12 giai đoạn tha thứ đích thực phần 2

Giới Thiệu Tổng Quát

Thật ngạc nhiên khi nhận

thấy rằng những sách tâm

lý viết về khả năng

trị liệu của tha thứ

quá hiếm hoi. Theo sự

hiểu biết của tôi, không

một trường tâm lý trị

liệu nào đã thử cố

gắng đưa ra một lời

giải thích về tính chất

chữa bệnh của sự tha

thứ. Hơn nữa, họ chẳng

nghĩ đến việc dành cho

tha thứ một chỗ trong

quan niệm của họ về

nhân cách. Làm sao cắt

nghĩa sự thiếu sót nầy

? Chắc chắn lỗ hổng

nầy đến do khuynh hướng

của họ giảm trừ sự

tha thứ vào một hoạt

động thuần túy có tính

cách tôn giáo. Nếu như

vậy thì đó là một

sai lầm nghiêm trọng, bởi

vì như chúng ta đã

thấy, tha thứ đụng đến

tất cả mọi chiều kích

của con người, từ những

chiều kích thiêng liêng đến

những chiều kích sinh học

và tâm lý.

Ngày nay, tha thứ có

một tính thời sự rất

lớn. Lợi ích gộp lại

của nó được phát triển

như một nhân tố quan

trọng của sức khoẻ thể

lý, tâm lý và thiêng

liêng. Các nhà thần học,

chuyên gia tâm lý, bác

sĩ và các nhà liệu

pháp điều trị vừa bắt

đầu khám phá được giá

trị trị liệu của tha

thứ. Tại sao có lợi

ích bất thần nầy ?

Có lẽ bởi vì người

ta bắt đầu từ bỏ

dần dần cái quan niệm

ma thuật hay duy ý

chí của một sự tha

thứ được thực hiện theo

yêu cầu. Thay vì nhìn

thấy trong sự tha thứ

một thứ ma thuật hay

một cố gắng đơn giản

của ý chí, dần dần

họ nhận thấy rằng không

phải muốn tha thứ là

tha thứ được đâu. Sự

tha thứ phải tuân theo

những định luật phát triển

của con người và phải

thích ứng với những chu

kỳ trưởng thành của nhân

vị. Còn lâu mới là

kết quả của một động

tác ý chí, tha thứ

phát xuất bởi một qui

trình đòi hỏi sự dấn

thân của tất cả mọi

khả năng của con người

và theo một lộ trình

chia ra nhiều giai đoạn.

Những giai đoạn nầy nhiều

ít tùy theo tác giả.

Đối với tôi, dưới ánh

sáng kinh nghiệm bản thân,

lâm sàng và đọc sách,

tôi đi đến kết luận

rằng có mười hai giai

đoạn cần thiết để đạt

tới sự tha thứ đích

thực. Tại sao lại mười

hai ? Vì những lý

do sư phạm. Khi phân

chia sự khó tha thứ

thành nhiều giai đoạn, tôi

muốn sáng tạo một khoa

sư phạm riêng về tha

thứ, làm cho sự tha

thứ khả dĩ đạt đến

số đông người nhất có

thể. Tôi cũng phân phối

công việc tha thứ thành

những nhiệm vụ xem ra

có thể thực hiện được.

Dĩ nhiên tha thứ không

phải như một cái máy

có thể tháo ráp lúc

nào muốn cũng được. Tôi

hoàn toàn không nghĩ đến

việc phát minh ra một

công thức không sai lầm

về tha thứ. Tuy nhiên

tôi xác tín về lợi

ích của những cột mốc

nầy, dù xem ra quá

nhiều, trên con đường tha

thứ luôn luôn bấp bênh

nầy.

Chúng ta hãy xem các

giai đoạn tha thứ được

tổ chức như thế nào.

1) Ngay từ đầu, một

đàng tiến trình được khởi

sự với quyết định vững

chắc không trả thù và

đàng khác khiến kẻ gây

nên xúc phạm phải thôi

đi những hành động xấu

của nó. Đó là giai

đoạn đầu tiên.

2) Ba giai đoạn tiếp

theo nhằm săn sóc các

thương tổn : nhận ra

vết thương, chia sẻ vết

thương bằng cách mở lòng

ra với người nào đó

để xác định nó và

đành chịu thương tổn.

3) Giai đoạn thứ năm

hệ tại việc chấp nhận

nỗi tức giận và ước

muốn báo thù của mình.

4) Giai đoạn thứ sáu

hệ tại một khúc quặt

lớn trên con đường tha

thứ, là tha thứ cho

chính mình.

5) Một khi cố gắng

chăm sóc chính mình, người

ta quay về kẻ xúc

phạm mình để cố gắng

hiểu y. Đó là giai

đoạn bảy.

6) Rồi người ta sẽ

đi tìm ý nghĩa mà

tổn thương có thể mang

đến trong đời sống mình.

Đó là giai đoạn thứ

tám.

7) Ba giai đoạn kế

đó sẽ mặc lấy một

tính chất thiêng liêng hơn

: biết mình xứng đáng

với sự tha thứ và

đã được đặc xá rồi,

thôi làm khổ mình để

tha thứ, mở ra với

ân sủng tha thứ.

8) Giai đoạn thứ mười

hai và là giai đoạn

cuối cùng liên quan đến

những hậu quả mà người

ta muốn mang lại cho

sự tha thứ đã được

thực hiện. Người ta tự

hỏi xem đàng nào tốt

hơn cho mình : cắt

đứt liên hệ hay làm

mới nó lại.

Vậy đây là bảng liệt

kê các phận vụ phải

chu toàn, hầu đạt được

một sự tha thứ đích

thực :

1. Quyết định không báo

thù và khiến thôi những

cử chỉ xúc phạm.

2. Nhận ra thương tổn

và nghèo nàn nội tâm

của mình.

3. Chia sẻ thương tổn

với một ai đó.

4. Xác định rõ mất

mát của mình để đành

nhận chịu.

5. Chấp nhận nỗi giận

và lòng muốn báo thù

của mình.

6. Tha thứ cho chính

mình.

7. Bắt đầu tìm hiểu

kẻ xúc phạm đến mình.

8. Tìm ra ý nghĩa

của thương tổn trong cuộc

sống của mình.

9. Biết mình đáng được

tha thứ và đã được

đặc xá.

10. Thôi tự làm khổ

mình vì muốn tha thứ.

11. Mở lòng ra với

ân sủng tha thứ.

12. Quyết định chấm dứt

quan hệ hay đổi mới

quan hệ.

Đó là con đường đã

được vạch ra. Dĩ nhiên

mỗi người sẽ sử dụng

theo ý mình tấm bản

đồ đi đường nầy trong

cuộc hành hương tha thứ

của mình. Người ta sẽ

quyết định lướt nhanh qua

một số giai đoạn nào

đó, trong khi nghĩ là

lợi ích hơn phải chậm

lại lâu ở những giai

đoạn khác trình bày một

thách đố đặc biệt cho

mình. Một cuốn nhật ký

sẽ giúp đỡ lớn lao

trong việc ghi nhận các

tiến bộ của mình.

Cho mỗi giai đoạn, chúng

ta sẽ tìm thấy một

bài thực tập hay một

bản câu hỏi giúp đánh

dấu việc chu toàn nhiệm

vụ đòi hỏi trước khi

bước sang giai đoạn kế

tiếp. Kiểu cách cho các

áp dụng nầy thay đổi

bất ngờ, nhằm mục đích

cho đọc giả thực sự

sống một tiến trình tha

thứ và đi theo lối

ấy. Cũng có một số

bài tập được làm sẵn

để đọc cho nghe.

Giai Đoạn 1

Không trả thù và khiến

thôi đi những cử chỉ

xúc phạm

Bạo lực không bao giờ

chấm dứt được bạo lực

mà chỉ có bất bạo

lực mới chấm dứt được

bạo lực thôi.

"Dĩ oán báo oán, oán

trập trùng ; dĩ ân

báo oán, oán tiêu tan"

(Kinh Phật)

Ngay khởi đầu cuộc hành

hương nội tâm tiến đến

tha thứ, tôi đề nghị

với bạn hai quyết định

trọng đại : quyết định

không trả thù và quyết

định bắt phải chấm dứt

những cử chỉ xúc phạm.

Chuyển động tha thứ không

thể kết nối được bao

lâu bạn muốn làm thỏa

mãn lòng báo thù của

bạn, vì bạn sẽ kiệt

sức trong một tình trạng

nạn nhân.

1. Quyết định không báo

thù :

Trước hết, chúng ta hãy

bàn đến sự báo thù,

một chuyển động bản năng

được cảm nhận theo sau

một sự xúc phạm oan.

Lòng khao khát báo thù

là một cố vấn xấu.

Tránh đi lòng khao khát

báo thù là bạn tránh

được cho mình cả một

lô phiền muộn, như một

câu châm ngôn Trung Hoa

nói : "Kẻ báo thù

sẽ phải đào hai cái

huyệt". Nhưng còn hơn thế

nữa : đòi "nửa cân

thịt người" bù lại cho

những sĩ nhục đã phải

chịu sẽ an ủi bạn

trong chốc lát oán giận

trong lòng, nhưng sẽ không

dập tắt được nó. Trái

lại, sự trả thù sẽ

lôi kéo đến với bạn

cả một chuỗi những cay

đắng và bất hạnh mà

tôi sẽ liệt kê sau

đây. Trước khi bạn biết

chúng, tôi xin báo cho

bạn hay rằng bản liệt

kê đó không được gợi

hứng bởi một thứ luân

lý cấm đoán, nhưng từ

ý hướng tốt muốn kiếm

tìm hạnh phúc của bạn.

Đó chính là cái mà

người ta gọi là trãi

ra với trị liệu thực

tại, nghĩa là một trị

liệu nhằm đến cái có

thực và sự thoải mái

của bạn.

Trước hết hãy để thời

giờ đọc và suy niệm

những lý do bênh vực

cho sự không trả thù,

rồi bạn hãy tự hỏi

: "Sau khi xét qua

tất cả những lý do

đó, hỏi tôi có còn

thực sự muốn báo thù

nữa không ?"

- Sự báo thù hướng

chú tâm và nghị lực

của bạn lui về quá

khứ. Hiện tại của bạn

không còn chỗ nữa và

tương lai của bạn trống

rổng các dự án thích

thú.

- Tinh thần trả đũa

khơi sâu thêm vết thương

của bạn bằng cách không

ngừng nhắc đến nó. Nó

ngăn cản bạn vui hưởng

sự bình an và yên

tĩnh cần thiết cho sự

chữa lành vết thương và

liền sẹo.

- Để có thể thỏa

mãn lòng báo thù của

bạn, bạn sẽ phải bắt

chước kẻ xúc phạm đến

bạn, dù bạn không muốn

và bạn để mình bị

lôi đi trong cái vòng

địa ngục của nó. Không

những bạn sẽ làm bạn

bị tổn thương hơn nữa

khi làm điều đó, mà

rồi bạn còn bị giảm

giá trị.

- Sự trả thù xui

khiến tác giả của nó

làm lại những cử chỉ

độc ác cản trở việc

tăng trưởng nhân cách của

mình, vì bóp nghẹt hết

mọi sáng kiến sáng tạo.

- Trừng phạt người nào

để bạn được vui thú

trả thù sẽ sản sinh

ra nơi bạn một tình

cảm sâu xa là mình

có lỗi. Bạn sẽ cảm

thấy có tội đã sử

dụng đau khổ của một

người khác để xoa dịu

sự sĩ nhục của bạn.

- Tinh thần trừng phạt

tội ác nhân danh xã

hội thúc đẩy kết án

không thương xót kẻ mắc

lỗi, nhưng còn sợ rằng

phê phán làm giảm uy

tín bạn ném xuống trên

người ấy sẽ quây trở

lại chống đối chính bạn.

Lúc đó bạn sẽ cảm

thấy bị ám ảnh bởi

nỗi lo sợ bị những

người khác bắt bạn phải

trả chính cái giá ấy

trong một tương lai gần.

- Miếng đánh trả mà

bạn cho là đích đáng

sẽ tạo nên trong bạn

một trạng thái sợ hãi

và lo âu thường xuyên.

Bạn sẽ không ngừng e

sợ cái ngày mà kẻ

thù của bạn sẽ tấn

công trả đũa lại bạn.

- Sự trả thù sẽ

nuôi dưỡng trong lòng bạn

sự oán giận, hiềm khích

và tức giận, là tất

cả những thứ tình cảm

gây nên ứng suất. Chắc

bạn biết rõ những hậu

quả tác hại của ứng

suất. Nó tấn công hệ

thống miễn dịch và như

vậy gây nên cả một

lô bệnh về thần kinh

thực vật.

- Một Đấng bậc nọ

quá sính quyền bính và

cầu toàn phải chịu nhiều

ứng suất, gây tổn thương

tâm thần và cả thể

lý, vì dù đã dùng

nhiều biện pháp trả đũa

vẫn không khuất phục được

những người "bất tâm phục".

Càng dùng biện pháp càng

sa lầy trong sóng ngầm

"bằng mặt mà không bằng

lòng". Sự tức giận và

nhu cầu trừng trị có

hậu quả "gậy ông đập

lưng ông".

Đó là những nỗi bất

hạnh theo sau sự trả

thù. Hy vọng chúng nổi

bật lên cho bạn thấy

để chống lại sự trả

thù. Bấy giờ bạn có

thể thích hơn giải pháp

ít đắt giá hơn mà

lại triển nở nhất, đó

là giải pháp tha thứ.

Nếu, sau khi đã suy

nghĩ về những lý do

không nên trả thù, mà

bạn không thành công trong

việc chế ngự được các

xung năng, thì tôi khuyên

bạn lập tức qua ngay

giai đoạn thứ năm, là

nơi bạn sẽ học được

cách thức thuần hóa cơn

tức giận và ý thích

trả thù của bạn.

2. Khiến thôi đi những

cử chỉ xúc phạm :

Một người kia lưu ý

tôi thế nầy : "Kêu

gọi kẻ thù mình chấm

dứt những cử chỉ xúc

phạm không phải là một

hình thức che đậy của

sự trả thù sao ?"

Thưa, khiến thôi đi những

hành động xúc phạm bằng

cách sử dụng tất cả

sức mạnh của mình không

có gì giống với trả

thù hết. Trái lại, đó

chính là tự trọng không

tấn công kẻ xúc phạm.

Có thể lời kêu gọi

mặc lấy dáng dấp của

một lời nói cộc lốc

hạ nhục, nếu nó được

làm trong ý hướng tấn

công hay cố gắng tạo

nên nơi kẻ xúc phạm

một mặc cảm có lỗi.

Như vậy thật rất quan

trọng trong cách can thiệp

khiến thôi đi những cử

chỉ xúc phạm, cũng như

giữ mình trong thái độ

không trả thù.

Bao lâu cách ứng xử

xúc phạm còn tiếp tục

thì việc nghĩ đến muốn

tha thứ là vô hiệu.

Làm sao người ta có

thể làm việc đó, ngay

cả nghĩ đến làm việc

đó, khi mà còn chịu

khuất phục dưới một bạo

lực thường xuyên ? Tha

thứ trong những hoàn cảnh

như vậy là tương đương

với việc từ bỏ quyền

lợi của mình và là

bằng chứng của hèn nhát.

Ghandi, vị đại tông đồ

của bất bạo động, cũng

không nghĩ khác đi khi

khẳng định : "Nếu phải

lựa chọn giữa bạo lực

và hèn nhát, thì tôi

không ngần ngại khuyên chọn

bạo lực".

Hạnh phúc thay còn có

những chọn lựa khác để

chấm dứt bất công, chẳng

hạn chọn chạy đến công

lý. Tôi biết có những

phụ huynh đủ sức mạnh

làm việc đó : được

nhóm tương trợ nâng đỡ,

họ có can đảm tố

cáo với cảnh sát chính

con trai họ buôn bán

ma túy ; những người

vợ bị đánh đập đã

lướt thắng sợ hãi và

đã kêu gọi tới công

lý để tự vệ chống

lại sự bạo hành của

chồng. Dĩ nhiên ý hướng

tác động những người nầy

không phải là trả thù,

nhưng là để bắt chấm

dứt khủng bố và bất

công, và đồng thời để

chữa trị kẻ bạo hành.

Xét như vậy, phải chăng

là không có ý nghĩa

gì việc Đấng dạy chúng

ta tha thứ kẻ thù

lại chính Ngài đã không

nghĩ đến tha thứ cho

những kẻ buôn bán trong

Đền Thờ trước khi đuổi

chúng đi ? Ngài đã

xét thấy là đúng và

cấp bách việc trước hết

bắt phải thôi đi sự

xúc phạm Đền Thờ. Đó

là thái độ ứng xử

tương tự mà tôi đã

khuyên một người đàn ông

nọ trong các thủ tục

ly hôn có vấn đề

phân chia của cải và

nuôi giữ con cái. Ông

ta hỏi tôi trong những

hoàn cảnh như thế làm

sao ông có thể tha

thứ cho vợ ông. Tôi

đã trả lời là trước

hết ông phải tiến hành

vụ kiện với sự ngay

thẳng nhất có thể, và

rồi sau đó, nhưng chỉ

sau đó mà thôi, ông

sẽ tập trung nghị lực

để tha thứ cho vợ

ông.

Tôi muốn minh họa hơn

nữa điểm nầy dựa vào

một kinh nghiệm bản thân.

Tôi nghe từ hai nguồn

khác nhau rằng một trong

những đồng nghiệp tu trì

của tôi, mà tôi luôn

duy trì những tương quan

thân ái, đã nói xấu

tôi. Trong khi vắng mặt

tôi, người anh em đó

đã tố cáo tôi với

các đồng nghiệp là tôi

đã yêu sách quá đáng

tiền của nhà trường, nơi

chính anh ta làm việc.

Tôi cảm thấy buồn phiền

và tức giận hay rằng

thanh danh của tôi bị

bôi nhọ vì những lời

nói xảo trá như vậy.

Phản ứng đầu tiên của

tôi là không để cho

những lời vu cáo đó

tiếp tục, nhưng nhớ lại

điều tôi dạy người khác

là cấp thiết phải bắt

thôi đi những cử chỉ

xúc phạm, tôi cầm bút

và viết cho ngài :

"Thưa cha, tôi nghe rằng

cha đã nói sau lưng

tôi về những đòi hỏi

tiền bạc quá đáng của

tôi. Điều đó đúng hay

sai ? Nếu sai, nghĩa

là cha không nói, thì

cha chỉ đơn giản vất

lá thư nầy vào xọt

rác. Nhưng nếu đúng là

cha đã nói như vậy,

thì tôi yêu cầu cha

chấm dứt việc loan truyền

những lời như thế về

tôi. Nếu cha cần giải

thích, tôi sẵn sàng cung

cấp cho cha theo ý

cha, ngay cả vấn đề

lương bổng của tôi chẳng

liên quan chút nào đến

cha". Ông cha chấm dứt

ngay những lời bép xép

và tôi cảm thấy vui

vẻ hơn để lờ đi

câu chuyện ấy.

Những thí dụ nầy chứng

tỏ rằng tha thứ không

chước miễn phải có can

đảm chất vấn một người

xúc phạm và nại tới

công lý, nếu cần thiết.

Đức Gioan-Phaolô II tha thứ

cho kẻ ám sát ngài

là Agça, nhưng ngài đã

không bao giờ xin cho

anh ta thoát khỏi công

lý.

3. (Bài tập)

Để điểm lại tình hình

về hoàn cảnh nạn nhân

của mình :

Đây là một bản câu

hỏi giúp điểm lại tình

hình về một hoàn cảnh

trong đó mình là nạn

nhân. Tôi không phải nhắc

lại rằng sự tha thứ

vẫn không thể được bao

lâu người ta để cho

kẻ xúc phạm mình tiếp

tục mãi những cử chỉ

xúc phạm.

1) Bạn làm gì trong

những hoàn cảnh mà bạn

là nạn nhân của những

thủ đoạn của một cá

nhân ?

- Bạn thử cố quên

đi.

- Bạn để mặc cho

tình hình xấu đi.

- Bạn tự nhủ là

không có gì phải làm

cả.

- Bạn sợ những phản

ứng mà kẻ xúc phạm

sẽ có nếu bạn đòi

anh ta chấm dứt những

xử sự phá hoại ấy.

- Bạn để nỗi oán

giận lớn lên.

- Bạn chờ lúc để

báo thù.

- Bạn sợ nổi nóng

lên và trở nên bất

công.

2) Bạn dự tính can

thiệp một cách thế nào

cho có hiệu quả mà

không rơi vào sự báo

thù ?

3) Bạn có thể nói

với người nào về tình

hình để làm nhẹ đi

nỗi sợ hãi và tính

bạo lực của bạn, hầu

tìm được chiến lược can

thiệp thích hợp nhất và

hiệu quả nhất ?

4) Cách nào bạn muốn

chất vấn kẻ bách hại

bạn ?

Giai Đoạn 2

Nhận biết thương tổn và

sự nghèo nàn của mình

Sự Thật sẽ giải thoát

các con.

Phúc Âm theo thánh Gioan

Một nhà tâm lý trị

liệu già dặn kinh nghiệm

tâm sự với tôi :

"Tôi đã đi đến xác

tín rằng đa số những

bệnh tâm thần đều có

nguồn gốc ở một sự

phủ nhận hoặc không có

khả năng chịu đau khổ".

Quả thực, nếu sau khi

bị một xúc phạm mà

bạn không thuận tình nhận

biết và thừa nhận nỗi

đau của bạn thì bạn

sẽ liều không bao giờ

đạt tới sự tha thứ

đích thực được. Sự tha

thứ mà bạn tưởng cho

đi đó cuối cùng sẽ

là một hình thức tự

vệ chống lại đau khổ.

Bạn sẽ không bao giờ

thành công trong việc tha

thứ được, nếu bạn vẫn

cứ khăng khăng phủ nhận

việc bạn đã bị xúc

phạm và tổn thương, đồng

thời sự nghèo nàn nội

tâm của bạn đã bị

bóc trần. Do đó, một

trong những phận sự đầu

tiên của bạn sẽ là

sống biến cố bị xúc

phạm. Nhưng lần nầy, bạn

sống biến cố bị xúc

phạm với một niềm tín

nhiệm lớn lao ở bạn,

nhất là nếu bạn được

tháp tùng trong cuộc chinh

phục nội tâm nầy. Nỗi

đau gây nên bởi sự

xúc phạm nầy, bạn sẽ

học chấp nhận nó, chữa

lành nó và biến đổi

nó cho lợi ích của

bạn. Phải xử sự với

điều xúc phạm cũng giống

như đối với một lưỡi

câu đâm vào ngón tay

: bạn không thể lấy

lưỡi câu đi bằng cách

lôi nó ra được, nhưng

bạn phải đẩy lưỡi câu

sâu vào trong thịt để

rồi lôi cái đầu lưỡi

câu ra bên kia.

Bài tập tập trung mà

tôi đề nghị ở cuối

chương nầy sẽ giúp bạn

thực hiện việc trở về

với chính bạn. Nó sẽ

dạy bạn phải xử sự

làm sao để tiến bộ

trong pha xúc cảm nầy

của sự tha thứ. Nhưng

trước đó, điều quan trọng

là bạn ý thức về

hiện tượng các cơ chế

tự vệ được sử dụng

để chống lại đau khổ.

1. Hiện tượng các cơ

chế tự vệ :

Tâm thần con người được

tổ chức tốt để tự

vệ chống lại sự xâm

nhập của một đau khổ

quá lớn lao. Khi nỗi

đau trở thành không thể

chịu đựng được thì tâm

thần con người tìm cách

làm giảm nhẹ sự va

chạm của nó bằng nhiều

phương tiện khác nhau. Trên

bình diện sinh học, nóđiều động các hóc-môn tự

nhiên chống lại đau đớn.

Trên bình diện tâm lý,

những cơ chế tự vệ

hay kháng cự hành động

theo cách thức các cầu

chì chảy đi để ngăn

cản một dòng điện quá

mạnh làm cháy mạch điện.

Một cách chính xác hơn,

chúng làm tê liệt các

hậu quả tác hại củanhững cảm giác quá mạnh

ngõ hầu toàn bộ cơ

thể có thể tồn tại.

Một số tác giả tâm

lý học xem ra không

tán dương đúng mức sự

lợi ích của các cơ

chế tự vệ. Theo ý

họ thì phải loại bỏ

chúng đi, sớm chừng nào

có thể. Nhưng xem rahọ quên đi rằng có

một sự khôn ngoan được

ghi khắc trong những cơ

chế tự vệ sinh lý

và tâm lý. Những cơ

chế tự vệ sinh lý

và tâm lý nầy cho

phép những người bị tổnthương được sống còn và

rồi theo đuổi các hoạt

động của họ mà không

phải suy sụp hoàn toàn.

Phải chăng là nhờ các

cơ chế tự vệ nầy

mà người lính bị thương

tìm được sức mạnh vượt

qua những đoạn đường dài

đi bộ để được chăm

sóc ? Mà người mẹ

gia đình phải buồn phiền

sâu xa vì cái chết

của chồng sẽ nén lặng

nỗi khổ đau của mình

để tiếp tục chăm sóc

con cái ? Mà nhà

kinh doanh bị đe dọa

một cuộc phá sản sắp

xảy ra tìm được can

đảm để theo đuổi những

công việc thường ngày không

để cho mình bị quật

ngã ?

Tuy nhiên, những cơ chế

tự vệ nầy sẽ tỏ

ra vô ích và ngay

cả nguy hại, nếu chúng

cứ tiếp tục bảo vệ

một người nào đó, một

khi đã qua đi cơn

nguy hiểm. Con người nầy

sẽ giống như một cảnh

sát viên cố chấp cứmặc chiếc áo chống đạn

sau khi thi hành công

vụ, để được an toàn

trong nhà ở của mình.

Chúng ta hãy đi thêm

một bước và khảo sát

gần hơn những hình thức

khác nhau mà các sức

kháng cự tâm lý nầy

có thể mặc lấy. Như

thế sẽ nhận diện chúng

tốt hơn. Chúng thuộc về

hai phạm trù lớn :

những sức kháng cự do

khả năng nhận thức và

những sức kháng cự do

cảm xúc.

2. Những sức kháng cự

do khả năng nhận thức

:

Tôi sẽ đụng đến một

tí ở đây đề tài

về những sức kháng cự

do khả năng nhận thức,

bởi vì tôi đã nói

ở chương III. Chúng ta

hãy nhớ lại rằng sự

cự tuyệt có tính cách

nhận thức hệ tại việc

chối bỏ sự xúc phạm

hoặc cố giảm nhẹ sự

va chạm của xúc phạm.

Những sức kháng cự nầy

mặc lấy nhiều hình thức.

- Trước hết là hình

thức của sự quên :

lúc ấy người ta dám

chắc rằng sự quên đi

điều xúc phạm hoặc tác

động của nó trên mình

sẽ là lý tưởng để

theo đuổi trong hành động

tha thứ.

- Tiếp đến là hình

thức của sự xin lỗi

: lúc ấy người ta

sẽ gắng sức phát minh

ra đủ thứ lời xin

lỗi giả trá nhằm gỡbỏ trách nhiệm cho kẻ

xúc phạm.

- Cuối cùng, chúng ta

hãy nhớ lại một cạm

bẩy tương tự nhằm xoá

đi một xung đột của

một tha thứ nhanh chóngvà bề ngoài.

Để biện minh cho sự

cự tuyệt do khả năng

nhận thức, các lý do

không thiếu. Chúng còn cấp

bách hơn nữa khi liên

quan đến những sự phản

bội hoặc là những bất

công trầm trọng đến từ

những người thân cận. Chúng

được xem như là những

xúc phạm hết sức đau

đớn và đe dọa mà

người ta muốn không biết

đến chúng thì hơn. Nhưthế, nên, mặc dù có

nhiều dấu hiệu, người chồng

không chịu rằng vợ mình

không trung thành với mình

; người mẹ không tin

rằng con trai bà dùng

ma túy, ngay cả khi

bà nhận thấy nơi con

bà tất cả những cách

xử sự của một người

nghiện ma túy ; ông

chủ không nghĩ là người

thợ của ông tận tụy

như thế lại ăn trộm.

Dĩ nhiên một chiến lược

đà điểu không dám nhìn

thẳng vào nguy hiểm nhưthế giảm nhẹ nỗi đau

và thất vọng, nhưng về

lâu về dài sẽ phải

cay đắng nhiều khi ý

thức.

Đôi khi, sự kháng cự

do khả năng nhận thức

dẫn đến việc quên đi

trọn vẹn một biến cố.

Nhưng biến cố đó vẫn

làm phát sinh hậu quả

tai hại của nó trên

thái độ ứng xử, ngaycả sau nhiều năm. Đó

là điều xảy ra cho

một cán sự xã hội

mà tôi đã kể cho

bạn câu chuyện. Biến cố

đau thương ở bệnh viện

cũng như quyết định trẻ

con không còn tín nhiệm

vào người lớn đã bị

quên đi hoàn toàn và

chôn vùi trong vô thức.

Làm sao ông ta có

thể thực hiện một tiếntrình tha thứ, nếu ông

ta đã không phát hiện

ra được nguồn gốc sự

mất mát và xấu hổ

đã dẫn ông đến chỗkhông còn tín nhiệm vào

các cấp trên thuộc phái

nam của ông ?

3. Những sức kháng cự

do cảm xúc :

Những nghiên cứu mới đây

về những sự lệ thuộc

tạo nên do rượu và

ma túy mạc khải rằng

sự xấu hổ không đượcsống tốt đóng một vai

trò quyết định trong sự

cự tuyệt có tính cách

cảm xúc. Vậy người ta

khó nhọc bắt đầu khảosát tỉ mỉ cảm giác

xấu hổ và những cơ

chế tự vệ dùng đểche đậy nó. Cho đến

đó, cảm giác xấu hổ

thường bị lẫn lộn với

cảm giác có lỗi. Nhưng

cảm giác nầy không phảilà cảm giác kia. Chúng

không có cùng nguồn gốc,

mà cũng không có cùng

phận sự. Cảm giác có

lỗi trổi dậy từ ý

thức đã vi phạm một

luật hoặc một nguyên tắc

luân lý trình bày một

lý tưởng cá nhân hoặc

xã hội phải thực hiện.

Sự xấu hổ là tình

cảm mà cái ngã sâu

thẳm bị bóc trần và

phơi bày ra ánh sáng.

Sự xấu hổ làm cho

người ta khám phá thấy

mình quá dễ bị tổn

thương, bất lực, bất tài,

không thích hợp và lệ

thuộc. Người mắc phải cảmgiác có lỗi sẽ nói

: "Tôi đã làm điều

xấu, tôi có lỗi và

tôi cảm thấy mình là

thủ phạm", trong khi người

cảm nhận sự xấu hổ

sẽ khẳng định : "Tôi

là người xấu và chẳngđáng chi. Tôi rất sợ

rằng người ta sẽ loại

bỏ tôi".

Cảm giác có lỗi đến

từ ý thức đã không

đạt tới lý tưởng của

mình, trong khi cảm giác

xấu hổ sinh ra từ

ý thức sâu sắc về

những suy yếu và tính

cách dễ bị tổn thương

của cái ngã sâu thẳm.

Người xấu hổ có cảm

tưởng rằng những yếu đuối

của mình bị trưng bày

ra trước mắt mọi người.

Y luôn luôn cảm thấy

đe dọa bị người ta

chê cười và loại bỏ.

Một số người sẽ tự

hỏi : "Tại sao quá

nhấn mạnh như thế đến

mối tương quan giữa sự

xấu hổ và sự tha

thứ ?" Chính là vì

có mối tương quan chặt

chẻ giữa sự xấu hổvà sự cự tuyệt do

cảm xúc, và do đó

với sự tha thứ. Mộtcách chắc chắn, sự xúc

phạm gây nên một cảm

giác sĩ nhục và xấu

hổ. Cảm giác nầy còn

lớn lao hơn nếu sự

xúc phạm phát xuất bởi

một người được yêu mến

hay kính trọng mà người

ta lệ thuộc vào. Sự

lệ thuộc của y đối

với một người khác và

những nhu cầu khác nhau

ít nhiều ấu trĩ của

y bấy giờ bị phát

giác. Sự thất vọng còn

thấm thía hơn nữa khi

người ta cảm thấy bị

lăng nhục bởi chính conngười mà mình chờ đợi

tình thương yêu và sự

kính trọng.

Muốn tha thứ mà không

ý thức đến sự sĩ

nhục và xấu hổ đi

theo sự xúc phạm nầy

là tiến đi trên một

con đường mìn bẩy và

ngõ cụt. Ý muốn tha

thứ, dù có quảng đại

đi nữa, sẽ che đậy

một nhu cầu tự bảo

vệ chống lại sự xấuhổ cảm thấy mình "thấp

kém".

Thách đố lớn hơn phải

lấy đi trong suốt pha

cảm xúc của tha thứ,

chính thực là nhìn nhận

tình cảm xấu hổ sâu

xa của mình để chấp

nhận nó, tương đối hóa

nó, tiêu hóa nó và

sáp nhập nó. Một khi

được thuần hóa, tình cảm

xấu hổ đó không những

trở nên có thể chịu

đựng được, mà nó còn

làm cho con người ý

thức hơn về sự bất

lực và hữu hạn chung

của tất cả mọi người.

Nhưng tình cảm xấu hổkhông tự để bị khám

phá ra cách dễ dàng

đâu. Chúng ta cần phải

nhận ra các mặt nạ

mà nó ẩn núp bên

dưới : sự tức giận,

ý muốn quyền lực, óc

luân lý biệt phái, mặc

cảm nạn nhân vĩnh viễn

và chủ nghĩa cầu toàn.

Sự tức giận và nhu

cầu trả thù thường được

sử dụng để che đậy

sự xấu hổ. Thay vì

chấp nhận nó, người bị

xúc phạm lấy làm xấu

hổ và bị sĩ nhục

phản ứng lại bằng cáchmuốn đến phiên mình sẽ

hạ nhục kẻ xúc phạm.

Trong nổ lực tự giải

thoát khỏi sự xấu hổ

của mình, người bị xúcphạm phóng chiếu sự xấu

hổ đó lên kẻ xúc

phạm, hầu thấy nó cũng

phải đau khổ vì cùng

một sự dữ. Nơi một

số người, đôi khi sự

tức giận và nhu cầu

trừng trị có hậu quả"gậy ông đập lưng ông".

Sau khi đã kiềm chế

mọi tình cảm bạo lực,

họ quây lại chính mình

sự tức giận và ướcmuốn trả thù đó. Lúc

ấy sự xấu hổ được

che đậy ở đàng sau

những tình cảm lo âu

và có lỗi tự trừng

phạt. Cái đó càng làm

cho nó khó mà nhận

ra được.

Trong chiều hướng đó, có

thể nói là người ta

thích cảm thấy mình có

lỗi hơn là cảm thấy

xấu hổ và bất lực.

Một số sự tha thứ

được ban ra sau khi

tức giận đã đời đượclàm thành bởi những sự

trả thù tinh vi. Điều

đó giải thích tại sao

người được hưởng một sự

tha thứ như thế lạicảm thấy một sự khó

chịu sâu xa : thay

vì cảm thấy một tình

cảm giải thoát thì lại

cảm thấy xấu hổ và

lắm khi bị sĩ nhục.

Dù xem ra thật mâu

thuẫn, một số người bị

sĩ nhục lại chấp nhận

những thái độ quyền lực

và kẻ cả. Do đó

họ tìm cách tránh kinh

nghiệm sự bất lực phát

sinh do sự xấu hổ

về chính mình. Để phản

ứng lại, họ sẽ phóng

đại tầm quan trọng của

họ, họ xem người khác

kém hơn họ về mặt

hiểu biết, về phẩm chất

luân lý và về quyền

bính. Nói theo ngôn ngữ

của phân tích thỏa hiệp,

những người đó tự tuyên

bố là mình "nghiêm túc"

và cho những người khác

là "không nghiêm túc". Trong

cùng vết chân ấy, họchấp nhận những cung cách

ngạo nghễ của kẻ cả

và hiểu biết mọi mặt.

Tất cả những cái đó

là vì sợ trực diện

với sự nghèo nàn nội

tâm mà chỉ nghĩ đến

thôi họ đã cảm thấy

lo âu rồi. Quan niệm

của họ về tha thứ

đã bị hỏng và họ

sử dụng nó như một

phương thế bảo đảm cho

sự chế ngự vượt trội

của họ.

Ý muốn quyền lực là

một hình thức khác của

sự che đậy xấu hổ.

Nhìn trong một viễn tượng

luân lý, nó mặc hìnhthức của một sự cao

thượng luân lý giả dối

mà người ta có thể

gọi tên là não trạng

biệt phái. Người bị xúc

phạm, không có khả năng

chấp nhận sự sĩ nhục

của mình, sẽ sử dụng

sự tha thứ như một

phương tiện làm nhục kẻ

đã gây ra thiệt hại

cho mình. Người đó có

vẻ như muốn nói :"Anh thấy đó, tôi trổi

hơn anh và tôi sẽ

chứng minh điều đó bằng

cách tha thứ cho anh".

Thật quá rõ ràng là

thứ tha thứ nầy che

đậy nhiều tự ái và

lòng khinh bỉ kẻ khác.

Đối ngược lại não trạng

biệt phái với thứ luân

lý ngạo nghễ là người

đóng vai nạn nhân vĩnh

viển. Đảo ngược lại chiến

lược, người đó học được

cách rút phần lợi của

sự xấu hổ về mình

để lôi kéo lòng thương

hại của những người khác

: người đóng vai nạn

nhân vĩnh viển biết cáchkhai thác những lầm lỗi

của kẻ bách hại cho

lợi ích của mình. Y

luôn than phiền về kẻ

bách hại và những hànhđộng xấu của kẻ bách

hại, y nói về nỗi

đau khổ của mình cho

người nào muốn nghe, y

khéo léo trưng bày nhữnghành động tàn nhẫn y

phải chịu đựng. Đồng thời

y khêu gợi lên sự

tức giận nơi các thính

giả đối với kẻ bách

hại. Cũng vậy, khi người

phải chịu đau khổ triền

miên đó khẳng định bỏ

qua những lầm lỗi người

ta đã phạm đối với

y, thì y chỉ tìm

cách tỏ ra là mình

xứng đáng được ngưỡng vọng

và ca tụng.

Cuối cùng, chúng ta hãy

xem cái mặt nạ hoàn

hảo mà người tha thứ

có thể mặc cho mình.

Lúc là con trẻ, ngườicầu toàn thường đã phải

chường mặt ra với nhiều

xấu hổ. Sự giáo dục

gia đình đã khắc sâu

vào lòng y bằng nhữnglời quở trách khiến y

phải xấu hổ. Hoặc có

lẽ y đã phải sống

nhiều xấu hổ đối mặt

với những ứng xử thất

thường của một người cha

say rượu. Còn là trẻ

con, y đã có thểthề rằng sẽ không bao

giờ làm điều chi sai

lỗi để không phải xấu

hổ nữa. Để được như

vậy, y cố gắng trở

nên không gì chê trách

được trong mọi sự và

ở khắp mọi nơi. Là

gương mẫu về nhân đức,

y tự bắt buộc mình

phải tha thứ. Sự tha

thứ giúp y bảo vệ

cái bề mặt mỏng dòn

mà y muốn cho nó

không thể bị tấn công

được.

Đó là vài cái bẩy

tâm lý có thể gây

trở ngại cho việc mổxẻ cõi lòng con người,

là thành phần của động

lực tha thứ. Những cái

bẩy tâm lý nầy thường

nhằm che đậy cảm giác

sĩ nhục và xấu hổ

bởi một sự tha thứ

giả dối. Và như thế

chúng sẽ ngăn cản sự

tha thứ trở thành một

cử chỉ giải thoát và

triển nở. Do đó mà

có nhu cầu trước hếtphải tẩy rửa lãnh vực

cảm xúc của mình trước

khi đạt tới sự tha

thứ đích thực.

4. (Bài tập)

Để nhận biết thương tổn

và sự nghèo nàn của

mình:

Mục đích bài tập nầy

là để loại bỏ những

sức kháng cự đau khổ

và xấu hổ đã trở

nên vô ích và ngay

cả tác hại. Nó giúp

thực hiện chân lý và

chuẫn bị cho giai đoạn

kế tiếp hệ tại việc

chia sẻ với một người

khác.

Như chúng ta vừa thấy,

tâm thần con người không

dễ để lộ ra ý

thức trọn vẹn những kinh

nghiệm đau thương. Nó tự

bảo vệ chống lại đau

khổ và nhất là sự

xấu hổ. Vậy vấn đề

không phải là cày sâu

những sức kháng cự tâm

lý nầy hoặc ngay cả

tháo gỡ chúng đi, nhưng

trái lại, trước hết phải

ý thức chúng, chấp nhận

chúng và để chúng tựtan rả đi.

Phương thế tốt nhất để

đạt được điều đó là

đi đón gặp chúng ở

bất cứ đâu mà chúng

đang phục kích, nghĩa làtrong thân thể mình. Thân

thể đã ghi lại tất

cả và giữ như in

trong ký ức sự xúc

phạm và những hậu quả

vật lý và tâm lý

của chúng. Những sự căng

thẳng, xơ cứng, đau đớn,

ngay cả một số bệnh

tật thể xác phản ánh

sự đau khổ tâm lý

đã không được bộc lộ

ra. Chúng báo hiệu cómột vết thương cần được

chữa lành.

Nếu bạn sẵn sàng bắt

đầu bài tập luyện, bạn

hãy chú tâm tạo một

bầu khí thật yên tĩnh

chung quanh bạn. Hãy liệuđừng để bị quấy rầy

trong chừng hai mươi phút.

Hãy giữ một tư thế

thoải mái. Tránh đừng mặc

những quần áo quá chật.

Hãy để một lúc để

đi vào nội tâm bạn.

...

Hãy đặt mình bạn trước

sự hiện diện của Chúa

hay suối nguồn thiêng liêng

khác quan trọng đối với

bạn. Nhờ đó bạn sẽ

có can đảm hơn để

bắt liên lạc với thương

tổn và sự nghèo nàn

nội tâm của bạn.

...

Bạn hãy bắt đầu bằng

việc nhắc lại kinh nghiệm

về sự xúc phạm, trong

khi vẫn chăm chú vào

các phản ứng cơ thểcủa bạn. Nếu bạn không

nhớ ra, bạn hãy ý

thức về những căng thẳng,

xơ cứng và cả những

triệu chứng cơ thể củabạn. Hãy chú ý đặc

biệt những gì diễn ra

trong con tim vật lý

của bạn.

...

Nếu có nhiều phản ứng

cơ thể xảy đến trong

cùng lúc, bạn hãy chấp

nhận tất cả những phản

ứng ấy trong vài chốc

lát. Rồi bạn hãy cố

tập trung tinh thần trên

phản ứng nào xem ra

quan trọng nhất, trung tâm

nhất đối với bạn.

...

Bạn hãy hiện diện với

sự căng thẳng hay nỗi

đau của bạn mà không

muốn thay đổi gì hết,

cũng chẳng tìm một lờigiải thích. Bạn hãy tiếp

đón với nhiều tế nhị

và thiện cảm cái phần

đau khổ đó của bạn.

...

Vẫn luôn luôn với sự

tử tế đó, bạn hãy

hỏi sự căng thẳng của

bạn : "Mầy đang duy

trì ẩn giấu cái gì

đó ? Cái gì đang

diễn ra ? Tao sẵn

sàng lắng nghe mầy đây".

Bạn cũng có thể nói

thẳng với lòng bạn :

"Mầy đang giữ cái gìcủa sự xúc phạm để

nó ngăn cản mầy sống

một cách trọn vẹn ?"

...

Bạn hãy tiếp tục giữ

liên lạc với sự căng

thẳng và nỗi đau của

bạn. Bạn hãy chuẫn bị

đón tiếp những gì sắp

lộ ra mà không phê

phán gì cả. Bạn hãy

để cho các hình ảnh,các lời nói và ngay

cả những cảm giác khác

trổi dậy mà không tìm

giải thích, thay đổi hay

loại bỏ chúng đi.

...

Bạn cũng có thể nói

lại trong ngôn ngữ của

bạn những sứ điệp chảy

dồn tới dưới hình thức

những hình ảnh, những lời

nói hoặc những cảm giác.

Hãy hỏi cái phần đó

của bạn : "Tao có

hiểu rõ cái kỷ niệm

hay hình ảnh nầy mà

mầy giao cho tao không

? Đó có phải là

những lời mầy muốn nói

với tao không ? Cái

cảm giác kia đến từ

mầy hay từ một nguồn

nào khác ?" Chính như

vậy mà bạn tỏ cho

nó thấy sự chấp nhận

thuần túy và đơn giản

những gì xảy đến ở

trong bạn mà không phê

phán, không cắt nghĩa vàcũng không muốn thay đổi.

...

Nếu không có gì vươn

lên ý thức, bạn hãy

tiếp tục nhẫn nại giữ

liên lạc với thân xác

bạn. Nếu bạn sốt ruột,

bạn hãy tập trung vào

sự mất nhẫn nại đó

và để nổi bật lênsứ điệp mà cái lúc

sốt ruột nầy mang lại

cho bạn.

...

Khi bạn bằng lòng với

cái bạn vừa học được,

bạn hãy cám ơn cái

phần đau khổ của bạn

vì đã muốn thông hiệpvới bạn. Bạn hãy cho

nó một cuộc hẹn khác

và chuẫn bị để từ

giả nó.

Khen ngợi bạn vì đã

can đảm trở lại gặp

gỡ cái phần bị tổn

thương của bạn và đã

có thể nhìn thẳng mặt

sự nghèo nàn nội tâm

của bạn. Bạn nên bắt

đầu lại cuộc tập luyện.

Hiếm khi vô thức mạc

khải tất cả mọi sự

trong một lúc. Nó sẽ

để bạn tiêu hóa vài

nhúm nhỏ mà nó đã

cho bạn.

Cuối cùng, điều quan trọng

là bạn ghi lại trong

nhật ký những mạc khải

đã nhận được trong buổi

tập luyện.

Giai Đoạn 3

Chia sẻ thương tổn của

mình với một người nào

đó

Nếu tôi được lắng nghe,

chỉ được lắng nghe thôi,

tôi có được tất cả

không gian cho tôi, tuy

nhiên, vẫn có một người

nào đó.

Maurice Bellet

Có nhiều phản ứng có

thể có đối với một

lăng nhục, một sự phản

bội hay một bạo lực.

Giữa phản ứng tự vệ

của một người tự cô

lập mình và phản ứng

tự vệ của một người

bị bắt nạt đóng vai

tử đạo, có một chọn

lựa lành mạnh hơn và

hứa hẹn hơn cho việc

chữa lành : bạn chia

sẻ đau khổ của bạn

cho một người nào đó

biết lắng nghe bạn mà

không phê phán bạn, không

dạy luân lý cho bạn,

không đè nặng lên bạn

bằng lời khuyên bảo, ngay

cả không cố gắng nâng

đỡ nỗi đau của bạn.

Sự thành công của pha

cảm xúc của việc tha

thứ tùy thuộc phần lớn

vào sự cởi mở chân

thành của bạn với người

đối thoại chăm chú nầy.

1. Tại sao phải chia

sẻ nội tâm bị thương

tổn của bạn?

Một trong những khía cạnh

khó kham nhất của vết

thương bạn, chính là cảm

giác phải mang vác gánh

nặng nầy một mình đơn

độc trên đời. Vì thế,

khi bạn kể câu chuyện

của mình ra với người

nào đó chấp nhận lắng

nghe bạn thì bạn không

còn đơn độc nữa. Có

người nào đó không những

chia sẻ nỗi thầm kín

của bạn, mà còn chia

sẻ gánh nặng khổ đau

của bạn.

Ngoài ra, việc bạn tâm

sự với người nào đó

sẽ làm cho bạn sống

lại biến cố thương tổn

cách bình tĩnh hơn. Bạn

sẽ tận dụng điều đó

để ý thức những cảm

xúc còn canh cánh trong

lòng. Quá khứ chổi dậy

và trở thành hiện tại.

Bạn sẽ sống lại thảm

kịch của mình, nhưng lần

nầy trong bối cảnh được

an lòng hơn. Bạn sẽ

thủ đắc được một bảo

đảm lớn lao hơn nhờ

lòng tín nhiệm mà bạn

đã đặt để nơi người

tâm phúc của bạn. Quan

niệm của bạn về sự

xúc phạm sẽ thay đổi.

Bạn sẽ thấy nó bớt

đe dọa hơn và có

thể chịu đựng được hơn.

Chắc chắn bạn đã kinh

nghiệm được rằng dễ tìm

được giải pháp cho các

vấn đề của người khác

hơn là của mình. Đó

quả thật là cái xảy

đến với bạn khi bạn

thổ lộ tâm tình với

người nào đó đóng vai

làm chiếc gương phản chiếu

hoặc thùng dội âm cho

bạn. Tiếp đến, bạn sẽ

bắt đầu giữ khoảng cách

với những khó khăn của

bạn và sẽ thấy những

khó khăn đó trong một

viễn ảnh rộng lớn hơn.

Kết quả là bạn sẽ

chế ngự chúng cách tốt

đẹp hơn.

Lợi ích sau cùng bạn

có thể rút ra được

từ những cuộc trao đổi

của bạn với một người

khác : sự chấp nhận

vô điều kiện của họ

sẽ bắt đầu dần dần

có ảnh hưởng trên bạn.

Từ sự kiện người đó

đã đón nhận bạn với

lòng trắc ẩn, bạn sẽ

sẵn sàng hơn để đón

nhận chính mình với lòng

bao dung. Tôi bảo đảm

với bạn rằng sự đón

nhận chính bạn nầy sẽ

mang lại cho bạn bình

an và yên tĩnh nội

tâm.

Những hậu quả tốt lành

của việc chia sẻ các

trạng thái tâm hồn với

một người bạn tri âm

là không thể chối cải

được. Người ta có thể

chờ đợi những hậu quả

của một cuộc chia sẻ

như thế với chính người

gây nên xúc phạm chăng

?

2. Chia sẻ với chính

kẻ gây nên xúc phạm

:

Nhà tâm lý trị liệu

lâm sàng từng trải kinh

nghiệm James Sullivan khẳng định

trong cuốn Journey to Freedom

rằng sự thành công của

việc tha thứ có tính

cách xúc cảm tùy thuộc

vào ba điều kiện cốt

yếu sau đây về phía

người gây nên xúc phạm

:

- Nhìn nhận lầm lỗi

của mình,

- Biểu lộ sự ân

hận của mình,

- Quyết định không tái

phạm nữa.

Chính tôi đã có kinh

nghiệm sống một tình huống

tập trung cả ba điều

kiện đó. Đó là một

việc tầm thường xảy ra,

nhưng đã biến thành cuộc

xung đột tiềm ẩn thường

xuyên. Tôi ngồi nghe tin

tức truyền hình cùng với

mươi tu sĩ đồng nghiệp.

Một người trong họ khám

phá thấy một cái chai

rổng để gần một chiếc

ghế. Tin chắc tôi là

tác giả của sự cẩu

thả đó, người ấy đứng

dậy đầy phẩn nộ, cầm

cái chai đưa về phía

tôi và nói với tôi

bằng giọng càu nhàu và

cáo buộc : "Cái chai

nầy của ai ?" Không

cần phải thêm rằng sự

va chạm của cử chỉ

nầy tăng gấp mười vì

sự hiện diện của những

người chứng kiến. Đồng thời

không phải là tôi không

nhận ra những tiếng cười

phía các đồng nghiệp. Có

thể nói rằng họ chỉ

chờ việc xảy ra đó

để xác nhận thành kiến

của họ là tôi hay

chểnh mãng.

Tôi cầm lấy cái chai

không nói một lời, nhưng

sục sôi tức giận. Cho

tới lúc đi ngủ, tôi

nghĩ ra đủ thứ biện

pháp trả thù tinh tế.

Vào giờ nguyện gẫm ban

sáng, tôi ngạc nhiên về

tầm quan trọng mà tôi

đã đem vào mình do

cuộc đối đầu hôm trước.

Trong khi kiếm tìm nguyên

nhân của một mối xúc

cảm như thế, tôi khám

phá ra được rằng những

vết thương cũ đã bị

mở ra lại và ngay

lập tức tôi đã quyết

định đẩy xa mọi ý

nghĩ trả thù và sẽ

gặp người đồng nghiệp cáo

buộc ấy.

Tôi đợi lúc thuận tiện

chỉ có một mình tôi

với người anh em. Tôi

chia sẻ với y sự

sĩ nhục và cơn tức

giận của tôi do những

lời nói của y. Tôi

hết sức ngạc nhiên là

người bạn đồng nghiệp đã

khiêm tốn xin lỗi, viện

dẫn sự mệt mỏi hết

sức của anh như lý

do cách ứng xử của

anh. Rồi anh bắt đầu

thổ lộ với tôi suốt

một giờ những sự khó

khăn riêng của anh. Xem

ra sự cởi mở của

tôi đã khơi ra sự

cởi mở của anh. Một

sự thân tình mới đã

được tạo lập giữa hai

chúng tôi.

Chính lúc ấy tôi hiểu

được hơn câu ngạn ngữ

cũ : "Lỗi lầm đã

thú nhận được tha thứ

một nửa rồi", bởi vì

vào lúc anh thú nhận

và tỏ ra ân hận

thì lập tức tôi cảm

thấy trong mình tan biến

mất tất cả oán giận.

Dù chẳng nghĩ tới làm

việc đó, tôi đã tha

thứ cho anh ta rồi.

Cũng nên ghi nhận rằng

trước khi chất vấn người

bạn đồng nghiệp, tôi đã

chuẫn bị kỷ : tôi

đã cầu nguyện, đã cẩn

thận cân nhắc từng chữ

tôi sẽ chất vấn, tôi

đã cho anh ta trước

hình thức của một sứ

điệp không cáo buộc. Tôi

đã muốn tránh đi mọi

cáo buộc chống lại gây

tổn thương. Như thế, tôi

đã cho anh ta phản

ứng xúc cảm của tôi

một cách đơn giản và

không tấn công. Hơn nữa,

tôi đã sẵn sàng lắng

nghe anh và theo đuổi

cuộc đối thoại với anh

cho đến khi chúng tôi

có thể cùng nhau làm

sáng tỏ được tình cảnh.

3. Khi sự chia sẻ

với kẻ gây xúc phạm

là không thể được :

Nhưng cái gì xảy ra

nếu người có lỗi không

muốn nói đến, mà cũng

chẳng muốn nghe nói đến

sự xúc phạm, như trường

hợp của thiếu nữ kia

là nạn nhân một vụ

lạm dụng tình dục về

phía dượng ghẻ của cô.

Sau một thời gian dài

trị liệu, cô cảm thấy

nhu cầu phải nói với

ông về những hậu quả

tác hại do những lạm

dụng tình dục ông đã

làm cho cô phải chịu

đựng. Cô cảm thấy thời

gian cấp bách, vì dượng

cô đã bị ung thư

tới giai đoạn cuối. Về

phía mình, người dượng ghẻ

luôn luôn tránh đề cập

tới vấn đề đó. Không

thể đối thoại được với

dượng, cô nghĩ rằng không

thể tha thứ cho ông.

Tôi đã khuyên cô sử

dụng ngôn ngữ thinh lặng

của tâm hồn để nâng

đỡ nỗi đau và bạo

lực của ông, và liệu

tình hình mà tha thứ

cho ông. Đó là điều

cô ta đã làm. Trong

những lúc thinh lặng ở

bên giường bệnh của dượng

cô, cô đã tạo nên

một tương quan sâu xa

với ông bằng cách làm

cho nhịp thở của cô

đồng điệu với nhịp thở

của dượng cô, rồi cô

đã kể trong lòng cô

cho dượng cô tất cả

những đau khổ mà "việc

ấy" đã gây nên nơi

cô. Sau nhiều lần cô

để cho con tim mình

nói lên, cô cảm thấy

sự tha thứ trổi dậy

trong cô và lúc ấy

cảm thấy được nâng đỡ

sâu xa. Điều lạ lùng

là dượng cô xem ra

yên tĩnh nhiều hơn.

Tình trạng sẽ phức tạp

khi kẻ gây nên xúc

phạm từ chối nhìn nhận

lầm lỗi của mình, hoặc

kẻ gây nên xúc phạm

vắng mặt, không thể gặp

được, lạ mặt hay đã

chết. Trong một hoàn cảnh

tương tự, James Sullivan gợi

ý cho người cố vấn

đóng vai kẻ gây nên

xúc phạm, nhân danh kẻ

gây nên xúc phạm để

nhìn nhận lỗi lầm của

y, bộc lộ sự hối

hận và quyết tâm của

y.

Để minh họa chủ định

của mình, ông thuật lại

câu chuyện của một nữ

tu bị trầm uất thường

xuyên vì trong thời thơ

ấu đã bị mẹ ruồng

bỏ. Một khi hiểu rằng

nữ tu ấy đã  chuyển

vị hình ảnh của mẹ

nàng sang ông, James Sullivan

chấp nhận đóng vai mẹ

nàng. Ông đã xin lỗi

vì đã lãng quên nàng

trong tuổi thơ ấu của

nàng. Rồi ông biểu lộ

niềm vui mừng khám phá

lại được nàng và có

thể học yêu thương nàng

trở lại. Theo vị chuyên

gia tâm lý nầy, những

trao đổi đó thật hết

sức sinh phúc, chúng khiến

vị nữ tu đã có

thể gặp lại đứa bé

gái bên trong của mình,

cho phép nàng sống lại

và bộc lộ những xúc

cảm mà mãi cho tới

lúc ấy đã bị băng

giá trong lòng nàng. Nàng

đã khóc thật nhiều, đã

tỏ ra giận dữ, nhưng

cuối cùng đã tha thứ

cho mẹ nàng.

Sự giúp đỡ của người

cố vấn sẵn sàng đóng

vai nhân vật gây nên

xúc phạm không phải luôn

luôn là có thể được.

Trong trường hợp đó, phải

chạy đến với các phương

tiện thay thế. Chẳng hạn,

viết những bức thư mà

không gởi đi, đối thoại

với một chiếc ghế mà

tưởng tượng rằng kẻ gây

nên xúc phạm đang ngồi

ở đó.

Đối mặt với một kẻ

gây nên xúc phạm không

hối cải và ngoan cố,

phương thế cuối cùng là

giao phó y cho Chúa,

như một khoản luật Dothái

muốn : "Nếu kẻ xúc

phạm đến ngươi không muốn

sửa chữa, ngươi hãy giao

phó nó cho sự công

bằng của Thiên Chúa". Đó

rõ ràng là điều vị

giám đốc một học hiệu

quan trọng đã làm. Khi

ông biết ý định của

tôi là viết về sự

tha thứ, ông đã kể

lại cho tôi câu chuyện

của ông, dĩ nhiên là

với ý hướng, dù không

nói ra, là để tôi

làm ích cho các đọc

giả của tôi.

Là nạn nhân của những

âm mưu bất chính của

hai đồng nghiệp, ông đã

bị mất một địa vị

hành chánh cao và đã

thấy sự nghiệp của mình

bị gãy đổ. Lúc đó

ông đã bị trầm uất

nặng, nhưng ông đã thoát

ra được nhờ một lời

khuyên được tìm thấy trong

tác phẩm của Michael Murphy

về tha thứ. Nhiều lần

trong ngày, ông đã lặp

đi lặp lại lời nguyện

vắt tắt sau đây :

"Lạy Chúa, trong sự bất

lực của con, con xin

trao phó các đồng nghiệp

của con (ở đây, ông

kể tên họ ra) cho

lòng nhân hậu lớn lao

của Chúa, ngõ hầu Chúa

biến đổi điều thiệt hại

họ đã làm cho con

thành lợi ích, và chớ

gì ý Chúa được hoàn

tất như vậy". Ông bảo

đảm với tôi rằng sau

ba tháng cầu khẩn như

thế, ông không còn cảm

thấy trong mình dấu vết

nhỏ mọn thù hận và

oán giận nào nữa. Vào

một dịp hội nghị, gặp

lại những kẻ gièm pha

cũ, ông ngạc nhiên thấy

mình tự phát đưa tay

ra bắt tay họ.

4. Để chia sẻ thương

tổn của mình :

Giữa những phương thế chia

sẻ đã được khuyên trong

chương nầy, bạn có tìm

kiếm phương thế nào thích

hợp nhất cho tiến trình

tha thứ riêng của bạn

không ?

Nói với chính kẻ xúc

phạm bạn, sau khi đã

chuẫn bị cuộc can thiệp

của bạn như thế nầy

: quyết định nói với

y điều bạn đã cảm

nhận nhờ những sứ điệp

bắt đầu bằng "tôi", lắng

nghe lời giải thích của

kẻ xúc phạm và đi

cho đến cùng cuộc trao

đổi.

Tìm một người nào đó

biết lắng nghe mà không

phê phán bạn.

Thực hành thứ "ngôn ngữ

của con tim" trong những

hoàn cảnh khó khăn.

Giao phó kẻ xúc phạm

bạn cho Chúa trong lời

cầu nguyện.

Giai Đoạn 4

Xác định rõ mất mát

của mình để đành nhận

chịu mất mát

"Tôi đã chịu một xúc

phạm, nhưng tôi đã không

bị xúc phạm ở thâm

sâu hữu thể mình."

(Vô danh)

Trên con đường dài của

tha thứ, bạn đã bắt

đầu nhận ra thiệt hại

mà sự xúc phạm đã

gây ra nơi bạn và

bạn đã nói về điều

đó với một người nào

rất có cảm tình. Hoàn

cảnh của bạn đưọc làm

sáng tỏ và gánh nặng

xúc cảm của bạn được

vơi đi. Vậy bây giờ

bạn đang trên đường được

chữa lành trọn vẹn. Trong

suốt giai đoạn thứ tư

nầy, tôi đề nghị với

bạn làm một bản kiểm

kê cụ thể những sự

mất mát gây nên bởi

sự xúc phạm đó. Sự

ý thức nầy sẽ giúp

bạn đành chịu những mất

mát đó. Bởi vì nếu

bạn không đành chịu những

gì bạn đã mất, bạn

sẽ không thực sự tha

thứ được.

1. Xác định rõ sự

mất mát của mình :

Chính là khởi đi từ

một kinh nghiệm bản thân

mà tôi đã hiểu được

tầm quan trọng của việc

xác định rõ thương tổn

của mình trước khi có

thể chữa lành nó. Hôm

đó, tôi nhận được một

lá thư của một thanh

niên muốn ghi danh vào

Đại học nơi tôi đang

dạy. Cậu ta xin tôi

cung cấp cho cậu những

chỉ dẫn về một chương

trình học mà tôi phụ

trách. Thế mà anh chàng

sinh viên đã quên không

cho tôi địa chỉ. Tôi

đoán chừng và nghĩ rằng

anh ta đã đăng ký

vào một phân khoa khác

trong cùng Đại học nên

anh ta không cần cung

cấp những chỉ dẫn đó

nữa. Thực sự tôi đã

quyết định đến hỏi viên

thư ký, công việc tôi

cho là thông thường. Nhưng

tôi vừa xin thì viên

thư ký đã có vẻ

gay cấn và sau khi

bảo tôi "đưa câu hỏi"

thì thẳng thừng từ chối

cung cấp thông tin tôi

xin. Còn tệ hơn, y

cáo buộc tôi ăn trộm

tài liệu học viện và

tống tôi ra khỏi văn

phòng.

Vừa bị va chạm, t

ôi

không rõ cái gì xảy

ra, rồi một cảm giác

tức giận tràn ngập lấy

tôi. Vậy tôi bắt đầu

viết cho ông giám đốc

để đưa viên công chức

vô lễ và khinh người

nầy vào khuôn phép. Tôi

vừa viết xong lá thư

với giọng điệu đầy chua

cay thì một đồng nghiệp

bước vào văn phòng của

tôi. Tôi kể cho anh

bạn nghe trường hợp khó

xử của tôi. Anh ta

chăm chú lắng nghe tôi

rồi đột ngột hỏi: "Tôi

thấy anh tức giận lắm.

Nhưng tôi tự hỏi không

biết điểm nhạy cảm nào

mà viên thư ký đã

có thể đụng đến ở

anh ?" Ngay lúc đầu,

tôi thấy câu hỏi của

anh ta không hợp thời,

cũng chẳng thích hợp nữa.

Tuy nhiên khi suy nghĩ

lại, câu hỏi đó đã

làm tôi khám phá ra

hai việc nầy : người

thư ký đặt vấn đề

về sự thẳng thắn nghề

nghiệp của tôi. Y cũng

đã đánh thức trong tôi

một nỗi đau khổ cũ

mà tôi tưởng đã quên

đi. Sự ý thức nầy

về các lý do sự

phẩn nộ của tôi làm

phát sinh trên tôi một

hậu quả hết sức bất

ngờ : tôi rất ngạc

nhiên, cơn nóng nảy và

cảm giác oán giận của

tôi tan biến đi đến

độ tôi không còn muốn

gởi lá thư cho ông

giám đốc nữa.

Làm sao một sự thay

đổi bất thần như vậy

đã có thể được thực

hiện nơi tôi? Đây là

giải thích tôi đã tự

cho mình. Ngay khi sự

việc khó chịu xảy ra,

tôi đã có cảm giác

rằng tất cả nhân cách

của tôi đã bị đặt

vấn đề. Rồi tiếp đó,

tôi hiểu rằng viên thư

ký đã nghi ngờ một

phần của tôi, tức sự

thẳng thắn nghề nghiệp của

tôi. Khám phá nầy giúp

tôi có một cái nhìn

mới trên thương tổn của

mình. Trước hết, tôi thấy

nó không quá lớn. Thứ

đến, tôi khám phá ra

rằng sự giao động của

tôi đến do cuộc cải

vả với viên thư ký

ít hơn là từ một

hoàn cảnh nặng nề mà

tôi đã chưa dàn xếp

được.

Bài viết của Trotter về

kết quả các nghiên cứu

của chuyên gia tâm lý

Martin Saligman soi sáng cho

tôi hơn nữa về những

gì đã xảy ra cho

tôi. Chuyên gia tâm lý

nầy chủ trương rằng người

ta bị tổn thương nhiều

do sự giải thích của

chính mình về một biến

cố khó chịu hơn là

do chính biến cố đó.

Theo ý kiến của ông,

người nào tự cho mình

là nguyên nhân trọn vẹn,

duy nhất và thường trực

của một biến cố bất

hạnh thì kẻ đó tự

kết án đánh giá thấp

về mình, và tức khắc

bị rơi vào sự bất

lực để phản ứng lại.

Để nắm bắt tốt hơn

ý nghĩa của những chữ

"trọn vẹn, duy nhất và

thường trực", chúng ta chỉ

cần lắng nghe cuộc đối

thoại nội tâm mà một

cá nhân nói về sự

thiệt thòi của y, hầu

giải thích những nỗi cay

đắng của mình. Y có

khuynh hướng tự chê trách

mình một cách trọn vẹn

và triệt để, dường như

đó là một khuyết điểm

bẩm sinh vậy. Y nói

"từ lúc nào, tôi luôn

luôn sai trái và bất

lực" thay vì tự khích

lệ mình bằng cách sau

đây : "Tôi đã làm

một điều lỗi, nhưng hoàn

toàn có thể sửa chữa

được". Tiếp đến, y tự

nhận về mình tất cả

trách nhiệm của lầm lỗi.

Y nghĩ rằng "tôi là

người duy nhất chịu trách

nhiệm về nỗi bất hạnh

của tôi", trong khi nhận

định rằng y không phải

là người duy nhất có

trách nhiệm về hoàn cảnh

và còn có những người

chủ chốt khác trong thử

thách nầy. Sau cùng, y

tự coi mình như nạn

nhân vĩnh viễn của số

phận. Y than phiền "cái

đó luôn luôn xảy đến

với tôi" thay vì tự

nhủ "đó là hậu quả

của một thời cơ chóng

qua".

2. Để thôi tự chê

trách mình :

Sự kiện lấy làm thích

thú trong tình trạng nạn

nhân chỉ có thể phá

hoại ngầm các nghị lực

của mình. "Tự đánh đòn"

mình luôn luôn là một

lời khuyên xấu và cản

ngăn tiến bộ trên con

đường tha thứ. Để ra

khỏi sự trì trệ đó,

tôi đề nghị những tập

luyện sau đây :

a) Bạn hãy tự hỏi

xem phần nào của bạn

đã bị đụng tới. Bạn

đã bị mất mát cái

gì ? Bạn cảm thấy

bị tấn công hay bị

nhạo báng trong những giá

trị nào ? Những chờ

đợi nào hay những mộng

ước gì đã bất thần

bị hủy hoại ?

Đây là vài giá trị

có thể phải chịu thiệt

hại : sự tự trọng

của bạn, thanh danh của

bạn, lòng tín nhiệm ở

chính mình, lòng tin vào

tha nhân, sự gắn bó

của bạn với người thân,

lý tưởng của bạn, mộng

ước hạnh phúc của bạn,

những của cải vật chất

của bạn, sức khoẻ của

bạn, sắc đẹp của bạn,

hình ảnh của bạn trong

xã hội, những chờ đợi

của bạn đối với quyền

bính, nhu cầu cẩn mật

đối với các bí mật

của bạn, sự ngưỡng vọng

của bạn đối với những

người bạn yêu thương, tính

ngay thẳng của bạn, v.v...

Sau khi đã nêu lên

và gọi tên sự mất

mát của bạn, bạn hãy

ý thức rằng đó không

phải là tất cả hữu

thể của bạn đã bị

xúc phạm, nhưng chỉ một

phần của bạn mà thôi.

Thật sinh phúc cho bạn

khi lặp đi lặp lại

: "Không phải tất cả

con người tôi đã bị

đụng tới, nhưng đó là

(ví dụ) thanh danh của

tôi đã bị thiệt hại".

Cách đây ít lâu, tôi

đã nghe trên truyền hình

chứng tá của một người

đàn bà nạn nhân của

một cuộc cưỡng hiếp. Bà

ta khẳng định : "Tôi

bị cưỡng hiếp, nhưng tôi

không không đáng khinh". Bằng

những từ ngữ khác, bà

nói : "Quả tim của

tôi vẫn an lành và

trọn vẹn, bất chấp sự

cưỡng hiếp, và tôi đã

không mất đi khả năng

tự chữa lành".

Khi nói đến những tai

ương xảy đến cho tôi,

tôi dùng động từ "có"

hoặc tất cả các thì

kép khác của trợ động

từ nầy, chẳng hạn "tôi

đã có nhận một sự

lăng nhục", tôi không diễn

tả cùng một việc nếu

tôi dùng động từ "là",

ví dụ "tôi bị lăng

nhục". Có một sự khác

biệt rất lớn trong quan

niệm về sự xúc phạm.

Khi tôi nói "tôi có

một tổn thương", tôi để

người ta hiểu rằng có

một khoảng cách giữa tôi

và vết thương, điều nầy

cho phép tôi phản ứng

và tự chữa lành. Trái

lại, khi tôi khẳng định

"tôi bị tổn thương" là

tôi đồng hóa mình trọn

vẹn với sự tổn thương

và như vậy tôi bất

lực phản ứng lại.

b) Cần thiết bạn nên

nhắc lại cho bạn rằng

bạn không phải là người

duy nhất chịu trách nhiệm

về biến cố nặng nề

hoặc về sự xúc phạm.

Trong một buổi thuyết trình

cho những người ly thân

hoặc ly dị, tôi nói

với họ rằng họ không

phải là những tác nhân

duy nhất của sự thất

bại về hôn nhân của

họ. Người phối ngẫu, cha

mẹ, xã hội, v.v... cũng

có một phần trách nhiệm.

Nghe những lời nầy, một

nữ thính giả đầm đìa

nước mắt. Tôi hỏi nàng

cái gì đã xảy ra,

và nàng đã trả lời

tôi rằng lần đầu tiên

nàng ý thức mình không

phải là "con mụ độc

ác" duy nhất có trách

nhiệm về sự thất bại

hôn nhân của nàng.

c) Sau cùng, điều quan

trọng là bạn phải xác

tín rằng một lầm lỗi

không bao giờ là không

thể sửa chữa được. Bạn

không bị kết án phải

sống lại không ngừng lỗi

lầm đó mãi hoặc bị

kết án phải luôn luôn

gánh chịu những hậu quả

của nó. Nếu bạn cứ

tưởng tượng bạn luôn luôn

bị theo đuổi bởi rủi

ro hoặc bởi số phận

xấu, bạn sẽ tự vạch

chương trình cho những thất

bại mới một cách không

sai chạy đâu cả.

Vậy thay vì tự dằn

vặt mình trước một thất

bại, bạn hãy tìm khám

phá ra tất cả bài

học mà bạn có thể

rút ra từ thất bại

đó. Biết bao nhiêu thất

bại là cơ hội cho

những kinh nghiệm phong phú,

những khởi hành mới và

những thành công trong cuộc

sống. Cuối cùng đây là

một khía cạnh tích cực

khác của những sai lầm

của bạn : chúng sẽ

làm cho bạn trở nên

bao dung hơn đối với

những người khác.

3. Chữa lành những tổn

thương thời thơ ấu :

Những thương tổn khó nhận

biết và xác định rõ

nhất là những thương tổn

lần lên trong quá khứ

xa xăm của thời thơ

ấu. Người ta không còn

nhớ đến những thương tổn

đó, cũng như các hoàn

cảnh đã gây nên những

thương tổn ấy. Cái còn

lại từ những thương tổn

đó thường chính là những

sự cứng cỏi trong ứng

xử và những phản ứng

tự vệ, phản ánh các

chấn thương cũ của tâm

hồn mà một xúc phạm

nhỏ đã đủ để khơi

dậy.

Những mối thất vọng của

thời thơ ấu vẫn tiếp

tục làm cho người ta

cảm nhận được hậu quả

của chúng một cách vô

thức nhiều năm sau. Tôi

thường gặp những con người,

dù rất thiện chí, bảo

rằng họ không thể tha

thứ được cả những lỗi

lầm rất nhỏ. Sự bất

lực của họ trong việc

tha thứ sĩ nhục họ

và thường làm cho họ

cảm thấy rất có lỗi.

Một người vợ trẻ thổ

lộ với tôi rằng chị

không thể tha thứ được

cho bố chồng của chị.

Cái lỗi "kinh khủng" của

ông là đã ở lại

hai ngày tại nhà con

dâu, trong khi ông chỉ

được mời ăn bửa cơm

tối gia đình thôi. Chỉ

với ý nghĩ tha thứ

cho ông, chị đã vấp

phải sự từ chối nội

tâm dai dẵng. Chị cũng

tự trách mình đã làm

lớn lầm lỗi một cách

quá mức. Chị tự nhủ

"đó là một việc tầm

phào, ta phải thôi không

nghĩ đến nữa". Thất vọng

không biết làm sao, Chị

xin gặp tôi. Tôi mời

chị định nghĩa thật chính

xác, chừng nào có thể

được, bản chất của thương

tổn. Chị trả lời tôi

: "Con có cảm giác

rằng con chẳng quan trọng

gì trước mắt ông, bởi

vì ông đã chẳng thèm

biết đến lời con ghi

trong giấy mời". Lúc ấy,

tôi đề nghị chị cứ

ở vậy với cái tình

cảm "không có gì quan

trọng", rồi đem tâm trí

về lại trong quá khứ,

để trổi lên trong chị

cái gì đã tự phát

liên kết với cái tình

cảm ấy. Chị ta bị

xúc động đến phát khóc,

vì nhớ lại một biến

cố trong thời thơ ấu,

và chị thuật lại cho

tôi rằng lúc lên tám

tuổi, mẹ chị đã hứa

với chị trong suốt cả

một năm trời là sẽ

dẫn chị đi tham dự

thánh lễ nửa đêm. Thế

mà khi chị thức dậy

thì đã là buổi sáng

lễ Giáng Sinh ! Chị

đã khóc và mẹ chị

bảo là chị còn bé

quá để tham dự thánh

lễ nửa đêm ! Sự

chán nản trẻ con nầy,

dù chị đã hoàn toàn

quên đi rồi, nay lại

đến, như một tiếng vọng

xa xăm, làm ách tắc

ước muốn tha thứ cho

bố chồng của chị. Như

thế, chính sau khi đã

họa lại dấu vết nguồn

gốc của tình cảm "không

quan trọng" mà chị đã

đạt tới được việc tha

thứ, trước hết là cho

mẹ chị, rồi sau đó

cho bố chồng của chị.

4. Để chữa lành một

tổn thương thời thơ ấu

:

Kinh nghiệm tâm lý trị

liệu của tôi dạy cho

tôi biết rằng một sự

ách tắc "ngoại lý" của

một dự tính tha thứ

thường đến từ một tổn

thương cũ hãy còn linh

hoạt, dù vô thức. Chính

vì thế, tôi đề nghị

thực hiện một cuộc suy

niệm về ách tắc làm

cản trở tha thứ.

Bạn hãy lấy một tư

thế thoải mái. Hãy gạt

xa bạn mọi thứ có

thể làm bạn chia trí

trong vòng hai mươi phút.

...

Bạn hãy để thời gian

đi vào nội tâm bạn,

như bạn đã làm trong

các thực tập suy niệm

khác.

...

Bạn hãy đặt mình lại

trong tình trạng gây nên

bởi sự xúc phạm và

hãy để bạn sống lại

những gì đã xảy ra

cho bạn. Bạn hãy để

thời gian xác định và

gọi tên cách rõ ràng

tổn thương.

...

Cứ giữ liên lạc với

cảm xúc hoặc toàn bộ

những cảm xúc hiện đang

trào ra nơi bạn.

...

Rồi, khởi đi từ cảm

xúc được nhận diện hoặc

khởi đi từ sự phức

tạp của các cảm xúc

của bạn, bạn hãy lùi

lại trong quá khứ, dường

như bạn lật lại từng

trang tập ảnh kỷ niệm.

Luôn được hướng dẫn bởi

cùng cảm xúc đó, bạn

hãy để trổi lên trong

bạn những hình ảnh, những

kỷ niệm, những lời nói

gắn chặt với những thời

kỳ khác nhau của cuộc

sống quá khứ của bạn.

...

Khi bạn bắt gặp lại

kỷ niệm xa xưa nhất,

bạn hãy để một ít

thời gian xem lại và

sống lại quang cảnh đã

diễn ra. Bạn bao nhiêu

tuổi ? Ai ở với

bạn ? Cái gì xảy

ra ? Bạn phản ứng

lại thế nào ? Bạn

quyết định gì theo sau

biến cố đau thương đó

?

...

Hãy xem lại đứa trẻ

là bạn lúc đó. Nó

ăn mặc thế nào ?

Nó ở đâu ? Bạn

có thể vẽ nó ra

thế nào ? Bạn hãy

quan sát cái gì nó

nhìn thấy, dường như nó

đang có đó, hiện diện

ở trước mặt bạn.

...

Bây giờ, vận dụng tới

tất cả kinh nghiệm người

lớn của bạn, sự từng

trải của bạn, sự hiểu

biết của bạn về tâm

lý trẻ con, bạn hãy

bắt đầu nói với nó,

trấn an nó, xin lỗi

nó vì đã bỏ quên

nó quá lâu như thế.

Bạn hãy giải thích cho

nó tất cả những gì

đã xảy ra. Bạn hãy

làm cho nó yên lòng

bằng cách hứa với nó

rằng bạn sẽ không quên

nó nữa.

...

Khi bạn chắc chắn đã

thuần hóa được đứa trẻ

của bạn và nó chấp

nhận để bạn tiếp cận

nó, bạn hãy đứng lên,

rộng tay ôm lấy nó,

đặt nó ngồi lên đầu

gối bạn, rồi siết nó

thật chặt bằng cách quàng

tay bạn trước ngực nó.

...

Bạn hãy để thời giờ

cảm nhận sự hiện diện

của nó, để nó tự

trấn tĩnh và giúp nó

tự chữa lành. Nếu bạn

nghĩ rằng nó đã sẵn

sàng, bạn có thể gợi

ý với nó bắt đầu

tha thứ cho người đã

xúc phạm nó. Nếu bạn

cảm thấy nó kháng cự

lại, thì bạn đừng thúc

ép nó. Bạn tiếp tục

đơn giản có mặt và

an ủi nó. Bạn biết

lòng quảng đại của đứa

trẻ của bạn. Bạn hãy

tín nhiệm nó. Khi nó

sẵn sàng, nó sẽ tha

thứ.

...

Trước khi từ giả đứa

trẻ của bạn, bạn hãy

trấn an nó bằng cách

nói với nó rằng bạn

sẽ không bỏ rơi nó

nữa, rằng bạn sẽ trở

lại nói chuyện với nó

và săn sóc nó.

Hoan hô ! Bạn vừa

đi một bước lớn trên

con đường chữa lành và

tha thứ có tính cách

cảm xúc.

Giai Đoạn 5

Chấp nhận nỗi giận và

lòng muốn báo thù của

mình.

"Phải là nhà tâm lý

trị liệu để biết được

có bao nhiêu bạo lực

bị dồn nén dưới sự

tha thứ giả dối."

(Paul Tournier)

Thường xảy ra là từ

ngữ "giận dữ" gợi lên

nơi người ta những cảnh

bạo lực ghê gớm. Do

đó nó hình thành nơi

họ một nỗi sợ lớn

lao khi cảm nhận mối

xúc cảm nầy. Một sốnhà tu đức rất khó

nhận thấy trong nỗi giận

và lòng muốn báo thù

những thực tại tâm lý

lành mạnh tự nó. Căn

cứ vào một quan niệm

bị cắt xén về tình

yêu, họ xét đoán rằng

phải dồn nén mọi chuyển

động của bạo lực.

Đây là câu chuyện của

một cuộc cải cọ giữa

tôi và một vị tuyên

úy của một nhóm đôi

bạn. Trước sự hiện diện

của ngài, tôi đã thuyết

trình về hiệp thông cho

một nhóm các đôi vợ

chồng. Tôi đã giải thích

làm sao cuộc sống lứa

đôi mang lại, cùng với

những niềm vui của nó,

cả một lô những tước

đoạt, mất mát. Sự tích

lủy của những mất mát

theo sau những va chạm

nhỏ và những bực tức

do đó mà ra, theo

ý kiến của tôi, tạo

nên một trong những trở

ngại lớn nhất cho sự

hiệp thông tốt đẹp ở

đôi bạn. Tôi cũng khuyên

các đôi vợ chồng đừng

để chết đi trong mình

những cơn giận nhỏ, nhưng

nên bộc lộ chúng ra

một cách có tính cách

xây dựng nhất có thể

được. Bởi vì tôi nghĩ

rằng cái hủy diệt tình

yêu không phải là sự

tức giận, nhưng chính là

nỗi sợ mở lòng mình

ra và sự dửng dưng.Ngay lúc đó, tôi thấy

vị tuyên úy nhảy ra

khỏi ghế. Bằng một giọng

giận dữ, ngài hét lên

với tôi : "Nầy cha,

đáng ra cha phải biết

rằng hờn giận là một

trong bảy mối tội đầuchứ !" Ngài lập tức

đi ra, đóng sầm cửa

lại.

Rõ ràng là chúng tôi

đã không có cùng một

định nghĩa về sự tức

giận. Tôi dùng từ ngữ

nầy để diễn tả tình

trạng bức tức bên trong

được gây nên bởi một

sự trái ý, một tiếng

chưỡi hay một sự bất

công. Ngài thì lại cho

từ ngữ "tức giận" ý

nghĩa của sự thù hằn

và oán giận, là nhữngtình cảm có mục đích

làm hại người khác hoặc

ngay cả hủy diệt họ

nữa.

Thường xảy ra là các

vị giảng thuyết, những thầy

dạy tu đức đặt đối

nghịch tha thứ và tức

giận. Đối với họ, để

đi đến tha thứ, trước

hết phải dập tắt hết

mọi chuyển động của tức

giận và xua đuổi hết

mọi ý nghĩ trả thù.

Nói chung, họ khuyến khích

sự trấn áp mọi tình

cảm được gọi là "tiêu

cực". Tiến trình nầy đối

với tôi xem ra không

có lối thoát. Bởi vì

sự tha thứ không thể

nào được trao ban, nếu

nó đã không được đi

trước bởi sự ý thức

và chấp nhận sự xấu

hổ của mình ; cũng

thế sự tha thứ là

không thể, nếu người ta

kềm chế nỗi giận và

lòng muốn báo thù của

mình. Không nhận biết và

chấp nhận nỗi giận và

lòng muốn báo thù của

mình, viện lý là muốn

tha thứ, chính là tự

lừa dối mình, và hơn

nữa là bóp méo tha

thứ thành sự giả dối

có tính cách xã hội.

Nhưng hãy coi chừng !

Ở đây không có vấn

đề khuyến khích hay nuôi

dưỡng sự hận thù. Người

ta thường quá hay lẫn

lộn cái xúc cảm tự

phát của tức giận với

mối hận thù. Trước hết

cần phải phân biệt xúc

cảm chóng qua của tức

giận với lòng muốn báo

thù của tình cảm kiên

quyết và được nuôi dưỡng

bởi lòng căm ghét hay

sự hận thù. Biết rằng

tức giận là một chuyển

động bạo lực của tâmhồn, nó chứa đựng những

yếu tố tích cực, bất

chấp những vẻ bề ngoài

của nó. Nó là một

phản ứng bình thường đối

lại một hành động bất

công, là một sự kiếmtìm sự trung thực và

là một nổ lực cất

đi chướng ngại cản trở

tình yêu tha nhân.

Ngược lại, mối hận thù

nhập vào lòng người như

một ung thư. Nó che

đậy một cơn giận câm

nín và bền bĩ chỉ

hết đi khi kẻ gây

nên xúc phạm bị trừng

phạt hoặc bị hạ nhục.Nó có thể mặc lấy

những hình thức khác nhau

: lời châm chọc mĩa

mai cay độc, hận thù

dai dẳng, những thái độkhinh miệt, sự cừu địch

triệt để, chỉ trích chê

bai và tính thụ động

bạo lực giết chết mọi

niềm vui có thể có

trong mọi quan hệ. Bao

lâu người ta không muốn

nhìn nhận sự tức giận

của mình và rút ra

lợi ích tốt nhất có

thể, thì có mối nguy

hiểm là nó sẽ bị

hỏng đi bên trong mình

và biến thành oán giận

và hận thù.

1. Những hậu quả tai

hại của cơn giận bị

dồn nén :

Kìm nén cơn giận của

mình, chính là dấn sâu

trong một vũng lầy không

có hy vọng thoát ra

được. Khi một xúc cảm

bị dồn nén vì bị

xã hội kết án là

không thể chấp nhận được,

thì sớm muộn gì nó

cũng trổi dậy dưới những

hình thức lệch lạc. Bởi

vì người ta không thể

kìm hãm năng lực cảm

xúc được. Nó luôn luôn

được bộc lộ ra một

cách giả tạo và lừa

dối. Để chỉ phẩm chất

những lệch lạc cảm xúc

nầy, trường phái tâm lý

phân tích có tính cách

dàn xếp (thỏa hiệp) đã

tạo ra thành ngữ "tình

cảm bịp bợm". Chúng ta

xem xét kỷ những "tình

cảm bịp bợm" gây ra

do sự dồn nén không

lành mạnh của tính bạo

lực.

Cơn giận bị kiềm chế

có thể đổi chỗ và

tấn công những hữu thể

vô tội - có thể

là những đồ vật, cầm

thú hoặc những con người.

Có ai chẳng bao giờ

nhìn thấy một người nào

đó đá một đồ vật

hoặc ngay cả một con

vật để nguôi đi cơn

giận trong lòng không ?

Người ta cũng tìm thấy

những phản ứng tương tự

đối với những con người("giận cá chém thớt"). Người

ta đã dám cả quyết

không phải không có lý

rằng một người chồng đánh

vợ mình là đang cố

tự giải thoát mình khỏi

hình ảnh của người mẹmột cách tuyệt vọng. Tôi

đã thấy một thằng bé

sau khi bị mẹ la

mắng đã cho thằng em

nó một cái tát nên

thân !

Thường xảy ra rằng những

thúc đẩy không thể kiểm

soát được của bạo lực

có nguồn gốc là sự

tích lủy của các cơn

giận bị dồn nén. Một

khách hàng có nụ cười

cố định đến tìm tôi

hỏi cách chế ngự những

cơn bạo lực bằng lờinói của y. Ông chủ

đe dọa thải hồi y

và vợ y thì lại

đòi ly dị. Tôi từ

chối giúp y tấn công

cơn giận của y, vì

tôi không muốn thất bại

như vị linh hướng của

y, khi đã cố tìm

mọi cách ngăn cản y

không được nổi cáu. Đúng

hơn, tôi đã quyết định

giúp y thuần hóa cơn

giận của y. Tôi đãkhông xin y kiềm chế

cơn giận của y, nhưng

lại để cho nó nổi

lên, nhận biết nó xuyên

qua những căng thẳng tiêubiểu của thể xác, chấp

nhận nó và tìm cho

nó những lối thoát có

thể chấp nhận được như

chơi thể thao, bửa củivà những tập luyện mạnh

mẻ khác.

Một trong những hậu quả

thông thường nhất của sự

dồn nén cơn giận là

khuynh hướng gán cho người

khác chính tình cảm tức

giận của mình. Người không

ý thức về nỗi giận

của mình sẵn sàng chuyển

nổi giận đó sang ngườikhác. Lúc ấy chính y

cảm thấy bị đe dọa

bởi các mặt nạ của

cơn giận của chính y

nên qui nó cho một

số người nào đó. Thí

dụ sau đây chứng tỏ

rõ ràng điều tôi muốnnói. Một bà có trình

độ văn hóa cao và

một cảm thức thiêng liêng

lớn đã viết cho tôi

để chia sẻ những xaoxuyến của bà việc tự

tử của con trai bà.

Bà kể cho tôi làm

sao bà đã sớm tha

thứ cho con bà về

sự khốn khó và buồn

phiền mà sự tự tử

của nó đã gây ra

cho bà. Tuy nhiên, bà

không thể tự giải quyết

được ý nghĩ làm saoThiên Chúa có thể tha

thứ một cử chỉ rất

đáng trách như vậy cho

con bà. Tôi nghĩ rằng

bà không thể cáng đángnổi giận bà đã cảm

nhận đối với con trai

bà và bà đã phóng

chiếu nỗi giận đó lên

Thiên Chúa. Điều làm cho

tôi quả quyết về sự

đúng đắn của giả thuyết

tôi đưa ra, chính là

những lo âu và nghi

ngờ của bà cứ tiếp

tục dày vò ray rứt

bà, dù những cố gắng

của các chủ chăn đểbảo đảm với bà về

lòng tốt và tình thương

xót của Thiên Chúa.

Đây là câu trả lời

của tôi cho lá thư

của bà : "Thưa bà,không có lúc nào tôi

đã dám nghi ngờ sự

thành thật của ước muốn

tha thứ cho con trai

của bà. Tuy nhiên bà

cho phép tôi ngạc nhiên

về thời gian quá ít

bà đã cống hiến để

chăm sóc cho nỗi đau

của bà, trước khi trao

ban sự tha thứ của

bà. Bà có tin rằng

nỗi buồn tang chế của

bà đã đủ chín muồi

và vết thương lớn lao

của bà đã đủ lànhda, để thực sự nghĩ

tới việc tha thứ cho

cậu nhà ? Kinh nghiệm

của tôi bên cạnh những

người phải đau buồn vìviệc tự tử của một

người thân yêu cho phép

tôi khẳng định rằng những

người còn sống cần phải

có rất nhiều thời gian

để cho những tình cảm

tức giận và có lỗi

được bộc lộ và biến

đổi. Bà sẽ được lợi

ích khi đặt mình lắngnghe các xúc cảm của

bà. Như vậy bà sẽ

có thể đón nhận trong

lòng những xúc cảm chưa

tìm ra được cách bộc

lộ đầy đủ". Ít lâu

sau, tôi nhận được một

lá thư trong đó bà

nói với tôi rằng tôi

đã thấy cách chính xác

trường hợp của bà và

bà đã tìm được cho

mình một nữ cố vấntốt để giúp bà đảm

trách các tình cảm có

lỗi và tức giận của

bà.

Một lệch lạc khác của

tức giận hệ tại việc

quay nó lại chống chính

mình. Nó phát sinh nơi

những kẻ tự cấm đoán

mình không được có một

chuyển động tức giận nhỏnhặt nào và tự cho

mình là có lỗi khi

thấy biểu hiện đầu tiên

của tức giận. Bấy giờ

họ tự cáo bộc mình,

tự trừng phạt mình, khi

không bị chìm đắm trong

một trầm uất thần kinh,

như trường hợp cán sự

xã hội kia. Một trongcác khách hàng của nàng

là một thanh niên mà

nàng rất gắn bó đã

tự tử. Nàng cay đắng

tự trách mình vì đã

vắng mặt hôm mà thanh

niên ấy đã gọi điện

thoại xin nàng giúp đỡ.

Từ ngày đó, nàng đã

sống với ý nghĩ rằng

nàng có một phần trách

nhiệm trong cái chết tự

tử ấy. Nàng tự cáo

buộc mình đã không nghĩ

rằng tự tử là một

cách giải quyết các vấn

đề của khách hàng của

nàng.

Sau khi đã lắng nghe

nàng kể lại những xúc

động của nàng, tôi gợi

ý nàng tưởng tượng chàng

khách hàng trẻ đang ngồi

trước mặt nàng và lặp

đi lặp lại với chàng

: "Tôi cảm thấy mình

có lỗi về cái chết

của anh". Rồi tôi đềnghị nàng thay thế câu

đó bằng câu sau đây

: "Tôi trách anh đã

tìm lấy cái chết, mặc

cho tất cả sự giúp

đỡ mà tôi đã mang

lại cho anh". Sau nhiều

do dự, nàng đã quyếtđịnh nói với anh ta

sự thất vọng và tức

giận của nàng. Những tình

cảm thất vọng và tức

giận của nàng càng mạnh

khi nàng càng để bộc

lộ ra. Rồi, khi nhận

biết mình bất lực không

thể ngăn cản việc tự

tử của khách hàng, nàng

bật khóc nức nở. Nàng

vừa chấp nhận những giớihạn của mình. Chính lúc

đó nàng mới bắt đầu

tha thứ cho mình, vì

đã tưởng rằng mình đủ

mạnh để cứu anh ta

mặc dù anh ta không

muốn.

Sự tức giận bị dồn

nén còn có thể mặc

lấy những hình thức che

đậy khác như chê bai,

chỉ trích càu nhàu, tháiđộ lạnh lùng vô liêm

sĩ, hiềm khích buộc tội

hoặc hờn dỗi. Tất cả

những cách bộc lộ sự

tức giận bị che đậy

nầy đi vào trong phạm

trù các "tình cảm bịp

bợm". Những tình cảm bịp

bợm nầy có tính đặc

trưng là dai dẵng và

lặp đi lặp lại. Ngược

lại, những tình cảm đích

thực sẽ bị loại bỏkhi người ta bộc lộ

ra. Đó là hậu quả

thông thường của sự thanh

tâm thành công. Nhưng vấn

đề hoàn toàn khác đối

với tình cảm bịp bợm.

Chúng dán chặt vào tính

dễ cảm xúc của chủ

thể khiến người nầy không

tìm được một cách bộc

lộ thích hợp. Phương cách

duy nhất thoát khỏi vũng

lầy xúc cảm nầy hệ

tại việc nối lại với

sự tức giận đã bị

kiềm chế và tìm được

cho nó một cách bộc

lộ đúng đắn.

Sự tức giận không được

thú nhận có thể là

nguyên nhân của nhiều chứng

bệnh tâm thể lý, vì

đã quá hao tổn nghịlực và vì ứng suất

do đó mà ra. Sự

tức giận nầy tạo cơhội cho một ứng suất

không lành mạnh là nguồn

gốc cho một số bệnh

thể lý rất khác nhau.

Trong cuốn La guérison des

souvenirs, anh em Linn tường

thuật các kết quả nghiên

cứu do bác sĩ Floyd

Ring hướng dẫn trong lãnhvực nầy. Ông đã nghiên

cứu các chứng bệnh khác

nhau gây nên bởi sự

thiếu chế ngự sự tức

giận, hoặc bởi một sự

bộc lộ vụng về nỗi

tức giận nầy.

- Một đàng, ông quyết

đoán rằng những bộc lộ

quá mức của tức giận,

dù thể lý hay lời

nói, thường sản sinh ranhững chứng bệnh sau đây

: tắc nghẽn động mạch

vành, chứng viêm khớp thoái

hóa, loét dạ dày.

- Đàng khác, những người

dồn nén nỗi sợ và

tức giận của mình dễ

bị mắc những chứng bệnh

về da, thấp khớp vàviêm loét đường ruột.

- Cuối cùng, những người

vì lẽ một sự kiểm

soát quá mức thực hiện

trên chính mình không bao

giờ dám bộc lộ nỗi

giận dữ và sợ hãi

của mình, ngay cả khi

họ ý thức về điều

đó, có nguy cơ bị

suyển, tiểu đường, cao huyết

áp và chứng đau nửa

đầu.

Bảng liệt kê các bệnh

nầy có lẽ xem ra

quá đen tối cho một

số người, nhưng điều xem

ra không chối cải được,chính là sự trấn áp

triệt để các chuyển vận

của tức giận gây nên

những trạng thái bệnh lý

và thần kinh như chủ

thể không còn tìm được

nghị lực cần thiết để

dấn mình vào con đường

tha thứ.

Tôi muốn kết thúc phần

nầy với vài lưu ý

về cách ứng xử với

những cuồng tưởng của sự

trả thù. Tôi đã gặp

những người muốn xua đuổi

ý nghĩ trả thù của

họ bằng cách chiến đấu

thẳng mặt. Đó là  công

khó mất đi. Họ càng

cố gắng đẩy lùi chúng,

chúng càng trổi dậy ám

ảnh hơn. Để chiến thắng,

bạn hãy thực hiện cuộc

tập luyện nhỏ nầy :bạn hãy cố đừng nghĩ

đến màu đỏ. Bạn sẽ

khám phá ra rằng không

thể được, vì để tưởng

tượng ra cái không đỏthì trước hết bạn phải

nghĩ đến cái đỏ đã.

Thực tế, trí tưởng tượng

không thể quan niệm cái

không đỏ.

Cũng thế đối với những

ý nghĩ trả thù của

bạn. Bạn càng cố xua

đuổi chúng đi thì chúng

càng áp đặt mạnh mẻ

hơn cho trí tưởng tượng

của bạn. Vậy bạn hãy

để cho chúng đến với

bạn cách êm can và

cho phép chúng diễn ra

như một cuốn phim. Ngay

khi bạn làm như vậy

và coi chúng là của

bạn, bạn sẽ thấy những

cuồng tưởng đó sẽ xem

ra rất phù phiếm. Vấn

đề còn lại là bạn

quyết định không cho chúng

tồn tại nữa.

2. Những khía cạnh may

lành của cơn giận :

Cơn giận được hiểu trong

ý nghĩa là một chuyển

động mạnh mẻ và bạo

lực của tâm hồn tự

nó không có gì làxấu cả. Trái lại, nó

do một bản năng bổ

ích của sự sống còn

thể lý, tâm lý và

đạo đức. Hậu quả có

hại hay may lành tùy

thuộc ở cách người ta

sử dụng nó.

Được sử dụng tốt, cơn

giận dùng vào cuộc vận

hành tốt của các mối

quan hệ nhân bản giữa

các vợ chồng, những người

yêu nhau, bạn hữu, cha

mẹ và con cái, hoặc

chủ và nhân viên. Trong

những trường hợp nầy, điều

quan trọng là để bảo

vệ những biên giới và

giá trị của mình, và

đôi khi phải làm điều

đó cách kịch liệt và

phẩn nộ. Nghịch lại những

gì xảy ra khi người

ta tỏ thái dộ dững

dưng hoặc bạo lực phản

hồi thì sự bộc lộ

đúng của cơn giận baohàm ước muốn tái lập

mối liên hệ. Sự khẳng

định mình, dù có nóng

nảy, luôn tìm cách cất

đi những trở ngại chohiệp thông và tình yêu.

Những hậu quả may lành

khác phát sinh do bạo

lực không bị dồn nén

và được hấp thụ, chẳng

hạn như đưa dẫn tôi

khám phá những giá trị

tôi lấy làm tha thiết

nhất trong tâm hồn. Như

vậy ở đây cơn giận

có hậu quả chứng tỏ

cách rõ ràng điều người

ta muốn trở nên vàthực hiện. Nó báo động,

nó cảnh giác cho tôi

về mối hiểm nguy cho

phép người khác lạm dụng

tôi hoặc xâm chiếm các

biên giới cá nhân của

tôi. Hoặc nữa, cơn giận

làm cho tôi phản ứng

lại trước những bất công

phạm đến một con người

hay một nhóm người. Nói

tóm lại, nó đánh thứctrong tôi nghị lực luân

lý để đương đầu với

sự dữ và bất công.

3. Chế ngự cơn giận

để bắt nó phục vụ

mình :

Nếu sự dồn nén cơn

giận và lòng muốn báo

thù dẫn đến những ngõ

cụt một cách không thể

tránh được, thì phải làm

gì cho đúng ? Để

chúng sục sôi trong lòng

hay thuần hóa chúng ?

Giai thoại sau đây gợi

ý câu trả lời chonhững vấn nạn đó. André

đến trình diện với tôi

sau sau một cuộc chia

ly đau buồn đe dọa

nặng nề sự quân bìnhtâm lý của chàng. Chàng

vừa đến chu toàn nhiệm

vụ giáo viên trong một

trường cấp hai. Chàng luôn

phiền muộn và tự buộc

mình có lỗi về cuộc

ra đi của vợ, tự

trách mình đã giận dữ

lớn tiếng và như vậy

trong nhiều năm dài. Những

sự nổi khùng đó làm

anh phải sĩ nhục nhiều

lắm. Có những thời kỳ,

André kiềm chế được tính

khí như lửa của mình

nhờ những cố gắng rất

lớn về ý chí, nhưng

sau những lúc bình lặng,

thì chỉ cần một biến

cố tầm thường cũng đủ

làm cho anh nổi đóa

trở lại. Anh nói lên

cả ngàn lời hối hận

và xin lỗi, anh xưng

tội và quả quyết lắng

nghe những lời cảnh cáo

và khuyến khích của cha

giải tội, nhưng tràng chửi

rủa giận dữ sau đó

làm tiêu tán hết mọicố gắng tốt đẹp của

anh.

Khởi đầu cuộc trị liệu,

tôi không dám đề cập

với anh đề tài về

cơn giận, sợ anh chưa

khuây khỏa được nỗi đauchia ly. Khi tôi thấy

anh đã sẳn sàng đụng

tới nỗi giận bị dồn

nén của anh, tôi gợi

ý với anh làm việc

về vấn đề nầy, nhưng

xem ra anh chẳng còn

quan tâm nữa. Tuy vậytôi cũng muốn đặt ra

thảm chủ đề những thúc

đẩy cáu giận của anh.

Anh nói cho tôi nghe

là cơn giận của anh

đã được đặt dưới một

sự kiểm soát hoàn hảo.

Nhưng tôi không tin và

một ngày kia quyết định

thử thách anh xem. Tôi

nói với anh về những

sự bất trung của vợanh và về cuộc ly

dị nặng nề và sĩ

nhục của anh. Anh vẫnthản nhiên. Tôi đi xa

hơn bằng cách nhắc anh

làm sao anh đã bị

cắm sừng mà chẳng hay

biết trong khi mọi người

chung quanh anh đều tường

tận hết vụ việc ấy.

Khi nhìn thấy mặt anh

đỏ rần lên và các

nếp nhăn hằn trên trán,

tôi hỏi anh cái gì

đã xảy ra trong anh,

nhưng anh bắt đầu chối

là chẳng cảm nhận chút

cảm xúc nào cả. Tôinhấn mạnh mời anh mô

tả các cảm giác anh

cảm thấy trong thân xác

anh. Anh thú nhận với

tôi rằng có một thứbướu lớn trong dạ dày.

Tôi bảo anh cứ liên

lạc với cái bướu đó,

nhưng anh dứt khoát từ

chối, lấy lý do là

anh không muốn nổi khùng

thấy làm điều đó là

xấu.

Nhắc anh về khả năng

đạo đức và nghề nghiệp

linh mục - tâm lý

gia của tôi, tôi xin

anh hãy tín nhiệm ở

tôi. Được bảo đảm, anh

tập trung vào cái bướu

đó và bắt đầu môtả cho tôi cơn giận

đang nổi lên và tất

cả những gì anh muốn

nói và muốn làm. Bấy

giờ tôi gợi ý anh

nói với cơn giận của

anh và nói với nó

là anh muốn đón tiếp

nó, chấp nhận nó và

cám ơn nó vì đã

có mặt ở đó để

che chở cho anh. Anh

lại từ chối lần thứ

hai. Tôi lại phải mời

anh lần nữa tín nhiệm

vào tôi, để cuối cùng

anh thuận tình ngõ lờivới cơn giận của anh,

tiếp đón nó như một

người bạn thân muốn bảo

vệ anh, rồi anh sẽ

tế nhị tuyên bố rằngngay trong tức thời trước

mắt thì anh không cần

đến những sự giúp đỡ

của bạn ấy. Thật là

điều kỳ diệu, cái bướu

trong dạ dày của anh

bắt đầu tan biến và

tỏa nhiệt an lành trong

khắp thân thể của anh.

Khách hàng của tôi vừa

hòa giải với phần tức

giận của con người mình,

phần mà anh đã phải

chiến đấu từ nhiều năm

nay không thành công. André

vừa ra khỏi những diễntiến luân phiên của trấn

áp và bùng nổ đã

cản trở sự tiến hóa

trưởng thành xúc cảm của

anh trong suốt nhiều năm.Ít bị vướng víu trong

cơn giận của mình, bây

giờ anh có thể nghĩ

đến việc đạt được sự

tha thứ đích thực.

Ít tháng sau, tôi muốn

kiểm chứng xem các hậu

quả của sự hòa giải

của anh với cơn giận

của anh. Anh thuật lạicho tôi sự kiện sau

đây : "Một hôm đang

dạy học, tôi cố làm

cho các sinh viên của

tôi nghe mình. Khó nhọc

vất đi. Chúng nói to

hơn tôi. Tôi cảm thấy

cái bướu lập tức hìnhthành trong dạ dày. Tôi

đang muốn đâm cho chúng

một đòn tức giận khủng

khiếp của mình. Bấy giờ

tôi nói với chúng bằng

một giọng cương quyết "Chú

ý ! Lúc nầy tôisẽ cho một cô bạn

đứng lên làm cho các

anh chị im lặng. Đó

là cơn tức giận của

tôi. Và các anh chị

biết là nó không đẹp

khi nó nổ ra. Nếu

các anh chị im lặng

thì nó sẽ dịu đi".

Quá ngạc nhiên về cách

thức mới áp đặt kỹ

luật của tôi, các sinh

viên của tôi im lặng.

Cha Jean, tôi có thểbảo đảm với cha rằng

tôi đã không tỏ ra

tức giận nào từ bốn

tháng nay. Tôi đã học

nhận biết nó và kính

trọng nó như một người

bạn gái".

Như chúng ta nhận định

khi đọc câu chuyện nầy,

không có những xúc cảm

"tiêu cực" hoặc đáng khinh

bỉ nào tự nó cả.

Các cảm xúc tạo nên

những nghị lực nhân bản

tích cực. Chúng đòi được

nhìn nhận, chế ngự và

được sử dụng cách có

ý thức. Tuy nhiên, khi

chúng là đối tượng của

sợ hãi và bị dồn

nén trong vô thức, chúng

sẽ tạo nên các trung

tâm xúc cảm và hình

ảnh gần như độc lập

và lúc đó mang tên

các "phức cảm". Theo khoa

tâm lý của Jung, chất

liệu bị dồn nén làm

thành "bóng tối" của nhâncách. Chất liệu nầy trở

thành hổn loạn bừa bãi

và không thể kiểm soát

được bao lâu con người

từ chối ý thức  vàcố xua đuổi nó khỏi

ý thức. Nếu người đó

quyết định "ăn" dần dần

cái bóng của mình, như

trường hợp André hòa giải

với cơn giận của mình,

thì cái xem ra là

một khuyết tật hủy hoại

sẽ biến đổi thành nguồn

nghị lực và triển nởcho cá nhân và xã

hội.

4. Những lý lẽ để

tách mình khỏi nỗi oán

giận :

Một số người bị tổn

thương từ chối bỏ rơi

nỗi oán giận của mình.

Quả thực, họ sợ rằng

nếu họ chấp nhận biếnđổi nỗi oán giận và

hận thù của họ thì

họ tự phản bội chính

mình. Họ nghĩ một cách

sai lầm rằng giữ vững

nỗi oán giận của họ

sẽ cứu vãn được nhân

phẩm của họ và tránh

cho họ khỏi chịu những

sĩ nhục khác về phía

kẻ gây nên xúc phạm.

Dĩ nhiên, ý hướng làm

cho người ta tôn trọng

nhân phẩm của mình gợi

lên những tình cảm caothượng, nhưng không phải là

ít chắc chắn rằng nuôi

lớn sự oán giận của

mình dẫn đến việc làm

suy thoái bản thân và

đến các chu kỳ báo

thù vô ích, như chúng

ta đã nói trên kia.

Vậy có những phương thế

khác để duy trì nhân

phẩm và tự trọng, mà

không để cho mình bị

gậm nhấm và hủy diệt

bởi chính ác tâm của

mình.

Một số người khác cho

rằng nỗi oán giận và

hận thù có thể dùng

để tác động họ chứng

tỏ cho chính mình và

các kẻ khác về giá

trị và khả năng của

họ. Đó là điều mà

một bà kia chủ trương.

Bà khẳng định rằng chính

là nhờ thù hận và

hiềm oán của bà mà

bà đã thực hiện và

thành công trong việc học

của bà. Bà muốn chứng

tỏ cho chồng cũ của

bà khả năng độc lập

về tài chánh của bà.

Sau khi khen bà về

tính kiên trì và những

thành công trong học tập,

tôi hỏi bà khi nào

thì bà thôi hành động

theo chồng cũ của bà

để đầu tư tốt hơn

năng lực của bà theo

chính bà và theo cái

bà muốn làm về cuộc

đời của bà. Sự oángiận, giống như một chiếc

hỏa tiển, có thể tạo

nên được lúc đầu một

sức đẩy mạnh mẻ, nhưng

chỉ ngắn ngủi thôi.

5. Để tôn trọng cơn

giận và lòng muốn báo

thù :

Đây là một tập luyện

khác giúp đi vào liên

lạc với cơn giận ngõ

hầu đón tiếp nó và

học được điều nó có

thể làm cho mình. Có

thể trong khi tập luyện

người ta đi vào liênlạc với một cảm xúc

khác, chứ không phải cơn

giận. Đừng ngừng lại việc

luyện tập. Đàng sau cơn

tức giận thường che giấu

một đau khổ vô thức

và nhiều xấu hổ.

Bạn giữ một tư thế

thoải mái. Tránh xa những

gì có thể làm bạn

chia trí suốt trong hai

mươi phút tới.

...

Để thời gian đi vào

trong chính mình. Nhớ lại

hoàn cảnh mà bạn đã

bị tổn thương, tập trung

chú ý trên thân xáccủa bạn. Không phê phán,

hãy chấp nhận các căngthẳng, các cứng cõi, các

"bướu" và ngay cả các

sự khó chịu thể lý.

...

Khi bạn đã phát hiện

một phản ứng quan trọng

của cơ thể, bạn hãy

chú ý đến nó với

kính trọng và tế nhị,

không tìm cách làm thay

đổi, giải thích hay loại

bỏ nó.

...

Tăng cường liên lạc với

cảm giác đó của thân

thể bạn, bằng cách hít

thở trong nó dường như

đó là một lá phổimà bạn muốn làm đầy

khí, rồi lại làm trống

đi.

...

Luôn luôn tập trung vào

phản ứng cơ thể của

bạn, bạn làm ra vẻ

như bạn vừa mới làm

cho nó gồng lên và

bạn thổi nó bay ra

ngoài khỏi hai bàn tay

bạn mở ra đưa caongang mặt.

...

Bạn càng thổi khí trong

tay bạn, bạn càng bắt

đầu quan sát hình thù

của sức căng cơ thể

bị thổi ra ngoài. Nhiềungười thấy xuất hiện một

đám mây mang nhiều hình

thức và màu sắc. Rồi,

ngay giữa đám mây, họ

phân biệt được một hình

ảnh thật đặc biệt.

...

Bạn hãy dùng thời gian

cần thiết để biện phân

rõ ý nghĩa của sức

căng vừa lộ diện trong

hình ảnh. Bạn hãy mô

tả sức căng trong hình

ảnh đó bằng một cái

tên hay một thành ngữ.

...

Dù hình thức ấy tượng

trưng cho bạn một xúc

cảm tức giận hoặc một

xúc cảm khác, bạn hãy

hỏi nó : "Mầy muốnlàm gì cho tao ?

Mầy muốn bảo vệ tao

khỏi cái gì ? Mầymuốn giúp đỡ tao thế

nào ?" Bạn hãy đợi

câu trả lời của nó.

Rồi, bạn hãy nói lại

với nó câu trả lời

của nó bằng ngôn từ

của chính bạn để tỏ

cho nó là bạn đã

hiểu. Bạn hãy tiếp tục

đối thoại với cái phần

nầy của bạn, bằng cách

đối xử với nó như

một người bạn".

...

Tới lúc nầy, bạn hãy

nghĩ tới việc cầu khẩn

Chúa và giao phó cho

Ngài vết thương của bạn

hoặc cơn giận được đạidiện trong biểu tượng. Bạn

hãy xin Chúa giúp đỡ

bạn biến nó thành nguồn

hiểu biết, tăng trưởng và

khôn ngoan cá nhân.

...

Khi bạn thỏa mãn về

sự biến đổi của trạng

thái xúc cảm đúng như

nó được diễn tả trong

biểu tượng của bạn, bạnhãy lấy lại trong tay

bạn cái phần đã được

biến đổi như thế của

bạn và bắt đầu truyền

nó vào bên trong bạn

bằng cách phân phối nó

ra trong tất cả các

phần của cơ thể bạn.

...

Bây giờ bạn hãy kiểm

chứng xem cái phần khó

chịu thể lý lúc ban

đầu của bạn đã được

thay đổi đến mức nào.

...

Nếu bạn thích, bạn hãy

biểu dương sự sáp nhập

mới nầy của chính bạn

bằng một lời nguyện, một

bài hát, một điệu nhảy

hoặc giản dị là ghi

vào nhật ký kinh nghiệm

ấy của bạn.

Giai Đoạn 6

Tha thứ cho chính mình.

"Ghét linh hồn mình, chính

là không thể tha thứ

cho chính mình, là không

hiện hữu, mà cũng chẳng

thể là mình."

(Bernanos)

Tha thứ cho chính mình

xuất hiện cho tôi như

điểm quay vòng của tiến

trình tha thứ. Những sự

tha thứ cho Thiên Chúa

và cho tha nhân trước

hết phải đi qua sự

tha thứ mà bạn trao

ban cho bạn. Kẻ muốn

tha thứ nhưng không tha

thứ cho chính mình giống

như một người bơi lội

mà sóng biển cứ kéo

ra khơi, mãi xa bờ.

Mọi nổ lực mà bạnsử dụng để tha thứ

cho kẻ khác sẽ bị

mất tác dụng vì sựhận thù mà bạn mang

lại cho chính bạn. Ngay

cả trường hợp người ta

không chịu một xúc phạm

hay chửi rủa đặc biệt

nào, sự tha thứ cho

chính mình vẫn là một

trong những thực hành lớn

có tính cách tâm lý

và thiêng liêng để được

chữa lành. Một nhà phân

tâm đã nói : "Cái

cốt yếu của việc trị

liệu, chính là bạn học

tha thứ cho chính bạn".

Khi bạn bị tổn thương

sâu sắc, bạn không còn

có thể do dự tha

thứ cho chính mình nữa.

Bằng mọi cách, bạn đã

bị dồn vào đó. Một

cú cay đắng đã phải

nhận chịu, nhất là khi

nó lại đến từ một

người thân yêu, sẽ phá

tan thành mãnh sự hòa

điệu nội tâm của bạn.

Lúc ấy, những sức mạnh

đối địch sẽ được phát

động lên trong bạn. Chỉ

có sự tha thứ khiêm

tốn mà bạn trao ban

cho mình sẽ thành công

trong việc tái lập trong

bạn sự bình an và

hòa điệu, đồng thời mở

lòng bạn ra với sự

có thể tha thứ cho

người khác được thôi.

1. Ý thức về sự

thù hận chính mình :

Sự hòa điệu nội tâm

vẫn luôn luôn ở trạng

thái quân bình mong manh

và không bền. Một nỗi

thất vọng, một sự bấtcông hoặc một bất hạnh

bất ngờ xảy ra đủ

đánh thức dậy trong mình

những tiếng nói bất hòa

xâm lấn hầu như cảkhông gian của thế giới

nội tâm, đến đổi chẳng

còn chỗ cho tha thứ

nữa. Bị vướng trở nơi

chính mình như thế, người

ta trở nên không thể

tha thứ cho kẻ khác

được. Đó là điều tôi

đã nhận thấy sau một

tuần chữa trị cho nhữngngười phân ly vợ chồng.

Tôi đã xin các tham

dự viên mô tả những

chướng ngại ngăn trở họ

tha thứ. Trở ngại chính

mà họ thuật lại là

do sự chỉ trích khắt

khe về chính mình và

sự bất lực không thể

tha thứ cho chính mình.Đây là những trích dẫn

từ các chứng từ của

họ :

Tôi khó tha thứ cho

chính mình, bởi vì tôi

đã làm gia đình tôi

tan vở, đã không suy

nghĩ trước khi ra đi,

đã không chứng tỏ có

đủ tâm hồn cao thượng

để chịu đựng và dung

thứ những xung đột vợ

chồng, vì...

Lẽ đáng ra tôi phải

thấy trước các vấn đề

khi tôi cưới lấy một

người đàn ông có một

sự dòn mỏng tâm lý

như vậy ...

Tôi hận mình vì đã

quá ngây thơ và đã

đặt tất cả lòng tínnhiệm vào nàng ...

Tôi không tha thứ cho

mình được vì đã nghĩ

trước khi kết hôn rằng

tôi có thể làm thay

đổi được người chồng rượuchè của mình ...

Tôi phẩn nộ với chính

mình vì đã tin vào

những lời dối trá của

nàng và đã kéo dài

quá lâu những bất trung

và những xài phí quá

đáng của nàng...

Con người mà tôi cảm

thấy khó nhất để tha

thứ là chính tôi, một

kẻ nhu nhược, vì đã

ngoan cố sống trong mộtcuộc hôn nhân không có

tương lai, vì đã quá

duy vật chất...

Tôi có sự khó tha

thứ cho mình vì đã

không sẵn sàng tha thứ...

Những lời "tự thú" nầy

chứng tỏ người ta hối

hận đến độ nào khi

gặp phải thất vọng lớn.

Họ không tha thứ chomình vì đã đấn mình

vào những bất hạnh như

thế, và xúc phạm mà

họ phải chịu đựng lại

phơi bày ra ánh sángnhững suy sút và yếu

đuối của họ. Còn hơn

là bị sĩ nhục, họ

cảm thấy tràn ngập xấu

hổ và có lỗi, hòa

lẫn với chuỗi dài những

nhục nhã của quá khứ.

2. Nguồn phát sinh sự

coi thường chính mình :

Người ta có thể biện

phân ba nguồn chính của

sự coi thường chính mình:

- trước hết là sự

thất vọng vì đã không

đạt được đỉnh cao lý

tưởng mơ ước ;

- tiếp đến là những

sứ điệp tiêu cực nhận

được từ cha mẹ và

những người có ý nghĩa

đối với mình ;

- sau cùng là những

tấn công của bóng tối

cá nhân được hình thành

trong phần lớn tiềm năng

nhân bản và thiêng liêng

bị dồn nén, và do

đó không phát triển được.

Nguồn thù địch đầu tiên

với chính mình đến từ

sự kiếm tìm hạnh phúc

và một sự hoàn hảo

tuyệt đối, giống như các

thần thánh hay tiên nữ,

hoặc ít nhất như hoàng

tử và công chúa. Cái

ước vọng vô biên nầy

luôn hành động trong mình,

mặc dầu những giới hạn

và bất lực của mìnhvốn là thọ tạo. Dần

dần, ta phải học chấp

nhận sự hữu hạn của

mình và chịu đựng tình

cảm có lỗi không hoànhảo của mình. Việc chấp

nhận cụ thể trạng thái

tạo vật của mình luôn

luôn được xem như một

bước lớn trên con đường

sức khoẻ tâm lý và

thiêng liêng. Người ta gọi

đó là "đức khiêm nhường".

Nhân đức nầy giúp nhận

lấy đúng kích thước của

mình. Nó cho phép tha

thứ cho mình không những

vì bị giới hạn và

sai lầm, mà còn vì

tưởng rằng mình là toàn

năng, toàn tri, không thể

chê trách được và hoàn

hảo về mọi phương diện.

Nguồn thứ hai buộc tội

và chê ghét chính mình

đến từ những sứ điệp

tiêu cực về phía những

nhân vật mà người ta

coi là quan trọng trong

cuộc đời mình. Những sứ

điệp nầy thuộc trật tự

không lời hay bằng lời.

Trước hết, chúng ta hãy

xem những sứ điệp tiêu

cực không lời. Đứa trẻ

cảm nhận trong thân thể

nó cả một lô những

sứ điệp không lời, như

những cử chỉ thiếu nhẫn

nại và bạo lực củacha mẹ. Sự mệt mỏi,

suy sút, từ chối vô

thức của đứa trẻ, thiếu

sót các chăm sóc vệ

sinh, sự xâm nhập vào

tính sâu kín trẻ con

của nó, những hành động

bạo lực, những lạm dụng

tình dục, trẻ con ghi

hết tất cả vào trong

hệ thống thần kinh và

ký ức của nó.

Về sau, sự coi thường

và cả sự thù hận

chính mình sẽ lớn lên

theo sau những sứ điệp

bằng lời có nghĩa xấu,chẳng hạn những lời nói

làm mếch lòng, những phê

phán ác ý, những so

sánh, những chế nhạo, những

biệt hiệu, v.v...  Sự tích

lủy các sứ điệp bất

lợi tạo nên nơi conngười một mặc cảm tự

ti, chẳng hạn nó không

ngừng tự so sánh mình

với một lý tưởng không

thể được vì lẫn lộnvà được định nghĩa sai.

Thất vọng về mình và

luôn luôn thua kém, người

đó càng lún sâu trong

phiền muộn và những trạng

thái trầm uất định kỳ,

có khi bị xô đẩy

tới chỗ tự tử là

hình thức cao nhất của

sự từ chối tha thứ

cho chính mình.

Nguồn thứ ba của tình

cảm có lỗi và khó

chịu đối với chính mình

phát sinh do "bóng tối"

nhân cách. Bóng tối bao

gồm tất cả mọi phương

diện của mình mà người

ta đã không thể hay

không biết phát triển, vì

nghĩ rằng chúng không thể

được môi trường xã hội

chấp nhận. Bị hoảng sợ

trước những phần của mình

mà mình cho rằng không

thể đón nhận được, người

ta chôn giấu chúng trong

vô thức. Đó là cái

mà người ta thường làm,

chẳng hạn với sự bạo

lực mà người ta sợ

phải đương đầu. Bạo lực

nầy nổi lên ngay lúc

bị xúc phạm và đòi

trả chỗ cho nó. Nếu

lúc ấy mà nó không

được đón nhận và chấpnhận, thì sẽ có nguy

hiểm là nó quay lại

chống người không biết đến

nó. Thay vì là liên

minh, nó sẽ quay sanghàng ngủ kẻ thù để

tấn công dưới hình thức

tự buộc tội mình một

cách bệnh hoạn.

3. Sự đồng nhất hóa

với kẻ tấn công :

Theo sau một xúc phạm,

một lăng nhục hay một

tấn công cá nhân, một

hiện tượng lạ phát sinh

mà trong khoa tâm lý

người ta gọi là "sự

đồng nhất hóa với kẻ

tấn công". Một cách nào

đó, thì đó là một

phương thế để sống còn.Bởi đó, người ta nhằm

thoát khỏi trạng thái nạn

nhân bằng cách thay thế

cho chính kẻ gây nên

xúc phạm. Mặc cho mình

sức mạnh của kẻ tấn

công như thế, nạn nhâncó ảo tưởng bảo vệ

được một phẩm giá nào

đó hoặc một vẻ bề

ngoài tự lập. Nhưng vấn

đề là người ta tiếp

tục là kẻ bách hại

chính mình, ngay cả khi

sự xúc phạm đã biếnmất. Hầu hết các trường

phái tâm lý đều nhìn

nhận sự hiện hữu của

một cơ chế tự vệ

mà họ chỉ định bằngnhững danh từ khác nhau

: siêu ngã, tâm thần

tội lỗi, mặc cảm tự

tôn...

Bấy giờ cái phần nầy

của hữu thể tự tỏ

ra bạo ngược và nhẫn

tâm đối với chính mình.

Nó hiển hiện ra trong

một số phát biểu phản

bội lại một yêu sách

quá mức đối với mình,

ngay cả một sự không

bằng lòng triền miên. Đây

là vài ví dụ của

cuộc đối thoại nội tâm

đó : "Tôi cần phải...","tôi phải...", "lẽ đáng ra

tôi phải...", "lẽ đáng ra

tôi cần phải...". Đôi khi

tính chua chát nầy được

bộc lộ bằng những bí

danh làm cho hèn hạ

và những lời chửi bới

mà người ta nói cho

chính mình.

Một cuộc đối thoại như

thế tạo nên một tính

đối cực mà hai phần

của chính mình đi vào

xung đột. Phần nầy cókhuynh hướng hà hiếp phần

kia bằng những yêu sáchkhông thể thỏa mãn được,

trong khi phần kia chịu

đựng đủ thứ cáo buộc

và chịu sụt giá trước

những thành tích nghèo nàn

của mình và những lần

khác thì lại nổi loạn.

Từ cuộc chiến thường khi

vô thức nầy phát sinh

ra những tình cảm có

lỗi, xao xuyến miên man

và những trạng thái trầm

uất.

Như vậy, mỗi khi là

nạn nhân của một xúc

phạm hay một bạo lực

thì một phần của chính

mình chịu để bị hư

hỏng bởi hành động đê

tiện của kẻ tấn công

và tự làm cho mình

thành đồng lõa với kẻ

xúc phạm đến chính mìnhbằng cách tự bách hại

chính mình. Điều dữ mà

người ta làm cho nó

thúc đẩy nó nhai lại

những lời nói gây thươngtổn, xem lại những hình

ảnh của biến cố đau

thương và làm linh hoạt

trở lại những xúc cảm

đã sống khi bị xúcphạm. Sự dữ thâm nhập

vào mình và người bị

hành hạ có nguy cơ

lớn quay lại chống chính

mình và chống lại cáckẻ khác vì những lạm

dụng mà mình đã phải

gánh chịu.

Thường xảy ra trong trị

liệu là người ta tự

cáo buộc mình bằng chính

những lời nói của kẻ

tấn công họ. Một nữkhách hàng lặp đi lặp

lại không ngừng "Tôi là

đồ súc sinh !" Tôi

xin nàng tự nói lại

cho mình lời nguyền rủa

ấy trong khi lắng nghe

giọng điệu tiếng nói của

mình để khám phá ra

tiếng nói coi nàng là

súc sinh đó thuộc về

ai. Hết sức ngạc nhiên,

nàng nhận ra trong tiếng

nói của nàng giọng nói

của chồng nàng, là người

đã đối xử với nàng

như thế khi rời bỏ

nàng.

Do đó một trong những

điều kiện đầu tiên để

tha thứ cho chính mình

hệ tại việc bắt đầu

tha thứ cho chính mình

vì đã đồng nhất hóa

với kẻ xúc phạm mình.

4. Việc chấp nhận chính

mình và sự tha thứ

:

Cái giá mà người ta

phải trả vì thiếu chấp

nhận và quí mến chính

mình là rất cao. Trong

L'homme à la recherche de

son âme, đại tâm lý

gia Carl Jung chủ trương

rằng chứng loạn thần kinh

là nguồn gốc sự thiếuchấp nhận và quí mến

chính mình : "Chứng loạn

thần kinh là một trạng

thái chiến tranh với chính

mình. Tất cả những gì

nhấn mạnh sự chia rẻ

vốn ở trong mình làm

cho tình trạng của bệnh

nhân thêm trầm trọng hơn,

và tất cả những gì

phá tan sự chia rẻ

nầy góp phần chữa lànhbệnh nhân".

Cũng chính tác giả nầy

nói tiếp khi đề cập

đến tình yêu chính mình

: "Sự chấp nhận chính

mình là chính yếu tínhcủa vấn đề luân lý

và là tổng hợp của

mọi viển ảnh của cuộc

sống. Nếu tôi cho những

người đói ăn, nếu tôi

tha thứ một xúc phạm,

hoặc nếu tôi yêu kẻ

thù của tôi nhân danh

Chúa Kitô, thì chắc chắn

điều đó tạo nên nhữngnhân đức lớn. Điều gì

tôi làm cho kẻ bé

mọn nhất trong các anh

em của tôi là tôi

làm cho chính Chúa Kitô.

Nhưng tôi sẽ làm gì

khi tôi khám phá ra

rằng người bé nhỏ nhấttrong mọi người, người nghèo

nhất trong mọi kẻ ăn

xin, kẻ tồi tệ nhất

trong những kẻ đã xúc

phạm đến tôi được tìm

thấy ở trong chính tôi,

rằng chính tôi là kẻ

cần ăn xin sự dễ

thương của tôi, rằng chính

tôi là kẻ thù đang

van xin tình thương của

tôi ?"

Cần phải thú nhận rằng

tất cả chúng ta đều

phải tha thứ cho mình,

vì chúng ta đã tưởng

mình toàn năng như thầnthánh, đã chen vào những

thương tổn của tha nhân,

đã để mình bị chê

bai bởi những sứ điệp

tiêu cực của cha mẹ

và những người đào tạo

chúng ta, đã cho phép

cái bóng của chúng ta

quay lại chống chúng ta,

và cuối cùng, đã đồng

lỏa với kẻ xúc phạm

chúng ta đến độ tiếp

tục mãi những cử chỉ

gây xúc phạm trong chúng

ta.

Trước những thách đố lớn

lao như vậy của việc

tha thứ cho chính mình,

không có cái gì khác

ngoài sự ngã lòng, thất

vọng sao ? Dĩ nhiên

là có. Theo vẻ bề

ngoài như thực, chúng ta

sẽ vấp ngã, nếu chúng

ta chỉ tin vào sángkiến và sức mạnh của

chúng ta thôi. Bernanos không

nghĩ gì khác hơn :

"Một người bị bó buộc

nhìn ra ngoài lòng thương

xót dịu dàng của Thiên

Chúa chỉ rơi vào sự

thù hận và khinh miệt

chính mình thôi".

Dù gì đi nữa, tôi

hy vọng rằng mọi người

đã hiểu tầm quan trọng

sinh tử của việc tha

thứ cho chính mình. Sựtha thứ cho chính mình

nầy là điều kiện thành

công cho các tha thứ

khác : "Nếu một người

nào độc ác đối vớichính y thì người ta

làm sao mà có thể

chờ đợi ở y lòngcảm thông với người khác

được ?"

5. Để giúp tha thứ

cho chính mình :

a) Nhờ thực tập đầu

tiên nầy, chúng ta sẽ

học đối xử dịu dàng

hơn với mình. Vấn đề

là phải ý thức về

tất cả mọi lần mà

chúng ta tự cáo buộc

mình và cho mình nhữngmệnh lệnh với các thành

ngữ như tôi cần phải,

tôi phải, có lẽ tôi

phải, tôi bị bó buộc

phải ... :

Bạn bắt đầu liệt kê

những phát biểu của ngôn

ngữ thường ngày của bạn,

chẳng hạn tôi cần phải

tha thứ cho bạn tôi.Rồi trong khi bạn ghi

vào danh mục các "cần

phải" và những công thức

truyền khiến khác, bạn để

thời giờ dừng lại ở

mỗi thứ và cảm nhận

cái gì xảy đến trong

mình bạn. Chắc chắn bạn

sẽ hiểu tất cả những

cưỡng bức mà bạn tự

áp đặt cho mình đó

là nguyên nhân gây nên

ứng suất như thế nào.

Một khi bản liệt kê

của bạn được chấm dứt,

bạn thay thế những chữ

cần phải, tôi phải, lẽ

ra tôi phải, lẽ ra

tôi nên bằng tôi chọn...,

tôi tự do để... Bạn

dừng lại để thưởng thức

trạng thái mới của tâm

hồn được tạo nên nhờ

sự thay thế đó.

b) Tập luyện nầy nhằm

làm lại sự hòa điệu

nội tâm đã bị phá

hủy do sự va chạm

của xúc phạm :

Bạn ngồi một cách thoải

mái, lưng thẳng đứng, loại

bỏ mọi sự chia trí

trong vòng hai mươi phút.

Dành vài chốc lát để

đi vào nội tâm bạn.

...

Trước hết, bạn ý thức

về hai phần của bạn

: phần cáo buộc bạn

và phần bị cáo buộc.

...

Bạn đặt hai tay lên

đầu gối và tự hỏi

tay nào trong hai taycó thể đại diện cho

phần cáo buộc. Bạn tin

chắc tay kia có khả

năng đóng vai phần bị

cáo buộc. Nơi nhiều người,thường chính bàn tay thuận

đóng vai kẻ cáo buộc

và tay kia đóng người

bị cáo buộc.

...

Một khi đã xác định

rõ hai phần rồi, đưa

tay cáo buộc lên một

bên quá đầu, gấp khuỷu

tay lại để bạn khỏi

quá mệt. Nhìn vào bàn

tay dường như đó là

một màn ảnh mà trênđó bạn thấy vẽ ra

phần cáo buộc của bạn.

Bạn sẽ vẽ nó ra

như thế nào ?... Những

khuôn mặt nào xem ra

đang ẩn núp đàng sau

cái phần đó của bạn,

mà phần cáo buộc nầy

tỏ ra quá yêu sách,

bạo ngược và bắt lỗi

? ... Nghe một hoặc

nhiều giọng nói với bạn

những lời khiển trách...

...

Bây giờ, bạn đặt các

ngón tay lên vai để

cho cánh tay của bạn

được nghỉ ngơi.

Đưa bàn tay bên kia

lên quá đầu một chút

và hơi chếch đàng sau.

Bạn nhìn phần lần nầy

bị cáo buộc của bạn.

Nó là phần nhạy cảm,

dịu dàng và dễ bị

tổn thương, có khuynh hướng

dễ bị suy sút tinh

thần vì những lời khiểntrách. Bạn sẽ mô tả

nó như thế nào ?

... Nó bao nhiêu tuổi

? ... Bạn ngắm nhìn

nó hiển hiện ra suốt

trong nhiều thời kỳ khác

nhau của đời sống bạn...

...

Bạn đặt các ngón tay

lên vai để cánh tay

được nghỉ ngơi.

Bây giờ trở lại với

phần cáo buộc. Đưa bàn

tay lên quá đầu. Hai

mắt lại chăm chú nhìn

phần cáo buộc của bạn,bạn tự đặt ra cho

mình những câu hỏi sau

đây : Tôi có tán

dương cái phần nầy của

tôi không, dù nó tỏ

ra quá yêu sách đối

với tôi và thường năng

cải lộn với tôi nhưthế ?... Ý hướng tích

cực nào mà nó hành

động với tôi như vậy

? ... Cái gì sẽ

xảy ra cho tôi nếu

tôi thiếu mất nó ?

... Dần dần bạn khám

phá ra ý hướng tích

cực đang tác động nó.

Ngay cả khi bạn không

luôn luôn tán thành những

cách thức nó muốn giúp

đỡ bạn, bạn ý thức

rằng nó muốn điều tốt

cho bạn.

...

Bạn đặt các ngón tay

vên vai để cánh tay

được nghỉ ngơi. Bây giờ

sang bàn tay kia. Đưa

nó lên quá đầu một

chút và hơi nghiêng về

đàng sau. Tự đặt cho

bạn những câu hỏi :

Tôi tán dương cái gì

nhất trong nó, dù tính

rất nhạy cảm và dễ

bị tổn thương của nó

?... Ý hướng tích cựcnào nó có trên tôi

?... Tôi sẽ làm gì

nếu không có nó ?

... Dần dần, bạn ý

thức về tất cả tầm

quan trọng của nó đốivới bạn, ngay cả khi

bạn không luôn luôn sử

dụng các phương tiện nó

dùng để làm cho nó

được yêu thương.

...

Cứ để bàn tay bạn

nghỉ ngơi trên vai bạn.

Trở lại với bàn tay

kia bằng cách đưa nó

lên quá đầu, về một

bên và hơi nghiêng về

đàng sau. Bạn xin lỗi

nó về mọi lần bạn

đã không tán dương nó

hoặc bạn đã muốn tống

khứ nó đi.

...

Sau khi nhận sự tha

thứ của nó, bạn nói

với nó rằng bạn tha

thứ cho nó mỗi lần

nó đã quá cứng cỏi

hoặc quá vụng về đối

với bạn. Bạn xin nó

tìm các phương thế khác

nhân bản hơn và thích

hợp hơn để thực hiện

những thành tích mà nó

chờ đợi ở bạn.

...

Bạn để bàn tay và

cánh tay nghỉ ngơi, rồi

lại nói với phần dịu

dàng và nhạy cảm của

bạn. Bạn xin lỗi nó

về những lần bạn xét

đoán nó là quá nhạy

cảm và dễ bị tổn

thương, và những lần bạn

đã muốn không thèm biết

đến nó hoặc bạn muốn

tống cổ nó đi.

...

Sau khi nhận được sự

tha thứ của nó, bạn

tha thứ cho nó về

tất cả những đau khổ

mà nó đã gây nên

cho bạn. Bạn xin nó

tìm kiếm các phương tiện

khác hiệu quả hơn đểbạn hoàn tất những gì

nó muốn ở nơi bạn.

...

Bây giờ, bạn giơ hai

tay ra trước mặt, cao

quá đầu và cách nhau

khoảng một mét. Bạn để

ít khoảnh khắc ngắm nhìn

hai phần của bạn mà

chúng tượng trưng và tất

cả những gì mỗi phần

cống hiến cho bạn về

sự phong phú, phẩm chất

và tài nguyên.

...

Khi bạn cảm thấy sẵn

sàng, bạn cho hai tay

xáp lại gần nhau theo

nhịp độ riêng của bạn.

Bạn tiếp tục chiêm ngắm

sự đồng nhất riêng với

mỗi bên của cả hai

phần. Khi chúng đụng vào

nhau, bạn đan các ngón

tay vào nhau và đưa

hai bàn tay đan nhau

đặt trên bụng bạn. Rồi

bạn đi vào trong mình

(nhập định) một cách sâu

xa.

Không cố gắng, ngay cả

không tìm cách giải thích

những gì xảy đến trong

bạn, hoặc thử đoán biết

những gì xảy đến với

bạn, bạn để cho hai

phần của bạn tiếp tục

gặp nhau để chúng học

nhận biết nhau hơn, sáp

nhập với nhau hơn, cộng

tác với nhau hơn và

kính trọng lẫn nhau hơn.

...

Như vậy là tốt. Bây

giờ, bạn đi vào nội

tâm mình cách còn sâu

xa hơn nữa. Bạn phó

mình cho sự khôn ngoan

vô thức đang hoạt động

trong bạn (ở đây, bạn

có thể khẩn cầu nguồn

linh hứng thiêng liêng của

bạn). Bạn xin Chúa khai

mở sự hòa điệu hai

phần của bạn, ngõ hầu

chúng có thể sống trong

bình an, thanh lặng va

trong suốt.

...

Bạn thưởng thức sự thanh

lặng, bình an, và hiệp

nhất nội tâm nầy. Đang

khi ở lại trong trạng

thái thư giản nầy, bạntưởng tượng nhìn thấy đôi

mắt của người đã làm

tổn thương bạn và trong

ít giây, bạn ý thức

tất cả những gì bạn

muốn dạy dổ y. Bây

giờ, bạn để đôi mắt

của y ra đi. Rồi

bạn trở lại thưởng thức

sự bình an và hiệp

nhất sâu xa mà bạn

cảm nhận trong lòng. Hai

phần của bạn sẽ tiếptục hòa giải với nhau

và sáp nhập với nhau

trong những ngày tới, những

tuần tới, những tháng tới.

Bạn tìm trong nhà một

vật gì tượng trưng cho

trạng thái thanh lặng, vui

tươi và trong sáng mà

bạn hiện đang sống. Khi

bạn nhìn ngắm nó, vật

biểu tượng ấy sẽ làmsống dậy trong bạn cái

kinh nghiệm hiện tại về

sự thanh lặng, bình an

và vui tươi.

...

Rồi, tùy theo nhịp điệu

riêng của bạn, bạn để

mình trở lại với thế

giới bên ngoài. Bạn đếm

từ một cho đến mười

để giúp bạn bắt liên

lạc lại với những tiếng

động, ánh sáng và màu

sắc bao quanh bạn.

Cuộc luyện tập nầy tạo

nên cho bạn một cảm

giác lớn về bình an

và hòa điệu nội tâm.

Bạn có thể làm lại

tập luyện nầy nhiều ngày

liên tiếp. Sự hòa điệu

mới mà bạn sẽ thiếtlập với chính bạn sẽ

giúp bạn dễ dàng trong

nhiệm vụ trao ban cho

người khác sự tha thứ

của bạn.

c) Cuộc luyện tập trên

đây nhằm thiết lập lại

hòa điệu nội tâm. Cuộc

tập luyện nầy sẽ giúp

thực nghiệm sự tha thứcho chính mình :

Dùng thời gian bạn muốn

để đi vào trong bạn.

Làm mới lại ý hướng

của bạn là để cảm

nhận bạn được giải thoátkhỏi mọi sự coi thường

và mọi hận thù đối

với bạn. Bạn dọn mình

để đón nhận bạn với

tình yêu và cảm thông.

Bạn cầu xin Chúa đồng

hành với bạn trong tiến

trình tha thứ cho chính

bạn, đồng thời đổ đầy

tâm hồn bạn sức mạnh

và tình yêu.

Đã đến lúc để rơi

rụng xuống mọi tình cảm

bạo lực, coi thường và

tức giận đối với bạn.

Hãy để biến mất đi

tất cả mọi tình cảm

phá hoại.

Bạn loại trừ mọi cám

dỗ hạ thấp bạn, tranh

chấp, so sánh, nghĩ là

bạn hơn hay thua kẻ

khác.

Một lần cho mọi lần,

bạn cho phép bạn được

là chính bạn.

Thật nặng nề biết bao

khi biết rằng bạn bị

vất ném ra khỏi bạn

và sống bên lề chính

con tim của bạn.

Từ từ, bạn mời gọi

con tim bạn đón nhận

và yêu thương bạn trở

lại.

Hết sức dịu dàng, bạn

lắng nghe con tim bạn

nói với phần không được

yêu thương của bạn :

"Ta tha thứ cho mầynhững yếu đuối, nhân tính

bị tổn thương, những ước

vọng quá mức và tất

cả mọi lỗi lầm của

mầy. Ta tha thứ chomầy. Ta tha thứ cho

mầy".

...

Bạn để cho con tim

bạn nói với bạn :

"(Tên bạn) ơi, tôi đón

nhận ... trong lòng tôi.

Tôi muốn dành một chỗ

thật lớn ở đó cho

... Tôi tha thứ cho

... Tôi tha thứ cho

... "

Chính như thế. Bạn xóa

tan đi mọi phán đoán

bất lợi và mọi cay

đắng đối với bạn. Bạn

để biến mất đi mọi

cảm giác cứng cỏi đối

với bạn.

Bạn tiếp tục đón nhận

mình với tế nhị và

yêu thương, dường như bạn

cư xử với đứa con

đã làm bạn tổn thương.

Bạn dành cho mình còn

nhiều chỗ hơn trong tráitim và bạn tưởng tượng

nhìn thấy tim bạn được

bao bọc đầy ánh sáng

và hơi ấm.

Có thể bạn bất chợt

thấy rằng bạn xét đoán

quá bao dung đối với

bạn, đến độ bạn cảm

thấy bối rối. Bạn đóntiếp những ý nghĩ nghiêm

khắc ngăn cản bạn tha

thứ cho mình đó. Bạn

đón nhận chúng và để

cho chúng tan chảy trong

hơi ấm nồng nhiệt của

trái tim bạn.

Bạn cảm nhận rằng trái

tim bạn mềm ra dần

dần và trở nên dịu

dàng đối với bạn.

Bạn bắt đầu thưởng thức

niềm vui tha thứ cho

chính bạn và sự sinh

hạ của một tự do

nội tâm mới. Sự an

ủi mà bạn cảm thấy

sẽ làm cho bạn hiểu

rằng thật là phù phiếm,

nếu bạn cứ hận mình

lâu dài hơn.

Bạn để cho sự hiệp

thông và lòng quí mến,

bình an và cảm thông

của con tim thấm nhuần

tất cả con người bạn.

Bạn thấy cảm giác được

giải thoát phát sinh do

sự tha thứ cho chính

mình giúp bạn tỏ ra

cảm thông hơn đối vớingười khác và sẳn sàng

tha thứ cho họ đến

mức độ nào.

Cảm thông với chính mình

:

Tôi muốn tha thứ cho

tôi,

- vì đã tìm kiếm

vì sao không thể đạt

tới được,

- vì đã dòn mỏng,

- vì đã xấu hổ

về đau khổ của mình,

- vì đã nhận là

có lỗi trong bất hạnh

của mình,

- vì đã duy trì

khao khát một sự hoàn

hảo không thể tới được,

- vì đã đồng lõa

với kẻ bách hại mình,

- vì đã tự đặt

mình ra ngoài con tim

mình,

- vì đã nhớ mãi

những lời cáo buộc gây

tổn thương đến mình,

- vì đã không có

khả năng tiên liệu mọi

sự,

- vì đã thù ghét

mình không xót thương,

- vì đã cảm thấy

bất lực để tha thứ

cho người khác,

- ...

Tóm lại, tôi muốn tha

thứ cho tôi, vì đã

là người.

Giai Đoạn 7

Hiểu kẻ xúc phạm đến

mình

"Sự tha thứ dẫn tới

việc ngưng lại mọi xét

đoán về kẻ gây nên

xúc phạm và khám phá

cái Mình đích thực của

y..."

(Joan Borysenko)

Trong một buổi thuyết trình

về các giai đoạn tha

thứ, một bà bự lắng

nghe tôi. Khi tôi đề

cập đến giai đoạn hệ

tại việc hiểu kẻ gây

nên xúc phạm, bà lập

tức ngắt ngang tôi :

"Tôi nghe cha mãi cho

đến lúc nầy, nhưng như

thế là quá lắm rồi,

tôi không muốn cố gắng

hiểu người phối ngẩu cũ

của tôi nữa, tôi đã

mất quá nhiều thời gian

vào cái trò đó". Tôi

trả lời bà bốp chát

: "Bà không thể nuốt

hết tất cả các giai

đoạn của tha thứ trong

một mạch và trong cùng

một buổi tối được. Có

lẽ lợi hơn cho bà

là trở lại giai đoạn

chấp nhận cơn giận của

bà". Cũng như nữ thính

giả của tôi, nếu bạn

cảm thấy bị ách tắc

ở một giai đoạn, thì

thật là hữu ích khi

tự hỏi xem bạn có

đốt một giai đoạn nào

trước đó không? Do đó

điều quan trọng là bạn

tôn trọng nhịp điệu tiến

triển cá nhân trong tiến

trình tha thứ của bạn.

Vậy, nếu vết thương của

bạn hãy còn quá mới

và được chữa trị không

đúng, thì bạn dấn thân

vào giai đoạn nầy là

vô ích. Giai đoạn nầy

giả thiết rằng bạn đã

thôi không quá bận tâm

đến vết thương của bạn

nữa. Bạn đã cảm thấy

sẵn sàng ra khỏi bạn

để thay đổi quan niệm

của bạn về người đã

làm thiệt hại cho bạn

chưa ?

Có cần thiết phải nhắc

lại cho bạn, trước khi

đi xa hơn, rằng hiểu

kẻ gây nên xúc phạm

không có nghĩa là thứ

lỗi cho y và càng

không phải là thân oan

cho y ? Hiểu kẻ

gây nên xúc phạm, chính

là mang một cái nhìn

trong sáng hơn trên y,

để nắm bắt mọi kích

thước về con người của

y và các lý do

của lỗi lầm của y.

Điều hiển nhiên là bạn

không thành công để hiểu

hết mọi sự về y

và về lối xử sự

của y. Nhưng mớ hiểu

biết ít ỏi về y

mà bạn sẽ đắc thủ

được sẽ làm cho sự

tha thứ trở nên dễ

dàng hơn đối với bạn.

Sự tha thứ không còn

xuất hiện ra cho bạn

như một cử chỉ thiếu

suy nghĩ hoặc mù quáng

nữa, bởi vì bạn đã

tìm được những cái "tại

sao" cho lối ứng xử

gây xúc phạm của y.

Hơn nữa, bạn sẽ sẵn

sàng hơn để thay đổi

cái hình ảnh mà bạn

đã có về y và

nổ lực tha thứ nhờ

đó càng được nâng đỡ.

Đối nghịch lại những người

khuyên bạn cứ nhắm mắt

tha thứ, tôi xin mời

bạn tha thứ với đôi

mắt rộng mở, để thấy

rõ và để khám phá

nơi kẻ xúc phạm bạn

những khía cạnh mà cho

tới lúc đó vẫn còn

chưa biết đối với bạn.

1. Hiểu kẻ xúc phạm

bao hàm việc thôi chê

trách nó:

Sự sĩ nhục và đau

khổ gây nên do sự

xúc phạm ảnh hưởng đến

quan niệm ta có về

kẻ gây nên xúc phạm

và có thể làm sai

lạc quan niệm đó. Lúc

ấy, người ta đã thấy

nơi kẻ gây nên xúc

phạm một con người tồi

tệ, lừa phỉnh, bạo lực,

bất trung, nguy hiểm, đe

dọa, thù hận, vô trách

nhiệm, v.v... Kỷ niệm ám

ảnh của cử chỉ xúc

phạm ảnh hưởng đến cái

nhìn của người bị xúc

phạm đến độ kẻ gây

nên xúc phạm thôi không

còn là một con người

có khả năng tiến hóa,

bởi vì y đã bị

đánh dấu mãi mãi vì

tội phạm của y rồi.

Y thường trở thành sự

ác tâm và độc dữ

đã được nhân cách hóa.

Do đó mà có khuynh

hướng để bị cơn phẩn

nộ kéo đi và quên

những lời Phúc âm :

"Con đừng tự đặt mình

làm thẩm phán để khỏi

bị xét đoán" (Mt.7,1). Trước

hết chúng ta ghi nhận

thành ngữ "đừng xét đoán"

không có nghĩa là "không

sử dụng sự phê phán

của mình", nhưng đúng hơn

là không sử dụng sự

phê phán của mình để

"kết án" kẻ khác. Tiếp

đến, mệnh lệnh Phúc âm

nầy không do một bó

buộc khô khan và thuần

túy luân lý, nhưng nhằm

theo đuổi trước hết thiện

ích của chính mình. Bởi

vì nếu tôi không tránh

kết án kẻ khác, thì

tôi cũng sẽ không tránh

khi đến phiên tôi bị

kết án.

Việc đó sẽ xảy ra

thế nào ? Trước hết

trong khi kết án kẻ

khác, tôi gặp nguy cơ

xao lãng chính mình trong

mức độ mà tôi tập

trung quá đáng trên các

khuyết điểm của tha nhân.

Tiếp đến sự mù quáng

về con người tôi sẽ

dẫn tôi dự phóng trên

kẻ khác chính những lỗi

lầm và yếu đuối của

tôi. Vả lại, nếu tôi

giữ mình không kết án

kẻ khác, tôi sẽ có

nhiều cơ may hơn để

có một cái nhìn khách

quan hơn về chính mình,

và do đó, có một

cái nhìn khách quan hơn

về kẻ xúc phạm đến

tôi. Phải chăng đó là

sứ điệp Chúa Giêsu đã

nói dưới một hình thức

gợi hình: "Sao con nhìn

cái rác trong mắt anh

em con, mà cái xà

trong mắt con, con lại

không lưu ý ?" (Mt.7,3).

Việc kết án kẻ xúc

phạm tôi một cách nào

đó trở lại kết án

chính tôi. Một phần lớn

của cái mà tôi bài

xích nơi người khác thường

là một phần của chính

tôi mà tôi từ chối

nhận biết nơi mình. Lúc

ấy kẻ xúc phạm tôi

trở thành cái màn hình

trên đó tôi phóng chiếu

những khía cạnh của chính

tôi mà tôi rất lấy

làm nặng nề khi nhìn

thấy. Con người bị kết

án phản ánh cho tôi

những phương diện khó thương

của tôi. Xét về mặt

nầy, thật ích lợi khi

tôi qui cho mình những

khuyết điểm và sai quấy

mà tôi chồng chất lên

kẻ xúc phạm. Đón nhận

như thế cái làm cho

tôi sợ nơi tôi là

thiết yếu cho sự trưởng

thành của tôi. Khi lấy

lại những khía cạnh của

mình mà tôi cho là

yếu đuối và thiếu sót,

tôi trở nên đầy đủ

hơn và như vậy trở

nên chính tôi hơn. Vậy

tôi sẽ không hiểu được

kẻ xúc phạm tôi, nếu

trước đó tôi đã không

làm cho thích hợp với

mình những yếu đuối và

khuyết điểm mà tôi đã

mặc cho y.

Suy nghĩ kỷ thì qui

tắc không kết án kẻ

xúc phạm mình lẫn lộn

với qui tắc "yêu thương

kẻ thù của mình". Ở

đây nữa, lời dạy nầy

không được khắc ghi trong

một luân lý bổn phận,

nhưng trong một ước muốn

tăng trưởng nhân vị. Bởi

vì trong bối cảnh của

tha thứ, kẻ thù hoặc

kẻ xúc phạm gởi trả

lại cho tôi những phần

khó thương tạo nên "cái

bóng" của tôi. Vậy, "yêu

thương kẻ thủ" trở về

đón tiếp trong mình "cái

bóng" của mình, nghĩa là

cái làm cho sợ hoặc

cái gây nên xấu hổ

trong tôi. Vậy, tôi thực

hành không kết án kẻ

thù và yêu thương kẻ

thù, chính là không kết

án cái bóng của tôi

và bắt đầu thuần hóa

nó, yêu thương nó. Trong

hành động tha thứ, một

cách nào đó, sự không

xét đoán dẫn đến một

sự hòa giải với kẻ

xúc phạm, nhưng nhất là,

đến một sự hòa giải

với khía cạnh bóng tối

của chính mình được xác

nhận là một nguồn suối

nhân vị lớn lao.

2. Hiểu, chính là biết

rõ những tiền sự của

người khác :

Một câu ngạn ngữ xưa

nói rằng : "Thiên Chúa

tha thứ tất cả, vì

Ngài hiểu rõ mọi sự".

Chân lý sâu xa thật

quan trọng phải ghi nhớ

để đi qua giai đoạn

hiện tại. Rõ ràng là

một sự hiểu biết tốt

các tiền sự về gia

đình, xã hội và văn

hóa của một con người

sẽ giúp ta tha thứ

cho con người đó. Ngay

cả khi những điều kiện

chung quanh đó không biện

minh cho lối xử sự

không tốt của người đó,

thì ít ra chúng cũng

giải thích được một phần.

Đó là cái tôi khám

phá được trong khi cố

hiểu những cơn lo âu

và nổi giận của cha

tôi mà tôi cho là

không thể dung thứ được.

Sau một cuộc chuyện vãn

với cô tôi về thời

thơ ấu của cha tôi,

tôi đã thay đổi triệt

để thái độ bất bao

dung của mình. Là anh

cả của gia đình, cha

tôi đã làm việc cần

cù, ngay từ lúc nhỏ,

cha tôi đã phải gánh

vác trách nhiệm quá nặng

của "người đàn ông trong

nhà" suốt những thời gian

vắng mặt rất dài của

ông nội tôi. Do đó

mà sinh ra những nỗi

sợ và lo âu thường

xuyên của người.

Một khi biết được sự

kế thừa và lịch sử

của một con người, ta

dễ đặt mình vào hoàn

cảnh của người đó và

hiểu được những sự sai

lệch trong tính tình của

y. Như thế, sự kiện

biết được rằng một người

lạm dụng tình dục đã

là nạn nhân của sự

lạm dụng không giảm thiểu

tính nghiệm trọng tội ác

của y, nhưng làm cho

người ta độ lượng hơn

đối với y.

3. Hiểu, chính là tìm

ý hướng tích cực của

kẻ xúc phạm :

Virginia Satir, thầy thuốc điều

trị tại gia trong suốt

hơn bốn mươi năm, biểu

lộ một sự tín nhiệm

lớn lao nơi những người

mà bà luôn tìm khám

phá ý hướng tích cực

của các hành động, dù

họ là những khách hàng

rượu chè trụy lạc nhất.

Theo ý bà, nơi mỗi

con người đều có một

ý chí tăng trưởng không

thể trừ khử, ngay cả

trong những cử chỉ độc

ác nhất. Đối với bà,

ý hướng tích cực là

một nguồn mạch nội tâm

phong phú cho phép bà

tiếp cận khách hàng và

cùng y khởi đầu một

sự thay đổi ứng xử.

Một khi ý hướng tích

cực đã được khám phá,

bà giúp khách hàng ý

thức và nhận thấy tất

cả vẻ đẹp của nó.

Rồi bà gợi ý cho

khách hàng những phương thế

xây dựng để thực hiện

cái ý hướng tăng trưởng

đó. Chẳng hạn bà hiểu

rằng ý hướng tích cực

của một người tự tử

là nhằm chấm dứt đau

khổ ; ý hướng tích

cực của một người cha

bạo lực là có được

sự chế ngự trên đứa

con ; ý hướng tích

cực của tên trộm trẻ

ở quầy hàng là để

chứng tỏ giá trị của

nó với bạn bè ;

ý hướng tích cực của

cậu bé nổi loạn là

để chứng minh khả năng

của nó với các nhà

đào tạo.

Chính với cùng ý hướng

tích cực đó mà một

số người nghĩ là phải

làm tổn thương một người

khác để thúc đẩy y

tự sửa chữa và tiến

bộ. Một số nhà giáo

dục bắt phải chịu bao

sĩ nhục với một ý

muốn tuyệt vời của thế

gian ? Tôi nhớ rõ

ngày mà thầy coi nhà

nguyện, sau một giờ tập

hát, đã trịnh trọng rút

ra khỏi túi một mãnh

giấy, rồi trước sự hiện

diện của cả ca đoàn

ba mươi người, lớn tiếng

đọc : "Các em André,

Claude và Jean phải ra

khỏi ca đoàn ngay lập

tức và vĩnh viển". Lòng

đầy bực tức, tôi bái

gối Mình Thánh Chúa rồi

lập tức rời nhà nguyện.

Ngày nay tôi vẫn còn

tự hỏi tại sao ông

thầy nầy đã không thông

báo việc đuổi chúng tôi

trước giờ tập hát. Dĩ

nhiên, ông đã thành công

trong việc hạ nhục tôi,

nhưng ông đã lầm, nếu

ông muốn qua đó để

dạy tôi thực hành đức

khiêm nhường.

Tôi cũng thấy ông thầy

Anh văn ở cấp hai

khủng bố tất cả lớp

với lối châm chọc cay

độc của ông bằng cách

đọc lớn tiếng những bài

thi kém nhất. Người ta

không thể nhắm mắt trước

những sự vụng về như

thế và những hậu quả

mà chúng kéo lê trong

cuộc đời của các nạn

nhân. Tuy nhiên, dù các

phương pháp nầy thật đáng

trách, có lẽ người ta

chẳng nghi ngờ gì những

ý hướng tốt của các

nhà giáo dục đó.

Mặt khác, nếu xảy ra

là một số người làm

điều sai với những ý

hướng tốt, thì cũng có

những người khác làm điều

đó mà không muốn. Chúng

ta hãy nghĩ đến những

người lái xe ẩu say

rượu hay ghiền ma túy

đã giết chết hoặc gây

thương tích cho người nào

đó trong các tai nạn

; những điều dưỡng viên,

vì cớ một chẫn đoán

sai hoặc vì lối điều

trị lầm lẫn, đã hủy

hoại sức khoẻ của các

bệnh nhân ; một trụ

cột của gia đình, vì

đã thỏa hiệp trong những

cuộc làm ăn phiêu lưu,

đe dọa cuộc sống sung

túc thoải mái của vợ

con... Trong những trường hợp

nầy, các nạn nhân phải

chịu những thiệt hại nặng

nề. Tuy nhiên, việc biết

rằng những người chịu trách

nhiệm về các thiệt hại

đó đã không cố tình

gây nên chắc chắn không

thể loại trừ các đau

khổ phải chịu, nhưng ít

ra cũng có thể giảm

nhẹ sự chán ghét tha

thứ đi.

4. Hiểu kẻ xúc phạm

chính là khám phá được

giá trị và phẩm giá

của y  :

Người ta có khuynh hướng

giảm trừ kẻ gây nên

xúc phạm với cử chỉ

ác tâm của y và

từ đó hoàn toàn coi

thường y. Dầu vậy, một

ứng xử lầm lỗi của

kẻ xúc phạm không bao

giờ là lời nói cuối

cùng về y. Vì, bất

chấp các lầm lỗi của

y, y vẫn còn có

khả năng thay đổi và

trở nên tốt. Nỗi thất

vọng càng sâu xa thì

nó càng làm cho người

ta chỉ nhìn thấy lỗi

lầm của kẻ xúc phạm

và muốn dìm nó xuống.

Mối nguy hiểm còn lớn

hơn nữa khi đó là

một người gần gủi và

được yêu mến.

Về vấn đề nầy, tôi

nhớ là mình đã được

xây dựng bởi thái độ

tích cực của một người

đàn bà mà cuộc sống

cá nhân và gia đình

bị một người chồng rượu

chè say sưa làm hỏng.

Bà nói với tôi rằng

ngay cả khi bà đã

quyết định lìa bỏ ông,

bà không ngừng yêu ông

bất chấp tất cả và

không ngừng ngưỡng mộ sự

dịu dàng, lòng can đảm,

óc hài hước và niềm

tin tôn giáo sâu xa

của ông. Bà nói tiếp

: "Không ai có thể

lấy đi của tôi tình

yêu và niềm vui đã

sống với người đàn ông

nầy cả". Hết sức ngạc

nhiên, tôi nhìn bà thoát

ra khỏi cuộc phiêu lưu

vợ chồng với phẩm cách

và trong một sự kính

trọng lớn lao đối với

người phối ngẩu cũ của

mình. Tôi không còn nhìn

thấy nơi bà một nạn

nhân còn ở dưới ách

một người chồng nghiện ngập

nữa, mà là một người

vợ tự do.

5. Hiểu, chính là chấp

nhận không hiểu hết mọi

sự :

Ngay cả khi người ta

muốn biết mọi sự về

kẻ xúc phạm mình, thì

người ta cũng không bao

giờ chọc thủng được hoàn

toàn cái bí mật của

con người y, cũng chẳng

thể khám phá được mọi

động lực cử chỉ của

y, những động lực mà

thường y cũng không biết.

Người ta lại thấy mình

đang đứng trước huyền nhiệm

của một nhân vị sống

động, đến đổi hiểu kẻ

xúc phạm chính là chấp

nhận không hiểu hết mọi

sự. Đó là điều mà

một người thợ nọ, sau

một buổi thuyết trình về

tha thứ, đã đến thăm

tôi để tâm sự với

tôi cái triết lý sống

của ông : "Nếu người

nào gây nên cho con

một điều thiệt hại, con

thưa với Chúa : con

không hiểu tại sao y

làm cho con như vậy,

nhưng con tin rằng Chúa

biết tại sao. Và suy

tư nầy đủ làm cho

con giữ được sự bình

an nội tâm của mình".

Những lời nầy làm dội

lại tư tưởng của bác

sĩ Philippe Madre : "Chung

cuộc, tha thứ không phải

là một cử chỉ xóa

sạch (trong thực tế không

thể được vì điều dữ

tôi tha thứ vẫn mãi

mãi làm thành phần của

lịch sử đời tôi), nhưng

là một cử chỉ tin

tưởng ở tha nhân, lòng

tin tưởng xuyên qua một

nỗi khổ đau nào đó,

chỉ có thể có được

nhờ sự giúp đỡ của

Chúa".

6. Để hiểu kẻ xúc

phạm mình :

Có cần thiết để nhắc

lại rằng những luyện tập

mà tôi đề nghị thực

hiện được diễn ra theo

một sự tiến triển nào

đó không ? Nếu xảy

ra là bạn cảm thấy

khó chịu và không thoải

mái trong một tập luyện

thì không nên cứ khư

khư theo đuổi nó làm

gì. Vẫn cứ liên lạc

với sự khó chịu hoặc

phản kháng nội tâm của

mình, người ta sẽ khám

phá được mình đang ở

đâu trong tiến trình tha

thứ của mình. Sự ý

thức nầy sẽ giúp bạn

định vị và đánh giá

tốt hơn cái buớc kế

tiếp phải thực hiện trong

chiều hướng tốt.

1) Bạn đi vào trong

chính mình. Bạn để thời

giờ nhìn thấy với đôi

mắt tưởng tượng kẻ đã

làm thiệt hại bạn. Bạn

lược lại trong mình những

gì bạn biết được về

lịch sử cá nhân của

y. Nếu đủ can đảm,

bạn tự đặt mình vào

địa vị của y và

tự hỏi xem cái gì

xảy đến cho bạn nếu

bạn đã phải sống trong

cùng những biến cố như

y...

2) Sau tập luyện vừa

rồi, tôi mời bạn phát

hiện ra ý hướng tích

cực đã tác động kẻ

xúc phạm bạn trong các

hành động đáng chê trách

của y : ước muốn

bảo vệ chính mình, ham

quyền lực, cách bảo vệ

phẩm giá của mình,v.v... Chúng

ta ghi nhận rằng nhận

biết ý hướng tích cực

không có nghĩa là bạn

tán thành các phương tiện

kẻ xúc phạm bạn sử

dụng.

3) Bạn liệt kê các

khuyết điểm mà bạn nhận

thấy nơi kẻ xúc phạm

bạn, nhất là những khuyết

điểm làm bạn khó chịu

nhất, rồi bạn áp dụng

cho mình từng khuyết điểm

đó. Chẳng hạn sau khi

đã tuyên bố tôi ghét

sự bạo lực của nó,

bạn tự nhủ chính tôi

cũng bạo lực. Có lẽ

bạn sẽ khám phá ra

một phần đáng ghét của

bạn bên dưới cái khuyết

điểm mà bạn quở trách

nơi y. Nếu trường hợp

đó xảy ra, trước hết

bạn nghĩ tới việc đón

tiếp cái phần ấy để

sáp nhập nó vào toàn

thể nhân cách của bạn.

Chẳng hạn tôi cần điều

hòa sự dịu dàng thái

quá của tôi với một

sự khẳng định chính mình

cách bạo lực hơn.

Giai Đoạn 8

Tìm ra trong cuộc sống

mình một ý nghĩa cho

sự xúc phạm

"Thách đố ... là quấn

vào nhau những sợi tinh

tế của một cuộc đời

tan nát để làm thành

một công trình giàu ý

nghĩa và ý thức trách

nhiệm."

(Gordon Allport)

Tiến trình tha thứ của

bạn đã qua nhiều giai

đoạn. Sau khi đã quyết

định không trả thù, bạn

đã nghĩ đến làm mộtcuộc trở về can đảm

với chính mình và bạn

đã cảm nhận rằng vết

thương của bạn đang trên

đường được chữa lành. Nhờ

những sự ý thức liên

tiếp và nhờ sự chấp

nhận đau khổ nội tâm

của bạn, bạn đã nhận

ra bạn sẵn sàng hiểu

kẻ xúc phạm bạn. Như

vậy bạn đã đặt được

các nền móng và các

điều kiện tâm lý cho

sự tha thứ của bạn.Suốt trong giai đoạn thứ

tám, tôi mời bạn vượt

quá quan điểm thuần túy

tâm lý để khám phá

ra ý nghĩa tích cựccủa sự xúc phạm đã

nhận chịu hoặc để mang

lại cho nó một ý

nghĩa. Bạn học được cái

gì từ lời chửi mắng

nầy, từ sự xúc phạm

nầy, từ sự phản bội

nầy, từ sự bất trungnầy ? Bạn tính sử

dụng nó thế nào để

trưởng thành và để thực

hiện chính mình cách sâu

xa ?

Điều mà tôi xin bạn,

chính là phát hiện ra

những hậu quả tích cực

có thể có mà sự

xúc phạm sản xuất ra

trong cuộc đời bạn. Bạn

sẽ sử dụng thất bại

nầy cho lợi ích củabạn thế nào ? Những

hậu quả độc hại chỉ

tồn tại cho những kẻ

chọn không tiến lên phía

trước và than vãn chosố phận của mình. Thay

vì nhượng bộ cho cơn

cám dỗ nầy, điều quan

trọng là nhớ lại rằng

không có sai lầm vàthất bại nào không giấu

ẩn những yếu tố tăng

trưởng.

Tìm được ý nghĩa tích

cực của thất bại hệ

tại việc khám phá ra

sự phong phú ẩn giấu

của nó. Vậy bạn đừng

để bị chận dừng lại

bởi những kẻ bảo rằng

: "Chẳng có gì tốtđể kỳ vọng nơi một

nỗi bất hạnh cả". Tôi

bảo đảm cho bạn điều

nghịch lại rằng thương tổn

của bạn có thể trởnên nguồn suối tăng trưởng.

Biết bao nhiêu người đã

nhìn thấy cuộc đời của

họ có một định hướng

mới và hữu thể của

họ được triển nở theo

sau một thử thách lớn

lao !

Tôi nghĩ là thích hợp

để nói với bạn trước

khi đi xa hơn làcó thể lúc nầy bạn

cảm thấy bối rối, khó

chịu và phẩn nộ vì

lời mời gọi tìm cho

được một ý nghĩa tích

cực cho thương tổn của

bạn và cho các hậu

quả của nó trong cuộc

sống của bạn. Một phản

ứng kiểu đó là dấu

hiệu bạn chưa sẵn sàng

để thực hiện giai đoạn

hiện tại. Bạn cần trở

lại các giai đoạn trước

để đào sâu và hấp

thụ chúng tốt hơn.

1. Sự thay đổi môi

trường có lợi của xúc

phạm :

Hậu quả đầu tiên của

xúc phạm trên nạn nhân

là hậu quả của một

cú va chạm và của

một sự xáo trộn sâu

xa. Nạn nhân cảm thấy

bị giày vò mãnh liệt.

Những ý tưởng định trước,

những dư luận có sẵn,

những xác tín, những thànhkiến cũng như những vở

kịch cuộc đời của y

đều bị xáo trộn. Nhưng

dù hoàn cảnh có khó

khăn, nó không để mấtsự hứa hẹn cuộc sống.

Nó có thể được biểu

lộ là một thời khắc

trong sáng quí báu, một

cơ hội thuận lợi đểthoát ra khỏi sự thiển

cận thường nhật của mình.

Một trong các vị giáo

sư của tôi khẳng định

rằng rất ít người biết

rút tỉa lợi ích từ

những sự phong phú và

những khả thể của thực

tại. Phần đông mang những

thành kiến đúc khuôn trên

các biến cố. Họ nhìn

thấy các biến cố ấyxuyên qua các lăng kính

đã bị biến dạng của

những chờ đợi, những thành

kiến cá nhân và văn

hóa hoặc của dư luận

sẵn có của môi trường

sống của họ. Không chịu

cố gắng khám phá ra

ý nghĩa sâu xa của

một biến cố, họ bằng

lòng với những phán đoán

tầm thường và tổng quátkiểu điều đó tốt, điều

đó xấu, cái đó trắng,

cái kia đen.

Câu chuyện sau đây rút

từ văn học dân gian

Trung Hoa minh chứng rõ

ràng tính vô ích của

những phán đoán kiểu đó.

Một hôm, một người chủ

trang trại bị mất con

ngựa đực giống đẹp nhất,

con ngựa tuyệt vời đã

trốn đi. Các người láng

giềng đến thăm an ủi

cho số phận của y

: Ông thật rủi ro

! Y trả lời :

Biết đâu !... Hôm sau,

con ngựa đực giống lại

hiện về trong chuồng có

ba con ngựa cái hoang

dã ở bên cạnh. Các

người láng giềng vội đến

chúc mừng chủ trang trại

về vận may của ông.

Cũng câu trả lời vắn

gọn đó Biết đâu !...

Ngày nọ, con trai chủ

trại vì muốn khống chế

một trong mấy con ngựa

cái hoang dã bị ngãgảy chân. Các người láng

giềng lại chạy đến thương

xót cho nỗi bất hạnh

của ông. Nhưng chủ trang

trại vẫn có cùng phản

ứng đó Biết đâu !...

Ít ngày sau, một toán

lính tới động binh bắt

buộc các thanh niên tại

chỗ. Tuy nhiên họ không

muốn nhận người thanh niên

tật nguyền. Các người láng

giềng lại la lên May

mắn thay ! Và chủ

trang trại đáp lại Biết

đâu !...

Vì những thành kiến và

và dư luận định trước

về người và các biến

cố, chúng ta thường gặp

phải thất vọng và mấtmát. Chúng ta mang những

ý nghĩ định sẵn về

cách cha mẹ phải hành

động đối với con cái,

về cách một người phối

ngẫu phải cư xử, về

cách ông chủ phải đối

xử với thợ, về cách

Thiên Chúa phải cứu chuộc

thế giới, v.v... Thế mà

các sự việc không xảy

ra như dự liệu trước.

Và như vậy lại càng

hay !

Bởi vì sự va chạm

của xúc phạm lại bổ

ích. Nó làm cho người

bị xúc phạm loại bỏ

được những thiên kiến và

vất bỏ những lập trường

cứng cỏi của mình. Còn

thật hơn nữa đối với

một xúc phạm do một

người thân yêu gây nên

: bị tước đoạt những

chờ đợi không thiết thực

của mình, người bị xúc

phạm sẽ phải thanh luyện

bản thân để đi tới

chỗ tán dương và yêu

thương người bà con hoặckẻ gần gủi đó đúng

như bản chất của họ.

2. Khám phá ra những

cái thu được từ sự

mất mát của mình :

Trong một số lần thuyết

trình, tôi thường thúc giục

các thính giả suy nghĩ

về những gì kinh nghiệm

bị chữi bới, lăng nhục

hoặc là nạn nhân của

một sự bất trung, bấtcông mang lại cho họ.

Tôi hướng dẫn họ tự

vấn như sau : "Bạn

đã học được gì từ

kinh nghiệm nầy ? Bạn

đã lớn lên như thế

nào xuyên qua thử thách

nầy ? Đời sống bạn

đã có một ý nghĩa

mới đến mức độ nào

?" Đây là ít mẫu

câu trả lời :

- Tôi biết mình hơn

nhiều lắm.

- Tôi đã đạt được

tự do nội tâm nhiều

hơn.

- Điều đó đã làm

cho tôi ý thức về

các giá trị của mình.Sau khi ly thân, tôi

nhận thấy mình có thể

trở nên chính mình hơn

và sống theo các giá

trị của tôi.

- Nỗi đau vì tình

đã dạy cho tôi biết

mình hơn. Bây giờ, thay

vì lệ thuộc vào tình

thương của người khác, tôi

đã bắt đầu yêu thương

chính mình.

- Thế là xong, tôi

kkông còn để cho người

khác làm tổn thương nữa.

Tôi học tự bảo vệ

cho mình tốt hơn.

- Tôi đã học được

nói "không" khi điều đó

không xứng hợp với các

giá trị của mình.

- Khi vợ tôi ra

đi, tôi tự nhủ tôi

không có chọn lựa nữa,

tôi sẽ phải làm nội

trợ lấy. Bấy giờ, dù

kiêu ngạo, tôi đã cầuxin sự giúp đỡ lần

đầu tiên trong đời tôi.

- Thử thách của tôi

đã kết dệt cho tôi

một trái tim yêu thương.

- Tôi đã có lòng

trắc ẩn và cảm thông

nhiều hơn với tha nhân.

- Tôi thôi không chạy

theo những người chồng say

sưa để cứu vớt họ

nữa. Tôi đã ý thức

rằng chính tôi là ngườicần được cứu giúp.

- Trong cơn cùng quẩn

của mình, tôi đã tìm

lại được tình yêu và

lòng trung thành của Chúa,

sau khi tôi đã rất

phẩn nộ đối với Ngài.

Khi tôi chất vấn các

người như thế về những

ý nghĩa mới của cuộc

đời họ tiếp theo sau

một xúc phạm, tôi luôn

luôn ngạc nhiên về tính

đa dạng và phẩm chất

của các câu trả lời.

Đôi khi hậu quả tích

cực của xúc phạm và

sự bất công mà họ

là nạn nhân xuất hiện

một cách tự phát. Những

lần khác, sự khám phá

ra những cái tích cực

thu được và ảnh hưởng

của chúng trải ra trong

nhiều tuần lễ, cả nhiều

tháng nữa. Ban đầu, những

người nầy thấy cuộc đời

họ như hình ghép khó

hiểu, nhưng sau khi khám

phá được ý nghĩa của

xúc phạm thì một viễn

ảnh mới của cuộc đời

họ được hình thành và

xác định.

3. Sự xúc phạm dẫn

đến "hãy biết mình" :

Không ai khác ngoài chính

bản thân có thể đạt

được việc tìm thấy một

ý nghĩa cho sự mất

mát mà mình vừa phảichịu, nhưng điều đó không

muốn nói rằng chúng ta

chẳng cần ai thúc đẩy

mình làm vệc đó. Rủi

thay rất hiếm có những

người hướng dẫn biết đưa

chúng ta đạt được mộtsự biết mình và đánh

thức những khả năng tăng

trưởng mà nỗi bất hạnh

mang lại.

Một sự bất công nặng

nề hoặc một xúc phạm

nghiêm trọng có thể đánh

dấu khởi điểm của một

cuộc phiêu lưu nhân bản

phong phú diễn ra trong

ba thời kỳ. Trong thờikỳ thứ nhất, vấn đề

là phải tống táng hoàn

cảnh trước đó. Thời kỳ

thứ hai, được gọi là

"giai đoạn bản lề" hoặc

là "giai đoạn ở giữa",

sẽ dành cho sự hiểu

biết tốt hơn về mình

và về những dự án

tương lai của mình. Giai

đoạn ở giữa nầy là

chủ chốt và quyết định.

Phải miệt mài đào sâugiai đoạn nầy trước khi

dấn thân vào thời kỳ

thứ ba, là thời kỳ

tái tổ chức lại cuộc

sống mình nhằm tới một

cuộc khởi hành mới.

Cái nguy hiểm lớn ở

đây là quên bỏ pha

quyết định của giai đoạn

ở giữa: hoặc là chúng

ta bị cám dỗ trở

lại đàng sau để trú

đóng ở đó, hoặc là

bị đẩy sang lập tức

ở pha khởi hành mới

của cuộc đời. Trong cả

hai trường hợp, chúng ta

tự kết án phải thất

bại.

Nhưng tại sao lại cho

pha của giai đoạn ở

giữa một tầm quan trọng

lớn lao như vậy ?

Một khi vết thương đã

bớt cay độc và làm

bận lòng thì cần phải

dừng lại và điểm lạitình hình của biến cố

đau thương : "Làm sao

tôi lại đến nước đặt

mình vào một tình huống

dễ bị tổn thương nhưthế được ?" Với sự

gãy đổ mà xúc phạm

mang lại, chúng ta dần

dần trở nên có khả

năng bỏ rơi một số

ảo tưởng và chờ đợi

không thể được mà chúng

ta đã ôm ấp chomình và cho kẻ khác.

Hơn bao giờ hết, chúng

ta phải trực diện với

chính mình và nhận thấy

rằng các lập trường vàvai trò đã đảm nhận

cho tới lúc ấy mất

đi tầm quan trọng của

chúng. Đương đầu với sự

trống rổng chung quanh mình,

chúng ta bị bó buộc

tự đặt ra cho mình

câu hỏi nền tảng :

"Tôi là ai ?" Không

ai khác ngoài chính mình

có thể trả lời câu

hỏi đó, không cả chuyên

gia tâm lý hoặc ngườiđồng hành thiêng liêng. Sự

chất vấn về căn tính

sâu xa của mình nầy

chắc chắn sẽ gây nên

những lúc cô đơn, xao

xuyến và sợ bị lầm.

Nhưng nếu kiên trì, chúng

ta sẽ thấy thời khắc

suy tư nầy có thể

biến đổi thành một sựhiểu biết mới mẻ và

sâu xa về chính mình.

Suốt trong giai đoạn bản

lề nầy, một vấn nạn

thứ ba được đặt ra

: "Tôi muốn làm gì

với cuộc đời của tôi?""Tôi sẽ cho mình những

lý do mới mẻ nào

để sống?" Lại một lần

nữa, câu trả lời cho

những vấn nạn nầy không

tìm được ở bất cứ

nơi đâu ngoài nội tâm

của mình. Cần phải có

can đảm và nhẫn nại

để cho những câu trả

lời đó lộ ra và

đón nhận chúng.

Chịu đựng một bất công

hay một xúc phạm còn

lâu mới là một kinh

nghiệm thú vị. Một khi

chấn thương tâm thần đãqua đi, kinh nghiệm nầy

sẽ dẫn bạn về với

chính mình và với tự

do nội tâm của bạn.

Nó sẽ đặt bạn đứng

trước sự chọn lựa để

bạn bị quật ngã hay

là tác động trở lại.

Nếu bạn chấp nhận tác

động trở lại, thì bạn

sẽ mở ra với khảnăng tìm lại được căn

tính sâu xa của bạn

và nối kết những giây

liên lệ mới với những

người khác. Lý do là

vì bạn đã tìm được

một ý nghĩa cho đau

khổ của bạn.

Đó là sứ điệp bác

sĩ Victor Frankl nói trong

cuốn Découvrir un sens à

sa vie. Ông nói cách

có thẩm quyền, bởi vì

ông đã phải chịu đựng

biết bao nhiêu đau khổ

và sĩ nhục trong các

trại tập trung mà không

để cho mình bị quật

ngã. Ông viết : "Vậy

điều quan trọng là phải

kêu gọi đến khả thể

cao nhất của con người,

đó là khả thể biếnmột bi kịch cá nhân

thành chiến thắng, biến một

đau khổ thành sự thực

hiện nhân cách".

4. Để khám phá ra

ý nghĩa tích cực của

thương tổn :

Ở đây tôi đề nghị

một loạt câu hỏi có

mục đích giúp khám phá

ra ý nghĩa tích cực

của thương tổn của mình.

Điều quan trọng là hãy

để các câu hỏi nầy

cật vấn mình và lưutâm đến các câu trả

lời do tiếng nói nội

tâm gợi lên mà không

nghĩ đến việc kiểm duyệt

chúng. Một câu trả lời

có thể tiến hóa và

chỉ với thời gian mà

chúng ta khám phá được

tất cả tầm mức và

ý nghĩa nó mang lại

cho mình. Trong khi luyện

tập, nên ghi lại vào

nhật ký các suy tưcủa bạn

- Tôi đã học được

cái gì từ sự xúc

phạm đã phải chịu ?

- Những hiểu biết mới

mẻ nào tôi đã đạt

được về chính mình ?

- Những giới hạn hoặc

dòn mỏng nào tôi đã

khám phá được nơi mình

?

- Sau đó tôi có

trở nên nhân bản hơn

không ?

- Những suối nguồn và

sức mạnh mới mẻ nào

của cuộc sống mà tôi

đã khám phá được ở

nơi mình ?

- Tôi đã đạt được

mức độ trưởng thành nào

?

- Thử thách nầy đã

dẫn tôi đến cái gì

?

- Tôi đã cho mình

những lý do mới mẻ

nào để sống ?

- Thương tổn của tôi

đã làm lộ ra chiều

sâu tâm hồn đến điểm

nào ?

- Trong mức độ nào

tôi đã quyết định thay

đổi các tương quan với

những người khác, đặc biệt

với Thiên Chúa ?

- Cách thức nào bây

giờ tôi sẽ theo đuổi

dòng đời của mình ?

- Xúc phạm đã phải

chịu đun đẩy tôi đồng

hóa với nhân vật quan

trọng nào hiện thời, trong

lịch sử hay thần thoại?

Location:

60% ·

5503

of

9147

Giai Đoạn 9

Biết mình đáng được tha

thứ và đã được đặc

"Chỉ người nào đã có

kinh nghiệm về tha thứ

mới có thể tha thứ

thực sự."

(George Soares-Prabhu)

Là người hành hương nội

tâm trên đường tha thứ,

dần dần bạn sẽ nhận

thấy rõ ràng rằng hành

động tha thứ vừa là

nổ lực của con người

vừa là ơn ban của

Chúa. Vậy sự tha thứ

tỏ ra là một nhiệm

vụ của con người bởi

hoạt động tâm lý mà

bạn triển khai và một

ơn ban bởi ân sủng

của Chúa bù đắp cho

những thiếu thốn của bạn.

Chắc chắn trong công việc

tha thứ mà bạn đã

thực hiện cho tới đây,

bạn đã đụng tới những

giới hạn cá nhân của

mình và bạn đã cảm

thấy cần đến một sự

giúp đỡ đặc biệt.

Bây giờ bạn vào sâu

hơn trong vũ trụ thiêng

liêng, ở đó bạn sẽ

hành động ít hơn là

để bạn được tác động.

Nơi đây, các nổ lực

cá nhân trở nên ít

quan trọng hơn là sự

khiêm tốn mở ra với

ân sủng và nhẫn nại

đón tiếp ân sủng. Khi

tiến trình tha thứ của

bạn đi vào trong phạm

vi thiêng liêng, bạn có

ít sáng kiến và tự

chủ hơn, công việc của

bạn hệ tại nhiều hơn

là bạn thư giản để

mình được ân sủng xâm

chiếm.

Mục đích của chương nầy

là dẫn bạn nhận biết

rằng không những bạn đáng

được tha thứ mà người

ta đã tha thứ cho

bạn nhiều lần trong quá

khứ. Sự ý thức nầy

sẽ giúp bạn tha thứ,

vì việc xảy đến với

tha thứ cũng như với

tình yêu. Kẻ không thể

để cho mình được yêu

hoặc nhận thấy rằng mình

không thể yêu, thì sẽ

không thể cho kẻ khác

tình yêu. Cũng thế, nếu

người muốn tha thứ mà

không cảm nhận được rằng

người ta đã tha thứ

cho mình, thì làm sao

đến lượt mình có thể

tha thứ được ? Vậy

bạn hãy để rơi xuống

thật sâu những kháng cự

của bạn, hầu để bạn

được yêu và đón nhận

sự tha thứ của các

người khác, đặc biệt là

sự tha thứ của Chúa.

Đó là thách đố mà

bạn được mời gọi dấy

lên.

1. Kinh nghiệm về sự

tha thứ thiết yếu để

tha thứ :

Câu chuyện của Corrie Ten

Boom làm bật nổi sự

cần thiết phải kinh nghiệm

sự tha thứ của người

khác, trước khi trở nên

có khả năng tha thứ

lúc đến phiên mình. Corrie

được giải thoát khỏi trại

tập trung của quốc xã

một ít thời gian sau

khi các Đồng Minh chiếm

được nước Đức. Bà đã

để rất nhiều thời gian

để tự giải thoát mình

khỏi cơn hận thù câm

lặng của mình đối với

các lý hình.

Một ngày kia, bà quyết

định thực hiện một cuộc

chữa lành bằng tha thứ.

Một khi chắc chắn mình

đã hoàn toàn được giải

thoát khỏi lòng thù hận

của mình và đã tha

thứ, bà nghĩ ra một

dự án lớn để chữa

lành các vết thương và

những hiềm khích do đệ

nhị thế chiến gây nên

cho các quốc gia nầy.

Vậy bà đã tung ra

một cuộc vận động xuyên

qua nhiều nước bằng cách

rao giảng ở những nơi

ấy sức mạnh sáng tạo

của tha thứ và của

tình thương.

Bà không sợ đến nước

Đức để phổ biến sứ

điệp của bà. Chiều hôm

ấy, tại Munich, sau khi

đã nói chuyện với một

nhóm người Đức ao ước

làm cho mình được tha

thứ, bà đã có một

kinh nghiệm sống đau lòng

thử thách chính sức mạnh

tha thứ của bà. Một

người đàn ông tiến về

phía bà, chìa tay ra

cho bà và nói: "Bà

Ten Boom, tôi sung sướng

biết bao khi đã nghe

bà nói rằng Chúa Giêsu

tha thứ hết mọi tội

lỗi cho chúng ta".

Corrie đã lập tức nhận

ra ngay một người trong

số các lý hình của

mình ở trại tập trung.

Bà nhớ lại y đã

lăng nhục bà và các

bạn tù phụ nử của

bà thế nào, khi y

cưỡng bách họ tắm trần

truồng trước cái nhìn khinh

miệt "siêu nhân"của y. Ngay

lúc y muốn bắt tay

bà, Corrie bổng chốc cảm

thấy bàn tay bà bị

đông cứng lại phía bà.

Bấy giờ bà ý thức

được sự bất lực của

bà để tha thứ cho

y, bà vừa kinh ngạc

vừa khiếp sợ vì điều

đó. Dù bà đã tin

chắc rằng mình đã được

chữa lành khỏi vết thương,

đã chiến thắng sự hận

thù của mình và đã

tha thứ, nhưng ngay lúc

ấy, đứng trước một trong

những tên lý hình, bà

đã bị nắm chặt bởi

khinh bỉ và hận thù.

Bị đờ người ra, bà

chẳng còn biết làm gì

hay nói gì nữa.

Lúc ấy, bà bắt đầu

cầu nguyện : "Lạy Chúa

Giêsu, con cảm thấy bất

lực để tha thứ cho

người đàn ông nầy. Xin

Chúa tha thứ cho con".

Ngay lúc ấy, có cái

gì kỳ diệu đã xảy

ra, bà cảm thấy mình

được tiếp vào sự tha

thứ của Chúa Giêsu. Bàn

tay của bà đưa lên

và nắm lấy bàn tay

của kẻ tra tấn bà

trước kia. Cùng một lúc,

bà vừa tự giải thoát

mình vừa giải thoát tên

lý hình của bà khỏi

cái quá khứ khủng khiếp

của mình.

Làm sao giải thích được

một sự thay đổi hoàn

toàn trong phút chốc như

vậy? Chúng ta sẽ đoán

ra được. Phép lạ tha

thứ được phát sinh nơi

Corrie nhờ cái tình cảm

không thể diễn tả được

là Chúa Giêsu đã tha

thứ cho sự bất lực

không thể tha thứ của

bà. Lời thú nhận bất

lực của chính bà đã

làm mềm lòng bà và

đã làm cho bà có

khả năng đón nhận ân

sủng tha thứ.

2. Diễn tả cảm giác

đáng được tha thứ thế

nào ?

Như tôi vừa nói, tự

cảm thấy mình là đối

tượng của một sự tha

thứ là một kinh nghiệm

không thể diễn tả ra

được. Ngôn ngữ không đủ

để diễn tả tính chất,

sự phong phú sâu xa

và cường độ của nó.

Kinh nghiệm đó không so

sánh được với bất cứ

kinh nghiệm nào khác, như

những kinh nghiệm về tình

yêu say đắm, về lòng

biết ơn, về niềm vui,

về thành công, về sự

gặp lại nhau giữa bạn

bè, v.v... Một cách nào

đó, kinh nghiệm nầy gặp

lại Cái Tôi trong sâu

thẳm của nó, và chúng

ta có thể đánh giá

nó là kinh nghiệm nền

tảng.

Lewis Smedes gọi nó là

fundamental feeling. Nền tảng, bởi

vì hơn mọi kinh nghiệm

khác, nó cung cấp cho

chúng ta cảm giác được

nhận biết và quí trọng

vì những gì mà chúng

ta là trong sâu thẳm

chính mình. Lúc ấy chúng

ta cảm nhận mình được

yêu thương cách vô điều

kiện, bất chấp những xấu

xí, khuyết điểm, thất bại

và không tuân thủ. Chính

lúc đó, chúng ta nói

rằng cái Tôi sâu thẳm

tự biết nối kết với

suối nguồn tình yêu và

không không tách lìa khỏi

nguồn suối ấy.

Chúng ta có thể so

sánh tình cảm nầy với

cảm giác nồng nhiệt về

an toàn và tín nhiệm

của đứa bé được cha

mẹ mong muốn và yêu

mến vì chính nó. Mặc

dù chúng ta có thể

cảm thấy rất có lỗi

liền sau các lầm lỗi

hoặc sai sót của mình,

cảm giác đã được xét

đoán là đáng được tha

thứ còn mạnh mẻ hơn.

Cảm giác nầy đem lại

bảo đảm là sẽ không

bao giờ bị mất đi

nguồn suối tình yêu vô

tận nầy nữa. Chúng ta

biết rằng trong mọi lúc

mình có thể lại đến

giải khát nơi suối nguồn

nầy và lại thấy mình

được củng cố trong tình

yêu.

Tuy nhiên điều có thể

xảy ra là chúng ta

không còn cảm nhận được

cái cảm nhận nền tảng

nầy. Tìm lại được nó

là một kinh nghiệm rất

cảm kích. Tôi đã có

kinh nghiệm đó sau một

khóa nghiên cứu về việc

sử dụng các câu chuyện

và giai thoại nhằm mục

đích mục vụ. Trong một

phòng chật ních hơn bốn

trăm linh mục, nan nữ

tu sĩ, nhà thần học

John Shea nổi tiếng vì

tài kể chuyện thuật lại

cho chúng tôi dụ ngôn

đứa con hoang đàng.

Lúc đầu, tôi không cảm

thấy chút chi hứng thú.

Vậy mà rồi tôi đã

để mình bị người kể

chuyện bắt lấy đến độ

nước mắt ràn rụa trên

mặt. Và không phải một

mình tôi thôi đâu !

Khi ra khỏi cơn mê

hoặc, bằng một liếc nhìn

vụng trộm, tôi nhận thấy

hầu như cả phòng đều

khóc. Ngay cả một số

người còn khóc nức nở

đến đổi những người ngồi

gần nghĩ là nên đến

an ủi họ. Nhờ tài

bi kịch của mình, John

Shea đã thành công trong

việc làm sống lại nơi

các thính giả hai tình

cảm trái ngược : ước

muốn mạnh mẻ biết mình

được yêu thương tha thứ

và niềm xác tín mình

không đáng được như thế.

Tuy nhiên, chúng ta không

thể dùng ý chí tự

cung cấp cho mình một

tình cảm như thế và

không cảm nhận mình được

yêu thương đến được tha

thứ như mong muốn. Điều

duy nhất chúng ta có

thể làm, chính là chuẫn

bị cho mình đón nhận

ân sủng đặc biệt liên

kết với ơn hoán cải

nầy. Phúc Âm dạy chúng

ta rằng những người trở

lại là những ai tự

để cho mình được yêu

thương, mặc dù sự nghèo

nàn của mình, trong khi

những kẻ cứng lòng là

những ai đã từ chối

tình yêu và sự tha

thứ. Chúng ta thấy, một

bên, những nhân vật như

Maria Mađalêna, Giakêu, Matthêu, người

đàn bà xứ Samaria chấp

nhận để cho tình yêu

nhân hậu của Chúa Kitô

đánh động ; còn bên

kia, các luật sĩ và

biệt phái, ông Simon và

người mắc nợ nhẫn tâm

giữa bao người khác nghĩ

là mình tốt vẫn vô

cảm đối với tình yêu

và sự tha thứ.

3. Những trở ngại trong

việc nhận biết mình được

yêu thương đến tha thứ:

Tại sao có biết bao

kháng cự không để cho

mình đạt tới ân sủng

tha thứ ? Để biết

điều đó, chúng ta hãy

xem xét bốn loại người

không thẩm thấu được với

sự tha thứ. Có thể

chúng ta nhận ra được

mình nằm trong số những

người ấy chăng ?!

- Chắc chắn có những

người tin rằng mình không

thể được tha thứ. Họ

có cảm tưởng rằng lỗi

của họ quá lớn đến

đổi không bao giờ người

ta có thể tha thứ

chúng cho họ. Hình như

những người thuộc loại nầy

mỗi lúc một hiếm đi

trong xã hội tục hóa.

- Tiếp đến là những

người không tin vào tính

nhưng không của tình yêu.

Trên nguyên tắc, họ chấp

nhận có thể có một

tình yêu vô điều kiện,

nhưng trong thực hành thì

họ chẳng tin là có

thứ tình yêu ấy, bởi

vì họ xác tín rằng

chẳng có gì là nhưng

không cả và mọi cái

đều phải trả giá, vào

một ngày nọ hay một

ngày kia thôi, kể cả

sự tha thứ. Những người

nầy thường đã có những

cha mẹ không bao giờ

biểu lộ cho họ một

tình yêu nhưng không. Họ

chỉ được yêu thương như

phần thưởng cho những điểm

cao đạt được ở trường,

cho hạnh kiểm tốt hoặc

những việc phục vụ họ

đã làm.

- Hạng người thứ ba

từ chối sự tha thứ

: Họ không cảm thấy

cần đến nó chút nào

cả, vì xem ra họ

chẳng cảm thấy chút nào

có lỗi, về phương diện

cá nhân cũng như về

phương diện xã hội. Họ

sống trong một thứ trống

rổng về luân lý và

thiêng liêng. Họ đau khổ

vì một bệnh thần kinh

thiêng liêng và luân lý

làm cho họ vô cảm

với mọi nhu cầu tha

thứ. Phải chăng đó là

thân phận của nhiều người

đương thời của chúng ta

? Một số tư tưởng

gia quả quyết rằng sự

thiếu mẫn cảm luân lý

nầy là nguyên nhân của

một con số tự tử

lớn lao nơi các người

trẻ.

- Hạng thứ tư là

những người chối bỏ cách

đơn giản sự có lỗi

như một thiếu sót tâm

lý. Một số trường phái

tâm lý coi cảm giác

có lỗi và nhu cầu

tha thứ như một sự

thiếu trưởng thành và thiếu

tự lập. Người ta lẫn

lộn ở đây cảm giác

có lỗi bị ám ảnh

và bệnh hoạn với cảm

giác có lỗi lành mạnh.

Trong khi cảm giác có

lỗi loạn thần kinh hành

hạ và nghiền tán cá

nhân, thì tình cảm có

lỗi lành mạnh và bình

thường báo động cho người

ấy về cái thực sự

là nó : một hữu

thể bị giới hạn và

sai lầm. Cái nhìn chân

lý nầy trên cá thể

giải thoát nó và có

thể dẫn đưa nó xác

định cho mình một lý

tưởng luận lý thiết thực.

Chấp nhận lãnh nhận sự

tha thứ mà không cảm

thấy bị nhục mạ hoặc

bị hạ thấp, đó là

thách đố. Nhiều người từ

chối sự tha thứ đúng

là để tránh sự sĩ

nhục. Khi mô tả thảm

kịch tha thứ của Chúa

nơi các nhân vật của

Bernanos, Philippe Le Touzé làm

nổi bật sự từ chối

đó : "Nhưng con người

khép kín với tha thứ,

vì tha thứ hạ nhục

nó và cướp đi của

nó cái ảo tưởng tự

lập để giao nộp nó

cho người khác muốn làm

gì thì làm, do đó

thời đại mới toan tính

làm lại một vũ trụ

không có Thiên Chúa". Một

cái nhìn biến thể về

tự lập đẩy tới những

hành động của sự độc

lập giả trá, trong khi

sự tự lập đích thực

tạo nên khả năng chọn

lựa những sự tùy thuộc

của mình.

Tóm lại, xem ra hiển

nhiên rằng người nào không

yêu mình và không tha

thứ cho mình sẽ không

còn có thể yêu thương

và tha thứ cho kẻ

khác nữa. Vả lại, tình

yêu mình và tha thứ

cho mình xem ra không

thể thực hiện được và

là ảo tưởng, nếu không

có sự ân cần của

Đấng Khác. Bấy giờ xem

ra là thiết yếu chấp

nhận biết mình đáng tha

thứ và đã được tha

thứ để có thể tha

thứ khi đến phiên mình.

4. Để làm cho mình

có thể đón nhận sự

tha thứ :

1) Để cho mình được

yêu thương trong tha thứ

không phải là việc dễ

dàng. Để giúp bạn làm

điều đó, tôi đề nghị

với bạn một thực tập

có khả năng đặt bạn

trong tình trạng nhận lãnh

cách đơn giản. Một số

người hoạt động và quảng

đại không bao giờ học

tập để nhận lãnh, và

còn ít hơn để cho

mình được biệt đãi. Họ

cảm thấy mình tự chủ

và bảo đảm hơn về

chính mình khi họ cho

đi. Họ không chịu đựng

được cảm giác lệ thuộc

mà hành dộng nhận lãnh

làm phát sinh nơi họ.

Bạn hãy sẵn sàng nhận

lãnh và đón tiếp tất

cả những gì mà cuộc

đời cống hiến làm cho

bạn cảm thấy dễ chịu

hôm nay : mùi thịt

quay, hương thơm cà phê,

sức ấm mặt trời, nhìn

thấy một quang cảnh đẹp,

hình thú một ngọn cây,

các màu sắc của mỗi

mùa, cảm giác thoải mái

trong đời, nghe một khúc

nhạc hay, v.v... Bạn hãy

để cho những cảm giác

đó tắm gội toàn thân

bạn, dù chỉ vài phút

mỗi ngày.

2) Bài thực tập thứ

nhì nhằm mục đích giúp

gia tăng khả năng nhận

lãnh của bạn:

Bạn giữ một tư thế

thoải mái, rồi bạn nhớ

lại những dấu hiệu quan

tâm mà bạn đã nhận

lãnh trong suốt cả ngày

: những lời chào hỏi,

những lời khen tặng, những

khuôn mặt hạnh phúc khi

gặp bạn, những dấu hiệu

của lòng biết ơn, lá

thư của một bạn thân,

v.v... Bạn đã đón tiếp

thế nào những quà tặng

rất tầm thường nầy của

cuộc đời ? Bạn có

để thời giờ lắng xuống

trong bạn niềm vui nhận

lãnh, cho nó bắt rễ

trong tình cảm của bạn

và bạn có thể vui

mừng vì nó không ?

3) Thực tập nầy được

gọi là "Kinh cầu tình

yêu", rút ra từ cuốn

Aimer, perdre et grandir :

Bạn giữ tư thế thư

giản và loại bỏ mọi

sự chia trí. Bạn hãy

bắt đầu bằng việc đọc

cho mình "kinh cầu" những

người, những loài vật, những

cây cỏ và những đồ

vật yêu thích bạn. Ví

dụ : Gioan yêu tôi,

mẹ tôi yêu tôi, Chúa

yêu tôi, bạn Arthur yêu

tôi, con chó của tôi

yêu tôi, mặt trời yêu

tôi, gió heo may yêu

tôi, bức tranh của tôi

yêu tôi, v.v... Bạn hãy

lẹ lên mà không lo

âu về mức độ hoặc

phẩm chất của tình yêu.

Điều quan trọng là bạn

ý thức được nhiều hình

thức tình yêu đang vây

quanh bạn.

4) Để bạn biết mình

đáng được tha thứ và

đã được đặc xá, bạn

hãy lập danh sách những

người đã tha thứ cho

bạn các lầm lỗi của

bạn, các yếu đuối, các

khuyết điểm và các lỗi

của bạn trong quá khứ.

Một khi danh sách chấm

dứt, bạn hãy để thời

gian trở về với từng

sự tha thứ bạn đã

lãnh nhận. Bạn hãy thưởng

thức từng tha thứ một.

Bấy giờ bạn hãy để

tràn ngập bạn cảm giác

về giá trị của bạn

và không cần biết đến

những cảm giác khác có

thể đến làm giảm bớt

nó đi.

5) Bạn hãy để thời

giờ suy niệm những lời

nầy của Thánh Gioan :

"Trước mặt Chúa ta sẽ

an tâm, vì dẫu lòng

ta có trách ta đi

nữa thì Chúa lớn hơn

lòng của chúng ta và

Ngài biết tỏ tường tất

cả" (1Jn.3,19-20)

Giai Đoạn 10

Thôi tự làm khổ mình

vì muốn tha thứ

"Đừng theo ý muốn của

mình cách khư khư và

căng thẳng. Hãy thư giản,

rảnh rang... Phó giao mọi

sự cho Chúa."

(Thomas Kelly)

Cho đến đây, bạn đã

dành biết bao nhiêu nổ

lực để bước đi trên

"con đường bấp bênh" của

tha thứ, chắc chắn bạnngạc nhiên về tiêu đề

chương nầy : Thôi không

tự làm khổ mình vì

muốn tha thứ. Bởi vì

đến lúc bạn đang trênđường dấn thân sâu hơn

vào pha "thiêng liêng" của

sự tha thứ, bạn nhận

thấy rằng, thay vì giúp

đỡ bạn, một nổ lực

thuần túy ý chí có

thể làm hại bạn. Đã

đến lúc bạn phải loại

bỏ mọi thứ kiêu ngạo

tinh tế và bản năng

thống trị mà bạn đã

cố nhượng bộ hầu muốn

tha thứ bằng mọi giá.

Tính cố chấp muốn tha

thứ chỉ dựa vào những

nổ lực riêng của mình

phản ánh một cuộc kiếm

tìm không lành mạnh chính

mình. Vậy bạn phải từ

chối muốn là tác giảduy nhất của sự tha

thứ của bạn, và tiếp

theo, là từ chối quyền

lực cá nhân mà sự

tha thứ đó có thể

mang lại cho bạn.

Như thế, bạn sẽ giải

thoát bạn khỏi mọi động

lực giả trá trong việc

tha thứ mà bạn có

thể cho bạn. Chúng chỉ

làm hỏng đi vẻ đẹp

và sự chân thực của

cử chỉ bạn thôi. Cùnglúc đó, bạn phải tạo

nên trong bạn một sự

trống rổng cần thiết cho

ân sủng tha thứ ngõ

hầu kiện toàn hoạt độngcủa nó.

Trong suốt giai đoạn nầy,

bạn học từ chối mọi

ước muốn tự phụ không

tương xứng với sự cao

cả của tha thứ. Bạncũng chuẫn bị cho mình

biết từ chối cả với

ý muốn hoàn hảo cá

nhân, dù nó đáng ca

tụng thế nào đi nữa.

Tất cả những cái đó

cho phép sự linh hứng

của Thiên Chúa hành động

cách tự do trọn vẹn.

Dĩ nhiên bạn vẫn tiếp

tục duy trì con tàu

của bạn trên bến tha

thứ, nhưng bạn thôi chèochống hầu để cho ngọn

gió nhẹ thần linh đẩy

đi.

Khởi đi từ lúc quyết

định tha thứ, bạn đã

phải đòi buộc mình một

mức lường khổ hạnh bản

thân thật tốt. Nhưng tha

thứ không phải là kết

quả của một khổ hạnh

bản thân đơn giản. Nó

tùy thuộc một suối nguồn

khác, suối nguồn thần linh.

Bạn chấp nhận bạn không

phải là tác nhân duynhất trong sự tha thứ

của bạn, song cộng tác

với hoạt động thần linh.

Phải chăng đó là cái

mà chính Chúa Giêsu đã

làm trên thập giá ?

Ngài đã không muốn chính

Ngài trao ban sự tha

thứ cho các lý hình,

nhưng Ngài đã kêu xin

Chúa Cha làm việc đó

cho Ngài : "Lạy Cha,

xin Cha tha cho họ

vì họ không biết việc

họ làm" (Lc.23,34).

1. Tính khư khư ngăn

cản sự tha thứ đến

:

Ý tưởng không cố chấp

muốn tha thứ đã đến

với tôi như thế nào

? Nó đã đến với

tôi sau khi nghe câu

chuyện của một tu sĩ

truyền giáo đã miệt mài

tha thứ bằng nổ lực

của ý chí nhưng vô

hiệu.

Là nhà truyền giáo nhiệt

thành, ngài đã hiến trọn

cả xác hồn cho công

cuộc rao truyền Phúc Âm

cho dân tộc ngài kết

nghĩa. Nhưng những phương pháp

tông đồ của ngài không

được mọi người tán dương

như nhau. Do những phương

pháp đó mà ngài bị

một số người vu khống.Những lời đó đến tai

bề trên giám tỉnh. Bề

trên giám tỉnh lo sợ

và truyền lệnh cho nhà

truyền giáo phải bỏ nhiệm

sở và trở về cố

hương trong thời gian ngắn

nhất. Thật dễ hiểu rằng

sau bao nhiêu năm tận

tụy làm việc tông đồ,nhà truyền giáo của chúng

ta phải hoàn toàn rụng

rời khi nhìn thấy cả

cuộc đời truyền giáo của

mình bị sụp đổ trong

chốc lát.

Sau ít tháng nghỉ ngơi

và suy nghĩ, ngài muốn

tự giải thoát mình khỏi

tình cảm đau xót làm

kiệt quệ, đầu độc cuộc

đời ngài và ngài đã

quyết định tha thứ cho

cựu bề trên giám tỉnh

về sự sai lầm và

nỗi đau khổ đã gây

nên cho ngài. Ngài bắt

đầu cầu nguyện và xin

người ta cầu nguyện cho

ngài. Nhiều lần mỗi ngày,

ngài lặp đi lặp lạivới địa chỉ của cựu

bề trên giám tỉnh :

"Con tha thứ cho cha

giám tỉnh". Nhưng khó nhọc

mất đi, không có gì

thành công trong việc làm

vơi đi nổi cay đắng

của ngài. Trái lại, sự

khư khư muốn tha thứ

của ngài chỉ đưa tới

việc làm cho ngài chai

cứng trong nỗi oán giận

của mình.

Bị thất bại, vị tu

sĩ nghĩ là tốt khi

chạy đến phương thế tốihậu : một cuộc tĩnh

tâm nhằm mục đích duy

nhất là thành công trong

việc tha thứ. Ngài bắt

đầu nhiệm vụ ngay lúckhởi đầu cuộc sống ẩn

cư : đọc nhiều về

tha thứ, ở lâu giờ

trong nhà nguyện và lặp

đi lặp lại công thức

: "Con tha thứ cho

bề trên giám tỉnh". Có

những lúc ngài tưởng đã

đạt được mục đích. Nhưng

hôm sau thức dậy vẫn

với vết tổn thương đó

ở trong tâm hồn.

Chiều ngày tĩnh tâm thứ

tư, lúc nguyện gẫm ở

nhà nguyện, ngài cầm lấy

Tân Ước cách máy móc,

ngài mở ra cách may

rủi và gặp ngay đoạn

nói về sự chữa lànhngười bại liệt. Lưu ý

của những người biệt phái

nhảy múa trước mắt ngài

: "Chỉ một mình Thiên

Chúa mới có thể tha

thứ được". Ngài hiểu ngay

lập tức sự vô ích

của việc khư khư tha

thứ mà chỉ dựa vào

sức riêng của mình. Cuối

cùng ngài hiểu rằng chính

ý chí quyền lực đã

dẫn dắt ngài. Các cố

gắng tốt đẹp của ngài

chỉ dùng để che đậy

sự sĩ nhục và cơn

giận của ngài. Ngài đạt

tới chỗ nhận ra ước

muốn thầm kín của ngài

muốn tỏ ra vượt trổihơn cựu bề trên giám

tỉnh, và cùng lúc thực

hiện một sự báo thù

tinh vi đối với bề

trên giám tỉnh.

Khám phá nầy đã dẫn

đưa ngài lại phó mình

trọn vẹn cho Thiên Chúa.

Ngài bắt đầu bằng việc

nghỉ ngơi thư giản. Rồi

ngài đặt mình trong trạng

thái lãnh nhận ân sủng

tha thứ, nhưng không biết

thế nào, khi nào và

ở đâu mà ân sủng

đó được trao ban cho

ngài.

Hai ngày sau, ngài có

cảm giác, ban đầu không

rõ, rồi dần dần rõ

rệt, là có cái gì

đó được tháo gỡ ở

trong ngài. Khởi đi từ

lúc đó, ngài cảm nhận

một sự bình an xâm

chiếm ngài, tâm hồn ngài

trở nên bớt nặng nề

và linh hồn ngài được

giải thoát. Một cách lạ

lùng, ngài không còn cảm

thấy nhu cầu đọc lên

công thức thần chú "contha thứ cho bề trên

giám tỉnh" nữa. Nỗi oán

giận buông rơi, sự tha

thứ ngự trị trong ngài.

2. Tránh mối nguy hiểm

giảm trừ sự tha thứ

thành một bó buộc luân

lý :

Đây là một lý do

khác để từ chối tha

thứ chỉ với sức mạnh

của ý chí. Tha thứ

không thể là đối tượng

của một giới răn hoặc

của một qui tắc luân

lý. Thật dễ rơi vào

sai lầm nầy và đánh

mất khỏi sự tha thứ

khía cạnh tự phát vànhưng không của nó. Phải

chăng đó là cái mà

thánh Phêrô không hiểu được

khi hỏi Chúa Giêsu :

"Thưa Thầy, khi anh em

xúc phạm đến con, con

sẽ tha thứ cho họ

bao nhiêu lần ? Đến

bảy lần chăng ?" Phêrô,

thấm đầy những mối bận

tâm pháp lý, ao ước

các qui tắc luân lý

rõ ràng về tha thứ.

Chúng ta biết câu trả

lời của Chúa Giêsu. Ngài

dùng cái đối nghịch của

lệnh truyền Lamek đòi trảthù gấp bảy mươi lần

và tuyên bố : "Thầy

không bảo con phải tha

đến bảy lần, nhưng đến

bảy mươi lần bảy" (Mt.18,21-22).

Câu trả lời của Chúa

Giêsu cho chúng ta hiểu

rõ ràng rằng tha thứ

không do một bắt buộc

luân lý, nhưng do một

tính nhưng không thần bí

phản ánh các tương quanthân tình giữa Thiên Chúa

và con người. Không phải

là đối tượng của một

giới răn, sự tha thứ

trong tư tưởng của Chúa

Giêsu bao hàm sự hoán

cải tâm hồn và sựchọn lựa một lối sống

phù hợp với phong cách

của Thiên Chúa. Ai có

thể tự phụ sống chính

đời sống của Thiên Chúa

mà lại không nhận lãnh

ân huệ của Ngài ?

Vậy chính là từ một

tấm lòng tự do và

tràn đầy ân sủng mớicó thể phát sinh ra

quyền năng tha thứ.

Khi nghe và đọc một

số nhà giảng thuyết và

"thầy thiêng liêng", có lẽ

chúng ta bị thúc đẩy

suy nghĩ ngược lại. Họquá nhấn mạnh đến đòi

buộc tha thứ đến đổi

có cảm tưởng rằng tha

thứ chỉ là kết quả

của một ý chí quảngđại, không cần được ơn

thánh Chúa nâng đỡ. Với

những ý nghĩ như thế,

họ duy trì các thính

giả và đọc giả của

họ trong một ảo tưởng

lớn lao về khả năng

tha thứ của họ. Chẳng

lạ gì vì những thất

bại liên tục trong việc

tha thứ của họ, nhiều

người đành để buông xuôi

thất vọng.

Một số thực hành tôn

giáo trong Giáo Hội đã

không luôn luôn biết cách

tránh khỏi cái trượt ngã

nầy trong vấn đề tha

thứ. Người ta nghĩ đến

những chỉ dẫn ngày trướctrong việc ban bố bí

tích tha thứ. Những chỉ

dẫn đó phản ánh một

não trạng quá pháp lý

và vụ luật. Người ta

nói đến tòa giải tội,

đến cha giải tội như

một vị quan tòa, nóiđến sự buộc xưng tội,

nói đến sự cần thiết

phải xưng thú tỉ mỉ

các lầm lỗi. Cuối cùng

chẳng có gì ngạc nhiên

khi người ta mất đi

cái nhìn về tính nhưng

không của tình yêu Thiên

Chúa đối với người có

tội. Một nền thần học

vụ luật nào đó về

tha thứ đã không đóng

góp một phần vào lòngđố kỵ chung chung đối

với bí tích tha thứ,

vì đánh giá thấp tầm

quan trọng của bí tích

nầy trong việc tăng trưởng

thiêng liêng đó sao ?

Carl Jung nói nhiều trongchiều hướng nầy khi ông

viết rằng kẻ nào không

còn có thể thổ lộ

lương tâm mình với một

người khác thì kẻ đóhiến mình cho một "sự

cô độc thiêng liêng".

3. Lời cầu nguyện "khẳng

định" ơn tha thứ :

Tôi đã nói trên kia

rằng để tha thứ cách

hiệu quả cần phải từ

bỏ "ý chí quyền lực"

của mình. Mà sự từ

bỏ nầy chỉ có thể

được trong cầu nguyện, một

lời cầu nguyện được thực

hiện với lòng chắc chắn

được nhậm lời. Yếu tố

tin tưởng được sống trong

cầu nguyện trở thành nhân

tố hiệu quả của nó.

Thánh Marcô nhấn mạnh tầm

quan trọng của nó :

"Thầy bảo thật các con

: Nếu ai nói với

quả núi nầy "hãy cất

lên gieo mình xuống biển,

mà trong lòng nó chẳng

chút nghi nan, nhưng tin

là sẽ xảy ra như

lời mình nói, thì nó

sẽ được cho như vậy"

(Mc.11,23). Vì thế tôi đề

nghị rằng một lời cầu

nguyện phải để rất ít

chỗ cho nghi nan và

do dự, đến đổi nó

đi trước hoặc sống trướcsự kiện toàn của lời

cầu xin. Bằng những từ

ngữ khác, tôi khuyến cáo

nên coi sự tha thứ

như một biến cố đã

được thực hiện nơi mình

rồi. Tuy nhiên, không được

cảm thấy bị bó buộc

chấp nhận các công thức

cầu nguyện đã được gợi

ý sẵn, song được hoàn

toàn tự do sáng tạo

ra một lời cầu nguyện

khẳng định riêng của mình.

Bạn giữ một tư thế

thoải mái trong một chỗ

yên tỉnh.

Để một ánh sáng dịu

bao bọc chung quanh bạn.

Đặt mình trước mặt Chúa.

Xin Ngài cho bạn được

sống sự tha thứ trong

hiện tại.

Bạn đã tha thứ cho

kẻ xúc phạm bạn. Bạn

hãy ý thức điều đó,

bạn lắng nghe mình, ngắm

nhìn mình trong hoàn cảnh

đó.

"Tôi cảm thấy mình đã

được giải thoát khỏi mọi

nỗi oán giận.

Ngực tôi được cất khỏi

mọi lo âu.

Tâm hồn tôi trở nên

ngày càng nhẹ nhàng và

vui tươi hơn.

Hơi thở tôi sâu hơn

và đôi bàn tay tôi

ấm áp hơn.

Đôi bàn chân tôi đứng

vững trên đất cứng.

Tôi cảm nhận mình đã

được giải thoát khỏi gánh

nặng của xúc phạm.

Một cuộc đối thoại nội

tâm được thiết lập ở

trong tôi.

Tôi nghe những lời Chúa

phán : "Con có giá

trị trước mắt Ta".

Tôi thưởng thức những lời

nầy. Tôi nghe Chúa nói

với tôi : "Con được

giải thoát khỏi mọi lo

âu và đau khổ. Conbước vào một giai đoạn

mới của cuộc đời con.

Từ những lỗi lầm quá

khứ của con, con rút

ra được những bài họckhôn ngoan và con học

biết con được nhiều hơn.

Thương tổn của xúc phạm

đã chịu được biến đổi

thành suối nguồn phong phú

và trưởng thành".

Tôi theo đuổi cuộc đối

thoại bên trong : "Tôi

trở nên mỗi ngày một

quan trọng hơn trước mắt

tôi. Tôi chấm dứt phản

bội lại mình. Từ nay

tôi là người bạn thân

tốt hơn của mình. Tôi

yêu thương kẻ khác như

chính tôi. Cả kẻ xúc

phạm tôi cũng là đối

tượng của tình yêu đó".

Tôi nhận thấy rằng vết

thương của tôi đã trở

thành sẹo được chữa lành

đúng cách.

Ký ức của tôi không

còn làm khổ tôi nữa.

Trái lại, tôi nhớ lại

mọi hoàn cảnh của xúc

phạm mà không cảm thấy

cay đắng.

Tâm trí tôi sẵn sàng

khám phá ra vẻ đẹp

nơi tất cả mọi người,

kể cả nơi kẻ đã

xúc phạm tôi.

Tôi thấy mình đứng thẳng,

hiên ngang, tự do và

được giải thoát trước mặt

kẻ xúc phạm giờ đây

đã trở nên cận nhân

của tôi.

Tôi thấy mình ngày càng

cảm thông hơn đối với

mình và đối với tha

nhân.

Tôi thấy và cảm nhận

mình trở nên trong suốt

đối với sự tha thứ

của Chúa và thành người

chuyển giao sự tha thứcủa Ngài. Trong tôi sáng

lên những tia lửa tình

yêu của Ngài, cho tôi

và cho kẻ đã xúc

phạm tôi".

Sau khi kết thúc lời

cầu nguyện của mình, bạn

lấy lại dòng chảy bình

thường các hoạt động của

bạn, xác tín rằng thế

giới đã không còn như

cũ, từ lúc bạn đã

kinh nghiệm được hậu quả

của tha thứ ở trong

bạn và ở trong người

kia.

Location:

73% ·

6734

of

9147

Giai Đoạn 11

Mở lòng ra với ân

sủng tha thứ

"Chính trong lòng sự tha

thứ mà công cuộc sáng

tạo tái sinh trong sự

tinh tuyền ban đầu của

nó."

(Philippe Le Touzé)

Sự trống rổng nội tâm

mà bạn đã tạo ra

bằng cách từ bỏ hữu

thể độc nhất tác giả

sự tha thứ của bạn

làm cho bạn nên sẵn

sàng đón tiếp tình yêu

của Thiên Chúa. Bạn tựchuẫn bị mình để tha

thứ dưới tác động của

Chúa. Bạn đáp lại mời

gọi của Chúa Giêsu :

"Hãy nhân từ như Chaanh em là Đấng nhân

từ" (Lc.6,36). Không phải bạn

nhằm bắt chước Chúa bằng

cách cậy dựa vào sức

riêng của bạn, nhưng bạn

sẵn sàng đón nhận sự

sống của Ngài, suối nguồn

tình yêu và tha thứ.

Có thể rằng bạn còn

cảm thấy do dự và

bất lực để tha thứ,

ngay cả sau khi đã

kêu xin sự trợ giúp

của Chúa. Giải thích sự

ách tắc nầy thế nào

? Có lẽ nó đến

từ những hình ảnh sai

lạc về Thiên Chúa làm

che khuất bạn khuôn mặt

đích thực đầy tình yêu

và trắc ẩn của Ngài.

1. Từ vị thiên chúa

công lý đến Thiên Chúa

chân thật :

Tuyên xưng trong lý thuyết

rằng Thiên Chúa là một

vị Thiên Chúa tình yêu

và nhân từ là một

việc khá dễ dàng. Nhưng

đạt tới sống thực sự

điều đó thì lại không

dễ dàng chút nào. Quả

thật, không dễ dàng biện

phân vị thiên chúa muốn

làm sáng tỏ công lý

của óc tưởng tượng tôngiáo của mình với vị

Thiên Chúa Tình Yêu và

Nhân Hậu. Tuy nhiên, ngay

lúc tha thứ, sự biện

phân nầy bắt buộc phải

có. Chúng ta sẽ không

bao giờ thành công trong

việc tha thứ thực sự,

nếu trước đó đã không

đi vào trong tương quan

với Thiên Chúa chân thật.

Trong thực hành lâm sàng,

tôi thường có cơ hội

hướng dẫn các khách hàng

phân biệt vị thiên chúa

muốn làm sáng tỏ công

lý với Thiên Chúa Tình

Yêu. Câu chuyện sau đây

của một nữ khách hàng

của tôi có thể làm

sáng tỏ những điều tôi

nói.

Sau khi mẹ bà qua

đời, một nữ tu nọ

cứ bị ám ảnh bởi

ý nghĩ rằng sự trừng

phạt của Thiên Chúa vừa

đổ xuống trên bà. Cùng

lúc bà cảm thấy mình

vừa bị bối rối vừa

bị nhục nhã trở thành

nạn nhân của một cơn

ám ảnh như thế. Là

giáo sư môn Giáo lý,

bà dạy cho các sinh

viên của mình một Thiên

Chúa Tình yêu và Nhân

hậu. Vậy mà ở mức

độ "lòng dạ" của bà,

bà bị đeo đuổi bởi

một vị thiên chúa quấy

rầy và trả thù, tất

cả vì bà đã chưa

là một "nữ tu tốt".

Lúc khởi đầu, công việc

trị liệu nhằm ưu tiên

trên cái chết của mẹ

bà. Một khi khơi mào

được tang chế của mẹ

bà, tôi đã tìm được

thời gian thuận tiện để

gợi lên quan niệm của

bà về vị thiên chúa

trả thù và cơn khủng

hoảng về cảm giác có

lỗi do đó mà sinh

ra. Bàg tỏ ra bực

tức khi nhắc lại điều

đó, nhưng bất chấp những

ngập ngừng của bà, tôi

đánh liều hỏi bà xem

cảm giác có lỗi mà

bà cảm thấy là một

phản ứng riêng lẻ hay

đó là một khuynh hướng

thường ngày. Sau khi cho

tôi biết rằng tôi quá

coi trọng một biến cố

không đáng kể như thế,

bà đã thú nhận rằng

trong những hoàn cảnh lo

âu, ý tưởng về một

thiên chúa trừng phạt đã

đến ám ảnh bà. Bà

đã tỏ bày cho cácvị hướng dẫn thiêng liêng

của bà, nhưng các vị

nầy đã khuyên bà suy

gẫm về lòng tốt lành

của Thiên Chúa và đừng

nghĩ là mình có lỗi

nữa. Những lời khuyên nầy

đã tỏ ra không có

hiệu quả.

Tôi xem ra thật khẩn

cấp là bà phải được

giải thoát một lần dứt

khoát khỏi một hình ảnh

sai lầm như thế về

Thiên Chúa, hoàn toàn không

thích hợp với đời sống

cầu nguyện và công việc

dạy giáo lý của bà,

điều mà bà cũng ý

thức rõ. Bà cũng xin

tôi giúp bà loại bỏ

khỏi cuộc đời mình vị

thiên chúa trừng phạt đó.

Tôi biết rõ rằng khôngnhững chúng ta không thể

loại bỏ khỏi một mặc

cảm tâm lý trầm trọng

như thế, nhưng chúng ta

còn không được tìm cách

làm điều đó nữa. Khách

hàng của tôi phải họcthuần hóa mặc cảm ấy

và sống với nó. Chính

vì vậy tôi xin bà

bắt đầu đối thoại với

nó.

Đó là điều bà đã

làm trong suốt một cuộc

tĩnh tâm. Bà quá đổi

ngạc nhiên, đàng sau cái

hình ảnh lạ lùng về

thiên chúa đó, bà nhận

ra hình ảnh của mẹ

bà. Mẹ bà đã khắcsâu trong trí não bà

từ hồi bà còn nhỏ

một nỗi sợ hãi bệnh

hoạn đối với Thiên Chúa.

Mẹ bà thường nói với

bà về những người bà

con và bạn bè đã

bị Chúa phạt vì họđã không vâng lời Ngài.

Khám phá nầy, dù có

tính chất giải thoát, đã

làm cho bà buồn nhiều.

Bởi vì cùng lúc bànhận thấy phần lớn cuộc

đời bà đã phải chịu

cái hình ảnh của vị

thiên chúa nghiêm khắc và

đe dọa đó thống trị.

Những ngày kế tiếp, bà

theo đuổi cuộc đối thoại

với vị thiên chúa quan

tòa và trừng phạt của

mình. Bà xin vị thiên

chúa nầy nhường chỗ dần

dần cho Thiên Chúa TìnhYêu của Chúa Giêsu Kitô

và đừng đứng ở giữa

bà và Ngài nữa, nhất

là trong những lúc gặp

khủng hoảng. Hơn nữa, bà

bảo đảm với vị thiên

chúa đó rằng bà tán

dương ý hướng tích cực

của người muốn làm cho

bà thành một người có

hạnh kiểm luân lý không

thể chê trách vào đâuđược hết.

Câu chuyện chứng tỏ tầm

quan trọng phải chăm chú

khảo sát quan niệm của

mình về Thiên Chúa và

sửa chữa nó, nếu muốn

khá phá thấy mình đáng

tha thứ và chính mìnhtrở nên có khả năng

tha thứ. Chúng ta không

thể cứ giữ mãi những

hình ảnh trẻ con về

Thiên Chúa, những hình ảnh

của một quan tòa vô

tâm, một người cha nghiêmkhắc, một cảnh sát, một

giáo sư cầu toàn, một

con người vô cảm, một

nhân vật ngọt ngào đầu

môi chót lưỡi, một nhà

luân lý sợ sệt, v.v...

Những vị thiên chúa đó

làm cho tín đồ của

họ thành bất lực trong

vệc tha thứ.

2. Trong tình yêu của

Ngài, Thiên Chúa không bị

giới hạn bởi những sự

tha thứ nghèo nàn của

chúng ta :

Nhưng đó không phải là

những hình ảnh sai lầm

duy nhất về Thiên Chúa

cản trở việc tha thứ.

Còn có hình ảnh củamột vị thiên chúa mà

sự tha thứ bị điều

kiện bởi những sự tha

thứ của con người. Thiên

Chúa chỉ tha thứ cho

tôi với điều kiện tôi

tha thứ cho kẻ khác.

Lối suy tư về tha

thứ nầy rất phổ biến,

tôi đã gặp nó nơi

đa số các tham dựviên những khóa học về

tha thứ của tôi. Họ

tưởng rằng có thể biện

minh cho lối suy tư

đó bằng cách nêu lên

những lời của Kinh Lạy

Cha: "Xin tha thứ cho

những xúc phạm của chúng

con như chúng con tha

thứ cho những kẻ xúcphạm chúng con".

Làm sao cắt nghĩa việc

các tín hữu kitô đã

đi đến một quan niệm

như thế về sự tha

thứ của Thiên Chúa ?

Có nên nghĩ rằng một

truyền thống kitô như thế

đã đánh mất sứ điệp

thứ nhất của Phúc Âm

không ? Từ ý niệm

về sự tha thứ nhưng

không của Thiên Chúa, dần

dần chúng ta đã trượt

vào ý niệm của một

tha thứ-phần thưởng của chính

những sự tha thứ của

mình. Thiên Chúa đặt giớihạn cho tình yêu của

Ngài và thôi lấy sáng

kiến tha thứ để chạy

theo những sự tha thứ

nghèo nàn của con ngườisao ?

Ý niệm về sự tha

thứ của Thiên Chúa được

xem như một thứ công

bằng ban thưởng có thể

tìm thấy dấu vết trongTin Mừng theo thánh Matthêu

: "Quả thực, nếu các

ngươi tha thứ cho người

khác lầm lỗi của họ

thì Cha các ngươi trên

trời cũng sẽ tha thứ

cho các ngươi ; nhưng

nếu các ngươi không tha

thứ cho người ta, thì

Cha các ngươi cũng không

tha thứ cho các ngươi

lầm lỗi của các ngươiđâu" (Mt.6,14-15). Các nhà chú

giải giải thích định hướngnầy của Matthêu là do

sự kiện Matthêu nói với

một cử toạ còn thấm

nhiễm Lề Luật Cựu Ước.

Ngay cả trong những bản

văn khác, khi khẳng định

rõ ràng tính nhưng không

của ơn cứu độ, Matthêu

cũng khai triển cả mộtdòng tư tưởng rabbi bị

tinh thần vụ luật chế

ngự. Chính tư tưởng nầy

lại được gặp thấy trong

ý niệm về tha thứ.Chúng ta ghi nhận ảnh

hưởng của Phúc Âm Matthêu

có ưu thế trong việc

đào luyện tâm thức kitô

giáo, bởi vì mãi cho

đến Công đồng Vatican II,

chúng ta đọc hầu như

mọi bản văn của Matthêu

trong các phụng vụ Chúa

nhật. Vậy chẳng ngạc nhiên

chi khi người tín hữu

nghĩ rằng có thể mua

lấy sự tha thứ của

Thiên Chúa bằng các công

nghiệp của chính những sự

tha thứ của mình. Như

vậy, sự tha thứ mang

hình thức của một cuộc

mặc cả tinh vi giữaThiên Chúa và con người.

Ý tưởng về một vị

thiên chúa cho qua cho

lại không xứng hợp với

lòng nhân hậu vô cùng

của Thiên Chúa. Nó tạonên một lầm lẫn lớn

và một ngõ cụt lớn

hơn trong đời sống thiêng

liêng, đặc biệt nơi những

người cảm thấy không thể

tha thứ. Để bảo đảm

ơn cứu độ đến từ

sự tha thứ của Thiên

Chúa, họ phải cố gắng

tha thứ bằng mọi giá,

ngay cả khi cảm thấy

bất lực để làm việc

đó. Hoặc là họ thú

nhận không thể tha thứ

nên không đáng được sựtha thứ của Chúa vì

sự thiếu quảng đại của

họ, hoặc là họ tự

dối mình trong việc thỏa

thuận trao ban một sự

tha thứ giả dối, hoặc

ít ra là không trung

thực. Chúng ta thấy những

kẻ tưởng mình có thể 

đáng hưởng sự tha thứ

của Chúa rơi vào trong

một lưỡng đạo xao xuyến

như thế nào !

Làm sao thoát ra khỏi

con đường không lối thoát

nầy ? Phương thế duy

nhất là nhận rõ hai

chân lý nầy.

- Thứ nhất là Thiên

Chúa luôn giữ sáng kiến

đi bước đầu trong việc

tha thứ, như chỉ Ngài

mới có sáng kiến tìnhyêu. Thánh Gioan không do

dự khẳng định điều đó

: "Không phải chúng ta

đã yêu mên Thiên Chúa,

mà chính Ngài đã yêu

thương chúng ta trước" (1

Jn.4,10).

- Chân lý thứ hai

phát xuất từ chân lý

thứ nhất. Tha thứ không

phải là hành động của

ý chí chỉ tùy thuộc

ở mình. Tha thứ trước

hết là hoa trái của

một cuộc hoán cải củatâm hồn, một sự mở

ra với ân sủng tha

thứ. Sự hoán cải nầy,

ngay cả khi nó có

thể là tức thời và

tự phát trong một số

trường hợp, thường sinh ra,

chín muồi và tiến hóatrong suốt một giai đoạn

dài hoặc ngắn.

Quả thế, nếu không xác

tín về hai sự thật

nầy, chỉ nên đọc lại

dụ ngôn người mắc nợ

không có khả năng chi

trả (Mt.18,23-35). Đó là câu

chuyện của một ông chủ

có sáng kiến tha một

món nợ rất lớn cho

một trong các con nợ

của ông. Nhưng con nợ

nầy không có cùng lòng

khoan hồng đó đối với

một người nghèo mắc nợ

y một số tiền nhỏ.

Chúng ta biết phần còn

lại của câu chuyện :

ông chủ, một khi biết

được sự cứng cỏi và

khắc nghiệt của người mắc

nợ không có khả năng

chi trả, đã sai bỏ

tù anh ta cho đến

khi trả hết món nợ.

Hai điểm đáng ghi nhận

trong dụ ngôn liên quan

đến sự tha thứ. Một

đàng, chính ông chủ, trường

hợp nầy là Thiên Chúa,

có sáng kiến đưa ra

một cử chỉ thương xót.Đàng kia, con nợ được

đặc ân không để mình

bị đánh động hay chịu

ảnh hưởng bởi lòng quảng

đại của chủ nợ. Lòng

quảng đại đáng lẽ phải

dẫn anh ta tha thứ

cho con nợ của mình

khi đến lượt anh ta.

Anh ta đã không đónnhận cách sâu xa sự

tha thứ của chủ anh,

đến độ để mình được

biến đổi và trở nên

có khả năng đưa ra

một cử chỉ khoan hồng

tương tự. Chính trong việc

đó mà anh tự kết

án mình.

Huyền nhiệm tự do của

con người có thể đi

tới chỗ từ chối ân

sủng. Nên thêm rằng mặc

dầu Ngài có sáng kiếntrao ban sự tha thứ,

Thiên Chúa không thể bắt

ép buộc chúng ta đón

nhận nó. Một cách nào

đó, Chúa tự làm chomình ra bất lực trước

sự từ chối "tha nợ"

- tha thứ của Ngài.

Chắc chắn khác với ông

chủ của dụ ngôn, ThiênChúa tỏ ra kiên nhẫn

hơn và biết chờ đợi

lúc thuận tiện cho các

con tim mở ra, ngay

cả những tâm hồn ngoan

cố nhất.

3. Sự tha thứ khiêm

tốn của Thiên Chúa của

Chúa Giêsu:

Nhưng ai là Thiên Chúa

tha thứ đích thực ?

Để hiểu rõ các phong

cách của Thiên Chúa trong

việc tha thứ, chúng ta

hãy nhìn ngắm cách Chúa

Giêsu đối xử với các

"tội nhân". Đối với họ,

Ngài không tỏ ra một

thái độ trịch thượng, dạy

đời hoặc khing miệt, mà

lại tỏ ra giản dị,khiêm tốn và cảm thông.

Ngài có sáng kiến đi

thăm những con người bị

tù đày trong lầm lỗi

của họ. Rồi một khi

ở với họ, Ngài làm

cho họ thêm giá trị

bằng cách tự đặt mình

trong trạng thái đón tiếp

họ : Với người đàn

bà Samaria, Ngài xin nước

uống ; nhìn thấy Giakêu,

Ngài tự mời mình đến

trọ nhà ông ; Ngài

để cho Maria Madalêna xức

dầu hôn chân Ngài. Ngay

cả trước khi nói đến

tha thứ, Ngài bắt đầu

thiết lập một mối tương

quan giữa người với người.

Vậy chính trong sự đón

tiếp căn bản con người

mà Chúa Giêsu biểu lộ

sự tha thứ của Ngài.

"Làm thế nào mở lòng

mình ra với ơn tha

thứ của Chúa ? Làm

sao bắt chước Ngài ?"

Jean-Marie Pohier hạnh phúc trả

lời : "Thiên Chúa của

Kinh Thánh vừa mạc khải

cho chúng ta rằng Ngài

không bị tổn thương -

Ngài là người cha của

đứa con trai hoang đàng,

là người đi tìm conchiên lạc - vừa cho

chúng ta biết rằng Ngài

từ chối bắt chúng ta

phải trả giá. Đó là

một nghịch lý không chịu

nổi đối với chúng ta.

Tôi cũng nghĩ rằng người

ta chỉ có thể bắt

chước sự tha thứ của

Chúa cách rất xa. Hy

vọng rằng nhờ năng lui

tới với Chúa, cuối cùng

Ngài có thể ảnh hưởng

trên chúng ta một chút..."

4. Để mở lòng ra

với ân sủng tha thứ

:

Như đối với các cuộc

tập luyện khác, bạn giữ

một tư thế thoải mái

và loại khỏi bạn mọi

sự chia trí.

Bạn hãy để mình được

dẫn qua một bức tranh

tâm trí. Trong khi lắng

nghe những lời của bức

tranh, bạn hãy chú ý

tôn trọng nhịp điệu riêng

của bạn.

Bạn hãy để thời giờ

đi vào trong chính mình

để đuổi kịp thế giới

biểu tượng và thiêng liêng

của bạn. Nhắm mắt lạinếu điều đó giúp đỡ

bạn.

Bạn tìm thấy mình ở

trong một cánh đồng đầy

hoa, chan hòa ánh sáng

mặt trời. Bạn hãy để

thời gian chiêm ngắm quang

cảnh ấy và thưởng thức

sự tươi mát của địaphương.

Dưới kia, bạn thấy một

căn nhà được bao bọc

bởi một ánh sáng đặc

biệt. Bạn đi về phía

nó. Bạn tìm thấy ở

đó một cầu thang bằng

đá dẫn xuống tầng hầm.

Từng bước một, bạn xuống

bảy bậc. Bây giờ bạn

đang đứng trước một cánh

cửa dày bằng gỗ sến

được chạm trổ tinh vi

với những mẫu hình duyên

dáng. Sự tò mò thúc

đẩy bạn mở cửa ra

và đi vào. Bạn ở

trong một gian phòng ánh

sáng kỳ lạ. Hết sức

ngạc nhiên, bạn thấy một

bản sao của chính bạn

bị cột vào một chiếc

ghế. Hãy để thời giờ

khảo sát kỷ các dây

buộc bạn. Những phần nào

nơi thân thể bạn bị

buộc chặt ? Loại dây

gì trói chúng ? Các

dây đó làm bằng vật

liệu chi ? Bạn bắt

đầu nhận thức ra sự

xúc phạm đã trói buộc

bạn thế nào. Bạn dần

dần ý thức được chính

bạn đang ở đó, bị

trói chặt vào ghế. Bạn

đi vào trong chính mình

để chỉ làm nên một

với người bị trói.

Rồi bạn nhận thấy rằng

không phải chỉ có một

mình bạn ở trong phòng.

Bạn ngờ vực sự hiện

diện của một hữu thểquyền năng. Bạn nhận ra

Chúa Giêsu. Ngài hỏi bạn

: "Con có muốn Ta

giúp con cởi trói không

?". Ngạc nhiên về sự

giúp đỡ của Ngài, bạn

tự đặt lại câu hỏi

: "Có phải tôi thực

sự muốn được giải thoát

không ? - Có phải

tôi sắp thoát khỏi xiềng

xích không ? - Tôi

có thể chịu đựng tình

trạng mới tự do không

? - Những lợi ích

nào tôi có thể rút

ra được từ hoàn cảnh

tù ngục của tôi ?".

Bạn để ít thời gian

tranh luận về những câu

hỏi quan trọng nầy.

Nếu bạn muốn được giải

thoát, hãy trình bày ước

muốn ấy với Chúa Giêsu.

Hãy nói với Ngài về

những sợi dây trói buộc

bạn và ngăn cản bạn

tha thứ cho kẻ xúc

phạm bạn. Cứ mỗi lần

bạn xác định rõ mỗi

trở ngại cho tha thứ,bạn hãy nhìn Chúa Giêsu

đang tháo gỡ dần dần

những cái ràng buộc bạn.

Mỗi khi một phần thân

xác bạn được giải thoát,

bạn hãy dừng lại để

thưởng thức sự nâng đỡ

mà sự tự do mớicủa bạn mang lại cho

bạn. Các sợi dây cứ

càng buông ra thì bạn

càng để cho sự hòa

điệu, trong sáng và bình

an xâm chiếm tất cả

con người của bạn.

Trong tình trạng ân sủng

mà bạn cảm nhận tình

yêu Thiên Chúa cư ngụ

trong bạn, bạn hãy nhìn

con người xúc phạm bạn

đang tiến đến gần bạn.

Bạn có bắt đầu nhận

ra có cái gì đó

thay đổi trong bạn không

? Bạn hãy nhìn vàođôi mắt con người nầy.

Bạn có thể thẳng thắn

nói với y "tôi tha

thứ cho anh" không ?

Nếu có, thì bạn hãy

làm đi. Nếu không, bạn

hãy trở về với chính

mình và tự hỏi những

sợi dây nào còn giữ

bạn lại. Bạn có thể

nối lại cuộc đối thoại

với Chúa Giêsu để xin

Ngài giải thoát bạn khỏi

những trở ngại cuối cùng

đối với sự tha thứ.

Bạn cũng có thể dừng

lại nơi đây, dù phải

làm lại sau nầy cùng

một tập luyện bức tranh,

ngõ hầu đi xa hơn

trên con đường tha thứ.

Một ngày sẽ tới, bạn

sẽ hết sức ngạc nhiên

thấy sự tha thứ chảy

ra từ suối nguồn của

trái tim bạn.

Nếu bạn đã thành công

trong việc tháo cởi hết

mọi dây ràng buộc bạn,

bạn hãy tự hỏi bạn

sẽ làm gì trong tươnglai, với những sợi dây

đó. Chúng sẽ được sử

dụng cho bạn như những

biểu tượng, nhắc nhở bạn

những bài học quí giá

mà bạn sẽ rút tỉa

được từ kinh nghiệm của

mình.

Bây giờ bạn sẽ cử

hành thế nào sự giải

thoát mới của bạn ?

Khi bạn cảm thấy đã

sẵn sàng, bạn hãy đứng

và ra khỏi phòng. Bạn

mở cánh cửa sến và

trèo lên bảy bậc cấp

để lộ ra trong ánh

sáng ban ngày. Từ từ

bạn bắt lại liên lạcvới bên ngoài. Bạn ý

thức các tiếng động. Bạn

mở to mắt. Bạn cảm

thấy an tĩnh, thư giản,

mát mẻ và khoan khoái.

Chắc chắn bạn muốn chia

sẻ những cảm nghĩ của

bạn với một người nào

đó, hoặc bạn hãy ghi

lại trong nhật ký.

Xin tha thứ cho chúng

con những xúc phạm của

chúng con.

Lạy Chúa, xin tha thứ

cho chúng con những xúc

phạm của chúng con,

Không theo mức độ của

những tha thứ nghèo nàn

của chúng con,

Không như chúng con có

thói quen tha thứ,

Không theo gương những tha

thứ có tính cách thươngmại và tính toán của

chúng con.

Nhưng hẳn là :

- để khám phá ra

lòng thương xót dịu dàng

của Chúa

- để cảm nhận sự

dịu dàng nguôi ngoai của

Chúa

- để dạy cho chúng

con cũng tha thứ

- để tha thứ cho

những ai cùng chia sẻ

cơm bánh với chúng con

- để không rơi vào

tuyệt vọng vì xấu hổ

- để từ chối ước

muốn tha thứ cách ngạo

mạn

- để lột mặt nạ

những sự ngay thẳng giả

dối và những phẩn nộ

của chúng con

- để chúng con có

thể tha thứ cho chính

mình

- để những tha thứ

của chúng con trở thành

phản ánh  sự tha thứ

của Chúa.

Location:

79% ·

7277

of

9147

Giai Đoạn 11

Mở lòng ra với ân

sủng tha thứ

"Chính trong lòng sự tha

thứ mà công cuộc sáng

tạo tái sinh trong sự

tinh tuyền ban đầu của

nó."

(Philippe Le Touzé)

Sự trống rổng nội tâm

mà bạn đã tạo ra

bằng cách từ bỏ hữu

thể độc nhất tác giả

sự tha thứ của bạn

làm cho bạn nên sẵn

sàng đón tiếp tình yêu

của Thiên Chúa. Bạn tựchuẫn bị mình để tha

thứ dưới tác động của

Chúa. Bạn đáp lại mời

gọi của Chúa Giêsu :

"Hãy nhân từ như Chaanh em là Đấng nhân

từ" (Lc.6,36). Không phải bạn

nhằm bắt chước Chúa bằng

cách cậy dựa vào sức

riêng của bạn, nhưng bạn

sẵn sàng đón nhận sự

sống của Ngài, suối nguồn

tình yêu và tha thứ.

Có thể rằng bạn còn

cảm thấy do dự và

bất lực để tha thứ,

ngay cả sau khi đã

kêu xin sự trợ giúp

của Chúa. Giải thích sự

ách tắc nầy thế nào

? Có lẽ nó đến

từ những hình ảnh sai

lạc về Thiên Chúa làm

che khuất bạn khuôn mặt

đích thực đầy tình yêu

và trắc ẩn của Ngài.

1. Từ vị thiên chúa

công lý đến Thiên Chúa

chân thật :

Tuyên xưng trong lý thuyết

rằng Thiên Chúa là một

vị Thiên Chúa tình yêu

và nhân từ là một

việc khá dễ dàng. Nhưng

đạt tới sống thực sự

điều đó thì lại không

dễ dàng chút nào. Quả

thật, không dễ dàng biện

phân vị thiên chúa muốn

làm sáng tỏ công lý

của óc tưởng tượng tôngiáo của mình với vị

Thiên Chúa Tình Yêu và

Nhân Hậu. Tuy nhiên, ngay

lúc tha thứ, sự biện

phân nầy bắt buộc phải

có. Chúng ta sẽ không

bao giờ thành công trong

việc tha thứ thực sự,

nếu trước đó đã không

đi vào trong tương quan

với Thiên Chúa chân thật.

Trong thực hành lâm sàng,

tôi thường có cơ hội

hướng dẫn các khách hàng

phân biệt vị thiên chúa

muốn làm sáng tỏ công

lý với Thiên Chúa Tình

Yêu. Câu chuyện sau đây

của một nữ khách hàng

của tôi có thể làm

sáng tỏ những điều tôi

nói.

Sau khi mẹ bà qua

đời, một nữ tu nọ

cứ bị ám ảnh bởi

ý nghĩ rằng sự trừng

phạt của Thiên Chúa vừa

đổ xuống trên bà. Cùng

lúc bà cảm thấy mình

vừa bị bối rối vừa

bị nhục nhã trở thành

nạn nhân của một cơn

ám ảnh như thế. Là

giáo sư môn Giáo lý,

bà dạy cho các sinh

viên của mình một Thiên

Chúa Tình yêu và Nhân

hậu. Vậy mà ở mức

độ "lòng dạ" của bà,

bà bị đeo đuổi bởi

một vị thiên chúa quấy

rầy và trả thù, tất

cả vì bà đã chưa

là một "nữ tu tốt".

Lúc khởi đầu, công việc

trị liệu nhằm ưu tiên

trên cái chết của mẹ

bà. Một khi khơi mào

được tang chế của mẹ

bà, tôi đã tìm được

thời gian thuận tiện để

gợi lên quan niệm của

bà về vị thiên chúa

trả thù và cơn khủng

hoảng về cảm giác có

lỗi do đó mà sinh

ra. Bàg tỏ ra bực

tức khi nhắc lại điều

đó, nhưng bất chấp những

ngập ngừng của bà, tôi

đánh liều hỏi bà xem

cảm giác có lỗi mà

bà cảm thấy là một

phản ứng riêng lẻ hay

đó là một khuynh hướng

thường ngày. Sau khi cho

tôi biết rằng tôi quá

coi trọng một biến cố

không đáng kể như thế,

bà đã thú nhận rằng

trong những hoàn cảnh lo

âu, ý tưởng về một

thiên chúa trừng phạt đã

đến ám ảnh bà. Bà

đã tỏ bày cho cácvị hướng dẫn thiêng liêng

của bà, nhưng các vị

nầy đã khuyên bà suy

gẫm về lòng tốt lành

của Thiên Chúa và đừng

nghĩ là mình có lỗi

nữa. Những lời khuyên nầy

đã tỏ ra không có

hiệu quả.

Tôi xem ra thật khẩn

cấp là bà phải được

giải thoát một lần dứt

khoát khỏi một hình ảnh

sai lầm như thế về

Thiên Chúa, hoàn toàn không

thích hợp với đời sống

cầu nguyện và công việc

dạy giáo lý của bà,

điều mà bà cũng ý

thức rõ. Bà cũng xin

tôi giúp bà loại bỏ

khỏi cuộc đời mình vị

thiên chúa trừng phạt đó.

Tôi biết rõ rằng khôngnhững chúng ta không thể

loại bỏ khỏi một mặc

cảm tâm lý trầm trọng

như thế, nhưng chúng ta

còn không được tìm cách

làm điều đó nữa. Khách

hàng của tôi phải họcthuần hóa mặc cảm ấy

và sống với nó. Chính

vì vậy tôi xin bà

bắt đầu đối thoại với

nó.

Đó là điều bà đã

làm trong suốt một cuộc

tĩnh tâm. Bà quá đổi

ngạc nhiên, đàng sau cái

hình ảnh lạ lùng về

thiên chúa đó, bà nhận

ra hình ảnh của mẹ

bà. Mẹ bà đã khắcsâu trong trí não bà

từ hồi bà còn nhỏ

một nỗi sợ hãi bệnh

hoạn đối với Thiên Chúa.

Mẹ bà thường nói với

bà về những người bà

con và bạn bè đã

bị Chúa phạt vì họđã không vâng lời Ngài.

Khám phá nầy, dù có

tính chất giải thoát, đã

làm cho bà buồn nhiều.

Bởi vì cùng lúc bànhận thấy phần lớn cuộc

đời bà đã phải chịu

cái hình ảnh của vị

thiên chúa nghiêm khắc và

đe dọa đó thống trị.

Những ngày kế tiếp, bà

theo đuổi cuộc đối thoại

với vị thiên chúa quan

tòa và trừng phạt của

mình. Bà xin vị thiên

chúa nầy nhường chỗ dần

dần cho Thiên Chúa TìnhYêu của Chúa Giêsu Kitô

và đừng đứng ở giữa

bà và Ngài nữa, nhất

là trong những lúc gặp

khủng hoảng. Hơn nữa, bà

bảo đảm với vị thiên

chúa đó rằng bà tán

dương ý hướng tích cực

của người muốn làm cho

bà thành một người có

hạnh kiểm luân lý không

thể chê trách vào đâuđược hết.

Câu chuyện chứng tỏ tầm

quan trọng phải chăm chú

khảo sát quan niệm của

mình về Thiên Chúa và

sửa chữa nó, nếu muốn

khá phá thấy mình đáng

tha thứ và chính mìnhtrở nên có khả năng

tha thứ. Chúng ta không

thể cứ giữ mãi những

hình ảnh trẻ con về

Thiên Chúa, những hình ảnh

của một quan tòa vô

tâm, một người cha nghiêmkhắc, một cảnh sát, một

giáo sư cầu toàn, một

con người vô cảm, một

nhân vật ngọt ngào đầu

môi chót lưỡi, một nhà

luân lý sợ sệt, v.v...

Những vị thiên chúa đó

làm cho tín đồ của

họ thành bất lực trong

vệc tha thứ.

2. Trong tình yêu của

Ngài, Thiên Chúa không bị

giới hạn bởi những sự

tha thứ nghèo nàn của

chúng ta :

Nhưng đó không phải là

những hình ảnh sai lầm

duy nhất về Thiên Chúa

cản trở việc tha thứ.

Còn có hình ảnh củamột vị thiên chúa mà

sự tha thứ bị điều

kiện bởi những sự tha

thứ của con người. Thiên

Chúa chỉ tha thứ cho

tôi với điều kiện tôi

tha thứ cho kẻ khác.

Lối suy tư về tha

thứ nầy rất phổ biến,

tôi đã gặp nó nơi

đa số các tham dựviên những khóa học về

tha thứ của tôi. Họ

tưởng rằng có thể biện

minh cho lối suy tư

đó bằng cách nêu lên

những lời của Kinh Lạy

Cha: "Xin tha thứ cho

những xúc phạm của chúng

con như chúng con tha

thứ cho những kẻ xúcphạm chúng con".

Làm sao cắt nghĩa việc

các tín hữu kitô đã

đi đến một quan niệm

như thế về sự tha

thứ của Thiên Chúa ?

Có nên nghĩ rằng một

truyền thống kitô như thế

đã đánh mất sứ điệp

thứ nhất của Phúc Âm

không ? Từ ý niệm

về sự tha thứ nhưng

không của Thiên Chúa, dần

dần chúng ta đã trượt

vào ý niệm của một

tha thứ-phần thưởng của chính

những sự tha thứ của

mình. Thiên Chúa đặt giớihạn cho tình yêu của

Ngài và thôi lấy sáng

kiến tha thứ để chạy

theo những sự tha thứ

nghèo nàn của con ngườisao ?

Ý niệm về sự tha

thứ của Thiên Chúa được

xem như một thứ công

bằng ban thưởng có thể

tìm thấy dấu vết trongTin Mừng theo thánh Matthêu

: "Quả thực, nếu các

ngươi tha thứ cho người

khác lầm lỗi của họ

thì Cha các ngươi trên

trời cũng sẽ tha thứ

cho các ngươi ; nhưng

nếu các ngươi không tha

thứ cho người ta, thì

Cha các ngươi cũng không

tha thứ cho các ngươi

lầm lỗi của các ngươiđâu" (Mt.6,14-15). Các nhà chú

giải giải thích định hướngnầy của Matthêu là do

sự kiện Matthêu nói với

một cử toạ còn thấm

nhiễm Lề Luật Cựu Ước.

Ngay cả trong những bản

văn khác, khi khẳng định

rõ ràng tính nhưng không

của ơn cứu độ, Matthêu

cũng khai triển cả mộtdòng tư tưởng rabbi bị

tinh thần vụ luật chế

ngự. Chính tư tưởng nầy

lại được gặp thấy trong

ý niệm về tha thứ.Chúng ta ghi nhận ảnh

hưởng của Phúc Âm Matthêu

có ưu thế trong việc

đào luyện tâm thức kitô

giáo, bởi vì mãi cho

đến Công đồng Vatican II,

chúng ta đọc hầu như

mọi bản văn của Matthêu

trong các phụng vụ Chúa

nhật. Vậy chẳng ngạc nhiên

chi khi người tín hữu

nghĩ rằng có thể mua

lấy sự tha thứ của

Thiên Chúa bằng các công

nghiệp của chính những sự

tha thứ của mình. Như

vậy, sự tha thứ mang

hình thức của một cuộc

mặc cả tinh vi giữaThiên Chúa và con người.

Ý tưởng về một vị

thiên chúa cho qua cho

lại không xứng hợp với

lòng nhân hậu vô cùng

của Thiên Chúa. Nó tạonên một lầm lẫn lớn

và một ngõ cụt lớn

hơn trong đời sống thiêng

liêng, đặc biệt nơi những

người cảm thấy không thể

tha thứ. Để bảo đảm

ơn cứu độ đến từ

sự tha thứ của Thiên

Chúa, họ phải cố gắng

tha thứ bằng mọi giá,

ngay cả khi cảm thấy

bất lực để làm việc

đó. Hoặc là họ thú

nhận không thể tha thứ

nên không đáng được sựtha thứ của Chúa vì

sự thiếu quảng đại của

họ, hoặc là họ tự

dối mình trong việc thỏa

thuận trao ban một sự

tha thứ giả dối, hoặc

ít ra là không trung

thực. Chúng ta thấy những

kẻ tưởng mình có thể 

đáng hưởng sự tha thứ

của Chúa rơi vào trong

một lưỡng đạo xao xuyến

như thế nào !

Làm sao thoát ra khỏi

con đường không lối thoát

nầy ? Phương thế duy

nhất là nhận rõ hai

chân lý nầy.

- Thứ nhất là Thiên

Chúa luôn giữ sáng kiến

đi bước đầu trong việc

tha thứ, như chỉ Ngài

mới có sáng kiến tìnhyêu. Thánh Gioan không do

dự khẳng định điều đó

: "Không phải chúng ta

đã yêu mên Thiên Chúa,

mà chính Ngài đã yêu

thương chúng ta trước" (1

Jn.4,10).

- Chân lý thứ hai

phát xuất từ chân lý

thứ nhất. Tha thứ không

phải là hành động của

ý chí chỉ tùy thuộc

ở mình. Tha thứ trước

hết là hoa trái của

một cuộc hoán cải củatâm hồn, một sự mở

ra với ân sủng tha

thứ. Sự hoán cải nầy,

ngay cả khi nó có

thể là tức thời và

tự phát trong một số

trường hợp, thường sinh ra,

chín muồi và tiến hóatrong suốt một giai đoạn

dài hoặc ngắn.

Quả thế, nếu không xác

tín về hai sự thật

nầy, chỉ nên đọc lại

dụ ngôn người mắc nợ

không có khả năng chi

trả (Mt.18,23-35). Đó là câu

chuyện của một ông chủ

có sáng kiến tha một

món nợ rất lớn cho

một trong các con nợ

của ông. Nhưng con nợ

nầy không có cùng lòng

khoan hồng đó đối với

một người nghèo mắc nợ

y một số tiền nhỏ.

Chúng ta biết phần còn

lại của câu chuyện :

ông chủ, một khi biết

được sự cứng cỏi và

khắc nghiệt của người mắc

nợ không có khả năng

chi trả, đã sai bỏ

tù anh ta cho đến

khi trả hết món nợ.

Hai điểm đáng ghi nhận

trong dụ ngôn liên quan

đến sự tha thứ. Một

đàng, chính ông chủ, trường

hợp nầy là Thiên Chúa,

có sáng kiến đưa ra

một cử chỉ thương xót.Đàng kia, con nợ được

đặc ân không để mình

bị đánh động hay chịu

ảnh hưởng bởi lòng quảng

đại của chủ nợ. Lòng

quảng đại đáng lẽ phải

dẫn anh ta tha thứ

cho con nợ của mình

khi đến lượt anh ta.

Anh ta đã không đónnhận cách sâu xa sự

tha thứ của chủ anh,

đến độ để mình được

biến đổi và trở nên

có khả năng đưa ra

một cử chỉ khoan hồng

tương tự. Chính trong việc

đó mà anh tự kết

án mình.

Huyền nhiệm tự do của

con người có thể đi

tới chỗ từ chối ân

sủng. Nên thêm rằng mặc

dầu Ngài có sáng kiếntrao ban sự tha thứ,

Thiên Chúa không thể bắt

ép buộc chúng ta đón

nhận nó. Một cách nào

đó, Chúa tự làm chomình ra bất lực trước

sự từ chối "tha nợ"

- tha thứ của Ngài.

Chắc chắn khác với ông

chủ của dụ ngôn, ThiênChúa tỏ ra kiên nhẫn

hơn và biết chờ đợi

lúc thuận tiện cho các

con tim mở ra, ngay

cả những tâm hồn ngoan

cố nhất.

3. Sự tha thứ khiêm

tốn của Thiên Chúa của

Chúa Giêsu:

Nhưng ai là Thiên Chúa

tha thứ đích thực ?

Để hiểu rõ các phong

cách của Thiên Chúa trong

việc tha thứ, chúng ta

hãy nhìn ngắm cách Chúa

Giêsu đối xử với các

"tội nhân". Đối với họ,

Ngài không tỏ ra một

thái độ trịch thượng, dạy

đời hoặc khing miệt, mà

lại tỏ ra giản dị,khiêm tốn và cảm thông.

Ngài có sáng kiến đi

thăm những con người bị

tù đày trong lầm lỗi

của họ. Rồi một khi

ở với họ, Ngài làm

cho họ thêm giá trị

bằng cách tự đặt mình

trong trạng thái đón tiếp

họ : Với người đàn

bà Samaria, Ngài xin nước

uống ; nhìn thấy Giakêu,

Ngài tự mời mình đến

trọ nhà ông ; Ngài

để cho Maria Madalêna xức

dầu hôn chân Ngài. Ngay

cả trước khi nói đến

tha thứ, Ngài bắt đầu

thiết lập một mối tương

quan giữa người với người.

Vậy chính trong sự đón

tiếp căn bản con người

mà Chúa Giêsu biểu lộ

sự tha thứ của Ngài.

"Làm thế nào mở lòng

mình ra với ơn tha

thứ của Chúa ? Làm

sao bắt chước Ngài ?"

Jean-Marie Pohier hạnh phúc trả

lời : "Thiên Chúa của

Kinh Thánh vừa mạc khải

cho chúng ta rằng Ngài

không bị tổn thương -

Ngài là người cha của

đứa con trai hoang đàng,

là người đi tìm conchiên lạc - vừa cho

chúng ta biết rằng Ngài

từ chối bắt chúng ta

phải trả giá. Đó là

một nghịch lý không chịu

nổi đối với chúng ta.

Tôi cũng nghĩ rằng người

ta chỉ có thể bắt

chước sự tha thứ của

Chúa cách rất xa. Hy

vọng rằng nhờ năng lui

tới với Chúa, cuối cùng

Ngài có thể ảnh hưởng

trên chúng ta một chút..."

4. Để mở lòng ra

với ân sủng tha thứ

:

Như đối với các cuộc

tập luyện khác, bạn giữ

một tư thế thoải mái

và loại khỏi bạn mọi

sự chia trí.

Bạn hãy để mình được

dẫn qua một bức tranh

tâm trí. Trong khi lắng

nghe những lời của bức

tranh, bạn hãy chú ý

tôn trọng nhịp điệu riêng

của bạn.

Bạn hãy để thời giờ

đi vào trong chính mình

để đuổi kịp thế giới

biểu tượng và thiêng liêng

của bạn. Nhắm mắt lạinếu điều đó giúp đỡ

bạn.

Bạn tìm thấy mình ở

trong một cánh đồng đầy

hoa, chan hòa ánh sáng

mặt trời. Bạn hãy để

thời gian chiêm ngắm quang

cảnh ấy và thưởng thức

sự tươi mát của địaphương.

Dưới kia, bạn thấy một

căn nhà được bao bọc

bởi một ánh sáng đặc

biệt. Bạn đi về phía

nó. Bạn tìm thấy ở

đó một cầu thang bằng

đá dẫn xuống tầng hầm.

Từng bước một, bạn xuống

bảy bậc. Bây giờ bạn

đang đứng trước một cánh

cửa dày bằng gỗ sến

được chạm trổ tinh vi

với những mẫu hình duyên

dáng. Sự tò mò thúc

đẩy bạn mở cửa ra

và đi vào. Bạn ở

trong một gian phòng ánh

sáng kỳ lạ. Hết sức

ngạc nhiên, bạn thấy một

bản sao của chính bạn

bị cột vào một chiếc

ghế. Hãy để thời giờ

khảo sát kỷ các dây

buộc bạn. Những phần nào

nơi thân thể bạn bị

buộc chặt ? Loại dây

gì trói chúng ? Các

dây đó làm bằng vật

liệu chi ? Bạn bắt

đầu nhận thức ra sự

xúc phạm đã trói buộc

bạn thế nào. Bạn dần

dần ý thức được chính

bạn đang ở đó, bị

trói chặt vào ghế. Bạn

đi vào trong chính mình

để chỉ làm nên một

với người bị trói.

Rồi bạn nhận thấy rằng

không phải chỉ có một

mình bạn ở trong phòng.

Bạn ngờ vực sự hiện

diện của một hữu thểquyền năng. Bạn nhận ra

Chúa Giêsu. Ngài hỏi bạn

: "Con có muốn Ta

giúp con cởi trói không

?". Ngạc nhiên về sự

giúp đỡ của Ngài, bạn

tự đặt lại câu hỏi

: "Có phải tôi thực

sự muốn được giải thoát

không ? - Có phải

tôi sắp thoát khỏi xiềng

xích không ? - Tôi

có thể chịu đựng tình

trạng mới tự do không

? - Những lợi ích

nào tôi có thể rút

ra được từ hoàn cảnh

tù ngục của tôi ?".

Bạn để ít thời gian

tranh luận về những câu

hỏi quan trọng nầy.

Nếu bạn muốn được giải

thoát, hãy trình bày ước

muốn ấy với Chúa Giêsu.

Hãy nói với Ngài về

những sợi dây trói buộc

bạn và ngăn cản bạn

tha thứ cho kẻ xúc

phạm bạn. Cứ mỗi lần

bạn xác định rõ mỗi

trở ngại cho tha thứ,bạn hãy nhìn Chúa Giêsu

đang tháo gỡ dần dần

những cái ràng buộc bạn.

Mỗi khi một phần thân

xác bạn được giải thoát,

bạn hãy dừng lại để

thưởng thức sự nâng đỡ

mà sự tự do mớicủa bạn mang lại cho

bạn. Các sợi dây cứ

càng buông ra thì bạn

càng để cho sự hòa

điệu, trong sáng và bình

an xâm chiếm tất cả

con người của bạn.

Trong tình trạng ân sủng

mà bạn cảm nhận tình

yêu Thiên Chúa cư ngụ

trong bạn, bạn hãy nhìn

con người xúc phạm bạn

đang tiến đến gần bạn.

Bạn có bắt đầu nhận

ra có cái gì đó

thay đổi trong bạn không

? Bạn hãy nhìn vàođôi mắt con người nầy.

Bạn có thể thẳng thắn

nói với y "tôi tha

thứ cho anh" không ?

Nếu có, thì bạn hãy

làm đi. Nếu không, bạn

hãy trở về với chính

mình và tự hỏi những

sợi dây nào còn giữ

bạn lại. Bạn có thể

nối lại cuộc đối thoại

với Chúa Giêsu để xin

Ngài giải thoát bạn khỏi

những trở ngại cuối cùng

đối với sự tha thứ.

Bạn cũng có thể dừng

lại nơi đây, dù phải

làm lại sau nầy cùng

một tập luyện bức tranh,

ngõ hầu đi xa hơn

trên con đường tha thứ.

Một ngày sẽ tới, bạn

sẽ hết sức ngạc nhiên

thấy sự tha thứ chảy

ra từ suối nguồn của

trái tim bạn.

Nếu bạn đã thành công

trong việc tháo cởi hết

mọi dây ràng buộc bạn,

bạn hãy tự hỏi bạn

sẽ làm gì trong tươnglai, với những sợi dây

đó. Chúng sẽ được sử

dụng cho bạn như những

biểu tượng, nhắc nhở bạn

những bài học quí giá

mà bạn sẽ rút tỉa

được từ kinh nghiệm của

mình.

Bây giờ bạn sẽ cử

hành thế nào sự giải

thoát mới của bạn ?

Khi bạn cảm thấy đã

sẵn sàng, bạn hãy đứng

và ra khỏi phòng. Bạn

mở cánh cửa sến và

trèo lên bảy bậc cấp

để lộ ra trong ánh

sáng ban ngày. Từ từ

bạn bắt lại liên lạcvới bên ngoài. Bạn ý

thức các tiếng động. Bạn

mở to mắt. Bạn cảm

thấy an tĩnh, thư giản,

mát mẻ và khoan khoái.

Chắc chắn bạn muốn chia

sẻ những cảm nghĩ của

bạn với một người nào

đó, hoặc bạn hãy ghi

lại trong nhật ký.

Xin tha thứ cho chúng

con những xúc phạm của

chúng con.

Lạy Chúa, xin tha thứ

cho chúng con những xúc

phạm của chúng con,

Không theo mức độ của

những tha thứ nghèo nàn

của chúng con,

Không như chúng con có

thói quen tha thứ,

Không theo gương những tha

thứ có tính cách thươngmại và tính toán của

chúng con.

Nhưng hẳn là :

- để khám phá ra

lòng thương xót dịu dàng

của Chúa

- để cảm nhận sự

dịu dàng nguôi ngoai của

Chúa

- để dạy cho chúng

con cũng tha thứ

- để tha thứ cho

những ai cùng chia sẻ

cơm bánh với chúng con

- để không rơi vào

tuyệt vọng vì xấu hổ

- để từ chối ước

muốn tha thứ cách ngạo

mạn

- để lột mặt nạ

những sự ngay thẳng giả

dối và những phẩn nộ

của chúng con

- để chúng con có

thể tha thứ cho chính

mình

- để những tha thứ

của chúng con trở thành

phản ánh  sự tha thứ

của Chúa.

Location:

79% ·

7277

of

9147

Giai Đoạn 12

Quyết định chấm dứt hoặc

đổi mới quan hệ

"Những tình bạn được nối

lại đòi hỏi nhiều chăm

sóc hơn là những tình

bạn không bao giờ bị

đổ vở."

(La Rochefoucauld)

Hoan hô ! Chúc mừng

! Bạn đã tới giai

đoạn cuối cùng của tiến

trình tha thứ lâu dài

của bạn. Bây giờ bạn

đã tha thứ cho kẻ

xúc phạm bạn, việc còn

lại là bạn quyết địnhsẽ làm gì với mối

liên hệ còn nối kết

bạn với y. Bạn muốnđeo đuổi mối liện hệ

nầy nhằm đào sâu nó,

hoặc bạn nghĩ rằng tốt

hơn nên chấm dứt ?

1. Không lẫn lộn tha

thứ với hòa giải :

Trong một số sách, tha

thứ thường đồng nghĩa với

hòa giải. Chính vì thế,

nhiều người sợ tha thứ

cho kẻ xúc phạm đến

họ, vì do đó, họ

phải hòa giải với nó

và lại phải đưa thân

ra hứng chịu cùng những

quấy nhiễu đó từ phíanó. Đó là trường hợp

một đồng nghiệp chuyên gia

tâm lý của tôi khi

cô bạn thân phản bội

những bí mật của bà.

Bà từ chối tha thứ

cho cô ta, bởi vì

bà nghĩ là bà sẽ

phải tâm sự trở lại

với cô ta và sẽ

còn phải bị tổn thương

vì sự không kín đáo

của cô ta. Mới đây

tôi cũng đã nhận thấycùng một nỗi sợ hải

đó nơi một người. Người

nầy cũng lẫn lộn hành

động tha thứ với hành

động hòa giải.

Đây là điều đã xảy

ra : một nữ tín

đồ Tin Lành say mê

vị mục sư của mình

bằng một tình yêu rất

mạnh. Vị mục sư cũng

say đắm nàng và đã

đáp trả những cử chỉ

cầu thân của nàng mà

không sợ làm lu mờ

thanh danh của mình, vìông đã kết hôn và

là người cha gia đình.

Chắc chắn về tình yêu

của người đàn ông nầy,

nàng rời bỏ tổ ấm

gia đình để thuê một

căn hộ sống một mình.

Nàng đã nêu lý do

cho chồng nàng rằng nàng

muốn tìm lại chính mình

và suy tư về định

hướng cho cuộc đời nàng.

Lý do thật là đểcó thể sống thân mật

hơn với người yêu đã

dự tính bỏ vợ ngõ

hầu đi đến với nàng.

Nhưng vợ của mục sư

đã nghe phong phanh sự

việc nên đã thúc đẩy

chồng đi gặp một vịcố vấn hôn nhân gia

đình. Cuối cùng, bà đã

thành công trong việc can

ngăn vị mục sư đi

sống với tình nhân.

Nữ nhân vật trong câu

chuyện của chúng ta sống

cô đơn một mình trong

căn hộ nhỏ, và sau

khi suy nghĩ, nàng đãquay trở về tổ ấm

gia đình. Còn bị va

chạm vì đã bị bỏrơi, chồng nàng đòi hỏi

nàng phải chính thức thề

hứa trung thành. Ông coi

đó là điều kiện tất

yếu cho sự tha thứ

của ông và sự trở

về tổ ấm gia đình

có thể xảy ra của

vợ ông. Vợ ông phản

đối điều đó. Họ đang

trong tình trạng ấy khi

đến gặp tôi. Sau vài

lần gặp gỡ, tôi đã

thành công làm cho người

chồng hiểu rằng ông không

thể đặt điều kiện cho

sự tha thứ của ông

: sự tha thứ phải

là trọn vẹn và vô

điều kiện. Tuy nhiên, một

khi ông đã tha thứ,ông có thể thương thảo

các điều kiện cho cuộc

trở về của vợ ông

ở trong gia đình. Ông

cũng đã lẫn lộn tha

thứ với hòa giải.

Sự lẫn lộn nầy được

tìm thấy không những nơi

những con người bình thường,

mà ngay cả nơi các

chuyên gia về tha thứ.

Một số thầy dạy tu

đức và thần học gia

đã làm những khẳng định

như thế nầy : "Mục

đích tối hậu của thathứ, chính là sự hòa

giải ; tha thứ và

hòa giải là hai thựctại không thể tách rời

nhau ; tha thứ sẽ

không đầy đủ nếu không

có hòa giải". Có thể

nói rằng đối với nhiều

người trong họ, tha thứ

tương đương với việc quên

đi tất cả, với việc

làm như chẳng có gì

xảy ra cả và quan

hệ lại như trước khi

xúc phạm. Cách nhìn nầy

coi trọng tư tưởng mathuật hơn là khoa tâm

lý lành mạnh của con

người. Nếu hòa giải phải

là qui phạm cho tính

đích thực của sự thathứ thì chúng ta hiểu

tại sao biết bao nhiêu

người từ chối tha thứ.

Họ có cảm tưởng như

cứ giả vờ tha thứ,

và cuối cùng, tự phản

bội chính mình.

Rõ ràng phần tiếp theo

thông thường và đáng ao

ước của tha thứ là

hòa giải. Sự hòa giải

đó tốt hơn nữa đốivới những người liên kết

với nhau bằng những liên

hệ rất chặt chẻ. Đó

là trường hợp của các

đôi vợ chồng, cha mẹ,

con cái, bạn thân, người

láng giềng và đồng nghiệp.Nhưng, cả khi sự hòa

giải có thể có được

thì cũng không được tưởng

tượng rằng nó bao hàm

việc tìm gặp lại mình

như trước khi chưa có

lỗi lầm. Sau một sự

xúc phạm nặng nề, chúng

ta không thể lấy lại

quan hệ đã qua được

nữa, vì lý do đơn

giản rằng nó không còn

nữa và cũng không thể

tồn tại nữa. Hơn nữa,

chúng ta có thể nghĩ

tới hoặc đào sâu quan

hệ đó, hoặc cho nó

một hình thức khác.

2. Tha thứ và chấm

dứt một quan hệ :

Còn có một hoàn cảnh

mà sự hòa giải với

kẻ xúc phạm tỏ ra

không thể có được. Chúng

ta lấy chẳng hạn trườnghợp có vấn đề với

một người xúc phạm vô

danh, đã chết hay không

tìm thấy ; hoặc với

một kẻ xúc phạm khôngchịu hối cải hoặc một

người có lỗi đã thành

cố tật và vô trách

nhiệm. Có phải vì vậy

mà kết luận rằng sự

tha thứ là không thể

được không ? Chẳng hề

như thế. Sự tha thứtrước hết là một trạng

thái của con tim. Do

đó, không những nó có

thể được trao ban, mà

còn nhất thiết phải tha

thứ để lấy lại sự

bình an và tự do

nội tâm, dù kẻ xúcphạm có sẵn sàng hay

không, tới gần được hay

không.

Trong những hoàn cảnh mà

người tha thứ không thể

bộc lộ trực tiếp sự

tha thứ của mình, thì

y vẫn luôn luôn còncó khả năng làm việc

đó bằng một cử chỉ

biểu tượng như viết một

lá thư mà sẽ không

gởi đi, tập hợp quanh

mình một vật tượng trưng

cho sự tha thứ của

mình, hoặc đặt một cử

chỉ hòa giải vào chỗ

của một người hay của

một nhóm người đóng vai

kẻ xúc phạm. Đó là

cái đã xảy ra trong

một giáo xứ mà người

chăn chiên đã phạm nhữnghành vi lạm dụng tình

dục. Bản quyền sở tại

đã cử một vị giảng

thuyết đến giúp cộng đoàn

tự chữa lành. Trong mộtcuộc cử hành sám hối,

vị nầy xin các giáo

dân nhìn thấy nơi ngài

vị mục tử lầm lỗi

của họ và đến bắt

tay ngài tỏ dấu sự

tha thứ mà họ trao

ban cho vị mục tử

cũ của họ. Tiến trình

nầy tự nó rất thích

hợp cho mọi hoàn cảnh.

Rủi thay, đó là một

cử chỉ non yểu, vì

vị giảng thuyết đã không

để đủ thời gian cho

các giáo dân trong giáo

xứ bắt đầu việc chữa

lành vết thương của họ

trước đã, rồi từ đólàm cho họ tiến bước

trên con đường tha thứ.

Cũng có những hoàn cảnh

mà các nổ lực hòa

giải, dù đại độ đến

đâu, sẽ tỏ ra bất

cẩn và ngay cả nguy

hiểm nữa. Hãy nghĩ đến

trường hợp có vấn đề

với những người bạo lực,

với những người mắc bệnh

tâm thần kinh niên hoặcvới những kẻ gian lận

chẳng chút ngại ngùng. Tôi

không tin rằng, nhân danh

một sự tha thứ toàn

bộ bao gồm cả hòa

giải, chúng ta phải thúc

đẩy tính anh hùng đi

đến chỗ sẵn sàng nhận

chịu thêm nữa những hành

động tàn bạo sao ?

Sự tha thứ hiểu đúng

không đòi hỏi đến thế

đâu. Trong những hoàn cảnh

nầy, các người nầy có

thể vì cẩn trọng mà

rút lui, sau khi tha

thứ tất cả cho kẻ

xúc phạm mình.

Dù cả khi sự tha

thứ không luôn đạt tới

hòa giải thì cũng không

kém lợi ích cho người

tha thứ và việc đó

được biểu lộ bằng nhiều

cách. Người bị xúc phạm

trước hết hòa giải với

chính mình ; tiếp đến

không còn cảm thấy bịsự oán giận và tinh

thần trả thù chế ngự

mình nữa ; sẽ thành

công trong việc không còn

xét đoán, nhưng hiểu cho

kẻ xúc phạm mình ;

có thể tự trong thâm

tâm, cầu mong cho nó

được hạnh phúc lớn nhất

có thể được ; sẽkhám phá ra được khía

cạnh tích cực của hoàn

cảnh khó khăn ; dĩ

nhiên có thể hy vọng

sự ân cần đối với

kẻ xúc phạm sẽ làm

biến đổi được tâm hồn

y.

Đó không phải là tất

cả, vì một xúc phạm

đến từ một người rất

thân yêu thường cung cấp

cơ hội để tự mở

mắt ra trước sự lệ

thuộc bệnh hoạn mà chúng

ta có thể duy trì

đối với y. Sự rạn

nứt trong mối quan hệ,

dù có nặng nề mấy,

cống hiến cho người bị

xúc phạm cơ hội xem

xét lại tình trạng lệ

thuộc và trở nên độc

lập hơn. Sự tha thứcung cấp một cơ hội

lý tưởng để làm lại

di sản của mình theo

sau sự mất mát người

thân. Việc làm lại di

sản hệ tại việc phục

hồi tất cả những sự

lý tưởng hóa đã đượcphóng chiếu lên người được

yêu mến. Nói cách khác,

nó giúp lấy lại tất

cả tình yêu, nghị lực,

lý tưởng... nói tắt làtất cả sự đầu tư

tâm lý và thiêng liêng

mà chúng ta đã đặt

để nơi người được yêu

mến.

3. Sự tăng trưởng của

kẻ xúc phạm trong hòa

giải :

Bây giờ chúng ta hãy

khảo sát những thay đổi

được thực hiện trong tương

quan kẻ xúc phạm -

người bị xúc phạm. Trước

hết, chúng ta hãy ghi

nhận rằng trách nhiệm vềnhững thay đổi không chỉ

do kẻ xúc phạm như

một số tác giả muốn

(Smedes), nhưng cũng do người

bị xúc phạm nữa, vì

người bị xúc phạm phải

tập không còn đặt mìnhvào hoàn cảnh có thể

lại trở thành nạn nhân

nữa. Để xây dựng mối

quan hệ mới, cả kẻ

xúc phạm lẫn người bị

xúc phạm đều phải cảm

nhận có liên quan.

Trước hết kẻ xúc phạm

phải nhận ra phần trách

nhiệm của mình trong lỗi

lầm ấy ; phải tỏ

ra sẵn sàng lắng nghengười bị xúc phạm cho

đến cùng và phải đặt

mình trong da thịt của

người bị xúc phạm hầu

đo lường được hơn trương

độ và cường độ vết

thương của y. Ngay cả

khi không thể loại bỏ

được đau khổ cho người

bị xúc phạm, ít ra

kẻ xúc phạm cũng hiểu

thấu được nó. Còn về

những thiệt hại và bất

công mình đã phạm đụng

tới các của cải vật

chất, những vết nhơ cho

thanh danh, những sự thiếungay thẳng hoặc tất cả

những lãnh vực khác, kẻ

xúc phạm phải sửa chữa

lại theo đức công bằng,

trong mức độ có thể

được.

Kẻ xúc phạm cống hiến

bảo đảm ngay thẳng nào

trong tương lai ? Sự

hối hận, lời dóc lòng,

những lời hứa hẹn có

đủ không ? Những ý

hướng tốt không bao giờ

thay thế được các hành

động thay đổi cụ thể

được. Vậy kẻ xúc phạm

tự hỏi xem mình đã

học được gì từ các

việc đó về chính mình

và về cách thức nối

kết các mối liên hệ

thân thiết với người khác.

Đó là những thay đổi

thực sự được nhận thấy

trong cách ứng xử của

kẻ xúc phạm tạo nênnhững bảo đảm tốt hơn

cho hòa giải thành công.

Y cũng phải tự đặt

ra cho mình những vấn

nạn sau đây: "Tôi đãđi đến chỗ phạm phải

một xúc phạm như thế

cách nào ? Đâu là

động lực sâu xa của

tôi ? Đâu là những

tiền sự có tính cách

gia đình hoặc văn hóa

đã thúc đẩy tôi có

một hành động gây xúc

phạm như thế ? Những

ứng xử nào tôi phải

học để thay đổi trong

tương lai ? Sự giúp

đỡ nào tôi phải cho

mình để đạt được mục

đích nầy ?"

Trường hợp sau đây của

một người chồng bất trung

minh họa rõ ràng cái

mà tôi cho là những

dấu hiệu tăng trưởng của

một kẻ xúc phạm hối

cải. Một hôm, người chồng

báo cho vợ mình hay

ông đã có một nhân

tình trẻ. Để giảm nhẹ

cú sốc do cái tin

ấy, ông vội vàng bảo

đảm rằng ông không muốn

thay đổi gì cuộc sống

hôn nhân đã hai mươilăm năm qua và ông

hứa với bà là bà

vẫn luôn là mối tìnhưu tiên của ông. Vợ

ông bộc lộ cho ông

nỗi đau và sự thất

vọng sâu xa của bà,

rồi bà báo cho ông

là không có vấn đề

ông sống ở gia đình

trong thời gian cuộc "sốngđộc thân" mới của ông.

Ít tháng chung sống với

người tình đủ thuyết phục

người đàn ông rằng ông

không thể thích hợp với

tính tình của người bạn

đời trẻ của ông. Nhớ

lại tất cả những lợi

ích mà cuộc sống gia

đình trước đây đã mang

lại cho ông, ông muốn

quay trở về. Nhưng vợ

ông không chấp thuận như

thế. Bà từ chối sống

chung lại với ông, bao

lâu ông không thực hiện

trên ông một công trình

tâm lý. Bà mong muốn

cách đặc biệt rằng ông

ý thức được cái gì

đã tác động sự ra

đi của ông. Đó là

điều ông đã làm với

sự giúp đỡ của một

nhà trị liệu tài giỏi.

Ông nhận thấy rằng trongnhững năm dài sống đời

hôn nhân, ông đã chồng

chất mất mát trên mất

mát và đã dồn nén

nhiều tức giận đối với

vợ ông. Rõ ràng là

ông đã sử dụng sự

điên rồ tình yêu để

trừng phạt bà. Đẩy xa

hơn suy nghĩ của mình,

ông khám phá được rằng

ông muốn cặp kè với

một người đàn bà trẻ,

chính là để quên đi

nỗi sợ già và sợ

chết. Theo sau những sự

ý thức như vậy, ông

quyết định thay đổi thái

độ cần phải có. Chỉ

chính lúc đó ông bắt

đầu cảm thấy sẵn sàng

lấy lại cuộc chung sống

với vợ mình.

4. Sự tăng trưởng của

người bị xúc phạm trong

hòa giải :

Một người bị xúc phạm

thường than : "Tại sao

tôi lại bị đặt vào

một tình cảm rắc rối

như thế nầy ? Vấn

nạn hoàn toàn thích đáng.

Nó có lý nhắc lại

rằng người có lỗi khôngmột mình chịu trách nhiệm

về biến cố đau khổ

đó. Người bị xúc phạm

cũng phải tìm làm rõ

sự thật về mình và

phải lợi dụng cái kinh

nghiệm không may của mình

hầu xem xét lại một

số thái độ và cách

thức đi vào các tương

quan thân mật của mình.

Ở giai đoạn tám, tôi

đã mời đọc giả rút

tỉa những bài học hữu

ích từ cuộc phiêu lưu

khó nhọc của mình. Không

bao giờ được quên đi

rằng vết thương bị xúc

phạm - đã làm xáo

trộn các thói quen và

làm lung lay các sự

an ổn chắc chắn của

mình - là lúc rất

thuận lợi cho những đổi

thay.

Bây giờ tôi đề nghị

bạn trả lời một loạt

câu hỏi để làm rõnhững gì bạn đã thủ

đắc được và để kiểm

kê những gì còn lại

bạn phải học trong lãnh

vực các quan hệ nhân

bản :

Tôi đã học được gì

về chính tôi ?

Tôi có trở nên người

bạn tốt hơn của tôi

không ?

Tôi có học được nói

năng dịu dàng không ?

Tôi có thay thế những

cái "cần phải", "tôi phải"...

bằng những cái "tôi chọn"...

không ?

Tôi có khả năng từ

chối đáp ứng yêu cầu

của người khác, nhất là

những ai tôi yêu quí,

cách nào mà vẫn tôntrọng những giới hạn cá

nhân của tôi không ?

Tôi có học được diễn

tả cách tự phát hơn

những gì tôi thấy không

?

Khi muốn can thiệp với

một người để chỉ cho

y biết cái gì trong

ứng xử của y làm

tôi phẩn nộ hoặc làm

tổn thương tôi, hỏi tôi

có khả năng cởi mở

với y về cái tôi

đã cảm nhận với những

câu bắt đầu bằng "tôi"

(chẳng hạn "tôi cảm thấy

bực tức khi anh đến

trễ"), thay vì cáo buộc

y với một sứ điệp

bắt đầu bằng "anh" (chẳng

hạn "anh chẳng coi tôi

ra gì khi đến trễ

như thế").

Tôi làm gì để chống

lại những lôi cuốn của

tôi đối với những người

có vấn đề trong các

ứng xử (chẳng hạn những

người say rượu, những người

hay nói, những phụ nữ

phụ thuộc, v.v....) ?

Tôi có khả năng nhận

thấy những chờ đợi và

yêu cầu không thiết thực

đối với những người khác

không ?

Trong tiến trình tha thứ

của tôi, tôi đã thành

công tới đâu để gia

tăng sự quí trọng chính

mình ?

Trong khi thay đổi hình

ảnh vị thiên chúa công

chính của mình, tôi đã

tiến lại gần Thiên Chúa

/ Bạn tri âm đến

mức độ nào ?

Chắc chắn đó là một

chương trình yêu sách. Bạn

không phải thực hiện nó

ngay một lúc. Khi thành

công trong việc chế ngự

được một hay hai ứng

xử mới nầy, bạn có

lý để hãnh diện về

bạn, bởi vì một thay

đổi nhỏ trong lãnh vựccác mối quan hệ nhân

bản sẽ kéo theo nơi

bạn những thay đổi ý

nghĩa khác.

5. Thay đổi quan hệ

theo sau một cuộc chia

ly :

Có những hoàn cảnh không

thể bỏ rơi mối quan

hệ, cũng chẳng thể đào

sâu được. Lúc ấy phải

nghĩ đến việc tái lập

những liên hệ mới. Tôi

có trong đầu hai trường

hợp đặc biệt. Trường hợp

của những người chia ly,

vì lợi ích cho con

cái, vẫn duy trì những

quan hệ cha mẹ và

trường hợp các cha mẹ

tự hỏi những ứng xử

mới nào họ phải cóđối với những đứa con

lớn của họ đã lìa

tổ ấm gia đình. Họ

ý thức về thách đố

phải giữ những khoảng cách,

tuy nhiên không bẻ gãy

các liên hệ thân mật

của mình.

Trước hết, chúng ta hãy

khảo sát trường hợp các

vợ chồng ly thân hoặc

ly dị. Thật khó mà

phân chia với nhau những

tập quán cũ của đời

sống vợ chồng và biến

đổi các mối liên hệ

đôi - vợ chồng thành

đôi - cha mẹ. Jeanne

thú nhận với tôi sự

khó khăn lớn lao nàng

cảm nhận về đề tàinầy. Nàng cảm thấy bị

lôi kéo giằng co bởi

cả một lô tình cảm

mâu thuẫn nhau đối với

người chồng cũ : oán

giận và có lỗi vì

đã ra đi, ghen tuông

đối với người bạn đời

mới của chàng, nhu cầu

rất mạnh muốn bảo vệ

chàng và chăm chút chàng

nữa. Giữa những tình cảm

hổn độn đó, nàng cũng

phải duy trì với chàng

một quan hệ của cha

mẹ chăm lo cho cuộc

sống của con cái. Bấy

giớ nàng phải an táng

cái lý tưởng của nàng

về lứa đôi để duy

trì với người chồng cũ

phận vụ là cha mẹ.

Nàng nhận thấy rằng nàngsẽ không bao giờ thành

công trong kỳ công nầy,

nếu trước đó nàng không

thành công trong việc tha

thứ cho chàng.

Thứ hai, các cha mẹ

cảm thấy cô đơn theo

sau sự ra đi của

những đứa con lớn cũng

phải đương đầu với cùngmột thách đố tương tự,

dù có khác. Họ đã

trải qua sự ra đi

nầy cách khó nhọc và

nơi cái "tổ trống" nầy

họ phải làm lại đời

sống làm đôi sau nhiều

năm dài "làm cha mẹ".

Hai vợ chồng quyết định

bảo vệ bằng mọi giá

sự thân mật mới mẻ

của họ chống lại sự

xâm lăng định kỳ của

con cái họ. Các con

lại không tự hạn chế

cùng bạn bè chạy đếnnhà cha mẹ mọi lúc,

vơ vét hết tủ lạnh,

chiếm cứ TV  hoặc bể

tắm. Trước một sự xâm

lược như thế, các chamẹ xét là cần thiết

phải xác định biên giới

của họ. Họ cũng nhắc

nhở cho các con họ

rằng chúng đã hoàn toànmuốn rời bỏ nhà nên

từ nay phải xử sự

như những người được mời.

Chúng ta đoán được sự

can đảm của những cha

mẹ nầy phải cắt dây

rốn một lần nữa để

thiết lập một kiểu quan

hệ mới với các con

trưởng thành của mình.

Để kết luận, tôi xin

phép nhấn mạnh cái mà

chúng ta đã lo âu

là liệu sự tha thứ

có tự mình thanh toán

những khó khăn trong quan

hệ không, bởi vì nó

không có được cái hậu

quả ảo thuật mà người

ta thường gán cho nó.

Hơn nữa, ngay cả khi

đã được trao ban, sự

tha thứ không bảo đảm

được là kẻ xúc phạm

không tái phạm nữa. Dùthế nào đi nữa, vấn

nạn quan trọng phải được

đặt ra là như sau

: "Sự tha thứ có

sản sinh ra hết mọi

hiệu quả tốt lành của

nó trong tôi không ?"

Nói cách khác : "Tôi

có được biến đổi bởi

kinh nghiệm của xúc phạm

và tha thứ không ?"

Một vấn nạn khác không

kém phần quan trọng :"Kẻ xúc phạm đến tôi

đã học được gì trong

cái việc bất hạnh nầy

?" Nếu bạn muốn trả

lời khẳng định cho hai

vấn nạn nầy thì bạn

có thể vui mừng về

lối ra hạnh phúc chocuộc phiêu lưu tha thứ

của bạn.

6. Nghi thức chuyển thừa

kế :

Nghi thức chuyển thừa kế

là một phương thế tuyệt

hảo để lớn lên theo

sau một cuộc chia ly.

Nó hữu hiệu nhất trong

trường hợp bạn đã lý

tưởng hóa con người bạn

yêu thương bằng một tình

yêu say đắm. Chính là

bạn đã phóng chiếu thành

tích cực nơi người đó

tất cả những gì còn

ở năng thể và vô

thức nơi bạn. Đó là

một trong những hậu quả

của tình yêu đam mê.

Nó làm cho bạn rakhỏi mình bạn để sống

trong người kia. Sau khi

bạn tha thứ, nếu bạn

xét là cần thiết phải

chấm dứt quan hệ thìmọi sự sẽ không mất

đi. Bạn còn có khả

thể đòi lại đồ vậtcủa những sự lý tưởng

hóa của bạn và bạn

sử dụng chúng để tiến

bộ. Như vậy, bạn chấm

dứt quan hệ mà không

cảm thấy mình bị nghèo

đi hoặc bị lừa gạt.

Đó là mục đích nhắm

tới của nghi thức chuyển

thừa kế mà tôi sẽ

mô tả cho bạn diễn

tiến.

Cũng như mọi nghi thức,

nghi thức chuyển thừa kế

sẽ hiệu quả hơn khi

có sự hiện diện của

một người hướng dẫn, một

người chủ sự và những

nhân chứng thiện cảm sẵn

sàng nâng đỡ bạn trong

tiến trình của bạn.

Ít nhất hai tuần trước

nghi lễ, người hướng dẫn

giúp bạn nhớ lại những

đức tính nơi người bạn

yêu thương đã lôi cuốn

bạn. Khoảng chừng bốn đến

sáu đức tính là đủ

rồi. Rồi bạn tìm các

đồ vật có thể tượng

trưng cho chính các đức

tính ấy.

Quan trọng là chính cuộc

lễ được diễn ra trong

một bài trí khêu gợi

được mọi giác quan :

hương, đèn, hoa, thảm màu

trải bàn, v.v...

Chính ngày lễ, người chủ

sự và người thừa kế

ngồi trước cái bàn đặt

các đồ vật tượng trưng

cho các đức tính. Các

nhân chứng ngồi vòng cung

trước bàn.

Sau khi giải thích ý

nghĩa của buổi lễ, người

chủ sự mời người thừa

kế giới thiệu người được

yêu mến nhờ các đồvật biểu tượng đại diện

cho các đức tính của

người đó. Sau khi chấm

dứt việc giới thiệu, người

thừa kế đến ngồi cạnh

chủ sự. Mọi người tham

dự thinh lặng suy niệmtrong chốc lát.

Bấy giờ người hướng dẫn

mời người thừa kế đi

tìm đồ vật biểu tượng

cho đức tính đầu tiên.

Người hướng dẫn cho người

thừa kế lặp lại công

thức đòi lại của mình

sau đây : "... (tên

người được yêu mến), vì

bây giờ chúng ta đã

chia tay, tôi lấy lại

... (đức tính vừa chọn,

chẳng hạn tính hài hước)

mà tôi đã cho bạn

mượn cách đây ... (thờigian quan hệ) năm và

bạn đã làm phong phú

cho ... (đức tính vừa

chọn, chẳng hạn tính hài

hước) của bạn".

Người thừa kế trở về

chỗ của mình, giữ đồ

vật biểu tượng trên ngực.

Người chủ sự giúp người

thừa kế tháp nhập đức

tính mới vào con người

mình bằng cách nói vớiy : "Bạn hãy cảm

nhận trong mình sự có

mặt của đức tính mới

nầy, bạn lắng nghe nói

nói trong mình, bạn nhìnthấy nó ở bên trong

bạn".

Người hướng dẫn tiếp tục

khích lệ người thừa kế

lấy làm của mình cái

đức tính mà y đã

dự phóng trên người đượcyêu mến. Để công việc

tháp nhập được hoàn tất

trong vài phút, rồi người

hướng dẫn lại mời người

thừa kế đi tìm đồ

vật tiếp theo tượng trưng

cho một đức tính khác,

và hoàn thành một tiến

trình y hệt như trên.

Cứ làm tiếp theo như

thế với mỗi một đức

tính khác.

Cuối cùng, người thừa kế

đứng ở giữa mọi người,

chung quanh  là các vật

biểu tượng. Người chủ sự

nghi thức tuyên bố việc

an táng đã chấm dứt,

các tham dự viên chúc

mừng người thừa kế và

kết thức cuộc cử hành

bằng một cuộc lễ thân

hữu.

Đó là sơ đồ nghi

thức chuyển thừa kế. Không

có chi ngăn cản bạn

thêm vào những yếu tố

khác có thể tăng thêm cường độ và vẻ đẹp

của nghi thức.

Cử Hành Sự Tha Thứ

"Cái gì không được cử

hành có khuynh hướng bị

giảm sút và tàn lụn

mà không để lại dấu

vết gì."

(Vô danh)

Như người leo núi lên

tới đỉnh núi lấy lại

hơi thở và ngắm nhìn

đoạn đường đã trèo lên,

bạn cũng được mời gọi

dừng lại ở chóp thang

của bạn và phóng mắt

nhìn lại con đường đã

đi qua.

Ngay từ lúc khởi hành,

bạn đã muốn tránh con

đường không lối thoát của

nỗi oán giận và lòng

muốn trả thù. Mặt khác,

bạn không muốn để kẻ

xúc phạm quấy rầy bạn

hơn nữa, bạn đã làm

tất cả những gì bạn

có thể để nó thôi

đi mọi bất công hoặc

hành vi gây xúc phạm

đối với bạn.

Bạn không sợ dấn sâu

vào chính bạn và đụng

chạm ở đó sự xấu

hổ sâu xa mà các

thương tổn của thời thơ

ấu và của tuổi trưởng

thành gợi lên. Đó là

cái cho phép bạn khơi

mào việc chữa lành của

bạn.

Bạn đã giữ mình khỏi

đóng kín trong một sự

cô độc vô ích. Bạn

đã chia sẻ gánh nặng

đau khổ của bạn với

một người biết mở rộng

tai lắng nghe bạn. Bạn

cũng đã thấy rõ hơn

nội tâm của bạn.

Bạn đã thành công trong

việc hạn chế phạm vi

sự mất mát của bạn

đến độ bạn có thể

gọi tên và an táng

nó.

Bạn đã đón gặp nỗi

tức giận và lòng muốn

báo thù của bạn để

tiếp nhận chúng. Bạn đã

nhận thấy trong chúng những

sức mạnh tích cực sẵn

sàng cứu vãn sự toàn

vẹn cá nhân bạn đang

bị đe dọa.

Bạn đã dần dần tập

phát triển lòng tôn trọng

bạn để bạn sẵn sàng

tha thứ cho chính mình.

Bạn đã tìm để hiểu

kẻ xúc phạm bạn. Bạn

đã thôi không thấy nó

với cái nhìn xấu, để

nhìn nó với đôi mắt

mới mẻ.

Bạn đã tự hỏi về

ý nghĩa tích cực mà

bạn sẽ trao ban cho

vết thương của sự xúc

phạm.

Bạn đã để con tim

bạn mềm lòng bởi tình

yêu mà người khác biểu

lộ bằng những sự tha

thứ của họ, và bạn

đã để mình được nuôi

dưỡng bởi tình cảm duy

nhất và không so sánh

được nầy là bạn cảm

thấy bạn xứng đáng được

tha thứ và bạn đã

được đặc xá.

Bạn đã học giải thoát

bạn khỏi ngay cả hành

động tha thứ của bạn.

Bạn đã chối bỏ ước

muốn tin rằng bạn là

người duy nhất có trách

nhiệm trong sự tha thứ,

và như vậy bạn đã

tránh được việc tìm ở

đó sự vinh danh cho

bạn.

Bạn đã đặt lại vấn

đề về hình ảnh của

một vị thiên chúa công

chính để bạn trở lại

với Thiên Chúa dịu dàng

và thương xót, suối nguồn

linh hứng và sức mạnh

cần thiết để tha thứ

khi đến lượt bạn.

Cuối cùng, bạn đã quyết

định xem xét các tương

quan tương lai của bạn

với kẻ xúc phạm. Hoặc

bạn đã dự tính để

cho nó ra đi và

cầu chúc cho nó được

hạnh phúc lớn nhất có

thể có được, hoặc bạn

đã ký kết một giao

ước mới với nó.

Sau khi đã duyệt xét

lại cuộc du lịch tha

thứ của bạn như thế,

bạn có lý do để

bạn rất hảnh diện về

bạn.

Bạn có thể chúc tụng

bạn !

Bạn có thể mừng lễ

bạn !

Bạn sẽ lớn lên trong

tình người và trong sự

thánh thiện !

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: