123456789
A.Định nghĩa vật chất của Lê Nin
1. Phạm trù Triết học:
- Vật chất là phạm trù triết học xuất hiện ngay khi Triết học mới ra đời
- Xung quanh phạm trù vật chất luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật. Điển hình là cuộc đấu tranh giữa Phlaton và Đêmôcrit.
-Nội dung của phạm trù Triết học luôn luôn biến đổi cùng vs sự phát triển của thực tiễn và nhận thức của con ng.
+ Những nhà Triết học duy vật cổ đại luôn luôn có xu hướng tìm 1 vật thể đầu tiên ban đầu nào đó và cho nó là nguyên nhân hình thành nên thế giới vật chất. Điển hình như: Talet coi nước là vật thể đầu tiên hình thành nên sự sống.Anxime cho rằng ko khí là vật thể đầu tiên của sự sống. Heracrit lại cho rằng lửa ms là yếu tố đầu tiên, Đemocrit cho rằng các nguyên tử là vật thể đầu tiên....
+ Các nhà triết học cận đại tây âu ở thế kỉ 17-18 lại đồng nhất vật chất vs nguyên tử, coi vật chất là nguyên tử.
- Các quan điểm về vật chất của các nhà Triết học duy vật trước Mác đều có những ưu điểm riêng trong việc giải thích cơ sở vật chất của sự tồn tại giới tự nhiên. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều những hạn chế như : ko hiểu chính xác bản chất của các hiện tượng ý thức cũng như mối quan hệ giữa ý thức vs vật chất; ko có cơ sở để xác định những biểu hiện của vật chất trong đời sống xã hội nên cũng ko có cơ sở để đứng trên quan điểm duy vật khi giải quyết các vấn đề xã hội... Hạn chế đó tất yếu dẫn đến quan điểm duy vật ko triệt để: khi giải quyết các vấn đề về giới tự nhiên, các nhà duy vật đứng trên quan điểm duy vật, nhưng khi giải quyết những vấn đề về xã hội họ đã “ trượt” sang quan điểm duy tâm.
-Sự phát triển của khoa học tự nhiên cuối TK 19 đầu TK 20, đặc biệt là những phát minh của Rơnghen, Béccoren, Tômson….đã bác bỏ quan điểm của các nhà duy vật về những chất đc coi là “giới hạn tột cùng”, từ đó dẫn đến cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý học. Những người theo chủ nghĩa duy tâm đã lợi dụng cơ hội này để khằng định bản chất “ phi vật chất” của thế giới , khằng định vai trò của các lực lượng siêu nhiên đối với quá trình sáng tạo ra thế giới.
2. Định nghĩa vật chất của Lê Nin:
- Trong bối cảnh lịch sử đó, Lênin đã tiến hành tổng kết những thành tựu khoa học tự nhiên cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 và từ nhu cầu của cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa duy tâm, Lênin đã vạch rõ ý đồ xuyên tạc những thành tựu khoa học tự nhiên của những nhà Triết học duy tâm, khẳng định bản chất vật chất của thế giới và đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất: “ Vật chất là phạm trù Triết học dùng để chi thực tại khách quan đc đem lại cho con ng trong cảm giác, đc cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại ko lệ thuộc vào cảm giác”.
3. Theo định nghĩa vật chất của Lênin:
_ Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “ vật chất” vs tư cách là phạm trù triết học(tức phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi tồn tại vật chất và đc xác định từ góc độ giải quyết vấn đề cơ bản của triết học) vs khái niệm “vật chất” đc sử dụng trong các khoa học chuyên ngành ( tức khái niệm dùng để chỉ những dạng vật chất cụ thể , cảm tính, những biểu hiện cụ thể của thế giới vật chất tự nhiên hay xã hội).
_ Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất đc khái quát trong phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng là thuộc tính tồn tại khách quan, tức tồn tại ngoài ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con ng, cho dù con ng có nhận thức đc hay ko nhận thức đc nó.
_ Thứ ba, vật chất, dưới hình thức cụ thể của nó là cái có thể gây nên cảm giác ở con ng khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con ng, ý thức của con ng là sự phản ánh đối vs vật chất, vật chất là cái đc ý thức phản ánh.
4. Định nghĩa về vật chất của Lênin có ý nghĩa quan trọng đối vs sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
_ Một là : bằng việc tìm ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của vật chất là thuộc tính tồn tại khách quan, Lênin đã phân biệt sự khác nhau cơ bản giữa khái niệm vật chất vs tư cách là phạm trù của các khoa học chuyên ngành( vật lý học, hóa học, sinh vật học …), từ đó khắc phục đc hạn chế trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, cung cấp căn cứ nhận thức khoa học để xác định những jh thuộc về vật chất, tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục đc những hạn chế duy tâm trong quan niệm về xã hội.
_ Hai là: khi khẳng định vật chất là “ thực tại khách quan”, “ đc đem lại cho con ng trong cảm giác” và “ đc cảm giác của cta chép lại, chụp lại, phản ánh”, Lênin không những đã khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng của con ng có thể nhận thức đc thực tại khách quan thông qua sự “ chép lại, chụp lại, phản ánh” của con ng đvs thực tại khách quan.
_ Ba là : vật chất có trc và sinh ra ý thức, có thể nhận thức đc.
5. Ý nghĩa phương pháp luận:
cho pp luận trong nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng hiện thực khách quan, phải tuân theo quy luật khách quan.
B. Vận động, không gian, thời gian.
Theo quan điểm đuy vật biện chứng, vận động là phương thức tồn tại của vật chất; không gian thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất.
1.Vận động là phương thức tồn tại của vật chất
-.Ph. Angglin định nghĩa: "Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại củavật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy"[1].
- Theo quan điểm của Ph.Angglin: vận động không chỉ thuần túy là sự thay đổi vị trí trong không gian mà là mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ vận động "là một phương thức tồn tại của vật chất là một thuộc tính cố hữu của vật chất" nên thông qua vận động mà các dạng cụ thể của vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình; vận. động của vật chất là tự thân vận dộng. Sù tồn tại của vật chất luôn gắn liền với vận động; vận động là phương thức tồn tại của vật chất. .
- Dựa trênthành tựu khoa học ở thời đại mình. Ph.Ăngglin đã phân chia vận động thành 5 hình thức vận động cơ bản: vận động cơ giới (sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian); vận động vật lý (vận động của các phân tử, điện tử, các hạt cơ bản, các quá trình nhiệt, điện, v.v~ vận động hóa (sự biến đổi các chất vô cơ, hữu cơ trong nhũng quá trình hoá hợp và phân giải); vận động sinh vật (sự biến đổi của các cơ thổ sống, biến thái cấu trúc gen, v.v..); vận động xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, v.v.. của đời sống là hội). Các hình thức vận động cơ bản nói trên được sắp xếp theo thứ tự từ trình độ thấp đến trình độ cao, tương ứng với trình độ kết cấu của vật chất. Các hình thức vận động khác nhau về chất song chúng không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó: hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận dộng thấp và bao hàm trong nó những hình thức vận động thấp hơn. Trong sự tồn tại của mình mỗi sự vật có thể có nhiều hình thức vận động khác nhau song bản thân nó bao giờ cũng được đặc trưng bởi hình thức vận động cao nhất mà nó có.
Bằng việc phân loại các hình thức vận dộng cơ bản Ph.Angglin đã đặt cơ sở cho việc phân loại phân ngành hợp loại hợp ngành khoa học. Tư tưởng về sự thống nhất nhưng khác nhau về chất của các hình thức vận động cơ bản còn là cơ sở để chống lại khuynh hướng đánh đổi các hình thức vận động, hoặc quy hình thức vận động này vào hình thức vận động khác trong quá trình nhận thức.
Khi khẳng định vận động là phương thức tồn tại của vật chất là thuộc tính cố hữu của vật chất chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đã khẳng định vận dộng là tuyệt đối là vĩnh viễn. Điều này không có nghĩa chủ nghĩa duy vật biện chứng phủ nhận sự đứng im, cân bằng; nhưng, lặng im, cân bằng chỉ là hiện tượng tương đối, tạm thời và thực (chất đứng im, cân bằng chỉ là một trạng thái đặc biệt của vận động.
Đứng im là tương đối, tạm thời vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất định chứ không xảy ra với tất cả mọi quan hệ; đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một hình thức vận động chứ không phải xảy ra với tất cả các hình thức vận động đứng im, không phải là cái tồn tại vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ là xét trong một hay một số quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất định.
Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đô là vận động trong thế cân bằng, ổn định; vận động chưa làm thay đổi cơ bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết quả của sự vật.
2.Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất
Mọi dạng cụ thể của vật chất đều tồn tại ở một vị trí nhất định, có một quảng tính (chiều cao, chiều rộng, chiều dài) nhất định và tồn tại trong các mối tương quan nhất định (trước hay sau, trên hay dưới, bên phải hay lên trát, v.v..) với nhùng dạng vật chất khác. Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là không gian. Mặt khác sự tồn tại của sự vật còn được thể hiện ở quá trình biến đổi: nhanh hay chậm, kế tiếp và chuyển hoá, v.v… Những hình thức tồn tại như vậy được gọi là thời gian .
Ph.Ăngglin viết: "Các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ở ngoài không gian”[2]. Như vậy, vật chất, không gian, thời gian không tách rời nhau; không có vật chất tồn tại ngoài không gian và thời gian; cũng không có không gian, thời gian tồn tại ở ngoài vật chất vận động.
Là những hình thức tồn tại của vật chất, không tách khỏi vật chất nên không gian, thời gian có những tính chất chung như những tính chất của vật chất, đó là tính khách quan, tính vĩnh cửu, tính vô tận và vô hạn.
Ngoài ra không gian có thuộc tính ba chiều (chiều cao, chiều rộng chiều dài) còn thời gian chỉ có một chiều (từ quá khứ đến tương lai). Tính ba chiều của không gian và tính một chiều của thời gian biểu hiện hình thức tồn tại về quảng tính và quá trình diễn biến của vật chất vận động.
C.Ý thức. Nguồn gốc của ý thức
I.Ý thức:
_ Ý thức là sản phẩm và là thuộc tính của vật chất có tổ chức cao là não người.
_ Ý thức là sự phản ánh của thế giới khách quan vào não người trên cơ sở lao động và ngôn ngữ.
_ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
_ Ý thức là thế giới khách quan đc di chuyển vào óc người và đc cải biến đi trong đó.
II. Nguồn gốc của ý thức.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
1.Nguồn gốc tự nhiên của ý thức:Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con người và và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người, từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan.
_ Về bộ óc người: Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người là chức năng của bộ óc là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện hoạt động sinh lý phần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc điều này lý giải tại sao quá trình tiến hoá của loài người cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thẩn kinh của con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
_ Về mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh năng động, sáng tạo: Quan hệgiữa con người với thế giới khách quan là quan hệ tất yếu ngay từ khi con người xuất hiện. Trong mối quan hệ này,thế giới khách quan được phản ánh thông qua hoạt độngcủa cái giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thànhnên ý thức.
Phản ánh là sự tái tạo những điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Những đặc điểm được tái tạo ở dạng vật chất nhận sự tác động bao giờ cũng thang phòng tin của dạng vật chất tác động. Những đặc điểm mang thông tin ấy được gọi là Cái phản ánh, còn dạng vật chất tác động được gọi là cái được phản ánh. Cái phản ánh là cái được phản ánh không tách rời nhau nhưng không đồng nhất với nhau. Cái được phản ánh là những dạng cụ thể của vật chất? còn cái phản ánh chỉ là đặc điểm chứa đựng thông tin của dạng vật chất đó (cái được phản ánh) ở một dạng vật chất khác (dạng vật chất nhận sự tác động).
Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất, song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hoá học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm lý với phản ánh năng động sáng tạo (phản ánh ý thức). Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hóa của vật chất.
Phản ánh vật lý, hoá học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật lý, hoá học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hoá (thay đổi kết cấu, vị trí, tính chất lý - hoá qua quá trình kết hợp, phân giải các chất) khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.
Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc, v.v. khi nhận sự tác động trong môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cảm giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thản kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện. khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.
Phản ánh tâm lý là phản ánh của động vật có hệ thần kinh trung ương được thực hiện trên cơ sở điều khiển của hệ thần kinh thông qua cơ chế phản xạ có điều kiện.
Phản ánh năng động, sáng tạo là hình thức phản ánh cao nhất trong các hình thức phản ánh, nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất phát triển cao nhất, có tổ chức cao nhất là bộ óc người. Phản ánh năng động, sáng tạo được thực hiện qua quá trình hoạt động sinh lý thần kinh của bộ não người khi thế giới khách quan tác động lên các giác quan của con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin. Sự phản ánh năng động, sáng tạo này được gọi là ý thức. '
2.Nguồn gốc xã hội của ý thức:Có nhiều yếu tố cấu thành nguồn góc xã hội của ý thức nhưng trong dó cơ bản nhất và trực tiếp nhất là nhân tố lao động và ngôn ngữ.
Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhăm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp vời nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên. Đây cũng là quá trình làm thay đổi cấu trúc cơ thể đem lại dáng di thẳng bằng hai nhân, giải phóng hai tay phát triển khí quan, phát triển não bộ, v.v.. của con người trong quá trình lao động? con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những qui luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người thông qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá trình lao động.
Ngôn ngữ. là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngừ, ý thức không thể tồn tại và thể hiện.
Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao dộng ngay từ dầu đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp trao đổi tư tưởng Nhu cẩu này làm ngôn ngư nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động Nhờ ngôn ngữ eon người đã không chỉ giao tiếp trao đổi mà còn khái quát, tổng kết, đúc kết thực tiễn truyền đạt kinh nghiệm, truyền đạt tư tưởng từ thế hệ này qua thế hệ khách
àNhư vậy, nguồn gốc cơ bản, trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là nhân tố lao động. Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu dã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượng đã làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người, khiến cho tâm lý dộng vật dần dần chuyển hóa thành ý thức.
D.Hai nguyên lý cở bản của phép biện chứng duy vật,
I.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
1..Khái niệm mối liên hệ,mối liên hệ phổ biến:
_ Trong phép biện chứng, khái niệm mối liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng, hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
_ Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới, đồng thời cũng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật hiện tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng…..
2.. Tính chất của các mối liên hệ.
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản của các mối liên hệ.
a. Tính khách quan của các mối liên hệ.: Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hóa lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng( hoặc bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí của con ng; con ng chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
b. Tính phổ biến của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng thì ko có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập vs các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác. Đồng thời,cũng ko có bất cứ sự vật, hiện tượng nào ko phải là 1 cấu trúc hệ thống, bao gồm những yếu tố cấu thành vs những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ 1 tồn tại nào cũng là 1 hệ thống, hơn nữa là hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ vs hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
c. Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin ko chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đc thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối vs sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đvs mỗi sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Đó là các mối liên hệ bên trong và bên ngoài sự vật, mối liên hệ bản chất và hiện tượng, mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu, mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp…..Quan điểm về tính phong phú, đa dạng cuẩ các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về sự thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
3. Ý nghĩa phương pháp luận.
_ Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó vs các sự vật khác. Chỉ trên cơ sở đó ms có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý có hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn. Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập vs quan điểm phiến diện, siêu hình trong thực tiễn và nhận thức.
_ Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp vs quan điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau trong của mỗi mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có đc những giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn ko những cần phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.
4. Ví dụ :
II. Nguyên lý về sự phát triển.
1.Khái niệm phát triển.
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về lượng, ko có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời , nó cũng xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, ko trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập vs quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, khái niệm phát triển ko đồng nhất vs khái niệm “vận động”(biến đổi ) ns chung; đó ko phải là sự biến đổi tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
2.Tính chất của sự phát triển.
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
a.Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, ko phụ thuộc vào ý thức của con ng.
b. Tính phổ biến của sự phát triển đc thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp vs quy luật khách quan.
c. Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển đc thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện thực lại có quá trình phát triển ko hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những ko gian và thời gian khác nhau sự vật sẽ phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự vật còn chju nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử cụ thể.Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển ở mặt này và thoái hóa ở mặt khác… Đó đều là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận.
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm phát triển. Theo Lênin: “ Lôgic biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động… trong sự biến đổi của nó”.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập vs sự phát triển.
Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong thực tiễn, một mặt, cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt khác, con đường của sự phát triển lại là 1 quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy, đòi hỏi phải nhận thức đc tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó, tức là cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể trong nhận thức và giải quyết các vấn đề của thực tiễn, phù hợp vs tính chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
Như vậy, vs tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin giữ 1 vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức và thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen viết: “ Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự rang buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Lênin cũng cho rằng: “ Phép biện chứng đòi hỏi ng ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó”.
4. Ví dụ: Sự phát triển trong tự nhiên: Hạt nảy mầm .
E. Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
I. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại.
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo quy luật này, phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật có cơ sở tất yếu từ những sự thay đổi về lượng của sự vật và ngược lại, những sự thay đổi về chất của sự vật lại tạo ra những biến đổi mới về lượng của sự vật trên các phương diện khác nhau. Đó là mối liên hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, thuộc mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
1. Khái niệm chất, lượng.
_ Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó vs cái khác.
Như vậy, tạo thành chất của sự vật chính là các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật nhưng khái niệm chất ko đồng nhất vs khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những thuộc tính cơ bản và ko cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản ms hợp thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó thay đổi. Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và ko cơ bản của sự vật phải tùy theo quan hệ này là cơ bản thì trong quan hệ khác có thể là ko cơ bản.
Mặt khác, chất của sự vật, hiện tượng ko những đc xác định bởi chất của các yếu tố cấu thành, mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối liên hệ cụ thể. Vì vậy, việc phân biệt thuộc tính cơ bản và ko cơ bản , chất và thuộc tính cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Mỗi sự vật, hiện tượng ko chỉ có 1 chất, mà có nhiều chất, tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó vs những cái khác. Chất ko tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
_ Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật. Với khái niệm này cho thấy : một sự vật có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, đc xác định bằng các phương thức khác nhau phù hợp vs từng loại lượng cụ thể của sự vật.
à Như vậy, chất và lượng là 2 phương diện khác nhau của cùng 1 sự vật, hiện tượng hay 1 quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật chỉ có ý nghĩa tương đối: có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
2. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng.
_ Bất kì sự vậy, hiện tượng nào cũng là 1 thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó ko tách rời nhau mà tác động lẫn nhau 1 cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, ko phải sự thay đổi về lượng bất kì nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chẩt thay đổi gọi là độ.
Khái niệm độ chỉ tính quy định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa hoàn toàn chuyển hóa thành sự vật và hiện tượng khác.
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng.Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, vs những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất ms.Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự thay đổi về chất diễn ra vs nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, đc quyết định bởi mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: nhanh và chậm, lớn và nhỏ, cục bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác….
Bước nhảy là sự kết thúc 1 giai đoạn vận động, phát triển; đồng thời, đó cũng là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật. Trong thế giới luôn luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường nút vô tận, thể hiện cách thức vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao. Ph.Ăngghen khái quát tính tất yếu này: “ Những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”
Khi chất ms ra đời lại có sự tác động trở lại lượng của sự vật. Chất ms tác động tới lượng cả sự vật trên nhiều phương diện như: làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.
Tóm lại, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông quá bước nhảy; đồng thời, chất ms sẽ tác động trở lại lượng, tạo ra những biến đổi ms về lượng của sự vật. Quá trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức cơ bản, phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
_ Vì bất kì sự vật nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng của sự vật, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật.
_ Vì những thay đổi về lượng của sự vật có khả năng tất yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất của sự vật và ngược lại, do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi vể chất của sự vật; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật.
_ Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật vs điều kiện lượng phải đc tích lũy tới giới hạn điểm nút, do đó, trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã đc tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật, vì thế cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí, ko tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về chất. Hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ko dám thực hiện bước nhảy mặc dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa về lượng.
_ Vì bước nhày của sự vật là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp vs từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát triển ko chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.
II. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là “ hạt nhân” của phép biện chứng. Theo Lênin, “ Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm đc hạt nhân cảu phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật.
a. Nội dung quy luật
_ Sự vật là thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, khuynh hướng đối lập nhau.
_ Mâu thuẫn trong lòng sự vật là khách quan và phổ biến.
_ Mâu thuẫn là 1 quá trình: Khi sự vật mới hình thành xuất hiện mâu thuẫn. Mâu thuẫn gay gắt dẫn đến xung đột.
_ Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguyên nhân, động lực của sự phát triển.
b.Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
Khái niệm mâu thuẫn. Trong phép biện chứng duy vật, mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng vs nhau. Đây là quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, khác căn bản vs quan niệm siêu hình về mâu thuẫn.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là mặt đối lập. Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.
_ Mâu thuẫn có một số tính chất chung :
+ Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến. Theo Ph.Ăngghen :” Nếu bản thân là sự di động một cách máy móc, đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất, đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn....”
+ Mâu thuẫn ko những có tính khách quan, tính phổ biến, mà còn có tính đa dạng, phong phú. Tính đa dạng của mâu thuẫn thể hiện ở chỗ: mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử, cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trò khác nhau đvs sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Đó là mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và ko cơ bản, chủ yếu và thứ yếu.... Trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn vs những tính chất khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn
c.Quá trình vận động của mâu thuẫn:
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất vs nhau, vừa đấu tranh vs nhau. Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, ko tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự thống nhất của nó. Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng. Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập diễn ra rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể.
Trong sự thống nhấy và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa chúng là tuyệt đối, còn sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều kiện, tạm thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.
Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hóa giữa các mặt đối lập là 1 quá trình. Lúc ms xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành 2 mặt đối lập. Khi 2 mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột vs nhau gay gắt và khi điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn đc giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn ms đc hình thành và quá trình tác động, chuyển hóa giữa 2 mặt đối lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển. Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển trong thế giới. Lênin khẳng định: ” Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
d. Ý nghĩa phương pháp luận.
_ Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến bà là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn,phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm đc bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển. Lênin cho rằng :” Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó đó là thực chất của phép biện chứng”.
_ Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn 1 cách đúng đắn nhất.
III. Quy luật phủ định của phủ định
III. Quy luật phủ định của phủ định
a. Vị trí, vai trò của quy luật
Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng, hình thức và kết quả của sự phát triển của sự vật, hiện tượng thông qua sự thống nhất giữa tính thay đổi với tính kế thừa trong sự phát triển theo đường xoáy ốc từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quy luật phủ định của phủ định chỉ được thực hiện hoàn toàn trong cái nguyên vẹn; cái đã thực hiện xong một cách tương đối của quá trình phát triển, nghĩa là sau khi đã trải qua các mắt xích của các sự chuyển hoá qua lại, chúng ta đã có thể xác định được kết quả (theo hướng của sự phát triển) cuối cùng.
b. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng
Phủ định.Thế giới vận động và phát triển không ngừng, vô cùng, vô tận; sự vật, hiện tượng sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi,được thay thế bằng sự vật, hiện tượng khác, thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng 1 sự vật ttrong quá trình vận động, phát triển của nó. Sự thay thế đó gọi là sự phủ định.
Mọi quá trình vận động và phát triển trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy đều diễn ra thông qua những sự phủ định, trong đó những sự phủ định chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật. Những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triển của sự vật đc gọi là sự phủ định biện chứng
Các đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là tính khách quan và tính kế thừa.
_ Phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng; nó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vậtl tạo khả năng ra đời của cái mới thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân sự vật, hiện tượng. Vì thế phủ định biện chứng cũng chính là sự tự thân phủ định.
_ Phủ định biện chứng có tính kế thừa: kế thừa những nhân tố hợp quy luật và loại bỏ nhân tố trái quy luật. Phủ định biện chứng ko phải là sự phủ định sạch trơn cái cũ, mà trái lại cái mới ra đời trên cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái cũ để phát triển thành cái mới, tạo nên tính liên tục của sự phát triển. Đó là sự phủ định mà trong đó cái ms hình thành và phát triển tự thân, thông qua quá trình lọc bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội dung tích cực.
Bởi vậy, phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên trong giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật
c. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
Từ nội dung quy luật phủ định của phủ định của phép biện chứng duy vật, rút ra một số nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn 1) Nắm được khuynh hướng tiến lên của sự vận động của các sự vật, hiện tượng; sự thống nhất giữa các tính chất tiến bộ và kế thừa của sự phát triển. Sau khi đã trải qua các mắt xích của sự chuyển hoá, chúng ta đã có thể xác định được kết quả cuối cùng của sự phát triển và nhận thức quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng không diễn ra một cách thẳng tắp, ngược lại, quá trình đó diễn ra quanh co, phức tạp, "cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn, không va vấp, không đôi khi nhảy lùi những bước rất lớn là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý luận"[3]. 2) Quy luật phủ định của phủ định giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới- là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển; nó luôn biểu hiện là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. Trong giới tự nhiên, sự xuất hiện cái mới diễn ra một cách tự phát; nhưng trong lĩnh vực xã hội, cái mới xuất hiện gắn liền với sự nhận thức và hoạt động có ý thức của con người. Tuy cái mới chiến thắng cái cũ, nhưng trong một thời gian nào đó, cái cũ còn mạnh hơn cái mới; vì vậy, quan điểm chung là ủng hộ cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển hợp quy luật, biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý của cái cũ làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của cái mới.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top