Chương 11: Chiến trường Trị - Thiên

(Lực - Bạch Dương, Thắng - Ma Kết, Liên - Cự giải)

Chiều xuống trên Trường Sơn, lán quân y lác đác vài ngọn đèn dầu leo lét. Sau một ngày dài đầy máu và mồ hôi, Thư ngồi một mình ở góc lán, tay run run mở lá thư vừa được giao liên chuyển đến. Bì thư đã nhàu nát, loang vết bùn, chữ ghi tên người gửi mờ đi, nhưng vẫn còn nhận rõ nét chữ quen thuộc: "Trần Quyết Thắng"

Thư nghẹn lại. Cả thân hình run lên, như thể một mạch máu trong người vừa được nối thông sau bao ngày đứt đoạn. Cô ép bì thư vào ngực, nhắm mắt, hít một hơi thật dài rồi mới dám mở.

Dòng chữ hiện ra, thô ráp, xiêu vẹo vì được viết vội trên mảnh giấy học trò:

"Thư à, Thắng đã vào thành cổ. Mới đặt chân tới, chưa qua sông Thạch Hãn. Ngày đêm nơi đây vọng lại tiếng bom đạn, Thắng biết, ngày mai, ngày kia thôi sẽ ác liệt lắm. Nhưng Thư đừng lo, anh còn sống là còn nhớ lời hứa: toàn thắng sẽ về, tìm người mà Thắng yêu."

Mắt Thư nhòe đi. Nước mắt rơi xuống, loang vào dòng chữ, khiến mực nhòe thành vệt. Cô ôm chặt lá thư, ngồi thẫn thờ thật lâu, cho đến khi Quyên bước vào, tay còn bê một rổ sắn luộc.

– Chị Thư, có chuyện chi rứa mà ngồi lặng thinh ri? – Quyên cau mày.

Thư mỉm cười, giấu nhanh lá thư vào túi ngực áo:
– Không có gì đâu em... chỉ là... tin nhà.

Quyên nhìn thoáng qua, chẳng hỏi thêm. Nhưng Vy, từ góc lán, khẽ thì thầm:
– Có phải... thư người thương không chị?

Thư đỏ mặt, quay đi. Câu hỏi ấy như lặng lẽ gieo vào đêm rừng Trường Sơn một nỗi xao động ngọt ngào, giữa khốc liệt máu lửa, cô nghẹn nghào:
– Ừa, anh đang ở Thành cổ đó em.

...

Trong khi đó, cách xa hàng trăm cây số, Thắng cùng đơn vị đang hành quân. Đất Trị – Thiên đỏ quạch dưới chân, trời ngột ngạt mùi khói bom, văng vẳng tiếng súng dồn dập từ phía Nam sông vọng lại. Tiểu đội của Thắng đang nghỉ trưa trước khi đến nơi đống quân

Thắng ngồi phịch xuống bên gốc cây, tháo mũ cối, mồ hôi chảy ròng ròng. Lực cũng ngồi cạnh, thở hồng hộc, cười khì:
– Anh Thắng, vậy là tụi mình sắp đánh thật rồi hả? Vui ghê!

Thắng trừng mắt:
– Vui cái gì? Chiến tranh là máu, là chết chóc đó. Mày còn nhỏ, biết gì mà ham.

Lực chỉ cười, đôi mắt sáng rực trong ánh lửa trại lập loè:
– Em biết, nhưng em muốn đứng trong hàng ngũ, muốn đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào. Dù có chết... cũng sướng hơn ngồi nhà.

Thắng lặng người. Nhìn Lực, cậu vừa giận, vừa thương, vừa xót. Thằng nhỏ mới mười sáu, gầy nhẳng như cây tre non, vậy mà cứ đòi làm người lớn, đòi chém, đòi giết. Trong tiếng dế kêu rỉ rả, Thắng siết chặt tay khẩu súng, lòng nặng trĩu, nếu như có hoà bình...

Trời Trị – Thiên đầu hạ oi bức, mây vần vũ như dằn xé. Đêm nào cũng có tiếng pháo bầy nện xuống ràn rạt, đất dưới chân rung lên từng chập. Mặt đất đỏ quạch loang máu và bùn, những thảm cỏ khô loang lổ vết cháy sém, hôi ngai ngái mùi khói, mùi thuốc nổ, quyện với mùi xác súc vật chết đâu đó chưa kịp chôn.

Thắng bước lầm lũi bên Lực, ba lô nặng chĩu, súng đập lưng cồm cộm. Họ đang trong đội hình hành quân men theo đường làng đã tan nát vì bom. Những ngôi nhà tranh cháy nham nhở, vách đất sụp xuống thành đống, khói vẫn âm ỉ bốc ra.

Một ông cụ già lưng còng lom khom bên đống gạch vụn, đôi mắt mờ đục, miệng lẩm bẩm:
– Mi đốt, tau dựng lại... mi đốt nữa, tau lại dựng nữa...

Không ai trong đoàn dám dừng lại, nhưng tất cả đều ngoái nhìn. Hình ảnh ấy như hằn vào mắt, làm tim nặng thêm một nhịp. Chỉ có chỉ huy là vội vàng kêu ông đi sơ tán.

Lực khẽ thì thào, giọng căm phẫn đến lạ:
– Rồi em sẽ cho chúng biết.

Thắng không đáp ngay. Cổ họng nghẹn lại. Phải đi qua, phải nhìn tận mắt, mới thấy chiến tranh dữ dằn đến thế nào. Những bức ảnh, những lời thầy giảng trong giảng đường khoa sử ngày nào không thể nào sánh bằng mùi khét lẹt của thịt cháy, mùi tanh của máu thấm đất, và ánh mắt uất nghẹn của dân lành.

Đêm ấy, đơn vị đóng quân trong một ngôi nhà bỏ hoang ở làng ven sông. Căn nhà chỉ còn trơ mái rạ, một nửa mái đã sập, chái bếp bị bom khoét một lỗ sâu hoắm. Trăng mờ vằng vặc, hắt xuống khoảng sân gạch lốm đốm máu khô. Anh em trải tấm ni lông ra nằm chen chúc. Mồ hôi dính chặt vào da, muỗi vo ve vây quanh. Nhưng không ai ngủ nổi. Tiếng pháo nện bên kia sông dội sang, từng đợt, từng đợt, cứa vào màng nhĩ như tiếng trống thúc quân vô hình.

Các anh nằm sát nhau, chen chúc, trời rét buốt, họ ôm nhau mà ngủ, nhưng hầu như chẳng ai có thể chộp mắt nỗi, một phần vì tiếng pháo rền vang, một phần vì nơi đất ẩm ướt, muỗi kêu ra rả, khó chịu vô cùng.

Chỉ có Lực, vẫn hồn nhiên, ngủ ngáy o o. Thắng quay sang nhìn. Ánh trăng chiếu vào khuôn mặt non choẹt, sáng lên, lạ lùng thay, không hề sợ hãi mà lại đầy háo hức. Tim anh se thắt lại, sao mà thằng bé dũng cảm thế nhỉ?

Ngày hôm sau, cả đơn vị được lệnh đào công sự dọc bờ Bắc sông Thạch Hãn. Nắng chang chang, đất đỏ nặng trịch, mùi cỏ cháy khét lẹt xộc vào mũi. Đào một nhát cuốc là mồ hôi tuôn ra như tắm, trộn cùng bụi đất, chảy xuống cổ, rát bỏng.

Thắng hì hục xúc đất, đôi bàn tay phồng rộp. Anh ngẩng lên, thấy mấy cậu lính trẻ mặt lấm lem, trán đỏ gay, vẫn hò nhau:
– Nhanh lên cho kịp hầm trú ẩn! Bom nó quần thì chả kịp đâu!

Bỗng một trận pháo bầy rít tới. Đất trời nổ tung. Mấy người bị hất văng xuống hào, đất đá vùi lấp lên người. Ngay khi bom bắt đầu trút xuống, mọi người bỏ chạy tán loạn, nằm xuống hào để tránh. Duy chỉ có Lực là vẫn cứ tiếp tục đứng đó, giương đôi đồng tử mở to nhìn những chiếc máy bay trên bầu trời, dẫu cho trên đầu bom đã rơi ngay trước mắt, Thắng thấy thế thì vừa lao ngay đến Lực.

BÙM.

Thắng ôm chặt Lực, cả hai ngã dúi xuống bờ hào, tai ù đặc. Khi khói bụi tản ra, anh mới thấy cách đó không xa, một đồng đội nằm bất động, nửa thân trên còn, nửa dưới tan nát. Máu bắn tung tóe, hòa vào đất.

Lực chết lặng. Mặt tái đi, môi run run, không thốt nổi một câu. Thắng thì cắn chặt răng, tim như bị xé làm đôi, khoé mắt cay xè.

Ấy vậy mà mọi người lại lao vào cuốc đất tiếp ngay sau đó cho kịp tiến độ. Tiếng thở dồn dập, tiếng cuốc bổ chan chát, hòa lẫn tiếng bom rít, tiếng pháo xa gần, tất cả thành một bản nhạc hỗn loạn của chiến tranh. Lâu sau đó họ mới chôn cất người đồng đội tội nghiệp ấy.

...

Cuối cùng tiểu đội cũng đến bờ bắc sông Thạch Hãn, một buổi chiều âm u, gió hun hút thổi qua những lùm tre xác xơ. Nước sông chảy xiết, đỏ ngầu phù sa, loang ánh nắng chiều vàng úa. Trên bãi đất trống, bộ đội tập kết lại, chuẩn bị vượt sông. Ai nấy im lặng, vẻ mặt vừa căng thẳng lại vừa háo hức.

Thắng chỉnh lại quai ba lô, lòng khó tả. Bên cạnh, Lực cứ nghển cổ nhìn mặt sông, mắt sáng nhưng môi mím chặt. Thằng em mới mười sáu tuổi ấy, vẫn giữ cái tính hồn nhiên, nhưng Thắng biết, nó cũng run, cũng sợ như tất cả bọn họ thôi.

Ở mép sông, một người đàn bà trẻ đang lúi húi nhóm bếp. Mái tóc búi vội, áo bà ba bạc màu, tay thoăn thoắt đảo nồi cơm lớn. Cạnh đó là mấy nồi canh rau tập tàng, vài rổ cá vụn vừa vớt dưới sông lên.

Anh lính trong đơn vị khẽ thì thầm:
– Quái, ai thế nhỉ? Đàn bà con gái sao lại ở nơi chiến trường này?

Vừa nói tức thì thì cả đội lại quay sang nhìn, mắt ai nấy cũng ánh lên vẻ tò mò lạ thường người đàn bà nọ đang từng bước lại gần, đoạn, người đàn bà gù lưng gánh đồ đến chỗ các anh, khi đến thì mới ngẩng đầu lên. Khuôn mặt trái xoan ấm áp, trẻ trung đến lạ thường, đôi mắt đượm buồn, nhưng nụ cười thì dịu nhẹ.

Người đàn bà vừa bước đến thì vị chỉ huy đội đã chạy đến, anh cười cười:
– O Liên! Chị lại mang cơm đến đây à?

– Ừ, nay ngày đầu có tiếp viện, tui muốn đem chút đồ ăn cho các chú bộ đội ăn cho có sức mà đánh.

– Thế cảm ơn O nhé! Các đồng chí lại đây ăn cơm này!

Thế là cả bọn lại ồ lên. Thì ra người phụ nữ trẻ ấy là một "anh nuôi", đem cơm đến cho bọn họ ăn. Sáng giờ đào hào cuốc đất, họ đã đói lã đi rồi, giờ được ăn cơm thì còn gì bằng! Cả bọn vội chạy lại chỗ người phụ nữ, ai nấy cũng đều vui vẻ nhận lấy bát đũa, người phụ nữ thấy thế thì vui mừng lắm, chị cất tiếng, cái giọng Quảng Trị vừa trầm vừa mộc, nghe sao mà tha thiết:

– Các chú bộ đội ăn tạm nhen. Rau cá chớ có gì mô. Qua được sông rồi, nhớ giữ mình.

Các anh lính ăn cơm thì vui lắm, cứ lao vào mâm cơm đang bầy sẵn, nào là cá kho canh rau, toàn là những món "cao lương mỹ vị", ai nấy cũng ăn lấy ăn để, vừa ăn vừa nhồm nhoàm khen ngon. Mỗi lần một anh bộ đội khen, là người phụ nữ ấy lại mỉm cười hiền hậu, vị chỉ huy thấy thế thì cũng vui lây, ông cười nói:

– Các cậu ăn từ từ thôi, kẻo nghẹn. Sẵn đây giới thiệu với các cậu đây là O Liên, lái đò đưa bộ đội qua sông đấy, cũng là chị nuôi luôn.

À ra là thế, thì ra chính vì thế nên chị mới ở đây. Lực ngồi phịch xuống bên đống củi, mồm vẫn nhồm nhoàm nhai cơm, lí nhí nói:
– O Liên..., nấu cơm ngon rứa!

Thế là vị chỉ huy chỉnh đốn lại cái bộ dạng vô tổ chức của nó bằng một cái cốc đầu thật mạnh:
– Nhai xong đi rồi nói.

– Ơ hay cái anh...

Chưa kịp để nó nói hết câu, anh chỉ huy đã quay sang Liên, người đàn bà lái đò, anh nhìn chị bằng một ánh mắt nửa trìu mến nửa lại đau lòng.
– Đem nhiều cơm thế này ra, tốn kém quá! Sao o không để dành cho cháu nhà mà ăn!

– Có bao nhiêu đâu hả chỉ huy, Hùng nhà tui cũng đang trong đây, nuôi lính của hắn thì cũng là nuôi hắn rồi!

Người đàn bà mỉm cười, mắt nhìn xa xăm về phía bên kia sông, nơi thành cổ loang loáng trong khói súng.
– Hùng nhà tui... vô trong đó từ bữa ni tháng trước. Hắn xin vô đó, lâu lâu nhắn ra một tờ giấy, toàn ghi chữ run run... Tui đọc còn không ra hết, nhưng mà còn chữ là còn sống.

Nói đến đây, mắt chị ngân ngấn nước. Nhưng chị vội cúi xuống, tiếp tục đảo nồi cơm, giọng chắc lại:
– Tui nấu cơm, đưa đò, nuôi bộ đội. Hắn ở trong nớ, o ngoài ni. Coi như hai vợ chồng cùng đánh giặc. Chừ chỉ mong... ngày toàn thắng, được gặp lại hắn, cho hắn một bữa cơm nóng.

Cả đơn vị nhìn thấy thế thì xót lắm, ai cũng nhìn chị bằng một đôi mắt buồn rầu, Thắng cũng thế, anh nhìn người đàn bà ấy mà nghĩ xa xăm, nghĩ đến những người phụ nữ mà anh yêu ở hậu phương, nghĩ đến má, đến Thư..., người chỉ huy cũng chỉ biết lắc đầu thở dài.

Một anh lính trẻ rụt rè cất giọng:
– Qua được sông ni, tụi mình sẽ gặp anh nhà ở trong Thành cổ hỉ?

O Liên ngẩng lên, cười mím:
– Qua được thì sẽ gặp. Lúc đó mấy chú "chăm" hắn giúp o nhé!

...

Đêm xuống. Cả đơn vị ngồi co cụm bên bờ sông, chờ lệnh vượt. Phía bên kia, pháo sáng quét loang loáng cả một vùng trời. Tiếng súng dồn dập, đỏ rực chân trời.

O Liên đi phát từng nắm cơm vắt bọc lá chuối, dúi vào tay từng người. Khi đến chỗ mấy anh, chị nhìn sâu vào mắt mấy anh, cười:
– Ráng qua được, chú nạ. Qua được thì nói giùm với anh Hùng... ngoài ni, o vẫn đợi.

Thắng nghẹn lại, chỉ biết gật đầu. Anh nhìn xuống nắm cơm trong tay, thấy nó nặng trĩu, như gói trọn cả tấm lòng, cả nỗi chờ mong, cả nước mắt của người đàn bà Quảng Trị.

...

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top