1001 thu2

Sự nguy hiểm khi khai mở trung tâm lực Kundalini

Posted by dobatnhi ⋅ Tháng Mười Hai 27, 2010 ⋅ Để lại phản hồi

Filed Under  Hỏa xà, kundalini, Kundalini Yoga, Lửa tam muội, Sự nguy hiểm của hỏa xà, Sự nguy hiểm của Kundalini

Sự nguy hiểm của Hỏa xà

ĐBN: Từ trước đến nay, lời đồn đại “sự nguy hiểm khi khai mở Hỏa xà (kundalini)” tồn tại trong giới thiền hoặc yoga như một rào cản làm nản lòng những người muốn vứt bỏ Phàm Ngã, một lòng đi tìm đạo. Quả nhiên, sự nguy hiểm đó là có thật, và cũng được các bậc Đạo sư danh tiếng cảnh báo. Nguy hiểm thứ nhất là nghiệp quả chưa dứt. Nguy hiểm thứ hai là chưa biết kiềm chế tính nóng giận của mình.

Vì vậy ta phải nhấn mạnh rất nhiều tới những nguy hiểm của việc khơi hoạt Kundalini. Ta hãy khảo sát bản chất của chúng. Trước hết và trên hết ta có nguy cơ kích thích tình dục sao cho cá nhân bị kiệt quệ hết sinh lực do bị tình dục ám ảnh. Sự loạn trí cũng nằm theo đường lối này. Sinh lực tình dục và hoạt động tình dục có liên quan mật thiết tới Kundalini, vì cả hai đều có tính cách vô cùng sáng tạo về bản chất và sự phát triến của thứ này ắt kích động sự phát triển của thứ kia. Mọi thôi thúc tình dục phải bị hoàn toàn kiểm soát, tùy ý của cá thể và phải ở tình trạng của điều mà ta có thể gọi là sự siêu hóa, nghĩa là nó phải được nhận ra là một phép bí tích và do đó được dùng một cách kính cẩn theo tinh thần tận hiến. Sự phân biệt về giới tính với đủ mọi hàm ý của nó là một trong những tặng phẩm đầu tiên mà Thượng Đế ban cho các con của mình; nó thường bị lạm dụng và sử dụng một cách thô bạo, nhưng cuối cùng ta phải học cách tiếp cận với nó giống như người tu sĩ chân chính tiếp cận với bàn thờ. Chỉ những kẻ nào đã tiếp cận được như thế với thiên tính của tình dục thì mới có thể được an toàn giao phó cho mình cái tặng phẩm sau này là Kundalini mà y có thể vận dụng một cách an toàn và có ích qua việc đã được thử thách và tỏ ra đáng tin cậy.

Hai là có nguy cơ làm xáo trộn sự thăng bằng nhịp nhàng của thể xác do kích thích không kiểm soát được đủ thứ trung tâm lực của cơ thể – có thể là làm hại cho quả tim, cho thần kinh hệ thông qua nhật tùng, cá nhân trở thành một kẻ tàn tật mãn tính và nói chung là bộ óc xác phàm bị suy thoái, tạo ra một sự căng thẳng rốt cuộc là loạn trí. Ta có thể tránh được nguy cơ này miễn là cá thể phải hoàn toàn khỏe mạnh, đã được một mức độ tự chủ cao, suy nghĩ một cách tịch lặng và minh bạch chứ không bao giờ hẹp hòi, và không nô lệ cho bất kỳ sự thôi thúc tình dục nào, thật ra có rất ít khuynh hướng tình dục nếu không phải là tuyệt nhiên không có. Ta nên nhớ rằng cho dù việc khơi hoạt Kundalini có thể giúp y rất nhiều thì sự phát triển của nó vẫn phần lớn là tùy thuộc vào y. Y phải theo dõi đủ thứ hiện tượng và điều tiết chúng. Bằng cách nào? Y sẽ biết cách nếu y đã sẵn sàng khơi hoạt nó. Ở đây ta không cần đưa ra thêm chỉ dẫn nữa, vì dấu hiệu của một cá nhân đã sẵn sàng khơi hoạt Kundalini cốt ở nơi tri thức trực giác về điều mà ta phải làm và nơi sự trợ giúp của đấng Minh triết.

Ta không bao giờ được quên rằng thể xác vốn thô trược hơn và do đó khó thích ứng hơn mọi thể khác, và điều này có khuynh hướng gây ra sự tập trung thần lực ở một vùng đặc bịêt chứ không phân bố tổng quát trên toàn bộ cơ thể. Nếu ta xét tới chẳng hạn như thể vía và thể trí thì ta nhận thấy rằng theo một ý nghĩa nào đó mỗi thể này là một cơ quan lớn duy nhất. Trong trường hợp các thể thuộc nội giới thì các chức năng (mà trong một chừng mực nào đó vốn liên kết với những bộ phận đặc thù của thể xác) có tính cách phổ quát hơn. Có lẽ trong một chừng mực nào đó ta vẫn còn có thể nói tới sự định xứ nơi các thể nội giới, nhưng ít nhiều gì thì trọn cả thể vía đều cảm xúc, đều nhận ấn tượng, đều giao tiếp. Điều này cũng đúng với thể trí. Trọn cả thể trí đều suy nghĩ.

Thế mà đối với thể xác trong khi xúc cảm được phân phối ở khắp nơi, trong khi các trung tâm lực đặc biệt chịu ảnh hưởng của những xúc cảm và cảm giác thuộc loại không thông dụng thì bộ óc lại đóng vai trò kênh giao tiếp chính yếu giữa thể xác và thể vía. Ta hãy làm tê cóng bộ óc, tê cóng những dây thần kinh giao tiếp với bộ óc thì xúc cảm sẽ biến mất đối với tâm thức đang tỉnh táo, mặc dù những hậu quả của nó vẫn còn rơi rớt, bằng chứng là cú sốc sau một vụ mổ mà do ảnh hưởng của thuốc mê nên con người tạm thời không bị đau.

Cũng giống như vậy, bộ óc là kênh giao tiếp chính yếu giữa thể xác và thể trí. Tôi cảm thấy chắc chắn rằng thể trí gây ấn tượng theo một mức độ nào đó lên mọi bộ phận của thể xác sao cho mọi bộ phận đều “suy nghĩ” đến một mức độ nào đó cũng giống như mọi bộ phận đều cảm xúc. Nhưng bộ óc là trung tâm chính yếu, là cầu nối vĩ đại đối với ngoại giới. Vì vậy ta có thể hình dung các thể nội giới gây áp lực trên khắp thể xác nhưng áp lực lớn nhất là ở cầu nối bộ óc. Bộ óc đứng mũi chịu sào tương đối dễ dàng trong những trường hợp bình thường và đối với những cá nhân bình thường, vì thật ra chỉ có rất ít những kênh dẫn nhỏ được phép mở ra giữa các thể khác nhau.

Nhưng Kundalini tất nhiên sẽ lưu chuyển độc lập với những kênh dẫn thông thường để làm linh hoạt những trung tâm lực nhạy cảm nhất và tiếp nhận năng lượng nhiều nhất. Vì thế cho nên sự tập trung vốn sẵn có sẽ được tăng cường rất nhiều, thường thường là khi cơ quan hữu quan đã quá tải rồi. Một cá nhân mà vì lý do nào đó Kundalini có khuynh hướng kích động y thì chắc chắn là đang sống ở mức độ thực ra là chịu nhiều áp lực. Y rất có thể là vô cùng linh hoạt. Y rất có thể là tập trung sâu sắc thần lực nơi đủ thứ cơ quan của mình, những sự tập trung này thay đổi tùy theo việc y sử dụng cơ quan này hơn là cơ quan khác. Kundalini rất có thể là “giọt nước làm tràn đầy ly nước” nhấn chìm cá thể không may đó vào trong bóng tối tàn ác nếu y không phải là lực sĩ tâm linh đã được rèn luyện để chịu đựng sự căng thẳng đó.

Chắc chắn là ở giai đoạn tiến hóa này phải xuất hiện những kênh dẫn giao tiếp giữa các nội giới và cá thể chủ yếu là sống nơi ngoại giới. Nhưng những kênh dẫn đó rất có thể là không đủ độ sâu, và nếu thình lình thần lực tràn vào như xoáy ốc qua một trong những kênh dẫn đó, hoặc trực tiếp nhập vào một cơ quan của thể xác thì chúng có thể bị “vỡ ra” và gây nên thảm họa.

Khi các thể xác, vía và trí bắt đầu tan hòa vào các đối thể cao siêu chẳng hạn như trong trường hợp những người đang kết liễu kiếp người xét về mặt bị giam hảm trong các hạ thể, thì Kundalini tự nhiên là lưu chuyển mà không gặp sự cản trở tối thiểu nào. Bắt đầu chỉ còn có một Lửa duy nhất, một Sự Sống duy nhất. Ở những giai đoạn sớm hơn thì việc cực kỳ thận trọng có tầm quan trọng sống còn vì Hỏa xà không hề phân biệt. Nó thiêu rụi hết. Nó có khuynh hướng chảy theo những đường ít bị đề kháng nhất và đôi khi những đường đó có thể dẫn xuống dưới chứ không phải dẫn lên trên với hậu quả tai hại khôn xiết.

Khi sự phát triển diễn ra, khi tâm thức cao siêu dần dần chiếm ưu thế thường trực thì sự xuyên thấu lẫn nhau trở nên nhịp nhàng hơn, trọn cả tác nhân bên dưới đáp ứng một cách tức khắc và phong phú hơn với sự kích thích từ bên trên.

Thế thì việc khơi hoạt Kundalini có tác dụng ra sao? Thực ra thì nó mở banh ra những cánh cửa cống cho đến nay chỉ mở chầm chậm và từ từ. Và trong trường hợp người thường thì nó chỉ mở ở một mức độ rất hạn hẹp. Bắt đầu có sự giao tiếp hoàn toàn giữa mọi thể, mặc dù việc vận dụng và thuyết giải những sự giao tiếp đó tất yếu là vấn đề phải kéo dài trong một thời gian lâu sau khi đã xác lập được sự giao tiếp mở đầu. Các hạ thể bắt đầu phản ánh được càng ngày càng rõ rệt những đặc trưng của các thể cao thuộc thượng trí và hạ Bồ đề. Các trạng thái tâm thức bắt đầu lồng vào nhau sao cho xuất hệin một sự liên tục tâm thức mà con người cho đến lúc đó chưa hề trải nghiệm. Điều này có nghĩa là sự nhạy cảm gia tăng ghê gớm xuyên suốt mọi thể đòi hỏi một mức độ lớn lao của sự tự chủ mà ta thường xuyên nhấn mạnh.

Thỉnh thoảng thì trong trường hợp của nhiều người, Kundalini phải được phát triển ở nơi chốn phồn hoa đô hội (nơi mà nguy hiểm ắt lớn hơn) chứ không phải trong rừng thẳm (nơi mà nguy hiểm chỉ là tối thiểu). Thời gian quá quí báu nên ta không thể biệt lập với thế giới nhất là trong thời buổi hiện nay; và ta phải chấp nhận sự mạo hiểm. Trọn cả thể xác trở thành một khí cụ vô cùng nhạy cảm đã được tẩy trược với mọi quan hệ qua môi trường xung quanh, do đó nó có thể dễ dàng bị xé tan thành mảnh vụn do kết quả tác động của những rung động thô trược và là điều kiện tất yếu để khơi hoạt Kundalini, và đó là sức khỏe của người trưởng thành hơn là của thanh niên.

Nhưng còn hơn thế nữa. Mặc dù trọn cả thể xác đã trở nên nhạy cảm hơn rất nhiều thì bộ óc vẫn phải đứng mũi chịu sào. Áp lực lên óc phàm gia tăng rất nhiều vì bộ óc là cầu nối chính giữa thể xác và các thể nội giới. Liệu bộ óc có thể chịu được áp lực đó chăng? Đây có lẽ là vấn đề chính yếu liên quan tới việc khơi dậy Kundalini. Câu trả lời phần lớn là tùy thuộc vào mức độ mà chất xám của óc phàm đã đủ phát triển, trui rèn và củng cố chưa (nhờ vào sự tự chủ) để chịu sự căng thẳng đó. Có lẽ tình trạng và số lượng của các loa tuyến cũng là một yếu tố quyết định và chúng biểu thị tình trạng của các kênh tiếp xúc và của điều dường như là khả năng vươn rộng ra của chính vật chất thuộc xác phàm. (Tôi cũng chẳng biết nói sao hơn nữa). Nó phải có thể uốn cong mà không bị gãy. Ở đây tôi không dùng từ “uốn cong” theo nghĩa đen, có lẽ từ “thích ứng” ắt là chính xác hơn. Tôi nghĩ rằng áp lực của các thể nội giới có bản chất giống như dòng chảy của một lưu chất, một dòng chảy dường như không gì cưỡng lại nỗi. Liệu bộ óc có thể uốn mình theo dòng chảy đó, bị nó khuất phục và thích ứng với nó chăng? Nếu được như vậy thì tốt thôi, nhưng sự cứng ngắt sẽ gây chết người và khi dùng từ cứng ngắc tôi không phải chỉ ngụ ý có thể nói là cứng ngắc của thể xác mà còn là sự cứng ngắc của thể trí và thể vía. Sự cứng rắn này chuyển dịch thành ra việc dựng nên những rãnh bên trong bộ óc (và quả thật cũng bên trong trái tim nữa) sẽ vỡ ra chứ không chịu mở ra. Đây là một vấn đề rất phức tạp vì cơ bản thì minh triết trong việc khơi hoạt Kundalini tùy thuộc phần lớn (mặc dù không hề toàn bộ) vào tình trạng của thể hạ trí và thể vía. Cũng như tùy thuộc vào mức độ mà thể Thượng trí và thể Bồ đề bắt đầu tiếp xúc và tự khẳng định. Nhưng ta cũng phải xét tới tình trạng của thể xác nữa, mặc dù nó chỉ là phản ánh tình trạng của các thể nội giới. Vậy thì vấn đề là: Liệu các thể nội giới đã được phát triển và kiểm soát đúng mức chưa, và liệu thể xác đã phục hồi chưa sau khi nó đã bị lạm dụng mà tất yếu phải xảy ra trong quá trình dài phát triển? Đó là vì thể xác thay đổi từ kiếp này sang kiếp khác (nói chung thì thể vía và thể hạ trí cũng giống như vậy) song mỗi thể mới đều được uốn nắn để phản ánh và biểu diễn mức độ phát triển mà con người đã đạt được. Quả thật có thể có trường hợp tinh thần đã sẵn sàng nhưng xác thịt lại yếu đuối, có trường hợp Chơn ngã đã sẵn sàng nhưng các hạ thể còn yếu đuối vì lý do thể xác trong tình trạng hiện nay không thể chịu được sự căng thẳng của Kundalini. Trong những trường hợp đó có thể cần phải chờ tới một kiếp khác để cho những hình tướng hiện hữu bị phá vỡ đi thay thế bằng những hình tướng mềm dẻo hơn. Rõ ràng là từ mọi điều nêu trên ta thấy quá trình khơi hoạt Kundalini quả thật là phức tạp biết dường nào, và cá nhân nào tìm cách khơi hoạt nó mà không chịu sự chế tài khôn ngoan, không được dẫn dắt đúng mức, quả là liều lĩnh biết dường nào. Y hầu như chắc chắn sẽ chịu những sự đau khổ khủng khiếp. Vì thế cho nên bộ óc mới là một chỗ rất nguy hiểm, tai họa thường là do kết quả của một bộ óc quá căng thẳng. Nghe nói con đường huyền bí học rải rác nhiều thảm họa. Tôi trộm nghĩ rằng con đường khơi hoạt Kundalini (cho dẫu ở những giai đoạn rất sơ khởi) còn rải rác nhiều thảm họa hơn nữa. Giáo hoàng có nói:

Chỉ học một chút, tôi ắt là một điều nguy hiểm.

Hãy uống cho nhiều bằng không con sẽ không thưởng thức được Suối nước Pierian. (nước cam lồ).

Trước khi bất kỳ người nào tìm cách khơi hoạt Kundalini thì y nên biết nhiều đìêu về nó nhất là về những nguy hiểm của nó, y nên làm quen mật thíêt với những nguy hiểm đó. Thế rồi y sẽ dẹp điều đó sang một bên cho tới khi y nhận được khuyến cáo bắt đầu. Chỉ bíêt chút ít khiến cho y có khuynh hướng điên rồ. Khi y đã uống được nhiều rồi thì y sẽ nhận ra được rằng bổn phận cấm không cho y thực nghiệm, những kết quả thực nghiệm khi tiến hành trong sự vô minh ắt gây ra tai họa trước hết là cho người thực nghiệm (xét về mặt nào đó thì điều này có thể không quan trọng mấy ngoại trừ đối với bản thân y) mà còn cho những người ngay xung quanh y, gây ra nguy hiểm cho cộng đồng nói chung và y không có quyền bắt người ta phải chịu nguy hiểm.

Đạo sư Ramana Maharishi

Posted by dobatnhi ⋅ Tháng Mười Một 9, 2010 ⋅ Để lại phản hồi

Filed Under  Arunachala, Ramana Maharishi, Thánh nhân Ấn Độ

Ramana Maharishi

Ramana Maharishi sinh năm 1879 ở Madura, miền Nam Ấn Độ. Với mười sáu năm đầu đời, ông như bao đứa trẻ bình thường khác với niềm đam mê nghiên cứu và ham thích thể thao. Có lần đang nằm trong phòng riêng, chợt nghĩ đến cái chết, ông cảm thấy sợ hãi và nhận ra sự tất yếu của nó. Kể từ  đó ông tự ngộ được bản tính thanh tịnh và trực nhận, bản thể và tuyệt đối là một không hai.

Ramana Maharshi không thụ huấn một Đạo sư Yoga nào,  ông tự luyện tập với sự chỉ dẫn của Thượng đế bên trong mình. Bằng sự giác ngộ riêng, ông lại trở thành một bậc thầy dẫn dắt tâm linh, dạy môn đồ nâng cao nhận thức, đi đến cội nguồn của Bản ngã.

Sau nhiều năm ẩn cư, tịnh khẩu tại núi Arunachala (arunācala) miền Nam ấn, ông chấm dứt sự im lặng và trả lời những câu hỏi của những người mộ Ðạo từ bốn phương theo kinh nghiệm Bất nhị (s:advaita) đã tự ngộ được.

“Giáo lí” của Sư chỉ là những buổi vấn đáp với những người tầm đạo, được các môn đệ ghi lại và những bài dạy, những bài kệ ngắn gọn. Phương pháp giảng dạy của Sư rất đơn giản: Không đi vòng quanh, rườm rà mà chỉ thẳng vào tự tính thanh tịnh và hướng dẫn người tham vấn trên con đường đến nơi ấy bằng cách tự vấn rằng, “Ta là ai?” 

Hỏi: Thưa Ngài, con là ai? Làm sao con đạt giải thoát?

M.: Bằng cách tự nghiên cứu liên tục  ”Ta là ai?”. Ông sẽ tự nhận ra chính mình và đạt giải thoát. 

Hỏi: Con là ai?

M.: Cái Chân ngã hoặc Tự tính không phải là thân này, cũng chẳng phải năm giác quan thông thường hoặc cơ quan hoạt động. Thần thức hoặc chân khí (s: prāṇa) không phải là nó, cũng như trạng thái ngủ say không mộng, khi người ta không còn nhận thức được gì. 

Hỏi: Nếu con không phải là tất cả những gì nêu trên, vậy con là gì?

M.: Nếu ông đã loại bỏ được tất cả chúng nó và có thể tự bảo rằng “Chúng không phải là ta” thì cái duy nhất còn sót lại là Chân ngã và đó là Thức (s: vijñāna). 

Hỏi: Ðặc tính của Thức này là gì?

M.: Nó là “Sat-Cit-Ānanda” [nghĩa là Chân lí – Nhận thức tuyệt đối – A-nan-đà]; trong đó, khái niệm tự ngã biệt tích, không còn một dấu vết. Nó được gọi là “Tịch tịnh” (s: mouna) hoặc “Ðại ngã” (s: ātman) hay Tự tính. Nó là cái duy nhất có thật. Nếu bộ ba “Thế giới-Ngã-Thượng đế” còn được xem là ba thành phần cá biệt thì đó vẫn chỉ là Ảo ảnh (s: māyā). 

Các lời dạy của Sư được những người mộ đạo trên thế giới hâm mộ, quí trọng bởi vì chúng vượt qua mọi giới hạn tôn giáo thông thường, gây nguồn cảm hứng vô tận cho người đọc.

Sư sinh tại Ti-ru-chu-li (tiruculi), Ta-mil Na-đu (tamil nadu), miền Nam Ấn Ðộ, được cha mẹ đặt tên là Ven-ka-ta-rā-man – gọi tắt là Ra-ma-na. Năm lên 17, Sư bỗng dưng trực cảm được kinh nghiệm “chết” (Tử) và ngay lúc đó, Sư tự nhận được: “Thân của ta chết, nhưng Thức không bị vướng mắc bởi tử thần. Như vậy là: “Ngã” chính là Thức bất tử. – Tất cả những kinh nghiệm này không phải là kết quả của tư duy: Chúng đến với ta như một sự thật mãnh liệt, một sự thật mà ta đã tự trực nhận, hầu như không dùng đến tư duy. “Ngã” là một sự thật, là sự thật duy nhất của trạng thái bấy giờ. Tất cả những hoạt động tự giác liên quan đến thân của ta đều được dẫn vào cái “Ngã” này. Từ giờ phút đó, cái “Ngã” hoặc “Tự tính” này đòi hỏi với một sức thu hút lạ kì sự chú tâm tuyệt đối của ta. Cái tâm sợ chết của ta đã bị tiêu hủy hoàn toàn. Từ lúc này trở đi, ta hoàn toàn chìm lắng trong “Tự tính”.

Sau kinh nghiệm này Sư chẳng còn chú tâm đến những những việc thế tục và sau đó rời nhà để đến núi A-ru-na-cha-la, một ngọn núi mà Sư đã nghe qua danh. Nơi đây, Sư ban đầu ẩn cư trong một góc tối tăm tại một ngôi đình dưới chân A-ru-na-cha-la, sau đó trong nhiều hang động trên núi. Trong thời gian hòa nhập mình vào tự tính, Sư quên lãng chính mình, để côn trùng tùy tiện hủy hại thân thể. Khi bà mẹ đến khuyên Sư trở về, Sư cũng không mở miệng nói gì, làm ra vẻ như không thấy sự hiện diện của bà. Khi các người hâm mộ xung quanh khẩn thiết yêu cầu Sư trả lời bà mẹ tuyệt vọng, Sư chỉ viết vài chữ trên giấy: “Ðịnh mệnh tương ưng với Nghiệp quả đang chín trong đời này (s: prārabdha-karma). Sự việc nào không nên xảy ra, sẽ không xảy ra, dù mẹ muốn thế nào đi nữa. Việc nào nên xảy ra, nó sẽ xảy ra, cho dù mẹ muốn ngăn cản nó xảy ra thế nào đi nữa. Ðó là một sự việc chắc chắn. Hành động hay nhất là sự im lặng.”

Ramana Maharshi có lòng từ bi và dễ tha thứ. Có một câu chuyện được kể lại, một hôm có vài tên cướp đến am thiền của ông. Do không có gì đáng để ăn lấy, chúng tức giận, và đánh Ramana. Nhưng ông tuyệt nhiên không có một biểu hiện giận dữ nào, và còn cho chúng một ít đồ ăn trước khi chúng bỏ đi. (Một năm sau, chúng đã bị bắt và ở tù vì tội danh tương tự) Khi Ramana nghe tin này, ông cảm thấy thương hại cho Cảnh sát của về sự thiếu hiểu biết của họ.

Ramana Maharshi cũng yêu thương động vật. Quanh chổ ông thiền, nhiều động vật hoang dã như hổ và rắn đi lang thang bên núi, nhưng Maharishi không bao giờ tỏ ra sợ hãi, ngược lại ông còn kết bạn với chúng. Một đệ tử kể lại, có lần một con rắn hổ mang màu đen bò vào am thiền – nơi Maharshi ở, con rắn dừng lại và nhìn chằm chằm vào mắt của Ramana, nhưng sau đó nó đã tự động rút lui.

Sau một thời gian, Sư phá vỡ bức tường im lặng, bắt đầu trả lời những người đang trên đường tìm về tự tính. Học chúng sau đến rất đông, trong đó có những học giả, triết gia, Du-già sư nổi danh như Yo-ga-nan-đa (s: yogānanda), P. Brunton và W. Y. Ewans-Wentz. Học chúng sau thành lập một Già-lam (s: āśrama) tại Ti-ru-van-nā-ma-lai ở chân núi A-ru-na-cha-la, và đây, vào năm 1950, Sư nhập Ðại định (s: mahāsamādhi). Trước khi nhập diệt, Sư bảo các môn đệ rằng: “Người ta bảo rằng, ta sẽ chết. Nhưng ta chẳng đi. Ta nên đi đâu? Ta ở đây!”

Sáu cõi của sanh tử luân hồi

Posted by dobatnhi ⋅ Tháng Một 16, 2011 ⋅ Để lại phản hồi

Filed Under  Cõi Bán Thiên là gì, Cõi Người là gì, Cõi Quỷ Đói là gì, Cõi Thú là gì, Cõi Thiên là gì, Cõi Địa Ngục là gì, lục đạo, Lục đạo là gì, sáu cõi luân hồi

Những thiên thần ở cõi thiên

Theo những giáo lý, có sáu cõi (loka*) của hiện hữu trong đó tất cả những chúng sanh bị mê lầm đang sống. Đó là những cõi của chư thiên, bán-thiên, người, thú, quỷ đói và địa ngục. Một cách căn bản, những cõi ấy là sáu chiều kích của tâm thức, sáu chiều kích của kinh nghiệm có thể có được. Chúng biểu lộ trong cá nhân chúng ta như là sáu xúc tình tiêu cực, sáu phiền não : Sân, tham, vô minh, ghen ghét, kiêu mạn và phóng dật thích thú. (Phóng dật thích thú là trạng thái xúc tình khi năm xúc tình kia hiện diện trong mức độ cân bằng, hòa hợp quân bình). Tuy nhiên sáu cõi không chỉ là những phạm trù của những kinh nghiệm xúc tình mà cũng là những cõi thực có mà chúng sanh sanh ra trong đó, như chúng ta được sanh vào cõi người hay một con sư tử sanh vào cõi thú.

Mỗi cõi có thể được nghĩ như một dòng tương tục của kinh nghiệm. Chẳng hạn cõi địa ngục tạo lập trong dãy từ kinh nghiệm xúc tình bên trong là giận dữ và thù ghét, cho đến những thái độ tính khí cắm rễ trong giận dữ như chiến đấu và chiến tranh, đến những thể chế, thành kiến và thiên chấp xây dựng trên thù ghét như quân đội, thù ghét chủng tộc, và không khoan dung, đến cõi thực trong đó chúng sanh địa ngục sống. Một cái tên cho toàn bộ chiều kích kinh nghiệm này, từ xúc tình cá nhân đến chỗ có thật, là “địa ngục.”

Giống như những giấc mộng, những cõi là những biểu lộ của những dấu vết nghiệp, nhưng trong trường hợp các cõi, những dấu vết nghiệp là tập thể, cộng nghiệp hơn là biệt nghiệp. Bởi vì nghiệp là tập thể, những chúng sanh trong mỗi cõi chia xẻ những kinh nghiệm tương tự trong một thế giới đồng cảm, như khi chúng ta chia xẻ những kinh nghiệm tương tự với những người khác. Cộng nghiệp tạo ra những thân thể và giác quan và khả năng tinh thần cho phép cá thể tham dự chia xẻ những tiềm năng và phạm trù của kinh nghiệm trong khi lại làm cho các loại kinh nghiệm khác không thể có được. Chẳng hạn, những con chó đều có thể nghe những âm thanh mà con người không nghe được, và những con người kinh nghiệm ngôn ngữ theo một cách mà loài chó không thể.

Dù những cõi có vẽ phân biệt và cứng đặc, như thế giới của chúng ta đối với chúng ta, chúng thật sự là như mộng và không có bản chất. Chúng thâm nhập lẫn nhau và chúng ta đều nối kết với mỗi cõi. Chúng ta có những hạt giống của sự tái sanh vào các cõi khác trong chúng ta, và khi chúng ta kinh nghiệm những xúc tình khác chúng ta tham dự vào một số những tính cách và khổ đau đặc trưng của những cõi khác. Chẳng hạn khi chúng ta bị giam nhốt trong kiêu hãnh tự quy hay trong ghen ghét giận dữ, chúng ta kinh nghiệm cái gì thuộc về tính cách của cõi bán thiên.

Đôi khi những cá nhân có một sự trổi bật về một chiều kích trong sự cấu tạo của nó : nhiều tính thú vật hơn, hay nhiều tính quỷ đói hơn, hay nhiều tính chư thiên hơn. Nó trổi bật như một nét thống trị của tính cách họ, và có thể được nhận ra trong cách họ nói năng, đi đứng và trong những mối quan hệ của họ. Chúng ta có thể biết người luôn luôn hình như bị mắc vào cõi quỷ đói : họ không bao giờ thấy đủ, họ luôn luôn đói khát hơn nữa mọi thứ – thêm nữa bạn bè, môi trường, cuộc sống – nhưng chẳng bao giờ thỏa mãn. Hay có lẽ chúng ta biết người nào có vẻ giống như một chúng sanh địa ngục : giận dữ, thô bạo, điên dại, rối loạn. Thường hơn, người ta có những phương diện của mọi chiều kích trong con người cá thể của họ.

Vì những chiều kích của thức như vậy biểu lộ trong những xúc tình, thì việc chúng là phổ quát như thế nào trở nên rõ ràng. Chẳng hạn, mỗi văn hóa đều biết sự ghen tỵ. Hình thức xuất hiện của ghen tỵ có thể biến đổi bởi vì sự diễn tả xúc tình là một phương tiện thông tin, một ngôn ngữ bằng cử chỉ, cả hai đều do sinh học và văn hóa quyết định, và văn hóa thì sai khác. Nhưng cảm xúc ghen tỵ là như nhau ở bất kỳ nơi đâu. Trong Phật giáo cũng như đạo Bošn, tính phổ quát này được giải thích bằng và liên hệ với sự hiện hữu của các cõi.

Sáu xúc tình tiêu cực không tạo thành một danh sách đầy đủ các phiền não, nhưng vô ích khi nói rằng tại sao không có cõi nào cho buồn bã và sợ hãi. Sợ hãi có thể xảy ra trong bất kỳ cõi nào, cũng như buồn bã hay giận dữ hay ghen tỵ hay tình thương. Dù những xúc tình tiêu cực là những kinh nghiệm cảm xúc mà chúng ta có, và là những kinh nghiệm cảm xúc đặc trưng của các cõi, chúng cũng là những chủ âm tiêu biểu cho toàn thể chiều kích của kinh nghiệm, dòng tương tục từ kinh nghiệm xúc tình cá thể đến những cõi có thực. Và những chiều kích này mỗi cái đều bao trùm những khả tính rộng lớn của kinh nghiệm, gồm cả kinh nghiệm khác nhau.

Sáu phẩm tính của tâm thức được gọi là những con đường bởi vì chúng dẫn đến nơi nào đó : chúng đưa chúng ta đến những nơi chốn để tái sanh cũng như vào những lãnh vực khác nhau của kinh nghiệm trong cuộc đời này. Khi một chúng sanh đồng hóa với một trong những xúc tình tiêu cực, hay bị chúng đánh bẫy bắt, và kết quả xảy ra. Đây là cách nghiệp tác động. Thí dụ, để được sanh làm một con người, chúng ta phải đã dấn thân mạnh mẽ vào những giới luật trong những đời trước. Ngay trong văn hóa quần chúng điều này được diễn tả trong nhận xét rằng cho đến bao giờ tình thương và sự quan tâm cho những người khác trưởng thành mà một người mới được xem là “tính người trọn vẹn.”

Nếu chúng ta sống một cuộc đời mang tính chất của những xúc tình tiêu cực thù ghét hay giận dữ, chúng ta kinh nghiệm một kết quả khác : chúng ta tái sanh vào địa ngục. Điều này xảy ra thực sự, một người có thể tái sanh trong cõi địa ngục, cũng như về mặt tâm lý. Nối kết mình với chiều kích thù hận tạo ra những kinh nghiệm mà thậm chí ngay trong đời này chúng ta gọi là “địa ngục.”

Dầu những cõi có vẻ như hoang đường với người ở Tây phương, sự biểu lộ của sáu cõi có thể được nhận thấy trong chính kinh nghiệm, những giấc mơ và đời sống lúc thức, và trong cuộc sống của những người gần chúng ta. Chẳng hạn, đôi khi chúng ta cảm thấy mất mình. Chúng ta biết làm thế nào tiếp tục thói thường hàng ngày của mình, nhưng ý nghĩa thì trốn tránh chúng ta. Ý nghĩa đi đâu mất, không phải qua sự giải thoát, mà qua sự thiếu thấu hiểu. Chúng ta có những giấc mộng ở trong bùn, hay trong một chỗ tối, hay trên một đường phố không có dấu hiệu. Chúng ta vào một văn phòng không có lối ra, hay cảm thấy bối rối không biết đi hướng nào. Đây có thể là một biểu lộ của vô minh, cõi thú. (Cái vô minh này không giống như vô minh bẩm sinh, nó là một sự mờ đục, một thiếu vắng thông minh.)

Chúng ta kinh nghiệm cái gì của cõi thiên khi chúng ta mất mình trong phóng dật thích thú, hưởng thụ những thời kỳ mù sương của lạc thú và hạnh phúc. Nhưng những thời kỳ này cuối cùng rồi cũng hết. Và khi chúng còn, tỉnh giác của chúng ta phải bị bó chặt. Chúng ta phải ở trong một loại bề mặt cạn cợt và không nhìn khá sâu vào hoàn cảnh chung quanh chúng ta, không biết đến những khổ đau quanh ta. Hưởng thụ những thời kỳ thích thú trong cuộc đời của chúng ta thì cũng tốt thôi, nhưng nếu chúng ta không thực hành, không tiếp tục giải thoát chúng ta khỏi những cá tánh bản sắc bó hẹp và sai lầm, cuối cùng chúng ta sẽ đi qua thời kỳ thích thú và rơi vào một trạng thái khó khăn hơn, không chuẩn bị, nơi chúng ta có khả năng mất mình trong một loại khổ đau. Vào cuối một buổi tiệc hay một ngày rất thích thú thường có một loại hụt hẫng hay thất vọng trên đường về nhà. Hay sau một kỳ nghỉ cuối tuần hạnh phúc chúng ta có thể cảm thấy buồn chán khi trở lại công việc.

Tất cả chúng ta đều có những thời kỳ kinh nghiệm các cõi khác nhau : hạnh phúc của cõi thiên, cơn đau của tham muốn khi thấy cái gì cảm thấy cần phải có, sự nhục nhã của lòng kiêu mạn bị thương, những cơn đau nhói của ghen tỵ, tính địa ngục của cay đắng và thù hận, sự mờ đục và mê mờ của vô minh. Chúng ta di chuyển từ kinh nghiệm của một cõi này đến cõi khác dễ dàng và thường xuyên. Chúng ta thay đổi những chiều kích của kinh nghiệm và thế giới bên ngoài hình như cũng phải thay đổi đối với chúng ta. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Cũng như thế, những chúng sanh trong những cõi khác nối kết với mọi cõi ; cả hai, một con mèo và một a-tu-la bán thiên cũng kinh nghiệm giận dữ, ghen tỵ, đói khát…

Trong cuộc sống như mộng của chúng ta, chúng ta cũng kinh nghiệm sáu cõi. Như sáu xúc tình xác định phẩm tính của kinh nghiệm ban ngày, chúng tạo thành cảm giác và nội dung của những giấc mộng. Những giấc mộng thì vô số khác biệt nhưng mọi giấc mộng do nghiệp đều nối kết với một hay nhiều trong sáu chiều kích.

Dưới đây là một diễn tả về sáu cõi. Theo truyền thống, những cõi được trình bày như những diễn tả nơi chốn và chúng sanh ở đó. Những địa ngục chẳng hạn, có mười tám cái, chín địa ngục nóng và chín địa ngục lạnh. Tất cả những chi tiết của những diễn tả truyền thống là có ý nghĩa, nhưng ở đây chúng ta tập chú vào những kinh nghiệm của các cõi ngay tại đây, trong đời sống này. Chúng ta nối kết với mỗi chiều kích của kinh nghiệm một cách năng động qua một trung tâm năng lực (chakra*) trong thân thể. Nơi chốn được kê ra dưới đây. Những luân xa (chakra) là quan trọng trong nhiều thực hành khác nhau và giữ một giai trò quan trọng trong yoga giấc mộng.

Cõi Địa Ngục

Giận dữ là xúc tình hạt giống của cõi địa ngục. Khi những dấu vết nghiệp của giận dữ biểu lộ, có nhiều diễn tả như ghét bỏ, căng thẳng, phẩn nộ, chỉ trích, tranh luận và bạo động. Khi giận dữ đánh bại chúng ta, chúng ta mất tự chủ và tỉnh giác. Khi chúng ta bị mắc vào thù hận, bạo động và giận dữ, chúng ta tham dự vào cõi địa ngục.

Trung tâm năng lực của giận dữ là trong bàn chân. Cái đối trị cho giận chỉ là tình thương trong sạch vô điều kiện, nó khởi từ vô ngã.

Theo truyền thống, những địa ngục được nói là gồm chín địa ngục nóng và chín địa ngục lạnh. Những chúng sanh sống ở đó chịu khổ vô hạn, bị hành hạ đến chết và tức thời sống lại, cứ thế trở đi trở lại mãi.

Cõi Quỷ Đói

Tham lam là xúc tình hạt giống của cõi quỷ đói (preta). Tham lam khởi lên như một cảm giác cần thiết quá độ không thể đáp ứng được. Thử thỏa mãn tham lam thì giống như khát mà uống nước muối. Khi mất mình trong tham lam chúng ta tìm kiếm bên ngoài hơn là bên trong để thỏa mãn, tuy nhiên chúng ta không bao giờ tìm thấy đủ để lấp đầy sự trống không mà chúng ta muốn trốn thoát. Cơn đói thực sự chúng ta cảm thấy là sự đói khát hiểu biết về bản tánh chân thật của chúng ta.

Tham lam phối hợp với tham muốn tình dục ; trung tâm năng lực của nó trong thân thể là luân xa phía sau bộ phận sinh dục. Rộng lượng, bố thí, sự cho đi rộng rãi cái mà những người khác cần, cởi mở nút thắt cứng cõi của tham.

Những quỷ đói theo truyền thống được hình dung là những chúng sanh với cái bụng khổng lồ, đói khát và miệng và cổ họng thì nhỏ xíu. Một số ở nơi những miền hàng trăm năm không có một ngụm nước. Những quỷ đói khác có thể tìm thấy đồ ăn và thức uống, tuy nhiên nếu lại nuốt một miếng qua miệng, thức ăn bùng cháy thành ngọn lửa trong bao tử và gây rất đau đớn. Có nhiều loại khổ đau cho quỷ đói, nhưng tất cả đều từ tính keo kiệt và chống lại sự rộng lượng của những người khác.

Cõi Thú

Vô minh là hạt giống của cõi thú. Nó được kinh nghiệm như một cảm giác bị lạc mất, mờ đục, bất định hay không tỉnh táo rõ biết. Nhiều người kinh nghiệm một sự tối tăm và buồn rầu cắm rễ trong vô minh này ; họ cảm thấy một nhu cầu nhưng thậm chí không biết mình muốn cái gì hay làm cái gì để mãn nguyện.

Luân xa phối hợp với vô minh là ở trung tâm của thân, ngang mức với rốn. Trí huệ được tìm thấy khi chúng ta xoay vào bên trong và đi đến chỗ hiểu biết bản tánh chân thật của chúng ta là sự đối trị của vô minh.

Chúng sanh trong cõi thú bị bóng tối của vô minh ngự trị. Thú vật sống trong sợ hãi, sợ thú khác và người. Những con thú lớn cũng bị hành hạ bởi côn trùng đào vào da và ở trong thịt. Thú nuôi thì bị vắt sữa, chở nặng, bị thiến, xỏ mũi, không có cách thoát. Thú vật cảm thấy khổ và sướng, nhưng chúng bị vô minh ngự trị không thể nhìn vào thân phận của chúng để tìm bản tánh chân thật của chúng.

Cõi Người

Ghen tỵ là xúc tình gốc rễ của cõi người. Khi bị ghen tỵ chiếm hữu, chúng ta muốn bám lấy và rút về mình cái chúng ta có : một ý tưởng, một sở hữu, một tương quan. Chúng ta thấy nguồn của hạnh phúc là cái gì ở ngoài chúng ta, điều này đưa chúng ta đến bám luyến mạnh mẽ hơn vào đối tượng của tham muốn.

Ghen tỵ liên hệ với trung tâm tim trong thân thể. Cái đối trị cho ghen tỵ là sự mở rộng lòng mình, cái rỗng rang khi chúng ta nối kết với bản tính chân thật của chúng ta.

Chúng ta dễ dàng quan sát sự khổ đau của cõi mình. Chúng ta kinh nghiệm sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta phiền muộn vì biến dịch thường trực, những nỗ lực giữ gìn cái chúng ta muốn cuối cùng đều thất bại. Thay vì tùy hỷ với những hạnh phúc của những người khác, chúng ta thường làm mồi cho đố kỵ và ghen tỵ. Dù sự tái sanh làm người được xem là may mắn nhất vì con người có dịp nghe và thực hành giáo pháp, nhưng chỉ có một số nhỏ tìm thấy và lợi dụng được cơ hội vĩ đại này.

Cõi Bán-Thiên

Kiêu mạn là phiền não chính của cõi bán thiên (a-tu-la). Kiêu mạn là một cảm giác nối kết với sự thành công và thường là cục bộ, gây chiến. Có một phương diện ẩn dấu của kiêu mạn là khi chúng ta tin rằng mình tệ hơn những người khác trong một khả năng hay nét đặc biệt nào đó, một thứ tự quy tiêu cực tách lìa chúng ta với người khác.

Kiêu mạn phối hợp với luân xa cổ họng. Kiêu mạn thường biểu lộ trong hành động phẫn nộ, và cái đối trị của nó là thanh bình vĩ đại và khiêm hạ bao la khi chúng ta ở trong bản tính chân thật của chúng ta.

Những bán thiên a-tu-la hưởng thụ lạc thú và sự dồi dào nhưng họ có khuynh hướng đố kỵ và hung nộ. Họ thường đánh nhau, nhưng khổ đau lớn nhất của họ là khi họ tuyên chiến với chư thiên, những người hưởng thụ sự dồi dào còn hơn loài bán thiên. Những thiên thì nhiều quyền lực hơn bán thiên và rất khó giết. Họ luôn luôn thắng trận, và những bán thiên chịu sự hủy hoại của lòng kiêu hãnh và đố kỵ bị thương, và điều này lại dẫn họ đến chiến tranh vô vọng trở đi trở lại.

Cõi Thiên

Phóng dật thích thú là hạt giống của cõi thiên. Trong cõi thiên, năm phiền não tiêu cực cũng hiện diện, quân bình như năm giọng hòa âm của một dàn nhạc. Những thiên bị mất mình trong một cảm thức say sưa của niềm vui lười biếng và lạc thú tự quy. Họ hưởng thụ sung túc và tiện nghi lớn lao trong đời sống kéo dài cả một kiếp. Mọi nhu cầu có vẻ được thỏa mãn và mọi tham muốn được đáp ứng. Cũng đúng như đối với một số cá nhân và xã hội, chư thiên bị mắc vào lạc thú và sự theo đuổi lạc thú. Họ không có cảm thức về thực tại bên dưới kinh nghiệm của họ. Mất tăm trong những tiêu khiển và lạc thú vô nghĩa, họ bị phóng dật và không trở lại con đường giải thoát.

Nhưng hoàn cảnh cuối cùng rồi thay đổi khi những nguyên nhân nghiệp cho sự hiện hữu ở cõi thiên cạn kiệt. Khi cái chết cuối cùng rồi cũng đến gần, họ bị bạn bè và đồng nghiệp bỏ rơi, vì những thiên này không thể đối mặt với bằng chứng về bản chất phải chết của họ. Với thiên nhãn, vị thiên này thấy những điều kiện của cõi khổ mà mình bị sanh vào, và ngay trước khi chết khổ đau của đời tới đã bắt đầu.

Cõi thiên phối hợp với luân xa đỉnh đầu. Cái đối trị với niềm vui ích kỷ của chư thiên là lòng bi trùm khắp khởi lên một cách tự nhiên qua tỉnh giác về thực tại nền tảng của bản ngã và thế giới

Thuật phù thủy ở châu Atlantis

Posted by dobatnhi ⋅ Tháng Một 19, 2011 ⋅ 1 phản hồi

Filed Under  Atlantis, Châu Atlantis, Cư dân siêu phàm ở Atlantis, Thành phố bí ẩn Atlantis, Thần nhãn ở châu Atlantis

Châu Atlantis

Thần nhãn ở châu Atlantis

Theo niên giám huyền môn, trước đây nhiều ngàn năm, có một lục địa rất lớn tại Ðại Tây Dương, ấy là Châu Atlantis. Châu này rất phồn thịnh với các cánh đồng mênh mông, nhiều đô thị phát đạt và những đồng lúa, vườn nho phấp phới dưới ánh mặt trời. Văn minh của Châu này cao hơn nền văn minh của chúng ta ở một vài phương diện. Nhưng tất cả đều bị hủy diệt và chôn sâu dưới đáy biển vì sự bất công  và tàn bạo của nhân dân lúc bấy giờ.

Theo sử liệu, nhân loại lúc ấy rất năng linh và liên lạc với cõi vô hình mật thiết cho đến đỗi đối với họ, cõi này như là một với cõi trần. Nhưng trí hóa họ kém cõi, khối óc họ không được phát triển như bây giờ. Họ buông trôi theo dục vọng, tình cảm ồ ạt chứ không biết lý luận, suy tư.

Dân tộc Át Lăn năng linh như thế nào và hành động theo đường lối nào ?

Những trung tâm năng linh ở xác thân

Chúng ta biết thân thể con người có hai thần kinh hệ: hệ não tủy [13] gồm não bộ, tủy sống và các dây thần kinh, và hệ giao cảm [14] gồm nhiều sợi thần kinh và nhất là hai dây thần kinh có nhiều hạch nằm hai bên cột xương sống. Hệ này gồm nhiều tùng [15] do các dây thần kinh rất nhỏ tụ họp kết thành. Trong các tùng, tùng Thái dương [16] được biết nhiều hơn cả.

Ðiều mà các nhà giải phẫu không biết các tùng này trước kia là điểm giao liên giữa thể xác và thể tình cảm (thể vía). Nơi người Át Lăn, các tùng này và cả hệ giao cảm rất phát triển, vì thế, họ nhận được các rung động của cõi vô hình và được năng linh. Tâm thức của người Át Lăn được tập trung vừa vào hệ giao cảm, vừa vào khối óc cục mịch vì thế chẳng những họ năng linh mà còn giác thức được những điều thuộc về tiềm thức của chúng ta bây giờ. Tuy nhiên, những cảm giác của họ về cõi hữu hình hay vô hình mập mờ, trì độn không có những chi tiết mà một người nhãn thông ngày nay có thể thấy rõ ràng nhờ sử dụng được nhiều trung tâm khác liên hệ đến nhãn thông và hệ não tủy.

Sự tăng trưởng của trí năng

Từ thời Át Lăn đến nay, nhiều thế kỷ đã trôi qua, khối óc lớn thêm và vi diệu hơn, đồng thời nhiều hoạt động của hệ giao cảm lần lần trở nên tự động và sang vào lãnh vực tiềm thức. Sự thay thế các cảm xúc năng linh mập mờ bằng trí lực [18] là một bước tiến hóa và diễn tiến trong một thời gian dài. Cho đến ngày nay, một thời gian gần một triệu năm sau thời cực thịnh của văn minh Át Lăn đã trôi qua, mà một số đông người chưa mở trí lực được bao nhiêu nên những vết tích của năng linh xưa vẫn còn.

Vì vậy, hiện nay, một số người có nhãn thông nhưng trí hóa họ kém hơn nhiều người khác. Ở họ, tình cảm lấn áp trí năng. Họ chưa tiến hóa nhiều hơn dân tộc Át Lăn nhưng sau vài trăm kiếp luân hồi, trí tuệ của họ sẽ chiếm ưu thế và những cảm xúc năng linh trì độn cũng sẽ được thay thế bằng quan năng trí thức.

Ngoài số người này, đa số nhân loại tiến hóa đều đặn và không còn liên hệ với cõi vô hình nữa nhờ trí tuệ đã được tăng trưởng từ kiếp này sang kiếp khác. Việc này giải thích vì sao hiện nay số người năng linh rất ít tuy thỉnh thoảng chúng ta còn nghe nói có người biết trước được những tai nạn hay việc đau buồn sắp xảy ra.

Thời kỳ chuyển tiếp

Chúng ta đang ở vào một thời kỳ chuyển tiếp. Trong thời kỳ này, sự khai mở trí thức chiếm ưu thế và chúng ta không chấp nhận nhãn thông cổ sơ nữa (ngoại trừ một vài trường hợp rất hiếm), nhưng chúng ta chưa mở được nhãn thông siêu đẳng. Tuy nhiên, thì giờ khai mở nhãn thông siêu đẳng sắp đến cho một số đông người vì khối óc và tủy sống đã phát triển đến một mức khá cao. Trí tuệ và sự tự chủ của họ cũng đủ sức vững vàng để giúp họ giải quyết những vấn đề sẽ đặt ra ở giai đoạn tiến hóa mới.

Chúng ta có thể tiến nhưng cũng có thể lùi. Chúng ta tiến khi nào chúng ta cố gắng khai mở các năng khiếu tâm linh siêu đẳng, trái lại chúng ta sẽ lùi nếu chúng ta đánh thức trở lại nhãn thông cổ sơ. Thường, người ta tự hỏi những người lăn xả vào các công phu luyện tập với một niềm tin vững chắc, họ biết chăng hầu hết các phương pháp thông dụng ở  Âu Mỹ đều có tính cách lạc hậu và ngăn cản bước tiến của chúng ta ? Lẽ tất nhiên là những công phu luyện tập xác thân có phần dễ dàng và có kết quả nhanh chóng hơn các phương pháp khai mở nhãn thông siêu đẳng. Nhưng đây không phải là vấn đề dễ dàng hay nhanh chóng mà vấn đề tiến hóa thật sự.

Các trung tâm khác

Ngoài những trung tâm của hệ giao cảm, còn có những trung tâm khác nữa đôi khi cũng được dùng để mở nhãn thông cổ sơ. Học khoa sinh lý, chúng ta biết rằng mỗi giác quan của chúng ta như mắt, tai, v. v. . . được một hay nhiều dây thần kinh liên kết với một trung tâm tương ứng ở trong óc. Ðiều người ta ít biết hơn là các trung tâm ấy có một đối phần của thể vía [19].

Khi một tia sáng lọt vào võng mạc của mắt, thì những rung động phát sinh và được dây thần kinh thị giác chuyển mau như chớp vào óc, nơi đây chúng kích thích một số tế bào xám. Sự diễn tiến không ngừng tại đây vì các rung động gây ở não bộ sẽ tạo những rung động khác ở trung tâm tương ứng của thể vía, nhờ đó ta mới cảm xúc được ánh sáng và màu sắc. Mọi cảm xúc đều nhận trước tiên ở thể vía rồi mới chuyển sang thể xác, và ý thức các cảm xúc này trong não bộ tùy khả năng đáp ứng của nó đối với các rung động của thể vía. Lẽ tất nhiên là sự truyền đạt này được xảy ra như chớp nhoáng.

Như vậy, mỗi giác quan có một trung tâm tiếp nhận ở khối óc và một trung tâm tương ứng ở thể vía, nhưng các trung tâm này không phải là giác quan của thể vía mà chỉ là những trung tâm trung gian giữa não bộ và tâm thức. Tuy nhiên, với công phu luyện tập (mà chúng ta sẽ đề cập ở chương sau) người ta có thể dùng chúng như những giác quan thô sơ trong thể vía để thu nhận một ít rung động của cõi vô hình. Nếu các rung động này được chuyển vào não bộ với cách bất thường thì một ít nhãn thông cổ sơ phát hiện.

Nhãn quan thứ hai

Ðiều này giải thích nhãn quan thứ hai của dân sơn cước miền Ecosse và một vài dân tộc Celtes khác. Ở thể vía những người này, các trung tâm cảm xúc tương ứng với miền thị giác của óc, phát triển đến đỗi chúng được dùng chẳng những làm cơ quan trung gian giữa não bộ và thể vía mà còn để nhận ở thể này những rung động của cõi vô hình và chuyển sang não bộ dưới hình thức hình ảnh.

Và vì các biến cố sắp xảy ra có thể thấy ở cõi vô hình cả tuần hay cả tháng trước, người nhãn thông khi nhận được một hình ảnh liên hệ thì giữ ấn tượng ở não bộ và biết được việc tương lai.

Những giáo lý lỗi thời

Những cách thức kích thích các trung tâm giao cảm và giác quan để khai mở nhãn thông cổ sơ được nghiên cứu rất tỉ mỉ ở Ấn Ðộ và được gọi là Hatha Yoga. Có thể những cách thức này là di sản của Châu Atlantis, bởi vì người Dravidiens ở Ấn Ðộ thuộc gốc Át Lăn. Dù giáo lý ấy bắt nguồn từ đâu cũng vậy, nó được truyền xuyên qua nhiều thế kỷ ở một nước mà phong tục không bao giờ thay đổi và không hợp với dòng tiến hoá. Người nào theo cách thức ấy là quay nhìn dĩ vãng lỗi thời thay vì hướng về tương lai huy hoàng đang chờ đợi mọi người.

Sự cẩn thận thuở xưa

Dù sao thuở xưa, cách thức này được dạy cho từng đệ tử và chính thầy phải theo dõi công phu luyện tập chặt chẽ để tránh đều sai lệch. Ðệ tử luôn luôn ở bên cạnh thầy để được thầy dìu dắt từ bước một. Ở Tây phương không có sự cẩn thận ấy; thường người ta chỉ mua một quyển sách và tập theo đó là đủ rồi. Như vậy làm sao tránh được những tai hại bất ngờ ?

Về công phu luyện tập, cách tập thì nhiều và không phải ai muốn tập cách nào cũng được. Ngày xưa, thầy chọn những điều hạp với tánh tình và sức khoẻ của đệ tử để tránh sự hư hoại các cơ năng rất tế nhị của xác thân.

Hơn nữa, người Ấn Ðộ còn có sự truyền thống và một thứ từ điện riêng về xác thân mà người Âu Mỹ không có. Trải qua nhiều thời đại và thế kỷ, hạng thượng lưu Ấn Ðộ không dùng thịt, không uống rượu. Vì vậy có nhiều cách thức công phu hạp với họ nhưng rất nguy hiểm đối với xác thân ô trược được nuôi dưỡng bằng rượu thịt. Ðiều này không mấy ai biết ở Tây phương, vì vậy mới có nhiều trường hợp suy nhược thần kinh, điên cuồng hay chết chóc.

Vài trường hợp nguy hiểm

Một nhà huyền môn giảng đạo ở Mỹ cho biết trong thời gian chu du thuyết pháp của ông, ông ghi nhận hai mươi hai người trở nên đau ốm, bệnh tật vì luyện tập theo những cách thức tai hại mà tôi sẽ nói trong chương sau.

Một số người tập thở theo các quyển sách rẻ tiền nên bị đau phổi hay thổ huyết.

Nhiều người hủy hoại vĩnh viễn sức khoẻ của mình bằng cách quá căng thẳng hệ thần kinh.

Trong vài trường hợp, trí não bị suy nhược, sớ thịt không còn sức dẻo dai, chịu đựng.

Trong vài trường hợp nữa, màn lưới bảo vệ bị rách nên con người bị ám ảnh hay quấy nhiễu bởi các vong linh hung tợn.

Các tai hại đó khiến ai cũng đau lòng. Nếu các người ấy đừng quá nóng nảy, đừng muốn trở nên năng linh quá sớm và chịu khó nhọc theo một con đường dài hơn nhưng chắc chắn hơn nhằm đạt nhãn thông siêu đẳng, thì họ sẽ khoẻ mạnh, sung sướng chớ đâu có trở nên đau ốm, tật nguyền như vậy. Hơn nữa, dù có mở nhiều quyền năng đi nữa, các quyền năng này cũng chỉ kéo dài trong một đời người mà thôi vì cách luyện tập đó không vượt phạm vi thể xác. Trái lại, nhãn thông siêu đẳng của con người bên trong không sao mất được. Câu ngụ ngôn sau đây đúng biết bao: “Sự minh triết xây dựng cho tương lai, còn sự vô minh thì bằng lòng với tòa nhà bằng cát”.

Kundalini vũ trụ và các trung tâm lực

Posted by dobatnhi ⋅ Tháng Mười Hai 27, 2010 ⋅ Để lại phản hồi

Filed Under  Các trung tâm lực, G. S. ARUNDALE, Hỏa xà, kundalini, Kundalini an occult experience, Kundalini Yoga, Lửa tam muội, Thông thiên học

Kundalini - Đức mẹ của vũ trụ

ĐBN: Kundalini (Hỏa xà) là trung tâm tiếp nhận năng lượng và phân phối đến các luân xa. Người Hindu gọi Kundalini là Đức-mẹ-của-vũ-trụ, nó lấy từ lòng đất mẹ dòng sữa nóng của vũ trụ, và mang cơ hội cho những đứa con lạc loài trở về cùng Thượng Đế.

Trong tia chớp lóe đầu tiên của sự bành trướng trực giác và có thể là còn cao hơn nữa, người trải nghiệm đâm ra bị chìm sâu vào một ý thức về quan hệ giữa tiểu vũ trụ với đại vũ trụ. Y nhất thời bay bổng lên. Tâm thức của y chớp lóe ra bên ngoài tới điều dường như là biên giới xa nhất của không gian, và y đắm chìm vào cái sự thật vinh diệu hoàn toàn khiến cho ta tin chắc về sự thống nhất mật thiết trong tâm thức của chính y, chẳng những với tâm thức vũ trụ – trong phạm vi sử dụng đúng đắn của từ “vũ trụ” này khi từ vũ trụ đó dường như vượt mức vô hạn – mà còn thống nhất với các bộ phận chuyên biệt của tâm thức vũ trụ đó.

Tâm thức cá thể của chính y là một mảnh của tấm khảm trong khuôn mẫu sự sống đang tiến hóa, và có những mảnh khác dường như gắn bó mật thiết với mảnh của y vì nói chung là chúng có cùng tốc độ rung động và cùng màu sắc. Theo nguyên tắc chung thì do đâu mà những mảnh tấm khảm này lại giống với mảnh của y và chúng đâu rồi? Và tức khắc để đáp trả lại, những rung động dường như xuất phát từ xa xăm, từ một nơi rất xa so với nơi đây nên không thể xác định rõ rệt hơn nữa. Có lẽ đó là ý nghĩa rõ rệt mang tầm mức Vũ trụ bao la của thuyết linh hồn sinh đôi (chẳng biết tôi nên nói rằng thuyết linh hồn đa bội chăng) tuyệt nhiên trong nội bộ phạm vi thế giới bé nhỏ này của chúng ta. Và tôi xin nói ngay rằng cái ý niệm linh hồn sinh đôi thông thường vốn thịnh hành trong một vài giai đoạn tư tưởng hiện đại chỉ là một bức biếm họa rất tồi tàn về một thực tại nhiệm mầu. Chính trái đất này cũng là ngôi sao sinh đôi của nó và ta ắt thấy rõ ngay rằng tính lưỡng phân của sự sống cũng chẳng kém phần căn bản so với tính nhất nguyên, hoặc so với tính tam nguyên. Nhưng ta không nên suy đoán thêm nữa. Ở giai đoạn này thì điều đó chẳng có lợi gì.

Theo minh giải của trực giác đặc biệt này thì sự suy đoán cũng nổi lên khi người nghiên cứu được bay bổng thêm nữa mặc dù việc này không ngông cuồng đến nỗi y không có được một ý niệm thực chất nào mang bóng dáng của mối quan hệ giữa các Nghi thức huyền bí vĩ đại về Lửa trên trái đất cũng như Kundalini Vũ trụ mà đấng Chúa tể Thái dương của ta vừa là tâm vừa là thể. Đối với chúng ta Mât trời là Kundalini tuyệt tác mà chúng ta sống, vận động và hiện tồn trong đó. Mỗi Kundalini cá thể thuộc bất kỳ giới nào trong thiên nhiên, thuộc bất kỳ thực chất nào, dù lớn hay nhỏ, thuộc bất kỳ thế giới nào đều cũng là một phần của Kundalini Thái dương. Và kỳ diệu thay những luồng Kundalini bé nhỏ này lại tham dự vào sự toàn tri, toàn năng và toàn hiện của đấng Tổ phụ cao cả của chúng. Như vậy chúng ta có thể nói rằng mọi chúng sinh, mỗi người trong chúng ta đều đang trở nên toàn năng, toàn tri và toàn hiện. Có một mối liên hệ mật thiết nhất giữa Lửa của đấng Chúa tể Thái dương và vũ trụ sự sống mà Ngài đã nổi lửa lên.

Ta thấy rõ ngay rằng cho dù dường như có vẻ ra sao đi nữa thì Kundalini cũng đầy mãnh lực giống như dòng thác. Ở đây nó chỉ mạnh mẽ và tiềm tàng giống như dòng thác còn ở kia thì nó bị kích động và khơi hoạt, ở chỗ khác nữa thì nó vận động không gì chống cự nỗi, thiêu đốt những gì cản đường nó.

Liệu có hay chăng một chuỗi xích Kundalini nối liền các yếu tố cấu tạo nên thái dương hệ khác nhau? Chắc chắn là như thế và sự suy đoán cũng chẳng kém phần thú vị khi xét tới bản chất của cái trung tâm lực thuộc một thái dương hệ và việc Kundalini Vũ trụ khơi hoạt chúng. Trái Đất có những trung tâm lực của mình, là những luân xa xoáy cuộn hỏa năng; dường như một trong những chức năng của một số các Tinh quân Tiến hóa là điều hòa sự phân phối cũng như cường độ của Kundalini. Đây là lý do tại sao ngay cả công trình của các Ngài cũng được mô tả là mạo hiểm giống như công việc của những người tiếp tế cho các chiến hào ở tiền tuyến trong thời chiến tranh. Có lẽ bằng một cách nào đó các Ngài có thể bị thiêu rụi bởi chính cái lực mà các Ngài vận dụng mặc dù ta có thể giả định rằng trong trường hợp các Ngài thì điều này không thể xảy ra.

Với phần sơ bộ về sự hiểu biết thâm sâu của viễn cảnh khủng khiếp này, ta cần học cách khơi hoạt và điều động Kundalini tới đủ thứ trung tâm lực thuộc các hiện thể của một con người chẳng những nói chung để làm linh hoạt sinh hoạt của chúng mà còn đáp ứng được nhu cầu là làm cho cá nhân chúng linh hoạt theo một vài mục đích nhất định. Chẳng hạn như người ta phải đọc một bài thuyết trình để ảnh hưởng tới thính giả hoặc đám đông người. Khi ta quan sát quá trình này tác động, dường như thể nó bắt đầu tự động bằng cách nói chung là kích thích Kundalini chạy dọc theo cột sống lên rồi lại xuống sao cho có một sự sáng rực lên rõ rệt. Điều này xảy ra ở qui mô nhỏ đối với bất kỳ người nào diễn thuyết hoặc dùng một cách nào đó để tìm thế gây ảnh hưởng tốt đẹp tới cho đồng loại mình. Nhưng nếu có sự rèn luyện thì ánh lửa sáng rực đó sẽ bành trướng thành ra lửa. Và ta có thể thu được những kết quả thêm nữa nếu sự linh hoạt đặc biệt diễn ra ở tim, họng và dọc theo đường nối liền phần giữa đỉnh đầu với trung tâm lực ở giữa chân mày. Sự linh hoạt này tiếp diễn qua vùng nhật tùng, sự kiện này phần nào giải thích cho việc một  số người cảm thấy khó ở trước khi diễn thuyết hoặc trước khi có một sự căng thẳng bất thường nào khác cùng với những triệu chứng khác của thể xác. Trong những trường hợp đặc biệt, những cảm xúc đó luôn luôn diễn ra đánh dấu sự tẩy trược của các hiện thể để cho Kundalini cao siêu cũng như siêu nhân loại có thể dễ dàng tuôn xuống.

Điều này không có nghĩa là trong hầu hết những người này thì Kundalini đã thực sự được khơi hoạt mà là nơi họ có một sự tập trung, một sự tăng cường Lửa Kundalini. Vũ trụ với kết quả là dây thần kinh của họ và những kênh dẫn khác có thể vận chuyển được nhiều hơn mức tải trọng Lửa mà chúng thường đã quen thuộc. Tuy nhiên Kundalini có thể định xứ theo một quen điểm này và thuộc về vũ trụ (toàn thiện) theo một quan điểm khác. Nhưng trong một số trường hợp sự tập trung của Lửa chủ yếu là có tính chất cục bộ. Đó là trường hợp cháy tự phát nhưng ta cũng có thể nhận thấy những áp dụng giống như thế.

Rõ ràng là nicotine và rượu dứt khoát tác động theo một cách nào đó tới Kundalini, vì nicotine che chắn một hàng rào giữa thần lực nói chung của Kundalini và tác động của nó nơi nhiều hiện thế khác nhau của cá thể hữu quan; còn rượu dường như đóng vai trò kích thích trực tiếp khuấy động Thần lực theo những chiều hướng lệch lạc hoặc tăng cường nó một cách lệch lạc, và trong bất kỳ trường hợp nào thì nó cũng làm như thế đối với một cá thể còn lâu mới sẵn sàng phát triển được Lửa. Mọi thuốc ngủ, ma túy, chất kích thích đều làm tắc nghẽn hệ thống và che chắn một lớp chướng khí nặng chình chịch giữa cá thể và mọi tâm thức rộng lớn hơn.

Nhưng ta hãy trở lại việc kích thích Kundalini vì những mục đích đặc biệt, việc cột sống sáng rực dường như là hiện tượng đầu tiên này được tăng cường do hoàn cảnh bên ngoài – chẳng hạn như có mặt ở một địa điểm đã được từ điển hóa rồi, một nhà thờ, một đền thờ – hoặc do ảnh hưởng của âm nhạc, ca hát, tham dự vào nghi lễ hoặc việc phụng sự v.v. . . Ngoài việc kích thích cho cột sống sáng rực lên còn có một sự khơi hoạt có thể nói là làm sáng rực tim, họng và các trung tâm lực giữa đầu, đôi khi là tất cả các trung tâm, đôi khi chỉ một trung tâm thôi tùy theo tính khí của mỗi người. Sự kích thích này thường có một đối thể nhất định trên thể xác qua việc làm xáo trộn sự vận hành của các cơ quan. Sư kích thích trung tâm lực ở tim dường như là một ánh sáng rực nguội (biết diễn tả làm sao bây giờ?). Sự phối kết hai từ ngữ này nghe ra có vẻ phi lý. Thế nhưng tôi không nghĩ rằng mình đã diễn giải sai lầm sự kiện đó.

Còn xét về cổ họng thì sự linh hoạt mà ta nhận thấy vào một dịp đặc biệt dường như biểu hiện trên cõi trần thành ra một sự co rút tạm thời mà ta có thể gán cho những sự phản kích do đã phá vỡ hàng rào ngăn cách giữa cõi siêu vật lý và cõi vật lý khiến cho Kundalini có thể làm linh hoạt những rung động thật sự xuất phát từ cổ họng, chẳng hạn như khi người ta đang đọc một bài thuyết trình. Kết quả là có một bài thuyết trình hùng hồn mà hoàn toàn không dính dáng gì tới sự hùng biện và ảnh hưởng theo nhiều cách khác nhau tới những thính giả ở nhiều mức độ tiến hóa khác nhau. Họ bị tắm trong Kundalini, kết quả của từng trường hợp cá nhân còn tùy thuộc vào sự nhạy cảm của cá nhân đó.

Xét theo biểu kiến ta thấy Kudalini có thể được so sánh với điện đối với những công dụng mà nó có khả năng tạo ra. Sự liên tục tâm thức, việc nhớ được những diễn biến khi ngủ vào ban đêm chỉ là một vài thành quả của việc khơi dậy Kundalini. Còn quan trọng hơn nữa là một vài thành quả của việc nó trực tiếp cung cấp cho ta thêm khả năng làm việc nơi ngoại giới. Nó vừa là một loại giác quan khác lại vừa kích thích rất mạnh mẽ các giác quan đang có sẵn, cũng như kích thích mọi thần lực khác mà cá nhân đã sử dụng rồi. Chúng ta chỉ mới bắt đầu phát hiện ra Kundalini, vì những tác dụng thú vị mà ta quan sát thấy chỉ là thành quả của những giai đoạn đầu trong việc khơi hoạt nó, chỉ phá vỡ những hàng rào đầu tiên. May mắn thay, thế gian vẫn còn được bảo tồn vì khoa học chưa phát hiện ra Tia Kundalini bằng không thì nó đã hủy diệt hết rồi. Khi chúng ta đọc biết về cái gọi là các “Tia Tử thần” và những sự phóng phát có tính chất hủy diệt rất cao từ các trung tâm Thần lực lớn, thì chúng ta có thể nghĩ rằng Kundalini còn mạnh hơn tất cả những thứ đã gộp lại và chúng ta ắt vui lòng dẹp nó sang một bên cho tới khi ta học được cách sử dụng nó. Nó trở lại theo kiểu cái vòng boomerang với tác dụng khủng khiếp lên những kẻ nào lạm dụng nó, lên những kẻ nào không tôn trọng nó, lên những kẻ nào dùng nó vì mục đích ích kỷ.

Bốn điều suy ngẫm của Đức Phật

Posted by dobatnhi ⋅ Tháng Một 1, 2011 ⋅ 1 phản hồi

Filed Under  an vui, bình thản, Bốn điều suy ngẫm của Phật, Những điều Phật dạy, Phật giáo, tình thương, từ bi, Đức phật

Đức Phật thuyết pháp

Kinh sách chép lại rằng một hôm, một vị tăng đến viếng Đức Phật và cầu xin Ngài chỉ cho con đường tiến đến miền Phúc lạc. Đức Phật đáp : “Thật ra miền đó có nhưng nó là một trạng thái tâm linh và chỉ dành cho những ai có một nếp sống tâm linh”.

Vị tăng tiếp lời : “Cầu xin Đức Chí Tôn chỉ giáo phải suy gẫm như thế nào để con có thể dọn mình tiến đến miền cực lạc cao quí ấy”.

Đức Phật dạy: Con hãy suy gẫm bốn đề tài chánh sau đây :

* Đề tài thứ nhứt là tình thương. Con phải chí thành cầu mong mọi người được an vui, hạnh phúc kể cả người thù của con.

* Đề tài thứ hai là từ bi.  Con hãy nhớ đến các kẻ đau khổ, hãy hình dung rõ ràng trong trí con những nỗi lo âu của họ để gợi ở lòng con một niềm thương xót sâu xa.

* Đề tài thứ ba là sự an vui.  Con hãy nghĩ đến sự thịnh vượng của kẻ khác và vui với niềm vui của họ.

* Đề tài thứ tư là sự bình thản. Con hãy vượt lên trên thương yêu và oán ghét, bạo quyền và áp bức, tiền tài và dục vọng, và nhìn định mạng của con với một sự thản nhiên hoàn toàn.

Một đệ tử chơn chánh không đặt niềm tin trên khổ hạnh hay lễ nghi mà trên ánh sáng của Chơn lý để tiến đến sự diệt ngã hoàn toàn”.

Lời khuyên quên mình trong tình thương và hòa hợp với vạn vật là điểm chánh yếu của giáo lý Đức Phật. Ngài dạy :

“Như một bà mẹ chống với mọi nguy hiểm để bảo vệ đứa con một của bà, con người cũng phải thương mến sinh vật như thế. Tình thương ấy phải nồng nàn, linh hoạt trong mọi lúc đi đứng hay nằm ngồi, thức hay ngủ, ốm đau hay khỏe mạnh, sống hay chết vì đó là một tâm trạng quí nhứt của con người ở trần gian”.

Huyền môn học và “ngày tận thế”

Posted by dobatnhi ⋅ Tháng Một 24, 2011 ⋅ Để lại phản hồi

Filed Under  21-12-2012, Bí ẩn về loài người, Bắt đầu loài người, Có ngày tận thế không, Con người được sinh ra thế nào, Loài người có mấy giống dân, Mấy giống dân trên trái đất, ngày tận thế, Sự tiến hóa của loài người, Tổ tiên loài người

Giống dân Atlantis cũng bị kết thúc bằng một thảm họa?

Huyền môn học chưa bao giờ xác nhận rằng sẽ có sự kết thúc một nền văn minh bằng thảm kịch sự sống bị hủy diệt hoàn toàn bởi một trận đại hồng thủy, núi lửa, thiên thạch rơi xuống Trái Đất… Kinh sách Veda cũng như minh triết Phương Đông cùng có lý thuyết, sự sống của Vũ trụ đi qua từng chu kỳ với từng tính chất khác nhau, có sinh có diệt, và từ chổ diệt lại sinh ra cái mới. Giả chăng nếu có thảm họa nào đó xảy ra, thì chỉ có thể xác vật chất bên ngoài chết đi nhưng linh hồn bên trong con người vẫn tồn tại, và cơ hội làm lại cuộc đời lại đến.

Truyền thuyết loài người của dân tộc Hindu quan niệm, trên Trái Đất này Linh Hồn đã ở trong thể xác hết giống dân này đến giống dân khác, khi thì da dàng, lúc da trắng, hoặc da đen…Điều này đã tồn tại từ khi Trái Đất khởi sinh, và đến nay trong thời đại chúng ta giống dân thứ 5 sắp chuẩn bị thay thế giống dân thứ 4 trong một thảm họa nào đó, ở thời điểm bất kỳ trong tương lai mà loài người không ai biết trước được.

Giống dân đầu tiên

Xét theo một trình tự ý tưởng khác, ta hãy xác định rằng Giống dân đầu tiên bao gồm “các con của Yoga” nghĩa là những sinh linh ngụ nơi những hình tướng được phân thân từ bên trong do các vị Tổ phụ là các thực thể thuộc dãy Nguyệt tinh. Ở đây Yoga được dùng thay thế cho Dhyana, tức là quyền năng pháp thuật phân thân một hình bóng hoặc một song trùng thể (un double) nhờ vào quyền năng Ý chí. Do đó các thực thể của giống dân này không có giới tính và tự sinh sản. “Giống dân thứ nhì được sinh ra do nảy chồi và bành trướng”. Chúng chẳng thể làm sao khác hơn được vì Tổ phụ của chúng là các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhất vốn tinh anh, không có giới tính và thậm chí còn chưa có cả hiện thể của dục vọng. Vì vậy chúng sinh ra Giống dân thứ nhì một cách vô ý thức giống như một vài loài cây sinh sản bởi cách nảy chồi hoặc có thể giống như con amíp (amibe) bằng cách phân đôi ra thành hai bộ phận không bắt buộc phải bằng nhau. (GLBT, III, 145). Đây là một quá trình mà Khoa học đã biết rõ trên cõi hồng trần: Nhân của tế bào kéo dài ra rồi chia thành hai phần, nhân con phân đôi ra mang theo một phần tế bào chất. Ta chỉ cần chuyển dịch quá trình này lên một cõi tinh vi hơn thì sẽ hình dung được dễ dàng cách thức mà các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhất “đâm chồi” để sản sinh ra các thực thể thuộc Giống dân thứ nhì. Các thực thể này lớn lên qua việc “bành trướng”.

Giống dân thứ nhì

Các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhì triển khai một phương thức sinh sản mới, “sinh ra những kẻ hãn sinh” (sinh ra như giọt mồ hôi). Phương thức này chắc chắn là hậu quả của việc lớp vỏ mặc dù còn tinh vi nhưng dần dần trở nên thô trược hơn, cũng như đồ sộ hơn. Vậy thì, thay vì chia làm đôi không bằng nhau với phần nhỏ xíu tạo thành một cái chồi, thì ta lại có sự rịn ra các giọt của chất Tổ phụ, mỗi giọt này trở thành một loại mầm mống khai sinh ra một sinh linh khác. Các sinh linh đầu tiên thuộc Giống dân thứ nhì đã được các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhất sinh ra bằng cách “nảy chồi và bành trướng”, nhưng vì bản thân chúng cũng phải sinh sản bằng cách rịn mồ hôi cho nên con cháu của chúng luôn luôn thuộc Giống dân thứ nhì được gọi là “hãn sinh”.

Các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhì đã manh nha có giới tính nhưng còn chưa bộc lộ rõ rệt cho nên được gọi là vô tính.

Giống dân thứ ba

Thế rồi vào cuối giai đoạn ấy thì các sinh linh thuộc Giống dân thứ nhì, vốn xuất phát từ “các giọt mồ hôi”, trên bề mặt bị cứng lại và càng ngày càng trở thành những “quả trứng”. Thế là đám con cháu của họ vốn trở thành Giống dân thứ ba được gọi là “noãn sinh” [12] . Nơi các thực thể này các cơ quan sinh dục bắt đầu được hình thành nhưng thoạt tiên chúng xuất hiện trên cùng một cơ thể – do đó các sinh linh ấy là thư hùng lưỡng tính – thế rồi sau này các cơ quan sinh dục ấy mới tách ra ở trong các cơ thể khác nhau, các cơ thể này trở thành thể xác thô trược, do đó ta thấy người đàn ông và người đàn bà xuất hiện. Sau khi đã duy trì được một cơ thể thì con người biết được một cách thức trước đó chưa từng tác động vào nó. Lúc bấy giờ nhóm thực thể (mà chúng tôi đã loan báo trên kia vốn phải cung cấp trí tuệ cho con người) bèn giáng lâm. Họ lấy làm giật mình khi nhìn thấy những con người vào thời kỳ đó; một vài con người đã được chuẩn bị đầy đủ và một vài Con của Minh triết đã nhập thể trong đó, như vậy trở thành các Huấn sư Thiêng liêng đầu tiên của con người. Vả lại, các Con của Minh triết không cư ngụ trong những người đầu tiên “sinh ra từ trứng” (noãn sinh) mà cư ngụ trong những người thuộc Giống dân phụ thứ ba nghĩa là đám hậu duệ tiến hóa hơn. Vả lại vào lúc các Con của Minh triết can thiệp vào quá trình ấy thì tiến trình đông cứng lại được tăng tốc: “các sinh linh do trí tuệ sinh ra, các đấng không có xương khai sinh ra các sinh linh do ý chí sinh ra vốn không có xương” (GLBT, III, 196). Câu Kinh sau đây (VII, 27) có nói rằng: “Giống dân thứ ba trở thành hiện thể của các Tinh quân Minh triết. Giống dân ấy tạo ra các Con của Ý chí và của Yoga nhờ vào Kriyashakti, các Đấng Cha Thánh thiện, các Tổ phụ của Chư La hán”.

Thế mà câu Kinh trước đó lại kết thúc bằng đoạn: “Các Tinh quân Minh triết phán rằng: Bây giờ chúng ta hãy sáng tạo”. Người ta không thể hiểu được làm thế nào mà cái vỏ rỗng tuếch lại được sinh ra bằng Kriyashakti, tức Quyền năng của Ý chí; vì vậy ta phải kết luận rằng chính các Tinh quân Minh triết đã được sinh ra nảy nở bằng Kriyashakti, và chính các Con của Tinh quân Minh triết đã đến cư ngụ bên trong các hình tướng của con người. Chắc chắn là chính Ý chí ấy đã cung cấp bộ xương cho những hình tướng đó. Một số người khác được cung cấp kém hơn và chỉ nhận được một điểm linh quang của các Đứa con Minh triết: những người này thấp kém hơn những người nêu trên. Còn về phần những người còn lại thì đó chỉ là các lớp vỏ mà các Con của Minh triết không dùng được nên tiếp tục tồn tại với vai trò các “lớp vỏ vô tri giác”, những “con người đầu óc hẹp hòi”. Những người này thực ra không hề bị bạc đãi bất công so với những người khác. Họ chỉ tiêu biểu cho những người cuối cùng đã đến trái đất trong số các Chơn thần con người (Xem chú thích 2) vốn “chưa sẵn sàng”, và họ phải tiến hóa . . . sao cho đạt được mức lớp người trung bình khi đã đến Cuộc tuần hoàn thứ năm (GLBT, III,  210-211).

Những con thú đầu tiên xuất hiện

Bây giờ những con thú đầu tiên mới xuất hiện. “Những con thú đầu tiên được sinh ra từ các giọt mồ hôi, cặn bã của chất liệu, vật chất bắt nguồn từ những xác chết của loài người và loài thú thuộc giống dân trước đó cũng như cát bụi đã bị vứt bỏ” (Câu Kinh VII, 28, GLBT, III, 24).

Khẳng định này chắc chắn là lời đính chính hùng biện nhất mà Giáo lý Huyền bí đưa ra đối lập với thuyết tiến hóa của Darwin. Thuyết này bảo rằng con người thoát thai từ loài thú, nhất là từ loài động vật có vú, đặc biệt là một vài loại Khỉ. Nhưng theo Giáo lý Huyền bí thì loài thú vốn được sinh ra từ các “giọt mồ hôi” nghĩa là được tạo lập theo cách giống như con người, từ “những cặn bã của chất liệu”, sau khi các giọt mồ hôi được dự tính trở thành con người đã được rịn ra từ cơ thể con người, đó là “vật chất bắt nguồn từ xác chết của con người”. Quả thật là việc tái chế vật liệu cũng như bắt nguồn từ “những con thú của Giống dân (cuộc tuần hoàn) trước kia và “loại đất bụi bị vứt bỏ”.

Như vậy không phải chỉ những con thú gần loài người nhất mà tất cả những con thú, đặc biệt là con cổ dực (l’archéopterix), loài bò sát biết bay, tổ tiên của loài chim đã được “thêm vào cho những loài đang bò”.

Giới tính bắt đầu sinh ra

Chính ở giai đoạn này đã xảy ra một tấn tuồng đầu tiên trong lịch sử loài người. “Những con thú phân chia giới tính đầu tiên. Chúng bắt đầu sinh sản. Con người thư hùng lưỡng tính cũng phân chia giới tính. Y bảo rằng: “Chúng ta hãy bắt chước chúng nó, chúng ta hãy giao hợp. Thế là cả đám thực hiện . . .”

Thật ra thì con người không được thiết kế để phân chia giới tính. Đó là một “sự sa đọa”. Nhưng ngoài vở tuồng này ra thì có một vở tuồng khác xảy ra bắt nguồn từ vở tuồng đầu tiên. Những con người có đầu óc hẹp hòi, tóm lại chẳng khác loài thú bao nhiêu, bèn “chiếm lấy những con thú cái khổng lồ” (Câu Kinh VIII, 32) và do sự giao hợp ấy đã sản sinh ra “một giống quái vật dị dạng, thân hình phủ đầy lông lá màu đỏ, bò trên bốn chân”; và nếu những “con người” sau đó biết học cách sử dụng ngôn ngữ thì đám con lai của loài người, những người thú ấy vẫn câm lặng. Đoạn mô tả những con quái vật này tương ứng khá chặt chẻ với sự mô tả con đười ươi (và có lẽ những loài tương cận của nó). Như vậy loài khỉ không phải là tổ tiên của loài người mà một vài loài khỉ chẳng những còn là con đẻ của một vài giống người. (Điều này vừa có được tiếng vang trong những cuộc khảo cứu gần đây nhất thực hiện bằng phương pháp miễn dịch ADN, nó chứng tỏ rằng con đười ươi và con người có một tổ tiên chung và “song hành với nhau”; dù sao đi nữa điều này cũng có nghĩa là con đười ươi không có trước con người.

Giống dân thứ tư

“Một phần ba các sinh linh từ chối” (câu Kinh, VI, 5 trang 21) tuy nhiên cũng không hề bất động. Họ theo dõi cơ tiến hóa của vạn vật và khi họ biết được thảm họa mà chúng ta vừa thấy như nêu trên thì họ “khóc ròng” mà bảo rằng: “những kẻ vô trí đã làm ô uế chỗ ở tương lai của chúng ta. Điều đó âu cũng là Nghiệp báo thôi. Chúng ta hãy ở trong những chỗ ở khác. Chúng ta hãy dạy dỗ cho chúng khá hơn để chúng không tệ hơn nữa”. Thế là họ thực hiện điều ấy. (Câu Kinh IX, 33 và 34).

Vậy là mọi người đều được phú cho Trí tuệ. “Đó là lúc khởi đầu Giống dân thứ tư vốn đã phát triển được ngôn ngữ. Mặc dù nhờ có trí tuệ họ biết được rằng những kẻ vô trí đã làm bậy; nhưng các sinh linh của giống dân mới cũng như các sinh linh còn lại thuộc Giống dân thứ ba, “bắt đầu nổi máu dở chứng” khi mà họ tự biết rằng mình thông minh hơn những loài khác mà lại vẫn rơi vào cái vòng cương tỏa của bản năng thú tính: “Họ cưới làm vợ những người phụ nữ nhìn thì xinh đẹp nhưng lại thuộc về đám người vô trí nghĩa là “những người đầu óc hẹp hòi”. Hậu quả là sinh ra những con quái vật đực và cái, ác độc và đầy ác ý vì chúng cũng có chút ít trí khôn; thế rồi chúng cứ sinh sôi nảy nở lên mãi!

Trong khi đó “những người có trí” đã dựng nên các đền thờ trong cơ thể con người. Họ tôn thờ những người nam và nữ. Câu Kinh X, 42 này kết thúc bằng một cụm từ bí hiểm: “Thế rồi Mắt thứ ba không còn hoạt động nữa”, điều này khiến ta giả định rằng cho đến lúc ấy mắt thứ ba của con người vẫn hoạt động.

Không đi sâu vào chi tiết mà trong lúc này tỏ ra là thừa, chúng tôi xin nói rằng mắt thứ ba nghe đâu ở giữa hai lông mày và nhất là nó lập nên mối liên hệ hữu thức giữa “ý thức tỉnh táo” (ý thức của con người khi ở trong xác phàm) và tâm thức cao siêu (sau này ta sẽ xét tới điều đó). Vì mắt này không còn hoạt động nữa cho nên các sự kiện và hành vi được gọi là hữu thức của con người không còn trực tiếp nghe theo tâm thức nội giới, thế là con người bắt đầu lầm lạc.

Giống dân thứ tư biến mất

Vì có trí cho nên Giống dân thứ tư biết dùng trí không để xây dựng các đô thị bằng cách sử dụng những vật liệu do quả đất cung cấp, các loại đá, kim loại, đặc biệt là loại do “lửa phun ra” nghĩa là đá núi lửa.

Nhưng mọi điều đó đều không làm cho chúng có thêm minh triết; trái lại chúng dùng trí khôn lỏi ấy để “dựng nên những pho tượng đồ sộ, cao 9 yatis [[13]] có kích cở bằng cơ thể chúng”, miệt mài thờ cúng tượng dương vật và thờ cúng những thứ khác.

Một tình hình như thế không thể tiếp diễn mãi. Bấy giờ “đại hồng thủy đầu tiên bèn xuất hiện. Đại hồng thủy nuốt chửng bảy đại châu” (câu Kinh 81, 45) nghĩa là các lục địa đang tồn tại. Sau đó các câu Kinh dễ hiểu hơn.

Câu Kinh XI :

46- Tất cả những người thánh thiện đều được cứu thoát, những kẻ bất hảo bị diệt vong. Cũng bị tiêu diệt với những người này là hầu hết những con thú khổng lồ được tạo ra từ mồ hôi của Trái đất.

Câu Kinh XII

47- Ít người còn lại. Một số người da vàng, một số da nâu và đen, và một số da đỏ đã ở lại. Những người da màu mặt trăng đã đi luôn không còn trở lại.

Giống dân thứ năm xuất hiện

48- Giống dân thứ năm được tạo ra từ nguồn gốc thiêng liêng đã ở lại, giống dân này được cai trị bởi những vị Thánh vương đầu tiên.

49- . .  . Các con rắn đã giáng lâm trở lại, đã làm hòa thuận với Giống dân thứ năm, đã dạy dỗ và giáo hóa nó.

“Những con rắn” thánh thiện này là những thực thể “thiêng liêng”, nghĩa là những thực thể sinh linh tiến hóa xuất phát từ dãy hành tinh trước hoặc là những người tiến hóa hơn trong nhân loại, họ đã rút lui vào trong những chỗ ẩn náu chờ thời mà sự tẩy rửa nêu trên giúp cho họ có thể trở lại.

Sau ‘tận thế’ sẽ là thời đại Bảo Bình?

Posted by dobatnhi ⋅ Tháng Sáu 4, 2011 ⋅ 2 phản hồi

Filed Under  Chuyển thế, Thời đại Bảo Bình, Thời đại Song Ngư, Thời đại vàng

12 cung Hoàng đạo

Sau thời Mạt Pháp Capricorn sẽ đến thời đại Bảo Bình (Aquarius), quãng thời gian thịnh vượng tâm linh kéo dài đến 2.160 năm trên Trái đất. Tuy nhiên thời điểm bắt đầu của Thời đại Bảo Bình vẫn chưa được các nhà thiên văn thống nhất, liệu có phải cách tính của người Maya là chính xác và sau ngày 21/12/2012 là Thời đại vàng của nhân loại.

Thời đại Bảo Bình là gì?

Như đã biết, chúng ta có 12 chòm sao Hoàng đạo là Aries, Taurus, Gemini, Cancer, Leo, Virgo, Libra, Scorpio, Sagittarius, Capricorn, Aquarius và Pisces. Vào ngày Xuân Phân (21/03) cứ mỗi 20 thế kỷ (khoảng 2.160 năm) Mặt trời lại ở vào một cung trong 12 cung Hoàng Đạo; tức là để đi qua hết 12 cung Hoàng Đạo, Mặt trời mất khoảng 25.729 năm (số khác là 25.771).

Thời đại Capricorn thường được hiểu như là thời đại thuộc về vật chất với sự hỗn loạn do chiến tranh, bệnh tật, nghèo đói và thiếu vắn tình thương, sự minh triết tâm linh. Nhưng đến khi Mặt trời chuyển sang chu kỳ mới tại cung Bảo Bình, nhân loại sẽ có Tân thời đại với sự tự do tuyệt đối cho con người, giá trị đạo đức được đề cao, các quy tắc cứng nhắc của xã hội được dỡ bỏ, các giá trị tâm linh cổ xưa được phục hồi và tình yêu thương sẽ tràn ngập trong thế giới đó.

Chu kỳ 25 ngàn năm của mỗi nền văn minh

Các nhà Chiêm tinh và tâm linh học tin rằng, mỗi nền văn minh khác nhau của con người chỉ tồn tại trong 25.729 năm, sau thời gian đó thì Trái đất sẽ biến đổi địa chất và xảy ra tận thế. Một số giả thuyết còn chỉ ra lục địa Atlantis tồn tại cách đây gần 25.000 năm và bị hủy diệt khi đi đến gần hết chu kỳ, tức là thuộc nền văn minh trước thời đại chúng ta.

Trong sách chiêm tinh cổ của Việt Nam, quyển “Thái Ất” được Trạng Trình dùng để viết sấm dự đoán cũng cho rằng, cứ mỗi 25.920 năm cực Bắc của Trái đất sẽ hướng về chòm sao Bắc Cực mới và ngôi sao cực Bắc sắp tới sẽ là sao Vega. (xem thêm: Kim tự tháp Ai Cập và lời nguyền Trái đất đổi cực).

Còn tại Ấn Độ, vùng đất nổi tiếng với các bậc Đạo sử minh triết “thông thiên văn, am tường địa lý” thì thời gian của một chu kỳ “tận thế” là 24.000 năm. (xem thêm: Kinh Veda nói về ngày tận thế 2012).

Tuy có đôi chút rắc rối và tranh cãi trong vấn đề quy đổi thời gian viết trong các quyển kinh sách Veda cổ ra đơn vị đo lường thời gian hiện tại, nhưng người viết nghĩ rằng con số tương đương 24.000 năm tính theo Dương lịch hiện tại là có thể chấp nhận được.

Chúng ta đang ở chu kỳ nào?

Do thời gian chuyển tiếp giữa các cung quá dài (hơn 2.000 năm) và thời gian Mặt trời ở các cung không giống nhau nên việc xác định xác định thời điểm chúng ta đang sống thuộc về chu kỳ nào: Bò Cạp hay Bảo Bình, Kali Yuga hay Dvapara Yuga… là rất khó khăn.

Trong quá khứ có rất nhiều giả thuyết đưa ra để xác định thời điểm này, song đã có rất nhiều tranh cãi. Nhà thiên văn W.E.Peuckert, Sir Isaac Newton, Rob Hand và Dane Rudyhar đều cho rằng Mặt trời đã vào cung Bò Cạp năm 100 trước công nguyên và sẽ ở cung Bảo Bình vào năm 2060 tới đây. David Williams nói năm 1884, còn Carl Jung bảo từ năm 1997 đến 2000.

Ngoài ra ta còn có thể dùng chu kỳ dài 244 năm của sao Diêm Vương để tạm xác định thời kỳ Bảo Bình bắt đầu. Như đã nói trong bài viết trước, cứ mỗi 244 năm khi sao Diêm Vương bắt đầu ở cung Aries sẽ có một làn sóng tư tưởng mới giáng xuống nhân loại và sự ảnh hưởng này sẽ kéo dài hơn 2 thế kỷ. Hiện tại thì sao Diêm Vương đang ở cung Capricorn cho đến năm 2023 và sang đến ngày 16/06/2066 nó sẽ kết thúc quãng thời gian 244 năm đi qua 12 chòm sao Hoàng Đạo của mình.

Người Maya tính toán sự kết thúc của một Đại chu kỳ vào ngày 21/12/2012, điều này cũng có thể dự đoán là nhân loại sẽ ở vào thời đại Bảo Bình từ năm 2012.

Bài học từ nền văn minh Atlantis

Lại dựa trên giả thuyết một nền văn minh tồn tại trong 2.160 năm, thì ta có thể thấy nền văn minh Atlantis đã phát triển trước nền văn minh hiện tại hơn 4 ngàn năm, nếu họ đi được đến chu kỳ cuối cùng.

Theo một số tài liệu của Hội Thông Thiên Học, khi Atlantis bước sang giai đoạn cuối của sự phát triển một nền văn minh thì đa số linh hồn đã hoàn tất phát triển thể thứ 4 – trí tưởng tượng. Sự sáng tạo của họ lên đến đỉnh điểm khi làm chủ nguồn năng lượng mạnh hơn cả nguyên tử và đạt được một số khả năng tiềm tàng tại mức rung động thứ tư như đọc được suy nghĩ của người khác, thôi miên, sử dụng bùa chú… Nhưng chỉ số ít linh hồn loại bỏ được tính tham dục, sân hận, để đạt được tầng mức rung động thứ 5 – lòng từ bi bác ái.

Chính sự tham lam và ỷ vào sức mạnh tưởng chừng như không có gì cưỡng nổi, họ tham gia vào cuộc chiến giành ngôi bá chủ thế giới. Hàng loạt thứ vũ khí có sức hủy diệt ghê gớm đã được tung ra và họ cũng đã tự giết chết mình, toàn bộ lục địa Atlantis đã bị nhấn chìm xuống đái biển.

Tiên tri được sự tự hủy hoại của người Atlantis, những kẻ không có lòng từ bi, các linh hồn vĩ đại hơn đã âm thầm tuyển chọn những bộ tộc kém phát triển nhất của lục địa và đưa họ di cư về Ai Cập, Nam Mỹ, Ấn Độ… để duy trì giống Gen người.

Lý do này cũng có thể giải thích vì sao hầu hết các dân tộc trên những vùng đất ở cách nhau rất xa, ngôn ngữ bất đồng nhưng tất cả đều có chung truyền thuyết về trận Đại hồng thủy và tổ tiên họ được cứu vớt bởi những vị thần từ trên cõi thiên hoặc trên chiếc thuyền của Thánh Nô-ê.

Có lẽ sau giai đoạn này những linh hồn thú mới tiến hóa được đầu thai hàng loạt xuống các giống dân đã di cư trước đó và nền văn minh mới (của hiện tại) đã bắt đầu từ Thời kỳ Đồ đá. Và sau đó, cứ mỗi chu kỳ 244 năm, vài trăm linh hồn cư dân Atlantis tiến hóa hơn được giáng xuống để dẫn dắt nhân loại (theo Edgar Cayce). Đây chính là lý do vì sao nhân loại có rất ít thiên tài lớn và những ảnh hưởng của họ đều làm thay đổi lịch sử.

Vấn đề của sự “chuyển thế”

Các bậc Đạo sư Yoga như Blavatsky, Leadbeater, Osho đều nói rằng linh hồn con người hiện tại đã bước đầu phát triển ở thế thứ 4 (trí tưởng tượng). Chắc bạn đọc cũng dễ nhận thấy là trong khoảng 400 năm trở lại đây, nhiều linh hồn tiến hóa từ thời Atlantis đã trở lại đầu thai và họ trở thành các bậc vĩ nhân dẫn dắt nhân loại đi vào chu kỳ sáng tạo như thế nào. (xem thêm: Sao Diêm Vương và sự thay đổi lịch sử loài người).

Ở chu kỳ sao Diêm Vương năm 1578, phong trào Hậu Phục Hưng với sự xuất hiện của nghệ thuật hội họa và thơ ca đặc sắc. Chu kỳ sao Diêm Vương năm 1822 với sự xuất hiện hàng loạt các tư tưởng triết học mới, một loạt các sáng chế phát minh tạo ra hiện tượng “cách mạng khoa học kỷ thuật” và dẫn đến sự ra đời chiếc máy tính cá nhân, mạng xã hội, các tập đoàn công nghiệp có quy mô toàn cầu… như hiện nay.

Trí tưởng tượng sẽ dẫn dắt nhân loại đi xa hơn nữa khi họ phát triển hoàn thiện thể thứ 4, tức là họ nhận ra chiều không gian thứ 4, thế giới vô hình và sức mạnh của tâm linh. Sự rung động của thể thứ 4 không đỏi hỏi phải loại bỏ sự tham dục, lòng sân hận… nhưng nếu duy trì đạo đức xã hội hiện giờ cộng với sức mạnh vô bờ bến của năng lượng hạt nhân, năng lượng siêu hạt nhân… thì khả năng người Trái đất tranh giành chủ quyền trên Mặt trăng là hoàn toàn có thể xảy ra.

Một số giả thuyết từ các nhà tâm linh, điển hình như Hội Thông Thiên Học cho rằng hòng tránh cho nhân loại sự tuyệt diệt như nền văn minh Atlantis trong quá khứ, các linh hồn cao cả đã cho phép một sự can thiệp hạn chế trong đợt chuyển thế vào cung Bảo Bình lần này. Các linh hồn chưa phát triển được thể thứ 5 (lòng từ bi) sẽ phải dừng cuộc tiến hóa của mình để các linh hồn phát triển hơn hoàn thiện con đường “thăng lên” của mình. Đây là điều được nhắc đến trong Kinh Thánh và câu chuyện “ngày phán xét” chắc là có ý nghĩa như vậy.

Sẽ không có biến động lớn cho địa cầu?

Nếu dựa trên giả thuyết một nền văn minh chỉ tồn tại trong quãng thời gian 25 ngàn năm, nhân loại vẫn chưa đi vào cung Bảo Bình thì “nền văn minh thứ 4” sẽ còn tồn tại đến hơn 4.320 năm nữa. Nghĩa là sau năm 2012 không có tận thế, không có hiện tượng Trái đất chuyển trục…???

Điều này cũng tương đối phù hợp với một số lời sấm truyền, sẽ có một đợt thanh lọc nhân loại để xây dựng một thời đại minh triết ở chu kỳ cuối của nền văn minh.

Sấm truyền tận thế của bộ tộc da đỏ Q’ero

Posted by dobatnhi ⋅ Tháng Hai 12, 2011 ⋅ Để lại phản hồi

Filed Under  Bộ tộc Q'ero, Mosoq, Người da đỏ tiên tri, Quecha, Sấm truyền Inca, sấm truyền tận thế

Người da đỏ Nam Mỹ

Sau khi người Tây Ban Nha tìm đến và tàn phá vùng đất Nam Mỹ, bộ tộc Q’ero phải bỏ lại ngôi làng sinh sống quen thuộc của mình để tìm nơi trú ẩn mới ở độ cao 14.000ft, lúc đó dân tộc Inca chỉ còn lại khoảng 600 người cuối cùng.

Tiến sĩ Villoldo, chuyên gia tâm lý và nhân chủng học, đã có thời gian dài sống cùng tộc người da đỏ Q’ero và tìm hiểu về đời sống tâm linh, các nghi lễ và những lời tiên tri kỳ lạ của họ.

Ông cho biết, ví dụ như trận động đất gần Cuzco (Peru) vào năm 1949 để lộ ra một ngôi đền cổ dát vàng, và sự kiện này đã được ghi từ lâu trong quyển kinh Mosoq.

Hơn 500 năm nay, các trưởng lão của bộ tộc Q’ero luôn giữ gìn quyển kinh tiên tri này với nhiệm vụ công bố đến nhân loại vào thời có thể.

Bộ tộc Q’ero sống biệt lập trong một ngôi làng ở đỉnh cao chót vót trong dãy Andes, và chỉ được phát hiện vào năm 1955 bởi một đoàn thám hiểm.

Vào năm 1949, nhà nhân chủng học Oscar del Prado Nunez, khi đi dự một lễ hội ở Paucartambo, miền Nam Peru, đã gặp hai người da đỏ nói thạo tiếng Quecha (ngôn ngữ người Inca) và họ nói cho ông biết về bộ tộc ẩn cư đó.

Năm 1955 đoàn thám hiểm phương Tây đầu tiên đặt chân đến bộ tộc Q’ero. Năm đó, vào buổi lễ hội thường niên “mừng sự trở lại của sao Pleiades” (thuộc chòm Ngưu Tinh) diễn ra ở Andes, với hơn 70,000 khách hàng hương đến từ Nam Mỹ. Đột nhiên có một nhóm người Q’ero rẽ đám đông, mang theo biểu tượng Mặt trời của người Inca đến gặp đoàn thám hiểm và mời những người da trắng theo họ lên đỉnh núi để trao lại lời tiên tri. Người dẫn đầu đã nói, “chúng tôi đã đợi các bạn 500 năm nay rồi”.

Quyển kinh Mosoq dự đoán một sự thay đổi (pachacuti) lớn của thế giới, sự hòa hợp và trật tự sẽ đến sau khi hỗn loạn xảy ra.

Tháng 11 năm 1996, một nhóm người Q’ero gồm các pháp sư và già làng đã tới thăm nước Mỹ để nhắc lại lời tiên tri của tổ tiên họ. Một nghi lễ đã được thực hiện tại nhà thờ St John the Divine.

Bộ tộc Q’ero truyền bá giáo lý của họ vào phương Tây, để chuẩn bị cho ngày Đại Bàng và Kền Kền chắp cánh trở lại một lần nữa.

Theo lời tiên tri cổ xưa, sẽ có thời điểm thế giới sẽ tái hòa nhập từ bốn phương, người Inca gọi là “mastay”. Và chính “munay”, tình thương và lòng từ bi sẽ dẫn dắt nhân loại đi đến cuộc tập hợp vĩ đại này.

Lời tiên tri cho biết thế hệ nhân loại mới sẽ có sức mạnh cơ bắp của người Bắc Mỹ, trí óc của người Châu Âu và trái tim nhiệt thành của người Nam Mỹ.

Các pháp sư của bộ tộc Q’ero cho rằng các dấu hiệu hỗn loạn đã bắt đầu khi môi trường bị tàn phá, hạn hán khắp nơi, loài kền kền gần như tuyệt chủng và trận động đất để lộ ngôi đền dát vàng năm 1949 là cơn thịnh nộ của thần mặt trời.

Lời tiên tri rất lạc quan khi nói về một thời đại hòang kim, một ngàn năm tâm linh phát triển, sau một thời gian biến động kéo dài bốn năm.

Thậm chí các trưởng lão Inca đã nói trong nước mắt, nền văn minh châu Âu sẽ sụp đổ và một đường lối cổ xưa sẽ trở lại với loài người.

Họ còn nói một nhà lãnh đạo lớn của người Inca, vị đại vương đã xây dựng Đế chế Machu Picchu cách đây 1.300 năm sẽ trở lại. Ông ta là người dẫn dắt tinh thần, một vị thánh đã bước ra ngoài thời gian, vượt qua tầm hiểu biết của nhân loại, nhưng nó không mang ý nghĩa như vị Chúa tái sinh trong Kitô giáo. Ngài được gọi là Pacha, nghĩa là “đất”, là “thời gian”, là “người thiết lập cân bằng”, hay “người tái sinh địa cầu”.

Có người còn tin rằng, lời tiên tri đề cập đến sự trở lại của người lãnh đạo Pachacuti để đánh bại những kẻ đã chiếm đất của người Inca.

Nhưng Tiến sĩ Villoldo thì cho biết, “Pachacuti” không có nghĩa là sự tái sinh của một cá nhân mà là quá trình phát triển của tất cả các dân tộc.

Người Q’ero rất trân trọng lời tiên tri của tổ tiên họ, nó không bao giờ được mở ra khi chưa có nghi thức cầu nguyện.

Chu kỳ vũ trụ và Thời đại Bảo Bình

Posted by dobatnhi ⋅ Tháng Tám 29, 2011 ⋅ 11 phản hồi

Filed Under  Age of Aquarius, Dashas, Thời đại Bảo Bình

Nền văn minh Ai Cập vẫn là một bí ẩn lớn

Trong quá khứ, nhiều nhà thiên văn và chiêm tinh cho rằng mỗi một nền văn minh của con người chỉ tồn tại trong khoảng 25.920 năm (Great Year/Platonic Year). Tức là, sau khi Mặt Trời hoàn thành chu kỳ đi qua 12 cung Hoàng đạo, khoảng 2.160 năm cho mỗi cung, thì có tận thế xảy ra. Tuy nhiên, việc xác định từng thời điểm thuộc về chu kỳ nào là rất khó khăn và còn nhiều tranh cãi.

Nhiều nhà chiêm tinh tỏ ra quan tâm về Thời đại Bảo Bình (Age of Aquarius) hay còn gọi là Thời Đại Vàng đã xuất hiện hay chưa, sự biến đổi xã hội kèm theo đó là gì và thời điểm họ đang sống thuộc về chu kỳ nào?

Các bài trước người viết đã tổng hợp các giả thuyết liên quan đến Thời đại Bảo Bình, chu kỳ Yuga… và cách xác định thời gian cho nó. Lần này, mời bạn đọc xem giả thuyết của người viết về cách xác định các chu kỳ cho từng thời đại.

Chiêm tinh Ấn Độ phân 12 cung Hoàng Đạo thành một vòng gọi là Dashas, mỗi cung do một vị thần coi sóc và tính cách của vị thần này sẽ quyết định đến sự hưng vượng của nhân loại trong thời gian ông ta “trị vì”.

Trong một chu kỳ lớn, 12 cung được chia ra làm 3 phần, có ý nghĩa như “thành trụ hoại”, do thần sáng Tạo (Brahma), đấng Bảo Hộ (Vishnu), và đấng Huỷ Diệt (Shiva) đảm trách. 4 cung đầu tiên do Brahma cai quản, đây là thời điểm vạn vật sinh sôi; 4 cung tiếp theo do thần Vishnu trông nom, thời điểm vạn vật sinh trưởng; 4 cung cuối cùng do Shiva phụ trách, thời điểm vạn vật kết thúc sự sống.

Ở một chu kỳ chi tiết hơn, có 9 vị tiểu thần đại diện cho 9 ngôi sao chia nhau quản lý 12 cung gồm: Ketu (Bắc Cực), Mộc tinh, Thái Dương, Hỏa tinh, Rahu (Nam Cực), Mộc tinh, Thổ tinh và Thủy tinh. Thời gian để hoàn thành một vòng Vimshottari Dasha là 120 năm và cần có 2 vòng Vimshottari Dasha như thế, tức là 240 năm, để hoàn tất một tiểu chu kỳ.

Tóm lại:

- 1 tiểu chu kỳ có 240 năm

- 1 chu kỳ trung bình có 240 * 12 = 2.880 năm

- 1 đại chu kỳ có 2.880 * 12 = 34.560 năm

Như vậy, sự tồn tại của một nền văn minh sẽ là 34.560 năm chứ không giống như giả thuyết 25.920 trước đây.

Trong bài viết “Sao Diêm Vương và sự thay đổi lịch sử loài người”, ĐBN đã dùng chu kỳ của Diêm Vương tinh để trình bày sự xuất hiện hàng loạt thiên tài với lý thuyết cải cách xã hội, mỗi khi ngôi sao này ở vào 3 chu kỳ đầu tiên do thần Brahma phụ trách.

Nếu tính theo sao Diêm Vương, trong thời điểm hiện tại chúng ta đang ở cung Capricorn, tức là thuộc vào 3 cung do thần hủy diệt Shiva cai quản, nó bắt đầu từ năm 1995-2066. Sự kiện thế giới diễn ra từ năm 1995 đến 2011 đã chứng minh phần nào giả thuyết chúng ta đang ở trong chu kỳ chết.

Người viết cho rằng chúng ta đang ở vào thời điểm cuối cùng của Thời đại Bảo Bình (Aquarius), bởi cung Aquarius do Thần chết quản lý  và còn khoản 55 năm nữa để nhân loại kết thúc chu kỳ của nó. Nếu lấy năm 2066 làm mốc cuối của chu kỳ này, thì thời gian bắt đầu của Thời đại Bảo Bình sẽ ở vào khoảng năm 814 TCN (2066 – 2880 = 814).

Có nhiều dữ kiện để xác định điều này, chẳng hạn như Phật Thích Ca và Chúa Giesu đã giáng phàm vào khoản thời gian đầu chu kỳ, đồng thời có nhiều nền văn minh bắt đầu nổi lên như Lưỡng Hà, La Mã, Trung Hoa cổ đại… và dần đưa nhân loại phát triển đến thời điểm như hiện nay

Thần đồng Phật Pháp ở Đồng Tháp

Posted by dobatnhi ⋅ Tháng Một 7, 2011 ⋅ Để lại phản hồi

Filed Under  Ba tuổi biết làm thơ, Ba tuổi đã hiểu kinh Phật, Kỳ lạ thần đồng hiểu Pháp, Thần đồng ba tuổi biết giảng kinh, Thần đồng Búp Bê, Thần đồng Phật giáo, Thần đồng Phật pháp ở Đồng Tháp, Thần đồng Thùy Trang, Thần đồng thuyết pháp

Cô bé thần đồng Thùy Trang

Riêng tôi thì ngạc nhiên và ngưỡng mộ vô cùng. Một cô bé 10 tuổi mà hiểu Phật Pháp như một vị sư. Vì những người thân của Búp Bê đang lo lắng sức khỏe của cô nên tôi tuy rất tò mò muốn hỏi thêm về cô bé nhưng vẫn dè dặt.

Thăm thần đồng Phật Pháp

Cuối tháng 12/2009, thật bất ngờ, tôi được duyên lành theo chân Thượng tọa Thích Phật Đạo viếng các chùa ở Long An, Tiền Giang, Trà Vinh. Cuối cùng là thăm bé Thùy Trang, thường được gọi là Búp bê. Đoàn đi còn có sư cô Pháp Hỷ ở Thụy Điển, hai Phật tử là Việt kiều Mỹ, còn lại là người của TP Hồ Chí Minh.

Thùy Trang sinh ra cất tiếng khóc chào đời như hàng triệu đứa trẻ khác trên trái đất góp thêm một nốt nhạc trong bản trường ca bất tận của loài người. Đôi mắt to tròn đen láy hiền như chim câu, ngón tay dài hình tháp bút, da trắng như sữa mẹ, mái tóc mềm như lụa quê hương. Nhưng hình hài cô bé lại gây xúc động khôn lường cho những người thân trong gia đình.

Bé Thùy Trang hiện sống cùng với bà ngoại, nhà ở sát chùa Tòng Sơn, huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp. Đoàn hành hương vừa bước tới cửa đã nghe tiếng nói lanh lảnh phát ra từ amply, truyền đến lời chào trịnh trọng thân ái.

Một bó hoa tươi từ tay bà ngoại của Thùy Trang tặng thầy Phật Đạo. Vào trong nhà mới biết do Thùy Trang bị té đau nặng, nằm trên giường không ra đón khách được nên phải mời chào khách kiểu đặc biệt như vậy.

Cô bé nằm đó đôi mắt to chớp chớp mỉm cười dịu dàng, nhưng giọng nói rất mạch lạc và chững chạc: “Con xin lỗi đã không ra đón tiếp thầy Phật Đạo và các bác, các cô trên thành phố tới. Con thấy làm tiếc. Con xin thầy Phật Đạo và các bác, các cô thông cảm”. Giọng nói, thần sắc trên gương mặt cô bé 10 tuổi đĩnh đạc như một nữ chủ nhân lớn tuổi.

Gia đình Thùy Trang theo đạo Phật giáo Hòa Hảo. Phòng ngoài là một trang thờ có hương, hoa nhìn đối diện ra cửa. Kế đó là bức tranh cụ Hồ, các Phật tử tới đây hầu hết là trong gia tộc của Búp Bê mỗi lần đến lạy Phật và lạy cả tranh cụ Hồ. Trong gia quyến có nhiều người không lập gia đình, một lòng theo đạo tu tâm, tích đức, trọn đời hiếu nghĩa với tổ tiên, ông bà.

Trong một tuần lễ ăn, nghỉ tại nhà của cô bé, rất ít ai gọi tên thật của cô, mọi người đều gọi Thùy Trang là “Búp Bê” như một cái tên thứ hai. Búp Bê ít nói, ai hỏi thì trả lời, hầu hết là những câu hỏi về Phật Pháp.

Khi cô bé cất giọng thì ai cũng dỏng tai, nghiêng đầu lắng nghe. Riêng tôi thì ngạc nhiên và ngưỡng mộ vô cùng. Một cô bé 10 tuổi mà hiểu Phật Pháp như một vị sư. Vì những người thân của Búp Bê đang lo lắng sức khỏe của cô nên tôi tuy rất tò mò muốn hỏi thêm về cô bé nhưng vẫn dè dặt.

Giáp tết Canh Dần, tôi lại được xuôi miền Tây lần thứ hai, sư cô Pháp Hỷ đã về chùa Đại Bi Tâm ở Thụy Điển, nhưng lại có sư cô Pháp Nhẫn đã trên 70 tuổi cùng đi viếng các chùa ở Cần Thơ, chùa Địa Tạng ở Sa Đéc, viếng lăng cụ Nguyễn Sinh Sắc ở Cao Lãnh… và lại đến thăm Búp Bê.

Lần này Búp Bê đã khỏe, tỏ ra rất vui khi thầy Phật Đạo lại ghé thăm nên cười suốt ngày.

Gia đình Búp Bê thuê thêm một xe 16 chỗ cùng đoàn Thượng tọa Thích Phật Đạo, 2 xe đi về hướng Hà Tiên viếng chùa Hang rồi về vùng Bảy núi lễ chùa Vạn Linh trên núi Cấm. Ngôi chùa thật xứng với bề dầy lịch sử, uy nghi, lộng lẫy. Chùa Vạn Linh không những là một di tích văn hóa còn là danh lam thắng cảnh tâm linh của tỉnh An Giang

Đoàn viếng thăm nhà tưởng niệm thầy Hai Thanh Sĩ của Phật giáo Hòa Hảo lần thứ hai, nhưng lần này chúng tôi được mời dự  ngày giỗ của Ngài.

Bữa cơm chay rất ngon từ những bàn tay chế biến tuyệt vời bằng những thực phẩm đặc biệt của miệt vườn An Giang. Người đến thăm viếng đông ngẹt thở, người người nhích chân từng tí một.

Búp Bê ngộp quá được bà ngoại ẵm ra bên ngoài trước. Thấy tôi thích ăn bánh tét, nhà bếp còn vui vẻ cho thêm một bịch nặng mang về. Chị Từ Nhẫn là Việt kiều Mỹ thích quá cười tít cả mắt. Còn tôi cảm động chẳng biết nói gì, hồn nhiên cầm bịch bánh tét ngoan ngoãn cám ơn như đứa trẻ ngô nghê.

Chúng tôi len chân ra bên ngoài chờ lúc lâu, chị Từ Nhẫn lo lắng, “Thầy Phật Đạo bị bao vây trong đó rồi, không ra được. Làm sao bây giờ ?” Tôi nói: “Để tôi vào phá vây mở đường cho thầy Phật Đạo đi ra. 12 giờ trưa rồi, nắng quá”.

Thấy tôi xuất hiện, thầy Phật Đạo hiểu ý đứng lên ngay. Tôi khoát tay mở lối, thầy Phật Đạo cứ việc bước ra. Nhưng chưa hết, bên ngoài rất nhiều Phật tử tiếp tục vây quanh thầy, mời thầy về nhà một Phật tử gần đó. Thầy Phật Đạo hoan hỷ nhận lời, sau khi ngâm một đoạn thơ của ngài Hai Thanh Sĩ, thầy Phật Đạo xin thoái vài lần mới trở ra được. Thật là vui.

Do ăn nghỉ tại nhà Búp Bê nên tôi có điều kiện tiếp xúc với bà ngoại của bé. Những gì nghe được về cách ra đời của Búp Bê thật kỳ lạ như trong chuyện cổ tích. Có lẽ vì những điều “kỳ lạ” mà gia đình rất tế nhị ít kể về sự ra đời của Búp Bê. Ngoại còn nói: “Trước đây cắt tóc ngắn cho Búp Bê, nhiều người tưởng là con trai nên Búp Bê thích để tóc dài”. Búp Bê để tóc dài là đúng, vì tóc cô bé rất mềm và óng.

Khi đoàn hành hương trở về lại thành phố Hồ chí Minh thì đã 28 âm lịch, giáp tết Canh Dần.

* * *

Thần đồng hồn nhiên bên bạn bè

Với người lớn có sức khỏe, có hình thể phát triển bình thường cũng hạn chế điều kiện trau dồi kiến thức như ở các thành phố lớn, huống chi một đứa bé không có sức khỏe, không tự đi được. Cho đến khi 6 tuổi vẫn chưa có điều kiện tiếp cận với con chữ. Vậy trí tuệ về kinh Pháp mà cố bé có được trau dồi từ đâu mà có sẵn khả năng đối đáp xuất chúng về Phật Pháp kỳ diệu như vậy ?

Những điều kỳ diệu

Nhìn những đứa trẻ tiểu học khoác ba lô nhẩy chân sáo trong sân trường học mà không khỏi chạnh lòng nghĩ tới hình tướng của bé Thùy Trang. Khung xương phần ngực nhô lên phía trước, xương tay và xương chân dẹt, mỏng, chỉ sơ suất một chút là rất dễ bị gẫy.

Mới sinh ra, dựa trên hình hài và sức khỏe rất yếu của bé, bác sĩ khoa sản cho rằng bé sẽ không sống được lâu. Má của Thùy Trang bận rộn làm ăn sợ chăm sóc Thùy Trang không chu đáo nhỡ ra… thì ân hận nên đã nhờ bà ngoại và dì Hai Xuân trông nom.

Nhờ  những bàn tay nâng niu, lòng thương yêu và tận tụy chăm sóc cẩn thận từng ly, từng tý nên Thùy Trang càng lớn càng khỏe và có trí tuệ thông hiểu Phật pháp khác thường.

Sự khác thường hơn nữa là cách chào đời của Thùy Trang. Còn ẩn nấp trong bụng mẹ, khi siêu âm phát hiện thai ngược, đến tháng ra đời phải mổ. Một hình hài tý hon chào đời, hai chân khoanh tròn, hai bàn tay xếp lên nhau ngay trước bụng, đầu hơi cúi xuống trong tư thế của một người đang… thiền.

Những người thân của bé đã mấy đời theo Phật, thấy vậy nên vô cùng xúc động. Hàng ngày nâng niu như hứng hoa, nâng trứng.

Khi 4 tuổi, bà ngoại bắt đầu cho Thùy Trang ăn mặn. Thế nhưng cứ ăn vào là ói… và ói. Thế rồi… bé ăn chay suốt tháng suốt năm cho đến nay.

Trước đó, khi mới 3 tuổi chưa nói sõi, một lần có nhóm Phật tử đi lễ Đức Phật thầy Tây An trên đường về ghé thăm “cốc” của Búp Bê. Trong khi uống nước, một vị cư sĩ muốn biết bé hiểu đạo Phật không nên hỏi thăm dò:

- Búp Bê ơi. Niệm Phật thế nào để nhứt tâm bất loạn ?

Chẳng phải suy nghĩ, Búp Bê đáp liền:

- Dạ thưa… Muốn niệm Phật nhứt tâm bất loạn thì phải buông bỏ nhân duyên.

Mọi người sững sờ nhìn nhau như không tin vào tai mình. Kỳ lạ quá, một bé gái 3 tuổi ngộ nghĩnh như búp sen non mới ló khỏi mặt nước mà sao đối đáp như một vị chân tu cao niên thao lược kinh Pháp. Cô bé khiếm khuyết về hình thể, không đi được, không tiếp xúc bên ngoài, không biết đọc, biết viết. Quả là một sự nhiệm màu đã tiềm ẩn trong bé từ kiếp nào ?

Sự kỳ diệu này cứ thế được chắp cánh bay đi khắp nẻo vùng quê An Giang, Đồng Tháp. Ngày ngày, người người từ các nẻo xa gần, thành thị đến thăm “Thần đồng” về Phật pháp. Trăm người là cả trăm câu hỏi khác nhau. Người hỏi về Pháp môn, người hỏi về Thiền định. Có người tò mò hơn lại hỏi” “Vì sao Búp Bê lại giỏi Phật Pháp như vậy ?” Cô bé bình thản nói:

-  Có lẽ, nhờ nhân duyên từ một chứng đắc nội tâm từ kiếp trước mà đã đạt được.

Búp Bê thường trả lời ngắn gọn, xúc tích, không ề à nói quanh. Những Phật tử đến không chỉ xin tư vấn về Phật pháp, kinh nghiệm tu học mà còn bày tỏ cả những băn khoăn trong cuộc sống, về ứng nhân xử thế trong đời thường sao cho đúng đạo lý, cho đúng với cái tâm của một cư sĩ.

Nếu những vấn đáp này của các vị tu sĩ, của những Phật tử lớn tuổi thì chỉ là chuyện quá bình thường. Thế nhưng nó được ứng khẩu từ một cô bé đang ở độ tuổi măng non lại bị khiếm khuyết về hình hài, không đi lại được.

Vì thể lực yếu nên Búp Bê ăn rất ít. Có lần ngoại Tư trách yêu:

-   Búp Bê ăn cơm ít quá. Ngoại bỏ… không lo nữa.

Cô Bé nói rành rẽ:

-   Đức Phật, Đức Thầy độ tận chúng sanh cách này không được thì dùng cách khác chứ đâu có bỏ ai. Ngoại nói vậy là ngoại không làm đúng lời Phật, lời Thầy dạy rồi.

Ngoại cười hiền lành:

-  Búp Bê nói phải quá. Vậy mà ngoại quên chứ. Cám ơn Búp Bê nha.

Khi Búp Bê còn ở “cốc” của dì Hai Xuân, phía trước có cái ao nở đầy hoa súng màu đỏ. Một lần mấy đứa trẻ hơn Búp Bê vài tuổi đang tha thẩn mon men bờ ao bắt ốc, bắt cua chơi. Búp Bê gọi:

-   Mấy anh chị ơi. – Mấy đứa trẻ hóng cổ lên chưa biết là ai gọi – Búp Bê nói tiếp – Thả cua và ốc về với cha mẹ nó đi.

Ngoại Bảy ngồi gần đó, hỏi:

-   Búp Bê nói câu đó bằng tâm gì vậy ?

-   Là tâm từ đó – Bé trả lời gọn lỏn.

-   Tâm từ do đâu mà có ? – Ngoại lại hỏi.

-   Từ nơi chơn tánh đó, ngoại.

Thấy Búp Bê  trả lời kinh Pháp đâu ra đó, ngoại Bảy lại hỏi tiếp:

-   Thế nào là sống với chơn tánh ?

-   Là không phiền não, sân, si là sống với chơn tánh.

Những lúc dì Hai Xuân đi vắng chỉ có ngoại Bảy ở nhà. Cả ngày chẳng lẽ không nói gì với nhau, nên thỉnh thoảng ngoại rủ rỉ trò chuyện với Búp Bê. Nhưng mỗi câu ngoại Bảy hỏi thì Búp Bê đều trả lời bằng ngôn ngữ từ kinh Phật, cho dù câu hỏi rất đời thường:

-   Hàng ngày có đủ thứ chuyện, Búp Bê có nhớ hết chuyện này chuyện kia không ? – Ngoại Bảy hỏi.

-  Tâm thanh tịnh thì không nhớ gì – Búp Bê đáp – Còn tâm bị vọng thì nhớ đủ thứ, mà không thứ gì thành thứ gì cả.

Riêng đối thoại này của Búp Bê thì giống như người từng trải ngoài đời. Ngoại Bảy như trong vai một trẻ mẫu giáo trước thầy của mình, hỏi tiếp:

-   Vậy mình phải làm sao cho tâm hết nghĩ nọ kia ?

Lúc này thì Búp Bê không đáp, ngôn ngữ của Búp Bê cho ngoại hiểu bằng cử chỉ nhìn xuống, yên lặng của một người đang… thiền, và cũng tỏ ý chấm dứt đối đáp.

Thăm hỏi Búp Bê có nhiều đoàn khách Phật tử từ TP Hồ Chí Minh, miền Trung, miền Bắc, trong đó có Việt kiều từ các nước về quê hương cũng nghe tin lần lượt mà lận lội tới thăm. Ngoài các chư Tăng – Ni – Phật tử có cả những người ngoài đạo. Kiến thức sống khác nhau, sự hiểu biết xã hội khác nhau, văn hóa sống khác nhau, tính cách, cảm xúc khác nhau. Ngay cả những vị Tu sĩ cũng mỗi người hỏi Búp Bê mỗi khác. L

à đồng đạo đã hỏi Pháp thì không né tránh, có chăng ở những người tu học còn khiêm tốn thì cách hỏi cũng khiêm tốn. Phần nhiều khách đến thăm Búp Bê vì tò mò muốn trực tiếp biết khả năng của bé nói kinh Phật như thế nào ? Phần vì lòng ngưỡng mộ một thần đồng ở tận miệt vườn miền tây.

Việt kiều thì vượt qua hàng vạn dặm, người miền Bắc thì trải qua hàng ngàn cây số, người miền Nam thì cũng phải đi ô tô hết nửa ngày mới tới nơi. Đã cất công đến thì cũng cất công hỏi.

Cũng qua cách hỏi mà Búp Bê có thể qua đó thấy được tuệ giác của mỗi người mà tùy vào ý tứ, khả năng tu tập của người đó trả lời sao cho mỗi cá thể người hiểu được. Kể cả người biết rất ít về đạo Phật hỏi một cách vu vơ chẳng ăn nhập gì với kinh Phật. Cũng có những vị cao Tăng chỉ lẳng lặng ngồi nghe vì tất cả những gì Búp Bê đối đáp đã có trí huệ rồi. Hơn nữa nhiều người hỏi dồn một lúc sẽ làm cho Búp Bê mệt.

Ví như có bà hàng xóm, một hôm chẳng có việc gì sang nhà Búp Bê chơi, thật thà hỏi ngược xuôi nhưng không kém phần tò mò:

-   Búp Bê là Bồ Tát hay sao mà mới 6 tuổi đã biết nói Pháp vậy ? – Cô hàng xóm chưa biết rằng Búp Bê đã biết nói Pháp khi mới 3 tuổi.

-  Con đang học hạnh của Bồ Tát chứ không phải là Bồ Tát – Búp Bê đáp

-   Nếu Búp Bê không phải là Bồ Tát, vậy có phải là “Ông lên, Bà xuống” hay không ? – Cô hàng xóm gặng hỏi.

-   Dạ không.Con chỉ là người bình thường. Là một môn đệ của Đức Thầy

Dì Hai Xuân nghe vậy mỉm cười, hỏi chen vào:

-   Những điều Búp Bê nói, có phải do dì Hai và bà ngoại dạy không ?

-  Những lời giảng kinh là của dì Hai và bà ngoại. Còn những điều khác con tự nói ra là do trí tuệ.

-   Vậy làm sao mà Búp Bê có trí tuệ ? – Dì Hai hỏi tiếp.

-   Hàng ngày con lo niệm Phật, không có sân, si thì trí tuệ hiện.

Nhà văn Abutalip là người ở một nước cộng hòa trong khối Udơbêch của Liên Xô cũ đã có câu nói nổi tiếng: “Con ngưởi phải có 2 năm để học nói. Nhưng phải có 60 năm mới biết im lặng”. Còn Búp Bê ra đời trong một gia đình nghèo ở nông thôn, vùng quê chưa có điều kiện tiếp cận nhiều với khoa học, công nghiệp không phát triển. Hiện tượng Búp Bê mới 3 tuổi, nói còn chưa tròn âm, tròn tiếng đã biết trả lời bằng kinh Phật, không sai một từ.

Với người lớn có sức khỏe, có hình thể phát triển bình thường cũng hạn chế điều kiện trau dồi kiến thức như ở các thành phố lớn, huống chi một đứa bé không có sức khỏe, không tự đi được. Cho đến khi 6 tuổi vẫn chưa có điều kiện tiếp cận với con chữ. Vậy trí tuệ về kinh Pháp mà cố bé có được trau dồi từ đâu mà có sẵn khả năng đối đáp xuất chúng về Phật Pháp kỳ diệu như vậy ?

Những vị chân tu, những người tu hành, hàng trăm Phật tử tiếp xúc với Búp Bê đều cho rằng kiếp trước có thể cô bé đã từng là một vị tu hành, nay đã tái hiện trong niên kỷ này. Một điều mà máy móc của khoa học tiên tiến trong thời đại vũ trụ bay lên mặt trăng cũng không thể giải mã bằng hình ảnh và những con số, mà chỉ những người tu hành, học đạo tin vào tâm linh mới có thể tự tìm ra câu trả lời.

* * *

Thần đồng bên bà ngoại

Vốn là người quê chân chất có bao giờ nghĩ đến thơ văn, giờ lại nghe Búp Bê đòi làm thơ ? Cô bé đâu biết đọc, biết viết mà thơ với thẩn ? Ngoại nghe vậy chưa kịp hiểu ý Búp Bê muốn gì nhưng cũng lấy bút và tập ra ngồi cạnh chờ “nhà thơ nhí” ứng khẩu

Phần 3: Bà ngoại

Một buổi sáng, Ngoại Bảy ẵm Búp Bê ra ngoài đường đón nắng sớm vàng như mật ong và hít thở không khí, thấy một người có thúng dâu chín mịn màng dưới nắng sớm. Ngoại nói như reo:

-  Mèn ơi. Dâu tươi thấy mà ham quá hén – Rồi nheo mắt cười với Búp Bê, hỏi – Cái tâm của ngoại lúc này là tâm gì vậy, Búp Bê ?

-  Cái tâm thích đó, ngoại.

-  Cái tâm thích là tâm gì vậy ? – Ngoại hỏi tiếp.

-  Cái tâm thích là tâm vọng nhiễm đó, ngoại ơi.

Hay quá, Búp Bê đáp câu nào ngoại nghe cũng vui, lại hỏi:

-   Sao Búp Bê biết đó là tâm vọng nhiễm ?

-   Bởi vì mới thấy cảnh là tâm động rồi.

Ngoại vẫn thấy Búp có thể trả lời thêm về ý này, lại hỏi tiếp:

-   Làm sao mình biết tâm động ?

-   Mình nhìn vô tâm thấy thích nên biết nó đông.

Nhỏ tuổi nhất nhà, bé nhất nhà, sức khỏe yếu nhất nhà. Nhưng ai ở trong nhà làm gì cũng đều hỏi cô bé góp ý nên hay không nên làm. Ngoài tình thân ruột thịt, Búp Bê được trong gia đình ai nấy cũng cưng chiều. Được Phật độ mầu nhiệm có sẵn kiến thức Phật Pháp, ngẫu nhiên Búp Bê có cái uy khiến cả nhà nể trọng.

Một lần ngoại đang nấu bếp, bỗng dưng nghe Búp Bê gọi:

-   Ngoại ơi. Lấy viết và giấy ra ghi lại giùm con vài ý thơ.

Vốn là người quê chân chất có bao giờ nghĩ đến thơ văn, giờ lại nghe Búp Bê đòi làm thơ ? Cô bé đâu biết đọc, biết viết mà thơ với thẩn ? Ngoại nghe vậy chưa kịp hiểu ý Búp Bê muốn gì nhưng cũng lấy bút và tập ra ngồi cạnh chờ “nhà thơ nhí” ứng khẩu:

Tâm mây là phiền não

Nhớ dứt vọng tiêu tan

Cho Bồ Đề được sáng

Tâm ngộ mãi, ngộ hoài

Chuyên cần lo tu tập

Sẽ chứng quả Bồ Đề

Tâm như như bất động

Là được Phật hiện tiền

Lần khác, cả nhà đang ai làm việc nấy bỗng nghe Búp Bê nói rành rẽ từng chữ:

-  Ngày nào chúng sanh trên quả địa cầu này hết chỗ, con mới xong bổn phận.

Nghe xong, mọi người dừng tay như một thước phim không cử động mà nhìn nhau. Có người xúc động đến lặng người không biết nói gì, tưởng chừng có Phật linh ứng ngay trong nhà.

Một thời gian sau, ngoại chợt nhớ câu nói như “Phật sống” của Búp Bê bữa trước nên đến bên nhẹ nhàng nhắc lại câu nói đó, rồi hỏi:

-   Ai dạy con nói ? Hay con đọc kinh sách thấy Bồ Tát nên con nói vậy ?

-   Dạ. Lúc đó con chưa biết chữ – Búp Bê trả lời .

-   Vậy… sao con nói vậy ? – Ngoại thắc mắc.

-   Vì lúc đó con lặng tâm.

Hoặc có lần ngoại Bảy lại hỏi:

-   Búp Bê ơi. Ở đời, mình sống như thế nào mới gọi là có hạnh phúc ?

Cô bé nói nếu mọi người biết giác ngộ là hạnh phúc lớn nhất. Thỉnh thoảng ngoại phát hiện Búp Bê có tật nhỏ nói điều gì là hai chân mày hơi nhíu vào nhau, có lần ngoại hỏi Búp bê có biết điều đó không thì cô nói: “Không biết mình chau mày là mất cái tâm, nếu biết mình chau mày là không mất cái tâm”. Khi hỏi Búp Bê có khi nào ngủ mơ thấy thầy Hai Thanh Sĩ không ? Búp Bê nói có thấy khi tâm đang thanh tịnh. Ngoại hỏi ngược lại:

-   Vậy là thấy trong tâm chứ đâu thấy ở ngoài ?

Búp Bê đáp:

-   Không ở ngoài cũng không ở trong.

Trong gia đình thì Búp Bê ít tuổi nhất, bà ngoại cao tuổi nhất, nên Búp Bê thường lễ phép dạ, vâng. Nhưng khi nói về việc tu tập thì hai bà cháu bình đẳng trong quan hệ như đồng đạo. Một lần ngoại buột miệng thốt lên:

-  Hàng ngày ngoại cúng, lạy, ngồi niệm Phật, nhưng vẫn còn sân, si hoài.

-  Ngoại cúng, lạy Phật mà vẫn sân, si thì ngoại tự hủy rừng công đức. Vì thế ngoại cố gắng dẹp sân si.

Là đàn bà vốn hay lo toan việc sinh họat thường ngày, chẳng mấy khi để chân tay được nghỉ ngơi mà sa đà quá vào việc không đáng làm nên thường phiền não mỗi khi làm quá sức. Ngoại và dì Hai Xuân cũng vậy, thương ngoại và dì, Búp bê khuyên cả hai đã cao tuổi, nên giữ sức khỏe, vì cái thân giống như con thuyền, mình phải nương theo thuyền mới qua sông được. Hoặc khuyên ngoại muốn không cho tâm mình động thì phải quán mọi vật đều không.

Có bà con gặp bà ngoại chuyện trò những điều phải, trái xẩy ra trong làng xóm. Sau đó, ngoại lại hỏi Búp Bê là ngoại làm vậy có đúng không ? Cô bé nói: “Đức Lục Tổ nói rằng, người lỗi, ta không lỗi. Ta lỗi, bởi ta chê bai”, và khuyên bà ngoại nên tập: “Ghét, yêu, đừng để dạ. Duỗi cẳng, nghĩ thanh nhàn”.

Qua những đối đáp và tư vấn Pháp kinh thường ngày với người đời hay người trong nhà, Búp Bê tỏ ra là người có tâm Bồ Tát và hạnh Bồ Tát có thể nói ở cấp cao đẳng từ thân – khẩu – ý.

Ngoại là người tu theo Phật đã gần hết đời người nhưng vẫn bày tỏ như một người mới học đạo:

-  Búp Bê ơi. Trong Sấm giảng, Đức Thầy có câu: “Ráng đem cho được Phật vào trong tâm”. Làm sao để đem được Phật vào tâm ? Lúc nào trong tâm mình mới có Phật ?

-  Đó là tâm tịnh, tâm không si mê, tâm không phiền não, tâm không cười giỡn, không chê, khen. Lúc đó là có ông Phật tại tâm. Khi trong tâm còn phiền não, si mê, giận hờn, cười chê thì lúc đó ông Phật đã đi xa, tâm chìm địa ngục.

-   Ngoại cũng cố gắng hoài nhưng không được. Vậy phải làm sao ?

-   Thì xuống địa ngục – Búp Bê cười rung cả người.

Hôm khác ngoại lại nói:

-  Ngoại cố gắng tu, nhưng sao còn vọng tưởng hoài. Phải làm sao Búp Bê ?

Búp Bê nhìn ngoại như một người khách mới tới, nói:

-   Tu mà còn vọng tưởng là nghiệp chướng từ nhiều đời nhiều kiếp. Vậy phải đối trị bằng cách niệm Nam Mô A Di Đà Phật trong mọi thời đi, đứng, nằm, ngồi.

-   Ngoại già rồi. Cơ thể mệt mỏi. Búp Bê tu giùm có được không ?

Nghe vậy, Búp bê không cười không được, tủm tỉm nói:

-  Ai ăn nấy no. Ai ngủ nấy khỏe. Ai tu nấy đắc. Làm sao con tu giùm ngoại được.

Tuy được coi là thần đồng, nhưng ngoài đời Búp bê vẫn là một đứa trẻ. Thỉnh thoảng ngoại ẵm Búp Bê đến thăm nhà bạn cùng tu chơi thì có người cố tình chọc giận Búp Bê để thử xem cô bé có… nổi sân không ? Nhưng đâu phải bị chọc giận lần đầu nên Búp Bê không lạ. Ra về, ngoại hỏi lúc đó Búp Bê thấy thế nào ? Thì cô thản nhiên nói: “Cùng là người tu. Con nghĩ lời nói ấy là giả nên con phủi rồi”.

* * *

Những cuộc đối đáp 100% là ngẫu nhiên mà Búp Bê hoàn toàn không biết trước người đối diện sẽ nói gì, hỏi gì ? Dù đó là người trong gia đình nhưng ở cách xa đó hàng chục cây số hay người từ khắp mọi nẻo vùng, miền xa nhau về địa phận, khác nhau cả về giọng nói và tập tục sinh hoạt cũng chung một niềm cảm phục khả năng về Phật Pháp từ một cô bé Thùy Trang

Kỳ 4: Với dì Hai Xuân.

Dì Hai Xuân không phải họ hàng, là đồng đạo với những người thân của Búp Bê. Khi Búp Bê còn quá non nớt đã được đưa về ở tại “cốc” của dì ở huyện Chợ mới – An Giang.

Hàng ngày dì Hai chăm lo cho Búp Bê thân ái như con cháu của mình nên trong gia đình coi dì như người ruột thịt.

Một buổi chiều có hai đứa bé gái trong họ hàng đến chơi với Búp Bê, tới bữa ăn dì Hai Xuân bưng mâm cơm ra cho mấy đứa trẻ ăn trước. Búp bê thấy trong mâm đã đầy đủ chén, đũa thức ăn rồi nên xúc cơm ăn, còn hai đứa trẻ kia ham chơi khi quay lại thấy vậy, một đứa la lên: “Búp Bê tham ăn”.

Búp Bê vẫn tỉnh queo như không nghe thấy, đứa kia lại la tiếp như chọc tức: “Búp Bê ích kỷ quá”. Ngoại mỉm cười nói:

-  Búp Bê là học trò của ngài Duy Ma Cật – Chắc bà ngoại nói dựa theo ý của ngài Duy Ma Cật nói với ngài Xá Lợi Phất là “Hà tất phải ngồi sững như thế mới là tọa thiền?” Sau khi hai bé gái kia về rồi. Ngoại mới hỏi Búp Bê – Lúc đó… tâm Búp Bê thế nào ? Búp Bê nói: “Lúc đó con sống với tâm chơn”

Sau này Búp Bê mới được chuyển về ở nhà bà ngoại tại huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp. Thỉnh thoảng cô bé quan sát những người trong nhà xem ai làm gì. Một hôm, dì Hai Xuân thấy cái bóng đèn không tiếp xúc được với điện liền dùng tay gẩy nhẹ thử coi nó có sáng không. Thấy vậy, Búp Bê nhắc dì Hai coi chừng điện giật. Dì Hai vô tình đáp một cách chủ quan: “Có sao đâu”. Búp Bê nghiêm nét mặt, nói:

-  Dì Hai phải bảo vệ cái thân mà lo tu hành, bộ dì ham luân hồi lắm ?

Thế là dì Hai không còn câu nào nói nữa chỉ mủm mỉm cười, cái cười  như thay cho lời nhận lỗi và coi như học phí trả cho bài giảng ngắn cho thần đồng.

Dì Hai vốn hiền lành ít nói, có lần để một cái tô gần chỗ Búp Bê ngồi ngoài hành lang mà không nhắc. Búp Bê cùng bà ngoại hý hoáy lựa gạo khi xoay người ra đụng phải cái tô. Búp Bê nói với ngoại:

-   Ngoại ơi

-   Gì vậy Búp Bê

-   Cái tô này mà bị bể thì dì Hai thấy cái tâm của mình liền.

-   Thấy tâm là thấy chỗ nào ? – Muốn nghe Búp Bê trả lời thế nào, ngoại thường hỏi ướm thêm.

-  Khi con làm bể tô thì tâm của dì Hai Xuân vắng lặng cũng là lúc dì thấy tâm.

Dì Hai Xuân là người tu tập trước Búp Bê trên mấy mươi năm nên thông hiểu Phật Pháp nhưng vẫn rất khiêm tốn, cũng hay trao đổi kinh Phật với Búp Bê.

-  Dì Hai thấy pháp Tham Thoại Đầu là bực thượng căn, còn dì là người hạ trí. Phải không Búp Bê ?

-  Dì Hai đừng tự hạ mình như vậy. Con mới 7 tuổi là nhỏ, dì đã 53 tuổi là lớn, nhưng nhân gian nói Phật tánh thì bằng nhau. Dì phải tự tin mình như Đức Phật Thích Ca ngày xưa cũng nhờ có tự tin mà thành Phật.

Dì lại than thở:

-   Hai tu quá lâu mà sao không thấy được Phật.

Nhìn thẳng vào mắt dì Hai Xuân, Búp Bê nói:

-  Dì có thấy con gà trống nó gáy hoài mà cục mồi bên cạnh lại không ăn ?

Ý nói Phật trong tâm mình tự bao giờ mà không tin lại đi hóng tìm ở đâu. Không chỉ dùng kinh Phật để giảng giải mà Búp Bê thường hình tượng hóa có tính văn học, người nghe vừa dễ hiểu vừa thấm thía ý nghĩa sâu xa, đối đáp vừa rồi của dì Hai Xuân và Búp Bê có thể chứng minh điều này.

Đàn bà ngồi với nhau thường to nhỏ chuyện nhà rồi đến chuyện hàng xóm, có lần Búp Bê thấy ngoại và dì Hai như vậy liền can thiệp:

-   Thôi, ngoại và dì Hai đi quá xa rồi. Dừng lại đi, tốn tiền xăng lắm đó.

Ẩn ý trong câu góp ý này là chỉ nên đi loanh quanh trong nhà mình thôi, đừng nên tùy tiện vào nhà hàng xóm. Hoặc nói lỗi người khác thì tổn phước, tu còn lâu mới đắc đạo.

Cũng như dì Hai Xuân có lần kể chuyện dì Bảy sắp rời nhà đi nơi khác. Búp Bê cười nhắc khéo: “Dì Hai nên lo ngôi nhà tâm của mình, còn ngôi nhà đời đã có người lo”.

Nhà của Búp Bê rơi vào tình trạng bị ô nhiễm tiếng ồn khiến cho dì Hai Xuân khó chịu nổi thành ra phiền não. Búp Bê thấy vậy, nói:

-  Dì hai ơi. Người ta thử mình đó. Cảnh dù có động nhưng tâm mình giữ, đừng động.

-   Búp Bê thấy dì Hai tu thế nào ?

Cô bé lại cười, nói:

-   Dì tu sao để tự mình thấy mà đừng nhờ ai khác thấy mình

Thấy Búp bê muốn uống nước, dì Hai đem ly nước tới. Búp Bê định uống thì nhìn thấy xác một con kiến lờ đờ dưới đáy ly liền gọi:

-   Có con kiến chết trong ly nước dì Hai ơi.

Dì Hai Xuân hấp hay mắt dòm vào ly nước hỏi:

-   Kiến đâu ? Sao dì không thấy ?

-  Con kiến nhỏ, nó giống những vi tế trong tâm ta phải nhìn kỹ mới thấy.

Muốn tu tâm phải chặn được phiền não là chặn vô minh. Bởi phiền não tạo ra nghiệp. Có diệt được phiền não thì phải có từ bi cao cả, phải có trí huệ. Tất cả liên hệ với nhau, nên người tu tập lúc nào cũng phải chánh niệm. Những lúc bà ngoại loanh quang bếp núc và dọn dẹp trong nhà, Búp Bê chẳng có ai chuyện trò, ngồi một mình trên giường.

Ai ra, vô, làm gì, tác phong đi lại ra sao được coi như những “diễn viên” cho Búp Bê… ngắm. Nếu ai làm việc gì bị phân tâm là Búp Bê thấy ngay. Ví dụ, có lần dì Hai Xuân đang ở bếp bắc cái siêu đất lên bỏ thuốc vào sắc. Tự nhiên Búp Bê nói:

-   Dì hai bỏ thuốc vào siêu mà không… thiền.

Dì Hai thật thà hỏi lại:

-   Sao biết dì không thiền ?

Búp Bê ngó ra phía cửa la lên:

-   Dì Hai, có khách.

Dì Hai Xuân quýnh lên hỏi nhanh:

-   Đâu ? Khách đâu ?

Búp Bê cười thành tiếng, nói to:

-   Đó… Nếu dì có chánh niệm đâu có bị con… gạt ?

Lúc này dì Hai chỉ còn cười huề, chứ biết nói sao.

Thương dì Hai Xuân. Búp Bê lại nhờ ngoại lấy bút ra chép giùm một bài thơ tặng dì.

Con xin chúc Hai Xuân

Bao nhiêu điều phiền não

Tiêu tan hết chẳng còn

Chỉ còn tâm vắng lặng

Nơi Tây phương sen vàng

Nhờ chứng nghiệm nội tâm

Mới đạt tới nơi ấy

Để cứu độ chúng sanh

Vượt qua vòng sanh tử.

Cậu Tư đến thăm ngoại, gặp Búp Bê không thể không hỏi vài câu, xem như là tranh thủ học Pháp.

-   Ta từ đâu tới, vậy Búp bê ?

-   Thưa cậu, từ vô minh tới.

-   Vậy vô minh từ đâu có ?

-   Thưa cậu. Từ một niệm ra

Đối thoại chuyển sang ý khác. Lần này Búp Bê hỏi lại cậu Tư:

-   Tâm hiện tại – quá khứ – vị lai. Cậu Tư chọn tâm nào ?

-  Tâm hiện tại – Búp Bê phủ nhận “Không đúng” – Cậu Tư hỏi – Thế thì tâm nào ?

-  Không chọn tâm nào cả. Vì khi có ước, có muốn, có chọn cũng là một dạng vọng tưởng.

Hết chuyện tâm linh, cậu Tư lại hỏi đến chuyện dưới âm:

-   Búp Bê thấy ma bao giờ chưa ?

-   Ma thì con chưa thấy. Nhưng ma tâm thì có.

Những cuộc đối đáp 100% là ngẫu nhiên mà Búp Bê hoàn toàn không biết trước người đối diện sẽ nói gì, hỏi gì ? Dù đó là người trong gia đình nhưng ở cách xa đó hàng chục cây số hay người từ khắp mọi nẻo vùng, miền xa nhau về địa phận, khác nhau cả về giọng nói và tập tục sinh hoạt cũng chung một niềm cảm phục khả năng về Phật Pháp từ một cô bé Thùy Trang đã được nhân gian gọi là Búp Bê, là thần đồng.

Mỗi khi được hỏi không phải suy nghĩ, đối đáp ẩn ý sâu xa về kinh Pháp, để lại trong tâm những ai đã được vấn đáp với Búp Bê một cách “Tâm phục, khẩu phục” từ những câu hỏi được Búp Bê đáp như Automatic.

Một trí huệ như đã được lập trình sẵn ở tận kiếp đã công phu tu học kinh sử mà ứng nghiệm vào cuộc đời cô bé Thùy Trang để độ nhân gian. Chính đó là điều bất ngờ, là điều kỳ diệu cho bất cứ ai đã có duyên tiếp cận với cô bé.

Một nữ tu sĩ Phật giáo Hòa Hảo trong một lần thăm Búp Bê đàm đạo về một câu trong sấm giảng của Đức Thầy, có thể coi như “kiểm chứng” cho lời đồn về Thần đồng này. Nữ tu sĩ đọc đoạn sấm giảng viết: “Tu với tỉnh bảo toàn thân thể – Giữ đừng mòn linh tánh mới hay”, rồi hỏi:

-   Vậy ta phải làm sao cho “đừng mòn linh tánh” như Đức Thầy dạy ?

-   Thưa cô – Búp Bê nói mạch lạc – Muốn giữ đừng mòn linh tánh thì khi tiếp duyên đối cảnh mình không nói hay, không nói dở, không nói cao, không nói thấp, không nói đúng, không nói sai. Nhưng vẫn luôn có tánh Biết trong đó.

* * *

Những đối đáp của Búp Bê, cho thấy là ứng khẩu, không phải người đã học bài bản. Theo đạo Phật, có thể Búp bê là một chủng tử. Không phải tự nhiên mà có năng lực này, mà trước đây cũng đã có tu. Qua sự triển biến của luân hồi nên kiếp này không thể quên hết.

ĐỐI PHÁP VỚI CHƯ – TĂNG – NI – PHẬT TỬ

Ngày 13/7/2007, Thiền viện Minh Đức tại huyện Tân Thành tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức một buổi giao lưu giữa Búp bê với gần 300 vị Chư, Tăng, Ni, Phật tử.

Tất cả đại biểu đều ngồi ghế, riêng Búp Bê thân hình nhỏ nhoi được ban tổ chức đặt ngồi trên một cái bàn để mọi người có thể quan sát được diện mạo.

Bé ngồi đó với sắc thái bình thản, ánh mắt ngỡ ngàng vì chưa xuất hiện trước các vị Hòa thượng, các vị Chư, Tăng, Ni, Phật tử đông như vậy trong một ngôi chùa lớn.

Trông bé như một búp sen đang vươn thẳng giữa đầm sen vậy.

Chứng minh cho buổi giao lưu lớn và quan trọng này, có Hòa thượng Thích Giác Hạnh – Phó Trưởng Ban Trị Sự  Giáo Hội Phật Giáo Tỉnh –  Trưởng Ban Hoằng Pháp –  Viện chủ các Chùa Hội Phước, Phước Duyên, Phước Lâm tỉnh Bà Rịa Vũng tàu; Hòa thượng Thích Nguyên Trực; Hòa thượng Thích Giác Cầu.

Thượng tọa Thích Minh Đức trụ trì thiền viện Minh Đức là trưởng ban tổ chức, đích thân dẫn chương trình.

Buổi vấn đáp về Phật Pháp này của Búp bê có thể nói là rất thú vị, tạo nhiều bất ngờ với những vị tham dự.

Một nhà sư chuyển lên ban tổ chức câu hỏi. Thầy Minh Đức đọc: “Tôi cả đời chỉ biết một chữ tu, từ 9 tuổi đã tham gia làm nhiều việc lành mà đến nay vẫn bị nghiệp chướng ngăn chính đạo, chừng nào tôi hết nghiệp chướng?”

Một cái micro không dây chuyển đến bàn tay bé nhỏ của Búp bê., bé nói:

-  Dạ thưa. Trong nghiệp tu của mình muốn hết nghiệp chướng, phải sống với chính mình. Làm sao phải sống được với cái tâm của mình thì giải nghiệp chướng nhanh hơn.

Một câu hỏi khác được thầy Minh Đức đọc: “Ngày nay có thánh nhân ẩn dật, hay có xuất hiện để độ đời không?

Búp Bê trả lời ngắn gọn:

-  Theo Búp Bê. Mình không cần biết điều đó, chỉ nên biết cái gì mình cần, mới biết.

Những câu hỏi dưới hàng ghế người tham dự liên tiếp chuyển lên. Thượng tọa Thích Minh Đức đọc tiếp: “Người tránh xa ngũ dục lạc có thề đắc quả trong kiếp này không?”.

Búp Bê đáp:

-  Tránh xa ngũ dục chưa thể đắc đạo mà phải tránh xa phiền não tham sân si và nhiều cái nữa thì mới đắc đạo được.

Hỏi:

-   Tôi đọc trong Lâm tế ngũ lực, khi một nhà sư có đến hỏi học đạo thì bị lấy gậy đánh mấy lần mà không giải một lời Pháp nào. Như thế là thế nào ?

Búp Bê ngánh về phía Thượng tọa Thich Minh Đức:

-   Búp Bê xin nhắn với Phật tử đó là dừng ngay lại đừng hỏi thêm nữa.

Một số câu hỏi không liên quan đến lý tu thì Búp Bê nói “Không hiểu”.

Cách trả lời của Búp Bê không sử dụng câu chữ dài dòng mà ngắn gọn đúng trọng tâm là dừng. Hầu hết những câu hỏi do các Chư, Tăng, Ni, Phật tử thông hiểu kinh Pháp, đã lựa những câu khó trong kinh Phật mang tính “thử” Búp bê trả lời có được không.

Có người còn tò mò: “Cô có nhớ đến tiền kiếp của cô không? Xin cho biết họ tên và nơi sinh sống của kiếp vừa qua?

-  Dạ, thưa Thầy. – Búp Bê ý nói với thầy Minh Đức – Người Phật tử đó dẹp bỏ những gì mình không cần, đừng tìm hiểu kiếp sống của người khác.

Hoặc có câu hỏi cũng có tính chất “thử” thế này: “Tại sao Búp Bê không đi như bao người khác?” Thì Búp bê trả lời gọn 5 từ:

-   Đó chính là nhân duyên?

Câu hỏi trên có thể khiến ta nghĩ tới nhân vật Ngộ Tĩnh – nguyên là một vị tu hành trở thành thánh được phong Quyện Liêm ban bửu trượng chầu Hoàng thượng trên cung đình, lỡ làm bể lưu ly bị đày xuống sông Lưu Sa dưới hạ giới, lấy tên sông làm Pháp danh là Sa Ngộ Tĩnh, phụng lệnh Bồ Tát chờ Đường Tăng thỉnh kinh qua sẽ theo làm đồ đệ.

Khi gặp Đường Tam Tạng, Ngộ Tĩnh quỳ vái, Đường Tăng thấy vái giống người tu hành nên đặt tên là Sa Tăng.

Cho nên Búp Bê không phân tích dài dòng mà trả lời câu hỏi trên với 5 chữ “Chính là nhân duyên” là vậy.

Một thích nữ tì kheo, hỏi: “Làm thế nào thoát khỏi bệnh hôn trầm?”

-  Vậy, phải định tâm. Định cách nào để hết hồn trầm, để kiến đạt đến con đường giải thoát – Búp Bế đáp.

Thầy Minh Đức đọc câu hỏi tiếp theo: “Căn cứ cơ sở nào? kinh sách nào? Kinh nghiệm nào mà Búp bê tham vấn với Phật tử về Phật Pháp?

Búp Bê thật thà, nét mặt biểu lộ hơi vui:

-  Dạ thưa. Con sống cũng có cái gì đó… con cũng không biết nữa mà tự nhiên có năng lực… mà con có thể trả lời những câu về Phật Pháp…

Hỏi: “Có ai tư vấn cho Búp Bê trước khi tham dự buổi vấn đáp lớn như thế này không?”

-  Thưa không, nếu có sự chuẩn bị thì Búp bê sẽ không trả lời được tự nhiên nên con đến đây trả lời các câu hỏi một cách tự nhiên thôi.

Các vị Hòa thượng đến chứng minh cho buổi vấn đáp này là người hỏi sau cùng. Hòa thượng Thích Giác Hạnh hỏi trước:

-  Xin hỏi Búp Bê một câu:  “Trong khi tu có 2 cái tâm: Tâm sinh diệt và tâm hiện tiền. Xin Búp Bê…  chỉ cho để tu”.

Biết Hòa thượng muốn thử Búp Bê sẽ đối thế nào. Nhưng Búp Bê đã không đối mà ứng xử với một phong thái điềm tĩnh như một vị tu từng trải, nói:

-  Thưa Hòa thượng. Theo con thấy, thì… – Khóat tay – Xin mời Hòa thượng uống nước – Rồi quan sát Hòa thượng – Cả hội trường bất ngờ vang tiếng cười ròn tan như gió ngàn ùa về lay động đầm sen. Mọi người quá rõ ý của người hỏi và ý ứng xử “Mời Hòa thượng uống nước” của người được hỏi – Búp Bê tủm tỉm cười rồi mới buông câu – Vì con không dám nhận.

Búp Bê nói: “Vì con không dám nhận” là do sau câu hỏi của Hòa thượng có thêm 4 từ “… chỉ cho để tu” thì với tư cách một em bé mới 6 tuổi chưa đọc kinh sách bao giờ làm sao có thể dám chỉ giáo cho một vị Hòa thượng, cho nên Búp Bê đã đối bằng cách… “Xin mời hòa thượng uống nước”.

Một Hòa thượng khác hỏi: “Con từ đâu đến ? Con biết không?” – Búp Bê không trả lời mà hỏi lại:

-   Thưa Hòa thượng. Hòa thượng từ đâu đến ?

Và câu hỏi của vị Hòa thượng thứ ba: “Con sẽ đi về đâu?” Búp Bê bình tĩnh trả lời:

-   Dạ… Thưa Hòa thượng. Con chưa đi nên con chưa biết.

Trước đó, trong gia đình Búp Bê có một lần cậu Tư tới thăm đã hỏi một câu tương tự như vậy. Nhưng ở đây câu hỏi đặt ra từ các vị Hòa thượng, câu, chữ, có vẻ giống nội dung nhưng cách nhả âm chứa đựng ẩn ý sâu xa đến phong thái của các vị Hòa thượng mà Búp Bê hiểu ý nên đã không trả lời. Cô có ý thức của người biết phép thứ bậc trong đạo Phật thì Búp Bê không cho phép mình “giảng” lại với các vị Hòa thượng.

Để tránh điều này nên cô bé đã khôn khéo… hỏi ngược lại trước mỗi câu hỏi của các vị Hòa thượng.

Xin trích dẫn một đoạn kinh sau có thể hiểu vì sao Búp Bê không trả lời các vị tiền bối: “Có lần Đường Thuận Tông hỏi thiền sư Phật Quang Như Mãn: Phật từ đâu đến? Tịch diệt đi về đâu? Nghe nói Phật thường trụ ở đời, bây giờ Phật ở đâu?

Thiền sư Như Mãn đáp: “Phật từ vô vi đến, tịch diệt trở về vô vi. Pháp thân như hư không, có trụ về vô trụ, đến vì chúng sinh đến, đi vì chúng sinh đi, thanh tịnh biển chân như, lặng lẽ thể thường trụ. Người trí khéo tư duy, chớ có sinh nghi ngờ”.

Vốn là thần đồng về Phật Pháp nên những câu hỏi của các vị Hòa thượng, Búp Bê dường như hiểu ý thâm sâu trong kinh Phật mà các cao tăng muốn dựa vào để thử Búp Bê đối sách thế nào.

Trước khi kết thúc buổi giao lưu, Hòa thượng Thích Giác Hạnh. nói:

-  Qua những câu hỏi… Có những câu hỏi không đúng trọng tâm, chính tôi cũng không biết trả lời ra sao đừng nói đến Búp Bê. Một em bé chưa nghe giảng, không học hành gì nên kinh tạng chưa hiểu. Những đối đáp của Búp Bê, cho thấy là ứng khẩu, không phải người đã học bài bản.

Theo đạo Phật, có thể Búp bê là một chủng tử. Không phải tự nhiên mà có năng lực này, mà trước đây cũng đã có tu. Qua sự triển biến của luân hồi nên kiếp này không thể quên hết.

Mười phần đã tu, đã học kiếp trước thì nay nhớ được 8 phần, không quên hết Phật Pháp. Như các vị Lạt Ma tái sinh hầu hết cũng nhớ được 8, 9 chục phần..

Đây là trường hợp ngoại lệ còn rơi rớt trong tiềm thức…

* * *

Cô bé Thùy Trang nay đã 10 tuổi, nhưng khi mới trên ba tuổi giọng nói còn líu lo như chim mới ra ràng, chưa biết đọc, biết viết, tâm hồn Búp Bê đã lấp ló ý thơ.

Kỳ 6: Bốn tuổi chưa biết đọc, biết viết – Làm thơ

Cô bé Thùy Trang nay đã 10 tuổi, nhưng khi mới trên ba tuổi giọng nói còn líu lo như chim mới ra ràng, chưa biết đọc, biết viết, tâm hồn Búp Bê đã lấp ló ý thơ.

Mỗi lần muốn làm thơ, thi sĩ “nhí” phải gọi bà ngoại hý hoáy viết giùm.

Thông thường với một người trước khi trở thành thi sĩ phải có vốn sống, phải đi nhiều, tiếp xúc nhiều, đọc nhiều. Nhưng với một bé thơ bốn tuổi, thậm chí không đi được thì khai thác từ quỹ sống nào để tạo thành thơ ?

Sinh ra đã có sẵn trí tuệ Phật Pháp hơn người nên bé gieo ý gì trong thơ cũng nương vào tâm từ bi của Phật để sáng tác. Thơ của bé chỉ dành cho người thân trong gia đình, họ hàng và các Ni ở các chùa mà Búp Bê đã tiếp xúc, rất trong sáng, ngộ nghĩnh.

Chất liệu trong thơ của bé tuy thiếu vắng hình ảnh hương đồng, gió nội, hoặc mô tả nỗi vui, buồn thông thường của con người, mà tâm từ, chất hạnh của một người tu được làm tư tưởng chính trong thơ để tạo thành những cung bậc đủ để người đọc gật gù, mỉm cười thán phục một nhà thơ chưa đầy bốn tuổi, ngoài khả năng uyên thâm về Phật Pháp lại còn một khả năng nữa là … thi sĩ.

Xin giới thiệu 10 bài trong 19 bài thơ đầu đời từ một tâm hồn bốn tuổi.

BÀI KỆ

Phiền não trải qua rồi

Tâm như như bất động

Thấy các Pháp đều không

Như gương trong phẳng lặng

Nhìn văn vật trên đời

Thấy tâm vẫn trống không

Người nào tu định tuệ

Thấy tâm như trí huệ

Cuộc đời này tạm giả

Có ai biết chăng nào

Khi tâm ta được định

Thấy vạn vật như không

Khi mình nhìn vạn vật

Nhưng tâm mình không loạn

Tai nghe lời chửi mắng

Tâm vắng lặng như như

Khi tâm mình đối cảnh

Tâm yên lặng thanh nhàn

CHÚC BÁC NĂM

Con xin chúc bác Năm

Được thật nhiều trí huệ

Để gieo khắp duyên lành

Bồ đề tâm tỉnh ngộ

Sáng suốt tâm lành minh

Cho thật nhiều hột giống

Để gieo khắp mọi nơi

Cho mọi người sáng suốt

Để được nhiều phước thêm

Bồ đề tâm vững chắc

Đến đây con xin dừng

CHÚC ÚT LÀNH BẠN SEN

Con xin chúc bà Út

Được tâm minh huệ sáng

Cho phiền não chẳng còn

Phiền não ấy là giả

Nên thấy giả mà buông

Nếu biết giả đừng chấp

Nên buông đi nhẹ nhàng

Đừng chấp mắc chuyện gì

Mọi cảnh ngoài là giả

Nhớ thấy rõ nội tâm

Mới hiểu tới chỗ này

Nhớ niệm Phật hàng ngày

Sớm vãng sanh cực lạc

CHÚC DÌ NĂM BẠN SEN

Con xin chúc dì Năm

Tâm sớm khai trí tuệ

Để gieo khắp duyên lành

Cho mọi người sáng tỏ

Để được nhiều phước thêm

Thoát được cảnh luân hồi

Vãng sanh nơi lạc Quốc

Sẽ được Phật ban cho

Không còn sanh, tử nữa

Để dứt nghiệp trần mê

Cho Bồ Đề được sáng

Tâm ngộ mãi, ngộ hoài

Chuyên cần lo tu tập

Sẽ chứng quả Bồ Đề

Tâm như như bất động

Là được Phật rước về

Con xin chúc dì Năm

Đến đây xin tạm dừng

Nam Mô A Di Đà Phật

CHÚC SƯ CÔ Ở CHÙA AN HÒA

Con xin chúc sư cô

Được thật nhiều trí huệ

Cho tâm linh rộng mở

Được hưởng cảnh an nhàn

Để gieo duyên khắp chỗ

Độ tất cả chúng sanh

Xin tóm tắt bài kệ

Búp Bê chúc sư cô

Được thật nhiều sức khỏe

Tâm an nhiên vắng lặng

Thì liền đáo Tây phương

Tâm an cảnh định

Trí huệ phát khai

Vãng sanh cực lạc.

CHÚC QUÝ BÀ  BÊN CẠNH CHÙA AN HÒA

Con xin chúc quý bà

Được ngày ngày thanh tịnh

Cho trí huệ mở ra

Tâm lành minh sáng suốt

Để được sống an vui

Bồ đề tâm vũng chắc

Không còn bị não phiền

Chuyên trì câu lục tự

Bao nhiêu điều khổ não

Chẳng còn ở nơi tâm

Mọi việc trần phủi cả

Để gieo rắc duyên lành

Cùng tất cả chúng sanh

Vượt qua vòng sanh tử

Đi thẳng tới Tây phương

Được gặp Phật Di Đà

Nỗi mừng vui khôn xiết

Vui mừng ấy tại tâm

Để tóm tắt bài kệ

Búp Bê có mấy lời

Xin kính chúc quý bà

Được thật nhiều sức khỏe

Sớm chiều lo phản tỉnh

Đẹp tâm, đẹp nết, đẹp người

Đẹp luôn duyên dáng cho đời soi gương

Cuộc đời như bọt nước trôi

Bao nhiêu tham nhục kéo lôi con người

CHÚC BÀ NGOẠI

Con chúc ngoại yên vui

Sống cuộc đời thanh thản

Cho tâm linh được sáng

Sẽ được Phật rước về

Chim phát xuất từ đâu

Rồi đâu chim lại chết

Cảnh vô thường biến đổi

Trong lúc tâm vô thường

Tu cho đạt lý mầu

Để thấu Pháp cao sâu

Vượt khỏi vòng sanh tử

Không còn đau khổ nữa

Được vĩnh viễn an vui

Tâm mãi mãi giải thoát

Tâm được định hoàn toàn

Được vãng sanh cực lạc

CHÚC BÀ NGOẠI NHÂN NĂM MỚI

Bước sang thềm năm mới

Con xin chúc bà ngoại

Đạo tâm luôn phấn khởi

Để hưởng cảnh an vui

Ngày ngày lo tu niệm

Sớm diện kiến Phật tâm

Lúc đi đứng ngồi, nằm

Thường soi tâm cho tột

Được thấy rõ tâm mình

Như gương trong phẳng lặng

Một màu không ô nhiễm

Phủi sạch hết bụi trần

Được an vui giải thoát

Sống thanh thản an nhàn

Không còn lo bận rộn

Là cực lạc thế gian

Con xin có mấy lời

Đến đây xin tạm dừng

Nam Mô A Di Đà Phật

CHÚC CÔ GIÁO PHỤNG

Được ngày ngày thanh tịnh

Cho trí huệ sáng ra

Để cuộc đời tươi sáng

Để được nhiều phước điền

Sống an vui thanh tịnh

Được ngộ quả giải thoát

Nhớ quán chiếu nội tâm

Đến đây xin tạm dừng

TẶNG THẦY GIÁO NHỰT ĐỨC

Thấy muôn Pháp đều không

Không, không, không tất cả

Đừng bị rớt nửa chừng

Cuộc đời nay là giả

Cùng tất cả chúng sanh

Vượt qua vòng sanh, tử

Đến đây xin tạm dừng

Nam Mô A Di Đà Phật

Sau này, Búp Bê tự học, tập đọc, tập viết ở nhà.

Lời kết

Trong đời thường, Búp Bê vẫn vô tư, vui vẻ và chơi đùa với những đứa trẻ hàng xóm sang chơi thì cùng đọc truyện, cùng chơi gì đó, có lúc Búp Bê chỉ ngồi trên giường loay hoay với những Phật cụ riêng của mình.

Chỉ khi nào có khách tới thăm muốn tham vấn về Phật Pháp, người ta lại thấy một Búp Bê đĩnh đạc, nét mặt nghiêm túc, giọng nói không trầm, không bổng, rõ ràng, ngắn gọn, chẩn xác, tự tin, “uy” như một thiền sư đang ngồi giảng.

Do sức khỏe, một phần chưa biết chữ nên chưa nghiên cứu kinh sách nên cách giải đáp không dùng các từ Hán – Nôm như những giảng sư. Búp Bê thường nói những gì cần nói một cách xúc tích, sâu sắc, đúng kinh Pháp, biểu lộ nhiều điều về phước, đức, gieo từ bi, người nghe dễ hiểu. Đã khiến mọi người chú tâm nghe, để lại ấn tượng sâu sắc, không bị thoát ra ngoài tâm. Góp phần khai thông trí tuệ cho người đang tu học.

Qua buổi tham dự vấn đáp với các Chư – Tăng – Ni – Phật tử tại Thiền viện Minh Đức, cho thấy Búp Bê tuy chưa có điều kiện nghe giảng Pháp, học hỏi kinh Phật, nhưng trong tiềm thức đã có sẵn kiến thức Phật học sâu rộng, có bản lãnh trả lời những câu hỏi, những thắc mắc của các vị đại biểu tham dự đặt ra.

Trong đó có một số câu hỏi có tính chất bắt bẻ của thính chúng, Búp Bê đã bản lãnh ứng xử một cách từ bi, bình đẳng. Luôn nương vào kinh Phật giải đáp giáo pháp một cách thực lòng để họ dễ hiểu và có thể thực hành, giống như người thầy thuốc tùy theo căn nguyên gây ra bệnh mà cấp toa thuốc vậy. Phật dạy: “Người Phật tử tu tập cũng tùy duyên” để trên bước đường tu, tâm không bị dao động mỗi khi gặp chuyện ngang trái cuộc sống hàng ngày.

Đặc biệt là khả năng làm thơ của Búp Bê cũng khiến người đọc ngạc nhiên, từng ý, từng từ vận dụng trong mỗi bài đều dựa vào chủ đề về tâm Phật. Trong bài thơ chúc bà ngoại, Búp bê đã dùng hình tượng cái gương làm sự phản chíếu cho người đang tu soi dọi, để tự nhìn vào tâm mình. Đó là sự độc đáo ở câu: “Như gương trong phẳng lặng Một màu không ô nhiễm…”.

Có lẽ ngoài đời chưa ai gọi là “mầu” gương, cũng chưa một nhà thơ nào lại coi mặt gương có “mầu” mà Búp Bê đã thăng hoa sự trong sáng của mặt gương là Một màu không ô nhiễm. Là sự sáng tạo của vần, câu, chữ trong thơ về đạo Phật của một cô bé 4 tuổi, chưa biết đọc, biết viết. Không thể gọi Búp Bê khác hơn là “Thần đồng”, cả về Phật Pháp và lĩnh vực làm thơ.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #sanghk