1 su ra doi va phat trien cua triet hoc mac le
I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
1. Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
Triết học Mác ra đời là do những đòi hỏi của thực tiễn chính trị-xã hội và là quá
trình phát triển hợp quy luật của triết học và của nhận thức khoa học. Nó được
chuẩn bị bởi những tiền đề cụ thể sau:
1.1.Tiền đề kinh tế-xã hội
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó là thời kỳ
chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn phát triển mới nhờ tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp, chủ nghĩa tư bản đã khẳng định địa vị thống trị về kinh tế của
mình. Cùng với sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai cấp vô sản không ngừng
phát triển cả về số lượng và chất lượng. Giai cấp vô sản đã bước lên vũ đài chính trị
như một lực lượng độc lập.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho mâu thuẫn vốn có của nó bộc lộ ngày
càng gay gắt. Trước hết, là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội
với quan hệ sản xuất có tính chất tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này
biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản. Để
giải quyết mâu thuẫn này, giai cấp vô sản đã đứng lên đấu tranh chống lại giai cấp
tư sản. Tiêu biểu như: cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Lyông (Pháp) năm 1831, Phong
trào Hiến chương ở Anh vào cuối những năm 30, cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Xilêdi
năm 1844 ở Đức. Đặc biệt sự xuất hiện "Đồng minh những người chính nghĩa" - một
tổ chức vô sản cách mạng. Để đưa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai
cấp tư sản ngày càng phát triển mạnh mẽ từ thấp đến cao, từ đấu tranh kinh tế đến
đấu tranh chính trị, từ tự phát đến tự giác đòi hỏi phải có một học thuyết khoa học,
cách mạng soi đường chỉ lối. Học thuyết khoa học, cách mạng ấy chính là chủ nghĩa
Mác, mà hạt nhân của nó là triết học Mác .
Như vậy, thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản
nảy sinh yêu cầu khách quan là phải được soi sáng bằng lý luận khoa học. Sự ra đời
của chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập
trường của giai cấp vô sản cách mạng.
1. 2. Tiền đề lý luận
Sự ra đời triết học Mác chẳng những là sản phẩm tất yếu của những điều kiện
kinh tế-xã hội của xã hội tư bản chủ nghĩa giữa thế kỷ XIX, mà còn là sự phát triển
hợp quy luật của lịch sử tư tưởng nhân loại.
Triết học Mác ra đời là kết quả của sự kế thừa tất cả những tinh hoa trong lịch sử
tư tưởng của nhân loại, mà trước hết là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học
Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Đối với triết học cổ điển Đức, C. Mác và Ph. Ăngghen đã kế thừa phép biện
chứng của Hêghen, khắc phục tính chất duy tâm, thần bí của nó. Đồng thời, hai ông
còn cải tạo phép biện chứng ấy, đặt nó trên nền thế giới quan duy vật. C. Mác và
Ph. Ăngghen còn kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục tính siêu hình,
máy móc, chưa triệt để của nó, làm giàu nó bằng phép biện chứng. Từ đó, C. Mác
7
và Ph. Ăngghen xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật
và phép biện chứng thống nhất với nhau một cách hữu cơ, đó chính là chủ nghĩa
duy vật biện chứng , một hình thức mới, một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa
duy vật triết học.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học Anh với những đại biểu xuất sắc là
A. Xmít và Đ. Ricácđô là một nhân tố không thể thiếu được góp phần hình thành
nên quan niệm về duy vật lịch sử của triết học Mác.
Trong chủ nghĩa Mác, những quan điểm triết học được hình thành không tách
rời với những quan điểm chính trị-xã hội qua việc cải tạo một cách có phê phán chủ
nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu tiêu biểu là Xanh Ximông và S.
Phuriê. Nhờ đó, triết học Mác trở thành vũ khí lý luận cải tạo xã hội bằng cách
mạng.
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Những thành tựu của khoa học tự nhiên có vai trò quan trọng không thể thiếu
được cho sự ra đời của triết học Mác. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên
làm bộc lộ rõ tính chất hạn chế, chật hẹp và bất lực của phương pháp tư duy siêu
hình trong nhận thức thế giới; đồng thời cung cấp cơ sở tri thức khoa học để phát
triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng duy vật.
Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên thời đó, nổi bật lên ba phát minh
lớn: định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hoá
của Đácuyn .
Các phát minh trên đây đã khẳng định thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, không
sinh ra và không mất đi, nó chỉ chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác, khẳng định
bản chất của thế giới là vật chất, khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới và
khẳng định tính biện chứng của thế giới vật chất. Với những phát minh lớn của
khoa học tự nhiên đã làm cho "quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành
trên những nét cơ bản: tất cả những gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả những gì cố
định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại
vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh toàn bộ giới tự nhiên
đều vận động theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu"
1
.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã phân tích một cách sâu sắc các thành tựu của khoa
học tự nhiên, khái quát chúng thành các quan điểm triết học và từ đó hình thành nên
một học thuyết triết học thực sự khoa học- triết học duy vật biện chứng.
Tóm lại, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất yếu
lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn của giai cấp công
nhân, đòi hỏi phải có một lý luận mới soi đường mà còn là sự phát triển hợp lôgíc
của lịch sử tư tưởng nhân loại; đồng thời, triết học Mác ra đời cũng là kết quả tất
yếu của những trí tuệ thiên tài, những trái tim đầy nhiệt huyết cách mạng C. Mác và
Ph. Ăngghen.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top