1.thực trạng và giải pháp về đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở

                                           Bài 1: Hệ thống Chính trị

Câu 1: Phân tích thực trạng và nêu giải pháp về đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở của Thành phố Hà Nội hiện nay.

Trả lời:

Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thể chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các phong trào  xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội…) được xây dựng trên  các quyền và  các chuẩn mực  xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị.

Cấu trúc  hệ thống chính trị nước ta:

Hệ thống chính trị nói chung được tạo thành từ nhiều bộ phận, mỗi bộ phận đó lại la một kết cấu phức tạp bao gồm nhiều bộ phận nhỏ khác, có thể coi đó là các “tiểu hệ thống”.

Đối với hệ thống chính trị Việt Nam nói chung, về cơ bản được tổ chức gần giống với hệ thống chính trị nhiều nước trên thế giới, tuy nhiên nó cũng có một số đặc trưng khác, phù hợp với tình hình thực tế và nguyện vọng của nhân dân.

Cấu trúc hệ thống chính trị nước ta bao gồm ba bộ phận chính:

Đảng CSVN, Nhà nước, MTTQVN và các đoàn thể nhân dân (tổ chức chính trị xã hội) bao gồm: Tổng liên đoàn lao động VN, ĐTNCSHCM, Hội Nông dân VN, Hội CCB VN, Hội Phụ nữ VN.

Với vai trò là  cấp chính quyền địa phương, Hà nội là thủ đô của  đất nước, là trung tâm văn hóa chính trị, kinh tế xã hội của cả nước, do vậy nó mang những đặc trưng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vùng miền.

Xét về vị trí vai trò: Hà nội là thủ đô; là  1 bộ phận trong kết cấu tổ chức hành chính nước CHXHCN VN. Là một bộ phận trong nhà nước thống nhất, do đó, thủ đô hà nội mang những đặc điểm về tổ chức hệ thống chính trị; và hệ thống chính quyền theo những nguyên tắc tổ chức,và những quy định về tổ chức  bộ máy theo luật định.

1.      Đặc điểm hệ thống chính trị Hà Nội

Hiện nay, hệ thống chính trị cấp thành phố hà nội  gồm 3 bộ phận cấu thành:

+ Đảng bộ các cấp: được lập ở các cấp đơn vị hành chính, các cơ sở công lập, đơn vị nhà nước trên địa bàn Thành phố. Đa phần các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp đều có tổ chức cơ sở đảng.

+ HĐND – UBND các cấp: thiết lập bộ máy hành chính ở cả 3 cấp: TP,  Quận, huyện, thị xã; Xã, phường Thị trấn

+ MTTQ và các đoàn thể thành viên: tổ chức xuyên suốt theo cấp hành chính;  và một số đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn TP HN

Đối với hệ thống chính trị cấp cơ sở

Hệ thống chính trị cơ sở  đã được xây dựng và phát triển hoàn thiện đầy đủ với các tổ chức, bộ máy, từ tổ chức Đảng đến chính quyền, mặt trận Tổ Quốc và các đoàn thể.

- Hệ thống đó cũng đã được xây dựng hoàn thiện từ xã, thị trấn đến các khối xóm.

- Chức năng nhiệm vụ của các Tổ chức cũng đã được phân định ngày càng rạch ròi hơn.

- Các văn bản làm cơ sở chính trị, pháp lý cho các hoạt động của các tổ chức cũng dần được hoàn thiện.

- Đội ngũ cán bộ công chức, nhân viên được bổ sung ngày càng đông đảo, được phân định chức năng khá rõ ràng từ xóm; xã, phường, thị trấn; đến các quận, huyện.

Có thể nói, Hệ thống chính trị cấp cơ sở của TP.Hà Nội có vị trí rất quan trọng, là nơi thể hiện một cách trực tiếp, cụ thể hiệu lực, hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước cũng như phát huy quyền làm chủ của nhân dân  trong các hoạt động KT– XH ở cơ sở. Những nội dung về đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở gồm: Đổi mới về tổ chức và vận hành bộ máy; Đổi mới về đội ngũ cán bộ; Đổi mới về quan hệ với nhân dân;

Phương châm của việc đổi mới  là: Thực hiện đổi mới từng bước vững chắc trên cơ sở đổi mới kinh tế; Khâu mấu chốt là phân định rõ chức năng và giải quyết tốt mqh giữa Đảng, Nhà nước và MTTQ; Hướng về cơ sở, tăng cường hiệu lực hiệu quả của hệ thống chính trị ở cơ sở.

Thực trạng về đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở của TP.HN hiện nay đề cập đến những kết quả đạt được cũng như những hạn chế  nhất định.

-          Về kết quả:

Qua các giai đoạn cách mạng các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở đã góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Đảng và Nhà nước đã chăm lo đến tổ chức bộ máy và công tác cán bộ nói chung, tổ chức bộ máy và cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở nói riêng. Việc ra đời các Nghị quyết của Đảng như Nghị quyết TW5 khóa IX, NQ TW4, TW6 khóa X; Luật cán bộ, công chức năm 2008; các Nghi định 114, 121 năm 2003,NĐ 92 năm 2009, NĐ 112 năm 2011 về hệ thống chính trị cơ sở và cán bộ công chức cấp xã, đã chứng minh điều đó.

Là một bộ phận không tách rời của hệ thống chính trị cả nước, hệ chống chính trị cấp cơ sở đã góp phần to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và đổi mới đất nước.

Có thể nói hệ thống chính trị cơ sở đã từng bước được định hình và không ngừng được đổi mới theo hướng ngày càng phù hợp hơn đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng nhiều, càng khó khăn phức tạp hơn. Cụ thể:

Hệ thống chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân các cấp tiếp tục được củng cố, kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên

Hoạt động của chính quyền các cấp có nhiều đổi mới, tiến bộ; hiệu lực, hiệu quả được tăng cường, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Thủ đô trong tình hình mới. Dân chủ trong các kỳ họp và tiếp xúc cử tri được phát huy tích cực. Công tác kiểm tra, giám sát được coi trọng, tập trung vào những lĩnh vực, vấn đề bức xúc đang được cử tri, xã hội quan tâm. Công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý của UBND các cấp quyết liệt, sâu sát, cụ thể và có hiệu quả hơn. Chương trình của Thành ủy về đẩy mạnh cải cách hành chính được thực hiện đồng bộ, tạo chuyển biến tích cực. Thực hiện việc giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” bước đầu đạt kết quả tốt. Nhìn chung, ý thức trách nhiệm và năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp được nâng lên. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân được quan tâm thực hiện có nền nếp ngay từ cấp cơ sở, góp phần hạn chế tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp, phức tạp, kéo dài.

Công tác cải cách tư pháp được tập trung chỉ đạo; cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư, năng lực, vai trò, chất lượng của các cơ quan tư pháp có chuyển biến tiến bộ; công tác hoà giải ở cơ sở được chú trọng, hoạt động hiệu quả, góp phần bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.  

Hoạt động của MTTQ và các đoàn thể nhân dân đã có nhiều đổi mới theo hướng “đa dạng, thiết thực, gần dân”. Đã có nhiều phong trào và hình thức hoạt động phong phú để tuyên truyền, vận động, tập hợp đoàn kết các tầng lớp nhân dân Thủ đô và được tổ chức sâu rộng, có hiệu quả thiết thực. Chú trọng nắm bắt tư tưởng, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; từng bước tham gia các hoạt động phản biện xã hội, giám sát thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.

Chất lượng đoàn viên, hội viên có chuyển biến tốt hơn. Nhiều tổ chức yếu kém được củng cố, kiện toàn. Sự phối hợp hoạt động giữa MTTQ và các đoàn thể nhân dân với chính quyền các cấp chặt chẽ và có hiệu quả hơn, đóng góp thiết thực vào thành tựu chung của sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô.

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được tập trung chỉ đạo, đạt kết quả bước đầu

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X), Thành uỷ đã chú trọng xây dựng và triển khai các chương trình, kế hoạch về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo và tổ chức bộ phận chuyên trách về phòng, chống tham nhũng cấp Thành phố; gắn việc thực hiện nhiệm vụ chính trị với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, chú trọng các giải pháp phòng ngừa; chuẩn hoá các quy trình công việc theo hướng đơn giản, công khai, dân chủ v.v.. cùng với việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các lĩnh vực công việc trọng yếu, đã tạo được chuyển biến tích cực.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được tổ chức thực hiện đồng bộ và đạt kết quả quan trọng

Quán triệt và tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các Nghị quyết Trung ương (khóa X) và các chỉ thị, nghị quyết của Thành ủy, đặc biệt là Chương trình số 02 của Thành ủy “Tạo bước chuyển biến mạnh về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, giai đoạn 2006 - 2010”, công tác xây dựng Đảng và tình hình Đảng bộ đã có chuyển biến tích cực:

Công tác chính trị, tư tưởng được chú trọng, đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Thành phố. Việctổ chức nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Đảng tiếp tục được đổi mới, gắn với xây dựng, triển khai các chương trình, kế hoạch cụ thể để thực hiện; nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm, tạo sự thống nhất ý chí và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên và sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân Thủ đô.

Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được triển khai thực hiện nghiêm túc, sâu rộng, có hiệu quả, gắn với nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Sau gần 4 năm thực hiện, nhận thức và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và đông đảo các tầng lớp nhân dân Thủ đô đã có chuyển biến tích cực.

Công tác tổ chức, cán bộ tiếp tục đổi mới và được chọn làm khâu đột phá bước đầu có chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực: Đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển và thực hiện chính sách cán bộ ([1]). Một trong những thành công của công tác cán bộ được thể hiện rõ là đã chủ động sắp xếp, bố trí, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chủ chốt của Thành phố bảo đảm phục vụ tốt cho các hoạt động của Thủ đô sau khi mở rộng địa giới hành chính. Công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên được đẩy mạnh([2]). Tổ chức cơ sở đảng ở các phường, xã, thị trấn, trong các loại hình doanh nghiệp từng bước được đổi mới, kiện toàn, chất lượng hoạt động có chuyển biến tốt hơn.  Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm thực hiện tốt.

Công tác kiểm tra, giám sát được triển khai thực hiện có hiệu quả. Các cấp ủy đảng và Ủy ban kiểm tra các cấp đã chủ động kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng, tăng cường kỷ cương, kỷ luật; giữ gìn nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ; bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, góp phần tích cực vào đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác trên địa bàn Thành phố.

Công tác dân vận có chuyển biến tiến bộ. Hệ thống dân vận từ Thành phố tới cơ sở được củng cố, kiện toàn, phát huy tốt vai trò chỉ đạo, định hướng các phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Công tác tôn giáo, dân tộc được quan tâm chỉ đạo. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở từng bước đi vào nền nếp và phát huy hiệu quả tích cực.

Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng tiếp tục được đổi mới, theo hướng mở rộng dân chủ, sát cơ sở, chỉ đạo tập trung, kiên quyết, dứt điểm, hiệu quả, thực hiện "nói đi đôi với làm". Năng lực lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của cấp ủy, sức chiến đấu của tổ chức đảng, chất lượng của đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao. Chú trọng khâu kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong giải quyết công việc; phát hiện, tháo gỡ và xử lý kịp thời những vấn đề nổi cộm, bức xúc trong dân.

Việc thực hiện dân chủ trong Đảng bộ và trong đời sống xã hội Thủ đô có nhiều tiến bộ. Quyền làm chủ, sức mạnh tổng hợp và sự đồng thuận của nhân dân đượcphát huy, các hoạt động thảo luận, phản biện, đối thoại trong quá trình tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Thành phố được mở rộng. Nhiều chủ trương, cơ chế, chính sách đúng đắn đã phát huy hiệu quả trong thực tiễn cuộc sống. Quá trình thực hiện dân chủ hóa, gắn với đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Thủ đô vào sự nghiệp đổi mới và sự lãnh đạo của Đảng bộ. Nhìn chung, đại đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiền phong, gương mẫu trong công tác, học tập, lao động, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống, phát huy vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới, góp phần xứng đáng vào thành tựu chung của sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô và đất nước.

Đạt được những thành tựu và kết quả nêu trên là do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, tập trung vào một số nguyên nhân chủ yếu sau: 

Thành phố luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự giúp đỡ hiệu quả của các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương; sự ủng hộ, hợp tác tích cực của các tỉnh, thành và bạn bè quốc tế. 

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Nội luôn phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, đã huy động được các nguồn lực trong xã hội phục vụ yêu cầu xây dựng, phát triển. Công tác lãnh đạo, điều hành của cấp uỷ, chính quyền các cấp được đổi mới, tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quyết liệt, có hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, đảng viên nhìn chung đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 

Chủ động xây dựng và triển khai các chương trình hành động, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp nhân dân, chung sức, đồng lòng xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh.

- Về hạn chế:

* Tuy nhiên, so với yêu cầu CNH, HĐH đất nước, chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân thì tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị cơ sở còn bộc lộ nhiều hạn chế. Thực trạng chung đó cũng có thể nhận thấy một cách rõ nét ở HN. Trong đó nổi bật nhất là những vấn đề như sau:

- Tuy đã có sự phân định chức năng nhiệm vụ và cơ chế phối hợp giữa các tổ chức nhưng thực tế hoạt động vẫn chứng tỏ đang có quá nhiều sự trùng lặp, hoặc thiếu rõ ràng, nhất là giữa sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của chính quyền cơ sở; giữa công tác dân vận của chính quyền với hoạt động của các đoàn thể...

- Vấn đề thực quyền của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn: Đây là một vấn đề rất lớn và nhạy cảm. Có thể nói với cách tổ chức, cơ cấu đại biểu và cơ chế hoạt động như hiện nay HĐND xã, phường, thị trấn không có thực quyền, Nghị quyết của HĐND chỉ là bản sao, hoặc minh họa cho nghị quyết của Đảng ủy.

- Bộ máy của hệ thống chính trị cơ sở còn quá cồng kềnh, có xu hướng quan liêu, xa dân ngay tại cơ sở, dẫn đến số lượng cán bộ, công chức, nhân viên ngày càng đông, chi phí ngân sách ngày càng lớn. (Tính trung bình mỗi xã, phường, thị trấn hiện nay có tới 230 cán bộ được hưởng lương và các loại phụ cấp). VD: Tỉnh Quảng Vinh, Quảng Xương, Thanh Hóa => xã có 500 cán bộ thì có 379 CB là CC.

- Đội ngũ cán bộ công chức và nhân viên tuy đã có bước chuyển biến về trình độ, năng lực nhưng đặt ra nhiều vấn đề về phẩm chất chính trị và đạo đức, kỹ năng tác nghiệp, tác phong và văn hóa ứng xử. Tính chính nghiệp có xu hướng nâng lên, nhưng đồng tời xu hướng quan liêu, xã dân cũng ngày một tăng, cấp xã, phường, thị trấn và cấp quận huyện có nguy cơ trở thành cấp trung gian.

 - Cơ chế lãnh đạo tập thể ngoài những ưu điểm cũng đã bộc lộ những hạn chế rõ nét trong hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở. Điển hình là trách nhiệm, quyền năng của cá nhân không được xác định, quy định một cách rõ ràng, cụ thể đã làm triệt tiêu, hoặc làm giảm vai trò, sự sáng tạo và suy nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm của cá nhân người lãnh đạo.

- Cơ sở vật chất và điều kiện làm việc, điều kiện đảm bảo, chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế, cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả và chất lượng công việc.

Đối với vai trò của Đảng ủy

Tình trạng đảng làm thay chính quyền vẫn còn diễn ra phổ biến.

Đảng ủy cơ sở chưa phát huy vai trò của mình trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động tại cơ sở;  và trò lãnh đạo có xu hướng mờ nhạt

Công tác kiểm điểm, phê bình, tự phê bình được thực hiện 1 cách hình thức,  tình trang suy thoái phẩm chất đạo đức, phẩm chất chính trị đảng viên có xu hướng gia tăng….

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố hệ thống chính trị chuyển biến chưa đồng bộ. Vai trò hạt nhân chính trị, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp uỷ và một bộ phận đảng viên còn yếu, nhất là tổ chức đảng ở khối doanh nghiệp ngoài nhà nước, doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài; chất lượng sinh hoạt, tự phê bình và phê bình ở không ít cơ sở đảng còn hạn chế, kỷ cương kỷ luật chưa nghiêm. Công tác kiểm tra, quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên ở cơ sở, nhất là khối xã, phường, doanh nghiệp tư nhân thiếu chặt chẽ, hiệu quả thấp. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu tu dưỡng, học tập, rèn luyện và công tác; giảm sút ý chí chiến đấu, vi phạm phẩm chất, đạo đức, lối sống; một số ít có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, nhũng nhiễu, tiêu cực, vi phạm pháp luật. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số xã, phường, đơn vị chưa thực sự phát huy được hiệu lực, hiệu quả. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở một số nơi còn hình thức.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành còn bộc lộ những yếu kém, khuyết điểm; có bộ phận còn trì trệ, kém hiệu quả. Một bộ phận cán bộ, công chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, trình độ, năng lực hạn chế, né tránh trách nhiệm, nhất là những việc khó, nổi cộm, bức xúc.

Đối với mặt hoạt động của MTTQ và các thành viên:

Mặc dù công tác tổ chức được thực hiện tới tận cấp cơ sở, các tổ chức thành viên đã sâu rộng tới từng khu phố, thôn, xóm, tuy vậy chất lượng hoạt động chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn, và còn mang nặng tính hình thức.

Các tổ chức thành viên chưa lôi kéo hết được lực lượng ở địa phương tham gia vào mặt trận; chưa tương xứng với nhiệm vụ chính trị giao phó. Chưa thực sự là mặt trận đoàn kết, thống nhất các tầng lớp nhân dân ở địa phương, tham gia vào hoạt động quản lý của nhà nước ở địa phương và các cấp chính quyền.

Cơ chế phối hợp giữa Đảng, chính quyền, mặt trận  và các tổ chức thành viên còn mờ nhạt, thiếu sự quan tâm và hợp tác đúng mức. Nhiều hoạt động của chính quyền có sự tham gia của Mặt trận tổ quốc còn mang tính hình thức, chưa thể hiện hết được tâm tư, nguyện vọng của người dân.

Đại hội ĐB Đảng bộ TP Hà nội lần thứ XV của Đảng bộ TP HN đã nhận định, trong thời gian qua hệ thống chính trị cơ sở để lại nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập khó tháo gỡ; cụ thể: MTTQ và các đoàn thể nhân dân ở một số cơ sở xã, phường, thị trấn hoạt động chưa hiệu quả, còn mang tính hình thức, chưa làm tốt công tác giám sát, phản biện xã hội, vận động, tập hợp, thu hút đoàn viên, hội viên. Cải cách hành chính, giải quyết đơn thư, thực hiện Quy chế dân chủ chưa đạt yêu cầu. Hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa cao. Tình trạng lãng phí, thất thoát trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong quản lý đất đai, thực hiện các dự án, quản lý, sử dụng tài sản và ngân sách nhà nước của một số ngành, địa phương, đơn vị chậm được khắc phục.

Thực trạng trên đây đã và đang đặt ra nhiều vấn đề rất lớn vừa lâu dài vừa cấp bách cả về nhận thức và hành động, cả về hệ thống và hoạt động cụ thể của mỗi tổ chức cá nhân. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ cơ sở ở HN trong thời gian qua, nhất là trong những năm đổi mới gần đây cũng đã cho chúng ta những kinh nghiệm và bài học, qua đó có thể rõ hơn phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hệ thống.

Những hạn chế, khuyết điểm trên có những nguyên nhân chính sau:

Về nguyên nhân khách quan: Khối lượng công việc phải giải quyết trên địa bàn Thủ đô trong nhiệm kỳ là rất lớn, đa dạng, phức tạp, trong khi hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ở một số lĩnh vực ban hành chậm,thiếu đồng bộ, không ít nội dung còn chồng chéo, bất hợp lý. Sự phối hợp giữa các bộ, ban, ngành Trung ương với Thành phố một số việc chưa đồng bộ, hoặc chưa thống nhất, nhất là trong việc xây dựng một số cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ những khó khăn từ thực tiễn, tạo điều kiện để thủ đô Hà Nội phát triển nhanh, bền vững.

Về nguyên nhân chủ quan: Công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện của Thành phố trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể ở không ít địa phương, cơ sở, sở, ngành còn thiếu năng động, quyết liệt, thậm chí trì trệ, chưa theo kịp yêu cầu chỉ đạo của Thành phố. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành có lúc, có việc chưa tốt, còn có hiện tượng đùn đẩy, né tránh việc khó; xem xét, xử lý trách nhiệm còn thiếu kiên quyết. Công tác tự kiểm tra, giám sát của nhiều đơn vị, cơ sở chưa được thực hiện thường xuyên. Phẩm chất đạo đức, năng lực trình độ, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. 

* Giải pháp:

Thực trạng trên đây đã và đang đặt ra nhiều vấn đề rất lớn vừa lâu dài vừa cấp bách cả về nhận thức và hành động, cả về hệ thống và hoạt động cụ thể của mỗi tổ chức cá nhân. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ cơ sở ở HN trong thời gian qua, nhất là trong những năm đổi mới gần đây cũng đã cho chúng ta những kinh nghiệm và bài học, qua đó có thể rõ hơn phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu lực và hiệu quả của hệ thống. Dưới đây là một số đề xuất và kiến nghị cụ thể:* * Giải pháp chung:

-          Đối mới hệ thống chính trị nói chung, hệ thống chính trị cấp cơ sở nói riêng cần tuân thủ những định hướng có tính giải pháp lớn được ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX nêu rõ và đc kđ trong NQ của ĐHĐB toàn quốc lần thứ X như sau:

+ XD NN pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng;

+ Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của NN;

+ Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế: Hoàn thiện hệ thống bầu cử, xd luật trưng cầu dân ý; thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, tăng cường pháp chế,...

+ Xd chỉnh đốn đảng, ncao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng;

+ Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của MTTQ và các đoàn thể ND.

-          Đổi mới hệ thống chính trị nói chung, HTCT cấp cơ sở nói riêng không thể rời xa các mục tiêu có tính nguyên tắc sau:

+ Đối mới hệ thống chính trị nhằm tạo đk cho ổn định CT, phát triển KT-XH;

+ Đổi mới hệ thống chinh trị phải đảm bảo tăng cường, sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị;

+ Đổi mới hệ thống chính trị nhằm tăng cường hiệu quả của hệ thống chính trị theo hướng xd NN pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

Giải pháp riêng:

1/ Thứ nhất là cần: Quy trình hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ”.

-           Thực tế cho thấy ở cấp cơ sở: Quận, huyện; xã, phường,thị trấn, khối xóm nếu chỉ dừng lại ở quan điểm, cơ chế, nguyên lý chung chung thì đội ngũ cán bộ rất khó vận dụng. Vì vậy, cần phải nghiên cứu để cụ thể hóa những vấn đề nói trên thành quy trình, bao gồm các bước công việc với những kỹ năng cụ thể. Từ kinh nghiệm thực tế cho thấy ta có thể hình dung trên đại thể quy trình đó bao gồm những bước cơ bản sau đây:

Đảng (cấp ủy, chi bộ) ra chủ trương (Nghị quyết, chỉ thị, thông báo ý kiến chỉ đạo...) ---> Chính quyền (HĐND, UBND cấp quận huyện và xã, phường, thị trấn; xóm, khối trưởng...) cụ thể hóa thành đề án, kế hoạch + MTTQ và các đoàn thể vận động nhân dân thực hiện---> Đảng kiểm tra, tổng kết đúc rút kinh nghiệm. Ở mỗi bước như vậy lại cụ thể hóa thành quy trình riêng cụ thể, ví dụ quy trình ra chủ trương của cấp ủy; quy trình xây dựng kế hoạch của chính quyền; quy trình tuyên truyền vận động nhân dân của MTTQ và các tổ chức đoàn thể... Tin rằng nếu có những quy trình, với các bước thực hiện được xác định rõ ràng cụ thể, phù hợp với năng lực đội ngũ đội ngũ cán bộ cơ sở thì hiệu quả, chất lượng công việc sẽ được cải thiện.

2/Thứ hai là: Cần sớm xác định lại vị trí, chức năng của Hội đồng nhân dân cấp xã, phường.

-             HĐND cấp xã, phường chỉ là "cơ quan đại biểu có tính chất tự quản, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân xã, phường". Hoạt động của HĐND phải hướng mạnh vào việc thực hiện vai trò tự quản của cộng đồng dân cư ở xã, phát huy được trên thực tế quyền và trách nhiệm của mình trong việc quyết định và giám sát thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội cũng như giám sát mọi hoạt động của UBND xã, phường (cơ quan hành chính).

Nhiệm vụ của HĐND xã, phường, thị trấn cần điều chỉnh theo hướng cụ thể, rõ ràng, sát với thực tế và phù hợp với vai trò của nó; Giảm bớt những nhiệm vụ chung chung, không có tính chất khả thi như hiện nay.

-           Khi xác định HĐND là cơ quan đại biểu có tính chất tự quản thì việc bầu cử không nên nặng về cơ cấu (độ tuổi, giới tính, thành phần) mà nên coi trọng thật sự tiêu chuẩn, trình độ, năng lực, độ tín nhiệm và ý thức trách nhiệm của đại biểu. Đồng thời nên hạn chế đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị tham gia làm đại biểu HĐND, đảm bảo mỗi xóm, khối có ít nhất một đại biểu của mình trong HĐND. Do vậy, việc ấn định số lượng đại biểu HĐND không nên căn cứ vào dân số như hiện nay mà nên xác định cơ cấu thành phần trong HĐND để ấn định số lượng đại biểu HĐND. Có thể quy định theo hướng các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, kinh tế, nghề nghiệp lớn trong xã có 1 đại biểu, mỗi xóm, khối có 1 đại biểu,… như vậy tính đại diện sẽ cao hơn.

3/ Thứ ba: Cần sớm thực hiện chủ trương nhất thể hóa chức danh Bí thư Đảng ủy xã và Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.

Đây là một chủ trương đúng và cần thiết hiện nay. Song,sau khi thực hiện thí điểm cần tổng kết kinh nghiệm, để sớm nhân ra diện rộng. Trước mắt, cần khảo sát, đánh giá đội ngũ cán bộ chủ trì các xã, khả năng thực hiện nghĩa vụ, quyền hạn, trách nhiệm của người này.

4/ Thứ tư: Cần tổ chức thực hiện chủ trương để cho toàn thể cử tri trực tiếp bầu Chủ tịch xã, phường, thị trấn trên phạm vi toàn quốc, đồng thời giao nhiều quyền năng hơn cho chức danh Chủ tịch xã.

Đây là chủ trương đã được nêu lên trong Nghị quyết 5 của BCHTƯ khóa 9 về Hệ thống chính trị cơ sở, thế nhưng trên thực tế theo đề án của Bộ Nội vụ mới thí điểm 39 tỉnh trong khắp cả nước. Từ thực tế ở HN, thấy rằng có thể và cần sớm tổ chức thực hiện việc này trên phạm vi toàn quốc. Tổ chức làm thí điểm trước  để rút kinh nghiệm là yêu cầu cần thiết; chọn những xã có phong trào khá, dân trí cao, dân cư chủ yếu là “dân góp”, không có nhiều hiện tượng bè phái, dòng họ, đội ngũ cán bộ hiện có uy tín trong nhân dân. lập kế hoạch chi tiết, coi trọng việc tuyên truyền nâng cao nhận thức về quyền và trách nhiệm cho nhân dân. Tạo điều kiện và tổ chức tốt việc vận động tranh cử cho các ứng cử viên một cách công khai, công bằng. Tổ chức Đảng giới thiệu người và có hình thức vận động cho ứng cử viên của mình, nhưng không được áp đặt một cách cứng nhắc, lộ liễu, ảnh hưởng đến các ứng cử viên khác. Sau khi làm thí điểm việc tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm một cách sâu sắc để từng bước nhân rộng chủ trương là điều tất yếu.

-           Đồng thời với việc tổ chức cho cử tri bầu trực tiếp chủ tịch xã, phường, thị trấn trên toàn quốc cần phải phân quyền nhiều hơn cho chức danh này, để cho chủ tịch xã có thẩm quyền cá nhân quyết định những vấn đề quan trọng, cấp bách của xã. Theo hướng này sẽ phát huy được tính chủ động sáng tạo, tính dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của người đứng đầu chính quyền cơ sở. Tuy nhiên, khi đó cơ chế kiểm tra, giám sát đối với chức danh này cũng phải được thay đổi tương ứng, sao cho có thể sớm phát hiện để uốn nắn, hoặc ngăn ngừa các hành vi sai trái, lạm dụng quyền lực.

5/ Thứ năm: Điều chỉnh, tổ chức lại xóm cũng như các khu phố; Xây dựng nội dung, biên soạn chương trình bồi dưỡng xóm trưởng, biên soạn Sổ tay Xóm trưởng và xây dựng danh hiệu Xóm trưởng giỏi.

-           Trên cơ sở nhìn nhận lại một cách đúng đắn hơn vị trí vai trò của xóm, đặc biệt về khía cạnh an ninh, văn hóa, xã hội, cần phải tính toán việc điều chỉnh và tổ chức lại xóm. Nhiều nơi, xóm hiện nay chỉ là sự chuyển tên gọi từ đội sản xuất của thời kỳ hợp tác xã cũ sang, còn về phạm vi, quy mô thì không có gì thay đổi (tên gọi các xóm hiện nay theo số thứ tự là minh chứng rõ nhất cho điều này). Nếu như đội sản xuất là một đơn vị kinh tế theo cơ chế cũ, thì xóm ngày nay là, và phải là một đơn vị dân cư, một đơn vị văn hóa và một đơn vị an ninh. Ba yếu tố này đòi hỏi không thể tổ chức xóm một cách tùy tiện. Theo chúng tôi, nên căn cứ vào địa hình cư trú, mối quan hệ cộng cư của các khu vực từ xưa đến nay để tổ chức các xóm. Nếu xóm hiện nay trùng khít, hoặc cơ bản trùng khít với làng trước đây là tốt nhất. Nếu không, cũng trên cơ sở các làng cũ ngày xưa để tính toán lập xóm. Trên thực tế mỗi làng xóm đã tồn tại lâu trong lịch sử đều có bản sắc văn hóa riêng khó trộn lẫn. Sự cố kết làng xóm cũng là một sức mạnh, nếu biết phát huy cũng là một nguồn lực để phát triển. Chính vì vậy, việc tổ chức, xác định phạm vi, ranh giới xóm là một việc làm cần phải suy xét kỹ về các khía cạnh văn hóa và lịch sử.

Bên cạnh đó, cần phải chú trọng nhiều hơn đến việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ xóm, nhất là xóm trưởng. Trong đó, cần biên soạn chương trình bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ xóm trưởng. Nên biên sọan Sổ tay Xóm trưởng, làm cẩm nang cho chức danh này trong hoạt động hàng ngày. Trong những tài liệu này, bên cạnh việc hệ thống hóa một số quy định chính trị và pháp lý đối với xóm, cần tập trung biên soạn những nội dung về kỹ năng hoạt động của xóm trưởng, kể cả một số tình huống thường gặp trong công việc hàng ngày của xóm trưởng và phương án xử lý. Thành phố Hà Nội cũng cần phải đặt danh hiệu Xóm trưởng giỏi, với các tiêu chuẩn cụ thể, cho dân suy tôn. Hàng năm huyện nên tổ chức trao danh hiệu này một cách trọng thể, để ghi nhận, động viên và tôn vinh những người đạt danh hiệu này.

-           Đây là những việc làm cần thiết và có thể làm ngay được mà không vướng nhiều các quy định pháp lý, cũng như không tốn kém thời gian, công sức và tiền bạc.


Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: