, ngoài việc anh là người ưa làm việc, ưa khám phá. Anh vẫn độc thân. Cuộc sống và niềm vui của anh là công việc. Còn nhớ, ngày ấy, khi chia tay tôi, anh có viết vài dòng cho tôi, đại ý là anh đã trải qua mọi sự rồi. Ngay trong tình yêu cũng vậy, anh yêu tôi nhưng anh không vì tôi mà sống khác. Anh hôn tôi bằng đôi môi của người đàn ông từng trải chứ không thèm khát nhục dục của kẻ mới lớn. Anh, lúc ở rừng với tôi, anh có thể nhịp nhàng mà chiếm đoạt tôi, và biến tôi thành nô lệ của anh vì tôi rất ngây thơ và tin anh. Nhưng anh không muốn bởi vì tôi còn cuộc đời của tôi. Với anh, điều đó không quan trọng, miễn là khi tôi đi lấy chồng, tôi còn nguyên vẹn với chồng.
Tôi không còn nước mắt để khóc nữa. Người đàn ông đã có vợ thường tìm trong tình yêu mới vẻ đẹp tinh thần chứ không phải sự cuồng si của thể xác. Anh không muốn lấy tôi bởi anh không muốn tôi đau khổ. Anh bảo: "Lấy nhau sẽ phải đẻ con, anh cũng yêu thương con của chúng ta thôi nhưng cái tình yêu đó không thể bằng tình yêu của một chàng trai chưa bao giờ có vợ và con. Anh vẫn phải dành anh cho con của anh với người vợ cũ. Như thế, chúng mình và các con đều đau khổ vì không ai được trọn vẹn cả".
Anh ở đâu? Sao tôi nhớ anh thế này. Bao nhiêu năm, tôi sống và tôi hiểu rằng, chẳng bao giờ tôi gặp được người đàn ông nào thay thế được anh trong tâm tính của tôi.
Sương nhè nhẹ buông. Trong gió có mùi tanh nồng nồng của biển. Có mùi mặn mặn của muối. Tôi thấy nóng bừng người vì nhớ anh.
Tôi đang sống trong một năm không có mùa đông.
Quảng Ninh 2-1992
Mùa hoa cải bên sông
Nguyễn Quang Thiều
Ðêm xuống. Con thuyền neo lại giữa sông. Ngọn lửa bếp trên mui thuyền hắt một vầng sáng dịu dàng xuống mặt nước. Người trong xóm trại trên bến Chùa không biết con thuyền này từ đâu đến neo lại trên khúc sông này đã hơn một tháng nay. Hàng ngày những người trong gia đình trên chiếc thuyền ấy làm một công việc là lấy cát rồi bán cho các gia đình trên thị trấn nhỏ bên kia sông đang thi nhau xây nhà. Hơn một tháng không ai thấy những người trên chiếc thuyền lên bờ. Họ đội cát bằng những cái thúng to, đi nhún nhảy trên tấm ván. Khi đến đầu tấm ván gối lên bờ, họ đổ cát xuống bãi cỏ cho người mua, bàn chân không hề chạm mặt đất. Hàng xóm của họ là những chiếc thuyền đánh cá, thuyền chở hàng thuê v.v...
Chủ chiếc thuyền cát là một ông già ngoài sáu mươi tuổi, mái tóc dài được búi gọn trên đầu, chòm râu bạc xòa che gần kín vồng ngực gồ lên như tảng đá. Ðôi vai ông u lên, đỏ sậm và rạn như vai trâu cày. Cơ thể ông đanh lại như đá tạc, nhưng đôi mắt thì khác, đôi mắt lúc nào cũng u buồn, ngơ ngác như vừa đánh mất một điều gì.
Ông Lư (ông già chủ thuyền) ngồi im lặng trên sàn gỗ của mui thuyền. Bên cạnh ông là một quả bầu khô lớn đựng rượu, một thứ rượu do ông cất lấy ngâm với củ cỏ gấu, loại củ già đen bóng như sừng. Trước ông là một đĩa cá sông nướng và một chiếc rổ con đựng những con trùng trục đã hấp chín với gừng khô. Chiều nào ông cũng ngồi uống rượu như thế cho tới khuya và không hề động đến một hạt cơm. Chỉ những đêm mưa bão ông mới chịu ở trong chiếc nhà thuyền.
- Anh cả đâu ? Ông khẽ gọi. Tiếng ông trầm và nặng đổ xuống mặt sông đêm.
- Dạ bố bảo gì con ? Một người đàn ông gần bốn mươi tuổi trong nhà thuyền chui ra.
- Mai nghỉ việc, lặn mặt trời thì đi Bãi Yên. Nói chị cả chuẩn bị mọi thứ cho đủ.
Ông nói, người không nhúc nhích, đôi mắt mở to nhìn hút về xa.
Ngày mai cả nhà ông sẽ đi Bãi Yên. Ðó là đoạn sông rộng và êm chạy ven chân một dãy núi đá vôi. ở dưới đáy giữa khúc sông đó là mộ người vợ bất hạnh của ông. Thế là đã hơn mười năm rồi. Con sông đổ biết bao nhiêu nước ra biển cũng như ông có biết bao thay đổi trên đời. Vào mùa hè cách đây mười hai năm. Ðó là mùa hè đầy bệnh tật và đói kém. Dọc hai bên bờ sông ông qua, ngày nào cũng vọng tiếng kèn đám ma thảm thiết và thấp thoáng sau những lùm tre gầy nhằng, úa vàng là những chiếc cờ tang vật vờ bay. Rồi vợ ông cũng trở thành nạn nhân của mùa hè ghê rợn ấy. Bà để lại cho ông ba đứa con. Ðứa con gái hồi đó mới hơn bốn tuổi. Trong suốt ba ngày ròng rã, ông ngồi trên mui thuyền trước xác vợ. Hai đứa con trai ông vừa chèo thuyền vừa dỗ đứa em gái của mình ốm yếu khóc ngặt nghẽo suốt ngày. Ông cập thuyền vào những xóm dân cư hai bên bờ sông để xin được chôn cất vợ. Nhưng không một nơi nào chấp nhận. Họ xua đuổi gia đình ông như xua đuổi một thứ ma quỷ chuyên đi gieo rắc cái chết. Họ sợ bị lây bệnh dịch. Ông không còn biết về đâu. Ông sinh ra trên chiếc thuyền này. Ông chỉ biết con thuyền và dòng sông. Ðến tối ngày thứ ba, ông ôm xác vợ khóc. Giữa dòng sông mênh mang, con thuyền vật vờ trôi với một ngọn đèn dầu héo hắt trên mui thuyền. Cuối cùng chỉ còn lại dòng sông mở rộng lòng đón nhận mọi số phận. Ông chôn vợ xuống đáy dòng sông ở chỗ khúc sông rộng và êm nhất. Ông cùng hai đứa con trai dùng gàu sắt thường dùng để lấy cát đào một cái hố dưới đáy sông và để người đàn bà yên nghỉ ở đó. Họ chở một thuyền đá xanh xếp lên thành chiếc mộ để tránh nước cuốn đi. Ðêm đó ông xõa tóc, đốt hương lễ thần sông. Ông đổ hết cả một bầu rượu lớn xuống sông và nguyền rằng: tất cả những người trong gia đình ông sẽ không bao giờ đặt chân lên mặt đất. Họ sẽ sống hết cuộc đời trên sông. Ông luôn luôn nói với con cái rằng: Nếu chúng để gót chân chạm vào mặt đất đôi bờ thì trái tim chúng sẽ biến thành tim quỷ, chúng sẽ trở thành những con thú độc ác. Hằng năm cứ đến ngày giỗ vợ, dù công việc bận thế nào gia đình ông cũng nghỉ. Ông sắm sửa lễ vật và khi mặt trời khuất núi thì cả gia đình chèo thuyền đến Bãi Yên. Ông xõa tóc và mặc áo, đây là ngày duy nhất trong năm ông mặc áo trừ những ngày mùa đông rét mướt. Sau khi làm lễ ông cùng hai người con trai lặn xuống đáy sông sửa sang lại ngôi mộ. ít năm sau người con trai cả lấy vợ. Cô dâu là con gái một bạn thuyền của ông. Ngày cưới con, ông cho đứa con trai thứ hai bơi chiếc mủng nhỏ đi suốt mấy ngày dọc một dải sông dài mời bạn thuyền. Ðám cưới được tổ chức ở Bãi Yên với hàng chục chiếc thuyền các loại kết lại thành một chiếc bè lớn.
Ðêm hôm sau, khi vầng trăng cuối tháng hiện lên phía ven trời thì chiếc thuyền từ Bãi Yên trở lại bến Chùa.
- Bố ! Ông nghe tiếng cô con gái út run run gọi ông ở phía sau. Cô ngồi xuống bên cạnh và ôm lấy cánh tay ông- Bố đưa mẹ lên bờ đi. Bố đừng để mẹ ở mãi dưới sông nữa.
Ðã bao nhiêu lần cô nói như van lạy ông. Nhưng lần nào ông cũng nhìn cô bằng đôi mắt ngầu đỏ, u uất.
- Không đứa nào trong nhà này được nói đến điều đó - Ông rít lên -Không đứa nào được giẫm lên lời nguyền của ta.
Nhưng ngay sau đó chính lòng ông đầy đau khổ, giày vò. Ông nhìn con xót xa. Chinh, đứa con gái duy nhất của ông, đã sinh ra trong chiếc thuyền trên dòng sông này. Ngày Chinh ra đời, ông cắt rốn con thả xuống dòng sông và cầu nguyện cho con. Chinh lớn lên khỏe mạnh, dịu dàng và âm vang như dòng sông. Cô thừa hưởng sắc đẹp dịu dàng của mẹ, lòng dũng cảm của cha và sự bí ẩn của dòng sông. Là đứa con gái duy nhất, nhưng cô xông xáo táo bạo hơn các anh cô. Những đêm trăng mùa hạ, cô thích thả mình xuống dòng sông. Cô bơi mềm mại như một nàng tiên cá trong chuyện cổ. Ðâu đây có những đàn cá lạ lấp lánh ánh trăng xuyên qua mặt nước bơi theo cô. Thỉnh thoảng cô co người lại, hai tay ôm bó gối để cho cơ thể tuổi dậy thì lóng lánh như một giọt thủy ngân lắng dần xuống đáy sông. Rồi bất chợt, cô ngoi lên khỏi mặt nước gọi bố và cười vang. Ông Lư ngồi trên mũi thuyền nhìn về phía cô gọi, đôi mắt chợt non tơ đến ngỡ ngàng. Ông không lo lắng gì khi thả cô xuống dòng sông ngay cả mùa nước lớn, nhưng ông lại lo sợ nếu như con gái ông để gót chân chạm vào đất đôi bờ.
*
* *
Nhưng cô thèm khát đôi bờ. Thuở mẹ cô còn sống, cô vẫn được mẹ cô đưa lên bờ đi chợ hoặc kiếm củi khô trên những bãi vải, bãi ổi ven sông. Sau ngày mẹ cô mất, các anh cô và cô không ai dám bước chân lên bờ. Và thế là hơn mười năm rồi, cuộc đời cô chỉ với con thuyền và dòng sông. Cô thèm khát được đặt chân lên dải đất mịn màng phù sa. Cô muốn được nằm trên thảm cỏ xanh ven đê làng. Có nhiều đêm cô bơi sát vào bờ và khi nghe thấy tiếng lá ngô khua xào xạc, khi ngửi thấy mùi râu ngô non dịu ngọt và mùi cỏ đêm hăng hăng, người cô lại cảm thấy nôn nao, nhịp tim cô dồn dập. Nhưng sau đó cô phải trườn mình quay lại con thuyền ngay khi đã nghe tiếng mõ gọi của bố. Có một lần cô nhìn thấy một xác người chết trôi qua thuyền. Mặt nạn nhân bị chém nhiều nhát, vết thương đã rữa tỏa mùi tanh nồng nặc. Cô ôm lấy bố run lên: "Trời ơi, ai làm sao vậy bố ? Bố vớt người ta lên bờ đi". "Người trên mặt đất họ giết nhau đấy". Ông Lư trả lời lạnh băng và đẩy cô vào nhà thuyền. Suốt ngày hôm đó ông không cho ai chạm vào dòng sông. Ông nói: "Hãy để nước sông đêm cuốn đi mọi bẩn thỉu của mặt đất. Ðừng chạm tay vào nước sông cho đến sáng mai".
Một lần khác cô hỏi Sỏi - người anh trai cả của cô: "Anh không thích lên bờ à ?"- "Trên bờ có cái quái gì mà lên"- Sỏi nói - "Cứ ở đây, chẳng phải đụng chạm đến đứa nào. Làm gì thì làm. Ngày xưa ở trên bờ tao thấy chúng nó suốt ngày cãi chửi nhau. "- "Lúc nào anh cũng ngày xưa, thế còn anh Cát ?", cô quay sang hỏi người anh trai thứ hai. Cát đang nằm ngủ trên sàn thuyền: "Tao chán cảnh này lắm rồi, cứ như ở tù" - "Mày tưởng trên bờ là thiên đường chắc ? Nhà tù đấy em ạ, gà vịt cũng còn bị tù nữa đấy !". Sỏi nhìn Cát càu nhàu. "Nhưng chắc chắn đó cũng là cái nhà tù rộng rãi hơn cái nhà tù thuyền này !" -"Ai, ai tù mày ? Bố tù mày hay tao, hay con Chinh tù mày ?"- Sỏi thốt lên giọng the thé, Cát thủng thẳng: "Chẳng ai tù ai hết cả. Ngu dốt nó tù tất cả". Nói xong anh ngửa mặt lên cười. Rồi anh chống tay đứng dậy đi lảo đảo và cười. Rồi tiếng cười vụt tắt. "Trời ơi, - anh kêu lên nức nở - Một ông già độc đoán tự cho mình quyền ngự trị tất cả. Ông bỏ tù chính ông, bỏ tù một cặp đực cái, bỏ tù một thằng hèn hạ như tôi, bỏ tù cả con bé đẹp nhưng mù chữ. Tất cả ỉa đái xuống dòng sông rồi lại nói nước sông trong sạch, lấy nước sông ăn, lấy nước sông uống !"- "Câm đi đồ mất dạy. Bố mà ở nhà bố sẽ giết mày". "Mất dạy hả ? Có đứa nào được dạy dỗ gì đâu mà mất"!
Buổi tối ông Lư trở về. Cô con dâu thì thọt kể lại chuyện cãi nhau giữa hai anh em Sỏi cho ông nghe. Ông nhìn Cát rồi nói: "Mày muốn lên bờ hả ? Ðược. Tao sẽ chặt đứt đôi chân mày và vứt mày lên bờ để xem mày có phải bò về với dòng sông không ?"- Nói rồi ông cầm lấy lưỡi rìu ấn mạnh vào bắp tay, máu trào ra. Ông lấy lưỡi rìu lau máu và chém phập vào mạn thuyền: "Hãy nhìn lưỡi rìu đi. Máu tao đã chảy ở đó. Sáng mai mày hãy trả lời xem mày có thích lên bờ không?"
Rồi Cát cũng không lên bờ. Con thuyền lại tiếp tục các công việc của nó. Thế rồi một mùa xuân lại đến. Chinh đã sang tuổi mười bảy. Một buổi sáng thức dậy ra mạn thuyền vo gạo, cô bỗng thấy trên bãi sông Bến Chùa, một thảm màu vàng tươi, một màu vàng xôn xao, ấm áp ùa vào mắt cô. Hoa cải gặp gió ấm đêm qua đã bung nở. Mỗi khi có ngọn gió chạy qua, cả bãi hoa vàng rợn lên như sóng. "Ðẹp quá"- Chinh khe khẽ thốt lên. Cái rá gạo từ từ tuột khỏi tay cô trôi theo dòng nước. Suốt cả ngày hôm đó cô không thể nào rời tâm trí khỏi thảm hoa vàng kia. Một cái gì náo nức vẫy gọi cô. Cô đã sang tuổi mười bảy. Thỉnh thoảng có đêm thức giấc, cô cảm thấy một cái gì chập chờn, quấn quít ở đâu đây. Không phải tiếng nước sông chảy trong đêm, không phải tiếng reo của ngọn lửa, không phải hương ổi chín từ bãi sông đưa lại, cũng không phải tiếng gọi nhau của bầy chim ri từ những lùm dứa dại ven đê. Một cái gì đấy làm cô đang chải tóc chợt dừng tay. Nó làm cho ngực áo cô bỗng đầy lên đến nghẹn thở. Cái đó chợt đến, chợt đi, chợt rời ra, quấn quýt.
Một hôm, sau bữa cơm chiều, cô nói với bố là cô đi thả lưỡi câu. Ông Lư chiều con và dặn: "Ði về sớm, trời lạnh đấy". Cô vội vã cởi dây thừng neo chiếc thuyền mủng. Cô không thả lưới mà bơi mủng vào bờ. Cô cắm mủng ở đó và đi về phía bãi cải. Ðêm lạnh nhưng trời có trăng. Cô ngồi xuống bên cạnh luống hoa. Ðôi tay nâng khẽ những chùm hoa cải ướt sương. Một ngọn gió lướt qua những bông hoa đung đưa cọ vào má cô. Người cô run lên. Những bông hoa nhảy múa và trò chuyện trước cô. Cô khẽ áp đôi môi mình vào hết chùm hoa này đến chùm hoa khác. Bỗng cô nghe tiếng mõ tre từ chiếc thuyền cái. Tiếng mõ được quy định thay tiếng gọi nhau của những người sống trên sông. Một lúc sau tiếng mõ lại vang lên. Chinh cuống quít, cô quơ tay dứt những chùm hoa cải. Lần thứ ba, tiếng mõ nghe gấp và chói. Cô biết bố đã nổi giận. Cô ôm bó hoa gãy nhàu chạy xuống bờ sông. Vừa ngồi vào mủng, cô vội gõ trả lời và hối hả bơi về thuyền. "Mày đi đâu mà không trả lời". "Con tưởng bố gọi anh cả". Ông im lặng, nghi ngờ nhìn cô.
Rồi đêm sau cô lại tìm cách lên bờ. Và trước khi trở lại thuyền, cô lại ngắt những chùm hoa cải mang về. Nhưng đến đêm thứ ba thì có người phát hiện ra việc làm của cô. Ðó là một chàng trai chừng ba mươi tuổi mặc một bộ quân phục đã cũ. Những ngày trước đó bà mẹ chàng trai thường xuống bến sớm và phát hiện những luống hoa cải bà để giống cho vụ sau bị ai đó ngắt nham nhở từng quầng. Bà ca thán với con và chàng trai quyết rình bắt cho được kẻ phá hoại. Khi Chinh đang quỳ trước đám hoa cải vừa vuốt ve chúng vừa thì thầm trò chuyện thì nghe tiếng quát khẽ nhưng rất gắt của chàng trai. Cô giật mình hoảng hốt quay lại, và vẫn trong tư thế quỳ, cô ngước mắt lên nhìn chàng trai, người run lên vì sợ hãi. Cô không khái niệm được sự sai trái do việc làm của mình, mà sợ hãi vì trước cô trong đêm trăng lạnh là một người lạ.
- Cô là ai? Cô làm gì ở đây ?
Chàng trai hỏi và bước lại gần cô. Cô lúng túng đứng dậy. Chợt những làn mây mỏng tan đi. ánh trăng trong veo đổ tràn gương mặt cô. Bây giờ thì đến lượt chàng trai giật mình. "Ðẹp quá !". Anh thầm kêu lên. Sao trong đêm trăng tĩnh lặng trên bãi sông ở một làng quê hẻo lánh này lại xuất hiện một người con gái đẹp như thế ? Chiếc áo tối màu và ánh trăng làm ngời lên đôi bàn tay, cái cổ thon và gương mặt đẹp. Ðôi môi cô khẽ mím lại còn đôi mắt thì mở to. Chàng trai hồi hộp, liếc nhanh cơ thể cô và nhận ra dưới lớp trăng mỏng, dưới lớp áo tối màu, là tuổi dậy thì nóng hổi, dịu dàng và phập phồng thở.
- Em ở đâu đến ?- Chàng trai nói bằng hơi thở. Giọng nói và gương mặt đàn ông đầy độ lượng của anh đã làm cho cô hết sợ. Cô mỉm cười nhìn xuống dòng sông, ở đó tỏa một quầng sáng đèn dầu. "à", anh chợt hiểu. Hàng tuần về thăm mẹ, anh vẫn thấy chiếc thuyền lấy cát ấy neo ở bến sông làng anh. Biết vậy nhưng anh vẫn hỏi lại:
- Em ở dưới thuyền à ?
Cô gật đầu.
- Em thèm ăn rau cải à ?
Chinh bật cười. Nụ cười ngợp lên người anh. Anh thấy mình mê đi trong khoảnh khắc.
- Thế em muốn gì ? Anh lúng túng hỏi.
Chinh không trả lời mà giơ một nắm ngọn cải nhiều hoa ra trước anh.
- Hoa cải ? Em thích hoa cải?- Anh ngạc nhiên hỏi. Cô gái lại gật đầu.
- Em về đây. Bố em gọi !
Anh bỗng hoảng hốt sợ cô biến mất. Anh đứng lặng nhìn cô và rồi vội vã ngắt những chùm hoa cải. Chinh nhận bó hoa cải từ tay anh rồi quay người đi xuống bến.
- Này em ! - Chàng trai chạy theo - Tên em là gì?
- Chinh.
- Anh là Thao. Nhà anh ở kia kìa. Mai em lên nhé. Hoa cải nhà anh đấy.
Chinh mỉm cười gật đầu và đi xuống bến. Anh nhìn theo. Ðến lúc này anh mới nhận ra mái tóc như thiên thần của cô. Anh ngửa mặt lên trời. Có lẽ mái tóc ấy đã từ vầng trăng chảy xuống.
Sáng sau, Thao dậy sớm. Suốt đêm qua hầu như anh không ngủ. Anh nghe tiếng bà mẹ ca thán dưới bếp: "Không biết đứa nào lại phá luống hoa cải đêm qua". Thao mỉm cười sung sướng. Anh chạy theo con đường nhỏ xuống bến sông. ở giữa sông, chiếc thuyền của gia đình Chinh nằm bình yên trên mặt nước. Một ngọn khói xanh tỏa ra từ con thuyền lặng lẽ tan xuống mặt sông như sương. Thao đứng trên bờ hồi hộp đợi, nhưng không thấy bóng một người con gái nào. Chỉ có hai người đàn ông đang loay hoay làm gì đó trên mui thuyền. Hay là đêm qua anh nằm mơ. Có phải thật sự đêm qua anh đã gặp một người con gái như thế không? Thao chờ mãi và cuối cùng anh buồn bã trở lại bãi hoa cải. Bên luống hoa vẫn còn in những dấu chân. Và cạnh đó là những cánh hoa cải rụng lấm tấm vàng.
Rồi vào một đêm sau đó ít ngày, Chinh lại chèo chiếc mủng nhỏ lên bờ. Họ đứng nhìn nhau trong ánh sáng mờ mờ của trăng bị mây mỏng che khuất. Họ chưa biết gì về nhau nhưng cả hai đều nhận thấy có một cái gì đó mỏng, trong suốt đang đan quấn vào họ như tơ nhện.
- Bố em đi rồi - Chinh thì thào.
- Ði đâu?
- Bố đi có việc mấy ngày tận cuối sông.
- Ðêm nay em ở lại trên bờ với anh nhé. Em đừng về.
- Bữa trước ở dưới thuyền em nhìn thấy anh, nhưng em không dám ra. Nếu anh nhìn thấy em anh gọi thì bố em giết chết em.
- Sao lại giết? Thao hỏi và bật cười.
- Thật đấy. Cô nói và nhìn anh bằng đôi mắt buồn, rồi cầm tay anh đi về phía bãi hoa. Họ ngồi xuống giữa những luống hoa cải. Hơi thở họ phả nóng mặt nhau. Xung quanh họ hoa cải vàng lấp lánh dưới trăng.
- Anh yêu em! Anh nói như phải cố gắng hết sức mình. Cô nhìn anh lặng lẽ như không hiểu điều anh nói. Anh nâng gương mặt cô lên.
- Anh yêu em.
Chinh vẫn im lặng. Gương mặt cô như đang ngủ trong lòng đôi bàn tay anh. Anh cúi xuống hôn cô và thấy cô rùng mình. Ðôi môi cô khẽ mím. Cô không biết đó là tình yêu. Cô chỉ thấy rằng ngực cô như bị nén chặt. Người cô bừng nóng. Cô cảm thấy hơi ấm của mẹ cô từ những năm tháng xưa đang tỏa vào cô. Cô vội đứng dậy. Thao ngơ ngác đứng theo. Bỗng cô ôm lấy anh khóc nức nở. Một lúc sau, cô ngước lên nhìn anh và hỏi:
- Anh là người mặt đất à?
- Trước đây, anh là một người lính - Anh nói.
*
* *
Trời mỗi ngày một ấm lên. Những cánh hoa cải rụng xuống mỗi ngày một nhiều. Rồi đến một hôm anh giật mình nhận thấy hoa cải đã rụng gần hết, chỉ còn lại những bông nở muộn. Anh cứ cảm thấy rằng khi cánh hoa cuối cùng rụng xuống thì Chinh sẽ biến mất.
- Em phải ở lại đây với anh. Em sẽ ở nhà anh với mẹ. Em không đuợc đi đâu cả.
Cô nhìn anh lắc đầu. Anh rút trong túi ra một tờ giấy đưa cho cô.
- Anh chép thơ tặng em đấy. Thơ Tago em biết không?
- Em không biết chữ.
- Sao, có thật thế không?
Anh ngạc nhiên hỏi và lòng anh bỗng xót xa, anh đỡ cô ngồi xuống và ôm cô vào lòng.
- Anh sẽ dạy em học. Anh cũng đang đi học đấy. Bây giờ anh giúp gì được em nào, em nói đi!
Chinh xoay người ngồi tựa vào lòng anh. Cô kể cho anh nghe cuộc đời của gia đình cô. Cuối cùng cô quay lại nhìn anh và nói:
- Em muốn nhờ anh một việc. Em muốn đưa mẹ em lên bờ.
- Lên bờ ! Ðúng rồi. Chúng mình sẽ đưa mẹ lên bờ. Chúng mình sẽ để mẹ yên nghỉ ở bãi sông này. Anh sẽ trồng thật nhiều hoa cải bên mộ mẹ.
Cô gật đầu cười hạnh phúc.
Thế là gần một năm gia đình ông Lư ở lại bến sông làng Chùa. Ðôi khi họ cũng vắng bến dăm ba ngày. Một mùa hè lại đến. Ðêm đêm Chinh thích thả mình xuống dòng sông. Bơi bên cô là Thao. Anh có một cơ thể khoẻ mạnh cân đối. Năm năm rèn luyện trong lực lượng đặc công nước đã cho anh vốn sức khoẻ và sự phát triển cơ thể ấy. Sau ngày giải ngũ, anh thi vào đại học ngoại ngữ khoa tiếng Anh. Những đêm trên dòng sông dịu dàng chảy, họ quấn quýt với nhau như một đôi cá thần. Dòng sông bí mật truyền vào cuộc đời họ sức mạnh hạnh phúc và sự khổ đau. Một lần khi đang bơi bên anh, Chinh thấy chóng mặt, cô ôm lấy vai anh thở dốc. Dòng sông chợt dừng chảy, im phắc lắng nghe cô, rồi bỗng trào lên những ngọn sóng reo vui, nhảy nối nhau loan báo cho các loài thủy tộc biết điều hạnh phúc thiêng liêng. Quanh họ, có những con cá bay lên khỏi mặt nước như một mảnh trăng con lấp lóa.
Như thường lệ, vào ngày giỗ bà mẹ, cả gia đình ông Lư nghỉ việc nhổ neo về Bãi Yên. Cũng chính ngày này Thao thay Chinh đốt những nén hương cắm trên mộ của bà mẹ. Thao đã bí mật đưa phần mộ của bà lên bờ mấy tháng nay và chôn ở ngay trong vườn nhà anh. ở Bãi Yên sau khi làm lễ xong, ông Lư sai Sỏi lặn xuống đáy sông để kiểm tra lại ngôi mộ. Gần một phút sau, tăm nổi lên sùng sục và Sỏi nhao lên khỏi mặt nước kêu thảng thốt: "Mộ bị phá ! Mộ bị phá rồi". Một ngọn lửa bỏng rát táp vào mặt ông Lư. Ông lao xuống sông hít một hơi dài và lặn xuống. Những hòn đá xanh đã bị vứt ngổn ngang. Ông Lư biết không phải nước mà có một người nào đó đã phá ngôi mộ. Nhưng ai đã làm việc đó ? Câu hỏi ấy làm máu ông sôi lên. Không ai biết ngôi mộ này ngoài những người trong gia đình ông. Ông ngoi lên và ra lệnh: "Thả gầu xúc cát xuống". Họ bắt đầu đào. Sau gần nửa tiếng đồng hồ ông mệt mỏi trèo lên thuyền. Ông lẩy bẩy bước đến cửa nhà thuyền đỡ lấy quả bầu khô đựng rượu, ngửa cổ lên uống.
- Ðứa nào ?- Ông gầm lên- Ðứa... ưa... ưa... na...ào... ào?
Tiếng ông kéo dài như tiếng rú khản đặc dội vào đôi bờ, vọng lại rền rền trên mặt sông. Tất cả những người trên thuyền cúi đầu im lặng. Trong góc nhà thuyền, Chinh ôm chiếc gối vào lòng kinh hoàng.
Ðến gần nửa đêm chiếc thuyền mới quay trở lại bến Chùa. Ông Lư ngồi gục đầu trên mui thuyền, trông ông già đi hàng chục tuổi. Hai anh con trai im lặng chèo thuyền.
Buổi sáng hôm sau mọi người dậy rất sớm. ở ngoài mui thuyền ông Lư vẫn ngồi đấy. Ông đã ngồi như thế suốt đêm qua. Bỗng cô con dâu chạy từ trong nhà thuyền ra.
- Bố! - Cô gấp gáp gọi ông và giúi vào tay ông một xếp giấy cũ nhàu.
- Cái gì thế này? ông hỏi và giơ những tờ giấy ra... Ông không biết chữ nhưng ông linh cảm thấy một điều không bình thường trong những tờ giấy.
- Cả đâu !- Ông gọi. Sỏi đang hút thuốc lào vội chạy ra. - Mày đọc xem cái gì đây.
Sỏi cầm lấy những tờ giấy và đọc. Trước khi mẹ Sỏi mất, ông Lư vẫn gửi Sỏi đến học ở một trường làng cùng con một ông bạn thuyền làm nghề chở đò ngang.
- Thưa bố. Ðây là thư của một đứa nào đấy gửi cho con Chinh. Chúng nó nói chuyện yêu đương. Nhưng con Chinh có biết chữ đâu nhỉ.
- Con Chinh đâu? Ra đây.
Ông Lư gầm lên. Từ trong nhà thuyền, Chinh vừa khóc vừa chui ra. Cô đã nghe thấy câu chuyện vừa rồi.
- Ðứa nào? Của đứa nào? - Ông gầm lên và giúi nắm giấy vào mặt cô. Cô khóc nấc lên.
- Của... của anh ấy. Con xin bố. Con lạy bố!
Ông Lư giáng một cái tát vào mặt cô. Chinh ngã vật xuống sàn thuyền. Cô chống tay ngồi dậy khóc nức nở. Cô chắp tay lạy ông.
- Con xin bố. Con lạy bố. Con và anh ấy yêu nhau.
- Trời ơi ! Ông Lư kêu lên - Thế là nó đã lên bờ rồi. Nó đã đạp lên lời nguyền của ta. Nó giết chết cả gia đình này rồi!
Ông túm lấy mái tóc dài của cô, giúi đầu cô xuống sàn thuyền và vung rìu chặt mái tóc. Ông nắm phần tóc bị đứt ném xuống sông. Một ngọn gió ở đâu ào đến. Gió cuốn mái tóc lên không. Mái tóc bay rối bời, quằn quại.
- Ðánh tuốt xương nó ra - Ông nói và rút chiếc cần câu trên mái liếp của nhà thuyền quất vào cô vun vút. Chinh vòng tay ôm lấy bụng. Người cô giật lên từng cơn. Một lúc sau ông dừng lại, túm lấy áo cô giật mạnh. Chiếc áo rách tan chỉ còn lại hai đoạn tay áo.
- Tao sẽ lột hết quần áo và vứt mày lên bờ...
Ông nói đến đó bỗng dừng lại, mắt mở tròn. Những người trong gia đình cô cũng chững người lại nhìn cô. Trước mắt họ cô đang ngồi khóc không thành tiếng, mái tóc dứt nham nhở dính bết vào lưng cô đầy máu. Ðôi vú cô hơi sệ xuống, núm vú thâm lại, chiếc bụng chửa đã năm tháng của cô bây giờ bỗng to hẳn lên, hổn hển thở.
- Nó có chửa. Nó có chửa, bố ơi!
Sỏi thảng thốt kêu lên. Ðôi mắt ông Lư đờ đẫn. Chân tay ông run lên như bị bệnh thần kinh.
- Thảo nào... - Cô con dâu chặc lưỡi - Ðúng là con của ma của quỷ nên nhìn đẹp đến lạnh cả người.
Ðúng lúc đó Thao bám mạn thuyền nhảy lên. Anh chạy lại ôm lấy Chinh.
- Anh ơi !- Cô nấc lên.
- Các người không được làm thế. Các người thật dã man. Thao rít lên, lòng anh đầy đau đớn và uất hận. ở sân nhà, anh đã nghe thấy tiếng kêu gào, khóc lóc của Chinh. Anh chạy xuống bến và nhận thấy ông Lư đang đánh Chinh trên thuyền. Anh không kịp cởi quần áo dài, cứ thế lao xuống sông bơi đến nơi con thuyền đậu.
- Mày, chính là mày - Ông Lư bước lại trước Thao - Mày đã hại đời nó. Tao sẽ giết mày. Tao phải giết mày.
- Chính ông đã giết chết cuộc đời cô ta. Ông đã chôn vùi bà mẹ dưới đáy sông lạnh lẽo tối tăm, ông đã chôn vùi cuộc đời con cái ông trên chiếc thuyền này.
- Trời! Ngôi mộ... ngôi mộ. ở đâu? Mày, mày... ngôi mộ.
- Ðúng. Chính tôi đã đưa ngôi mộ bà mẹ lên bờ. Con gái của ông đã nhờ tôi. Cô ta đã làm đúng lương tâm và lòng hiếu thảo của một người con. Chính ông và gia đình này phải cảm ơn cô ấy. Bây giờ ông chỉ biết quyền lực của ông. Chỉ vài năm nữa ông chết đi. Nhưng ông đã và đang đày ải những người khác sống một cuộc đời tối tăm vô nghĩa. Bây giờ ông phải cho cô ấy lên bờ.
Anh cúi xuống nhìn xót xa tấm lưng cô, lưng Chinh bầm tím và ứa máu. Rồi anh ngẩng nhìn mọi người nói:
- áo đâu ? Ðưa áo cho cô ấy mặc.
Cát lặng lẽ đi vào nhà thuyền và mang ra một chiếc áo đưa cho anh. Anh mặc áo cho cô và đỡ cô vào nhà thuyền. Một lúc sau anh bước ra nhìn ông Lư và nói:
- Ông phải cho cô ấy lên bờ và chính cả ông nữa. Tôi yêu cô ấy và tôi sẽ cưới cô ấy làm vợ.
- Mày là một con quỷ. Mày đã phá hại gia đình tao. Mày phải mang trả lại cho tao ngôi mộ.
- Nếu ông chấp nhận cho cô ấy lên bờ thì tôi sẽ chỉ cho ông biết ngôi mộ ấy ở đâu. Nhưng ông cũng không được đưa ngôi mộ ấy trở lại dòng sông.
Bây giờ tôi về lấy thuốc cho cô ấy.
*
* *
Khi Thao đi mua được thuốc cho Chinh trở về thì chiếc thuyền không còn trên bến Chùa nữa. Ông Lư đã cho con thuyền nhổ neo ngay sau khi anh rời chiếc thuyền. Anh không biết con thuyền đi về hướng nào. Anh quyết định chạy theo hướng dòng sông chảy. Ông Lư biết trước chuyện đó. Ông căng buồm cho thuyền chạy ngược dòng. Ông ngồi giữ bánh lái. Còn Sỏi và Cát phải lên bờ để kéo phụ cho chiếc thuyền đi nhanh hơn. Mây đen bỗng cuồn cuộn đổ về. Mưa mùa hạ ập xuống như trút nước. Dòng sông rộng nên gió càng thổi mạnh. Thao vừa đi vừa thở trong mưa. Ðất trời mù mịt. Trên dòng sông lác đác có những con thuyền cập vào hai bờ tránh bão. Cứ thấy bóng một con thuyền Thao lại cất tiếng gọi. Nhưng chỉ thấy gió bão trả lời anh. Anh rét run lên rồi ở trong ngực như có một ngọn lửa. Ngọn lửa đốt nóng rát lồng ngực. Ngọn lửa chui qua cổ anh lên mũi, lên mồm. Thao phải quay về nhà. Anh không đủ sức đi tiếp. Vừa về đến nhà thì cơn sốt lên đến lúc cao nhất. Anh cố gắng thay quần áo và nằm vật ra giường. Bà mẹ hốt hoảng đắp chăn cho anh và đi rang cám đánh gió cho anh. Ðến tối anh mê sảng, người nóng ran. Mọi người vội vã đưa anh đi bệnh viện. Mỗi khi tỉnh lại anh lại hỏi:
- Thuyền về chưa?
Không ai hiểu câu anh hỏi. Mọi người nhìn anh lo lắng. Còn anh cứ mỗi khi nhắm mắt thiếp đi lại thấy chiếc thuyền, thấy dòng sông và Chinh đang bơi đến bên anh. Bỗng Chinh dừng bơi, ôm chặt lấy anh kêu lên khe khẽ. Gương mặt cô vừa đau đớn vừa hạnh phúc. Cô mỉm cười và trán đầm mồ hôi. Rồi anh nghe tiếng trẻ khóc. Tiếng khóc âm vang náo nức cả dòng sông. Anh bế đứa bé nâng lên khỏi mặt nước. Nhưng rồi đôi tay anh nhẹ bẫng. Anh giật mình, đôi mắt dài dại mở ra nhìn mọi người, môi anh thì thào:
- Thuyền đã về chưa?
Khi cơn sốt chưa kịp khỏi hẳn, anh đã quyết định đi tìm Chinh. Anh nói với bà mẹ rằng có lẽ hai tuần tới anh không về nhà. Anh phải đọc một số sách tư liệu cho năm học mới. Anh lấy xe đạp và bắt đầu cuộc hành trình dọc sông Ðáy nhưng suốt một tuần đầu anh không có được một tin gì về Chinh. Anh la cà ở những nơi thuyền tụ tập đông đúc. Anh kể cho những người làm nghề sông nước về gia đình cô. Có người nói họ nhìn thấy chiếc thuyền đó qua nơi họ đã ở mấy hôm trước. ở trên mui thuyền có một cô gái hai tay bị trói vào cọc. Có người lại kể rằng họ thấy một thuyền câu nhỏ cứ quay tròn trôi theo làn nước, trong thuyền có một đứa bé mới đẻ. Một đôi vợ chồng già không có con đã đón đứa bé ấy về nuôi. Rồi lại có người nói rằng họ nghe đồn có một người đàn bà chết trôi, trên bụng có một đứa bé mắt tròn như mắt cá. Ðứa bé ấy nhìn vào bờ cứ cười ba tiếng lại khóc ba tiếng... Thao cứ đi mãi theo những lời đồn đại như chuyện cổ tích của những người dân chài cho đến khi ra đến biển. Biển tít tắp không bờ không bến và rền rĩ tiếng sóng.
Cho đến một buổi sáng Thao dậy sớm. Suốt cả bãi sông làng anh rực vàng hoa cải. Những bông hoa cải nhỏ nhắn, mềm mại, ấp áp đung đưa trong gió. Thao bỗng thấy trái tim rung lên đập hối hả. Anh chạy ùa xuống bến. Bỗng anh quỳ xuống bên luống cải. Trước mắt anh, trên mặt phù sa rụng lấm tấm những cánh hoa mỏng và từ đó kéo dài xuống bến sông là những dấu chân mỏng và nhỏ nhắn.
Làng Chùa, tháng 5 năm 1989
Mùa xuân - tiếng chim
Vũ Tú Nam
Anh phải nghỉ lại đây với tôi một đêm, anh Năm ạ. Chẳng mấy khi bạn bộ đội cũ gặp nhau. Vả lại mưa phùn lầy lội thế này, anh đi làm gì vội.
Ðây là nhà mẹ Thái, nơi gia đình chúng tôi ở nhờ những năm tản cư trong kháng chiến chống Pháp. Bắt đầu từ năm 1948, phải, khi ấy tôi mới 14 tuổi. Bao nhiêu kỷ niệm đã dồn dập diễn ra trên mảnh đất này, thấm thoát đã trên 30 năm rồi. Chính vì để nhớ lại chuyện xưa, tôi đã lặn lội về đây. Tình cờ lại được gặp anh, may thế!
Cảm ơn anh đã hỏi về việc vợ con tôi. Tôi vẫn nằm giường cá nhân, nghĩa là "vô sản" như hồi xưa, như hồi sống chung với anh cùng đơn vị. Tâm sự của tôi thì dài lắm, nếu anh chịu khó nghe, tôi xin kể...
Cha mẹ tôi được mỗi mình tôi. Tản cư từ Hà Nội cuối năm 1946, đến 1947 cha tôi nhập ngũ. Ông mất rất đột ngột vì sốt rét ác tính ở vùng Nho Quan - Chi Nê. Mẹ tôi phải gắng gượng để sống mà nuôi tôi. Bà bán dần mòn từ đồ nữ trang đến quần áo, rồi cuối cùng cơ quan phụ nữ tỉnh nhận bà vào biên chế. Mẹ con tôi đến ở nhà mẹ Thái đây.
Trong chuyến đi công tác ở thị trấn Thanh Xuân mẹ tôi tình cờ gặp một bà bạn học Hà Nội tản cư tại đó. Cô Mai - tôi thường gọi thân mật tên bà như vậy - đang sống trong tình cảnh rất gieo neo. Mẹ tôi kể rằng chồng cô đã bỏ cô, "dinh tê" vào thành, để lại cho cô một bức thư đoạn tuyệt và đứa con gái lên mười. Không nơi bám víu. Cô Mai nhận lời chung sống với một lão chủ hiệu chữa đồng hồ. Nào ngờ lão ta đã có vợ. Vợ lão ta đánh ghen, đập phá, mắng chửi, đuổi mẹ con cô Mai ra khỏi nhà. Trong những ngày ấy, mẹ tôi luôn luôn nhắc đến cô Mai và tìm mọi cách giúp đỡ cô.
Thế rồi một buổi chiều, cũng mưa phùn ẩm ướt như thế này, mẹ tôi bước vào nhà - chính chỗ anh và tôi đang ngồi đây - hai mắt mẹ tôi đỏ hoe, một tay xách cái tay nải, tay kia dắt một đứa con gái gầy quắt khóc sướt mướt. Không chịu nổi những khổ đau dồn dập, cô Mai đã nhảy xuống sông tự vẫn! Và mẹ tôi đã nhận đứa con gái bạn - tên là Thu - về nuôi.
*
* *
Khi đó Thu lên mười kém tôi bốn tuổi.
Mấy ngày đầu, Thu không chịu ăn, chỉ khóc. Mẹ tôi giở cái tay nải - tài sản duy nhất còn lại của cô Mai - lấy áo quần ra khâu vá lại cho Thu. Mẹ dạy tôi phải coi Thu như em. Mẹ lập bàn thờ cô Mai ở góc nhà, không xa bàn thờ cha tôi là mấy.
Thế rồi tôi kèm cho Thu học thêm. Mẹ tôi âu yếm một điều "mẹ mẹ con con" với Thu, trong khi Thu cứ một mực xưng "cháu" và gọi mẹ tôi là "bác" Thu ăn uống rất giữ ý, và thường tranh lấy việc để làm: quét nhà, rửa bát, nấu cơm... Có lẽ những ngày ở nhà ông bố dượng chủ hiệu chữa đồng hồ, em đã phải sống gần như đứa ở. Mẹ tôi xót xa về điều đó lắm, và thường thu xếp để em ít phải làm việc nhà chừng nào hay chừng ấy.
Tôi là con trai, khỏe sức, mẹ tôi sai tôi gánh nước ở giếng về đổ vào bể xây nhà mẹ Thái đây, để mọi người dùng chung. Tôi bổ củi. Tôi xay lúa. Tôi giã gạo. Mùa rét, tôi đun nước, múc nước cho mẹ tôi và Thu tắm, gội đầu. Còn mẹ tôi thì ngoài công tác ra phải lo chợ búa, bếp núc, khâu vá, trồng rau, nuôi gà. Bà chi tiêu rất dè sẻn, vì dù sao cũng đã có thêm một miệng ăn.
Có lần mẹ tôi đi công tác dài ngày, ở nhà Thu bị ốm. Em sốt run bần bật. Tôi đun nước xông theo lời chỉ dẫn của mẹ Thái và nấu cháo Thu ăn. Gà đã đẻ được 13 quả trứng, tôi mang ra chợ Song bán đi một chục, còn ba quả tôi luộc dần để Thu bồi dưỡng. Có bữa hai anh em ngồi vào mâm cơm, quay đi quay lại, khi tôi và đến lưng chừng bát cơm thì thòi ra một nửa quả trứng - Thu bí mật giúi trứng vào để buộc tôi phải ăn.
Dần dà, Thu bớt xanh và gầy đi. Em linh lợi và hoạt bát hẳn. Mẹ tôi xin cho em đi học trường làng. Chẳng mấy chốc Thu hòa ngay với các bạn gái trong xóm. Bấy giờ tôi mới phát hiện ra rằng Thu nghịch như con trai. Em đá cầu vào loại giỏi nhất trường và leo trèo như vượn. Có lần mẹ Thái muốn bẻ buồng cau, hỏi tôi có biết trèo không. Tôi lắc. Thế là Thu thoăn thoắt leo lên tận ngọn, không những cắt được buồng cau thả xuống, mà còn bắt gọn hai con sẻ ra ràng làm quà cho tôi nữa. "Chiến công" này của Thu, tôi và mẹ Thái giấu biệt không cho mẹ tôi biết.
Hồi ấy, mẹ con tôi được ở cả gian nhà ngoài này. Mẹ tôi và Thu ngủ giường bên trái, một mình tôi nằm giường bên phải. Hễ mẹ tôi đi công tác thì mẹ Thái ở trong buồng phải ra ngủ với Thu, vì không hiểu sao em sợ ma lắm. Một buổi sớm em kể với tôi rằng em ngủ mơ thấy mẹ Mai nằm nổi lên giữa lòng sông; nước đẩy mẹ quay tròn... Rồi ôm lấy cổ tôi gục đầu vào vai tôi, em khóc. Tôi chỉ biết im lặng vuốt tóc em để an ủi em.
Ðầu năm 1952, tôi tròn 18 tuổi. Theo sự giới thiệu của mẹ Thái, lần đầu tiên tôi thoát ly gia đình, xuống tận huyện Ðông Sơn dạy học tư. Nhà chủ là một gia đình trung nông cứng, muốn nuôi thầy để kèm cho cậu con trai độc nhất - lười và dốt đang học lớp hai. Ngoài ra, thầy còn dạy chữ thêm cho bà vợ và cô em ông chủ, cùng bốn năm chú bé hàng xóm nữa. Thầy được nuôi ăn ngày ba bữa, không bữa nào thiếu thịt và cá biển. Cơm bưng nước rót. Mình thầy một mâm. Ðôi khi ngủ trưa dậy, lại có xôi chè!
Những ngày được ăn uống đầy đủ như vậy, tôi rất thương mẹ tôi và Thu kham khổ. Do đó, cứ cuối mỗi tháng, sau khi ông chủ trả tiền công, là tôi cuốc bộ bốn mươi ki lô mét về thăm nhà và đưa tiền cho mẹ tôi. Không bao giờ tôi quên rẽ vào hàng xén mua quà cho Thu, khi thì cái cặp tóc, quyển vở, khi thì cái gương, cái lược.
Cuối tháng bảy năm ấy, tôi bị ốm đột ngột, không về đưa tiền cho mẹ tôi được. Pháp lại ném bom mấy trận quanh vùng. Thế là mẹ tôi sốt ruột, phái Thu lặn lội đến thăm tôi.
Buổi trưa, tôi vừa dứt cơn sốt, thấy một cô gái tóc tết thành hai đuôi sam, mặc áo nâu non, mặt đỏ hồng vì nắng, cắp nón có gài lá ngụy trang, bước vào sân bẽn lẽn: "Chào bác ạ! Cháu hỏi thăm..." Bước thêm hai bước nữa, Thu mới nhận ra tôi, và cả tôi, tôi cũng không nhận ra Thu lúc em thoạt vào. Bởi vì tôi đang ngồi co ro khoác cái áo ca-pốt lính tẩy bằng dạ mầu cứt ngựa của ông chủ, còn Thu thì nom lạ quá với hai cái đuôi sam mới. Hai anh em mừng rỡ cười chế nhau mãi.
Thu ở lại săn sóc tôi hai hôm. Em đánh gió cho tôi (cách đánh gió do mẹ tôi dạy), nấu canh cua rau đay, và cháo hến là hai món ăn tôi thường thích. Chiều mát, Thu theo tôi ra ngồi bờ ao, bên gốc cây sung xem con rùa thảnh thơi bơi ra lội vào (con rùa của chú bé con ông chủ nhà nuôi thả). Thỉnh thoảng một trái sung chín rụng, con cá trắm to bằng bắp đùi lừ đừ nổi lên, nhẹ nhàng đớp lấy quả sung, ngon lành như nuốt một viên kẹo.
Tối đến, cả nhà ngồi quây quanh ngọn đèn ba dây trò chuyện. Ông chủ bà chủ luôn miệng biểu dương "cậu giáo": - "Cậu giáo thật chăm, chẳng hút thuốc chẳng ăn quà". - "Sau này ai lấy được cậu giáo thì sướng cả đời đấy!".
Cô em ông chủ có vẻ ngượng ngùng, không dám vào ngồi góp chuyện, cứ lượn ra lượn vào ở dưới nhà ngang.
Sớm sau, tôi tiễn Thu ra tận đầu làng, dặn dò em phải cẩn thận khi đi đường, qua đò, phải chú ý nghe tiếng máy bay. Thu ngước thật to đôi mắt đen thẳm - đôi mắt đã ánh lên vẻ đẹp dậy thì, - cười và hỏi tôi một câu thật lạ: "Anh... anh có thân với cô em ông chủ nhà không đấy?"
*
* *
Sau đại thắng Ðiện Biên Phủ, tôi náo nức xin nhập ngũ. Mẹ tôi rất muốn tôi ở gần mẹ, nhưng thông cảm với ước mơ 20 tuổi của tôi, bà khuyến khích tôi đi bộ đội để phục vụ, biết đó biết đây, và thoát khỏi cảnh tù túng của "cậu" giáo dạy tư luẩn quẩn trong làng. Thu cũng không ngăn cản tôi. Em nói: "Ðiều gì anh thích thì em cũng thích".
Buổi tối trước hôm tôi lên đường, mẹ tôi nấu xôi. Thu thịt con gà của em đang đẻ để chiêu đãi "anh bộ đội". Mẹ tôi thắp hương trên bàn thờ cha tôi, và cả bàn thờ cô Mai nữa.
Tối hôm ấy, nhà mẹ Thái đầy khách. Trong số bạn trai đến chào tiễn tôi, có cậu Quyền trắng trẻo và hiền lành củ mỉ cứ nấn ná ngồi lại mãi. Quyền đã là giáo viên cấp I. Tôi để ý thấy cậu ấy rất mến Thu. Có lần tôi đùa: "Cậu có muốn làm em rể tớ không? Cái gì chứ nết hiền lành chăm chỉ của cậu là tớ ưng rồi đấy!". Quyền đã đỏ bừng mặt, bẽn lẽn cười...
Thu lộ vẻ sốt ruột khi thấy Quyền ngồi lì mãi. Em nói: "Anh Quyền không phải chấm bài ư?". Thế là Quyền lúng túng đứng dậy, lí nhí xin phép mẹ tôi và bắt tay tôi để ra về. Tôi và Thu tiễn Quyền ra tận cổng. Ðứng bên giậu ruối, dưới trăng, Thu bỗng nắm lấy tay tôi, nói nhanh và nhỏ: "Anh đi vui thế, chắc chả nhớ em một tí nào đâu nhỉ? "Tôi cười, vỗ nhẹ vào vai Thu: "Sao lại chả một tí nào?... Anh nhớ Thu to bằng cái nhà này này!..." Thế là hai đứa cười giòn tan. Chúng tôi cứ đứng đó hóng gió mát, nhìn lên trời đêm trong vắt và đầy sao, mãi cho đến khi mẹ tôi ra gọi về đi ngủ.
Hôm sau, Thu lẽo đẽo theo tôi đến nơi tập trung cách nhà trên 15 cây số. Cứ đi được một chặng dài Thu lại nói: "Thôi, em đếm đúng tám mươi bước nữa, rồi em về!". Chúng tôi cùng đếm. Hết tám mươi bước, Thu bảo: "Anh đã mỏi chân chưa? Em chẳng mỏi tí nào. Em còn đi được nữa!". Thế là hai đứa cùng cười và cùng bước tiếp. Qua con ngòi nhỏ, Thu vén quần lội. Em có đôi chân đẹp, trắng ngần, khiến tôi bỗng dưng thấy ngượng, bước cách xa ra một chút. Thu dừng lại, chìa tay ra trách yêu: "Anh không dắt em, để em chết trôi ở đây sao?". Tim tôi bỗng như ngừng đập. Câu Thu nói vô tình làm tôi chợt nghĩ đến cái chết oan trái của cô Mai... Tôi lùi lại, nắm lấy bàn tay Thu, bước những bước chập chờn, lòng bồi hồi những vui buồn lẫn lộn.
Không biết từ bao giờ Thu đã gọi mẹ tôi là mẹ và xưng là con một cách tự nhiên, không "bác bác cháu cháu" như những ngày đầu nữa... Và có lần mẹ tôi đã nhẹ nhàng căn dặn tôi: "Thu nó đã lớn, mười sáu tuổi rồi. Anh em thân nhau nhưng đừng suồng sã, kẻo người ta dị nghị. Ðời cô Mai đã khổ thế, mẹ muốn tránh cho nó những tiếng chẳng lành..." Tôi rất thương và quý trọng mẹ tôi. Vì bà đã dành tất cả tình cảm cho tôi và Thu. Bà nhất định không đi bước nữa, mặc dầu khi cha tôi mất, bà mới ba mươi tuổi, và sau đó có đến bốn năm đám ngỏ ý muốn xin được chung sống cùng bà.
Cái hôm tiễn tôi đi bộ đội ấy, Thu đã vượt quá ranh giới những điều căn dặn của mẹ tôi. Hai anh em bịn rịn trò chuyện mãi - có lúc chỉ nhìn nhau chả nói câu nào - Ðến xế chiều thì trời nổi cơ giông gió ầm ầm. Thu đành phải ở lại nơi tập trung lính mới. Ðêm ấy tôi báo cáo với ban chỉ huy, thu xếp cho Thu ngủ ở cái quán ven sông của một bà cụ bán hàng nước. Anh em trong đơn vị đều tưởng Thu là em ruột tôi, và nhiều cậu đã giả vờ "nịnh" tôi trước mặt Thu để "đợi thời cơ làm em rể". Tôi ngồi bên bờ sông với Thu khá khuya. Mấy đứa trẻ nghịch ngợm đi qua ném đất về phía chúng tôi và hô lên trêu chọc: "Lêu lêu vợ chồng! Lêu lêu vợ chồng" khiến tôi ngượng chín cả người; còn Thu thì đứng phắt dậy ném trả bọn trẻ, miệng lầu bầu tức giận.
Mờ sáng hôm sau tôi cùng đơn vị xuống thuyền để đến một địa điểm mới. Nhìn về quán bà hàng nước, tôi thấy Thu đang hớt hải vừa chạy vừa giơ tay vẫy, gọi to: "Anh Dương! Anh Dương! Ðợi em với! Ðợi em với!". Tôi chỉ kịp nhoài người ra khỏi khoang thuyền, cố giữ vẻ mặt tươi cười hét vọng lên bờ: "Em về nhé! Về nhé!"
Con thuyền xuôi nhanh theo dòng nước xiết. Các bạn tôi reo cười, nhất loạt đứng lên chào Thu. Tôi lặng nhìn em đứng im trên bãi cát như một bức tượng, quanh cổ vẫn buộc chiếc khăn thêu đêm qua tôi đã tự tay quàng cho em khi thấy em húng hắng ho sau cơn mưa gió lạnh. Tôi bồn chồn thương em, nhớ em, và lo cho em về nhà mẹ mắng...
*
* *
Ở đơn vị, tôi nhận được thư mẹ tới khá đều, bao giờ cuối thư cũng có vài dòng thêm của Thu. Em không có thói quen viết dài, chỉ luôn đặt những câu hỏi: "Anh có khỏe không?" - "Anh có nhớ em không?" - "Anh có đủ ấm không? - "Bao giờ anh có thể ghé qua nhà?" - "Anh ăn có no không?"
Qua thư nhà, tôi được biết Thu đã tốt nghiệp lớp 7, và ý mẹ tôi muốn hướng Thu vào nghề dạy học. Mẹ còn hỏi tôi khá kỹ về Quyền, cái cậu giáo viên hiền lành bạn tôi ấy. Mẹ cho biết Quyền có vẻ quyến luyến Thu lắm, và mẹ cũng thấy mến chàng trai này. Mẹ muốn biết ý kiến của tôi ra sao. Ðọc thư mẹ, tôi suy nghĩ rất nhiều. Tôi không tự phân tích được tình cảm của mình nữa. Ðiều thật rõ là tôi thương Thu, rất thương Thu. Tôi không muốn đời Thu lại gặp những éo le, trắc trở. Quyền yêu Thu, đó là điều tôi biết chắc. Còn từ ngày tôi ra đi tới nay, Thu đối với Quyền ra sao, trong thư mẹ tôi không nói; và Thu cũng không viết một chữ nào nhắc đến Quyền. Tôi trả lời mẹ chung chung là Quyền chân thật, hiền lành, có thể tin cậy được.
Mùa xuân năm 1956, sau gần hai năm đi xa, tôi có dịp ghé về thăm nhà. Tôi đeo ba lô, bồi hồi bước trên con đường uốn lượn quanh những ngọn đồi đất đỏ. Những bụi hoa mua hoa sim tím lại, những chùm hoa xoan mọng nước lẫn trong mầu mây, những cánh hoa trẩu trắng trên cây và rải trắng mặt đồi, tất cả đều khơi dậy trong tôi những kỷ niệm xốn xang về những năm tháng đã cùng lớn lên, cũng sống với Thu khi em mười tuổi...
Thu đã đón tôi một cách thật là bồng bột. Em đang vo gạo. Thấy tôi bước vào cổng, em quăng cả rá gạo, reo lên, chạy ù ra nắm chặt lấy hai tay tôi mà lắc: "Anh Dương! Anh Dương! Mẹ ơi, anh Dương về!...". Rồi trước mặt cả mẹ tôi, mẹ Thái, Thu đỡ ba lô từ vai tôi xuống, quạt cho tôi, múc nước cho tôi rửa mặt. Em nắm tay tôi, nhìn chăm chắm vào mắt tôi, cười: "Anh đen đi bao nhiêu! Anh có nhận được thư em mới viết không?". Tôi trả lời chưa nhận được vì đơn vị chuyển địa điểm trú quân, chắc là thư đến trễ.
Bữa cơm tối đó, Thu hầu như không ăn mà chỉ ngồi nói chuyện líu lo và gắp cho tôi. Dưới ánh đèn, nom Thu càng đẹp. Người em dỏng cao, chắc lẳn; hai con mắt to, đen nhánh. Thu nhìn tôi, lộ rõ niềm vui rạng rỡ và sự cảm mến không che giấu. Có lúc không chịu nổi cái nhìn ấy, tôi bối rối cúi đầu xuống mâm cơm hoặc quay sang hỏi chuyện mẹ tôi. Thu có đôi môi mỏng, hồng, hơi "đanh đá", nhưng khi em cười thì quả thực tôi chưa hề thấy cô gái nào có sự hồn nhiên trong sáng đến như vậy. Bao giờ tôi cũng chịu thua trước cái cười ấy, và chẳng khi nào giận được Thu lâu.
Sau bữa cơm, Thu dẫn tôi đi chào thăm các bạn bè và gia đình trong xóm. Hai đứa đi trong bóng tối dìu dịu mùi hoa xoan, hoa bưởi. Chốc chốc Thu dừng lại, hỏi tôi có nghe tiếng chim gọi vịt kêu không. Tôi bảo có. Thu nói, giọng rầu rầu: "Như tiếng ai gọi ấy, anh nhỉ...". Thế là từ đấy, tiếng chim gọi vịt vời vợi khi xa khi gần mùa xuân nào cũng gợi cho tôi nhớ đến Thu, một nỗi nhớ giằng xé gần như là một nỗi đau không bao giờ dứt...
Tôi đã đi xa câu chuyện mất rồi! Anh uống nước đi, để tôi xin kể tiếp anh nghe.
Tối hôm ấy, tôi và Thu đi quanh xóm xong, trở về nhà, thì vừa gặp mẹ tôi tiễn mẹ cậu Quyền ra cửa. Thu lảng ngay xuống bếp.
Mẹ tôi ra hiệu cho tôi ngồi vào bàn để mẹ tôi nói chuyện. Mẹ cho biết cha mẹ Quyền muốn xin Thu về làm dâu. Theo ý mẹ, Quyền là một thanh niên đứng đắn, sáng sủa, đã có nghề nghiệp, lại là con trai độc nhất của gia đình tử tế, đủ ăn; nếu lấy Quyền thì Thu sẽ sung sướng.
Tôi ngồi im lặng, cúi đầu nghe mẹ tôi nói. Tôi không thể cất tiếng hỏi mẹ, cũng không thể trả lời, chỉ nghe rõ tiếng trái tim mình đập vội. Cuối cùng, mẹ tôi nắm lấy vai tôi, nhìn vào mắt tôi: "Con đã chẳng nhận xét Quyền là một người chân thật, hiền lành, có thể tin cậy được trong thư con viết cho mẹ là gì?... Và chính con đã nói với Quyền rằng con ưng nhận nó làm em rể, có đúng thế không?...
Tôi giật thót mình. Với một phản ứng tự nhiên, tôi cãi: "Mẹ ạ, đó là con nói đùa!... Với lại, cái chính là phải tùy em Thu chứ!".
Mẹ tôi hạ thấp giọng, nói run run: "Mẹ biết hai anh em con rất... quý nhau. Chính vì mẹ muốn giữ cho tình anh em thương nhau, quý nhau lâu dài, mà mẹ thấy cần để cho Thu đi lấy chồng, con ạ...".
Mẹ tôi vừa nói tới đây thì cánh cửa buồng bật mở tung. Thu từ trong buồng ôm mặt chạy vụt ra, vừa chạy vừa khóc tấm tức. Thì ra em đã từ bếp lẻn vào buồng nghe rõ hết đầu đuôi câu chuyện.
Hai mẹ con tôi đuổi theo Thu, đến gần bờ nông giang mới giữ được Thu lại và dắt Thu về.
Hôm sau, Thu đùng đùng lên cơn sốt. Em vật vã, nói mê lảm nhảm. Mẹ tôi cuống quýt đun nước xông, đánh gió cho em.
Xế chiều em đã tỉnh. Tôi bưng bát cháo đến cho em ăn. Em nằm thẳng ngay ngắn, đầu hơi ngả về một bên. Mẹ tôi đắp cho em một tấm vải đỏ lâu nay vẫn dùng để dán khẩu hiệu trong các cuộc họp - mẹ chẳng có cái chăn đơn nào!
Thu nằm im, lim dim mắt. Má em đã hồng trở lại. Tôi đứng lặng ngắm em, nhìn mầu đỏ của tấm vải khuôn lấy thân hình thon nhỏ của em... Và bỗng nhiên nhói lên trong tôi một sự thật bấy lâu ủ kín: tôi yêu Thu, tôi tha thiết yêu Thu! Tôi muốn kêu to lên điều ấy, ngay lúc này đây, để cho Thu và mẹ tôi cùng biết.
Như đón được ý nghĩ của tôi, Thu từ từ mở mắt. Em đưa bàn tay ra cho tôi nắm, và nước mắt em trào ra câu nói: "Thôi, anh... Thôi, anh đừng nói nữa... Em hiểu hết cả rồi... Ðiều gì anh và mẹ muốn, thì em sẽ làm theo... Em đã làm phiền mẹ và và anh nhiều lắm rồi mà!...".
Thu rút phắt bàn tay lại. Và tôi đứng sững sờ, chết lặng khi Thu òa lên khóc.
*
* *
Hết phép, tôi trở lại đơn vị như một kẻ mất hồn, Thu bắt tôi mang theo hai quả dừa và một gói xôi lạc thật to, nhưng em chỉ tiễn tôi ra đến đầu ngõ.
Tới nơi đóng quân, tôi nhận được lá thư đến chậm của Thu. Lá thư gần như công khai bày tỏ tình yêu của Thu đối với tôi, và cười cợt ý định cầu hôn của Quyền.
Sự việc éo le như vậy đấy, anh ạ. Lá thư như ánh sáng một ngôi sao đến chậm, nhưng mãi mãi chiếu nhói vào tim tôi, không khi nào tắt.
Cuối năm 1957, mẹ tôi viết thư báo tin và gọi tôi về dự đám cưới Thu vào ngày 27 tháng 12. Quyền cũng viết thư cho tôi một bức thư tràn đầy hạnh phúc, và không quên ngỏ lời cảm ơn tôi đã giúp đỡ anh trong việc xây dựng gia đình! Riêng Thu không viết cho tôi, dù chỉ là một chữ.
Tất nhiên tôi không thể về dự đám cưới. Tôi gửi một số tiền dành dụm được cho mẹ tôi, và một tấm vải dù mừng Thu. Ngày 27 tháng 12 đối với tôi trở thành ngày kỷ niệm đau buồn. Tôi biết giận ai trong chuyện này được? Giận Thu ư? Giận mẹ tôi ư? Hay là giận chính tôi?
Sau đó, tôi nhận được thư của Thu đề ngày 1 tháng 1 năm 1958. Thu chúc mừng tôi năm mới, và viết: "Anh Dương ạ, từ nay em sẽ vĩnh viễn là em gái của anh. Ðược mẹ cho phép, em đã đổi từ họ Nguyễn - họ khai sinh cũ - sang họ Ðỗ, họ của cha chúng ta. Em thích như thế, anh bằng lòng chứ?".
Thế là hết đầu đuôi câu chuyện... Bây giờ thì anh đã rõ tôi đến đây cốt để sống lại những kỷ niệm xa xưa. Và chắc anh vừa nghe vừa thầm "khen" tôi là khéo giữ kín câu chuyện tâm tình đến thế. Ðúng như vậy, suốt những năm dài cùng anh lặn lội ở chiến trường B, không mấy khi tôi không nhớ đến Thu, nhưng chưa bao giờ tôi kể cho anh nghe về Thu cả. Lần này tình cờ gặp anh ở đây, thật là dịp may để tôi "trả nợ" anh.
Anh uống đi, cà phê tôi mang theo đấy. Ðêm xuân như thế này ta có thao thức ít ngủ đi một chút cũng là phải lẽ thôi.
Tôi chuyển ngành từ sau 75, anh ạ. Trong một chuyến công tác ở Sài Gòn, tôi có lần theo dấu vết của cha Thu - người cha đã bỏ con bỏ vợ, "dinh tê" vào Hà Nội bị tạm chiếm năm 1948 ấy. Tôi đã gặp được ông ta. Ông ta là chủ một tiệm bán vải - hay nói cho đúng hơn, là chồng của bà chủ tiệm bán vải. Ông ta to béo nhẵn nhụi, ăn mặc chải chuốt, suốt ngày im lặng đứng bán hàng cho vợ như một kẻ làm công. Ông ta chẳng có nét gì giống Thu cả. Chính vì thế, hoặc do một mối ác cảm ngấm ngầm đối với ông, nên tôi chỉ trò chuyện qua loa như một người khách mua hàng, mà không nhắc gì đến cô Mai và Thu hết.
Anh Năm, anh đừng nóng ruột! Tôi sẽ nói nốt những điều anh cần biết: Thu và Quyền hiện đang sống ở Lâm Ðồng, hai vợ chồng đều dạy học và đã có hai con, một trai một gái. Thu đã đón mẹ tôi vào trong đó, nhà Thu có vườn rộng lắm. Mẹ tôi đã trên sáu mươi rồi, yếu rồi. Năm nào bà cũng giục tôi lấy vợ, nhưng tôi đành chịu, chưa làm theo được ý muốn của bà!... Có những cô mến mình, nhưng mình không ưng, lôi thôi thế!...
Anh Năm, anh có nghe thấy không?... đấy, tiếng chim gọi vịt đấy!... Thôi, anh đi nghỉ đi. Ðể mặc tôi ngồi một mình. Tôi không ốm đâu, anh đừng lo.
4-1982
Một tối ở quán Bar
Phan Triều Hải
Tôi nhớ là chưa bao giờ mình có được một đêm Trung thu nào cho ra hồn ở đất Sài Gòn này ngoài việc năm nào cũng như năm nào đầu óc luôn bận rộn suy tính quanh quẩn với mấy loại bánh nướng, bánh dẻo, nhân đậu xanh hay nhân thập cẩm, một trứng hay hai trứng, vi cá hay gà quay. Mà như thế nào đã đủ nhàm chán. Suốt mười mấy năm ở đây, tôi thấy cũng chẳng có mấy dịp trẻ con được cầm lồng đèn giấy chạy ra ngoài hưởng một Trung thu khô ráo. Hiếm hoi lắm. Và đêm nay chắc cũng thế thôi, chắc cũng như năm ngoái, như năm kia, mà không chừng lại có phần thê lương hơn, bởi mưa đã bắt đầu tầm tã từ hai hôm trước, chừng mười hai âm lịch kéo dài cho đến tận bây giờ. Mưa cho tới tận tối, khi tôi vào quán. Tôi phải chạy men theo cái hành lang hẹp tí xíu lợp mái rơm có nước nhỏ thành dòng, mà nhớ một cái thống kê khoa học mới công bố gần đây rằng, khi bạn thong thả đi bộ trong mưa thì sẽ nhận một lượng nước nhiều hơn khi bạn chạy từ ba mươi đến bốn mươi phần trăm, nói nôm na là sẽ bị ướt nhiều hơn. Và trong lúc tôi vừa đi vừa nghĩ xem làm thế nào có thể từ mái hiên ấy chạy băng qua sân để vào được quán mà ít bị ướt nhất thì một giải pháp giản dị xuất hiện ngay trước mặt với cái mặt dài và một nụ cười đầy vẻ nghề nghiệp. Anh chàng phục vụ quen thuộc cũng y như lần cuối cùng gặp tôi, mái tóc dợn sóng và phong cách nhanh nhẹn, đứng đón ngay từ cuối lối lên đi với một chiếc ô căng rộng và áy náy bảo như thể đó chính là lỗi của anh ta "Chà, mưa gì mà lớn quá chừng".
Quán hôm nay chỉ có mỗi hai người phục vụ, người kia trông có vẻ lớn tuổi và lặng lẽ mà tôi không quen. Tôi tự tìm chỗ ngồi bên cửa sổ. Bên ngoài trời đang đổ nước xuống một cái sân vắng tanh buồn hiu buồn hắt. Suốt từ sớm tinh mơ, bầu trời đã nhuốm một mầu mờ mờ mịt mịt y như mầu của mùa mưa bão miền trung, khiến không thể nào nhận ra được dáng vẻ của một thành phố lúc nào cũng sắc sảo với nắng, với gió, với khô hanh và khói bụi xe cộ qua lại ào ạt trên đường. Hồi sáng, tôi vào công ty, câu đầu tiên chào mọi người là: "Trung thu ở đây chán thật, năm nào cũng mưa lê thê". Lúc ấy, ai cũng ngẩn người ra, rồi tròn xoe mắt nhìn trời, rồi cố bới móc trong cái trí nhớ già nua và hờ hững của họ xem liệu Trung thu năm trước có thật là đã mưa không, rồi đưa ra một cái kết luận ba phải: "Làm gì có chuyện đó". Tôi không cãi được, bởi phải từng trải qua một đêm Trung thu thực sự thì người ta mới biết mình thiếu gì. Họ ít ra cũng đã từng được hưởng những mùa Trung thu năm nào cũng hứa hẹn như năm nào, trời khô mà xanh đen ngăn ngắt. Phía trên thành cổ, trăng từ từ lên như một ngọn đèn lồng đong đưa soi bóng xuống ao hồ, rót đầy thứ ánh sáng hư thực ấy vào những lá sen có phủ một lớp lông tơ mịn màng, khiến quanh đó ếch nhái bị đánh động bắt đầu cất tiếng, rộ lên nhịp nhàng bất tận như ru. ÍT RA HỌ CŨNG ÐÃ TỪNG ÐƯỢC ÐI CHÂN trần trên những con đường đất lạnh, ngoằn ngoèo luồn qua xóm này, xóm nọ, trên tay bập bùng ngọn đuốc tỏa ra một mùi khói thơm thơm, cay cay, nồng nồng của thứ lửa rất đượm từ lá. Và thế là trong tiếng trống rộn ràng, một Trung thu nữa đến, dịu dàng thơ mộng như mọi lần, như một giấc mơ giản dị hiện ra trong một không gian khô ráo, trong vắt, huyền hoặc.
Tôi cứ nghĩ lan man như thế cho đến khi người phục vụ quay lại:
- Anh uống gì? - Anh ta hỏi.
- Như mọi lần.
   - À, tôi nhớ ra rồi - Anh ta ngẫm nghĩ một chút rồi đáp.
Lúc ấy, một thanh niên đẩy cửa bước vào, trông dáng vẻ rõ là khách quen, theo sau là một thiếu nữ gọn gàng trong chiếc áo tay ngắn màu ngà và chiếc váy ngắn, để lộ đôi chân thon thả. Cả hai dừng ở giữa quán, nhìn quanh như tìm chỗ ngồi rồi đi về phía quầy bar nơi có treo ngược mấy hàng ly trong suốt khô khốc và những chiếc ghế cao đứng im lìm như thể được đặt ở đó chỉ để trang trí. Tôi không thể rời mắt khỏi đôi chân của thiếu nữ, đôi chân thon mảnh và đầy đặn, đang thả xuôi dưới ghế. Bao giờ tôi cũng cho rằng, cái mà phụ nữ được tạo hóa ban cho hào phóng nhất, không phải là khuôn mặt, mắt hay mũi, mà là đôi chân. Và một phụ nữ đẹp trước hết phải là người có đôi chân đẹp. Ở CÔ GÁI NÀY, ÐÔI CHÂN ẤY như có hồn, chúng cứ thong thả đan vào nhau, rồi lại duỗi ra nhè nhẹ, tất cả cứ khoan thai phối hợp có vần điệu. Cái bắp chân mịn màng thon dài xuống gót, thắt lại nhè nhẹ ở đó như thắt một cái eo, như cấu tạo của một hợp âm, rằng trưởng thì phải như thế, thứ thì phải như thế. Người phục vụ nói:
- Anh đã chọn được chỗ ngồi tốt.
- Tôi cũng nghĩ như thế. - Tôi đáp, cái gót chân hồng hồng xinh xinh đang chuồi ra khỏi chiếc giày chật chội.
- Ngồi ở đây anh có thể nhìn ra khắp trời. - Anh ta tiếp tục.
- Ðể làm gì?
- Ðể ngắm nguyệt thực. - Anh ta nói, tay thắp ngọn nến trên bàn. - Sẽ có nguyệt thực toàn phần ngay chính đêm nay, đêm Trung thu. Vậy có lạ không chớ.
Khi người phục vụ đi vào trong thì tôi ngồi nghĩ xem nguyệt thực nghĩa là gì. Là mặt trời, trái đất và mặt trăng cùng vướng phải một sợi chỉ giăng ngang giữa thiên hà, nhưng cái nào trước, cái nào sau, cái nào ở giữa thì lẫn lộn rối rắm cả. Ngày xưa quả thật tôi có đọc một vài cuốn khoa học thường thức về những hiện tượng như vậy, nhưng không hiểu gì mấy ngoài cảm giác buồn bã nhẹ nhàng về thân phận nhỏ nhoi của mình trên cõi đời này. Lúc ấy tôi nghĩ thôi, không quan tâm đến những sự kiện siêu nhiên ấy nữa vì bao giờ chúng cũng khiến cho tôi có cảm giác vô nghĩa bởi sự bất lực của mình. Mà vô nghĩa là một cảm giác tệ hại. Thế nhưng tôi đã lo xa, về sau này những đề tài ấy đôi khi tôi đọc phải mà chẳng mảy may xúc động. Cảm xúc của tôi đã khác, khác như vậy đó, trơ ra.
- Lâu quá - anh không ghé chơi. - Người phục vụ quay lại. - Gần một năm rồi, phải không. Tôi nhớ lúc ấy trời mưa. - Anh ta đưa tay áo lướt qua mặt bàn một lượt, như đảm bảo tất cả đều đang sạch sẽ khiến ngọn nến rụt lại một màu xanh trong suốt như ngọc. Bây giờ trời cũng mưa. Hay thật.
- Có lẽ sẽ mưa suốt đêm.
- Không, nó sẽ tạnh ngay thôi. - Anh ta nói, đặt tách lên bàn.
- Ai mà biết được. - Tôi nói.
- Chắc chắn là sẽ tạnh. - Anh ta quả quyết.
- Tôi chẳng thấy có đêm Trung thu nào mà không mưa.
- Vâng.
Suốt hôm nay, không có ai đồng tình với tôi một cách nhẹ nhàng như vậy.
- Vậy thì, tối nay cũng sẽ mưa suốt đêm cho mà coi. - Tôi nói.
- Không. Ðêm nay có nguyệt thực. - Anh ta nhắc lại. - Nguyệt thực toàn phần. Làm sao mà trời mưa suốt được trong khi ai cũng muốn xem cái sự kiện này.
Tôi ngả người ra ghế. Nguyệt thực là cái quái gì mà phải bận tâm như vậy chứ. Sao mà nhạt nhẽo quá chừng, nếu không có ai đó trò chuyện tôi chắc chết đi được vì chán chường. Tôi nói:
- Anh ngồi chơi cho vui.
Anh ta chỉ chờ có thế, kéo ghế ngồi. Tôi hỏi:
- Anh uống gì?
- Không. Tôi chỉ ngồi một lát. - Anh ta đáp.
- Một đêm Trung thu buồn hiu như thế này thì người ta uống gì? - Tôi lại hỏi.
- Trà nóng.
Tôi gọi người phục vụ kia:
- Cho một tách trà nóng.
Anh ta nhổm dậy:
- Ðể tôi tự làm lấy cũng được.
- Tại sao?
- Tôi không quen.
- Có gì mà không quen. Tôi mời anh mà. Anh chỉ cần gọi "cho một tách trà nóng" là xong.
- Không đơn giản. - Anh ta lầm bầm.
- Tôi kể anh nghe chuyện này, hồi sáng, có một tay người nước ngoài làm việc chung với tôi thu xếp đồ đạc để về nước. Y gói ghém tất cả vào một thùng giấy thật to và bảo tôi: "£, kiếm cho tao băng keo dán". Tôi đi kiếm băng keo dán. Sau đó y ngồi trên ghế, tay hút thuốc, hai chân kẹp thùng giấy, còn tôi cúi xuống dán hết mọi ngóc ngách cái thùng ấy, mà nghĩ, vì sao ta phải làm cái việc vặt này mà nó không làm. Ðây là cái thùng giấy của nó, nó phải tự lo chớ. Nhưng y lại bảo tiếp, "Làm ơn kiếm giúp sợi dây buộc để làm quai". Thế là tôi đi vào kho tìm một sợi dây, mặc dù ấm ức lắm rồi. Khi buộc cái thùng cho y, tôi tự bảo, sao mày ngu thế, rõ ràng là vừa ngu vừa hèn. Nhưng đến khi tôi thắt cái quai cho y, thì tôi nghĩ, cái thùng giấy này nặng thật, nó mà nói mình khiêng xuống nhà thì phải làm sao đây. Chính lúc ấy, y nói "Cái thùng giấy này không nặng lắm đâu. Lát nữa đem giúp xuống nhà dưới nhé". Lúc ấy, đột nhiên chẳng nghĩ ngợi gì cả, tôi nói, giọng rất to, "Không, đó là việc của mày, không phải việc của tao". Y sững người, dụi tắt điếu thuốc, và tự tay xốc cái thùng giấy ấy lên, sượng ngắt mà nói "Thôi tôi đi đây. Cám ơn nhiều". Tôi thấy vậy đó. Giống như anh gọi một tách trà. Bất cứ chuyện gì mà anh không tự tin được, anh hãy xử sự như thể anh đang gọi một tách trà. "Này, cho một tách trà".
- Nhưng ngay cả một tách trà tôi cũng không gọi được.
- Khi gọi, anh không nên suy nghĩ nhiều.
Chúng tôi cứ ngồi như thế một lát nữa mà không nói chuyện gì. Nói chung, tôi cần có người ngồi bên cạnh nhưng lại không muốn phải nói chuyện. Bên ngoài, nước theo mái rơm từng dòng nhỏ xuống. Những ghế ngồi rải rác trên lối đi trải sỏi đọng nước LẤP LÁNH. Ở BÀN TRONG, ÐÔI thanh niên ấy vẫn ngồi im lặng. Cô gái khoanh tay trước ngực, cái lưng mảnh dẻ có buộc một chiếc áo khoác ở cái eo nhỏ. Ðôi chân cô vẫn duỗi ra như thế, thanh thoát, sang trọng. Quả là một đôi chân có hồn. Một đôi chân mà người ta càng ngắm càng yêu.
- Ðêm nay quán mở cửa đến mấy giờ?
- Có lẽ suốt đêm.
- Thật à. Nếu thế thì tôi sẽ ngồi suốt đêm.
- Vâng. Nguyệt thực sẽ diễn ra vào lúc không giờ ba mươi phút sáng.
Tôi ở lại vì chuyện khác. - Tôi nói. - Tôi chỉ muốn ngắm đôi chân kia. Một đôi chân quá đẹp, phải không.
Người phục vụ đưa mắt thờ ơ nhìn.
- Không.
- Tại sao. Ðó là một trong những điểm hấp dẫn nhất ở phụ nữ.
- Nhưng tôi không thích những ngón chân để trần. - Anh ta nói.
Tôi ngắm cái bàn chân đang rất là thảnh thơi ấy.
- Những ngón chân ấy cũng đẹp.
- Không. Không có những ngón chân đẹp. Ngón chân là một món thừa thãi, không nên để trần trụi ra ngoài.
- Vì sao?
- Tôi không biết vì sao. Nhưng những ngón chân lúc nào cũng khiến tôi có cảm giác về sự trần tục. Chúng trông có vẻ xác thịt.
- Trời đất. - Tôi nói. - Sao anh chỉ thấy có vậy.
- Anh cũng có thể mua đôi chây ấy đấy, nếu anh muốn. - Người phục vụ nói. - Nhưng mà thôi, tôi đi lấy thêm trà đây. Anh có cần uống thêm gì không.
- Không. Cảm ơn.
Dưới ánh đèn vàng phủ lên tường vàng, bàn chân ấy trông nhẹ như một chiếc khăn mỏng ai đó xếp lại rồi bỏ quên trên sàn. Những ngón chân tựa vào lòng giày như đang nghỉ ngơi, đơn giản như thể ta đang cần hít khí trời, ta mở cửa sổ ra và đứng tựa đấy một lát, thư giãn. Nhưng tôi hiểu anh ta, tất cả chỉ đơn thuần là cảm giác mà thôi, như ngày xưa học nhạc, tôi bao giờ cũng có một liên tưởng kỳ lạ rằng nốt ré phải có màu nâu, và nốt la có màu trắng. Ðôi khi như vậy đấy, không thực, nhưng cũng không nhất thiết phải giải thích gì.
Người phục vụ đi ngang đôi thanh niên ấy, dừng lại một lát cái cằm dài tận tụy gập xuống kẹp chặt chiếc nơ nhỏ. Thiếu nữ vẫn ngồi như thế, tay tựa trên quầy. Cánh tay ấy cũng đẹp, mái tóc thả sau cũng đẹp, đôi vai áo và cái lưng cong nghiêng dịu dàng về phía trước cũng đẹp. Tôi yêu những dáng ngồi trầm tư như thế. Chúng trông vừa sang trọng vừa gần gũi. Một điều hiếm hoi. Người phục vụ trở lại với chiếc tách tỏa hơi nghi ngút trên tay.
- Có chuyện này không biết phiền anh không.
- Chuyện gì?
Anh ta hạ giọng.
- Tôi đem đôi chân ấy về cho anh đấy.
- Tôi không hiểu.
- Anh ngạc nhiên à. Ðôi khi cũng có những điều ta muốn là được.
Tôi sốt ruột.
- Thôi, đừng dài dòng nữa.
- Họ muốn được ngồi cùng bàn với anh.
- Ðể làm gì?
- Ðể ngắm nguyệt thực.
Trong tôi có một cảm giác lạ lùng đang đến.
- Vậy thì anh mời họ qua đây đi.
Thiếu nữ ấy có một cái gì đó quả thật đặc biệt, nàng như có một sức hút kỳ lạ ở dáng đi, ở cánh tay đong đưa, ở cái cổ cao, hay ở đâu đó nữa mà tôi không rõ. Tôi chỉ biết là tôi đứng đó, kéo chiếc ghế cho nàng, và người thanh niên kia lên tiếng "Cám ơn", giọng nhẹ nhàng lạ lùng rồi hướng về phía nàng anh ta giới thiệu, "Ðây là em gái tôi. Hôm nay nó muốn ngồi bên cửa sổ". Thiếu nữ nhìn tôi chào, đôi mắt đen, rất sâu. Tôi nói "Không có chi. Tôi cũng không muốn xem nguyệt thực một mình" và thế là tất cả cùng ngồi quanh cái bàn quay ra cửa sổ. Những song cửa lấp lánh một màu kỳ lạ trong ánh sáng nến đang tàn dần.
- Hình như trời đang tạnh. - Người phục vụ nói.
Từ mái rơm bên ngoài, nước không còn chảy xuống thành dòng nữa mà đu đưa từng giọt ngắt quãng. Và trên cái nền khuya khoắt của đêm trước, nước thả từng giọt lên lối sỏi nghe tí tách nhè nhẹ, nghe như tiếng chim sẻ vào những trưa hè nhảy nhót đôi bàn chân gầy guộc trên mặt sân xi-măng nóng bỏng trước sân nhà, gõ những cái mỏ mảnh dẻ như vỏ trấu lách tách tìm từng hạt cỏ, hạt thóc lẫn trong khe nứt. Người thanh niên nói.
- Nguyệt thực sẽ bắt đầu từ không giờ ba phút.
- Ðúng như vậy. Người phục vụ vui vẻ. Tôi sẵn sàng tiếp quý vị trong suốt ba tiếng đồng hồ sau đó.
Tôi nhìn đồng hồ.
- Liệu có ai ngồi xem nổi suốt thời gian ấy không?
Người thanh niên quay sang thiếu nữ, ân cần.
- Chúng tôi sẽ xem suốt đêm.
Thiếu nữ im lặng, mắt đăm đăm nhìn ra ngoài. Người thanh niên nói tiếp, một kiểu nói chuyện lơ mơ lạ lùng.
- Em tôi muốn thấy trăng sẽ sáng trở lại.
- Ðiều đó là chắc chắn rồi. - Tôi nói. - Mọi người sẽ được thấy cảnh tượng ngoạn mục cuối cùng của thế kỷ này.
- Ngoạn mục à? Không đâu, nguyệt thực là một điều không hay.
Anh ta phản đối, giọng nghiêm nghị.
- Tại sao phải tin chuyện đó? - Tôi nói.
- Tôi không biết. Nhưng một cái gì đó đang sáng tự nhiên bỗng bị che lấp đi, đã là một điều bất thường.
- Ừ, cũng có thể nghĩ như vậy lắm. - Tôi nói.
Người phục vụ nhỏm dậy.
- Có phải cái bóng đen ấy không, nó xuất hiện rồi kìa.
Trên cái nền khúc khuỷu đường nét của những mái nhà, mặt trăng xuất hiện cô độc một mình, tỏa ra một thứ ánh sáng phồn thịnh mà xa lạ, và bên cạnh đó là một khối đen như một đám mây đang trườn đến, chạm ở phần mép sáng nhất. Bóng đen ấy dần dần đi vào, rất chậm rãi, chiếm cái đĩa bạc sáng tươi ấy từng chút một. Người phục vụ nhẹ nhàng đứng dậy bước ra phía cửa lớn, chiếc khăn trắng nhàn nhạt vắt rất nền nếp trên tay. Anh ta ngước nhìn chăm chú ra ngoài, cái cằm dài hất lên, bất động. Trên bàn, ngọn nến leo lét ánh xanh sắc sảo cuối cùng lịm dần nhường chỗ cho một thứ ánh sáng đang chết dần khác, ánh sáng của trăng vằng vặc đang chết dần một nửa. Chính vào lúc ấy, khuôn mặt của người thanh niên ngồi bên cạnh tôi hóa ngây ra.
- Vậy là nó bắt đầu rồi đó. - Anh ta thì thầm.
- Ừ, nó bắt đầu rồi đó. - Tôi nói.
- Nó lại bắt đầu ngay chính vào đêm Trung thu. - Anh ta nói, giọng đều đều. - Anh biết không, Trung thu là đêm mà chúng tôi có cảm giác bao nhiêu điều tồi tệ nhất trên đời này sẽ được gột bỏ. Thật đấy, bao nhiêu chuyện xấu xa sẽ được gột bỏ.
Tôi nhìn người thanh niên, không hiểu anh ta nói gì. Tôi đang thư giãn, tôi đang muốn duỗi cả thân mình ra trong cái ghế êm ấm này bên cạnh một thiếu nữ xinh đẹp như nàng, và như thế là đủ. Tôi không thích nói nhiều, mà tôi cũng không thích phải nghe ai nói nhiều. Nói chung ai ai cũng có thân phận của mình, ai ai cũng có nỗi niềm riêng thì chỉ thích hợp để cất giữ trong một ngóc ngách nào đó.
- Tôi chỉ thấy một điều là đêm nay đang tàn. - Tôi nói.
- Anh thấy nó đang tàn thật à?
- Ý tôi nói thế là hết một Trung thu. Xong.
- Với tôi thì nó còn quan trọng hơn thế. Không đơn giản là xong một đêm. - Anh ta nói. - Một đêm như thế này thật là đặc biệt.
- Tôi thì chẳng thấy có gì đặc biệt. - Tôi nói. - Nó cũng như mọi đêm khác thôi.
- Khác lắm chứ. Bởi vì khi nhìn lên mặt trăng của một đêm như thế này thì không ai có thể tự cho rằng mình có thể trong sáng như nó được. Không ai có thể kiêu hãnh mà nói rằng mình không có tỳ vết gì. Lúc ấy, tất cả mọi người đều như nhau, đều được sinh ra như thể ghé ngang qua đây một cách tạm bợ. Và nếu cứ nhìn mãi như thế thì sẽ thấy trên đời này không có ai mất mát gì, cũng không ai được thêm gì. Nhìn lên trời, sẽ thấy bình yên. - Anh ta ngừng một chút rồi tiếp. - Và chỉ cần bình yên mà thôi.
Thiếu nữ vẫn ngồi im lặng, cái ngực xinh xắn tựa lên bàn, đôi mắt không hề chớp hướng lên phía trăng lúc này chỉ còn là một lưỡi liềm mỏng, hai bàn tay nàng chắp lại, những ngón tay mảnh dẻ lắm.
- Tôi lại không thấy được những điều như anh. - Tôi nói.
- Có gì đâu, anh cứ nhìn lên đó, và đừng nghĩ gì cả thì anh sẽ hiểu.
- Có thể. Nhưng tôi phải về. Khuya rồi.
- Anh xem giờ làm gì. - Người thanh niên nói, đưa tay lên. - Từ lâu tôi không đeo đồng hồ nữa, và thấy đó đúng là một sự giải thoát.
- Hôm nay tôi cũng đã được thư giãn. Ngày mai tôi phải đi làm.
- Lý do ấy chính đáng nhất trong mọi lý do. - Giọng anh ta vẻ châm biếm.
- Lý do đó thống trị đời sống mọi người. - Tôi đồng ý.
- Nhưng không phải của chúng tôi. - Anh ta nói ngay.
Tôi rất không thích kiểu đôi co như thế này. Tôi đứng dậy, nhìn thiếu nữ một lần cuối. Nàng vẫn im lặng như từ lúc gặp.
- Cám ơn mọi người. Tôi về.
Người phục vụ mở cửa cho tôi, một làn không khí trong lành tràn đến đầy hơi nước. Anh ta đưa tôi ra cổng. Trên cao, bóng tối ấy đang nuốt phần còn lại của trăng. Tôi dừng lại ở đó một lát, hít đầy ngực một làn hơi, ngắm cái cảnh tượng mà suốt đêm bao người chờ đợi.
- Anh thấy thế nào? - Anh ta hỏi.
- Buồn ngủ.
- Không, tôi hỏi em gái ấy thế nào?
- Xinh lắm.
- Tôi biết ngay mà. Anh vẫn thích đôi chân của cô ta à?
- Chuyện ấy thì quan trọng gì?
- Quan trọng chứ. Bởi vì chúng tôi trả tiền để cô ta hằng đêm ngồi đó.
- Anh nói đùa?
- Không đùa đâu. Chỉ có điều thằng cha kia chỉ có vì vậy mà cứ ăn năn dằn vặt mãi. Y nói với anh nhiều lắm hả?
- Ừ.
- Y hơi điên điên rồi đó. Tôi thấy y càng ngày càng hơi điên điên.
- Ừ. CHẮC LÀ Y XÚC ÐỘNG.
- Cũng may là y còn đứa em gái ngoan ngoãn.
- Ừ.
- Anh thật sự thích cô ta chứ?
- Ừ. Tôi không thích những người nói nhiều. Tôi thích cái kiểu cô ta im lặng như vậy. Trông thật quyến rũ.
- Nàng hấp dẫn khách ở đây cũng nhờ thế.
Lặng im một lát, tôi nói mà lòng ngập đầy một nỗi thất vọng.
- Cô ta quả thật là giỏi.
- Có giỏi gì đâu. - Người phục vụ ngạc nhiên. - Y không hề nói gì với anh sao. Nàng đâu có nghe được mà cũng đâu có nói được. Nàng bị câm mà.
Tôi vịn tay vào cổng, cảm thấy thép đang rỉ ra ướt át, lầy nhầy. Trên cao, mặt trăng đang thoi thóp, nhúm ánh sáng lộng lẫy cuối cùng của nó đang bị bóng râm mạnh mẽ không gì cưỡng lại được ấy lấp hẳn. Tôi như thấy đó là đôi môi của nàng, đôi môi đang mím chặt nghiêm nghị, đôi môi ấy nhẹ và mịn cho dù chỉ được nhìn trong bóng tối. Tôi ngắm hình ảnh của trăng lúc ấy mà có cảm giác gần gũi với ánh sáng của nó hơn bao giờ hết, thấy như chính tôi đang vươn tay vuốt ve cái bề mặt sáng đẹp kiêu kỳ xa cách ấy, vuốt ve bằng bóng râm của mình, bóng râm của trái đất nơi tôi đang đứng đây, bóng râm của mọi người. Một cảm giác gần gũi, thân thiết lạ lùng.
Người phục vụ đứng phía sau tôi, hỏi:
- Anh về được chứ?
- Ðược.
- Cuối tuần ghé chơi nghe. Cuối tuần mới thú.
- Liệu có gì hay hơn nữa sao?
- Tôi không chắc. Nhưng có lẽ người đẹp sẽ cười.
Tôi suy nghĩ một lát.
- Ừ, tôi cũng muốn biết nụ cười của nàng như thế nào.
- Anh thấy chưa, phụ nữ hấp dẫn ở đôi môi chứ không phải đôi chân như anh nghĩ đâu. - Người phục vụ mỉm cười. Và càng hấp dẫn hơn khi đó là một đôi môi đẹp nhưng lại không bao giờ nói được.
10-1997
(Báo Văn nghệ)
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top